vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Nêu xuất xứ, chủ đề, thể thơ bài ‘Côn Sơn ca’của Nguyễn Trãi
Hướng dẫn
Xuất xứ:
Nhiều bài thơ trong ‘ức Trai thi tập’, ‘Quốc âm thi tập’, Nguyễn Trãi đều nói đến Côn Sơn ‘quê cũ’ của mình. Đọc bài thơ, ta biết ông viết ‘Côn Sơn ca’ sau khi đã thoát vòng danh lợi, về ở ẩn tại suối rừng Côn Sơn. ‘Côn Sơn ca’ nằm trong phần cuối tập thơ chữ Hán ‘ức Trai thi tập’.
Chu đề:
‘Côn Sơn ca’là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp có suối, đá, trúc, thông để nhà thơ di dưỡng tinh thần, đồng thời nói lên những suy nghĩ về danh lợi, về hiền ngu, về nhục vinh trong cuộc đời, qua đó đề cao triết lí thanh nhàn trong sạch. Có
thể nói ‘Côn Sơn ca’là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời.
Thể thơ:
‘Cồn Sơn ca’gồm có 30 câu thơ chữ Hán, trong đó thơ 4 chữ có bốn câu; thơ 5 chữ có tám câu; thơ 7 chữ có 14 câu; thơ 8 chữ có ba câu; thơ 10 chữ có một câu.
Bản dịch thơ chỉ có 26 câu thơ lục bát.
Đoạn thơ trích trong’Ngữ Văn 7’ có 12 càu thơ chữ Hán, dịch thành tám câu thơ lục bát.
Chữ Hán: ‘ngô’ nghĩa là ‘ta’. Phần đầu có 4 chữ ‘ngô’.
– ‘Ngô dĩ vi cầm huyền’
(Ta lấy làm đàn cầm)
– ‘Ngô dĩ vi đạm tịch’
(Ta lấy làm chiếu thảm)
– ‘Ngô ư thị hồ yến tức kì trung’
(Ta tha hồngơi nghỉở trong)
– ‘Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc’
(Ta tha hồ ngâm nga bên gốc)
Lúc cảm thụ, bải thơ các em nên chú ý đến chữ ‘ta’ – nhân vật trữ tình đó.
Phân tích 12 câu đầu bài ‘Côn Sơn ca’ của Nguyễn Trãi.
Phiên âm.
Côn Sơn ca
Nguyễn Trãi
Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển, tức kì trung. Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thi hồ ngâm tiếu kì trắc. (…)
Dịch nghĩa.
Bài ca Côn Sơn
Côn Sơn có suối,
Tiếng nước chảy róc rách,
Ta cho là đàn cẩm.
Côn Sơn có đá,
Mưa rửa rêu phô biếc,
Ta cho là đệm chiếu.
Trong núi có thông,.
Muôn dặm chiếc lọng xanh rủ bóng, Ta tha hồ nghỉ ngơi ở trong đố. Trong rừng có trúc,
Nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi,
Ta tha hồ ngâm nga ỏ bên cạnh.
(…)
Dịch thơ.
Bài ca Côn Sơn
Nguyễn Trãi
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(…)
(‘Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi- NXB Văn Hóa, 1962)
Gợi ý phân tích
Bài thơ ‘Côn Sơn ca’ rút trong tập thơ chữ Hán ‘ức Trai thi tập’. Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong những năm cuối đời, khi đã về Côn Sơn ở ẩn:
‘Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn’
‘Côn Sơn ca’viết theo thể điệu ‘ca khúc’ cổ điển, gồm có 36 câu thơ chữ Hán, câu ngắn nhất bôn chữ, câu dài nhất mười chữ, phần lớn là câu ngũ ngôn, thất ngôn. Dịch giả đã chuyển điệu, chuyển thể thành 26 câu thơ lục bát; một bản dịch thơ khá hay về ‘Bài ca Côn Sơn’.
Đoạn thơ sau đây là phần đầu 12 câu trong ‘Côn Sơn ca’ được dịch thành tám câu thơ lục bát nói về vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên Côn Sơn và thề hiện niềm yêu thích, say mê của ức Trai được giao hòa giao cảm với suối, đá và thông, trúc:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Xem thêm: Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ (đoạn trích được học) để làm rõ triết lí nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắmCôn Sơn là dãy núi ở xã Chi Ngại, thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư trong dãy núi Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống với mẹ và ông ngoại tại đây. Vì thế, nhà thơ coi Côn Sơn là ‘quê cũ’ với bao tình mến thương:
‘Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội. cá trong ao.
' (…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?’
(‘Mạn thuật’ -13)
‘Côn Sơn ca’ là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thê sự, triết lí về cuộc đời, về nhân sinh.
Đoạn thơ cấu trúc tứ bình, thể hiện vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên: suối, đá, tùng, trúc. Cứ ba câu thơ nồi lên một cảnh đẹp Côn Sơn. Cảnh thư nhất là suối. Tiếng nước chảy cứ róc rách mà nhà thơ thích thú ‘cho là đàn cầm’. Nhạc của suối để mua vui những tháng ngày ở ẩn. Ân dụ ‘đàn cầm’ biểu lộ niềm vui giao cảm với suối, coi suối là mảnh tâm hồn của ‘ta’:
‘Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền’
(Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai)
Cảnh đẹp thứ hai là đá. Đá được mưa xối làm cho phẳng lì, rêu phô màu xanh biếc, ‘ta cho là đệm chiếu’. Đá đã trở thành một phần cuộc đời ức Trai, để làm chiếu thảm, nghỉ ngơi ngồi ngắm cảnh suối rừng. Các từ ngữ ‘Côn Sơn có’, ‘ta cho là…’ được điệp lại hai lần, làm cho nhạc điệu bài ca trở nên du dương trầm bổng, biểu lộ niềm vui thú, say mê. Ân dụ ‘đệm chiếu’ (đạm tịch) thế hiện một tâm thế nhàn:
‘Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô hích,
Ngô dĩ vi đạm tịch’
(Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm’
Cảnh đẹp thứ ba là thông. Đã bao đời nay, thông Côn Sơn đã đi vào lịch sử và hồn người. Thông bát ngát như ‘muôn chiếc lọng xanh rủ hóng’, là nơi ‘la tha hồ nghỉ ngơi…’. Bóng thông, màu xanh của thông như chở che. Nhà thơ ngắm thông, đốn với thông với bao niềm vui thỏa thích, tin cậy:
‘Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yểm tức kì trung’
(Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi hóng mát ta lên ta nằm)
An dụ ‘muôn dặm chiếc lọng xanh rủ hóng’ là một hình tượng mĩ lệ gợi cảm. Thông tượng trưng cho đấng trượng phu coi thường sương tuyết đã trở thành tri kỉ của nhà thơ.,,
Cảnh đẹp thứ tư là trúc. Trúc Côn Sơn điệp trùng nghìn mẫu, xanh một màu xanh mát rượi. Dưới gốc trúc, bóng trúc, ‘ta tha hồ ngâm nga’. Màu xanh của trúc đã tỏa mát tâm hồn ức Trai. Trúc quân tử đã trở thành bạn tri âm, san sẻ, cảm thông niềm vui nỗi buồn của ‘ta’ trong những tháng ngày về Côn Sơn ở ẩn:
‘Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc’
(Trong rừng có hóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Nếu phần sau bài ca mang tính triết lí biểu lộ một nhân cáchcao khiết của kẻ sĩ, thì phần đầu lại dào dạt chất trữ tình. Suối, đá, thông, trúc là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân giao hòa giao cảm, để ‘ta cho là đàn cầm’, để ‘ta cho là đệm chiếu’, để ‘ta tha hồ nghỉ ngơi’ trong rừng thông, để’ta tha hổ ngâm nga’ giữa nghìn mẫu trúc. Các ẩn dụ tạo nên những hình tượng mĩ lệ: suối là đàn cầm, đá là đệm chiếu, thông là những chiếc lọng xanh rủ bóng, trúc là nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi. Hình tượng thơ là âm thanh của khúc nhạc rừng, là màu xanh bất tận của núi rừng, của thiên nhiên, của sự sống; tất cả đã gắn liền với cảm giác, với tâm hồn ức Trai bằng bao liên tưởng thiết tha đằm thắm. Một cách viết trùng điệp tài hoà. Chữ ‘ta’ xuất hiện bôn lần, kết hợp với các điệp ngũ: ‘Côn Sơn có…’, ‘trong núi có…’, ‘trong rừng có…’, ‘ta cho là…’, ‘ta tha hồ…’ đã tạo nên âm điệu, nhạc điệu trầm bổng, du dương, thiết tha của ‘Bải ca Côn Sơn".
‘Ta’ là chủ thể trữ tình của bài ca, chính là ức Trai tiên sinh. "Thiên nhiên là ta, ta cũng là thiên nhiên; suối, đá, thông, trúc của Côn Sơn với Nguyễn Trãi chỉ •là một. Chữ ‘ta’ trong thơ Nguyễn Trãi rất hồn nhiên, dung dị và biểu cảm:
‘Ầu lộ cùng ta dường có ý,
Đến đâu thì thấy nó đi theo’
(‘Tự thán’-31)
‘Rùa nằm hạc lẩn vui bè ban,
Ú ấp cùng ta làm cái con’
(‘Ngôn chí – 20)
(Âu lộ: âu là chim biển, lộ là con cò; Cái con là mẹ con)
Nhạc của ‘Bài ca Côn Sơn’ là nhạc của tâm hồn, một tâm hồn thanh cao và trong sạch. Có thể nói ‘Côn Sơn ca’ là bài ca của sự sống; sự sông được ướp hương sắc của suối rừng đất nước quê hương.
Nguồn: thêm: Người ta có thể rút ra nhiều bài học khác nhau từ một câu chuyện ngụ ngôn. Hãy làm sáng tỏ điều đó qua một truyện ngụ ngôn mà anh (chị) đã được học
|
Nêu xuất xứ, chủ đề, thể thơ bài ‘Côn Sơn ca’của Nguyễn Trãi
Hướng dẫn
Xuất xứ:
Nhiều bài thơ trong ‘ức Trai thi tập’, ‘Quốc âm thi tập’, Nguyễn Trãi đều nói đến Côn Sơn ‘quê cũ’ của mình. Đọc bài thơ, ta biết ông viết ‘Côn Sơn ca’ sau khi đã thoát vòng danh lợi, về ở ẩn tại suối rừng Côn Sơn. ‘Côn Sơn ca’ nằm trong phần cuối tập thơ chữ Hán ‘ức Trai thi tập’.
Chu đề:
‘Côn Sơn ca’là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp có suối, đá, trúc, thông để nhà thơ di dưỡng tinh thần, đồng thời nói lên những suy nghĩ về danh lợi, về hiền ngu, về nhục vinh trong cuộc đời, qua đó đề cao triết lí thanh nhàn trong sạch. Có
thể nói ‘Côn Sơn ca’là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời.
Thể thơ:
‘Cồn Sơn ca’gồm có 30 câu thơ chữ Hán, trong đó thơ 4 chữ có bốn câu; thơ 5 chữ có tám câu; thơ 7 chữ có 14 câu; thơ 8 chữ có ba câu; thơ 10 chữ có một câu.
Bản dịch thơ chỉ có 26 câu thơ lục bát.
Đoạn thơ trích trong’Ngữ Văn 7’ có 12 càu thơ chữ Hán, dịch thành tám câu thơ lục bát.
Chữ Hán: ‘ngô’ nghĩa là ‘ta’. Phần đầu có 4 chữ ‘ngô’.
– ‘Ngô dĩ vi cầm huyền’
(Ta lấy làm đàn cầm)
– ‘Ngô dĩ vi đạm tịch’
(Ta lấy làm chiếu thảm)
– ‘Ngô ư thị hồ yến tức kì trung’
(Ta tha hồngơi nghỉở trong)
– ‘Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc’
(Ta tha hồ ngâm nga bên gốc)
Lúc cảm thụ, bải thơ các em nên chú ý đến chữ ‘ta’ – nhân vật trữ tình đó.
Phân tích 12 câu đầu bài ‘Côn Sơn ca’ của Nguyễn Trãi.
Phiên âm.
Côn Sơn ca
Nguyễn Trãi
Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển, tức kì trung. Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thi hồ ngâm tiếu kì trắc. (…)
Dịch nghĩa.
Bài ca Côn Sơn
Côn Sơn có suối,
Tiếng nước chảy róc rách,
Ta cho là đàn cẩm.
Côn Sơn có đá,
Mưa rửa rêu phô biếc,
Ta cho là đệm chiếu.
Trong núi có thông,.
Muôn dặm chiếc lọng xanh rủ bóng, Ta tha hồ nghỉ ngơi ở trong đố. Trong rừng có trúc,
Nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi,
Ta tha hồ ngâm nga ỏ bên cạnh.
(…)
Dịch thơ.
Bài ca Côn Sơn
Nguyễn Trãi
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(…)
(‘Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi- NXB Văn Hóa, 1962)
Gợi ý phân tích
Bài thơ ‘Côn Sơn ca’ rút trong tập thơ chữ Hán ‘ức Trai thi tập’. Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong những năm cuối đời, khi đã về Côn Sơn ở ẩn:
‘Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn’
‘Côn Sơn ca’viết theo thể điệu ‘ca khúc’ cổ điển, gồm có 36 câu thơ chữ Hán, câu ngắn nhất bôn chữ, câu dài nhất mười chữ, phần lớn là câu ngũ ngôn, thất ngôn. Dịch giả đã chuyển điệu, chuyển thể thành 26 câu thơ lục bát; một bản dịch thơ khá hay về ‘Bài ca Côn Sơn’.
Đoạn thơ sau đây là phần đầu 12 câu trong ‘Côn Sơn ca’ được dịch thành tám câu thơ lục bát nói về vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên Côn Sơn và thề hiện niềm yêu thích, say mê của ức Trai được giao hòa giao cảm với suối, đá và thông, trúc:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Xem thêm: Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ (đoạn trích được học) để làm rõ triết lí nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắmCôn Sơn là dãy núi ở xã Chi Ngại, thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư trong dãy núi Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống với mẹ và ông ngoại tại đây. Vì thế, nhà thơ coi Côn Sơn là ‘quê cũ’ với bao tình mến thương:
‘Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội. cá trong ao.
' (…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?’
(‘Mạn thuật’ -13)
‘Côn Sơn ca’ là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thê sự, triết lí về cuộc đời, về nhân sinh.
Đoạn thơ cấu trúc tứ bình, thể hiện vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên: suối, đá, tùng, trúc. Cứ ba câu thơ nồi lên một cảnh đẹp Côn Sơn. Cảnh thư nhất là suối. Tiếng nước chảy cứ róc rách mà nhà thơ thích thú ‘cho là đàn cầm’. Nhạc của suối để mua vui những tháng ngày ở ẩn. Ân dụ ‘đàn cầm’ biểu lộ niềm vui giao cảm với suối, coi suối là mảnh tâm hồn của ‘ta’:
‘Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền’
(Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai)
Cảnh đẹp thứ hai là đá. Đá được mưa xối làm cho phẳng lì, rêu phô màu xanh biếc, ‘ta cho là đệm chiếu’. Đá đã trở thành một phần cuộc đời ức Trai, để làm chiếu thảm, nghỉ ngơi ngồi ngắm cảnh suối rừng. Các từ ngữ ‘Côn Sơn có’, ‘ta cho là…’ được điệp lại hai lần, làm cho nhạc điệu bài ca trở nên du dương trầm bổng, biểu lộ niềm vui thú, say mê. Ân dụ ‘đệm chiếu’ (đạm tịch) thế hiện một tâm thế nhàn:
‘Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô hích,
Ngô dĩ vi đạm tịch’
(Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm’
Cảnh đẹp thứ ba là thông. Đã bao đời nay, thông Côn Sơn đã đi vào lịch sử và hồn người. Thông bát ngát như ‘muôn chiếc lọng xanh rủ hóng’, là nơi ‘la tha hồ nghỉ ngơi…’. Bóng thông, màu xanh của thông như chở che. Nhà thơ ngắm thông, đốn với thông với bao niềm vui thỏa thích, tin cậy:
‘Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yểm tức kì trung’
(Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi hóng mát ta lên ta nằm)
An dụ ‘muôn dặm chiếc lọng xanh rủ hóng’ là một hình tượng mĩ lệ gợi cảm. Thông tượng trưng cho đấng trượng phu coi thường sương tuyết đã trở thành tri kỉ của nhà thơ.,,
Cảnh đẹp thứ tư là trúc. Trúc Côn Sơn điệp trùng nghìn mẫu, xanh một màu xanh mát rượi. Dưới gốc trúc, bóng trúc, ‘ta tha hồ ngâm nga’. Màu xanh của trúc đã tỏa mát tâm hồn ức Trai. Trúc quân tử đã trở thành bạn tri âm, san sẻ, cảm thông niềm vui nỗi buồn của ‘ta’ trong những tháng ngày về Côn Sơn ở ẩn:
‘Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc’
(Trong rừng có hóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Nếu phần sau bài ca mang tính triết lí biểu lộ một nhân cáchcao khiết của kẻ sĩ, thì phần đầu lại dào dạt chất trữ tình. Suối, đá, thông, trúc là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân giao hòa giao cảm, để ‘ta cho là đàn cầm’, để ‘ta cho là đệm chiếu’, để ‘ta tha hồ nghỉ ngơi’ trong rừng thông, để’ta tha hổ ngâm nga’ giữa nghìn mẫu trúc. Các ẩn dụ tạo nên những hình tượng mĩ lệ: suối là đàn cầm, đá là đệm chiếu, thông là những chiếc lọng xanh rủ bóng, trúc là nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi. Hình tượng thơ là âm thanh của khúc nhạc rừng, là màu xanh bất tận của núi rừng, của thiên nhiên, của sự sống; tất cả đã gắn liền với cảm giác, với tâm hồn ức Trai bằng bao liên tưởng thiết tha đằm thắm. Một cách viết trùng điệp tài hoà. Chữ ‘ta’ xuất hiện bôn lần, kết hợp với các điệp ngũ: ‘Côn Sơn có…’, ‘trong núi có…’, ‘trong rừng có…’, ‘ta cho là…’, ‘ta tha hồ…’ đã tạo nên âm điệu, nhạc điệu trầm bổng, du dương, thiết tha của ‘Bải ca Côn Sơn".
‘Ta’ là chủ thể trữ tình của bài ca, chính là ức Trai tiên sinh. "Thiên nhiên là ta, ta cũng là thiên nhiên; suối, đá, thông, trúc của Côn Sơn với Nguyễn Trãi chỉ •là một. Chữ ‘ta’ trong thơ Nguyễn Trãi rất hồn nhiên, dung dị và biểu cảm:
‘Ầu lộ cùng ta dường có ý,
Đến đâu thì thấy nó đi theo’
(‘Tự thán’-31)
‘Rùa nằm hạc lẩn vui bè ban,
Ú ấp cùng ta làm cái con’
(‘Ngôn chí – 20)
(Âu lộ: âu là chim biển, lộ là con cò; Cái con là mẹ con)
Nhạc của ‘Bài ca Côn Sơn’ là nhạc của tâm hồn, một tâm hồn thanh cao và trong sạch. Có thể nói ‘Côn Sơn ca’ là bài ca của sự sống; sự sông được ướp hương sắc của suối rừng đất nước quê hương.
Nguồn: thêm: Người ta có thể rút ra nhiều bài học khác nhau từ một câu chuyện ngụ ngôn. Hãy làm sáng tỏ điều đó qua một truyện ngụ ngôn mà anh (chị) đã được học
|
Nêu xuất xứ, thể thơ và chủ đề bài thơ Nam quốc sơn hà
Hướng dẫn
Trong lúc cuộc giao tranh đang diễn ra dữ dội và ác liệt, giữa đêm khuya từ đền Trương Hống Trương Hát có tiếng thơ văng vẳng cất lên:
‘Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lổ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư’
Bài thơ vốn không có nhan đề; vẫn được gọi là bài thơ ‘Thần’. Nhan đê ‘Nam quốc sơn hà’ là do các nhà văn học, sử học sau này đặt ra. Tương truyền bài thơ này do Lí Thường Kiệt viết ra, để khích lệ và động viên ba quân, tướng sĩ quyết chiến quyết thắng quân xâm lược.
‘Nam quốc sơn hà’được viết bằng chữ Hán, theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, luật trắc (chữ thứ 2 là quốc -> trắc), có ba vần bằng: ‘cư – thư – hư’.
Cụ Lè Thước và cụ Nam Trân đã dịch thành thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật bằng (Núi sông -> sông là bằng), vần trắc: ở – sở – vỡ. Núi sông cũng có nghĩa như sông núi. Nếu viết thành: ‘Sông núi nước Nam vua Nam ở’ như sách Ngữ Văn 7 cửa NXB Giáo dục là sai luật thơ. Đây là bản dịch thơ của hai cụ:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xử sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,
Chúng mày nhất định phải tan vỡ’
(Theo ‘Thơ văn Lý – Trần’, tập I)
Chủ đề:
Bài thơ ‘Nam quốc sơn hà’ tự hào khẳng định chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Đại Việt, căm thù lên án giặc Tống xâm lược, và chỉ rõ quân giặc sẽ thất bại thảm hại.
‘Nam quốc sơn hà’mang ý nghĩa lịch sử như bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước ta.
Nguồn: thêm: Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến
|
State the origin, poetic form and theme of the poem Nam Quoc Son Ha
Instruct
While the fighting was fierce and fierce, in the middle of the night, from Truong Hong Truong Hat temple, a poetic voice rang out:
'Southern country of mountains and rivers, Southern imperial residence,
However the natural pasteurized at a department.
Like mischievous encroachment,
Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft'
The poem originally had no title; is still called the poem 'God'. The name 'Nam Quoc Son Ha' was coined by later writers and historians. Legend has it that this poem was written by Ly Thuong Kiet to encourage and encourage the three armies and generals to fight and defeat the invaders.
'Nam Quoc Son Ha' is written in Chinese characters, according to the seven-word quatrain poem form Tang luat, luat trac (the second word is quoc -> trac), with three equal rhymes: 'cu - thu - damage'.
Mr. Le Thuoc and Mr. Nam Tran translated it into a poem with seven words and four absolutes, the law of flat (Mountains and rivers -> river is flat), the rhyme: at - so - broken. Mountains and rivers also have the same meaning as mountains and rivers. If it is written as: 'Southern rivers and mountains, the Southern king lives in' like the book Literature 7 of the Education Publishing House, it is against the rules of poetry. This is a translation of the poem by the two men:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
Confusing with the sky's books, the sky divides the land.
Why did the evil enemy commit this crime?
You must be broken'
(According to 'Ly - Tran Poetry', volume I)
Topic:
The poem 'Nam Quoc Son Ha' proudly affirms Dai Viet's sacred territorial sovereignty, hatefully condemns the Song invaders, and clearly shows that the enemy army will fail miserably.
'Nam Quoc Son Ha' has the same historical significance as our country's first Declaration of Independence.
Source: more: Analysis of the poem You come to visit at home by Nguyen Khuyen
|
Nêu ý kiến của em về vẻ đẹp của bài ca dao Trong đầm gì đẹp bằng sen
Gợi ý
Ca dao là tiếng nói tình cảm thể hiện đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Đó là tấm lòng đối với người thân, với quê hương đất nước. Trong số những bài ca dao được sáng tác bởi nhân dân và được lưu truyền bởi nhân dân có không ít những kiệt tác. Bài ca dao sau là một trong số đó, không chỉ lấp lánh vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn ánh lên vẻ đẹp trong tâm hồn con người:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Bài ca dao mở ra hình ảnh một đầm sen bát ngát. Đã là đầm sen thì hẳn hoa sen là thứ đẹp đẽ nhất:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen"
Câu ca dao có dáng dấp của một câu hỏi "gì đẹp bằng sen" nhưng thực chất đó là một lời khẳng định: Trong đầm không có gì đẹp bằng sen, sen là đẹp nhất. Cách sử dụng câu hỏi tu từ như vậy bộc lộ niềm kiêu hãnh, tự hào về vẻ đẹp hiếm có của hoa sen.
Vậy sen đẹp như thế nào?
"Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh"
Những bộ phận, chi tiết của sen được ngắm nghía, nhận xét khá khắt khe từ "lá", "bông" đến "nhị". Màu sắc của chúng rất sắc nét, rõ ràng "Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng". Màu xanh, màu trắng, màu vàng. Câu ca dao hoàn toàn tả thực đồng thời làm nỗi bật những sắc màu tự nhiên, hài hoà của sen. Từ "lại" nhấn mạnh đến sự phong phú, hài hoà rất tự nhiên, giản dị và cũng rất đẹp đẽ ấy. Câu ca dao tiếp hoàn toàn không có ý mới, chỉ là nhắc lại ý trên có đảo trật tự các cụm từ: "Nhị vàng, bông trắng, lá xanh". Vừa trên, bông hoa được ngắm nhìn từ ngoài vào trong, đến đây lại được ngắm từ trong ra ngoài. Sự xem xét ấy kĩ lưỡng, tỉ mỉ lắm, các vế câu đối nhau rất nhịp nhàng, được tách riêng ra bởi dấu phẩy (,); tưởng như người ngắm lật từng phần của sen mà chiêm ngưỡng vậy. Đến lần thứ hai này, sắc màu của sen không hề thay đổi, vẫn là những sắc màu rất giản dị và tự nhiên như thế. Hai câu ca dao lặp lại ý khiến người đọc tò mò về chủ định của tác giả. Và câu cuối cùng đã tháo gỡ những thắc mắc ấy:Xem thêm: Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải
"Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"
Ý thơ mới tuyệt vời làm sao! Từ những sắc màu tươi tắn, thanh khiết của sen, tác giả dân gian liên tưởng đến sự trong sạch đến kì diệu của loài hoa này: gần chốn đầm lầy bùn đọng hôi tanh nhưng không hề bị cái ô uế làm cho phai hương nhạt sắc. Thì ra, việc người thưởng hoa ngắm nghía, xem xét bông hoa kĩ lưỡng đến nhường kia là để chắc chắn về cái chất của nó. Khi sự xác minh đã hoàn tất, hoa sen đã vượt qua sự kiểm định khắt khe nhất và được vinh danh trong câu ca dao khép lại của bài: "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Nhưng bài ca dao không dừng lại ở việc ngợi ca loài hoa thân quen của chốn hương đồng gió nội. Ẩn sau đó là những tầng nghĩa sâu xa. Bùn trong đầm hôi tanh là có thực. Nhưng vẻ đẹp thuần khiết của hoa sen cũng là thực. Và trong cái nắng oi bức của trưa hè, mùi thơm ngát hương của sen còn khiến ta quên đi mùi bùn kia nữa. Khi đó, sự thanh cao đã lấn át, đã chiến thắng cái thấp hèn, nhỏ mọn. Không chỉ vậy, hoa sen còn là loài hoa rất gần gũi, thân thiết với đời sống lao động và sinh hoạt của người nông dân Việt Nam. Bởi vậy, ngợi ca hoa sen còn là thầm kiêu hãnh tự hào về vẻ đẹp tiềm ẩn của bản thân mình. Hoa sen đã trở thành hình ảnh ẩn dụ cho cả một giai cấp, cả một dân tộc. Con người Việt Nam dẫu nghèo đói, bần hàn, dẫu bị áp bức bóc lột rồi bị đẩy đến đáy cùng xã hội nhưng vẫn giữ được những bản chất tốt đẹp lương thiện. Nhắc đến đây, ta chợt nhớ đến những chị Dậu, lão Hạc… trong các thiên truyện đầu thế kỉ XX.Xem thêm: Nói và làm trong cuộc sống"Trong đầm gì đẹp bằng sen" là một bài ca dao hay và đẹp không chỉ ở hình ảnh thơ mà còn ở những lớp nghĩa sâu sắc, giàu tính nhân văn. Bài ca dao đã khép lại nhưng dư âm về một loài hoa diệu kì vẫn còn đó chính bởi vẻ đẹp giản dị, trong sáng và thanh cao của mình, hoa sen đã được chọn làm biểu tượng cho tâm hồn, tính cách người Việt Nam.
Vanmau.edu.vn
|
Give your opinion about the beauty of the folk song: What is more beautiful in the lagoon than the lotus?
Suggest
Folk songs are the emotional voice expressing the rich spiritual life of working people. That is the heart for relatives and for the homeland. Among the folk songs composed by the people and handed down by the people, there are many masterpieces. The following folk song is one of them, not only sparkling with the beauty of nature but also reflecting the beauty in the human soul:
"In what beautiful dress with lotus
Green leaves, white flowers, and yellow stamens
Yellow stamens, white flowers, green leaves
Nearly mud that does not stink of mud".
The folk song opens with the image of an immense lotus pond. If it's a lotus pond, then the lotus flower must be the most beautiful thing:
"In what beautiful dress with lotus"
The folk song has the appearance of a question "what is more beautiful than the lotus" but in fact it is an assertion: There is nothing more beautiful than the lotus in the lagoon, the lotus is the most beautiful. Using such a rhetorical question reveals pride and pride in the rare beauty of the lotus flower.
So how beautiful is the lotus?
"Green leaves, white flowers surrounded by yellow stamens
Yellow stamens, white flowers, green leaves"
The parts and details of the lotus are examined and commented quite harshly from "leaf", "flower" to "stamen". Their colors are very sharp and clear: "Green leaves, white flowers with yellow stamens". Blue, white, yellow. The folk song is completely realistic while highlighting the natural, harmonious colors of the lotus. The word "re" emphasizes the richness and harmony that is very natural, simple and also very beautiful. The next folk song has absolutely no new ideas, it just repeats the above idea with the order of the phrases reversed: "Yellow stamens, white flowers, green leaves". Just above, the flower is viewed from the outside in, here again it is viewed from the inside out. That review was very thorough and meticulous, the clauses were very rhythmically parallel, separated by commas (,); It seems like the viewer turns over each part of the lotus to admire it. This second time, the color of the lotus did not change, it was still very simple and natural colors like that. The two verses of the folk song repeat the idea, making the reader curious about the author's intention. And the last sentence has solved those questions: See more: Analysis of the text "Two words, country" by Tran Tuan Khai
"Nearly mud that does not stink of mud"
What a wonderful poetic idea! From the bright, pure colors of the lotus, folk authors think of the miraculous purity of this flower: near the muddy, stinking swamp, the scent is not faded by impurity. sharp. It turns out that the person who enjoys flowers admires and examines the flower so carefully is to be sure of its quality. When the verification was completed, the lotus flower passed the most rigorous testing and was honored in the closing folk song of the song: "Close to the mud but does not smell of mud".
But the folk song does not stop at praising the familiar flowers of the countryside. Hidden behind that are layers of profound meaning. The smell of mud in the lagoon is real. But the pure beauty of the lotus is also real. And in the hot summer sun, the fragrant scent of lotus even makes us forget the smell of mud. At that time, nobility prevailed, winning over the vile and petty. Not only that, the lotus is also a flower that is very close and intimate with the working and daily life of Vietnamese farmers. Therefore, praising the lotus flower is also secretly proud of one's own hidden beauty. The lotus has become a metaphor for an entire class and an entire nation. Even though Vietnamese people are poor, destitute, oppressed and exploited and pushed to the bottom of society, they still maintain good and honest natures. Speaking of this, we suddenly remember the sisters Dau, old Hac... in the fairy tales of the early 20th century. See more: Saying and doing in life "What is more beautiful in the pond than the lotus" is a good and beautiful folk song? only in poetic images but also in layers of deep meaning, rich in humanity. The folk song has ended but the echo of a magical flower is still there. Because of its simple, pure and noble beauty, the lotus has been chosen as a symbol of the soul and character of Vietnamese people. .
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Nêu ý kiến về câu tục ngữ “Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Bài làm
Ca dao, tục ngữ nằm trong kho tàng dân gian Việt Nam. Nó đúc kết những kinh nghiệm thực tế của xã hội của cuộc sống lao động sản xuất. Thể hiện những hình ảnh gần gũi, giản dị của người nông dân thời xưa
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Câu thơ này nhằm nhắn nhủ con cháu hãy trân trọng những thứ mình có không nên mượn của người khác, dù cái ta mượn có thể tốt hơn nhưng cũng chỉ là thứ mượn mà thôi.
Ao ta? thể hiện sự sở hữu của mình, chủ quyền của mình. “Trong và đục” thể hiện sự xấu tốt của vật mình sở hữu.
Trong cuộc sống thực tế cái gì của mình mình sử dụng vẫn tốt hơn là của đi mượn. Vì đi mượn thì cũng tới lúc chúng ta phải trả lại cho người ta mà thôi.
Bên cạnh đó, nếu mở rộng vấn đề thì nó còn thể hiện sự tin tưởng về hàng hóa tiêu dùng nội địa, nhằm ám chỉ cái gì của mình làm ra cũng tốt hơn, những sản phẩm bên ngoài. Chính vì vậy, nhà nước ta khuyến cáo rằng “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”
Câu nói này có cái đúng nhưng cũng có mặt còn thiếu sót hạn chế, vì hiện nay khi xã hội mở cửa nhiều mặt hàng ngoại nhập vô cùng tốt về chất lượng, giá cả hợp lý khiến người dân cảm thấy ưng ý, mẫu mã lại phong phú. Trong khi đó, hàng nội địa mẫu mã ít, mà giá cả lại cao vì toàn là hàng xuất khẩu.Xem thêm: Nghị luận xã hội về danh và thực
Nếu cứ khư khư giữ thói bảo thủ lạc hậu “Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” thì hơi có phần cực đoan. Vì vậy, trong xã hội hiện đại chúng ta nên sử dụng câu tục ngữ này trong trường hợp cụ thể không phải trường hợp nào cũng đúng.
Có nhiều phương thức sản xuất trong nước đã trở nên cũ kỹ cần phải nhập những kỹ thuật mới, tối tân của nước ngoài để nâng cao chất lượng sản phẩm và phương thức sản xuất mới phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, không nên khư khư giữ tư tưởng lạc hậu cũ.
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Comment on the proverb "When I return, I bathe in my pond. Even if it's clear, it's better to have a pond at home."
Assignment
Folk songs and proverbs are in the Vietnamese folk treasure. It summarizes the real social experiences of productive working life. Shows close, simple images of ancient farmers
"We return our bathing pond
Even if it's clear, it's better to have a pond at home."
This verse is intended to remind children and grandchildren to cherish the things they have and not borrow from others. Even though what we borrow may be better, it is still just something borrowed.
My pond? Express your ownership, your sovereignty. “Clear and opaque” represents the good and bad of the thing you own.
In real life, using something that is yours is better than borrowing something. Because we borrow money, there comes a time when we have to pay it back.
Besides, if we expand the issue, it also shows confidence in domestic consumer goods, implying that what we make is better than foreign products. That's why our government recommends that "Vietnamese people use Vietnamese products"
There is truth in this saying, but there are also shortcomings and limitations, because now when society is open, many imported products are extremely good in quality and reasonable price, making people feel satisfied with their designs. rich again. Meanwhile, domestic products have few designs, but prices are high because they are all exported goods. See more: Social discussion on reputation and reality
If we continue to maintain the old-fashioned conservative habit of "It's still better to have a house or a pond" then it's a bit extreme. Therefore, in modern society we should use this proverb in specific cases, not in all cases.
There are many domestic production methods that have become outdated and need to import new, state-of-the-art foreign techniques to improve product quality and new production methods that suit consumer tastes. keep old outdated ideas.
Source: Sample document
|
Nói lên cảm nghĩ về bài thơ Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận.
Hướng dẫn
Năm 980, Lê Đại Hành được tướng sĩ và triều đình tôn lên làm vua, mở đầu triều đại nhà Tiền Lê. Năm 981, Lê Đại Hành đại phá giặc Tống xâm lược, năm sau đánh dẹp Chiêm Thành, mở ra một thời kì mới: thái bình cho đất nước.
Bài thơ “Quốc tộ ” có lẽ được ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử như thế. Đỗ Pháp Thuận không chỉ nói về vận nước mà còn nhắc khẽ nhà vua phải làm gì, làm như thếnào để mở ra cảnh thái bình, thịnh trị cho đất nước.
Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ nhẹ nhàng, thâm trầm:
''Quốc tộ như đằng lạc,
Nam Thiên lí thái bình.
Vô vi nơi điện các,
Xứ xứ tức đao binh”
Câu thơ đầu là một so sánh: “Quốc tộ như đằng lạc”. Vận nước như dây leo quấn quýt gợi tả sự vững bền của một đất nước; trăm họ muôn dân một lòng hướng về nhà vua. Vận nước có lúc suy vong, có lúc hưng thịnh. So sánh vận nước như mây quấn, như dây leo, một lời nói cụ thể ngợi ca đất nước bền vững.
Câu thơ nói rõ vận nước bền vững như thế nào? Đó là cảnh tượng “Nam Thiên lí thái bình”, đất nước Nam được thái bình. Giặc ngoại xâm đã bị đánh tan, giậc dã trong nước đã bị đánh dẹp, khắp mọi nơi của trời Nam được yên vui thái bình.
“Vận nước như mây quấn,
Trời Nam mở thái bình”
Câu thơ thứ hai chữ Hán cất lên, vang lên như một lời ca: “Nam Thiên lí thái bình Nam Thiên được nói tới chính là “Nam quốc sơn hà ” của nhân dân ta. Vần thơ như nén chặt lại, cảm xúc như lắng xuống sâu sắc, thâm trầm.
Xem thêm: Kể về một lần em mắc lỗi khiến mẹ buồn và nêu những suy nghĩ của em về điều đóHai câu 3, 4 kết cấu theo quan hệ điều kiện – kết quả. Nơi điện các phải vô vi là điều kiện. Khắp mọi nơi tắt hết đao binh là kết quả:
“Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh
(Vô vi trên điện gác,
Chốn chốn tắt đao binh).
“Vô vi’’ nghĩa đen là không làm gì cả. Ởnơi cung điện, nhà vua nhẹ sưu thuế, giảm bớt việc binh dịch, quan tâm đến sản xuất, mở mang việc học hành, đem lại no ấm yên vui cho trăm họ… thì đó là "vô vi”. Trái lại, nơi cung điện vua chúa sống xa xỉ, hoang dâm vô độ… thì không phải là “vô vi”.Bậc thánh đế, minh quân trị nước mới biết “vô vi ”. Có vô vi nơi điện gác thì khắp chốn cùng quê, nơi thôn cùng ngõ vắng mới không còn tiếng sầu muộn oán hờn, không còn cảnh loạn lạc nữa, việc binh đao được chấm dứt.
Có thể nói hai câu cuối bài thơ là kế dựng nước mà Đỗ Pháp Thuận tâu lên vua Lê Đại Hành. Lời thơ thể hiện ước vọng, nguyện vọng sâu xa của nhân dân ta thời bấy giờ: muốn đất nước thịnh trị, nhân dân được sống yên vui, thái bình.
Bài thơ thể hiện một cái tầm cao về chính trị trong sách lược dựng nước, biểu lộ một tấm lòng yêu nước, thương dân, một niềm khao khát hoà bình, một niềm tin về vận nước vững bền, thịnh vượng.
Hơn một nghìn năm trôi qua, bài thơ “Quốc tộ” của Đỗ Pháp Thuận vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa. Vận nước thời Tiền Lê là thái bình, là tắt đao binh. Vận nước ngày nay là đổi mới, dân giàu nước mạnh, hiện đại hoá, công nghiệp hóa đất nước.
Nguồn: thêm: Nghị luận xã hội về Bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay
|
Express your feelings about the poem Quoc Tuan by Do Phap Thuan.
Instruct
In 980, Le Dai Hanh was proclaimed king by the generals and the court, beginning the Early Le Dynasty. In 981, Le Dai Hanh defeated the Song invaders and the following year defeated Champa, opening a new era: peace for the country.
The poem "National Nation" was probably born in such a historical situation. Do Phap Thuan not only talked about the country's fortunes but also gently reminded the king what to do, how to do it to usher in peace and prosperity for the country.
The original work is in Chinese characters, written in a five-line, four-literary poetic form. The poetic voice is gentle and deep:
''The nation is like a lost land,
Nam Thien is peaceful.
Vo Vi in the palace hall,
The land is the sword"
The first verse is a comparison: "The nationality is like a lost land". The fortunes of water like tangerine vines suggest the stability of a country; Hundreds of families and peoples with one heart turn to the king. Sometimes the fortunes of a country decline, sometimes they prosper. Comparing the fate of the country to being like wrapped clouds and vines, a specific statement praising the country's sustainability.
The poem clearly states how the country's fortunes are sustainable. That is the scene of "Nam Thien is peaceful", the country of the South is at peace. Foreign invaders have been defeated, domestic wildlife has been defeated, everywhere in the South is peaceful and happy.
“The fortunes of water are like swirling clouds,
The Southern heavens are open and peaceful"
The second verse of the Chinese poem sings out, resounding like a song: "Nam Thien is peaceful and peaceful. Nam Thien is said to be the "Southern country of mountains and rivers" of our people. The poems seem to be compressed, the emotions seem to subside deeply and deeply.
See more: Tell about a time you made a mistake that made your mother sad and state your thoughts about it. Sentences 3 and 4 are structured according to the condition-result relationship. In the temple, there must be no action as a condition. Turning off sword soldiers everywhere is the result:
“The Palace of Vo Vi,
The land means the swordsman
(Wu Vi on the guard tower,
Place and place to turn off the sword soldiers).
“Vo Vi” literally means not doing anything. In the palace, the king lightly collects taxes, reduces military service, pays attention to production, expands education, brings prosperity and happiness to hundreds of families... then that is "no action". On the contrary, where In the palace where kings and lords live in luxury, with unbridled promiscuity... that is not "no action". Only the holy emperors and wise rulers of the country know "no action". If there is no action in the palace guard, it will be everywhere in the countryside and places The villages and alleys are deserted, there are no more sorrows and resentments, there are no more chaotic scenes, the fighting and fighting have ended.
It can be said that the last two lines of the poem are the plan for building the country that Do Phap Thuan presented to King Le Dai Hanh. The poem expressed the deep wishes and aspirations of our people at that time: we wanted the country to prosper and the people to live happily and peacefully.
The poem demonstrates a high level of politics in the strategy of building the country, expressing a heart of patriotism, love for the people, a desire for peace, and a belief in the country's stable and prosperous destiny.
More than a thousand years have passed, the poem "National Nation" by Do Phap Thuan still retains its value and meaning. The fortunes of the country during the Early Le Dynasty were peace and war. The fate of the country today is innovation, rich people, strong country, modernization, and industrialization of the country.
Source: more: Social commentary on Insensitivity in today's society
|
Nói lời đáp của em trong 3 trường hợp sau
Gợi ý
Đề 1: Nói lời đáp của em trong trường hợp: Em quên chiếc áo mưa trong lớp, quay lại trường để lấy. Bác bảo vệ sắp đi nghỉ, thấy em xin vào, bác mở cửa nói: "Cháu vào đi!"
Bài làm
– Cháu cảm ơn bác. Cháu vào một tý rồi sẽ ra ngay.
– Cháu cảm ơn bác. Cháu làm phiền bác quá.
– Cháu xin lỗi đã làm bác phải mất công quá.
Đề 2: Nói lời đáp của em trong trường hợp: Em mời cô y tá ở gần nhà tới tiêm thuốc cho mẹ. Cô y tá nhận lời: "Cô sẽ sang ngay".
Bài làm
– Cháu cảm ơn cô. Cháu xin phép về trước ạ.
– Ôi! Cháu cảm ơn cô rất nhiều.
– Cháu cảm ơn cô. Cô ơi, cháu về trước, cô sang sau nhé.
Đề 3: Nói lời đáp của em trong trường hợp: Em mời bạn đến chơi nhà. Bạn nhận lời: “Ừ, đợi tớ xin phép mẹ đã".
Bài làm
– Ừ, cậu vào xin phép mẹ đi. Tớ đợi.
– Đúng đấy! Có cần tớ cùng vào xin phép mẹ cậu không?
– Cậu nói đúng đấy. Hay để tớ cùng vào xin phép mẹ cậu nhé!
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Cảm nghĩ về tình bạn hay nhất
|
Say your answer in the following 3 cases
Suggest
Topic 1: Say your answer in the case: I forgot my raincoat in class and went back to school to get it. The security guard was about to go on vacation. When he saw me asking to come in, he opened the door and said, "Come in!"
Assignment
– Thank you. I'll go in for a bit and then I'll be right out.
– Thank you. I'm bothering you so much.
– I'm sorry for making you waste so much time.
Topic 2: Say your answer in this case: You invite a nurse near your house to give your mother an injection. The nurse accepted: "I will come right away."
Assignment
– Thank you. Please allow me to leave first.
- Oh! Thank you very much.
– Thank you. Miss, I'll go first, you'll come later.
Topic 3: Say your answer in the case: I invite a friend to visit my house. You accept: "Yes, wait until I ask my mother's permission."
Assignment
– Yes, go in and ask your mother for permission. I wait.
- Right! Do you need me to go ask your mother for permission?
– You're right. Or let me go in and ask your mother's permission!
Vanmau.edu.vn
See more: Thoughts about the best friendship
|
Nói lời đáp của em trong những trường hợp sau
Gợi ý
Đề 1: Nói lời đáp của em trong trường hợp sau:
– Mẹ ơi, đày có phải là con hươu sao không ạ?
– Phải đấy, con ạ!
Bài làm
– Ôi, nó xinh quá. Con thích lắm mẹ ạ!
– Ôi, thích thế. Nhìn nó dễ thương hơn trên ti vi nhiều mẹ nhỉ?
Đề 2: Nói lời đáp của em trong trường hợp sau:
– Con báo có trèo cây được không ạ?
– Được chứ! Nó trèo giỏi lắm.
Bài làm
– Thế cơ ạ? Thế nó còn giỏi hơn cả chúa sơn lâm đấy mẹ nhỉ?
– Ôi, nó giỏi quá mẹ nhỉ?
Đề 3: Nói lời đáp của em trong trường hợp sau:
– Thưa bác, bạn Lan có nhà không ạ?
– Có. Lan đang học bài ở trên gác.
Bài làm
– Dạ thế ạ. Bác cho phép cháu lên gặp bạn ấy một chút ạ.
– May quá. Xin phép bác cho cháu gặp bạn ấy được không ạ.
Đề 4: Nói lời đáp của em trong trường hợp sau:
– Cô làm ơn chỉ giúp cháu nhà bác Hạnh ở đâu ạ?
– Rất tiếc, cô không biết, vì cô không phải là người ở đây.
Bài làm
– Không sao đâu ạ. Để cháu hỏi người khác vậy.
– Ôi, thế ạ? Cháu xin lỗi. Cháu chào cô ạ.
Đề 5: Nói lời đáp của em trong trường hợp sau:Xem thêm: Phân tích hình tượng Cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành– Bố ơi, bố có mua được sách cho con không ạ?
– Bố chưa mua được đâu.
Bài làm
– Dạ, không sao đâu ạ. Khi nào tiện, bố mua cho con nhé.
– Dạ, thế ạ. Bô không phải vội đâu. Con cũng chưa cần ngay mà.
Đề 6: Nói lời đáp của em trong trường hợp sau:
– Mẹ có đỡ mệt không a?
– Mẹ chưa đỡ mấy.
Bài làm
– Mẹ đừng lo nhé. Mẹ cứ nằm nghỉ chắc ngày mai sẽ đỡ thôi.
– Thế mẹ cứ nghỉ ngơi cho chóng khỏi. Mọi việc đã có con và bố làm rồi.
Đề 7: Nói lời đáp trong các đoạn đối thoại sau:
– Hương cho tớ mượn cái tẩy nhé?
– Ừ.
Bài làm
– Cảm ơn bạn.
– Cảm ơn bạn nhiều, dùng xong tớ trả bạn ngay.
Đề 8: Nói lời đáp trong các đoạn đối thoại sau:
– Em cho anh chạy thử cái tàu thủy của em nhé?
– Vâng.
Bài làm
– Ôi, thích quá. Cảm ơn em.
– Cảm ơn em. Em ngoan lắm.
– Em ngoan lắm! Khi nào mẹ về anh sẽ khoe với mẹ.
Vanmau.edu.vn
|
Say your answer in the following cases
Suggest
Topic 1: Say your answer in the following case:
– Mom, is this a deer?
– That's right, my child!
Assignment
– Oh, it's so pretty. I like it very much, mom!
– Oh, I like that. It looks a lot cuter than on TV, right?
Topic 2: Say your answer in the following situation:
– Can a leopard climb a tree?
- Okay! It climbs very well.
Assignment
– Is that so? So it's even better than the king of the jungle, right?
– Oh, he's so good, isn't he?
Topic 3: Say your answer in the following situation:
– Sir, is Lan at home?
- Have. Lan is studying upstairs.
Assignment
– Yes. Please allow me to meet her for a moment.
- Lucky. Please allow me to meet her.
Topic 4: Say your answer in the following case:
– Could you please tell me where Uncle Hanh's house is?
– Sorry, I don't know, because I'm not from here.
Assignment
- Its ok. Let me ask someone else.
– Oh, is that so? I am sorry. I greet you.
Topic 5: Say your answer in the following case: See also: Analyzing the image of the Snake plant in the short story The Snake Forest by Nguyen Trung Thanh - Dad, can you buy me a book?
– Dad, I can't buy it yet.
Assignment
– Yes, it's okay. When it's convenient, dad will buy it for you.
– Yes, that's it. There's no need to rush. I don't need it right away.
Topic 6: Say your answer in the following case:
– Mom, are you feeling less tired?
– Mom is not much better.
Assignment
– Don't worry, Mom. Mom, just lie down and rest, I'm sure you'll be better tomorrow.
– So mom, just rest until you recover quickly. The child and father have done everything.
Topic 7: Say the answers in the following dialogues:
– Huong, can I borrow the eraser?
- YES.
Assignment
- Thank you.
– Thank you very much, I will return it to you immediately after using it.
Topic 8: Say the answers in the following dialogues:
– Can you let me test drive your boat?
- Yes.
Assignment
– Oh, I like it so much. Thank you.
- Thank you. You are very good.
– You are very good! When mom comes home, I'll show it to her.
Vanmau.edu.vn
|
Nói những điều em biết về cảnh đẹp trong bức tranh vẽ Bác Hồ bên ao cá của Người
Gợi ý
Buổi triển lãm tranh nghệ thuật của các hoạ sĩ nhí vừa kết thúc. Gây ấn tượng sâu sắc nhất đổì với em là bức tranh vẽ Bác Hồ và ao cá của Người. Ngắm nhìn bức tranh em thày lòng mình xao xuyến bồi hồi. Em bỗng nhớ tới hình ảnh của Bác trong những vần thơ cô giáo giảng trên lớp. Bộ quần áo nâu, đôi dép cao su, bước chân thong thả trên lối mòn quen thuộc. Bác đến bên ao cá của mình. Có những chú cá vàng táo tợn mừng quýnh nhảy vọt lên khỏi mặt nước như để đón chào Bác. Có những chủ thì như có vẻ thẹn thùng chỉ khẽ quẫy mình rồi nhẹ nhàng bơi lượn dưới mặt nước. Những chú cá vàng lần lượt “chạy” lại, đến bên Bác, rồi lại lần lượt uô’n mình lượn ra xa để nhường chỗ cho những chú cá khác, trông giống như một màn chào hỏi. Khi Bác thả thức ăn xuống, các chú lại lao tới, những chiếc mồm nhỏ xinh xinh tớp lấy mồi, trông rất duyên dáng nhịp nhàng. Đàn cá trong tranh, đang bơi lội giống như một dàn nhạc có được một nhạc trưởng tài hoa. Bức tranh thật sinh động và hấp dẫn.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Kể về một cô giáo cũ của em
|
Tell what you know about the beautiful scene in the painting of Uncle Ho beside his fish pond
Suggest
The art exhibition of children's artists has just ended. What made the deepest impression on me was the painting of Uncle Ho and his fish pond. Looking at my teacher's picture, my heart fluttered. I suddenly remembered Uncle Ho's image in the poems the teacher taught in class. Brown clothes, rubber sandals, leisurely steps on the familiar path. Uncle came to his fish pond. There were bold goldfish happily jumping out of the water as if to welcome Uncle Ho. Some owners seem shy and just shake their bodies and gently swim under the water's surface. The goldfish took turns "running" back, coming to Uncle Ho's side, then in turn curled up and glided away to make room for other fish, looking like a greeting. When Uncle Ho dropped the food, the monkeys rushed forward again, their pretty little mouths grabbing the bait, looking very graceful and rhythmic. The fish in the painting are swimming like an orchestra with a talented conductor. The picture is vivid and attractive.
Vanmau.edu.vn
See more: Tell about an old teacher of mine
|
Nói những điều em biết về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (TNTPHCM)
Gợi ý
Đội TNTPHCM là một tổ chức rộng lớn tập hợp trẻ em thuộc cả độ tuổi nhi đồng (từ 5 đên 9 tuổi) sirih hoạt trong các Sao nhi đồng và độ tuổi thiếu niên (từ 9 đến 14 tuổi) sinh hoạt trong các Chi đội TNTP.
– Đội được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1941, tại rừng Pác Bó, tỉnh Cao Bằng. Tên gọi đầu tiên của Đội là Đội Nhi đồng cứu quốc.
– Những đội viên đầu tiên của Đội – gồm năm người; đều là người dân tộc ít người sống ở tỉnh Cao Bằng. Đội trưởng là Nông Văn Dền (bí danh là Kim Đồng). Bốn đội viên là: Nông Văn Thàn (bí danh là Cao Sơn), Lí Văn Tịnh (bí danh là Thanh Minh), Lí Thị Mì (bí danh là Thủy Tiên) và Lí Thị Xậu (bí danh là Thanh Thủy).
– Đội Nhi đồng Cứu quốc đã qua ba lần đổi tên. Mỗi lần đổi tên đều gắn với tình hình và nhiệm vụ của Cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử:
– Ngày 15/5/1951 được đổi tên là Đội Thiếu nhi Tháng Tám.
– Tháng 2/1956 được đổi tên là Đội Thiếu niên Tiền phong.
– Ngày 31/1/1970 được đổi tên là Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
– Bài hát chính của Đội là bài Đội ca do nhạc sĩ Phong Nhã sáng tác. Đội đã có các phong trào lớn là:Xem thêm: Em hãy viết một bức thư cho bạn ở tỉnh khác để làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học tốt– Công tác Trần Quốc Toản, được phát động năm 1947
– Phong trào Kế hoạch nhỏ được phát động năm 1930.
– Phong trào Thiếu nhi làm nghìn việc tốt được phát động năm 1981.
Vanmau.edu.vn
|
Tell what you know about the Ho Chi Minh Young Pioneers (TNTHCMC)
Suggest
Ho Chi Minh City TNT Team is a large organization that gathers children of both children's age (from 5 to 9 years old) who work in Children's Stars and teenagers (from 9 to 14 years old) who work in Youth Teams. TNTP.
– The team was founded on May 15, 1941, in Pac Bo forest, Cao Bang province. The first name of the Team was the Children's National Salvation Team.
– The first members of the Team – including five people; are all ethnic minorities living in Cao Bang province. The team leader is Nong Van Den (alias Kim Dong). The four team members are: Nong Van Than (alias Cao Son), Ly Van Tinh (alias Thanh Minh), Ly Thi Mi (alias Thuy Tien) and Ly Thi Xuu (alias Thanh Thuy).
– The National Salvation Children's Team has changed its name three times. Each name change is associated with the situation and tasks of the Revolution in each historical period:
– On May 15, 1951, it was renamed the August Children's Team.
– In February 1956, the name was changed to the Young Pioneers Team.
– On January 31, 1970, it was renamed the Ho Chi Minh Young Pioneers Team.
– The main song of the Team is the song Doi Ca composed by musician Phong Nha. The team had major movements: See more: Please write a letter to a friend in another province to get to know each other and invite them to compete in studying well - Tran Quoc Toan's work, launched in 1947
– The Small Plan movement was launched in 1930.
– The Children's Movement for Thousands of Good Deeds was launched in 1981.
Vanmau.edu.vn
|
Nói và làm trong cuộc sống
Gợi ý
“Nói đi đôi với làm” là một đòi hỏi mang tính chất xã hội, không phải chỉ riêng xã hội bây giờ mà xưa đã thế và sau này vẫn thế. Bởi “mười lần nói không bằng một lần làm”, “nói hay không bằng cày giỏi”, “nói và làm” từ xưa vốn luôn gắn liền với chữ tín “một lần bát tín, vạn lần bất tin”… Thế nhưng tại sao trong cuộc sống “nói và làm” thường ít khi đi đôi với nhau? Phải chăng bởi vì nói dễ hơn làm, vì “lời nói gió bay”, vì “nói trước quên sau”. Lão Tử đã từng dậy “Lời nói có thể tin được thì nghe không hay, lời nói nghe hay thì không thể tin được”.
Một lời nói, dù là trẻ con, người lởn đều có thể nói ra, nói thì dễ nhưng để nói mà làm được lại là một điều cực khó. Bởi vậy chớ nên nói bừa, nói ẩu, nói cho xong chuyện, trừ khi bạn là người không có lòng tự trộng. "Làm khó", vì làm phải tốn sức, tốn công, thậm chí phải "quên mình", phải "hi sinh",… Tốn sức, tốn công thì nhiều người có thể làm được. Nhưng "hi sinh, quên mình" mới là thử thách khó vượt qua! Mà ở đời, những việc quan trọng nhất, lại thường đòi hỏi người thực hiện phải… hi sinh, phải quên mình! Dám hi sinh thì việc khó trở thành dễ. Đó là chân lý vậy!
“Nói đi đôi với làm” vừa là đạo lý vừa là yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Trong xã hội chúng ta, nhiều bậc làm cha làm mẹ là những người biết điều hay lẽ phải mà dạy con không được chủ yếu là chỉ nói mà khồng làm, không hành động gương mẫu trước con cái. Do đó lời nói không có sức cảm hóa và thuyết phục. Một người mẹ luôn dạy con rằng, con phải vứt rác vào thùng rác để bảo vệ môi trường thế nhưng lại tiện tay để ngay hộp sữa xuống lề đường sau khi con uống xong, điều đó thật sự không hề có sự thuyết phục trong mắt con trẻ. Suy rộng ra hơn, ở trong cuộc sống, nếu chỉ biết nói, mà chẳng bao giờ thực hiện thì sẽ không chiếm được lòng tin, lòng cảm phục của mọi người. Một người lãnh đạo chỉ “nói giỏi” mà không “làm giỏi” sẽ không lấy được lòng tin của dân. Bởi “nói thì dễ nhưng làm thì khó”, “làm” mới là thước đo chuẩn mực nhất để đánh giá thực chất giá trị con người. Xã hội muôn tiến lên cũng phải do hành động, trực giác của con người.Xem thêm: Tóm tắt sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân Sách cổ Trung Quốc có ghi lại mẩu chuyện lý thú về án Anh, vị Tể tướng nhỏ thó mà lừng danh nước Tề. Có người hỏi án Anh:
– Bao năm làm Tể tướng, với tiên sinh điều gì khó nhất?
– Làm được điều mình nói, án Anh trả lời ngay tức khắc.
Đó là câu chuyên từ mấy ngàn nắm trước. Còn bây giờ là chuyện cuối thế kỷ XX.Giữa năm 1985, khi Mikhain Goocbatrọp, Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, mới phát động chiến dịch cải tổ và tăng tốc được ít lâu, ông có làm cuộc vi hành đến Leningrat. Để tạo hình ảnh một nhà lãnh đạo trẻ năng động, gần gũi dân chúng (tương phản với dáng vẻ nặng nề, ốm yếu, già nua của ông Brêgiơnhép trước đó không lâu), ông Goocbachop đi bộ ra quảng trường Cung điện Mùa đông để trò chuyện với nhân dân. Bắt tay một người đàn ông trung niên Nga, rắn rỏi, vạm vỡ, nhà lãnh đạo Liên Xô ân cần hỏi:
– Đồng chí làm nghề gì?
– Thưa đồng chí, tôi là thợ tiện nhà máy đóng tàu.
– Đồng chí muốn chúc điều gì cho tôi và Trung ương?
– Tôi chúc đồng chí và Trung ương làm được điều mình nói! Người thợ tiện nọ trả lời ngay tức khắc… (Cũng phải nói thêm, lúc này, sau ít tháng xuất hiện ở cương vị cao nhất đất nước, người dân Liên Xô đã thấy ông Goocbachop bắt đầu bộc lộ hứng thú ưa đăng đàn diễn thuyết).
Hai câu chuyện cách nhau hàng ngàn năm xảy ra với hai người địa thế xã hội hoàn toàn khác nhau – vị Tể tướng lừng danh và người thợ tiện vô danh. Ấy vậy mà câu trả lời lại hoàn toàn giống nhau. Điều đó cho ta thấy được rằng: sống trên đời này để lời nói đi đôi với việc làm vô cùng khó khăn.
Chúng ta đang sống trong thời đại CNTT, thời đại mà phương tiện truyền thông có mặt mọi lúc, mọi nơi, bất cứ lúc nào ta cũng có thể tiếp cận thông tin một cách dễ dàng và nhanh chóng. Những hình ảnh, lời nói luôn luôn hiện hữu dù đôi khi ta không hề muốn, những sự thật, việc thật cũng không bao giờ ra khỏi tầm mắt của con người. Và thế là, dù muôn hay không muốn, chúng ta vẫn thấy được sự khác nhau rõ ràng và khác biệt về nói và làm trong cuộc sống.Xem thêm: Kể về một người tốt mà em biết Đi ra đường phố, thấy cảnh ôtô, xe máy, xe lam, xe đạp, xích lô, xe thồ… ngược xuôi, lạng lách, rẽ ngang rẽ trái không theo một luật lệ nào, rồi thì chợ cóc, chợ xanh, chợ hoa dưới lòng đường, hàng hoá bày ra choán hết vỉa hè…, chúng ta hoang mang tự hỏi: Liệu những quy định về trật tự an toàn giao thông đâu hết cả? Mật độ dầy đặc của cảnh sát giao thông cũng không làm giảm bớt bao nhiêu những ách tắc. Rồi cái nạn đua xe của mấy cô mấy cậu rửng mỡ, con nhà giàu, con ông cháu cha gây nhức nhôi bao năm, sau rất nhiều lời hứa hẹn “kiên quyết chấm dứt" vẫn diễn ra như trêu ngươi; các thứ thư tay, điện thoại riêng “đề nghị chiếu cố, nương nhẹ" vẫn tồn tại sau mỗi lần công an bắt giữa người, xe…
“Chính quyền của ta là của dân, do dân, vì dân" — câu nói đẹp làm nức lòng người mau chóng bị sao nhãng khi người dân đến cửa quan gặp phải những bộ mặt lạnh tanh, những câu trả lời nhát gừng và những kiểu đùn đẩy hồ sơ hết phòng này sang phòng kia, những kiểu hẹn lần hẹn lữa không có hồi kết thúc như thử thách lòng kiên nhẫn của người dân. Kết quả là đơn thư khiếu nại chất thành đông, năm này qua năm khác.
Hay như ở vạn đề y tế “Lương y như từ mẫụ", câu khẩu hiệu gặp ở mọi bệnh viện, trên thực tế liệu đã làm yên lòng bệnh nhân chưa? Chắc chắn là chưa. Thế nên hầu hết người bệnh khi chẳng may phải lên bầàn mổ hay gặp bệnh hiểm nghèo, đều phải cố lần những đồng tiền còm cõi cuối cùng, kín đáo bỏ vào phong bì, rồi tìm kiếm cơ hội tiếp cận vị “lương y như từ mẫu" kia để mà nài nỉ, khẩn khoản họ nhận cho “tấm lòng thành” với mặc cảm của người có lỗi. vẫn còn nhiều lắm những ca phẫu thuật nhầm, chuẩn đoán sai gây ảnh hưởng đến cả tính mạng của bệnh nhân.Xem thêm: Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà Đáng nói hơn cả, có lẽ là vấn đề giáo dục. Đó là “Cải cách giáo dục”, “Nâng cao chất lượng dạy và học", “Giáo dục là quốc sách”,… những lời lẽ được lặp lại ngày này qua ngày khác, nhưng những phiền muộn do giáo dục mang lại cũng không giảm. Nào là “quá tải” phải “giảm tải”, “học thêm dạy thêm”, nào là sách giáo khoa viết sai in sai, đề thi ra nhầm lẫn, lộ đề trước khi thi, nào là “các lò luyện thi” thương mại hoá một cách lộ liễu đến trơ tráo” Giảm tải chương trình học cho học sinh” nhưng xét cho cùng có khi còn nặng hơn chương trình cũ gấp nhiều lần.
Như Herbert Spencer đã từng nói “Mục đích cao cả nhất của giáo dục không phải là lời nói mà là hành dộng”. Người nước ngoài luôn thắc mắc rằng “Tại sao người Việt Nam nói thì giỏi nhưng làm thì lại rất kém?” Đó phải chăng là do phương pháp học tập của người Việt Nam từ xưa đến nay. Học sinh Việt Nam ở các kì thi quốc tế luôn làm rất tốt các bài thi lí thuyết nhưng lại rất kém ở phần thi thực hành. Một học sinh có thể đọc vanh vách tất cả các hiện tượng hóa học nhưng không thể tiến hành một thí nghiệm cho dù là đơn giản nhất. Thậm chí là tại các trường học vẫn luôn tồn tại những kì thi Tin học bằng lý thuyết trên giấy kiểu như “Em hãy trình bày cách tính ở Excel”. Vậy là cho dù đã học đến rất nhiều, thế nhưng khi bắt tay vào thực tế, tất cả vẫn chỉ là con số 0 khi thực tế lại “Sao không giống với những gì mình đã học?”. Giáo dục Việt Nam có lẽ chỉ thiên về việc truyền đạt kiến thức lí thuyết, sách vở mà quêiì đi cách thức thực hiện cũng giống như việc có thể nói vanh vách nhưng không thể tiến hành thực hiện.
“Nói và làm” giờ đây đã sắp trở thành một căn bệnh nan y của người Việt Nam, đã dần ngấm sâu vào máu, chính vì thế chúng ta phải cùng nhau đi tìm những phương thuo’c hữu hiệu hơn để trị tận gốc căn bệnh đó. Có điều chắc chắn là không thể dùng lời nói, lời hô hào suông mà chữa khỏi được.
Vanmau.edu.vn
|
Nói và làm trong cuộc sống
Gợi ý
“Nói đi đôi với làm” là một đòi hỏi mang tính chất xã hội, không phải chỉ riêng xã hội bây giờ mà xưa đã thế và sau này vẫn thế. Bởi “mười lần nói không bằng một lần làm”, “nói hay không bằng cày giỏi”, “nói và làm” từ xưa vốn luôn gắn liền với chữ tín “một lần bát tín, vạn lần bất tin”… Thế nhưng tại sao trong cuộc sống “nói và làm” thường ít khi đi đôi với nhau? Phải chăng bởi vì nói dễ hơn làm, vì “lời nói gió bay”, vì “nói trước quên sau”. Lão Tử đã từng dậy “Lời nói có thể tin được thì nghe không hay, lời nói nghe hay thì không thể tin được”.
Một lời nói, dù là trẻ con, người lởn đều có thể nói ra, nói thì dễ nhưng để nói mà làm được lại là một điều cực khó. Bởi vậy chớ nên nói bừa, nói ẩu, nói cho xong chuyện, trừ khi bạn là người không có lòng tự trộng. "Làm khó", vì làm phải tốn sức, tốn công, thậm chí phải "quên mình", phải "hi sinh",… Tốn sức, tốn công thì nhiều người có thể làm được. Nhưng "hi sinh, quên mình" mới là thử thách khó vượt qua! Mà ở đời, những việc quan trọng nhất, lại thường đòi hỏi người thực hiện phải… hi sinh, phải quên mình! Dám hi sinh thì việc khó trở thành dễ. Đó là chân lý vậy!
“Nói đi đôi với làm” vừa là đạo lý vừa là yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Trong xã hội chúng ta, nhiều bậc làm cha làm mẹ là những người biết điều hay lẽ phải mà dạy con không được chủ yếu là chỉ nói mà khồng làm, không hành động gương mẫu trước con cái. Do đó lời nói không có sức cảm hóa và thuyết phục. Một người mẹ luôn dạy con rằng, con phải vứt rác vào thùng rác để bảo vệ môi trường thế nhưng lại tiện tay để ngay hộp sữa xuống lề đường sau khi con uống xong, điều đó thật sự không hề có sự thuyết phục trong mắt con trẻ. Suy rộng ra hơn, ở trong cuộc sống, nếu chỉ biết nói, mà chẳng bao giờ thực hiện thì sẽ không chiếm được lòng tin, lòng cảm phục của mọi người. Một người lãnh đạo chỉ “nói giỏi” mà không “làm giỏi” sẽ không lấy được lòng tin của dân. Bởi “nói thì dễ nhưng làm thì khó”, “làm” mới là thước đo chuẩn mực nhất để đánh giá thực chất giá trị con người. Xã hội muôn tiến lên cũng phải do hành động, trực giác của con người.Xem thêm: Tóm tắt sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân Sách cổ Trung Quốc có ghi lại mẩu chuyện lý thú về án Anh, vị Tể tướng nhỏ thó mà lừng danh nước Tề. Có người hỏi án Anh:
– Bao năm làm Tể tướng, với tiên sinh điều gì khó nhất?
– Làm được điều mình nói, án Anh trả lời ngay tức khắc.
Đó là câu chuyên từ mấy ngàn nắm trước. Còn bây giờ là chuyện cuối thế kỷ XX.Giữa năm 1985, khi Mikhain Goocbatrọp, Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, mới phát động chiến dịch cải tổ và tăng tốc được ít lâu, ông có làm cuộc vi hành đến Leningrat. Để tạo hình ảnh một nhà lãnh đạo trẻ năng động, gần gũi dân chúng (tương phản với dáng vẻ nặng nề, ốm yếu, già nua của ông Brêgiơnhép trước đó không lâu), ông Goocbachop đi bộ ra quảng trường Cung điện Mùa đông để trò chuyện với nhân dân. Bắt tay một người đàn ông trung niên Nga, rắn rỏi, vạm vỡ, nhà lãnh đạo Liên Xô ân cần hỏi:
– Đồng chí làm nghề gì?
– Thưa đồng chí, tôi là thợ tiện nhà máy đóng tàu.
– Đồng chí muốn chúc điều gì cho tôi và Trung ương?
– Tôi chúc đồng chí và Trung ương làm được điều mình nói! Người thợ tiện nọ trả lời ngay tức khắc… (Cũng phải nói thêm, lúc này, sau ít tháng xuất hiện ở cương vị cao nhất đất nước, người dân Liên Xô đã thấy ông Goocbachop bắt đầu bộc lộ hứng thú ưa đăng đàn diễn thuyết).
Hai câu chuyện cách nhau hàng ngàn năm xảy ra với hai người địa thế xã hội hoàn toàn khác nhau – vị Tể tướng lừng danh và người thợ tiện vô danh. Ấy vậy mà câu trả lời lại hoàn toàn giống nhau. Điều đó cho ta thấy được rằng: sống trên đời này để lời nói đi đôi với việc làm vô cùng khó khăn.
Chúng ta đang sống trong thời đại CNTT, thời đại mà phương tiện truyền thông có mặt mọi lúc, mọi nơi, bất cứ lúc nào ta cũng có thể tiếp cận thông tin một cách dễ dàng và nhanh chóng. Những hình ảnh, lời nói luôn luôn hiện hữu dù đôi khi ta không hề muốn, những sự thật, việc thật cũng không bao giờ ra khỏi tầm mắt của con người. Và thế là, dù muôn hay không muốn, chúng ta vẫn thấy được sự khác nhau rõ ràng và khác biệt về nói và làm trong cuộc sống.Xem thêm: Kể về một người tốt mà em biết Đi ra đường phố, thấy cảnh ôtô, xe máy, xe lam, xe đạp, xích lô, xe thồ… ngược xuôi, lạng lách, rẽ ngang rẽ trái không theo một luật lệ nào, rồi thì chợ cóc, chợ xanh, chợ hoa dưới lòng đường, hàng hoá bày ra choán hết vỉa hè…, chúng ta hoang mang tự hỏi: Liệu những quy định về trật tự an toàn giao thông đâu hết cả? Mật độ dầy đặc của cảnh sát giao thông cũng không làm giảm bớt bao nhiêu những ách tắc. Rồi cái nạn đua xe của mấy cô mấy cậu rửng mỡ, con nhà giàu, con ông cháu cha gây nhức nhôi bao năm, sau rất nhiều lời hứa hẹn “kiên quyết chấm dứt" vẫn diễn ra như trêu ngươi; các thứ thư tay, điện thoại riêng “đề nghị chiếu cố, nương nhẹ" vẫn tồn tại sau mỗi lần công an bắt giữa người, xe…
“Chính quyền của ta là của dân, do dân, vì dân" — câu nói đẹp làm nức lòng người mau chóng bị sao nhãng khi người dân đến cửa quan gặp phải những bộ mặt lạnh tanh, những câu trả lời nhát gừng và những kiểu đùn đẩy hồ sơ hết phòng này sang phòng kia, những kiểu hẹn lần hẹn lữa không có hồi kết thúc như thử thách lòng kiên nhẫn của người dân. Kết quả là đơn thư khiếu nại chất thành đông, năm này qua năm khác.
Hay như ở vạn đề y tế “Lương y như từ mẫụ", câu khẩu hiệu gặp ở mọi bệnh viện, trên thực tế liệu đã làm yên lòng bệnh nhân chưa? Chắc chắn là chưa. Thế nên hầu hết người bệnh khi chẳng may phải lên bầàn mổ hay gặp bệnh hiểm nghèo, đều phải cố lần những đồng tiền còm cõi cuối cùng, kín đáo bỏ vào phong bì, rồi tìm kiếm cơ hội tiếp cận vị “lương y như từ mẫu" kia để mà nài nỉ, khẩn khoản họ nhận cho “tấm lòng thành” với mặc cảm của người có lỗi. vẫn còn nhiều lắm những ca phẫu thuật nhầm, chuẩn đoán sai gây ảnh hưởng đến cả tính mạng của bệnh nhân.Xem thêm: Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà Đáng nói hơn cả, có lẽ là vấn đề giáo dục. Đó là “Cải cách giáo dục”, “Nâng cao chất lượng dạy và học", “Giáo dục là quốc sách”,… những lời lẽ được lặp lại ngày này qua ngày khác, nhưng những phiền muộn do giáo dục mang lại cũng không giảm. Nào là “quá tải” phải “giảm tải”, “học thêm dạy thêm”, nào là sách giáo khoa viết sai in sai, đề thi ra nhầm lẫn, lộ đề trước khi thi, nào là “các lò luyện thi” thương mại hoá một cách lộ liễu đến trơ tráo” Giảm tải chương trình học cho học sinh” nhưng xét cho cùng có khi còn nặng hơn chương trình cũ gấp nhiều lần.
Như Herbert Spencer đã từng nói “Mục đích cao cả nhất của giáo dục không phải là lời nói mà là hành dộng”. Người nước ngoài luôn thắc mắc rằng “Tại sao người Việt Nam nói thì giỏi nhưng làm thì lại rất kém?” Đó phải chăng là do phương pháp học tập của người Việt Nam từ xưa đến nay. Học sinh Việt Nam ở các kì thi quốc tế luôn làm rất tốt các bài thi lí thuyết nhưng lại rất kém ở phần thi thực hành. Một học sinh có thể đọc vanh vách tất cả các hiện tượng hóa học nhưng không thể tiến hành một thí nghiệm cho dù là đơn giản nhất. Thậm chí là tại các trường học vẫn luôn tồn tại những kì thi Tin học bằng lý thuyết trên giấy kiểu như “Em hãy trình bày cách tính ở Excel”. Vậy là cho dù đã học đến rất nhiều, thế nhưng khi bắt tay vào thực tế, tất cả vẫn chỉ là con số 0 khi thực tế lại “Sao không giống với những gì mình đã học?”. Giáo dục Việt Nam có lẽ chỉ thiên về việc truyền đạt kiến thức lí thuyết, sách vở mà quêiì đi cách thức thực hiện cũng giống như việc có thể nói vanh vách nhưng không thể tiến hành thực hiện.
“Nói và làm” giờ đây đã sắp trở thành một căn bệnh nan y của người Việt Nam, đã dần ngấm sâu vào máu, chính vì thế chúng ta phải cùng nhau đi tìm những phương thuo’c hữu hiệu hơn để trị tận gốc căn bệnh đó. Có điều chắc chắn là không thể dùng lời nói, lời hô hào suông mà chữa khỏi được.
Vanmau.edu.vn
|
Nói về Nguyễn Trãi có ý kiến cho rằng Ở ông ta bắt gặp một nhà chiên sĩ và thi sĩ. Hãy trình bày ý kiến của em về nhận định trên.
Hướng dẫn
Nguyễn Trãi cách chúng ta nhiều thế kỉ nhưng những gì ông để lại thì có ý nghĩa thật lớn lao, nhiều người khâm phục ông ở tài năng quân sự, có người khâm phục ông là con người có tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước thiết tha. Có ý kiến cho rằng: Ở ông ta bắt gặp một nhà chiến sĩ và thi sĩ. Cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Trãi là minh chứng cho nhận định đó.
Khi làm quan Nguyễn Trãi luôn một lòng hướng về dân về nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và đấu tranh chống lại bọn tham quan, nhịnh thần. Trong sáng tác, ông luôn thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, luôn canh cánh nỗi lo phò dân giúp nước. Vì thế mà cuộc đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, ông luôn mang đem tài sức ra giúp dân, giúp nước. Từ lúc bôn ba tìm đường cứu nước đến khi về ở ẩn ở Côn Sơn, lúc nào Nguyễn Trãi cũng nghĩ đến dân, làm cho dân được ấm no hạnh phúc dù biết rằng:
"Nhân sinh thức tự đa ưu họa"
Vì yêu dân yêu nước nên khi vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước lần thứ hai, ông vẫn nhận lời dù tuổi cao sức yếu như cây tùng đến cuối đời vẫn đem các vị thuốc quý để cứu dân, cứu đời:
"Hổ phách, phục linh nhìn mới biết
Dành còn để trợ dân này"
(Tùng)
Những ánh văn thơ khi Nguyễn Trãi thể hiện đủ sức đánh tan mười vạn quân. Trong chiến tranh, ông dùng ngòi bút ấy dụ hàng Phương Chính (thư dụ Phương Chính) khiến giặc phải rút quân về nước mà ta không phải tốn một mũi tên. Đó là tài năng phi thường của Nguyễn Trãi, tài năng đó không chỉ giúp vua trị vì đất nước, giúp dân không phải chịu cảnh nước mất nhà tan.
Khi đến thời bình, ông dùng ngòi bút ấy để khuyên vua nên chăm lo đến đời sống nhân dân khiến nơi thôn cùng xóm vắng không một tiếng kêu hờn giận oán sầu, dạy thái tử trong những việc kính trời chăm dân không dám khinh suất chỗ nào (răn bảo thái tử). Đó là thời kỳ nhân dân được sống êm ấm, no đủ, xã tắc được vững bền, là thời kỳ huy hoàng của dân tộc. Cũng chính ngòi bút ấy đã cảnh cáo bọn tham tàn sâu dân mọt nước:Xem thêm: Bình luận câu cách ngôn “Thất bại là mẹ thành công"
"Chớ cậy sang mà ép về
Lời chẳng phải vưỡn không nghe
Làm người mà cậy khi quyền thế
Có thuở bàn cờ tốt đuổi xe."
Ông đã dùng lời văn của mình cảnh cáo bọn chúng đừng ỷ quyền thế mà ức hiếp nhân dân, ông chỉ ra cho chúng là có ngày nhân dân, những con tốt trong bàn cờ, sẽ đứng lên trị tội chúng, những con xe đang nghênh ngang tự đắc, ngang ngược hành hạ nhân dân, bách tính.
Có thể nói Nguyễn Trãi rất lỗi lạc trong lĩnh vực quân sự, chính trị và là một thi sĩ xuất sắc là cây đại thụ tạo bóng mát che rợp thi đàng thế kỉ XV như lời của người đời sau nhận xét về ông. Tâm hồn ông luôn chan hòa mở cửa đón thiên nhiên, hòa nhập với đất trời. Với ông, thiên nhiên chính là người bạn tốt thân thiết. Từ cảnh bến đò xuân bến vắng, thiếu bóng người đến cảnh chợ cá làng chài rộn rịp, tất cả đều được đưa vào thơ thật sinh động và tràn ngập sức sống.
"Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiên tai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô châu trấn nhật gác sa miên"
(Trại đầu xuân độ)
Dịch thơ:
"Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi"
(Bến đò xuân đầu trại)
Đứng trước cảnh thiên nhiên đẹp, tâm hồn thi sĩ lại xao động. Cảnh thiên nhiên với một thảm cỏ xanh mướt, một làn mưa rắc nhẹ xuống bến đò, hợp cùng những con sông khiến người ta có cảm giác nước vỗ trời, một con đường không bóng người qua lại, vắng đến mức quạnh quẽ, một con đò tưởng chừng bình thản nằm gối bãi nhưng thực ra đang mơ đến một ngày được lướt sóng ra khơi. Tất cả là một bức tranh thủy mặc đã được Nguyễn Trãi vẽ lên không phải bằng cọ, bằng màu mà cảnh cứ hiển hiện ra trước mắt người ta.Xem thêm: Cây lau chứng kiến việc nàng Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rồi tự vẫn. Viết văn bản kể lại câu chuyện đó theo ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba (mở rộng truyện Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ)
Với những sinh hoạt dân dã đời thường cũng được đưa vào thơ Nguyễn Trãi với tất cả nét chân thực vốn có của nó:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
(Cảnh tình mùa hè)
Với Nguyễn Trãi những âm thanh bình thường trong sinh hoạt làng quê Việt Nam đã trở thành âm điệu rộn ràng của cuộc sống trù phú khiến người đọc tưởng chừng đang nghe và say cùng cảnh, cùng người. Là một quan đại thần, một tướng lĩnh tài ba nhưng ta vẫn thấy trong Nguyễn Trãi nét ý nhị và không kém phần hóm hỉnh của một nhà thơ:
"Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem"
(Cây chuối)
Bài thơ với những tứ thơ thật mặn mà và ý nhị, mang cảm hứng lãng mạng của thi ca. Một bức thư tình – nõn chuối cuộn kín lại, trông thật hấp dẫn mà chẳng ai dám mở xem. Chỉ có gió tinh nghịch len lén gượng mở ra xem, chỉ gượng mà thôi. Ở đây, gió đã được nhà thơ thổi vào nét tinh nghịch của một tâm hồn trẻ trung đến kinh ngạc. Ta lại bắt gặp một nét mới trong tâm hồn người chiến sĩ và thi sĩ: phóng khoáng và tươi trẻ đến lạ kì. L.Tônxtôi đã từng nói: Người ta nghiêng mình trước tài năng nhưng phải cúi đầu trước lòng nhân ái. Ở Nguyễn Trãi hội tụ cả hai yếu tố khiến người ta vừa phải cúi đầu vừa phải nghiêng mình. Chính tư tưởng nhân nghĩa luôn có trong Nguyễn Trãi đã giúp ông trở thành nhà chiến sĩ và thi sĩ tài hoa, lỗi lạc. Phương châm của ông là: nhân nghĩa duy trì quốc thái an (nhân nghĩa duy trì thế nước yên). Dù bất cứ lúc nào, ở đâu ông cũng luôn tâm niệm là phải lấy dân làm gốc, ông đánh giặc trừ tham tàn là vì dân: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo (Bình Ngô đại cáo). Ông không phải là kẻ hiếu chiến mà luôn đặt nhân nghĩa lên đầu.Xem thêm: Viết bài giới thiệu về Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc
"Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức"
(Bình Ngô đại cáo)
Ông ra làm quan với mục đích là lo cho dân có cuộc sống ấm êm như thời vua Nghiêu, vua Thuấn:
"Đọc sách thời thông đòi nghĩa sách
Chăn dân mạ nỡ mất lòng dân
Dân Nghiên Thuấn, vua Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đã phỉ sở nguyền"
Yêu quê hương, yêu cảnh dân dã nên ngay cả trong những bài thơ tả cảnh của ông ta vẫn thấy bóng dáng cảnh sống bình dị ở thôn quê, cảnh sinh hoạt của nhân dân, cuộc sống ấm êm được ông ca ngợi. Trải qua mười năm sống trong dân, mười năm chiến dấu nhờ sức dân, Nguyễn Trãi đã trở thành người cha hết lòng vì những đứa con đỏ dân đen. Nguyễn Trãi là một thi sĩ tài hoa, một chiến sĩ lỗi lạc, luôn đặt tư tưởng nhân nghĩa lên đầu. Ông thực xứng đáng với lời ca ngợi của Lê Thánh Tông:
"Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo"
(Ức Trai lòng dạ sáng sao khuê)
Người chiến sĩ là người chiến đấu bảo vệ cuộc sống anh lành của nhân dân. Thi sĩ là người làm thơ về cuộc sống, về cảnh vật quê hương đất nước. Trong con người Nguyễn Trãi, nhà chiến sĩ và Ức Trai luôn tồn tại song song bên nhau.
Có thể thấy Nguyễn Trãi có một tấm lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến. Khi giúp vua cai trị đất nước ông luôn đưa ra những lời khuyên, lời góp ý để vua có những chính sách tốt nhất cho dân. Trong thơ văn ông luôn ca ngợi con người, thiên nhiên, dựa vào thơ văn mà bày tỏ tâm trạng của mình với dân với nước. Vì vậy người ta nói Nguyễn Trãi vừa là chiến sĩ vừa là thi sĩ thật không sai.
Nguồn:
|
Nói về Nguyễn Trãi có ý kiến cho rằng Ở ông ta bắt gặp một nhà chiên sĩ và thi sĩ. Hãy trình bày ý kiến của em về nhận định trên.
Hướng dẫn
Nguyễn Trãi cách chúng ta nhiều thế kỉ nhưng những gì ông để lại thì có ý nghĩa thật lớn lao, nhiều người khâm phục ông ở tài năng quân sự, có người khâm phục ông là con người có tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước thiết tha. Có ý kiến cho rằng: Ở ông ta bắt gặp một nhà chiến sĩ và thi sĩ. Cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Trãi là minh chứng cho nhận định đó.
Khi làm quan Nguyễn Trãi luôn một lòng hướng về dân về nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và đấu tranh chống lại bọn tham quan, nhịnh thần. Trong sáng tác, ông luôn thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, luôn canh cánh nỗi lo phò dân giúp nước. Vì thế mà cuộc đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, ông luôn mang đem tài sức ra giúp dân, giúp nước. Từ lúc bôn ba tìm đường cứu nước đến khi về ở ẩn ở Côn Sơn, lúc nào Nguyễn Trãi cũng nghĩ đến dân, làm cho dân được ấm no hạnh phúc dù biết rằng:
"Nhân sinh thức tự đa ưu họa"
Vì yêu dân yêu nước nên khi vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước lần thứ hai, ông vẫn nhận lời dù tuổi cao sức yếu như cây tùng đến cuối đời vẫn đem các vị thuốc quý để cứu dân, cứu đời:
"Hổ phách, phục linh nhìn mới biết
Dành còn để trợ dân này"
(Tùng)
Những ánh văn thơ khi Nguyễn Trãi thể hiện đủ sức đánh tan mười vạn quân. Trong chiến tranh, ông dùng ngòi bút ấy dụ hàng Phương Chính (thư dụ Phương Chính) khiến giặc phải rút quân về nước mà ta không phải tốn một mũi tên. Đó là tài năng phi thường của Nguyễn Trãi, tài năng đó không chỉ giúp vua trị vì đất nước, giúp dân không phải chịu cảnh nước mất nhà tan.
Khi đến thời bình, ông dùng ngòi bút ấy để khuyên vua nên chăm lo đến đời sống nhân dân khiến nơi thôn cùng xóm vắng không một tiếng kêu hờn giận oán sầu, dạy thái tử trong những việc kính trời chăm dân không dám khinh suất chỗ nào (răn bảo thái tử). Đó là thời kỳ nhân dân được sống êm ấm, no đủ, xã tắc được vững bền, là thời kỳ huy hoàng của dân tộc. Cũng chính ngòi bút ấy đã cảnh cáo bọn tham tàn sâu dân mọt nước:Xem thêm: Bình luận câu cách ngôn “Thất bại là mẹ thành công"
"Chớ cậy sang mà ép về
Lời chẳng phải vưỡn không nghe
Làm người mà cậy khi quyền thế
Có thuở bàn cờ tốt đuổi xe."
Ông đã dùng lời văn của mình cảnh cáo bọn chúng đừng ỷ quyền thế mà ức hiếp nhân dân, ông chỉ ra cho chúng là có ngày nhân dân, những con tốt trong bàn cờ, sẽ đứng lên trị tội chúng, những con xe đang nghênh ngang tự đắc, ngang ngược hành hạ nhân dân, bách tính.
Có thể nói Nguyễn Trãi rất lỗi lạc trong lĩnh vực quân sự, chính trị và là một thi sĩ xuất sắc là cây đại thụ tạo bóng mát che rợp thi đàng thế kỉ XV như lời của người đời sau nhận xét về ông. Tâm hồn ông luôn chan hòa mở cửa đón thiên nhiên, hòa nhập với đất trời. Với ông, thiên nhiên chính là người bạn tốt thân thiết. Từ cảnh bến đò xuân bến vắng, thiếu bóng người đến cảnh chợ cá làng chài rộn rịp, tất cả đều được đưa vào thơ thật sinh động và tràn ngập sức sống.
"Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiên tai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô châu trấn nhật gác sa miên"
(Trại đầu xuân độ)
Dịch thơ:
"Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi"
(Bến đò xuân đầu trại)
Đứng trước cảnh thiên nhiên đẹp, tâm hồn thi sĩ lại xao động. Cảnh thiên nhiên với một thảm cỏ xanh mướt, một làn mưa rắc nhẹ xuống bến đò, hợp cùng những con sông khiến người ta có cảm giác nước vỗ trời, một con đường không bóng người qua lại, vắng đến mức quạnh quẽ, một con đò tưởng chừng bình thản nằm gối bãi nhưng thực ra đang mơ đến một ngày được lướt sóng ra khơi. Tất cả là một bức tranh thủy mặc đã được Nguyễn Trãi vẽ lên không phải bằng cọ, bằng màu mà cảnh cứ hiển hiện ra trước mắt người ta.Xem thêm: Cây lau chứng kiến việc nàng Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rồi tự vẫn. Viết văn bản kể lại câu chuyện đó theo ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba (mở rộng truyện Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ)
Với những sinh hoạt dân dã đời thường cũng được đưa vào thơ Nguyễn Trãi với tất cả nét chân thực vốn có của nó:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
(Cảnh tình mùa hè)
Với Nguyễn Trãi những âm thanh bình thường trong sinh hoạt làng quê Việt Nam đã trở thành âm điệu rộn ràng của cuộc sống trù phú khiến người đọc tưởng chừng đang nghe và say cùng cảnh, cùng người. Là một quan đại thần, một tướng lĩnh tài ba nhưng ta vẫn thấy trong Nguyễn Trãi nét ý nhị và không kém phần hóm hỉnh của một nhà thơ:
"Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem"
(Cây chuối)
Bài thơ với những tứ thơ thật mặn mà và ý nhị, mang cảm hứng lãng mạng của thi ca. Một bức thư tình – nõn chuối cuộn kín lại, trông thật hấp dẫn mà chẳng ai dám mở xem. Chỉ có gió tinh nghịch len lén gượng mở ra xem, chỉ gượng mà thôi. Ở đây, gió đã được nhà thơ thổi vào nét tinh nghịch của một tâm hồn trẻ trung đến kinh ngạc. Ta lại bắt gặp một nét mới trong tâm hồn người chiến sĩ và thi sĩ: phóng khoáng và tươi trẻ đến lạ kì. L.Tônxtôi đã từng nói: Người ta nghiêng mình trước tài năng nhưng phải cúi đầu trước lòng nhân ái. Ở Nguyễn Trãi hội tụ cả hai yếu tố khiến người ta vừa phải cúi đầu vừa phải nghiêng mình. Chính tư tưởng nhân nghĩa luôn có trong Nguyễn Trãi đã giúp ông trở thành nhà chiến sĩ và thi sĩ tài hoa, lỗi lạc. Phương châm của ông là: nhân nghĩa duy trì quốc thái an (nhân nghĩa duy trì thế nước yên). Dù bất cứ lúc nào, ở đâu ông cũng luôn tâm niệm là phải lấy dân làm gốc, ông đánh giặc trừ tham tàn là vì dân: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo (Bình Ngô đại cáo). Ông không phải là kẻ hiếu chiến mà luôn đặt nhân nghĩa lên đầu.Xem thêm: Viết bài giới thiệu về Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc
"Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức"
(Bình Ngô đại cáo)
Ông ra làm quan với mục đích là lo cho dân có cuộc sống ấm êm như thời vua Nghiêu, vua Thuấn:
"Đọc sách thời thông đòi nghĩa sách
Chăn dân mạ nỡ mất lòng dân
Dân Nghiên Thuấn, vua Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đã phỉ sở nguyền"
Yêu quê hương, yêu cảnh dân dã nên ngay cả trong những bài thơ tả cảnh của ông ta vẫn thấy bóng dáng cảnh sống bình dị ở thôn quê, cảnh sinh hoạt của nhân dân, cuộc sống ấm êm được ông ca ngợi. Trải qua mười năm sống trong dân, mười năm chiến dấu nhờ sức dân, Nguyễn Trãi đã trở thành người cha hết lòng vì những đứa con đỏ dân đen. Nguyễn Trãi là một thi sĩ tài hoa, một chiến sĩ lỗi lạc, luôn đặt tư tưởng nhân nghĩa lên đầu. Ông thực xứng đáng với lời ca ngợi của Lê Thánh Tông:
"Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo"
(Ức Trai lòng dạ sáng sao khuê)
Người chiến sĩ là người chiến đấu bảo vệ cuộc sống anh lành của nhân dân. Thi sĩ là người làm thơ về cuộc sống, về cảnh vật quê hương đất nước. Trong con người Nguyễn Trãi, nhà chiến sĩ và Ức Trai luôn tồn tại song song bên nhau.
Có thể thấy Nguyễn Trãi có một tấm lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến. Khi giúp vua cai trị đất nước ông luôn đưa ra những lời khuyên, lời góp ý để vua có những chính sách tốt nhất cho dân. Trong thơ văn ông luôn ca ngợi con người, thiên nhiên, dựa vào thơ văn mà bày tỏ tâm trạng của mình với dân với nước. Vì vậy người ta nói Nguyễn Trãi vừa là chiến sĩ vừa là thi sĩ thật không sai.
Nguồn:
|
Nói về Nguyễn Trãi, vua Lê Thánh Tông đã mệnh danh ông là ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo. Bằng tài năng và nhân cách của Nguyễn Trãi, anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên
Gợi ý
Trước nay, có rất nhiều nhận định về tài năng và nhân cách Nguyễn Trãi – vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Song, có lẽ lời ngợi ca cửa vua Lê Thánh Tông là xác đáng hơn cả:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo
(Lòng ức Trai toả rạng văn chương)
Nguyễn Trãi sinh ra trong một thời đại nhiều biến động. Triều Trần suy vi, cha con Hồ Quý Ly nỗ lực phục hưng đất nước nhưng không được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Trong khi đó, giặc Minh lại mang quần cướp nước ta. Không chịu khuất phục quân xâm lược, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Từ Đông Quan, Nguyễn Trãi tìm vào Lam Sơn phò tá Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa toàn thắng, Nguyễn Trãi hăm hở tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Nhưng những mâu thuẫn nội bộ triều đình phong kiến đã dẫn đến việc sát hại các công thần, bản thân Nguyễn Trãi bị nghi oan, bị bắt giam. Sau ông được tha về nhưng không còn được tin dùng như trước nữa. Ông đành lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1440, ông lại được Lê Thái Tông mời ra giúp việc nước. Năm 1442, oan án Lệ Chi Viên bỗng đổ ập xuống gia đình, dòng họ ông. Và phải hai mươi hải năm sau, Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi. Cuộc đời và những cống hiến của Nguyễn Trãi đã minh chứng cho lời nhận định của Lê Thánh Tông. Nhưng nếu chỉ đọc những sáng tác văn chương, cảm nhận tài năng, nhân cách của Nguyễn Trãi thôi chúng ta cũng đủ hình dung rõ nét về tấm lòng trong sáng tựa sao Khuê của ông.
Nói ức Trai tâm. thượng quang khuê tảo có nghĩa là tâm hồn, nhân cách, tài năng con người ông toả sáng trong mỗi con chữ, in dấu đậm nét trong các sáng tác văn học. Ớ Nguyễn Trãi, tài năng và nhân cách luôn đi liền với nhau để cùng làm nên những sáng tác vãn học xuất sắc. Thơ văn Nguyễn Trãi trước hết là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân. Vượt lên khỏi tư tưởng trung hiếu hẹp hòi, Nguyễn Trãi đặt lòng yêu nước, thương dân lên đầu tiên:Xem thêm: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (Có dàn ý chi tiết)Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho dân được sống yên ổn – đó chính là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt cuộc đời ông. Thời binh đao loạn lạc, nỗi đau đầu tiên của Nguyễn Trãi là nỗi đau khi chứng kiến cảnh dân ta bị tàn sát dã man:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Cảnh tượng đau xót khôn cùng ấy đã trở thành động lực khiến ngòi bút người nghệ sĩ trở thành thứ vũ khí có sức mạnh hơn mười vạn quân chĩa thẳng vào quân giặc hung ác. Quân trung từ mệnh tập với chiến lược “công tâm” đã khiến quân giặc phải nể sợ mà qui hàng.
Yêu dân, thương dân như con nên chính Nguyễn Trãi là người hiểu dân hơn bất cứ ai. Ông nhìn thấy sức mạnh của dân:
Có lật thuyền mới biết sức dân như nước
Và ông cảm phấn khởi khôn cùng trước sự đoàn kết của nhân dân:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới.
Đất nước sạch bóng quân thù, nhân dân được trở lại cuộc sống yên bình, những tưởng Nguyễn Trãi sẽ thanh thản, không còn phải lo nghĩ gì cho dân, cho nước, Nhưng tấm lòng nặng nghĩa, nặng tình với dân với nước ấy có lúc nào nguôi nghỉ? Giữa cảnh thanh bình, ông lại mong ước có một chế độ sáng suốt để muôn dân trăm họ được sống hạnh phúc:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ, khắp đòi phương.
Để rồi cũng chính con người ấy không biết đã bao đêm thao thức vì dân, vì nước:Xem thêm: Tưởng tượng 20 năm sau về thăm lại trường cũ.Bui có một lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
Vẻ đẹp trong nhân cách sáng ngời của Nguyễn Trãi không chỉ được thể hiện ở lòng yêu nước mà còn ở lòng yêu thiên nhiên tha thiết. Thơ Nguyễn Trãi đầy tràn đầy tình yêu thiên nhiên. Với ông, thiên nhiên là họ hàng, bầu bạn:
Núi láng giềng, chim bầu bạn,
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
Ông yêu quí và nâng niu cảnh vật:
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá,
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.
Và đặc biệt, với thiên nhiên, Nguyễn Trãi luôn có một sự đồng cảm sâu sắc:
Vỉ ai cho cái đỗ quyên kêu,
Cho ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hoè hoa chen bóng lục,
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
Chan hoà với thiên nhiên là vậy nhưng Nguyễn Trãi hiếm có những phút giây thanh thản trong lòng. Cuộc đời nhiều thăng trầm, nghi hoặc khiến lúc nào ông cũng phải trăn trở, ngẫm nghĩ:
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng,
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi.
Thực chất đó là những trải nghiệm đau đớn trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Tất nhiên, viết những dòng thơ như thế, chắc chắn ông không khỏi ngậm ngùi. Nhưng đọc chúng, người ta có thể hình dung rõ nét sự thanh sạch, trong sáng trong tâm hồn con người đã hết lòng vì dân vì nước.
Ngợi ca ức Trai tâm thượng quang khuê tảo, ắt hẳn Lê Thánh Tông còn muốn để cao tài năng của thi nhân Nguyễn Trãi.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Trãi là một tác gia văn học xuất sắc. Ông sáng tác trên nhiều thể loại văn học và ở thể loại nào, cũng có những kiệt tác. Về chữ Hán, Nguyễn Trãi có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Úc Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, Văn loại. Quân trung từ mệnh tập là áng tập văn chính luận phản ánh đầy đủ chiến lược “công tâm” của nghĩa quân Lam Sơn. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng, đanh thép, được mệnh danh là áng “thiên cổ hùng văn”. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú vừa trữ tình, vừa trí tuệ, vừa hào hùng, vừa lãng mạn. Trong đó nổi bật là những bài Cửa biển Bạch Đằng, Đóng cửa biển, Mộng trong núi… Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Trãi có Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn. Những bài thơ này giàu trí tuệ, sâu sắc, thẫm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, được viết bằng thứ ngôn ngữ tinh luyện, trong sáng, đăng đôi một cách cổ điển:Xem thêm: Phân tích nhân vật người lái đò trong Người đò sông Đà của Nguyễn Tuân. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) dể thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của ông trước và sau Cách mạng tháng TámThạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tin mùi hương…
Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã trở thành người đầu tiên đưa tục ngữ vào thơ ca. Ông cũng là người đầu tiên đưa các hình ảnh thân thuộc như cây chuối, lảnh mùng tơi, bè rau muống… vào thơ bên cạnh những hình ảnh ước lệ trong văn thơ cổ như tùng, cúc, trúc, mai…
Khó có thể hình dung một con người luôn bận rộn với công việc triều chính lại có tnể sáng tác nhiều và có nhiều sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật viết đến như thế. Tất cả những gì Nguyễn Trãi đã thể hiện trong văn chương và bằng văn chương đã minh chứng một cách xác đáng cho tấm lòng, tâm hồn Nguyễn Trãi; ớ con người toàn tài hiếm có này, tài năng và nhân cách đã hoà làm một để toả rạng trong mỗi con chữ, lời thơ.
Qua lời nhận xét ngợi khen, có thể cảm nhận lòng yêu mến, tôn trọng mà Trần Thánh Tông đã dành cho Nguyễn Trãi. Cho đến tận bây giờ và chắc chắn, đến mãi mãi sau này, Nguyễn Trãi và những sáng tác của ông sẽ còn vượt qua sự kiểm duyệt khắc nghiệt của thời gian, để luôn toả rạng trên bầu trời văn chương nghệ thuật.
Vanmau.edu.vn
|
Nói về Nguyễn Trãi, vua Lê Thánh Tông đã mệnh danh ông là ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo. Bằng tài năng và nhân cách của Nguyễn Trãi, anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên
Gợi ý
Trước nay, có rất nhiều nhận định về tài năng và nhân cách Nguyễn Trãi – vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Song, có lẽ lời ngợi ca cửa vua Lê Thánh Tông là xác đáng hơn cả:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo
(Lòng ức Trai toả rạng văn chương)
Nguyễn Trãi sinh ra trong một thời đại nhiều biến động. Triều Trần suy vi, cha con Hồ Quý Ly nỗ lực phục hưng đất nước nhưng không được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Trong khi đó, giặc Minh lại mang quần cướp nước ta. Không chịu khuất phục quân xâm lược, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Từ Đông Quan, Nguyễn Trãi tìm vào Lam Sơn phò tá Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa toàn thắng, Nguyễn Trãi hăm hở tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Nhưng những mâu thuẫn nội bộ triều đình phong kiến đã dẫn đến việc sát hại các công thần, bản thân Nguyễn Trãi bị nghi oan, bị bắt giam. Sau ông được tha về nhưng không còn được tin dùng như trước nữa. Ông đành lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1440, ông lại được Lê Thái Tông mời ra giúp việc nước. Năm 1442, oan án Lệ Chi Viên bỗng đổ ập xuống gia đình, dòng họ ông. Và phải hai mươi hải năm sau, Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi. Cuộc đời và những cống hiến của Nguyễn Trãi đã minh chứng cho lời nhận định của Lê Thánh Tông. Nhưng nếu chỉ đọc những sáng tác văn chương, cảm nhận tài năng, nhân cách của Nguyễn Trãi thôi chúng ta cũng đủ hình dung rõ nét về tấm lòng trong sáng tựa sao Khuê của ông.
Nói ức Trai tâm. thượng quang khuê tảo có nghĩa là tâm hồn, nhân cách, tài năng con người ông toả sáng trong mỗi con chữ, in dấu đậm nét trong các sáng tác văn học. Ớ Nguyễn Trãi, tài năng và nhân cách luôn đi liền với nhau để cùng làm nên những sáng tác vãn học xuất sắc. Thơ văn Nguyễn Trãi trước hết là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân. Vượt lên khỏi tư tưởng trung hiếu hẹp hòi, Nguyễn Trãi đặt lòng yêu nước, thương dân lên đầu tiên:Xem thêm: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (Có dàn ý chi tiết)Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho dân được sống yên ổn – đó chính là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt cuộc đời ông. Thời binh đao loạn lạc, nỗi đau đầu tiên của Nguyễn Trãi là nỗi đau khi chứng kiến cảnh dân ta bị tàn sát dã man:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Cảnh tượng đau xót khôn cùng ấy đã trở thành động lực khiến ngòi bút người nghệ sĩ trở thành thứ vũ khí có sức mạnh hơn mười vạn quân chĩa thẳng vào quân giặc hung ác. Quân trung từ mệnh tập với chiến lược “công tâm” đã khiến quân giặc phải nể sợ mà qui hàng.
Yêu dân, thương dân như con nên chính Nguyễn Trãi là người hiểu dân hơn bất cứ ai. Ông nhìn thấy sức mạnh của dân:
Có lật thuyền mới biết sức dân như nước
Và ông cảm phấn khởi khôn cùng trước sự đoàn kết của nhân dân:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới.
Đất nước sạch bóng quân thù, nhân dân được trở lại cuộc sống yên bình, những tưởng Nguyễn Trãi sẽ thanh thản, không còn phải lo nghĩ gì cho dân, cho nước, Nhưng tấm lòng nặng nghĩa, nặng tình với dân với nước ấy có lúc nào nguôi nghỉ? Giữa cảnh thanh bình, ông lại mong ước có một chế độ sáng suốt để muôn dân trăm họ được sống hạnh phúc:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ, khắp đòi phương.
Để rồi cũng chính con người ấy không biết đã bao đêm thao thức vì dân, vì nước:Xem thêm: Tưởng tượng 20 năm sau về thăm lại trường cũ.Bui có một lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
Vẻ đẹp trong nhân cách sáng ngời của Nguyễn Trãi không chỉ được thể hiện ở lòng yêu nước mà còn ở lòng yêu thiên nhiên tha thiết. Thơ Nguyễn Trãi đầy tràn đầy tình yêu thiên nhiên. Với ông, thiên nhiên là họ hàng, bầu bạn:
Núi láng giềng, chim bầu bạn,
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
Ông yêu quí và nâng niu cảnh vật:
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá,
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.
Và đặc biệt, với thiên nhiên, Nguyễn Trãi luôn có một sự đồng cảm sâu sắc:
Vỉ ai cho cái đỗ quyên kêu,
Cho ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hoè hoa chen bóng lục,
Thức xuân một điểm não lòng nhau.
Chan hoà với thiên nhiên là vậy nhưng Nguyễn Trãi hiếm có những phút giây thanh thản trong lòng. Cuộc đời nhiều thăng trầm, nghi hoặc khiến lúc nào ông cũng phải trăn trở, ngẫm nghĩ:
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng,
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi.
Thực chất đó là những trải nghiệm đau đớn trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Tất nhiên, viết những dòng thơ như thế, chắc chắn ông không khỏi ngậm ngùi. Nhưng đọc chúng, người ta có thể hình dung rõ nét sự thanh sạch, trong sáng trong tâm hồn con người đã hết lòng vì dân vì nước.
Ngợi ca ức Trai tâm thượng quang khuê tảo, ắt hẳn Lê Thánh Tông còn muốn để cao tài năng của thi nhân Nguyễn Trãi.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Trãi là một tác gia văn học xuất sắc. Ông sáng tác trên nhiều thể loại văn học và ở thể loại nào, cũng có những kiệt tác. Về chữ Hán, Nguyễn Trãi có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Úc Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, Văn loại. Quân trung từ mệnh tập là áng tập văn chính luận phản ánh đầy đủ chiến lược “công tâm” của nghĩa quân Lam Sơn. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng, đanh thép, được mệnh danh là áng “thiên cổ hùng văn”. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú vừa trữ tình, vừa trí tuệ, vừa hào hùng, vừa lãng mạn. Trong đó nổi bật là những bài Cửa biển Bạch Đằng, Đóng cửa biển, Mộng trong núi… Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Trãi có Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn. Những bài thơ này giàu trí tuệ, sâu sắc, thẫm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, được viết bằng thứ ngôn ngữ tinh luyện, trong sáng, đăng đôi một cách cổ điển:Xem thêm: Phân tích nhân vật người lái đò trong Người đò sông Đà của Nguyễn Tuân. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) dể thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của ông trước và sau Cách mạng tháng TámThạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tin mùi hương…
Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã trở thành người đầu tiên đưa tục ngữ vào thơ ca. Ông cũng là người đầu tiên đưa các hình ảnh thân thuộc như cây chuối, lảnh mùng tơi, bè rau muống… vào thơ bên cạnh những hình ảnh ước lệ trong văn thơ cổ như tùng, cúc, trúc, mai…
Khó có thể hình dung một con người luôn bận rộn với công việc triều chính lại có tnể sáng tác nhiều và có nhiều sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật viết đến như thế. Tất cả những gì Nguyễn Trãi đã thể hiện trong văn chương và bằng văn chương đã minh chứng một cách xác đáng cho tấm lòng, tâm hồn Nguyễn Trãi; ớ con người toàn tài hiếm có này, tài năng và nhân cách đã hoà làm một để toả rạng trong mỗi con chữ, lời thơ.
Qua lời nhận xét ngợi khen, có thể cảm nhận lòng yêu mến, tôn trọng mà Trần Thánh Tông đã dành cho Nguyễn Trãi. Cho đến tận bây giờ và chắc chắn, đến mãi mãi sau này, Nguyễn Trãi và những sáng tác của ông sẽ còn vượt qua sự kiểm duyệt khắc nghiệt của thời gian, để luôn toả rạng trên bầu trời văn chương nghệ thuật.
Vanmau.edu.vn
|
Nói về tinh thần vượt khó, tục ngữ khuyên chúng ta rằng: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Em hiểu câu nói trên như thế nào
Gợi ý
Trong cuộc sống, một trong những bí quyết giúp chúng ta thành công là vượt khó. Trên đường đời chúng ta đâu chỉ có hoa thơm cỏ lạ, mà trước mắt là bao chông gai. Để đạt được thành công của mình đòi hỏi con người ta phải có nghị lực để vượt qua khó khăn thử thách. Vì vậy, câu tục ngữ là lời khuyên, là bài học đắt giá cho mỗi chúng ta:
Lửa thử vàng, gian nan thử sức
Thật vậy, ông cha ta đưa ra hình ảnh hết sức gần gũi quen thuộc. Muốn xem tuổi vàng thì phải thử vàng bằng lửa, ngọn lửa càng cao độ chừng nào thì tuổi vàng càng rõ chừng ấy. Vàng được lửa đốt thì mới định được giá trị của nó. Con người cũng vậy, trước khó khăn mới biết được sức mình, nguy hiểm mà vẫn tiến lên không lùi bước mới có nghị lực.
Cuộc sống không phải là thảm đỏ, hoa thơm nhờ có ý chí bản thân sẽ vượt qua tất cả. Trước gian lao thử thách con người phải có nghị lực và tài năng. Tài năng chính là biết được sức mình và biết được phải đi bằng con đường nào, lựa chọn giải pháp nào để hoàn thành công việc. Trước bài toán khó nếu ta ỷ lại hoặc trông cậy vào người khác thì sẽ chẳng bao giờ tìm được cách giải. Hơn thế ý chí sẽ bị nhụt đi, lòng kiên trì bị thui chột. Hầu như trong cuộc sống nhân dân ta đứng trước bao khó khăn thử thách chông lại thiên tai định họa. Trước khó khăn thử thách như vậy, bằng ý chí nghị lực của mình, mọi người cùng đoàn kết thương yêu chung sức chung lòng chinh phục thiên nhiên. Bằng lòng dũng cảm, không ngại khó khăn, thậm chí đau thương chết chóc, dân tộc ta đánh đuổi được giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, xây dựng nước Việt Nam ngày một giàu đẹp.Xem thêm: Văn tự sự
Bác Hồ – lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam ta là tấm gương sáng ngời về tinh thần vượt khó, nghị lực phi thường và lòng dũng cảm vô song:
Không có việc gi khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
Câu tục ngữ là chân lí sống, để chúng ta mỗi người phải rèn luyện năng lực, tài năng của mình. Những khó khăn trong cuộc sống nhiều vô kể nhưng ta, sẽ đạt được thành công mỗi khi chúng ta có lòng dũng cảm vượt khó. Đã có không ít những kẻ thất bại trong công danh và sự nghiệp chỉ vì nản chí, nản lòng. Đó chính là khó ở lòng người, đứng trước chông gai thường hay run sợ.
Đã có biết bao người suốt ngày giam mình trong phòng thí nghiệm để tìm ra những ứng dụng phục vụ cuộc sống, bao con người vượt lên bệnh tật để sống một cuộc sống có ích cho xã hội. Đó chính là nhờ ý chí nhờ nghị lực để đạt tới thành công trong cuộc sống.
Tóm lại câu tục ngữ là lời khuyên sâu sắc giúp con người vượt trở ngại để đạt tới đích. Trong xã hội hiện nay, thế hệ trẻ chúng ta hãy bằng chính bản lĩnh, sức lực và tài năng của mình vượt lên làm chủ cuộc đời, đạt đến những đỉnh cao trong công danh và sự nghiệp.Xem thêm: Giải thích vì sao Nguyễn Khải lại gọi bà Hiền là hạt bụi vàng trong tác phẩm Một người Hà NộiVanmau.edu.vn
|
Talking about the spirit of overcoming difficulties, proverbs advise us: "Fire tests gold, hardship tests strength." How do I understand the above statement?
Suggest
In life, one of the secrets to helping us succeed is overcoming difficulties. On our life's path, there are not only fragrant flowers and strange grasses, but in front of us are many thorns. Achieving success requires people to have the strength to overcome difficulties and challenges. Therefore, the proverb is advice and a valuable lesson for each of us:
Fire proves gold, arduous challenge
Indeed, our ancestors present a very familiar and familiar image. If you want to see the golden age, you must test the gold with fire. The higher the fire, the clearer the golden age. Only when gold is burned by fire can its value be determined. Humans are the same, in the face of difficulties, they know their own strength; in danger, they still move forward without backing down to have strength.
Life is not a red carpet, fragrant flowers thanks to self-will will overcome everything. In the face of hardships and challenges, people must have strength and talent. Talent is knowing your own strength and knowing which path to take, which solution to choose to complete the job. Faced with a difficult problem, if we rely or rely on others, we will never find a solution. Moreover, the will will be weakened and perseverance will be diminished. In most of our lives, our people face many difficulties and challenges to fight against natural disasters. Faced with such difficulties and challenges, with their will and strength, everyone unites in love and works together to conquer nature. With courage, not afraid of difficulties, even pain and death, our people were able to expel foreign invaders from their shores, building Vietnam to become increasingly rich and beautiful. See more: Narrative literature
Uncle Ho - the beloved leader of our Vietnamese people is a shining example of the spirit of overcoming difficulties, extraordinary energy and unparalleled courage:
There's nothing difficult
Only fear unstable heart
Digging up mountains and filling in seas
Surely made a firm decision
The proverb is a living truth, so each of us must practice our abilities and talents. The difficulties in life are countless, but we will achieve success whenever we have the courage to overcome difficulties. There have been many people who failed in their fame and career just because of discouragement and discouragement. That is the difficulty in the human heart, when faced with thorns, one often trembles in fear.
There have been so many people locked in the laboratory all day long to find applications to serve life, so many people overcoming illness to live a life useful to society. It is thanks to the will and strength to achieve success in life.
In short, proverbs are profound advice to help people overcome obstacles to reach their destination. In today's society, our young generation should use their own bravery, strength and talent to master their lives and reach the pinnacles of fame and career. See more: Explain why Nguyen Khai called Ms. Hien a speck of gold dust in the work One person from HanoiVanmau.edu.vn
|
Đề bài: Anh hãy viết một bài văn ngắn nói về vai trò của sách đối với thanh niên ngày nay
Xã hội ngày nay đã phát triển và thay đổi rất nhiều,dấu vết thời xưa cũng đã dần phai nhoà.Vậy tại sao chúng ta có thể biết được xã hội,con người cuộc sống ngày xưa như thế nào.Để biết được tất cả những điều đó chúng ta phải cần đến sách Vậy sách có vai trò gì với nhân loại.
Sách đã đi vào cuộc sống của chúng ta từ rất lâu rồi.Nó đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi người.Đọc sách giúp ta tích luỹ được nhiều kinh nghiệm,mở mang kiến thức và đặc biệt đọc sách giúp ta cảm thấy thoải mái,yêu đời hơn.Giống như Môngtexkiơ đã nói:“thích đọc sách tức là biết đánh đổi những giờ phút buồn tẻ không thể tránh được trong cuộc đời lấy những giờ phút kì thú”.Đọc sách còn có thể làm thay đổi cả một con người,một cuộc đời.Nói tóm lại đọc sách có rất nhiều lợi ích.
Đọc sách để thành công như Chủ tịch Mao Trạch Đông, như Thủ tướng Chu Ân Lai. Đọc sách để trở thành những nhà lãnh đạo như cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan hay thống đốc bang giàu có hàng đầu của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ – California như Arnold Schwazenegger. Mỗi lần tìm hiểu về những người thành đạt, sự liên quan giữa sự thành đạt và sách, chúng ta lại càng hiểu thêm mối quan hệ này, càng hiểu thêm giá trị của sách
Xem thêm: Phân tích tâm trạng và ý nghĩ của người mẹ trong “Cổng trường mở ra” của Lý LanTuy nhiên,để đạt được hiệu quả tốt,cần phải có những quyển sách hay,phù hợp với lứa tuổi, và việc cần chú trọng nhiều nhất đó chính là cách đọc sách.Đọc sách phải nghiên cứu,suy ngẫm tìm tòi,chắt lọc những điều hay để áp dụng vào cuộc sống chứ không phải đọc để lấy thành tích.Đọc sách nhiều mà không hiểu chỉ làm cho chúng ta cảm thấy thêm mệt mỏi,chứ không giúp chúng ta mở mang thêm kiến thức.Vì vậy cầm trong tay một quyển sách hay chưa phải là tốt,mà tất cả phụ thuộc vào việc chúng ta có biết đọc quyển sách đó hay không.
Hiện nay sách tràn ngập khắp mọi nơi.Nhưng để tìm được một quyển sách hay,phù hợp với hoàn cảnh lứa tuổi thì không phải là dễ.Nếu muốn tìm được một quyển sách vừa ý chúng ta phải mất hàng giờ ở nhà sách để tìm kiếm.Công việc này mất rất nhiều thời gian và hầu như chẳng mấy lần mang lại được hiệu quả.Vì vậy “Khi gặp được một quyển sách hay,nên mau liền dù đọc được hay không đọc được,vì sớm muộn gì cũng cần tới nó”đó là câu nói quen thuộc của Churchill Sir Winston.
Sách mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích,nó còn được coi là kho tàng cất giữ di sản tinh thần nhân loại.Biết đọc sách tức là chúng ta đã thoát khỏi sự chán ghét của cuộc sống,và hướng tới một tương lai tươi sáng,tốt đẹp hơn.Sách sẽ trở thành một người bạn của tất cả những ai trân trọng nó.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Cảm nghĩ về ngày đầu tiên bước vào trường THPT hay nhất
|
Topic: Please write a short essay about the role of books for today's youth
Today's society has developed and changed a lot, and traces of the past have gradually faded. So how can we know what society and people lived like in the past? To know everything For those things, we need books. So what role do books play for humanity?
Books have come into our lives for a long time. They have become an indispensable spiritual food for everyone. Reading books helps us accumulate a lot of experience, expand our knowledge, and especially reading books. helps us feel more comfortable and love life more. Like Monttexkie said: "liking to read books means knowing how to exchange the inevitable boring moments in life for exciting moments". Reading books also has can change a person, a life. In short, reading books has many benefits.
Read books to be successful like Chairman Mao Zedong, like Prime Minister Zhou Enlai. Read books to become leaders like former US President Ronald Reagan or the governor of the richest state of the United States - California like Arnold Schwazenegger. Every time we learn about successful people and the relationship between success and books, we understand this relationship more and more, and understand the value of books more and more.
See more: Analyzing the mother's mood and thoughts in "The school gate opens" by Ly Lan. However, to achieve good results, it is necessary to have good books, suitable for the age group, and things to pay attention to. The most important thing is how to read books. Reading books requires research, reflection, exploration, and filtering good things to apply to life, not reading to get achievements. Reading a lot of books without understanding only makes you miserable. We feel more tired, but it doesn't help us expand our knowledge. So holding a good book in hand is not good, but it all depends on whether we know how to read that book or not. .
Nowadays, books are everywhere. But finding a good book suitable for all ages is not easy. If we want to find a satisfactory book, we have to spend hours at the bookstore to read it. Searching. This job takes a lot of time and is rarely effective. Therefore, "When you come across a good book, you should read it quickly, whether you can read it or not, because sooner or later it will happen." need it" is a familiar saying of Churchill Sir Winston.
Books bring us many benefits, they are also considered a treasure trove of humanity's spiritual heritage. Knowing how to read books means we have escaped the boredom of life, and are looking forward to a bright future. brighter, better. The book will become a friend of everyone who appreciates it.
Source Edufly
See more: Best thoughts on the first day of entering high school
|
Năm 2014, Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) khởi xướng chương trình vận động sống tử tế – một chương trình đang nhận được sự hưởng ứng tích cực của cộng đồng.
Hướng dẫn
– Đời sống xã hội vốn phức tạp mà ở đó, cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác luôn đan xen, đấu tranh với nhau. Nếu xét toàn cục, có thể thấy xu thế thắng bao giờ cũng thuộc về phía cái đẹp, cái thiện. Chính điều này thúc đẩy xã hội phát triển để ánh sáng văn minh toả chiếu mọi nơi. Muốn cho cái đẹp, cái thiện thắng thế, từng con người trong xã hội phải có những hành động cụ thể để làm lan toả những điều tốt lành, sống tử tế – chương trình vận động của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) – chính là một trong nhũng hành động cụ thể mà chúng ta muốn thấy, muốn có đó.
– Chúng ta đang chứng kiến sự suy thoái của nhiều giá trị đạo đức, do một loạt nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá phức tạp đưa đến. Không ít khẩu hiệu to tát giờ đây đã bị thờ ơ, khó có khả năng vực dậy “dân khí” hay nền “luân lí xã hội” (chữ của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh). Phải chăng, đây là lúc chúng ta nên điều chỉnh các chương trình vận động, làm sao để chúng đánh thức lưong tâm của mỗi con người, khơi dậy những “mầm thiện” còn tồn tại rụt rè hay bị che phủ, khuất lấp đâu đó. Rất có thể, Sống tử tế là một chương trình hành động sát hợp với thực tiễn, có thể thu hút được mọi người cùng tham gia, không cần nhiều lắm những phân tích lí luận cao siêu. Chẳng phải hai chữ “tử tế” rất đỗi bình dị luôn xuất hiện hằng ngày trên cửa miệng của chúng ta hay sao?
– Thế nào là sống tử tế. Chắc chắn có nhiều lời giải đáp khác nhau về vấn đề này và tất cả chúng đều có cơ sở riêng không dễ bác bỏ. Ở đây, cần chấp nhận những giải thích khác nhau, và đó cũng chính là một biểu hiện cụ thể của cái gọi là sự tử tế. Tuy vậy, chúng ta cũng nên trở lại với cách lí giải nôm na về mấy chữ này: sống tử tế là sống tốt với xung quanh, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ mọi người, không chỉ biết đến cá nhân mình. Sống tử tế thể hiện qua những việc tử tế, không loại trừ việc tưởng như nhỏ nhặt nhất. “Tích tiểu thành đại”, những việc tử tế nhỏ góp lại thành việc tử tế lớn, làm phục hồi các giá trị đạo đức chân chính, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội tốt đẹp.
Xem thêm: Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... Sông Mà gầm lên khúc độc hành". (Quang Dũng - Tây Tiến)– Ai cũng có thể có cơ hội làm được những việc tử tế nếu thường xuyên nghĩ đến nó, đến môi trường sống chung của chúng ta. Từng người, tại địa bàn sống cụ thể và ở từng tư cách, cương vị, lĩnh vực hoạt động cụ thể, sẽ có những việc làm tử tế không giống nhau. Việc tử tế đem lại niềm vui cho những người sống quanh mình và cũng đem lại niềm vui cho chính mình nữa. Đừng nghĩ rằng việc tử tế chỉ có ích với cộng đồng. Thực ra, nó cũng có ích đối với mỗi cá nhân người làm việc tử tế, thể hiện quá trình tu dưỡng, tự hoàn thiện nhân cách không ngừng của họ. Nếu tất cả mọi người đều biết làm việc tử tế và sống tử tế thì xã hội trở nên lành mạnh biết bao. Làm lan toả lối sống tử tế là con đường dẫn ta tới một xã hội văn minh, biết đề cao sự bình đẳng và biết tôn trọng các giá trị nhân văn, nhân bản.
– Trong chiến lược xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, Sống tử tế không thể là cuộc vận động duy nhất. Dù vậy, ta không thể không chú ý đến tính đại chúng và ý nghĩa khởi đầu của nó. Không phải ngẫu nhiên phong trào Sống tử tế được hưởng ứng rộng rãi. Chuyên mục Việc tử tế của chương trình Chuyển động 24h trên kênh VTV1 – Đài Truyền hình Việt Nam hiện đang hằng ngày giới thiệu, tôn vinh, quảng bá rất nhiều việc tử tế của mọi tầng lớp nhân dân. Có thể xem đó cũng là một việc làm tử tế của một cơ quan truyền thông lớn của nhà nước.
– Trong một môi trường sống đầy rẫy những việc không tử tế thì câu chuyện thực hành sự tử tế không phải không gặp những thách thức. Tuy nhiên, tất cả đều có thể được vượt qua nếu ta còn biết nghĩ đến mọi người. Tất cả chúng ta, không ít thì nhiều, đều từng được hưởng sự tử tế hay ân huệ của cuộc đời. Lẽ nào ý thức về sự đáp đền không mảy may xuất hiện trong ta?
Nguồn: thêm: Phân tích triết lý sống trong Hồn Trương Ba da hàng thịt
|
In 2014, the Institute for Social, Economic and Environmental Studies (iSEE) initiated a kind living advocacy program - a program that is receiving a positive response from the community.
Instruct
– Social life is inherently complex in which beauty and ugliness, good and evil are always intertwined and fighting with each other. If we look at the whole picture, we can see that the winning trend always belongs to the side of beauty and goodness. This is what promotes society's development so that the light of civilization shines everywhere. In order for beauty and goodness to prevail, each person in society must take specific actions to spread good things and live kindly - the campaign program of the Institute of Social, Economic and Social Research. Environment (iSEE) - is one of the specific actions that we want to see and have.
– We are witnessing the decline of many moral values, due to a series of complex economic, political, social and cultural causes. Many great slogans have now been ignored, making it difficult to revive "people's energy" or "social morality" (words of the scholar Phan Chau Trinh). Is this the time we should adjust our campaign programs to awaken the conscience of each person and awaken the "seeds of goodness" that are still timid or hidden? there. Most likely, Living Kindly is an action program that is consistent with reality, can attract everyone to participate, and does not require much advanced theoretical analysis. Don't the two very simple words "kindness" appear every day on our lips?
– What is living kindly? There are certainly many different answers to this issue and they all have their own basis that cannot be easily refuted. Here, it is necessary to accept different explanations, and that is also a specific expression of so-called kindness. However, we should also return to the simple explanation of these words: to be kind is to live well with others, to be willing to share and help everyone, not just ourselves. Living a kind life is expressed through kind deeds, not excluding the seemingly smallest things. "The accumulation of small things becomes great", small acts of kindness add up to become great acts of kindness, restoring true moral values, aiming to build a good social community.
See more: How do you feel about the image of the Tay Tien soldier in the following poem: "The Tay Tien army does not grow hair... Song Ma roars its solo march". (Quang Dung - Tay Tien)– Everyone can have the opportunity to do kind things if they regularly think about it, about our common living environment, each person, in their specific living area and in each position, position, and field of activity Specifically, there will be different acts of kindness. Being kind brings joy to those around you and also brings joy to yourself. Don't think that being kind is only beneficial In fact, it is also beneficial for each individual who works kindly, demonstrating the process of continuously cultivating and self-improving their personality. If everyone knows how to work kindly and live Being kind makes society healthier. Spreading a kind lifestyle is the path that leads us to a civilized society that promotes equality and respects humane values.
– In the strategy of building a fair and compassionate society, Being kind cannot be the only campaign. However, we cannot help but pay attention to its popularity and initial meaning. It is no coincidence that the Live Kindly movement has received widespread support. The Kindness Deeds section of the 24h Motion program on VTV1 channel - Vietnam Television is currently introducing, honoring, and promoting many kind deeds of all classes of people every day. It can also be seen as a kind deed by a major state media agency.
– In a living environment full of unkindness, the story of practicing kindness is not without challenges. However, everything can be overcome if we still think of everyone. All of us, more or less, have experienced kindness or favor in life. Is it possible that the awareness of reciprocation does not appear in us at all?
Source: more: Analysis of the philosophy of life in Truong Ba's Soul as a Butcher
|
Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Dựa vào văn bản Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi hãy làm sáng tỏ nhận định trên
Gợi ý
Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh tan bè lũ xâm lược nhà Minh. Bài cáo ra đời bố cáo với toàn thiên hạ chiến thắng của dân tộc, khẳng định nền độc lâp tự chủ của nước nhà đồng thời cảnh tỉnh ý thức của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.
Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng đoạn trích nêu lên những tiền đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó là chân lí về nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Văn bản được mở đầu bằng những lời văn đầy nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bè lũ xâm lược nói chung.Xem thêm: Em hãy viết đoạn văn nêu ngắn gọn những nét chính trong tiểu sử của Nguyễn Trãi Đoạn trích được nối tiếp bằng những dòng văn đầy tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cỡi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc – Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các triều Triệu, Đỉnh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:Xem thêm: Phân tích hình tượng người ở ẩn trong bài thơ Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ “Sông núi nước Nam” – thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,… Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,… Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.Xem thêm: Suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Qua tác phẩm “Chữ người tử tù” anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ về ý kiến trên Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.
Vanmau.edu.vn
|
Our Dai Viet country is a land filled with national pride. Based on the text Our Dai Viet by Nguyen Trai, please clarify the above statement
Suggest
In the history of national literature, Nguyen Trai's epic poem "Binh Ngo Dai Cao" is considered the second declaration of independence. It is a poem filled with national pride. Just through the excerpt "Our Dai Viet Country" (Literature Textbook 8, volume 2) we can see that clearly.
"Binh Ngo Dai Cao" was born after Le Loi and the Lam Son insurgent army defeated the Ming Dynasty invaders. The article was published to announce to the whole world the victory of the nation, affirming the country's independence and self-reliance while also awakening the consciousness of Ming Dynasty soldiers about the unjust war of invasion of our country.
The text of Our Country is the opening part of the report. Although brief, the excerpt raises basic premises, highlights positive perspectives, and is key to the content of the entire article. Those premises are the truth about humanity and the truth about the independent and sovereign existence of the Dai Viet people.
The text opens with these words full of humanity:
“The act of kindness consists in keeping the people at peace,
"The military accepts punishment first, then worries about eliminating violence."
The core of Nguyen Trai's benevolent ideology is "peace the people" and "eliminate violence". To pacify the people is to make the people enjoy peace and happiness. If you want to calm the people, you must first eliminate the brutal people. The people the author talks about here are the people of Dai Viet who are suffering under the yoke of the Ming invaders. Thus, Nguyen Trai's concept of benevolence is associated with patriotism, associated with the nation and people. The tyrants that the author talks about here are none other than the Ming invaders in particular and the invaders in general. See more: Please write a paragraph briefly stating the main features of Minh's biography. Nguyen Trai The excerpt is followed by proud lines:
“Like our Dai Viet country from before
Capital claims to be a long-standing civilization
Mountains and rivers have been divided
North and South customs are also different
From Trieu Dinh Ly Tran, many generations built independence
Along with the Han Dynasty, Song Yuan, each side claimed the title of emperor
Although strength and weakness are different at different times
"There are always heroes in every generation"
To assert the nation's independence and sovereignty, Nguyen Trai relied on factors such as: long-standing civilization, territorial boundaries, customs, traditions, history, and regime. With these basic elements, the author has given a fairly complete concept of nation and nation.
The persuasiveness of Nguyen Trai's political writing lies in the close combination of reason and practice. That's right! Hero Nguyen Trai confidently affirmed the long-standing cultural tradition of our country. And indeed we are very proud because in fact:
The mountains and rivers have been divided
North and South customs are also different
Our people have sovereignty and have their own customs and traditions, creating two distinct North and South regions. We have a strong independence built with glorious history. Hung, along with the Han, Tang, Song, and Yuan dynasties in the North, are the Trieu, Dinh, Ly, and Tran dynasties in the South. Moreover, for many generations: See also: Analysis of the image of the hidden person in the poem Nhan (Nguyen Binh Khiem) Although strong and weak at different times
There are always heroes in every generation
Compared to the sense of nationhood in the nation's first declaration of independence - the poem "Southern Rivers and Mountains" - in this work by Nguyen Trai, we see that it has both inheritance and development and perfection. The sense of national independence expressed in the article Rivers and Mountains of the South is determined in two aspects: territory and sovereignty; In the article Our Country Dai Viet, national consciousness has developed highly, deeply and comprehensively. In addition to territory and sovereignty, the sense of national independence is also expanded and supplemented with new elements: a long-standing civilization, its own customs and traditions, and heroic historical traditions. It can be said that national consciousness in the 15th century developed much more deeply and comprehensively than in the 10th century.
In the text "Our Dai Viet Country", the author uses many layers of words to express the obvious, long-standing nature of our Dai Viet country. Words such as: from before, originally claimed, long time ago, divided, also different,... Besides, the comparison method combined with listing also makes the paragraph highly effective in argumentation (the author puts our country On par with China in many aspects such as: political level, culture, etc. In particular, parallel sentences running consecutively in parallel also help to show the artistic content and truth that the author wants to affirm. more firmly and clearly. See more: Thinking about beauty is a prominent feature in Nguyen Tuan's work. Through the work "Letter from a death row prisoner", please express your thoughts on the above opinion As the opening text of Nguyen Trai's epic poem "Binh Ngo Dai Cao", the text "Our Dai Viet country" affirmed the ideals of patriotism and love for the people of the leaders of the Lam uprising. Son. Moreover, the excerpt also affirms the nation's position in many aspects, thereby demonstrating the author's boundless national pride.
Vanmau.edu.vn
|
Nếu anh (chị) không trúng tuyển vào trường đại học
Hướng dẫn
Trọng tâm của bài luận là những quan niệm, suy nghĩ của bản thân về vấn đề trúng tuyển, không trúng tuyển đại học hiện nay. Có thểtham khảo gợi ý sau:
– Giới thiệu sơ lược quan niệm chung của xã hội Việt Nam đối với việc trúng tuyển đại học hiện nay. Trong những người tham dự kì thi tuyển sinh đại học, có một bộ phận không nhỏ sẽ không trúng tuyển và rất có thể anh (chị) là một trong những HS đó…
– Phân tích các quan niệm xã hội về vấn đề đỗ trượt đại học:
+ Các bậc phụ huynh và đông đảo HS đều đặc biệt coi trọng kết quả của kì thi này, coi đó là cánh cửa mở ra tương lai tốt đẹp nhất cho mỗi con người.
+ Những HS trượt trong kì thi đại học thường bị coi là thất bại; gia đình và bản thân họ thường buồn phiền; thậm chí có người chán nản, tuyệt vọng.
– Bàn luận, mở rộng vấn đề:
+ Coi trọng việc học đại học là một quan niệm tích cực. Quan niệm chung này bắt nguồn từ truyền thống coi trọng tri thức, vì thực tế những thanh niên tốt nghiệp đại học có nhiều cơ hội tìm việc làm và tạo lập sự nghiệp. Mặt khác, cách tuyển dụng nhân lực ở nước ta còn nặng về bằng cấp.
Xem thêm: Từ chuyện gia đình trong các tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), bàn về vai trò của gia đình trong đời sống con người+ Tuy nhiên, quan niệm đó có nhiều bất cập. Trên thực tế, không phải ai trúng tuyển đại học cũng đều trưởng thành về nhân cách và thành đạt về sự nghiệp. Đã có không ít sinh viên ra trường khó tìm được việc làm, có cả những sinh viên rơi vào các tệ nạn xã hội… Ngược lại, nhiều bạn trẻ không có cơ hội vào đại học đã thành công bằng con đường học nghề, làm nghề… Trên thế giới có không ít tấm gương thành đạt bằng con đường tự học trên trường đời, mở cho mình một lối đi riêng…
– Liên hệ bản thân: Nếu bản thân không trúng tuyển vào trường đại học, anh (chị) dự kiến sẽ làm gì troug tương lai? Ôn luyện để tham dự kì thi năm tới hay lựa chọn một con đường khác phù hợp với điều kiện và sở trường của mình?
+ Đỗ đại học là một kết quả đáng tự hào, khích lệ nhưng không phải là con đường duy nhất dẫn đến thành công. Nếu trượt đại học, mỗi bạn trẻ đều có thể tự tìm cho mình một hướng đi riêng để trở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội.
Nguồn:
|
If you are not admitted to university
Instruct
The focus of the essay is your own concepts and thoughts on the issue of being admitted or not admitted to university today. You can refer to the following suggestions:
– Briefly introduce the general concept of Vietnamese society regarding university admission today. Among those taking the university entrance exam, there is a large portion who will not be admitted and it is very possible that you are one of those students...
– Analyze social concepts about university failure:
+ Parents and many students especially value the results of this exam, considering it the door that opens the best future for each person.
+ Students who fail university entrance exams are often considered failures; their families and themselves are often sad; Some people are even depressed and hopeless.
– Discuss and expand the issue:
+ Appreciating university education is a positive concept. This common concept originates from the tradition of valuing knowledge, because in fact young people who graduate from university have many opportunities to find jobs and create careers. On the other hand, the way human resources are recruited in our country still focuses heavily on qualifications.
See more: From family stories in the works One Man in Hanoi (Nguyen Khai) and The Boat in the Far Away (Nguyen Minh Chau), discussing the role of family in human life+ However, that concept has many inadequate. In reality, not everyone who is admitted to university is mature in personality and successful in their career. There have been many graduates who have difficulty finding jobs, and there are even students who fall into social evils... On the contrary, many young people who did not have the opportunity to go to university have succeeded by studying vocational training and working. profession... In the world there are many successful examples by self-studying in life, opening their own path...
– Contact yourself: If you are not admitted to university, what do you plan to do in the future? Review to take next year's exam or choose another path that suits your conditions and strengths?
+ Passing university admission is a proud and encouraging result but is not the only path to success. If they fail university, each young person can find their own path to become a useful person for their family and society.
Source:
|
Nếu anh không cháy lên, nếu tôi không cháy lên, nếu chúng ta không cháy lên, thì làm sao bóng tối có thể thành ánh sáng
Hướng dẫn
Tham khảo một số ý cụ thể sau:
– Mượn cách nói hình ảnh và sử dụng câu hỏi tu từ, nhà thơ Na-dim Hít-mét đưa ra một hiện tượng, đồng thời là một lời thôi thúc, cảnh tỉnh, giục giã, rằng ngay trong bóng tối, ánh sáng có thể bừng lên, và bừng lên từ sự toả sáng của mỗi người.
– Mỗi người cần làm gì để có thể cháy lên? Mỗi người có một cách để tự cháy sáng, bằng trí tuệ, bằng tâm hồn, bằng những việc làm cụ thể, nhưng điều quan trọng là tất cả những ngọn lửa từ mỗi cá nhân phải kết nối và được nhân lên, điền đó cần đến sự đồng điệu, sự sẻ chia trong cuộc sống.
– Lịch sử đã chứng minh rằng bóng tối có thể bừng lên thành ánh sáng nhờ những ngọn lửa cháy sáng của mỗi cá nhân (lấy dẫn chứng cụ thể).
– Câu nói là bài học tư tưởng cho mỗi người: trong những hoàn cảnh tăm tối của cuộc sống cần biết tự tìm cho mình sức mạnh để cháy sáng lên, để mỗi người là mộtĐan-kô, lấy trái tim mình làm nguồn sáng dẫn đường cho những người khác đi qua con đường tăm tối.
– Liên hệ cá nhân để nêu bài học nhận thức và hành động.
Nguồn: thêm: Em hãy tả về gia đình thân yêu của em
|
If you don't burn, if I don't burn, if we don't burn, how can darkness become light?
Instruct
Refer to some specific ideas below:
– Borrowing images and using rhetorical questions, poet Na-dim Him-met presents a phenomenon, and at the same time an urge, warning, urging, that even in darkness, light can shine, and shine from each person's brilliance.
– What does each person need to do to be able to burn? Each person has a way to burn themselves, with their intellect, with their soul, with specific actions, but the important thing is that all the fires from each individual must connect and be multiplied, filling that need. to harmony and sharing in life.
– History has proven that darkness can turn into light thanks to the burning fires of each individual (give specific evidence).
– The saying is an ideological lesson for each person: in the dark situations of life, we need to know how to find our own strength to light up, so that each person can be a Danko, using his heart as the guiding light. way for others to travel the dark path.
– Personal contact to present lessons of awareness and action.
Source: more: Please describe your beloved family
|
Nếu bạn là người phụ nữ bị bạo hành như trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
Hướng dẫn
Câu hỏi mang tính giả định, yêu cầu người viết đặt mình vào hoàn cảnh của người phụ nữ trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa để phát biểu những suy nghĩ về hướng hành động, cách giải quyết vấn đề của mình. Như thế, thực chất đây là đề mở. HS hoàn toàncó thể trình bày ý kiến của riêng mình, cách giải quyết cũng có thể khác… miễn là thuyết phục được người đọc. Khi làm bài cần sự kết hợp kiến thức văn học và kiến thức xã hội. Có thể tham khảo gợi ý sau:
– Nếu bạn là người phụ nữ hàng chài:
+ Bạn sẽ nghĩ gì?
+ Bạn sẽ làm gì/ hành động như thế nào?
– Có nên hoàn toàn ủng hộ, ngợi ca suy nghĩ và sự lựa chọn của người đàn bà hàng chài: hi sinh hết cuộc sống của bản thân mình, chấp nhận chung sống với gã chồng vũ phu trong cảnh "ba ngày một trận nhẹ, nãm ngày một trận nặng" để có người cùng nuôi đàn con, để cho "các con tôi chúng nó được ăn no"? Những đứa con của chị, đặc biệt là thằng bé Phác, có hạnh phúc, có trướng thành nhờ sự hi sinh ấy của người mẹ – khi hằng ngày phải chứng kiến nỗi đau đớn, tủi nhục của mẹ và sự tàn nhẫn, hung bạo của cha?
– Cần phải làm gì để có thể bảo vệ những đứa con mà không phải hi sinh quyền sống của người mẹ?
Nguồn: thêm: Phân tích vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
|
If you are an abused woman like in the short story The Boat in the Far Away by Nguyen Minh Chau.
Instruct
The question is hypothetical, asking the writer to put himself in the situation of the woman in the story The Boat in the Far Away to express his thoughts about his course of action and how to solve his problem. So, this is essentially an open topic. Students can completely present their own opinions, the solution may also be different... as long as it convinces the reader. When doing homework, it is necessary to combine literary knowledge and social knowledge. You can refer to the following suggestions:
– If you are a fishing woman:
+ What will you think?
+ What will you do/ how will you act?
– Should we fully support and praise the thoughts and choices of the fisherman woman: sacrificing her own life, accepting to live with her abusive husband in a "light fight every three days" situation? , a heavy battle every five days" so that someone can help raise the children, so that "my children can eat well"? Her children, especially little Phac, have happiness and growth thanks to the mother's sacrifice - when every day they have to witness their mother's pain, humiliation, and cruelty and violence. father's?
– What needs to be done to protect children without sacrificing the mother's right to life?
Source: more: Analysis of the heroic, pompous, and tragic beauty in the poem Tay Tien by Quang Dung
|
Nếu cuộc sống loài người thiếu sách (đề mở)
Gợi ý
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Luận đề nêu lên một giả định: cuộc sống loài người thiếu sách. Từ giả định đó, người viết tiến hành bàn luận về vai trò và tác dụng của sách đối với cuộc sống của con người. Đề bài đặt ra một vấn đề rất rộng dể người viết có thể tự do bàn luận về khía cạnh nào mà mình tâm đắc nhất, bằng những lập luận phù hợp với nội dung trình bày. Sau đây là một hướng triển khai bài làm:
1. Thử tưởng tượng nếu cuộc sống loài người thiếu sách thì sẽ thế nào?
– Thông tin kiến thức?
– Truyền bá kinh nghiệm?
– Giao lưu tình cảm?
– Vui chơi giải trí?
– Tăng cường chất lượng cuộc sống? v.v…
– Thiếu sách, con người có thể sống được không?
2. Từ cuộc sống thiếu sách đó làm điểm tựa, làm nền để bàn luận về vai trò và tác dụng của sách trong cuộc sống của con người ngày nay – đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và toàn thế giới (về các phương diện, hoặc chỉ đi sâu vào một vài phương diện nào đó mà mình cảm thấy cần thiết và tâm đắc nhất).
Anh (chị) hoàn toàn có thể triển khai bài làm theo một hướng khác theo suy nghĩ riêng của mình.
GIỚI THIỆU BÀI VĂN THAM KHẢO
Dưới đây giới thiệu một số đoạn văn tham khảo về vấn đề này nhằm tạo ra một cái nền kiến thức và một số cách lập luận; trên cơ sở đó, anh (chị) tự tìm ra ý tưởng và cách lập luận riêng của mình – miễn sao vẫn bàn luận đúng vào luận đề của đề bài. Ngoài ra còn có một số câu danh ngôn về sách của các nhà văn, nhà văn hóa trong nước và trên thế giới để anh (chị) tham khảo, sử dụng trong bài làm. Xem thêm: Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính 1. ÍCH LỢl CỦA VIỆC ĐỌC SÁCH
Để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ và phát triển cho tâm hồn, trí tuệ, không gì thay thế được việc đọc sách.
Cuốn sách tốt là người bạn giúp ta học tập, rèn luyện hằng ngày.
Sách mở mang trí tuệ, hiểu biết cho ta, dẫn dắt ta vào những chỗ sâu sắc, bí ẩn của thế giới xung quanh, từ sông ngòi, rừng núi cho tới vũ trụ bao la. Sách đưa ta vào những thế giới cực lớn, như thiên hà, hoặc cực nhỏ, như thế giới của các hạt vật chất.
Sách đưa ta vượt qua thời gian, tìm về với những biến cố lịch sử xa xưa hoặc chắp cánh cho ta tưởng tượng tới ngày mai, hoặc hiểu sâu hơn hiện tại.
Sách văn học đưa ta vào thế giới của những tảm hồn người đủ các thời đại để ta thông cảm với những cuộc đời, chia sẻ nhừng niềm vui, nỗi đau dân tộc và nhân loại.
Sách đem lại cho con người những phút giây thư giãn trong cuộc đời bận rộn, bươn chải. Sách cho ta hưởng vẻ đẹp và thú chơi ngôn từ, giúp ta biết nghĩ những ý hay, dùng những lời đẹp, mở rộng con đường giao tiếp với mọi người xung quanh.
Sách là báu vật không thể thiếu đối với mỗi người. Phải biết chọn sách mà đọc và trân trọng, nâng niu những cuốn sách quý
2. PHẢI BIẾT CÁCH ĐỌC SÁCHXem thêm: Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô HoàiMuôn học giỏi thì trước hết phải đọc sách. Không phải một cuốn sách mà rất nhiều cuốn. Nhưng sách rất nhiều không đọc xuể thì làm thế nào. Tất nhiên không thể bạ gì đọc nấy vì không cần thiết và có hại. Phải biết chọn sách mà đọc. Tuy nhiên, những sách được chọn vẫn nhiều, nhiều bạn nhìn nhừng chồng sách dày mà lòng thêm e ngại.
Nhà bác học Trung Quốc – Hoa La Canh có một câu nói nổi tiếng: "Biết đọc sách thì sách sẽ mỏng". Câu đó nghĩa là thế nào? Mỗi cuốn sách tốt đều chứa đựng rất nhiều tri thức lớn nhỏ. Nhưng dù phong phú, phức tạp như thế nào thì mỗi cuốn sách chỉ chứa đựng một số điều cơ bản nhất. Cái cơ bản và cái tinh túy bao giờ cũng cô đọng, súc tích, do đó đọc sách mà biết nắm lấy cái tinh túy, thì sách dày sẽ biến thành mỏng là như vậy.
Đọc thế nào thì nắm bắt được cái tinh túy? Trước hết hãy đọc – hiểu cuốn sách từng dòng, từng trang, từng mục, từng chương, rèn luyện kĩ năng đọc chuẩn xác. Những chỗ khó đều được tra cứu, tìm hiểu. Tìm hiểu cách đặt vấn đề, cách phát biểu ý, nắm bắt mạch suy nghĩ, các bằng chứng và kết luận. Từ đó một mục có thể tóm tắt thành vài dòng, có thể trích lấy trong sách những câu văn tiêu biểu. Cuốn sách sau khi đọc xong có thể tóm lược vào một vài trang giấy, như thế không phải "sách dày biến thành mỏng" là gì?
Người ta ví người đọc sách như con ong đi hút nhụy. Con ong chỉ hút những nhụy hoa mà nó cần để làm mật. Bay lượn giữa rừng hoa, qua mồi bông hoa, con ong chỉ hút lấy phấn hoa đem về tổ, ủ thành mật ủgọt. Người đọc sách cũng vậy, lọc lấy tinh túy từ những trang sách, ủ thành trí tuệ của mình, rồi công hiến cho đồng loại. Nhưng chỉ những ai biết đọc sách mới làm được việc đó. Xem thêm: Phân tích tác phẩm Đời thừa của Nam CaoDANH NGÔN VỀ SÁCH VÀ ĐỌC SÁCH
1. Không có sách không có tri thức, không có tri thức không có chủ nghĩa cộng sản. (V. I. LÊ-nin)
2. Sách là ngọn đèn bất diệt của sự thông thải tích lũy lại. (Cur-tix)
3. Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng Chẳng bằng kinh sử một vài pho. (Lê Quý Đôn)
4. Những cuốn sách là những chiếc thuyền buồm của tư duy hành trình trên sóng nước thời gian, vận chuyển vô cùng thận trọng thứ hàng hóa quý giá của chúng ta từ thế hệ này sang thế hệ khác. (M. Go-rơ-ki)
5. Hãy yẽu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống. (M. Go-rơ-ki)
6. Đọc sách là cách học tốt nhất, theo dõi những tư tưởng vĩ đại của vĩ nhân là cách học thú vị nhất. (A. Pu-skin)
7. Đọc cuốn sách hay củng như được trò chuyện với người bạn thông minh. (L Tôn-xtôi)
8. Không có quyển sách nào hay đối với người dốt, không có tác phẩm nào dở đối với người thông minh. (Đ. Đi-đơ-rô)
9. Người nào chỉ dọc dôi chút cũng dã có trình độ cao hơn nhiều so với người không đọc gì cả. (V. Bi-ê-lin-xki)
10. Đọc sách mà không suy nghĩ khác nào ăn mà không tiêu. (E. Bur-ke)
Vanmau.edu.vn
|
If human life lacks books (open topic)
Suggest
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
The thesis raises an assumption: human life lacks books. From that assumption, the writer proceeds to discuss the role and effect of books on people's lives. The topic poses a very broad issue so that the writer can freely discuss which aspects he or she is most interested in, with arguments appropriate to the presented content. The following is a direction for implementing the assignment:
1. Imagine what it would be like if human life lacked books?
– Knowledge information?
– Spreading experience?
– Emotional exchange?
- Entertainment?
– Enhance quality of life? etc…
– Without books, can people live?
2. From a life without books as a fulcrum and a foundation to discuss the role and effects of books in people's lives today - especially in the trend of globalization, regional and global integration. world (in terms of aspects, or just going deeper into a few aspects that I feel are most necessary and interesting).
You can completely develop the assignment in a different direction according to your own thoughts.
INTRODUCING REFERENCE ESSAY
Below are some reference passages on this issue to create a knowledge base and some ways of reasoning; On that basis, you can find your own ideas and ways of reasoning - as long as the discussion is still on the topic of the topic. There are also a number of quotations about books from writers and cultural figures in the country and around the world for you to refer to and use in your work. See more: Analysis of the poem Mutual Love by Nguyen Binh 1. BENEFITS OF READING BOOKS
To satisfy the need for enjoyment and development of the soul and intellect, nothing can replace reading.
A good book is a friend that helps us study and practice every day.
Books expand our intelligence and understanding, leading us into deep, mysterious places of the world around us, from rivers, forests and mountains to the vast universe. Books take us into worlds that are extremely large, like galaxies, or extremely small, like the world of matter particles.
Books take us through time, back to ancient historical events, or give us wings to imagine tomorrow, or understand the present more deeply.
Literary books take us into the world of human souls of all ages so that we can sympathize with their lives and share the joys and pains of the nation and humanity.
Books give people moments of relaxation in their busy, busy lives. Books let us enjoy the beauty and pleasure of words, help us think good ideas, use beautiful words, and expand the way of communication with people around us.
Books are indispensable treasures for everyone. You must know how to choose books to read and respect and cherish precious books
2. MUST KNOW HOW TO READ BOOKS See also: The potential vitality of the character Mi in the story A Phu and his wife by To Hoai If you want to study well, you must first read books. Not one book but many books. But there are so many books that I can't read them, what should I do? Of course, you can't just read everything because it's unnecessary and harmful. You must know how to choose books to read. However, there are still many selected books, many of you look at the thick stacks of books and feel more apprehensive.
The Chinese scientist Hoa La Canh has a famous saying: "If you know how to read, the books will be thin." What does that mean? Every good book contains a lot of great and small knowledge. But no matter how rich and complex, each book only contains some of the most basic things. The basics and the essence are always condensed and concise, so if you read a book and know how to grasp the essence, thick books will turn into thin like that.
How to read to grasp the essence? First, read - understand the book line by line, page by page, section by section, chapter by chapter, practice accurate reading skills. Difficult areas are looked up and understood. Learn how to pose problems, express ideas, grasp the flow of thought, evidence and conclusions. From there, an item can be summarized into a few lines, and typical sentences can be excerpted from the book. After reading the book, it can be summarized into a few pages. Isn't that "a thick book that becomes thin"?
People compare readers to bees sucking pistils. The bee only sucks the pistils of flowers that it needs to make honey. Hovering among the flower forest, passing through the flowers, the bee only picks up pollen and brings it back to the nest to ferment it into honey. Readers, too, filter the essence from the pages of books, brew it into their own wisdom, and then dedicate it to their fellow human beings. But only those who know how to read books can do that. See more: Analysis of Nam Cao's work The Excessive Life QUOTES ABOUT BOOKS AND READING
1. Without books there is no knowledge, without knowledge there is no communism. (V. I. LEIN)
2. Books are the eternal lamp of accumulated clearance. (Cur-tix)
3. Even if you have hundreds of thousands of taels of silver and gold, it's not as good as a few volumes of historical scriptures. (Le Quy Don)
4. Books are sailboats of thought that travel on the waves of time, very carefully transporting our precious cargo from one generation to the next. (M. Gorki)
5. Love books, they are the source of knowledge, only knowledge is the way to live. (M. Gorki)
6. Reading books is the best way to learn, following the great thoughts of great men is the most interesting way to learn. (A. Pu-skin)
7. Reading a good book is like chatting with a smart friend. (L Tonxi)
8. There are no good books for stupid people, no bad works for smart people. (D. Didero)
9. Someone who reads just a little has a much higher level than someone who doesn't read at all. (V. Bielinski)
10. Reading without thinking is like eating without digesting. (E. Burke)
Vanmau.edu.vn
|
Nếu có hai cái bánh mì, tôi sẽ bán một cái để mua hoa hồng, cả tâm hồn cũng cần phải được ăn uống
Hướng dẫn
Người Nga có câu nói: "Nếu có hai cái bánh mì, tôi sẽ bán một cái để mua hoa hồng, cả tâm hồn cũng cần phải được ăn uống''. Anh (chị) nghĩ như thế nào về câu nói này?
Tham khảo dàn ý sau:
Mở bài: Dẫn câu nói của người Nga và khẳng định cuộc sống của con người chỉ có ý nghĩa khi có sự cân bằng, hài hoà giữa nhu cầu về giá trị vật chất lẫn tinh thần.
Thân bài:
– Giải thích:
+ "Bánh mì": là biểu tượng cho những giá trị vật chất thiết yếu trong cuộc sống của mỗi con người như: cái ăn, nơi ở, cái mặc, những tiện nghi phục vụ nhu cầu của đời sống…
+ "Hoa hồng'': là biểu tượng cho những giá trị, nhu cầu tinh thần của con người trong cuộc sống.
—» Ý cả câu: Cuộc sống của con người cần có sự cân bằng, hài hoà giữa những nhu cầu vật chất và tinh thần.
Nhưng câu nói trên cần được hiểu một cách linh hoạt bởi "nếu có hai cái"… mới quyết định "sẽ bán một cái…" – nghĩa là nhu cầu vật chất là nhu cầu trước tiên, quan trọng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh mà nhu cầu tinh thần cũng nên được chú ý song hành với nhu cầu vật chất.
– Phân tích, bàn luận:
+ Cần phải nuôi dưỡng tâm hồn vì:
Tâm hồn (hay tinh thần) là một phần quan trọng khiến con người được là người với nghĩa đầy đủ nhất (chứ không phải là con vật, cũng không phải là một cỗ máy).
Xem thêm: Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim LânNuôi dưỡng tâm hồn để con người được sống theo nghĩa đầy đủ nhất của cuộc sống (hướng thụ vật chất phải song hành hưởng thụ tinh thần).
Nếu không nuôi dưỡng tâm hồn, chỉ quan tâm đến đời sống vật chất và những ham muốn tiền tài, địa vị thì tâm hồn con người sẽ trở nên nghèo nàn, cằn cỗi, con người sẽ dễ rơi vào lối sống ích kỉ, vô cảm, thậm chí bất hạnh, đau khổ.
+ Đểcó đời sống tâm hồn phong phú thì con người phải có đời sống vật chất tương đối đầy đủ. Con người không thể có đời sống tâm hồn phong phú, giàu có nếu đời sống vật chất quá chật vật, nghèo nàn. Ngoài ra, con người cần có ý thức nâng cao giá trị đời sống tinh thần của mình.
– Liên hệ thực tế và rút ra bài học:
+ Cần nhận thức đầy đủ về hai nhu cầu làm nên cuộc sống của mỗi người.
+ Phê phán một số biểu hiện của một bộ phận nhỏ trong xã hội hiện nay có cái nhìn thực dụng khi đánh giá con người, hoặc quá đề cao vật chất mà hạ thấp đời sống tinh thần, đổ "tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống" (Noóc-ma Ku-sin) hoặc quá đề cao đời sống tinh thần, lấy cớ tâm hồn là cao quý, đời sống tinh thần mới đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáne đến đời sống vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn (thực chất, đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng).
+ Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, không ngừng bồi đắp, nuôi dưỡng, thế giới tâm hồn của mình, nhất là trong cuộc sốnghiện nay.
+ Lao động hết mình để thoả mãn đầy đủ nhu cầu vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình.
Kết luận: Khẳng định lại vấn đề; nêu cảm nghĩ/lời nhắn gửi của bản thân.
Nguồn: thêm: Lòng nhân hậu của nhân vật An - đrây Xô - cô - lốp được thể hiện như thế nào trong đoạn trích Số phận con người của Sô - lô - khốp
|
If I had two loaves of bread, I would sell one to buy a commission. Even the soul needs to be fed
Instruct
Russians have a saying: "If I had two loaves of bread, I would sell one to buy a rose, even the soul needs to be fed and drank." What do you think about this saying?
Refer to the following outline:
Introduction: Quoting a Russian saying and affirming that human life is only meaningful when there is balance and harmony between the needs of material and spiritual values.
Body of the article:
- Explain:
+ "Bread": symbolizes essential material values in every human's life such as: food, shelter, clothing, amenities to serve the needs of life...
+ "Rose": is a symbol of human values and spiritual needs in life.
—» Whole sentence: Human life needs balance and harmony between material and spiritual needs.
But the above statement needs to be understood flexibly because "if there are two"... then decide "will sell one..." - meaning that physical needs are the first and important needs, depending on the situation. Spiritual needs should also be paid attention to along with physical needs.
– Analyze and discuss:
+ It is necessary to nourish the soul because:
The soul (or spirit) is an important part of what makes a person human in the fullest sense (not an animal, not a machine).
See more: Analysis of the character of Trang's wife in the short story The Picked Wife by Kim Lan. Nurturing the soul so that people can live in the fullest sense of life (material enjoyment must go hand in hand with spiritual enjoyment).
If one does not nurture the soul and only cares about material life and desires for money and status, the human soul will become poor and barren, and people will easily fall into a selfish and careless lifestyle. feeling, even unhappiness, suffering.
+ To have a rich spiritual life, people must have a relatively complete material life. People cannot have a rich and rich spiritual life if their material life is too difficult and poor. In addition, people need to be conscious of improving the value of their spiritual life.
– Practical contact and lessons learned:
+ Need to be fully aware of the two needs that make up each person's life.
+ Criticize some manifestations of a small segment of today's society that has a pragmatic view when evaluating people, or that places too much emphasis on material things and downplays spiritual life, causing "the soul to wither as soon as alive" (Norma Ku-sin) or over-emphasize spiritual life, using the excuse that the soul is noble, the spiritual life is important, but do not care about material life, do not strive for complete happiness (in fact, this is a manifestation of subjective idealism, laziness, and utopia).
+ Cultivate and practice morality, constantly foster and nurture your spiritual world, especially in today's life.
+ Work hard to fully satisfy the physical and spiritual needs of yourself and your family.
Conclusion: Reaffirming the problem; State your thoughts/messages.
Source: more: How is the kindness of the character An - dray Xo - co - tire shown in the excerpt Human destiny by So - lo - khop
|
Nếu hành vi chấp hành luật giao thông là một nét đẹp văn hóa, thì văn hóa giao thông cần phải được xây dựng và bồi đắp ra sao
Gợi ý
Trong đề án “Tăng cường bảo đảm trật tự an toàn giao thông đến năm 2010” được Chính phủ phê duyệt, đã xác định mục tiêu “Xây dựng các quy tắc đi lại văn minh và đưa các tiêu chí về an toàn giao thông vào tiêu chuẩn gia đình văn hóa”. Hà Nội và một số địa phương đã bắt đầu đề cập việc xây dựng văn hóa giao thông như một giải pháp vừa cấp thiết, vừa có ý nghĩa cơ bản, bảo đảm sự bền vững đối với lĩnh vực trật tự an toàn giao thông. Song nội dung văn hóa giao thông có phạm vi rất rộng, vấn đề đặt ra là nên bắt đầu từ những tiêu chí cụ thể nào?
Ai cũng biết, ít có lĩnh vực nào mà sự tiếp xúc giữa con người với nhau lại diễn ra trong dạng động, trên quy mô lớn, phạm vi rộng và liên tục như hoạt động giao thông. Đã có rất nhiều quy định bắt buộc hoặc chỉ dẫn người tham gia giao thông về hành vi, thái độ ứng xử bảo đảm an toàn giao thông và trật tự xã hội.
Trong đó, nhiều tiêu chí văn hóa giao thông đã được “luật hóa” thông qua các quy định bằng văn bản, hệ thống biển báo và tín hiệu giao thông. Điều đó có nghĩa là, ý thức tự giác chấp hành đúng các quy tắc giao thông đã cơ bản thể hiện văn hóa trong giao thông…Xem thêm: Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam
Tuy nhiên, các quy tắc không thể bao quát hết những vấn đề cuộc sống đang đặt ra, Hơn nữa, trong từng giai đoạn, cần nhấn mạnh một số tiêu chí phù hợp bối cảnh thực tiễn.
Theo chúng tôi, trước mắt về “xây”, nên tập trung vào các nội dung: nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, người lái ôtô, trước hết là đội ngũ lái xe khác; định hình thói quen ngồi lên môtô, xe máy là đội mũ bảo hiểm; tự kiềm chế không sử dụng rượu bia khi điều khiển phương tiện…
Về “chống”, trước hết cần chống hành vi đối phó. Bởi vì, hành vi “đối phó” (chỉ cho xe chạy đúng tốc độ khi biết có cảnh sát giao thông ở phía trước, đút tiền cho người thi hành công vụ để tranh bị phạt, ngồi trên mô tô, xe máy buổi tối không đội mũ bảo hiểm hoặc chỉ đội mũ bảo hiểm khi đến gần chổt kiểm tra…) rất dễ “lây lan”, làm giảm hiệu lực của một số quy định đúng và gây ảnh hưởng không tốt đối với những người tham gia giao thông khác.
Khắc phục hành vi “đối phó” cũng rất có ý nghĩa đốì với việc xây dựng môi trường giao thông văn hóa, trong dó có nội dung “người vi phạm tự mình biết hổ thẹn và bị người chung quanh phê phán” dù chỉ bằng ánh mắt hoặc cái lắc đầu bày tỏ thái độ không đồng tình…Xem thêm: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngụcVanmau.edu.vn
|
If the act of obeying traffic laws is a cultural beauty, then how should traffic culture be built and fostered?
Suggest
In the project "Strengthening to ensure traffic order and safety until 2010" approved by the Government, the goal of "Developing civilized travel rules and incorporating traffic safety criteria into cultural family standards". Hanoi and some localities have begun to mention building traffic culture as a solution that is both urgent and fundamental, ensuring sustainability in the field of traffic order and safety. But the content of traffic culture has a very wide scope, the question is what specific criteria should we start with?
Everyone knows that there are few areas where contact between people takes place in a dynamic form, on a large scale, wide range and continuously like traffic activities. There have been many regulations that require or instruct traffic participants on behavior and attitudes to ensure traffic safety and social order.
In particular, many traffic culture criteria have been "legalized" through written regulations, systems of signs and traffic signals. That means, the awareness of voluntarily obeying traffic rules has basically shown the culture in traffic... See more: The tradition of respecting teachers and ethics of the Vietnamese people
However, the rules cannot cover all current life issues. Furthermore, in each stage, it is necessary to emphasize a number of criteria appropriate to the practical context.
In our opinion, in the immediate future, regarding "construction", we should focus on the following contents: improving responsibility, professional ethics, car drivers, first of all other drivers; Shaping the habit of sitting on motorbikes and motorbikes is wearing a helmet; Self-restraint from using alcohol when driving a vehicle...
Regarding "fighting", first of all we need to fight against coping behavior. Because, "coping" behavior (only driving at the correct speed when knowing there is a traffic police in front, giving money to people on duty to avoid being fined, sitting on motorbikes at night Not wearing a helmet or only wearing a helmet when approaching the checkpoint...) is very easy to "spread", reducing the effectiveness of some correct regulations and causing negative effects on traffic participants. other.
Overcoming "coping" behavior is also very meaningful for building a cultural traffic environment, including the content that "violators feel ashamed of themselves and are criticized by people around them" even with just words. eyes or a shake of the head to express disagreement...See more: Analyze the attitude of the character Huan Cao towards the prison guardVanmau.edu.vn
|
Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu mục đích tầm thường.
Hướng dẫn
Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến của Đi-đơ-rô: "Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu mục đích tầm thường".
Tham khảo một số ý triển khai sau:
– Giải thích:
+ Ý kiến của Đi-đơ-rô bàn về việc phải xác định mục đích và mục đích chính đáng, cao đẹp trước khi bắt tay vào làm bất kì một việc gì. Mục đích là cái mà con người muốn đạt tới hay phải làm được khi tiến hành một công việc nào đó. Nếu làm việc không có mục đích, việc sẽ không thành hoặc không mang lại kết quả như ý muốn. Nếu làm việc vì mục đích tầm thường, việc làm đó sẽ không mang lại nhiều lợi ích, giá trị hoặc kết quả của công việc sẽ không được mọi người biết đến và đánh giá cao. Với những việc làm và mục đích tầm thường, anh sẽ trở thành một kẻ vô danh, vô nghĩa, thậm chí bị coi thường.
– Bàn luận, đánh giá:
+ Ý kiến của Đi-đơ-rô khuyên mọi người làm việc phải có mục đích, kế hoạch rõ ràng; đồng thời mục đích đó phải chính đáng, cao đẹp. Điều đó hoàn toàn đúng đắn.
+ Nhưng, đặt ra mục đích chính đáng, cao đẹp không khó, vấn đề là ở chỗ anh sẽ thực hiện và đạt tới mục đích đó như thế nào, nhất là khi mục đích đó quá lớn, vượt quá khả năng của bản thân anh. Thực tế đã chỉ ra rằng: phải có hiểu biết về công việc mình làm, có năng lực, trình độ, kĩ năng, kĩ xảo để thực hiện công việc đó thì anh mới đạt được mục đích mà mình đặt ra. Đồng thời, mục đích đó phải vừa sức; nếu làm việc quá sức hoặc tham lam, anh sẽ gặp phải những thất bại cay đắng.
Song, không nên làm những việc quá quen thuộc, không nên dễ dãi, thoả hiệp hay bằng lòng với bản thân qua những gì đã làm được mà phải biết vươn lên, đương đầu với những thử thách để khẳng định và hoàn thiện bản thân.
– Liên hệ thực tiễn: Rút ra bài học cho bản thân, lấy ví dụ minh hoạ.
Nguồn: thêm: Bình giảng đoạn thơ trong bài Việt Bắc của Tố Hữu: Mình về mình có nhớ ta… Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa.
|
If you don't have a purpose, you can't do anything. You can't do anything great if your goals are trivial.
Instruct
Present your thoughts on Didero's opinion: "If you don't have a purpose, you can't do anything. You also can't do anything great if your purpose is trivial."
Refer to some implementation ideas below:
- Explain:
+ Didero's opinion discusses the need to determine legitimate and noble goals and objectives before starting to do anything. A goal is what a person wants to achieve or must do when performing a certain job. If you work without a purpose, the work will not be successful or will not bring the desired results. If you work for trivial purposes, the work will not bring many benefits, the value or results of the work will not be known and appreciated by everyone. With trivial actions and purposes, he will become an anonymous, meaningless, even despised person.
– Discuss and evaluate:
+ Didero's opinion advises everyone to work with a clear purpose and plan; At the same time, that purpose must be legitimate and noble. That's absolutely right.
+ But, setting a legitimate and noble goal is not difficult, the problem is how you will implement and achieve that goal, especially when that goal is too big and beyond your ability. Older brother. Reality has shown that: you must have knowledge about the work you do, have the capacity, qualifications, skills, and techniques to perform that work in order for you to achieve the goals you set. At the same time, that purpose must be reasonable; If you work too hard or are greedy, you will encounter bitter failures.
However, you should not do things that are too familiar, should not be easy-going, compromise or be satisfied with yourself through what you have done, but must know how to rise up and cope with challenges to assert and improve yourself. .
– Practical contact: Draw lessons for yourself, use illustrative examples.
Source: more: Commentary on the poem in the poem Viet Bac by To Huu: When I return, I will miss you... Tan Trao, Hong Thai, banyan tree communal house roof.
|
Nếu là người được chứng kiến cảnh lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giáo trong truyện ngắn của Nam Cao thì em sẽ ghi lại câu chuyện đó như thế nào?
Gợi ý
Năm nay tôi đã ngoài bảy mươi tuổi, nhưng mỗi lần nghe đứa cháu nội hỏi về chuyện xưa khi mình còn nhỏ được chứng kiến ngày giặc Pháp đô hộ và câu chuyện Lão Hạc trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 cháu học là có thật không, thì lòng tôi lại trào lên bao cảm xúc với kỷ niệm về người hàng xóm già. Đó chính là nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao. Ký ức sâu đậm về lần ông lão kể chuyện bán chó cho thầy Thứ của tôi cứ hiện lên mồn một.
Ngày ấy tôi mới lên mười, xã hội hỗn loạn, nay thấy đánh nhau chỗ này, mai thấy Tây đi càn chỗ kia. Thầy giáo Thứ đang dậy chúng tôi lớp đệ nhị ở trường làng bên, phải cho đám trò nghỉ. Tôi không biết vì sao, chỉ thấy người ta láo pháo đồn rằng thầy tôi ghét Tây, ngán cảnh chúng dòm ngó trường lớp nên cho chúng tôi nghỉ.
Ngày ngày thầy vẫn sang nhà lão Hạc trò chuyện với ông cụ. Tôi ở gần hay sang qua lại cùng thầy lúc giúp lão dọn nhà, lúc đùa nghịch với con chó Vàng. Không ngờ những chuyện thật về lão Hạc lại được thầy giáo tôi viết thành câu chuyện cảm động đến thế. Cái cảnh lão Hạc kể với thầy tôi về chuyện bán chó là lúc tôi chứng kiến tất cả.
Chả là hôm ấy, tôi đang giúp thầy nhặt đống khoai và lân la hỏi thầy về mấy chữ Hán khó hiểu. Thầy đang giảng cho tôi thì thấy lão Hạc tiến vào. Cái dáng điệu gầy gò của lão, hôm nay trông buồn thảm quá. Vừa nhìn thấy thầy Thứ, lão đã báo ngay:Xem thêm: Hãy tóm tắt văn bản trích Tức nước vỡ bờ (trích Tắt đèn của Ngô Tất Tố) trong khoảng 5 câu đến 7 câu, trong đó có sử dụng ít nhất một câu ghép– Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
– Cụ bán rồi?
– Bán rồi! Họ vừa bắt xong.
Lão Hạc cố làm ra vẻ vui vẻ nhưng tôi thấy lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước. Thầy tôi chắc cũng ái ngại cho lão nên chỉ ôm đôi bờ vai lão vỗ nhẹ như đồng cảm. Tôi thấy đôi mắt của thầy Thứ cũng như muốn khóc. Thầy hỏi lão Hạc:
– Thế nó cho bắt à?
Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…
– Khốn nạn… ông giáo ơi!… Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy, hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục và thằng Xiên, hai thằng chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bây giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!… Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ nằm im như trách tôi, nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo rằng "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử với tôi như thế này à?". Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!Xem thêm: Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về cô bé bán diêm trong tác phẩm cùng tên của nhà văn An-đéc-xen
Thầy Thứ lại an ủi lão:
– Cụ cứ tưởng thế chứ nó chẳng hiểu gì đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó chính là ta hoá kiếp cho nó đấy. Hoá kiếp để cho nó làm kiếp khác.
Lão Hạc chua chát bảo:
– Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra nó sung sướng hơn một chút… Kiếp người như tôi chẳng hạn!…
Câu nói của lão làm tôi bùi ngùi, thầy Thứ hạ giọng:
– Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?
– Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?
Lão cười và ho sòng sọc. Thầy tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:
– Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi xuống phản chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc, ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào… thế là sung sướng.
– Vâng! Ông lão dậy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng.
Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại, thấy vậy tôi tê tái đứng lên:
– Thầy để con đi luộc khoai thầy nhé.Xem thêm: Thuyết minh về một căn bệnh gây nguy hại đến tính mạng con người – Ừ, luộc giúp thầy, nhặt những củ to ấy, để thầy pha nước mời ông xơi – thầy tôi nhắc nhở.
– Nói đùa thế chứ ông giáo cho để khi khác… Lão Hạc ngần ngại.
– Việc gì còn phải chờ khi khác… Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại, cụ cứ ngồi xuống đây.
Tôi đi luộc khoai. Thầy Thứ và lão Hạc ngồi nói chuyện lâu lắm, thầy tôi là người nhiều chữ nghĩa, hiểu biết và thương người nên có chuyên gì lão Hạc cũng tâm sự và sẻ chia.
Vừa luộc khoai, tôi vừa nghĩ về lão Hạc nhiều lắm. Tôi thương lão, con người già cả cô đơn nhưng ai cũng quý lão bởi lão sống lương thiện và nhân hậu. Tôi biết lão quý con Vàng của mình lắm vì nó là kỷ vật của anh con trai lão để lại mà. Tôi hiểu vì bần cùng lão mới làm như vậy.
Đã 60 năm, đất nước đổi thay chế độ, lão Hạc không còn, cuộc sống của người nông dân ngày nay đã khác. Nhưng hình ảnh lão Hạc đau đớn vì bán con chó cứ ám ảnh tôi mãi. Đó là kỷ niệm một thời khổ đau của đất nước mà người nông dân phải chịu nhiều cơ cực nhất. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó tôi hiểu hơn về họ, về tình yêu thương chia sẻ của người thầy giáo tôi với những con người khốn khổ, về nhân cách và vẻ đẹp của người nông dân.
Vanmau.edu.vn
|
If you were the person who witnessed Mr. Hac telling the story of selling dogs to the teacher in Nam Cao's short story, how would you record that story?
Suggest
This year I'm over seventy years old, but every time I hear my grandchild ask about the story of when I was a child and witnessed the days of French domination and the story of Lao Hac in the Literature 8 textbook I learned is true. , my heart overflowed with emotions with memories of my old neighbor. That is the character old Hac in Nam Cao's short story. The deep memory of the time the old man told the story of selling dogs to my teacher Thu kept appearing over and over again.
At that time I was only ten years old, society was in chaos, today I saw fighting here, tomorrow I saw the West raiding there. Teacher Thu was teaching us second grade at the neighboring village school, so he had to let the students rest. I don't know why, I just saw people spreading rumors that my teacher hated Westerners and was fed up with them spying on the school so he let us quit.
Every day, the teacher still went to Mr. Hac's house to chat with the old man. I lived near him and often went back and forth with him when I helped him clean the house and when I played with the yellow dog. I didn't expect that the true stories about old Hac would be written into such a touching story by my teacher. The scene where Mr. Hac told my teacher about selling dogs was when I witnessed it all.
That day, I was helping my teacher pick up a pile of potatoes and kept asking him about some difficult Chinese characters. The teacher was lecturing me when he saw Mr. Hac come in. His skinny figure looks so sad today. As soon as he saw Teacher Thu, he immediately reported: See also: Summarize the text excerpt The Water Breaks the Banks (excerpt from Turning Off the Light by Ngo Tat To) in about 5 to 7 sentences, including using at least one sentence. graft – Mr. Vang is gone, teacher!
– Did you sell it?
– Sold! They just caught it.
Old Hac tried to look happy, but I saw that he was smiling bitterly and his eyes were watery. My teacher must have felt sorry for him, so he just hugged his shoulders and patted him gently as if in sympathy. I saw Teacher Thu's eyes as if he wanted to cry. The teacher asked Mr. Hac:
– So he let you arrest him?
The old face suddenly twitched. The wrinkles pushed together, forcing tears to flow. His head tilted to one side and his toothless mouth was like a child's. The old man cried...
– Damn it... teacher!... He doesn't know anything! When it saw me calling, it immediately ran back waving its tail happily. I feed it rice. While he was eating, Muc hid in the house, right behind him, grabbed him, and turned his hind legs upside down. Just like that, Muc and Xien, the two guys only struggled for a while, tied all four of its legs tightly. Now he knows that he's dead!... Hey! Teacher! What breed it is wise! He just lay still as if blaming me, he groaned, looked at me as if to say "Ah! That old man is so bad! I live with him like that and he treats me like this?". It turns out I'm this old and I'm still fooling a dog, he didn't expect me to have the heart to trick him! See more: Write a paragraph stating your feelings about the little match seller in the work of the same name by writer An -dec
Master Thu comforted him again:
– That's what you think, but it doesn't make any sense! Besides, who raises dogs without selling or slaughtering them? When I kill it, I reincarnate it. Transform your life so that it can become another life.
Old Hac bitterly said:
– The teacher is right! A dog's life is a miserable one, so let's transform it into a human life, maybe it will be a little happier... A human life like mine, for example!...
His words made me sad. Teacher Thu lowered his voice:
– Everyone's life is like that, old man! Do you think I'm happier?
- Then I wonder if human life is also miserable, what life should we do to make it truly happy?
The old man laughed and coughed loudly. My teacher grabbed his thin shoulder and gently said:
– There is no such thing as real happiness, but this is happiness: Now you sit down and play, I'll go boil some sweet potatoes, cook a pot of fresh, thick tea, you and I will eat the potatoes and drink the tea. , then smoke a pipe... that's happiness.
- Yes! Old man wake up! For us, the world is happy.
After he finished speaking, he laughed again. The laughter was forced, but it sounded gentle. Seeing that, I stood up numbly:
- Teacher, let me boil the potatoes. See more: Presentation on a disease that endangers human life - Yes, boil it for me, pick up those big potatoes, let me make some water for you to eat - my teacher remind.
– That's a joke, teacher, let's leave it for another time... Old Hac hesitated.
– What has to wait for another time... Never postpone happiness, just sit down here.
I went to boil potatoes. Teacher Thu and Mr. Hac sat and talked for a long time. My teacher is a knowledgeable, knowledgeable and compassionate person, so Mr. Hac confided and shared everything.
While boiling potatoes, I thought about old Hac a lot. I love him, he is a lonely old man, but everyone loves him because he is honest and kind. I know he loves his Golden child very much because it is a souvenir left by his son. I understand that he did that because he was poor.
It's been 60 years, the country has changed its regime, old Hac is no longer there, the life of farmers today is different. But the image of Mr. Hac suffering from selling the dog haunted me forever. It is a commemoration of a time of suffering in the country where farmers had to endure the most hardship. But it was in that situation that I understood more about them, about my teacher's shared love with miserable people, about the personality and beauty of farmers.
Vanmau.edu.vn
|
Nếu là ông lão đánh cá trong truyện “Ông lão đảnh cá và con cá vàng”, em sẽ kể lại chuyện xảy ra với mình như thê’ nào?
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI
Tự giới thiệu nhân vật ở ngôi thứ nhất – ngôi "tôi". Nói rõ vài nét vẻ quê hương, gia cảnh như trong truyện kể.
B. THÂN BÀI
Kể lại câu chuyện đánh cá của ông lão ở ngôi thứ nhất, giữ đúng cốt truyện và tình tiết, xen kẽ miêu tả và phát biểu suy nghĩ một cách hợp lí.
C. KẾT BÀI
Rút ra bài học, viết tiếp ngắn gọn diễn biến sau khi truyện kể đã kết thúc.
Nếu là ông lão đảnh cả trong truyện "Ông lão đánh cá và con cá vàng", em sẽ kể lại chuyện xảy ra với mình như thế nào?
BÀI LÀM
Vợ chồng tôi sinh sống ngay trên bờ biển. Suốt ngày tôi đi đánh cá còn bà lão ở nhà kéo sợi. Cuộc sống của chúng tôi tuy nghèo nhưng hạnh phúc. Tôi chẳng ước ao gì hơn khi gần cuối đời được sống thanh thản. Song sự đời đâu chiều theo ý muốn của con người dù con người đã cam chịu. Có một chuyện xảy ra khiến cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ mãi.
Hôm đó tôi ra biển đánh cá, vợ tôi ở nhà kéo sợi như thường lệ. Tôi thả lưới lần đầu tiên chỉ thấy rong biển, lần thứ hai trong lưới chỉ có một con cá vàng. Tôi định bắt con cá thì… lạ chưa, cá cất tiếng kêu vang:Xem thêm: Đóng vai chú bọ hung kể lại chuyện Thạch Sanh – Ông lão ơi! Ông sinh phúc thả tôi xuống biển, tôi sẽ đền ơn ông, ông muốn gì cũng được!
Tôi rất ngạc nhiên, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay tôi chưa bao giờ thấy một con cá nào biết nói như vậy, song tôi vẫn thả nó xuống sông và nói:
– Trời phù hộ cho ngươi, ngươi trở về biển khơi mà vùng vẫy. Ta không đòi gì cả, ta cũng chẳng cần gì!
Về nhà tôi đem chuyện đó kể cho vợ tôi nghe, không ngờ bà lão mắng:
– Đồ ngốc, sao không bắt con cá vàng đền cái gì? Đòi một cái máng cho lợn ăn không được à? Cái máng nhà ta gần vỡ rồi!
Tôi nghĩ cũng phải, liền đi ra biển, biển gợn sóng êm ả. Tôi cất tiếng gọi, cá vàng bơi lên hỏi:
– Ông lão ơi, ông cần gì thế?
Tôi chào và nói:
– Vợ tôi muốn một cái máng mới, cái máng nhà tôi đã sứt mẻ cả rồi. Cá trả lời: "Ông lão cứ về đi, đừng băn khoăn gì cả. Tôi sẽ giúp ông, ông sẽ có một cái máng mới".
Tôi về đến nhà, vợ tôi đã có cái máng mới thật, nhưng vừa trông thấy mặt tôi mụ đã quát to:
Đồ ngu, đòi một cái máng thật à? Một cái máng thì thấm vào đâu, đi tìm con cá đòi một cái nhà.
Thế rồi mụ càu nhàu, té tát mãi, không chịu được tôi đành đi ra biển. Biển xanh đã nổi sóng. Tôi cất tiếng gọi cá, cá bơi lên hỏi:Xem thêm: Viết đoạn văn chỉ ra những nét riêng về nghệ thuật miêu tả trong hai văn bản Sông nước Cà Mau và Vượt Thác – Ông lão ơi! Ông cần gì thế? Tôi cúi đầu và nói:
– Cá ơi, giúp tôi với! Mụ vợ mắng tôi nhiều hơn, chẳng để tôi yên chút nào. Mụ đòi một tòa nhà đẹp. Cá vàng đáp ngay:
– Ông lão đừng bàn khoăn quá! Cứ về đi! ông sẽ có một cái nhà to và đẹp.
Trở về nhà, tôi đã thấy mụ vợ ngồi chễm chệ trong căn nhà mới như lời hứa của cá vàng.
Nhưng cũng ngay lập tức, mụ nổi giận lôi đình bắt tôi quay trở lại đòi cho mụ được làm nhất phẩm phu nhân.
"Mụ thì làm sao có thể thành nhất phẩm phu nhân được kia chứ" Tôi thầm nghĩ. Nhưng vốn đã quen chịu đựng, tôi vẫn đi ra biển. Không ngờ theo yêu cầu của tôi, cá vàng đã làm cho mụ được như ý.
Khổ nỗi tôi bị đuổi ra khỏi tòa dinh thự trở thành người quét chuồng ngựa cho vợ từ ngày mụ chán làm nhất phẩm phu nhân mà đòi tôi xin cá bằng được cho mụ làm Nừ hoàng.
Được ít tuần làm Nữ hoàng thấy chán, mụ lại gọi tôi đến và bảo:
– Mày đi tìm con cá vàng và bảo nó là tao không muốn làm Nữ hoàng nữa, tao muôn làm Long Vương ngự trên biển, để bắt con cá vàng hầu hạ theo ý muốn của tao!
Lúc này tôi đã ở vào thế không dám trái ý. Tôi đành lủi thủi đi ra bờ biển. Một cơn giông tố kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm. Tôi run run gọi con cá vàng. Con cá bơi lên hỏi:Xem thêm: Kể lại một sự việc dã gây cho em một cảm xúc khó quên – Ông lão có việc gì thế? Ông lão cần gì?
Tôi cúi đầu chào con cá và nói:
– Cá ơi giúp tôi với! Thương tôi với. Tôi sống làm sao được với mụ vợ quái ác này! Bây giờ mụ ấy không muốn là Nữ hoàng nữa, mụ ấy muốn làm Long Vương để bắt cá vàng phải hầu hạ làm theo ý muốn của mụ.
Vừa nghe nói cá vàng lặng lẽ lặn mất tăm. Tôi chờ mãi vẫn chẳng thấy cá vàng trở lại. Đợi mãi, đợi mãi, tôi đành phải quay về trong lòng vồ cùng lo lắng khi nghĩ đến sự giận dữ còn đáng sợ hơn bão biển của vợ.
Nhưng lạ chưa, về đến nơi, tất cả lâu đài nguy nga tôi đã cầu đều biến mất. Trước mắt tôi là túp lều tranh nát khi xưa và mụ vợ đang ngồi quay sợi bên cái máng lợn ăn sứt mẻ.
Tội chợt bừng tỉnh. Chỉ tại mụ vợ tham lam vô độ còn tôi thì từ ông chồng nhu nhược thành kẻ nô lệ mới nên cơ sự này.
Nhìn thấy tôi, mụ vợ tôi chẳng nói gì, cứ cúi đầu kéo sợi. Tôi cầu trời cho mụ trở lại hiền lành như cũ, để tôi trở lại làm chồng và vợ chồng tôi lại được sống thanh thản như xưa.
Vanmau.edu.vn
|
If you were the old fisherman in the story "The Old Man and the Goldfish", how would you tell what happened to you?
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPEN LESSON
Introduce yourself in the first person - "I" person. Clearly state some features of the homeland and family background as in the story.
B. BODY OF THE ARTICLE
Retell the old man's fishing story in the first person, keeping the plot and details correct, alternating descriptions and expressing thoughts appropriately.
C. CONCLUSION
Draw the lesson, briefly continue writing what happened after the story ended.
If you were the old man in the story "The Old Fisherman and the Goldfish", how would you tell what happened to you?
ASSIGNMENT
My husband and I live right on the beach. I went fishing all day while the old woman stayed at home spinning yarn. Our life is poor but happy. I wish for nothing more than to live peacefully at the end of my life. But life does not conform to human wishes even though people have resigned themselves to it. Something happened that I still remember to this day.
That day I went to sea to fish, my wife stayed at home spinning yarn as usual. The first time I cast the net, I only saw seaweed. The second time, there was only one goldfish in the net. I was about to catch the fish when... strangely enough, the fish made a loud cry: See more: Playing the role of a scarab beetle retelling the story of Thach Sanh - Old man! You are happy to let me into the sea, I will repay you, you can have whatever you want!
I was very surprised, since the time I was born until now, I have never seen a fish that could talk like that, but I still dropped it into the river and said:
– God bless you, you return to the sea and struggle. I don't ask for anything, I don't need anything!
When I got home, I told the story to my wife. Unexpectedly, the old woman scolded me:
– You idiot, why don't you catch the goldfish to pay for something? Can't you ask for a trough to feed the pigs? Our trough is almost broken!
I thought it was right, so I went to the beach, the sea rippled smoothly. I called out, the goldfish swam up and asked:
– Old man, what do you need?
I greeted and said:
– My wife wants a new trough, my trough is completely chipped. The fish replied: "Old man, just go home, don't worry about anything. I will help you, you will have a new trough."
When I got home, my wife had a new trough, but as soon as she saw my face she shouted loudly:
You idiot, do you really want a trough? A trough won't absorb anything, go find a fish that wants a house.
Then she grumbled and slapped her until she couldn't stand it so I went to the beach. The blue sea was churning. I called out to the fish, and the fish swam up and asked: See more: Write a paragraph pointing out the unique features of the art of description in the two texts Ca Mau River and Crossing the Falls - Old man! What do you need? I bowed my head and said:
– Fish, help me! The wife scolded me more, not leaving me alone at all. She asked for a beautiful building. The goldfish replied immediately:
- Don't worry too much, old man! Just go home! You will have a big and beautiful house.
Returning home, I saw my wife sitting in her new house like a goldfish promised.
But immediately, she got angry and forced me to come back and demand that she be made a first-class lady.
"How can she become a first-class lady?" I thought to myself. But I was used to enduring it, so I still went to the beach. Unexpectedly, at my request, the goldfish did what she wanted.
Unfortunately, I was kicked out of the mansion and became the one who cleaned the stables for my wife since the day she got tired of being a first-class lady and asked me to bet on her to be the Queen.
After a few weeks of being Queen, she felt bored, so she called me again and said:
– Go find the goldfish and tell it I don't want to be Queen anymore, I want to be the Dragon King on the sea, to catch the goldfish to serve my wishes!
At this point, I was in a position where I did not dare to disobey. I had to wander to the beach. A terrible storm came, the sea surface roared with waves. I trembled and called the goldfish. The fish swam up and asked: See more: Tell me about an incident that gave me an unforgettable feeling - What's the matter with the old man? What does the old man need?
I bowed to the fish and said:
– Fish, help me! Love me. How can I live with this evil wife! Now she doesn't want to be the Queen anymore, she wants to be the Dragon King to make the goldfish serve her wishes.
Just heard that the goldfish quietly disappeared. I waited forever and still didn't see the goldfish return. Waiting forever, waiting forever, I had to return to my heart filled with anxiety when thinking about my wife's anger that was scarier than a storm at sea.
But strangely enough, when I got there, all the magnificent castles I had prayed for had disappeared. Before my eyes is the old ruined thatched hut and the wife is sitting spinning next to the chipped pig trough.
Sin suddenly woke up. It's only because the wife was so greedy and I turned from a weak husband into a slave that this happened.
Seeing me, my wife said nothing, just bowed her head and spun. I prayed to God that she would return to being as gentle as before, so that I could become a husband again and my husband and I could live peacefully like before.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Nghị luận Nỗ lực học là trách nhiệm của thanh niên
Lênin từng có câu: “Học, học nữa, học mãi”. Câu nói trên đã khẳng định tầm quan trọng thiết yếu của việc học. Và để việc học của chúng ta đạt được kết quả tốt đẹp thì mỗi cá nhân cần xác định rõ mục đích học tập cho bản thân. Vì lẽ đó mà UNESCO đã đề xướng:“Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khằng định mình”. Vậy chúng ta hãy cùng làm rõ vấn đề trên.
“Học” là sự tiếp thu kiến thức ở nhiều lĩnh vực không chỉ từ nhà trường mà còn từ cuộc sống. Ông bà ta khi xưa thường khuyên con cháu: “ Không biết thì hỏi, muốn giỏi phải học”. Thật vậy, để mở mang sự hiểu biết cũng như tích luỹ tri thức quý giá thì con người ta luôn phải trải qua quá trình học tập không ngừng nghỉ. Bạn có thể biết được những điều hay, mới lạ, bổ ích bằng cách tìm tòi học hỏi qua sách vở, qua thầy cô,bạn bè cũng như từ thực tế cuộc sống. Chỉ cần luôn cố gắng và có tinh thần ham học hỏi, chắc chắn ta sẽ giải đáp được những điều ta muốn biết và hơn nữa là hiểu thêm về những điều ta chưa biết. Nhờ vậy mà bản thân luôn bắt kịp với thời đại, với sự phát triển vượt bậc của xã hội. Bên cạnh việc học để tiếp thu kiến thức, chúng ta còn cần xác định cho mình một mục đích học tập quan trọng khác nữa, đó là “học để làm”.Ta có thể hiểu “học để làm” ở đây là vận dụng những kiến thức mình đã học vào cuộc sống. Hay nói rõ hơn là học cho tương lai, học để mai sau có thể kiếm được công việc, nghề nghiệp ổn định nhờ đó nuôi sống bản thân và cống hiến sức lực, trí tuệ cho đất nước… Vậy còn “học để chung sống” là như thế nào? Hẳn ai cũng biết,cuộc sống quanh ta vốn muôn màu muôn vẻ, đa dạng và vô cùng phức tạp với nhiều mối quan hệ. Việc “học” trong trường hợp này được hiểu là học cách đối nhân xử thế, học những điều hay lẽ phải cũng như cách sống đẹp. Quan hệ giữa người với người đi đến tốt đẹp, hoà hảo hay mâu thuẫn, xung đột đều là do chúng ta quyết định. Nếu biết cư xử phải lẽ với nhau, biết nghĩ cho nhau, cho tập thể thì hẳn mỗi người đểu cảm nhận được niềm hạnh phúc khi cho đi và nhận lại.
Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Sơn trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa của Thạch LamMặt khác, “học để chung sống” còn là học tập và tuân theo những chuẩn mực về đạo đức, pháp luật để trở thành một cong dân gương mẫu, góp phần xây dựng bộ mặt văn minh, tích cực cho đất nước. Cuối cùng là “học để tự khẳng định mình”. Ai mà không muốn được mọi người kính nể, ai mà không muốn đạt được địa vị cao cũng như gặt hái được thành công trong cuộc sống. Thế nhưng không phải muốn là có thể có được mà ta phải trải qua sự rèn luyện, học tập chăm chỉ. Vì lẽ đó mà mỗi chúng ta phải luôn nổ lực tìm tòi kiến thức, cố gắng học thật giỏi để chứng minh được mình là người hữu ích và khẳng định tài băng của chính bản thân. Có thể nói, bốn yếu tố trênđóng vai trò hết sực quan trọng cho sự học. “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định mình” là yêu cầu tiếp thu kiến thức rồi vận dụng nó vào thực hành, vào hành động trong cuộc sống từ đó hoàn thiện nhân cách và khẳng định chính bản thân.
Là học sinh, việc đầu tiên chúng ta cần làm là phải ra sức học tập văn hoá để ứng dụng kiến thức đã học vào thức tế. Nhưng học giỏi vẫn chưa đủ mà ta còn phải rèn luyện nhân cách, đạo đức. Có những người rất giỏi giang, thành đạt nhưng chỉ biết có bản thân mình mà không nghĩ đến tập thể, không bao giờ biết giúp đỡ cộng đồng, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Như vậy là họ đã bỏ qua việc học để chung sống với xã hội. Cũng có những bạn chẳng xác định được mình học để làm gì. Các bạn ấy chỉ học qua loa, đối phó sao cho đủ điểm, học chỉ vì nghĩ ba mẹ ép buộc mà không hiểu rằng việc học có ý nghĩa rất quan trọng cho tương lai của mình. Bởi lẽ đó, mỗi học sinh hãy luôn có ý thức học tập và có trách nhiệm với chính bản thân cũng như gia đình và xã hội. Tóm lại, việc học là rất quan trọng không chỉ với mỗi cá nhân mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội. Do đó, mỗi chúng ta, nhất là thế hệ thanh niên thế kỉ XXI hãy xác định cho mình mục đích học tập và phấn đấu nổ lực hết mình để mai này trở thành công dân có ích, góp phần xây dựng đất nước thêm giàu mạnh.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Nghị luận xã hội về mái ấm gia đình
|
Topic: Essay Studying effort is the responsibility of young people
Lenin once said: "Study, study more, study forever". The above statement confirms the essential importance of learning. And for our learning to achieve good results, each individual needs to clearly define their own learning goals. For that reason, UNESCO has proposed: "Learning to know, learning to do, learning to live together, learning to assert oneself". So let's clarify the above issue.
“Learning” is the acquisition of knowledge in many fields not only from school but also from life. Our grandparents in the past often advised their children: "If you don't know, ask, if you want to be good, you have to study." Indeed, to expand understanding as well as accumulate valuable knowledge, people must always go through the process of continuous learning. You can learn interesting, new, and useful things by learning through books, teachers, friends, and real life. As long as we always try and have the spirit of learning, we will definitely be able to answer the things we want to know and moreover, understand more about the things we do not know. Thanks to that, we always keep up with the times and the outstanding development of society. Besides learning to acquire knowledge, we also need to determine for ourselves another important learning purpose, which is "learning to do". We can understand "learning to do" here as applying the knowledge I have learned in life. Or to be more specific, learning for the future, learning so that in the future you can find a stable job or career, thereby supporting yourself and dedicating your strength and intelligence to the country... So what about "learning to live together?" ” is like? Surely everyone knows that life around us is colorful, diverse and extremely complex with many relationships. "Learning" in this case is understood as learning how to treat people, learning good things and how to live beautifully. Whether relationships between people are good, harmonious, or contradictory, is up to us to decide. If we know how to behave reasonably with each other, know how to think about each other and the group, then everyone will surely feel happiness when giving and receiving.
See more: Expressing feelings about the character Son in the short story Cold Wind at the Beginning of Season by Thach Lam. On the other hand, "learning to live together" is also about studying and following ethical and legal standards to become a community. exemplary people, contributing to building a civilized and positive face for the country. Finally, "learn to assert yourself". Who doesn't want to be respected by everyone, who doesn't want to achieve high status and achieve success in life. But it's not like we can have it if we want it, we have to go through training and studying hard. For that reason, each of us must always strive to seek knowledge, try to study well to prove that we are useful people and affirm our own talents. It can be said that the above four factors play a very important role in learning. "Learning to know, learning to do, learning to live together and learning to assert oneself" is a requirement to acquire knowledge and apply it to practice, to action in life, thereby perfecting personality and affirming one's personality. define yourself.
As students, the first thing we need to do is to try our best to learn culture to apply the knowledge we have learned in practice. But studying well is not enough, we also have to practice character and morality. There are people who are very talented and successful but only care about themselves without thinking about the group, never know how to help the community, or help people in more difficult circumstances than themselves. Thus, they have skipped studying to live with society. There are also those who cannot determine what they are studying for. They only study lightly, trying to get enough points, studying just because they think their parents are forcing them without understanding that studying is very important for their future. For that reason, every student should always be conscious of learning and responsible for themselves as well as their family and society. In short, learning is very important not only for each individual but it also directly affects society. Therefore, each of us, especially the young generation of the 21st century, should determine for themselves the purpose of learning and strive to do our best to become useful citizens in the future, contributing to building a richer country. strong.
Source Edufly
See more: Social discussion about the family home
|
Nỗi nhớ của người xa quê qua bài ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà. Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Gợi ý
Đa cảm và giàu tình cảm, con người việt Nam yêu thương hết thảy những người, những vật của quê hương mình. Và khi đi xa, tình yêu ấy biến thành nỗi nhớ. Lúc da diết, khắc khoải. Lúc đau đáu thiết tha. Lúc giản dị chân chất. Dù ở cung bậc nào cũng gây xúc động sâu sắc trong lòng người đọc. Bài ca dao sau cũng đem đến cho ta niềm xúc động ấy:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nuớc bên đường hôm nao
Về bài ca dao này, có người cho rằng nó là lời tỏ tình với cô thôn nữ của chàng trai làng sắp đi xa. Cách hiểu thứ hai: Chàng trai đã đi xa lâu ngày, anh nhớ quê, nhớ người con gái làng quê mà anh từng thầm yêu trộm nhớ. Quê nhà và cô gái đã trở thành kỉ niệm sâu sắc, kết đọng thành nỗi nhớ không thề nào quên.
Hai câu đầu nói lên nỗi nhớ quê:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Anh đi trong văn cảnh, nghĩa là đã đi xa, đã lâu ngày. Anh đi làm thợ, đi lính thú, đi tha hương cầu thực… Nay ở nơi đất khách quê người, năm tháng đã trôi qua, anh mới có nỗi nhớ ấy: nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Ba chữ nhớ diễn tả nỗi nhớ triền miên, day dứt, khôn nguôi. Nhớ quê nhà là nhớ ông bà, mẹ cha, anh chị em; là nhớ mái rạ, hàng cau, mảnh vườn, chiếc áo, luỹ tre; là nhớ đồng lúa xanh, cánh cò trắng, con diều biếc… nhớ bạn bè tuổi thơ. Bốn tiếng anh nhớ quê nhà thật hàm súc, gợi lên bao nỗi nhớ đầy vơi. Đúng là khi ta đi đất đã hoá tâm hồn (Chế Lan Viên). Xem thêm: Viết đoạn văn miêu tả một vườn cây ăn trái
Câu thứ hai nói lên hai nỗi nhớ rất cụ thể. Anh đi xa, anh nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Đó là hương vị đậm đà của quê nhà thân yêu. Quê nghèo, chỉ có món ăn bình dị ấy. Anh mộc mạc, chất phác, anh rất yêu quê nhà, anh nhớ hương vị của canh rau muống, nhớ quả cà dầm tương. Đâu cứ phải cảnh giàu sang phú quý, có cơm gà cá gỡ… mới nhớ? Anh nhớ cái bình dị của quê hương, một bát canh, một quả cà… với tất cả tâm hồn. Anh thuần hậu, chất phác và đáng yêu. Vả lại, bát canh rau muống, quả cà dầm tương là hương vị của cây nhà lá vườn, trong đó còn có tình thương của người mẹ hiền tần tảo sớm khuya. Sau này, nhiều nhà thơ đã có những vần thơ đẹp viết về quê hương như Hương nhãn, Hương cốm mới, Canh cá tràu, Canh mồng tơi… Hương quê, tình quê sâu đậm biết nhường nào:
Canh cá tràu mẹ thường hay nấu khế
Khế trong vườn, thêm một tí rau thơm
Ừ, thế đó mà một đời xa cách mẹ
Ba mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơm.
(Canh cá tràu – Chế Lan Viên)
Hai câu 3, 4 nỗi nhớ của anh đã hướng sang một đối tượng mới. Từ nhớ cảnh, nhớ quê, nhớ hương vị quê nhà, anh nhớ đến người:
Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Xem thêm: Nhà văn lớn người Pháp, Mác-xen Pruts cho rằng: “Đối... biết đến”. Vận dụng phong cách nghệ thuật của một tác giả để phân tích và chứng minh ý kiến trên Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Nhớ ai rồi lại nhớ ai dào dạt trào dâng trong lòng. Ai là đại từ nhân xưng phiếm chỉ. Nỗi nhớ ấy hướng về những người thân thương ở quê nhà dãi nắng dầm sương, chân lấm tay bùn vất vả. Nhớ ai ở đây còn có thể nhớ cả những người không quen biết như nhà thơ Tế Hanh đã thổ lộ trong bài Nhớ con sông quê hương.
Điệp ngữ nhớ ai diễn tả nỗi nhớ nhiều man mác, bâng khuâng. Nỗi nhớ mà anh hướng tới cuối cùng là nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Ai trong câu thơ này là cô thôn nữ hay lam hay làm duyên dáng mà anh đã thầm yêu trộm nhớ. Hôm nao là hôm nào, là đêm trăng. Cảnh lao động của em mà anh nhớ là tát nước. Nơi tát nước cũng là nơi hò hẹn, đó là bên đàng. Có thể có một kỉ niệm mà nghìn năm chưa dễ mấy ai quên. Kĩ niệm ấy đã hơn một lần được nói đến:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Bốn câu lục bát có âm điệu nhẹ nhàng, diễn tả một tình cảm đẹp: tình thương nhớ quê nhà. Giọng thơ cũng thật bồi hồi, bâng khuâng. Điệp từ nhớ và điệp ngữ nhớ ai chính là thủ pháp tạo nên giọng thơ ấy. Cái hay, cái đậm đà của bài ca dao là nhớ quê hương, nhớ cô thôn nữ từng hẹn ước đã làm cho nỗi nhớ quê nhà thêm thiết tha, sâu nặng… Xem thêm: Qua văn bản "Một thứ quà của lúa non: cốm" của Thạch Lam, em hãy phát biểu cảm nghĩ về cây lúa Việt NamVanmau.edu.vn
|
The nostalgia of people far away from home through folk songs: When you leave, you miss home. Remember the vegetable soup memorized bitter bean soup. Remember who walked in the sun and soaked in the dew, Remember who splashed water on the side of the road that day
Suggest
Sentimental and emotional, Vietnamese people love all the people and things of their homeland. And when you go away, that love turns into nostalgia. A time of sadness and anxiety. A time of intense pain. Simple and genuine times. Regardless of the level, it causes deep emotions in the reader's heart. The following folk song also brings us that emotion:
When you leave, you miss your hometown
Remember the vegetable soup memorized bitter bean soup.
Remember who is soaked in the sun and dew,
Remember who splashed water on the side of the road that day?
Regarding this folk song, some people think that it is a confession of love to the village girl of a village boy who is about to go away. Second understanding: The boy has been away for a long time, he misses his hometown, misses the village girl he once secretly loved. The hometown and the girl have become deep memories, condensed into unforgettable nostalgia.
The first two sentences express nostalgia for home:
When you leave, you miss your hometown
Remember the vegetable soup memorized bitter bean soup.
He went in context, meaning he went far away, for a long time. He worked as a worker, became an animal soldier, went abroad to seek food... Now in a foreign land, years have passed, he has that nostalgia: missing his homeland, missing water spinach soup, missing pickled eggplants with soy sauce. The three words "memory" describe a constant, tormenting, and inconsolable nostalgia. Missing home means missing grandparents, parents, brothers and sisters; I remember the thatched roof, the areca rows, the garden, the shirt, the bamboo; I miss the green rice fields, the white stork wings, the blue kite... I miss my childhood friends. The four hours he missed his hometown were so meaningful, evoking so much nostalgia. It is true that when we travel, the land turns into our soul (Che Lan Vien). See more: Write a paragraph describing a fruit garden
The second sentence speaks of two very specific nostalgia. I'm away, I miss water spinach soup, I miss pickled eggplant with soy sauce. It is the rich flavor of our beloved homeland. Poor hometown, only that simple food. He is rustic, simple, he loves his hometown very much, he misses the taste of water spinach soup, misses the pickled eggplant with soy sauce. It doesn't have to be a scene of wealth and prosperity, with chicken and fish and rice... to remember? He misses the simplicity of his homeland, a bowl of soup, an eggplant... with all his soul. He is pure, simple and lovely. Besides, a bowl of water spinach soup and pickled eggplant with soy sauce are the flavors of homegrown plants, including the love of a gentle mother who works hard early and late. Later, many poets wrote beautiful poems about their homeland such as Perfume Longan, Perfume Com Moi, Canh Ca Trau, Canh Malabar... The scent of the countryside, how deep is the love for the countryside:
Mother often cooks fish soup with star fruit
Star fruit from the garden, add a little herbs
Yes, that's it, a lifetime away from my mother
Thirty years later, I returned home, tears falling on the dinner table.
(Trau fish soup – Che Lan Vien)
In verses 3 and 4, his nostalgia has turned to a new object. From missing the scene, missing the hometown, missing the taste of home, he remembers the people:
Remember those who bask in the sun and dew, See more: The great French writer, Marxist Pruts said: "For... to know". Apply an author's artistic style to analyze and prove the above opinion. Remember who splashed water on the side of the road that day.
Missing someone and then missing someone overflows in my heart. Who is a trivial personal pronoun. That nostalgia is directed towards the loved ones back home, exposed to the sun and dew, hands and feet covered in mud and toil. Remembering someone here can also remember people you don't know, as poet Te Hanh confided in the song Remembering the Homeland River.
The alliteration "missing someone" describes a deep, wistful longing. The nostalgia he ultimately aims for is remembering who splashed water on the side of the road that day. Who in this poem is the charming village girl that he secretly loves. What day is it? It's a moonlit night. The scene of your labor that I remember was water splashing. The place to splash water is also the place to meet, which is the other side. There may be a memory that many people have not forgotten for thousands of years. That concept has been mentioned more than once:
Hey lady, splashing water on the side
She scooped gold stars moonlight poured away?
The four six-eight sentences have a gentle tone, expressing a beautiful feeling: the love of missing one's homeland. The tone of the poem is also very nostalgic and wistful. The alliteration remember and the alliteration remember someone are the methods that create that poetic voice. The beauty and richness of the folk song is that I miss my homeland, I miss the village girl who once made a promise, making my homesickness more passionate and profound... See more: Through the text "A kind of gift from young rice: Com" by Thach Lam, please express your thoughts about Vietnamese riceVanmau.edu.vn
|
Nỗi nhớ quê hương da diết qua bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch
Gợi ý
Quê hương – hai tiếng gọi thân thương trìu mến mà mỗi ai đi xa đều đau đáu trong lòng. Quê hương trong mỗi người đã trở thành máu, thành thơ, thành một phần của tâm hồn. Đối với Lý Bạch – thi nhân suốt một đời xa quê thì tình yêu quê hương lại càng dâng trào mãnh liệt qua bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh:
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
Mở đầu bài thơ là một thế giới ảo diệu tràn ngập ánh trăng.
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương (Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đắt phủ sương)
Trăng không chỉ giới hạn ở nơi đầu giường, mà ánh trăng bao trùm cả không gian toả khắp căn phòng nơi tác giả nghỉ trọ. Trăng như dòng suối chảy miên man khắp đêm sâu. Cảnh vật như say dưới trăng, giữa khoảnh khắc đêm sâu như vậy, ánh trăng là chủ thể trong cuộc sống tĩnh lặng. Hơi thở của tạo vật đất trời cũng nhè nhẹ sợ làm vỡ tan cái êm dịu của đêm trăng.
Với Lý Bạch – một hiệp khách thì ánh trăng sáng trong quán trọ không phải là chuyện lạ. Nhưng với thi nhân thì ánh trăng đêm nay rất khác lạ. Ánh trăng len lỏi vào tận đầu giường nơi tác giả nằm. Ánh trăng không phải là vô tri vô giác, nó như biết được nơi người hiệp khách dừng chân. Trăng chủ động tìm đến trò chuyện, tâm sự cùng tác giả. Trong khoảnh khắc đêm thâu tĩnh lặng, ánh trăng trong sáng và tinh khiết được tác giả chào đón nồng hậu. Trăng sáng quá, đẹp quá khiến tác giả: Xem thêm: Giới thiệu vài nét về bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư Nghi thị địa thượng sương
Ánh trăng rọi ngỡ là sương mặt đất, chỉ một hình ảnh thôi mà gợi tả một thế giới cảm xúc. Đây là một hiện tượng rất bình thường, nhưng với tác giả thì hiện tượng này tạo cảm hứng mãnh liệt. Sức liên tưởng kì lạ làm hình tượng thơ sống dậy. Trăng hay là sương bao phủ mặt đất? Trăng là thực mà lại không thực? Bằng chất lãng mạn, thi nhân đã nâng ánh trăng lên đến mức diệu kì. Vầng trăng trở nên như cõi thiên thai. Sương khói của ánh trăng làm cho câu thơ ngập trong không khí mơ màng, hư hư thực thực. Cả trăng và thi nhân đã giao hoà, giao cảm quyện làm một. Phải thật tĩnh lặng mới nghe được tiếng trò chuyện thầm thì của trăng và thi nhân. Một sự quan hệ qua lại như đền đáp ân huệ mà thiên nhiên ban tặng cho thi nhân cũng như lòng ngưỡng mộ của thi nhân với trăng. Rất tự nhiên, nhẹ nhàng thi nhân hướng về nàng tiên trong đêm sâu.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương
(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương)
Tư thế nhìn trăng là một tư thế rất tự nhiên của thi nhân, trong giây phút ấy tác giả gửi trọn hồn mình cho trăng phút chốc tâm tư bỗng trĩu nặng rồi dồn nén vội quên đi cả vũ trụ đất trời đang mời gọi. Đê đầu nhớ về quê cũ yêu thương. Đêm nay trăng sáng nơi quê người, trong quán trọ trên bước đường lữ thứ, tâm hồn nhà thơ sao không khoắc khoải bồn chồn. Ánh trăng đêm nay hay chính ánh trăng ngày nào trên núi Nga Mi hiện về. Bỗng chốc lòng tác giả nặng xuống với: quá khứ, hiện tại, tương lai đang trỗi dậy trong lòng. Phải chăng con người ấy đang muốn phủ nhận thực tại trở về quá khứ. Tình ở đây là tấm lòng thương nhớ quê hương, với Lý Bạch tấm lòng da diết khôn nguôi. Hơn nữa trong không gian vắng lặng ấy làm cho tác giả càng buồn hơn, nỗi nhớ sâu hơn, mãnh liệt hơn. Quê hương, nơi ông sinh ra và một thời gắn bó với nó, nhớ những kỉ niệm chăn trâu thổi sáo, những đêm hè gọi bạn ngắm trăng thâu. Tất cả giờ chỉ còn trong kí ức. Xem thêm: Kể lại một kỷ niệm mà em nhớ mãi trong quãng đời học trò đã qua Quê hương là những gì thiêng liêng nhất, không chỉ Lý Bạch đêm nay nhìn trăng nhớ quê cũ. Ai ai cũng vậy, trong hoàn cảnh ấy quá khứ sao lại chẳng dội về. Có chăng trong những phút nao lòng ấy nhà thơ muốn thốt lên nỗi lòng kẻ xa quê bao năm chưa trở lại. Dẫu sao tình cảm của tác giả với quê hương cũng không bao giờ phai nhạt. Hạ Tri Chương cũng từng thốt lên tâm sự khi hồi hương.
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao
Cái hồn quê, hương quê không thay đổi trong Hạ Tri Chương. Cũng như Lý Bạch quê hương đã trở thành máu, thành hồn.
Lý Bạch đã viết bài thơ bằng tình cảm chân thực, tình yêu cố hương được thể sống động trong ông. Ta bồi hồi trước chất lãng mạn của bài thơ, ta trân trọng nâng niu những tình cảm từ đáy lòng của nhà thơ. Điều này đã giúp ta hiểu, cảm được cái hay cái đẹp của nghệ thuật đích thực. Ai xa quê mà chẳng có tình cảm giống như ông. Tĩnh dạ tứ xứng đáng là một bản tình ca tâm hồn, là khúc nhạc chan chứa tình yêu quê hương của "thi tiên Lý Bạch".
Vanmau.edu.vn
|
The longing for one's homeland is deeply felt through Ly Bach's poem Feelings in a Quiet Night
Suggest
Homeland - two loving and affectionate calls that make everyone who goes far ache in their hearts. The homeland in each person has become blood, poetry, and part of the soul. For Ly Bach - a poet who has been away from home all his life, the love for his homeland surges even more intensely through the poem Feelings in a Quiet Night:
The head of the bed is illuminated by moonlight
I thought the ground was covered in frost
Raise your head and look at the bright moon
Bow your head and remember your hometown.
The beginning of the poem is a magical world filled with moonlight.
Sieve the moonlight
Nghi Thi Thi Thi has dew on the ground (The moonlight shines on the head of the bed, I think my face is covered with dew)
The moon is not limited to the head of the bed, but the moonlight covers the entire space and spreads throughout the room where the author stays. The moon is like a stream flowing endlessly throughout the deep night. The scene is as if drunk under the moon, in the midst of such a deep night, the moonlight is the subject of quiet life. The breath of the creatures of earth and sky is also gentle, afraid of breaking the gentleness of the moonlit night.
For Ly Bach - a knight, the bright moonlight in the inn was not a strange thing. But for the poet, the moonlight tonight is very different. The moonlight crept into the head of the bed where the author lay. Moonlight is not inanimate, it seems to know where the traveler stops. Moon proactively came to chat and confide in the author. In a moment of quiet night, the bright and pure moonlight was warmly welcomed by the author. The moon is so bright, so beautiful that the author: See more: Introduction to the poem Chanting Gia Hoan Kinh Su Nghi Thi Thi Thi Thuong dew
The moonlight shines like dew on the ground. Just one image evokes a world of emotions. This is a very normal phenomenon, but for the author, this phenomenon creates strong inspiration. The strange associative power makes poetic images come alive. Moon or mist covering the ground? The moon is real but not real? With romance, the poet raised the moonlight to a magical level. The moon becomes like heaven. The mist of moonlight makes the verses filled with a dreamy atmosphere, unreal and unreal. Both the moon and the poet have harmonized, their communion blended into one. It must be very quiet to hear the whispers of the moon and the poet. A reciprocal relationship is like repaying the favor that nature bestows on the poet as well as the poet's admiration for the moon. Very naturally, the poet gently turned towards the fairy in the deep night.
Nodding to hope for the bright moon,
To invest in the homeland
(Raise your head and look at the bright moon
Bowing my head, remembering my hometown)
The position of looking at the moon is a very natural position for the poet. In that moment, the author sends his whole soul to the moon, his thoughts suddenly become heavy and he quickly forgets the whole universe that is calling. Feeling nostalgic about my beloved old hometown. Tonight, the moon shines brightly in the hometown, in the inn on the traveler's path, how can the poet's soul not be restless? Tonight's moonlight or the same moonlight as yesterday's moonlight on Nga Mi mountain appears. Suddenly, the author's heart felt heavy: the past, present, and future were rising in his heart. Is that person trying to deny the reality of returning to the past? The love here is the heart that longs for one's homeland, and for Ly Bach, the heart is inconsolable. Furthermore, being in that quiet space makes the author even sadder, his nostalgia deeper and more intense. His hometown, where he was born and was once attached to it, remembers the memories of herding buffaloes and playing the flute, of summer nights calling you to watch the moonlight. Everything is now only in memory. See more: Tell me about a memory that you will always remember from your past student life. Homeland is the most sacred thing, not only Ly Bach looked at the moon tonight and missed his old hometown. Everyone is the same, in that situation why doesn't the past come back? Perhaps in those heart-wrenching moments, the poet wanted to express the feelings of those who have been away from home for many years and have not returned for many years. Anyway, the author's love for his homeland never fades. Ha Tri Chuong also expressed his feelings when returning home.
When young, when old
The country voice is still the same, the hair is different
The soul of the countryside and hometown remains unchanged in Ha Tri Chuong. Just like Ly Bach's homeland has become blood and soul.
Ly Bach wrote the poem with true feelings, his love for his homeland was vividly expressed in him. We are moved by the romantic nature of the poem, we respectfully cherish the feelings from the bottom of the poet's heart. This has helped us understand and feel the beauty of true art. Who is far from home but doesn't have the same feelings as him? Tinh Da Tu deserves to be a soulful love song, a song filled with love for the homeland of "poet Ly Bach".
Vanmau.edu.vn
|
Nỗi nhớ quê nhà cùa người con gái lấy chồng xa
Gợi ý
Gia đình là chiếc nôi đằm thắm ngọt ngào nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn. Ông bà, cha mẹ, anh em sống quây quần bên nhau trong tình yêu thương vô bờ bến. Tình cảm ấy được hun đúc và truyền lại cho nhau từ đời này sang đời khác qua những câu ca dao đằm thắm ngọt ngào. Công cha, nghĩa mẹ, tình yêu thương anh chị em, tình yêu nam nữ, vợ chồng… sống với ta như những kỉ niệm đẹp không bao giờ quên. Một ví dụ về tình yêu thương, nỗi nhớ của người con gái với mẹ già làm ta cảm động.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều.
Ca dao cổ truyền có nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng chiều chiều: Chiều chiều xách giỏ hái rau, Chiều chiều ra đứng bờ sông… Chiều chiều là giai điệu nhè nhẹ, buồn thương. Điệu tâm hồn biểu hiện trong câu ca dao vô cùng đặc sắc, nó quyện vào tâm hồn người đọc, người nghe.
Câu thơ thứ nhất vừa có tính thời gian (chiều chiều) vừa có tính không gian (ngõ sau, quê mẹ). Buổi chiều tà, lúc hoàng hôn buông xuống, ngày sắp tàn vũ trụ sắp đi vào cõi hư vô. Đây là những khoảng thời gian gợi nhớ, gợi sầu cho những kẻ tha hương. Nguyễn Du đã từng nhắc đến trong Truyện Kiều. Sông xa vò võ phương trời – Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng hay Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà (Huy Cận). Trong bài ca dao trên cũng nói đến buổi chiều. Thời gian cứ lặp đi lặp lại ngõ sau chứ không phải là ngõ trước? Ngõ sau mới trông ra cánh đồng hắt hiu vắng vẻ, phải là chiều chiều khi cơm nước xong xuôi thì mới quạnh hiu. Sự lặp đi lặp lại âm thanh ấy cũng chính là sự lặp lại một hành động (ra đứng ngõ sau trông về quê mẹ) của một tâm trạng. Nghĩ về quê hương là nghĩ về mẹ, bóng hình mẹ đã tạc vào hình bóng quê hương. Nhân vật trữ tình trong câu ca dao không được giới thiệu chi tiết cụ thể. Nhưng ta vẫn thấy hiện lên hình ảnh cô gái xa quê, nhớ quê, nhớ gia đinh… (đi lấy chồng xa?). Chắc là nhớ lắm, nhớ quá nên cứ chiều chiều và chiều nào cũng vậy, cô ra ngõ sau ngậm ngùi ngóng về quê mẹ. Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật Mai An Tiêm trong truyện cổ tích “Quả dưa hấu” Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Càng trông về quê mẹ càng lẻ loi, cô đơn nơi quê người, nỗi thương nhớ da diết không nguôi:
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều.
Quê mẹ sau luỹ tre xanh. Nơi cô gái sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương của gia đình, làng xóm. Biết bao kỉ niệm buồn vui cùng gia đình bè bạn. Nơi mà chiều chiều chăn trâu cắt cỏ, có dòng sông nhỏ uốn quanh, có cánh đồng cò bay thẳng cánh, có bà con chất phác hiền lành lam lũ sớm hôm. Nơi ấy mẹ cha tần tảo sớm khuya nuôi con khôn lớn. Nếu như theo phong tục xưa Gái thập tam nam thập lục thì cô gái đi lấy chồng từ thuở mười ba. Mười ba năm ấy sống bên mẹ hiền cô vẫn chỉ là đứa con bé bỏng được yêu chiều trong vòng tay của mẹ. Vậy mà giờ nơi quê người đất khách lòng cô lại chẳng xót xa, thương nhớ. Giờ này sau luỹ tre xanh mẹ già với mái tóc bạc phơ tựa cửa ngóng đứa con xa. Sao mẹ ơi mẹ chẳng: Có con thì gả chồng gần – Có bát canh cần nó cũng đem cho. Vậy là chỉ đến khi không được sống trong sự nuông chiều của cha và sự săn sóc yêu thương của mẹ, khi hạnh phúc trìu mến ấy mất rồi người con mới thấm thìa hết sự ngọt ngào khi bên mẹ. Xem thêm: Em hãy kể lại một câu chuyện đời thường xảy ra trong một gia đình mà em có ấn tượng sâu sắc nhất Ca dao nói ít mà gợi nhiều. Chỉ hai từ quê mẹ mà gợi ra cho người đọc một trường liên tưởng vô cùng lớn. Người con xa quê trông về quê mẹ mà lòng day dứt khôn nguôi. Bốn tiếng ruột đau chín chiều diễn tả nỗi nhớ da diết đó. Tục ngữ, thành ngữ có chín nhớ mười thương thì ca dao có ruột đau chín chiều buổi chiều nào cũng nhớ về quê mẹ, trông hướng nào cũng thấy tê tái, xót xa. Càng nhớ, người con lại càng thương, nỗi buồn cứ như vậy tăng lên gấp bội. Dường như nỗi nhớ ấy, sự cô đơn ấy không có giới hạn, có lẽ trong những lúc như vậy đứa con xa mơ ước nhiều lắm. Ước gì giờ đây đang nằm trong vòng tay âu yếm của mẹ, để tận hưởng cái giây phút mơn man khắp da thịt trong đôi bàn tay dịu hiền, muốn ngồi bên mẹ để trò chuyện, tâm sự để đếm từng sợi tóc pha sương theo tháng ngày. Bỗng xa xa, khoan nhặt tiếng chim kêu chiều:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau
Bài ca dao là tình cảm mẹ con, tình cảm quê hương và gia đình sâu sắc trong tâm hồn mỗi chúng ta. Tình thương nỗi nhớ gắn liền với tấm lòng biết ơn sâu nặng của người con gái xa quê đối với mẹ già. Giọng điệu tâm tình sâu lắng, lời thơ êm ái nhẹ nhàng gợi lên trong lòng người đọc bao liên tưỏng về tình cảm mẹ con, gia đình, những kỉ niệm yêu dấu tuổi thơ. Làm sao chúng ta có thể quên được bài ca dao trữ tình đằm thắm như vậy. Xem thêm: Niềm tự hào về tiếng Việt - thứ tiếng mẹ đẻ ta yêu qua bài Sự giàu đẹp của Tiếng Việt (Tác giả Đặng Thai Mai)Vanmau.edu.vn
|
The nostalgia of a girl married far away from home
Suggest
Family is a sweet, loving cradle that nurtures us as we grow. Grandparents, parents, and siblings live together in boundless love. That love is forged and passed on to each other from generation to generation through sweet and loving folk songs. Father's work, mother's love, love between brothers and sisters, love between man and woman, husband and wife... live with us as beautiful memories that will never be forgotten. An example of the love and nostalgia of a daughter for her elderly mother touches us.
Lane stood next afternoon
Looking back to my mother's hometown, my stomach aches nine times.
Traditional folk songs have many verses that begin with two words: Afternoon, Afternoon, carry a basket to pick vegetables, Afternoon, go stand by the river... Afternoon is a gentle, sad melody. The soul's melody expressed in folk songs is extremely unique, it blends into the soul of the reader and listener.
The first verse is both temporal (afternoon) and spatial (back alley, mother's hometown). Late afternoon, when dusk falls, the day is about to end and the universe is about to enter nothingness. These are times that remind and evoke sadness for those in exile. Nguyen Du once mentioned in The Tale of Kieu. The distant river torments the sky - Now the sunset is gone, tomorrow the sunset or Without smoke, the sunset also misses home (Huy Can). The above folk song also talks about the afternoon. Time keeps repeating the back alley instead of the front alley? The back alley looks out onto a deserted field. It's only in the afternoon when meals are finished that it's lonely. The repetition of that sound is also the repetition of an action (standing in the back alley to look back at my mother's hometown) of a mood. Thinking about the homeland means thinking about the mother, the image of the mother has been carved into the image of the homeland. The lyrical character in the folk song is not introduced in specific detail. But we still see the image of a girl far from home, missing her hometown, missing her family... (getting married far away?). She must have missed it so much, so every afternoon and every afternoon, she went to the back alley to sadly return to her mother's hometown. See more: Express your feelings about the character Mai An Tiem in the fairy tale "Watermelon" In the afternoon, go stand in the back alley
The more I look back at my mother's hometown, the more lonely and lonely I feel in my hometown, the pain of longing for me is endless:
Looking back to my mother's hometown, my stomach aches nine times.
Mother's homeland behind green bamboo. Where the girl was born and raised in the love of her family and neighbors. So many happy and sad memories with family and friends. A place where buffaloes herd and cut grass in the afternoons, there is a small river winding around it, there are fields of storks flying straight, and there are simple and gentle people who fight floods early in the day. There, parents worked hard early and late to raise their children. If according to the ancient custom of girls turning thirteen, boys turning sixteen, the girl would get married at age thirteen. During those thirteen years of living with her gentle mother, she was still just a little child loved and pampered in her mother's arms. Yet now, in a foreign land, her heart feels no sadness or nostalgia. At this time, behind the green bamboo fence, an old mother with white hair leans against the door, waiting for her distant child. Mom, why don't you: If you have children, marry someone close to you - If you need a bowl of soup, he will also give it to you. So it is only when he cannot live in the pampering of his father and the loving care of his mother, when that affectionate happiness is gone, that the child can fully absorb the sweetness of being with his mother. See more: Tell me a real life story that happened in a family that has the deepest impression on you. Folk songs say little but evoke a lot. Just two words from motherland evoke an extremely large field of associations for the reader. The son who is far from home looks back to his mother's homeland with endless torment. Four gut-wrenching, nine-dimensional sounds describe that deep nostalgia. In proverbs and idioms, if you miss your motherland nine times, you will feel pain in nine afternoons. Every afternoon you look at your motherland, you will feel numb and heartbroken. The more you remember, the more your child loves you, and the sadness just increases. It seems that that nostalgia, that loneliness has no limit, perhaps in times like these, the distant child dreams a lot. I wish I was now lying in my mother's loving arms, to enjoy the moment of caressing my skin in her gentle hands, to sit next to my mother to talk, to confide, to count each strand of hair mixed with mist. month day. Suddenly, far away, I picked up the sound of birds chirping in the afternoon:
I can hear the birds and ducks chirping in the afternoon
Missing my mother for nine afternoons makes my stomach ache
The folk song is the love between mother and child, the love for homeland and family that is deep in the soul of each of us. Love and nostalgia are associated with the deep gratitude of a daughter far from home for her elderly mother. The deep sentimental tone and gentle lyrics evoke in the reader's heart many associations about mother-child love, family, and beloved childhood memories. How can we forget such a lyrical folk song? See more: Pride in Vietnamese - the mother tongue we love through the article The richness and beauty of Vietnamese (Author Dang Thai Mai)Vanmau.edu.vn
|
Nỗi niềm của những con người bị áp bức qua bài ca dao: “Nước non lận đận một mình. Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy. Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”
Gợi ý
Đêm dài nô lệ của dân tộc đã qua. Những kiếp người cơ hàn, những cảnh đời bi kịch khốn cùng vì cướp bóc, áp bức dưới chế độ phong kiến cũng không còn. Nhưng vẫn còn đó, những câu ca dao, bài ca dao phản ánh hiện thực đau lòng của một thời. Ai oán và bi thương, lòng ta không khỏi rưng rưng khi đọc những lời than vãn cho mình, cho người, cho số phận của đồng loại cùng chung chịu kiếp con cò – qua rất nhiều bài ca dao. Một trong số đó là bài ca dao than thân chan chứa đau đớn, xót xa:
Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay
Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
Bài ca dao là tiếng than thân tràn lệ. Thân cò và cò con trong bài ca dao này là ẩn dụ nói về người phụ nữ nông dân và con cái của họ. Hai thế hệ, hai kiếp người đau khổ. Người đàn bà nhà quê sống lẻ loi một mình quanh năm côi cút làm ăn toan lo nghèo khó, vất vả giữa cuộc đời. Suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời mà vẫn cơm không đủ ăn áo không đủ mặc. Xem thêm: Chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ngày làm chẳng đủ ăn thi phải kiếm ăn cả đêm. Thật vất vả khổ cực bao nhiêu, đời sống của họ là những khó khăn triền miên.
Con cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Tần tảo sớm hôm nuôi gia đình con cái nhưng ông trời có lẽ không công bằng, bởi nếu công bằng thì trước những lời ai oán đó ông trời sao không xúc động?
Lên thác xuống ghềnh – chỉ sự vất vả gian nan trong cuộc đời, lận đận một mình. Không phải là ngày một, ngày hai mà là bấy nay; kiếp người đằng đẵng bao năm giữa chốn nước non mênh mông này.
Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay
Trong khung cảnh nước non mênh mông bao la ấy, cái cò chỉ có một mình. Cảnh đời nghèo khổ về vật chất và tinh thần khiến cho họ chỉ biết kêu, kêu mà chẳng biết kêu ai. Nghèo vẫn hoàn nghèo, họ cố tìm cách thay đổi cảnh ngộ mà không sao thoát khỏi:
Cây khô xuống nước cũng khô
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo
Cái vòng luẩn quẩn, bế tắc ấy người nông dân muốn vượt ra ngoài nhưng không thể thoát được. Do vậy mà lời ai oán của thân cò – người mẹ đau khổ cất lên như thấm đẫm nước mắt. Xem thêm: Viết một đoạn văn (từ 8 đến 10 câu) nêu cảm nhận của em về con người Đỗ Phủ qua ước muốn vĩ đại của ông được thể hiện qua bài thơ: “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” (Mao Ốc vị thu phong sở phá ca) Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con
Cảnh đời ngang trái, loạn lạc bể đầy, ao cạn. Ai làm là lời ám chỉ, tố cáo bọn thống trị gây ra bao cảnh ngang trái làm cho gầy cò con. Đời mẹ đã gian nan lận đận, đời con càng đói rét đau thương. LỜI thơ như tiếng nấc, như lời nguyền đay nghiến lên án bọn thống trị tham quan. Thân phận họ nhỏ bé như con tằm, con kiến. Mà con tằm, con kiến thì:
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào..
Cuộc đời là cái vòng luẩn quẩn, họ hoàn toàn không làm chủ được bản thân, cuộc đời. Ai làm cho họ khổ, thật bỉ đát họ chỉ biết than thân trách phận kêu trời. Niềm cay đắng, bị áp bức bót lột biết bao giờ cho hết nỗi oan khiên. Đời cái cò gian lao điêu đứng lao đao. Trong họ niềm khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc được thoát khỏi nghèo nàn cho chính họ và kiếp sau của họ. Bài ca dao chứa chan tình nhân đạo và giá trị tố cáo phản kháng sâu sắc. Đây cũng chính tiếng nói tập thể của những người dân lao động trong xã hội áp bức bất công. Đọc bài ca dao chúng ta càng đồng cảm hơn với những con người khốn khổ một thời trong xã hội ấy. Xem thêm: "Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra" (“Cổng trường mở ra”, Lí Lan). Em có suy nghĩ gì khi đọc câu văn trênVanmau.edu.vn
|
The feelings of oppressed people through the folk song: "The country struggles alone. The stork's body has been going up waterfalls and rapids all this time. Who fills that tank? Let that pond dry up, let the little stork be thin?
Suggest
The nation's long night of slavery has passed. The miserable human lives and the tragic and miserable scenes of life caused by robbery and oppression under feudalism no longer exist. But there are still folk songs and folk songs that reflect the painful reality of that time. Grieving and sad, our hearts can't help but cry when reading the lamentations for ourselves, for others, for the fate of our fellow human beings who share the stork's life - through many folk songs. One of them is a lament song filled with pain and sorrow:
Young country struggles alone
The stork's body has been going up waterfalls and rapids all this time
Who fills that tank?
Let that pond dry up, let the little stork be skinny?
The folk song is a tearful lament. The stork and baby stork in this folk song are metaphors about farmer women and their children. Two generations, two lives of suffering. The country woman lives alone all year round, working as an orphan, worrying about poverty and hardship in life. All day long, I sell my face to the earth and my back to the sky, but I still don't have enough food and clothes to wear. See more: Proving that protecting the forest is protecting our lives Storks go out to eat at night
Land on a soft branch and flip your neck into the pond
There is not enough food to eat during the day, so you have to look for food all night. It's so hard and miserable, their life is full of constant difficulties.
The stork goes to catch the rain
It's dark and gloomy, who will bring the stork home?
Although Tan raised his family and children day and night, God was probably not fair, because if it was fair, why wouldn't God be moved by those plaintive words?
Going up waterfalls and down rapids - indicates the hardships in life, struggling alone. It's not day one or two, it's now; Human life lasts for many years in this vast country.
Young country struggles alone
The stork's body has been going up waterfalls and rapids all this time
In that vast landscape of water, the stork was alone. The material and spiritual poverty of life makes them only know how to cry, cry but do not know who to call. The poor are still poor, they try to find ways to change their situation but cannot escape:
When a tree dries out of the water, it also dries
Poor fate goes to poor tissue
Farmers want to get out of that vicious and deadlocked cycle but cannot. Therefore, the plaintive words of the stork body - the suffering mother - sounded like they were soaked in tears. See more: Write a paragraph (from 8 to 10 sentences) stating your feelings about the person Du Fu through his great wish expressed through the poem: "Song of thatched houses destroyed by the wind" (Mao Snails taste the autumn wind and destroy the ca) Who made that tank full?
Let that pond dry up and let the little storks grow thin
The scene of life is contrary and chaotic, the tank is full, the pond is dry. Whoever did it was an insinuation, denouncing the rulers for causing so many cruel scenes that made children skinny. My mother's life has been difficult, my child's life has been even more hungry and cold and painful. POETRY'S WORDS are like sobs, like harsh curses condemning corrupt rulers. Their status is as small as silkworms or ants. But silkworms and ants:
An ant climbing a banyan branch
Climb on dead branches to climb in and out..
Life is a vicious circle, they have absolutely no control over themselves or their life. Whoever makes them suffer is truly miserable, they only know how to complain about their fate and cry to heaven. The bitterness and oppression will never end the injustice. A stork's life is arduous and miserable. In them there is a burning desire to live happily and escape poverty for themselves and their next life. The folk song is filled with humanity and profound denunciation value. This is also the collective voice of working people in an unjustly oppressive society. Reading the folk song makes us more sympathetic to the miserable people of that time in that society. See more: "Go, my child, be brave, this world is yours, step through the school gate and a magical world will open" ("The school gate opens", Ly Lan). What do you think when reading the sentence on Vanmau.edu.vn?
|
Nụ cười hài hước trong bài ca dao: Chàng dẫn thế em lấy làm sang… Để cho con lợn, con gà nó ăn
Hướng dẫn
Chàng dẫn thế, em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang:
Củ to thì để mời làng
Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi.
Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà;
Bao nhiêu củ rim, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Ta đang chứng kiến một cuộc đối đáp hết sức thú vị giữa những kì phùng địch thủ. Chả có ai nhận lầm về nhau trong cuộc chơi này. Có gái – người đưa ra vế đáp-không đặt mục tiêu "phản pháo" chàng trai như trong trường hợp của mộ sốbài ca dao khác vốn chứa đựng ý châm chọc và khích bác. Cô đã chấp nhận lời nói khoác của chàng trai như một phần tất yếu của cuộc chơi, để rồi tiếp tục thúc đẩy tinh thần hài hước của nó phát triển trong lời đáp lại. Đừng tưởng qua hai dòng đầu của vế đáp, cô gái chỉ hiện lên như một con người dịu dàng, đúng mực và khiêm nhường. Những phẩm chất đó có thể vốn có ở cô, nhưng trong tình huống này, nó đang bị lấn át bởi một phẩm chất khác tạm gọi là "bản lĩnh". Biết chàng nói khoác mà vẫn trả lời bằng giọng nhẹ như không – đó chẳng phải là bằng chứng cho thấy cô cũng là kẻ rất biết đùa hay sao? Nhưng cái đùa của cô mang một vẻ tinh tế rất riêng và cũng rất phụ nữ. Điều quan trọng khác là cô thấy mình không thể làm tổn thương chàng trai về chuyện chàng nghèo. Chàng trai đã đùa cho vui, nhưng như trên đã nói, đùa có thể còn là một cách đậy kín nỗi buồn thân phận. Cô gái hiểu điều đó cho nên khi buông lời đùa lại, cô vẫn khéo léo gài vào một niềm cảm thông nếu được nói thẳng ra bằng giọng nghiêm trang, thật thà vẫn có thể gây nên chút tự ái ở chàng trai, và hơn nữa, nó sẽ phá hỏng quy ước của cuộc chơi. Cô gái lại cũng ý thức được điều này nên đã khỏa lấp ý tính của mình bằng cách nêu một sự kiện phi lí: "Người ta thách lợn, thách gà – Nhà em thách cưới một nhà khoai lang". Một tương quan so sánh quá chênh lệch có thể khiến người nghe phì cười! Một củ khoai lang hay cả một nhà khoai lang thì cũng thế. Nói ra cho nhiều nhưng giá trị của vật phẩm không vì thế mà được nhìn nhận khác đi. Theo nhận thức bình thường, khoai lang dù là một trong những loại lương thực chính của người bình dân, nhưng với tư cách là đồ thách cưới, nó quá tầm thường, bé mọn. Tiếng cười đã nổ ran ran chung quanh làm tăng ý vị của cuộc đối đáp. Chàng trai có thể cũng cười, nhưng trong lòng, chàng hẳn phải xúc động. Chàng đã nhận ra sự cảm thông từ phía cô gái. Tuy thế, sự giao cảm vẫn là chuyện riêng, kín đáo của hai người, còn trước mắt thiên hạ, họ vẫn cứ phải đẩy tiếng cười đi đến tận cùng lô-gích của nó. Toàn bộ sự phân loại (khoai lang) và dự tính (mời những ai, mời gì) của cô gái đã chứng minh "nội dung" thách cưới chỉ cần tới khoai lang không phải là chuyện "hoang đường" như ai đó có thể nghĩ. Với khoai lang, người ta vẫn chu tất được với mọi đối tượng, từ làng xóm đến họ hàng, từ người lớn đến trẻ nhỏ, từ con người nói chung đến những giống gia súc, gia cầm quen thuộc. Nguời ta thường bảo nói láo có sách là như thế. Cô gái cũng như chàng trai, quả là thuộc lòng thứ sách dạy nghề này.
Nếu chú ý hơn một chút, ta sẽ còn nhận ra một điều hơi lạ: lời đáp của cô gái dài hơn lời "đối" của chàng trai và ở nữa sau lời cô nói, ý đùa cợt đã nhạt đi đến mức nó gần như thành lời giãi bày tâm tình rất mực trung hậu. Thì ra thế, sau những sự bông đùa, khoác lác cho vui, cái còn đọng lại là tình người. Rõ ràng, toàn bộ bài ca dao là tiếng nói hài hước của những con người lạc quan, yêu đời, sống giàu tình nghĩa
Nguồn: thêm: Phân tích hình tượng nhân vật ông lái đò trong bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân
|
The humorous smile in the folk song: If you lead me, I will be proud... Let the pigs and chickens eat
Instruct
You lead me, I take it as a luxury,
What if I interrupt like...
People challenge pigs to challenge chickens,
My family challenges me to marry a sweet potato family:
Large tubers are meant to be invited to the village
As for small tubers, relatives play around.
How many fresh tubers, honey!
In order to keep the children dissipated;
How many tubers, mint,
Let the pigs and chickens eat...
We are witnessing a very interesting exchange between rivals. No one makes mistakes about each other in this game. The girl - the one who gives the answer - does not aim to "reflect" the guy as in the case of some other folk songs that contain sarcasm and encouragement. She accepted the boy's bragging as an inevitable part of the game, then continued to promote his humorous spirit in her response. Don't think that through the first two lines of the response, the girl only appears as a gentle, correct and humble person. Those qualities may be inherent in her, but in this situation, they are being overwhelmed by another quality temporarily called "courage". Knowing that he was bragging but still answering in a light voice - isn't that proof that she is also a good joker? But her joke has a very unique and feminine sophistication. Another important thing is that she felt she could not hurt the boy about his poverty. The boy joked for fun, but as mentioned above, joking can also be a way to cover up his sadness. The girl understands that, so when joking back, she still cleverly inserts a sense of sympathy that, if said directly in a serious, honest voice, can still cause a little pride in the guy, and moreover. , it would ruin the convention of the game. The girl was also aware of this, so she covered her intentions by stating an absurd event: "People challenge pigs, challenge chickens - My family challenges me to marry a sweet potato family." A comparison that is too different can make the listener laugh! It's the same with a sweet potato or a whole house of sweet potatoes. It may be said a lot, but the value of the item cannot be viewed differently. According to normal perception, although sweet potatoes are one of the main foods of ordinary people, as a wedding favor, it is too trivial and petty. Laughter erupted all around, increasing the flavor of the conversation. The boy may also laugh, but inside, he must be emotional. He recognized sympathy from the girl. However, the communication is still a private, secret matter between the two people, and in front of the world, they still have to push laughter to its logical end. The girl's entire classification (sweet potatoes) and plans (who to invite, what to invite) have proven that the "content" of the wedding invitation requiring only sweet potatoes is not a "myth" as someone might think. think. With sweet potatoes, people can still serve everyone, from neighbors to relatives, from adults to children, from people in general to familiar livestock and poultry breeds. People often say that lying is like that. Girls and boys alike know this vocational book by heart.
If we pay a little more attention, we will also notice something a bit strange: the girl's reply was longer than the boy's "answer" and in the second half of what she said, the joke faded to the point that it was almost into a very loyal expression of feelings. It turns out that after all the joking and boasting for fun, what remains is human love. Obviously, the entire folk song is the humorous voice of optimistic people who love life and live richly in love.
Source: more: Analysis of the image of the boatman character in the essay "Song Da boatman" by Nguyen Tuan
|
Nụ cười hài hước trong bài ca dao: Cưới nàng anh toan dẫn voi… Dẫn con chuột béo mời dân, mời làng.
Hướng dẫn
Cưới nàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Đây là vế đối, lời của chàng trai! Trong đời sống, người ta vốn không ưa loại người "Mười voi không được bát nước xáo", nghĩa là loại người khoác lác, huênh hoang, nói nhiều, hứa nhiều nhưng chẳng làm được cái gì cho ai khác. Vế đối của bài ca dao này bề ngoài có vẻ đang cho ta tiếp cận một con người, một chàng trai thuộc loại đó. Thực ra thì không phải vậy. Chàng trai quả có nói khoác, nhưng anh ta tự biết mình đang nói khoác và cũng chẳng che giấu người nghe sự nói khoác ấy. Nói khoác cho vui – bất cứ ai muốn nghe chàng nói đều phải hiểu quy ước ấy để khỏi có đánh giá lầm lẫn về một con người.
Trong hệ thống những thủ tục cưới xin ngày trước, thách cưới thường đặt ra cho người con trai đi hỏi vợ một vấn nạn. Nhà nghèo mà phía gia đình cô gái đòi hỏi đồ dẫn cưới quá cao thì chàng trai chỉ còn cách chào thua. Hoặc giả, anh cũng muốn chuẩn bị lễ vật thật hậu hĩnh cho xứng với nàng, và đặc biệt là để thể hiện tấm thịnh tình của anh, nhưng tình trạng "kiết xác" khiến anh bị bó tay. Rất có thể chàng trai trong bài ca daonày gặp phải một tình huống dở khóc dở cười như vậy. Thôi thì đành mượn tiếng cười bông lơn để che giấu "nỗi đau" vậy. (Hoàn toàn có thể giả định một hoàn cảnh diễn xướng khác: tất cả chỉ là chuyện dựng lên để gây cười – một tiếng cười vô tư, nhẹ nhõm trong giao tiếp hằng ngày của các chàng trai, cô gái).
Xem thêm: Nét độc đáo trong bài thơ “Hầu Trời”Cái hay của vế đối trong bài ca dao dĩ nhiên gắn liền với thủ pháp cường điệu, phóng đại. Nhưng để cảm nhận cho thấu đáo điều này, ta không thể không chú ý tới trình tự xuất hiện từ to đến nhỏ của những đồ dẫn cưới mà chàng trai từng dự tính đưa tới nhà nàng. To hay nhỏ không thuần túy thuộc phạm trù khối lượng mà chủ yếu thuộc phạm trù sang, quý, có giá trị. Chàng trai quả là suy tính rất ráo riết. Hết phương án này đến phương án khác được đưa ra nhưng khổ thay cuối cùng đềukhông thực hiện được. Ta không thể trách chàng về sự thiếu hiểu biết và thái độ quan tàm chu đáo. Chàng không chỉ biết lo cho xong việc mình mà còn biết lo cho người khác, đặc biệt là lo cho họ nhà gái nữa (sợ họ máu hàn không ăn được thịt trâu, sợ họ nhà nàng co gân khi dùng thịt bò). Thì ra vấn đề chỉ là lí do khách quan chứ không phải vì lí do bó buộc về "kinh tế”. Chàng đã từng dự tính đem voi làm đồ dẫn cưới cơ mà! Quả là một dự tính "hoành tráng" – "hoành tráng" tới mức huyễn hoặc. Đáng tiếc là nó đổ vỡ bởi chàng chợt nhớ ra voi chính là hàng quốc cấm. Biết làm sao bây giờ? Một sáng kiến mới nảy ra. Voi, trâu, bò tuy khác nhau nhưng đều có chung một đặc điểm là thú bốn chân. Hóa ra đồ dẫn cưới phải cần tới thú bốn chân chứ gì? Việc này có thể giải quyết được! Thế là chàng trai đi tới quyết định (quyết định chứ không phải nêu dự tính nữa): "Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng". Thế là xong nhé, chuột ở đây cũng là chuột béo chứ chả phải đùa. Ai dám bảo đồ dẫn cưới này không xứng đáng với nàng, với họ nhà nàng?.
Đến với vế đối của bài ca dao, ta được thưởng thức tài nói khoác đã đạt tới mức "thượng thừa" của chàng trai. Nói khoác nhưng rất có bài bản. Mọi tình tiết đưa ra đều hợp lí để thuyết phục mọi người tin rằng cái quyết định cuối cùng là… đại hợp lí. Dĩ nhiên, muốn bắc được chiếc cầu từ voi, trâu, bò (những thứ đồ sính lễ "đáng kể") tới chuột (đồ sính lễ đáng gọi là bôi bác, không thể chấp nhận), chàng trai đã phải sử dụng đến một xảo thuật hay một phép ngụy biện tài tình: thì chúng giống nhau cả, chỉ là loài thú bốn chân chứ có khác gì đâu. Trong khi người nghe lời chàng trai đã trôi tới điểm kết thúc. Chàng trai đã nói xong và đã "kích hoạt" được trung khu thần kinh gây cười ở mọi người!
Riêng đối với chàng trai, tiếng cười mà anh đưa tới cho chúng ta rất có thể trước đó đã giúp chính anh quên đi phần nào mặc cảm nghèo hèn để tiếp tục sống, tiếp tục mơ mộng và… nói khoác.
Nguồn: thêm: Giới thiệu một loài hoa (như hoa đào, hoa mai,...) hoặc một loài cây (như cây chuối, cây na,...)
|
Humorous smile in the folk song: To marry her, he planned to bring an elephant... He brought a fat mouse to invite the people, invite the village.
Instruct
To marry her, he planned to lead an elephant
He was afraid of a national ban, so he didn't discuss it.
Leading the buffalo, afraid of their cold blood
Leading the cow, I'm afraid her family will get sick.
As long as there are four-legged animals
Bring the fat mouse, invite the people, invite the village.
This is the opposite, the guy's words! In life, people inherently do not like the type of person "Ten elephants cannot cover a bowl of water", meaning the type of person who brags, brags, talks a lot, promises a lot but can't do anything for anyone else. The antithesis of this folk song seems to be giving us access to a person, a guy of that type. Actually, that's not the case. The young man did indeed brag, but he knew he was bragging and did not hide his bragging from the listener. Flattering for fun – anyone who wants to listen to him must understand that convention to avoid making a wrong assessment of a person.
In the old system of wedding procedures, the wedding challenge often posed a question to the man who asked his wife. If the family is poor and the girl's family demands too much wedding favors, the boy has no choice but to give up. Or maybe, he also wanted to prepare a generous gift to deserve her, and especially to show his affection, but his "deadly" situation left him at a loss. It's very possible that the guy in this folk song encountered such a funny and sad situation. Well, I have to borrow a laugh to hide the "pain". (It is completely possible to assume a different performance situation: it's all just a story made up to make people laugh - a carefree, relieved laughter in the daily communication of boys and girls).
See more: Unique features in the poem "Almost Heaven" The beauty of the antithesis in folk songs is of course associated with the method of exaggeration and exaggeration. But to fully appreciate this, we cannot help but pay attention to the order of appearance, from large to small, of the wedding accessories that the man planned to bring to her house. Big or small does not purely belong to the category of volume but mainly belongs to the category of luxury, precious, and valuable. The guy is really thinking very hard. One option after another was proposed, but unfortunately in the end, it could not be implemented. We cannot blame him for his lack of understanding and thoughtful attitude. He not only knows how to take care of his own work, but also knows how to take care of others, especially the girl's family (afraid that her bloodline family cannot eat buffalo meat, afraid that her family's tendons will contract when using beef). It turned out that the problem was only for objective reasons, not because of "economic" reasons. He had once planned to bring an elephant as a wedding favor! What a "grand" - "grand" plan. majestic" to the point of illusion. Unfortunately, it broke down because he suddenly remembered that elephants were banned national goods. What should he do now? A new idea arose. Elephants, buffaloes, and cows are different, but they all have something in common. One characteristic is a four-legged animal. It turns out that the wedding favor requires a four-legged animal, right? This can be solved! So the boy came to a decision (a decision, not a plan): "Bring a fat mouse, invite the people, invite the village." That's it, the mouse here is also a fat mouse, no joke. Who dares to say that this wedding invitation is not worthy of her, of her family?
Coming to the opposite side of the folk song, we can enjoy the young man's bragging talent that has reached the "superior" level. Exaggerating but very methodical. Every detail given is reasonable to convince everyone that the final decision is... reasonable. Of course, in order to build the bridge from elephants, buffaloes, and cows (those "significant" bride-price items) to mice (the bride-price items that are worthy of being called defamatory and unacceptable), the young man had to use a trick or an ingenious fallacy: they are all the same, they are just four-legged animals and there is no difference. While the person listening to the young man's words drifted to the end. The boy finished speaking and "activated" the laughter nerve center in everyone!
As for the young man, the laughter he brought to us most likely helped him forget some of his feelings of poverty to continue living, continuing to dream and... brag.
Source: more: Introduce a flower (like peach blossom, apricot blossom,...) or a tree (like banana tree, custard apple tree,...)
|
Nụ cười hài hước trong một số bài ca dao
Hướng dẫn
Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng chống gối, gánhhai hạt vừng.
Bài ca dao chế giễu những đấng nam nhi kém cỏi, sức vóc yếu ớt, không thể làm chỗ dựa và trụ cột cho ai được. Dòng thơ đầu tiên xét riêng ra không có yếu tố gây cười. Nó chứa đựng một đòi hỏi nghiêm túc đối với kẻ làm trai, giống như câu mở đầu của một số bài ca dao khác không hề có giọng bỡn cợt, như "Làm trai cho đáng nên trai – Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên" hoặc "Làm trai cho đáng nên trai – Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng". Nhưng cái hay trong cách mở đầu bài ca dao này lại ở chỗ đó. Nó đánh lạc hướng người nghe và do đó giúp tác giả dân gian giấu được ngòi nổ gây cười cho đến phút chót, khi nó tạo ra một tâm lí chờ đợi những sự dẫn giải trang trọng. Thử giả định dòng thơ có hình thức "Làm trai chẳng đáng sức trai" thì hai từ chẳng đáng sẽ hoàn toàn làm lộ ý tác giả, khiến sau cùng, nếu bài ca dao có làm bật lên được tiếng cười thì tiếng cười đó chắc cũng không giòn giã lắm.
Vế đầu của dòng thơ thứ hai vẫn mang tính chất của dòng thứ nhất. Chưa ai cười được với chừng ấy dữ kiện đã có. Từ sức trai cho đến khom lưng chống gối, ta mới chỉ thấy xuất hiện một lô-gích bình thường. Nó vẫn cứ còn đánh lừa người tiếp nhận, vẫn cứ gợi lên tâm lí chờ đợi một sự kiện xứng đáng, khi thấy người đàn ông đang triển gân để chuẩn bị chứng tỏ sức mạnh của mình. Muốn kiểm chứng điều này, ta chỉ cần thay cụm từ hạt vừng bằng cụm từ quả đồi là sẽ rõ. Lúc đó, ta sẽ chỉ có một bài ca dao hoàn toàn "nghiêm nghị".
Với bài ca dao này, tiếng cười chỉ thực sự nổ ra khi xuất hiện cụm từ hạt vừng. Chao ôi! tưởng sẽ thấy gì, hóa ra là thấy một kẻ nam nhi "dởm", đến việc gánh hai hạt vừng mà cũng phải cố, như thể đang làm một việc trọng đại và quá sức. Càng bị nén chặt, tiếng cười càng bật ra sảng khoái. Đến lúc này, ta mới nhận thấy hết thủ pháp "giấu bài" tuyệt diệu của tác giả dân gian. Chắc người sáng tác hoàn toàn ý thức được vấn đề: tiếng nổ chỉ bất ngờ khi trước đó năng lượng được nén chặt, thật chặt.
Rõ ràng, trước khi hình ảnh gánh hai hạt vừng được trưng ra, sức mạnh gây cười của tất cả các yếu tố ngôn ngữ khác chỉ tồn tại ở khả năng tiềm ẩn!
Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo
Xem thêm: Tuổi trẻ với tình yêu. (Yêu cầu viết bài văn)Nhân vật trữ tình của bài ca dao là một người phụ nữ, một người vợ. Chị đang than thở với ta về cái vô tích sự của đức ông chồng. Để làm rõ cái vô tích sự đó, không có gì hay hơn việc dùng phép so sánh – đối lập. Chồng người thì thế ấy, chồng em thì thế này… Ta không thể không bật cười trước cử chỉ vô nghĩa lí củaanh chồng ngồi bếp sờ đuôi con mèo. Một chi tiết thật đắt, đã thực sự tóm bắt được thần thái của đối tượng. Bằng cách đọc liên văn bản, ta còn cảm nhận được từ bài ca dao một cảm giác ngao ngán lớn hơn, khi người phụ nữ nhìn thấy chồng mình chẳng khác gì con mèo – con vật mà trong một bài ca dao khác từng được miêu tả: "Con mèo nằm bếp co ro — ít ăn, ít ngủ, ít lo, ít làm"… Rõ ràng, tiếng cười trong bài ca dao là một tiếng cười phê phán. Hẳn nhiều đức ông chồng phải giật mình khi nghe đến bài ca dao này.
Lổ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o…
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!
Nếu chỉ giữ lại những dòng lục trong bài ca dao và tước bỏ đi toàn bộ các dòng bát, ta sẽ có bức chân dung khá hoàn chỉnh về một phụ nữ vô duyên, vô tâm, vô lo và nói chung là nhếch nhác. Loại phụ nữ đó, loại người vợ đó quả khó mê, nếu không muốn nói là không thể chấp nhận được. Để nhấn mạnh thêm thái độ dị ứng của mình và để chân dung đối tượng, mang đúng tính chất biếm họa, tác giả dân gian đã dùng thủ pháp phóng đại ở dòng lục thứ nhất và dòng lục thứ bảy. Tiếng nói phê bình dù muốn hay không cũng cứ hiện diện trong bài ca dao.
Tuy nhiên, đó chỉ là giả định. Bài ca dao là một cấu trúc hoàn chỉnh. Bên cạnh các dòng lục có chức năng miêu tả chân dung của người vợ thì còn có cấc dòng bát thể hiện những phản ứng độ lượng khác thường, rất khác thường của đức ông chồng. Ông ta hình như không biết giận vợ. Bất cứ nết xấu nào của phu nhân cũng được nhìn nhận theo chiều hướng tích cực. Phải chăng toàn bộ phản ứng của ông ta đang làm sáng tỏ một quy luật tâm lí: yêu nên tốt, đã yêu thì xấu cũng hóa ra đẹp và thậm chí khái niệm xấu trở nên xa lạ? Rất có thể bài ca dao cũng đã chứa đựng nội dung này.
Nhưng hình như ta vẫn chưa nhìn nhận bài ca dao thực sự như một chỉnh thể. Phải thấy rằng trong bài có sự đan xen của khá nhiều thái độ đánh giá và do vậy, các thái độ đó tương tác với nhau, chế ước lẫn nhau để bài ca dao không phát triển theo chiều hướng quá nghiêm trang – nghiêm trang một cách không thật cần thiết. Cũng bởi vậy, ấn tượng mà bài ca dao trước hết có thể đưa đến cho người đọc là một ấn tượng khôi hài.Trước khi phải nghĩ ngợi sâu xa, ta đã được sống trong không khí của một tiếng cười sảng khoái, bật ra do tác động của lối nói ngoa ngôn và của những chi tiết phi lí vốn miêu tả những phản ứng không thể xảy ra trong cuộc sống bình thường.
Nguồn: thêm: Suy nghĩ về vai trò của người mẹ trong gia đình
|
Humorous smiles in some folk songs
Instruct
Be a man worthy of being a man,
Bend your back, support your knees, and carry two sesame seeds.
The folk song mocks men who are incompetent, weak in strength, and unable to be a support and pillar for anyone. The first line of the poem alone has no humorous elements. It contains a serious demand for those who become men, like the opening lines of some other folk songs that have no joking tone, such as "Being a man worthy of being a man - Down to Dong Dong Tinh, up to Doai Doai yen" or "Being a man worthy of being a man - Phu Xuan has experienced it, Dong Nai has experienced it". But the beauty in the way this folk song begins is right there. It distracts the listener and thus helps the folk author hide the trigger for laughter until the last minute, when it creates a psychology of waiting for formal explanations. Let's assume that the line of the poem has the form "Being a man is not worthy of being a man", then the two unworthy words will completely reveal the author's intention, causing in the end, if the folk song can evoke laughter, that laughter will surely Not very crispy either.
The first part of the second line of the poem still has the characteristics of the first line. No one has ever laughed with that much data. From strength to bending over on knees, we only see a normal logic appear. It still deceives the recipient, still evokes the psychology of waiting for a worthy event, when seeing the man flexing his muscles to prepare to demonstrate his strength. To verify this, we just need to replace the phrase sesame seeds with the phrase hill and it will be clear. At that time, we will only have a completely "serious" folk song.
With this folk song, laughter only really breaks out when the phrase sesame seeds appears. Alas! What he thought he would see was actually a "foolish" man, trying to even carry two sesame seeds, as if he were doing an important and overwhelming task. The more tightly it is compressed, the more joyfully the laughter bursts out. Only at this point do we fully realize the wonderful "hiding" tactics of the folk author. Surely the composer was fully aware of the problem: the explosion was only sudden when the energy had previously been compressed tightly, very tightly.
Obviously, before the image of carrying two sesame seeds was shown, the amusing power of all other linguistic elements existed only in potential!
Husbands go back and forth
My husband sat in the kitchen touching the cat's tail
See more: Youth with love. (Required essay writing) The lyrical character of the folk song is a woman, a wife. She is complaining to me about her husband's uselessness. To clarify that futility, there is nothing better than using comparison and contrast. Your husband is like that, my husband is like this... I can't help but laugh at the meaningless gesture of the husband sitting in the kitchen touching the cat's tail. A truly precious detail that truly captures the subject's charisma. By reading intertextually, we can also feel from the folk song a greater feeling of boredom, when the woman sees her husband as no different from a cat - an animal that was once described in another folk song. describes: "The cat lies in the kitchen curled up - rarely eats, sleeps less, worries less, does less"... Clearly, the laughter in the folk song is a critical laughter. Many husbands must be startled when they hear this folk song.
Eighteen nostrils of hair
My husband loves me, he says he has a dragon beard from heaven.
Lying down at night, snoring loudly...
My husband loves me and says he snores for fun at home.
When you go to the market, you often get gifts
My husband loves me, he told me to come home and help him eat.
On top are trash and straw
My husband said the first sprinkle scented flowers!
If we only keep the green lines in the folk song and strip away all the eight lines, we will have a fairly complete portrait of an ungainly, heartless, carefree and generally unkempt woman. That type of woman, that type of wife is truly difficult to love, if not unacceptable. To further emphasize his allergic attitude and to portray the subject with true caricature, the folk author used exaggeration in the first and seventh lines. Whether we like it or not, critical voices are always present in folk songs.
However, that is just an assumption. A folk song is a complete structure. Besides the green lines that have the function of depicting the wife's portrait, there are also eight lines that express the husband's unusually generous reactions. He doesn't seem to know how to be angry with his wife. Any bad habits of the lady are seen in a positive way. Is his entire reaction clarifying a psychological law: love should be good, once loved, ugliness will also become beautiful and even the concept of ugliness becomes strange? It is possible that the folk song also contains this content.
But it seems we still do not see the folk song as a real whole. It must be seen that in the song there is a mixture of many evaluative attitudes and therefore, those attitudes interact with each other and constrain each other so that the folk song does not develop in a direction that is too serious - too serious. not really necessary. Because of that, the first impression that a folk song can give to the reader is a humorous one. Before having to think deeply, we already live in an atmosphere of cheerful laughter, bursting out. under the influence of hyperbole and absurd details that describe reactions that could not occur in ordinary life.
Source: more: Thinking about the role of the mother in the family
|
Phan Từ “Lưu biệt khi xuất dương” của Bội Châu, anh (chị) rút ra được những bài học gì về lí tưởng, khát vọng sống của bản thân
Gợi ý
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?
Non song đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Muốn vượt bể đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”.
Ấy là những lời Phan Bội Châu đã “Lưu biệt trước khi xuất dương” để từ giã bạn bè, đồng chí khi sang Nhật Bản tìm đường cứu nước. Lời lưu biệt ấy không chỉ làm cho chúng ta hiểu hơn quan niệm về chí nam nhi của thời trung đại mà còn mang lại cho chúng ta rất nhiều bài học về khát vọng và lý tưởng sống của bản thân trong thời đại hiện nay.
Bài thơ thể hiện tư duy mới mẻ, khát vọng của người chí sĩ cách mạng trong buổi ra tìm đường cứu nước. “Lưu biệt khi xuất dương” khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm cao độ và những ý tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Hai câu đầu nói đến chí làm trai nói chung. Hai câu thơ khẳng định một lẽ sống đẹp. “Phải lạ” nghĩa là phải biết sống cho phi thường, hiển hách, phải dám mưu đồ những việc lớn, xoay chuyển càn khôn, chứ không sống tẻ nhạt, buông xuôi theo số phận, để cho con tạo xoay vần. Với Phan Bội Châu, đó là sự kế tiếp khát vọng sống đầy nhiệt huyết của nhân vật trữ tình trong “Chơi xuân” của Nguyễn Công Trứ:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ chí vẫy vùng trong bốn bể
Làm trai, đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế”.
Nhưng dường như nó có phần táo bạo và quyết liệt hơn. Con người dám đối diện với càn khôn để tự khảng định mình, vượt qua cái “mộng công danh” thường gắn liền với hai chữ hiếu, trung để vươn tới những lí tưởng nhân quần, xã hội rộng lớn và cao cả hơn. Khát khao có thể thay đổi sự “tự chuyển dời” của trời đấy, lý tưởng sống tiến bộ đã tạo cho con người một tư thế mới, khỏe khoắn, ngang tàng, ngạo nghễ, thách thức và có thể làm nên tất cả.Xem thêm: Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ Và trong thời đại của Phan Bội Châu, lý tưởng đó được thể hiện cụ thể như thế nào? Không chỉ đối lại với càn khôn, người nam nhi còn tiếp tục khẳng định mình cùng với thời gian. Người nam nhi được đặt trong sự vô cùng của thời gian, trong sự vô tận của không gian nhưng không hề vô nghĩa. Chí làm trai đã gắn với ý thức về cái tôi, nhưng là một cái tôi công dân đầy trách nhiệm trước cuộc đời. Đi từ khẳng định dứt khoát đến giọng nghi vấn, nhưng cũng để nhằm khẳng định một cách quyết liệt hơn một khát vọng sống hiển hách, phát huy hết tài năng và chí khí, cống hiến cho đời. Ý chí, khát vọng đó tiếp tục nâng người chiến sĩ cách mạng lên một tầm cao mới, càng làm tăng đến vô cùng sức mạnh của khát vọng và niềm tin. Chí làm trai lại được gắn với thực tế của nước nhà:
“Non song đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
Lẽ nhục – vinh được gắn với sự tồn vong của đất nước. Không chỉ như vậy, một người từng gắn bó với cửa Khổng sân Trình lại có dám lên tiếng đối mặt với cả nền học vấn cũ để nhận thức một chân lý: sách vở thánh hiền chẳng giúp được gì trong buổi nước mất nhà tan. Tất cả xuất phát từ lòng yêu nước, từ một khát khao cháy bỏng muốn tìm ra được một con đường đúng đắn để đưa nước nhà ra khỏi cảnh khổ đau. Bài thơ kết lại trong tư thế và khát vọng lên đường của nhân vật trữ tình. Câu thơ xuất hiện những hình ảnh hết sức lớn lao: bể Đông, cánh gió, muốn trùng sóng bạc. Tất cả như đều hòa nhập vào con người trong tư thế bay lên thật lãng mạn và hào hùng, con người đuổi theo ngọn gió đài trên đại dương bao la cùng muốn ngàn sóng bạc bay lên. Bức tranh hoành tráng mà hài hòa, ở đó, con người là trung tâm, chắp cánh khát vọng hùng vĩ, vút bay cao cùng ngọn gió, ngọn sóng, lồng lộng giừa biển trời mênh mông, vút bay tới chân trời mơ ước. Hình ảnh sử thi thắp sáng niềm tin, hi vọng cho thời đại mới, thế kỉ mới.Xem thêm: Trình bày những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của tác gia Xuân Diệu
Như vậy, với Phan Bội Châu, “làm trang nam nhi không phải bằng mọi cách để lưu danh sử sách, khẳng định cá nhân mà cá nhân ấy phải làm nên sự nghiệp phi thường, ấy là việc kinh bang tế thế, cứu dân cứu nước. Khát vọng sống cao cả của Phan Bội Châu giúp ta hiểu thêm cốt cách vĩ đại của con người kiệt xuất này” (Chu Văn Sơn). Viết dưới ảnh hưởng của quan niệm về chí nam nhi vốn đã phổ biến trong thời trung đại nhưng vượt lên trên tất cả, cái người ta cảm nhận được trên hết vẫn là lý tưởng và khát vọng chân thành từ một tấm lòng yêu nước, một trái tim đầy nhiệt huyết và khát khao cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người ta nhận ra rằng: đó mới là cái thôi thúc Phan Bội Châu làm bài thơ lưu biệt, mới là nguyên nhân khiến cho ông vượt muôn trùng sóng bể. Nếu như đó chỉ vì chịu ảnh hưởng của quan niệm nam nhi, sự ra đi ấy tuy vẫn đáng trân trọng nhưng cũng sẽ giảm đi giá trị rất nhiều. Phan Bội Châu ra đi bởi sự thôi thúc của chí nam nhi, và cao hơn nữa là sự thôi thúc của lý tưởng và khát vọng sống thật đẹp của bản thân: khát vọng sống cống hiến cho đất nước. Và khi đó, hình ảnh Phan Bội Châu, tâm thế của người ra đi càng trở nên hùng tráng, lãng mạn, đẹp hơn bao giờ hết.
Hình ảnh người ra đi với “Muôn trùng song bạc tiễn ra khơi” mang theo bao lý tưởng, khát vọng sống và công hiến cao đẹp khiến cho chúng ta, những người trẻ tuổi hôm nay phải suy nghĩ về chính mình. Lý tưởng và khát vọng chính là những động lực cho con người sống một cách có ý nghĩa hơn, sống để có ích cho đời, sống để cống hiến cho xã hội. Một người có lý tưởng và khát vọng sống cao đẹp không chỉ mang lại cho mình một vị thế đáng được trân trọng mà còn là một người sống có ích, sống có nghĩa trong xã hội. Nếu như trước kia, lý tưởng và khát vọng sống cao đẹp giúp cho Phan Bội Châu ra đi, quyết tâm tìm ra con đường cứu nước thì ngày nay, lý tưởng đó cũng là điều rất cần thiết đối với mỗi con người đặc biệt là những người trẻ tuổi. Có lí tưởng và khát vọng, con người sẽ có thể sống một cách có ý nghĩa, biết đặt ra những mục tiêu, và thực hiện những mục tiêu đó. Khát vọng, lý tưởng nâng con người tìm đến với nhưng đỉnh cao mới, những hạnh phúc mới, tìm đến ý nghĩa đích thực của cuộc sống, vượt qua những nhàm chán, vô vị đôi khi con người hiện đại vẫn đang phải đối mặt. Trong xã hội hiên đại, lý tưởng và khát vọng càng là một điều cần thiết đối với bản thân mỗi con người. Cuộc sống hiện đại, con người phải đối mặt với biết bao vấn đề. Đó không chỉ là những thách thức, đòi hỏi của cuộc sống mới yêu cầu con người phải phấn đấu không ngừng. Đó còn là những thử thách, những trở ngại, những khó khăn mà họ gặp trong cuộc sống. Khi ấy, nếu như không có một ý chí vững vàng, lý tưởng sống đúng đắn, con người sẽ rất dễ đị chệch con đường dẫn tới chân lý và lẽ phải, dẫn tới thành công. Lý tưởng và khát vọng sống đúng đắn cũng sẽ trở thành đôi cánh nâng con người vượt ra khỏi cuộc sống tầm thường, vô nghĩa lý để sống một cách có ý nghĩa hơn. Điều này càng quan trọng và có ý nghĩa đối với những người trẻ tuổi, những người đang mới bắt đầu bước vào cuộc sống, đang cần phải cống hiến, cần phải khẳng định mình và ý nghĩa sự sống của bản thân mình với cuộc đời. Lý tưởng và khát vọng của Phan Bội Châu, khiến cho người ta phải suy nghĩ về ý nghĩa của nó đến tận ngày hôm nay.Xem thêm: Tự ti và tự phụ là hai thái độ trái ngược nhau nhưng đều ánh hưởng không tốt đến kết quả học tập và công tác. Em hãy phân tích hai căn bệnh trên Lý tưởng sống và khát vọng ra đi của Phan Bội Châu khiến cho người ta phải trân trọng, cảm phục. Hơn thế nữa, nó còn là một tấm gương, là bài học dành cho thế hệ sau, để chúng ta sống có lý tưởng, khát vọng, sống có ý nghĩa hớn.
Vanmau.edu.vn
|
Phan Từ “Lưu biệt khi xuất dương” của Bội Châu, anh (chị) rút ra được những bài học gì về lí tưởng, khát vọng sống của bản thân
Gợi ý
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?
Non song đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Muốn vượt bể đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”.
Ấy là những lời Phan Bội Châu đã “Lưu biệt trước khi xuất dương” để từ giã bạn bè, đồng chí khi sang Nhật Bản tìm đường cứu nước. Lời lưu biệt ấy không chỉ làm cho chúng ta hiểu hơn quan niệm về chí nam nhi của thời trung đại mà còn mang lại cho chúng ta rất nhiều bài học về khát vọng và lý tưởng sống của bản thân trong thời đại hiện nay.
Bài thơ thể hiện tư duy mới mẻ, khát vọng của người chí sĩ cách mạng trong buổi ra tìm đường cứu nước. “Lưu biệt khi xuất dương” khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm cao độ và những ý tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Hai câu đầu nói đến chí làm trai nói chung. Hai câu thơ khẳng định một lẽ sống đẹp. “Phải lạ” nghĩa là phải biết sống cho phi thường, hiển hách, phải dám mưu đồ những việc lớn, xoay chuyển càn khôn, chứ không sống tẻ nhạt, buông xuôi theo số phận, để cho con tạo xoay vần. Với Phan Bội Châu, đó là sự kế tiếp khát vọng sống đầy nhiệt huyết của nhân vật trữ tình trong “Chơi xuân” của Nguyễn Công Trứ:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ chí vẫy vùng trong bốn bể
Làm trai, đứng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế”.
Nhưng dường như nó có phần táo bạo và quyết liệt hơn. Con người dám đối diện với càn khôn để tự khảng định mình, vượt qua cái “mộng công danh” thường gắn liền với hai chữ hiếu, trung để vươn tới những lí tưởng nhân quần, xã hội rộng lớn và cao cả hơn. Khát khao có thể thay đổi sự “tự chuyển dời” của trời đấy, lý tưởng sống tiến bộ đã tạo cho con người một tư thế mới, khỏe khoắn, ngang tàng, ngạo nghễ, thách thức và có thể làm nên tất cả.Xem thêm: Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ Và trong thời đại của Phan Bội Châu, lý tưởng đó được thể hiện cụ thể như thế nào? Không chỉ đối lại với càn khôn, người nam nhi còn tiếp tục khẳng định mình cùng với thời gian. Người nam nhi được đặt trong sự vô cùng của thời gian, trong sự vô tận của không gian nhưng không hề vô nghĩa. Chí làm trai đã gắn với ý thức về cái tôi, nhưng là một cái tôi công dân đầy trách nhiệm trước cuộc đời. Đi từ khẳng định dứt khoát đến giọng nghi vấn, nhưng cũng để nhằm khẳng định một cách quyết liệt hơn một khát vọng sống hiển hách, phát huy hết tài năng và chí khí, cống hiến cho đời. Ý chí, khát vọng đó tiếp tục nâng người chiến sĩ cách mạng lên một tầm cao mới, càng làm tăng đến vô cùng sức mạnh của khát vọng và niềm tin. Chí làm trai lại được gắn với thực tế của nước nhà:
“Non song đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
Lẽ nhục – vinh được gắn với sự tồn vong của đất nước. Không chỉ như vậy, một người từng gắn bó với cửa Khổng sân Trình lại có dám lên tiếng đối mặt với cả nền học vấn cũ để nhận thức một chân lý: sách vở thánh hiền chẳng giúp được gì trong buổi nước mất nhà tan. Tất cả xuất phát từ lòng yêu nước, từ một khát khao cháy bỏng muốn tìm ra được một con đường đúng đắn để đưa nước nhà ra khỏi cảnh khổ đau. Bài thơ kết lại trong tư thế và khát vọng lên đường của nhân vật trữ tình. Câu thơ xuất hiện những hình ảnh hết sức lớn lao: bể Đông, cánh gió, muốn trùng sóng bạc. Tất cả như đều hòa nhập vào con người trong tư thế bay lên thật lãng mạn và hào hùng, con người đuổi theo ngọn gió đài trên đại dương bao la cùng muốn ngàn sóng bạc bay lên. Bức tranh hoành tráng mà hài hòa, ở đó, con người là trung tâm, chắp cánh khát vọng hùng vĩ, vút bay cao cùng ngọn gió, ngọn sóng, lồng lộng giừa biển trời mênh mông, vút bay tới chân trời mơ ước. Hình ảnh sử thi thắp sáng niềm tin, hi vọng cho thời đại mới, thế kỉ mới.Xem thêm: Trình bày những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của tác gia Xuân Diệu
Như vậy, với Phan Bội Châu, “làm trang nam nhi không phải bằng mọi cách để lưu danh sử sách, khẳng định cá nhân mà cá nhân ấy phải làm nên sự nghiệp phi thường, ấy là việc kinh bang tế thế, cứu dân cứu nước. Khát vọng sống cao cả của Phan Bội Châu giúp ta hiểu thêm cốt cách vĩ đại của con người kiệt xuất này” (Chu Văn Sơn). Viết dưới ảnh hưởng của quan niệm về chí nam nhi vốn đã phổ biến trong thời trung đại nhưng vượt lên trên tất cả, cái người ta cảm nhận được trên hết vẫn là lý tưởng và khát vọng chân thành từ một tấm lòng yêu nước, một trái tim đầy nhiệt huyết và khát khao cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người ta nhận ra rằng: đó mới là cái thôi thúc Phan Bội Châu làm bài thơ lưu biệt, mới là nguyên nhân khiến cho ông vượt muôn trùng sóng bể. Nếu như đó chỉ vì chịu ảnh hưởng của quan niệm nam nhi, sự ra đi ấy tuy vẫn đáng trân trọng nhưng cũng sẽ giảm đi giá trị rất nhiều. Phan Bội Châu ra đi bởi sự thôi thúc của chí nam nhi, và cao hơn nữa là sự thôi thúc của lý tưởng và khát vọng sống thật đẹp của bản thân: khát vọng sống cống hiến cho đất nước. Và khi đó, hình ảnh Phan Bội Châu, tâm thế của người ra đi càng trở nên hùng tráng, lãng mạn, đẹp hơn bao giờ hết.
Hình ảnh người ra đi với “Muôn trùng song bạc tiễn ra khơi” mang theo bao lý tưởng, khát vọng sống và công hiến cao đẹp khiến cho chúng ta, những người trẻ tuổi hôm nay phải suy nghĩ về chính mình. Lý tưởng và khát vọng chính là những động lực cho con người sống một cách có ý nghĩa hơn, sống để có ích cho đời, sống để cống hiến cho xã hội. Một người có lý tưởng và khát vọng sống cao đẹp không chỉ mang lại cho mình một vị thế đáng được trân trọng mà còn là một người sống có ích, sống có nghĩa trong xã hội. Nếu như trước kia, lý tưởng và khát vọng sống cao đẹp giúp cho Phan Bội Châu ra đi, quyết tâm tìm ra con đường cứu nước thì ngày nay, lý tưởng đó cũng là điều rất cần thiết đối với mỗi con người đặc biệt là những người trẻ tuổi. Có lí tưởng và khát vọng, con người sẽ có thể sống một cách có ý nghĩa, biết đặt ra những mục tiêu, và thực hiện những mục tiêu đó. Khát vọng, lý tưởng nâng con người tìm đến với nhưng đỉnh cao mới, những hạnh phúc mới, tìm đến ý nghĩa đích thực của cuộc sống, vượt qua những nhàm chán, vô vị đôi khi con người hiện đại vẫn đang phải đối mặt. Trong xã hội hiên đại, lý tưởng và khát vọng càng là một điều cần thiết đối với bản thân mỗi con người. Cuộc sống hiện đại, con người phải đối mặt với biết bao vấn đề. Đó không chỉ là những thách thức, đòi hỏi của cuộc sống mới yêu cầu con người phải phấn đấu không ngừng. Đó còn là những thử thách, những trở ngại, những khó khăn mà họ gặp trong cuộc sống. Khi ấy, nếu như không có một ý chí vững vàng, lý tưởng sống đúng đắn, con người sẽ rất dễ đị chệch con đường dẫn tới chân lý và lẽ phải, dẫn tới thành công. Lý tưởng và khát vọng sống đúng đắn cũng sẽ trở thành đôi cánh nâng con người vượt ra khỏi cuộc sống tầm thường, vô nghĩa lý để sống một cách có ý nghĩa hơn. Điều này càng quan trọng và có ý nghĩa đối với những người trẻ tuổi, những người đang mới bắt đầu bước vào cuộc sống, đang cần phải cống hiến, cần phải khẳng định mình và ý nghĩa sự sống của bản thân mình với cuộc đời. Lý tưởng và khát vọng của Phan Bội Châu, khiến cho người ta phải suy nghĩ về ý nghĩa của nó đến tận ngày hôm nay.Xem thêm: Tự ti và tự phụ là hai thái độ trái ngược nhau nhưng đều ánh hưởng không tốt đến kết quả học tập và công tác. Em hãy phân tích hai căn bệnh trên Lý tưởng sống và khát vọng ra đi của Phan Bội Châu khiến cho người ta phải trân trọng, cảm phục. Hơn thế nữa, nó còn là một tấm gương, là bài học dành cho thế hệ sau, để chúng ta sống có lý tưởng, khát vọng, sống có ý nghĩa hớn.
Vanmau.edu.vn
|
Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh
Gợi ý
Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh rất độc đáo, phong phú và đa dạng về ngôn ngữ, về giọng văn, về thể loại, về sắc thái biểu cảm. Một cây bút uyên bác, tài hoa sử dụng tiếng Pháp, chữ Hán và tiếng Việt để sáng tác thơ ca, truyện kí, văn chính luận; ở phương diên nào, thể loại nào, Người cũng thu được những thành tựu đặc sắc. Một lối viết ngắn gọn, đầy ấn tượng: Người hay dùng thơ tứ tuyệt; Tuyên ngôn độc lập chỉ có khoảng 1000 chữ, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chỉ có 196 chữ,…
Lối kể chuyện ở truyện kí rất biến hóa; biến hóa về tình tiết, sự việc, biến hóa về giọng văn dí dỏm, hài hước, vừa thâm trầm, vừa sâu cay. Cái cử chỉ khinh bỉ của Phan Bội Châu đối với Va-ren, lối vi hành của vua bù nhìn Khải Định mãi mãi là “bia miệng”ở đời!
Thơ ca để tuyên truyền, vận động cách mạng được Người viết bằng thơ năm chữ, thơ lục bát rất bình dị, dễ hiểu, đi sâu vào lòng người. Có khi Bác dùng hình thức diễn ca lịch sử, lại có lúc Bác dùng hình thức ngụ ngôn, ẩn dụ để khêu gợỉ đồng bào đoàn kết, vùng lên đánh Pháp, đuổi Nhật (Ca sợi chỉ, Hòn đá to, Con cáo và tổ ong, Nhóm lửa, Trẻ chăn trâu, Chơi trăng…).
Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi
Chiếu lên cờ độc lập, tự do Xem thêm: Phân tích để làm nổi bật cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Nhóm lửa
(Ngày 1 tháng 8 năm 1942)
Có lúc, Người dùng hình thức chơi chữ để châm biếm, khinh bỉ. Pê-tanh là thống chế, là tổng thống Pháp đã quỵ gối đầu hàng phát xít Đức một cách nhục nhã:
Bán nước lại còn khoe cứu nước
Ô danh mà muốn được thơm danh
Già mà như chú, già thêm dại
Tiếng xấu muôn đời nhuốc sử xanh.
Tặng thống chế Pê-tanh
(Ngày 11 tháng 7 năm 1942)
Người gọi toàn quyền Đờ-cu là “chú”,một kẻ hèn hạ chỉ biết “đội khu”, bê đít phát xít Nhật:
Đối dân Việt Nam thì lên mặt
Gặp bọn Phù Tang chí đội khu,
(…) Cũng như thống chế Pê-tanh vậy
Chú cứ cu cù được mãi ru!
Tặng toàn quyền Đờ-cu
(Ngày 11 tháng 8 năm 1942)
Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh mang vẻ đẹp trữ tình, hàm súc, cổ điển. Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông… đều là tâm hồn của Bác, lúc thì san sẻ nỗi đau buồn với nhà thơ đang bị cùm trói trong ngục tối; lúc thì đang đồng hành, đang tâm tình với người chiến sĩ trên dặm đường khói lửa trường chinh. Thiên nhiên trở thành tri âm, tri kỉ của Bác. Người tả ít mà gợi nhiều. Ngoại cảnh và hồn người đồng điệu, nhiều thơ mộng thanh cao:
Hoa hương thấu nhập lung muôn lí
Hướng tai lung nhân tố bất bình.
Vãn cảnh (Cảnh chiều hôm)
(Hương hoa bay thấu vào trong ngục,
Kể với tù nhân nỗi bất bình)
– Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng,
Chính thị Liên khu báo tiệp thì.Xem thêm: Nêu cảm nhận của anh (chị) về bốn câu thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử) Báo tiệp (Tin thắng trận)
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về.
Văn chính luận của Hồ Chí Minh thể hiện một phong cách da dạng, đặc sắc, độc đáo. Những số liệu, những nhân chứng được nói tới trong “Bản án chế độ thực dân Pháp” là sự thật lịch sử mà kẻ thù của dân tộc ta không thể nào chối cãi! “Tuyên ngôn độc lập”,“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Không có gì quý hơn độc lập do”,… là những bài hịch, bài cáo trong thời đại Hồ Chí Minh; những văn kiện lịch sử trọng đại ấy đã thể hiện khát vọng độc lập, tự do và khí phách anh hùng của đất nước và con người Việt Nam. Giọng văn đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn vang lên như tiếng gọi tha thiết của non sông:
“Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946).
Sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật chính luận của Hồ Chí Minh là sự đan xen vào văn bản những vần thơ, tạo nên chất trữ tình đằm thắm, thiết tha, có sức lôi cuốnXem thêm: Phân tích bài thơ Tự Tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng.
Thư Trung thu gửi các cháu nhi đồng
(Ngày 13 tháng 9 năm 1951)
Nay tuy châu chấu đấu voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra.
Báo cáo chính trị
(tại Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng Lao động Việt Nam – ngày 11/2/1951)
Việt – Lào hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long.
(Tình hữu nghị Việt – Lào)
Tóm lại, văn thơ Hồ Chí Minh là di sản tinh thần, văn hóa vô cùng to lớn mà Người đã để lại cho đất nước ta, nhân dân ta.
Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam tỏa sáng lấp lánh trong thơ văn Hồ Chí Minh, mãi mãi là bài học xây dựng đất nước, bài học chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đối với mọi thế hệ con người Việt Nam trên hành trình vẻ vang đi tới tương lai.
Văn chương Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy cao độ mọi tinh hoa của nền văn hiến Đại Việt, đã kết hợp một cách tinh tế, hài hòa, sâu sắc mối quan hệ gỉữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa chính trị và văn học, giữa truyền thống và hiện đại.
“Hãy hát lên bài ca về Người”
Thơ văn Hồ Chí Minh là hành trang, là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam, hôm nay và ngày mai.
Vanmau.edu.vn
|
Artistic style of Ho Chi Minh
Suggest
Ho Chi Minh's artistic style is very unique, rich and diverse in language, tone, genre, and expressive nuances. An erudite and talented writer who uses French, Chinese and Vietnamese to compose poetry, memoirs, and political essays; In any direction or genre, he has achieved outstanding achievements. A concise, impressive writing style: People often use quatrains; The Declaration of Independence has only about 1,000 words, the call for national resistance has only 196 words,...
The storytelling style in memoirs is very variable; changes in details, events, changes in tone, witty, humorous, both profound and poignant. Phan Boi Chau's contemptuous gesture towards Varen and the behavior of the puppet king Khai Dinh will forever be "mouthpieces" in life!
Poetry for propaganda and revolutionary mobilization was written by him in five-word verses and six-eight verses that were very simple, easy to understand, and went deep into people's hearts. Sometimes Uncle Ho used the form of historical songs, and other times he used the form of fables and metaphors to evoke his compatriots to unite and rise up to fight the French and expel the Japanese (The Thread Song, The Big Stone, The Fox and the Japanese). beehive, Building a fire, Children herding buffalo, Playing on the moon...).
The fire of revolution lit up the land
Projection on the flag of independence and freedom See more: Analysis to highlight the romantic inspiration in Quang Dung's poem Tay Tien The Fire
(August 1, 1942)
At times, he used wordplay to satirize and scorn. Petal was the marshal and president of France who humiliatedly surrendered to the Nazis:
Selling the country and boasting about saving the country
Not having a good name but wanting to be famous
Old but like you, old becomes more foolish
Bad reputation forever tarnishes history.
Presented to Marshal Petal
(July 11, 1942)
The person who calls Governor-General Do-cu "uncle", a coward who only knows how to "squash" and bully the Japanese fascists:
When it comes to Vietnamese people, show up
Meet the Phu Tang group,
(…) Just like Marshal Petal
You can keep tickling me forever!
Giving full power to Do-cu
(August 11, 1942)
Ho Chi Minh's Chinese poetry has lyrical, concise, and classic beauty. Clouds, wind, moon, flowers, snow, mountains and rivers... are all Uncle's soul, sometimes sharing his sadness with the poet who is shackled in a dungeon; Sometimes I'm accompanying and confiding with the soldiers on the long journey of fire and smoke. Nature became Uncle's confidant and confidant. People describe little but evoke much. The external environment and the human soul are in harmony, with many poetic and sublime poems:
Fragrance flowers permeate all meanings
Direct the dissatisfied factors.
Scenery (Evening Scene)
(The fragrance of flowers drifts into the prison,
Tell prisoners their grievances)
- Son Lau enjoys the dream of autumn,
The Government of Lien Khu reported Tiep Tiep. See more: Describe your feelings about the first four verses in the poem This Vi Da Village (Han Mac Tu) Bao Tiep (News of Victory)
The bell suddenly woke up in autumn,
The news of the victory was reported by the Inter-region.
Ho Chi Minh's political writing shows a diverse, unique, and unique style. The figures and witnesses mentioned in "The verdict of the French colonial regime" are historical truths that our nation's enemies cannot deny! "Declaration of independence", "Call for national resistance", "Nothing is more precious than independence",... are songs and denunciations in the Ho Chi Minh era; Those important historical documents expressed the desire for independence, freedom and heroic spirit of the country and people of Vietnam. The voice is sharp, strong, and eloquent, resounding like the earnest call of the river:
“O fellow citizens!
We must stand up!
Any man, any woman, any old person, any young person, regardless of religion, party, or ethnicity. As long as you are Vietnamese, you must stand up to fight the French colonialists and save the Fatherland. Who has a gun gunpoint. Those who have swords use swords, but those who don't have swords use hoes, spades, and sticks. Everyone must try their best to fight against the French colonialists to save the country."
A call for nationwide resistance
(Hanoi, December 19, 1946).
The uniqueness of Ho Chi Minh's political art style is the interweaving of poems into the text, creating a loving, passionate, and attractive lyricism. See more: Analysis of the poem Tu Tinh 2 by Xuan Huong Lake is the best Mid-Autumn Festival with the moon shining like a mirror
Uncle Ho looked at the scenery and missed the children.
Mid-Autumn Festival letter to children
(September 13, 1951)
Now although grasshoppers fight elephants,
But the elephant's shell will have its intestines exposed.
Political reports
(at the Second Congress of the Vietnam Labor Party - February 11, 1951)
Vietnam and Laos, our two countries,
Love is deeper than Red River and Kowloon.
(Vietnam - Laos friendship)
In short, Ho Chi Minh's poetry is an extremely great spiritual and cultural heritage that he left for our country and our people.
Patriotism and Vietnamese revolutionary heroism shine brightly in Ho Chi Minh's poetry, forever being a lesson in building the country, a lesson in fighting to protect the Fatherland for all generations of Vietnamese people. Nam on a glorious journey to the future.
Ho Chi Minh's literature has inherited and highly promoted all the quintessence of Dai Viet civilization, delicately, harmoniously, and deeply combining the relationship between ideology and art, between politics and politics. literature, between tradition and modernity.
“Sing a song about Him”
Ho Chi Minh's poetry is the luggage and pride of the Vietnamese people, of Vietnamese youth, today and tomorrow.
Vanmau.edu.vn
|
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện rõ nét qua hình tượng con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà. Hãy phân tích và chứng minh.
Gợi ý
Dàn ý đại cương
Bước 1: Tìm hiểu đề trên câu chữ của văn bản.
– Nhận dạng đề: Đề phân tích một hình tượng của tác phẩm và là đề chìm (vì ngoài cụm từ "hình tượng con sông Đà", đề bài không hề nói thêm những ý cụ thể nào về hình tượng con sông ấy (điều này người làm bài phải suy nghĩ để tự tìm ra các ý). Nhưng đây lại không phải là đề phân tích một hình tượng đơn thuần mà phân tích hình tượng gắn với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, để chứng minh cho phong cách đó.
– Xác định yêu cầu của bài làm: Đề có hai cụm từ cần lưu ý: "phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân" và "hình tượng con sông Đà". Đó là hai ý của bài làm và hai ý này có mối quan hệ với nhau, nhưng là dạng đề phân tích hình tượng của tác phẩm nên ý "hình tượng con sông Đà" phải là ý trọng tâm, là yêu cầu chủ yếu của bài làm. Có thể xác định yêu cầu của bài làm như sau:
Phân tích hình tượng con sông Đà để chứng minh cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Bước 2: Định hướng giải đề bài.
Với yêu cầu trên, bài làm có thể theo hướng sau: nêu đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân làm tiền đề để soi sáng cho việc phân tích hình tượng con sông Đà trong bài tùy bút, và qua việc phân tích hình tượng ấy, phong cách nghệ thuật của nhà văn sẽ được sáng tỏ.Xem thêm: Tìm hiều tác phẩm Hai đứa trẻ Bước 3: Định ra dàn ý thích hợp (phần thân bài).
Như vậy dàn ý của đề bài này sẽ gồm 2 ý: phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và hình tượng con sông Đà – ý 1 là ý phụ, ý 2 là ý chính. Thứ tự sắp xếp: ý phụ để trước làm tiền đề chuẩn bị cho ý chính, ý chính để sau tiếp nôi ý phụ để giải quyết yêu cầu chủ yếu của bài làm. Ta có dàn ý đại cương (phần thân bài):
a. Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
b. Hình tượng con sông Đà in đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Đây là đề chìm nên các ý nhỏ trong hai ý lớn trên đây người làm bài phải huy động kiến thức sẵn có của mình, suy nghĩ để tìm ra (điều này liên quan đến mục 1 đã nói: phải nắm chắc kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa để làm bài). Đối với đề bài này, nếu học sinh nắm được các đặc điểm của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân thì sẽ tạo điều kiện để tìm ra nhừng vẻ đẹp riêng của hình tượng con sông Đà vôn được nhà văn nhìn nhận và miêu tả theo phong cách ấy. Từ đó mà chi tiết hóa hai ý lớn trên thành một dàn ý đầy đủ hơn:
I. Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân (nêu và phân tích vắn tắt những đặc điểm chủ yếu có liên quan đến hình tượng con sông Đà).
a. Một cây bút tài hoa và uyên bác: thiên nhiên hay con người đều được chú ý khám phá ở phương diện văn hóa, mĩ thuật của nó. Tính tư liệu phong phú, đầy giá trị thông tin về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục…Xem thêm: Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù (Có dàn ý chi tiết)
b. Một ngòi bút có thiên hướng thể hiện những cảm giác mãnh liệt, gây những ấn tượng đậm nét, hoặc đẹp tuyệt vời hoặc thật dữ dội…
c. Một con mắt nhìn sự vật ở chiều lịch sử, gắn quá khứ, hiện tại với tương lai.
d. Một giọng điệu tùy bút vừa nghiêm túc vừa phóng túng với ngôn ngữ giàu có, giá trị tạo hình cao.
II. Hình tượng con sông Đà in đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Con sông Đà, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, không còn là con sông của thiên nhiên – địa lí, mà được miêu tả như một sinh vật có tính cách vừa hung bạo vừa trữ tình:
* Con sông hung bạo (đoạn người lái đò vượt thác)
– Con sông được miêu tả như một con quái vật điên cuồng, hung dữ đang nhe nanh, múa vuốt hòng bóp chết và nuốt chửng con thuyền và người lái đò:
+ Thác nước gầm réo vang trời thanh la não bạt: khi thì "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng…", lúc lại "hồng hộc tế mạnh trên sông đá", có khi "đội cả thuyền lên" và "mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập"…
+ Thạch trận giăng trên sông thành 3 vòng vây như thiên la địa võng đòi "ăn chết cái thuyền", đá "nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền" hoặc "xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử"…
– Tác giả đã thể hiện những cảm giác mãnh liệt, gây những ấn tượng thật dữ dội khi miêu tả con sông Đà và trận thủy chiến trên cái thạch trận có một không hai ấy với người lái đò: "nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra…", sóng thác "bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò, hột sinh dục vụt muôn thọt lên cổ" và "mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuông mà châm lửa vào đầu sóng"…Xem thêm: Soạn bài Phong cảnh đền Hùnga. Con sông trữ tình (đoạn tiếp theo)
– Dưới con mắt nhìn nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện ra thật đẹp và trữ tình:
+ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…
+ Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ…
+ Con sông Đà gợi cảm như một cố nhân…
– Tâm hồn nghệ sĩ ấy lại đưa con sông về với thời gian xa xưa, với không gian tĩnh lặng để nó càng thêm thơ mộng trữ tình: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa"…
– Sông Đà còn gắn với thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh, với câu thơ của Lý Bạch và Tản Đà… gợi bao hoài niệm và thương nhớ bâng khuâng.
b. Tóm lại, hình tượng con sông Đà đã in đậm nhiều nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân mà nổi bật nhất là ở chỗ nhìn thiên nhiên ở phương diện vân hóa, thẩm mĩ, và ở chỗ nhà văn dễ có cảm hứng trước những hiện tượng gây cảm giác mạnh, hoặc dữ dội hoặc đẹp tuyệt vời, khiến cho con sông Đà trở thành một con sông vừa hung bạo vừa trữ tình.
Vanmau.edu.vn
|
Nguyen Tuan's artistic style is clearly expressed through the image of the Da River in the essay Da River Boatman. Analyze and prove.
Suggest
Outline outline
Step 1: Find out the topic of the text.
- Topic identification: The topic analyzes an image of the work and is a hidden topic (because besides the phrase "image of Da river", the topic does not say any specific ideas about the image of that river (this is true). This test taker must think to find the ideas themselves.) But this is not a simple analysis of an image, but an analysis of images associated with Nguyen Tuan's artistic style, to prove the style. there.
– Determine the requirements of the assignment: The assignment has two phrases to note: "artistic style of Nguyen Tuan" and "image of Da river". Those are the two ideas of the assignment and these two ideas are related to each other, but it is a form of image analysis of the work, so the idea "the image of the Da River" must be the central idea, the main requirement of the work. assignment. The requirements of the assignment can be determined as follows:
Analyzing the image of the Da River to prove Nguyen Tuan's artistic style
Step 2: Orientation to solve the problem.
With the above requirements, the essay can follow the following direction: highlight the characteristics of Nguyen Tuan's artistic style as a premise to illuminate the analysis of the image of the Da River in the essay, and through the analysis of the image. Then, the writer's artistic style will be clear. See more: Learn more about the work Two Children Step 3: Determine an appropriate outline (body part).
Thus, the outline of this article will include 2 ideas: Nguyen Tuan's artistic style and the image of the Da River - idea 1 is the secondary idea, idea 2 is the main idea. Order of arrangement: secondary ideas are placed first as a premise to prepare for the main idea, main ideas are placed next to secondary ideas to solve the main requirements of the assignment. We have an outline (body part):
a. Characteristics of Nguyen Tuan's artistic style.
b. The image of the Da River is bold in Nguyen Tuan's artistic style.
This is a hidden topic, so the small ideas in the two big ideas above, the test taker must mobilize their existing knowledge, think to find out (this is related to item 1 mentioned above: must have a solid grasp of basic knowledge). in the textbook for homework). For this topic, if students understand the characteristics of Nguyen Tuan's artistic style, it will create conditions for them to find the unique beauty of the image of the Da Volt river as perceived and described by the writer in his own way. that style. From there, detail the two big ideas above into a more complete outline:
I. Characteristics of Nguyen Tuan's artistic style (state and briefly analyze the main characteristics related to the image of the Da River).
a. A talented and erudite writer: nature or humans are both explored in their cultural and artistic aspects. Rich in material, full of valuable information about geography, history, culture, customs... See more: Analysis of Huan Cao's character in Death Row Prisoner (With detailed outline)
b. A pen has a tendency to express intense feelings, making bold impressions, either wonderfully beautiful or fierce...
c. An eye that sees things in a historical perspective, connecting the past, present and future.
d. An essayistic tone that is both serious and liberal with rich language and high visual value.
II. The image of the Da River is bold in Nguyen Tuan's artistic style
The Da River, under the pen of Nguyen Tuan, is no longer a river of nature - geography, but is described as a creature with a personality that is both violent and lyrical:
* Violent river (the part where the boatman goes over the waterfall)
– The river is described as a crazy, ferocious monster baring its fangs and claws to suffocate and swallow the boat and the ferryman:
+ The waterfall roars loudly in the sky: sometimes it "roars like the sound of a thousand buffaloes...", other times it "hurls loudly on the rocky river", sometimes it "lifts the whole boat" and "the The river vibrated and hissed like a hydroelectric turbine at the bottom of the dam"...
+ Stone formations spread out on the river into 3 encirclements like heaven and earth, demanding to "eat the boat to death", kicking "rising up to grab the boat" or "rushing out to try to grab the boat and drag it into the death door group"...
– The author expressed intense feelings, creating fierce impressions when describing the Da River and the naval battle on that unique formation with the ferryman: "the water clung to the boat like a capital." The object grabbed the boatman's waist and asked him to turn him over...", the waterfall "squeezed tightly around the boatman's crotch, his genitals shot up his neck" and "the river surface instantly lit up like a firefly tank door." The forest fire rushes down and lights a fire at the front of the wave"...See more: Prepare an article about Hunga Temple landscape. Lyrical river (next paragraph)
– Under Nguyen Tuan's artist's eyes, the Da River appears beautiful and lyrical:
+ The Da River flows long like a lyrical hair, the hair and roots are hidden in the clouds of the Northwest sky, blooming with rice flowers in February...
+ In spring, the river is jade green, in autumn, the water of the Da River is ripe and red...
+ The Da River is as sexy as an old friend...
- That artist's soul brings the river back to ancient times, with a quiet space to make it even more poetic and lyrical: "The river bank is as wild as a prehistoric bank. The river bank is as innocent as a feeling of sadness." "fairy tales of old"…
– Song Da is also associated with the myth of Son Tinh Thuy Tinh, with poems by Ly Bach and Tan Da... evoking so much nostalgia and longing.
b. In short, the image of the Da River has boldly imprinted many features of Nguyen Tuan's artistic style, most notably in looking at nature in terms of culture and aesthetics, and in the fact that the writer is easily inspired by the The phenomenon causes strong feelings, either fierce or wonderfully beautiful, making the Da River a river that is both fierce and lyrical.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phong cách nghệ thuật của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ
Thạch Lam là một trong những nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, tác phẩm của ông mang một phong cách đặc biệt thể hiện tài năng, sở trường sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Truyện ngắn Thạch Lam không hấp dẫn bạn đọc bằng những chi tiết xung đột gay cấn, mà gây xúc động độc giả bằng lối kể chuyện tâm tình, tâm sự về những cảnh đời, cảnh sống tối tăm, tù túng, tội nghiệp. Đây cũng chính là nét nổi trội trong phong cách Thạch Lam, và tác phẩm Hai đứa trẻ là một truyện tiêu biểu cho nét phong cách này.
Bức tranh phố huyện được miêu tả theo trình tự thời gian (khi chiều xuống, lúc đêm về, lúc đêm khuya có chuyến tàu chạy qua phố huyện). Điều đó thể hiện sâu sắc cái không khí, nhịp điệu, biến thái của thiên nhiên ngoại cảnh trong sự hòa hợp với tâm trạng, cảm xúc sâu kín trong thế giới nội tâm nhân vật qua từng thời khắc khác nhau.
Cảnh phố huyện lúc chiều xuống.
Cảnh phố huyện được gợi lên từ những âm thanh, hình ảnh.
Tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng của chị em Liên…
Cảnh phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, các nhà đã lên đèn, chợ đã tan mọi người về hết chỉ còn mấy đứa trẻ nhặt rác…
Liên là một cô gái có đời sống tâm hồn phong phú, nhạy bén với cuộc sống xung quanh, giàu tình thương, có những phát hiện tinh tế về cuộc sống con người nơi phố huyện.
Phân tích: Bức tranh phố huyện có sự trộn lẫn giữa hai loại chi tiết, hình ảnh: Hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi cái nghèo khó, lam lũ… Tất cả tác động thật thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ.
Cảnh phố huyện lúc chiều muộn thật êm ả nhưng cũng thấm đượm một nỗi buồn man mác như chính nỗi buồn trong tâm hồn Liên. Liên ngồi yên lặng, đôi mắt ngập đầy bóng tối, lòng buồn man mác, mơ hồ khó hiểu trước giờ khắc của ngày tàn. Cảnh chiều quê đã thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị.
Cảnh có sự hòa trộn bởi hai chi tiết gợi sự thi vị và lam lũ:
Sự thi vị: Tiếng trống thu không, phương tây đỏ rực như lửa cháy, mùi vị quen thuộc của đất đai…
Sự lam lũ: Tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi, phiên chợ vãn, những đứa trẻ nhặt rác…
Nhận xét: Nhà văn thật tinh tế trong miêu tả ngoại vật (cảnh ngày tàn) bằng những câu văn với giọng điệu nhẹ nhàng, trầm lắng, chứa đầy chất thơ, bộc lộ tâm trạng “buồn man mác” của nhân vật. Cảnh sắc và nỗi buồn trong tâm hồn trộn lẫn, nhuốm vào nhau, hô ứng hòa hợp, nhịp nhàng.
Cảnh phố huyện được miêu tả bằng sự hòa trộn giữa hai yếu tố: Ánh sáng và bóng tối. Từ những khe cửa của một vài cửa hàng, những ngôi sao lấp lánh lẫn với những vệt sáng của đom đóm, ngọn đèn hạt đỗ của chị Tý, ánh lửa hắt hiu từ gánh phở bác Siêu, ngọn đèn vặn nhỏ trong cửa hàng của Liên…
Đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng…
Tâm trạng Liên tràn ngập nỗi buồn khắc khoải, niềm mong ước (mơ hồ) một cái gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cuộc sống nghèo khổ thường ngày.
Xem thêm: Giới thiệu vài nét về Nguyễn Tuân và truyện “Chữ người tử từ"Ánh sáng và bóng tối hòa trộn vào nhau, nhưng bóng tối bao bọc, trùm phủ ánh sáng; ánh sáng lẻ loi, yếu ớt, chỉ là những “khe sáng”, “chấm sáng”, “vệt sáng”, “hột sáng” mà bóng tối thì mênh mông, dày đặc, như con quái vật khổng lồ đang vây diết, phủ trùm lên tất cả không gian phố huyện. Điều này gợi nỗi buồn đầy cảm thương, một sự tự ý thức (dù mơ hồ) về những kiếp người sống chìm khuất, khổ cực, tù túng nơi phố huyện.
Giọng điệu đoạn văn: Giọng văn nhẹ nhàng mang đầy chất thơ, câu văn như kéo dài ra, kết nối những mạch cảm xúc đang dâng lên trong tâm hồn nhân vật trước cảnh màn đêm dày đặc dần dần bao bọc phố huyện. Ví dụ: “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…”, “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa…”.
Chị em Liên chờ đợi chuyến tàu đêm là để thỏa mãn mong mỏi được ngắm đoàn tàu. Vì đoàn tàu đem theo “thế giới khác đi qua” tưng bừng hơn, sang trọng hơn, nhiều ánh sáng hơn của một Hà Nội xa xăm trong ký ức tuổi thơ (nơi đó có tuổi thơ chị em Liên sống những ngày hạnh phúc), một Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo.
Liên thấy buồn thấm thía và sâu xa về cuộc sống quẩn quanh, không thể thay đổi và mọi cái tươi sáng tốt đẹp chỉ là kỳ vọng, mơ hồ, xa xôi. Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”- Chi tiết mang lại cảm giác buồn thương, tội nghiệp cho những cuộc đời nhạt nhòe, vô nghĩa.
Ở đây có sự đối lập giữa hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện: “Sáng rực, vui vẻ và huyên náo”, gợi lại đầy ắp những kỷ niệm về Hà Nội, về những ngày sống hạnh phúc nhưng lại chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Như vậy, đoàn tàu chẳng những làm vơi đi cuộc sống tù túng, buồn tẻ nơi đây, mà trái lại càng làm cho phố huyện vắng lặng, tiêu điều, nỗi buồn càng thấm thía hơn trong tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ.
Như vậy, bức tranh phố huyện tác động sâu sắc tới đời sống tâm hồn con người nơi đây. Tương ứng với mỗi cảnh là một sắc thái cảm xúc của nhân vật Liên.
Thạch Lam thể hiện tài năng trong việc quan sát, miêu tả tỉ mỉ, tinh tế những biến thái trong tâm hồn, tâm trạng nhân vật. Cách xây dựng thế giới hình tượng độc đáo, cảnh sắc xung quanh hô ứng cho việc bộc lộ đời sống bên trong nhân vật. Đời sống nội tâm nhân vật thay đổi nhịp nhàng qua từng thời khắc.
Giá trị tư tưởng nhân đạo:
Bàn luận về giá trị tư tưởng nhân đạo của truyện, chú ý: Khi miêu tả đời sống nội tâm nhân vật cùng ngoại cảnh, Thạch Lam muốn nhấn sâu, tô đậm bức tranh phố huyện nghèo nàn, tù túng và niềm khao khát một cuộc sống tươi sáng. Chi tiết đợi chuyến tàu đêm của chị em Liên mang thông điệp tư tưởng nhân đạo của nhà văn: Hãy cứu lấy tâm hồn, cuộc sống trẻ thơ, để các em thực sự được sống trong tình thương yêu, hạnh phúc.
– Qua bức tranh phố huyện và tâm trạng của “hai đứa trẻ”, thể hiện tấm lòng thương cảm sâu sắc của tác giả đối với những kiếp sống tối tăm, mòn mỏi trong xã hội cũ, đồng thời mơ ước một cuộc sống tươi sáng hơn cho những con người nhỏ bé.
Truyện khẳng định một phong cách dộc đáo của Thạch Lam.
Truyện thể hiện một lối kết cấu độc đáo, truyện không có chuyện, không có mâu thuẫn, xung đột, chỉ là những chi tiết, hình ảnh khơi gợi cảm giác, suy tư trăn trở về những kiếp người sống tàn tạ, lay lắt nơi ga xép, phố huyện nghèo nàn.
Truyện đi sâu vào miêu tả tâm lý, tâm trạng nhân vật với những biểu hiện cảm xúc vi tế, mơ hồ mà có sức lay động tâm hồn sâu sắc.
Giọng điệu trữ tình, nhẹ nhàng, câu văn mang đậm chất thơ, diễn tả được nhiều sắc thái tâm trạng nhân vật.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Văn hào M.Go - rơ - ki viết: "Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới". Hãy bình luận ý kiến trên
|
Đề bài: Phong cách nghệ thuật của Thạch Lam qua truyện ngắn Hai đứa trẻ
Thạch Lam là một trong những nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, tác phẩm của ông mang một phong cách đặc biệt thể hiện tài năng, sở trường sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Truyện ngắn Thạch Lam không hấp dẫn bạn đọc bằng những chi tiết xung đột gay cấn, mà gây xúc động độc giả bằng lối kể chuyện tâm tình, tâm sự về những cảnh đời, cảnh sống tối tăm, tù túng, tội nghiệp. Đây cũng chính là nét nổi trội trong phong cách Thạch Lam, và tác phẩm Hai đứa trẻ là một truyện tiêu biểu cho nét phong cách này.
Bức tranh phố huyện được miêu tả theo trình tự thời gian (khi chiều xuống, lúc đêm về, lúc đêm khuya có chuyến tàu chạy qua phố huyện). Điều đó thể hiện sâu sắc cái không khí, nhịp điệu, biến thái của thiên nhiên ngoại cảnh trong sự hòa hợp với tâm trạng, cảm xúc sâu kín trong thế giới nội tâm nhân vật qua từng thời khắc khác nhau.
Cảnh phố huyện lúc chiều xuống.
Cảnh phố huyện được gợi lên từ những âm thanh, hình ảnh.
Tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng của chị em Liên…
Cảnh phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, các nhà đã lên đèn, chợ đã tan mọi người về hết chỉ còn mấy đứa trẻ nhặt rác…
Liên là một cô gái có đời sống tâm hồn phong phú, nhạy bén với cuộc sống xung quanh, giàu tình thương, có những phát hiện tinh tế về cuộc sống con người nơi phố huyện.
Phân tích: Bức tranh phố huyện có sự trộn lẫn giữa hai loại chi tiết, hình ảnh: Hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi cái nghèo khó, lam lũ… Tất cả tác động thật thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ.
Cảnh phố huyện lúc chiều muộn thật êm ả nhưng cũng thấm đượm một nỗi buồn man mác như chính nỗi buồn trong tâm hồn Liên. Liên ngồi yên lặng, đôi mắt ngập đầy bóng tối, lòng buồn man mác, mơ hồ khó hiểu trước giờ khắc của ngày tàn. Cảnh chiều quê đã thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị.
Cảnh có sự hòa trộn bởi hai chi tiết gợi sự thi vị và lam lũ:
Sự thi vị: Tiếng trống thu không, phương tây đỏ rực như lửa cháy, mùi vị quen thuộc của đất đai…
Sự lam lũ: Tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi, phiên chợ vãn, những đứa trẻ nhặt rác…
Nhận xét: Nhà văn thật tinh tế trong miêu tả ngoại vật (cảnh ngày tàn) bằng những câu văn với giọng điệu nhẹ nhàng, trầm lắng, chứa đầy chất thơ, bộc lộ tâm trạng “buồn man mác” của nhân vật. Cảnh sắc và nỗi buồn trong tâm hồn trộn lẫn, nhuốm vào nhau, hô ứng hòa hợp, nhịp nhàng.
Cảnh phố huyện được miêu tả bằng sự hòa trộn giữa hai yếu tố: Ánh sáng và bóng tối. Từ những khe cửa của một vài cửa hàng, những ngôi sao lấp lánh lẫn với những vệt sáng của đom đóm, ngọn đèn hạt đỗ của chị Tý, ánh lửa hắt hiu từ gánh phở bác Siêu, ngọn đèn vặn nhỏ trong cửa hàng của Liên…
Đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng…
Tâm trạng Liên tràn ngập nỗi buồn khắc khoải, niềm mong ước (mơ hồ) một cái gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cuộc sống nghèo khổ thường ngày.
Xem thêm: Giới thiệu vài nét về Nguyễn Tuân và truyện “Chữ người tử từ"Ánh sáng và bóng tối hòa trộn vào nhau, nhưng bóng tối bao bọc, trùm phủ ánh sáng; ánh sáng lẻ loi, yếu ớt, chỉ là những “khe sáng”, “chấm sáng”, “vệt sáng”, “hột sáng” mà bóng tối thì mênh mông, dày đặc, như con quái vật khổng lồ đang vây diết, phủ trùm lên tất cả không gian phố huyện. Điều này gợi nỗi buồn đầy cảm thương, một sự tự ý thức (dù mơ hồ) về những kiếp người sống chìm khuất, khổ cực, tù túng nơi phố huyện.
Giọng điệu đoạn văn: Giọng văn nhẹ nhàng mang đầy chất thơ, câu văn như kéo dài ra, kết nối những mạch cảm xúc đang dâng lên trong tâm hồn nhân vật trước cảnh màn đêm dày đặc dần dần bao bọc phố huyện. Ví dụ: “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…”, “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa…”.
Chị em Liên chờ đợi chuyến tàu đêm là để thỏa mãn mong mỏi được ngắm đoàn tàu. Vì đoàn tàu đem theo “thế giới khác đi qua” tưng bừng hơn, sang trọng hơn, nhiều ánh sáng hơn của một Hà Nội xa xăm trong ký ức tuổi thơ (nơi đó có tuổi thơ chị em Liên sống những ngày hạnh phúc), một Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo.
Liên thấy buồn thấm thía và sâu xa về cuộc sống quẩn quanh, không thể thay đổi và mọi cái tươi sáng tốt đẹp chỉ là kỳ vọng, mơ hồ, xa xôi. Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”- Chi tiết mang lại cảm giác buồn thương, tội nghiệp cho những cuộc đời nhạt nhòe, vô nghĩa.
Ở đây có sự đối lập giữa hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện: “Sáng rực, vui vẻ và huyên náo”, gợi lại đầy ắp những kỷ niệm về Hà Nội, về những ngày sống hạnh phúc nhưng lại chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Như vậy, đoàn tàu chẳng những làm vơi đi cuộc sống tù túng, buồn tẻ nơi đây, mà trái lại càng làm cho phố huyện vắng lặng, tiêu điều, nỗi buồn càng thấm thía hơn trong tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ.
Như vậy, bức tranh phố huyện tác động sâu sắc tới đời sống tâm hồn con người nơi đây. Tương ứng với mỗi cảnh là một sắc thái cảm xúc của nhân vật Liên.
Thạch Lam thể hiện tài năng trong việc quan sát, miêu tả tỉ mỉ, tinh tế những biến thái trong tâm hồn, tâm trạng nhân vật. Cách xây dựng thế giới hình tượng độc đáo, cảnh sắc xung quanh hô ứng cho việc bộc lộ đời sống bên trong nhân vật. Đời sống nội tâm nhân vật thay đổi nhịp nhàng qua từng thời khắc.
Giá trị tư tưởng nhân đạo:
Bàn luận về giá trị tư tưởng nhân đạo của truyện, chú ý: Khi miêu tả đời sống nội tâm nhân vật cùng ngoại cảnh, Thạch Lam muốn nhấn sâu, tô đậm bức tranh phố huyện nghèo nàn, tù túng và niềm khao khát một cuộc sống tươi sáng. Chi tiết đợi chuyến tàu đêm của chị em Liên mang thông điệp tư tưởng nhân đạo của nhà văn: Hãy cứu lấy tâm hồn, cuộc sống trẻ thơ, để các em thực sự được sống trong tình thương yêu, hạnh phúc.
– Qua bức tranh phố huyện và tâm trạng của “hai đứa trẻ”, thể hiện tấm lòng thương cảm sâu sắc của tác giả đối với những kiếp sống tối tăm, mòn mỏi trong xã hội cũ, đồng thời mơ ước một cuộc sống tươi sáng hơn cho những con người nhỏ bé.
Truyện khẳng định một phong cách dộc đáo của Thạch Lam.
Truyện thể hiện một lối kết cấu độc đáo, truyện không có chuyện, không có mâu thuẫn, xung đột, chỉ là những chi tiết, hình ảnh khơi gợi cảm giác, suy tư trăn trở về những kiếp người sống tàn tạ, lay lắt nơi ga xép, phố huyện nghèo nàn.
Truyện đi sâu vào miêu tả tâm lý, tâm trạng nhân vật với những biểu hiện cảm xúc vi tế, mơ hồ mà có sức lay động tâm hồn sâu sắc.
Giọng điệu trữ tình, nhẹ nhàng, câu văn mang đậm chất thơ, diễn tả được nhiều sắc thái tâm trạng nhân vật.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Văn hào M.Go - rơ - ki viết: "Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới". Hãy bình luận ý kiến trên
|
Đề bài: Phân tích phong cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn công Trứ
Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ sáng tác sau 1848 là năm ông cáo quan về hưu. Bài thơ có giá trị tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, cả trí tuệ, tài năng, cả cốt cách, cá tính và triết lí. Khúc ca trác tuyệt viết bằng thể Hát nói này là tài hoa và khí phách của “Ông Hi Văn”.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên.
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Khác với những bài hát nói khác, Nguyễn Công Trứ không mở đầu bằng hai câu chữ Hán mà bằng một câu Hán: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu Việt: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Câu thơ chữ Hán có nghĩa là trong vũ trụ này không có việc gì là không phải phận sự của ta. Đây là quan niệm thiêng liêng của nhà Nho mà Nguyễn Công Trứ đã nhận thức sâu sắc và hạnh động nhất quán từ trẻ cho đến già. Vì nhiễm quan điểm chính thống đó mà “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Câu thơ hay tuyệt! Nội lực phải dữ dội lắm mới có cái điệu tự hào như vậy. Tưởng chừng như Nguyễn Công Trứ cười một “ông Hi Văn” nào đó, không ngờ “ông Hi Văn” chính lại là Nguyễn Công Trứ! Con người suốt đời say mê công danh nhưng lại coi cái vòng công danh ấy là một cái “lồng”. Tại sao lại có thái độ khinh bạc ấy? Cũng dễ hiểu, Nguyễn Công Trứ là người có tài đã đem hết tài năng, trí tuệ giúp đời, cứu nước, cứu dân. Nhưng xã hội phong kiến mà ông cúc cung tận tụy lại quá bé nhỏ, thảm hại, ông Hi Văn luôn luôn cảm thấy bị ràng buộc, mất tự do, khác chi một con chim trong lồng!
Thành ra những hành động chọc trời khuấy nước, tài thao lược của vị đại tướng để trả “nợ tang bồng” cũng chẳng qua là hành vi bay nhảy của con chim trong lồng.
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Kể như thế cũng đã oanh liệt! Văn võ song toàn ở đỉnh cao. Ấy là tác giả chưa kể đến những công trạng khác mà ông đã sáng tạo và đóng góp cho dân cho nước. Nhưng như thế thì Nguyễn Công Trứ có gì khác với giới quan trường vào luồn ra cúi bấy giờ? Đây, “ông Hi Văn” đây rồi!
“Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”
“Ngất ngưởng” ngay trong những hoạt động chính thống! “Ngất ngưởng” ngay trên đỉnh cao danh vọng! Thật là hiếm thấy. Đấy không phải là bộ dạng, hành vi bên ngoài mà ngất ngưởng đã trở thành bản chất của Nguyễn Công Trứ. Là thái độ sống, cũng là cốt cách, là cá tính của “ông Hi Văn”. Làm quan cho một triều đại suy tàn của chế độ pk, giữa đám quan lại, mua bán tước, bên cạnh những “tiến sĩ giấy” oái oăm thay lại cùng trong một “lồng”, nên Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” cao ngạo là phải. Xét về mặt nhân cách thì thái độ “ngất ngưởng” là “công trạng” lớn nhất của Nguyễn Công Trứ. Thái độ “ngất ngưởng” xuyên suốt của cuộc đời. Nguyễn Công Trứ, nhưng xét đến cùng thì “ngất ngưởng” giữa triều, “ngất ngưởng” trên đỉnh cao danh vọng là thái độ đáng kính nhất của “ông Hi Văn”.
Ngông đã trở thành cốt tủy của Nguyễn Công Trứ. Trong tiểu triều “ngất ngưởng”, cáo quan về “ngất ngưởng”:
“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…”
Năm cởi áo mũ, cáo quan về hưu, không thèm cưỡi ngựa mà cưỡi bò vàng có đeo lục lạc, “ông Hi Văn” thật là “ngất ngưởng”. Chưa hết, ông còn cột mo cau sau đuôi bò, nói với thiên hạ là để che miệng thế gian. Rồi bỗng xuất hiện dãy núi quen thuộc của quê nhà: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Núi Đại Nại trên quê hương của thi nhân đẹp một cách hư ảo.
Xem thêm: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân QuỳnhNgười anh hùng chọc trời khuấy nước nay trở về lân la nơi cõi Phật. “Tay kiếm cung” ấy chỉ có làm đổ đình đổ chùa chứ sao “mà nên dạng từ bi”!
“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”
Vào chùa mà dắt theo cả ả đào thì chỉ có Nguyễn Công Trứ, hay nói đúng hơn chỉ có Nguyễn Công Trứ là thành thật. Sự thành thật đã làm cho câu thơ trở nên xôn xao, có lẽ còn ở tài hoa nữa. Từ “đủng đỉnh” hay quá, đây là nhịp đi của các nàng ả đào vào chùa, cái nhịp “đủng đỉnh” của tiếng chuông mõ tịch diệt, chứ không phải là nhịp “tùng”, “cắc” dưới “xóm”. Nhưng không phải “đủng đỉnh” chốc lát trước sân chùa mà ả đào thành ni cô. Thì cũng như Nguyễn Công Trứ vào cửa từ bi mà đâu có diệt được lòng ham muốn.
“Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Trong một xã hội mà cá nhân bị thủ tiêu, cá tính bị vo tròn, Nguyễn Công Trứ lại lồ lộ ra một cá nhân, hồn nhiên một cá tính. Với tinh thần nhân văn “ngất ngưởng”, nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã đi trước thời đại hàng thế kỉ!
Theo dõi bài ca từ đầu, ta thấy đã diễn ra ba giai điệu “ngất ngưởng”. “Gồm thao lược đã nên ngất ngưởng” là “ông Hi Văn” “ngất ngưởng” ở trong “lồng”. Đây là giai điệu kỳ tuyệt, thể hiện khí phách của Nguyễn Công Trứ. Nói một cách khác đây là chiến thắng oanh liệt của sự tự diệt (khi lên đỉnh cao danh vọng người ta không còn là mình nữa). “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là giai điệu Nguyễn Công Trứ cáo quan về hưu “ngất ngưởng”. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là giai điệu tự hào của Nguyễn Công Trứ muốn “ngất ngưởng” thoát tục.
Và đây là giai điệu cuối có giá trị tổng kết cuộc đời của một nhà nho trung nghĩa mà không đánh mất mình:
“Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Đối với Nguyễn Công Trứ, “được mất dương dương người tái thượng”. Tác giả dùng điển tích “Tái ông thất mã”. Được chưa chắc là may, mất chưa hẳn là rùi. Trong cuộc sống bon chen đó, “được mất” một chút là người ta có thể làm thịt nhau, mà Nguyễn Công Trứ lại có thái độ bất biến trước sự được mất thì phải nói “ông Hi Văn” có bản lĩnh cao cường. Lại còn “khen chê” nữa, “khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Khen thì vui “phơi phới” đã đành, chứ sao chê mà cũng “phơi phới ngọn đông phong” nghĩa là cũng vui như ngọn gió xuân? Là vì cái gọi là chuẩn mực chính thống không trùng khít với chuẩn mực của nhà thơ. Thì mới oai phong đại tướng “Nguyễn Công Trứ đó đã bị cách tuột xuống làm lính thú, có hề chi, vẫn “phơi phới ngọn đông phong”. Có thể mất chức đại tướng nhưng miễn còn Nguyễn Công Trứ! Những âm thanh này mới làm bận lòng con người yêu đời, ham sống đó:
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục”
Các giác quan của nhà thơ mở về phía cuộc sống tự do, về phía cái đẹp, về phía hưởng lạc. Thơ, rượu, ca trù, hát ả đào mới là đam mê của Nguyễn Công Trứ. Câu thơ nhịp 2/2 réo rắt thật hay (khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng) làm sôi động cả khúc ca. Tác giả cũng không quên đánh giá lại công trạng của “ông Hi Văn” với triều đại mà ông phụng sự:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”
Nguyễn Công Trứ tự liệt vào hàng danh tướng, công thần đời Hán, đời Tống của Trung Quốc như Trái (Trái Tuân), Nhạc (Nhạc Phi), Hàn (Hàn Kì), Phú (Phú Bật). Ông tự hào như vậy là chính đáng, vì lý tưởng anh hùng của ông cũng không ngoài lí tưởng trung quân ái quốc của đạo Nho và ông đã sống thủy chung trọn đạo vua tôi.
Kể ra tìm một bậc danh sĩ văn võ song toàn như Nguyễn Công Trứ trong thời đại nào cũng hiếm, nhưng không phải là không có. Chứ còn “ông ngất ngưởng” thì tìm đâu ra?
“Trong triều ai ngất ngưởng như ông?”
Đây cũng là giai điệu cuối cùng của “Bài ca ngất ngưởng”. Tác giả đã chọn giai điệu “ngất ngưởng” đích đáng để kết thúc bài ca. “Ngất ngưởng” ngay trong triều, “ngất ngưởng” trên đỉnh núi cao danh vọng, đó là nhân cách, là khí phách của Nguyễn Công Trứ.
Nếu được chọn một tác phẩm tiêu biểu cho toàn bộ trước tác của Nguyễn Công Trứ thì đó là “Bài ca ngất ngưởng”. Con người, tài năng, khí phách, tinh hoa của Nguyễn Công Trứ thể hiện sinh động trong tác phẩm trác tuyệt này. Thể hát nói đã thành thơ, thơ hay, vừa triết lí, vừa trữ tình, vừa trào lộng. Có một Nguyễn Công Trứ ngoài “lồng” cười một “ông Hi Văn” trong “lồng”, có một Nguyễn Công Trứ ngoại đạo cười một “ông Hi Văn” trong chung. Bốn giai điệu “ngất ngưởng” đã ghi lại cả cuộc đời hoạt động phong phú của một danh sĩ tài tình, trung nghĩa mà không đánh mất mình. Trong một xã hội mà cá nhân không được coi trọng, cá tính bị thủ tiêu thì thái độ “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những là khí phách của ông mà còn là một giá trị nhân văn vượt thời đại.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh thành tích” - một “căn bệnh” gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay
|
Đề bài: Phân tích phong cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn công Trứ
Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ sáng tác sau 1848 là năm ông cáo quan về hưu. Bài thơ có giá trị tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, cả trí tuệ, tài năng, cả cốt cách, cá tính và triết lí. Khúc ca trác tuyệt viết bằng thể Hát nói này là tài hoa và khí phách của “Ông Hi Văn”.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên.
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Khác với những bài hát nói khác, Nguyễn Công Trứ không mở đầu bằng hai câu chữ Hán mà bằng một câu Hán: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu Việt: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Câu thơ chữ Hán có nghĩa là trong vũ trụ này không có việc gì là không phải phận sự của ta. Đây là quan niệm thiêng liêng của nhà Nho mà Nguyễn Công Trứ đã nhận thức sâu sắc và hạnh động nhất quán từ trẻ cho đến già. Vì nhiễm quan điểm chính thống đó mà “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Câu thơ hay tuyệt! Nội lực phải dữ dội lắm mới có cái điệu tự hào như vậy. Tưởng chừng như Nguyễn Công Trứ cười một “ông Hi Văn” nào đó, không ngờ “ông Hi Văn” chính lại là Nguyễn Công Trứ! Con người suốt đời say mê công danh nhưng lại coi cái vòng công danh ấy là một cái “lồng”. Tại sao lại có thái độ khinh bạc ấy? Cũng dễ hiểu, Nguyễn Công Trứ là người có tài đã đem hết tài năng, trí tuệ giúp đời, cứu nước, cứu dân. Nhưng xã hội phong kiến mà ông cúc cung tận tụy lại quá bé nhỏ, thảm hại, ông Hi Văn luôn luôn cảm thấy bị ràng buộc, mất tự do, khác chi một con chim trong lồng!
Thành ra những hành động chọc trời khuấy nước, tài thao lược của vị đại tướng để trả “nợ tang bồng” cũng chẳng qua là hành vi bay nhảy của con chim trong lồng.
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Kể như thế cũng đã oanh liệt! Văn võ song toàn ở đỉnh cao. Ấy là tác giả chưa kể đến những công trạng khác mà ông đã sáng tạo và đóng góp cho dân cho nước. Nhưng như thế thì Nguyễn Công Trứ có gì khác với giới quan trường vào luồn ra cúi bấy giờ? Đây, “ông Hi Văn” đây rồi!
“Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”
“Ngất ngưởng” ngay trong những hoạt động chính thống! “Ngất ngưởng” ngay trên đỉnh cao danh vọng! Thật là hiếm thấy. Đấy không phải là bộ dạng, hành vi bên ngoài mà ngất ngưởng đã trở thành bản chất của Nguyễn Công Trứ. Là thái độ sống, cũng là cốt cách, là cá tính của “ông Hi Văn”. Làm quan cho một triều đại suy tàn của chế độ pk, giữa đám quan lại, mua bán tước, bên cạnh những “tiến sĩ giấy” oái oăm thay lại cùng trong một “lồng”, nên Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” cao ngạo là phải. Xét về mặt nhân cách thì thái độ “ngất ngưởng” là “công trạng” lớn nhất của Nguyễn Công Trứ. Thái độ “ngất ngưởng” xuyên suốt của cuộc đời. Nguyễn Công Trứ, nhưng xét đến cùng thì “ngất ngưởng” giữa triều, “ngất ngưởng” trên đỉnh cao danh vọng là thái độ đáng kính nhất của “ông Hi Văn”.
Ngông đã trở thành cốt tủy của Nguyễn Công Trứ. Trong tiểu triều “ngất ngưởng”, cáo quan về “ngất ngưởng”:
“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…”
Năm cởi áo mũ, cáo quan về hưu, không thèm cưỡi ngựa mà cưỡi bò vàng có đeo lục lạc, “ông Hi Văn” thật là “ngất ngưởng”. Chưa hết, ông còn cột mo cau sau đuôi bò, nói với thiên hạ là để che miệng thế gian. Rồi bỗng xuất hiện dãy núi quen thuộc của quê nhà: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Núi Đại Nại trên quê hương của thi nhân đẹp một cách hư ảo.
Xem thêm: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân QuỳnhNgười anh hùng chọc trời khuấy nước nay trở về lân la nơi cõi Phật. “Tay kiếm cung” ấy chỉ có làm đổ đình đổ chùa chứ sao “mà nên dạng từ bi”!
“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”
Vào chùa mà dắt theo cả ả đào thì chỉ có Nguyễn Công Trứ, hay nói đúng hơn chỉ có Nguyễn Công Trứ là thành thật. Sự thành thật đã làm cho câu thơ trở nên xôn xao, có lẽ còn ở tài hoa nữa. Từ “đủng đỉnh” hay quá, đây là nhịp đi của các nàng ả đào vào chùa, cái nhịp “đủng đỉnh” của tiếng chuông mõ tịch diệt, chứ không phải là nhịp “tùng”, “cắc” dưới “xóm”. Nhưng không phải “đủng đỉnh” chốc lát trước sân chùa mà ả đào thành ni cô. Thì cũng như Nguyễn Công Trứ vào cửa từ bi mà đâu có diệt được lòng ham muốn.
“Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Trong một xã hội mà cá nhân bị thủ tiêu, cá tính bị vo tròn, Nguyễn Công Trứ lại lồ lộ ra một cá nhân, hồn nhiên một cá tính. Với tinh thần nhân văn “ngất ngưởng”, nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã đi trước thời đại hàng thế kỉ!
Theo dõi bài ca từ đầu, ta thấy đã diễn ra ba giai điệu “ngất ngưởng”. “Gồm thao lược đã nên ngất ngưởng” là “ông Hi Văn” “ngất ngưởng” ở trong “lồng”. Đây là giai điệu kỳ tuyệt, thể hiện khí phách của Nguyễn Công Trứ. Nói một cách khác đây là chiến thắng oanh liệt của sự tự diệt (khi lên đỉnh cao danh vọng người ta không còn là mình nữa). “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là giai điệu Nguyễn Công Trứ cáo quan về hưu “ngất ngưởng”. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là giai điệu tự hào của Nguyễn Công Trứ muốn “ngất ngưởng” thoát tục.
Và đây là giai điệu cuối có giá trị tổng kết cuộc đời của một nhà nho trung nghĩa mà không đánh mất mình:
“Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Đối với Nguyễn Công Trứ, “được mất dương dương người tái thượng”. Tác giả dùng điển tích “Tái ông thất mã”. Được chưa chắc là may, mất chưa hẳn là rùi. Trong cuộc sống bon chen đó, “được mất” một chút là người ta có thể làm thịt nhau, mà Nguyễn Công Trứ lại có thái độ bất biến trước sự được mất thì phải nói “ông Hi Văn” có bản lĩnh cao cường. Lại còn “khen chê” nữa, “khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Khen thì vui “phơi phới” đã đành, chứ sao chê mà cũng “phơi phới ngọn đông phong” nghĩa là cũng vui như ngọn gió xuân? Là vì cái gọi là chuẩn mực chính thống không trùng khít với chuẩn mực của nhà thơ. Thì mới oai phong đại tướng “Nguyễn Công Trứ đó đã bị cách tuột xuống làm lính thú, có hề chi, vẫn “phơi phới ngọn đông phong”. Có thể mất chức đại tướng nhưng miễn còn Nguyễn Công Trứ! Những âm thanh này mới làm bận lòng con người yêu đời, ham sống đó:
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục”
Các giác quan của nhà thơ mở về phía cuộc sống tự do, về phía cái đẹp, về phía hưởng lạc. Thơ, rượu, ca trù, hát ả đào mới là đam mê của Nguyễn Công Trứ. Câu thơ nhịp 2/2 réo rắt thật hay (khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng) làm sôi động cả khúc ca. Tác giả cũng không quên đánh giá lại công trạng của “ông Hi Văn” với triều đại mà ông phụng sự:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”
Nguyễn Công Trứ tự liệt vào hàng danh tướng, công thần đời Hán, đời Tống của Trung Quốc như Trái (Trái Tuân), Nhạc (Nhạc Phi), Hàn (Hàn Kì), Phú (Phú Bật). Ông tự hào như vậy là chính đáng, vì lý tưởng anh hùng của ông cũng không ngoài lí tưởng trung quân ái quốc của đạo Nho và ông đã sống thủy chung trọn đạo vua tôi.
Kể ra tìm một bậc danh sĩ văn võ song toàn như Nguyễn Công Trứ trong thời đại nào cũng hiếm, nhưng không phải là không có. Chứ còn “ông ngất ngưởng” thì tìm đâu ra?
“Trong triều ai ngất ngưởng như ông?”
Đây cũng là giai điệu cuối cùng của “Bài ca ngất ngưởng”. Tác giả đã chọn giai điệu “ngất ngưởng” đích đáng để kết thúc bài ca. “Ngất ngưởng” ngay trong triều, “ngất ngưởng” trên đỉnh núi cao danh vọng, đó là nhân cách, là khí phách của Nguyễn Công Trứ.
Nếu được chọn một tác phẩm tiêu biểu cho toàn bộ trước tác của Nguyễn Công Trứ thì đó là “Bài ca ngất ngưởng”. Con người, tài năng, khí phách, tinh hoa của Nguyễn Công Trứ thể hiện sinh động trong tác phẩm trác tuyệt này. Thể hát nói đã thành thơ, thơ hay, vừa triết lí, vừa trữ tình, vừa trào lộng. Có một Nguyễn Công Trứ ngoài “lồng” cười một “ông Hi Văn” trong “lồng”, có một Nguyễn Công Trứ ngoại đạo cười một “ông Hi Văn” trong chung. Bốn giai điệu “ngất ngưởng” đã ghi lại cả cuộc đời hoạt động phong phú của một danh sĩ tài tình, trung nghĩa mà không đánh mất mình. Trong một xã hội mà cá nhân không được coi trọng, cá tính bị thủ tiêu thì thái độ “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những là khí phách của ông mà còn là một giá trị nhân văn vượt thời đại.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh thành tích” - một “căn bệnh” gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay
|
Phong cách văn xuôi của Thạch Lam và Vũ Trọng Phụng rất khác nhau, nhưng họ đều là những nhà văn nhân đạo chủ nghĩa
Hướng dẫn
Thạch Lam và Vũ Trọng Phụng là hai nhà văn cùng một giai đoạn văn học. Vấn đề trọng tâm của câu hỏi là: Thông qua hai văn bản cụ thể, thấy được sự khác nhau trong phong cách thể hiện của mỗi nhà văn, đồng thời phải chứng minh họ đều là nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo. Cần lưu ý rằng câu nhận xét được trích dẫn là kiểu mệnh đề chính phụ nên luận điểm chính thuộc về vế sau của câu trích: họ đều là những nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Như thế, nội dung phần thân bài phải có hai luận điểm lớn: qua hai tác phẩm thấy phong cách văn xuôi của Thạch Lam và Vũ Trọng Phụng rất khác nhau (luận điểm phụ) ; cũng qua hai tác phẩm cho thấy họ đều là những nhà văn nhân đạo chủ nghĩa (luận điểm chính).
Về cấu trúc ý, bài viết có thể nêu và xây dựng theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên hệ thống ý cần hợp lí và thể hiện được lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục cao.
Sau đây là một cách triển khai ý để HS tham khảo:
1. Mở bài
Có thể giới thiệu khái quát về phong cách nổi bật của Thạch Lam và Vũ Trọng Phụng và nêu nhận xét: Họ rất khác nhau nhưng đều là những nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Điều đó có thể thấy rõ qua việc phân tích truyện Hai đứa trẻ và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
2. Thân bài
Cần nêu được hai luận điểm sau:
a) Những nét khác biệt trong phong cách hai nhà văn
Phân tích sự khác biệt qua hai tác phẩm từ các tiêu chí sau:
Tiêu chí
Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ – Vũ Trọng Phụng)
Thể loại
– Truyện ngắn trữ tình
– Cần phân tích, chỉ ra sự phù hợp giữa thể loại với nội dung cảm hứng của tác phẩm
– Tiểu thuyết trào phúng
– Cần phân tích, chỉ ra sự phù hợp giữa thể loại với nội dung cảm hứng của tác phẩm
Đề tài, nội dung và đối tượng miêu tả
Cuộc sống ảm đạm, vô nghĩa của người dân phố huyện nghèo
Cuộc sống và thói đạo đức giả của tầng lớp tư sản thành thị
Cảm hứng, giọng điệu
Thương cảm, sâu lắng
Châm biếm, đả kích
Bút pháp
– Khắc hoạ nội tâm, suy nghĩ của nhân vật
– Các thủ pháp lãng mạn: tương phản, miêu tả nội tâm
– Ngôn ngữ giàu chất thơ…
– Khắc hoạ ngoại hình, ngôn ngữ, hành động của nhân vật
– Các thủ pháp châm biếm: phóng đại, biếm hoạ
– Ngôn ngữ giễu nhại, châm biếm…
b) Họ đều là những nhà văn nhân đạo chủ nghĩa
– HS trình bày cách hiểu củả mình về chủ nghĩa nhân đạo:
+ Chủ nghĩa nhân đạo là gì?
+ Thế nào là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa?
+ Chủ nghĩa nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm văn học trên những bình diện nào?
– Phân tích và chứng minh Thạch Lam và Vũ Trọng Phụng đểu là những nhà văn nhân đạo chủ nghĩa: HS căn cứ vào các đặc điểm và sự thể hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm văn học nêu ở phần trên, từ đó phân tích hai văn bản để chỉ ra hai tác phẩm đều hàm chứa các đặc điểm của chủ nghĩa nhân đạo trong vãn học.
3. Kết bài
– Qua hai tác phẩm Hai đứa trẻ và Hạnh phúc của một tang gia có thể thấy rất rõ dấu ấn phong cách riêng cũng như những điểm chung của hai nhà văn Thạch Lam và Vũ Trọng Phụng.
– Bài học cho sáng tạo nghệ thuật: Có được một giọng điệu riêng, một phong cách độc đáo là rất khó nhưng đó là điều kiện và yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật. Muốn có được giọng điệu và phong cách riêng cần có cách cảm và đặc biệt là cách thể hiện riêng đặc sắc. Tuy nhiên, cái gốc của nhà văn vẫn là tấm lòng bởi "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Nguyễn Du). Vì thế, trên hết và trước hết, nhà văn phải viết vì cuộc đời, vì con người, phải là nhà văn-nhân đạo chủ nghĩa, cho dù cách viết có khác nhau.
Nguồn:
Xem thêm: Phân tích hình tượng Cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành- Văn 12
|
The prose styles of Thach Lam and Vu Trong Phung are very different, but they are both humanitarian writers.
Instruct
Thach Lam and Vu Trong Phung are two writers from the same literary period. The central issue of the question is: Through two specific texts, we can see the difference in the style of expression of each writer, and at the same time prove that they are both writers of humanitarianism. It should be noted that the quoted comment is a main sub-clause type, so the main argument belongs to the second part of the quote: they are both humanitarian writers. Thus, the content of the body of the essay must have two major arguments: through the two works, it can be seen that the prose styles of Thach Lam and Vu Trong Phung are very different (sub-argument); Also through two works, it shows that they are both humanitarian writers (main thesis).
Regarding the structure of ideas, the article can be stated and built in many different ways, however the system of ideas needs to be reasonable and demonstrate a tight, highly convincing argument.
The following is a way of implementing ideas for students to refer to:
1. Open the lesson
We can briefly introduce the outstanding styles of Thach Lam and Vu Trong Phung and comment: They are very different but they are both humanitarian writers. That can be clearly seen through the analysis of the story Two Children and the excerpt Happiness of a Mourning Family.
2. Body of the article
The following two points should be made:
a) Differences in the two writers' styles
Analyze the differences between the two works based on the following criteria:
Criteria
Two children (Thach Lam)
Happiness of a bereaved family (Excerpt from Red Number – Vu Trong Phung)
Category
– Lyrical short stories
– It is necessary to analyze and point out the compatibility between the genre and the inspirational content of the work
– Satirical novels
– It is necessary to analyze and point out the compatibility between the genre and the inspirational content of the work
Topic, content and object described
The bleak and meaningless life of poor district residents
The life and hypocrisy of the urban bourgeoisie
Inspiration, tone
Compassionate, profound
Satire, criticism
Style
– Portrays the character's inner thoughts and thoughts
– Romantic techniques: contrast, inner description
– The language is rich in poetry…
– Portray the character's appearance, language, and actions
– Satire techniques: exaggeration, caricature
- Mocking, satirical language...
b) They are all humanitarian writers
– Students present their understanding of humanitarianism:
+ What is humanitarianism?
+ What is a humanitarian writer?
+ On what aspects is humanitarianism expressed in literary works?
– Analyze and prove that Thach Lam and Vu Trong Phung are both humanitarian writers: Students base on the characteristics and expressions of humanitarianism in the literary works mentioned above, from there. Analyze two texts to show that both works contain characteristics of humanitarianism in literature.
3. Conclusion
– Through the two works Two Children and Happiness of a Mourning Family, we can clearly see the unique style marks as well as the common points of the two writers Thach Lam and Vu Trong Phung.
– Lesson for artistic creativity: Having a unique voice and unique style is very difficult, but that is the condition and requirement of artistic creativity. To have your own voice and style, you need to have a unique way of feeling and especially expressing yourself. However, the writer's root is still the heart because "The word heart is equal to the three words talent" (Nguyen Du). Therefore, first and foremost, a writer must write for life, for people, must be a humanist writer, even if the writing style is different.
Source:
See more: Analyzing the image of the Snake Tree in the short story "The Snake Forest" by Nguyen Trung Thanh - Literature 12
|
Phong tục lễ cưới hỏi Việt Nam
Hướng dẫn
Theo phong tục cổ xưa, lễ cưới hỏi của người Việt thường trải qua 6 lễ: Lễ vấn danh, lễ nạp cát, lễ nạp tệ, lễ thỉnh kỳ, lễ thân nghinh. Ngày nay do sự phát triển của xã hội, người Việt đã không giữ nhiều loại lễ trong lễ cưới hỏi nữa, ngày nay chỉ còn một số loại lễ như sau
Lễ dạm ngõ
Khi nhà gái đã đồng ý, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè.
Lễ ăn hỏi
Lễ này chứng tỏ cô gái đã có nơi có chốn. Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.
Lễ cưới
Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Ý nghĩa của lễ này là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn.Xem thêm: Bàn về vai trò, tác dụng của thơ ca đối với cuộc sống con người
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.
Tục chăng dây: Nhà gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ chăng dây trước của nhà gái. Khi nhà trai đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ chăng dây này, khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái.
Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.
Rước dâu vào nhà: Đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.Xem thêm: Tả lại ngôi nhà thân yêu của em
Lễ tơ hồng: Khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại chứng kiến cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này.
Trải giường chiếu: bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, cô dâu chú rể vào phòng tân hôn, bà sẽ trải sẽ trải đôi chiếu lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận…
Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống.
Tiệc cưới: dù đám cưới to hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Người ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những người không quen biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong ngày cưới); nhưng cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
Lễ cheo: Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng.Xem thêm: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỉ hoặc tứ hỉ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lợn.
Nguồn:
|
Vietnamese wedding customs
Instruct
According to ancient customs, Vietnamese wedding ceremonies often go through 6 ceremonies: Name asking ceremony, sand-receiving ceremony, coin-receiving ceremony, petitioning ceremony, and relatives ceremony. Nowadays, due to the development of society, Vietnamese people no longer keep many types of ceremonies at weddings, today there are only a few types of ceremonies as follows:
Lane weddings and funerals
When the bride's family agrees, the groom's family brings the ceremony. Compulsory offerings include betel, areca nuts, wine, and tea.
Engagement ceremony
This ceremony proves that the girl has a place. After the engagement ceremony, there must be wedding announcements and betel sharing. The bride's family includes a betel leaf, an areca nut, a small packet of tea, a green rice cake, or a few seeds of jam from the groom's offerings. All are wrapped into boxes or pink paper envelopes and given to relatives and friends of the bride's family. The groom's family also announces the wedding, but it does not require this gift, it just requires a card to announce the wedding. Also during the engagement ceremony, the two of them set a wedding date.
Wedding
Gift giving ceremony: This is the day when the groom's family brings the bride's bride price. Bride offerings include betel and areca nuts, sticky rice, pork, clothes and jewelry for the bride. The meaning of this ceremony is that the groom's family contributes to the bride's family's expenses for the table, letting the bride's family and the bride know that everything has been prepared. See more: Discussing the role and effects of poetry on human life
Bride-begging ceremony: Before the bride-picking time, the groom's family sends someone to bring betel and wine to ask for the bride, announcing that the bride-picking group will arrive.
The custom of stringing: The bride's family arranges a few plump, pretty children wearing red shirts to tie strings in front of the bride's family. When the groom's family arrived, one of the children ran back to tell the bride's family. The groom's family prepares some candy to distribute to the children tied on this string. Once they receive the candy, they will pull the string so the groom's family can enter the bride's house.
Bride procession ceremony: The bridegroom's procession goes in a group, with an old man carrying incense in front, along with someone carrying gifts. The bride's family invited the old man to burn incense and worship in front of the altar and then come out to welcome the groom's family. The bride and groom bowed before the altar and presented to their ancestors. Then the two of them brought betel to their relatives. The bride's parents give gifts to their daughter. Some families also set a table for the entire bride's family to enjoy together. Guests from the groom's family are also invited to the feast. After that, the whole group left the bride's house to take the bride to her husband's house. The bride's family has already chosen people to accompany the girl, called bridesmaids.
Bringing the bride into the house: The group brings the bride back to the alley. At this time, the mother-in-law held the lime jar, avoided her for a moment, and let the bride enter the house. This phenomenon is explained in many ways. Often people think that this is meant to overcome bitterness between mother-in-law and daughter-in-law in the future. See more: Describe your beloved home
Red silk ceremony: When the two families left, a few people except close relatives stayed to witness the bride and groom perform the red silk ceremony. People believe that a husband and wife can marry each other because of the fate of Mr. To and Mrs. Nguyet in heaven. Offering red silk is to thank these two grandparents.
Spreading the bed and mat: the mother-in-law, or another elderly woman, with many children and grandchildren, kind and gentle, the bride and groom enter the wedding room, she will spread a pair of mats neatly on the bed, arrange pillows and curtains. careful…
Matching Ceremony: This is the wedding ending ceremony at the groom's house. In front of the bed is a table with betel and wine and a plate of husband and wife cakes. The old man stood up, poured wine into a cup and invited the couple to drink together.
Wedding party: whether the wedding is big or small, there must be a wedding party. People come to eat, sit at the table with people they don't know, and eat on time. The wedding party can be held at the bride's family (before the wedding day) and the groom's family (on the wedding day); But it is also possible for two families to organize a party together.
Cheo ceremony: The cheo ceremony can be held many days before, or one day after the wedding. Cheo ceremony means that the groom's family must have gifts or funds to bring to the village or neighborhood where their daughter is getting married. The wedding ceremony is for relatives to recognize, the cheo ceremony is for the village to receive new members, new cells of the village. See more: Through the two characters Mi and A Phu, analyze the real value and value Humanity in To Hoai's The A Phu Couple
Return ceremony: (also known as two joys or four joys), after the wedding (2 or 4 days), the young couple will return to the wife's parents' house bringing gifts to thank their ancestors. Offerings also include betel, sticky rice, and pigs.
Source:
|
Phác họa hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Việt Bắc
Gợi ý
“Thơ Tố Hữu là thơ của một chiến sĩ cách mạng, thơ của một nhà Cách mạng làm thơ” (Xuân Diệu). Thơ ông tiếp nối truyền thống thơ ca Cách mạng đầu thế kỷ và phát triển lên thành dòng thơ trữ tình chính trị của thời đại mới. Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những bài thơ tiêu biểu của văn học Cách mạng thời kỳ bấy giờ. Bài thơ đã trở thành một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, có lẽ vì thế mà nó đã thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu cũng như nền thơ hiện đại của văn học Việt Nam.
Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ.
Bài thơ “Việt Bắc” quả là ra đời rất đúng lúc. Sau chín năm kháng chiến, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, nửa đất nước đã được tự do, cách mạng chuyển sang một giai đoạn khác, căn cứ kháng chiến được chuyển dịch từ miền núi về đồng bằng, miền xuôi, Trung ương và Chính phủ từ chiến khu Việt Bắc trở về thú đô. Bài thơ không những là nỗi nhớ, tình cảm của nhà thơ đối với quê hương cách mạng và người dân nơi đây mà còn là ân tình đối với kháng chiến, là niềm vui hân hoan với chiến thắng hiện tại và hi vọng vững chắc về tương lai tươi sáng.Xem thêm: Anh (chị) hãy phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành Việt Bắc thấm đẫm tình cảm, đầy tình thương yêu, quí trọng, biết ơn và lạc quan của tác giả. “Việt Bắc” ngọt ngào, đằm thăm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Tố Hữu. ông đã từng tâm sự rằng ông “phải lòng” với đất nước và nhân dân mình, đã nói về đất nước và nhân dân thì cũng như nói với người đàn bà mình yêu. Và từ đó, tình yêu đã biến thành ý nghĩa và “Việt Bắc” ra đời như tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc VN hào hùng trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.
Vanmau.edu.vn
|
Outline the compositional circumstances of Viet Bac's poem
Suggest
"To Huu's poetry is the poetry of a revolutionary soldier, the poetry of a revolutionary writer" (Xuan Dieu). His poetry continued the tradition of Revolutionary poetry at the beginning of the century and developed into a line of political lyric poetry of the new era. The poem "Viet Bac" is one of the typical poems of Revolutionary literature at that time. The poem has become an important milestone that truly reflects the thoughts and feelings of the people, perhaps that is why it is truly one of the best poems in To Huu's creative career as well as as modern poetry of Vietnamese literature.
In October 1954, To Huu completed the poem Viet Bac, a work consisting of 150 verses written in hexagram form, uniquely and creatively developing the nation's traditional poetic form, making the poem imbued with character. folk and classic qualities, and at the same time very new in thought and realistic materials, in images, poetic voice, rhythm and language.
The poem "Viet Bac" was born at the right time. After nine years of resistance, peace was restored in the North, half of the country was free, the revolution moved to another stage, the resistance base was shifted from the mountains to the plains, lowlands, and Central Vietnam. The Central Committee and the Government returned from the Viet Bac war zone to the capital city. The poem is not only the poet's nostalgia and affection for his revolutionary homeland and its people, but also his love for the resistance, his joy at the present victory and his solid hope for the future. bright future. See more: Please analyze the image of the snake plant in the short story The Snake Forest by Nguyen Trung Thanh Viet Bac, imbued with emotion, full of love, appreciation, gratitude and optimism. Authors. "Viet Bac" is sweet, thoughtful, a sentimental song, very representative of To Huu's poetic soul and poetic style. He once confided that he was "in love" with his country and its people. Talking about the country and its people was like talking about the woman he loved. And from there, love turned into meaning and "Viet Bac" was born as the common love song of the resistance fighters and the entire heroic Vietnamese nation in a very memorable moment.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc Sự tích bánh trưng bánh dày.
Trên thế giới, mỗi dân tộc đón Tết cổ truyền theo một phong tục khác nhau. Ở nước ta, từ ngàn xưa đã có tục cúng Tết bằng bánh chưng, bánh giầy. Truyện sự tích bánh chưng, bánh giầy vừa giải thích nguồn gốc của hai loại bánh này vừa phản ánh thành tựu của nền văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng nước với thái độ đề, cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính trời, đất, tổ tiên của nhân dân ta. Truyện còn là bài học quý về cách lựa chọn và sử dụng người có tài, có đức để trị vì đất nước.
Bối cảnh của truyện là đời Hùng Vương thứ sáu. Khi đã về già, nhà vua muốn truyền ngôi nhưng vì có tới hai mươi người con trai nên băn khoăn không biết chọn ai cho xứng đáng. Lúc ấy, giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng giặc trong vẫn còn phải đề phòng. Nhà vua muốn đưa đất nước đến giai đoạn thịnh vượng, ông biết rằng dân ấm no thì ngai vàng mới vững. Hiềm một nỗi, nhà vua tuổi cao sức yếu, lực bất tòng tâm.
Một hôm, ông gọi các con lại và nói: Tổ tiên ta từ khi dựng nước đã truyền được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm chiếm bờ cõi, nhờ phúc ấm Tiên Vương, ta đều đánh đuổi được, thiên hạ hưởng thái bình. Nhưng ta già rồi, không sống mãi ở đời, người nối ngôi ta phải nối chí ta, không nhất thiết là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên Vương chứng giám.
Các Lang (con trai vua Hùng thời ấy gọi là Lang), ai cũng muốn ngôi báu về mình nhưng họ không thể hiểu nổi ý tứ sâu xa của vua cha. Họ chi nghĩ đơn giản là cứ chuẩn bị mâm cao, cỗ đầy, lễ vật ngon lạ… là đủ, cho nên vội sai người đi tìm của quý khắp trên rừng, dưới biển.
Riêng Lang Liêu – con trai thứ mười tám của vua Hùng đã được một vị Thần giúp đỡ, bởi vì chàng vốn chịu thiệt thòi so với các anh, không được hưởng giàu sang phú quý. Từ nhỏ, chàng đã phải chăm lo công việc đồng áng, trồng lúa, trông khoai. Lang Liêu tuy thân là con vua nhưng phận thì lại giống người nông dân lao động. Chàng buồn vì trong nhà chỉ có khoai và lúa. Nhưng khoai lúa tầm thường quá. Chàng tủi thân nghĩ thầm như vậy.
Theo quan niệm của tổ tiên chúng cha ta ngày xưa thì Thần, Phật, Tiên Bụt thường hay giúp đỡ người hiền lành, nghèo khó. Lang Liêu không có quyền thế, của cải gì, lại chẳng có kẻ ăn người ở để sai khiến đi tìm của ngon vật lạ. Chàng chi có tấm lòng yêu kính vua và đôi tay làm lụng chuyên cần. Chàng đã được Thần Phật giúp đỡ.
Lang Liêu được Thần báo mộng, dạy rằng hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương, bởi trong trời đất không có gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo nuôi sống con người, Hạt gạo quý giá như vậy và nó lại dễ kiếm bởi nó được làm ra do chính bàn tay lao động của con người.
Lang Liêu hiểu và làm theo ý Thần. Lời khuyên của Thần thật sáng suốt, chân tình. Càng nghĩ Lang Liêu càng thấy đúng. Suy nghĩ của Thần chính là suy nghĩ, tâm tư, ước vọng của nhân dân. Thần đây chính là hiện thân của nhân dân. Ai có thể trân trọng coi hạt gạo là hạt ngọc của tròi đất và cũng là kết quả mồ hôi, công sức của con người như nhân dân?, Nhân dân rất quý trọng cái nuôi sống mình, cái mình làm ra được. Phải là những người một nắng hai sương làm ra hạt gạo nuôi đời mới có suy nghĩ sâu sắc và đáng quý như vậy. Lang Liêu dâng lên vua cha phẩm vật quý nhất trong trời đất, lại do chính tay mình làm ra thì quả thật chàng là người con hiếu thảo.
Được thần linh mách bảo, kết hợp với tấm lòng thành, óc sáng tạo và đôi tay khéo léo, Lang Liêu đã dùng thử gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, cùng với đậu xanh, thịt lợn, gói bằng lá dong, buộc bằng lạt giang thành một thứ bánh hình vuông rồi đem nấu chín.
Xem thêm: Nghị luận xã hội - Gian lận trong học tập hiện nayVậy là chàng không phải mất công tìm kiếm đâu xa. Gạo, đậu do chàng trồng, lợn chàng nuôi, lá dong mọc sẵn trong vườn, ngoài bãi. Ngần ấy thứ kết hợp với nhau thành thứ bánh đặc biệt xưa nay chưa từng có. Và cũng gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành thứ bánh hình tròn. Đó là bánh giầy.
Thật thú vị là cảnh thi cỗ trong ngày cúng Tiên Vương. Các con trai của vua Hùng mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng (cách gọi các sản vật quý hiếm) tới, chẳng thiếu thứ gì. Thế nhưng vua cha chỉ xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm cỗ của Lang Liêu. Điều gì đã cuốn hút nhà vua quan tâm tới hai thứ bánh ấy? Có lẽ trước tiên là hình dáng vuông vức của bánh chưng và hình dáng tròn trịa của bánh giày cùng vẻ đẹp mộc mạc, ưa nhìn của chúng. Bánh chưng xanh, bánh giầy trắng muốt, mịn màng. Hùng Vương rất vừa ý, bèn gọi Lang Liêu lên hỏi. Chàng thật tình đem chuyện giấc mộng gặp Thần ra kể lại. Vua cha ngẫm nghĩ rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời Đất và Tiên Vương.
Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu lại được Hùng Vương lựa chọn và chàng được nối ngôi vua?
Bởi vì hai thứ bánh đó thể hiện thái độ quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo do chính con người làm ra.
Hùng Vương chắc đã cảm nhận được tính chất thiêng liêng trong câu chuyện Thần báo mộng kia. Lời Thần dạy quả không sai: Trong trời đất, hạt gạo là quý nhất. Hạt gạo nuôi sống con người, dân có ấm no thì ngai vàng mới vững. Lang Liêu biết quý lao động, quý thành quả làm ra từ mồ hôi nước mắt của mình.
Sau khi thưởng thức hai thứ bánh của Lang Liêu, nhà vua và quần thần ai cũng tấm tắc khen ngon. Lời giải thích của nhà vua về hai thứ bánh này thật có lí có tình: Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mờ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau…
Hai thứ bánh này chứng tỏ được tài đức của người có thể nối chí nhà vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, lại do tay mình làm ra dâng lên vua cha để tiến cúng Trời Đất cùng các bậc Tiên Vương thì Lang Liêu quả là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo. Vua Hùng phán rằng: Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám.
Lang Liêu là người tốt, có đủ tài trí để chăm lo cho muôn dân và nối chí vua cha. Trao ngôi báu cho Lang Liêu là thuận ý trời, hợp ý Hùng Vương.
Sự tích bảnh chưng, bánh giầy đã đi vào phong tục ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt. Nhân dân ta đã xây dựng nên phong tục từ những cái bình thường giản dị nhưng rất giàu ý nghĩa. Chiều 30, tiếng chày giã bánh giầy vang khắp xóm thôn. Đầm ấm biết bao là cảnh cả nhà náo nức vây quanh ngọn lửa hồng nấu bánh chưng xanh. Trên bàn thờ tổ tiên phải bày vài cặp bánh chưng và mâm bánh giầy thì mới là Tết.
Sự tích bánh chưng, bánh giầy nằm trong mảng cổ tích giải thích nguồn gốc sự vật xuất hiện sau thời kì vua Hùng dựng nước. Sự tích trầu cau giải thích tục ăn trầu. Sự tích dưa hấu giải thích nguồn gốc dưa hấu… Đằng sau cách giải thích thú vị về nguồn gốc bánh chưng bánh giầy là hiện thực cuộc sống của tổ tiên dân tộc Việt! một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời. Thuở ấy, dân ta đã có kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến các món ăn đặc biệt vừa ngon lành, vừa giàu ý nghĩa.
Truyện còn là bài học sâu sắc về cách lựa chọn người có đức có tài để trị vì đất nước, chăm sóc muôn dân. Vì thế, tuy ra đời cách đây đã hàng ngàn năm mà cho đến nay, truyện vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa của nó.
Xem thêm: Hãy kể lại một kỷ niệm đẹp về quê hương
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc Sự tích bánh trưng bánh dày.
Trên thế giới, mỗi dân tộc đón Tết cổ truyền theo một phong tục khác nhau. Ở nước ta, từ ngàn xưa đã có tục cúng Tết bằng bánh chưng, bánh giầy. Truyện sự tích bánh chưng, bánh giầy vừa giải thích nguồn gốc của hai loại bánh này vừa phản ánh thành tựu của nền văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng nước với thái độ đề, cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính trời, đất, tổ tiên của nhân dân ta. Truyện còn là bài học quý về cách lựa chọn và sử dụng người có tài, có đức để trị vì đất nước.
Bối cảnh của truyện là đời Hùng Vương thứ sáu. Khi đã về già, nhà vua muốn truyền ngôi nhưng vì có tới hai mươi người con trai nên băn khoăn không biết chọn ai cho xứng đáng. Lúc ấy, giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng giặc trong vẫn còn phải đề phòng. Nhà vua muốn đưa đất nước đến giai đoạn thịnh vượng, ông biết rằng dân ấm no thì ngai vàng mới vững. Hiềm một nỗi, nhà vua tuổi cao sức yếu, lực bất tòng tâm.
Một hôm, ông gọi các con lại và nói: Tổ tiên ta từ khi dựng nước đã truyền được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm chiếm bờ cõi, nhờ phúc ấm Tiên Vương, ta đều đánh đuổi được, thiên hạ hưởng thái bình. Nhưng ta già rồi, không sống mãi ở đời, người nối ngôi ta phải nối chí ta, không nhất thiết là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên Vương chứng giám.
Các Lang (con trai vua Hùng thời ấy gọi là Lang), ai cũng muốn ngôi báu về mình nhưng họ không thể hiểu nổi ý tứ sâu xa của vua cha. Họ chi nghĩ đơn giản là cứ chuẩn bị mâm cao, cỗ đầy, lễ vật ngon lạ… là đủ, cho nên vội sai người đi tìm của quý khắp trên rừng, dưới biển.
Riêng Lang Liêu – con trai thứ mười tám của vua Hùng đã được một vị Thần giúp đỡ, bởi vì chàng vốn chịu thiệt thòi so với các anh, không được hưởng giàu sang phú quý. Từ nhỏ, chàng đã phải chăm lo công việc đồng áng, trồng lúa, trông khoai. Lang Liêu tuy thân là con vua nhưng phận thì lại giống người nông dân lao động. Chàng buồn vì trong nhà chỉ có khoai và lúa. Nhưng khoai lúa tầm thường quá. Chàng tủi thân nghĩ thầm như vậy.
Theo quan niệm của tổ tiên chúng cha ta ngày xưa thì Thần, Phật, Tiên Bụt thường hay giúp đỡ người hiền lành, nghèo khó. Lang Liêu không có quyền thế, của cải gì, lại chẳng có kẻ ăn người ở để sai khiến đi tìm của ngon vật lạ. Chàng chi có tấm lòng yêu kính vua và đôi tay làm lụng chuyên cần. Chàng đã được Thần Phật giúp đỡ.
Lang Liêu được Thần báo mộng, dạy rằng hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương, bởi trong trời đất không có gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo nuôi sống con người, Hạt gạo quý giá như vậy và nó lại dễ kiếm bởi nó được làm ra do chính bàn tay lao động của con người.
Lang Liêu hiểu và làm theo ý Thần. Lời khuyên của Thần thật sáng suốt, chân tình. Càng nghĩ Lang Liêu càng thấy đúng. Suy nghĩ của Thần chính là suy nghĩ, tâm tư, ước vọng của nhân dân. Thần đây chính là hiện thân của nhân dân. Ai có thể trân trọng coi hạt gạo là hạt ngọc của tròi đất và cũng là kết quả mồ hôi, công sức của con người như nhân dân?, Nhân dân rất quý trọng cái nuôi sống mình, cái mình làm ra được. Phải là những người một nắng hai sương làm ra hạt gạo nuôi đời mới có suy nghĩ sâu sắc và đáng quý như vậy. Lang Liêu dâng lên vua cha phẩm vật quý nhất trong trời đất, lại do chính tay mình làm ra thì quả thật chàng là người con hiếu thảo.
Được thần linh mách bảo, kết hợp với tấm lòng thành, óc sáng tạo và đôi tay khéo léo, Lang Liêu đã dùng thử gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, cùng với đậu xanh, thịt lợn, gói bằng lá dong, buộc bằng lạt giang thành một thứ bánh hình vuông rồi đem nấu chín.
Xem thêm: Nghị luận xã hội - Gian lận trong học tập hiện nayVậy là chàng không phải mất công tìm kiếm đâu xa. Gạo, đậu do chàng trồng, lợn chàng nuôi, lá dong mọc sẵn trong vườn, ngoài bãi. Ngần ấy thứ kết hợp với nhau thành thứ bánh đặc biệt xưa nay chưa từng có. Và cũng gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành thứ bánh hình tròn. Đó là bánh giầy.
Thật thú vị là cảnh thi cỗ trong ngày cúng Tiên Vương. Các con trai của vua Hùng mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng (cách gọi các sản vật quý hiếm) tới, chẳng thiếu thứ gì. Thế nhưng vua cha chỉ xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm cỗ của Lang Liêu. Điều gì đã cuốn hút nhà vua quan tâm tới hai thứ bánh ấy? Có lẽ trước tiên là hình dáng vuông vức của bánh chưng và hình dáng tròn trịa của bánh giày cùng vẻ đẹp mộc mạc, ưa nhìn của chúng. Bánh chưng xanh, bánh giầy trắng muốt, mịn màng. Hùng Vương rất vừa ý, bèn gọi Lang Liêu lên hỏi. Chàng thật tình đem chuyện giấc mộng gặp Thần ra kể lại. Vua cha ngẫm nghĩ rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời Đất và Tiên Vương.
Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu lại được Hùng Vương lựa chọn và chàng được nối ngôi vua?
Bởi vì hai thứ bánh đó thể hiện thái độ quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo do chính con người làm ra.
Hùng Vương chắc đã cảm nhận được tính chất thiêng liêng trong câu chuyện Thần báo mộng kia. Lời Thần dạy quả không sai: Trong trời đất, hạt gạo là quý nhất. Hạt gạo nuôi sống con người, dân có ấm no thì ngai vàng mới vững. Lang Liêu biết quý lao động, quý thành quả làm ra từ mồ hôi nước mắt của mình.
Sau khi thưởng thức hai thứ bánh của Lang Liêu, nhà vua và quần thần ai cũng tấm tắc khen ngon. Lời giải thích của nhà vua về hai thứ bánh này thật có lí có tình: Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mờ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau…
Hai thứ bánh này chứng tỏ được tài đức của người có thể nối chí nhà vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, lại do tay mình làm ra dâng lên vua cha để tiến cúng Trời Đất cùng các bậc Tiên Vương thì Lang Liêu quả là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo. Vua Hùng phán rằng: Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám.
Lang Liêu là người tốt, có đủ tài trí để chăm lo cho muôn dân và nối chí vua cha. Trao ngôi báu cho Lang Liêu là thuận ý trời, hợp ý Hùng Vương.
Sự tích bảnh chưng, bánh giầy đã đi vào phong tục ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt. Nhân dân ta đã xây dựng nên phong tục từ những cái bình thường giản dị nhưng rất giàu ý nghĩa. Chiều 30, tiếng chày giã bánh giầy vang khắp xóm thôn. Đầm ấm biết bao là cảnh cả nhà náo nức vây quanh ngọn lửa hồng nấu bánh chưng xanh. Trên bàn thờ tổ tiên phải bày vài cặp bánh chưng và mâm bánh giầy thì mới là Tết.
Sự tích bánh chưng, bánh giầy nằm trong mảng cổ tích giải thích nguồn gốc sự vật xuất hiện sau thời kì vua Hùng dựng nước. Sự tích trầu cau giải thích tục ăn trầu. Sự tích dưa hấu giải thích nguồn gốc dưa hấu… Đằng sau cách giải thích thú vị về nguồn gốc bánh chưng bánh giầy là hiện thực cuộc sống của tổ tiên dân tộc Việt! một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời. Thuở ấy, dân ta đã có kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến các món ăn đặc biệt vừa ngon lành, vừa giàu ý nghĩa.
Truyện còn là bài học sâu sắc về cách lựa chọn người có đức có tài để trị vì đất nước, chăm sóc muôn dân. Vì thế, tuy ra đời cách đây đã hàng ngàn năm mà cho đến nay, truyện vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa của nó.
Xem thêm: Hãy kể lại một kỷ niệm đẹp về quê hương
|
Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sọ dừa.
Hướng dẫn
Sau khi học xong truyện Sọ Dừa, các nhân vật trong truyện đã để lại cho em nhiều ấn tượng khó quên. Truyện Sọ Dừa với những tình tiết hấp dẫn luôn cuốn hút sự tò mò của trẻ thơ. Em đã được nghe kể nhiều lần qua lời kể của bà của mẹ, nhưng khi được học em vẫn thấy thích thú.
Nhân vật Sọ Dừa, xuất hiện trước mắt người đọc thật khác thường. Một bà mẹ đang khao khát có một đứa con, khi ra đồng bà thấy khát nước, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống. Về nhà ít hôm bà biết mình đã thụ thai, đến kì sinh nở bà cũng háo hức như bao bà mẹ khác, nhưng kì lạ thay bà đã sinh ra một đứa bé không chân, không tay tròn như một sọ dừa cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì. Điều này khiến cho bà mẹ Sọ Dừa than phiền bởi hoàn cảnh éo le của gia đình bà. Sự ra đời của Sọ Dừa cũng chẳng khác nào sự ra đời lạ kì của Thánh Gióng hay Thạch Sanh bên gốc cây đa. Chỉ có điều, sự ra đời của Sọ Dừa lại có gì li kì hơn, khủng khiếp hơn. Chính điều này tạo ra sự bất ngờ cho chính chúng ta về chàng Sọ Dừa đáng yêu trong truyện. Tưởng rằng cục thịt đỏ hòn cứ lăn lông lốc kia "vô tích sư" nhưng lại "không vô tích sự" một chút nào, ngược lại Sọ Dừa lại rất tài giỏi và thông minh. Sự tài giỏi và thông minh đó cho thấy chàng trai đó không phải là một người bình thường.
Với hình thù kì dị, Sọ Dừa đã không hề thấy mặc cảm về bản thân của mình, chàng vẫn vô tư hồn nhiên, vẫn muốn làm việc để giúp mẹ. Khởi đầu trong công việc giúp mẹ chăn bò thuê. Cậu không có chân có tay nhưng lại chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng, lại chăn bò một cách ung dung thanh thản: ngồi trên võng thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Cô Út là người đã không quản khó khăn hàng ngày mang cơm cho Sọ Dừa. Vốn là người thông minh chàng sớm nhận ra được tấm lòng của người con gái đó, chàng đã nhất quyết đòi mẹ đi hỏi cô Út về làm vợ. Phú Ông đồng ý gả con gái nhưng đòi sính lễ rất cao và khó khăn để kiếm được có. Sọ Dừa vẫn đáp ứng đủ những tham lam của lão Phú Ông Và thế là lễ cưới được tổ chức linh đình trước sự ngạc nhiên của mọi người. Lễ tân hôn được tổ chức chu đáo cùng với sự "biến hình" thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Một thời gian không lâu, Sọ Dừa học giỏi thi đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Đến đây tài năng của Sọ Dừa càng được bộc lộ tuyệt vời, đó là sự dự đoán chính xác tình hình để đảm bảo an toàn cho vợ khi đưa cho cô út một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà. Cuối cùng là việc giấu vợ trong buồng giữa việc đoàn viên để trừng trị hai người chị ác độc, đã nói lên sự thông minh và cách cư xử không khéo của quan trạng. Như vậy, tác giả dân gian đã tạo nên sự "đối lập", trái ngược đến mức cực đoan giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật Sọ Dừa. Bề ngoài Sọ Dừa xấu xí, dị dạng, kì quái, vô dụng… còn bên trong lại là tài năng, phẩm chất tuyệt vời của một nhân cách cao cả, chân chính. Sự biến đổi kì diệu từ một cậu bé có bề ngoài dị dạng, thân phận thấp kém, trở thành chàng trai tuấn tú, thông minh, đỗ đạt chính là sự thống nhất về lí tưởng giữa hình thù bên ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật.Xem thêm: Phân tích bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh
Các nhân vật trong truyện không hề nhận thấy phẩm chất cao đẹp bên trong con người của chàng, chỉ có Cô út hiền lành, hay thương người, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế, chỉ có cô mới coi Sọ Dừa như một con người. Có thể nói, nhân dân đã mượn hình ảnh cô Út để thay mình nhìn thấy bản chất bên trong của Sọ Dừa, nhân dân ta đã gửi gắm vào Sọ Dừa bao mơ ước, khát vọng. Sọ Dừa từ thân phận thấp hèn, từ một con người dị hình, xấu xí đã trở thành đẹp đẽ, thông minh, tài giỏi và xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Đồng thời khơi dậy trong chúng ta niềm tin. Niềm tin ấy đã trở thành đạo lý mà nhân dân ta vẫn dạy: người tài giỏi, đức độ phải được hưởng hạnh phúc hay rộng hơn "ở hiền gặp lành", còn những kẻ độc ác, gian tham sẽ bị trừng trị.
Qua hình ảnh các nhân vật trong truyện, ông cha ta muốn nhắc nhở con cháu về giá trị đích thực, vẻ đẹp bên trong của con người. Muốn đánh giá đúng bản chất con người đừng nên chỉ quan sát bề ngoài. Đây chính là giá trị nhân dân, truyền thống dân tộc tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Hơn thế nữa, truyện còn đề cao lòng nhân ái đối với người bất hạnh. Lòng nhân ái đem lại hạnh phúc cho cả Sọ Dừa và cô út.Xem thêm: Bài văn miêu tả chiếc áo dài Việt Nam
Có thể thấy Truyện Sọ Dừa mang đậm giá trị nhân đạo và nhân văn cao cả. Thực tế cho thấy rằng trong cuộc đời cũng như trong truyện cổ tích, hạnh phúc của những con người chân chính luôn bị kẻ độc ác đe dọa, tìm cách cướp đoạt. Nhân dân ta đã ý thức rõ điều này nên đã để cho nhân vật cảnh giác, đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của mình. Sọ Dừa đưa cho vợ những vật dụng khi chia tay cũng vì thế. Truyện đã đề cập đến một loại người đau khổ nhất, một số phận thấp hèn nhất. Đau khổ thấp hèn đến nỗi từ vẻ bên ngoài đã không ra con người. Thế nhưng ban đầu cái vỏ xấu xí làm cho thân phận nhân vật thấp kém bao nhiêu thì về sau tài năng phẩm chất và sự biến hóa lại làm cho nhân vật trở nên khác thường, đẹp đẽ bấy nhiêu. Đó là quan niệm dân chủ, thái độ trân trọng, khẳng định của nhân dân đối với những con người bị coi là "hèn kém" trong xã hội giai cấp. Đó cũng chính là ước mơ của nhân dân về sự đổi đời.
Cái kết có hậu của Sọ Dừa cùng những tinh tiết li kì hấp dẫn đã làm truyện Sọ Dừa sống mãi trong lòng bạn đọc. Câu chuyện như một lời khuyên về thái độ đối xử với những người có thân phận thấp kém, chịu những bất hạnh trong cuộc đời. Chúng ta không thể nhìn vẻ bề ngoài mà coi thường người khác. Câu truyện như một tiếng chuông kêu gọi sự công bằng bình đẳng trong xã hội.Xem thêm: Hãy tả lại hình ảnh một cụ già đang ngồi câu cá bên hồ
Nguồn:
|
Express your feelings after reading the story Coconut Skull.
Instruct
After finishing studying the story Coconut Skull, the characters in the story left me with many unforgettable impressions. The Coconut Skull story with its fascinating details always attracts the curiosity of children. I have heard it many times through my mother's grandmother, but when I learn it, I still enjoy it.
The character So Dua, appearing before the reader's eyes, is very unusual. A mother was longing to have a child. When she went to the fields, she felt thirsty. She saw a coconut skull next to a big tree full of rainwater, so she picked it up to drink. A few days after returning home, she knew she had conceived. When it was time to give birth, she was as excited as any other mother, but strangely she gave birth to a legless, armless baby as round as a rolling coconut skull. At home, nothing can be done. This made So Dua's mother complain about her family's miserable situation. The birth of So Dua is no different from the strange birth of Thanh Giong or Thach Sanh under the banyan tree. Only thing is, the birth of So Dua is more thrilling, more terrifying. This is what creates surprise for us about the lovely Coconut Skull in the story. I thought that the lump of red meat that kept rolling around was "useless" but it was "not useless" at all. On the contrary, Coconut Skull is very talented and intelligent. That talent and intelligence shows that the guy is not an ordinary person.
With a strange shape, Coconut Skull did not feel guilty about himself, he was still carefree and innocent, still wanting to work to help his mother. Started working to help my mother herd cows. He has no arms or legs, but he is very good at herding cows. Every cow has a full stomach. He herds cows in a leisurely and peaceful manner: sitting in a hammock and playing the flute for the cows to graze. Ms. Ut is the one who defied hardships to bring rice to So Dua every day. Being a smart person, he soon realized the girl's heart, so he insisted that his mother ask Ut to become his wife. Phu Ong agreed to marry his daughter but demanded a very high bride price and it was difficult to earn. Coconut Skull still satisfied the greed of the old man. And so the wedding was held lavishly to everyone's surprise. The wedding ceremony was carefully organized along with the "transformation" into a handsome young man. Not long after, So Dua studied well and passed the exam and was sent by the king as an ambassador. At this point, So Dua's talent was even more wonderfully revealed, which was accurately predicting the situation to ensure his wife's safety by giving the youngest girl a flint, a knife and two chicken eggs. Finally, hiding his wife in the room in the middle of reuniting to punish her two evil sisters, shows the intelligence and unskillful behavior of the mandarin. Thus, the folk author has created an "opposition", an extreme contrast between the external appearance and internal qualities of the character So Dua. Coconut Skull's exterior is ugly, deformed, strange, useless... but inside is the talent and wonderful qualities of a noble and genuine personality. The miraculous transformation from a boy with a deformed appearance and low status to a handsome, intelligent and successful man is the ideal unity between external appearance and internal qualities. of the character. See more: Analysis of the poem Wave by poet Xuan Quynh
The characters in the story do not recognize the noble qualities within him. Only the youngest girl is gentle and loves people. She treats Coconut Skull very kindly. Only she considers Coconut Skull as a child. People. It can be said that the people have borrowed the image of Ms. Ut to see the inner nature of So Dua on their behalf. Our people have put many dreams and aspirations into So Dua. Coconut Skull, from a lowly status, from a deformed and ugly person, became beautiful, intelligent, talented and worthy of happiness. At the same time, it awakens faith in us. That belief has become the morality that our people still teach: talented and virtuous people must enjoy happiness or more broadly, "good people will receive good things", while cruel and greedy people will be punished.
Through the images of the characters in the story, our ancestors want to remind their children and grandchildren about the true value and inner beauty of humans. If you want to truly evaluate human nature, don't just observe the outside. This is the value of the people, the national tradition: good wood is better than good paint. Furthermore, the story also promotes kindness towards unfortunate people. Kindness brings happiness to both So Dua and the youngest girl. See more: Essay describing Vietnamese ao dai
It can be seen that the Coconut Skull Story is imbued with noble humane and humanitarian values. Reality shows that in life as well as in fairy tales, the happiness of righteous people is always threatened and sought to be snatched away by evil people. Our people are well aware of this, so they let the characters be vigilant and fight to protect their happiness. That's why Coconut Skull gave his wife things when they broke up. The story mentions the most miserable type of people, the lowest fate. Suffering is so vile that from the outside it does not appear human. But initially, the ugly shell makes the character's status inferior, but later, the talent, quality and transformation make the character more unusual and beautiful. That is the concept of democracy, the respectful and affirming attitude of the people towards those considered "inferior" in class society. That is also the people's dream of changing their lives.
The happy ending of So Dua and the thrilling and exciting details have made the story of So Dua live forever in the hearts of readers. The story serves as advice on how to treat people with low status and misfortunes in life. We cannot look down on others by looking at appearances. The story is like a bell calling for justice and equality in society. See more: Describe the image of an old man sitting by the lake fishing
Source:
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến
Gợi ý
Trong kho tàng Văn học Việt Nam, có rất nhiều tác phẩm viết về đề tài tình bạn làm xúc động lòng người. Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến là một trong sô" những tác phẩm như vậy. Đọc bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được một tình bạn chân thành, sâu sắc mà còn thấy hiện lên một Nguyễn Khuyên hóm hỉnh, lạc quan.
“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta”.
Bài thơ lập ý bằng cách dựng lên tình huống không có gì để tiếp bạn, nhưng vẫn thể hiện được tình bạn đậm đà thắm thiết.
Câu thơ đầu tiên gợi ra một hoàn cảnh rất đáng vui mừng: Đã bấy lâu nay, bác tới nhà. Nguyễn Khuyến đã lui về quy ẩn, trong cái thời đại nhiễu nhương “Còn tiền còn bạc còn đệ tử / Hết cơm hết rượu hết ông tôi” thì việc có một người bạn quý đã lâu ngày “đã ấy lâu nay” đến nhà chơi thì thật đáng quý xiết bao. Và trong hoàn cảnh ấy, đáng ra, Nguyễn Khuyến phải tiếp đãi bạn thật chu đáo và thịnh soạn.Xem thêm: Phân tích bài thơ Nói Với Con của Y Phương hay nhất Nhưng oái oăm thay, trong sáu câu kế tiếp, nhà thơ lại vẽ ra một hoàn cảnh rất đặc biệt để tạo ra sự đùa vui: Có sẵn mọi thứ nhưng hoá ra lại không có thứ gì. Vật chất đều đầy đủ cả nhưng lại cứ giảm đi, đến chỗ không còn một chút gì hết: chợ thì có đấy nhưng người sai vặt thì không có, gà vịt cũng nhiều nhưng hiềm nỗi vườn rộng rào thưa không bắt được, rau dưa đủ quả nhưng tiếc nó chưa đến mùa!…
“Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”.
Nguyễn Khuyến đã viết về gia cảnh khó khăn của mình với một giọng thơ đùa vui, hóm hỉnh. Người đọc vừa mỉm cười lại vừa băn khoăn, thương cảm: Khi lui về quy ẩn, Tam Nguyên Yên Đổ thực sống kham khổ như vậy sao? Và cái “bí” của nhà chủ lên đến đỉnh điểm khi “miếng trầu là đầu câu chuyện” lúc tiếp khách cũng không có nổi: “Đầu trò tiếp khách trầu không có”. Không, như vậy thì sự thực nhà thơ sống trong những năm tháng quy ẩn không đến độ khó khăn, bức bách như thế. Có lẽ đây chỉ là những cái đùa vui, cái cớ để nói đến một điều gì bất ngờ khác. Bao nhiêu vật chất không có, ngay cả đến vật chất tối thiểu cũng không vì vậy tiếp bạn chỉ còn có mỗi cái tình. Tạo ra tình huống như vậy, vừa đùa vui, vùa nói lên sự mong ước tiếp đãi chu đáo cả vật chất lẫn tinh thần, lại vừa nhấn mạnh được cái tình. Chỉ một sự chân tình có thể đủ bù đắp những thiếu hụt vật chất:Xem thêm: Cô tô ngữ văn 6“Bác đến chơi đây, ta với ta!”
Câu thứ cuối cùng và cụm từ “ta với ta” nhấn mạnh tình cảm tri âm không cần phải vật chất đầy đủ mà chỉ cần cấì tình chân thực thôi. Những người tri âm, tri kỉ có khi chỉ cần gặp nhau ngâm mấy câu thơ, đàn vài bản nhạc là đã đủ vui rồị. Tình cảm không cứ nhát thiết phải có đầy đủ vật chất mới vui là như vậy.
Trong bài thơ “Qua Đèo Ngang”, Bà Huyện Thanh Quan cũng nhắc đến một cụm từ “ta với ta” nhưng “ta với ta” của bà là chỉ một mình tác giả với mảnh tình riêng đầy cô đơn, trống vắng. Trong bài thơ của Nguyễn Khuyến thì ngược lại, thi nhân đùng cụm từ này để chỉ bản thân và người bạn tri âm, tri kỉ. Cái “ta với ta” của Nguyễn Khuyến ấm áp và vui vầy biết bao.
Qua cách ứng xử của nhà. thơ, có thể nhận thấy, với bạn, Nguyễn Khuyến rất quan tâm đến bạn, muôn tiếp bạn thật là chu đáo. Đồng thời, chúng ta cũng thấy, trong tình bạn, Nguyễn Khuyên rất coi trọng cái tình, coi trọng sự cung kính trong tình bạn.
Ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ Bạn đến chơi nhà mang tính chất dân dã đời thường, với hầu hết là các từ thuần Việt. Cái độc đáo nhất của bài thơ là tạo nên nghịch cảnh có rất nhiều mà lại chẳng có gì nhưng thực ra là có tất cả!Xem thêm: Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao Bài thơ “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến gieo vào lòng người đọc một thoáng mỉm cười trước sự đùa vui hóm hĩnh của thi nhân. Nhưng lắng đọng lại sau cùng là niềm xúc động vô bờ về một tình bạn chân thành, sâu sắc vượt lên cả những vật chất và những cung cách ứng xử thông thường.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the poem "Friends come to visit" by Nguyen Khuyen
Suggest
In the treasury of Vietnamese Literature, there are many works written on the topic of friendship that touch people's hearts. Nguyen Khuyen's poem "Friends come to visit" is one of such works. Reading the poem, we not only feel a sincere and deep friendship but also see a humorous Nguyen Khuyen appear. , optimistic.
“It's been a long time since you came to my house
When children are away, the market is far away
The pond is deep and the water is clear, it is wise to fish,
Large garden fence sparse, hard chase chickens
Cabbage has just sprouted, eggplant has just buds,
Newly elected cord, melon or flowers.
At the beginning of the game of receiving guests, there was no betel,
I'm here to play, you and I."
The poem sets up an idea by setting up a situation where there is nothing to welcome you, but still shows a deep and passionate friendship.
The first verse suggests a very happy situation: After a long time, you came to my house. Nguyen Khuyen has retreated into seclusion, in the turbulent era of "There's still money, there's money, there's disciples / There's no food, there's no wine, my grandfather" it's nice to have a long-time precious friend come to your house to play. how precious it is. And in that situation, Nguyen Khuyen should have entertained his friends thoughtfully and sumptuously. See more: Analysis of Y Phuong's best poem "Talking to Children" But ironically, in the next six lines, the poet draws a very special situation to create a joke: Everything is available but it turns out there is nothing. All material things are enough but they keep decreasing, to the point where there is nothing left: the market is there but there are no errand workers, there are many chickens and ducks but unfortunately the garden is so spacious and sparse that we cannot catch vegetables and pickles. enough fruit but unfortunately it's not in season yet!…
“When the children are away, the market is far away
The pond is deep and the water is clear, so you can fish wisely
Large garden fence sparse, hard chase chickens
Cabbage plants are budding, eggplants are just budding
Newly elected cord, melon or flowers".
Nguyen Khuyen wrote about his difficult family situation with a humorous, humorous poetic voice. The reader both smiles and wonders and sympathizes: When he retired, did Tam Nguyen Yen Do really live such a miserable life? And the owner's "mystery" reaches its peak when "the betel is the beginning of the story" when receiving guests and is not available: "The betel is not available at the beginning of the game of receiving guests". No, then the truth is that the poet's years of seclusion were not so difficult and pressing. Perhaps these are just jokes, an excuse to talk about something else unexpected. There are no material things, not even the bare minimum, so all that's left for you is love. Creating such a situation is both humorous and shows the desire to treat each other well both physically and mentally, while also emphasizing love. Only one sincerity can be enough to make up for material shortcomings: See more: Co To Literature 6 "Uncle, I'm here to play, you and I!"
The last sentence and the phrase "me and me" emphasize that the love of friendship does not need to be materialistic, but only requires genuine love. Friends and confidants sometimes just need to meet each other to recite a few verses and play a few songs and it's enough to be happy. Love does not have to be full of material things to be happy.
In the poem "Va Deo Ngang", Ba Huyen Thanh Quan also mentioned the phrase "me and me" but her "me and me" refers to the author alone with his own lonely, empty love. In Nguyen Khuyen's poem, on the contrary, the poet uses this phrase to refer to himself and his close friend. Nguyen Khuyen's "me and me" is so warm and joyful.
Through the behavior of the house. poetry, it can be seen that, with you, Nguyen Khuyen is very interested in you and wants to receive you very thoughtfully. At the same time, we also see that in friendship, Nguyen Khuyen attaches great importance to love and respect in friendship.
The language used in the poem You come to visit is of a rustic, everyday nature, with mostly pure Vietnamese words. The most unique thing about the poem is that it creates a lot of adversity but has nothing, but in fact it has everything! See more: Analysis of the short story Chi Pheo by Nam Cao Poem "Friends come to visit" by Nguyen Khuyen puts a smile in the reader's heart at the poet's humorous humor. But what remains in the end is the boundless emotion of a sincere, deep friendship that transcends material things and common ways of behaving.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về cây bàng
Bài làm
Trên sân trường không thể thiếu được đó chính là những cây bàng, những hàng phượng. Không giống với mọi người khi ấn tượng về sắc đỏ của phượng vĩ thì em lại yêu thích những tán bàng rộng lớn, sự chuyển màu kỳ diệu của cây bàng các mùa trong năm.
Ngôi trường em đang học có rất nhiều cây bàng. Bàng không chỉ được trồng ở sân trường mà còn ở phía trước cổng trường, vòng quanh sân vận động. Những cây bàng với thân cây khẳng khiu, lớp vỏ sần sùi, xám xịt. Những tán lá bàng xòe rộng tỏa tròn xung quanh. Chiếc lá bàng không nhỏ li ti như lá phượng cũng không thon dài như lá tre mà nó hơi dài và hình bầu dục nom giống chiếc quạt mo. Điều thú vị nhất mà em thường để ý quan sát đó chính là sự chuyển màu của lá bàng.
Mùa xuân, cây bàng đâm chồi nảy lộc. Những chiếc lá bàng non mơn mởn với màu xanh nõn chuối. Nom những chiếc lá phượng nom mỏng manh, dễ dàng lay động trong những cơn gió nhẹ. Khi những chiếc lá mọc ra càng lâu thì càng trở nên cứng cáp hơn. Vào hạ những chiếc lá bàng xanh sẫm hơn, những chùm hoa bàng li ti với hương thơm thoang thoảng nay đã kết trái và càng ngày càng phát triển. Có những chiếc lá bàng đã bắt đầu chuyển sang màu khác. Cuối hạ có những cây lá chuyển sang màu vàng, có cây lại chuyển đỏ sẫm. Trên những chiếc lá già ấy có những chấm màu sậm li ti như đôi má cô gái có những vết tàn nhang. Trông cây bàng với những màu sắc hết sức đặc biệt và sặc sỡ của lá bàng khiến cho nó chẳng thể lẫn lộn với những loại cây khác.Xem thêm: Phân tích tình yêu thiên nhiên trong bài thơ Cảnh Khuya và Rằm Tháng Giêng
Biểu cảm về cây bàng
Lũ trẻ chúng em thích nhất đó chính là lúc ăn trái bàng chín và đập hột bàng lấy nhân để ăn. Những trưa hè nóng nực cả lũ lại ngồi dưới gốc bàng hì hụi đập hột bàng. Rồi lá bàng chính là chiếc quạt mát khi chúng em nghỉ giải lao trong giờ thể dục, hay những giờ ra chơi. Càng về cuối thu, lá bàng càng vàng và rụng nhiều. Đến đông cây bàng chỉ còn trơ trọi cành khẳng khiu nom giống như là đã chết vậy. Nhưng thực chất sức sống của nó vẫn đang chảy ngầm một cách mạnh mẽ. Những chồi non núp dưới lớp vỏ giống như đang yên giấc chỉ đợi mưa xuân tới tưới tắm, nắng xuân sưởi ấm là bừng tỉnh, đâm chồi nảy lộc. Những nét khẳng khiu của cây bàng trơ trọi không lá mang vẻ đẹp rất riêng.
Cây bàng còn gắn với tuổi thơ em đó chính là khi em chăn trâu cắt cỏ phụ giúp gia đình. Nhà em vốn là một gia đình không lấy gì làm khá giả và sống ở một vùng quê yên bình tại ngoại thành. Nhà em có nuôi một cặp bò mẹ con nên nhưng buổi chiều được nghỉ học thì em đều đi chăn bò. Đám trẻ con mục đồng tụi em thích nhất là thả bò ngoài bãi để cho nó có thể ăn tự do mà không cần trông. Nhất là những ngày hè khi lúa ngoài đồng đã được thu hoạch hết. Ở bờ mương xây ngoài đồng xa có hàng xà cừ và hàng bàng chạy dài nối vào những lò gạch. Đó là nơi nghỉ mát lý tưởng không chỉ riêng những người làm lò gạch mà cả lũ mục đồng. Mùa bàng chín, cả hội ngồi hì hục đập quả bàng để lấy nhân, lúc trời nóng thì hái lá bàng để quạt mát, để che đầu. Tại đó cũng là nơi chơi nhiều trò chơi thú vị. Rồi hàng cây ấy còn là nơi nghỉ mát lý tưởng của những cô, bác nông dân khi đi làm đồng áng. Có thể thấy được tầm quan trọng và sự gắn bó của không chỉ riêng cây bàng mà còn các loại cây cho bóng mát khác đối với những người dân quê em.Xem thêm: Từ một số bài ca dao than thân đã học hoặc đã đọc, hãy phát biểu cảm nghĩ của anh (chị) về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. (Yêu cầu lập dàn bài)
Cây bàng đối với em chính là một người bạn, một người gắn bó với tuổi thơ của em, gắn với lứa tuổi học trò. Em cảm thấy cây bàng giống như một nhân chứng, chứng kiến sự phát triển, trưởng thành của em.
Loan Trương
|
Topic: Express your feelings about the almond tree
Assignment
Indispensable on the school grounds are the almond trees and phoenix trees. Unlike everyone else who is impressed by the red color of the Royal Poinciana, I love the vast canopy of the almond tree and the magical changing colors of the almond tree during the seasons of the year.
The school I'm studying at has many almond trees. Almonds are planted not only in the school yard but also in front of the school gate and around the stadium. The almond trees have spindly trunks and rough, gray bark. The almond leaves spread wide and circle around. The almond leaf is not as tiny as a phoenix leaf nor as long as a bamboo leaf, but it is slightly long and oval shaped like a bamboo fan. The most interesting thing that I often notice is the change in color of the almond leaves.
In spring, the almond tree sprouts. Young almond leaves are lush with a banana green color. The phoenix leaves look fragile, easily moving in the gentle breeze. The longer the leaves grow, the stronger they become. In summer, the leaves are darker green, and the tiny clusters of flowers with a faint fragrance have now borne fruit and are growing more and more. Some almond leaves have begun to change colors. At the end of summer, some trees' leaves turn yellow, while others turn dark red. On those old leaves there are tiny dark spots like a girl's cheeks with freckles. The almond tree's very special and colorful colors make it unmistakable with other types of trees. See more: Analysis of love for nature in the poem Late Night Scene and Full Moon of January
Expression about the almond tree
What our children like best is when they eat ripe almonds and crack the seeds to get the filling to eat. On hot summer afternoons, we all sit under the almond tree, pounding almond seeds. Then the almond leaf is a cool fan when we take a break during gym class or during recess. Towards the end of autumn, the almond leaves become yellower and fall more. In winter, the almond tree has only bare branches and looks as if it has died. But in fact its vitality is still flowing strongly underground. The young buds hiding under the shell seem to be sleeping peacefully, just waiting for the spring rain to water them and the spring sun to warm them, then awaken and sprout. The spindly features of the leafless almond tree have a very unique beauty.
The almond tree is also associated with my childhood, when I herded buffalo and cut grass to help my family. My family is not a very wealthy family and lives in a peaceful countryside outside the city. My family raises a pair of cows, so every afternoon when I have a day off from school, I tend to herd the cows. We shepherd children like to let the cow out in the open so it can eat freely without being looked after. Especially on summer days when all the rice in the fields has been harvested. On the banks of ditches built in the far fields, there are rows of mother-of-pearl and rows of eagles running long connecting to the brick kilns. It is an ideal vacation place for not only brick kiln workers but also shepherds. When the almond tree is ripe, the whole group sits down to beat the fruit to get the kernels. When it's hot, they pick almond leaves to cool themselves and cover their heads. There is also a place to play many interesting games. And that row of trees is also an ideal vacation place for farmers when they go to work in the fields. We can see the importance and attachment of not only the almond tree but also other shade trees to the people in my hometown. See more: From some folk songs of mourning that I have learned or read , please express your feelings about the fate of women in the old society. (Requires an outline)
The almond tree for me is a friend, a person attached to my childhood, attached to the school age. I feel like the almond tree is like a witness, witnessing my development and maturity.
Loan Truong
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về cây phượng
Bài làm
Đối với bao lứa học trò thì cây phượng luôn là loài cây đặc biệt và quen thuộc. Phượng có mặt ở nhiều nơi nhất là ở sân trường, ở hai bên đường tới trường, ở những bài thơ những trang giấy.
Đối với em phượng giống như một người bạn gắn bó với em trong suốt những năm tháng học trò. Phượng không chỉ đẹp khi mang sắc đỏ thắm cả một vùng trời mà nó đẹp ngay cả khi những chiếc lá non phất phơ trong gió hay đẹp trong từng khoảnh khắc, từng thời điểm khác nhau.
Mùa xuân, mùa đầu tiên và cũng là mùa đẹp nhất trong năm. Thời điểm này phượng cũng không chịu kém cạnh, khi mà trăm hoa đua nở thì phượng cũng bắt đầu nhú những cành lá xanh non mơn mởn. Giữa nắng xuân ấm áp thì màu xanh trở nên nổi bật, tươi tắn. Hay cả những lúc mưa xuân, từng giọt mưa nhỏ li ti đậu trên lá cũng khiến cho bao lớp học trò mơ màng. Em rất thích ngắm cây phượng trong tiết trời mưa phùn của đất Bắc, nó khiến em như cảm nhận rõ hơn về mùa xuân đang diễn ra. Chẳng mấy chốc trên những cành phượng đã bắt đầu có những chùm nụ non, chỉ đợi nắng hè tới là khoe sắc. Đến cuối xuân những nụ hoa đầu tiên bắt đầu hé nở báo hiệu mùa hè sắp tới.Xem thêm: Cảm nhận về bài ca dao: "Trong đầm gì đẹp bằng sen. Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"
Biểu cảm về cây phượng
Mùa hè gắn liền với mùa thi và cũng báo hiệu một năm học sắp hết. Những cô cậu học trò bắt đầu vội vàng ôn tập cho mùa thi. Trên tầng không hoa phượng nở ngày càng nhiều, sắc ngày càng đỏ. Phượng nở đỏ cả một góc sân trường. Trong những giờ ra chơi dưới gốc phượng không bao giờ vắng những cô cậu học trò. Có những bạn thì ngồi ôn bài, có người thì cùng vui chơi, đùa nghịch với nhau. Nhưng em chú ý nhất chính là những anh chị lớp chín. Họ đang cùng nhau nhặt những cánh hoa phượng để ép vào những trang sách, trang lưu bút. Bởi năm cuối cấp, hè đến ngoài những kì thi quan trọng thì còn là mùa của chia ly. Cây phượng đã chứng kiến biết bao cuộc chia tay, giống như một người bạn lớn luôn dang rộng cánh tay chào đón, ôm ấp, vỗ về.
Thời học sinh cắp sách đến trường ai chẳng từng nhặt những bông hoa phượng, bẻ những chùm hoa phượng ven đường. Những chiếc xe đạp nổi bật với những tà áo trắng, những chùm hoa phượng đỏ rực rỡ. Em rất thích khi nhìn thấy những chị học cấp ba với những chiếc áo dài trắng tinh khôi đạp xe dưới con đường mà hai bên là hàng phượng vĩ đỏ thắm. Chính cảnh tượng đẹp đẽ ấy khiến em có thêm động lực cố gắng để có thể tiếp tục cắp sách tới trường, để thi đậu vào trường cấp ba ở quê em. Đó là một ngôi trường có nhiều cây phượng và con đường đến trường là hai hàng phượng đã có mặt ở đó từ lâu nay.Xem thêm: Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, có khi được trưng bày trong tủ kính, ... Em hãy chứng minh rằng trong... yêu nước rất sâu sắc. Theo em, ngày nay chúng ta cần làm gì để “làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày”
Mặc dù chưa phải cuối cấp nhưng đối với em thì mỗi khi được nghỉ hè giống như đang có cuộc chia tay với cây phượng. Chỗ em ngồi là ở tầng hai, ngay bên cửa sổ là cây phượng già nên nhiều khi đưa ánh mắt ra ngoài cửa sổ lại nhìn thấy phượng ở bên đồng hành cùng em trong giờ học. Có những tiết học căng thẳng thì khung cửa sổ với những tán phượng mang lại cho em cảm giác thư giãn, giảm bớt căng thẳng. Phượng của tiết trời thu cũng rất đẹp. Mùa thu, mùa khai trường, sau mấy tháng hè ròng rã nay đã được cắp sách tới trường, được gặp lại bạn bè, thầy cô và gặp người bạn bên khung cửa sổ. Những chiếc lá xanh nay đã ngả vàng, một sắc vàng đặc trưng của tiết trời thu. Những cơn gió thu nhẹ thôi nhưng cũng khiến cho những chiếc lá phượng rụng rơi đầy trên đất.
Cây phượng giống như một người bạn lớn tuổi chứng kiến những bước trưởng thành của em, chứng kiến biết bao kỷ niệm tuổi học trò của em. Đối với em thì cây phượng là loài cây em yêu mến và dành nhiều tình cảm nhất trong số các loài cây.
Loan Trương
|
Topic: Express your feelings about the phoenix tree
Assignment
For many generations of students, the phoenix tree is always a special and familiar tree. Phuong is present in many places, especially in the school yard, on both sides of the road to school, and in poems and pages.
For me, the phoenix is like a friend who has been with me throughout my school years. The phoenix is not only beautiful when it has a crimson color across the sky, but it is beautiful even when the young leaves are fluttering in the wind or beautiful in every moment, at every different time.
Spring, the first and also the most beautiful season of the year. At this time, the phoenix is not outdone. When hundreds of flowers bloom, the phoenix also begins to sprout young green branches and leaves. In the warm spring sunshine, the green color becomes prominent and fresh. Or even during spring rains, every tiny drop of rain falling on the leaves also makes many classes of students dreamy. I really like looking at the phoenix tree in the drizzly weather of the North, it makes me feel more clearly that spring is happening. Soon, young buds began to appear on the phoenix branches, just waiting for the summer sun to bloom. At the end of spring, the first flower buds begin to bloom, signaling the coming summer. See more: Comments on the folk song: "What is more beautiful in the lagoon than the lotus? Green leaves, white flowers are crowded with yellow stamens. Yellow stamens, white flowers, green leaves. Near the mud but doesn't smell like mud."
Expression about the phoenix tree
Summer is associated with exam season and also signals the end of the school year. The students began to hurriedly review for exam season. On the ground floor, the poinciana flowers bloom more and more, their color becoming more and more red. The phoenix bloomed red in a corner of the school yard. During recess under the phoenix tree, students are never absent. Some friends sit and review, others play and joke with each other. But I pay the most attention to the ninth graders. Together they are picking up poinciana petals to press into book pages and guestbook pages. Because of senior year, summer comes, in addition to important exams, it is also the season of separation. The phoenix tree has witnessed many farewells, like a great friend who always opens its arms to welcome, hug, and comfort.
When students go to school, they never pick up poinciana flowers and break bunches of poinciana flowers along the roadside. The bicycles stand out with white shirts and bright red poinciana flowers. I really like it when I see high school girls with pure white ao dai cycling down the road with rows of red poinciana on both sides. It was that beautiful scene that gave me more motivation to try harder to continue going to school, to pass the entrance exam to high school in my hometown. It is a school with many phoenix trees and the road to school is lined with two rows of phoenix trees that have been there for a long time. See more: Patriotism is like precious things, sometimes displayed in glass cabinets. ... Please prove that in... patriotism is very deep. In your opinion, what do we need to do today to "put those hidden treasures on display?"
Even though I'm not a senior yet, for me, every summer break is like saying goodbye to the phoenix tree. My seat is on the second floor, right next to the window is an old phoenix tree, so often when I look out the window I see the phoenix next to me accompanying me during class. During stressful classes, the window frame with phoenix leaves gives me a feeling of relaxation and reduces stress. The phoenix of autumn weather is also very beautiful. Fall, the school opening season, after several long months of summer, I can now go to school, meet my friends, teachers, and meet my friend at the window. The green leaves have now turned yellow, a typical yellow color of autumn weather. The autumn winds are light, but they also cause fallen phoenix leaves to fall all over the ground.
The phoenix tree is like an old friend witnessing my growth steps, witnessing so many memories of my student years. For me, the phoenix tree is the tree I love and have the most love for among all the trees.
Loan Truong
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về cây tre
Bài làm
Cây tre là một loại cây quen thuộc với người dân Việt Nam. Tre gắn liền với cuộc sống sinh hoạt, lao động và cả cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc.
Sinh ra và lớn lên tại một vùng quê thanh bình. Những lũy tre xanh, cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay là những hình ảnh quá đỗi quen thuộc và thân thương. Lũy tre bao bọc xóm làng, là nơi diễn ra rất nhiều hoạt động và tre có mặt ở nhiều mặt trong đời sống người dân quê em.
Những lũy tre với những cây tre cao vút. Thân tre xanh óng mượt được chia thành từng khúc một. Lá tre thành từng chùm và mang màu xanh không quá đậm và càng lên ngọn thì màu xanh ấy càng nhạt dần. Tron lũy tre không chỉ có một lứa tre mà nhiều lứa đan xen nhau. Có những cây cao vút, có những cây mới cao tầm hơn nửa cây cao nhất, nhưng cũng có cây mới chỉ ngang người. Ở dưới thấp còn nhiều cây tre non nay mới chỉ là búp măng non dài mấy chục phân. Có người nói tre không có hoa nhưng thực ra tre có hoa và ít người để ý hoặc không có dịp trông thấy. Cây tre đứng thẳng cả đời cuối cùng cũng có dịp tươi đẹp nhất đó là trổ ra những chùm hoa vàng li ti. Sau khi hoa tàn cũng là lúc mà cây tre giống như con người bước vào tuổi già, hết một đời người. Tre gắn với đời sống sinh hoạt của dân làng. Từ những đôi đũa trong mâm cơm hằng ngày, những chiếc rổ rá đan bằng nan tre. Rồi đến những cái cuốc, cái cày của người nông dân. Tre dẻo dai làm nên những chiếc vó kéo cá, những chiếc cần câu, những chiếc lờ bẫy cá.Xem thêm: Tình yêu quê hương đất nước là một đề tài sâu rộng trong mọi nền văn học Đông Tây kim cổ. Tại sao vậy. Em hãy viết một đoạn văn nói lên vai trò quan trọng của quê hương đối với mỗi con người
Biểu cảm về cây tre
Tre đến bên mọi người cả giấc nghỉ ngơi đó là những chiếc giường, chõng làm bằng tre, những chiếc quạt nan. Không chỉ có vậy, Tre còn gắn liền với những lúc vui chơi giải trí của mọi người. Trẻ con có trò chơi chuyền với que bằng tre. Những trưa hè, dưới lũy tre xanh là những đứa trẻ đang chơi đùa. Có khi là những chú trâu bò nằm nghỉ mát, cũng có những lũy tre là nơi tụ họp nói chuyện nghỉ mát của những bác nông dân. Những buổi liên hoan văn nghệ ở quê em không thể thiếu được bài múa, nhảy sạp và nó được làm bằng những thân tre thẳng thướm. Rồi những trò chơi ngày hội như đu quay, đánh đu, cầu khỉ… Có lẽ chính vì thế mà dù cho ngày nay khi đất nước ngày càng phát triển, hiện đại hơn và vai trò của cây tre trong đời sống cũng như trong lao động thì được nhiều thứ khác thay thế nhưng đối với người dân quê em thì tre vẫn là một người bạn, một người thân thiết giống như một thành viên trong gia đình.
Tre biểu tượng cho người dân Việt Nam, mang những phẩm chất cao đẹp, kiên cường, thủy chung, ngay thẳng. Tre góp mặt trong những cuộc đấu tranh, những cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc. Tre giữ làng giữ nước, tre trở thành vũ khí chống lại kẻ thù. Những lũy tre dày kiên cường chống lại mưa bom bão đạn, chống lại sự bắn phá của quân thù. Đối với dân tộc Việt Nam thì tre chính là hiện thân của sự kiên cường, bất khuất, không chịu khuất phục. Chính vì thế tre đã trở thành nguồn cảm hứng lớn trong văn chương. Ta đã từng bắt gặp hình ảnh cây tre trong lời thơ:Xem thêm: Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Trương Sinh trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam xương của Nguyễn Dữ
"Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh"
Hơn ai hết, tre giống như một người bạn từ thuở ấu thơ của em. Tre có trong lời ru của bà, của mẹ. Bóng tre là nơi mà em thường chơi đùa, nghỉ mát những trưa hè. Trong cơn gió mùa hạ, tiếng xào xạc từ những tán lá, tiếng thân tre va vào nhau kẽo kẹt nom bình yên tới lạ. Rồi những buổi chiều chạy trên sườn đê với một bên là lũy tre trải dài, cùng lũ bạn mục đồng thả diều khiến em cảm thấy những ngày hè thật vui vẻ, ý nghĩa.
Cây tre mãi mãi là người bạn của nhà nông, của người dân Việt Nam và đối với riêng em. Dù cho sau này lớn lên hay đi xa thì em vẫn nhớ mãi về quê hương về lũy tre làng về cánh đồng thân quen.
Loan Trương
|
Topic: Express your feelings about bamboo
Assignment
Bamboo is a familiar plant to Vietnamese people. Bamboo is associated with daily life, labor and the nation's heroic resistance.
Born and raised in a peaceful countryside. Green bamboo mounds and rice fields with storks flying are very familiar and beloved images. The bamboo mound surrounds the village, where many activities take place and bamboo is present in many aspects of the lives of the people in my hometown.
Bamboo ramparts with towering bamboo trees. The silky green bamboo stem is divided into pieces. Bamboo leaves come in bunches and are not too dark green, and the closer they get to the top, the lighter the green color becomes. The bamboo pile does not have just one generation of bamboo but many generations interwoven together. There are towering trees, there are new trees that are more than half the height of the tallest tree, but there are also new trees that are only as tall as people. Down below there are still many young bamboo trees that are now just young bamboo shoots a few dozen centimeters long. Some people say bamboo doesn't have flowers, but in fact bamboo has flowers and few people pay attention or don't have a chance to see them. The bamboo tree that has stood upright all its life finally has its most beautiful opportunity to bloom with tiny yellow flower clusters. After the flowers wither, it is also the time when the bamboo tree, like a human, enters old age, ending one's life. Bamboo is associated with the daily life of villagers. From the chopsticks in the daily tray, to the baskets woven with bamboo slats. Then came the hoes and plows of the farmers. Tough bamboo makes fish hooks, fishing rods, and fish traps. See more: Love for the homeland is a profound topic in all ancient and western literature. Why so. Please write a paragraph about the important role of homeland for every person
Expression about bamboo
Bamboo comes to everyone's side all night to rest, including beds, cots made of bamboo, and bamboo fans. Not only that, Bamboo is also associated with people's entertainment times. Children have a passing game with bamboo sticks. On summer afternoons, under green bamboo trees, children are playing. Sometimes there are buffaloes and cows resting, and there are also bamboo fences where farmers gather and talk on vacation. Arts festivals in my hometown are indispensable for dancing and dancing, and they are made of straight bamboo stalks. Then there are festival games such as ferris wheel, swing, monkey bridge... Perhaps that is why, even today when the country is increasingly developed, more modern and the role of bamboo in life as well as work Movement can be replaced by many other things, but for the people of my hometown, bamboo is still a friend, a close person like a family member.
Bamboo symbolizes the Vietnamese people, bringing noble qualities, resilience, loyalty, and integrity. Bamboo participates in the nation's long struggles and resistance wars. Bamboo protects the village and the country, bamboo becomes a weapon against enemies. The thick bamboo ramparts are resilient against the rain of bombs and bullets and against enemy bombardment. For the Vietnamese people, bamboo is the embodiment of resilience, indomitableness, and refusal to yield. That's why bamboo has become a great source of inspiration in literature. We have seen the image of bamboo in poetry: See more: Write a paragraph stating your feelings about the character Truong Sinh in the work The Story of a Nam Xuong Girl by Nguyen Du
"Bamboo has always been green
"Once upon a time, there was a green bamboo bank"
More than anyone else, bamboo is like a friend from my childhood. Bamboo is in grandmother's and mother's lullabies. The bamboo shade is where I often play and relax on summer afternoons. In the summer wind, the rustling sound of leaves and the creaking sound of bamboo stems hitting each other seemed strangely peaceful. Then, the afternoons of running on the dike slopes with a stretch of bamboo on one side, and flying kites with my fellow shepherds, made me feel that the summer days were fun and meaningful.
Bamboo is forever a friend of farmers, the Vietnamese people and for me. Even when I grow up or go far away, I will always remember my hometown, the village's bamboo mounds, and the familiar fields.
Loan Truong
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về hai nhân vật Thành và Thủy trong truyện ngắn “Cuộc chia tay của những con búp bê” của nhà văn Tạ Duy Anh
Gợi ý
DÀN Ý
Mở bài:
+ Giới thiệu về hoàn cảnh tiếp xúc với văn bản “ Cuộc chia tay của những con búp bê” của Tạ Duy Anh: đọc và nghe giảng trên lớp.
+ Cảm xúc chung của em về hai nhân vật Thành và Thuỷ trong truyện: cảm động, thương xót…
Thân bài:
+ Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm.
+ Cảm nghĩ của em về nhân vật Thành:
Là người anh trai rất thương yêu em gái: đón em sau giờ tan học, giúp em học bài, nhường hết đồ chơi cho em không lấy thứ nào…
Là một người biết nghĩ, sống nội tâm sâu sắc: đêm không ngủ được khóc “ướt đầm cả gối và hai cánh tay áo”, sáng đã dậy sớm, kinh ngạc, khi thấy mọi thứ vẫn bình thường trong khi tâm hồn mình đang nổi dông bão…
Thấy buồn sâu thẳm, thất vọng, bơ vơ khi phải xa em.
+ Cảm nghĩ về nhân vật Thuỷ:
Là một đứa trẻ ngoan, khéo tay: mang kim chỉ ra tận sân vận động khâu áo cho anh.
Chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh: phải theo mẹ về quê ngoại, không được đi học, phải đi bán hàng phụ mẹ → thương cảm, xót xa…
Là đứa trẻ giàu lòng nhân hậu, sống vị tha: không muốn chia rẽ hai con búp bê nhưng lại sợ không ai canh giấc ngủ cho anh nên đã để lại con Em Nhỏ bên cạnh con Vệ Sĩ, thà mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, thà mình chịu thiệt thòi để anh luôn có người gác cho ngủ đêm đêm → xúc động và cảm phục.
Xem thêm: Hãy tưởng tượng em được gặp người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của tác giả Phạm Tiến Duật, kể lại cuộc gặp gỡ đó+ Cảm nghĩ về tình cảm của hai anh em và cuộc chia tay giữa chúng:
Đó là một tình anh em cao đẹp, trong sáng, đáng được trân trọng và ngợi ca.
Cuộc chia tay giữa chúng không nên có, là cuộc chia tay vô lí, đáng lên án… → làm người đọc xúc động nghẹn ngào, đau dớn, xót thương…
Kết bài:
+ Khái quát lại tình cảm của em khi học xong truyện.
+ Suy nghĩ về mái ấm gia đình, về quyền trẻ em..
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the two characters Thanh and Thuy in the short story "The Dolls' Farewell" by writer Ta Duy Anh
Suggest
OUTLINE
Opening:
+ Introduction to the situation of exposure to the text "Farewell of the Dolls" by Ta Duy Anh: reading and listening to lectures in class.
+ My general feelings about the two characters Thanh and Thuy in the story: touching, compassionate...
Body of the article:
+ Brief summary of the work.
+ My thoughts about the character Thanh:
He is a brother who loves his sister very much: picks her up after school, helps her study, gives her all her toys without taking anything...
He is a thoughtful, deeply introverted person: he couldn't sleep at night and cried, "soaking his pillow and his sleeves", he woke up early in the morning, surprised to see that everything was still normal while his soul was in turmoil. storm…
I feel deep sadness, disappointment, and helplessness when I have to leave you.
+ Feelings about the character Thuy:
He was a good child, skillful: he brought a needle and thread to the stadium to sew shirts for him.
Suffering many disadvantages and misfortunes: having to follow my mother back to my maternal hometown, not being able to go to school, having to work to help my mother sell goods → feeling sorry for her...
He is a kind-hearted child who lives altruistically: he does not want to separate the two dolls, but is afraid that no one will watch his sleep, so he leaves Little Brother next to the Bodyguard, he would rather be separated than not. If the doll has to break up, I'd rather suffer the loss so that he always has someone to watch over him to sleep at night → moved and admired.
See more: Imagine meeting the soldier driving in the poem A poem about a squad of cars without windows by author Pham Tien Duat, recounting that meeting + Feelings about the feelings of the two brothers and their life together. split between them:
It is a beautiful, pure brotherhood that deserves respect and praise.
The breakup between them should not have happened, it was an unreasonable, condemnable breakup... → makes the reader choked up, pained, pitiful...
End:
+ Summarize your feelings when you finish reading the story.
+ Thinking about the family home and children's rights..
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về mùa xuân
Bài làm
Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm. Là mùa mà em luôn mong ngóng, chờ đón và mùa mà em yêu thích nhất.
Đối với em thì dường như thiên nhiên, cảnh vật hay con người đều đẹp nhất đó là khi vào xuân. Trong khi mùa đông thì cả cảnh và người đều đang chìm trong một không khí u ám trong thời tiết lạnh lẽo. Cây cối lá đã rụng từ cuối thu nay trở nên trơ chọi. Bầu trời cũng xám xịt chứ không trong xanh. Vốn tưởng rằng sự vật không sức sống thế mà khi những tia nắng xuân chớm đậu trên cành đã khiến cho mầm sống vốn đang im lìm nay trỗi dậy một cách mạnh mẽ.
Những chiếc chồi non đang được khoác chiếc áo xám xịt nay được trút bỏ nảy lên chồi xanh non mơn mởn khoe sắc dưới ánh nắng xuân dịu dàng. Cảnh vật, cả đất trời miền Bắc như thay áo mới. Chẳng mấy mà màu xanh đã bao trùm rồi những nụ hoa cũng bắt đầu hé mở đón xuân. Nhắc đến xuân không thể thiếu hoa đào ở miền Bắc, sắc vàng của hoa mai ở miền Nam. Mùa xuân còn được gọi là mùa mà trăm hoa khoe sắc thắm. Mỗi loài hoa mang những dáng vẻ riêng. Mùa xuân đào mai khoe sắp thắm đón chào năm mới. Đó là thời điểm mà những người con đi xa mong chờ để trở về sum họp với gia đình. Mỗi khi tết đến xuân về em thích nhất đó chính là đi thăm những vườn đào, những vườn quất. Nhất là ở ven sông quê em có những khu đất chuyên trồng đào và cứ đến dịp cận tết thì những người trồng đào lại đánh và đem vào thành phố để bán. Cái cảm giác ngắm hoa đào ở chợ hoa hay ở một vài cây khác hoàn toàn với ngắm cả khu vườn đào hay phải nói rằng như một rừng đào. Cả vùng đất rộng lớn toàn những cây đào đa dạng về kiểu dáng vì được cắt tỉa, uốn khéo léo. Cũng có rất nhiều người ghé thăm nơi đây, thậm chí còn có những người mặc những chiếc áo dài để chụp ảnh, lưu giữ lại những khoảnh khắc đẹp.Xem thêm: Hãy phát hiểu cảm nghĩ về nhân vật mà em thích nhất trong các tác phẩm văn học dân gian đã học
Biểu cảm về mùa xuân
Tiết trời thu không lạnh như mùa đông cũng không nóng nực như ngày hè. Xuân với cái gió se se lạnh, với những cơn mưa phùn bay bay, với ngày nắng xuân tươi tắn, có nắng mà chẳng hề chói chang. Mùa xuân là mùa của lễ hội, chỉ sau ngày Tết có biết bao lễ hội diễn ra ở nhiều nơi trên Tổ quốc. Đó là một nét đẹp văn hóa của dân tộc ta. Em rất thích tham gia lễ hội, nhất là lễ hội ở nơi em sinh sống.
Có người thích nắng xuân ấm áp, người lại thích mùa xuân vì thời tiết dễ chịu, vì tiết trời mưa phùn giăng mắc khắp mọi nơi. Có năm vào dịp tết em được về quê ngoại ăn Tết. Đó là một thị trấn nhỏ ở Tây Bắc và con đường lên đó khá ngoằn nghèo và lên dốc xuống đèo. Nếu đi vào sáng sớm thì sương mù kín trời và khó có thể thấy được đường. Thậm chí càng lên cao, càng thấy sương mù dày đặc. Thế rồi khi ánh nắng xuân lên và khi ở trên núi cao nhìn xuống thung lung bên dưới em vẫn thấy những đám mây mù khi thì trắng khi thì xám như làn khói đang bao trùm cảnh vật. Khác với không khí Tết, không khí mùa xuân ở dưới xuôi, ở quê ngoại em thì mùa xuân thật tươi đẹp không chỉ ở cái lạnh, thời tiết mà là ở cảnh vật thiên nhiên và những con người dân tộc miền núi chất phác. Đó là miền quê mà ta bắt gặp rất nhiều những cây đào rừng to lớn, những cánh đào phải đẹp dịu dàng như cô sơn nữ mười tám đôi mươi. Những thửa ruộng bậc thang đang được người nông dân cày bừa, làm đất để ra Tết có thể xuống đồng cấy lúa. Ta quen thấy thửa ruộng bậc thang lúa xanh, lúa chín và nay thấy được cảnh ruộng trắng xóa vì nước gây ấn tượng riêng cho người xem. Rồi chợ Tết nơi đây cũng không đa dạng, sầm uất như dưới xuôi nhưng họ có những sản vật rất đặc sắc mang dấu ấn của các dân tộc nơi đây… Chính nhờ vậy mà em đã học hỏi được rất nhiều về những nét đẹp văn hóa của dân tộc và khiến em càng yêu thêm mùa xuân.Xem thêm: Viết một bài văn ngắn nêu cảm nhận của em về bài ca dao sau: Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Mùa xuân quả thật là một mùa tươi đẹp, mùa được mong chờ nhất trong năm. Một mùa mang nhiều ý nghĩa mà trước hết đó chính là tuổi trẻ và là sự sum họp của gia đình, kết thúc năm cũ và đón chào một năm mới.
Loan Trương
|
Topic: Express your feelings about spring
Assignment
Spring is the most beautiful season of the year. It's the season I always look forward to, wait for, and the season I love the most.
It seems to me that nature, scenery, and people are all most beautiful in spring. During winter, both scenes and people are immersed in a gloomy atmosphere in cold weather. The leaves that have fallen since late autumn have now become bare. The sky is also gray, not blue. I thought that things were lifeless, but when the rays of spring sunlight first landed on the branches, the germs of life that were dormant now emerged strongly.
The young buds that were wearing a gray coat have now been shed and sprout up into tender green buds that bloom under the gentle spring sunlight. The scenery, the whole land and sky in the North seem to have changed into new clothes. Soon the green color covered the flower buds and began to open to welcome spring. When it comes to spring, we cannot forget peach blossoms in the North and the yellow color of apricot blossoms in the South. Spring is also known as the season when hundreds of flowers bloom. Each flower has its own unique appearance. In the spring, peaches and apricots are blooming to welcome the new year. That is the time when children who have gone away look forward to returning to reunite with their families. Every time spring comes, my favorite thing to do is visit peach and kumquat gardens. Especially along the river in my hometown, there are plots of land specializing in growing peaches, and every time Tet approaches, the peach growers pick them up and bring them into the city to sell. The feeling of looking at peach blossoms at the flower market or at a few trees is completely different from looking at an entire peach garden or, it should be said, a peach forest. The entire vast land is full of peach trees with diverse designs because they are skillfully pruned and bent. There are also many people who visit this place, some even wear ao dai to take photos, capturing beautiful moments. See more: Find out your feelings about your favorite character in the series. learned folk literature works
Expression of spring
The autumn weather is neither cold like winter nor hot like summer. Spring with the cold wind, with flying drizzle, with bright spring sunny days, sunny but not too bright. Spring is the season of festivals. Just after Tet, there are many festivals taking place in many parts of the country. It is a cultural beauty of our nation. I really like participating in festivals, especially festivals where I live.
Some people like the warm spring sunshine, others like spring because of the pleasant weather, because of the drizzle everywhere. One year, during Tet, I went back to my grandparents' hometown to celebrate Tet. It's a small town in the Northwest and the road up there is quite winding and uphill and down the pass. If you go early in the morning, the sky is covered in fog and it is difficult to see the road. Even the higher you go, the denser the fog becomes. Then, when the spring sunlight rises and when I'm on a high mountain looking down at the valley below, I still see misty clouds, sometimes white, sometimes gray, like smoke covering the landscape. Different from the Tet atmosphere, the spring atmosphere down below, in my grandmother's hometown, spring is beautiful not only in the cold and the weather but in the natural scenery and the simple mountain people. It is a countryside where we see many large wild peach trees, whose petals must be as beautiful and gentle as a mountain girl of eighteen or twenty. The terraced fields are being plowed and prepared by farmers so that during Tet they can go to the fields to plant rice. We are used to seeing terraced fields of green rice and ripe rice, and now we see the scene of white rice fields because of the water, making a unique impression on the viewer. The Tet market here is not as diverse and bustling as the lowlands, but they have very unique products bearing the mark of the ethnic groups here... Thanks to that, I have learned a lot about the beauty of culture. culture of the nation and makes me love spring even more. See more: Write a short essay stating your feelings about the following folk song: Standing in the back alley in the afternoon / Looking back at my mother's hometown is painful for nine hours
Spring is truly a beautiful season, the most anticipated season of the year. A season with many meanings, first of all it is youth and family reunion, ending the old year and welcoming a new year.
Loan Truong
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về một nhân vật trong truyện dân gian mà em cho là hay
Gợi ý
Truyện Tấm Cám giúp ta thấy được sự dịu hiền, thật thà, đức tính cần cù, chịu khó cùa cô Tấm. Nàng luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người và được mọi người yêu mến. Chính những đức tính đáng quí đó đã làm em khâm phục nàng.
Tấm là một người thật thà nên bị Cám lừa và lấy hết cá trong giỏ. Thật là đáng thương cho nàng, vì quá hiền lành nên không dám nói lên những oan ức từ trước đến giờ, chỉ đành câm lặng.
Mẹ con Cám lúc nào cũng muốn Tấm làm việc quần quật suốt ngày, không cho nghỉ ngơi. Họ luôn luôn tìm cách để cho Tấm phải buồn khổ. Những việc làm của mẹ con Cám gây ra cho Tấm vô cùng độc ác. Và thật đáng thương cho số phận của con người hiền lành như Tấm. Nhưng em nghĩ sẽ có một ngày nào đó nàng được hạnh phúc và không bao giờ gặp khó khăn trở ngại nữa.
Mẹ con Cám đã nhẫn tâm giết bống của Tấm và không cho Tấm đi dự hội. Tấm ngậm đắng ngồi khóc bên cửa sổ. Tấm như chú chim bị nhốt trong lồng, muốn bay vào tự đo nhưng những thanh tre độc ác kia đã ngăn chim lại. Thế là ông Bụt hiện lên như một vị cứu tinh, giúp Tấm vượt qua trở ngại, ở hiền gặp lành. Và Tấm nghiễm nhiên bước lên ngôi hoàng hậu qua việc đánh rơi chiếc giày. Tuy vậy, mẹ con Cám vẫn không ngừng thủ đoạn đen tối. Một lần nữa, mẹ con Cám giết Tấm, cho Cám thế ngôi hoàng hậu. Thật đáng ghét mẹ con Cám. Em cầu mong cho mẹ con Cám chết mau để Tấm được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng qua nhiều lần thay lốt mà Tấm vẫn bị mẹ con Cám hại. Cuối cùng, tính thẳng thắn và kiên quyết giúp nàng có nhiều nghị lực giết mẹ con Cám và nàng cùng với nhà vua sống yên vui hạnh phúc bên nhau.Xem thêm: Sống chậm, suy nghĩ khác và yêu thương nhiều hơn Câu chuyện kết thúc: Người ngay thẳng được sống hạnh phúc; ke độc ác bị trừng trị đích đáng. Ở đây, em đã học được nhiều bài học qui giá. Em hứa sẽ học theo những điều hay ở truyện cổ tích để thành người tốt.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about a character in a folk tale that you think is good
Suggest
Tam Cam's story helps us see Ms. Tam's gentleness, honesty, diligence, and hard work. She is always ready to help everyone and is loved by everyone. It is those precious qualities that make me admire her.
Tam is an honest person, so he was tricked by Cam and took all the fish in the basket. It's so pitiful for her, because she's so gentle that she doesn't dare to speak up about the injustices she's been through so far, so she can only remain silent.
Cam and her mother always wanted Tam to work hard all day, not allowing them to rest. They always find ways to make Tam sad. The actions Cam and her mother did to Tam were extremely cruel. And how pitiful is the fate of a gentle person like Tam. But I think one day she will be happy and never have trouble again.
Cam and her mother cruelly killed Tam's uncle and did not let Tam go to the festival. Tam sat bitterly crying by the window. Tam was like a bird locked in a cage, wanting to fly in and measure himself, but those cruel bamboo bars stopped the bird. So Mr. Buddha appeared as a savior, helping Tam overcome obstacles and meet goodness. And Tam suddenly ascended the throne by dropping her shoe. However, Cam and her mother continued to use dark tricks. Once again, Cam and her mother killed Tam, allowing Cam to become queen. It's so disgusting for Cam's mother and daughter. I pray that Cam and his mother die quickly so that Tam can enjoy a happy life. However, after many changes in disguise, Tam was still harmed by her mother and daughter. In the end, her straightforwardness and determination gave her the strength to kill Cam and her mother and she and the king lived peacefully and happily together. See more: Live slowly, think differently and love more. The story ends conclusion: Upright people live happily; The evil one will be punished properly. Here, I have learned many valuable lessons. I promise to learn good things from fairy tales to become a good person.
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha
Bài làm
Trong cuộc sống hàng ngày, có biết bao nhiêu người đáng để chúng ta thương yêu và dành nhiều tình cảm. Nhưng đã bao giờ bạn nghĩ rằng, người thân yêu nhất của bạn là ai chưa?
Với mọi người câu trả lời ấy có thể là ông bà, là mẹ, là anh chị hoặc cũng có thể là bạn bè chẳng hạn. Còn riêng tôi, hình ảnh người bố sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi ấm tâm hồn tôi mãi tận sau này. Bố tôi không may mắn như những người đàn ông khác. Trong suốt cuộc đời bố có lẽ không bao giờ được sống trong sự sung sướng, vui vẻ.
Bốn mươi tuổi khi chưa đi được nửa chặng đời người, bố đã phải sống chung với bao nhiêu bệnh tật: Đầu tiên đó chỉ là những cơn đau dạ dày, rồi tiếp đến lại xuất hiện thêm nhiều biến chứng. Trước đây, khi còn khỏe mạnh, bao giờ bố cũng rất phong độ.
Thế nhưng bây giờ, vẻ đẹp ấy dường như đã dần đổi thay: Thay vì những cánh tay cuồn cuộn bắp, giờ đây chỉ còn là một dáng người gầy gầy, teo teo. Đôi mắt sâu dưới hàng lông mày rậm, hai gò má cao cao lại dần nổi lên trên khuôn mặt sạm đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh tật không thể làm mất đi tính cách bên trong của bố, bố luôn là một người đầy nghị lực, giàu tự tin và hết lòng thương yêu gia đình. Gia đình tôi không khá giả, mọi chi tiêu trong gia đình đều phụ thuộc vào đồng tiền bố mẹ kiếm được hàng ngày. Dù bệnh tật, ốm đau nhưng bố chưa bao giờ chịu đầu hàng số mệnh. Bố cố gắng vượt lên những cơn đau quằn quại để làm yên lòng mọi người trong gia đình, cố gắng kiếm tiền bằng sức lao động của mình từ nghề xe lai.
Hàng ngày, bố phải đi làm từ khi sáng sớm cho tới lúc mặt trời đã ngã bóng từ lâu. Mái tóc bố đã dần bạc đi trong sương sớm. Công việc ấy rất dễ dàng với những người bình thường nhưng với bố nó rất khó khăn và gian khổ. Bây giờ có những lúc phải chở khách đi đường xa, đường sốc thì những cơn đau dạ dạy của bố lại tái phát. Và cả những ngày thời tiết thay đổi, có những trưa hè nắng to nhiệt độ tới 38-48 độ C, hay những ngày mưa ngâu rả rích cả tháng 7, tháng 8, rồi cả những tối mùa đông lạnh giá, bố vẫn cố gắng đứng dưới những bóng cây kia mong khách qua đường.Xem thêm: Mượn lời đồ vật hay con vật gần gũi với em để kể chuyện tình cảm giữa em và đồ vật, con vật đóTôi luôn tự hào và hãnh diện với mọi người khi có được một người bố giàu đức hy sinh, chịu thương, chịu khó như vậy.
Nhưng có phải đâu như vậy là xong. Mỗi ngày bố đứng như vậy thì khi trở về những cơn đau quằn quại lại hành hạ bố. Nhìn khuôn mặt bố nhăn nhó lại, những cơn đau vật vã mà bố phải chịu đựng, tôi chỉ biết òa lên mà khóc. Nhìn thấy bố như vậy, lòng tôi như quặn đau hơn gấp trăm ngàn lần. Bố ơi, giá như con có thể mang những cơn đau đó vào mình thay cho bố, giá như con có thể giúp bố kiếm tiền thì hay biết mấy? Nếu làm được gì cho bố vào lúc này để bố được vui hơn, con sẽ làm tất cả, bố hãy nói cho con được không? Những lúc ấy, tôi chỉ biết ôm bố, xoa dầu cho bố, tôi chỉ muốn với bố đừng đi làm nữa, tôi có thể nghỉ học, như vậy sẽ tiết kiệm được chi tiêu cho gia đình, tôi có thể kiếm được tiền và chữa bệnh cho bố. Nhưng nếu nhắc đến điều đó chắc chắn là bố sẽ buồn và thất vọng ở tôi nhiều lắm.
Bố luôn nói rằng bố sẽ luôn chiến đấu. Chiến đấu cho tới những chút sức lực cuối cùng để có thể nuôi chúng tôi ăn học thành người. Bố rất quan tâm đến việc học của chúng tôi. Ngày xưa bố học rất giỏi nhưng nhà nghèo bố phải nghỉ học. Vào mỗi tối, khi còn cố gắng đi lại được, bố luôn bày dạy cho mấy chị em học bài.Xem thêm: Soạn bài Nối những mùa hoaTrong những bữa cơm bố thường nhắc chúng tôi cách sống, cách làm người sao cho phải đạo. Tôi phục bố lắm, bố thuộc hàng mấy nghìn câu Kiều, hàng trăm câu châm ngôn, danh ngôn nổi tiếng…
Chính vì vậy, tôi luôn cố gắng tự giác học tập. Tôi sẽ làm một bác sĩ và sẽ chữa bệnh cho bố, sẽ kiếm tiền để phụng dưỡng bố và đi tiếp những bước đường dở dang trong tuổi trẻ của bố. Tôi luôn biết ơn bố rất nhiều, bố đã dành cho tôi một con đường sáng ngời, bởi đó là con đường của học vấn, chứ không phải là con đường đen tối của tiền bạc. Tôi sẽ luôn lấy những lời bố dạy để sống, lấy bố là gương sáng để noi theo.
Và tôi khâm phục không chỉ bởi bố là một người giỏi giang, là một người cao cả, đứng đắn, lòng kiên trì chịu khó mà còn bởi cách sống lạc quan, vô tư của bố.
Mặc dù những thời gian rảnh rỗi của bố còn lại rất ít nhưng bố vẫn trồng và chăm sóc khu vườn trước nhà để cho nó bao giờ cũng xanh tươi. Những giỏ phong lan có bao giờ bố quên cho uống nước vào mỗi buổi sáng; những cây thiết ngọc lan có bao giờ mang trên mình một cái lá héo nào?
Những cây hoa lan, hoa nhài có bao giờ không tỏa hương thơm ngát đâu? Bởi đằng sau nó luôn có một bàn tay ấm áp chở che, chăm sóc, không những yêu hoa mà bố còn rất thích nuôi động vật. Tuy nhà tôi bao giờ cũng có hai chú chó con và một chú mèo và có lúc bố còn mang về những chiếc lồng chim đẹp nữa.
Và hơn thế, trong suốt hơn năm năm trời chung sống với bệnh tật, tôi chưa bao giờ nghe bố nhắc đến cái chết, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc trốn tránh sự thật, bố luôn đối mặt với “tử thần”, bố luôn dành thời gian để có thể làm được tất cả mọi việc khi chưa quá muộn. Nhưng cuộc đời bố bao giờ cũng đầy đau khổ, khi mà cả gia đình đã dần khá lên, khi các chị tôi đã có thể kiếm tiền, thì bố lại bỏ chị em tôi, bỏ mẹ, bỏ gia đình này để ra đi về thế giới bên kia. Bố đi về một nơi rất xa mà không bao giờ được gặp lại.Xem thêm: Thành ngữ có câu: “Không thể bẻ đũa cả nắm”. Anh (chị) có suy nghĩ gì? Bàn luận về tình đoàn kết trong xã hộiGiờ đây khi tôi vấp ngã, tôi sẽ phải tự đứng dậy và đi tiếp bằng đôi chân của mình, bởi bố đi xa, sẽ không còn ai nâng đỡ, che chở, động viên tôi nữa. Bố có biết chăng nơi đây con cô đơn buồn tủi một mình không? Tại sao nỡ bỏ con ở lại mà đi hả bố? Nhưng con cũng cảm ơn bố, bố đã cho con thêm một bài học nữa, đó chính là trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy trân trọng những gì đang có, hãy yêu thương những người xung quanh mình hơn, và đặc biệt hãy quan tâm, chăm sóc cho bố của mình, tha thứ cho bố, khi bố nóng giận và nỡ mắng mình bởi bố luôn là người yêu thương nhất của chúng ta.
Bố ra đi, đi đến một thế giới khác, ở nơi đó bố sẽ không còn bệnh tật, sẽ thoát khỏi cuộc sống thương đau này. Và bố hãy yên tâm, con sẽ luôn nhớ những lời dạy của bố, sẽ luôn thương yêu, kính trọng biết ơn bố, sẽ sống theo gương sáng mà bố đã rọi đường cho con đi.
Hình ảnh của bố sẽ luôn ấp ủ trong lòng con. Những kỷ niệm, những tình cảm bố dành cho con, con sẽ ôm ấp, trân trọng, nó như chính linh hồn của mình.
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về người cha
Bài làm
Trong cuộc sống hàng ngày, có biết bao nhiêu người đáng để chúng ta thương yêu và dành nhiều tình cảm. Nhưng đã bao giờ bạn nghĩ rằng, người thân yêu nhất của bạn là ai chưa?
Với mọi người câu trả lời ấy có thể là ông bà, là mẹ, là anh chị hoặc cũng có thể là bạn bè chẳng hạn. Còn riêng tôi, hình ảnh người bố sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi ấm tâm hồn tôi mãi tận sau này. Bố tôi không may mắn như những người đàn ông khác. Trong suốt cuộc đời bố có lẽ không bao giờ được sống trong sự sung sướng, vui vẻ.
Bốn mươi tuổi khi chưa đi được nửa chặng đời người, bố đã phải sống chung với bao nhiêu bệnh tật: Đầu tiên đó chỉ là những cơn đau dạ dày, rồi tiếp đến lại xuất hiện thêm nhiều biến chứng. Trước đây, khi còn khỏe mạnh, bao giờ bố cũng rất phong độ.
Thế nhưng bây giờ, vẻ đẹp ấy dường như đã dần đổi thay: Thay vì những cánh tay cuồn cuộn bắp, giờ đây chỉ còn là một dáng người gầy gầy, teo teo. Đôi mắt sâu dưới hàng lông mày rậm, hai gò má cao cao lại dần nổi lên trên khuôn mặt sạm đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh tật không thể làm mất đi tính cách bên trong của bố, bố luôn là một người đầy nghị lực, giàu tự tin và hết lòng thương yêu gia đình. Gia đình tôi không khá giả, mọi chi tiêu trong gia đình đều phụ thuộc vào đồng tiền bố mẹ kiếm được hàng ngày. Dù bệnh tật, ốm đau nhưng bố chưa bao giờ chịu đầu hàng số mệnh. Bố cố gắng vượt lên những cơn đau quằn quại để làm yên lòng mọi người trong gia đình, cố gắng kiếm tiền bằng sức lao động của mình từ nghề xe lai.
Hàng ngày, bố phải đi làm từ khi sáng sớm cho tới lúc mặt trời đã ngã bóng từ lâu. Mái tóc bố đã dần bạc đi trong sương sớm. Công việc ấy rất dễ dàng với những người bình thường nhưng với bố nó rất khó khăn và gian khổ. Bây giờ có những lúc phải chở khách đi đường xa, đường sốc thì những cơn đau dạ dạy của bố lại tái phát. Và cả những ngày thời tiết thay đổi, có những trưa hè nắng to nhiệt độ tới 38-48 độ C, hay những ngày mưa ngâu rả rích cả tháng 7, tháng 8, rồi cả những tối mùa đông lạnh giá, bố vẫn cố gắng đứng dưới những bóng cây kia mong khách qua đường.Xem thêm: Mượn lời đồ vật hay con vật gần gũi với em để kể chuyện tình cảm giữa em và đồ vật, con vật đóTôi luôn tự hào và hãnh diện với mọi người khi có được một người bố giàu đức hy sinh, chịu thương, chịu khó như vậy.
Nhưng có phải đâu như vậy là xong. Mỗi ngày bố đứng như vậy thì khi trở về những cơn đau quằn quại lại hành hạ bố. Nhìn khuôn mặt bố nhăn nhó lại, những cơn đau vật vã mà bố phải chịu đựng, tôi chỉ biết òa lên mà khóc. Nhìn thấy bố như vậy, lòng tôi như quặn đau hơn gấp trăm ngàn lần. Bố ơi, giá như con có thể mang những cơn đau đó vào mình thay cho bố, giá như con có thể giúp bố kiếm tiền thì hay biết mấy? Nếu làm được gì cho bố vào lúc này để bố được vui hơn, con sẽ làm tất cả, bố hãy nói cho con được không? Những lúc ấy, tôi chỉ biết ôm bố, xoa dầu cho bố, tôi chỉ muốn với bố đừng đi làm nữa, tôi có thể nghỉ học, như vậy sẽ tiết kiệm được chi tiêu cho gia đình, tôi có thể kiếm được tiền và chữa bệnh cho bố. Nhưng nếu nhắc đến điều đó chắc chắn là bố sẽ buồn và thất vọng ở tôi nhiều lắm.
Bố luôn nói rằng bố sẽ luôn chiến đấu. Chiến đấu cho tới những chút sức lực cuối cùng để có thể nuôi chúng tôi ăn học thành người. Bố rất quan tâm đến việc học của chúng tôi. Ngày xưa bố học rất giỏi nhưng nhà nghèo bố phải nghỉ học. Vào mỗi tối, khi còn cố gắng đi lại được, bố luôn bày dạy cho mấy chị em học bài.Xem thêm: Soạn bài Nối những mùa hoaTrong những bữa cơm bố thường nhắc chúng tôi cách sống, cách làm người sao cho phải đạo. Tôi phục bố lắm, bố thuộc hàng mấy nghìn câu Kiều, hàng trăm câu châm ngôn, danh ngôn nổi tiếng…
Chính vì vậy, tôi luôn cố gắng tự giác học tập. Tôi sẽ làm một bác sĩ và sẽ chữa bệnh cho bố, sẽ kiếm tiền để phụng dưỡng bố và đi tiếp những bước đường dở dang trong tuổi trẻ của bố. Tôi luôn biết ơn bố rất nhiều, bố đã dành cho tôi một con đường sáng ngời, bởi đó là con đường của học vấn, chứ không phải là con đường đen tối của tiền bạc. Tôi sẽ luôn lấy những lời bố dạy để sống, lấy bố là gương sáng để noi theo.
Và tôi khâm phục không chỉ bởi bố là một người giỏi giang, là một người cao cả, đứng đắn, lòng kiên trì chịu khó mà còn bởi cách sống lạc quan, vô tư của bố.
Mặc dù những thời gian rảnh rỗi của bố còn lại rất ít nhưng bố vẫn trồng và chăm sóc khu vườn trước nhà để cho nó bao giờ cũng xanh tươi. Những giỏ phong lan có bao giờ bố quên cho uống nước vào mỗi buổi sáng; những cây thiết ngọc lan có bao giờ mang trên mình một cái lá héo nào?
Những cây hoa lan, hoa nhài có bao giờ không tỏa hương thơm ngát đâu? Bởi đằng sau nó luôn có một bàn tay ấm áp chở che, chăm sóc, không những yêu hoa mà bố còn rất thích nuôi động vật. Tuy nhà tôi bao giờ cũng có hai chú chó con và một chú mèo và có lúc bố còn mang về những chiếc lồng chim đẹp nữa.
Và hơn thế, trong suốt hơn năm năm trời chung sống với bệnh tật, tôi chưa bao giờ nghe bố nhắc đến cái chết, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc trốn tránh sự thật, bố luôn đối mặt với “tử thần”, bố luôn dành thời gian để có thể làm được tất cả mọi việc khi chưa quá muộn. Nhưng cuộc đời bố bao giờ cũng đầy đau khổ, khi mà cả gia đình đã dần khá lên, khi các chị tôi đã có thể kiếm tiền, thì bố lại bỏ chị em tôi, bỏ mẹ, bỏ gia đình này để ra đi về thế giới bên kia. Bố đi về một nơi rất xa mà không bao giờ được gặp lại.Xem thêm: Thành ngữ có câu: “Không thể bẻ đũa cả nắm”. Anh (chị) có suy nghĩ gì? Bàn luận về tình đoàn kết trong xã hộiGiờ đây khi tôi vấp ngã, tôi sẽ phải tự đứng dậy và đi tiếp bằng đôi chân của mình, bởi bố đi xa, sẽ không còn ai nâng đỡ, che chở, động viên tôi nữa. Bố có biết chăng nơi đây con cô đơn buồn tủi một mình không? Tại sao nỡ bỏ con ở lại mà đi hả bố? Nhưng con cũng cảm ơn bố, bố đã cho con thêm một bài học nữa, đó chính là trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy trân trọng những gì đang có, hãy yêu thương những người xung quanh mình hơn, và đặc biệt hãy quan tâm, chăm sóc cho bố của mình, tha thứ cho bố, khi bố nóng giận và nỡ mắng mình bởi bố luôn là người yêu thương nhất của chúng ta.
Bố ra đi, đi đến một thế giới khác, ở nơi đó bố sẽ không còn bệnh tật, sẽ thoát khỏi cuộc sống thương đau này. Và bố hãy yên tâm, con sẽ luôn nhớ những lời dạy của bố, sẽ luôn thương yêu, kính trọng biết ơn bố, sẽ sống theo gương sáng mà bố đã rọi đường cho con đi.
Hình ảnh của bố sẽ luôn ấp ủ trong lòng con. Những kỷ niệm, những tình cảm bố dành cho con, con sẽ ôm ấp, trân trọng, nó như chính linh hồn của mình.
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật An Dương Vương trong câu chuyện cùng tên
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
(Cảm nghĩ chung)
Mỗi lần đọc truyện An Dương Vương em lại nhớ về Vua nước Âu Lạc thuở xưa.
B. THÂN BÀI:
(Phát biểu cảm nghĩ)
1. An Dương Vương tài giỏi. Có cả giang sơn và có cả nỏ thần nhưng thiếu mưu trí, và rất chủ quan trước âm mưu của kẻ thù.
2. Cậy mình, chủ quan, tự mãn là nguyên nhân thất bại.
3. Phê phán chi tiết An Dương Vương không để ý đến việc cầu thân của Triệu Đà và sai lầm nhất là cho Trọng Thủy ở rể.
4. Không hiểu cả con mình là Mỵ Châu. Chỉ có khi rùa vàng nói cho thì An Dương Vương mới thức tỉnh thì đã muộn.
5. Đánh giá: An Dương Vương phải trả giá đắt cho những sai lầm của mình.
C. KẾT LUẬN:
+ Hình ảnh An Dương Vương cứ rưng rưng trước mắt.
+ Nó nhắc nhở một bài học giữ nước.
BÀI LÀM
Cứ mỗi lần đọc truyện An Dương Vương, lòng tôi lại bồi hồi nghĩ về Vua nước Âu Lạc.
An Dương Vương một con người tài giỏi, ông có vũ khí thần kì, có thành lũy vững vàng, có cả cơ đồ trong tay thế nhưng ông lại thiếu mưu cơ sáng suốt. Ông rất chủ quan mà mất cảnh giác với kẻ thù. Thất bại của An Dương Vương không phải chờ khi giặc đến sát chân thành mới bộc lộ, ngay từ khi Trọng Thủy vào thành. Sau khi nhờ vào nỏ thần mà đánh thắng quân Triệu Đà, An Dương Vương đã sinh ra tự mãn. Cậy vào sức nỏ thần, mà An Dương Vương không phòng bị ngay trước những âm mưu rất thâm độc của kẻ thù.Xem thêm: Viết đơn xin vào Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
Triệu Đà sai Trọng Thủy sang cầu thân với mục đích ăn cắp chiếc nỏ thần thế mà ông không hề nhận ra. Ông quên rằng kẻ thù nhiều mưu mô và mối thù của sự thất bại vừa qua đã ngấm vào trong thớ thịt mạch máu của chúng. Việc kết tình hòa hiếu với giặc một cách vô nguyên tắc, việc gả con gái cho con trai kẻ thù và cho nó ở rể trong Loa Thành là một sai lầm hết sức nghiêm trọng của An Dương Vương.
An Dương Vương là người yêu con hết mực thế nhưng ông không hiểu hết tính cách của Mỵ Châu. Lời cảnh cáo của thần Kim Quí "Giặc ở sau lưng nhà vua…" làm vua tỉnh ngộ, thế nhưng khi hiểu ra thì đã muộn màng.
Một con người như thế, một sự nghiệp như thế, một cơ đồ như vậy mà chỉ trong phút chốc tất cả tiêu tan. An Dương Vương đã phải trả một giá rất đắt cho những sai lầm của mình.
Gấp sách lại hình ảnh An Dương Vương cứ rưng rưng trước mắt tôi.
Nó như một lời nhắc nhở rằng ai muốn bảo vệ giang sơn đất nước, có tài trong quá khứ chưa đủ, mà cần phải có mưu cơ và đường lối sáng suốt cho tương lai thì mới thành công, thì mới tránh được những đau đớn xót xa của cảnh nước mất nhà tan.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the character An Duong Vuong in the story of the same name
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
(General feeling)
Every time I read the story An Duong Vuong, I remember the old King of Au Lac.
B. BODY OF THE ARTICLE:
(Say the feeling)
1. An Duong Vuong is talented. He has a country and a magic crossbow, but he lacks intelligence and is very subjective to the enemy's plots.
2. Self-reliance, subjectivity, and complacency are the causes of failure.
3. Criticize in detail An Duong Vuong for not paying attention to Trieu Da's marriage proposal and making the biggest mistake of allowing Trong Thuy to stay as his son-in-law.
4. I don't understand that my child is My Chau. Only when the golden turtle told him did An Duong Vuong wake up, it was too late.
5. Evaluation: An Duong Vuong had to pay a heavy price for his mistakes.
C. CONCLUSION:
+ The image of An Duong Vuong kept tearing up before my eyes.
+ It reminds a lesson of staying hydrated.
ASSIGNMENT
Every time I read the story of An Duong Vuong, my heart flutters thinking about the King of Au Lac.
An Duong Vuong was a talented man, he had magical weapons, a strong fortress, and a fortune in his hands, but he lacked a wise plan. He was very subjective and lost sight of his enemies. An Duong Vuong's failure did not have to wait until the enemy was close to reveal his sincerity, right from the moment Trong Thuy entered the citadel. After using the magic crossbow to defeat Trieu Da's army, An Duong Vuong became complacent. Relying on the power of the magic crossbow, An Duong Vuong was unable to defend himself against the enemy's very sinister plots. See more: Write an application to join the Ho Chi Minh Young Pioneers Team
Trieu Da sent Trong Thuy to pray for him with the purpose of stealing a magical crossbow without him even realizing it. He forgot that the enemy was scheming and that the hatred of the recent defeat had seeped into their veins. The unprincipled sympathies with the enemy, marrying his daughter to the enemy's son and letting him live in Loa Thanh were a very serious mistake of An Duong Vuong.
An Duong Vuong loved his son very much, but he did not fully understand My Chau's personality. The warning of the god Kim Quy "The enemy is behind the king..." made the king wake up, but when he realized it, it was too late.
Such a person, such a career, such a fortune, but in just a moment everything was destroyed. An Duong Vuong had to pay a very high price for his mistakes.
Closing the book, the image of An Duong Vuong kept tearing up before my eyes.
It serves as a reminder that for those who want to protect their country, having talent in the past is not enough, they need to have plans and a wise path for the future to be successful and to avoid pain. the sadness of the country losing its home.
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật Gióng, trong truyện “Thánh Gióng”
Gợi ý
DÀI BÀI
A. MỞ ĐỀ:
Địa vị truyện Thánh Gióng trong kho tàng truyện cố dân gian.
B. THÂN BÀI:
– Thánh Gióng là hình ảnh tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
– Thánh Gióng là người anh hùng được nhân dân nuôi lớn.
– Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc.
– Thánh Gióng là hình ảnh tiêu biểu của thiếu nhi Việt Nam anh hùng.
C. KẾT LUẬN:
Hình ảnh Thánh Gióng bay lên trời sống mãi trong lòng thế hệ trẻ.
BÀI LÀM
Trong những truyện dân gian đã học ở lớp sáu, truyện Thánh Gióng đã để lại trong em một ấn tượng thật đẹp.
Em thường tự hỏi: Vì sao trên trang lịch sử đầu tiên chống giặc xâm lược của nước nhà, hình ảnh người anh hùng cứu nước lại là một thiếu niên? Phải chăng đó cũng là hình ảnh dân tộc Việt Nam trong những thời kì còn trứng nước, bé bỏng, yếu đuối, trước một kẻ thù tàn bạo và hung hàng, đã phải nhanh chóng lớn mạnh, trở thành khổng lồ cho được, khi giặc đã đến Châu Sơn, thế nước rất nguy, nhân dân đang bị giết hại, máu dân lành đang chảy thành sông? Phải lớn nhanh khỏe nhanh, rời bỏ chiếc nôi tre của mẹ hiền mà đứng dậy! Lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc Việt Nam là như thế. Từ những cuộc khởi nghĩa giành được nước sau nghìn năm Bắc thuộc, từ trận đại thắng quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, cuộc phản công toàn thắng quân Minh để giành độc lập, cuộc hàng quân thần tốc đại phá quân Thanh, đến chiến thắng Điện Biên Phú lừng lầy địa cầu, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh 1975, dân tộc Việt Nam đều đã trờ thành khổng lồ như thế đó.Xem thêm: Chứng minh câu tục ngữ: ‘Một cây làm chẳng nên non…’
Nhưng để trở thành người khổng lồ, thành chàng dũng sĩ mình cao hơn trượng, cậu bé làng Gióng phải nhờ cơm gạo của dân làng mà lớn lên. Làm sao chàng dũng sĩ có thể quên được: Sinh ra mình là cha mẹ, nhưng nuôi lớn mình là nhân dân. Nhân dân đã bớt ăn để nuôi chàng trai lớn khỏe lên mà đánh giặc. Bao nhiêu khát vọng và mong ước được gửi vào trong từng bát gạo, bát cơm! Người anh hùng ơi, hãy vì dân mà giết hết bọn bạo tàn, để cho người nông dân được an tâm cày cấy, cho cô gái ngồi dệt vải dưới mái tranh, cho người mẹ cất tiếng hát bên nôi… Làm sao có được người anh hùng, nếu không có nhân dân yêu nước.
Không có nhân dân thì anh hùng dẫu tài giỏi đến đâu cũng không làm gì được; không có nhân dàn, lấy đâu ra roi sắt cho chàng dũng sĩ quật tan quân giặc? Lấy đâu ra ngựa sắt để cứ mỗi bước đi lại phun ra ngọn lửa căm thù của nhân dân thiêu cháy giặc?
Thật là hả hê, thú vị trước hình ảnh chàng Gióng nhổ bụi tre bên đường quất túi bụi vào quân giặc sau khi ngọn roi sắt thần kì bị gãy. Sao chàng không chờ để đúc lại roi sắt? Phải chăng chàng đã hiểu ra rằng: Với mọi người anh hùng vì dân đánh giặc thì mọi thứ, khi cần, đều trở thành vũ khí lợi hại. Hóa ra, từ thủa xa xưa, cây tre Việt Nam đã cùng nhân dân ta đánh giặc. Đọc truyện Thánh Gióng, em nghĩ đến cây gậy tầm vông của cha anh ngày đánh Pháp, cây chông tre, cái hầm chông nhọn hoắt căm thù của chị du kích ngày đánh Mĩ.Xem thêm: Phân tích giá trị biểu cảm của những câu thơ sau: "Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi... Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng." (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm) Em không biêt ở đâu trên thế giới này có câu chuyện về người anh hùng ba tuổi như cậu bé làng Gióng hay không? Chàng Gióng là hình ảnh của dân tộc Việt Nam, nhưng trước hết là hình ảnh của thiếu nhi Việt Nam, những thế hệ thiếu nhi anh hùng đã liên tục cùng cha anh mình đánh giặc. Chàng Gióng đã mở đường cho những Trần Quốc Toàn, Kim Đồng, Lê Văn Tám, Đoàn Văn Luyện… và hàng triệu tâm hồn "Tuổi nhỏ chí cao" khác nữa.
Hồn nhiên bước vào chiến đấu, cũng hồn nhiên và vô tư, chàng Gióng cưỡi ngựa bay lên trời khi quân giặc đã bị dẹp tan. Hình ảnh ấy đẹp biết bao! Hình ảnh ấy mãi mãi sống trong tâm tưởng của em, cũng như sẽ mãi mãi sống trong niềm ngưỡng mộ của bao thế hệ tuổi trẻ Việt Nam.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the character Giong, in the story "Thanh Giong"
Suggest
LONG POST
A. OPENING:
The status of Thanh Giong's story in the treasury of folk tales.
B. BODY OF THE ARTICLE:
– Saint Giong is a typical image of the Vietnamese people.
– Saint Giong is a hero raised by the people.
– Thanh Giong pulled out bamboo to fight the enemy.
– Saint Giong is the typical image of heroic Vietnamese children.
C. CONCLUSION:
The image of Saint Giong flying into the sky lives forever in the hearts of the young generation.
ASSIGNMENT
Among the folk tales I learned in sixth grade, the story of Saint Giong left a beautiful impression on me.
I often wonder: Why on the first page of our country's history of fighting invaders is the image of the hero who saved the country a teenager? Is that also the image of the Vietnamese people in their infancy, small and weak, facing a brutal and ferocious enemy, having to quickly grow strong and become a giant? The enemy has come to Chau Son, the country is in danger, people are being killed, the blood of innocent people is flowing into rivers? You must grow up quickly and be strong, leave your mother's bamboo cradle and stand up! Such is the four thousand year history of the Vietnamese people. From the uprisings to win the country after a thousand years of Northern domination, from the great victory over the Yuan army on the Bach Dang River, the counter-attack that completely defeated the Ming army to gain independence, the quick surrender to destroy the Qing army, to victory. Dien Bien Phu flooded the earth, Ho Chi Minh's historic campaign in 1975, the Vietnamese people have all become such giants. See more: Proving the proverb: 'A tree cannot make a mountain...'
But to become a giant, a brave man taller than a staff, the boy of Giong village had to grow up thanks to rice from the villagers. How could the brave man forget: He was born as a parent, but raised as a people. The people ate less to help the young man grow up strong enough to fight the enemy. How many aspirations and wishes are put into each bowl of rice! Hero, for the sake of the people, please kill all the tyrants, so that the farmer can plow in peace, let the girl sit and weave under thatched roof, let the mother sing at the cradle... How can there be someone? heroes, if there are no patriotic people.
Without the people, no matter how talented a hero is, he cannot do anything; Without human resources, where could he get an iron whip for the brave warrior to defeat the enemy? Where did you get the iron horse so that with every step it spewed out the fire of the people's hatred to burn the enemy?
It was very gratifying and interesting to see the image of Giong pulling up bamboo bushes on the side of the road and whipping them at the enemy soldiers after the magical iron whip was broken. Why don't you wait to recast the iron whip? Did he understand that: For every hero who fights for the people, everything, when needed, becomes a powerful weapon. It turns out that since ancient times, Vietnamese bamboo has fought with our people. Reading the story of Thanh Giong, I think of my father's walking stick when he fought against the French, the bamboo spike, the sharp and hateful tunnel of the guerrilla woman when he fought against America. See more: Analyze the expressive value of sentences the following poem: "Mother is trimming corn on Ka-lui mountain... Mother's sun, I lie on her back." (Lullaby for big babies on their mother's back - Nguyen Khoa Diem) I don't know if anywhere in this world there is a story about a three-year-old hero like the boy from Giong village? Chang Giong is the image of the Vietnamese people, but first and foremost is the image of Vietnamese children, generations of heroic children who continuously fought with their fathers and brothers. Giong paved the way for Tran Quoc Toan, Kim Dong, Le Van Tam, Doan Van Luyen... and millions of other "Supreme Youth" souls.
Innocently stepping into battle, also innocently and carefree, Giong rode his horse and flew into the sky when the enemy army was defeated. How beautiful that image is! That image will forever live in my mind, and will forever live in the admiration of many generations of Vietnamese youth.
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật Mai An Tiêm trong truyện cổ tích “Quả dưa hấu”
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
(Phát biểu cảm nghĩ chung)
+ Nhân vật em thích nhất trong truyện cổ Quả dưa hấu là Mai An Tiêm.
+ Phẩm chất của An Tiêm đã dẫn tới sự đi đày.
B. THÂN BÀI:
(Phát biểu cảm nghĩ)
1. Cảm phục câu nói khẳng khái.
2. Cảm phục về ý chí tự lập, cải tạo hoàn cảnh của An Tiêm.
– Từ hai bàn tay trắng, giữa đảo hoang nhưng không thất vọng mà tạo ra miếng ăn, tạo ra sự sống.
– Đáng giá:
Nếu không có ý chí không thể tồn tại trong hoàn cảnh đó.
3. Đức tính nhẫn nại và trí thông minh
– Dùng dưa hấu để liên lạc về đất liền.
– Đã được vua cha đón về và xứng đáng hưởng hạnh phúc.
– Đánh giá:
Em như chia sẻ niềm vui với gia đình An Tiêm và càng khâm phục An Tiêm hơn.
An Tiêm đã chứng minh mình không là kẻ ăn bám và không là kẻ xu nịnh.
C. KẾT LUẬN:
+ Cần phấn đấu rèn luyện để có những đức tính như An Tiêm.
+ An Tiêm là tấm gương làm người, cho các bạn học sinh chúng ta.
BÀI LÀM
Có lẽ nhân vật mà em thích nhất trong truyện Quả dưa hấu là An Tiêm. Dù chàng được hưởng bổng lộc của vua ban nhưng An Tiêm vẫn không lấy làm sung sướng mà trái lại nghĩ rằng “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”. Cũng chính câu nói đó mà An Tiêm phải bị lưu đày.Xem thêm: Em hãy giải thích tại sao Phan Bội Châu được Nguyễn Ái Quốc gọi là “vị thiên sứ” (trong văn bản “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” - Nguyễn Ái Quốc)
Đức tính của An Tiêm là thế đấy, chàng muốn tự lập, tự hai bàn tay của mình làm ra miếng ăn, manh áo chứ không muốn sống dựa vào người khác. Vì thế mà An Tiêm phải bị đày ra đảo. Không một tất sắt trong tay mà An Tiêm đã tạo cho mình một vườn rau nhỏ, rồi sau đó trồng được một cây có quả ăn rất ngon. Đó là quả “Dưa hấu”. Quả thật nếu ai không có ý chí phấn đấu cao thì không thể nào vượt qua những khó khăn trở ngại quá lớn như An Tiêm. Đức tính này của An Tiêm thật sự đã làm em khâm phục, quí trọng.
Khi trồng được dưa hấu, An Tiêm đã nhẫn nại khắc tên mình vào quả dưa để gởi vào đất liền. Sự nhẫn nại này của An Tiêm đã có kết quả. Đó là sự đón rước của nhà vua đưa vợ chồng An Tiêm trở vào đất liền, hưởng cuộc sống như xưa để bù lại những khổ cực oan trái mà An Tiêm phải gách chịu bởi sự hiểu lầm của nhà vua.
Đọc đến đoạn An Tiêm được trở về đất liền em cảm thấy như mình cùng chia sẻ hạnh phúc với ông. An Tiêm thực sự xứng đáng được hưởng một cuộc sống sung sướng đầy đủ. Dù gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng An Tiêm vẫn không chùn bước, mạnh dạn khắc phục những khó khăn để tạo cho mình một cuộc sống đỡ vất vả hơn. Mặt khác em cũng khâm phục An Tiêm ở lòng tự trọng của chàng. Bởi vì An Tiêm không muôn mọi người nghĩ rằng mình là kẻ vô tích sự nên cố gắng dùng sức lực với bàn tay trắng của mình để chứng minh cho mọi người biết mình không là kẻ ăn bám theo người khác, không là kẻ xu nịnh để hưởng lộc.Xem thêm: Giải thích câu nói của Lê-nin "Học, học nữa, học mãi" Qua nhân vật An Tiêm em thấy mình cần phải phấn đấu hơn nữa, học tập những đức tính đáng quí của ông để trở thành người có ích cho xã hội. An Tiêm thực sự là tấm gương của thế hệ trẻ ngày nay về đức tính tự trọng, can đảm, kiên nhẫn, không khuất phục khó khăn, gian khổ…
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the character Mai An Tiem in the fairy tale "Watermelon"
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
(Expressing general feelings)
+ My favorite character in the fairy tale Watermelon is Mai An Tiem.
+ An Tiem's qualities led to his exile.
B. BODY OF THE ARTICLE:
(Say the feeling)
1. Admire the assertive statement.
2. Impressed by An Tiem's will to be independent and improve his situation.
– From empty hands, in the middle of a deserted island, but not disappointed but creating food, creating life.
- Valuable:
Without will, it is impossible to exist in that situation.
3. The virtue of patience and intelligence
– Use watermelon to contact the mainland.
– Has been welcomed back by his father and deserves to be happy.
- Evaluate:
I feel like sharing the joy with An Tiem's family and admiring An Tiem even more.
An Tiem has proven that he is not a parasite and not a flatterer.
C. CONCLUSION:
+ Need to strive to practice to have qualities like An Tiem.
+ An Tiem is a role model for our students.
ASSIGNMENT
Perhaps the character I like most in the story Watermelon is An Tiem. Even though he enjoyed the benefits the king gave him, An Tiem still did not feel happy, but instead thought that "Gifts are care, giving is debt." It was because of that statement that An Tiem had to be exiled. See also: Please explain why Phan Boi Chau was called "an angel" by Nguyen Ai Quoc (in the text "The good tricks are Varen and Phan Boi Chau" - Nguyen Ai Quoc)
Such is An Tiem's virtue, he wants to be independent, make his own food and clothes with his own two hands, and does not want to live dependent on others. That's why An Tiem had to be exiled to the island. Without any iron on hand, An Tiem created a small vegetable garden for himself, and then planted a tree with delicious fruit. It is the fruit "Watermelon". Indeed, if anyone does not have a high will to strive, it is impossible to overcome great difficulties and obstacles like An Tiem. This quality of An Tiem really makes me admire and respect him.
When he grew watermelon, An Tiem patiently carved his name into the watermelon to send to the mainland. An Tiem's patience has paid off. It was the king's welcome to bring An Tiem and his wife back to the mainland, enjoying life as before to compensate for the unjust hardships that An Tiem had to endure due to the king's misunderstanding.
Reading the part where An Tiem returned to the mainland, I felt like I shared his happiness. An Tiem truly deserves to enjoy a full and happy life. Despite facing difficult circumstances, An Tiem still did not falter and boldly overcame difficulties to create a less difficult life for himself. On the other hand, I also admire An Tiem for his self-esteem. Because An Tiem doesn't want people to think he's worthless, he tries to use his strength with his empty hands to prove to everyone that he's not a freeloader or a flatterer. to enjoy fortune. See more: Explaining Lenin's saying "Study, study more, study forever" Through the character An Tiem, I see that I need to strive harder, learn his valuable qualities to become become a useful person for society. An Tiem is truly an example of today's young generation of self-respect, courage, patience, and not giving in to difficulties and hardships...
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về thầy cô
Bài làm
Thầy cô giáo là những người dạy dỗ cho em những điều hay, lẽ phải, dạy em những tri thức bao la của nhân loại.
Đối với em, mỗi một lớp mà em đã học, mỗi thầy cô đã dạy em đều mang lại cho em những dấu ấn không thể nào quên được. Thầy cô không chỉ là người truyền đạt kiến thức mà đối với biết bao thế hệ học trò thì thầy cô giống như người cha, người mẹ thứ hai. Thầy cô là người nâng đỡ, giúp chúng em có thể chuẩn bị tốt hành trang để bước vào đời.
Trong những thầy cô đã dạy em thì em ấn tượng nhất đó chính là cô giáo chủ nhiệm của em những năm em học cấp một. Nhớ ngày đầu tiên đi học với biết bao bỡ ngỡ đan xen với sự tò mò, háo hức về ngôi trường mới, thầy cô mới và bạn bè mới. Đó cũng là lần thứ hai em gặp cô. Được biết cô tên là Miện và cho đến khi hết ngày khai giảng em mới biết được nhà của cô rất gần nhà em. Lần đầu trông thấy cô đó là ngày tập trung, từ xa nhìn thấy dáng người cao và thân hình nom hơi giống con trai kết hợp với khuôn mặt nghiêm nghị khiến em cảm thấy cô rất nghiêm khắc. Ấy thế mà khi cô cười đón chào và dỗ mấy bạn nhút nhát em thấy nụ cười của cô giống như ánh nắng ngày xuân, tỏa sáng mà ấm áp. Cũng từ giây phút đó em cảm thấy cô rất thân thiện, gần gũi.Xem thêm: Cảm nghĩ về tình bạn hay nhất
Biểu cảm về thầy cô
Vốn em là học sinh có xu hướng hướng nội, nhút nhát và tiếp thu kiến thức cũng chậm hơn các bạn khác. Chính vì thế mà em luôn được cô quan tâm, giúp đỡ. Một kỉ niệm mà em không bao giờ quên đó chính là ngày còn bé hay đến bây giờ em luôn thuận tay trái và đến khi học viết chữ em cũng viết tay trái. Khi đó cô đã dành rất nhiều thời gian để rèn viết chữ bằng tay phải cho em. Những giờ ra chơi, những ngày cô và em cùng ở lại để luyện chữ. Đó là lúc em cảm thấy tuy hơi mệt nhưng lại rất vui và thấy mình cần cố gắng để không phụ lòng của cô giáo. Rồi có những khi bố mẹ bận việc không tới đón được thì cô giáo đã đưa em về. Rồi mỗi giờ dạy của cô đều khiến cho chúng em cảm thấy hứng thú với bài giảng. Các bạn trong lớp ai cũng đều yêu quý, kính trọng cô và mong muốn cô luôn mạnh khỏe, có thể dạy dỗ chúng em cho tới hết những năm cấp một.
Nhớ có lần em bị ngã gãy chân phải ở nhà hai tuần. Vốn dĩ em đã tiếp thu chậm hơn các bạn khác nên việc nghỉ học vì lý do bắt buộc như vậy khiến em càng thêm lo lắng rằng sẽ không theo kịp các bạn. Thế mà ngay sau khi em ở viện bó bột về thì cô giáo cùng một vài bạn khác đã tới thăm em. Chính cô vào mỗi chiều đã tới nhà để giảng bài cho em bất kể trời mưa nắng. Nhờ vậy mà em không bị tụt lùi so với lớp. Cũng nhờ khoảng thời gian đó mà em thấy được một nét khác có ở cô đó là cô không những không nghiêm khắc như em nghĩ mà những lúc giảng bài vì có mình em nên đôi khi nhàm chán và cô đã kể cho em nghe những câu chuyện rất thú vị, những việc diễn ra trên lớp. Từng câu chuyện đều được cô khéo léo mang theo những bài học cuộc sống rất bổ ích.Xem thêm: Phân tích đoạn thơ Chàng thì đi cõi xa mưa gió… ai sầu hơn ai
Cho tới bây giờ khi em đã bước ra khỏi trường cấp một và không còn được học cô nữa. Tuy nhiên mỗi dịp lễ tết chúng em lại cùng nhau tới thăm những thầy cô giáo cũ. Đó là dịp mà chúng có thể ôn lại những kỉ niệm ngày trước. Đối với em hay nhiều bạn khác thì đó là những kỉ niệm đẹp mà chúng em không bao giờ quên được.
Loan Trương
|
Topic: Express your feelings about teachers
Assignment
Teachers are the ones who teach you good and right things, and teach you the vast knowledge of humanity.
For me, every class I have studied, every teacher who has taught me has left an unforgettable impression on me. Teachers are not only the transmitters of knowledge, but for many generations of students, they are like a second father and mother. Teachers are the ones who support and help us prepare well to enter life.
Among the teachers who taught me, the one I was most impressed with was my homeroom teacher during my elementary school years. I remember the first day of school with so much confusion mixed with curiosity and excitement about the new school, new teachers and new friends. That was also the second time I met her. I learned that her name was Mien and it wasn't until the first day of school that I realized her house was very close to mine. The first time I saw her was on gathering day. From a distance, seeing her tall figure and body that looked a bit like a boy's combined with her stern face made me feel that she was very strict. Yet when she smiled to welcome and comfort the shy friends, I saw her smile like the sunshine of a spring day, bright and warm. From that moment on, I felt that she was very friendly and close. See more: Feelings about the best friendship
Expressions about teachers
I am a student who tends to be introverted, shy, and absorbs knowledge more slowly than other students. That's why I always receive your care and help. A memory that I will never forget is that when I was a child or until now, I have always been left-handed and when I learned to write, I also wrote with my left hand. At that time, she spent a lot of time training me to write with my right hand. During recess, the days when she and I stayed together to practice writing. That's when I felt a little tired but very happy and felt I needed to try harder to not disappoint the teacher. Then there were times when my parents were busy and couldn't come pick me up, so the teacher took me home. And every hour of her teaching makes us feel interested in the lecture. Everyone in the class loves and respects her and wants her to always be healthy and able to teach us until the end of their elementary school years.
I remember one time I fell and broke my right leg at home for two weeks. I was inherently slower to learn than other students, so missing school for such a mandatory reason made me even more worried that I wouldn't be able to keep up with my friends. However, right after I returned from the hospital wearing a cast, the teacher and a few other friends came to visit me. It was she who came to my house every afternoon to give me lessons regardless of whether it was rain or shine. Thanks to that, I don't fall behind in class. Thanks to that time, I saw another trait in her, which is that not only was she not as strict as I thought, but when she was teaching alone, she was sometimes boring and she told me funny stories. Very interesting stories, things that happen in class. She skillfully brings along very useful life lessons in each story. See more: Analysis of the poem He goes to a far away land filled with rain and wind... more sad than anyone else
Until now, when I have stepped out of elementary school and can no longer study with her. However, every holiday we visit our old teachers together. It is an opportunity where they can review memories of the past. For me and many other friends, those are beautiful memories that we will never forget.
Loan Truong
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
Từ thuở xa xưa, tổ tiên chúng ta đã nhận thức rất đúng về vai trò của đoàn kết và mối quan hệ chặt chẽ giữa cá nhân với cộng đồng. Nhận thức đó đã được đúc kết thành bài học bổ ích gửi gắm trong tục ngữ, ca dao và truyện cổ dân gian. Một trong những truyện mang ý nghĩa giáo dục thấm thìa, sâu sắc dưới một hình thức ngụ ngôn dí dỏm, thú vị là truyện Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
Truyện kể về hành động dại dột của Chân, Tay, Tai, Mắt vì suy bì, ganh tị với Miệng mà bảo nhau đồng loạt không làm việc, để cho lão Miệng tự kiếm lấy miếng ăn. Hành động nông nổi thiếu suy nghĩ ấy khiến cho cả bọn mệt mỏi, rã rời. Hiểu ra sai lầm, tất cả kéo nhau đến giảng hoà với lão Miệng. Rồi ai làm việc nấy, mọi người lại sống hoà thuận như xưa.
Trong truyện ngụ ngôn này, nhân vật là những bộ phận của cơ thể con người đã được nhân hoá.
Thông qua truyện, người xưa muốn khẳng định: Trong xã hội, trong một tập thể, tất cả mọi người đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Không ai có thể tách rời khỏi cộng đồng và chỉ có đoàn kết, gắn bó, nương tựa lẫn nhau mới có thể tạo ra sức mạnh. Nếu chia rẽ sẽ dẫn tới suy thoái, diệt vong. Do đó mọi người phải biết hợp tác với nhau và tôn trọng công sức của nhau.
Kết cấu truyện ngắn gọn. bố cục rõ ràng và có đầy đủ nhân vật, tình tiết, mâu thuẫn như một màn kịch nhỏ và hoàn cảnh nảy sinh mâu thuẫn chính là cuộc trao đổi giữa Chân, Tay, Tai, Mắt về sự cống hiến và hưởng thụ.
Truyện kể rằng: Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai, lão Miệng từ xưa vẫn sống với nhau rất thân thiết. Bỗng một hôm, cô Mắt cho rằng lão Miệng quanh năm không phải làm việc mà lại được hưởng tất cả những miếng ngon miếng lành ; còn mọi người suốt ngày quần quật mà chẳng được gì. Ý kiến của cô Mắt nêu ra nhanh chóng được cậu Chân, cậu Tay và bác Tai ủng hộ. Cả bọn hăm hở đến gặp lão Miệng để nói thẳng với lão rằng: … Từ nay chúng tôi không làm để nuôi ông nữa. Lâu nay, chúng tôi đã cực khổ, vất vả vì ông nhiều rồi. Câu nói ấy chứa đựng sự bất bình mà mọi người cố chịu đựng bấy lâu. Chẳng thèm nghe lão Miệng phân trần phải trái. Bác Tai, cô Mái, cậu Chân, cậu Tay đều lắc đầu mà rằng: Không, không phải bàn bạc gì nữa, từ nay trở đi, ông phải lo lấy mà sống. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ không làm gì cả. Xưa nay, chúng tôi có biết cái gì ngọt bùi ngon lành mà làm cho cực!
Nếu mới nghe qua thì lí sự của chúng có vẻ đúng, bởi thực tế là Mắt nhìn, Tai nghe, Tay làm, Chân đi… để kiếm sống, chứ còn Miệng thi chỉ có ăn uống, hưởng thụ, nào có phải vất vả, mệt nhọc gì đâu? Kẻ làm nhiều mà không được hưởng thụ gì, còn kẻ không làm lại được hưởng tất. Chúng bất bình, giận dữ, tẩy chay lão Miệng để cho lão biết thân. Chúng không hiểu rằng việc nhai nuốt của lảo Miệng cũng là làm. việc, biến thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể, trong đó có Chân, Tay, Tai, Mắt… Người có khỏe thì Mắt mới tinh, Tai mới thính, Chân, Tay mới nhanh nhẹn được. Trong cơ thể con người, mỗi bộ phận có một chức náng riêng nhưng tất cả phối hợp chặt chẽ với nhau để duy trì sự sống. Nếu một bộ phận suy yếu hoặc ngừng hoạt động, con người sẽ bị bệnh hoặc có thể chết.
Xem thêm: Hãy tưởng tượng cuộc đọ sức của Sơn Tinh, Thủy Tinh trong điều kiện ngày nay với máy xúc, máy ủi, xi măng cốt thép, máy bay trực thăng…Suy nghĩ nông nổi của Chân, Tay, Tai, Mắt đã phải trả giá. Chúng bảo nhau đồng loạt nghỉ việc. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, cả bọn thấy mệt mỏi, rả rời. Cậu Chân, cậu Tay không còn muốn cất mình lên để chạy nhảy vui đùa như trước nữa. Cô Mắt thì ngày cũng như đêm, lúc nào cũng lờ đờ, hai mi nặng trĩu như buồn ngủ mà ngủ không được. Bác Tai trước kia hay đi nghe hò nghe hát, nghe tiếng gì cũng rõ, nay bỗng thấy lúc nào cũng ù ù như xay lúa ở trong, cả bọn lừ đừ, mệt mỏi như thế cho đến ngày thứ bảy thì không thể chịu được nữa, đành họp nhau lại để bàn…
May mắn là trong bọn họ, bác Tai đã hiểu ra nguyên nhân của tình cảnh đáng sợ ấy nên giải thích cho cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay: Chúng ta lầm rồi các cháu ạ. Chúng ta nếu không làm cho lão Miệng có cái ăn thì chúng ta sẽ bị tê liệt cả. Lão Miệng không đi làm, nhưng lão có công việc là nhai. Như vậy cũng là làm việc chứ không phải là ăn không ngồi rồi. Trước kia sống với nhau thân thiết như thế, nay tự dưng chúng ta gây nên chuyện. Lão Miệng có ăn thì chúng ta mới khoẻ khoắn được. Chúng ta nên đến nói lại với lão, các cháu có đi không?
Trước lời nói có tình có lí của bác Tai, cả bọn đã nghe ra và cố gượng dậy đi theo bác Tai đến nhà lão Miệng. Suốt bảy ngày không có cái ăn, lão Miệng cũng rơi vào cảnh sống dở chết dở: nhợt nhạt cả hai môi, hai hàm thì khô như rang, khônq buồn nhếch mép.
Tất cả mọi người vội vàng ai vào việc nấy: Bác Tai, cô Mắt vực lão Miệng dậy. Còn cậu Chân, cậu Tay thì đi tìm thức ăn cho lão Miệng ăn. Lão Miệng ăn xong, dần dần tỉnh lại. Và như có phép lạ, lập tức bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay tự nhiên thấy đỡ mệt nhọc, rồi thấy trong mình khoan khoái như trước. Từ một sự hiểu lầm dẫn đến hành động không đúng, nay hiểu ra, may mà còn cứu kịp.
Kết thúc câu chuyện là cảnh: lão Miệng, bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay lại thân mật, hòa thuận, mỗi người một việc, không ai tị ai cả.
Như vậy rõ ràng là Chân, Tay, Tai, Mắt và Miệng có liên quan mật thiết với nhau. Mỗi bộ phận tuy có chức năng riêng nhưng có cùng một nhiệm vụ chung là duy trì và phát triển sự sống của cơ thể. Không thể nói bộ phận nào quan trọng hơn cả. Sự khiếm khuyết bất cứ bộ phận nào cũng gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hoạt động của con người.
Tử quan hệ không thể tách rời giữa các nhân vật, truyện ngụ ngôn này đã Khéo léo đặt ra bài học cho con người. Trong cuộc sống, một cá nhân không thể tồn tại nếu tách khỏi cộng đồng. Mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng là hết sức quan trọng. Truyện tuy ngắn gọn nhưng là lời khuyên khéo léo và thiết thực: Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Bởi vì suy nghĩ, hành động, cách ứng xử của cá nhân không chỉ tác động đến bản thân mà còn ảnh hưởng chung đến cả cộng đổng, tập thể.
Điều thú vị là qua truyện ngụ ngôn này, ông cha ta đã khẳng định: Trong xã hội, mỗi người có một năng lực, một trình độ khác nhau, do đó sự phân công công việc và cách thức đóng góp cũng khác nhau. Không nên suy bì, tị nạnh một cách nông nổi, thiếu suy nghĩ dẫn đến hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích chung. Bên cạnh việc đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau, mỗi thành viên phải tự giác làm việc theo sự phân công của xã hội. Khi làm việc phải cống hiến hết sức mình cho cả cộng đồng. Có như vậy xã hội mới ngày càng tốt đẹp hơn.
Xem thêm: Kể lại một câu chuyện mà em đã làm bố mẹ phiền lòng
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
Từ thuở xa xưa, tổ tiên chúng ta đã nhận thức rất đúng về vai trò của đoàn kết và mối quan hệ chặt chẽ giữa cá nhân với cộng đồng. Nhận thức đó đã được đúc kết thành bài học bổ ích gửi gắm trong tục ngữ, ca dao và truyện cổ dân gian. Một trong những truyện mang ý nghĩa giáo dục thấm thìa, sâu sắc dưới một hình thức ngụ ngôn dí dỏm, thú vị là truyện Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
Truyện kể về hành động dại dột của Chân, Tay, Tai, Mắt vì suy bì, ganh tị với Miệng mà bảo nhau đồng loạt không làm việc, để cho lão Miệng tự kiếm lấy miếng ăn. Hành động nông nổi thiếu suy nghĩ ấy khiến cho cả bọn mệt mỏi, rã rời. Hiểu ra sai lầm, tất cả kéo nhau đến giảng hoà với lão Miệng. Rồi ai làm việc nấy, mọi người lại sống hoà thuận như xưa.
Trong truyện ngụ ngôn này, nhân vật là những bộ phận của cơ thể con người đã được nhân hoá.
Thông qua truyện, người xưa muốn khẳng định: Trong xã hội, trong một tập thể, tất cả mọi người đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Không ai có thể tách rời khỏi cộng đồng và chỉ có đoàn kết, gắn bó, nương tựa lẫn nhau mới có thể tạo ra sức mạnh. Nếu chia rẽ sẽ dẫn tới suy thoái, diệt vong. Do đó mọi người phải biết hợp tác với nhau và tôn trọng công sức của nhau.
Kết cấu truyện ngắn gọn. bố cục rõ ràng và có đầy đủ nhân vật, tình tiết, mâu thuẫn như một màn kịch nhỏ và hoàn cảnh nảy sinh mâu thuẫn chính là cuộc trao đổi giữa Chân, Tay, Tai, Mắt về sự cống hiến và hưởng thụ.
Truyện kể rằng: Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai, lão Miệng từ xưa vẫn sống với nhau rất thân thiết. Bỗng một hôm, cô Mắt cho rằng lão Miệng quanh năm không phải làm việc mà lại được hưởng tất cả những miếng ngon miếng lành ; còn mọi người suốt ngày quần quật mà chẳng được gì. Ý kiến của cô Mắt nêu ra nhanh chóng được cậu Chân, cậu Tay và bác Tai ủng hộ. Cả bọn hăm hở đến gặp lão Miệng để nói thẳng với lão rằng: … Từ nay chúng tôi không làm để nuôi ông nữa. Lâu nay, chúng tôi đã cực khổ, vất vả vì ông nhiều rồi. Câu nói ấy chứa đựng sự bất bình mà mọi người cố chịu đựng bấy lâu. Chẳng thèm nghe lão Miệng phân trần phải trái. Bác Tai, cô Mái, cậu Chân, cậu Tay đều lắc đầu mà rằng: Không, không phải bàn bạc gì nữa, từ nay trở đi, ông phải lo lấy mà sống. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ không làm gì cả. Xưa nay, chúng tôi có biết cái gì ngọt bùi ngon lành mà làm cho cực!
Nếu mới nghe qua thì lí sự của chúng có vẻ đúng, bởi thực tế là Mắt nhìn, Tai nghe, Tay làm, Chân đi… để kiếm sống, chứ còn Miệng thi chỉ có ăn uống, hưởng thụ, nào có phải vất vả, mệt nhọc gì đâu? Kẻ làm nhiều mà không được hưởng thụ gì, còn kẻ không làm lại được hưởng tất. Chúng bất bình, giận dữ, tẩy chay lão Miệng để cho lão biết thân. Chúng không hiểu rằng việc nhai nuốt của lảo Miệng cũng là làm. việc, biến thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể, trong đó có Chân, Tay, Tai, Mắt… Người có khỏe thì Mắt mới tinh, Tai mới thính, Chân, Tay mới nhanh nhẹn được. Trong cơ thể con người, mỗi bộ phận có một chức náng riêng nhưng tất cả phối hợp chặt chẽ với nhau để duy trì sự sống. Nếu một bộ phận suy yếu hoặc ngừng hoạt động, con người sẽ bị bệnh hoặc có thể chết.
Xem thêm: Hãy tưởng tượng cuộc đọ sức của Sơn Tinh, Thủy Tinh trong điều kiện ngày nay với máy xúc, máy ủi, xi măng cốt thép, máy bay trực thăng…Suy nghĩ nông nổi của Chân, Tay, Tai, Mắt đã phải trả giá. Chúng bảo nhau đồng loạt nghỉ việc. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, cả bọn thấy mệt mỏi, rả rời. Cậu Chân, cậu Tay không còn muốn cất mình lên để chạy nhảy vui đùa như trước nữa. Cô Mắt thì ngày cũng như đêm, lúc nào cũng lờ đờ, hai mi nặng trĩu như buồn ngủ mà ngủ không được. Bác Tai trước kia hay đi nghe hò nghe hát, nghe tiếng gì cũng rõ, nay bỗng thấy lúc nào cũng ù ù như xay lúa ở trong, cả bọn lừ đừ, mệt mỏi như thế cho đến ngày thứ bảy thì không thể chịu được nữa, đành họp nhau lại để bàn…
May mắn là trong bọn họ, bác Tai đã hiểu ra nguyên nhân của tình cảnh đáng sợ ấy nên giải thích cho cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay: Chúng ta lầm rồi các cháu ạ. Chúng ta nếu không làm cho lão Miệng có cái ăn thì chúng ta sẽ bị tê liệt cả. Lão Miệng không đi làm, nhưng lão có công việc là nhai. Như vậy cũng là làm việc chứ không phải là ăn không ngồi rồi. Trước kia sống với nhau thân thiết như thế, nay tự dưng chúng ta gây nên chuyện. Lão Miệng có ăn thì chúng ta mới khoẻ khoắn được. Chúng ta nên đến nói lại với lão, các cháu có đi không?
Trước lời nói có tình có lí của bác Tai, cả bọn đã nghe ra và cố gượng dậy đi theo bác Tai đến nhà lão Miệng. Suốt bảy ngày không có cái ăn, lão Miệng cũng rơi vào cảnh sống dở chết dở: nhợt nhạt cả hai môi, hai hàm thì khô như rang, khônq buồn nhếch mép.
Tất cả mọi người vội vàng ai vào việc nấy: Bác Tai, cô Mắt vực lão Miệng dậy. Còn cậu Chân, cậu Tay thì đi tìm thức ăn cho lão Miệng ăn. Lão Miệng ăn xong, dần dần tỉnh lại. Và như có phép lạ, lập tức bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay tự nhiên thấy đỡ mệt nhọc, rồi thấy trong mình khoan khoái như trước. Từ một sự hiểu lầm dẫn đến hành động không đúng, nay hiểu ra, may mà còn cứu kịp.
Kết thúc câu chuyện là cảnh: lão Miệng, bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay lại thân mật, hòa thuận, mỗi người một việc, không ai tị ai cả.
Như vậy rõ ràng là Chân, Tay, Tai, Mắt và Miệng có liên quan mật thiết với nhau. Mỗi bộ phận tuy có chức năng riêng nhưng có cùng một nhiệm vụ chung là duy trì và phát triển sự sống của cơ thể. Không thể nói bộ phận nào quan trọng hơn cả. Sự khiếm khuyết bất cứ bộ phận nào cũng gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hoạt động của con người.
Tử quan hệ không thể tách rời giữa các nhân vật, truyện ngụ ngôn này đã Khéo léo đặt ra bài học cho con người. Trong cuộc sống, một cá nhân không thể tồn tại nếu tách khỏi cộng đồng. Mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng là hết sức quan trọng. Truyện tuy ngắn gọn nhưng là lời khuyên khéo léo và thiết thực: Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Bởi vì suy nghĩ, hành động, cách ứng xử của cá nhân không chỉ tác động đến bản thân mà còn ảnh hưởng chung đến cả cộng đổng, tập thể.
Điều thú vị là qua truyện ngụ ngôn này, ông cha ta đã khẳng định: Trong xã hội, mỗi người có một năng lực, một trình độ khác nhau, do đó sự phân công công việc và cách thức đóng góp cũng khác nhau. Không nên suy bì, tị nạnh một cách nông nổi, thiếu suy nghĩ dẫn đến hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích chung. Bên cạnh việc đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau, mỗi thành viên phải tự giác làm việc theo sự phân công của xã hội. Khi làm việc phải cống hiến hết sức mình cho cả cộng đồng. Có như vậy xã hội mới ngày càng tốt đẹp hơn.
Xem thêm: Kể lại một câu chuyện mà em đã làm bố mẹ phiền lòng
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Con Rồng, Cháu Tiên
Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam, em rất thích truyện Con Rồng, cháu Tiên. Truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên hay Sự tích trăm trứng, Lạc Long Quân và Âu Cơ… vốn là một thần thoại có nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo như các nhân vật thần linh có nhiều phép lạ và hình tượng cái bọc trăm trứng… đã biến nó thành một truyền thuyết hay và đẹp vào bậc nhất, nhằm giải thích và suy tôn nguồn gốc giống nòi cao quý của dân tộc Việt.
Lạc Long Quân và Âu Cơ là sản phẩm của trí tưởng tượng hồn nhiên, phong phú của người xưa. Hình tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ được dệt nên từ những chi tiết lạ thường.
Lạc Long Quân là con trai của thần Long Nữ ở Đông Hải (biển Đông); còn Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, sống ở vùng núi cao phương Bắc. Mỗi thần có một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của Lạc Long Quân được nhấn mạnh là vẻ đẹp của tài năng. Thân có thân hình Rồng, sống được cả dưới nước lẫn trên cạn, sức khỏe vô địch, có nhiều phép lạ, trấn áp được lũ yêu quái (Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh) làm hại dân lành. Thần lại có lòng thương người, thường dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở.
Âu Cơ là Tiên nữ xinh đẹp tuyệt trần. Nàng thích đi đây đi đó. Nghe nói vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng bèn tìm đến thăm và tình cờ gặp Lạc Long Quân ở đó.
Câu chuyện hấp dẫn người nghe bởi những chi tiết ngẫu nhiên lạ lùng: Rồng ở dưới nước gặp Tiên trên non cao rồi yêu nhau, kết duyên thành vợ chồng. Đây là biểu tượng của sự kết hợp giữa hai thành phần chính trong cộng đồng mới hình thành của dân tộc Việt.
Đời Hùng vương, cư dân Văn Lang chủ yếu là người Lạc Việt và Âu Việt. Họ thường xuyên quan hệ với nhau về kinh tế, văn hóa. Cuộc hôn nhân thần thoại giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ phản ánh mối quan hệ và sự thống nhất giữa cư dân của hai bộ tộc này.
Xem thêm: Em thích nhân vật nào nhất trong truyền thuyết "Sơn Tinh, Thủy Tinh"? Hãy thử coi mình là nhân vật ấy và kể lại câu chuyện nói trên.Truyện Con Rồng, cháu Tiên phản ánh sự hình thành của đất nước Lạc Việt trong buổi bình minh của lịch sử qua các chi tiết: Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đật tên nước là Văn Lang. Triều đình có tướng văn, tướng võ… Khi cha chết thì truyền ngôi cho con trưởng, mười mấy đời truyền nối ngôi vua đều lấy danh hiệu Hùng Vương, không hề thay đổi.
Đây là thời kì mở đầu kỉ nguyên độc lập của người Việt, hay còn gọi là thời kì Hùng Vương dựng nước.
Nội dung truyện nhằm giải thích nguồn gốc dân tộc Việt là con Rồng, cháu Tiên. Tổ tiên ta là hai vị thần khỏe mạnh, tài năng, xinh đẹp, đức độ. Cuộc hôn nhân giữa Long Quân – Âu Cơ như một mối lương duyên tiền định và kết quả thật tạ thường! Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở thành một trăm ngươi con hồng hào, đẹp đẽ… Đàn con không cần bú mớm mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi ngô, khỏe mạnh như thần. Dấu ấn thần tiên được khắc sâu trong cuộc sinh nở này.
Hình ảnh cái bọc một trăm trứng mang ý nghĩa tượng trưng rất thiêng liêng. Nó khẳng định rằng tất cả các dân tộc sống trên đất Việt đều chung một mẹ sinh ra, do đó mối quan hệ giữa các dân tộc là mối quan hệ anh em thân thiết. Hai tiếng đồng bào (cùng một bọc) đã gợi lên đầy đủ và cảm động nghĩa tình keo sơn, máu thịt ấy.
Sự tích Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ, đem theo năm mươi con xuống biển, còn năm mươi người con theo mẹ lên núi, ngoài lí do kẻ ở trên cạn, người ở dưới nước, tính tình, tập quán khác nhau, khó mà ăn, ở cùng nhau một nơi lâu dài còn nhằm giải thích sự phân bố vùng định cư của các dân tộc trên đất Lạc Việt. Ngay từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã tiến hành những cuộc sắp đặt giang sơn. Địa bàn đất nước rộng, các dân tộc đã biết phân chia nhau cai quản, Kẻ ở chốn núi rừng, kẻ đồng bằng, người biển cả… lập nghiệp khắp nơi, khắp chốn. Khi có việc quan trọng, lớn lao, họ lại tìm đến nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Điều đó thể hiện truyền thống đoàn kết tốt đẹp trong suốt mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc ta.
Con Rồng, cháu Tiên là một truyền thuyết đặc sắc trong kho tàng truyện cổ dân gian. Nó thể hiện lòng tự hào, tự tôn về nguồn gốc cao quý của dân tộc ta, đồng thời khẳng định và ca ngợi mối quan hệ gắn bó thân thiết cùng truyền thống đoàn kết tốt đẹp có từ lâu đời của các dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam. Mỗi người chúng ta dù sinh sống ở bất cứ nơi đâu cũng luôn nhớ tới cội nguồn và tự hào là dòng giống Tiên Rồng, là con cháu của các vua Hùng.
Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng
|
Topic: Express your feelings about the story The Dragon and the Fairy
In the treasury of Vietnamese folk tales, I really like the story of the Dragon and the Fairy. The Legend of the Dragon, the Fairy's Son or the Legend of the Hundred Eggs, Lac Long Quan and Au Co... is a myth with many magical and imaginative details such as divine characters with many miracles and the image of a sac of a hundred eggs. ... has turned it into a most beautiful and beautiful legend, to explain and glorify the noble origin of the Vietnamese people.
Lac Long Quan and Au Co are products of the innocent and rich imagination of the ancients. The images of Lac Long Quan and Au Co are woven from unusual details.
Lac Long Quan was the son of the god Long Nu in Dong Hai (East Sea); Au Co belongs to the Than Nong family, living in the high mountains of the North. Each god has his own beauty, Lac Long Quan's beauty is emphasized as the beauty of talent. He has the body of a Dragon, can live both in water and on land, has invincible health, has many miracles, and can suppress demons (Fish Tinh, Ho Tinh, Moc Tinh) that harm innocent people. God has compassion for people, often teaching people how to grow crops, raise livestock, and how to live.
Au Co is an incredibly beautiful Fairy. She likes to go here and there. Hearing that Lac land had many fragrant flowers and strange grasses, she went to visit and by chance met Lac Long Quan there.
The story captivates listeners with strange random details: A Dragon in the water meets a Fairy on a high mountain, falls in love, and becomes husband and wife. This is a symbol of the combination between two main components in the newly formed community of the Vietnamese people.
During the reign of Hung King, Van Lang residents were mainly Lac Viet and Au Viet people. They often interact with each other economically and culturally. The mythical marriage between Lac Long Quan and Au Co reflects the relationship and unity between the residents of these two tribes.
See more: Which character do you like the most in the legend "Son Tinh, Thuy Tinh"? Try to see yourself as that character and retell the above story. The story of the Dragon, the Fairy's Son reflects the formation of the Lac Viet country at the dawn of history through the details: The eldest son followed Au Co He was proclaimed king, took the title Hung Vuong, established his capital in Phong Chau, and named the country Van Lang. The royal court had literary and martial generals... When the father died, the throne was passed to the eldest son. More than a dozen generations of kings all took the title Hung Vuong, without change.
This was the beginning of the era of Vietnamese independence, also known as the period when the Hung Kings built the country.
The content of the story is to explain the origin of the Vietnamese people as children of the Dragon and children of the Fairy. My ancestors are two healthy, talented, beautiful and virtuous gods. The marriage between Long Quan - Au Co is like a predestined relationship and the results are truly amazing! Au Co gave birth to a sac of a hundred eggs, which hatched into a hundred beautiful, rosy children... The cubs did not need to be breastfed but grew up on their own, handsome and healthy like gods. The fairy mark is deeply engraved in this birth.
The image of a bag of one hundred eggs has a very sacred symbolic meaning. It affirms that all ethnic groups living in Vietnam are born from the same mother, therefore the relationship between ethnic groups is a close brotherly relationship. The two words of compatriots (in the same package) fully and touchingly evoked that love of blood, flesh and blood.
The story of Lac Long Quan breaking up with Au Co, taking fifty children with him to the sea, while fifty children followed their mother up the mountain, in addition to the reason that one lived on land and the other in water had different personalities and habits. It is difficult to eat and live together in one place for a long time, which also explains the distribution of settlement areas of ethnic groups in Lac Viet land. Right from the beginning of the nation's founding, our people have carried out arrangements for the country. The country's area is large, the ethnic groups know how to divide and govern each other. Those who live in the mountains and forests, those who live in the plains, those who live on the sea... settle down everywhere, everywhere. When something important and big happens, they come to each other and help each other.
That shows the fine tradition of solidarity throughout thousands of years of our nation's history.
The Dragon and the Fairy's Son is a unique legend in the treasury of folk tales. It shows pride and self-respect in the noble origins of our nation, while affirming and praising the close relationship and long-standing tradition of fine solidarity between brotherly nations. living in Vietnam. Each of us, no matter where we live, always remembers our roots and is proud to be of the Fairy and Dragon lineage, the descendants of the Hung Kings.
See more: Express your feelings about the fable of the Frog at the Bottom of the Well
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện cười Lợn cưới áo mới.
Lợn cưới, áo mới là một trong những truyện cười đặc sắc của kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam. Truyện chế giễu những người có tính hay khoe của. Tính xấu ấy biến người khoe của thành trò cười cho thiên hạ.
Truyện ngắn gọn như một màn hài kịch nhỏ, kể lại cuộc tranh tài thú vị, bất ngờ giữa hai anh có tính hay khoe, mà của đem khoe chẳng đáng là bao. Một anh khoe con lợn cưới bị sổng chuồng và một anh khoe chiếc áo mới may.
Anh đi tìm lợn khoe của trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Đó là lúc nhà anh ta có việc lớn (đám cưới), lợn để làm cỗ cưới lại bị sổng mất, nghĩa là trong lúc việc nhà đang bận bịu và bối rối, một tình huống tưởng như người trong cuộc không còn tâm trí nào để khoe khoang.
Khi đi tìm lợn, lẽ ra anh ta chỉ cần hỏi: Bác có thấy con lợn của tôi chạy qua đây không? Hoặc nói rõ con lợn ấy là lợn gì, to hay nhỏ, trắng hay đen, thi anh ta lại hỏi: Bác có thấy con lợn CƯỚI của tôi chạy qua đây không? Câu hỏi thừa từ cưới, vì từ cưới không phải là từ thích hợp để chỉ đặc điểm của con lợn bị sổng và cũng không phải là thông tin cần thiết đối với người được hỏi. Người được hỏi không cần biết con lợn ấy được dùng vào việc gì (đám cưới hay đám tang). Thế nhưng nó lại rất quan trọng đối với anh đi tìm lợn vì nó là cái cớ để anh ta khoe con lợn của mình. Thành ra câu hỏi của anh ta vừa có mục đích tìm lợn, vừa có mục đích khoe của, nhưng để khoe của là chính.
Anh có áo mới cũng thích khoe đến mức may được cái áo, không đợi ngày lễ, ngày Tết hay đi chơi mới mặc mà đem ra mặc ngay. Tính thích khoe của đã biến anh ta thành trẻ con. (Già được bát canh, trẻ được manh ảo mới). Nhưng trẻ con thích khoe áo mới thì đó là lẽ thường tình bởi chúng ngây thơ, trong sáng; còn nhân vật trong truyện cười này mặc áo mới với mục đích là để khoe của.
Xem thêm: Hãy kể lại một lễ hội dân gian mà em biết hoặc được tham dựCách khoe của anh ta cũng thật buồn cười: đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua người ta khen. Vì nôn nóng khoe áo mới mà anh ta đã đứng mãi từ sáng tới chiều, kiên nhẫn đợi để khoe bằng được. Đợi mãi chẳng thấy ai hỏi đến, anh ta tức lắm. Đang lúc cụt hứng vì không có ai để mà khoe áo mới thì anh chàng mất lợn chạy tới hỏi thăm. Mừng như bắt được vàng, anh có áo mới vội giơ ngay vạt áo ra để khoe và trả lời rằng: Từ lúc tôi mặc CÁI ÁO MỚI này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả. Đúng ra, anh ta chỉ cần đáp là có nhìn thấy hay không nhìn thấy, nhưng anh ta lại cố tình khoe áo mới cả bằng điệu bộ lẫn lời nói. Đấy là những yếu tố thừa nhưng lại là nội dung, mục đích thông báo chính của anh ta.
Tính khoe của của nhân vật được đẩy tới tột đỉnh bằng nghệ thuật cường điệu, bởi trên đời này không có ai lại khoe của một cách vô duyên và trơ trẽn như anh lợn cưới và anh áo mới.
Đọc truyện chúng ta bật cười vì nhiều lẽ:
Trước hết là về hành động, lời nói của nhân vật. Của chẳng đáng là bao, chỉ là chiếc áo, con lợn mà vẫn thích khoe. (Đây cũng chính là đặc điểm của loại người này). Sau đó là lời khoe và cách khoe đều quá đáng và phi lí.
Tác giả dân gian đã tạo ra cuộc ganh đua gay cấn trong việc khoe của giữa hai nhân vật. Người đi tìm tợn sống mà cứ nhấn mạnh là lợn cưới. Kẻ trả lời là không thấy lợn thì lại cố đưa thêm cái áo mới của mình vào. Cái trái tự nhiên, không hợp với lẽ thường xuất hiện khiến cho tiếng cười chế giễu vang lên.
Anh áo mới đứng hóng ở cửa, kiên nhẫn đợi suốt từ sáng đến chiều mà vẫn chưa khoe được áo. Đang tức tối thì lại bị anh lợn cưới khoe của trước. Anh áo mới đã không bỏ lỡ cơ hội cả ngày chỉ có một lần để khoe áo mới trước mặt anh lợn cưới. Kết thúc bất ngờ của truyện tạo cảm giác rất hấp dẫn và thú vị cho người đọc.
Tính khoe của là thói thích tỏ ra, trưng ra cho mọi người biết là mình giàu có. Đây là thói xấu thường thấy ở những người mới giàu (giàu xổi), thích học đòi. Nó biểu hiện qua cách ăn mặc, nói năng, giao tiếp, cách trang sức và xây cất, bài trí nhà cửa lố lăng, kệch cỡm.
Tính khoe của là thói xấu của con người nói chung nhưng ở truyện này nó lại mang một sắc thái khá đặc biệt. Nhân vật trong truyện không phải là khoe tài, khoe lộc, khoe trí tuệ, học vấn, công lao đóng góp hay địa vị trong xã hội mà là khoe những thứ tầm thường, nhỏ nhặt, chẳng đáng đem khoe.
Khi khoe của đã trở thành một thói quen, một nhu cầu cần thiết đến mức không khoe không chịu được thì nó sẽ là thói xấu và thói xấu ấy làm cho những người xung quanh khó chịu. Câu chuyện dí dỏm Lợn cưới, áo mói là một bài học bổ ích cho tất cả chúng ta.
Xem thêm: Trong vai Sứ giả hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng
|
Topic: Write an essay expressing your feelings after reading the joke Pig Marries New Clothes.
Wedding pig, new shirt is one of the unique jokes in the treasure trove of Vietnamese folk jokes. The story mocks people who show off their wealth. That bad trait turns the person who shows off his wealth into a laughing stock for the world.
The short story is like a small comedy, recounting an interesting and unexpected competition between two men who often show off, but the things they show off are not worth much. One guy shows off his wedding pig that escaped from the cage and another guy shows off his newly sewn shirt.
He went looking for a pig to show off his wealth in a very special situation. That was when his family had a big event (a wedding), and the pig for the wedding feast escaped, meaning that while the family was busy and confused, a situation seemed like the person involved had no more thoughts. to brag.
When looking for a pig, he should have just asked: Did you see my pig running here? Or clearly state what kind of pig it is, big or small, white or black, then he asks: Did you see my WEDDING pig running past here? The question is redundant with the word wedding, because the word wedding is not an appropriate word to describe the characteristics of the escaped pig and is also not necessary information for the person being asked. The person asked does not need to know what the pig is used for (wedding or funeral). However, it was very important to the pig finder because it was an excuse for him to show off his pig. So his question had both the purpose of finding pigs and the purpose of showing off wealth, but mainly to show off wealth.
When he has a new shirt, he likes to show it off so much that he sews the shirt and doesn't wait for holidays, New Year's or going out to wear it, but wears it right away. His love of showing off turned him into a child. (The old get a bowl of soup, the young get a new fantasy). But it is normal for children to like to show off their new clothes because they are innocent and pure; The character in this joke wears a new shirt with the purpose of showing off his wealth.
See more: Tell me about a folk festival you know or attended. His way of showing off is also funny: standing at the door, waiting for someone to pass by and be complimented. Because he was impatient to show off his new shirt, he stood from morning until afternoon, patiently waiting to show it off. After waiting for a long time, no one came to ask, he was very angry. While he was feeling down because he had no one to show off his new shirt to, the guy who lost his pig ran over to ask. Happy as if he had caught gold, the man who had a new shirt quickly held up the hem of his shirt to show off and replied: Since I wore this NEW SHIRT, I have not seen any pigs running past here. Actually, he just needed to answer whether he saw it or not, but he deliberately showed off his new shirt both with gestures and words. These are redundant elements but are the main content and purpose of his announcement.
The character's boastfulness is pushed to the extreme by the art of exaggeration, because in this world there is no one who shows off their wealth as ungracefully and brazenly as the wedding pig and the new shirt guy.
Reading the story makes us laugh for many reasons:
First of all, it's about the character's actions and words. The property is not worth much, just a shirt, a pig that still likes to show off. (This is also the characteristic of this type of person). Next, the boasting and the way of boasting are both excessive and unreasonable.
The folk author created a fierce competition between the two characters in showing off their wealth. The person looking for a living pig keeps insisting that he is a pig. The person who answered that he didn't see a pig tried to add his new shirt. Something unnatural and inconsistent with common sense appeared, causing mocking laughter to ring out.
The guy with the new shirt stood at the door, waiting patiently from morning until afternoon but still couldn't show off his shirt. While I was angry, the pig married me and showed off what I had first. The new shirt guy did not miss the once-a-day opportunity to show off his new shirt in front of the wedding pig. The unexpected ending of the story creates a very attractive and interesting feeling for the reader.
Show-off is the habit of showing off and showing off to everyone that you are rich. This is a bad habit often seen in newly rich people who like to be demanding. It manifests itself through the ridiculous and ridiculous way of dressing, speaking, communicating, jewelry, and building and decorating the house.
Showing off is a bad habit of people in general, but in this story it has a rather special nuance. The characters in the story are not showing off their talents, fortune, intelligence, education, contributions or status in society, but rather showing off things that are trivial, small, and not worth showing off.
When showing off becomes a habit, a necessary need to the point where you can't bear to show off, it becomes a bad habit and that bad habit makes people around you uncomfortable. The witty story "Wedding Pig, New Shirt" is a useful lesson for all of us.
See more: As the Messenger, tell the story of Saint Giong
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Mẹ hiền dạy con.
Truyện Mẹ hiền dạy con trích từ sách Liệt nữ truyện của Trung Hoa, nội dung kể về cách dạy con rất nghiêm khắc và tình thương con đặc biệt của bà mẹ Mạnh Tử. Bà đã cố tạo cho con một môi trường sống tốt đẹp và dạy con vừa có đạo đức, vừa có ý chí học hành, phấn đấu.
Cốt truyện gồm năm sự việc diễn ra từ thuở Mạnh Tử còn nhỏ:
Sự việc 1: Nhà ở gần nghĩa địa, thấy con bắt chước người ta đào, chôn, lăn, khóc. Bà nghĩ: Chỗ này không phải chỗ con ta ở được nên dọn nhà ra gần chợ.
Sự việc 2: Nhà ở gần chợ, thấy con bắt chước học theo thói bán buôn điên đảo, bà mẹ nghĩ: Chỗ này cũng không phải là chỗ con ta ở được nên dọn nha đến cạnh trường học.
Sự việc 3: Nhà ở gần trường học, thấy con bắt chước lễ phép, chăm chỉ học hành, bà mẹ vui lòng nói: Chỗ này là chỗ con ta ở được lâu dài.
Sự việc 4: Thấy nhà hàng xóm giết lợn, con hỏi mẹ: Người ta giết lợn làm gì thế? Mẹ nói đùa: Để cho con ăn đấy. Biết mình lỡ lời, bà đi chợ mua thịt lợn về cho con ăn.
Sự việc 5: Con đang đi học bỏ về nhà chơi, mẹ cầm dao cắt đứt tám vải đang dệt để ngầm ví với việc con đang đi học mà bỏ học. Sau khi nghe mẹ khuyên, con học tập rất chuyên cần.
Năm sự việc trộn thể hiện ba ý như sau:
Môi trường sống ảnh hưởng, rất lớn đến việc hình thành tính cách con người.
Đề cao chữ tín trong cuộc sống.
Tác dụng của hành động và lời nói của người lớn đối với con trẻ.
Vấn đề mà bà mẹ thầy Mạnh Tử quan tâm trước hết trong việc dạy con là môi trường sống. Bà cho rằng phải tạo cho con một môi trường sống tốt đẹp thì đứa trẻ mới cỏ thể tiếp thu những mặt tích cực, những yếu tố lành mạnh để phát triển nhân cách và trưởng thành. Trẻ em rất hay bắt chước. Nếu ở môi trường sống không tốt thì sẽ bị ảnh hưởng bởi những điều không tốt. Như khi nhà ở gần nghĩa địa thì Mạnh Tử đã bắt chước người ta đào, chôn, lăn khóc. Đến lúc dọn nhà ra gần chợ thì lại bắt chước theo thói bán buôn điên đảo. Chỉ khi dọn nhà đến cạnh trường học thì bà mẹ mới yên tâm: Chỗ này mới là chỗ con ta ở được lâu dài. Mạnh Tử đã bắt chước theo thái độ lễ phép và chăm chỉ học hành của học trò. Đúng là Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng như nhân dân ta thường nói.
Xem thêm: Kể về người bạn mới quenỞ sự việc thứ tư, khi biết mình lỡ lời nói đùa, bà mẹ đã kịp thời chữa lại ngay. Không phải bà đính chính lại câu nói đùa mà bà đi chợ mua thịt lợn về cho ăn thật. Bà muốn chứng tỏ câu nói của bà là đúng. Bà phải giữ chữ tín trước con vì bà nghĩ rằng con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng hóa ra ta dạy nó nói dối hay sao? Mà nếu để trẻ em học nói dối từ nhỏ thì sẽ hết sức nguy hiểm. Cách dạy của bà mẹ thật khéo léo và tế nhị, giữ cho tâm hồn con trỏ trong sáng, hồn nhiên. Hơn thế, bà dạy cần phải biết quý trọng chữ tín vì nếu mất chữ tín thì không ai còn tin mình cả, do đó sẽ không thể làm tốt mọi việc.
Bên cạnh cách dạy con khéo léo, bà mẹ còn có thái độ rất kiên quyết. Phải nói rằng thái độ này của bà đã gây ấn tượng mạnh và cố tác dụng tích cực đối với con. Hành động, lời nói của bà mẹ xuất phát từ tình thương, muốn con nên người. Sự nghiêm khắc của bố mẹ có tác dụng rất lớn trong việc hướng con trai mình vào việc học tập chuyên cần để về sau trở nên bậc đại hiền.
Câu kết của truyện: Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quý báu của bà mẹ hay sao? vừa là lời kể, vừa là lời bình của tác giả. Mạnh Tử trở thành người tài giỏi trước hết là nhờ công lao giáo dục và tình thương yêu của bà mẹ. Hành động cắt đứt tấm vải đang dệt và lời nói nghiêm khắc của bà mẹ đã để lại ấn tượng sâu sắc, thành bài học nhớ đời cho Mạnh Tử. Thắm thía lời dạy, từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần.
Truyện ngắn gọn nhưng đúc kết được nhiều bài học bổ ích và thiết thực về phương pháp giáo dục con cái. Mẹ thương con chưa đủ mà còn phải biết dạy con nên người. Bà mẹ thầy Mạnh Tử là tấm gương sáng về tình thương và cách dạy con cho các bậc cha mẹ noi theo.
Dạy con trước hết phải chọn mối trường sống tốt cho con.
Dạy con trước hốt phải dạy dạo đức làm người.
Dạy đạo đức chưa đủ, còn phải dạy con lòng say mê học tập và ý chí phấn đấu trong cuộc sống.
Đối với con, không nên nuông chiều mà phải nghiêm khắc. Thái độ nghiêm khắc phải xuất phát từ tình yêu thương chân thành. Và mong muốn thiết tha con mình trở thành người có tài có đức.
Truyện Mẹ hiền dạy con tuy đơn giản nhưng lại gây xúc động sâu sắc bởi ý nghĩa to lớn của nó. Ý nghĩa ấy vượt ra ngoài phạm vi dạy con trong gia đình và mở rộng thành vấn đề giáo dục trẻ em trong toàn xã hội. Cách dạy con đúng đắn của bà mẹ thầy Mạnh Tử đã đem lại kết quả tốt đẹp. Sau này, Mạnh Tử đã trở thành một bậc đại hiền nổi tiếng trong thiên hạ.
Xem thêm: Nhân dịp cùng bố mẹ đi thăm quan (hoặc du lịch), em đã được làm quen với một người bạn mới. Dù cuộc gặp gỡ thật ngắn ngủi nhưng tình bạn ấy vẫn là một kỷ niệm khó phai
|
Topic: Write an essay expressing your feelings after reading the story Good Mother Teaches Her Children.
The story "The Good Mother Teaches Her Child" is taken from the Chinese book "The Tale of the Lieh Nu" and tells about Mencius's mother's strict way of teaching her children and her special love for them. She tried to create a good living environment for her child and taught her to be both moral and willing to study and strive.
The plot consists of five events that took place when Mencius was a child:
Incident 1: My house is near a cemetery. I saw my child imitating people digging, burying, rolling, and crying. She thought: This is not a place where my child can live, so she moved the house closer to the market.
Incident 2: The house is near the market. Seeing her child imitating the crazy selling habits, the mother thought: This place is not a place for my child to live, so she moved the house next to the school.
Incident 3: The house is near the school. Seeing her child being polite and studying hard, the mother happily said: This is the place where my child can live long term.
Incident 4: Seeing my neighbor killing pigs, I asked my mother: Why do people kill pigs? Mom joked: Let me feed you. Knowing that she had said something wrong, she went to the market to buy pork for her children to eat.
Incident 5: The child ran away from school and went home to play. The mother took a knife and cut off eight pieces of fabric that she was weaving to implicitly compare it to the child leaving school. After listening to my mother's advice, I studied very diligently.
The five mixed events express three ideas as follows:
Living environment greatly influences the formation of human personality.
Promote credibility in life.
The effects of adults' actions and words on children.
The issue that Mencius's mother was concerned about first in teaching her children was the living environment. She believes that we must create a good living environment for our children so that they can absorb the positive aspects and healthy elements to develop their personality and grow up. Children are very good at imitating. If you live in a bad environment, you will be affected by bad things. For example, when his house was near a cemetery, Mencius imitated people digging, burying, and crying. When it was time to move house near the market, he followed the crazy wholesale habits. Only when she moved house next to the school did the mother feel secure: This is the place where her child can live long term. Mencius imitated his student's polite attitude and diligent study. It's true that near ink, it's black, near light, it's bright as our people often say.
See more: Talking about a new friend In the fourth incident, when she realized she accidentally said a joke, the mother promptly corrected it. It's not that she corrected the joke, but she went to the market to buy pork to feed him. She wanted to prove her statement was correct. She must keep her trust in her child because she thinks that when my child is young and his knowledge has just developed, if I lie to him, isn't it true that I taught him to lie? But if children learn to lie from a young age, it will be extremely dangerous. The mother's teaching style is skillful and delicate, keeping the pointer's soul pure and innocent. Furthermore, she taught us to value trust because if we lose our trust, no one will trust us, so we won't be able to do things well.
Besides skillful parenting, mothers also have a very determined attitude. It must be said that this attitude of hers made a strong impression and had a positive effect on her child. A mother's actions and words come from love and wanting her child to become a good person. The strictness of parents has a great effect in guiding their son to study diligently so that he can later become a great sage.
Conclusion of the story: Isn't it thanks to the mother's precious education? It is both a narrative and a comment from the author. Mencius became a talented man, first of all, thanks to his education and his mother's love. The act of cutting off the weaving cloth and the mother's strict words left a deep impression, becoming a lifelong lesson for Mencius. Deeply appreciating the teachings, from that day on, Master Mencius studied very diligently.
The story is short but summarizes many useful and practical lessons about methods of educating children. It's not enough for a mother to love her child, she also has to know how to teach her child to be a good person. Master Mencius's mother is a shining example of love and teaching for parents to follow.
Teach your children to first choose a good living environment for them.
Teaching children must first teach human virtue.
Teaching ethics is not enough, we must also teach children a passion for learning and the will to strive in life.
For children, you should not indulge but be strict. A strict attitude must come from sincere love. And earnestly wish for my child to become a talented and virtuous person.
The story of a gentle mother teaching her child is simple but deeply moving because of its great meaning. That meaning goes beyond the scope of raising children in the family and extends to the issue of educating children in the entire society. The correct way of teaching children of Master Mencius's mother brought good results. Later, Mencius became a famous sage in the world.
See more: On the occasion of visiting (or traveling) with my parents, I made a new friend. Even though the meeting was short, that friendship is still an unforgettable memory
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi.
Thầy bói xem voi là một truyện ngụ ngôn có nội dung giáo dục rất thâm thúy ẩn chứa dưới hình thức nghệ thuật hài hước thú vị.
Truyện ngụ ngôn là truyện không chỉ có nghĩa đen mả còn hàm chứa nghĩa bóng. Nghĩa bóng là ý nghĩa sâu kín gửi gắm trong truyện, thường là những bài học nhân sinh bổ ích cho con người trong cuộc sống.
Thầy bói xem voi kể về cuộc xem voi của năm thầy bói mù và nhận xét. Của từng người về con voi. Sự khác biệt trong nhận thức về hình dáng con voi giữa các thầy bói dẫn đến cuộc tranh luận bất phân thắng bại, thậm chí dẫn tới ẩu đả.
Từ việc chế giễu cách xem voi và nhận xét về voi rất phiến diện của năm ông thầy bói mù, người xưa khuyên chúng ta rằng khi tìm hiểu, xem xét, đánh giá các sự vật, sự việc, hiện tượng xung quanh thì phải thận trọng, kĩ càng và toàn diện để tránh những đánh giá lệch lạc, sai lầm.
Truyện ngắn gọn nhưng rất hấp dẫn bởi hàng loạt các yếu tố đặc biệt của nó: tinh huống đặc biệt, nhân vật đặc biệt, sự vật đặc biệt và cách cảm nhận sự vật của mỗi người lại càng đặc biệt. Có thể coi truyện ngụ ngôn này là một vở hài kịch nhỏ có đủ hoàn cảnh, nhân vật và mâu thuẫn kịch.
Mở đầu là cảnh năm thầy bói mù nhân buổi ế khách bèn túm tụm lại ngồi chuyện gẫu với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn là chưa biết hình thù con voi ra sao. Tình cờ đúng íúc ấy, các thầy nghe người ta nói có voi đi qua, bèn chung nhau tiền biếu quản tượng, xin cho voi dừng lại để xem. Vì mù nên năm thầy rù no chung một cách xem voi là sờ bằng tay và mỗi thầy chỉ sờ được vào một bộ phận của con voi mà thôi.
Phần mở đầu ngắn gọn nhưng chứa đựng đầy đủ những thông tin cần thiết để thu hút và dẫn dắt người đọc. Nếu coi truyện là một màn kịch thì ở đoạn này, mâu thuẫn kịch đã bắt đầu hình thành và phát triển.
Cách xem voi của năm thầy là dùng tay để sờ. Thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thi sờ chân, thầy thì sờ đuôi.
Thầy nào sờ được bộ phận nào thì nhận xét về hình thù “con voi” như thế. Thầy sờ vào vòi cho rằng voi sun sun như con đỉa. Thầy sờ vào ngà bảo voi chẩn chẫn như cái đòn càn. Thầy sờ vào tai khăng khăng voi bè bè như cái quạt thóc. Thầy sờ vào chân voi thì cãi: Nó sừng sững như cái cột đình. Bốn nhận định của bốn thầy khác xa nhau nên thầy này phủ nhận ý kiến của thầy kia, Thầy thứ năm sờ vào cái đuôi thì phủ nhận tất cả bốn thầy trước: – Các thầy nói không đúng cả. Chính nó tun tủn như cái chổi sể cùn.
Xem thêm: Tưởng tượng em bị biến thành con vật xấu xíDựa trên thực tế mà mình “xem” được, mỗi thầy đều đưa ra nhận xét về hình thu con voi bằng hình thức ví von, so sánh. Điều đó làm cho truyện thêm sinh động và có tác dụng tô đậm sai lầm trong cách xem voi và lời “phán” về voi của các thầy.
Mầu thuẫn càng lúc càng tăng, không ai chịu ai vì người nào cũng cho rằng mình đúng. Tục ngữ có câu: Trăm nghe không bằng một thấy, Trăm thấy không bằng một sờ. Ở đây, các thầy đã sờ tận tay, thử hỏi còn sai vào đâu được? Do vậy, việc thầy nào cũng khẳng định rằng mình đúng là có cơ sở. Thầy nào cũng đúng nhưng khổ nỗi chỉ đúng với một bộ phận của con voi chứ không đúng với toàn bộ con voi.
Người xưa thật hóm hỉnh khi để các thầy bói mù xem một con vật khổng lồ là con voi. Các bộ phận của nó ở cách xa nhau (vòi, ngà, tai, chân, đuôi) mà các thầy đều bị mù, Không thể đi lại dễ dàng. Mỗi thầy lại chỉ sờ được có một thứ nên mới dẫn đến chuyện đấu khẩu bất phân thắng bại.
Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khi thầy nào cũng khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình. Cãi nhau mãi không xong tất dẫn đến cuộc ẩu đả quyết liệt, bởi vì cả nám thầy không ai chịu ại. Như vậy là cãi nhau không đi đến đâu, mà đánh nhau càng không thể dẫn đến chân lí khách quan. Cái sai nọ tất yếu dẫn đến cái sai kia. Người đọc tưởng tượng ra cảnh năm thầy bói mù gân cổ cãi nhau rồi quờ quạng đánh nhau mà cười ra nước mắt.
Biện pháp phóng đại được sử dụng triệt để trong truyện để tô đậm cái sai về nhận thức của các thầy bói xem voi.
Năm thầy bói đều sờ vào voi thật và mỗi thầy đều tả đúng một bộ phận của voi, nhưng không ai nhận xét đúng về cả con voi. Sai lầm của họ là mỗi người chỉ sờ được vào một bộ phận của con voi mà đã nhất quyết cho rằng đó là con voi. Điều đáng buồn cười là các thầy đều sai nhưng ai cũng nhận mình là đúng. Thực ra họ đều sai lầm trầm trọng bởi vì đã lấy nhận xét chủ quan về một chi tiết của sự vật để khẳng định, đánh giá toàn thể sự vật và phủ nhận ý kiến của người khác.. Cả năm thầy đều chung một cách xem voi phiến diện, dùng bộ phận để khái quát toàn thể. Truyện không nhằm chế giễu cái “mù” về thể chất (đây chỉ là chi tiết cần có của tinh huống truyện), mà muốn nói đến cái “mù” về nhận thức và phương pháp nhận thức của các thầy bói. Cao hơn thế, truyện có ý giễu cợt những người làm nghề xem bói (Thầy bói nói càn). Tiếng cười trong truyện nhẹ nhàng nhưng cũng rất thâm thúy.
Truyện là màn hài kịch ngắn nhưng chứa đựng một bài học bổ ích. Người xưa muốn thông qua truyện để nhắc nhở mọi người khi giao tiếp, vấn đề nào tìm hiểu chưa thấu đáo thi không nên thể hiện quan điểm của mình vì không thể nào có được một nhận xét đúng đắn về thực tế xung quanh (hiện tượng, sự việc, sự vật, con người) nếu chưa tìm hiểu đầy đủ, kĩ càng. Muốn kết luận đúng về sự vật thì phải xem xét nó một cách toàn diện. Những hiểu biết hời hợt, nông cạn, những suy đoán mò mẫm thiếu thực tế… chỉ dẫn đến nhận thức lệch lạc, sai lầm mà thôi.
Qua truyện, người xưa còn ngầm phê phán những kẻ thiếu hiểu biết nhưng lại hay tỏ ra thông thái. Ý nghĩa này được gói gọn trong câu thành ngữ: Thầy bói xem voi.
Xem thêm: Tưởng tượng và kể lại cuộc gặp gỡ với một nhân vật trong truyền thuyết mà em đã học
|
Topic: Express your feelings after reading the fable of The Fortune Teller and the Elephant.
The fortune teller sees the elephant is a fable with profound educational content hidden in an interesting humorous art form.
A fable is a story that not only has a literal meaning but also contains figurative meaning. Figurative meaning is the deep meaning conveyed in the story, often useful life lessons for people in life.
The elephant fortune teller tells about the elephant reading experience of five blind fortune tellers and comments. Of each person about the elephant. Differences in perception of the elephant's shape among fortune tellers lead to inconclusive debates, even leading to fights.
From mocking the five blind fortune tellers' way of viewing elephants and the very one-sided comments about elephants, the ancients advised us that when learning, examining, and evaluating surrounding objects, events, and phenomena, we must Be careful, thorough and comprehensive to avoid misleading and erroneous assessments.
The story is short but very attractive because of its series of special elements: special situations, special characters, special things, and each person's way of feeling things is even more special. This fable can be considered a small comedy with enough dramatic situations, characters and conflicts.
The opening scene is the scene of five blind fortune tellers, taking advantage of a lack of customers, huddled together to chat with each other. Every teacher complains that they don't know what an elephant looks like. Coincidentally, at that exact moment, the monks heard people say an elephant was passing by, so they pooled their money to give to the mahout, asking the elephant to stop and watch. Because they are blind, the five monks share the same way of viewing elephants: touching them with their hands, and each teacher can only touch one part of the elephant.
The introduction is short but contains all the necessary information to attract and guide the reader. If we consider the story as a drama, then at this stage, the dramatic conflict has begun to form and develop.
The five monks' way of viewing an elephant is to use their hands to touch it. The teacher touches the trunk, the teacher touches the tusks, the teacher touches the ears, the teacher touches the legs, the teacher touches the tail.
Any teacher who touches any part will comment on the shape of the "elephant" like that. The teacher touched his trunk and thought that the sun-sun elephant was like a leech. The teacher touched the tusk and told the elephant to diagnose it like a blow. The teacher touched his ears and insisted that the elephant was as smooth as a rice fan. The teacher touched the elephant's leg and argued: It is as tall as a pillar. The four opinions of the four teachers are very different from each other, so this teacher denies the other teacher's opinion. The fifth teacher touches the tail and denies all of the previous four teachers: - What you guys are not saying is correct. It itself is as dull as a dull broom.
See more: Imagine you are turned into an ugly animal. Based on the reality that we "saw", each teacher gave comments on the elephant image in the form of similes and comparisons. That makes the story more vivid and has the effect of highlighting the mistakes in the way elephants are viewed and the teachers' "judgments" about elephants.
The contradictions are increasing day by day, no one accepts the other because everyone thinks they are right. There is a proverb that says: A hundred hearings are not as good as one seeing, and a hundred seeings are not as good as one touching. Here, the teachers have touched it with their own hands, wondering where else could go wrong? Therefore, it is well-founded that every teacher asserts that he is correct. Every teacher is right, but unfortunately it is only true for a part of the elephant, not the whole elephant.
The ancients were very witty when they let blind fortune tellers see a giant animal called an elephant. Its parts are so far apart (proboscis, tusks, ears, legs, tail) that the teachers are all blind, unable to walk easily. Each teacher could only touch one thing, which led to inconclusive arguments.
The conflict reached its peak when each teacher insisted on defending his or her opinion. The endless arguing inevitably led to a fierce fight, because no one in the group was willing to argue. So arguing doesn't get anywhere, and fighting can't lead to objective truth. One mistake inevitably leads to another. The reader imagines the scene of five blind fortune tellers arguing and then fighting blindly, laughing to tears.
The method of exaggeration is thoroughly used in the story to highlight the wrong perception of the elephant fortune tellers.
The five fortune tellers all touched the real elephant and each correctly described a part of the elephant, but no one correctly commented on the whole elephant. Their mistake was that each person could only touch one part of the elephant and decided that it was an elephant. The funny thing is that the teachers are all wrong but everyone admits they are right. In fact, they all made serious mistakes because they used subjective comments about a detail of something to affirm and evaluate the whole thing and deny the opinions of others. All five teachers had the same approach. View elephants one-sidedly, using parts to generalize the whole. The story is not intended to mock physical "blindness" (this is just a necessary detail of the story's situation), but rather refers to the cognitive "blindness" and cognitive methods of fortune tellers. More than that, the story intends to mock those who work in the fortune-telling profession (Fortune tellers talk nonsense). The laughter in the story is gentle but also very profound.
The story is a short comedy but contains a useful lesson. The ancients wanted to use stories to remind people that when communicating, if you have not thoroughly understood an issue, you should not express your opinion because it is impossible to have a correct comment on the surrounding reality (currently). object, event, thing, person) if not fully and thoroughly researched. If you want to reach a correct conclusion about something, you must consider it comprehensively. Superficial, shallow understanding, unrealistic speculation... only lead to distorted and erroneous perceptions.
Through stories, ancient people implicitly criticized those who lacked knowledge but often appeared to be wise. This meaning is encapsulated in the idiom: The fortune teller sees the elephant.
See more: Imagine and retell a meeting with a character in a legend that you have learned about
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em về truyện ngụ ngôn Treo biển.
Người Việt Nam chúng ta rất thích Cười, dù trong bất kì tình huống, hoàn cảnh nào. Vì vậy, tiếng cười dân gian rất phong phú, có đủ cung bậc khác nhau. Có tiếng cười hóm hỉnh, hài hước để giải trí sau những giờ lao động mệt nhọc; có tiếng cười trào lộng, châm biếm để phê phán những thói hư tật xấu hay đả kích kẻ thù.
Treo biển là truyện ngụ ngôn chứa đựng ý nghĩa thâm thuý dưới hình thức tiếng cười vui vẻ, nhẹ nhàng. Nội dung kể về một ông chủ cửa hàng bán cá treo tấm biển: Ở đây có bán cá tươi. Nội dung tấm biển được một số người qua đường góp ý theo cách “nghĩ gì nói nấy”, ông chủ nghe theo, cứ bỏ dần từng chữ và cuối cùng cất luôn cái biển.
Đọc truyện, người ta thấy buồn cười vì trên đời này không có ai góp ý kiểu như vậy và cũng chẳng có ai lại dễ dàng nghe theo những lời góp ý vớ vẩn như thế. Điều thú vị là truyện lấy cái không thể xảy ra để nói đến những cái hiện tượng có thực trong cuộc sống hằng ngày. Mượn chuyện ông chủ cửa hàng bán cá nghe ai góp ý cũng làm theo, truyện ngụ ý phê phán những người thiếu chủ kiến trong cuộc sống.
Tuy ngắn gọn nhưng truyện vẫn có đầy đủ cốt truyện và nhân vật. Ngôn ngữ kể giản dị, mộc mạc nhưng hài hước, gây cười. Truyện bắt đầu từ tấm biển đề: Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI.
Nội dung tấm biển thông báo bốn ý: Ở ĐÂY chỉ rõ địa chỉ bán hàng. CÓ BÁN thông báo chức năng hoạt động của cửa hàng (bán chứ không phải là mua cá). CÁ thông báo loại mặt hàng mà cửa hàng bán ra (cá chứ khỏng phải tôm, cua…). TƯƠI thông báo chất lượng của cá.
Bốn yếu tố ấy là cần thiết cho nội dung của một tấm biển quảng cáo bằng ngôn ngữ.
Thông thường, một cửa hàng muốn bán thứ gì đều phải quảng cáo để giới thiệu hàng của mình với mọi người. Xét về mục đích thì nội dung của tấm biển trên là đầy đủ và hợp lí. Sẽ không có chuyện gì xảy ra nếu không có những lời góp ý vu vơ của một số người.
Có bốn người góp ý về tấm biển. Mỗi người bảo ống chủ bỏ bớt một yếu tố trong dòng chữ đề trên biển.
Người đầu tiên bảo:
– Nhà này xưa nay quen bán cá ươn hay sao mà bây giờ phải đề biển là cá TƯƠI?
Sự đối lập giữa tươi và ươn đã đánh vào lòng tự ái của ông chủ nên ông ta vội xóa bỏ chữ TƯƠI đi. Tấm biển còn dòng chữ: Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ.
Người thứ hai nhìn tấm biển, cười bảo:
Xem thêm: Cảm nhận khi đọc Mùa xuân của tôi (Trích Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng)– Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề là Ở ĐÂY?
Nghe thế, ông chủ vội xóa hai chữ ấy đi. Dòng chữ còn lại là CÓ BÁN CÁ.
Vài hôm sau, người khách khác đến mua cá, cũng cười bảo:
– Ỏ đây chẳng bán cá thì bày cá ra khoe hay sao mà phải đề là CÓ BÁN?
Ngẫm cũng cỏ lí, ồng chủ xóa liền hai chữ CÓ BÁN. Rốt cuộc, tấm biển còn mỗi chữ CÁ. Chẳng cứ ông chủ cửa hàng mà đến chính người đọc, người nghe cũng tưởng rằng đến đây thì chẳng còn gì để góp ý nữa. Nhưng người thứ tư lại bảo:
– Chưa đi đến đầu phố đã ngửi thấy mùi tanh, đến gần nhà thấy đầy những cá, ai chẳng biết là bán cá, còn đề biển làm gì nữa?
Vậy thì tấm biển treo lên là thừa, là vô ích, chủ nhà bèn cất luôn cái biển.
Thoạt nghe, ta tưởng ý kiến của từng người đều có lí nhưng nghĩ kĩ thi hóa ra không phải. Bởi vì người góp ý không hiểu được chức năng, ý nghĩa của yếu tố mà họ cho là thừa và mối quan hệ giữa nó với những yếu tố khác. Mỗi người đều lấy sự hiện diện của khách ở cửa hàng và sự trực tiếp được nhìn, ngửi, xem xét mặt hàng thay cho thông báo gián tiếp là chức năng, đặc điểm của ngôn ngữ. Vì vậy, họ chỉ quan tâm đến một hoặc hai từ mà họ cho là quan trọng mà không thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của các thành phần khác trong câu.
Đọc truyện này, ta thấy cứ mỗi lần có người góp ý là ông chủ cửa hàng không cần suy nghĩ vội làm theo ngay. Ta cười vì thái độ tiếp thu thụ động, không suy xét cẩn thận của ông ta. Ta cười vì ông ta không hiểu mục đích treo biển để làm gì và những điều viết trên biển có ý nghĩa gì.
Kết thúc truyện cũng là lúc tiếng cười vang lên bởi vì ý kiến của từng người mới nghe qua tưởng là có lí nhưng làm theo thì kết quả cuối cùng lại thành phi lí. Ta bật cười vì trên đời này có lẽ không có ông chủ nào lại nghe góp ý theo kiểu “đẽo cày giữa đường” như thế.
Treo biển là một truyện hài hước tạo nên tiếng cười vui vẻ, phê phán nhẹ nhàng những người thiếu chủ kiến trong suy nghĩ và trong hành động.
Từ truyện này, ta có thể rút ra bài học: Trong cuộc sống, chúng ta nên lắng nghe lời góp ý của mọi người nhưng không nên vội vàng làm theo khi chưa suy xét kĩ. Làm bất cứ việc gì ta cũng phải đặt ra mục đích, có chủ kiến và biết tiếp thu một cách chọn lọc và sáng tạo ý kiến của người khác để vận dụng thiết thực vào hoàn cảnh của mình. Trước khi làm việc gì cũng nên đặt ra câu hỏi: Mình làm việc ấy để làm gì? Làm như thế nào?
Qua truyện này, chúng ta cũng có thể rút ra bài học về cách dùng từ. Từ dùng phải có nghĩa, có chứa thông tin cần thiết, không dùng từ thừa và thiếu. Từ được sử dụng phải ngắn gọn, rõ rặng, chính xác, đem lại hiệu quả cao nhất trong giao tiếp.
Xem thêm: Tả lại buổi biểu diễn của một ca sĩ mà em yêu thích.
|
Topic: Write an essay expressing your feelings about the fable of Hanging the Sign.
We Vietnamese people love to laugh, no matter what situation or circumstance. Therefore, folk laughter is very rich and has many different levels. There is witty and humorous laughter to entertain after hours of hard work; There is satirical laughter and sarcasm to criticize bad habits or attack enemies.
Hanging the sign is a fable containing profound meaning in the form of cheerful, gentle laughter. The content is about a fish shop owner who puts up a sign: Fresh fish is sold here. The content of the sign was commented on by some passersby in a "say what you think" way. The owner listened, gradually removed each word and finally took away the sign.
Reading the story, people find it funny because in this world no one gives such comments and no one easily listens to such nonsense suggestions. The interesting thing is that the story takes the impossible to talk about real phenomena in everyday life. Borrowing from the story of the fish shop owner who listened to everyone's suggestions and followed them, the story implies criticism of those who lack opinions in life.
Although short, the story still has a full plot and characters. The language is simple, rustic but humorous and amusing. The story begins with a sign: FRESH FISH IS SOLD HERE.
The content of the sign announces four ideas: HERE specifies the sales address. FOR SALE announces the store's operating function (selling, not buying fish). FISH announces the type of items the store sells (fish, not shrimp, crab, etc.). FRESH informs the quality of the fish.
Those four elements are necessary for the content of a linguistic advertising sign.
Normally, a store that wants to sell something must advertise to introduce its products to everyone. In terms of purpose, the content of the above sign is complete and reasonable. Nothing would have happened without some people's idle comments.
Four people commented on the sign. Each person told the owner to remove one element from the inscription on the sign.
The first person said:
– Is this house used to selling spoiled fish? Why do we now have to label it as FRESH fish?
The contrast between fresh and spoiled affected the boss's pride, so he quickly deleted the word FRESH. The sign also reads: FISH IS SOLD HERE.
The second person looked at the sign, smiled and said:
See more: Feelings when reading My Spring (Excerpt Thuong remembers twelve by Vu Bang) - Shouldn't people buy flowers and fish, but should it say HERE?
Hearing that, the boss quickly erased those two words. The remaining text is FISH FOR SALE.
A few days later, another customer came to buy fish and also smiled and said:
– If we don't sell fish here, why should we display the fish to show off instead of having to say FOR SALE?
Thinking about it, it makes sense, the owner immediately erased the two words FOR SALE. In the end, the sign only had the word FISH. Not only the store owner but also the reader and listener themselves think that at this point there is nothing left to comment on. But the fourth person said:
– Before we even got to the end of the street, I could already smell the fishy smell. When I got closer to the house, I saw it was full of fish. Everyone knew that they were selling fish, so why bother putting the sign on it?
So the sign posted up was redundant and useless, so the homeowner took the sign away.
At first listen, we thought each person's opinion was reasonable, but thinking carefully, it turned out that it was not. Because the commenters do not understand the function and meaning of the element they consider redundant and the relationship between it and other elements. Each person takes the presence of customers in the store and the direct ability to see, smell, and examine items instead of indirect messages as the function and characteristics of language. Therefore, they are only interested in one or two words that they consider important without seeing the meaning and importance of other elements in the sentence.
Reading this story, we see that every time someone gives a suggestion, the store owner immediately follows it without thinking. I laugh at his passive, unreflective attitude. I laughed because he didn't understand the purpose of hanging the sign and what the things written on the sign meant.
The end of the story is also when laughter rings out because each person's opinion at first glance seems reasonable, but when followed, the final result becomes absurd. I laugh because there's probably no boss in this world who listens to suggestions like that.
Hanging the sign is a humorous story that creates joyous laughter, gently criticizing those who are lacking in thought and action.
From this story, we can draw a lesson: In life, we should listen to everyone's suggestions but should not rush to follow them without thinking carefully. Whatever we do, we must set a goal, have an opinion, and know how to selectively and creatively absorb the opinions of others to apply practically to our situation. Before doing anything, you should ask: Why do I do it? How?
Through this story, we can also learn lessons about how to use words. The words used must be meaningful, contain necessary information, and must not use redundant or missing words. The words used must be short, clear, and precise, bringing the highest efficiency in communication.
See more: Describe a performance by a singer you like.
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng.
Truyện Ếch ngồi đáy giếng là ngụ ngôn mượn chuyện loài vật để bóng gió, kín đáo nói về chuyện con người.
Từ câu chuyện kể về cách nhìn nhận, đánh giá thế giới bên ngoài chỉ qua cái miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch, truyện ngầm phê phán những kẻ hiểu biết hạn hẹp mà lại hay huênh hoang, khoác lác. Đồng thòi khuyên nhủ mọi người phải cố gắng mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của mình, không nên chủ quan, kiêu ngạo.
Tuy ngắn nhưng bố cục của truyện cũng chia thành hai phần rõ rệt. Phần đầu kể về hoàn cảnh sống và trình độ hiểu biết ít ỏi của con ếch. Phẩn hai kể về hậu quả tai hại của thái độ chủ quan kiêu ngạo. Từ đó rút ra bài học cho mọi người.
Nội dung truyện có thể tóm tắt như sau: Vì sống lâu trong một cái giếng nhỏ hẹp nên ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng cái vung, còn nó thì oai như một vị chúa tể. Một năm nọ, trời mưa to, nước giếng tràn bờ, đưa ếch ra ngoài. Quen thói cũ, nó nhâng nháo đưa mắt nhìn lên bầu trời, chẳng thèm để ý gì đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.
Tác giả dân gian đã khéo léo tưởng tượng ra bối cảnh của truyện và tâm lí nhân vật. Tại sao con ếch lại có những suy nghĩ thiển cận như vậy?
Bởi ếch sống dưới đáy một cái giếng nhỏ nên từ dưới giếng nhìn lên, nó thây bầu trời bé xíu như cái vung nồi. Ngày nào cũng thấy như vậy nên nó khẳng định bầu trời chỉ to bằng ngần ấy mà thôi.
Dưới giếng lâu nay cũng chỉ có một vài loài vật nhỏ bé tầm thường như nhái, cua, ốc… Mỗi khi ếch cất tiếng kêu Ồm ộp vang đông, các loài vật kia đều hoảng sợ.
Xem thêm: Tả cảnh giao thừa ở bên Hồ GươmChi tiết này vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Giếng nhỏ lại sâu, khi có tiếng động thi âm vang rất lớn. Giống như ở nông thôn xưa, hễ nhà ai có việc gi thì cả xóm, cả làng đều biết. Làng lại xa vua, xa quan nên bọn cường hào ác bá tha hổ tác oai tác quái, nhũng nhiễu dân lành.
Trong thế giới quá nhỏ bé ấy, ếch tự cho mình là chúa tể nên chẳng coi ai ra gì. Chưa bao giờ nò được biết thêm về một môi trường khác, một thế giới khác, cho nền tầm nhìn của nó rất hạn hẹp, trình độ hiểu biết ít ỏi, thấp kém. Thế nhưng ếch lại chủ quan, kiêu ngạo, tự cho là mình tài giỏi hơn tất cả. Điều đó đã thành thói quen, thành tật xấu của nó.
Một tình huống bất ngờ xảy ra làm đảo lộn tất cả.
Sau một cơn mưa lớn, nước giếng đầy tràn, đẩy ếch ra ngoài. Hoàn cảnh sống của ếch đã đột ngột thay đổi, từ một phạm vi rất hẹp là đáy giếng tới một phạm vi rất rộng là không gian mênh mông. Lúc đầu, ếch cứ tưởng mặt đất cũng giống như đáy giếng kia, bầu trời trên đầu nó lúc này cũng chỉ là bầu trời mà nó đã quen nhìn qua miệng giếng bấy lâu nay và nó vẫn là chúa tể.
Nhưng mặt đất thì mênh mông mà bầu trài thì bát ngát.
Muốn tồn tại, ếch phải thay đổi cách nhìn, cách sống. Nhưng quen thói cũ, ếch nghênh ngang đi lại khắp nơi và cất tiếng kêu Ồm ộp.
Cơn mưa lớn chỉ làm thay đổi hoàn cảnh sống chứ không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ếch mà nguyên nhân chính là thói kiêu ngạo, chủ quan của nó.
Thông qua truyện, người xưa khuyên chúng ta dù sống trong hoàn cảnh nào thì vẫn phải cố gắng học tập để mở rộng tầm nhìn và tầm hiểu biết. Chúng ta không chỉ học tập ở nhà trường, mà còn phải học nhiều điều trong cuộc sống. Bên cạnh trường học còn có trường đời. Trường đời là biển cả bao la về tri thức và kinh nghiệm. Chúng ta phải biết khắc phục những hạn chế của mình và không ngừng học hỏi để có được trình độ học vấn cao và tầm nhìn xa rộng; không nên chủ quan, kiêu ngạo vì chủ quan! kiêu ngạo dễ dẫn đến thất bại trong sự nghiệp và trong cuộc đời. Chúng ta nên suy ngẫm kĩ về những bài học mà truyện đặt ra, chớ nên tự biến minh thành Ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung.
Xem thêm: Nghị luận xã hội về hiện tượng nghiện game online
|
Topic: Express your feelings after reading the fable of the Frog at the Bottom of the Well.
The story of The Frog at the Bottom of the Well is a fable that borrows from animal stories to hint and secretly talk about human stories.
From the story about how to perceive and evaluate the outside world only through the narrow mouth of a frog's well, the story implicitly criticizes those who have limited knowledge but often boast and brag. At the same time, we advise everyone to try to expand their vision and understanding, not to be subjective or arrogant.
Although short, the story's layout is also divided into two distinct parts. The first part tells about the frog's living situation and little knowledge. Part two tells about the harmful consequences of a subjective and arrogant attitude. From there, lessons can be drawn for everyone.
The content of the story can be summarized as follows: Because he lived for a long time in a small and narrow well, the frog thought that the sky above his head was only as small as a bowl, and he was as majestic as a lord. One year, it rained heavily, the well water overflowed, bringing the frogs out. Getting used to old habits, it frantically looked up at the sky, not paying attention to its surroundings, so it was trampled by a passing buffalo.
The folk author skillfully imagined the story's setting and the character's psychology. Why does the frog have such short-sighted thoughts?
Because the frog lives at the bottom of a small well, looking up from the well, it sees the sky as small as a pot lid. Seeing it like that every day, he affirmed that the sky was only that big.
Under the well for a long time there were only a few small, ordinary animals such as frogs, crabs, snails... Every time the frog made its loud croaking sound, the other animals were frightened.
See more: Describing the New Year's Eve scene at Hoan Kiem Lake. This detail has both realistic and symbolic meaning. The well is small and deep, and when there is a sound, the sound resonates very loudly. Just like in the old countryside, if someone's family had something going on, the whole neighborhood and village would know. The village was far from the king and mandarins, so the tyrants and tyrants spread their power and terror, harassing the good people.
In that very small world, frogs consider themselves lords, so they don't care about anyone else. I have never learned more about another environment, another world, because my vision is very limited, my level of knowledge is meager and low. But the frog is subjective and arrogant, considering himself more talented than everyone. That has become a habit, a bad habit.
An unexpected situation happened that turned everything upside down.
After a heavy rain, the well water overflowed, pushing the frogs out. The frog's living situation has suddenly changed, from a very narrow range, the bottom of a well, to a very wide range, the vast space. At first, the frog thought that the ground was the same as the bottom of that well, the sky above his head was just the sky that he had been used to seeing through the mouth of the well for so long and he was still the lord.
But the ground is vast and the sky is immense.
To survive, frogs must change their way of looking and living. But getting used to old habits, the frog strutted around everywhere and made croaking sounds.
The heavy rain only changes the frog's living situation and is not the cause of the frog's death. The main cause is its arrogance and subjectivity.
Through stories, the ancients advised us that no matter what circumstances we live in, we must still try to study to expand our vision and understanding. We not only learn at school, but also learn many things in life. Besides school, there is also a school of life. Life is a vast ocean of knowledge and experience. We must know how to overcome our limitations and constantly learn to have a high level of education and broad vision; Don't be subjective or arrogant because of subjectivity! Arrogance easily leads to failure in career and in life. We should reflect carefully on the lessons set forth in the story, and not turn ourselves into a frog sitting at the bottom of a well, looking at the sky.
See more: Social commentary on the phenomenon of online game addiction
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sọ Dừa. Bài văn của một bạn học sinh lớp 6 tại Bắc Giang.
Sọ Dừa là truyện cổ về người mang lốt vật, được truyền tụng lâu đời trong dân gian. Truyện thể hiện ước mơ đổi đời, mong muốn những điều tốt đẹp, hạnh phúc sẽ đến với người hiền lành, lương thiện và khát vọng công lí của người xưa. Truyện còn đặt ra bài học về cách đánh giá con người: Đừng nhìn hình thức bên ngoài mà vội nhận xét bản chất bên trong. Bài học ấy được gửi gắm qua hình ảnh chàng Sọ Dừa dị dạng mà tài đức vẹn toàn.
Sự ra đời của Sọ Dừa có nhiều nét khác thường. Bà mẹ đi rừng khát nước, uống nước trong một cái sọ dừa rồi có thai sinh ra đứa con chỉ có cái đầu tròn lông lốc, thân mình, chân tay chẳng có. Bà mẹ chỉ vì thương con nên giữ lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.
Các tinh tiết li kì về sự ra đời và hình dạng khác thường của Sọ Dừa thể hiện sự quan tâm của nhân dân đến một loại người đau khổ nhất, số phận thấp hèn nhất trong xã hội. Đau khổ, thấp hèn từ dáng vẻ bề ngoài, lại bị coi là “vô tích sự”. Hình ảnh cái đầu tròn lông lốc gợi sự thương cảm sâu xa của mọi người đối với nhân vật này.
Tưởng chừng Sọ Dừa là kẻ vô tích sự, nào ngờ chàng lại làm việc giỏi. Chàng thưa với mẹ hãy xin phú ông cho chàng chăn đàn bò đông đúc của ông ta. Thật khó mà tin rằng chàng làm được công việc vất vả ấy. Thế mà chi sau một thời gian, bò con nào con nấy bụng no căng, béo mượt khiến phú ông rất hài lòng.
Chăn bò cực nhọc vô cùng nhưng Sọ Dừa đã biết tạo cho mình một niềm vui… Những lúc đàn bò mải mê gặm cỏ, Sọ Dừa trút bỏ lốt quái dị, biến thành một chàng trai tuấn tú, đu đưa trên chiếc võng đào mắc giữa hai thân cây, ung dung thổi sáo. Thật là thong dong, thư thái. Lao động nặng nhọc đã trở thành niềm vui nhẹ nhàng. Sọ Dừa không những lao động giỏi mà còn tài hoa biết mấy!
Bất ngờ và kì lạ hơn cả là Sọ Dừa nhờ mẹ đi hỏi con gái phú ông về làm vợ. Nghèo hèn, dị dạng, lại làm đầy tớ cho nhà người ta, thế mà chàng lại dám làm điều thiên hạ cho là đũa mốc mà chòi mâm son. Bà mạ ngạc nhiên, thậm chí sợ hãi nhưng rồi cũng phải chiều con. Phú ông bật cười mai mỉa và thách cưới một cách nghiệt ngã, tưởng chừng giàu có cỡ nào cũng không lo nổi. Hắn định bụng trừng trị mẹ con gã đầy tớ kia một cách đích đáng. Vậy mà chỉ hôm sau, Sọ Dừa có đủ sính lễ theo yêu cầu của phú ông: mười mâm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm, một chĩnh vàng cốm. Sọ Dừa không phải là người phàm trần, chàng đã hóa phép ra tất cả.
Những đòi hỏi về sính lễ của phú ông có ý nghĩa như là một thử thách ban đầu mà Sọ Dừa phải vượt qua. Phú ông hoa mắt vì tham, nhưng rõ ràng vẫn ngần ngại, đo đó mới có chi tiết: Lão lúng túng nói với bà cụ: – Để ta hỏi con gái ta, xem có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa không đã.
Điều lão không ngờ đã xảy ra là trong khi hai cô chị bĩu môi chê bai, thi cô út đồng ý lấy Sọ Dừa. Thế là phú ông đành phải nhận lễ và gả cô út cho Sọ Dừa.
Khác với hai cô chị, cô út nhận biết được thực chất vẻ đẹp bên trong của Sọ Dừa nên đã thuận lòng lấy chàng. Trong truyện này, bên cạnh nhân vật chính là Sọ Dừa, cô Út cũng là nhân vật đáng chú ý.
Xem thêm: Em hãy tả lại phiên chợ quê hương emHai cô chị vốn tính ác nghiệt, đỏng đảnh nên thường hắt hủi Sọ Dừa. Cái định kiến sâu sắc về sự thấp kém, về sự dị hình và vô dụng đã khiến hai cô chị không thể nhìn thấy được bản chất tốt đẹp của Sọ Dừa.
Cô Út hiền lành, tính hay thương người. Ngay cả khi chưa biết gì về những điều kì lạ của Sọ Dừa, cô vẫn đối xử với Sọ Dừa rất tử tế. Phép lạ của Sọ Dừa có được là nhờ sự kết hợp của hai yếu tố: thứ nhất là dưới bề ngoài xấu xí, thực chất Sọ Dừa là chàng trai khôi ngô, tài giỏi và thứ hai là lòng thương người của cô Út.
Chính lòng thương người ấy giúp cô có dịp thấy được bên trong cái hình hài sọ dừa lăn lóc là một chàng trai khôi ngô, tài giỏi. Cô út trỏ thành bà Trạng là phần thưởng xứng đáng mà truyện cổ thường dành cho những người nhân hậu.
Như vậy, ở truyện này, giá trị,cao quý của con người không chi thể hiện ở nhân vật Sọ Dừa mà còn thể hiện ở nhân vật cô út. Nhờ cô út, giá trị của Sọ Dừa mới có thể bộc lộ và phát triển.
Cưới được con gái út phú ông, Sọ Dừa đã xóa được cái hố sâu ngăn cách giữa giàu và nghèo, giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới trong hôn nhân thời phong kiến. Bằng tài năng, đạo đức của mình, chàng buộc phú ông phải chịu thua. Đến lúc này, chẳng cần phải tiếp tục giấu mình trong cái lốt xấu xí nữa, Sọ Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô, đẹp đẽ và càng tỏ ra có tài, có đức. Chàng học giỏi, thông minh khác thường và thi đỗ Trạng nguyên rồi được nhà vua cử đi sứ ở nước ngoài. Chàng đã đạt tới tột đỉnh danh vọng cao sang. Sọ Dừa đã đem đến cho người đọc những bất ngờ hết sức thú vị.
Nhưng hạnh phúc của chàng bị đe doạ bởi lòng đố kị và sự ghen ghét của những kẻ lòng dạ xấu xa. Hai cô chị vốn khinh rẻ Sọ Dừa, nay thấy chàng thành đạt lại rắp tâm hãm hại em gái để được làm vợ quan trạng. Mưu mồ của chúng thật hiểm độc nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, Sọ Dừa đã dự đoán và lo xa được tất cả. Trước khi lên đường, chàng chuẩn bị chu đáo cho vợ: con dao, hai quả trứng, hòn đá lửa… để phòng thân.
Quả nhiên, khi nàng út bị hãm hại, các thứ đó đều có ích cho nàng. Dao đâm chết cá kình, đá đánh ra lửa nướng cá làm thức ăn. Đặc biệt là hai quả trứng nở ra hai con gà sớm hôm bầu bạn với nàng và tiếng gáy của chú gà trống đã báo cho quan trạng biết mà ghé vào đảo hoang cứu vợ.
Không chi có tài và trí, Sọ Dừa còn là người nhân đức và độ lượng. Trở về quê hương, chàng mở tiệc mừng sum họp. Mặc dù biết rõ lòng dạ độc ác của hai người chị nhưng chàng không một lời trách cử, chi lặng lẽ đưa vợ ra chào. Hai người chị xấu hổ, nhục nhã, âm thầm trốn đi. Vậy là quan trạng Sọ Dừa có đủ cả tài, đức, trí. Chàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Người xưa đã thành công khi miêu tả hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật Sọ Dừa có sự đối lập đến mức kỳ lạ. Dưới cái lốt kì quái, Sọ Dừa có đủ vẻ đẹp cả về hình dáng lẫn tài năng, phẩm chất tuyệt vời. Sự đối lập ấy khẳng định cái đáng quý là phẩm chất bên trong và đề cao giá trị của con người chân chính.
Trong xã hội phong kiến trọng người giàu sang, khinh kẻ nghèo hèn, người lao động khó lòng vượt qua số phận tăm tối của mình. Cho nên sự biến đổi kì diệu của Sọ Dừa chính là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, thể hiện sức sống và tinh thần lạc quan mãnh liệt của nhân dân lao động. Còn sống là còn hi vọng, còn mơ ước, còn tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của lòng tốt và sự công bằng trước sự độc ác, bất công của cuộc đời.
Xem thêm: Phân tích tâm trạng của người anh trong truyện Bức tranh của em gái tôi
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sọ Dừa. Bài văn của một bạn học sinh lớp 6 tại Bắc Giang.
Sọ Dừa là truyện cổ về người mang lốt vật, được truyền tụng lâu đời trong dân gian. Truyện thể hiện ước mơ đổi đời, mong muốn những điều tốt đẹp, hạnh phúc sẽ đến với người hiền lành, lương thiện và khát vọng công lí của người xưa. Truyện còn đặt ra bài học về cách đánh giá con người: Đừng nhìn hình thức bên ngoài mà vội nhận xét bản chất bên trong. Bài học ấy được gửi gắm qua hình ảnh chàng Sọ Dừa dị dạng mà tài đức vẹn toàn.
Sự ra đời của Sọ Dừa có nhiều nét khác thường. Bà mẹ đi rừng khát nước, uống nước trong một cái sọ dừa rồi có thai sinh ra đứa con chỉ có cái đầu tròn lông lốc, thân mình, chân tay chẳng có. Bà mẹ chỉ vì thương con nên giữ lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.
Các tinh tiết li kì về sự ra đời và hình dạng khác thường của Sọ Dừa thể hiện sự quan tâm của nhân dân đến một loại người đau khổ nhất, số phận thấp hèn nhất trong xã hội. Đau khổ, thấp hèn từ dáng vẻ bề ngoài, lại bị coi là “vô tích sự”. Hình ảnh cái đầu tròn lông lốc gợi sự thương cảm sâu xa của mọi người đối với nhân vật này.
Tưởng chừng Sọ Dừa là kẻ vô tích sự, nào ngờ chàng lại làm việc giỏi. Chàng thưa với mẹ hãy xin phú ông cho chàng chăn đàn bò đông đúc của ông ta. Thật khó mà tin rằng chàng làm được công việc vất vả ấy. Thế mà chi sau một thời gian, bò con nào con nấy bụng no căng, béo mượt khiến phú ông rất hài lòng.
Chăn bò cực nhọc vô cùng nhưng Sọ Dừa đã biết tạo cho mình một niềm vui… Những lúc đàn bò mải mê gặm cỏ, Sọ Dừa trút bỏ lốt quái dị, biến thành một chàng trai tuấn tú, đu đưa trên chiếc võng đào mắc giữa hai thân cây, ung dung thổi sáo. Thật là thong dong, thư thái. Lao động nặng nhọc đã trở thành niềm vui nhẹ nhàng. Sọ Dừa không những lao động giỏi mà còn tài hoa biết mấy!
Bất ngờ và kì lạ hơn cả là Sọ Dừa nhờ mẹ đi hỏi con gái phú ông về làm vợ. Nghèo hèn, dị dạng, lại làm đầy tớ cho nhà người ta, thế mà chàng lại dám làm điều thiên hạ cho là đũa mốc mà chòi mâm son. Bà mạ ngạc nhiên, thậm chí sợ hãi nhưng rồi cũng phải chiều con. Phú ông bật cười mai mỉa và thách cưới một cách nghiệt ngã, tưởng chừng giàu có cỡ nào cũng không lo nổi. Hắn định bụng trừng trị mẹ con gã đầy tớ kia một cách đích đáng. Vậy mà chỉ hôm sau, Sọ Dừa có đủ sính lễ theo yêu cầu của phú ông: mười mâm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm, một chĩnh vàng cốm. Sọ Dừa không phải là người phàm trần, chàng đã hóa phép ra tất cả.
Những đòi hỏi về sính lễ của phú ông có ý nghĩa như là một thử thách ban đầu mà Sọ Dừa phải vượt qua. Phú ông hoa mắt vì tham, nhưng rõ ràng vẫn ngần ngại, đo đó mới có chi tiết: Lão lúng túng nói với bà cụ: – Để ta hỏi con gái ta, xem có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa không đã.
Điều lão không ngờ đã xảy ra là trong khi hai cô chị bĩu môi chê bai, thi cô út đồng ý lấy Sọ Dừa. Thế là phú ông đành phải nhận lễ và gả cô út cho Sọ Dừa.
Khác với hai cô chị, cô út nhận biết được thực chất vẻ đẹp bên trong của Sọ Dừa nên đã thuận lòng lấy chàng. Trong truyện này, bên cạnh nhân vật chính là Sọ Dừa, cô Út cũng là nhân vật đáng chú ý.
Xem thêm: Em hãy tả lại phiên chợ quê hương emHai cô chị vốn tính ác nghiệt, đỏng đảnh nên thường hắt hủi Sọ Dừa. Cái định kiến sâu sắc về sự thấp kém, về sự dị hình và vô dụng đã khiến hai cô chị không thể nhìn thấy được bản chất tốt đẹp của Sọ Dừa.
Cô Út hiền lành, tính hay thương người. Ngay cả khi chưa biết gì về những điều kì lạ của Sọ Dừa, cô vẫn đối xử với Sọ Dừa rất tử tế. Phép lạ của Sọ Dừa có được là nhờ sự kết hợp của hai yếu tố: thứ nhất là dưới bề ngoài xấu xí, thực chất Sọ Dừa là chàng trai khôi ngô, tài giỏi và thứ hai là lòng thương người của cô Út.
Chính lòng thương người ấy giúp cô có dịp thấy được bên trong cái hình hài sọ dừa lăn lóc là một chàng trai khôi ngô, tài giỏi. Cô út trỏ thành bà Trạng là phần thưởng xứng đáng mà truyện cổ thường dành cho những người nhân hậu.
Như vậy, ở truyện này, giá trị,cao quý của con người không chi thể hiện ở nhân vật Sọ Dừa mà còn thể hiện ở nhân vật cô út. Nhờ cô út, giá trị của Sọ Dừa mới có thể bộc lộ và phát triển.
Cưới được con gái út phú ông, Sọ Dừa đã xóa được cái hố sâu ngăn cách giữa giàu và nghèo, giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới trong hôn nhân thời phong kiến. Bằng tài năng, đạo đức của mình, chàng buộc phú ông phải chịu thua. Đến lúc này, chẳng cần phải tiếp tục giấu mình trong cái lốt xấu xí nữa, Sọ Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô, đẹp đẽ và càng tỏ ra có tài, có đức. Chàng học giỏi, thông minh khác thường và thi đỗ Trạng nguyên rồi được nhà vua cử đi sứ ở nước ngoài. Chàng đã đạt tới tột đỉnh danh vọng cao sang. Sọ Dừa đã đem đến cho người đọc những bất ngờ hết sức thú vị.
Nhưng hạnh phúc của chàng bị đe doạ bởi lòng đố kị và sự ghen ghét của những kẻ lòng dạ xấu xa. Hai cô chị vốn khinh rẻ Sọ Dừa, nay thấy chàng thành đạt lại rắp tâm hãm hại em gái để được làm vợ quan trạng. Mưu mồ của chúng thật hiểm độc nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, Sọ Dừa đã dự đoán và lo xa được tất cả. Trước khi lên đường, chàng chuẩn bị chu đáo cho vợ: con dao, hai quả trứng, hòn đá lửa… để phòng thân.
Quả nhiên, khi nàng út bị hãm hại, các thứ đó đều có ích cho nàng. Dao đâm chết cá kình, đá đánh ra lửa nướng cá làm thức ăn. Đặc biệt là hai quả trứng nở ra hai con gà sớm hôm bầu bạn với nàng và tiếng gáy của chú gà trống đã báo cho quan trạng biết mà ghé vào đảo hoang cứu vợ.
Không chi có tài và trí, Sọ Dừa còn là người nhân đức và độ lượng. Trở về quê hương, chàng mở tiệc mừng sum họp. Mặc dù biết rõ lòng dạ độc ác của hai người chị nhưng chàng không một lời trách cử, chi lặng lẽ đưa vợ ra chào. Hai người chị xấu hổ, nhục nhã, âm thầm trốn đi. Vậy là quan trạng Sọ Dừa có đủ cả tài, đức, trí. Chàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Người xưa đã thành công khi miêu tả hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật Sọ Dừa có sự đối lập đến mức kỳ lạ. Dưới cái lốt kì quái, Sọ Dừa có đủ vẻ đẹp cả về hình dáng lẫn tài năng, phẩm chất tuyệt vời. Sự đối lập ấy khẳng định cái đáng quý là phẩm chất bên trong và đề cao giá trị của con người chân chính.
Trong xã hội phong kiến trọng người giàu sang, khinh kẻ nghèo hèn, người lao động khó lòng vượt qua số phận tăm tối của mình. Cho nên sự biến đổi kì diệu của Sọ Dừa chính là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, thể hiện sức sống và tinh thần lạc quan mãnh liệt của nhân dân lao động. Còn sống là còn hi vọng, còn mơ ước, còn tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của lòng tốt và sự công bằng trước sự độc ác, bất công của cuộc đời.
Xem thêm: Phân tích tâm trạng của người anh trong truyện Bức tranh của em gái tôi
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Thạch Sanh.
Hướng dẫn
Truyện Thạch Sanh thể hiện cho vẻ đẹp của trí tuệ, tài năng và tâm hồn của con người Việt Nam. Qua câu chuyện, cha ông muốn nhắc lại một chân lí đúng đắn rằng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng cái ác, người tốt bao giờ cũng đánh bại kẻ xấu.
Thạch Sanh là truyện kể về người dũng sĩ thật thà mộc mạc, có sức mạnh phi thường có thể chém chằn tinh, diệt đại bàng, cứu người bị hại. Ngoài sức mạnh phi thường ấy, tiếng đàn của chàng có thể vạch mặt kẻ vong ơn bội nghĩa và làm nhụt khí quân xâm lược.
Thông qua các nhân vật trong truyện câu truyện thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân nghĩa, yêu hòa bình của nhân dân ta. Trong truyện có nhiều chi tiết độc đáo và giàu ý nghĩa (như sự ra đời kì lạ của Thạch Sanh, cung tên vàng, cây đàn thần, niêu cơm thần…). Có thể nói, trong những nhân vật chính diện mà truyện cổ tích Việt Nam đã xây dựng nên thì Thạch Sanh là nhân vật đẹp nhất và tiêu biểu nhất.
Nhân dân đã tưởng tưởng ra cái nguồn gốc xuất thân của chàng Thạch Sach thật kì lạ. Xét về nguồn gốc thì Thạch Sanh không phải người thường. Theo truyện kể thì vợ chồng nhà họ Thạch (ở Cao Bằng), tuổi đã già mà chưa có con. Thấy họ tốt bụng, Ngọc Hoàng sai thái tử xuống trần gian đầu thai làm con. Bà mẹ mang thai nhiều năm mới sinh ra Thạch Sanh. Lớn lên, chàng lại được các vị thần dạy cho đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông. Như vậy Thạch Sanh là "người trời".Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể
Những chi tiết về sự ra đời và lớn lên khác thường của Thạch Sanh có ý nghĩa tô đậm tính chất kì lạ, đẹp đẽ cho nhân vật lí tưởng làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện. Nhân dân quan niệm rằng, nhân vật ra đời và lớn lên kì lạ như vậy tất sẽ có khả năng, phẩm chất phi thường và sẽ lập được nhiều chiến công lừng lẫy.
Thạch Sanh là người trời nhưng khi làm con trong gia đình nông dân chàng đã thành người cõi trần, có cha mẹ, họ tên, quê quán, nghề nghiệp, cụ thể, rõ rãng. Cuộc đời và số phận Thạch Sanh rất gần gũi với nhân dân.
Thạch Sanh mồ côi cha từ khi còn ở trong bụng mẹ, rồi vừa mới lớn mất luôn cả mẹ. Chàng sống một thân một mình từ bé. Đó là đặc tính phổ biến của các nhân vật chính diện trong truyện cổ tích thần kì. Ngoài đặc điểm ấy, nhân vật Thạch Sanh còn có tính chất của nhân vật thần thoại và nhân vật anh hùng trong truyền thuyết.
Thạch Sanh sống trong túp lều cũ ở dưới gốc đa. Cả gia tài chỉ có một lưỡi rìu mà cha để lại. Thân cô, thế cô, chàng phải chịu bao khó khăn thử thách của cuộc đời. Chàng kết thân với Lí Thông và coi mẹ con Lí Thông như gia đình của mình. Thế nhưng chàng bị mẹ con Lí Thông lừa đi canh miếu thờ để thế mạng. Bằng tài năng của mình, Thạch Sanh đã diệt được chằn tinh.
Sau đó là câu chuyện công chúa bị đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh đã xuống hang tiêu diệt đại bàng, cứu được công chúa. Chàng bị Lí Thông cố tình hãm hại, lấp mất cửa hang. Trong khi tìm lối thoát, chàng lại cứu được con vua Thủy Tề và được tặng cây đàn thần. Trở về gốc đa, bị hồn của chằn tinh và đại bàng báo thù, bọn chúng bị Thạch Sanh hạ ngục. Nỗi oan của chàng được giải. Mẹ con Lí Thông độc ác bị trừng trị, biến thành bọ hung. Thạch Sanh được kết hôn với công chúa. Hoàng tử mười tám nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn nay lấy làm tức giận, họp nhau kéo quân sang đánh. Thạch Sanh lấy đàn thần ra gảy, quân sĩ mười tám nước rút lui. Thạch Sanh và công chúa từ đó sống hạnh phúc bên nhau.Xem thêm: Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, có tầm vóc tư tưởng cao đẹp và là một áng văn chính luận mẫu mực.
Những khó khăn, trắc trở với chàng Thạch Sanh cứ tăng dần, thử thách sau bao giờ cũng gay go hơn thử thách trước. Thạch Sanh đã vượt qua tất cả bằng tài năng, phẩm chất và sự giúp đỡ của các phương tiện thần kì. Điều đó thể hiện một lời khẳng định rằng, cái ác dù có mưu mô xảo quyệt đến đâu cũng không thể thắng được cái thiện cái đúng đắn.
Thạch Sanh được xây dựng lên là một chàng trai tuy nghèo nhưng có đủ ba điều quý giá ban đầu: sức khỏe, nghị lực và tài năng; có công cụ và mảnh đất quê hương để từ đó làm nên tất cả.Ở nhân vật Thạch Sanh, yếu tố bình thường gắn liền với yếu tố phi thường, sức người kết hợp với sức thần một cách chặt chẽ, hài hòa.Những lần bị Lí Thông và yêu quái hãm hại, Thạch Sanh không được Tiên, Bụt hiện lên giúp đỡ nhưng chàng lại có trong tay những phương tiện kì diệu cung vàng, đàn thần. Điều này thể hiện ý tưởng sâu xa của nhân dân, tài năng của chàng là tài năng của con người kết hợp với sức mạnh của thần thánh.
Tiếng đàn thần vô cùng kì diệu đã giải oan cho Thạch Sanh, vạch tội Lí Thông, làm cho công chúa hết câm, khiến cho đội quân xâm lược của mười tám nước phải mềm lòng nhụt chí, buông giáo xin hàng. Đó là tiếng nói nhân nghĩa và công lí, đại diện cho cái thiện, cho tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân.Xem thêm: Anh (chị) suy nghĩ gì về việc “chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới”?
Với cây đàn thần trong tay, Thạch Sanh được miêu tả như một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ cuộc sống yên vui cho mọi người.
Giặc chấp nhận lui binh, được Thạch Sanh dọn một bữa cơm thết đãi. Niêu cơm thần kì của Thạch Sanh cứ vơi lại đầy, làm cho quân sĩ mười tám nước lúc đầu coi thường và chế giễu, sau đó phải ngạc nhiên khâm phục. Niêu cơm thần kì ấy tượng trưng cho sức mạnh tiềm tàng và tấm lòng nhân đạo cao cả, rộng lớn của nhân dân ta.
Cái kết có hậu của câu chuyện đã đáp lại cái ao ước đổi đời cho những con người nghèo khổ nhưng có tấm lòng lương thiện của nhân dân ta. Đó là thành quả đáng được hưởng sau những khó khăn thử thách mà con người đã trải qua. Câu chuyện một lần nữa khẳng định triết lí sống ngàn đời của cha ông ta, cái thiện luôn thắng cái ác, ở hiền gặp lành.
Nguồn:
|
Express your feelings about the story Thach Sanh.
Instruct
The story Thach Sanh represents the beauty of the intelligence, talent and soul of Vietnamese people. Through the story, our father wants to reiterate the correct truth that good always wins over evil, good people always defeat bad people.
Thach Sanh is a story about an honest and simple warrior with extraordinary strength who can kill demons, kill eagles, and save victims. In addition to that extraordinary power, the sound of his instrument can expose ungrateful people and discourage invaders.
Through the characters in the story, the story expresses the dreams, beliefs about morality, social justice and the ideals of humanity and love of peace of our people. In the story, there are many unique and meaningful details (such as the strange birth of Thach Sanh, the golden bow and arrow, the magic instrument, the magic rice pot...). It can be said that among the protagonists that Vietnamese fairy tales have created, Thach Sanh is the most beautiful and typical character.
People thought that the origin of Thach Sach was very strange. In terms of origin, Thach Sanh is not an ordinary person. According to the story, the Thach family (in Cao Bang) is old and has no children. Seeing that they were kind, the Jade Emperor sent the crown prince to earth to reincarnate as a son. The mother was pregnant for many years before giving birth to Thach Sanh. Growing up, he was taught all martial arts and magical powers by the gods. Thus, Thach Sanh is a "heavenly person". See more: Write a paragraph analyzing the relationship between parts and the whole
The details about Thach Sanh's unusual birth and upbringing are meant to highlight the strange and beautiful nature of the ideal character, increasing the appeal of the story. People believe that a character born and raised in such a strange way will have extraordinary abilities and qualities and will accomplish many famous victories.
Thach Sanh is a heavenly person, but when he became a child in a farmer's family, he became a human being, with parents, full name, hometown, profession, specific and clear. Thach Sanh's life and fate are very close to the people.
Thach Sanh lost his father when he was still in his mother's womb, and then lost his mother as soon as he grew up. He lived alone since childhood. That is a common characteristic of main characters in magical fairy tales. In addition to that characteristic, the character Thach Sanh also has the characteristics of a mythical character and a heroic character in legends.
Thach Sanh lives in an old hut under a banyan tree. The entire inheritance consisted of only one ax blade that his father left behind. Her body, her body, his body must endure many difficulties and challenges of life. He became friends with Ly Thong and considered Ly Thong and his mother as his family. However, he was tricked by Ly Thong and his mother into guarding the temple to save his life. With his talent, Thach Sanh destroyed the ogres.
Then there is the story of the princess being snatched away by a giant eagle. Thach Sanh went down to the cave to destroy the eagle and save the princess. He was intentionally harmed by Ly Thong, blocking the cave entrance. While looking for a way out, he saved King Thuy Te's son and was given a magic instrument. Returning to the banyan tree, they were avenged by the spirits of the ogre and the eagle, and they were taken to prison by Thach Sanh. His injustice was resolved. Ly Thong's mother and daughter were punished and turned into scarab beetles. Thach Sanh was married to the princess. The princes of the eighteen vassal countries who had previously been rejected by the princess were angry and gathered together to attack. Thach Sanh took out the lute to play, and the soldiers of eighteen countries retreated. Thach Sanh and the princess have since lived happily together. See more: The Declaration of Independence is a document of great historical value, noble ideological stature and an exemplary political essay.
The difficulties and obstacles for Thach Sanh kept increasing, each challenge was always more difficult than the previous one. Thach Sanh overcame everything with his talent, qualities and the help of miraculous means. That represents an assertion that evil, no matter how cunning it is, cannot win over good and right.
Thach Sanh was built as a poor guy but had three valuable initial things: health, energy and talent; has the tools and the homeland from which to make everything. In the character Thach Sanh, ordinary elements are closely associated with extraordinary elements, human strength combined with spiritual strength in a close and harmonious way. These When he was harmed by Ly Thong and a monster, Thach Sanh was not helped by the Fairy or the Buddha, but he had in his hands the magical means of a golden bow and an altar. This represents the profound idea of the people, his talent is human talent combined with divine power.
The extremely miraculous sound of the divine organ exonerated Thach Sanh, exposed Ly Thong's crime, made the princess no longer mute, and caused the invading army of eighteen countries to become discouraged and surrender. It is the voice of humanity and justice, representing goodness and the peace-loving spirit of the people. See more: What do you think about "preparing for the new century"?
With the magic instrument in hand, Thach Sanh is portrayed as a talented artist, a hero in the fight against evil and evil to protect a peaceful and happy life for everyone.
The enemy agreed to retreat, and Thach Sanh prepared a meal for them. Thach Sanh's magical rice pot kept filling up, making the soldiers of eighteen countries at first despise and mock, then marvel and admire. That magical pot of rice symbolizes the potential strength and noble, vast humanity of our people.
The happy ending of the story responded to our people's desire to change the lives of poor but kind-hearted people. That is a worthy achievement after the difficulties and challenges that people have gone through. The story once again affirms the eternal philosophy of life of our ancestors, good always overcomes evil, good meets goodness.
Source:
|
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng.
Trong xã hội có rất nhiều nghề và làm nghề nào cũng phải có đạo đức. Đặc biệt có hai nghề bắt buộc phải đặt đạo đức lên hàng đầu là dạy học và làm thuốc. Truyện Thầy thuốc giỏi cổi nhất ở tấm lòng của Hồ Nguyên Trưng (con trai trưởng của vua Hồ Quý Ly), viết vào khoảng nửa dẩu thế ki XV trên dất Trung Quốc kể về một bậc lương y tinh thông nghề nghiệp và giàu lòng nhân đạo.
Truyện ca ngợi phẩm chất, cao quý của Thái y lệnh Phạm Bân: hết lòng vì dân nghèo, quên mình để cứu người, bất chấp quyền uy vua chúa cũng như sự nguy hiểm đến tính mạng bản thân.
Truyện gồm ba đoạn có liên quan chặt chẽ với nhau trong việc bộc lộ chủ đề của truyện. Đoạn đầu giới thiệu tên tuổi, chức vị, công đức của Phạm Bân. Đoạn giữa kể về một tình huống gay cấn có tính chất thử thách, qua đó y đức của ông được bộc lộ rõ nhất. Đoạn cuối nhấn mạnh y đức sáng ngời của bậc lương y đã truyền cho con cháu, giúp con cháu giữ vững nghiệp nhà, tiếp tục cứu đời.
Công đức của lương y Phạm Bân rất lớn, không phải thầy thuốc nào cũng làm được như ông. Ông đã dốc toàn tâm, toàn ý, toàn lực để cứu người mà không nề hà, không tính toán thiệt hơn.
Phạm Bân đã đem hết tiền của trong nhà ra mua thuốc tốt, tích trữ thóc gạo để vừa nuôi ăn vừa chữa bệnh cho người nghèo khổ. Dẫu bệnh nặng đến đâu chăng nữa ống cũng không né tránh. Lương y làm nhà cho họ ở, chu cấp cơm cháo đầy đủ và chữa bệnh không lấy tiền, ông đã cứu sống hơn ngàn người trong những năm đói kém, dịch bệnh.
Nhưng điều làm ta cảm phục nhất là việc ông đã quyết tâm cứu sống người đàn bà nghèo trước rồi sau đó mới chữa bệnh cho quý nhân trong cung vua, dù đã có lệnh của vua.
Thái độ tức giận cùng với lời nói có ý đe dọa của quan Trung sứ: – Phận làm tôi, sao được như vậy? Ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu tính mạng mình chăng? Đã đẩy lương y Phạm Bân vào một tinh huống éo le khó xử.
Xem thêm: Soạn bài Hoạt động tập thểĐây là một thử thách gay go buộc ông phải có sự lựa chọn đúng đắn giữa việc cứu người dân thường sắp chết với việc thực hiện phận sự của một kẻ bề tôi.
Thái độ dứt khoát và cương quyết của ông chứng tỏ uy quyền vua chúa không thắng nổi y đức của một bậc lương y chân chính, ông không sợ mắc tội “phạm thượng", không sợ nguy hiểm đến tính mạng mà chỉ nghĩ đến trách nhiệm của người thầy thuốc, ông đã vượt qua thử thách một cách nhẹ nhàng.
Phạm Bân không chỉ có trái tim nhân hậu và bản lĩnh cứng cỏi mà còn tỏ ra rất thông minh trong ứng xử. Câu nói: Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trồng vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông cậy vào chúa thượng, may ra thoát đã nhấn mạnh đến trách nhiệm nặng nề của người thầy thuốc, khơi dậy tình thương và lòng bao dung của nhà vua và tỏ rõ lòng thành của một bề tôi. Nếu như nhà vua là người có lương tâm, chắc chắn sẽ cảm động và không trị tội ông.
Quả thật, lúc đầu nhà vua tức giận, nhưng sau khi nghe Thái y lệnh trình bày thì không những hết giận mà còn ban khen. Điều dó chứng tỏ Trần Anh Vương cũng là một ông vua sáng suốt và nhân đức.
Phạm Bân lấy tấm lòng chân thành của mình để tấu trình điều hơn lẽ thiệt, từ đó thuyết phục được nhà vua. Đây là thắng lợi vẻ vang của y đức, của bản lĩnh, trí tuệ và lòng nhân ái.
Kết thúc truyện, tác giả kể về con cháu cửa Thái y lệnh và sự ngợi khen của người đời đối với gia đình ông. Sự nghiệp của lương y Phạm Bân và con cháu ông đã chứng minh cho quan niệm Ở hiền gặp lành?. Tên tuổi của ông cón lưu truyền mãi trong dân gian.
Truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng mang tính chất giáo huấn khá rõ. Cách viết gần với cách viết kí, viết sử, nghĩa là thiên về ghi chép chuyện người thật việc thật mà không cần thêm thắt. Truyện có bố cục chặt chẽ, hợp lí và cách dẫn dắt gây hứng thú cho người đọc. Tác giả đi chọn lọc và nhấn mạnh vào một tình huống gay cấn (đó là chỉ tiết có thật) để qua đó tính cách nhân vật chính được bộc lộ rõ ràng, gây ấn tượng khó quên. Trong khi thể hiện tính cách nhân vật, tác giả còn tạo ra những lời đối thoại sắc sảo, chứa dựng ý tứ sâu xa. Do đó, truyện vừa có giá trị nội dung lớn, vừa có già tri nghệ thuật cao.
Xem thêm: Đọc truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” của Puskin và kể lại theo ngôi thứ nhất lời của ông lão đánh cá
|
Topic: Please write an essay expressing your feelings after reading the story The best doctor is in the heart.
In society, there are many professions and every profession must be ethical. In particular, there are two professions that are required to put ethics first: teaching and medicine. The story The Best Doctor in the Heart of Ho Nguyen Trung (eldest son of King Ho Quy Ly), written in the second half of the 15th century in China, tells about a physician who was skilled in his profession and rich in humanity. religion.
The story praises the noble qualities of Royal Physician Pham Ban: wholeheartedly serving the poor, sacrificing himself to save people, despite the authority of kings and the danger to his own life.
The story consists of three paragraphs that are closely related to each other in revealing the story's theme. The first paragraph introduces Pham Ban's name, position, and merits. The middle part tells the story of a dramatic and challenging situation, through which his medical ethics are most clearly revealed. The last paragraph emphasizes the brilliant medical ethics that the physician has passed on to his children and grandchildren, helping them maintain the family's karma and continue to save lives.
The merit of physician Pham Ban is very great, not every physician can do what he does. He devoted all his heart, all his heart, and all his strength to save people without any hesitation or calculating the pros and cons.
Pham Ban used all the money in his family to buy good medicine and hoard rice to both feed and treat the poor. No matter how serious the illness is, he will not avoid it. The physician built houses for them to live in, provided adequate food and porridge, and treated patients for free. He saved more than thousands of lives during years of famine and epidemics.
But what impresses me most is the fact that he was determined to first save the poor woman's life and then treat the nobleman in the king's palace, despite the king's orders.
The angry attitude and threatening words of the Lieutenant Governor: - Being a servant, how can it be like that? Are you planning to save other people's lives without saving your own? Pushed physician Pham Ban into an awkward situation.
See more: Prepare lessons for group activities. This is a tough challenge that forces him to make the right choice between saving dying civilians and performing his duty as a servant.
His decisive and determined attitude proves that the royal authority cannot overcome the medical ethics of a true physician. He is not afraid of committing the crime of "blasphemy", not afraid of danger to his life, but only thinks of responsibility. As a physician, he overcame the challenge with ease.
Pham Ban not only has a kind heart and strong character, but also appears to be very intelligent in his behavior. Saying: If the other person is not saved, he will die in an instant, not knowing where to plant. The little mandarin's life still depends on the lord, and if he is lucky enough to escape, it emphasizes the heavy responsibility of the physician, arouses the king's love and tolerance, and shows the sincerity of a servant. If the king were a conscientious person, he would certainly be moved and not punish him.
Indeed, at first the king was angry, but after hearing the royal physician's orders, he not only lost his anger but also gave him praise. This proves that Tran Anh Vuong was also a wise and virtuous king.
Pham Ban used his sincerity to present the truth, thereby convincing the king. This is a glorious victory of medical ethics, bravery, intelligence and compassion.
At the end of the story, the author tells about the descendants of the Thai physician and people's praise for his family. The careers of physician Pham Ban and his descendants have proven the concept of good health. His name has been passed down forever among the people.
The story "The Best Doctor" is at heart and has a clear educational nature. The writing style is close to the way of writing memoirs and history, meaning it is more about recording real people's stories and real events without adding anything. The story has a tight, logical layout and a way of leading that interests the reader. The author selects and emphasizes a dramatic situation (which is a true detail) so that the main character's personality is clearly revealed, making an unforgettable impression. While expressing the character's personality, the author also creates sharp dialogues, containing profound meanings. Therefore, the story has both great content value and high artistic knowledge.
See more: Read the story "The Old Fisherman and the Goldfish" by Pushkin and retell the words of the old fisherman in the first person
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về tình yêu quê hương đất nước qua hai tác phẩm “Sài Gòn tôi yêu” (Minh Hương) và “Mùa xuân của tôi” (Vũ Bằng)
Gợi ý
Nhà phê bình Hoài Thanh từng viết: “Văn chương… luyện những tình cảm ta sẵn có”. Một trong những thứ tình cảm mà văn chương đã tôi luyện cho con ngựời đó là tình yêu quê hương đất nước. Qua hai văn bản "Sài Gòn của tôi" và "Mùa xuân của tôi" tác giả Minh Hương và Vũ Bằng chẳng những đã thê hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết mà.còn “luyện” sâu cho độc giả tình cảm thiêng liêng, quý báu đó.
"Sài Gòn tôi yêu" là mối tình dai dẳng bền chặt đối với Sài Gòn, là tình yêu và niềm tự hào của tác giả Minh Hương. Cảnh sắc thiên nhiên, khí hậu và thời tiết, cư dân ở đây được tác giả cảm nhận rất sâu sắc. Ngay từ đầu bài văn, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp đặc trưng của Sài Gòn qua cách đối chiếu, so sánh và ẩn dụ khéo léo. Đối chiếu ba trăm năm tuổi của Sài Gòn với bôn ngàn năm lịch sử của đất nước, nhà văn đã khẳng định "Cái đô thị này còn xuân chán". Và hình ảnh so sánh độc đáo "Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà", hình ảnh ẩn dụ: Cái đô thị ngọc ngà này…". Thành phố Sài Gòn quả thực rất tươi trẻ, đang độ xuân xanh, khỏe khoắn vươn cao tràn trề sức sống nhưng lại theo gọn trong hình hài của ngọc ngà, quý hiếm. Bên cạnh đó còn có những cụm từ "còn", "cứ", "đương"… biểu hiện rõ sự trỗi dậy sức xuân, tràn đầy hứa hẹn, tình cảm mến yêu với mảnh đất này. Sự phát hiện và tình cảm của tác giả phong phú, tinh tế và nồng nàn hơn bởi tình cảm đang trỗi dậy, không nén nối cảm xúc của mình. Đó là tình yêu chân thành mãnh liệt, đắm say, cuồng nhiệt đôi với thành phố Sài Gòn. Đặc biệt, tác giả đã khéo léo trong việc sử dụng biện pháp so sánh, phép liệt kê và đại từ "yêu" được nhắc lại tới sáu lần kết hợp với nhịp văn nhanh gấp. "Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông ôm ấp mốì tình đầu chứa nhiều ngang trái". Thành phô’ Sài Gòn như một người bạn tình, một người bạn tri âm tri kỉ. Qua sự cảm nhận về khí hậu của Sài Gòn, tác giả như một lần nữa muốn nhấn mạnh tình cảm đó. Không yêu, không đắm say thì sẽ không phát hiện ra những gì riêng biệt nhất của Sài Gòn. Nào là yêu "nắng sớm, yêu những buổi chiều lộng gió. Nào là đang ui ui bỗng trong vắt như thủy tinh. Sự thay đối đột ngột, bất ngờ của thời tiết kỳ diệu làm sao! Trong thời tiết ấy, nhịp điệu cuộc sống của thành phố lúc thì náo động, dập dìu xe cộ lúc thì "đêm khuya thưa thớt tiếng ồn hay" cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương. Tất cả các biện pháp nghệ thuật trên đều nhấn mạnh tình cảm của tác giả và thể hiện sự phong phú nhiều vẻ của thiên nhiên, khí hậu Sài Gòn.Xem thêm: Em hãy viết bài văn ngắn tóm tắt giá trị hiện thực và nhân đạo của đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” (trích vở chèo “Quan Âm Thị Kính”) Không chỉ yêu thiên nhiên, khí hậu nơi đây mà đó còn là sự cảm nhận về phong cách người Sài Gòn. Đó là: tự nhiên, chân thành, bộc trực, dễ cỏi mở, mạnh bạo mà vẫn ý nhị. Bằng sự hiểu biết lâu bền của mình về con người Sài Gòn suốt năm mươi năm được gần gũi họ. Những nét tính cách ấy được thế hiện qua đời sống hàng ngày và hoàn cảnh thử thách của lịch sử: bất khuất, dũng cảm, kiên cường… tạo nên phong cách riêng của người Sài Gòn. Dù trong mỗi câu văn không nhắc đến từ "yêu" nào nhưng đã bộc lộ biết bao tình cảm mến yêu, tình nghĩa đối với mảnh đất thân yêu máu thịt này. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, sự cảm nhận độc đáo và tinh tế của tác giả thành phố Sài Gòn hiện lên thật năng động, trẻ trung và xiết bao yêu thương! Qua sự gắn bó lâu bền, am hiểu tường tận về thành phô của mình tác giả đã gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm với mảnh đất quê hương nhưng tình cảm nồi bật nhất trong từng đoạn văn, câu văn là tình yêu quê hương đất nước. Có lẽ rằng, xuất phát từ tình cảm chân thành này mà tác giả mới viết nên văn bản độc đáo "Sài gòn tôi yêu".
Không bao quát mọi mặt đời sống xã hội và thiên nhiên nơi mảnh đất mình yêu quý như tác giả Minh Hương, trong đoạn trích "Mùa xuân của tôi", nhà văn Vũ Bằng tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của người con xa quê.Xem thêm: Cảm nhận về bài ca dao: Khăn thương nhớ ai…Lo vì một nỗi không yên một bể… Tác giả đưa người đọc ngược về quá khứ, trở lại với những tháng năm sông ở Hà Nội của mình đế hưởng thụ tất cả sức sống tràn trề của mùa xuân; đế lớn lên, trẻ lại cùng mùa xuân xứ sở. "Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của – Hà Nội". Nhà văn Vũ Bằng đã nhớ về quê hương bằng cầu văn ngân nga, như những tiếng reo vui như thế. Mùa xuân cúa riêng tôi — mùa xuân của Bắc Bộ, mùa xuân của Hà Nội là mùa xuân gần hơn nữa; riêng tư hơn nữa bởi mùa xuân đó chính là mùa xuân của quê hương mà tác giả ngày đêm đau đáu hướng về. Bằng phép điệp từ "mùa xuân" được nhắc đi nhắc lại bốn lần trong một câu văn như khơi nguồn cho mạch cảm xúc dâng trào, nối liền hiện tại với quá khứ, đưa tác giả từ miền Nam xa xôi trở về sông trong lòng của mùa xuân Hà Nội quê hương yêu dấu. Nhớ về mùa xuân của Hà Nội, nhớ về mùa xuân của quê mình, tác giả sứ dụng liên tiếp các điệp từ làm nổi bật cái đặc trưng của mùa xuân Thủ đô yêu dấu. Đó là tiết trời “gió lành lạnh”, “mưa riêu riêu”, tiếng trống của đêm hội chèo vang lên trong đêm xanh, những câu hát tỏ tình ngọt ngào của đôi trai gái yêu nhau vọng lại,… Nhiều sự vật như từ mùa đông còn vương lại nhưng lại có cái ấm áp, nồng nàn của khí xuân. Tất cả reo vui rằng mùa xuân quê hương đã về, không khí êm đềm trong trẻo mơn man đã tràn ngập bao trùm lên mọi cảnh vật.
Mùa xuân đã khơi dậy ở con người ta sức sống tiềm tàng và làm cho nó trở nên mạnh mẽ. Đó là sự biểu hiện của sức sống: Không uống rượu rồi cũng phải phát say, nhựa sống như trong người căng lên như lộc của loài nai như lộc của mầm non tuôn trào. sức sống kỳ diệu của mùa xuân – một mùa xuân thần thánh tiềm chứa sức mạnh thiêng liêng, huyền bí. Tất cả như đang hồi sinh, khơi dậy khát vộng cao đẹp nhất của con người đó là khát khao sông và yêu thương. Mùa xuân cùng với ngày tết cũng là dịp sum họp của gia đình, nó thôi thúc trong lòng người tình cảm gia đình gắn bó, hướng về cội nguồn. Với những giọng điệu thiết tha và dòng chảy cảm xúc tuôn trào mạnh mẽ, tác giả đã giúp ta cảm nhận được những điều kỳ diệu của mùa xuân đem đến: nó tiếp thêm cho ta tình yêu quê hương, khơi dậy trong ta những giá trị tinh thần cao quý. Một mùa xuân đẹp quá, vui quá, một mùa xuân ngọt lành trong trẻo và đáng yêu làm sao. Trên mảnh đất hôm nay, người chiến sĩ phải rời xa quê hương, sinh sống trên đất khách quê người thì tình yêu quê hương, nỗi nhớ da diết quê hương sẽ không phai mờ trong anh.Xem thêm: Nghị luận xã hội về văn hóa cảm ơn Hai nhà văn phải thân thiết, gắn bó với mảnh đất quê hương đến nhường nào thì mới viết nên những áng văn đặc sắc đến thế. Hai văn bản gợi lên trong ta biết bao cảm xúc nhưng, tình yêu quê hương đất nước của tác giả được thế hiện sâu lắng và đậm nét qua sự cảm nhận về thành phố Sài Gòn và mùa xuân Hà Nội. Hai bài tùy bút đã giúp người đọc tận hưởng được những tình cảm nồng nàn, đằm thắm và tình yêu bền chặt, thủy chung với mùa xuân quê hương và thành phố yêu dấu. Đó là tình yêu mến, tự hào về quê hượng, là sự ngưỡng mộ, đắm say mùa xuân Hà Nội. Cùng là tình yêu thương quê hương nhưng sự biểu hiện lại có những nét riêng đặc biệt không thế trộn lẫn.
Tình yêu quê hương đất nước là tiếng nói chung mà hai văn bản muôn gứi gắm đến chúng ta và để nhắc nhở chúng ta rằng:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.
(Đỗ Trung Quân)
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ của em về tình yêu quê hương đất nước qua hai tác phẩm “Sài Gòn tôi yêu” (Minh Hương) và “Mùa xuân của tôi” (Vũ Bằng)
Gợi ý
Nhà phê bình Hoài Thanh từng viết: “Văn chương… luyện những tình cảm ta sẵn có”. Một trong những thứ tình cảm mà văn chương đã tôi luyện cho con ngựời đó là tình yêu quê hương đất nước. Qua hai văn bản "Sài Gòn của tôi" và "Mùa xuân của tôi" tác giả Minh Hương và Vũ Bằng chẳng những đã thê hiện tình yêu quê hương đất nước tha thiết mà.còn “luyện” sâu cho độc giả tình cảm thiêng liêng, quý báu đó.
"Sài Gòn tôi yêu" là mối tình dai dẳng bền chặt đối với Sài Gòn, là tình yêu và niềm tự hào của tác giả Minh Hương. Cảnh sắc thiên nhiên, khí hậu và thời tiết, cư dân ở đây được tác giả cảm nhận rất sâu sắc. Ngay từ đầu bài văn, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp đặc trưng của Sài Gòn qua cách đối chiếu, so sánh và ẩn dụ khéo léo. Đối chiếu ba trăm năm tuổi của Sài Gòn với bôn ngàn năm lịch sử của đất nước, nhà văn đã khẳng định "Cái đô thị này còn xuân chán". Và hình ảnh so sánh độc đáo "Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà", hình ảnh ẩn dụ: Cái đô thị ngọc ngà này…". Thành phố Sài Gòn quả thực rất tươi trẻ, đang độ xuân xanh, khỏe khoắn vươn cao tràn trề sức sống nhưng lại theo gọn trong hình hài của ngọc ngà, quý hiếm. Bên cạnh đó còn có những cụm từ "còn", "cứ", "đương"… biểu hiện rõ sự trỗi dậy sức xuân, tràn đầy hứa hẹn, tình cảm mến yêu với mảnh đất này. Sự phát hiện và tình cảm của tác giả phong phú, tinh tế và nồng nàn hơn bởi tình cảm đang trỗi dậy, không nén nối cảm xúc của mình. Đó là tình yêu chân thành mãnh liệt, đắm say, cuồng nhiệt đôi với thành phố Sài Gòn. Đặc biệt, tác giả đã khéo léo trong việc sử dụng biện pháp so sánh, phép liệt kê và đại từ "yêu" được nhắc lại tới sáu lần kết hợp với nhịp văn nhanh gấp. "Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông ôm ấp mốì tình đầu chứa nhiều ngang trái". Thành phô’ Sài Gòn như một người bạn tình, một người bạn tri âm tri kỉ. Qua sự cảm nhận về khí hậu của Sài Gòn, tác giả như một lần nữa muốn nhấn mạnh tình cảm đó. Không yêu, không đắm say thì sẽ không phát hiện ra những gì riêng biệt nhất của Sài Gòn. Nào là yêu "nắng sớm, yêu những buổi chiều lộng gió. Nào là đang ui ui bỗng trong vắt như thủy tinh. Sự thay đối đột ngột, bất ngờ của thời tiết kỳ diệu làm sao! Trong thời tiết ấy, nhịp điệu cuộc sống của thành phố lúc thì náo động, dập dìu xe cộ lúc thì "đêm khuya thưa thớt tiếng ồn hay" cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương. Tất cả các biện pháp nghệ thuật trên đều nhấn mạnh tình cảm của tác giả và thể hiện sự phong phú nhiều vẻ của thiên nhiên, khí hậu Sài Gòn.Xem thêm: Em hãy viết bài văn ngắn tóm tắt giá trị hiện thực và nhân đạo của đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” (trích vở chèo “Quan Âm Thị Kính”) Không chỉ yêu thiên nhiên, khí hậu nơi đây mà đó còn là sự cảm nhận về phong cách người Sài Gòn. Đó là: tự nhiên, chân thành, bộc trực, dễ cỏi mở, mạnh bạo mà vẫn ý nhị. Bằng sự hiểu biết lâu bền của mình về con người Sài Gòn suốt năm mươi năm được gần gũi họ. Những nét tính cách ấy được thế hiện qua đời sống hàng ngày và hoàn cảnh thử thách của lịch sử: bất khuất, dũng cảm, kiên cường… tạo nên phong cách riêng của người Sài Gòn. Dù trong mỗi câu văn không nhắc đến từ "yêu" nào nhưng đã bộc lộ biết bao tình cảm mến yêu, tình nghĩa đối với mảnh đất thân yêu máu thịt này. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, sự cảm nhận độc đáo và tinh tế của tác giả thành phố Sài Gòn hiện lên thật năng động, trẻ trung và xiết bao yêu thương! Qua sự gắn bó lâu bền, am hiểu tường tận về thành phô của mình tác giả đã gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm với mảnh đất quê hương nhưng tình cảm nồi bật nhất trong từng đoạn văn, câu văn là tình yêu quê hương đất nước. Có lẽ rằng, xuất phát từ tình cảm chân thành này mà tác giả mới viết nên văn bản độc đáo "Sài gòn tôi yêu".
Không bao quát mọi mặt đời sống xã hội và thiên nhiên nơi mảnh đất mình yêu quý như tác giả Minh Hương, trong đoạn trích "Mùa xuân của tôi", nhà văn Vũ Bằng tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của người con xa quê.Xem thêm: Cảm nhận về bài ca dao: Khăn thương nhớ ai…Lo vì một nỗi không yên một bể… Tác giả đưa người đọc ngược về quá khứ, trở lại với những tháng năm sông ở Hà Nội của mình đế hưởng thụ tất cả sức sống tràn trề của mùa xuân; đế lớn lên, trẻ lại cùng mùa xuân xứ sở. "Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của – Hà Nội". Nhà văn Vũ Bằng đã nhớ về quê hương bằng cầu văn ngân nga, như những tiếng reo vui như thế. Mùa xuân cúa riêng tôi — mùa xuân của Bắc Bộ, mùa xuân của Hà Nội là mùa xuân gần hơn nữa; riêng tư hơn nữa bởi mùa xuân đó chính là mùa xuân của quê hương mà tác giả ngày đêm đau đáu hướng về. Bằng phép điệp từ "mùa xuân" được nhắc đi nhắc lại bốn lần trong một câu văn như khơi nguồn cho mạch cảm xúc dâng trào, nối liền hiện tại với quá khứ, đưa tác giả từ miền Nam xa xôi trở về sông trong lòng của mùa xuân Hà Nội quê hương yêu dấu. Nhớ về mùa xuân của Hà Nội, nhớ về mùa xuân của quê mình, tác giả sứ dụng liên tiếp các điệp từ làm nổi bật cái đặc trưng của mùa xuân Thủ đô yêu dấu. Đó là tiết trời “gió lành lạnh”, “mưa riêu riêu”, tiếng trống của đêm hội chèo vang lên trong đêm xanh, những câu hát tỏ tình ngọt ngào của đôi trai gái yêu nhau vọng lại,… Nhiều sự vật như từ mùa đông còn vương lại nhưng lại có cái ấm áp, nồng nàn của khí xuân. Tất cả reo vui rằng mùa xuân quê hương đã về, không khí êm đềm trong trẻo mơn man đã tràn ngập bao trùm lên mọi cảnh vật.
Mùa xuân đã khơi dậy ở con người ta sức sống tiềm tàng và làm cho nó trở nên mạnh mẽ. Đó là sự biểu hiện của sức sống: Không uống rượu rồi cũng phải phát say, nhựa sống như trong người căng lên như lộc của loài nai như lộc của mầm non tuôn trào. sức sống kỳ diệu của mùa xuân – một mùa xuân thần thánh tiềm chứa sức mạnh thiêng liêng, huyền bí. Tất cả như đang hồi sinh, khơi dậy khát vộng cao đẹp nhất của con người đó là khát khao sông và yêu thương. Mùa xuân cùng với ngày tết cũng là dịp sum họp của gia đình, nó thôi thúc trong lòng người tình cảm gia đình gắn bó, hướng về cội nguồn. Với những giọng điệu thiết tha và dòng chảy cảm xúc tuôn trào mạnh mẽ, tác giả đã giúp ta cảm nhận được những điều kỳ diệu của mùa xuân đem đến: nó tiếp thêm cho ta tình yêu quê hương, khơi dậy trong ta những giá trị tinh thần cao quý. Một mùa xuân đẹp quá, vui quá, một mùa xuân ngọt lành trong trẻo và đáng yêu làm sao. Trên mảnh đất hôm nay, người chiến sĩ phải rời xa quê hương, sinh sống trên đất khách quê người thì tình yêu quê hương, nỗi nhớ da diết quê hương sẽ không phai mờ trong anh.Xem thêm: Nghị luận xã hội về văn hóa cảm ơn Hai nhà văn phải thân thiết, gắn bó với mảnh đất quê hương đến nhường nào thì mới viết nên những áng văn đặc sắc đến thế. Hai văn bản gợi lên trong ta biết bao cảm xúc nhưng, tình yêu quê hương đất nước của tác giả được thế hiện sâu lắng và đậm nét qua sự cảm nhận về thành phố Sài Gòn và mùa xuân Hà Nội. Hai bài tùy bút đã giúp người đọc tận hưởng được những tình cảm nồng nàn, đằm thắm và tình yêu bền chặt, thủy chung với mùa xuân quê hương và thành phố yêu dấu. Đó là tình yêu mến, tự hào về quê hượng, là sự ngưỡng mộ, đắm say mùa xuân Hà Nội. Cùng là tình yêu thương quê hương nhưng sự biểu hiện lại có những nét riêng đặc biệt không thế trộn lẫn.
Tình yêu quê hương đất nước là tiếng nói chung mà hai văn bản muôn gứi gắm đến chúng ta và để nhắc nhở chúng ta rằng:
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.
(Đỗ Trung Quân)
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho mèo.
Đeo nhạc cho mèo là một truyện ngụ ngôn hài hước, thú vị, chứa đựng ý nghĩa xã hội sâu sắc. Truyện kể về cuộc họp mặt của làng chuột để bàn cách chống mèo. Chuột cống có sáng kiến đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu, chuột sẽ biết trước mà tránh. Cả họ nhà chuột đồng tình với sáng kiến đó nhưng không ai dám đi đeo nhạc vào cổ mèo. Cuối cùng, chuột vẫn cứ bị mèo ăn thịt và mãi mãi khiếp sợ mèo.
Thông qua truyện, người xưa muốn phản ánh đôi nét hiện thực của cuộc sống đương thời dưới xã hội phong kiến trì trệ và đầy mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp bị trị. Đồng thời đặt ra bài học thiết thực về mối quan hệ giữa lí thuyết với thực hành; giữa nói và làm trong mọi công việc lớn nhỏ của cuộc sống hằng ngày. Nếu lí thuyết không thể biến thành hiện thực thì đó chỉ là thứ lí thuyết suông, làm tốn thời gian tranh cãi, bàn bạc một cách vô ích.
Truyện bắt đầu bằng nỗi sợ hãi truyền kiếp của loài chuột đối với loài mèo; Tự bao giờ đến giờ, mèo cứ xơi chuột luôn mãi, nên chuột mới đẻ ra là đã sợ mèo rồi. Họ nhà chuột căm giận mèo lắm. Một hôm, mới hội cả nhau lại làm một làng chuột để chống lại mèo. Lí do họp làng thật chính đáng: vừa bàn cách chống tổn thất, vừa để con cháu chuột mãi mãi về sau không sợ mèo; cả xã hội loài chuột có mặt đông đủ trong cuộc họp lạ lùng này: … nào anh Chù, mùi hôi đến nỗi thành câu ca, nào chú Nhắt,… nào ông Cống, rung rinh béo tốt, quan trường lại chấm cho ở trên ông Đồ… Bút pháp dân gian miêu tả khéo léo, tài tình đã làm nổi bật hình dáng, tính nết của từng loài chuột và nghệ thuật nhân hoá đặc trưng của ngụ ngôn đã tạo nên bức tranh sinh động về xã hội loài chuột, phảng phất hình bóng xã hội loài người.
Chuột Cống (loại chuột lớn nhất), tự cho mình là thông minh hơn cả đã đưa ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo: Cái giống quái kia sở dĩ nó chụp được anh em mình chỉ vì trời phú cho nó cái tài rình mò và khéo bắt lén mà thôi. Bây giờ, bà con ta nên mua một cái nhạc buộc vào cổ nó, để khi nào nó đến, nghe tiếng nhạc, ta biết đường chạy trước, thì nó còn làm gì nổi ta nữa.
Chuột Cống nêu nguyên nhân vì sao mèo hại được chuột, rồi đưa ra cách giải quyết thật nhẹ nhàng và khẳng định chắc chắn là mèo không còn làm gì nổi loài chuột nữa. Lời lẽ của chuột cống mới nghe qua thấy đúng. Mèo thường rình chuột rất kín đáo và vổ chuột bất ngờ nên chuột không sao tránh kịp. Bây giờ đeo nhạc (lục lạc) vào cổ mèo thì mèo đi đến đâu, tiếng nhạc sẽ vang lên, báo cho chuột biết trước mà trốn. Ý kiến của chuột Cống hay tới mức xua tan được nỗi sợ hãi bấy lâu và khơi dậy niềm hi vọng thoát khỏi nanh vuốt của mèo, khiến cả làng chuột nghe nói, dầu mõm, quật đuôi, đều lấy làm phục cái câu chỉ ụ của ông Cống và đồng thanh ưng thuận.
Vậy là sáng kiến của chuột cống đã được tán đồng. Bước một (lí thuyết) đã xong, cái lục lạc cũng đã kiếm được rồi, hội đồng chuột lại họp để bàn bạc cử người đi đeo nhạc vào cổ mèo (bước hai – thực hành).
Hãy xem không khí vui mừng, náo nhiệt của làng chuột: … con nào con nấy lao xao hớn hở, bảo nhau đã sắp tới ngày thoát được cái ách ông Miu ranh mãnh rồi.
Nực cười thay, lúc hội đồng hỏi ai dám đem nhạc đeo vào cổ mèo, tức là thực hiện cái sáng kiến tuyệt vời ấy thì cả hội đồng im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Trái ngược với lúc nghe chuột cống nói, làng chuột con nào con nấy dẩu mõm, quật đuôi, lao xao, hớn hở. Những chi tiết đối lập này có ý nghĩa mỉa mai, châm biếm sâu sắc. Không ai dám nhận công việc vô cùng nguy hiểm đến tính mạng ấy nên làng chuột đành cử ông Cống phải đi, vì chính ông cống đã xướng lên cái thuyết đeo nhạc vậy. Mọi người cho rằng chuột Cống nói được ắt phải làm được.
Xem thêm: Nêu suy nghĩ của em về chú ếch trong truyện ngụ ngônẾch ngồi đáy giếng. Từ câu chuyện này em rút ra bài học gìĐây là điều bất ngờ với chuột cống vì nó cho rằng mình chỉ là người đưa ra cách chống mèo thôi, còn thực hiện ắt phải là kẻ khác. Cho nên nghe vậy, Cống ta trong lòng tuy nao (lo sợ), mà ngoài mặt làm ra bộ bệ vệ kẻ cả, nói ràng: Tôi đây, chẳng gì nhờ tổ ấm cũng được vào bậc ông Cống, ông Nghè, ăn trên ngồi trước trong làng, có đâu làng lại cắt tôi đi làm cái việc tầm thường ấy được! Trong làng ta nào có thiếu chi người! Tôi xin cử anh Nhắt, anh ấy nhanh nhảu chắc làm được việc.
Chuột Cống tinh ranh vịn ngay vào chức vị của mình (kẻ trên), nêu ra sự bất xứng giữa chức vị ấy với cái việc tầm thường (đeo nhạc vào cổ mèo) và vội vàng đùn đẩy phần nguy hiểm sang cho kẻ khác (đề cử chuột Nhắt). Đáng cười ở chỗ lúc nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo, chuột cống cho đây là đại sự (việc lớn), đến lúc bị làng cắt phải làm, chuột cống lại từ chối khéo với lí do đó là việc tầm thường, không xứng với địa vị, chức tước, tài năng của mình.
Chuột Nhắt vốn láu cá. Nó chẳng dại gì nhận phần nguy hiểm nên cãi lí rằng: – Làng cắt tôi đi, tôi cũng xin vâng, không dám chối từ. Nhưng tôi, dù bé vậy, mà cũng còn ở chiếu trên, chưa đến nỗi nào. ông Cống không đi, phải; tôi đây không đi, cũng phải. Để xin cắt anh Chù, anh ấy tuy chậm, nhưng chắc chắn, làng không lo hỏng việc. Chuột Nhắt khôn ở chỗ lấy ngay cái lí do của chuột Cống làm lí do của mình (xét địa vị trong làng chuột), khẳng định mình không phải làm vì còn ở chiếu trên, tức là chưa phải hạng cùng đinh. Đồng thời Nhắt nhanh nhảu tiến cử ngay chuột Chù là kẻ bị khinh rẻ nhất trong làng chuột.
Chuột Chù thấp cổ bé miệng, không biết cãi sao đành chấp nhận nhưng cũng không khỏi lo lắng: – Tôi là đầy tớ làng, làng sai tôi đi là phải lắm. Nhưng tôi chỉ sợ, nếu tôi đến gần mèo mà mèo thịt tôi thì rồi lấy ai thay tôi mà buộc nhạc được nữa. Câu nói thật thà của Chù đã được chuột cống chớp nhanh chẳng kém gì mèo vồ chuột: – Mèo nó có vờn là vờn chúng tao, vờn cái anh Nhắt kia, chớ chú mày hôi hám như thế, thì nó bắt mà thèm vào. Thôi cứ nhận đi ngay đi, không được nói lôi thôi gì nữa. (Quả thật mèo không ăn thịt chuột Chù). Thế là chuột Chù đành phải vác nhạc đi tìm mèo. Chuyện làng chuột mà y như chuyện hội đổng làng xã ngày xưa. Cuối cùng, kẻ có địa vị thấp kém nhất thường phải làm những công việc vất vả và nguy hiểm nhất.
Cảnh chuột Chù vác nhạc đi tìm mèo để đeo vào cổ nó (thực hành cái sáng kiến được cho là chí lí của chuột Cống) được miêu tả thật sinh động và hài hước: Khôn chưa trông thấy mèo, mới nghe thấy tiếng, Chù đã sợ run cả mình, không dám tiến. Tuy không bị mèo vồ nhưng khi thấy mèo nhe nanh giương vuốt là Chù vội cắm đầu, vác cái thân ì ạch chạy khốn chạy khổ về báo cho làng hay. Thái độ của làng chuột cũng thảm hại chẳng kém, mới nghe Chù báo đã hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn, chẳng ai hỏi đến cái nhạc, nó bon đi đâu và bon tự bao giờ không biết. Thành ra từ đó, chuột vốn sợ mèo, vẫn hoàn sợ mèo mãi.
Sáng kiến của hội đồng chuột đưa ra thật hay, thật hấp dẫn nhưng bất ngờ và đáng buồn cười là từ kẻ hiến kế cho đến kẻ bị bắt đi đeo nhạc, từ hạng có địa vị cao đến hạng cùng đinh, không một ai đủ can đảm để thực hiện diệu kế ấy. Kẻ bị bắt buộc phải làm thi ươn hèn, dốt nát, làm sao cố thể cáng đáng được công việc lớn lao! Rốt cuộc, chuột vẫn sợ mèo.
Đeo nhạc cho mèo là một truyện ngụ ngôn đặc sắc, có ý nghĩa thâm Thúy. Trí tưởng tượng phong phú của dân gian đã xây dựng nên hình ảnh sinh động về xã hội loài chuột nhưng mang đậm nét của xã hội loài người với những hạng người có cá tính khác nhau. Cái hội đồng chuột trong truyện đâu có khác với cái hội đồng làng xã trong chế độ phong kiến xưa kia, quanh năm bận rộn họp hành, bàn cãi toàn chuyện tưởng như đại sự nhưng cuối cùng thì chẳng làm được việc chi có ích, chỉ tốn phí thời gian, tiền của mà thôi.
Truyện còn ngầm phê phán cách suy nghĩ viển vông và đưa ra bài học thiết thực đối với mỗi người: Trước khi làm gì, ta nên suy xét, cân nhắc cho thật kĩ khả năng thực hiện vấn đề đó, kẻo uổng công vô ích. Truyện còn phê phán những kẻ tham sống sợ chết, chỉ biết nói mà không dám làm. những lúc gặp khó khăn nguy hiểm thi vội vàng trút hết trách nhiệm cho người khác.
Xem thêm: Kể lại một kỉ niệm mà em nhớ mãi trong quãng đời học trò đã qua
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho mèo.
Đeo nhạc cho mèo là một truyện ngụ ngôn hài hước, thú vị, chứa đựng ý nghĩa xã hội sâu sắc. Truyện kể về cuộc họp mặt của làng chuột để bàn cách chống mèo. Chuột cống có sáng kiến đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu, chuột sẽ biết trước mà tránh. Cả họ nhà chuột đồng tình với sáng kiến đó nhưng không ai dám đi đeo nhạc vào cổ mèo. Cuối cùng, chuột vẫn cứ bị mèo ăn thịt và mãi mãi khiếp sợ mèo.
Thông qua truyện, người xưa muốn phản ánh đôi nét hiện thực của cuộc sống đương thời dưới xã hội phong kiến trì trệ và đầy mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp bị trị. Đồng thời đặt ra bài học thiết thực về mối quan hệ giữa lí thuyết với thực hành; giữa nói và làm trong mọi công việc lớn nhỏ của cuộc sống hằng ngày. Nếu lí thuyết không thể biến thành hiện thực thì đó chỉ là thứ lí thuyết suông, làm tốn thời gian tranh cãi, bàn bạc một cách vô ích.
Truyện bắt đầu bằng nỗi sợ hãi truyền kiếp của loài chuột đối với loài mèo; Tự bao giờ đến giờ, mèo cứ xơi chuột luôn mãi, nên chuột mới đẻ ra là đã sợ mèo rồi. Họ nhà chuột căm giận mèo lắm. Một hôm, mới hội cả nhau lại làm một làng chuột để chống lại mèo. Lí do họp làng thật chính đáng: vừa bàn cách chống tổn thất, vừa để con cháu chuột mãi mãi về sau không sợ mèo; cả xã hội loài chuột có mặt đông đủ trong cuộc họp lạ lùng này: … nào anh Chù, mùi hôi đến nỗi thành câu ca, nào chú Nhắt,… nào ông Cống, rung rinh béo tốt, quan trường lại chấm cho ở trên ông Đồ… Bút pháp dân gian miêu tả khéo léo, tài tình đã làm nổi bật hình dáng, tính nết của từng loài chuột và nghệ thuật nhân hoá đặc trưng của ngụ ngôn đã tạo nên bức tranh sinh động về xã hội loài chuột, phảng phất hình bóng xã hội loài người.
Chuột Cống (loại chuột lớn nhất), tự cho mình là thông minh hơn cả đã đưa ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo: Cái giống quái kia sở dĩ nó chụp được anh em mình chỉ vì trời phú cho nó cái tài rình mò và khéo bắt lén mà thôi. Bây giờ, bà con ta nên mua một cái nhạc buộc vào cổ nó, để khi nào nó đến, nghe tiếng nhạc, ta biết đường chạy trước, thì nó còn làm gì nổi ta nữa.
Chuột Cống nêu nguyên nhân vì sao mèo hại được chuột, rồi đưa ra cách giải quyết thật nhẹ nhàng và khẳng định chắc chắn là mèo không còn làm gì nổi loài chuột nữa. Lời lẽ của chuột cống mới nghe qua thấy đúng. Mèo thường rình chuột rất kín đáo và vổ chuột bất ngờ nên chuột không sao tránh kịp. Bây giờ đeo nhạc (lục lạc) vào cổ mèo thì mèo đi đến đâu, tiếng nhạc sẽ vang lên, báo cho chuột biết trước mà trốn. Ý kiến của chuột Cống hay tới mức xua tan được nỗi sợ hãi bấy lâu và khơi dậy niềm hi vọng thoát khỏi nanh vuốt của mèo, khiến cả làng chuột nghe nói, dầu mõm, quật đuôi, đều lấy làm phục cái câu chỉ ụ của ông Cống và đồng thanh ưng thuận.
Vậy là sáng kiến của chuột cống đã được tán đồng. Bước một (lí thuyết) đã xong, cái lục lạc cũng đã kiếm được rồi, hội đồng chuột lại họp để bàn bạc cử người đi đeo nhạc vào cổ mèo (bước hai – thực hành).
Hãy xem không khí vui mừng, náo nhiệt của làng chuột: … con nào con nấy lao xao hớn hở, bảo nhau đã sắp tới ngày thoát được cái ách ông Miu ranh mãnh rồi.
Nực cười thay, lúc hội đồng hỏi ai dám đem nhạc đeo vào cổ mèo, tức là thực hiện cái sáng kiến tuyệt vời ấy thì cả hội đồng im phăng phắc, không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Trái ngược với lúc nghe chuột cống nói, làng chuột con nào con nấy dẩu mõm, quật đuôi, lao xao, hớn hở. Những chi tiết đối lập này có ý nghĩa mỉa mai, châm biếm sâu sắc. Không ai dám nhận công việc vô cùng nguy hiểm đến tính mạng ấy nên làng chuột đành cử ông Cống phải đi, vì chính ông cống đã xướng lên cái thuyết đeo nhạc vậy. Mọi người cho rằng chuột Cống nói được ắt phải làm được.
Xem thêm: Nêu suy nghĩ của em về chú ếch trong truyện ngụ ngônẾch ngồi đáy giếng. Từ câu chuyện này em rút ra bài học gìĐây là điều bất ngờ với chuột cống vì nó cho rằng mình chỉ là người đưa ra cách chống mèo thôi, còn thực hiện ắt phải là kẻ khác. Cho nên nghe vậy, Cống ta trong lòng tuy nao (lo sợ), mà ngoài mặt làm ra bộ bệ vệ kẻ cả, nói ràng: Tôi đây, chẳng gì nhờ tổ ấm cũng được vào bậc ông Cống, ông Nghè, ăn trên ngồi trước trong làng, có đâu làng lại cắt tôi đi làm cái việc tầm thường ấy được! Trong làng ta nào có thiếu chi người! Tôi xin cử anh Nhắt, anh ấy nhanh nhảu chắc làm được việc.
Chuột Cống tinh ranh vịn ngay vào chức vị của mình (kẻ trên), nêu ra sự bất xứng giữa chức vị ấy với cái việc tầm thường (đeo nhạc vào cổ mèo) và vội vàng đùn đẩy phần nguy hiểm sang cho kẻ khác (đề cử chuột Nhắt). Đáng cười ở chỗ lúc nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo, chuột cống cho đây là đại sự (việc lớn), đến lúc bị làng cắt phải làm, chuột cống lại từ chối khéo với lí do đó là việc tầm thường, không xứng với địa vị, chức tước, tài năng của mình.
Chuột Nhắt vốn láu cá. Nó chẳng dại gì nhận phần nguy hiểm nên cãi lí rằng: – Làng cắt tôi đi, tôi cũng xin vâng, không dám chối từ. Nhưng tôi, dù bé vậy, mà cũng còn ở chiếu trên, chưa đến nỗi nào. ông Cống không đi, phải; tôi đây không đi, cũng phải. Để xin cắt anh Chù, anh ấy tuy chậm, nhưng chắc chắn, làng không lo hỏng việc. Chuột Nhắt khôn ở chỗ lấy ngay cái lí do của chuột Cống làm lí do của mình (xét địa vị trong làng chuột), khẳng định mình không phải làm vì còn ở chiếu trên, tức là chưa phải hạng cùng đinh. Đồng thời Nhắt nhanh nhảu tiến cử ngay chuột Chù là kẻ bị khinh rẻ nhất trong làng chuột.
Chuột Chù thấp cổ bé miệng, không biết cãi sao đành chấp nhận nhưng cũng không khỏi lo lắng: – Tôi là đầy tớ làng, làng sai tôi đi là phải lắm. Nhưng tôi chỉ sợ, nếu tôi đến gần mèo mà mèo thịt tôi thì rồi lấy ai thay tôi mà buộc nhạc được nữa. Câu nói thật thà của Chù đã được chuột cống chớp nhanh chẳng kém gì mèo vồ chuột: – Mèo nó có vờn là vờn chúng tao, vờn cái anh Nhắt kia, chớ chú mày hôi hám như thế, thì nó bắt mà thèm vào. Thôi cứ nhận đi ngay đi, không được nói lôi thôi gì nữa. (Quả thật mèo không ăn thịt chuột Chù). Thế là chuột Chù đành phải vác nhạc đi tìm mèo. Chuyện làng chuột mà y như chuyện hội đổng làng xã ngày xưa. Cuối cùng, kẻ có địa vị thấp kém nhất thường phải làm những công việc vất vả và nguy hiểm nhất.
Cảnh chuột Chù vác nhạc đi tìm mèo để đeo vào cổ nó (thực hành cái sáng kiến được cho là chí lí của chuột Cống) được miêu tả thật sinh động và hài hước: Khôn chưa trông thấy mèo, mới nghe thấy tiếng, Chù đã sợ run cả mình, không dám tiến. Tuy không bị mèo vồ nhưng khi thấy mèo nhe nanh giương vuốt là Chù vội cắm đầu, vác cái thân ì ạch chạy khốn chạy khổ về báo cho làng hay. Thái độ của làng chuột cũng thảm hại chẳng kém, mới nghe Chù báo đã hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn, chẳng ai hỏi đến cái nhạc, nó bon đi đâu và bon tự bao giờ không biết. Thành ra từ đó, chuột vốn sợ mèo, vẫn hoàn sợ mèo mãi.
Sáng kiến của hội đồng chuột đưa ra thật hay, thật hấp dẫn nhưng bất ngờ và đáng buồn cười là từ kẻ hiến kế cho đến kẻ bị bắt đi đeo nhạc, từ hạng có địa vị cao đến hạng cùng đinh, không một ai đủ can đảm để thực hiện diệu kế ấy. Kẻ bị bắt buộc phải làm thi ươn hèn, dốt nát, làm sao cố thể cáng đáng được công việc lớn lao! Rốt cuộc, chuột vẫn sợ mèo.
Đeo nhạc cho mèo là một truyện ngụ ngôn đặc sắc, có ý nghĩa thâm Thúy. Trí tưởng tượng phong phú của dân gian đã xây dựng nên hình ảnh sinh động về xã hội loài chuột nhưng mang đậm nét của xã hội loài người với những hạng người có cá tính khác nhau. Cái hội đồng chuột trong truyện đâu có khác với cái hội đồng làng xã trong chế độ phong kiến xưa kia, quanh năm bận rộn họp hành, bàn cãi toàn chuyện tưởng như đại sự nhưng cuối cùng thì chẳng làm được việc chi có ích, chỉ tốn phí thời gian, tiền của mà thôi.
Truyện còn ngầm phê phán cách suy nghĩ viển vông và đưa ra bài học thiết thực đối với mỗi người: Trước khi làm gì, ta nên suy xét, cân nhắc cho thật kĩ khả năng thực hiện vấn đề đó, kẻo uổng công vô ích. Truyện còn phê phán những kẻ tham sống sợ chết, chỉ biết nói mà không dám làm. những lúc gặp khó khăn nguy hiểm thi vội vàng trút hết trách nhiệm cho người khác.
Xem thêm: Kể lại một kỉ niệm mà em nhớ mãi trong quãng đời học trò đã qua
|
Phát biểu cảm nghĩ khi đọc “Tiếng chổi tre” của nhà thơ Tố Hữu
Gợi ý
Bài thơ Tiếng chổi tre của nhà thơ Tố Hữu in trong tập Gió lộng, gồm những bài thơ sáng tác từ năm 1945 – 1961, thời kì nhân dân miền Bắc đang phấn đấu xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Bài thơ thể hiện rõ thái độ trân trọng và ca ngợi người lao động, dù là người lao động hết sức bình thường. Đây là một bài đạo đức sâu sắc cho tất cả mọi người, nhát là ở lứa tuổi học sinh đang cắp sách đến trường.
Nhân vật trong bài thơ là người nữ công nhân quét rác. Chị giữ gìn đường phố sạch đẹp một cách âm thầm trong đêm tối không mấy ai biết đến, nhưng chị đã góp phần làm đẹp thành phố, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới.
Cuộc sống vất vả ấy được nhà thơ miêu tả qua tiếng chối tre quét rác trong những đem hè oi bức hay đêm đông giá rét, lúc mọi người đang ngủ sau một ngày học tập, lao động mệt nhọc. Mỗi người công nhân phụ trách một đoạn đường, họ lầm lũi làm việc. Nỗi cực khổ như tăng thêm trong hoàn cảnh ấy:
Những đêm hè
Khi ve ve đã ngủ
Tôi lắng nghe
Trên đường Trần Phú
Tiếng chổi tre
Xao xác hàng tre
Tiếng chổi tre
Đêm hè quét rác
Trong đêm khuya tĩnh mịch, nổi lên tiếng chổi soàn soạt trên mặt đường nhựa. Tiếng chổi như một âm thanh đều không dứt, tạo thành âm điệu chung cho cả bài thơ. Nó đặc tả sự vất vả, khó nhọc, kéo dài, không ngừng, không nghỉ:Xem thêm: Em hãy đọc phần văn bản sau: "Những ngón chân... thành bệnh”. Dựa vào phần văn bản trên đây, em hãy viết bài văn nêu cảm nghĩ của em về đôi bàn tay, ... của một người mà em yêu quý (cha, mẹ hoặc ông, bà, thấy, cô giáo, ...)Những đêm động
Khi cơn giông vừa tắt
Tôi đứng trông
Trên đường lặng ngắt
Chị lao công
Như sắt, như đồng
Chị lao công
Đêm đông
Quét rác.
Ở khổ thơ thứ nhất, mới nổi lên tiếng chổi tre xào xạc. Đến khổ thơ thứ hai, hình ảnh chị công nhân quét rác được tác giả miêu tả với tình cảm thật trân trọng. Cái rét buốt của đêm đông, không gian vắng vẻ càng làm tôn vẻ đẹp của chị. Nhà thơ so sánh chị như bức tượng đồng thể hiện nét khỏe khoắn, đáng yêu của người phụ nữ lao động. Tấm lòng nhân ái của tác giả ẩn chứa sau từng câu, từng chữ.
Phố xá được dọn dẹp sạch sẽ từ ban đêm. Sáng hôm sau những gánh hoa từ các làng hoa Ngọc Hà, Hữu Tiệp theo đường Trần Phú, Điện Biên Phủ xuôi về các chợ trong thành phố. Hoa hồng, hoa cúc ngát hương, thược dược, cam chướng rực rỡ… Gách hoa đi đến đâu, con đường như nở rộ đến đó:
Sáng mai ra
Gách hàng hoa
Xuống chợ
Hoa Ngọc Hà
Trên đường rực rỡ
Hương bay xa
Thơm ngát
Đường ta…
Những con đường sạch sẽ không một chút rác rưởi vây bẩn màu hoa, không chút hôi hám làm vẩn đục hương hoa tinh khiết. Cuộc đời đẹp biết bao nhiêu! Có ai biết, ai nhớ tới công lao của những nữ công nhân quét rác?
Nhà thơ nhắc nhở hoa:Xem thêm: Kể lại kỷ niệm quê hương và nêu cảm nghĩ của emNhớ nghe hoa
Người quét rác
Đêm qua
Nhắc nhở các em nhỏ:
Nhớ nghe em
Tiếng chổi tre
Chị quét
Những đêm hè
Đêm đông
Gió rét…
Hãy luôn luôn nhớ để biết ơn, để kính trọng người lao động, từ đó có ý thức giữ gìn thành quả lao động, góp phần làm đẹp quê hương:
Giữ sạch lề,
Đẹp lối
Em nghe!
Lời nhắn nhủ chân tình ấy đã gây xúc động thật sự trong mỗi chúng ta.
Ý nghĩa bài thơ không chỉ dừng lại ở chỗ khuyên nhủ các em nhỏ hãy giữ gìn vệ sinh nơi đường phố mà sâu xa hơn, nó lại một bài học đạo lí: Hãy yêu thương, trân trọng và biết ơn người lao động. Nếu làm được như vậy, chúng ta đã góp phần xây dựng và bảo vệ nếp sống văn hóa, văn minh – nếp sống đạo đức truyền thống dân tộc. Và điều ấy thực sự cần thiết cho mỗi con người.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings when reading "The sound of the bamboo broom" by poet To Huu
Suggest
The poem The Sound of Bamboo Broom by poet To Huu is published in the collection Windy Winds, including poems composed from 1945 - 1961, a period when the Northern people were striving to build Socialism.
The poem clearly shows the attitude of respect and praise for workers, even very ordinary workers. This is a profound moral lesson for everyone, especially students of school age.
The character in the poem is a female garbage worker. She keeps the streets clean and beautiful silently in the dark, not many people know about her, but she has contributed to beautifying the city and contributing to the cause of building a new life.
That hard life is described by the poet through the sound of bamboo sweeping the trash during hot summer days or cold winter nights, when everyone is sleeping after a tiring day of studying and working. Each worker is in charge of a section of road, and they work tirelessly. The suffering seems to increase in that situation:
Summer nights
When the cicadas are asleep
I listen
On Tran Phu street
The sound of a bamboo broom
Ruining bamboo rows
The sound of a bamboo broom
Summer night sweeping trash
In the quiet night, there was the sound of brooms rustling on the asphalt. The broom sound is like a constant sound, creating the general tone for the whole poem. It describes hardship, hardship, prolonged, non-stop, without rest: See more: Please read the following text: "The toes... become sick". Based on the above text, you Write an essay about your feelings about the hands, ... of someone you love (father, mother, grandfather, grandmother, teacher, ...) Those troubled nights
When the storm just died down
I stood looking
It was quiet on the road
The cleaning lady
Like iron, like copper
The cleaning lady
Winter night
Sweep trash.
In the first stanza, the sound of rustling bamboo brooms appears. In the second stanza, the image of a garbage worker is described by the author with great affection and respect. The bitter cold of the winter night and the deserted space accentuate her beauty. The poet compares her to a bronze statue showing the healthy and lovely features of a working woman. The author's kindness is hidden behind every sentence and every word.
The streets are cleaned clean at night. The next morning, flower burdens from Ngoc Ha and Huu Tiep flower villages followed Tran Phu and Dien Bien Phu streets to markets in the city. Roses, fragrant chrysanthemums, dahlias, brilliant orange flowers... Wherever you carry the flowers, the road seems to be in full bloom:
Come out tomorrow morning
Flower shop
Go down to the market
Hoa Ngoc Ha
On the bright road
The scent flies far away
Fragrant
Our way…
The roads are clean, without a bit of trash surrounding the flowers, without a bit of stench clouding the pure scent of flowers. How beautiful life is! Does anyone know or remember the contributions of female garbage workers?
The poet reminds the flowers: See more: Tell about memories of your homeland and express your feelings. Remember to listen to the flowers
Sweeper
Last night
Remind children:
Remember to listen to me
The sound of a bamboo broom
She scanned
Summer nights
Winter night
Cold wind…
Always remember to be grateful and respect workers, thereby consciously preserving the fruits of labor and contributing to beautifying the homeland:
Keep margins clean,
Beautiful way
I listen!
That heartfelt message truly touched each of us.
The meaning of the poem does not stop at advising children to keep the streets clean, but more deeply, it is a moral lesson: Love, respect and be grateful to the workers. If we can do so, we will contribute to building and protecting the cultural and civilized lifestyle - the traditional moral lifestyle of the nation. And that is really necessary for every human being.
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ trước một sự việc em gặp trong cuộc sống
Gợi ý
Cuộc sống quanh ta không yên ả như ta vẫn nghĩ. Hãy một ngày sống chậm lại để nhìn mọi điều quanh mình, ta sẽ thấy có nhiều điều cần phải suy nghĩ.
Một ngày cuối năm, màn đêm bắt đầu buông xuống thành phố. Tôi quấn thêm một chiếc chăn ủ bằng bông vào đứa em gái vừa tròn 14 tháng tuổi: bây giờ ba sẽ đưa tôi và em từ nhà ngoại trở về nhà. Đến ngã tư, xe chúng tôi phải dừng lại vì đèn đỏ. Trong cái khoảnh khắc ngắn ngủi đó, tôi chợt nhận ra chút ngọ nguậy cử động quen thuộc: hai chiếc chân nhỏ xíu khẽ huơ huơ như đạp vào vô định – đứa em nhỏ của tôi vẫn thường làm thế mỗi khi được thay bỉm. Nhưng bây giờ, đó là hành động của một đứa bé đang nằm co ro dưới chốt đèn. Đứa bé nhỏ hơn cả em tôi, không một mảnh vải che thân. Em chơi vơi một mình giữa những dòng xe xuôi ngược, mặc cho sương gió, bụi đường và biết đâu cả lũ muỗi đói vây quanh. Ánh đèn ô tô chói sang, người qua đường có thể thấy được những chiếc xương sườn hằn lên cái thân gầy gò đen đủi. Ai đặt vào tay em một cái bình sữa cáu bẩn và một cái nón kế bên để mong nhận được đồng tiền bố thí.Xem thêm: Nhiều ý kiến cho rằng chữ “hồng” là nhãn tự bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh. Anh (chị) có đồng ý như vậy không? Hãy nêu ý kiến của mình, phân tích để làm sáng tỏ
Niềm vui năm mới của tôi chợt tắt lịm. Lòng tôi dấy lên một sự phẫn nộ. Ai đã tạo ra thảm cảnh này? Để có được những đồng tiền bố thí, họ đã không ngần ngại “tra tấn” đứa bé. Em có tội gì mà phải chịu cảnh đau khổ này? Một con chó hoang cũng còn có bộ lông để che ấm giữa đêm lạnh. Còn em, giọt máu của ai đó mà bị đọa đày chơ vơ giữa chợ đời? Với đôi mắt nhắm nghiền và làn da tím tái, em nằm giữa phố phường đông vui, nhộn nhịp, ấm áp và xôn xao chờ Tết đến. Tôi tin rằng không phải không có ai có thể nâng em dậy và đưa em về, cho em một mái ấm… mà là có người đã nhẫn tâm không cho em được sống một cuộc sống bình thường. Đã có người động lòng thương, nhanh tay rút tiền thả vào chiếc nón. Rồi số tiền ấy sẽ được một người nào đó đến thu gom. Và để rồi ngày mai em nhỏ lại bị lột trần truồng ném ra giữa trời đất, dưới cái nắng chói chang, giữa những ngọn gió lạnh của trời đêm…
Những giọt nước mắt thương xót em rơi dài trên má. Cuộc sống còn bao nhiêu cảnh đau xót như thế này? Đạo đức không làm lòng người lay chuyển nhưng luật pháp có khiến người ta hay đổi hành vi? Chỉ mong những cảnh ngộ như thế này sẽ không còn xảy ra trong tương lai và những kẻ gây ra tội ác sớm được phát hiện và đưa ra xử lý.Xem thêm: Cảm nghĩ về nụ cười của mẹ hay nhấtVanmau.edu.vn
|
Express your feelings about an incident you encounter in life
Suggest
Life around us is not as peaceful as we think. Let's slow down one day to look at everything around us, we will see there are many things to think about.
One day at the end of the year, night began to fall over the city. I wrapped a cotton blanket around my 14-month-old sister: now my dad will take me and my sister back home from my grandmother's house. At the intersection, our car had to stop because the light was red. In that short moment, I suddenly noticed a familiar wiggling movement: two tiny legs gently waving as if kicking aimlessly - my little brother often does that every time his diaper is changed. But now, it is the action of a child curled up under the light. The baby was smaller than my brother, not even a piece of clothing covering his body. I played alone among the cars going back and forth, despite the wind, dust, and maybe even hungry mosquitoes surrounding me. The car's lights were so bright that passersby could see the ribs sticking out on the skinny, black body. Someone put a dirty milk bottle and a hat next to it in her hand hoping to receive alms money. See more: Many opinions say that the word "pink" is the label of the poem Mo (Evening) by Ho Chi Minh. Do you agree with that? Please state your opinion, analyze to clarify
My New Year's joy suddenly faded. An indignation arose in my heart. Who created this tragedy? To get alms money, they did not hesitate to "torture" the baby. What is my crime that I have to endure this suffering? A wild dog also has fur to keep warm in the cold night. And you, a drop of someone's blood, are damned and alone in the market? With her eyes closed and her skin pale, she lay in the middle of a crowded, bustling, warm and bustling street waiting for Tet to come. I believe that it's not that there is no one who can lift her up, take her home, give her a home... but that there is someone who is cruel and does not let her live a normal life. Someone felt compassion and quickly withdrew money and dropped it into a hat. Then that money will be collected by someone. And then tomorrow the child will be stripped naked and thrown out between heaven and earth, under the blazing sun, amidst the cold winds of the night sky...
Tears of pity fell down my cheeks. How many painful scenes like this do life have? Morality does not change people's hearts, but does law make people change their behavior? I just hope that situations like this will no longer happen in the future and that the perpetrators of the crime will soon be discovered and brought to justice. See more: The best feeling about a mother's smileVanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ về anh Khoai trong “Cây tre trăm đốt”
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
– Cây tre trăm đốt kết thúc bằng cảnh tượng thất bại của tên trưởng giả.
– Anh Khoai xứng đáng được hưởng thắng lợi.
B. THÂN BÀI:
– Anh Khoai cần cù lao động, đã làm giàu cho tên trưởng giả.
– Anh Khoai là người hiền lành ngay thật.
– Sự giúp đỡ của Bụt.
– Kết cục, anh Khoai lấy được nàng út.
C. KẾT LUẬN:
Anh Khoai là hình ảnh tiêu biểu của một tầng lớp nông dân Việt Nam với đầy đủ đức tính tốt.
BÀI LÀM
Cây tre trăm đốt là câu chuyện dân gian quen thuộc đối với chúng em. Thật không thể nín được cười khi hình dung ra cảnh tượng: cây tre dài ngoằng một trăm đốt, một dãy người từ lão trưởng giả độc ác đến tên cai tổng tham lam với thằng con trai của hắn dính chặt vào đó, cuống quỵt giẫy giụa, kêu khóc om sòm. Tiếp theo đó là cả một ngôi làng người mặc áo rộng, mặt tái xanh, tóc gáy dựng đứng, chắp tay vái lạy anh Khoai, xin anh tha thứ.
Anh Khoai đã giành được thắng lợi, anh rất xứng đáng với thắng lợi đó.
Cũng như bao nhân vật nghèo trong truyện cổ mà em đã được đọc, anh Khoai là một chàng trai rất nghèo, lại mồ côi từ bé, phải đi ở và làm thuê cho một gia đình phú ông để nuôi thân. Anh đã làm việc rất siêng năng và đem lại không biết bao nhiêu chum khoai bồ thóc cho gia đình lão chủ. Nhưng hắn ta thấy anh thật thà, nên tìm cách quịt công anh, làm việc cực khố cả mấy năm mà không được một xu tiền công. Hắn còn độc ác tìm cách lừa gạt để xóa công anh bàng cách hứa gả cô út cho anh. Nhưng anh Khoai vốn là người thật thà, tin lời lão chủ. Mặc dù sức lao động từ trước xứng đáng được trả một món tiền lớn, vậy mà anh cũng bỏ qua để tiếp tục nai lưng làm cật lực, vì với anh, cô út là phần thưởng vô giá, anh có thể đánh đổi bằng sức lực của mình. Thật đáng thương cho anh Khoai! Em không hiếu sao lại có thể tin vào lời hứa vớ vẩn như vậy được của lão nhà giàu đã một lần lường gạt anh. Rồi đùng một cái lão nhận lời gả cô út cho một tên nhà giàu khác và hòng che mắt được chàng rể “hờ”, hắn bảo anh vào rừng chặt Cây tre trăm đốt về vót đũa cho đám cưới sắp tới của anh và cô út! Anh Khoai của chúng ta lại tin lời ngay, hăm hở vác dao vào rừng không chút đắn đó. Anh vui mừng nên không để ý đến sự vô lí cua lão chủ. Tâm hồn anh chân thật, dễ tin người đến thế, anh không ngờ được sự đen trắng của bọn nhà giàu tham lam, âu cũng là bản chất của anh cũng như cùa những người dân chân lấm tay bùn. Tại sao anh không được hướng thành quá lao động của mình? Tại sao lẽ công bằng không đến với người lao động nghèo khổ? Phái có một xã hội thực hiện được lẽ phải ấy chứ.Xem thêm: Trong tục ngữ ca dao, tinh thần đoàn kết thương yêu nhau là một nội dung đặc sắc. Nhiều câu ca dao vào loại hay nhất trong kho tàng tục ngữ ca dao của nhân dân ta mang nội dung này. Hãy giải thích và chứng minh nhận xét đó
Trong niềm mơ ước cùa anh, Bụt đã hiện ra. Có phép lạ cùa Bụt, anh cũng quyết tâm nói. Bây giờ, không còn anh Khoai trước đây nữa. Bây giờ là anh Khoai, vì bị lừa gạt đã trở liên sáng suốt. Anh biết đối với lũ người như tên trướng giả, không thể van xin đòi thực hiện công lí. Anh gánh lên vai một trăm đốt tre mà thấy nhẹ tênh.
Chẳng cần nói một lờị, anh thực hiện sức mạnh của mình và anh trở nên thông minh hơn. Anh tiếp tục đọc “khắc nhập, khắc nhập” cho đến khi ba tên địch của anh bị trừng phạt.
Nhưng anh Khoai hoàn toàn ngay thẳng và công bằng. Có sức mạnh, anh không thèm làm điều quá đáng. Anh chỉ đòi lại cái thuộc về anh: cô Út. Anh chỉ cần sự công bằng: tên phú ông phải thực hiện lời hứa.
Anh Khoai là hình ảnh cùa một người nông dân Việt Nam với đầy đủ đức tính tốt. Anh đã để lại một bài học đích đáng cho tên nhà giàu tham lam ấy.
Vanmau.edu.vn
|
Expressing feelings about Mr. Khoai in "Bamboo with a Hundred Knots"
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
– The Hundred-Node Bamboo Tree ends with the defeat of the rich man.
– Mr. Khoai deserves to win.
B. BODY OF THE ARTICLE:
– Mr. Khoai worked hard and made the rich man rich.
– Mr. Khoai is a gentle and honest person.
– Buddha's help.
– In the end, Mr. Khoai married the youngest girl.
C. CONCLUSION:
Mr. Khoai is a typical image of a Vietnamese peasant class with all good qualities.
ASSIGNMENT
The hundred-knot bamboo tree is a familiar folk tale to us. It's impossible to stop laughing when imagining the scene: a bamboo tree with a hundred segments long, a line of people from the cruel old man to the greedy foreman with his son stuck to it, frantically struggling. struggling, crying loudly. Next was a whole village of people wearing loose shirts, pale faces, hair standing up, clasping their hands and bowing to Mr. Khoai, asking for his forgiveness.
Mr. Khoai won, he very much deserved that victory.
Like many poor characters in ancient stories that I have read, Mr. Khoai is a very poor guy, orphaned since childhood, and has to live and work for a rich family to support himself. He worked very diligently and brought countless jars of potatoes and rice to the old man's family. But he saw that he was sincere, so he tried to slander him and worked hard for several years without getting a penny in salary. He also cruelly tried to deceive him to clear his name by promising to marry his youngest daughter. But Mr. Khoai is an honest person and believes the old boss's words. Even though his previous labor deserved to be paid a large amount of money, he still ignored it to continue working hard, because for him, his youngest daughter was a priceless reward, he could trade it with his strength. his force. How pitiful for Mr. Khoai! I don't understand how anyone could believe such a nonsense promise from a rich man who once deceived you. Then suddenly the old man agreed to marry the youngest girl to another rich man and in order to blindside the "insincere" groom, he told him to go into the forest to cut down a bamboo tree with a hundred knots to sharpen chopsticks for the upcoming wedding of him and the youngest girl. ! Our Mr. Khoai believed right away and eagerly carried the knife into the forest without any hesitation. He was so happy that he didn't pay attention to the old man's unreasonableness. His soul was so honest and so easy to trust, he did not expect that the black and white of the greedy rich people was just as much his nature as that of the people with dirty hands. Why wasn't he directed into his own work? Why doesn't justice come to poor workers? The faction has a society that can realize that righteousness. See more: In proverbs and folk songs, the spirit of solidarity and love for each other is a unique content. Many of the best folk songs in the treasure trove of folk proverbs and folk songs of our people carry this content. Please explain and justify that statement
In his dream, Buddha appeared. There was a miracle from the Buddha, he was also determined to say. Now, there is no longer the previous Khoai. Now it's Mr. Khoai who, because he was deceived, has become wise again. I know that when it comes to people like the gangster, you can't beg for justice. He carried a hundred pieces of bamboo on his shoulders and felt light.
Without saying a word, he exercised his power and he became smarter. He continued to recite “engrave, engrave” until three of his enemies were punished.
But Mr. Khoai is completely upright and fair. Having strength, he does not bother to do anything excessive. I just want back what belongs to me: Ms. Ut. He just needs fairness: the rich man must fulfill his promise.
Mr. Khoai is the image of a Vietnamese farmer with all good qualities. He left a worthy lesson for that greedy rich man.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao “Anh đi anh nhớ quê nhà”
Bài làm
Ca dao tục ngữ nằm trong kho tàng dân gian nước ta. Nó phản ánh ước mơ, những nỗi niềm sâu xa, những tâm tư tình cảm của những người nông dân thời xưa. Ca dao, tục ngữ thường được viết theo thể thơ lục bát vô cùng dễ đọc, dễ nhớ và dễ thuộc, nên được người dân nước ta yêu thích vô cùng.
Bài ca dao “Anh đi anh nhớ quê nhà” là một bài ca dao ít ỏi mà có tên tác giả sáng tác đó chính là Á Nam Trần Tuấn Khải. Bài thơ này được ông sáng tác đầu thế kỷ XX đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc của người dân lúc đó, và nó vẫn được yêu thích cho tới mãi bây giờ
Cả bài thơ chỉ có vẻn vẹn bốn câu thơ. Nội dung chủ yếu thể hiện sự tương tư nhớ thương của người con trai đối với người con gái mình yêu thương, đối với quê hương thân yêu, khi phải xa quê hương của mình.
Người con trai khi đi xa quê, mới thấy nhớ tới món ăn truyền thống, tuy không phải sơn hà hải vị, chỉ là những món ăn nghèo nàn nhưng chứa chan tình cảm của những người thân thương nơi quê nhà. Người con trai cảm thấy nhớ người phụ nữ của đời mình, với hình ảnh quen thuộc, gần gũi là hình ảnh người phụ của mình phải chịu nữ dầm sương dãi nắng.Xem thêm: Nghị luận giải thích câu tục ngữ Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Anh đi anh nhà quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Hình ảnh món canh rau muống, nấu chua ăn với những quả cà pháo chấm với tương bần do chính tay người mẹ người vợ nấu. Nó chính là những món ăn gắn bó, truyền thống chỉ có ở những con người Việt Nam. Món ăn cổ truyền này chính là một phần linh hồn của dân tộc ta.
Người con trai khi sống cảnh xa quê, xa nhà, khi hoàng hôn buông xuống nhìn thấy những ánh đèn sáng lên bên những gia đình mà người thân sum vầy bên nhau. Trong lòng người con trai chợt nhói lên nỗi nhớ tới gia đình mình, với những bữa cơm giản dị, đầm ấm chứa chan tình cảm yêu thương. Tuy nghèo về vật chất nhưng giàu có tâm hồn.
Trong hai câu thơ tiếp theo người con trai thể hiện nỗi nhớ nhung của mình với người con gái mình thương yêu:
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Trong hai câu thơ này ta thấy hình ảnh người con gái hiện lên tần tảo, khuya sớm vất vả, một nắng hai sương. Thể hiện cho hình ảnh của người con gái cần cù chăm chỉ lao động. Thể hiện cho vẻ đẹp tâm hồn cao quý.
Người phụ nữ đó đẹp trong sự lam lũ của mình. Người phụ nữ chịu khó thương chồng thương con, mà không kể nhọc nhằn mưa nắng, ngày đêm chăm chỉ làm việc, tạo ra thật nhiều của cải vật chất để người đàn ông của gia đình, người chồng yên tâm lên đường đi xa học hành, làm ăn.Xem thêm: Biểu cảm cảm xúc vườn nhà em lớp 7
Hình ảnh người phụ nữ trở nên đẹp hơn bao giờ hết, bởi người phụ nữ đẹp nhất là khi họ hy sinh vì người khác. Người phụ đẹp bởi trong tim người đàn ông luôn chứa hình bóng họ với những yêu thương, trân trọng. Người đàn ông luôn cảm thấy biết ơn sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữ của mình.
Hình ảnh người con gái tát nước bên đường là hình ảnh vô cùng quen thuộc của những cô gái Bắc Bộ, khi mùa vụ tới. Hình ảnh này gợi lên trong lòng người nghe, người đọc nhiều cảm xúc thân thương, gần gũi, yêu mến hơn những hy sinh vất vả của những người mẹ, người chị đã phải trải qua.
Bài ca dao để lại những ấn tượng vô cùng sâu sắc khiến người đọc thấm thía, về những tình cảm gắn bó, với gia đình yêu thương. Nó thể hiện nỗi nhớ nhung của người đi xa dành cho những người ở lại quê nhà.
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Express your feelings about the folk song "When you leave, you miss your homeland"
Assignment
Folk songs and proverbs are in our country's folk treasure. It reflects the dreams, deep feelings, and emotions of ancient farmers. Folk songs and proverbs are often written in six-eight verse form, which is extremely easy to read, remember and memorize, so they are extremely loved by the people of our country.
The folk song "When you leave, you miss your homeland" is a rare folk song whose author's name is A Nam Tran Tuan Khai. This poem he composed in the early 20th century left a deep impression on the people at that time, and it is still loved to this day.
The entire poem has only four verses. The content mainly shows the love and affection of a son for the daughter he loves and for his beloved homeland when he has to leave his homeland.
When the son goes away from home, he misses traditional food, although it is not mountainous and delicious, it is just poor food but filled with the love of loved ones back home. The boy feels he misses the woman in his life, with the familiar and close image of his woman having to endure the dew and sun. See more: Essay explaining the proverb Words are not lost money to buy, choose the words to say to please each other
I go home, my hometown,
Remember the vegetable soup memorized bitter bean soup.
Image of water spinach soup, cooked sour and eaten with eggplants dipped in soy sauce cooked by the mother and wife. They are traditional, close-knit dishes that only exist among Vietnamese people. This traditional dish is part of the soul of our nation.
When the son lives far away from home, when dusk falls, he sees the lights shining on the families where relatives gather together. The boy's heart suddenly felt a pang of nostalgia for his family, with its simple, warm meals filled with love. Although poor in material things, rich in soul.
In the next two verses, the boy expresses his longing for the girl he loves:
Remember who is soaked in the sun and dew,
Remember who splashed water on the side of the road that day?
In these two verses we see the image of a girl appearing diligently, working hard early and late, one sunny and two dew. Represents the image of a diligent and hard-working girl. Represents the beauty of a noble soul.
That woman is beautiful in her bravery. A woman works hard to love her husband and children, regardless of the hardships of rain and sun, working hard day and night, creating a lot of material wealth so that the man of the family, the husband, can feel secure when going away to study. practice, do business. See more: Emotion expressions in the garden of 7th graders
The image of women becomes more beautiful than ever, because women are most beautiful when they sacrifice for others. Women are beautiful because in a man's heart there is always their image filled with love and respect. A man always feels grateful for his woman's silent sacrifice.
The image of a girl splashing water on the side of the road is an extremely familiar image of Northern girls, when the harvest season comes. This image evokes in the hearts of listeners and readers more feelings of affection, closeness, and love than the hard sacrifices that mothers and sisters have had to go through.
The folk song leaves extremely deep impressions that make readers deeply understand the emotional attachment to a loving family. It represents the longing of those who go away for those who stay back home.
Source: Sample document
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc bài ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Ca dao tục ngữ là bức tranh sinh động phản ánh đời sống nhiều mặt của ông cha ta thuở trước. Có lẽ không ai sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này lại không biết đến bài ca dao thấm đượm ân tình qua lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Bài ca dao vẻn vẹn chỉ có bốn câu nhưng đã miêu tả sinh động nỗi cực nhọc, vất vả của người nông dân quanh năm một nắng hai sương làm ra hạt gạo nuôi đời. Đồng thời nó cũng là lời khuyên nhủ chân tình về lòng biết ơn, thái độ trân trọng người lao động. Theo em, đây chính là biểu hiện đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta.
Mở đầu bài ca dao, nỗi vất vả của người nông dân như hiện lên rõ ràng trước mắt ta:
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Trong những công việc của nhà nông thì cày ruộng là công việc nặng nhọc nhất. Sáng tinh mơ, người nông dân đã vác cày, giong trâu ra đồng. Cái cảnh con trâu đi trước, cái cày đi sau quá quen thuộc ở nông thôn. Người nông dân cặm cụi cày từng luống đất. Mồ hôi thấm ướt lưng áo bạc màu. Lúc thời vụ gấp gáp, họ phải cày quên trưa, quên tối để kịp làm đất gieo mạ, cấy lúa. Người xưa khéo chọn thời điểm tiêu biểu: Cày đồng đang buổi ban trưa, giúp người đọc hình dung ra một cách cụ thể và rõ ràng về nỗi vất vả của người nông dân. Nhưng chỉ có thế thì chưa đủ. Phải cụ thể hóa nó ra bằng hình ảnh so sánh: Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Câu ca dao trên gợi nhớ đến câu: Bát mồ hôi đổi lấy bát cơm. Trong không gian tĩnh lặng của buổi trưa hè êm ả, dường như ta nghe rõ tiếng từng giọt mồ hôi rơi thánh thót. Muôn ngàn giọt đổ xuống như mưa ruộng cày. Đây là cách nói cường điệu nhưng ẩn chứa đằng sau mỗi câu, mỗi chữ là nỗi xót xa, thương cảm vô cùng sâu sắc của những người cùng cảnh ngộ.
Xem thêm: Nghị luận xã hội về mục đích học tậpNỗi vất vả được nhấn mạnh và tô đậm. Trước mắt chúng va là người nông dân đang gò lưng, ấn sâu lưỡi cày vào đất. Trước mặt, con trâu lầm lùi bước. Cả người lẫn trâu đều ướt đẫm mồ hôi dưới ánh nắng trưa hè gay gắt. Câu ca dao tả ít mà gợi nhiều đến thế!
Câu thứ ba, thứ tư là lời nhắc nhở chân thành:
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Tại sao lại nhắc nhở đúng vào lúc bưng bát cơm đầy. Đây là chủ ý của người xưa, bởi lúc bưng chén cơm thơm dẻo, mấy ai nghĩ đến nỗi cực nhọc của người làm ra nó? Vì vậy nhắc nhở vào lúc này là nên, là đúng. Có được bát cơm đầy phải đổi bằng bao bát mồ hôi, có khi cả nước mắt. Nào chống hạn, chống úng, nào tai trời ách đất… Từ lúc cày đồng đến lúc gánh lúa về sân, biết bao lo âu, cực khổ. Tất cả những cái đó dồn vào trong một câu với hai vế đối rất chỉnh: Dẻo thơm một hạt / đắng cay muôn phần. Một lần nữa, nỗi vất vả của người nông dân được nhắc lại và khắc sâu trong tâm khảm mọi người.
Hai câu ca dao trên còn là lời khuyên nhủ: đã là người thì phải sống sao cho thủy chung, ân nghĩa. Phải biết cảm thông, chia sẻ và trân trọng, biết ơn người lao động. Bưng bát cơm đầy mà không nhớ người làm ra nó là vong ơn, bội nghĩa. Những kẻ vô ơn như thế thật đáng chê trách và lên án.
Bài ca dao Cày đồng đang buổi ban trưa nằm trong chủ đề Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Người xưa mượn những chuyện cụ thể, gần gũi để nói đến những chuyện lớn lao: thái độ của người hưởng thụ đối với người làm ra thành quả như thế nào cho đúng? Trân trọng và biết ơn sâu sắc người làm ra của cải tinh thần và vật chất cho xã hội, biết bảo vệ và phát huy thành quả đó là thái độ đúng đắn nhất. Em cho rằng, dù ở trong bất cứ xã hội nào, hoàn cảnh nào thì lòng biết ơn cũng là biểu hiện của đạo đức, là cội nguồn của mọi điều tốt đẹp. Bài ca dao trên tuy ra đời đã lâu nhưng ý nghĩa giáo dục của nó luôn luôn mới mẻ và sâu sắc.
Xem thêm: Cảm nghĩ về mái trường thân yêu hay nhất
|
Topic: Express your feelings when reading the folk song:
Plowing the fields at noon
Sweat is like rain from plowing fields
Someone please bring a bowl full of rice
A flexible aromatic bitter seeds want to share.
Folk songs and proverbs are vivid pictures reflecting the multifaceted lives of our ancestors in the past. Perhaps no one born and raised in this land does not know the folk song imbued with love through the sweet lullabies of their grandmother and mother:
Plowing the fields at noon
Sweat is like rain from plowing fields
Someone please bring a bowl full of rice
A flexible aromatic bitter seeds want to share.
The folk song has only four lines but vividly describes the toil and hardship of farmers who work hard all year round to produce rice grains to feed the world. At the same time, it is also a sincere advice about gratitude and respect for workers. In my opinion, this is a manifestation of the good morality of our nation.
At the beginning of the folk song, the farmer's hardship appears clearly before our eyes:
Plowing the fields at noon,
Sweat is like rain from plowing fields.
Among the work of a farmer, plowing the fields is the hardest work. Early in the morning, farmers carried plows and buffaloes to the fields. The scene of the buffalo walking in front and the plow following behind is very familiar in the countryside. Farmers diligently plow each row of land. Sweat soaked the back of his faded shirt. During the rush of the season, they have to plow and forget noon and night to prepare the land for sowing and transplanting rice. The ancients cleverly chose a typical time: Plowing fields at noon, helping readers visualize specifically and clearly the hardships of farmers. But that alone is not enough. We must concretize it with a comparison image: Holy sweat is like rain from a plowed field. The folk song above is reminiscent of the sentence: A bowl of sweat is exchanged for a bowl of rice. In the quiet space of a calm summer afternoon, it seems we can clearly hear the sound of each drop of sweat falling. Thousands of drops fell like rain on plowed fields. This is an exaggerated way of speaking, but hidden behind each sentence and each word is the extremely deep sadness and sympathy of people in the same situation.
See more: Social discourse on the purpose of learning. The hardships are emphasized and highlighted. Before their eyes was a farmer hunching his back, pressing the plow blade deep into the soil. In front of him, the buffalo took a step back. Both body and buffalo were drenched in sweat under the harsh summer noon sun. The folk song describes so little but evokes so much!
The third and fourth sentences are sincere reminders:
Hey, bring a bowl full of rice,
A flexible aromatic bitter seeds want to share.
Why is the reminder right at the time of carrying a full bowl of rice? This is the intention of the ancients, because when holding a bowl of fragrant rice, how many people think about the hardship of the person making it? Therefore, it is advisable and correct to remind you at this time. Having a full bowl of rice must be exchanged for many bowls of sweat, sometimes even tears. Fighting drought, fighting floods, fighting heaven and earth... From the time of plowing the fields to the time of carrying rice to the yard, there are so many worries and hardships. All of that is put into one sentence with two very precise parallels: One grain of sweetness / many parts of bitterness. Once again, the hardships of farmers are reminded and engraved in everyone's hearts.
The above two folk songs are also advice: as a human being, you must live faithfully and gratefully. Must know how to sympathize, share, respect and be grateful to workers. Carrying a bowl full of rice without remembering who made it is ungrateful and ungrateful. Such ungrateful people are worthy of blame and condemnation.
The folk song Plowing the Field at Noon belongs to the theme: When eating fruit, remember the person who planted the tree. The ancients borrowed specific, close stories to talk about big things: what is the correct attitude of the enjoyer towards the person who produces the results? Appreciating and being deeply grateful to those who create spiritual and material wealth for society, knowing how to protect and promote those achievements is the most correct attitude. I think that, no matter what society or situation, gratitude is an expression of morality and the source of all good things. Although the above folk song was born a long time ago, its educational meaning is always new and profound.
See more: The best feelings about your beloved school
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khỏi tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Trong ca dao – dân ca, đề tài về cảnh đẹp đất nước chiếm một mảng khá lớn. Mỗi bài là một bức tranh phong cảnh tuyệt vời, ẩn chứa lòng tự hào, tình cảm gắn bó thiết tha, sâu nặng với quê hương, xứ sở. Bài ca dao nói về cảnh đẹp Hồ Tây ở thủ đô Hà Nội được lưu truyền rộng rãi và đã trở thành lời ru quen thuộc:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Hồ Tây xưa kia có tên là hồ Lãng Bạc (tức cái bến có sóng lớn), hay còn gọi là Dâm Đàm (hồ sương mù) vì thường vào lúc sáng sớm và chiều tối, sương phủ dày trên mặt nước. Vì ở vị trí phía tây kinh thành nên sau này nó được gọi là Hồ Tây. Xung quanh hồ là những địa danh nổi tiếng của đất Thăng Long như chùa Trấn Vũ, huyện lị Thọ Xương, làng Yên Thái (vùng Bưởi) chuyên nghề làm giấy (vỏ cây dó được ngâm mềm, giã nhuyễn rọi cán mỏng thành giấy), phường Nghi Tàm, quê hương của Bà Huyện Thanh Quan, thi sĩ nổi tiếng của nước ta.
Mở đầu là nét chấm phá đơn sơ nhưng sinh động: Gió đưa cành trúc la đà. Làn gió nhẹ sớm mai làm đung đưa cành trúc trĩu nặng sương đêm, tạo nên cái dáng mềm mại, nên thơ. Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ.
Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào nhau: Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên. Tiếng gà gáy gợi lên cuộc sống quen thuộc nơi thôn dã. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời… làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của đất trời lúc đêm tàn, ngày rạng.
Xem thêm: Chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng taNhững ai đã đến Hồ Tây khi màn sương dày đặc còn bao phủ mặt hồ thì mới thấy được cái hay, cái đẹp của câu: Mịt mù khói toả ngàn sương và mới thực sự sống trong tâm trạng lâng lâng thoát tục trước vẻ đẹp thần tiên ấy.
Nếu ở ba câu thơ trên mới thấp thoáng hơi hướng cuộc sống thì đến câu thứ tư, hình ảnh cuộc sống lao động đã hiện ra khá rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của dân làng Yên Thái. Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống cần lao.
Hình ảnh mặt gương Tây Hồ làm bừng sáng cả bài ca dao. Mặt trời lên xua tan sương mù, tỏa ánh nắng xuống mặt nước, Hồ Tây trở thành một mặt gương khổng lồ sáng long lanh, vô cùng đẹp đẽ!
Như vậy là chỉ vẻn vẹn trong bốn câu thơ lục bát mà cảnh đẹp Hồ Tây đã được ngòi bút tài hoa của người xưa vẽ thành bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. Ẩn chứa sau từng câu, từng chữ là lòng tự hào, yêu mến tha thiết với quê hương của người dân đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Trên khắp đất nước Việt Nam ta, ở đâu cũng có những cảnh đẹp làm xao xuyến hồn người. Xứ Lạng với Đồng Đăng có phô Kì Lừa, Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh. Hà Nội với ba sáu phô phường, Hồ Tây, Hồ Gươm, gò Đống Đa, chùa Một Cột.. Miền Trung với Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Xứ Huế với vẻ đẹp uy nghiêm, trầm mặc của cung điện, đền đài, lăng tẩm, của sông Hương với núi Ngự Bình. Những đêm trăng sáng, tiếng hò ngân dài trên sông nước Hương Giang: Đò từ Đông Ba đò qua đập đá, Đò về Vĩ Dạ thẳng ngã ba sần, Lờ đờ bóng ngả trăng chênh, Tiếng hò xa vọng nặng tình nước non. Người dân Nam Bộ tự hào với mảnh đất trù phú, mỡ màu bôn mùa hoa thơm trái ngọt, lúa chín vàng đồng: Cần Thơ gạo trắng nước trong, Ai đi đến đó chẳng mong ngày về..
Tất cả những câu ca ấy dù mộc mạc hồn nhiên hay trau chuốt, trữ tình đều nói lên cảnh đẹp gấm hoa của non sông đất nước và thể hiện tình yêu quê hương đậm đà, sâu nặng của nhân dân ta. Giống như bao bài ca dao khác, bài Cảnh đẹp Hồ Tây sẽ sống mãi trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ.
Xem thêm: Soạn bài Con người quý nhất
|
Topic: Express your thoughts about the folk song:
The wind carries the bamboo branches to the wind,
Tran Vu bell ringing, Tho Xuong chicken soup.
The mist from spreading thousands of mists,
The rhythm of the Yen Thai pestle, the mirror face of Tay Ho.
In folk songs, the topic of beautiful country scenery occupies a large area. Each song is a wonderful landscape painting, containing pride and a deep, passionate attachment to the homeland. The folk song about the beautiful scenery of West Lake in the capital Hanoi is widely circulated and has become a familiar lullaby:
The wind carries the bamboo branches to the wind,
Tran Vu bell ringing, Tho Xuong chicken soup.
The fog and smoke radiate thousands of mists,
The rhythm of the Yen Thai pestle, the mirror face of Tay Ho.
West Lake was formerly called Lang Bac Lake (meaning the wharf with big waves), also known as Dam Dam (foggy lake) because often in the early morning and evening, thick fog covers the water surface. Because it is located west of the capital, it was later called West Lake. Around the lake are famous landmarks of Thang Long such as Tran Vu pagoda, Tho Xuong district town, Yen Thai village (Buoi region) specializing in paper making (the bark of the tree is soaked, pounded and rolled into paper). , Nghi Tam ward, hometown of Ba Huyen Thanh Quan, famous poet of our country.
The opening is a simple but vivid touch: The wind moves the bamboo branches to the wind. The morning breeze sways the bamboo branches heavy with night dew, creating a soft, poetic appearance. The only painting has only the slender lines of bamboo branches on the hazy background of the sky and lake surface.
In the next sentence, the sounds blend together: Tran Vu bell sound, Tho Xuong chicken soup. The sound of bells ringing and roosters crowing loudly signal the beginning of a new day. The sound of temple bells echoing in the empty air evokes a feeling of peace. The sound of a rooster crowing evokes familiar life in the countryside. The sounds of the religious world, the world... enhance the silence of heaven and earth at night and at dawn.
See more: Proving that protecting forests is protecting our lives. Those who have been to West Lake when the thick fog still covered the lake's surface can see the beauty of the sentence: Fog and smoke radiate thousands of mists. and truly live in a state of euphoria before that magical beauty.
If in the three verses above, there is a glimpse of life, then in the fourth verse, the image of working life appears quite clearly through the rapid rhythm of pounding pestles and pestles of Yen Thai villagers. The rhythm of the baseball is also the hustle and bustle of hard-working life.
The image of the mirror of Tay Ho brightens up the whole folk song. The rising sun dispels the fog, radiating sunlight onto the water surface, West Lake becomes a giant, sparkling, extremely beautiful mirror!
Thus, in just four six-eight verses, the beautiful scenery of West Lake has been painted into a beautiful natural picture by the talented pen of the ancients. Hidden behind every sentence and every word is the pride and passionate love for the homeland of the people of Thang Long with thousands of years of literature.
All over Vietnam, there are beautiful scenes that make people's souls flutter. Lang and Dong Dang have Ky Lua pagoda, To Thi has Tam Thanh pagoda. Hanoi with three or six streets, West Lake, Hoan Kiem Lake, Dong Da mound, One Pillar Pagoda... The Central region with Nghe An road surrounding it, green mountains and blue water like a painting. Hue with the majestic, quiet beauty of palaces, temples, mausoleums, of the Perfume River and Ngu Binh Mountain. On bright moonlit nights, the long chants on the Huong Giang river: Boats from Dong Ba ferry past the stone dam, Boats returning to Vi Da go straight to the lumpy intersection, Loosely shadowed by the moon, The distant chants echo the love of young water. The people of the Southern region are proud of their rich, fertile land with four seasons of fragrant flowers and sweet fruits, rice ripened to golden bronze: Can Tho has white rice and clear water, whoever goes there never hopes to return..
All of these songs, whether simple and innocent or elaborate and lyrical, speak of the beautiful damask landscape of the country's mountains and rivers and express the rich and deep love of our people for the homeland. Like many other folk songs, the song Beautiful Scenery of West Lake will live forever in the spiritual lives of many generations.
See more: Prepare lesson The most precious person
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông trấn Vũ canh gà Thọ Xương”
Bài làm
Ca dao tục ngữ nằm trong kho tàng dân gian Việt Nam. Nó phản ánh tâm tư tình cảm của người nông dân lao động. Những câu ca dao thường gắn liền với những nỗi nhớ, tình cảm lứa đôi, những nỗi niềm của người nông dân trong lao động sản xuất, trong tình cảm gia đình, anh em cha mẹ.
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
Hồ Tây là một danh lam thuộc thành phố Hà Nội ngày nay. Nó gắn liền với nhiều bài thơ như trong bài “Độc Tiểu Thanh ký” của nhà thơ Nguyễn Du, tác giả có viết “Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang”
Hình ảnh Hồ Tây không còn lạ lẫm nhiều với những người Việt Nam. Nó là chiếc hồ nằm giữa trung tâm Hà Nội xung quanh có một số chùa khá nổi tiếng như chùa Trấn Quốc, đền Quán Thánh, ở xung quanh Hồ Tây còn có những hồ nhỏ như Trúc Bạch, nổi tiếng có nhiều quán ăn ngon.
Hình ảnh Hồ Tây với làn khói tỏa sương mù giăng lối khiến cho khung cảnh thiên nhiên trở nên mềm mại, trữ tình hơn bao giờ hết. Hình ảnh cành trúc la đà, làm cho câu ca dao có thêm nhiều chất nhạc, trữ tình sâu lắng.Xem thêm: Bình giảng bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan
Trong câu ca dao đầu tiên hình ảnh cành trúc la đà chính là hình ảnh động, là điểm nhấn của toàn bộ câu thơ. Cành trúc mỏng manh yểu điệu thục nữ gợi lên vẻ đoan trang mềm mỏng như hình ảnh của một cô gái thiếu nữ thục hiền e ấp bên khung cửa sổ, nhìn qua mặt hồ có làn khói sương tỏa mong manh, khiến cho con người bâng khuâng xao xuyến.
Trong bài ca dao này tác giả xưa đã vô cùng tinh tế, khôn khéo khi sử dụng nghệ thuật biện pháp ẩn dụ, để khắc họa lên một Hồ Tây cảnh sắc tuyệt trần. Trong không gian yên tĩnh mênh mông, không gian bao la ngút ngàn tầm mắt. Hình ảnh Hồ Tây như một chiếc gương soi phẳng lặng khổng lồ, phản chiếu những nét văn hóa lâu đời của con người, của lịch sử dân tộc.
Nó đã tái hiện lại những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình qua chiếc gương của mình. Những âm thanh của con người của lịch sử, tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Báo hiệu trời gần sáng, tiếng của hoạt động của con người rộn rã như đánh thức không gian bao la, bình yên đang chìm trong giấc ngủ say. Tiếng gà gáy là hình ảnh vô cùng quen thuộc của những miền quê yên bình.
Trong cảnh sắc bình yên, hiền hòa đó những âm thanh của con người, của động vật vang lên chính là âm thanh chân thật của cuộc sống gợi lên trong lòng người lữ khách trữ tình những ấn tượng khó phai, về về đẹp cũng như không gian thiên nhiên nơi đây.Xem thêm: Giải thích và chứng minh câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công”
Nhịp chày Yên Thái, là nhịp hoạt động của con người tiếng giã gạo, làm bánh tiếng của nhịp sinh hoạt đều đặn thường ngày vang lên khiến cho, bối cảnh thiên nhiên sôi động, rộn rã hơn bao giờ.
Bài ca dao sử dụng những ngôn ngữ mộc mạc giản dị, chân thật khiến cho bài ca dao trở nên gần gũi bình dị đi sâu vào lòng người. Tác giả xưa đã vô cùng tinh tế khi vẽ lên bức tranh thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau hài hòa cân đối, như nhịp thở của cuộc đời.
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Expressing thoughts about the folk song "The wind carries bamboo branches to la da, The sound of Vu town bells soups Tho Xuong chicken"
Assignment
Folk songs and proverbs are in the Vietnamese folk treasure. It reflects the feelings and emotions of working farmers. Folk songs are often associated with nostalgia, love between couples, and the feelings of farmers in production labor, in the love of family and parents.
“The wind carries bamboo branches to la da,
The sound of Vu town bell, Tho Xuong chicken soup.
The fog and smoke radiate thousands of mists,
The rhythm of the Yen Thai pestle, the mirror face of Tay Ho".
West Lake is a scenic spot in Hanoi city today. It is associated with many poems such as in the poem "Doc Tieu Thanh Ky" by poet Nguyen Du, the author wrote "West Lake's beautiful landscape turns into a wild mound".
The image of West Lake is no longer strange to Vietnamese people. It is a lake located in the center of Hanoi, surrounded by some famous pagodas such as Tran Quoc Pagoda and Quan Thanh Temple. Around West Lake there are also small lakes such as Truc Bach, famous for many delicious restaurants.
The image of West Lake with smoke and mist spreading out makes the natural scene become softer and more lyrical than ever. The image of bamboo branches makes the folk song more musical and lyrical. See more: Commentary on the poem 'Over Ngang Pass' by Ba Huyen Thanh Quan
In the first folk song, the image of a bamboo branch is the moving image, the highlight of the entire verse. The delicate and graceful bamboo branches evoke a soft and dignified look like the image of a gentle and gentle girl sitting next to the window frame, looking across the lake at a thin layer of smoke and mist, making people feel wistful. flustered.
In this folk song, the ancient author was extremely delicate and clever in using the art of metaphor to portray the wonderful scenery of West Lake. In the vast quiet space, the vast space as far as the eye can see. The image of West Lake is like a giant flat mirror, reflecting the long-standing cultural features of the people and the nation's history.
It has recreated the cultural quintessence of its nation through its mirror. The sounds of people of history, the sound of the Vu town bell, Tho Xuong chicken soup. Signaling that it was almost dawn, the sound of bustling human activities seemed to awaken the vast, peaceful space that was deep in sleep. The sound of a rooster crowing is an extremely familiar image of peaceful countryside.
In that peaceful, gentle landscape, the sounds of people and animals resounding are the true sounds of life, evoking in the heart of the lyrical traveler unforgettable impressions, about beauty as well as natural space here. See more: Explain and prove the proverb "Failure is the mother of success"
The rhythm of the Yen Thai pestle, the rhythm of human activities, the sounds of pounding rice and making cakes, the sounds of regular daily activities resound, making the natural scene more vibrant and bustling than ever.
The folk song uses simple, honest language, making the folk song familiar and simple, going deep into people's hearts. The ancient author was extremely delicate when painting a picture of nature and humans blending together in harmony and balance, like the breathing rhythm of life.
Source: Sample document
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao:
Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chăn cứng đá mềm,
Trời êm, biển lặng mới yên tấm lòng.
Trong ca dao – dân ca, bên cạnh những bài phản ánh đời sông tinh thần phong phú còn có những bài trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ của người nông dân trước công việc quen thuộc hằng ngày. Bài ca dao sau đây là một ví dụ tiêu biểu:
Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm, biển lặng mới yên tấm lòng.
Nghĩ sao nói vậy, giản dị, mộc mạc, tự nhiên nhưng chính những cái đó lại tạo nên sự rung động sâu sắc trong lòng người đọc. Nỗi băn khoăn lo lắng trong công việc của người nông dân quá lớn, như đúc lại thành khối nặng nề đè lên đôi vai gầy của họ, khiến chúng ta không khỏi xót xa, thương cảm.
Nội dung bài ca dao thật đơn giản: người phụ nữ nông dân đi cấy lúa, chân ngập dưới bùn sâu mà lòng ngổn ngang trăm môi lo toan và thầm mong mưa thuận gió hòa để có được một mùa lúa tốt.
Tục ngữ có câu: Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn. Kể từ khi cắm cây mạ xuống ruộng cho đến khi gánh lúa về nhà, người nông dân phải làm bao công việc vất vả, cực nhọc; phải tính toán, trăn trở mọi bề. Nhiều khi lúa chín vàng đồng, chỉ một trận lũ lụt tràn qua là tay trắng lại hoàn tay trắng.
Trong nghề nông, thường thì công việc cày bừa nặng nhọc dành cho đàn ông, còn việc nhổ mạ, cấy hái dành cho phụ nữ. Cho nên căn cứ vào giọng điệu, ta có thể đoán rằng nhân vật trữ tình đang bày tỏ nỗi niềm trong bài ca dao trên là một phụ nữ hay lam hay làm và rất có ý thức về công việc của mình. Trước hết là sự phân biệt rõ ràng giữa việc đi cấy của mình với những người thợ cấy khác:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Đi cấy lấy công tức là đi cấy thuê. Cấy ít tiền ít, cấy nhiều tiền nhiều. Xong việc là phủi tay, chẳng ràng buộc trách nhiệm gì với chủ ruộng. Có vất vả cũng chỉ là vất vả tấm thân: Bán mặt cho đất, bán lưng cho giời, Đổi bát mồ hôi lấy bát cơm… (Tục ngữ).
Còn mình thì đi cấy trên ruộng nhà. Đó là cơ sở để phân biệt giữa người làm thuê với người làm chủ. Vì thế mà sự trông mong, lo lắng nhiều bề cũng xuất phát từ đây. Tôi khác với người ta ở cách tính toán trăn trở, năm liệu bảy lo về công việc với một ý thức trách nhiệm cao và một vốn hiểu biết khá phong phú, toàn diện.
Xem thêm: Hãy chứng minh rằng từ xưa đến nay nhân dân ta luôn sống theo đạo lý: "Ăn quả nhớ kẻ trổng cây"Hai từ trông và bề ở câu thứ 2 thật hàm súc, đa nghĩa và được sử dụng rất chính xác. Từ trông vừa có nghĩa là quan sát, nhìn ngó, nhận xét, phân tích, vừa có nghĩa là lo lắng, mong đợi, hi vọng. Từ bề cũng vậy, vừa chỉ cái hữu hình tồn tại trong không gian (trời, đất, mây), vừa chỉ cái vô hình như nỗi mong đợi, ao ước hoặc chiêm nghiệm bằng tâm tưởng (nỗi lo thiên tai, niềm vui được mùa)…
Có lẽ không có bài ca dao nào mà từ trông được lặp lại nhiều lần và độc đáo như ở bài này. Toàn bài chỉ có 6 câu mà từ trồng được dùng đến 9 lần, mỗi lần một nghĩa khác nhau.
Ở câu thứ hai: Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề, nghĩa của từ trông gắn liền với nghĩa của từ nhiều bề, gợi lên hình ảnh một phụ nữ nông dân có tầm suy nghĩ, nhìn nhận công việc rất thấu đáo. Hình ảnh ấy sẽ được tiếp tục khắc họa rõ nét ở những câu sau. Đặc biệt là hai câu giữa bài với 7 từ trông gắn liền với 7 đối tượng cụ thể khác nhau (trời, đất, mây, mưa, gió, ngày, đêm) trong bối cảnh rộng lớn của không gian và thời gian:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Các từ trông trên đây đều có thể hiểu theo hai hoặc ba lớp nghĩa và mỗi từ mang một sắc thái biểu cảm khác nhau.
Nếu như ở câu: Trông trời, trông đất, trông mây, từ trông có nghĩa là quan sát và theo dõi liên tục sự thay đổi của thời tiết với thái độ băn khoăn, lo lắng, thì ở câu: Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đềm, từ trông lại có nghĩa là cầu mong. Mong sao mưa thuận gió hòa cho cây lúa tốt tươi, để người vơi bớt nỗi nhọc nhằn và chứa chan hi vọng. Đến hai câu cuối bài thì từ trông rõ ràng mang ý nghĩa là niềm hi vọng, là ước mong tha thiết:
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời êm, biển lặng mới yên tấm lòng.
Chân cứng đá mềm là thành ngữ chỉ sức mạnh và ý chí của con người, nhất là những người phải xông pha những công việc gian nan vất vả, thậm chí hiểm nguy. Trông cho chân cứng đá mềm nghĩa,là mong sao cho bản thân có đủ sức khỏe và nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, có được niềm vui, niềm tin trong cuộc sống.
Trời êm, biển lặng cũng là thành ngữ biểu hiện sự thuận hòa của thiên nhiên (thời tiết, khí hậu); cao hơn nữa là sự yên bình trong cuộc sống (xã hội trật tự, an ninh, không có chiến tranh, trộm cướp)…
Càng hiểu rõ nội dung ý nghĩa của từ trông trong bài ca dao này, ta càng đồng cảm với nỗi lo toan vất vả của người nông dân. Từ đó, càng thêm thương thêm quý những giọt mồ hôi ngày ngày họ đổ xuống đồng để làm ra hạt lúa nuôi đời: Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Trong những bài ca dao trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ của người nông dân trước công việc, khó tìm thấy bài nào vừa giản dị, tự nhiên, vừa hàm sục ý nghĩa như bài này.
Xem thêm: Nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Vũ Trọng Phụng qua đoạn Hạnh phúc của một tang gia (trích “Số đỏ")
|
Topic: Express your thoughts about the folk song:
People get transplanted,
Now that I'm transplanting, I still have to look at many things.
Look at the sky, look at the land, look at the clouds,
Look at the rain, look at the wind, look at the day, look at the night.
Looking for hard blankets and soft rocks,
The weather is calm and the sea is calm to calm the heart.
In folk songs, besides songs that reflect the rich spiritual life, there are also songs that directly express the feelings of farmers before familiar daily work. The following folk song is a typical example:
People get transplanted,
Now that I'm transplanting, I still have to look at many things.
Look at the sky, look at the land, look at the clouds,
Look at the rain, look at the wind, look at the day, look at the night.
Make your feet hard and your rocks soft,
The weather is calm and the sea is calm to calm the heart.
Think about it like that, simple, rustic, natural, but those things create a deep vibration in the hearts of readers. The anxiety and worry about the work of farmers is so great that it seems to form a heavy mass on their thin shoulders, making us feel sad and sympathetic.
The content of the folk song is simple: a farmer woman goes to plant rice, her feet are submerged in deep mud, her heart is full of worries and she secretly hopes for good weather and good weather to have a good rice season.
There is a proverb that says: Work to plant is work to waste, work to weed is work to eat. From the time the seedlings are planted in the field until the time they carry the rice home, the farmer has to do a lot of hard work; You have to calculate and worry about everything. Many times, when the rice is ripe and golden, just a flood hits and everything is empty again.
In farming, the heavy plowing and harrowing work is usually for men, while the rice-planting and harvesting work is for women. So based on the tone, we can guess that the lyrical character expressing her feelings in the above folk song is a hard-working woman who is very conscious of her work. First of all, there is a clear distinction between my transplanting work and that of other transplanters:
People get transplanted
Now that I'm transplanting, I still have to look at many things.
Planting for work means cultivating for hire. Plant less, earn less, plant more, earn more. When the job is done, you wash your hands of it, not binding any responsibility to the field owner. Even if it's hard, it's just the hard work of the body: Sell your face to the land, sell your back to the world, Exchange a bowl of sweat for a bowl of rice... (Proverb).
As for me, I went to work planting in my home field. That is the basis for distinguishing between employees and owners. That's why many expectations and worries also come from here. I'm different from other people in my way of calculating and worrying about work, with a high sense of responsibility and a fairly rich and comprehensive understanding.
See more: Let's prove that from ancient times until now, our people have always lived by the moral: "When eating fruit, remember who planted the tree." The two words look and appearance in the second sentence are very concise, multi-meaning and used very accurately. . The word look means both to observe, to look, to comment, to analyze, and also to worry, to expect, to hope. The word surface is the same, referring to both the tangible things that exist in space (sky, earth, clouds), and also to the invisible things such as expectations, desires or mental contemplations (worries about natural disasters, joy of season)…
Perhaps there is no other folk song in which the word "look" is repeated as many times and as uniquely as in this song. The whole article has only 6 sentences where the word planted is used 9 times, each time with a different meaning.
In the second sentence: Now that I'm farming, I still see many aspects. The meaning of the word look is closely linked to the meaning of the word many aspects, evoking the image of a farmer woman who has the ability to think and look at work very thoroughly. That image will continue to be clearly portrayed in the following sentences. Especially the two sentences in the middle of the article with 7 words that look associated with 7 different specific objects (sky, earth, clouds, rain, wind, day, night) in the vast context of space and time:
Look at the sky, look at the land, look at the clouds,
Look at the rain, look at the wind, look at the day, look at the night.
The words above can all be understood in two or three layers of meaning and each word carries a different expressive nuance.
If in the sentence: Look at the sky, look at the ground, look at the clouds, the word look means to observe and continuously monitor changes in the weather with a worried, worried attitude, then in the sentence: Look at the rain, look at the wind , look forward, look forward, the word look again means to pray. I hope that the rain will be favorable and the rice will be lush, so that people will be relieved of their hardships and filled with hope. In the last two sentences of the article, the word clearly means hope and earnest wish:
Make your feet hard and your rocks soft,
The weather is calm and the sea is calm to calm the heart.
Hard legs, soft rocks is an idiom that refers to the strength and will of people, especially those who have to engage in arduous, even dangerous work. Keeping your legs strong and kicking soft means hoping that you have enough health and strength to overcome all difficulties and challenges, and have joy and faith in life.
Calm weather and calm sea are also idioms expressing the harmony of nature (weather, climate); even higher is peace in life (social order, security, no war, no theft)...
The more we understand the meaning of the word "chan" in this folk song, the more we sympathize with the farmers' worries and hardships. From then on, I love and appreciate even more the drops of sweat they pour into the fields every day to produce rice grains to feed the world: Oh my God, hold a bowl full of rice, One grain of rice is fragrant, bitter and bitter.
Among folk songs that directly express the feelings of farmers before work, it is difficult to find a song that is both simple, natural, and meaningful like this one.
See more: Vu Trong Phung's sharp satirical art through the passage "The Happiness of a Mourning Family" (excerpt from "The Red Number")
|
Phát biểu cảm nghĩ về bài Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh
Bài làm
Trăng là một nguồn cảm hứng bất tận của nhiều thi sĩ từ thời xa xưa. Là một người yêu thiên nhiên tha thiết, trăng đương nhiên không thể vắng bóng trong thơ của Hồ Chí Minh. Và “Rằm tháng giêng” chính là một bài thơ rất hay của Bác về đề tài này.
Hai câu thơ đầu vẽ nên cảnh tuyệt đẹp của đêm nguyên tiêu:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Vầng trăng mùa xuân vừa tròn đúng độ, soi sáng, lan tỏa khắp không gian. Bầu trời cao rộng, trong lành và thoáng đãng. Đất trời quê hương bao la, hòa quyện vào hơi thở mãnh liệt của mùa xuận. Bầu trời và vầng trăng dường như không có giới hạn, cứ kéo dài vô tận mãi. Dòng sông mùa xuân, màu nước mùa xuân nối liền với bầu trời xuân:
“Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”
Cảnh được tả từ gần đến xa, từ thấp lên cao. Ba từ “xuân” nối tiếp nhau vang lên trong một câu thơ có âm điệu bay bổng, gợi một cảm giác trong trẻo, thanh khiết và yên bình biết bao. Câu thơ cú mở ra như đến vô cùng, sông xuân-nước xuân-trời xuân làm nên một khí xuân lồng lộng, bát ngát. Tất cả cảnh vật như thấm đượm sắc xuân, khí xuân.
Câu thơ thứ ba nói đến hoàn cảnh và vị trí ngắm trăng của Bác Hồ:Xem thêm: Cảm nhận về hình ảnh người chiến sĩ cộng sản trong bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
“Giữa dòng bàn bạc việc quân”
Trên con thuyền đang lặng lẽ trôi trên mặt nước, Bác Hồ cùng những người chiến sĩ đang bàn việc cơ mật. Đến đây, ta lại thêm cảm phục tấm lòng luôn đau đáu vì nước vì dân của Người. Giữa bộn bề việc nước, Bác vẫn dành cho thiên nhiên cảnh vật sự ưu ái. Điều đó thể hiện tư thế ung dung tự tại, lạc quan của Bác Hồ.
Câu thơ cuối bài là một hình ảnh tuyệt đẹp về trăng:
“Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Nếu như người xưa bồi hồi với tiếng chuông ngân nửa đêm thì Bác Hồ lại ngây ngất với hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”. Hình ảnh con thuyền cách mạng đã trở thành con thuyền chở trăng, vầng trăng tròn vành vạnh, vầng trăng của sự viên mãn, vầng trăng của thành công và thắng lợi. Hình ảnh thơ tươi sáng chứa đựng cái nhìn đầy lạc quan của Bác Hồ về sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Hình ảnh này cũng mở ra một cánh của kì diệu để khám phá tâm hồn của Hồ Chí Minh: nơi sau thẳm mịt mù khói sóng lại là nơi bàn việc nước, việc quân, vậy mà Người vẫn say đắm trong ánh trăng tròn vành vạnh. Cảnh vật vừa thực vừa ảo. Qua đây ta cũng thấy được vẻ đẹp con người Hồ Chí Minh, vừa có cốt cách thi sĩ vừa mang phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ.Xem thêm: Cao Chu Thần từng có câu thơ để đời: Nhất sinh đê thủ bái mai hoa. Có người cho rằng vẻ đẹp của câu thơ cũng chính là vẻ đẹp của Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Ý kiến của anh (chị) như thế nào? Hãy phân tích để làm sáng tỏ
Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước và tinh thần lạc quan, niềm tin vào thắng lợi của con đường cách mạng của người chiến sĩ, thi sĩ Hồ Chí Minh. Ở Người, chất nghệ sĩ và chất chiến sĩ luôn hài hòa làm một, tạo nên vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh.
|
Expressing thoughts about Ho Chi Minh's poem Full Moon in January
Assignment
The moon is an endless source of inspiration for many poets since ancient times. As a passionate lover of nature, the moon of course cannot be absent from Ho Chi Minh's poetry. And "The Full Moon of the First Month" is a very good poem by Uncle Ho on this topic.
The first two verses paint a beautiful scene of the Nguyen Tieu night:
“On the full moon of spring, the moon shines brightly
"Spring river, water mixed with sky color adds spring"
The spring moon is just at the right level, illuminating and spreading throughout space. The sky is high, wide, fresh and airy. The vast land and sky of the homeland blend into the intense breath of spring. The sky and the moon seem to have no limits, stretching on endlessly. Spring river, spring water color connected to spring sky:
"Spring flows, spring waters follow spring heaven"
The scene is described from near to far, from low to high. The three words "spring" echo one after another in a poem with a soaring melody, evoking a feeling of clarity, purity and peace. The verse opens as if to infinity, the spring river-spring water-spring sky creates a splendid, immense spring atmosphere. All landscapes seem to be imbued with spring colors and spring air.
The third verse refers to Uncle Ho's circumstances and position of watching the moon: See more: Feelings about the image of a communist soldier in Ho Chi Minh's poem Late Night Scene
“In the middle of discussing military affairs”
On the boat floating quietly on the water, Uncle Ho and his soldiers were discussing confidential matters. At this point, we admire his heart that always aches for his country and his people. Amidst the chaos of the country, Uncle Ho still gave favor to nature and landscapes. That shows Uncle Ho's leisurely and optimistic posture.
The last verse of the poem is a beautiful image of the moon:
"Late at dawn moon filled the boat"
If the ancients were mesmerized by the sound of bells ringing at midnight, Uncle Ho was ecstatic with the image of "the full moon filling the boat". The image of the revolutionary boat has become the boat carrying the moon, the full moon, the moon of fulfillment, the moon of success and victory. The bright poetic images contain Uncle Ho's optimistic view on our nation's revolutionary cause. This image also opens a magical door to explore Ho Chi Minh's soul: the place behind the mist and smoke is the place where affairs of the country and the military are discussed, yet he is still captivated in the full moonlight. . The scene is both real and virtual. Through this, we can also see the beauty of Ho Chi Minh, both a poet and a warrior's noble qualities. See more: Cao Chu Than once had a life-long poem: One life, one worships the next. flower. Some people believe that the beauty of the verse is also the beauty of Huan Cao in Nguyen Tuan's short story Letters from death row prisoners. What is your opinion? Let's analyze to clarify
The poem is a beautiful natural picture expressing the soul that loves nature, the country and the optimistic spirit and belief in the victory of the revolutionary path of the soldier and poet Ho Chi Minh. In him, the artist and the soldier are always in harmony as one, creating the beauty of Ho Chi Minh's soul.
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài Sài Gòn tôi yêu của tác giả Minh Hương
Bài làm
Tùy bút “Sài Gòn tôi yêu” là một bài tùy bút hay thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả Minh Hương với thành phố phát triển bậc nhất Việt Nam. Sài Gòn tôi yêu là những cảm nhận tinh tế của nhà văn với con người và mảnh đất mà tác giả gắn bó suốt mấy chục năm sinh sống.
Bài tùy bút mở đầu vô cùng ấn tượng về thành phố Sài Gòn. Hình ảnh một Sài Gòn trẻ trung cứ trẻ hoài như một cây tơ đang độ thay da đổi thịt, nõn nà như thiếu nữ đang xuân
Điều này thể hiện sự độc đáo thể hiện sự tinh tế trong cách nhìn cách quan sát của tác giả Minh Hương. Từ sự quan sát tinh tế tác giả đột ngột chuyển hướng bài viết qua cảm xúc của mình dành cho Sài Gòn.
Tôi yêu Sài Gòn…điệp từ này được tác giả Minh Hương lặp đi lặp lại nhiều lần như khẳng định tình cảm yêu thương mà tác giả dành cho Sài Gòn là vô bờ bến không gì có thể sánh được.
Yêu nắng sớm, ngọt ngào, yêu gió lộng nhớ thương, yêu thời tiết trở trời âm u buồn bã, yêu những đêm hoang vắng tĩnh mịch thưa thớt tiếng ồn ào… Tình yêu mà tác giả dành cho Sài Gòn không gì có thể sánh được.Xem thêm: Cảm nghĩ về tình bạn hay nhất
Tình yêu tinh tế của tác giả đã miêu tả, đã vẽ lên một Sài Gòn vô cùng tươi đẹp và nhiều cung bậc cảm xúc. Lúc thì tươi trẻ nhưng cô gái tuổi xuân thì, khi thì già nua âm u buồn chán nhưng một cụ lão gần đất xa trời. Có lúc thì tinh nghịch như một cậu bé.
Tác giả yêu Sài Gòn yêu luôn những con người sống ở đây, những nét đẹp toát ra từ vẻ đẹp tâm hồn của những con người hiền hậu, những nét đặc trưng của người Sài Gòn thân thiện dễ mến.
Họ có cách nói tự nhiên, hiền lành dễ thương dễ mến, không làm khách, không hoa văn như lối nói khách sáo thường thấy ở những người Hà Nội thanh lịch, ngại bộc lộ cảm xúc thật. Người Sài Gòn không như vậy, họ thường sống ngay thẳng nghĩ gì nói đó.
Bài tùy bút “Sài Gòn tôi yêu” là một bài tùy bút vô cùng hay và độc đáo thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả. Đồng thời nó cũng thể hiện tình cảm sâu sắc mà tác giả dành cho Sài Gòn một mảnh đất gắn liền với nhiều chiến tích trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Express your thoughts about the song "Saigon I Love" by author Minh Huong
Assignment
The essay "Saigon I love" is a good essay expressing author Minh Huong's insight into the most developed city in Vietnam. The Saigon I Love is the writer's subtle feelings towards the people and land that the author has been attached to for decades.
The opening essay is extremely impressive about the city of Saigon. The image of a youthful Saigon that stays young like a silk tree changing its skin, as tender as a young girl in spring.
This shows the uniqueness and sophistication of author Minh Huong's way of looking and observing. From subtle observation, the author suddenly redirects the article through his feelings for Saigon.
I love Saigon...this refrain was repeated many times by author Minh Huong, affirming that the author's love for Saigon is boundless and incomparable.
Love the early, sweet sunshine, love the wind, love the wind, love the gloomy and sad weather, love the deserted, quiet nights with sparse noise... The author's love for Saigon is incomparable. okay. See more: The best feelings about friendship
The author's delicate love describes and paints a Saigon that is extremely beautiful and full of emotions. Sometimes she's young, like a young girl, sometimes she's old and gloomy, like an old man. Sometimes he is mischievous like a boy.
The author loves Saigon and loves the people who live here, the beauty emanating from the beauty of the soul of gentle people, the characteristics of friendly and lovely Saigon people.
They have a natural, gentle and lovely way of speaking, not being a guest, not being formal like the polite way of speaking often seen in elegant Hanoians, and are afraid to express their true emotions. Saigon people are not like that, they often live uprightly and say whatever they think.
The essay "Saigon I love" is an extremely good and unique essay that shows the author's subtle observations. At the same time, it also shows the author's deep feelings for Saigon, a land associated with many achievements in the history of building and defending the country of our nation.
Source: Sample document
|
Đề bài: Em hãy viết bài văn nêu phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Nhà thơ Xuân Diệu rất mê Hồ Xuân Hương. Ông đã dành nhiều thời gian để thưởng thức, nghiên cứu thơ Xuân Hương và rất tâm đắc với cái biệt danh mà ông đặt cho nhà thơ này: Bà chúa thơ Nôm.
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, cùng thời với đại thi hào Nguyễn Du. Chế độ phong kiến ở giai đoạn suy tàn đã bộc lộ mặt trái đầy xấu xa, tiêu cực. Là người giàu tâm huyết với con người và cuộc đời, Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những điều suy tư trăn trở trước hiện thực phức tạp của xã hội, trước số phận bất hạnh của con người, nhất là phụ nữ. Bài thơ Bánh trôi nước phản ánh thân phận đau khổ, phụ thuộc của người phụ nữ và ngợi ca phẩm chất cao quý của họ.
Bánh trôi là thứ bánh quen thuộc, dân dã của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Gạo nếp xay thành bột nhuyễn, lọc cho mịn, để thật ráo rồi bẻ thành từng miếng nhỏ, nặn cho tròn, nhân làm bằng đường thẻ có màu nâu đỏ. Cho bánh vào nồi nước sôi, luộc chín, vớt ra nhúng sơ vào nước lạnh rồi xếp vào đĩa. Lúc nguội, bánh ăn dẻo và thơm ngọt. Người xưa cho rằng đây là thứ bánh tinh khiết, có thể dùng để cúng. (Mùng 3 tháng 3 Âm lịch có tục cúng trời đất, tổ tiên bằng bánh trôi, bánh chay và hoa quả).
Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật (giống như Quả mít, Cái quạt, Con ốc nhồi…) Hồ Xuân Hương chịu ảnh hưởng sâu sắc của cách diễn đạt trong thơ ca dân gian:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Ra-ma đoạn trích Ra-ma buộc tội (trích sử thi Ra-ma-ya-na của Ấn Độ).Chiếc bánh trôi vừa trắng, vừa tròn, thật đẹp đẽ, đáng yêu nhưng đằng sau những chi tiết rất thực ấy lại là điều Hồ Xuân Hương muôn nói người phụ nữ và thân phận họ. Xưa nay, phụ nữ được gọi là phái đẹp, là tinh hoa của tạo hóa. Bởi vậy, nhìn chiếc bánh trôi nước xinh xắn, ta dễ liên tưởng đến vẻ đẹp trong trắng của người con gái đang xuân.
Cũng giống như chiếc bánh trôi bao lần chìm nổi, người phụ nữ xưa phải chịu số phận bảy nổi ba chìm trong xã hội trọng nam khinh nữ đầy bất công. Lễ giáo phong kiến đã tước đoạt quyền tự do, buộc họ phải sống lệ thuộc vào người khác. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Đã vậy, những thế lực đen tối luôn đẩy họ vào nghịch cảnh đau thương. Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương cũng cùng chịu chung số phận với người phụ nữ trong thơ Nguyễn Du: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung!
Không được làm chủ số phận của mình, người phụ nữ nào có khác chi chiếc bánh trôi ngon hay dở là do tay kẻ làm ra nó: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.
Nhưng điều đáng nói lại là chuyện khác, chuyện tấm lòng son. Nhân bánh trôi làm bằng đường thẻ màu nâu sẫm. Khi bánh chín lớp vỏ bằng bột nếp có màu trắng trong, nhìn thấy rõ màu của nhân. Ví nhân bánh như tấm lòng son thì cái ẩn ý mà tác giả muôn gửi gắm đã bộc lộ ra. Hồ Xuân Hương muốn khẳng định rằng dù có bị chà đạp, vùi dập, dù cuộc đời có ba chìm bảy nổi đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ nguyên vẹn phẩm giá cao quý của mình. Cách nói khiêm nhường mà chứa đựng một ý chí kiên định biết chừng nào. Đồng thời nó như một lời thách thức ngấm ngầm mà quyết liệt với cả xã hội phong kiến bạo tàn:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bài thơ tứ tuyệt chỉ có 4 câu, 28 chữ mà hàm chứa bao ý nghĩa. Nữ sĩ Xuân Hương với cái nhìn nhân văn, với quan điểm tiến bộ và thái độ dũng cảm hiếm có đã phác họa thành công chân dung đẹp đẽ về người phụ nữ Việt Nam. Tư tưởng tiến bộ của Xuân Hương đã được thể hiện qua nghệ thuật thơ sắc sảo, điêu luyện. Điều đó khiến thơ của bà sống mãi trong lòng người đọc.
Xem thêm: Em hãy đọc phần văn bản sau: "Những ngón chân... thành bệnh”. Dựa vào phần văn bản trên đây, em hãy viết bài văn nêu cảm nghĩ của em về đôi bàn tay, ... của một người mà em yêu quý (cha, mẹ hoặc ông, bà, thấy, cô giáo, ...)
|
Topic: Write an essay expressing your feelings about the poem Banh troi nuoc by Ho Xuan Huong.
Poet Xuan Dieu loved Ho Xuan Huong very much. He spent a lot of time enjoying and studying Xuan Huong's poetry and was very fond of the nickname he gave this poet: The Queen of Nom poetry.
Ho Xuan Huong was a famous poet of our country in the late 18th and early 19th centuries, at the same time as the great poet Nguyen Du. Feudalism in its decline stage has revealed its ugly and negative side. As a person rich in enthusiasm for people and life, Ho Xuan Huong has put into his poetry his thoughts and concerns about the complex reality of society and the unfortunate fate of people, especially women. The poem Banh Troi Nuoc reflects the suffering and dependent status of women and praises their noble qualities.
Banh troi is a familiar, rustic cake of the Northern Delta. Grind glutinous rice into a puree, filter until smooth, drain thoroughly, then break into small pieces, shape them into round shape, the filling is made of red brown brown sugar. Put the cake in a pot of boiling water, boil until cooked, take it out, dip it in cold water and put it on a plate. When cooled, the cake is chewy and fragrant. Ancient people believed that this was a pure cake that could be used for worship. (On the 3rd day of the 3rd lunar month, there is a custom of worshiping heaven, earth, and ancestors with floating cakes, vegetarian cakes, and fruits).
The poem Banh Troi Nuoc belongs to the poetic genre (like Jackfruit, Fan, Stuffed Snail...). Ho Xuan Huong is deeply influenced by expressions in folk poetry:
Your body is both white and round,
Seven floating sunken with water.
See more: Analyzing the character of Rama, the excerpt of Rama's accusation (excerpt from the Indian epic Rama-yana). The floating cake is both white and round, so beautiful and lovely, but behind Behind those very real details is what Ho Xuan Huong wants to say about women and their fate. Since ancient times, women have been called beauty, the quintessence of creation. Therefore, looking at the lovely floating cake, we can easily think of the pure beauty of a girl in spring.
Just like a floating cake that has many ups and downs, women in the past had to endure the fate of ups and downs in a society that favors men and is full of injustice. Feudal rituals deprived them of their freedom, forcing them to live dependently on others. At home, obey the father, when married, follow the husband, and the husband obeys the son. In addition, dark forces always push them into painful adversity. The woman in Xuan Huong's poem also suffers the same fate as the woman in Nguyen Du's poem: How painful is the fate of women, The words that fate is bad are also common words!
Not being able to control her own destiny, a woman is no different from a cake that is good or bad depending on the hand of the person who made it: The snake is crushed even if the person molds it.
But what is worth mentioning is another story, the story of a good heart. The filling for the cake is made of dark brown sugar. When the cake is cooked, the crust made of glutinous rice flour is clear white, the color of the filling is clearly visible. Comparing the cake filling to a red heart, the hidden meaning that the author wants to convey is revealed. Ho Xuan Huong wants to affirm that no matter how much she is trampled on, crushed, no matter how ups and downs life brings, a woman still retains her noble dignity. What a humble way of speaking that contains such a steadfast will. At the same time, it is like a secret yet fierce challenge to the entire brutal feudal society:
The snake is crushed even if it is molded by one's hands,
But I still keep my heart.
The quatrain poem has only 4 lines and 28 words but contains so much meaning. Female artist Xuan Huong, with her humanistic perspective, progressive perspective and rare courageous attitude, successfully sketched a beautiful portrait of Vietnamese women. Xuan Huong's progressive ideology was expressed through sharp and skillful poetic art. That makes her poetry live forever in the hearts of readers.
See more: Read the following text: "The toes... become sick". Based on the text above, write an essay about your feelings about the hands,... of a someone you love (father, mother, grandfather, grandmother, teacher, ...)
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya
Trăng là chủ đề sáng tác, là cảm hứng của các thi nhân và Bác Hồ không chỉ là chiến sĩ mà còn là một nhà thơ lớn có tình yêu thiên nhiên với tâm hồn nhạy cảm. Trong những năm đầu ở chiến khu Việt Bắc, trong một đêm trăng đẹp, Bác đã sáng tác ra bài thơ Cảnh khuya để lại trong em nhiều cảm xúc
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya
Bài thơ “Cảnh khuya” thể hiện tình yêu thiên nhiên song hành cũng là tình yêu nước sâu đậm của Bác trong một đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ, một màn đêm thanh tĩnh buông xuống khắp khu rừng, nó làm cho tiếng suối dủ ở rất xa vẫn theo gió mang tiếng ca êm đềm, trong vắt của mình cho những người yêu vẻ đẹp sáng ngời của đêm trăng cùng thưởng thức. Tiếng suối và ánh trăng, chao ôi hai thứ ấy hòa quyện thì thật là tuyệt vời! Nó khiến cho người đang tham gia chính sự như Bác đã có một cảm nhận tinh tế về tiếng ca này. Tiếng suối dịu êm khoan nhặt như một khúc hát trữ tình sâu lắng. Bác đã khéo léo dùng nghệ thuật lấy động tả một khung cánh yên tĩnh có thể nghe rõ âm vang từ xa vọng lại. Và Người đã so sánh tiếng suối với tiếng hát để nhấn mạnh nét gợi tả mang sức sống và hơi ấm của con người. Sự ví von trên đã làm cho em nhớ lại câu thơ trong tác phẩm “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi từng viết
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.”
Mỗi vần thơ, mỗi khung cảnh, âm thanh đều là tiếng suối nhưng được cảm nhận khác nhau ở nhiều khía cạnh. Song tất cả vẫn là một tình yêu thiên nhiên. Câu thơ đã cho ta thấy rằng: dù là một vĩ lãnh tụ cách mạng nhưng Bác vẫn mang tâm hồn tràn đầy tình cảm lãng mạn, đẹp đẽ. Cám ơn Bác, ngòi bút tài hoa và tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm của Người đã giúp em cảm nhận sự ngọt ngào, du dương của âm thanh suối chảy
“Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
Ánh sáng dịu dàng, thanh khiết từ ánh trăng len lõi chiếu vào lá và hoa tạo nên vẻ đẹp lấp lánh. Hoa lá nghiêng bong trên mặt đất tạo nên những bức tranh lấp loá, lúc ẩn lúc hiện. Hoa lá cỏ cây và ánh trăng lồng quyện vào nhau, trăng đan vào cậy cổ thụ, trăng tràn vào hoa. Đó như một bức tranh tuyệt vời của đất nước. Bác đã làm mọi sự vật sống động qua nghệ thuật nhân hóa “lồng” để miêu tả đan xen cay lá và ánh trăng. Bác quả là một người đa cảm và có tâm hồn vô cùng phong phú! Trăng trở nên thú vị và lãng mạn trong cảnh khuya sáng ngời, lung linh, huyền ảo. Đọc thơ mà em cứ hình dung cảnh thơ như đang hiện lên mờ ảo trước mắt. Khung cảnh thật thơ mộng kết hợp với nhạc tạo nên một bức tranh đầy sinh động. Vì vẻ đẹp bất tận của mình, trăng là người bạn của các nhà thơ, ta khó có thể hững hờ với vẻ đẹp của trăng
Xem thêm: Qua văn bản "Một thứ quà của lúa non: cốm" của Thạch Lam, em hãy phát biểu cảm nghĩ về cây lúa Việt Nam“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ”
Đọc đến đây ai cũng nghĩ Bác vẫn còn thức vì trăng, vì sự cuốn hút của thiên nhiên nhưng người không chỉ xúc động trước vẻ đẹp của đất trời mà còn vì
“Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”
Nước nhà đang bị giặc xâm lăng, giày xéo, bao người còn sống trong cơ cực, lầm than. Và để nhấn mạnh nỗi lo của mình, Bác đã điệp vòng “chưa ngủ” như láy lại tâm tư của Bác, một người luôn nặng lòng với quê hương. Hai câu thơ cuối giúp ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người yêu thiên nhiên tha thiết nhưng cũng chính vì yêu thiên nhiên mà luôn lo cho sự nghiệp của đất nước.Đây chính là nỗi lòng, là tâm tình của vị lãnh tụ. Đồng thời ta cũng đã thấy Bác Hồ của chúng ta dẫu bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian để chiêm nghưỡng thiên nhiên, có lẽ thiên nhiên chính là người bạn giúp Bác khuây khoả, bớt đi sự vất vả mà Bác phải chăng chở suy tư. Từ đây, ta nhận thấy Bác là một người luôn biết hài hoà giữa công việc với tình yêu thiên nhiên và càng yêu thiên nhiên thì trách nhiệm đối với công việc càng cao bởi ta có thể nhận thấy đằng sau hình ảnh người ung dung ngắm trăng đó là một nõi khao khát về một đất nước thanh bình, để ngày ngày con người được sống tự do, hạnh phúc.
Dường như trong Bác luôn xoáy sâu câu hỏi: Biết đến bao giờ đất nước mới đc tự do để con người thoả sức ngắm trăng? Đọc đến đây ta càng hiểu rõ hơn con người của Bác đó là một người luôn canh cánh trong lòng nỗi lo vì dân vì nước, vì đất nước Bác có thể hi sinh tất cả. Hình ảnh của Bác làm em dâng trào cảm xúc mến yêu, kính trọng Bác. Và ta đã luôn tự hỏi rằng: Có bao giờ Người được thảnh thơi để tận hưởng niềm vui của riêng mình? Bác thật vĩ đại trong tâm hồn em và của cả dân tộc Việt Nam. Qua bài thơ, ta cảm nhận được lòng yêu quê hương trong Bác thật sâu đậm, lớn lao và đã bắt gặp một tâm hồn thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản. Tác phẩm là một bức tranh đẹp về quê hương, về con người và sự sự hài hòa giữa cảnh và tình.
Bài thơ đã khép lại trong niềm xúc động dạt dào. Bác đã để lại cho đời những vần thơ hay đầy ý nghĩa, những vần thơ đó đã khơi dậy trong em tình yêu thiên nhiên và niềm kính yêu vô hạn vị Cha già của dân tộc. Qua bài thơ này ta càng hiểu rằng trong hoàn cảnh nào, Bác vẩn giữ được thái độ bình tĩnh chủ động như vậy, mặc dù ẩn trong phong thái ung dung tự tại ấy là nỗi lo cho nước, nỗi thương dân. Trong cuộc đời 79 năm, Bác Hồ có biết bao đêm không ngủ vì nhiều lẽ nhưng điều khiến chúng ta cảm phục vô hạn đó là ý thức, trách nhiệm của Bác trước vận mệnh nước nhà. Ý thức ấy ở Bác không chút nào xao lãng.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương qua bài Bánh trôi nước
|
Topic: Express your feelings about the poem Late Night Scene
The moon is the subject of creation and inspiration for poets, and Uncle Ho was not only a soldier but also a great poet with a love for nature and a sensitive soul. During the first years in the Viet Bac war zone, on a beautiful moonlit night, Uncle Ho composed the poem Late Night Scene, which left me with many emotions.
“The sound of the stream is as clear as a distant song,
The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages
The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet
Not sleep, worrying that country."
Express your thoughts about the poem Late Night Scene
The poem "Late Scene" shows Uncle Ho's love for nature and his deep love for water on a moonlit night in the mountains and forests of Viet Bac.
"The sound of the stream is as clear as singing in the distance"
When everyone fell asleep, a quiet night fell throughout the forest, making the sound of the stream, even far away, follow the wind, carrying its peaceful, clear song to those who love the bright beauty. The people of the moonlit night enjoy it together. The sound of the stream and the moonlight, oh my, those two things blend together so wonderfully! It makes people like Uncle Ho who are involved in politics have a delicate feeling about this song. The gentle sound of the stream is like a deep lyrical song. He skillfully used the art of using animation to depict a quiet wing where echoes from far away can be clearly heard. And he compared the sound of a stream with singing to emphasize its depiction of human vitality and warmth. The above analogy reminds me of the poem in the work "Con Son ca" written by Nguyen Trai.
“Con Son stream murmurs
I hear it like the sound of a harp in my ears.”
Every poem, every scene, every sound is the sound of a stream but is perceived differently in many aspects. But it's all still a natural love. The poem shows us that: although he is a great revolutionary leader, Uncle Ho still has a soul full of romantic and beautiful feelings. Thank you, Uncle, your talented pen and passionate nature-loving soul have helped me feel the sweetness and melodiousness of the sound of a flowing stream.
“The moon cage of ancient trees, the shadow of flower cages”
The gentle, pure light from the moonlight shines on the leaves and flowers, creating sparkling beauty. Flowers and leaves tilting on the ground create sparkling pictures, sometimes hidden and sometimes visible. Flowers, leaves, trees and moonlight intertwine, the moon weaves into the ancient tree, the moon overflows into the flowers. It's like a wonderful picture of the country. He made everything come alive through the anthropomorphic art of "cage" to depict the intertwining of leaves and moonlight. He is truly a sentimental person and has an extremely rich soul! The moon becomes interesting and romantic in the bright, shimmering, magical night scene. Reading poetry, I keep imagining the poetic scene appearing blurry before my eyes. The poetic scene combined with music creates a vivid picture. Because of its endless beauty, the moon is a friend of poets, we can hardly be indifferent to the beauty of the moon.
See more: Through the text "A gift of young rice: green rice" by Thach Lam, please express your feelings about Vietnamese rice: "The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet"
Reading here, everyone thinks Uncle Ho is still awake because of the moon, because of the attraction of nature, but people are not only moved by the beauty of heaven and earth but also because of the beauty of nature.
"Can't sleep because of worries about the country"
The country is being invaded and trampled by enemies, many people are still living in poverty and misery. And to emphasize his worries, Uncle Ho repeated "not sleeping yet" as if echoing the thoughts of Uncle Ho, a person who always had a heavy heart for his homeland. The last two verses help us see Uncle Ho more clearly. A person who loves nature passionately, but also because he loves nature, he always worries about the cause of the country. This is the heart and sentiment of the leader. At the same time, we have also seen that even though our Uncle Ho is busy with thousands of jobs, he still takes time to admire nature. Perhaps nature is the friend that helps him relax and reduce the hardship that he has to face. Does it carry thoughts? From here, we realize that Uncle Ho is a person who always knows how to harmonize work with his love for nature, and the more he loves nature, the higher his responsibility for his work because we can see behind the image of a leisurely person watching. That moon is a place of longing for a peaceful country, so that people can live freely and happily every day.
It seems that Uncle Ho always has a deep question: When will the country be free so that people can freely admire the moon? Reading here, we understand more clearly who Uncle Ho is, a person who always worries in his heart for the people and the country, for the country he can sacrifice everything. Uncle Ho's image makes me feel a surge of love and respect for him. And I have always wondered: Will he ever be free to enjoy his own joy? You are so great in my soul and that of the entire Vietnamese people. Through the poem, we feel Uncle Ho's deep and great love for his homeland and encounter a noble soul embedded in the personality of a communist soldier. The work is a beautiful picture of the homeland, people and the harmony between scene and love.
The poem ends with overwhelming emotion. He left behind beautiful and meaningful poems for life, those poems have aroused in me a love of nature and infinite respect for the Father of the nation. Through this poem, we understand more and more that under any circumstances, Uncle Ho still maintained such a calm and proactive attitude, even though hidden in that leisurely and carefree manner was his concern for the country and his compassion for the people. During his 79-year life, Uncle Ho had many sleepless nights for many reasons, but what makes us endlessly admire is his awareness and responsibility before the fate of his country. That awareness in Uncle Ho was not distracted at all.
Source Edufly
See more: The fate of women in Ho Xuan Huong's poetry through the poem Floating Water Cake
|
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang
Hướng dẫn
Việt Nam có rất nhiều con đèo nổi tiếng như Đèo Hài Vân, Đèo Cả, Đèo Phương Hoàng… nhưng nổi bật nhất vẫn là Đèo Ngang vì nó được đi vào thơ ca, được các thế hệ nhắc đến nhờ bài thơ “Qua Đèo Ngang”, một trong sáu bài thơ Đường luật còn lưu lại cho đến ngày nay của nữ thi sĩ tài danh Nguyễn Thị Hĩnh, còn được người đời biết đến qua tên gọi Bà Huyện Thanh Quan. Với những vần thơ trữ tình, in sâu vào lòng người đọc, người nghe nỗi xúc dộng lẫn thán phục, bài thơ đã miêu tả cảnh vật con đèo cũng như tâm trạng của mình khi đi từ Thăng Long vào kinh đô Huế nhậm chức. Những vần thơ ấy dược lưu truyền lại như sau:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bèn sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dùng chân đúng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta ”
Cảnh tượng Đèo Ngang hiện lên qua thời gian và không gian trong hai câu “Đề” như sau:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa ”
Nhà thơ dừng chân tại Đèo Ngang vào lúc xế tà. Việc sử dụng hình ảnh bóng chiều vào câu thơ có tác dụng giúp người đọc, người nghe cảm thấy bồi hồi xao xuyến vì đây là lúc mặt trời khuất núi, vương lại những tia nắng vàng rượm rồi tắt hẳn. Buổi xế tà là quãng thời gian các nhà văn, nhà thơ thường dùng để diễn tả nỗi buồn, nỗi trống vắng như nhà thơ Nguyễn Du đã viết: “Buồn trông cửa bể chiều hôm.” Hoặc Trần Nhân Tông đã ghi lại trong bài Thiên Trường vãn vọng: “Bóng chiều man mác có dường không.” Việc sử dụng buổi chiều đã phản ánh được tâm sự chất chứa trong lòng tác giả về một nỗi buồn hữu hữu vô vô. Nỗi buồn càng tăng lên khi cảnh vật ở đây có đá, lá hoa chen chúc nhau mọc lên tạo thành một cảnh tượng hoang dã, không có bàn tay chăm sóc của con người. Hình ảnh này cũng đã in sâu vào tâm trí em cảm xúc yêu thương quê hương và từ đó thấu hiểu hơn nỗi nhớ nhà thiết tha của tác giả khi phải rời quên đến một nơi xa lạ.
Trong bóng chiều, cảnh vật tại con đèo dần dần mở ra:
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”
Xem thêm: Hãy giải thích và chứng minh câu ngạn ngữ của phương Tây: "Không có nghề nào hèn cả, chỉ có những kẻ hèn mà thôi"Dưới ngòi bút của nhà thơ, cảnh vật con đèo hiện lên thật cụ thể, sinh động! Cụ thể ở chi tiết vài chú tiều phu lom khom đốn củi dưới núi, còn bên kia sông lác đác, thưa thớt một vài căn nhà đơn sơ. Bà Huyện Thanh Quan đã thành công trong việc sử dụng biện pháp đảo ngữ. Từ “lom khon” được dưa lên trước nhằm diễn tả cảnh Đèo Ngang tuy có sự sống của con người nhưng người thì lại vừa không thấy mặt vừa không gặp được để trò chuyện. Còn nhà dân thì ở bên kia sông, đồng thời lại thưa thớt vài căn nên có cũng như không. Chính điều này càng làm tăng thêm nỗi buồn cho nhà thơ.
Tâm sự của tác giả càng lúc càng rõ nét qua hai câu “luận”:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”
Bức tranh phong cảnh ở Đèo Ngang chẳng những có màu sắc của cảnh vật mà còn trở nên da diết với âm thanh của các loài chim như con chim quốc, con chim da đa… Tiếng chim quốc như nhắc nhở mọi người về điển tích vua Thục Đế hoá thành con chim quốc để luôn nhớ đến nỗi đau mất nước của mình. Em thật khâm phục nghệ thuật đối ý, đối lời trong hai câu thơ này vì khi ghép lại với nhau, người dọc nhận ra ngay dược tâm sự của nhà thơ “Nhớ thương nước nhà, quốc gia quốc gia”.
Tâm trạng của tác giả khi dừng chân tại Đèo Ngang dược đúc kết trong hai câu thơ cuối:
“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”
Đứng trước cảnh trời cao vời vợi, núi non trùng điệp, sông nước mênh mông, bất cứ ai cũng cảm thấy nhỏ bé, mong manh… Nhà thơ như thu mình lại, chôn giấu sự trống vắng trong tận cõi lòng. “Ta với ta” thể hiện rõ cảm xúc khắc khoải của nhà thơ: tuy một mà hai, tuy mắt ngắm nhìn cảnh thiên nhiên ở con dèo nhưng lòng lại nặng trĩu nhớ về quê nhà không biết bao giờ trở lại. Tâm trạng u buồn này khác hẳn với niềm vui của nhà thơ Nguyễn Khuyên khi sử dụng cụm từ “Ta với ta” trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” vì tuy hai người nhưng cùng một tấm lòng, một tình bạn chân thật. Câu kết của bài thơ như một sợi dây liền mạch, nối xuyên suốt cả bài thơ tạo cho người đọc một cảm xúc day dứt, khó quên.
Bài thơ Qua Đèo Ngang đã thành công khi chuyển tải được tâm sự u buồn của Bà Huyện Thanh Quan, đồng thời lồng ghép vào đó là cảnh tượng thiên nhiên rất thực, rất sinh động của một con đèo nổi tiếng trong thơ ca và trong lịch sử nước ta. Bài thơ không chỉ thành công về mặt ý nghĩa mà còn rất chỉnh chu trong việc dùng từ, tạo câu thật đặc sắc gây thích thú cho người đọc, người nghe.
Càng thấm thìa những vần thơ mang nặng tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan, em càng cảm mến tấm lòng nhớ nước thương nhà của bà hơn. Từ đó em thấy mình phải học giỏi môn Văn để có thể để lại cho đời những vần thơ tuyệt diệu như nữ văn sĩ tài danh.
Các em có thể xem thêm bài: Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang và cách lập dàn ý chi tiết bài thơ.
Nguồn: thêm: Nêu suy nghĩ của em về vấn đề thanh niên phải sống có lí tưởng
|
Express your thoughts about the poem Qua Deo Ngang
Instruct
Vietnam has many famous passes such as Hai Van Pass, Ca Pass, Phuong Hoang Pass... but the most prominent is still Ngang Pass because it is included in poetry, mentioned by generations thanks to the poem "Through Ngang Pass ", one of the six Tang Luat poems preserved to this day by the talented female poet Nguyen Thi Hinh, also known by the name Ba Huyen Thanh Quan. With lyrical verses that leave a deep impression on the hearts of readers and listeners with both emotion and admiration, the poem describes the scenery of the pass as well as his mood when going from Thang Long to the capital Hue to take office. These poems were passed down as follows:
“Step to Ngang Pass, the sunset,
Chen stone plants, leaves flowers chen.
Crouching under the mountain, making a few notes,
There are a few houses along the river and market.
Missing my country makes me sad,
Trade the mouth so adhered fatigue.
Use your feet to correct the sky, mountains, water,
A piece of me with my own situation "
The scene of Ngang Pass appears through time and space in two sentences "Deo" as follows:
“Step to Ngang Pass, the sunset,
Chen stone plants, leaves flowers chen "
The poet stopped at Ngang Pass in the late afternoon. Using the image of the afternoon shadow in the poem has the effect of helping readers and listeners feel excited because this is the time when the sun sets behind the mountain, leaving behind golden rays of sunlight and then disappears completely. Late afternoon is a time that writers and poets often use to express sadness and emptiness as poet Nguyen Du wrote: "Sadly looking at the sea door in the afternoon." Or Tran Nhan Tong recorded in the article Thien Truong Vows: "The shadow of the afternoon seems empty." The use of afternoon reflects the feelings contained in the author's heart about a sadness that exists and does not exist. The sadness increases when the landscape here has rocks, leaves and flowers growing together, creating a wild scene, without human hands to care for it. This image also imprinted in my mind the feeling of love for my homeland and from there I better understood the author's intense homesickness when having to leave for a strange place.
In the dusk, the scene at the pass gradually opens up:
"Hoop down under the mountain, cry a few times,
Few sporadic riverside home market."
See more: Please explain and prove the Western proverb: "There are no cowardly jobs, there are only cowardly people." Under the poet's pen, the scenery of the pass appears very concretely and vividly. move! Specifically, there are a few woodcutters crouching down to chop firewood under the mountain, while on the other side of the river there are a few simple houses. Ms. Huyen Thanh Quan was successful in using anagrams. The word "lom khon" is mentioned first to describe the scene where Ngang Pass has human life, but people are neither visible nor meet to talk. As for the people's houses, they are on the other side of the river, and at the same time, there are only a few houses, so it's almost impossible to have them. This makes the poet even more sad.
The author's feelings become increasingly clear through two "essay" sentences:
“It hurts to miss my country,
Trade the mouth so adhered fatigue."
The landscape painting at Ngang Pass not only has the colors of the scenery but also becomes poignant with the sounds of birds such as the national bird, the partridge... The sound of the national bird seems to remind everyone of the king's legend. Emperor Shu transformed into a national bird to always remember the pain of losing his country. I really admire the art of contrasting ideas and words in these two verses because when put together, the reader immediately recognizes the poet's confession: "Loving for home country, nation."
The author's mood when stopping at Ngang Pass is summed up in the last two verses:
“Stop, stop, sky, mountains, water,
A piece of me with my own situation."
Standing in front of the towering sky, rolling mountains, vast rivers, anyone feels small and fragile... The poet seems to shrink into himself, burying the emptiness deep in his heart. "Me and Me" clearly shows the poet's anxious feelings: although one is two, although his eyes look at the natural scenery at the pond, his heart is heavy with memories of his homeland, not knowing when he will return. This sad mood is completely different from the joy of poet Nguyen Khuyen when using the phrase "I and I" in the poem "You come to visit" because although the two people have the same heart, a true friendship. The poem's ending line is like a seamless thread, connecting throughout the entire poem, giving the reader a tormenting, unforgettable feeling.
The poem Crossing Deo Ngang was successful in conveying the sad feelings of Ba Huyen Thanh Quan, while integrating into it the very real, very vivid natural scene of a famous pass in poetry and in poetry. our country's history. The poem is not only successful in terms of meaning but is also very precise in its use of words, creating unique sentences that interest readers and listeners.
The more I absorb the emotional poems of Ba Huyen Thanh Quan, the more I appreciate her love for her country and home. From then on, I felt like I had to study Literature well so that I could leave behind wonderful poems like a talented female writer.
You can read more articles: Analyzing the poem Qua Deo Ngang and how to make a detailed outline of the poem.
Source: more: State your thoughts on the issue of young people having to live with ideals
|
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ rằm tháng giêng lớp 7
Hướng dẫn
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta, đồng thời là một nhà thơ xuất sắc của nền văn học cách mạng. Bác đã sáng tác bài thơ “Rằm tháng giêng” ở Việt Bắc, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến đầy khó khăn gian khổ chống thực dân Pháp.
Bằng ngòi bút trữ tình chứa chan tình cảm, nhà thơ đã gây xúc động cho người đọc, người nghe bằng những câu thơ miêu tả cảnh đẹp đêm trăng, đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên gắn liền với lòng yêu nước sâu nặng một cách sinh động như sau:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân,
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Bức tranh thiên nhiên thơ mộng trong bài thơ được bắt đầu bằng hình ảnh:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân, ”
Câu thơ như gợi cho em lòng yêu thích cảnh đẹp thiên nhiên ở Việt Bắc: khung cảnh bầu trời cao rộng, trong trẻo, nổi bật trên bầu trời ấy là vầng trăng tròn đầy, toả sáng xuống khắp trời đất trong đêm rằm tháng giêng. Từ “xuân” được lặp đi lặp lại đã nhấn mạnh sự diễn tả vẻ đẹp và sức sống mùa xuân đang tràn ngập cả đất trời vào một đêm trăng. Hình ảnh này gợi cho em nhớ tới câu thơ tương tự của Bác khi vẽ cảnh đẹp này: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.”
Những dòng thơ tiếp theo toát lên sự suy tư, trầm lắng:
Xem thêm: Giải thích và bình luận câu tục ngữ: ‘Có làm thì mới có ăn…’.“Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Đọc đến đây, lòng em bỗng dâng lên niềm cảm phục, kính yêu đối với Bác. Mặc dù phải ngày đêm lo nghĩ việc nước, nhiều đêm không ngủ, nhưng không phải vì thế mà tâm hồn Người quên rung cảm trước vẻ đẹp của một đêm trăng rừng, một tiếng suôi trong chảy nghe như “tiếng hát xa”, hay cảnh trời nước bao la dưới ánh trăng rằm tháng giêng. Câu thơ thể hiện sự bình tĩnh, chủ động, lạc quan ở vị lãnh tụ. Phong thái ấy toát ra từ những rung cảm tinh tế và dồi dào trước thiên nhiên, đất nước.
Phong thái ung dung, lạc quan còn thể hiện ở hình ảnh con thuyền của vị lãnh tụ và các đồng chí sau lúc bàn bạc việc quân trở về, lướt đi phơi phới, chở đầy ánh trăng giữa không gian của cảnh trời nước bao la dường như cũng ngập tràn ánh trăng. Phong thái ấy được toát ra từ giọng thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại, khoẻ khoắn, trẻ trung.
Đọc xong bài thơ với niềm cảm xúc dạt dào, em rất khâm phục lãnh tụ Hồ chí Minh vì qua bài “Rằm tháng giêng”, nhà thơ đã để lại cho đời những câu thơ tuy đơn sơ, giản dị nhưng giàu tình ý, giàu tính nghệ thuật độc đáo của thơ hiện đại nhưng rất đậm màu sắc cổ điển. Em càng khâm phục hơn nữa khi nhà thơ đã làm rung động người đọc, người nghe về hình ảnh của Bác, một nhà thơ có tâm hồn nghệ sĩ hoà hợp thống nhất với cốt cách của người chiến sĩ, vị lãnh tụ.
Học tập phong cách sáng tác tài tình của Bác Hồ, chúng em càng phải cố gắng nhiều hơn nữa để mong sao có thể để lại cho đời sau những câu thơ, câu văn làm đẹp cuộc đời, làm đẹp lòng người.
Nguồn: thêm: Bàn về học vấn với con người và cuộc sống, ngạn ngữ Hi Lạp có câu: "Học vấn là những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào". Em hãy giải thích và trình bày cảm nhận của mình về ý kiến trên
|
Express your thoughts about the full moon poem in January for grade 7
Instruct
Ho Chi Minh is our beloved leader and an excellent poet of revolutionary literature. He composed the poem "Full Moon of the First Month" in Viet Bac, during the early period of the difficult and arduous resistance war against the French colonialists.
With a lyrical pen filled with emotion, the poet touched readers and listeners with verses describing the beautiful moonlit night scene, while expressing a love of nature associated with a deep patriotism. vividly as follows:
“On the full moon of spring, the moon shines brightly,
Spring river, water and sky color add spring,
In the midst of discussing military affairs,
Late at dawn moon filled the boat."
The poetic picture of nature in the poem begins with the image:
“On the full moon of spring, the moon shines brightly,
The river springs, the water mixes with the color of the sky, adding spring."
The poem reminds me of my love for the natural beauty of Viet Bac: the sky is high, wide, clear, and prominent in that sky is the full moon, shining down on the whole sky and earth on the full moon night of January. . The repeated word "spring" emphasizes the description of the beauty and vitality of spring that is filling the earth and sky on a moonlit night. This image reminds me of Uncle Ho's similar verse when painting this beautiful scene: "The moon cage of an ancient tree shadows the cage of flowers."
The following lines of poetry exude contemplation and quietness:
See more: Explain and comment on the proverb: 'If you work, you will eat...'. "In the middle of discussing military matters,
Late at dawn moon filled the boat."
Reading this, my heart suddenly filled with admiration and love for Uncle Ho. Even though he had to worry about affairs day and night, and many nights without sleep, that did not stop his soul from forgetting to be moved by the beauty of a forest moonlit night, the sound of a clear stream flowing like "distant singing", or Vast landscape of sky and water under the full moon of January. The poem shows calmness, initiative, and optimism in the leader. That style exudes from the delicate and abundant vibes in front of nature and country.
The leisurely and optimistic attitude is also shown in the image of the boat of the leader and his comrades, after discussing the return of the troops, sailing happily, filled with moonlight in the space of vast sky and water. It also seemed to be filled with moonlight. That style is exuded by a poetic voice that is both classic and modern, strong and youthful.
After reading the poem with great emotion, I admired leader Ho Chi Minh very much because through the poem "Full Moon of the First Month", the poet left behind simple, simple yet richly meaningful verses for the world. Rich in the unique artistry of modern poetry but very rich in classical colors. I admire even more when the poet has moved readers and listeners with the image of Uncle Ho, a poet whose artistic soul is in harmony with the personality of a soldier and leader.
Learning from Uncle Ho's ingenious writing style, we must try even harder to be able to leave behind poems and sentences that beautify life and please people.
Source: more: Discussing education with people and life, a Greek proverb has the saying: "Education is bitter roots but sweet fruit." Please explain and present your feelings about the above opinion
|
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tương truyền, Lí Thường Kiệt sáng tác bài thơ này trong một trận quân ta chiến đấu chông quân Tống xâm lược. Tác giả không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một nhà thơ nổi tiếng.
Cuối năm 1076, mấy chục vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm đầu sang cướp nước ta. Quân ta dưới quyền chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm, chặn chân chúng lại ở phòng tuyến bên sông Như Nguyệt. Truyền thuyết kể rằng một đêm nọ, quân sĩ nghe văng vẳng trong đền thờ Trương Hông và Trương Hát (hai tướng quân của Triệu Quang Phục đã hi sinh vì nước) có tiếng ngâm bài thơ này. Điều đó ý nói thần linh và tổ tiên phù hộ cho quân ta. Bài thơ đã góp phần khích lệ binh sĩ quyết tâm đánh tan quân giặc, buộc chúng phải rút lui nhục nhã vào tháng 3 năm 1077.
Từ trước đến nay, người ta thường cho rằng vị tướng Lí Thường Kiệt làm bài thơ này với mục đích động viên khí thế binh sĩ của mình. Tất nhiên là thế, nhưng câu thứ tư (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm) lại rõ ràng là lời cảnh cáo quân giặc. Thì ra đối tượng nghe thơ không chỉ là quân ta mà còn là quân địch. Chính vì thế mà bài thơ được coi là một văn bản địch vận nhằm lung lay ý chí chiến đấu của đối phương.
Tác giả khẳng định: Chủ quyền độc lập của nước Nam là một chân lí không gì có thể bác bỏ được. Dân tộc Việt bao đời nay đã kiên cường chiến đấu để giữ vững bờ cõi, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy.
Bài thơ Sông núi nước Nam thể hiện niềm tin tưởng và tự hào vào sức mạnh chính nghĩa của dân tộc ta có thể tiêu diệt bất kì kẻ thù hung bạo nào dám xâm phạm đến đất nước này. Vì thế mà nó có sức mạnh kì diệu cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta, làm khiếp vía kinh hồn quân xâm lược và góp phần tạo nên chiến thắng vinh quang. Tinh thần và sức mạnh của bài thơ toát ra từ sự khẳng định dứt khoát, mãnh liệt như dao chém cột.
Bài thơ lưu lại từ xưa không có tựa đề. Các sách thường lấy mấy từ Nam quốc sơn hà trong câu đầu làm tựa đề cho bài thơ. (Dịch là Sông núi nước Nam):
Sông núi Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chìa xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây!
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Câu thứ nhất nêu lên chân lí: Sông núi Nam Việt vua Nam ở. Lẽ ra phải nói là dân Nam ở thì đúng hơn nhưng thời bấy giờ, vua đại diện cho quốc gia, dân tộc. Chân lí ấy thật đơn sơ, hiển nhiên nhưng nhân dân tã phải gian khổ đấu tranh bao đời chống ngoại xâm mới giành lại được.
Từ khi nước nhà có chủ quyền cho đến năm 1076, dân tộc Việt đã nhiều lần khẳng định chân lí ấy bằng sức mạnh quân sự của mình. Lũ giặc phương Bắc quen thói hống hách, trịch thượng, luôn nuôi tham vọng cướp nước nên chúng khăng khăng không chấp nhận.
Ý nghĩa câu thơ không dừng lại ở đó. Tác giả xứng danh là nước Nam với chủ ý gạt bỏ thái độ khinh miệt coi nước ta là quận huyện tồn tại trong đầu óc lũ cướp nước bấy lâu nay. Đặt nước mình (Nam quốc) ngang hàng với (Bắc quốc). Xưng vua Nam (Nam đế) cũng là bác bỏ thái độ ngông nghênh của bọn vua chúa phương Bắc hay tự xứng là thiên tử (con trời), coi thường vua các nước chư hầu và gọi họ là vương. Các từ nước Nam, vua Nam vang lên đầy kiêu hãnh, thể hiện thái độ tự hào, tự tôn cùng tư thế hiên ngang làm chủ đất nước của dân tộc Việt. Đó không phải là lời nói suông. Chiến dịch tấn công ào ạt của quân ta vào căn cứ của quân cướp nước mấy tháng trước đó là một bằng chứng hùng hồn. Do đó, chân lí nói trên càng có cơ sở thực tế vững chắc.
Ngày ấy, triều đình nhà Tống lấy cớ ta dám quấy nhiễu vùng biên ải nên phải dấy binh hỏi tội. Đầu năm 1076, quân ta đã tiêu diệt các căn cứ lương thảo, vũ khí, quân đội… chuẩn bị cho cuộc xâm lược của chúng ngay bên đất chúng. Cho nên chủ tướng họ Lí nhắc lại chân lí này để quân dân nước Nam đang chiến đấu nắm chắc thêm lưỡi gươm giết giặc, mặt khác để vạch trần bộ mặt phi nghĩa của quân thù và đánh mạnh vào tinh thần chúng.
Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’Câu thứ hai: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Vằng vặc sách trời chia xứ sở) khẳng định chủ quyền của nước Nam đã được ghi rõ trên sách trời. Sách trời đã chia cho vua Nam có riêng bờ cõi.
Người xưa quan niệm rằng các vùng đất đai dưới mặt đất ứng với các vùng sao trên trời. Nước nào có vua nước đó. Điều đó là do trời định nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh khiến cho chân lí nêu ở câu trên càng tăng thêm giá trị.
Câu thơ thứ ba: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? (Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?) là câu hỏi đối với binh tướng giặc. Chủ quyền độc lập của nước Nam không chỉ là chuyện của con người mà còn là chuyện vằng vặc (rõ ràng, minh bạch) trên sách trời, không thể chối cãi, ai cũng phải biết, phải tôn trọng. Vậy cớ sao quân giặc kia lại dám xâm phạm tới? Câu hỏi thể hiện thái độ vừa ngạc nhiên vừa khinh bỉ của tác giả. Ngạc nhiên tại sao tướng sĩ của một nước tự xưng là thiên triều mà lại dám phạm tới lệnh trời? Khinh bỉ vì coi chúng là nghịch lỗ, tức lũ giặc cướp ngỗ ngược, ngang tàng.
Gọi chúng là nghịch lỗ tức là tác giả đã đặt dân tộc Việt vào tư thế chủ nhà và tin rằng mình có đủ sức mạnh để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền độc lập.
Tác giả tăng cường sức khẳng định cho chân lí hiển nhiên đã nêu ở trên bằng nghệ thuật đối lập giữa cái phi nghĩa của lũ giặc dữ với cái chính nghĩa của nước Nam và sự phân chia minh bạch ở sách trời.
Câu thứ tư: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng mày nhất định phải tan vỡ), ý thơ vẫn tiếp tục thể hiện thái độ khinh bỉ quân giặc và niềm tin sắt đá vào chiến thắng tất yếu của quân ta.
Ở trên, tác giả gọi quân xâm lược là giặc, là nghịch lỗ thì đến câu này, ông gọi đích danh như có chúng trước mặt: chúng mày. Cách xưng hô không khác gì người trên với kẻ dưới nhưng không hàm ý thân mật, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo chúng: nhất định phải tan vỡ. Y như là sự việc đã sắp đặt trước, chỉ chờ kết quả. Kết quả sẽ ra sao? Đó là chúng mày không chỉ thua, mà thua to và thất bại thảm hại. Mười vạn quân giặc do hai tướng giỏi chỉ huy, quân ta dâu phải dễ đánh bại nhưng, vì hành động của chúng phi nghĩa nên tất yếu chúng sẽ bại vong. Ngoài ý cảnh cáo giặc, câu thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh quân dân ta trên dưới đồng lòng và một niềm tự hào cao vút.
Câu thơ nguyên văn bằng chữ Hán: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư có nghĩa là: Rồi xem, chúng bay sẽ tự chuốc lấy phần thất bại thảm hại. Thất bại ghê gớm của giặc là điều không thể tránh khỏi bởi chúng là kẻ dám xâm phạm tới điều thiêng liêng nhất của đạo trời và lòng người.
Một lần nữa, chân lí về chủ quyền độc lập rất thuận lòng người, hợp ý trời của nước Nam đã được tác giả khẳng định bằng tạt cả sức mạnh của lòng yêu nước, căm thù giặc.
Bài Thơ thần ra đời trong một hoàn cảnh cụ thể và nhằm vào một mục đích cụ thể. Cuộc đối đầu giữa quân ta và quân địch trước phòng tuyến sông Như Nguyệt đang ở thế gạy go ác liệt. Để tăng thêm sức mạnh cho quân ta và đánh một đòn chí mạng vào tinh thần quân địch, bài thơ ấy đã vang lên đúng lúc và được lan truyền nhanh chóng. Có thể tưởng tượng rằng lúc ấy quân dân ta như được hun đúc trong ánh lửa thiêng, máu sôi lên và khí thế giết giặc ngùn ngụt ngất trời.
Tính chất chân lí của bài thơ có giá trị vĩnh hằng bởi nó khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam là bất khả xâm phạm. Tác dụng to lớn, mạnh mẽ của bài thơ không chỉ bó hẹp trong hoàn cảnh lúc bấy giờ mà còn kéo dài vô tận. Hơn mười một thế kỉ, quân xâm lược phương Bắc cố tình thôn tính nước ta nhưng dân tộc ta đã đồng lòng đứng lên chiến đấu đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để bảo vệ chủ quyền ấy.
Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, Lí Thường Kiệt đã khẳng định một cách đanh thép chân lí độc lập tự do, đồng thời lên án tính chất phi nghĩa của hành động xâm lược cùng sự bại vong tất yếu của kẻ dám ngang ngược xâm phạm chân lí đó.
Việc khẳng định lại chủ quyền độc lập của dân tộc ta để đánh tan ý chí xâm lược của bọn cướp nước trong hoàn cảnh cụ thể của cuộc chiến đấu ác liệt là hết sức cần thiết. Vì lẽ đó mà từ trước tới nay, có nhiều ý kiến cho rằng Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt là bản tuyên ngôn độc lập thành văn thứ nhất của đất nước và dân tộc Việt Nam.
Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông Núi Nước Nam của Lý Thường Kiệt
|
Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tương truyền, Lí Thường Kiệt sáng tác bài thơ này trong một trận quân ta chiến đấu chông quân Tống xâm lược. Tác giả không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một nhà thơ nổi tiếng.
Cuối năm 1076, mấy chục vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm đầu sang cướp nước ta. Quân ta dưới quyền chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm, chặn chân chúng lại ở phòng tuyến bên sông Như Nguyệt. Truyền thuyết kể rằng một đêm nọ, quân sĩ nghe văng vẳng trong đền thờ Trương Hông và Trương Hát (hai tướng quân của Triệu Quang Phục đã hi sinh vì nước) có tiếng ngâm bài thơ này. Điều đó ý nói thần linh và tổ tiên phù hộ cho quân ta. Bài thơ đã góp phần khích lệ binh sĩ quyết tâm đánh tan quân giặc, buộc chúng phải rút lui nhục nhã vào tháng 3 năm 1077.
Từ trước đến nay, người ta thường cho rằng vị tướng Lí Thường Kiệt làm bài thơ này với mục đích động viên khí thế binh sĩ của mình. Tất nhiên là thế, nhưng câu thứ tư (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm) lại rõ ràng là lời cảnh cáo quân giặc. Thì ra đối tượng nghe thơ không chỉ là quân ta mà còn là quân địch. Chính vì thế mà bài thơ được coi là một văn bản địch vận nhằm lung lay ý chí chiến đấu của đối phương.
Tác giả khẳng định: Chủ quyền độc lập của nước Nam là một chân lí không gì có thể bác bỏ được. Dân tộc Việt bao đời nay đã kiên cường chiến đấu để giữ vững bờ cõi, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy.
Bài thơ Sông núi nước Nam thể hiện niềm tin tưởng và tự hào vào sức mạnh chính nghĩa của dân tộc ta có thể tiêu diệt bất kì kẻ thù hung bạo nào dám xâm phạm đến đất nước này. Vì thế mà nó có sức mạnh kì diệu cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta, làm khiếp vía kinh hồn quân xâm lược và góp phần tạo nên chiến thắng vinh quang. Tinh thần và sức mạnh của bài thơ toát ra từ sự khẳng định dứt khoát, mãnh liệt như dao chém cột.
Bài thơ lưu lại từ xưa không có tựa đề. Các sách thường lấy mấy từ Nam quốc sơn hà trong câu đầu làm tựa đề cho bài thơ. (Dịch là Sông núi nước Nam):
Sông núi Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chìa xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây!
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Câu thứ nhất nêu lên chân lí: Sông núi Nam Việt vua Nam ở. Lẽ ra phải nói là dân Nam ở thì đúng hơn nhưng thời bấy giờ, vua đại diện cho quốc gia, dân tộc. Chân lí ấy thật đơn sơ, hiển nhiên nhưng nhân dân tã phải gian khổ đấu tranh bao đời chống ngoại xâm mới giành lại được.
Từ khi nước nhà có chủ quyền cho đến năm 1076, dân tộc Việt đã nhiều lần khẳng định chân lí ấy bằng sức mạnh quân sự của mình. Lũ giặc phương Bắc quen thói hống hách, trịch thượng, luôn nuôi tham vọng cướp nước nên chúng khăng khăng không chấp nhận.
Ý nghĩa câu thơ không dừng lại ở đó. Tác giả xứng danh là nước Nam với chủ ý gạt bỏ thái độ khinh miệt coi nước ta là quận huyện tồn tại trong đầu óc lũ cướp nước bấy lâu nay. Đặt nước mình (Nam quốc) ngang hàng với (Bắc quốc). Xưng vua Nam (Nam đế) cũng là bác bỏ thái độ ngông nghênh của bọn vua chúa phương Bắc hay tự xứng là thiên tử (con trời), coi thường vua các nước chư hầu và gọi họ là vương. Các từ nước Nam, vua Nam vang lên đầy kiêu hãnh, thể hiện thái độ tự hào, tự tôn cùng tư thế hiên ngang làm chủ đất nước của dân tộc Việt. Đó không phải là lời nói suông. Chiến dịch tấn công ào ạt của quân ta vào căn cứ của quân cướp nước mấy tháng trước đó là một bằng chứng hùng hồn. Do đó, chân lí nói trên càng có cơ sở thực tế vững chắc.
Ngày ấy, triều đình nhà Tống lấy cớ ta dám quấy nhiễu vùng biên ải nên phải dấy binh hỏi tội. Đầu năm 1076, quân ta đã tiêu diệt các căn cứ lương thảo, vũ khí, quân đội… chuẩn bị cho cuộc xâm lược của chúng ngay bên đất chúng. Cho nên chủ tướng họ Lí nhắc lại chân lí này để quân dân nước Nam đang chiến đấu nắm chắc thêm lưỡi gươm giết giặc, mặt khác để vạch trần bộ mặt phi nghĩa của quân thù và đánh mạnh vào tinh thần chúng.
Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’Câu thứ hai: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Vằng vặc sách trời chia xứ sở) khẳng định chủ quyền của nước Nam đã được ghi rõ trên sách trời. Sách trời đã chia cho vua Nam có riêng bờ cõi.
Người xưa quan niệm rằng các vùng đất đai dưới mặt đất ứng với các vùng sao trên trời. Nước nào có vua nước đó. Điều đó là do trời định nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh khiến cho chân lí nêu ở câu trên càng tăng thêm giá trị.
Câu thơ thứ ba: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? (Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?) là câu hỏi đối với binh tướng giặc. Chủ quyền độc lập của nước Nam không chỉ là chuyện của con người mà còn là chuyện vằng vặc (rõ ràng, minh bạch) trên sách trời, không thể chối cãi, ai cũng phải biết, phải tôn trọng. Vậy cớ sao quân giặc kia lại dám xâm phạm tới? Câu hỏi thể hiện thái độ vừa ngạc nhiên vừa khinh bỉ của tác giả. Ngạc nhiên tại sao tướng sĩ của một nước tự xưng là thiên triều mà lại dám phạm tới lệnh trời? Khinh bỉ vì coi chúng là nghịch lỗ, tức lũ giặc cướp ngỗ ngược, ngang tàng.
Gọi chúng là nghịch lỗ tức là tác giả đã đặt dân tộc Việt vào tư thế chủ nhà và tin rằng mình có đủ sức mạnh để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền độc lập.
Tác giả tăng cường sức khẳng định cho chân lí hiển nhiên đã nêu ở trên bằng nghệ thuật đối lập giữa cái phi nghĩa của lũ giặc dữ với cái chính nghĩa của nước Nam và sự phân chia minh bạch ở sách trời.
Câu thứ tư: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng mày nhất định phải tan vỡ), ý thơ vẫn tiếp tục thể hiện thái độ khinh bỉ quân giặc và niềm tin sắt đá vào chiến thắng tất yếu của quân ta.
Ở trên, tác giả gọi quân xâm lược là giặc, là nghịch lỗ thì đến câu này, ông gọi đích danh như có chúng trước mặt: chúng mày. Cách xưng hô không khác gì người trên với kẻ dưới nhưng không hàm ý thân mật, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo chúng: nhất định phải tan vỡ. Y như là sự việc đã sắp đặt trước, chỉ chờ kết quả. Kết quả sẽ ra sao? Đó là chúng mày không chỉ thua, mà thua to và thất bại thảm hại. Mười vạn quân giặc do hai tướng giỏi chỉ huy, quân ta dâu phải dễ đánh bại nhưng, vì hành động của chúng phi nghĩa nên tất yếu chúng sẽ bại vong. Ngoài ý cảnh cáo giặc, câu thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh quân dân ta trên dưới đồng lòng và một niềm tự hào cao vút.
Câu thơ nguyên văn bằng chữ Hán: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư có nghĩa là: Rồi xem, chúng bay sẽ tự chuốc lấy phần thất bại thảm hại. Thất bại ghê gớm của giặc là điều không thể tránh khỏi bởi chúng là kẻ dám xâm phạm tới điều thiêng liêng nhất của đạo trời và lòng người.
Một lần nữa, chân lí về chủ quyền độc lập rất thuận lòng người, hợp ý trời của nước Nam đã được tác giả khẳng định bằng tạt cả sức mạnh của lòng yêu nước, căm thù giặc.
Bài Thơ thần ra đời trong một hoàn cảnh cụ thể và nhằm vào một mục đích cụ thể. Cuộc đối đầu giữa quân ta và quân địch trước phòng tuyến sông Như Nguyệt đang ở thế gạy go ác liệt. Để tăng thêm sức mạnh cho quân ta và đánh một đòn chí mạng vào tinh thần quân địch, bài thơ ấy đã vang lên đúng lúc và được lan truyền nhanh chóng. Có thể tưởng tượng rằng lúc ấy quân dân ta như được hun đúc trong ánh lửa thiêng, máu sôi lên và khí thế giết giặc ngùn ngụt ngất trời.
Tính chất chân lí của bài thơ có giá trị vĩnh hằng bởi nó khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam là bất khả xâm phạm. Tác dụng to lớn, mạnh mẽ của bài thơ không chỉ bó hẹp trong hoàn cảnh lúc bấy giờ mà còn kéo dài vô tận. Hơn mười một thế kỉ, quân xâm lược phương Bắc cố tình thôn tính nước ta nhưng dân tộc ta đã đồng lòng đứng lên chiến đấu đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để bảo vệ chủ quyền ấy.
Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, Lí Thường Kiệt đã khẳng định một cách đanh thép chân lí độc lập tự do, đồng thời lên án tính chất phi nghĩa của hành động xâm lược cùng sự bại vong tất yếu của kẻ dám ngang ngược xâm phạm chân lí đó.
Việc khẳng định lại chủ quyền độc lập của dân tộc ta để đánh tan ý chí xâm lược của bọn cướp nước trong hoàn cảnh cụ thể của cuộc chiến đấu ác liệt là hết sức cần thiết. Vì lẽ đó mà từ trước tới nay, có nhiều ý kiến cho rằng Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt là bản tuyên ngôn độc lập thành văn thứ nhất của đất nước và dân tộc Việt Nam.
Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông Núi Nước Nam của Lý Thường Kiệt
|
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông Núi Nước Nam của Lý Thường Kiệt
Hướng dẫn
Nếu nhắc đến trận đánh oai hùng trên sông Như Nguyệt (sông Cầu ở Bắc Ninh) thì ai cũng nhớ đến vị tướng tài ba Lý Thường Kiệt. Nhắc đến ông thì không ai có thể không nhắc đến chiến công hiển hách của ông năm 1077 thắng quân Tống. Trận đánh đã đưa ông vào sử sách lưu truyền ngàn đời với bài thơ tuyệt tác làm nức lòng người đọc, người nghe, đó là bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Bài thơ đã khích lệ tinh thần chiến đấu của binh lính, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, ý chí kiên định đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đã truyền tải tấm lòng của tác giả một cách chân thật nhất:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”
Dịch thơ:
“Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.”
Đêm thiêng liêng trên dòng sông Như Nguyệt chợt vang lên lời thơ Thần làm cho tinh thần ba quân, tướng sĩ hứng khởi vì tự hào là con Rồng cháu Tiên, luôn có Thần giúp đỡ. Trong khi đó lời truyền cũng làm cho bọn giặc kinh sợ vỡ mật, mất hết tinh thần chiến đấu. Ớ trong bài thơ này có một điều đặc biệt là trong bản phiên âm từ tiếng Hán, Lý Thường Kiệt đã dùng chữ “dế” để chỉ vua nước ta, coi vua Nam ngang hàng với vua phương Bắc. Đây là sự tự tôn dân tộc mạnh mẽ, mãnh liệt: khẳng định nước Nam là của vua Nam. Thời xưa, với quan niệm phong kiến quân chủ, nước là của vua nên trung thành với vua là trung thành với đất nước “Trung quân, ái quốc”. Ví như mười tám dời vua Hùng thay nhau dựng nước và giữ nước bình yên cho bờ cõi. Thời kì đó đã xuất hiện Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân. Rồi đến Thục Phán đánh đuổi giặc Tần xưng An Dương Vương. Đến ngườị phụ nữ chân yếu tay mềm cũng vùng lên đánh giặc như Trưng Nữ Vương đánh đuổi quân Hán hay Bà Triệu lãnh đạo nghĩa quân đánh phá quân Ngô. Rồi từ đó nước nam ta dần dần khởi sắc với các đời vua uy nghiêm, lẫm liệt: Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan), Lý Nam Đế (Lý Bí), Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng), họ Khúc, triều Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê,… Luôn sát cánh bên các vị vua còn có các danh tướng lẫy lừng như Lý thường Kiệt,… Nhờ có những vị vua anh minh, những vị tướng tài ba đã dẫn dắt đất nước được thái bình thịnh trị. Để từ đó nổi lên những chiến công vang dội đem lại nền độc lập cho đất nước.
“Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam củng khác.”
Lời tuyên bố của Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” cũng cùng quan điểm non nước Việt Nam ta đã được hoạch định từ ngàn xưa giống như câu thơ “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, qua bao nhiêu thử thách đã hình thành một Việt Nam gấm hoa, thấm đậrn tình đoàn kết dân tộc.
Càng ý thức chủ quyền đất nước, càng yêu nước nồng nàn bao nhiêu, nhân dân ta càng căm thù giặc bấy nhiêu. Điều này được thể hiện rõ nét qua hai câu thơ cuối như sau:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư.”
Dịch thơ:
“Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.”
Kết cục cho bi kịch của việc cướp nước là bọn xâm lược sẽ bị trả đòn trên sông Như Nguyệt. Tiếng ngâm thơ vang vọng hai bên bờ sông áp đảo tinh thần ngạo mạn của bọn xâm lăng. Đồng thời giúp quân ta tăng thêm ngọn lửa hận thù sôi sục lũ giặc Tống cướp nước, tăng thêm quyết tâm vùng lên giành lại non sông, dánh cho lũ giặc tan tành từ đó giữ vững độc lập, khẳng định chủ quyền đất nước. Với những khổ đau mà giặc phương Bắc gây ra thì một trận đánh hào hùng sẽ mau chóng lấy lại niềm hứng khởi cho toàn dân cùng cất tiếng hoà chung ca khúc khải hoàn, chiến thắng.
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” đã giúp chúng ta ghi nhớ lịch sử hào hùng của dân tộc, để ta tự hào về cội nguồn của mình, luôn nhớ chủ quyền đất nước là của chúng ta, những người con mang nòi giống “con Rồng cháu Tiên”, trong người chảy dòng máu “Lạc Hồng”. Bài thơ cũng bồi dưỡng tinh thần quyết tâm chống giặc, bảo vệ đất nước, khơi gợi niềm tự hào dân tộc, yêu đất nước cho người đọc, người nghe.
Đề cập đến tuyên ngôn độc lập của nước ta thì bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt được xem là bản đầu tiên cùng với “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là bản thứ hai và tiếp đến là “Bản tuyên ngôn độc lập” được Bác Hồ đọc vào ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình. Tất cả đã làm cho nhân dân ta vỡ oà niềm hân hoan, hạnh phúc vì mở ra một trang sử mới. Đây là trang sử của sức mạnh niềm tin vào lẽ phải, chính nghĩa, sức mạnh của tình đoàn kết dân tộc thể hiện qua quyết tâm bảo vệ lãnh thổ, giữ vững chủ quyền đất nước trước các âm mưu xâm lược của bọn cướp nước.
Xem thêm: Hãy bình luận ý thơ sau đây: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng" (Trích “Truyện Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu)BÀI LÀM 2
Mở bài – Đặt vấn đề: Đất nước Việt là sản phẩm của ‘ Con rồng, Cháu tiên’ ; là sự khai sinh của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tiếng nói của những người con, người cháu của đất nước đó được vang ca mấy nghìn năm. Họ đã sống, đã lao động để bảo vệ cái nôi nơi họ sinh ra
– Nhưng rồì bọn quân xâm lược phong kiến phương bắc với tư tưởng bá quyền nước lớn hiển nhiên qua xâm lăng muốn biến dân tộc ta thành dân nô lệ của chúng. Và rồi chúng ta không khoan nhường một giây phút nào nữa, lên tiếng bảo vệ chủ quyền thiêng liêng đất nước! Và bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên ra đời:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ.
Thân bài – Triển khai: Bài thơ là lời tuyên bố về chủ quyền của đất nước và khẳng định không một thế lực nào được phép xâm phạm vào quyền độc lập ấy.( được thể hiện rõ qua 2 câu thơ đầu )
+ Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là chân lí độc lập bất hủ!
“nam quốc sơn hà nam đế cư”
+ Ý thức tự tôn dân tộc được bộc lộ mạnh mẽ qua hai từ Nam quốc và Nam đế đầy ẩn ý. Nước nam là của vua và dân nam, không một ai có thể chối cãi nó được ví như hình ảnh mẹ sinh ra con thì con chính là con của mẹ, không thể là con của một ai khác và không ai có quyền cướp con khỏi bàn tay mẹ.
+ Hiểu và nhận thức được chủ quyền trị vì của dân tộc đất nước của những người dân nước Việt. Thái độ ấy là tư thế của một dân tộc dám kiêu hãnh đứng thẳng làm người, giơ một quả đấm thép giáng thẳng vào bộ mặt kiêu căng ngạo mạn của bọn phong kiến Trung Quốc coi nước khác chỉ là chư hầu của chúng, coi dân tộc khác chỉ là nô lệ của chúng
+Lãnh thổ ấy được minh chứng là của con dân việt không chỉ qua việc họ đã xây dựng nên đất nước ấy mà còn có tiền đề đó là “sách trời” đã chia nó từ bấy lâu nay
– Khẳng định ý chí bảo vệ tổ quốc của quân và dân ta (2 câu tiếp)
+ Ý chí đó được làm rõ qua câu hỏi tu từ “- cớ sao lũ giặc qua xâm phạm”. Đó là một biểu hiện giận dỗi đầy phẫn uất của tác giả, đó cũng là thái độ của con dân việt với lũ cướp nước
+Tinh thần bảo vệ tổ quốc được nuôi dưỡng từ sâu trong trái tim của mỗi một người con dân việt khi ý thức rõ lũ phong kiến ngạo mạn, cướp đi cuộc sống bình dị của một đất nước yêu tự do, yêu hòa bình ấy
+ Câu thơ còn thể hiện thái độ không khoan nhượng, không nhún nhường trước những hành động bạo tàn đó, thể hiện được chí khí, bạo tàn của một người dân yêu nước
+Lý Thường Kiệt còn lên tiếng cảnh báo trước những hành vi vô phép tắc của tụi xâm lăng “chúng bây sẽ bị đánh cho tơi bời” sẽ là một kết cục ê chề, thê thảm của chúng.
+ Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn cho câu thơ của Lí Thường Kiệt. Sông cầu và bến đò Như Nguyệt là mồ chôn hàng vạn lũ giặc phương Bắc. Trước sự giáng trả sấm sét của quân ta, Quách Quỳ phải tháo chạy, thất bại nhục nhục nhã. Chiến thắng Sông cầu – Như Nguyệt là một trong những trang sử vàng chói lọi của Đại Việt
– Khẳng định tinh thần yêu nước:
+ Chiến thắng với quân địch là minh chứng cho một sự thật rõ ràng là quân và dân ta có tấm lòng hướng về tổ quốc, đặt vị trí quốc gia lên hàng đầu
+ Chiến thắng vì tướng sĩ của ta mưu lược, dũng cảm đánh giặc để giữ gìn quê hương đất nước.
+ Đó là tinh thần đoàn kết dân tộc để trừng trị bọn tội đồ cướp nước, bán nước
Kết bài – Đánh giá:Tóm lại, bài thơ ‘Nam Quốc sơn hà’ được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước đại việt:
+ Nói về ranh giới chủ quyền quốc gia với những lời lẽ xác đáng, khoa học
+ Được mọi con dân việt nam lưu truyền trong xã hội, trong lịch sử, từ thế hệ này sang thế hệ khác
+ Giá trị bài thơ gắn với thiên thời- địa lợi- nhân hòa phù hợp với lịch sử nước ta lúc bấy giờ
– Bài thơ là khúc anh hùng ca của dân tộc, là tiếng nói đầy quyền uy đối với kẻ thù xâm lược
– Bài thơ xứng đáng là áng thơ văn bất hủ
Nguồn: thêm: Kể lại câu chuyện nàng Tiên Ốc bằng lời bà cụ
|
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông Núi Nước Nam của Lý Thường Kiệt
Hướng dẫn
Nếu nhắc đến trận đánh oai hùng trên sông Như Nguyệt (sông Cầu ở Bắc Ninh) thì ai cũng nhớ đến vị tướng tài ba Lý Thường Kiệt. Nhắc đến ông thì không ai có thể không nhắc đến chiến công hiển hách của ông năm 1077 thắng quân Tống. Trận đánh đã đưa ông vào sử sách lưu truyền ngàn đời với bài thơ tuyệt tác làm nức lòng người đọc, người nghe, đó là bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Bài thơ đã khích lệ tinh thần chiến đấu của binh lính, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, ý chí kiên định đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đã truyền tải tấm lòng của tác giả một cách chân thật nhất:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”
Dịch thơ:
“Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.”
Đêm thiêng liêng trên dòng sông Như Nguyệt chợt vang lên lời thơ Thần làm cho tinh thần ba quân, tướng sĩ hứng khởi vì tự hào là con Rồng cháu Tiên, luôn có Thần giúp đỡ. Trong khi đó lời truyền cũng làm cho bọn giặc kinh sợ vỡ mật, mất hết tinh thần chiến đấu. Ớ trong bài thơ này có một điều đặc biệt là trong bản phiên âm từ tiếng Hán, Lý Thường Kiệt đã dùng chữ “dế” để chỉ vua nước ta, coi vua Nam ngang hàng với vua phương Bắc. Đây là sự tự tôn dân tộc mạnh mẽ, mãnh liệt: khẳng định nước Nam là của vua Nam. Thời xưa, với quan niệm phong kiến quân chủ, nước là của vua nên trung thành với vua là trung thành với đất nước “Trung quân, ái quốc”. Ví như mười tám dời vua Hùng thay nhau dựng nước và giữ nước bình yên cho bờ cõi. Thời kì đó đã xuất hiện Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân. Rồi đến Thục Phán đánh đuổi giặc Tần xưng An Dương Vương. Đến ngườị phụ nữ chân yếu tay mềm cũng vùng lên đánh giặc như Trưng Nữ Vương đánh đuổi quân Hán hay Bà Triệu lãnh đạo nghĩa quân đánh phá quân Ngô. Rồi từ đó nước nam ta dần dần khởi sắc với các đời vua uy nghiêm, lẫm liệt: Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan), Lý Nam Đế (Lý Bí), Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng), họ Khúc, triều Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê,… Luôn sát cánh bên các vị vua còn có các danh tướng lẫy lừng như Lý thường Kiệt,… Nhờ có những vị vua anh minh, những vị tướng tài ba đã dẫn dắt đất nước được thái bình thịnh trị. Để từ đó nổi lên những chiến công vang dội đem lại nền độc lập cho đất nước.
“Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam củng khác.”
Lời tuyên bố của Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” cũng cùng quan điểm non nước Việt Nam ta đã được hoạch định từ ngàn xưa giống như câu thơ “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, qua bao nhiêu thử thách đã hình thành một Việt Nam gấm hoa, thấm đậrn tình đoàn kết dân tộc.
Càng ý thức chủ quyền đất nước, càng yêu nước nồng nàn bao nhiêu, nhân dân ta càng căm thù giặc bấy nhiêu. Điều này được thể hiện rõ nét qua hai câu thơ cuối như sau:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư.”
Dịch thơ:
“Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.”
Kết cục cho bi kịch của việc cướp nước là bọn xâm lược sẽ bị trả đòn trên sông Như Nguyệt. Tiếng ngâm thơ vang vọng hai bên bờ sông áp đảo tinh thần ngạo mạn của bọn xâm lăng. Đồng thời giúp quân ta tăng thêm ngọn lửa hận thù sôi sục lũ giặc Tống cướp nước, tăng thêm quyết tâm vùng lên giành lại non sông, dánh cho lũ giặc tan tành từ đó giữ vững độc lập, khẳng định chủ quyền đất nước. Với những khổ đau mà giặc phương Bắc gây ra thì một trận đánh hào hùng sẽ mau chóng lấy lại niềm hứng khởi cho toàn dân cùng cất tiếng hoà chung ca khúc khải hoàn, chiến thắng.
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” đã giúp chúng ta ghi nhớ lịch sử hào hùng của dân tộc, để ta tự hào về cội nguồn của mình, luôn nhớ chủ quyền đất nước là của chúng ta, những người con mang nòi giống “con Rồng cháu Tiên”, trong người chảy dòng máu “Lạc Hồng”. Bài thơ cũng bồi dưỡng tinh thần quyết tâm chống giặc, bảo vệ đất nước, khơi gợi niềm tự hào dân tộc, yêu đất nước cho người đọc, người nghe.
Đề cập đến tuyên ngôn độc lập của nước ta thì bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt được xem là bản đầu tiên cùng với “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là bản thứ hai và tiếp đến là “Bản tuyên ngôn độc lập” được Bác Hồ đọc vào ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình. Tất cả đã làm cho nhân dân ta vỡ oà niềm hân hoan, hạnh phúc vì mở ra một trang sử mới. Đây là trang sử của sức mạnh niềm tin vào lẽ phải, chính nghĩa, sức mạnh của tình đoàn kết dân tộc thể hiện qua quyết tâm bảo vệ lãnh thổ, giữ vững chủ quyền đất nước trước các âm mưu xâm lược của bọn cướp nước.
Xem thêm: Hãy bình luận ý thơ sau đây: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng" (Trích “Truyện Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu)BÀI LÀM 2
Mở bài – Đặt vấn đề: Đất nước Việt là sản phẩm của ‘ Con rồng, Cháu tiên’ ; là sự khai sinh của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tiếng nói của những người con, người cháu của đất nước đó được vang ca mấy nghìn năm. Họ đã sống, đã lao động để bảo vệ cái nôi nơi họ sinh ra
– Nhưng rồì bọn quân xâm lược phong kiến phương bắc với tư tưởng bá quyền nước lớn hiển nhiên qua xâm lăng muốn biến dân tộc ta thành dân nô lệ của chúng. Và rồi chúng ta không khoan nhường một giây phút nào nữa, lên tiếng bảo vệ chủ quyền thiêng liêng đất nước! Và bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên ra đời:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng bay nhất định phải tan vỡ.
Thân bài – Triển khai: Bài thơ là lời tuyên bố về chủ quyền của đất nước và khẳng định không một thế lực nào được phép xâm phạm vào quyền độc lập ấy.( được thể hiện rõ qua 2 câu thơ đầu )
+ Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là chân lí độc lập bất hủ!
“nam quốc sơn hà nam đế cư”
+ Ý thức tự tôn dân tộc được bộc lộ mạnh mẽ qua hai từ Nam quốc và Nam đế đầy ẩn ý. Nước nam là của vua và dân nam, không một ai có thể chối cãi nó được ví như hình ảnh mẹ sinh ra con thì con chính là con của mẹ, không thể là con của một ai khác và không ai có quyền cướp con khỏi bàn tay mẹ.
+ Hiểu và nhận thức được chủ quyền trị vì của dân tộc đất nước của những người dân nước Việt. Thái độ ấy là tư thế của một dân tộc dám kiêu hãnh đứng thẳng làm người, giơ một quả đấm thép giáng thẳng vào bộ mặt kiêu căng ngạo mạn của bọn phong kiến Trung Quốc coi nước khác chỉ là chư hầu của chúng, coi dân tộc khác chỉ là nô lệ của chúng
+Lãnh thổ ấy được minh chứng là của con dân việt không chỉ qua việc họ đã xây dựng nên đất nước ấy mà còn có tiền đề đó là “sách trời” đã chia nó từ bấy lâu nay
– Khẳng định ý chí bảo vệ tổ quốc của quân và dân ta (2 câu tiếp)
+ Ý chí đó được làm rõ qua câu hỏi tu từ “- cớ sao lũ giặc qua xâm phạm”. Đó là một biểu hiện giận dỗi đầy phẫn uất của tác giả, đó cũng là thái độ của con dân việt với lũ cướp nước
+Tinh thần bảo vệ tổ quốc được nuôi dưỡng từ sâu trong trái tim của mỗi một người con dân việt khi ý thức rõ lũ phong kiến ngạo mạn, cướp đi cuộc sống bình dị của một đất nước yêu tự do, yêu hòa bình ấy
+ Câu thơ còn thể hiện thái độ không khoan nhượng, không nhún nhường trước những hành động bạo tàn đó, thể hiện được chí khí, bạo tàn của một người dân yêu nước
+Lý Thường Kiệt còn lên tiếng cảnh báo trước những hành vi vô phép tắc của tụi xâm lăng “chúng bây sẽ bị đánh cho tơi bời” sẽ là một kết cục ê chề, thê thảm của chúng.
+ Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn cho câu thơ của Lí Thường Kiệt. Sông cầu và bến đò Như Nguyệt là mồ chôn hàng vạn lũ giặc phương Bắc. Trước sự giáng trả sấm sét của quân ta, Quách Quỳ phải tháo chạy, thất bại nhục nhục nhã. Chiến thắng Sông cầu – Như Nguyệt là một trong những trang sử vàng chói lọi của Đại Việt
– Khẳng định tinh thần yêu nước:
+ Chiến thắng với quân địch là minh chứng cho một sự thật rõ ràng là quân và dân ta có tấm lòng hướng về tổ quốc, đặt vị trí quốc gia lên hàng đầu
+ Chiến thắng vì tướng sĩ của ta mưu lược, dũng cảm đánh giặc để giữ gìn quê hương đất nước.
+ Đó là tinh thần đoàn kết dân tộc để trừng trị bọn tội đồ cướp nước, bán nước
Kết bài – Đánh giá:Tóm lại, bài thơ ‘Nam Quốc sơn hà’ được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước đại việt:
+ Nói về ranh giới chủ quyền quốc gia với những lời lẽ xác đáng, khoa học
+ Được mọi con dân việt nam lưu truyền trong xã hội, trong lịch sử, từ thế hệ này sang thế hệ khác
+ Giá trị bài thơ gắn với thiên thời- địa lợi- nhân hòa phù hợp với lịch sử nước ta lúc bấy giờ
– Bài thơ là khúc anh hùng ca của dân tộc, là tiếng nói đầy quyền uy đối với kẻ thù xâm lược
– Bài thơ xứng đáng là áng thơ văn bất hủ
Nguồn: thêm: Kể lại câu chuyện nàng Tiên Ốc bằng lời bà cụ
|
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Xa ngắm thác núi Lư của Lý Bạch
Hướng dẫn
Hương Lô là một đỉnh núi ở tây bắc núi Lư, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Đỉnh núi cao, khói mây bao phủ, xa nhìn như một lư hương khổng lồ, nên đặt là Hương Lô. Ngắm nhìn thác núi Lư đổ nước trắng xoá từ núi xuống, xúc cảm trước cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, Lý Bạch đã sáng tác bài Vọng Lư Sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lư). Bài thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt, vẻn vẹn chỉ có 28 chữ nhưng đã dựng lên trước mắt người dọc một bức tranh toàn cảnh về núi Lư và thác núi Lư. Bức tranh được tô vẽ rộng lớn, với những màu sắc và đường nét rõ ràng, cụ thể vừa ở độ xa vừa ở thế gần, vừa ở chiều cao vừa ở độ thấp.
“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trúc há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu tliièn.”
Dịch thơ:
“Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây”.
Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Lý Bạch là khung cảnh và thế đứng uy nghi của núi Lư. Không tả núi Lư cao mà người đọc thấy được bề thế, độ cao của núi. Vách núi rộng lớn như bức tường đá khổng lồ dựng đứng trước mặt. Ánh nắng mặt trời ban ngày phản chiếu (nhật chiếu) đỉnh núi, vách núi Lư (Hương Lô). Đá núi nhiều màu bắt nhiệt nhanh và giảm nhiệt chậm. Khi ánh nắng niặt trời có nhiệt độ cao toả xuống núi tự nhiên thiêu đốt dá núi, làm cho đá nóng rực và bốc ra những làn khói màu tía (sinh tử yên). Các miêu tả của tác giả độc đáo, vượt qua cách miêu tả thiên nhiên núi non thông thường là tả đỉnh núi cao có mây trăng bao phủ. ơ đây, Lý Bạch chỉ tập trung miêu tả những chi tiết nổi bật, gây ấn tượng nhất cho người đọc. Ngay tữ câu đầu, nhà thơ thể hiện được hình dung, tưởng tượng phong phú của mình. Nhìn mặt trời phản chiếu vào núi và từ núi bốc ra những đám khói màu hồng nhạt, giống như một lò hương nghi ngút khói. Màu sắc mà nhà thơ tả ở dây vừa rõ ràng vừa kì lạ. Hình ảnh mặt trời, ngọn núi, màu khói tía được xêp đặt bằng những từ'ngữ giản đơn, dễ hiểu và tự nhiên, thể hiện con mắt nhìn và óc quàn sát thiên nhiên tinh tế, sắc sảo của Lý Bạch.
“Xa trông dòng thác trước sông này.
Nươc bay thắng xuống ba nghìn thước,”
Không dừng lại ở khung cảnh núi non, tiến thêm một bước, nhà thơ tả cảnh thác nước và dòng sông. Nếu như câu thơ trên là tả “sơn” thì câu thơ tiếp theo, ông tả “thủy”. Trong câu thơ thứ nhất, Lý Bạch không nói rõ vị trí đứng của mình ở đâu khi tả hình thể núi Lư thì ở câu thơ thứ hai, tác giả đã đứng từ xa (dao khan) để tả cảnh hùng vĩ, mạnh mẽ và đầy uy lực của thác nước chảy từ núi Lư. Thác nước trắng xoá, chảy thẳng từ đỉnh núi cao xuống như treo trước dòng sông (quải tiền xuyên). Nước thác từ độ núi cao ba nghìn thước (tam thiên xích) chảy mạnh, đổ nước ào ào như bay thẳng từ đỉnh núi xuống (phi lưu trực há). Chỉ một câu thơ bảy chữ, nhà thơ đã diễn tả sự quy mô, khổng lồ và tốc độ đổ nước ghê gớm của thác núi Lư.
Xem thêm: Về một phương diện nghệ thuật mà anh (chị) cho là đặc sắc trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên“Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.”
Thác nước núi Lư trắng xoá, lấp lánh, Lý Bạch ngỡ ngàng tưởng tượng như dải Ngân Hà với hàng triệu vì sao lấp lánh, kéo dài, rực sáng trên bầu trời cao. Vì thác nước núi Lư chảy từ độ cao ngang lưng trời tuôn nước xuống nên nhà thơ liên tưởng, so sánh với một dòng sông lớn, như dải Ngân Hà trên bầu trời cao. Cách so sánh vừa độc đáo vừa hợp lí làm cho người đọc rất đỗi bất ngờ, thú vị. Chi tiết “dải Ngân Hà tuột khỏi mây” tức là tuột khỏi bầu trời, từ bỏ bầu trời để rơi xuống mặt đất. Trần gian mà Lý Bạch miêu tả là một chi tiết vừa hư vừa thực, đầy sáng tạo, phù hợp với bút pháp lãng mạn của tác giả.
Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của bài thơ là tác giả sử dụng ngôn ngữ tinh luyện, chính xác và giàu hình ảnh. Trong mỗi câu thơ, Lý Bạch dùng một “thi nhãn”.(mắt thơ) để miêu tả. “Thi nhãn” ở đây là những dộng từ: “sinh” (phát ra- câu 1), “quải” (treo – câu 2). Hai động từ “phi lưu” (bay, chảy) diễn tả tốc độ mạnh mẽ, ghê gớm của dòng thác. Hai tính từ nối tiếp (thẳng xuống) gọn, dứt khoát, miêu tả tư thế thiên nhiên của thác núi Lưu. Nếu sự bất ngờ, đột biến của từ ngữ được thể hiện ở ba câu thơ trên thì đến câu thơ cuối, động từ “lạc” (rơi tuột) được tác giả tài tình, khéo léo, làm bật nổi nội dung của toàn bộ bài thơ. Thác núi Lư từ trạng thái “treo” (quải), “bay chảy” (phi lưu) và cuối cùng Lý Bạch có cảm giác nó như một dải Ngân Hà từ bầu trời “rơi tuột” (trực há) xuống trần gian. Hình ảnh thác nước núi Lư như “dải Ngân Hà tuột khỏi mây” làm người đọc liên tưởng đến hình ảnh “sông Hoàng chảy vỡ núi Côn Lôn” (Công vô độ hải), “sông Hoàng sợi tơ từ trời xuống” (Tây nhạc vân đài ca tống dan khâu) và “sông Hoàng từ trên trời rơi xuống” (Bài tặng Bùi thập Tứ).
Bức tranh thiên nhiên vẽ thác núi Lư Được Lý Bạch miêu tả đầy đủ, vừa khéo, vừa tình. Tả thác nước mà có núi sông, ánh nắng mặt trời, dải ngân hà, trời cao, mây trắng,… Bài thơ không có từ ngữ nào nói đến con người, nhưng người đọc lại hình dung ra dược con người, một con người nhỏ bé bị bao trùm, bị thu hút trước cảnh thiên nhiên rộng lớn. Hình bóng con người đứng từ xa ngắm nhìn thác núi Lư, bị ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bị bất ngờ trước sức mạnh tự nhiên của thác núi Lư chính là Lý Bạch. Một con người lãng mạn, với tâm hồn phóng khoáng mới có được bút pháp miêu tả tưởng tượng, phong phú khác thường như thế. Dưới ngòi bút tài tình của nhà thơ, con người dù có lớn lao, khả năng to lớn đến đâu cũng cảm thấy nhỏ bé, thấp kém trước thiên nhiên rộng lớn, uy nghi.
“Vọng Lư Sơn bộc bố” là bài thơ miêu tả cảnh tượng hoành tráng của thiên nhiên. Dưới ngòi bút của nhà thơ, hình ảnh thác nước núi Lư trở nên sống động, mãnh liệt và dữ dội. Bài thơ không có câu chữ nào diễn tả tình cảm yêu thương, say đắm của Lý Bạch trước cảnh đẹp thiên nhiên, nhưng qua bút pháp miêu tả, qua hình tượng thơ ca đầy gợi cảm, sáng tạo, người đọc thấy được tình cảm bao la, cảm xục sâu lắng của tác giả.
Nguồn: thêm: Cảm nghĩ về thầy cô giáo của em lớp 7 hay nhất
|
Expressing thoughts about Ly Bach's poem "Viewing Lu Mountain Waterfall from afar".
Instruct
Xianglu is a mountain peak in the northwest of Mount Lu, Jiangxi province, China. The mountain peak is high, covered with smoke and clouds, from afar it looks like a giant incense burner, so it is named Huong Lo. Watching the Lu mountain waterfall pour white water down from the mountain, and being moved by the majestic natural beauty, Ly Bach composed the song Vong Lu Son declarative (Viewing the Lu mountain waterfall from afar). The poem is in the form of seven words and four verses, with only 28 words but creates a panoramic picture of Mount Lu and Mount Lu waterfall. The painting is painted widely, with clear and specific colors and lines that are both far and near, both high and low.
“The edict of Huong Lo lives and dies in peace,
Dao Khan Bo Bui Tien Xuan.
Phi Luu Truc Ha Tam Thien Chi,
Nghi Thi Thi Ngan Ha Lac Cuu Tliien.”
Poetry translation:
“The sun shines on Huong Lo, purple smoke flies,
In the distance, you can see the waterfall in front of this river.
The water flew straight down three thousand meters,
It seemed like the Milky Way had slipped out of the clouds."
The first image that caught Ly Bach's eyes was the scenery and majestic stance of Mount Lu. Without describing the height of Mount Lu, the reader can see the mountain's grandeur and height. The cliff is as vast as a giant stone wall standing up in front of it. The sunlight during the day reflects (sunlight) the mountain tops and cliffs of Lu (Huong Lo). Colorful mountain rocks absorb heat quickly and cool down slowly. When high-temperature sunlight radiates down the mountain, it naturally burns the mountain, making the rock hot and emitting purple smoke (birth and death peace). The author's descriptions are unique, surpassing the usual way of describing mountain nature, which is to describe high mountain peaks covered with clouds and moon. Here, Ly Bach only focuses on describing the outstanding details that make the most impression on readers. Right from the first sentence, the poet shows his rich vision and imagination. Look at the sun reflecting into the mountain and from the mountain clouds of light pink smoke come out, like a smoky incense burner. The colors the poet describes here are both clear and strange. Images of the sun, mountains, and purple smoke are arranged with simple, easy-to-understand and natural words, demonstrating Ly Bach's delicate and sharp eye and observation of nature.
“In the distance, you can see the waterfall in front of this river.
The water flew down three thousand meters,”
Not stopping at the mountain scenery, going one step further, the poet describes the waterfall and river scene. If the above verse describes "paint", then in the next verse, he describes "water". In the first verse, Ly Bach did not clearly state where he stood when describing the shape of Mount Lu, but in the second verse, the author stood from afar (dao khan) to describe the majestic, strong and powerful scene. full of power of the waterfall flowing from Mount Lu. The waterfall is pure white, flowing straight from the top of a high mountain down as if hanging in front of a river (Qua Tien Xuyen). Water falls from a mountain three thousand meters high (three thousand meters) flowing strongly, pouring water like flying straight down from the top of the mountain (phi flow directly ha). In just one seven-word poem, the poet described the scale, colossus, and terrible pouring speed of Lu Mountain waterfall.
See more: Regarding an artistic aspect that you think is unique in the poem The Singing of the Ship by Che Lan Vien, "I thought the Milky Way had slipped from the clouds."
The waterfall of Mount Lu was white and sparkling. Ly Bach was amazed and imagined it was like the Milky Way with millions of sparkling stars, lingering and glowing high in the sky. Because the waterfall of Mount Lu flows down from the height of the sky's waist, the poet thinks and compares it to a large river, like the Milky Way high in the sky. The comparison is both unique and reasonable, making readers very surprised and interesting. The detail "the Milky Way slipped out of the clouds" means it slipped out of the sky, abandoned the sky to fall to the ground. The worldly world that Ly Bach describes is a detail that is both imaginary and real, full of creativity, consistent with the author's romantic style.
The outstanding artistic feature of the poem is that the author uses refined, precise and rich language. In each verse, Ly Bach uses a "poetic eye" (poetic eye) to describe. "Poetic eyes" here are verbs: "birth" (radiate - sentence 1), "quai" (hang - sentence 2). The two verbs "to fly" (to fly, to flow) describe the strong and formidable speed of the waterfall. The two consecutive adjectives (straight down) are concise and decisive, describing the natural posture of Luu Mountain waterfall. If the surprise and mutation of words are expressed in the three verses above, then in the last verse, the verb "lost" (falling) is skillfully and skillfully expressed by the author, highlighting the content of the entire poem. poem. Lu Mountain Waterfall went from a state of "hanging" (quai), "flowing" (flowing) and finally Ly Bach felt like a Milky Way galaxy "falling" from the sky (trup ha) to the earth. The image of the Lu mountain waterfall like "the Milky Way slipping out of the clouds" reminds the reader of the image of "the Yellow River breaking through Kunlun Mountain" (Cong Vo Do Hai), "the Yellow River silk thread falling from the sky" (Tay music of Van Dai Ca Song Dan Khau) and "Yellow River falling from the sky" (Dedicated to Bui Thap Tu).
The natural painting of Lu mountain waterfall is fully described by Ly Bach, both skillfully and lovingly. Describes a waterfall with mountains and rivers, sunlight, milky way, high sky, white clouds, etc. The poem does not have any words about people, but the reader imagines a person, a human being. small and surrounded, attracted by the vast natural landscape. The figure of a person standing from afar looking at Mount Lu waterfall, amazed by the majestic natural scenery, surprised by the natural power of Mount Lu waterfall is Ly Bach. Only a romantic person with a liberal soul can have such an unusually rich and imaginative descriptive style. Under the poet's talented pen, no matter how great and capable people are, they still feel small and inferior before the vast and majestic nature.
"Vong Lu Son Reveals" is a poem describing a majestic scene of nature. Under the poet's pen, the image of Mount Lu waterfall becomes vivid, intense and fierce. The poem does not have any words to describe Ly Bach's love and passion for the natural beauty, but through the descriptive style, through the sensual and creative poetic imagery, the reader can see the feelings. immense, profound feelings of the author.
Source: more: The best thoughts about my 7th grade teacher
|
Phát biểu cảm nghĩ về câu ca dao: "Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần"
Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng nhất trong đời sống con người. Vì thế trong kho tàng văn học dân gian đã có biết bao tiếng hát, lời ru, câu chuyện… khuyên nhủ mọi người hãy xây dựng tình cảm gia đình đầm ấm, thuận hòa. Một trong những lời khuyên được lưu truyền rộng rãi là:
Anh em như thể tay chân,
Rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần.
Câu ca dao đã dùng hình ảnh so sánh cụ thể, gần gũi để lời khuyên dễ đi vào lòng người. Ai chẳng biết tay, chân là những bộ phận trên cùng một cơ thể con người. Tuy mỗi bộ phận có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ khăng khít, bổ sung, hỗ trợ cha nhau. Anh em trong gia đình cũng vậy. Tuy mỗi người là một cá nhân riêng biệt nhưng đều cùng cha mẹ sinh ra, cùng chơi, cùng học, cùng lớn lên dưới một mái nhà. Vì thế, quan hệ anh em là quan hệ gắn bó máu thịt với nhau.
Vậy anh em phải cư xử với nhau thế nào cho đúng? Người xưa khuyên nhủ: Rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần. Anh em ruột thịt phải thương yêu, giúp đỡ nhau trên mỗi bước đường đời.
Rách, lành là hình ảnh tượng trưng cho hai hoàn cảnh sống khác nhau. Rách là cảnh sống khó khăn, khổ sở; còn lành là cảnh sống thuận lợi, sung túc. Hợp nghĩa lại, rách lành chỉ chung mọi cảnh ấm no hay nghèo đói. Khi đói khi no, lúc đủ lúc thiếu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì anh em ruột thịt cũng phải thương yêu, hỗ trợ lẫn nhau, không so đo tính toán thiệt hơn. Hoàn cảnh sống có thể thay đổi nhưng tình nghĩa anh em lúc nào cũng phải thắm thiết, bền chặt. Nếu như tình cảm anh em là thứ tình cảm tự nhiên thì sự đùm bọc lẫn nhau cũng là việc làm tự nhiên, tất yếu.
Đùm bọc có nghĩa lằ giúp đỡ, che chở, chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui, mọi điều sướng khổ với tất cả tình cảm thương mến chân thành. Câu ca dao đưa ra một cách cư xử hợp tình hợp lí trong quan hệ anh em. Đây cũng là một chuẩn mực đạo đức để đánh giá phẩm chất con người.
Đùm bọc, đỡ đần còn là trách nhiệm mỗi người anh, người em trong gia đình. Trong dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện về tình anh em thắm thiết qua Sự tích trầu cau. Hai anh em sinh đôi họ Cao mồ côi cha mẹ, dắt nhau đên học ở nhà thầy đồ họ Lưu. Thấy họ nhường nhau bát cháo duy nhất, cô con gái thầy đồ cảm động và tình nguyện làm vợ người anh. Thế rồi chỉ vì một sự hiểu lầm mà người em xấu hổ phải ra đi Người anh ân hận bỏ nhà đi tìm em… Tình anh em sâu nặng đã khiến trời đất cảm động, biến anh thành cây cau, em thành hòn đá, mãi mãi bên nhau trong tục ăn trầu của người Việt. Bên cạnh việc ca ngợi tình anh em thắm thiết trong truyện Trầu cau, nhân dân ta cũng lên án người anh tham lam độc ác trong truyện Cây khế và dành cho hắn kết cục bi thảm là phải bỏ xác dưới đáy biển sâu.
Bài học đạo đức từ câu ca dao trên thật sâu xa, thấm thía. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa giáo dục vì trong cuộc sống vẫn còn những cảnh tượng ngang trái, đau lòng, đi ngược lại đạo lí làm người.
Xem thêm: Học tập là công việc vô cùng quan trọng đặc biệt là đối với người học sinh. Em có suy nghĩ gì về công việc này của học sinh thời nay?
|
Expressing feelings about the folk song: "Brothers are like hands and feet, broken wounds are protected, difficulties are helped"
Family love is the most sacred love in human life. Therefore, in the treasury of folk literature, there are countless songs, lullabies, stories... advising people to build warm, harmonious family relationships. One of the widely circulated pieces of advice is:
Brothers like hands and feet,
Tears heal and are protected, difficulties are relieved.
The folk song uses specific, close comparisons so that the advice can easily reach people's hearts. Everyone knows that arms and legs are parts of the same human body. Although each department has its own functions and tasks, there is always a close relationship between them, complementing and supporting each other. The same goes for brothers in the family. Although each person is a separate individual, they are all born with the same parents, play together, study together, and grow up together under the same roof. Therefore, the brotherly relationship is a relationship of flesh and blood.
So how should you treat each other properly? The ancients advised: If a wound heals, you will be protected, and when you are in trouble, you will be protected. Siblings must love and help each other at every step of their life.
Torn and healed are images that symbolize two different life situations. Torn is a difficult and miserable life; Being healthy means a favorable and prosperous life. Combined, torn and healed refers to all situations of prosperity or poverty. When you're hungry, when you're full, when you have enough, when you're lacking, no matter what the circumstances, siblings must love and support each other, without comparing or calculating the difference. Life circumstances may change, but brotherhood must always be passionate and strong. If brotherly love is a natural feeling, then supporting each other is also a natural and inevitable thing.
Caring means helping, protecting, sharing with each other all the joys and sorrows, all the joys and sufferings with all sincere love and affection. The folk song suggests a reasonable way of behaving in brotherly relationships. This is also an ethical standard to evaluate human qualities.
Protecting and supporting is also the responsibility of each brother and sister in the family. In folklore, the story of brotherly love is still passed down through the story of the betel and areca nut. Two twin brothers named Cao lost their parents and took each other to study at the house of a master named Liu. Seeing them give each other a single bowl of porridge, the teacher's daughter was moved and volunteered to be his brother's wife. Then, just because of a misunderstanding, the embarrassed younger brother had to leave. The regretful older brother left home to look for him... The deep brotherly love touched heaven and earth, turning me into an areca tree, you into a stone, forever. forever together in the Vietnamese custom of chewing betel. Besides praising the passionate brotherhood in the story of Trau and Areca, our people also condemned the cruel and greedy brother in the story of Starfruit Tree and gave him the tragic end of having to leave his body at the bottom of the deep sea.
The moral lesson from the above folk song is profound and profound. Today, that lesson still retains its educational meaning because in life there are still cruel, heartbreaking scenes that go against human ethics.
See more: Studying is extremely important work, especially for students. What do you think about this job of students today?
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về câu ca dao “Chiều chiều ra đứng ngõ sau,Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Bài làm
Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn con người, là chiếc nôi đầu tiên khi một đứa trẻ chào đời, hình thành nhân cách cho con người. Một gia đình luôn sum vầy hạnh phúc, cha mẹ luôn sống đúng chuẩn mực xã hội, đạo đức sẽ hình thành cho đứa trẻ những nhân cách tốt.
Chính vì vậy, khi người con gái tới tuổi phải đi lấy chồng, được gả về một nơi xa xôi khiến cho người con gái nhớ quê nhà, ngày đêm trông ngóng về quê hương, với nỗi nhớ khôn nguôi về gia đình, về những người thân yêu của mình
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều.
Hai câu ca dao thể hiện sự đau xót, nỗi niềm của cô gái khi nhìn về quê hương của mình. Nhìn về nơi có gia đình thân thương với những tình cảm thân thương, sự gắn bó vô cùng thiêng liêng, sâu sắc.
Điệp từ “chiều chiều” được lặp đi lặp lại, thể hiện một việc vô cùng quen thuộc, như một thói quen, thường trực nỗi nhớ nhung trong lòng người con gái xa quê, làm cho người đọc cảm thấy nhớ nhung ngậm ngùi cho thân phận của người con xa quê.
Chiều tà là cảnh hoàng hôn, buông xuống bóng tối bao phủ khiến cho người nỗi buồn trong lòng người càng dâng lên da diết, khiến cho con người càng cảm thấy thê lương, tâm trạng nhớ nhà, nhớ người thân càng trở nên quay quắt, da diết vô cùng.Xem thêm: Phân tích nhân vật người lái đò trong Người đò sông Đà của Nguyễn Tuân. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) dể thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của ông trước và sau Cách mạng tháng Tám
“Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Hình ảnh trông về quê mẹ, trong không gian bao la, trước cảnh chiều tà buồn vương khiến cho con người càng trở nên bé nhỏ trước cảnh bao la, của hoàng hôn bao la. Sợi giây thương nhớ, gợi sầu khiến cho con người càng trở nên bé nhỏ.
Quê mẹ là nơi cô gái sinh ra lớn lên với những kỷ niệm ngọt ngào bên người thân. Biết bao kỷ niệm vui buồn sớm tối. Những kỷ niệm gia đình quây quần bên nhau, khiến cô gái vô cùng buồn phiền, nhớ nhung
Bài ca dao thể hiện tình cảm ruột thịt giữa con cái và cha mẹ là tình cảm thiêng liêng sâu sắc không gì có thể sánh được, người con gái khi lớn lên phải gả tới nơi xa xôi nhớ nhung thương nhớ mẹ cha ở quê nhà.
Giọng tâm tình đầy thương nhớ, lời thơ vô cùng dịu dàng sâu lắng khiến người đọc cảm thông với những tình cảm của người con gái xa nhà. Nỗi nhớ da diết chất chứa trong lòng người con gái khiến người con gái ruột đau như cắt.
Tình cảm tha thiết nỗi nhớ quê hương là tình cảm mà bất cứ người con nào xa quê thường có. Nó thể hiện tình cảm thiêng liêng gia đình ruột thịt gắn bó với nhau không gì chia lìa được.
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Expressing feelings about the folk song "In the afternoon, standing in the back alley, looking back at my mother's hometown is painful for nine afternoons"
Assignment
Family is the place that nurtures the human soul, is the first cradle when a child is born, and shapes a person's personality. A family that is always together and happy, where parents always live according to social and moral standards, will form good personalities for the child.
That's why, when a girl reaches the age to get married, being married to a far away place makes her miss her homeland, day and night she looks forward to her homeland, with an endless nostalgia for her family and her memories. your loved one
Lane stood next afternoon
Looking back to my mother's hometown, my stomach aches nine times.
The two folk songs express the girl's pain and sadness when looking back at her homeland. Looking at the place where there is a beloved family with loving feelings and an extremely sacred and profound attachment.
The refrain "afternoon" is repeated over and over, expressing a very familiar thing, like a habit, the constant longing in the heart of a girl far from home, making the reader feel nostalgic and sad for her. the fate of a son far away from home.
Late afternoon is the scene of sunset, falling into darkness, making the sadness in people's hearts rise even more intensely, making people feel even more desolate, the mood of homesickness, missing loved ones becomes even more miserable. , extremely poignant. See more: Analysis of the ferryman character in The Da River Ferryman by Nguyen Tuan. Comparing the character of the boatman with the character of Huan Cao (The word death row prisoner) to see the similarities and differences in his approach to people before and after the August Revolution.
"Looking back to my mother's hometown is painful." The image of looking back at the motherland, in the vast space, in front of the sad sunset scene makes people become even smaller in front of the vast scene, of the vast sunset. The string of nostalgia and sadness makes people become even smaller.
Her mother's hometown is where the girl was born and grew up with sweet memories with her relatives. So many happy and sad memories morning and night. The memories of family gathering together made the girl extremely sad and nostalgic
The folk song shows that the close relationship between children and parents is a profound spiritual feeling that nothing can compare to. When the girl grows up, she must marry to a faraway place and miss her parents back home. .
The sentimental voice is full of nostalgia, the lyrics are extremely tender and profound, making the reader sympathize with the feelings of the girl far from home. The intense nostalgia contained in a girl's heart causes her biological daughter to feel pain like hell.
The passionate feeling of missing one's homeland is a feeling that any child who is far from home often has. It represents the sacred bond between a biological family and nothing that can separate them.
Source: Sample document
|
Phát biểu cảm nghĩ về hai nhân vật Sơn Tinh và Thủy Tinh, trong truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
Hai nhân vật Sơn Tinh và Thủy Tinh để lại trong em nhiều ấn tượng sâu sắc.
B. THÂN BÀI:
– Vua Hùng Vương thứ 18 kén chồng cho con gái.
– Lí do xảy ra trận chiến quyết liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
+ Thủy Tinh tài giỏi nhưng lại thiếu đức.
+ Ngược lại, Sơn Tinh hội tụ đầy đủ nhân cách một con người. Trí tuệ, đi đôi với tài đức.
– Sơn Tinh là hình ảnh của nhân dân chống lũ lụt.
– Thủy Tinh tượng trưng cho những tai họa khủng khiếp.
– Suy diễn: Bằng trí tuệ và sức mạnh, con người đã khác phục thiên tai, chế ngự được những cơn thịnh nộ của thiên nhiên.
C. KẾT LUẬN:
Suy nghĩ và ước mong của em.
BÀI LÀM
Sơn Tinh, Thủy Tinh là hai vị thần đại diện cho qui luật phát triển thiên nhiên và trí tuệ của con người. Em đã được ngoại kể cho nghe nhiều lần. Càng thấm thía và để lại ấn tượng sâu sắc trong em hơn khi em đã được tham dự buổi trình chiếu bộ phim Sơn Thần, Thủy Quái.
Đó là câu chuyện về vua Hùng Vương thứ mười tám muốn kén chồng cho con gái tên là Mị Nương xinh đẹp. Nhưng có đến hai chàng trai tài giỏi cùng đến cầu hôn. Nhà vua không biết chọn ai nên đã nêu điều kiện: Người nào đem lễ vật đến trước sẽ được cưới công chúa làm vợ… Sơn Tinh đến trước cùng lễ vật đầy đủ nên được rước Mị Nương về núi Tản Viên. Thủy Tinh đến sau nổi giận đùng đùng đuổi theo Sơn Tinh đề giành lại công chúa.Xem thêm: Bài văn sáng tạo đạt điểm tuyệt đối của nữ sinh lớp 11 Trận chiến diễn ra quyết liệt, nhưng vì tài trí kém, nên Thủy Tinh đành bại trận.
Câu chuyên mang những tình tiết thật hấp dẫn, li kì, lôi cuốn người xem theo dõi một cách say mê, hứng thú.
Theo em, Sơn Tinh là người thực lòng yêu Mị Nương nên mang hết tâm trí, tài nghệ của mình quyết tâm cưới Mị Nương. Chỉ có con người mang trong tim đầy tình yêu thương mới có một sức mạnh, một trí tuệ hơn người. Ở đây, em thật khâm phục Sơn Tinh, một chàng trai tài giỏi và chứa chan trong lòng một tình yêu nồng cháy, mãnh hệt với nàng công chúa của vua Hùng.
Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, cũng không kém phần hứng thụ. Đó là cuộc tranh tài cao thấp để giành Mị Nương. Vì đến sau, không cưới được Mị Nương, Thủy Tinh đã gây ra bao tội lỗi. Thần hô mưa, gọi gió, dâng nước sông cuồn cuộn đánh Sơn Tinh, tạo giông bão rung chuyển trời đất. Phong Châu lềnh dềnh trên một biển nước. Thế nhưng Sơn Tinh với những phép thuật và trí tuệ của mình đã khắc phục được cơn giận của Thủy Tinh bằng cách nâng núi cao dần.
Em rất cảm phục hai chàng trai vì cả hai đều có bản lĩnh trong chiến đấu. Nhưng tính cách họ rất ngược nhau. Vì một chuyện riêng tư mà Thủy Tinh đã gây bao tai họa cho người khác. Thủy Tinh quả là ích kỷ, độc ác và xấu xa. Với tư cách xấu xa như thế, Thủy Tinh không thể xứng đôi với Mị Nương, một nàng công chúa hiền dịu. Còn Sơn Tinh lại không hề nao núng trước tai họa ghê gớm do Thủy Tinh gây ra. Chàng biết lựa sức mình chiến đấu với Thủy Tinh. Phải chăng qua Sơn Tinh, và Thủy Tinh người xưa muốn nói rằng: Trong mọi việc, con người cần thận trọng và tỉnh táo.Xem thêm: Chuyện tối thứ bảy ở nhà em Trong tư tưởng của ông cha ta xưa kia. Sơn Tinh là hình ảnh của nhân dân chống lũ lụt, bảo vệ sự sống con người. Thủy Tinh thì tượng trưng cho những tai hoá khủng khiếp mà con người phải chống đỡ. Nhân dân ta luôn ao ước thoát khỏi sự đe dọa của thiên nhiên. Và cũng chính họ đã khôi phục thiên nhiên trong trí tưởng tượng. Ngày nay, những phong ba bão tố không còn hung hăng không còn ghê gớm đối với con người nữa. Nhân dân ta đã biết ngăn đê, đã biết đắp đập chống chọi với lũ lụt. Hăng năm, Thủy Tinh vẫn tạo ra giông bão đánh Sơn Tinh, mong cướp lại Mị Nương. Nhưng cuối cùng Thủy Tinh vẫn là người thua cuộc. Nhân dân ta đồng lòng, đã chung sức ngăn chặn dòng nước ghê gớm trong mùa lũ. Chính bằng trí tuệ và sức mạnh, con người đã khắc phục thiên tai, đã chế ngự được cơn thịnh nộ của thiên nhiên, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc, đem lại một nhịp sống êm ả, bình yên.
Em mong ước được một lần, dù chỉ một lần duy nhất, đặt chân đến Sơn Tây để nhìn, để ngắm, để chiêm ngưỡng núi non Tản Viên. Nơi ấy, ngày xưa là bãi chiến trường dữ dội của hai vị thần. Và cũng nơi ấy, giờ đây đang là một khu hồ rộng lớn chứa những khối nước khổng lồ để làm chạy máy phát điện. Và một nhà máy thủy điện Hòa Bình – nhà máy lớn nhất nước ta – đang ngày đêm dựa vào Thủy Tinh bắt những dòng nước hung dữ để sản sinh ra nhiều điện năng cho đất nước.Xem thêm: Bức tranh mùa thu và tâm trạng của Đỗ Phủ trong Thu hứngVanmau.edu.vn
|
Expressing feelings about the two characters Son Tinh and Thuy Tinh, in the story "Son Tinh, Thuy Tinh"
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
The two characters Son Tinh and Thuy Tinh left a deep impression on me.
B. BODY OF THE ARTICLE:
– King Hung Vuong 18th chose a husband for his daughter.
– The reason for the fierce battle between Son Tinh and Thuy Tinh.
+ Thuy Tinh is talented but lacks virtue.
+ On the contrary, Son Tinh fully possesses the personality of a human being. Wisdom, coupled with talent and virtue.
– Son Tinh is the image of the people fighting floods.
– Thuy Tinh symbolizes terrible disasters.
– Inference: With wisdom and strength, humans have overcome natural disasters and tamed the fury of nature.
C. CONCLUSION:
My thoughts and wishes.
ASSIGNMENT
Son Tinh and Thuy Tinh are two gods representing the laws of natural development and human intelligence. My grandmother told me this many times. It was even more poignant and left a deeper impression on me when I attended the screening of the movie Son Than, Water Monster.
It is the story of King Hung Vuong, the eighteenth, who wanted to choose a husband for his daughter, the beautiful Mi Nuong. But two talented guys came to propose. The king did not know who to choose, so he stated the condition: Whoever brings the gift first will be able to marry the princess... Son Tinh arrived first with a full gift, so she was able to take Mi Nuong to Tan Vien mountain. Thuy Tinh arrived later, furiously chasing after Son Tinh to win back the princess. See more: Creative essay with perfect score by 11th grade female student The battle was fierce, but because of her poor intelligence, Thuy Tinh must be defeated.
The story has fascinating and thrilling details that attract viewers to follow with passion and interest.
According to me, Son Tinh is someone who truly loves Mi Nuong, so he put all his mind and talent into deciding to marry Mi Nuong. Only people with a heart full of love have strength and intelligence superior to others. Here, I really admire Son Tinh, a talented young man filled with a passionate and strong love just like the princess of King Hung.
The battle between Son Tinh and Thuy Tinh is no less exciting. It was a high and low competition to win Mi Nuong. Because he came later and could not marry Mi Nuong, Thuy Tinh committed many sins. The god calls for rain, calls for wind, and raises the river's water to hit Son Tinh, creating storms that shake heaven and earth. Phong Chau floats on a sea of water. However, Son Tinh with his magic and wisdom overcame Thuy Tinh's anger by raising the mountain gradually.
I really admire the two boys because they both have bravery in fighting. But their personalities are very opposite. Because of a personal matter, Thuy Tinh has caused many disasters to others. Thuy Tinh is truly selfish, cruel and evil. With such an evil personality, Thuy Tinh cannot match Mi Nuong, a gentle princess. Son Tinh, on the other hand, did not flinch in the face of the terrible disaster caused by Thuy Tinh. He knows how to choose his strength to fight Thuy Tinh. Is it true that through Son Tinh and Thuy Tinh, the ancients wanted to say: In everything, people need to be cautious and alert. See more: Saturday night story at my house In the thoughts of our ancestors in the past. Son Tinh is the image of the people fighting floods and protecting human life. Thuy Tinh symbolizes the terrible disasters that humans must withstand. Our people always wish to escape the threats of nature. And they also restored nature in their imagination. Nowadays, storms are no longer aggressive or terrible to humans. Our people know how to prevent dikes and build dams to cope with floods. Every year, Thuy Tinh still creates storms to attack Son Tinh, hoping to take back Mi Nuong. But in the end, Thuy Tinh was still the loser. Our people united and joined forces to stop the terrible flow of water during the flood season. It is with wisdom and strength that people have overcome natural disasters, conquered the wrath of nature, brought about a prosperous and happy life, and brought about a smooth and peaceful pace of life.
I wish that once, even just once, I could set foot in Son Tay to see, admire, and admire the Tan Vien mountains. That place, in the past, was the fierce battlefield of two gods. And at that same place, there is now a large lake containing huge volumes of water to run generators. And a Hoa Binh hydroelectric plant - the largest factory in our country - is relying day and night on Thuy Tinh to capture fierce water currents to produce a lot of electricity for the country. See more: Autumn picture and mood by Do Phu in Thu InspirationVanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về mẹ của em
Bài làm
Mẹ là người mà em yêu quý nhất trên đời. Đối với em, mẹ không chỉ là một tấm gương sáng cho em học tập mà còn giống như một người tri kỷ luôn ở bên em mỗi khi em vui buồn.
Mẹ em năm nay đã ngoài bốn mươi tuổi nhưng ai cũng nói nom mẹ em già trước tuổi. Có lẽ do công việc đồng áng vất vả và lúc nào mẹ cũng lo lắng cho các con nên trên gương mặt nhỏ nhắn đã sớm xuất hiện nhiều vết nhăn. Công việc vất vả và thường xuyên dầm mưa dãi nắng nên nước da của mẹ cũng ngăm đen rám nắng chứ không được trắng trẻo như những người làm việc nhàn hạ. Tuy nhiên đối với em mẹ là người phụ nữ đẹp, đẹp ở nụ cười tỏa nắng mỗi khi mẹ vui, đẹp ở tâm hồn bởi ngoài anh em và những người trong gia đình thì mẹ đối xử rất tốt với mọi người xung quanh. Chính vì thế mẹ em được hàng xóm láng giềng quý mến.
Hơn hết đối với em thì mẹ rất quan tâm, chăm sóc. Tất cả những ký ức tươi đẹp của em từ nhỏ đến nay thì hầu hết đều gắn với hình bóng của mẹ. Mẹ là người nâng đỡ những bước chân đầu đời của con, là người dạy cho con những điều hay lẽ phải. Mỗi khi con mắc lỗi thì mẹ không dùng đòn roi mà điều đầu tiên mẹ làm đó chính là khiến cho con nhận ra lỗi lầm của mình. Và khắc sâu vào tâm trí con khiến con rút ra được bài học và không bao giờ mắc lại lỗi đó nữa. Những nét chữ đầu tiên không phải do cô giáo dạy con mà chính là mẹ hằng đêm bắt tay con để con nắn nót từng nét chữ.Xem thêm: Giải thích câu "Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"
Biểu cảm về mẹ
Đối với con mẹ giống như một vị đầu bếp thiên tài. Mẹ của em nấu ăn ngon cực kỳ và trong mỗi bữa ăn luôn có sự tỉ mỉ lựa chọn sao cho thích hợp với các thành viên trong gia đình và luôn luôn có món em thích. Mỗi món ăn lại chan chứa tình cảm, sự thương yêu của mẹ dành cho con và mọi người. Mặc dù công việc bận rộn nhưng cuối tuần mẹ luôn làm những bữa ăn gia đình với nhiều món ăn và khi đó cả nhà em cùng với ông bà nội lại có buổi sum họp rất vui vẻ. Mẹ của em rất được lòng ông bà nội và không hề có chuyện mâu thuẫn hay xung đột giữa "mẹ chồng nàng dâu". Đối với cả hai bên nội ngoại mẹ đều quan tâm như nhau. Cuối tuần mẹ thường cho chúng em lên nhà nội và làm cơm trên đó vì nhà nội cách nhà em không xa. Rồi khi ông bà bị ốm thì mẹ em luôn dành nhiều thời gian quan tâm, chăm sóc. Thấy mẹ vất vả nhưng vì em còn nhỏ nên cũng không giúp được gì nhiều. Ngoài thời gian học thì ở nhà em phụ mẹ nấu cơm, quét nhà. Em thích nhất đó chính là khi cùng mẹ chăm sóc vườn rau vào mỗi chiều. Vườn rau nhà em với bàn tay chăm sóc của mẹ khiến nó luôn tươi tốt và dù diện tích không lớn nhưng lúc nào nhà em cũng có rau sạch để ăn.Xem thêm: Thầy, cô giáo chủ nhiệm cần biết những công việc tập thể lớp đã làm để giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Em hãy viết văn bản gửi lên thầy cô để thầy cô được biết những việc làm trên
Trong cuộc sống ai cũng có lần vấp ngã, cuộc đời không phải lúc nào cũng vui vẻ mà cũng chất chứa rất nhiều nỗi buồn. Mỗi khi em buồn thì mẹ luôn ở bên động viên em và làm cho em vui. Trong vòng tay của mẹ em cảm thấy thế giới thật bình yên và quên đi hết mọi muộn phiền. Mỗi khi em vui hay làm được một việc gì đó thì người đầu tiên mà em chia sẻ chính là mẹ.
Người ta nói tình mẫu tử là thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý và em thấy rằng nó hoàn toàn đúng đắn và là lời nhận xét sâu sắc. Em luôn tự nhủ bản thân sẽ học tập, rèn luyện thật tốt để mẹ không phiền lòng và mẹ sẽ tự hào vì em.
Loan Trương
|
Topic: Express your feelings about your mother
Assignment
Mom is the person I love the most in the world. For me, my mother is not only a bright example for me to study but also like a confidant who is always by my side every time I am happy or sad.
My mother is over forty years old this year, but everyone says she looks old before her time. Perhaps due to the hard work in the fields and the mother always worrying about her children, many wrinkles soon appeared on her small face. Her work was hard and she was often exposed to the rain and sun, so her skin was dark and tanned, not white like people who work leisurely. However, for me, my mother is a beautiful woman, beautiful in her sunny smile every time she is happy, beautiful in her soul because in addition to her brothers and family members, she treats everyone around her very well. That's why my mother is loved by her neighbors.
Most of all, for me, my mother is very attentive and caring. All of my beautiful memories from childhood until now are mostly associated with the figure of my mother. Mother is the one who supports my child's first steps in life, who teaches me the right things. Every time you make a mistake, I don't use the whip, but the first thing I do is make you realize your mistake. And it's engraved in my mind so I can learn the lesson and never make that mistake again. The first handwriting was not taught by the teacher, but by the mother who shook the child's hand every night to help him perfect each stroke. See more: Explanation of the saying "Words do not cost money to buy, choose the words to speak to please together"
Expression about mother
To my child, my mother is like a genius chef. My mother cooks extremely well and every meal is always meticulously chosen to suit the family members and there is always something I like. Each dish is filled with a mother's affection and love for her children and everyone. Even though work is busy, on weekends my mother always cooks family meals with many dishes and then my whole family and grandparents have a very happy reunion. My mother is very popular with her grandparents and there is no conflict or conflict between "mother-in-law and daughter-in-law". For both sides, the mother cares equally. On weekends, my mother often lets us go to my grandmother's house and cook dinner there because my father's house is not far from my house. Then when my grandparents got sick, my mother always spent a lot of time paying attention and taking care of them. I saw my mother struggling, but because I was still young, I couldn't help much. Outside of school, I help my mother cook and clean the house at home. What I like best is when I work with my mother to take care of the vegetable garden every afternoon. My mother's vegetable garden with my mother's care makes it always lush and even though the area is not large, my family always has clean vegetables to eat. See more: Teachers and homeroom teachers need to know collective work class did to help families of war invalids, martyrs and Vietnamese Heroic Mothers. Please write a document and send it to your teachers to let them know the above actions
In life, everyone stumbles, life is not always happy but also contains a lot of sadness. Whenever I am sad, my mother is always there to encourage me and make me happy. In my mother's arms, I feel the world is peaceful and I forget all my troubles. Every time I am happy or do something, the first person I share it with is my mother.
People say motherly love is a sacred and noble feeling and I find that it is completely correct and a profound comment. I always tell myself that I will study and practice well so that my mother will not be upset and she will be proud of me.
Loan Truong
|
Phát biểu cảm nghĩ về một nhân vật trong tác phẩm văn học em đã học hoặc đọc thêm
Gợi ý
Ở nước ta, ai cũng biết rất nhiều những anh hùng đã hi sinh để bảo vệ và giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng trong số các anh hùng đó, người mà em và bao các bạn thiếu nhi như em rất thán phục và cần noi gương chính là nhân vật Lượm trong văn bản Lượm của nhà thơ Tố Hữu.
Lượm là một cậu bé thanh mảnh, nhỏ nhắn. Cậu có đôi chân thật nhanh nhẹn. Đặc biệt, Lượm luôn đội chiếc mũ ca lô trên đầu, lệch về một phía trông thật ngộ nghĩnh và đáng yêu. Chú liên lạc này luôn đeo một cái xắc xinh xinh trên vai trông rất ra dáng “cán bộ”. Đó cũng là một cậu bé rất yêu đời. Miệng cậu luôn huýt sáo như những con chim chích đang hót vang lưng trời. Tuy công việc của người chiến sĩ nhỏ rất nguy hiểm nhưng cậu rất yêu thích công việc mà mình đã lựa chọn. Lượm rất lạc quan trong khi làm nhiệm vụ. Cậu nhảy nhót trên đường, vừa đi, vừa nhảy, cười tít cả hai mắt. Ngày qua ngày, Lượm như một con chim đang hướng tới mặt trời rực rỡ.
Lượm không nề nguy hiểm. Cậu đã vượt qua bom đạn để đưa những bức thư khẩn cực kỳ quan trọng cho các đơn vị khác. Cho đến một ngày, Lượm đi liên lạc trên một con đường làng quê vắng vẻ. Những bông lúa chín vàng đã làm Lượm ngây ngất trong mùi thơm ngọt ngào. Cái mũ ca lô của chú bé nhấp nhô trên đồng. Lượm bị phát hiện, thế là những tiếng súng vang lên. Đạn bay vun vút như đan chéo vào nhau đuổi thẹo chú bé. Lượm chạy như bay nhưng vẫn không tránh được những viên đạn của địch. Chú bé ngã xuống, tay vẫn nắm chặt bông lúa thơm ngát.Xem thêm: Cảm nghĩ về nẻo đường tuổi thơ qua ca dao Cái chết của chú bé anh hùng làm tim người đọc nhói đau. Chú bé đã thanh thản ra đi giữa hương thơm của lúa. Quê hương mở rộng vòng tay đón chú vào lòng. Lượm ơi, còn không? Câu hỏi xoáy vào lòng người đọc. Chú bé ngã xuống nhưng vẫn còn mãi với quê hương và sống mãi trong lòng bạn đọc với tất cả lòng yêu thương và kính trọng.
Lượm thật xứng đáng là một tấm gương sáng cho các thế hệ thiếu niên nhi đồng trong hiện tại và trong tương lai noi theo.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about a character in a literary work you have studied or read more about
Suggest
In our country, everyone knows many heroes who sacrificed their lives to protect and regain independence for the country. But among those heroes, the one that I and many children like me admire and need to imitate is the character Luom in the text Luom by poet To Huu.
Luoi is a slim, small boy. He has really agile feet. In particular, Luom always wears a hat on his head, tilted to one side, looking so funny and adorable. This liaison always wears a pretty bag on his shoulder, looking very "official". He is also a boy who loves life very much. His mouth always whistled like warblers singing loudly in the sky. Although the little soldier's job is very dangerous, he really loves the job he has chosen. Luom is very optimistic while on duty. He danced on the street, walking and jumping, smiling with both eyes. Day after day, Luom is like a bird heading towards the bright sun.
Collecting without warning is dangerous. He overcame bombs and bullets to deliver extremely important urgent letters to other units. Until one day, Luom went to make contact on a deserted country road. The ripe golden rice flowers made Luom ecstatic with the sweet fragrance. The boy's hat bobbed in the field. Luom was discovered, so gunshots rang out. The bullets flew like they were crisscrossing each other, chasing the boy's scar. Luom ran as fast as he could but still could not avoid the enemy's bullets. The boy fell down, still clutching the fragrant rice flower. See more: Feelings about the path of childhood through folk songs The death of the heroic boy makes the reader's heart ache. The boy passed away peacefully amid the fragrance of rice. The homeland opened its arms to welcome him into its heart. Luom, are you still there? The question lingers in the reader's heart. The boy fell but still remains with his homeland and lives forever in the hearts of readers with all love and respect.
Luoi truly deserves to be a shining example for current and future generations of children and teenagers to follow.
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ về ngày khai trường đầu tiên
Gợi ý
“Tuổi thơ như áng mây, rồi sẽ mãi bay về cuối trời…”, dẫu xa rồi những kỉ niệm tuổi thơ nhưng trong kí ức mỗi người, những gì đã qua lại là những gì đẹp đẽ nhất. Trong góc trời vô cùng tươi đẹp ấy của tôi luôn có một vị trí trang trọng nhất dành cho ngày đầu tiên tôi đến lớp.
Ngày khai trường đầu tiên trong kí ức thơ bé của tôi hiện lên thật rõ ràng như vừa mới hôm qua. Làm sao có thể quên được sự kiện trọng đại và những giây phút thiêng liêng đó được!
Buổi sáng hôm ấy, tôi được ngồi trên chiếc xe máy của bố để đến trường. Bầu trời đẹp và trong xanh, những làn gió đùa nghịch trong hương vị mát lành của mùa thu. Chẳng mấy chốc, cổng trường đã hiện ra, to, rộng và sừng sững ngay trước đôi mắt đầy ngạc nhiên và tò mò của tôi. Ngoài cổng trường, tôi thấy có khá nhiều những người bạn nhỏ trạc tuổi tôi, họ ngập ngừng không dám bước tiếp: đó cũng là những học sinh lớp 1. Có lẽ các bạn ấy cũng có cảm xúc giông như tôi lúc này: sợ hãi, rụt rè mà bỡ ngỡ; một cảm giác lạ lẫm ngơ ngác khi đứng trước cánh cổng trường, cổng trường mở rộng dang hai cánh tay lực lưỡng, hướng về chúng tôi gọi chào. Sự thân thiện ấy như muốn xua tan đi những nỗi lo âu của những đứa trẻ lần đầu tiên đến lởp. Tôi lưỡng lự, tạm biệt bố rồi nhanh chân xếp hàng đi diễu hành với các bạn.Xem thêm: Thuyết minh về con trâu
Những nỗi lo âu, sợ hãi như biến mất vào giây phút tôi cùng các bạn lớp một diễu hành. Thay vào đó là một niềm hân hoan tột độ. Chúng tôi đi trong tiếng vỗ tay hoan hô và những cái vẫy chào thân ái của các anh chị lớp trên, của các thầy cô. Có lẽ đó là giờ phút đẹp đẽ và đáng nhớ nhất của tôi, giờ phút mà tôi được công nhận là học sinh lớp một. Thầy hiệu trưởng cầm dùi trống đánh ba tiếng thật to, thật cao vang xa mãi lên trời mây. Đồng loạt hàng chùm bóng bay bay lên trong muôn vàn ánh mắt dõi theo của hàng trăm học sinh chúng tôi. Tôi cứ ngắm mãi, ngắm mãi, tưởng chừng như nếu chùm bóng bay không bay được nữa chỉ dừng ở lưng chừng trời thì có lẽ tôi đứng cả buổi mà nhìn mất! Tôi đã nghĩ rằng những chùm bóng bay kia cũng như những ước mơ của chúng tôi rồi sẽ bay cao, bay xa…
Buổi khai giảng kết thúc, chúng tôi xếp hàng vào lớp. Lớp chúng tôi rộng rãi, ngăn nắp lắm, nổi bật giữa những bàn ghế, tranh ảnh là chiếc bảng đen to và đẹp. Cô giáo chúng tôi hiền dịu bước vào lớp, nhẹ nhàng hỏi chuyện những học sinh ngồi đầu bàn. Tôi run rẩy khi đôi tay mềm mại của cô khẽ chạm lên bờ vai tôi ân cần hỏi han. Khoảnh khắc xúc động ấy là kỉ niệm tôi nhớ mãi không quên. Tôi cũng phát hiện ra rằng các bạn trong lớp mới cũng nghịch ngợm, đáng yêu và dễ gần như đám bạn hàng xóm của tôi vậy. Tôi và cô bạn cùng bàn ban đầu còn nhoẻn miệng cười gượng chào nhau. Nhưng chỉ một lát sau là ào ào kể cho nhau nghe về những trò chơi ở nhà chúng tôi hay chơi. Tôi nhìn sang xung quanh: cả lớp tôi cũng đang bắt đầu “kết bạn” với nhau một cách ầm ĩ như vậy!Xem thêm: Phân tích bài ca dao “Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cố rắn tha ra ngoài đồng…” Tôi không thể nào quên những cảm xúc kì lạ ngày khai trường đầu tiên của mình. Trước mắt tôi sẽ còn biết bao ngày khai trường nữa nhưng tôi hiểu rằng những băn khoăn, hồi hộp, thích thú của ngày khai trường đầu tiên không bao giờ lặp lại. Tôi lưu giữ những cảm xúc rưng rưng ấy như gìn giữ những gì quý bẩu nhất của đời mình.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the first day of school
Suggest
"Childhood is like a cloud, it will forever fly to the end of the sky...", even though childhood memories are far away, in each person's memory, what has passed is the most beautiful things. In that extremely beautiful corner of my life, there is always the most solemn place reserved for my first day of class.
The first day of school in my childhood memories appears as clearly as if it were yesterday. How can we forget that important event and sacred moments!
That morning, I sat on my father's motorbike to go to school. The sky is beautiful and clear, the breeze plays with the cool scent of autumn. Soon, the school gate appeared, big, wide and towering right before my surprised and curious eyes. Outside the school gate, I saw quite a few young friends about my age, hesitant to move forward: they were also first graders. Perhaps they also had the same feelings as me right now: fear. scared, timid and confused; a strange feeling of bewilderment when standing in front of the school gate, the school gate was wide open with two strong arms outstretched, calling towards us. That friendliness seemed to dispel the worries of children coming to school for the first time. I hesitated, said goodbye to my father, then quickly lined up to march with my friends. See more: Explanation about the buffalo
Anxiety and fear seemed to disappear the moment my first graders and I marched. Instead there was extreme joy. We left amid cheers and warm greetings from the upperclassmen and teachers. Perhaps that was my most beautiful and memorable moment, the moment I was recognized as a first grader. The principal held the drumstick and beat three loud, high sounds that echoed far into the sky and clouds. At the same time, dozens of balloons flew up while hundreds of students watched. I kept looking and looking and looking, thinking that if the balloons couldn't fly anymore and just stopped in the middle of the sky, maybe I would stand all day and look away! I thought that those balloons, like our dreams, would fly high and far...
The opening ceremony ended, we lined up to go to class. Our classroom is spacious and very tidy. Standing out among the tables, chairs and pictures is a large and beautiful blackboard. Our teacher gently entered the classroom and gently asked questions about the students sitting at the head of the table. I trembled when her soft hands gently touched my shoulder and asked kindly. That emotional moment is a memory I will never forget. I also discovered that the people in my new class are as mischievous, lovely and approachable as my neighbors. My table mate and I initially smiled awkwardly at each other. But just a moment later, we were rushing to tell each other about the games we often played at home. I looked around: my whole class was also starting to "make friends" with each other in such a loud way! See more: Analysis of the folk song "When will it be March, when the frog bites the snake and lets it out into the field?" ..." I can never forget the strange feelings on my first day of school. I have many more opening days ahead, but I understand that the anxiety, excitement, and excitement of the first opening day will never be repeated. I keep those tearful emotions like preserving the most precious things in my life.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về nhà thơ Nguyễn Du
Giống tất cả mọi người dân Việt Nam, tôi yêu tiếng nói của dân tộc mình, thứ nói lên bổng xuống trầm đầy cảm xúc. Vì thế tôi yêu những câu lục bất uyển chuyển và đằm thắm chứa chan tình cảm. Vì lẽ đó, cũng chẳng có gì là lạ, là đặc biệt khi tôi yêu văn học nước mình, và tôi say mê Truyện Kiều của Nguyễ Du. Tôi say mê Kiều bởi ở Kiều tôi thấy Nguyễn Du, một Nguyễn Du của tài và tình, một nguyễn Du có tình yêu tha thiết với dân tộc và tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông đối với nhữung kiếp người bất hạnh. Mà bất hạnh nhất trong xã hội xưa là người phụ nữ – những con người hồng nhan bạc phận.
Tôi muốn nói về sự kính trọng của tôi đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Cả dân tộc ta đã kính trọng ông nhưng tôi vẫn muốn thể hiện những tình cảm của mình đối với người thi nhân đa tài mà đa đoan ấy.
Điều đầu tiên khiến tôi yêu quý và kính trọng Nguyễn Du chính là tình cảm của ông dành cho con người. Ông là con người có tấm lòng nhân hậu. Có lẽ, đây chính là yếu tố quan trong để ông có được những tác phẩm văn học chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc. Người thi nhân đa đoan, viên quan đại thần dòng dõi của triều Lê ấy không biết đã bao lần "Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa". Chính ông đã tự nhận ra rằng, người thi nhân bất hạnh bởi thi nhân luôn là người tự vận nỗi đau, nỗi bất hạnh của người khác vào mình (Phong vận kì oan ngã tự cư). Lòng nhân hậu khiến ông luôn rất nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác, vì thế những thi phẩm của ông luôn đầm đìa nước mắt: nước mắt của nàng Kiều, nước mắt của người ca nữ đất Long Thành và của nàng Tiểu Thanh. Họ đều là những con người tài hoa, tài sắc song toàn mà mệnh bạc. Nhà thơ đồng cảm và đau nỗi đau của những người ấy không đơn giản chỉ là sự cảm thông của con người đối với con người. Nỗi đau của Nguyễn Du còn là sự nuối tiếc, xót xa trước sự ra đi của những tài năng. "Cái tốt đẹp thì khó bền", "hoa thường hay héo cỏ thường tươi", đó là quy luật của cuộc đời. Sự vô tình của con người trước nỗi đau, trước giá trị của cái đẹp cũng là lẽ thường. Biết vậy Nguyễn Du vẫn luôn trăn trở day dứt:
Xem thêm: Thuyết minh về cái quạtBất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
"Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha" (Tố Hữu) chính là điều khiến ông luôn được người đời trân trọng.
Điều thứ hai khiến tôi say mê Nguyễn Du chính là bởi tài năng. Nguyễn Du yêu Tiếng Việt nên ông đã sử dụng thành công và làm Tiếng Việt phong phú thêm bao nhiêu. Bao nhiêu năm nay chúng ta đọc và say mê Truyện Kiều một phần bởi cái giọng điệu lục bát dễ đọc, dễ thuộc, dễ nghe. Nguyễn Du đã gửi gắm ở Truyện Kiều một tình yêu lớn đối với tiếng nói và thể thơ dân tộc. Ông dùng những từ ngữ, những cách diễn đạt gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Dân dã mà vẫn thật hay, vẫn uyên bác và giàu chất nghệ thuật. Ví như những bức tranh bốn mùa của ông:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Tiếng Việt đẹp hơn, giàu âm thanh, hình ảnh và sắc điệu hơn bởi khả năng sáng tạo của ông. Truyện Kiều đã đưa thể hiện một cách phong phú nhất khả năng biểu hiện của Tiếng Việt và khả năng biểu cảm của thể thơ lục bát.
Có biết bao nhiêu lí do để ta trân trọng đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, và lí do lớn nhất, chính đáng nhất chính là nhân cách cao đẹp của ông, kết quả của sự kết hợp hài hoà giữa tài và tình Nguyễn Du.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Biểu cảm về loài hoa em yêu lớp 7 hay nhất
|
Topic: Expressing feelings about poet Nguyen Du
Like all Vietnamese people, I love the voice of my people, which rises and falls full of emotion. That's why I love inflexible and loving verses filled with emotion. For that reason, it is not strange, especially when I love my country's literature, and I am passionate about The Tale of Kieu by Nguyen Du. I am passionate about Kieu because in Kieu I see Nguyen Du, a Nguyen Du of talent and love, a Nguyen Du with a passionate love for the nation and a kind heart full of sympathy for unfortunate people. The most unfortunate people in ancient society were women - beautiful and unfortunate people.
I want to talk about my respect for the great national poet Nguyen Du. Our entire nation respects him, but I still want to express my feelings for that multi-talented and versatile poet.
The first thing that makes me love and respect Nguyen Du is his affection for people. He is a person with a kind heart. Perhaps, this is an important factor for him to have literary works containing profound humanitarian values. That multi-faceted poet and mandarin of the Le Dynasty did not know how many times he "had enough tears to cry for the people of ancient times". He himself realized that the poet is unhappy because the poet is always the one who commits the pain and misfortune of others on himself (Phong, when unjust, falls on his own). His kindness made him always very sensitive to the suffering of others, so his poems were always filled with tears: the tears of Kieu, the tears of the singer of Long Thanh and of Tieu Thanh. . They are all talented people, both talented and beautiful, but destined to be poor. The poet's sympathy and pain for those people is not simply human sympathy for human beings. Nguyen Du's pain is also regret and sadness over the departure of talented people. "Good things are difficult to endure", "flowers often wither, grass is always fresh", these are the rules of life. Human indifference towards pain and the value of beauty is also common sense. Knowing that, Nguyen Du still worries and worries:
See more: Explanation of the fan Not knowing the three hundred years after birth
People in the world crave To Nhu?
"The poetic heart is still passionate about life" (To Huu) is what makes him always respected by people.
The second thing that makes me fall in love with Nguyen Du is his talent. Nguyen Du loves Vietnamese so he has successfully used it and enriched it. For many years, we have been reading and falling in love with The Tale of Kieu partly because of its easy-to-read, easy-to-memorize, and easy-to-listen tone. Nguyen Du has entrusted in The Tale of Kieu a great love for the national voice and poetic form. He used words and expressions close to the voice of the people. Simple but still beautiful, still erudite and rich in art. For example, his paintings of the four seasons:
Green grass creeps up the horizon
There are some blossoms on the white pear branch
Vietnamese is more beautiful, richer in sounds, images and tones because of his creative ability. The Tale of Kieu has shown in the richest way the expressive ability of Vietnamese and the expressive ability of six-eight poetry.
There are so many reasons for us to appreciate the great national poet Nguyen Du, and the biggest and most legitimate reason is his noble personality, the result of the harmonious combination of Nguyen Du's talent and love. .
Source Edufly
See more: The best expressions about your favorite flower for grade 7
|
Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Dế Mèn trong đoạn trích mà em đã đọc ở tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
(Nêu cảm nghĩ chung)
+ Nhớ về một sự kiện có liên quan đến con dế: Hôm qua đi học về, giẫm chết con dế.
+ Sự kiện đó gợi suy nghĩ đến nhân vật Dế Mèn.
B. THÂN BÀI:
1. Khi chưa đọc tác phẩm, cứ nghĩ rằng dế là dùng để đá nhau.
Khi học rồi thì thấy Dế Mèn có những tính cách đáng quí như người.
2. Dế sống độc lập ngay từ nhỏ: Đó là điều tốt nhưng rất dễ dẫn đến tính kiêu ngạo vì thiếu người quan tâm dạy bảo và do đó trở nên ngang ngạnh phá phách.
Thói xấu đó đáng chê trách. Qua đây, ta cũng rút ra bài học là đang nhỏ tuổi thì phải học đức tính khiêm tốn, biết nghe lời người khác, không được kiêu căng tự phụ.
3. Dế Mèn đã gây nên cái chết của Dế Choắt. Sự nghịch ngợm hỗn hào của nó phải trả giá rất đắt. Đó là một mạng sống của một người bạn rất ốm yếu, hiền lành và đáng thương. Dế Mèn ăn năn thì sự đã rồi. Nhưng ăn năn còn hơn là cứ giữ mãi tính hư thói xấu ngày nào.
+ Đây là bài học thấm thía cho Dế Mèn cũng là cho chúng em phải suy nghĩ trước những việc làm của mình. Cuộc sống bắt chúng ta phải chịu trách nhiệm trước những hành động sai trái của mình bằng những hậu quả không lường.Xem thêm: Phân tích truyện ngắn ‘Gió lạnh đầu mùa’ của Thạch LamC. KẾT LUẬN:
Rút ra kinh nghiệm cho em: phải thương yêu nhau, hòa nhã với bạn bè.
BÀI LÀM
Hôm qua trên đường đi học về, qua bãi cỏ đầu làng, em đạp phải một cậu dế làm cậu ta tắt thở. Hình ảnh con dế nằm phơi bụng lên cỏ làm em thương lắm! Và bất ngờ nó gợi cho em nhớ lại một chàng Dế Mèn trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký mà em đã từng thương, từng yêu mến.
Trước đây em cứ nghĩ rằng Dế là con vật thích đánh đá, không có gì đáng quí cả. Nhưng khi học tác phẩm Dế Mèn pliiêu lưu ký em thấy Dế Mèn có tính cách cao quí như một con người. Có phải chăng Tô Hoài đã mượn hình ảnh Dế Mèn để nói đến chúng ta. Nói đến lứa tuổi bắt đầu biết suy nghĩ. Ngay từ nhỏ, Dế đã sống độc lập một mình, dần dần lớn lên vằ bắt đầu có tính kiêu ngạo. Vì không được ai dạy bảo nên càng lớn, Dế Mèn càng tự hào về mình, phá phách ngang ngạnh không ai chịu nổi. Cái thói xấu này của Dế Mèn đáng chê trách lắm. Nó giống như một số người trong cuộc sống: kiêu căng, tự phụ. Khi Dế Mèn trưởng thành mà hư hỏng. Nó chọc phá người khác, bắt nạt kẻ thất thế. Cái chết thương tâm của Dế Choắt do một lần đùa nghịch của Dế Mèn đã thức tỉnh hắn ta một lần sống dậy. Lúc này, Mèn không còn đáng chê trách nữa mà là kẻ đáng thương. Còn gì cao quí bằng khi biết lỗi thì hối hận và suy nghĩ. Mèn khóc thật nhiều bên mộ Dế Choắt, đứng suy ngẫm về bài học đường đời đầu tiên. Bây giờ Mèn thật sự sống cho mình. “Một lần ngã thì một lần trót dại”. Chúng ta có thể cảm thông cho Dế Mèn, qua đó, em cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm. Sống phải thương yêu, hòa nhã với bạn bè.Xem thêm: Em giải thích nội dung lời khuyên của Lê-nin: Học! Học nữa! Học mãi!Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the character De Men in the excerpt you read in To Hoai's "Adventures of Cricket"
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
(State general feelings)
+ Remember an event related to crickets: Yesterday when I came home from school, I stepped on a cricket to death.
+ That event reminds me of the character Cricket.
B. BODY OF THE ARTICLE:
1. When you haven't read the work, you think that cricket is used to fight each other.
After studying, I realized that Cricket has valuable qualities like humans.
2. Crickets live independently from an early age: That is a good thing, but it can easily lead to arrogance because they lack people to care and teach them, and thus become stubborn and destructive.
That bad habit is reprehensible. Through this, we also learn the lesson that when we are young, we must learn to be humble, listen to others, and not be arrogant and conceited.
3. Cricket Men caused the death of Cricket Cricket. Its mischievousness comes at a very high price. It was the life of a very sick, gentle and pitiful friend. When Cricket repented, it was over. But repentance is better than continuing to keep bad habits.
+ This is a profound lesson for Cricket and also for us to think before our actions. Life forces us to be responsible for our wrong actions with unpredictable consequences. See more: Analysis of the short story 'The First Cold Wind of the Season' by Thach LamC. CONCLUDE:
Lesson learned for me: we must love each other and be gentle with friends.
ASSIGNMENT
Yesterday on the way home from school, passing through the grass at the beginning of the village, I stepped on a cricket boy, causing him to stop breathing. The image of a cricket lying with its belly exposed on the grass makes me feel so sorry! And suddenly it reminded me of a Cricket guy in the book Cricket Adventure that I once loved and loved.
Before, I always thought that Cricket was an animal that liked to fight and had nothing precious about it. But when I studied the book De Men Plieu Luu Ky, I saw that Cricket had a noble personality like a human being. Could it be that To Hoai borrowed the image of Cricket to refer to us? Talking about the age when you start to think. From a young age, Cricket lived independently, gradually grew up and began to be arrogant. Because no one taught him, the older Cricket became, the more proud he was, and he was so stubborn that no one could stand it. This bad habit of Cricket is very reprehensible. It's like some people in life: arrogant, conceited. When Cricket becomes an adult, it becomes damaged. It teases others and bullies the losers. Cricket's tragic death due to one of Cricket's pranks awakened him to life once again. At this point, Men is no longer blameworthy but pitiful. There's nothing more noble than knowing your mistake, regretting it and thinking about it. Men cried a lot at Cricket's grave, thinking about his first life lesson. Now Men truly lives for himself. "Once you fall, you will be foolish once." We can sympathize with De Men, through which, he can also learn a lot of experience. To live, you must love and be gentle with friends. See more: I explain the content of Lenin's advice: Study! Learn more! Learn forever!Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Mai An Tiêm trong tác phẩm “Sự tích dưa hấu”
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ ĐỀ:
– Lí do Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang.
– Suy nghĩ và cách sống của An Tiêm.
B. THÂN BÀI:
– Mai An Tiêm bắt đầu một cuộc sống với hai bàn tay trắng.
– Bằng ý chí và nghị lực, hai vợ chồng An Tiêm dần dần ổn định cuộc sống.
– Sự xuất hiện của hạt giống quí và suy nghĩ của An Tiêm về nó.
– Với mồ hôi, nước mắt và những hi vọng của gia đình Mai An tiêm đặt vào giống dưa quí, nó đã không phụ lòng người chăm sóc.
– Kết quả cuối cùng An Tiêm đã đạt được, cũng như câu nói của chàng: “Do hai bàn tay mình làm ra”.
C. KẾT LUẬN:
Mai An Tiêm là một hình ảnh đẹp trong văn học dân gian.
BÀI LÀM
Mai An Tiêm là con nuôi của vua Hùng Vương thứ mười bảy. Chỉ vì một câu nói thẳng thắn của chàng lọt tới tai nhà vua mà cả gia đình chàng bị đày ra đảo hoang. Sống sao đây với những ngày trên đảo hoang xa lạ? Nhưng không hề gì – An Tiệm tự nhủ – Ta còn bàn tay, còn khối óc, ta sẽ sống được.
Thế là gia đình An Tiêm bắt đầu cuộc sống mới trên đảo hoang với một chiếc nồi con, một thanh gươm cùn và thức ăn dùng cho vài ngày. An Tiêm bắt đầu công việc đầu tiên, đó là cắp gươm đi thăm dò đảo. Hòn đảo thật hoang vu chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển. Màn đêm buông xuống, An Tiêm dắt vợ con vào hốc đá nghỉ tạm. Cuộc sống của bốn người vô cùng lao đao, vất vả. Tuy vậy An Tiêm vẫn không nản lòng mà phân công các việc cho gia đình: nàng Ba mò con ngao, cái hến. An Tiêm trồng rau dại và săn bắn… An Tiêm thật là một con người đẹp. Đẹp về nhân cách lẫn tâm hồn. Theo em thì gian lao thử sức, người có lòng tin còn dời nổi cả núi, tát biển Đông cũng cạn. Và cứ thế, cuộc sống của gia đình An Tiêm ngày càng ổn định.Xem thêm: Kể một câu chuyện về tinh thần vượt khó, vươn lên học giỏi
“Quác! Quác!” Đó là tiếng kêu của con chim biển. Phải chăng tiếng kêu ấy chẳng những giúp An Tiêm tìm ra giống dưa quý mà còn giúp cho gia đình chàng có một cuộc sống khá hơn. Chim bay đi bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên, miệng lẩm nhẩm bảo rằng: “Chim ăn được có lẽ người cũng ăn được”. Nói rồi, An Tiêm đưa lên miệng ăn thử. Ăn xong, chàng thấy người khỏe khoắn, mát ruột lại đỡ đói, nên chàng đem hạt giống về giao trồng, bao nhiêu mồ hôi, nước mất, ngay cả tấm lòng thành và niềm hi vọng của gia đình An Tiêm đều đặt hết vào giống dưa quí. Nàng Ba giúp chàng chăm sóc giống dưa ấy. Với người thường, giống dưa lại chẳng lạ gì cả, nhưng đối với gia đình An Tiêm thì nó bỗng lớn lao lạ thường. Nó không phụ lòng người chăm sóc. Giống dưa bò lan khắp mặt đất, kết hoa, tạo quả, quả to dần, vỏ mỏng dần đi.
Với lòng tin và hy vọng vào giống dưa, An Tiêm đã thàng công. An Tiêm trên đất liền tự tin và lạc quan như thế nào thì An Tiêm trên đảo hoang cũng tự tin, lạc quan như thế. Cứ mỗi lần An Tiêm trẩy dưa là chàng lại chọn những quả ngon nhất mà thả xuống biển cho trôi vào đất liền. Phải chăng tại chàng muốn nối nhịp cầu giữa đảo hoang và đất liền? Đó là phép tiên phù hộ cho gia đình An Tiêm? Không đâu, đó chính là sự thật, thực tế. Cuộc sống của gia đình An Tiêm đã ổn định. Chiếc hốc đá biến thành căn nhà lá xinh xinh. Những thành quả đó là do An Tiêm trồng. Vua ngẫm nghĩ, thấy mình sai, bèn cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. Chàng đã tự cứu mình và cứu gia đình.Xem thêm: Dựa vào văn bản “Ý nghĩa văn chương” của Hoài Thanh, hãy viết một đoạn văn nêu lên tác dụng của văn chương đối với đời sống con người, trong đó có sử dụng phép liệt kê tăng tiến (gạch chân dưới những từ ngữ liệt kê ấy) An Tiêm quả là một con người có lòng tin, có tinh thần tự lực cách sinh. Chàng đã gieo vào tâm trí em hình ảnh một con người có phẩm chất và nhân cách cao đẹp. Gian lao không sợ, thử thách không sờn, chàng là hình ảnh văn hóa dân gian tuyệt đẹp…!
Vanmau.edu.vn
|
Expressing feelings about the character Mai An Tiem in the work "The Legend of Watermelon"
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
– The reason why Mai An Tiem was exiled to a deserted island.
– An Tiem's thoughts and way of life.
B. BODY OF THE ARTICLE:
– Mai An Tiem started life with empty hands.
– With will and determination, An Tiem and his wife gradually stabilized their lives.
– The appearance of the precious seed and An Tiem's thoughts about it.
– With the sweat, tears and hopes of Mai An's family placed on the precious melon variety, it did not disappoint its caretakers.
– The final result An Tiem achieved, as well as his saying: "Made by my own two hands".
C. CONCLUSION:
Mai An Tiem is a beautiful image in folk literature.
ASSIGNMENT
Mai An Tiem was the adopted son of the seventeenth King Hung Vuong. Just because a straightforward statement from him reached the king's ears, his entire family was exiled to a deserted island. How to live with these days on a strange desert island? But it doesn't matter - An Tiem told himself - I still have my hands, I still have my brain, I will survive.
So An Tiem's family started a new life on a deserted island with a small pot, a blunt sword and food for a few days. An Tiem started his first job, which was to pick up his sword to explore the island. The island is deserted with only a few plants and a few seabirds. Night fell, An Tiem took his wife and children into a rock hole to rest temporarily. The lives of four people are extremely difficult and difficult. However, An Tiem was not discouraged and assigned tasks to the family: Ba searched for clams and mussels. An Tiem grows wild vegetables and hunts... An Tiem is truly a beautiful person. Beautiful in personality and soul. In my opinion, through hard work, a person with faith can move a mountain, even the East Sea will dry up. And so, An Tiem's family's life became more and more stable. See more: Telling a story about the spirit of overcoming difficulties and striving to study well
“Quack! Quach!” It was the cry of a seabird. Perhaps that cry not only helped An Tiem find a precious melon variety but also helped his family have a better life. The bird flew away leaving behind a piece of red bait. An Tiem picked it up and mumbled: "If birds can eat it, perhaps people can also eat it." Having said that, An Tiem brought it to his mouth to try it. After eating, he felt healthy, cooled and less hungry, so he brought the seeds home to plant. All the sweat and water lost, even the sincerity and hope of An Tiem's family were put into it. like a precious melon. Ms. Ba helped him take care of that melon. To ordinary people, melon varieties are not strange at all, but to An Tiem's family, it suddenly became unusually large. It does not disappoint the caregiver. The melon variety spreads across the ground, blooms, produces fruit, the fruit gradually gets larger, the skin gradually thins.
With faith and hope in the melon variety, An Tiem succeeded. Just as An Tiem on the mainland is confident and optimistic, An Tiem on the deserted island is also confident and optimistic. Every time An Tiem picked melons, he chose the best ones and dropped them into the sea to float to the mainland. Is it because he wants to bridge the gap between the deserted island and the mainland? Is that a miracle to bless An Tiem's family? No, that is the truth, the reality. An Tiem's family's life has stabilized. The rock hole turned into a beautiful thatched house. Those achievements were planted by An Tiem. The king thought about it, realized he was wrong, so he sent a boat to pick up An Tiem's family. He saved himself and his family. See more: Based on the text "The Meaning of Literature" by Hoai Thanh, write a paragraph highlighting the effects of literature on human life, including history. Using progressive enumeration (underline the words listed) An Tiem is truly a person of faith and self-reliance. He planted in my mind the image of a person with noble qualities and personality. Not afraid of hardship, not afraid of challenges, he is a beautiful folklore image...!
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Mỵ Châu trong truyền thuyết “Mỵ Châu Trọng Thủy” mà em được học
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
(Cảm nghĩ chung)
+ Trích những câu thơ đánh giá về nhân vật Mỵ Châu
+ Nghĩ đến nhân vật đó.
B. THÂN BÀI:
(Phát biểu cảm nghĩ)
1. Mỵ Châu trong trắng, ngây thơ, dịu dàng.
+ Đánh giá:
– Nàng quá ngây thơ nên không nhận ra tên gián điệp đội lốt chồng mình.
– Nếu nàng tỉnh táo hơn thì nàng nhận thức ra việc cầu hôn của Trọng Thủy có ý đồ.
2. Hành động lấy nỏ trao cho Trọng Thủy.
+ Tạo dịp tốt cho y thực hiện ý đồ. Tiếp tay cho giặc.
+ Đánh giá:
– Mỵ Châu đã coi việc nước dưới tình nhà.
– Cũng không nên trách nàng nhiều, nàng là phận gái.
3. Trọng Thủy về nước
+ Câu nói của Trọng Thủy phơi bày ý đồ nhưng Mỵ Châu vẫn mù quáng với tình yêu.
+ Mỵ Châu ngây thơ nói về chiếc áo lông ngỗng.
4. Triệu Đà xâm lược. Mỵ Châu vẫn chưa tỉnh ngộ – thật là đáng trách nàng.
C. KẾT LUẬN:
Đánh giá Mỵ Châu.
+ Nàng có đáng kết án hoàn toàn không?
+ Thái độ của nhân dân trân trọng tình yêu của nàng. Cho nàng thành ngọc trai trong sáng.
BÀI LÀM
Tôi nhớ ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
(Tố Hữu)Xem thêm: Soạn bài: Tập đọc Những con sếu bằng giấy Cứ mỗi lần nhắc truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy tôi lại bồi hồi nhớ đến nàng công chúa nước Âu Lạc.
Mỵ Châu, một cô gáí dịu dàng ngây thơ và trong trắng. Nàng ngây thơ đến độ Trọng Thủy chồng của nàng – tên gián điệp của giặc – ngày ngày sống bên nàng mà nàng không hề nhận biết. Nếu như Mỵ Châu tỉnh táo hơn, có lẽ nàng đã nhận ra rằng, đằng sau chữ cầu thân, cái điều băn khoăn tha thiết thực hiện của Trọng Thủy là gì rồi? Cũng vì ngây thơ, nàng không chút ngần ngại lấy nỏ thần trao cho Trọng Thủy, tạo dịp tốt cho y thực hiện mục đích nội gián. Tại sao nàng không hiểu rằng đây là một vật báu thiêng liêng có quan hệ đến sự sống còn của đất nước, có quan hệ đến vận mệnh của nàng, và của cha nàng và của bao nhiêu người khác nước Âu Lạc? Chẳng lẽ đối với Mỵ Châu, việc nước không lớn bằng tình nhà? Nhưng dẫu sao ta cũng không thể trách Mỵ Châu, một nàng công chúa thì làm sao ngờ được phò mã của triều đình lại là kẻ thù?
Khi thực hiện xong mưu gian, Trọng Thủy về nước chỉ cần tinh ý một chút thôi, Mỵ Châu cũng sẽ thấy ngay điều gì qua lời từ biệt của Trọng Thủy: “Nếu chẳng may giặc giã”… Tại sao lại giặc giã? Điều này có liên quan gì đến việc trở về của Trọng Thủy? Thế nhưng Mỵ Châu lại ngây thơ quá, nàng hoàn toàn không nhận ra điều đó. Trong nhận thức đơn giản của Mỵ Châu, chồng nàng về nước là để thăm cha. Nàng còn hứa hẹn ngày gặp mặt… cho đến khi cái điều tất nhiên phải đến: Triệu Đà đem quân sang xâm lược nước Âu Lạc. Nỏ thần hết thiêng, và An Dương Vương chỉ còn lối thoát duy nhất: rời thành. Lúc đất nước đã tơi bời trong khói lửa mà Mỵ Châu vẫn chưa tỉnh ngộ. Trước sau nàng chỉ nghĩ đến Trọng Thủy và hạnh phúc của nàng, vết lông ngỗng dẫn đường là một bằng chứng cho lời kết tội của thần Kim Qui: “Giặc ở sau lưng nhà vua ấy!” Mỵ Châu có xứng đáng với lời kết tội ấy không?Xem thêm: Mùa hè đến với rực rỡ hoa phượng, râm ran tiếng ve. Em hãy tả lại cảnh này và nói lên cảm tưởng của mình khi hè đến
Đành rằng nàng có tội, tội với cha, với đất nước, nhưng nàng hoàn toàn ngay thật. Hành động của nàng là phản quốc nhưng tâm hồn nàng lại sáng trong. Hình ảnh viên ngọc châu lấp lách ở cuối truyện phải chăng chính là lòng yêu thương của nhân dân phần nào nghĩ đến tâm hồn và nỗi oan ngang trái của Mỵ Châu.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the character My Chau in the legend "My Chau Trong Thuy" that you learned
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
(General feeling)
+ Excerpts from poems evaluating the character My Chau
+ Think about that character.
B. BODY OF THE ARTICLE:
(Say the feeling)
1. My Chau is pure, innocent, and gentle.
+ Review:
– She was too naive to recognize the spy disguised as her husband.
– If she were more alert, she would realize that Trong Thuy's marriage proposal was intentional.
2. The act of taking the crossbow and giving it to Trong Thuy.
+ Create a good opportunity for him to carry out his plans. Support the enemy.
+ Review:
– My Chau considered state affairs as family.
- Don't blame her too much, she is a girl.
3. Trong Thuy returns home
+ Trong Thuy's words reveal his intentions, but My Chau is still blind to love.
+ My Chau innocently talked about the goose feather coat.
4. Trieu Da invaded. My Chau still hasn't woken up - it's really her fault.
C. CONCLUSION:
Review of My Chau.
+ Is she worthy of complete condemnation?
+ The people's attitude appreciates her love. Let her become a pure pearl.
ASSIGNMENT
I remember the story of My Chau in the past
The heart is in the wrong place on the head
The magical crossbow accidentally passed into the hands of the enemy
So the fate of being sunk in the deep sea.
(To Huu)See more: Prepare lessons: Practice reading Paper Cranes Every time I mention the story My Chau - Trong Thuy, I remember the princess of Au Lac.
My Chau, a gentle, innocent and pure girl. She was so innocent that her husband Trong Thuy - a spy for the enemy - lived with her every day without her even realizing it. If My Chau had been more alert, perhaps she would have realized that, behind the word praying for love, what was Trong Thuy's earnest concern to accomplish? Because of her naivety, she did not hesitate to take the magic crossbow and give it to Trong Thuy, creating a good opportunity for him to carry out his secret purpose. Why doesn't she understand that this is a sacred treasure that is related to the survival of the country, related to her destiny, and that of her father and of many other people of Au Lac country? Is it possible that for My Chau, affairs of state are not as important as love for family? But anyway, I can't blame My Chau, as a princess, how could she know that the royal concubine was an enemy?
When the deceit is completed, Trong Thuy only needs to be a little observant when he returns home. My Chau will immediately see something through Trong Thuy's farewell: "If unfortunately the enemy is defeated"... Why would the enemy be defeated? What does this have to do with Trong Thuy's return? But My Chau is so naive, she doesn't realize it at all. In My Chau's simple perception, her husband returned home to visit his father. She also promised to meet... until the inevitable happened: Trieu Da brought troops to invade Au Lac country. The magic crossbow was no longer sacred, and An Duong Vuong had only one way out: leave the city. While the country was in ruins, My Chau still had not awakened. Before and after, she only thought about Trong Thuy and her happiness, the trail of goose feathers leading the way was evidence of the accusation of the god Kim Qui: "The enemy is behind the king!" Does My Chau deserve that accusation? See more: Summer comes with brilliant poinciana flowers and the buzzing sound of cicadas. Please describe this scene and express your feelings when summer comes
It is true that she committed a crime, a crime against her father and country, but she was completely honest. Her actions were treasonous, but her soul was pure. Is the image of the glittering pearl at the end of the story the love of the people partly reflecting My Chau's soul and injustice?
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Sơn trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam
Gợi ý
Tôi thường bị ám ảnh bởi hình ảnh của những ngọn núi đồ sộ, khổng lồ sau vài thế kỉ bỗng chốc trở thành những mỏm đồi thấp chẳng khác miền trung du thậm chí là đồng bằng: chúng đã bị mưa gió, bão lũ,… mài mòn theo thời gian. Và tôi nghĩ đến một điều gì lớn lao, thời gian không làm chúng tan biến mà ngược lại, theo năm tháng, chúng được nhân lên gấp bội sức mạnh. Những tấm lòng nhân ái như tấm lòng bé Sơn trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam là một điều như thế trong vũ trụ này.
Ai đã qua những năm tháng ấu thơ, đều biết đến sự hồn nhiên con trẻ, có khi buồn cười nhưng rất đáng yêu. Tôi thấy lại ở Sơn những giây phút đùa nghịch, hay khoe, hay giận… của chính mình ngày nào. Tôi muốn sống ngược thời gian, mới chỉ cách đây có mấy năm thôi, nhưng tôi không ngờ là mình đã quên đi nhanh đến thế!
Vì thế tôi yêu Sơn. Em đã sống dậy trong tôi cảm tưởng trong sáng về thuở còn hồn nhiên vô tư ấy. Nghe trong hồn những reo vui theo khúc nhạc lòng của cậu bé hãnh diện khoe áo với bạn bè!
Nhưng nếu chỉ có vậy thôi thì tôi đã quên Sơn nhanh lắm. Giống như khi tôi đã quên đi những năm tháng ấu thơ của mình. Tôi còn nghe thấy ở Sơn những nhịp đập con tim đầy xúc cảm rất đáng trân trọng. Chúng làm lòng tôi trở nên sâu lắng vì bắt gặp ở em bao nét đẹp của tình người.Xem thêm: Trong một bức thư gửi các cháu thiếu niên nhi đồng. Bác Hồ viết: "Ai yêu các nhi đồng Bằng Bác Hồ Chí Minh".Dựa vào những hiểu biết của mình về cuộc đời Bác và thơ văn của Người, em hãy làm sáng tỏ ý thơ trên
Chúng ta từng lạnh lùng ngó lơ những bàn tay chìa ra tấm vé số hay những tờ báo mới nguyên để chào mời. Còn Sơn? Em đã nhận thấy cảnh khổ của Hiên. Và dù rất thích chiếc áo mới – em vừa hãnh diện khoe nó với bạn bè. Dù biết có thể bị mẹ trách phạt – chẳng có người mẹ nào không phiền lòng khi con cái tự ý đem cho người khác vật gì – nhất là trong tình cảnh cuộc sống càng ngày càng khó khăn. Nhưng bỏ qua tất cả những điều đó, Sơn đã sẵn lòng tặng Hiên chiếc áo, giúp đỡ chia sẻ với bạn, không hề toan tính. Có phải chỉ vì biết nghe trái tim mách bảo, mà Sơn đã không dửng dưng trước những mảnh đời cơ cực? Hành động của Sơn là hành vi nhân ái hoàn toàn tự nguyện, không chờ bé Hiên nhờ vả, không đợi mọi người xung quanh động viên – điều này đâu dễ có ở mỗi con người?
Có thể nói, không phải tiền tài hay quyền lực, mà chính lòng yêu thương nhau mới giúp con người có được những hành động cao cả. Một chú bé như Sơn đáng quý hơn hẳn nhiều người lớn mà lãnh đạm phủi tay trước đồng loại bần cùng.
Hạnh phúc không chỉ có từ sự thụ hưởng vật chất. Hạnh phúc thường ngày, trong tầm tay mỗi người, nhiều khi chỉ là chút “vui vui” trong lòng như Sơn đã cảm nhận được, lúc trao cho cô bạn nhỏ nhà nghèo chiếc áo bông. Gió ơi, sao lạnh vậy? Nhưng Sơn ơi, có phải chính tấm lòng nhân hậu của em đã ấp ủ cả không gian đang bị cơn gió lạnh đầu mùa làm cho tê tái? Hẳn là Hiên ấm lắm, ấm cả ngoài lẫn trong lòng! Giá như bao trẻ em trên thế giới này đều là Sơn?… Tôi lại thấy lòng day dứt quá! Sơn ơi, em đã khiến tôi phải tự nhìn lại mình. Liệu mình có thể sống nhân ái được như Sơn không, biết quan tâm đến những con người bất hạnh dưới đáy xã hội như thế? Em đúng là đứa bé, nhưng lại có một thái độ sống không bé nhỏ chút nào.Xem thêm: Với đề bài: Nhân dân ta có câu tục ngữ: "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Hãy viết thêm những cách kết bài khác Tội nhớ lại mình đã có lần cười thích thú khi thấy một em nhỏ bán báo bị xua đuổi vì ghé nhìn vào lớp mình đang học. Tôi xấu hổ khi thấy mình đã quá ích kỉ, nhỏ nhen và hẹp hòi như vậy. Nhân vật Sơn trong Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam đã mang đến cho tôi một bài học lớn, một bài học ấm áp về tình người.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the character Son in the short story Cold Wind at the Beginning of the Season by Thach Lam
Suggest
I am often haunted by the image of massive, giant mountains that, after a few centuries, suddenly become low hills like the midlands or even plains: they have been hit by rain, wind, storms, floods, etc. abrasion over time. And I think of something great, time does not make them disappear, but on the contrary, over the years, their strength is multiplied. Compassionate hearts like the heart of little Son in Thach Lam's short story The First Cold Wind of Season are such a thing in this universe.
Anyone who has gone through their childhood years knows the innocence of children, sometimes funny but very adorable. I see again in Son my own moments of joking, showing off, being angry... I want to live back in time, it was only a few years ago, but I didn't expect to forget so quickly!
That's why I love Son. You have revived in me the pure feeling of that innocent and carefree time. Listen to the joyful sounds of the boy proudly showing off his shirt to his friends!
But if that was all, I would have forgotten Son very quickly. Just like when I forgot my childhood years. I also hear Son's emotional heartbeats that are very respectful. They made my heart become deeper because I saw so much beauty in human love in you. See more: In a letter to children and teenagers. Uncle Ho wrote: "Who loves children as much as Uncle Ho Chi Minh?" Based on your understanding of Uncle Ho's life and his poetry, please clarify the above poem's meaning.
We used to coldly ignore hands holding out lottery tickets or brand new newspapers to offer. What about Son? I have seen Hien's suffering. And although I really like the new shirt - I proudly showed it off to my friends. Even though they know they may be punished by their mother - there is no mother who doesn't mind when her children arbitrarily give something to others - especially in increasingly difficult life situations. But ignoring all that, Son was willing to give Hien the shirt, help share with friends, without any calculation. Is it just because he knows how to listen to his heart that Son is not indifferent to the miserable lives? Son's action is a completely voluntary act of kindness, without waiting for Hien to ask for help, without waiting for people around him to encourage him - this is not easy for every person?
It can be said that it is not money or power, but love for each other that helps people achieve noble actions. A little boy like Son is much more precious than many adults who indifferently brush their hands in front of their poor fellow human beings.
Happiness does not only come from material enjoyment. Everyday happiness, within everyone's reach, is often just a little "joy" in the heart like Son felt when he gave a little girl from a poor family a cotton shirt. Oh wind, why is it so cold? But Son, is it your kind heart that cherishes the whole space that is being numbed by the cold wind of the first season? Hien must be very warm, warm both outside and inside! If only all the children in this world were Sons?... I feel so tormented! Son, you made me look at myself. Can I live a compassionate life like Son, knowing how to care for unfortunate people at the bottom of society like that? You are indeed a child, but you have an attitude towards life that is not small at all. See more: With topic: Our people have a proverb: "Traveling a day's journey, learning a sieve of wisdom". Please write other ways to conclude your essay. I remember laughing with joy when I saw a young newspaper seller being chased away because he looked into the class I was studying in. I'm ashamed to see that I was so selfish, petty and narrow-minded. The character Son in Thach Lam's Cold Wind at the Beginning of the Season brought me a great lesson, a warm lesson about human love.
Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Thánh Gióng trong truyện dân gian cùng tên
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
(Cảm nghĩ chung)
+ Trong một đêm trăng bà kể rất nhiều truyện cổ tích.
+ Ấn tượng mà em thích là truyện "Thánh Gióng"
B. THÂN BÀI:
+ Đưa ra chi tiết cậu bé lên ba chẳng nói chẳng cười nhưng tiếng nói đầu tiên là mời sứ giả vào đề nghị có vũ khí giết giặc.
+ Cảm nghĩ: Thấy được chú bé lớn lên kỳ lạ, em có cảm giác thật và em tin vào điều đó bởi vì lòng yêu nước của người Việt Nam ai cũng có.
+ Chi tiết Thánh Gióng lớn lên nhờ ăn mặc của nhân dân. Giết giặc bằng những vũ khí nhân dân làm.
+ Cảm nghĩ: Thánh Gióng là anh hùng của nhân dân. Nhờ nhân dân và vì nhân dân mà trở nên anh hùng,
C. KẾT LUẬN:
+ Nhớ đến những anh hùng đã ngã xuống vì đất nước.
+ Tự hào truyền thống đánh giặc của cha ông.
+ Nguyện học tập để cống hiến như Gióng.
BÀI LÀM
Đêm trăng rồi bà kể cho em nghe thật nhiều truyện cổ, nào là Tấm Cám, Cóc kiện trời, nào là Sơn Tinh Thủy Tinh, Thánh Gióng. Nhưng trong những truyện ấy, em thích nhất truyện "Thánh Gióng" – chuyện cậu bé làng Phù Đổng nhổ tre đánh giặc cứu quê hương.
Gióng là một cậu bé rất khác thường, lên ba tuổi mà không biết nói, biết cười, đến khi nghe đất nước có giặc ngoại xâm thì bỗng nhiên nói được, lớn nhanh như thổi rồi xông pha đánh giặc cứu nước. Hình ảnh Thánh Gióng có phải chăng là hình ảnh đất nước Việt Nam buổi ban đầu còn non trẻ vụt trưởng thành kiên cường đánh đuổi giặc ngoại xâm, gìn giữ giang san đẹp giàu mà cha ông đã dày công vun đắp? Nghe chuyện mà em cứ nghĩ đến hình ảnh Gióng bé bỏng ngày nào vụt trở thành oai nghi lẫm liệt trước mắt. Gióng là một nhân vật thần kỳ (bà kể như vậy) nhưng em vẫn thấy có nét gì rất thật. Sự thật là có một người giàu tinh thần yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hi sinh bản thân minh để cứu dân, cứu nước. Chính trong truyền thuyết Việt Nam có Thánh Gióng nên trong trang lịch sử oanh liệt Việt Nam mới có những anh hùng kiên cường đánh đuổi ngoại xâm vì độc lập quê hương, chủ quyền của dân tộc.Xem thêm: Phân tích vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong Tự tình (bài II) Thánh Gióng là một vị thần, song không thể lớn lên, trở thành khổng lồ nếu không nhờ cơm gạo của nhân dân. Nếu không có dân làm sao Gióng có roi sắt lẫy lừng giết giặc? Nếu không có dân làm sao có ngựa sắt phun, lửa thiêu chết quân thù? Hình ảnh Thánh Gióng nhổ tre giết giặc đã làm bật lên tinh thần yêu nước của nhân dân ta: chỉ cần một bụi tre cũng trở thành vũ khí, tiêu diệt quân cướp nước. Thánh Gióng đã thật sự trở thành vị anh hùng của dân tộc, chiến đấu vì chính nghĩa, vì độc lập hạnh phúc của nhân dân.
Nghe truyện Thánh Gióng, em nhớ đến những người anh hùng đã hi sinh vì giang san gấm vóc. Để có được ngày hôm nay đã có biết bao xương máu ông cha ta đổ xuống để giữ cho những cánh cò bay lả buổi hoàng hôn, những rặng dừa xanh nghiêng mình soi bóng, để chúng em được hằng ngày cắp sách đến trường… Nghe bà kể chuyện Thánh Gióng, em càng tự hào bởi truyền thống đánh giặc của dân tộc Việt Nam. Khi có quân thù thì nhân dân ta luôn sẵn sàng chiến đấu, kể cả những đứa trẻ cũng mài sắc lòng căm thù tham gia giết giặc. Bà em bảo: "Thánh Gióng đã có công gìn giữ quê hương thì cháu phải chịu khó học tập để kiến thiết xứ sở, làm giàu đẹp cái di sản quý báu mà cha ông đã để lại”.Xem thêm: Có ý kiến cho rằng “có 3 điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội”. Hãy bình luận ý kiến đóVanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the character Thanh Giong in the folk tale of the same name
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
(General feeling)
+ On a moonlit night, she told many fairy tales.
+ The impression I like is the story "Saint Giong"
B. BODY OF THE ARTICLE:
+ Giving details, the three-year-old boy did not speak or laugh, but his first voice was to invite the messenger in and ask for weapons to kill the enemy.
+ Feeling: Seeing the little boy grow up strangely, I have a real feeling and I believe in it because everyone in Vietnam has patriotism.
+ Details Thanh Giong grew up thanks to the people's clothes. Kill the enemy with weapons made by the people.
+ Feeling: Saint Giong is a hero of the people. Thanks to the people and for the people, become a hero,
C. CONCLUSION:
+ Remember the heroes who fell for the country.
+ Proud of our ancestors' fighting tradition.
+ Vow to study to contribute like Giong.
ASSIGNMENT
On the moonlit night, she told me many ancient stories, such as Tam Cam, Toad vying with the sky, Son Tinh Thuy Tinh, Thanh Giong. But among those stories, I like the story "Thanh Giong" the most - the story of a boy from Phu Dong village pulling up bamboo to fight the enemy to save his homeland.
Giong was a very unusual boy. At the age of three he could not speak or laugh. When he heard that the country was being invaded by foreign invaders, he suddenly could speak, grew up as fast as the wind and then rushed to fight the enemy to save the country. Is the image of Thanh Giong the image of the country of Vietnam, when it was young at first, suddenly matured and resilient, chasing away foreign invaders and preserving the beautiful and rich country that his ancestors had worked hard to build? Listening to the story, I kept thinking of the image of little Giong suddenly becoming majestic and majestic before my eyes. Giong is a magical character (so she said) but I still see something very real about him. The truth is that there is a person with a passionate patriotic spirit, willing to sacrifice himself to save the people and the country. It is in Vietnamese legend that there is Saint Giong, so in the page of Vietnam's glorious history, there are resilient heroes who repel foreign invaders for the independence of the homeland and the sovereignty of the nation. See more: Analysis of the beauty of language Artistic language in Self-love (part II) Thanh Giong is a god, but could not grow up and become a giant if it were not for the people's rice. If there were no people, how could Giong have a famous iron whip to kill the enemy? If there were no people, how could there be iron horses that sprayed fire and burned the enemy to death? The image of Thanh Giong pulling up bamboo to kill the enemy has brought out the patriotic spirit of our people: just a bamboo bush can become a weapon, destroying the country's robbers. Saint Giong truly became a national hero, fighting for justice, for the independence and happiness of the people.
Listening to Thanh Giong's story, I remember the heroes who sacrificed their lives for prosperity. To get to this day, so much blood and blood was shed by our ancestors to keep the storks fluttering at sunset, the green coconut trees tilting their reflections, so that we can go to school every day... Listen When she told the story of Thanh Giong, I became even more proud of the Vietnamese people's tradition of fighting the enemy. When there is an enemy, our people are always ready to fight, even children sharpen their hatred and participate in killing the enemy. My grandmother said: "Saint Giong has contributed to preserving the homeland, so you must study hard to build the country and enrich the precious heritage that your ancestors left behind." See more: There are opinions for that "there are 3 things in every person's life that, if lost, will never be regained: time, words and opportunities". Please comment on that opinion Vanmau.edu.vn
|
Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Thảnh Gióng
Gợi ý
Thánh Gióng là một truyền thuyết vào loại hay nhất về truyền thống giữ nước của dân tộc Việt Nam. Truyện cho thấy yêu nước là tình cảm nảy nở rất sớm trong lòng nhân dân. Dân ta yêu nước nên ai cũng có trách nhiệm đánh giặc giữ nước. Thánh Gióng tiêu biểu cho tổ tiên ta trong sự nghiệp chống ngoại xâm bảo vệ Tố quốc. Hình ảnh cậu bé làng Gióng đã đế lại những ấn tượng thật đẹp đẽ.
Gióng là một nhân vật kì lạ. Bà mẹ Gióng có thai Gióng không như bao bà mẹ khác. Một lần đi rừng kiếm củi, thấy vết chân khổng lồ in trên mặt đất, bà ướm thử chân mình vào đó rồi có thai. Đây là cách dân gian tưởng tượng ra để nhân vật của mình mang những nét phi thường.
Đáng kỳ lạ bởi Gióng đã lên ba tuổi mà chẳng biết nói, biết cười và cũng không đi được bước nào, đặt đâu nằm đây. Điều ấy khiến bà mẹ buồn lòng nhưng không vì vậy mà tình thương con giảm bớt. Bà vẫn ân cần chăm sóc đứa con trai khác thường mà không hề phàn nàn, kêu ca một tiếng.
Gióng không phải là đứa trẻ yếu đuối tật nguyền. Cậu bé không nói là để bắt đầu nói thì nói điều quan trọng, nói lời yêu nước, cứu nước. Lời nói ấy không phải là lời nói bình thường. Còn nằm ngửa trên chõng tre mà Gióng đã đòi nhà vua cấp cho ngựa sắt, giáp sắt, roi sắt để đánh tan quân giặc. Ba tuổi. Gióng chưa biết đi để đến lúc cần sẽ nhảy lên mình ngựa, phi thẳng ra chiến trường giết giặc.Xem thêm: Giải thích câu tục ngữ Lời Nói Gói Vàng Sau khi gặp sứ giả, cậu bé Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã chật. Một bữa Gióng ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà, uống một hơi nước cạn đà khúc sông. Đấy là cách nói của dân gian để tô đậm chất phi thường cho nhân vật mà mình yêu mến. Mẹ Gióng nuôi Gióng không nổi, cả làng góp gạo nuôi cậu bé với kì vọng cậu sẽ trở thành người anh hùng cứu nước. Dường như việc cứu nước vô cùng cáp bách đã thúc đẩy Gióng vụt lớn lên nhanh. Hình tượng cậu bé làng Gióng tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến tranh giữ nước.
Khi sứ giả đem ngựa sắt, giáp sắt, roi sắt và nón sắt tới, Gióng vùng dậy, vươn một cái, bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Gióng nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun ra lửa, phi thẳng vào đội hình quân giặc. Ngọn roi của Gióng đã quật giặc chết như rạ. Roi gãy, Gióng đã nhổ tre bên đường thay roi đánh tiếp. Gióng đánh giặc không chỉ bằng vũ khí mà bằng cả cây cỏ thân yêu chốn quê nhà.
Giặc tan, Gióng phi ngựa sát đến chân núi Sóc, trút bỏ áo giáp sắt roi vái chào quê hương, sau đó cà người lẫn ngựa từ từ bay lên trời, biến mất. Gióng không trở về quê cho mẹ già, cho bà con làng xóm mừng, không về triều đình đề được vua ban thưởng bạc vàng, gấm vóc, chức tước cao sang. Gióng biến mất vào cõi hư không. Gióng sinh ra im lặng. Nay nước cứu xong, Gióng trở về chỗ lặng im. Gióng không màng công danh, phú quí. Anh hùng như thế mới thật là anh hùng! Yêu nước như vậy mới thật là yêu nước! Gióng kết tinh truyền thống đạo đức cao cả của dân tộc Việt.Xem thêm: Nêu xuất xứ, thể thơ và chủ đề bài thơ Nam quốc sơn hà Nhà vua phong cho Gióng chức Phù Đổng Thiên Vương, ý nói Gióng là người Trời. Còn nhân dân yêu mến và kính phục tôn Gióng làm Thánh Gióng. Hình ảnh Gióng bay lên trời thật đẹp đẽ và mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
Theo em, Thánh Gióng không phải là một nhân vật có thật. Đó là hình ảnh nhân dân ta dựng lên bằng trí tưởng tượng, tiêu biểu cho truyền thống giữ nước kiên cường của dân tộc. Thánh Gióng là sức mạnh chiến đấu của toàn dân.
Truyền thuyết Thánh Gióng cho đến nay vẫn còn ý nghĩa mới mẻ và hấp dẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu. Trong hoàn cảnh đổi mới hiện nay, cả dân tộc Việt Nam đang vươn vai để trở thành Thánh Gióng của thời đại, xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh.
Vanmau.edu.vn
|
Express your feelings about the character Thanh Giong
Suggest
Thanh Giong is one of the best legends about the tradition of defending the country of the Vietnamese people. The story shows that patriotism is a feeling that blooms very early in the hearts of the people. Our people love their country, so everyone has the responsibility to fight the enemy and defend the country. Thanh Giong represents our ancestors in the cause of fighting foreign invaders and protecting the country. The image of the boy from Giong village left a beautiful impression.
Giong is a strange character. Giong's mother was pregnant with Giong unlike other mothers. One time she went to the forest to collect firewood and saw giant footprints on the ground. She tried to put her foot in it and got pregnant. This is how people imagine their characters to have extraordinary features.
It's strange because Giong is three years old but doesn't know how to talk, laugh, and can't take any steps. That makes the mother sad, but it doesn't make her love for her child less. She still attentively took care of her unusual son without complaining or complaining.
Giong is not a weak or handicapped child. The boy didn't speak so that in order to start speaking, he said something important, said words of patriotism and saving the country. Those words were not normal words. While lying on his back on a bamboo bed, Giong asked the king for an iron horse, iron armor, and an iron whip to defeat the enemy. Three years old. Giong did not yet know how to walk, so when he needed to, he would jump on a horse and ride straight to the battlefield to kill the enemy. See more: Explaining the proverb "The Word of the Golden Packet" After meeting the messenger, little Giong grew up as fast as he could and had enough food to eat. It's not enough, the shirt has just been sewn and is already tight. In one meal, Giong ate seven pieces of rice, three pieces of egg, and drank enough water to drain the river. That is a folk way of saying to highlight the extraordinary qualities of the characters you love. Giong's mother could not raise Giong, so the whole village contributed rice to raise the boy with the hope that he would become a hero to save the country. It seems that the urgent need to save the country has pushed Giong to grow up quickly. The image of the Giong village boy represents the strength of the entire people in the war to defend the country.
When the messenger brought the iron horse, iron armor, iron whip and iron helmet, Giong stood up, stretched out, and suddenly became a majestic and majestic soldier. Giong jumped on the horse. The horse breathed fire and rushed straight into the enemy formation. Giong's whip whipped the enemy to death. The whip broke, Giong pulled up bamboo on the side of the road to replace the whip and continued to beat him. Giong fought the enemy not only with weapons but also with his beloved plants and trees in his hometown.
After the enemy was defeated, Giong rode his horse close to the foot of Soc Mountain, took off his iron armor and bowed to his homeland, then both man and horse slowly flew into the sky and disappeared. Giong did not return to his hometown to celebrate his old mother or the neighbors, nor did he return to the royal court to be rewarded with silver, gold, brocade, and noble titles by the king. Giong disappeared into nothingness. Giong was born silent. Now that the water has been saved, Giong returns to his quiet place. Giong does not care about fame or wealth. Such a hero is truly a hero! Such patriotism is truly patriotic! Giong crystallizes the noble moral tradition of the Vietnamese people. See more: State the origin, poetic form and theme of the poem Nam Quoc Son Ha. The king conferred on Giong the title of Phu Dong Thien Vuong, meaning that Giong is a man of Heaven. The people love and respect Giong as Saint Giong. The image of Giong flying into the sky is beautiful and has a very profound meaning.
In my opinion, Thanh Giong is not a real character. That is the image our people created with their imagination, representing the nation's tradition of resilient national defense. Saint Giong is the fighting strength of the entire people.
The legend of Thanh Giong still has the same new and attractive meaning as in the beginning. In the current context of innovation, the entire Vietnamese nation is stretching to become the Saint Giong of the era, building an increasingly stronger country.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về truyện ngắn “Cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh Hoài
Bài làm
Trong xã hội hiện nay, nhiều trẻ em đang bị bạo hành, không có một mái ấm gia đình đúng nghĩa. Không được đảm bảo quyền lợi của mình.
Chính vì vậy, tác phẩm ” Cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh Hoài là một câu chuyện vô cùng cảm động, là tiếng chuông cảnh tỉnh người lớn, khi đối xử với trẻ nhỏ
Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật Thành và Thủy hai em rất yêu thương và che chở cho nhau từ khi còn thơ bé. Họ có nhiều kỷ niệm chung gắn bó với nhau hồi lớp năm khi áo Thành bị rách Thủy đã đem kim chỉ ra sân khâu vá cho Thành. Một biểu hiện giản dị, những thể hiện tình cảm gắn bó của hai anh em.
Đi học đi chơi hai anh em cũng đều có nhau. Nhưng rồi sóng gió gia đình xảy ra, bố mẹ ly hôn, hai em mỗi người một nơi. Sự đau khổ hằn lên khuôn mặt của hai đứa trẻ vô tội. Thủy thì chỉ biết khóc nức nở, trong khi đó anh trai Thanh thì cắn chặt môi để tiếng khóc nén lại trong lòng không bật lên thành tiếng. Những giọt nước mắt khi cha mẹ chia lìa đôi ngả, anh em ly tán, tan nát
Tác giả đã dùng những lời lẽ chân thành của mình để miêu tả cuộc chia ly ấy, khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào, xúc động vì những tình cảm chân thành, mộc mạc mà trẻ thơ dành cho nhau.Xem thêm: Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ (đoạn trích được học) để làm rõ triết lí nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm
Khi bố mẹ chia tay nhau, mọi thứ trong gia đình cũng đều chia đôi. Đến cả những món đồ chơi của hai anh em cũng được mẹ bảo chia đôi, khiến cho hai anh em vô cùng buồn khổ. Thành muốn “nhường” lại hai con búp bê Vệ sĩ và Em nhỏ cho cô em gái của mình là Thủy. Nhưng Thủy lại sợ anh chia đôi hai con búp bên nên vội nói ” Sao anh ác thế? Anh định chia rẽ chúng sao?”,
Nhưng rồi cô bé lại sợ không có vệ sĩ thì không có người canh gác cho anh ngủ. Điều này thể hiện tình cảm của Thủy dành cho anh trai mình vô cùng sâu sắc, một cô em gái nhỏ giàu tình cảm luôn lo lắng cho những người thân yêu của mình.
Nghĩ thế nên Thủy quyết định để lại hết hai con búp bê lại cho Thành anh trai của mình. Hai con búp bê mãi mãi sẽ không phải rời xa nhau như Thủy và Thành. Hành động này của cô bé khiến người đọc vô cùng cảm động, cảm thấy em dường như lớn hơn tuổi thực của mình biết suy nghĩ vô cùng sâu sắc, thấu tình đạt lý, biết hy sinh chịu thiệt thòi cho người mình yêu thương.
Cuộc chia tay của Thủy với mái trường, thầy cô, bạn bè thân thiết, cũng khiến cho người đọc không ngăn được dòng lệ của mình, khi cô bé nói “Mẹ em sẽ sắm cho em một thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán”. Câu nói của Thủy khiến cô giáo bàng hoàng, mặt tái đi vì đau đớn. Một cô bé đang tuổi ăn tuổi chơi nhưng từ nay không được tới trường, đánh mất tuổi thơ vui vẻ để bước vào cuộc sống, mưu sinh vất vảXem thêm: Bình giảng bài thơ ‘Tuyệt cú’ trong chùm thơ sáu bài của Đỗ Phủ
Tác giả Khánh Hòa với những câu văn đầy nhân văn, giàu cảm xúc của mình đã khiến người đọc cảm nhận được sự mất mát quá lớn của những đứa trẻ khi gia đình tan vỡ, khiến các em phải trưởng thành sớm, và đánh mất đi tuổi thơ vui vẻ, thơ ngây hồn nhiên của mình.
Qua tác phẩm của mình tác giả muốn gửi gắm tới những người lớn hãy biết sống tích cực hơn đừng để trẻ con phải gánh chịu những hậu quả do gia đình ly tán. Bởi trong bất kỳ cuộc chia ly nào thì trẻ nhỏ luôn là người gánh chịu nhiều thiệt thòi nhất.
Nguồn: Tài liệu văn mẫu
|
Topic: Express your feelings about the short story "The Dolls' Farewell" by Khanh Hoai
Assignment
In today's society, many children are being abused and do not have a proper family home. Your rights are not guaranteed.
That's why Khanh Hoai's work "Farewell of the Dolls" is an extremely touching story, a wake-up call for adults when dealing with children.
The story revolves around two characters, Thanh and Thuy, who have loved and protected each other since they were children. They have many shared memories of being together in fifth grade when Thanh's shirt was torn. Thuy brought a needle and thread to the yard to sew and mend Thanh. A simple expression, showing the emotional bond between two brothers.
We both go to school and play together. But then family turbulence happened, my parents divorced, and the two of us went to separate places. Suffering was written on the faces of two innocent children. Thuy could only sob, while Thanh's brother bit his lips to keep the cries inside from coming out loud. Tears when parents separate, brothers separate and fall apart
The author used his sincere words to describe that separation, making the reader choked up and moved by the sincere and simple feelings that children have for each other. See more: Analysis Analyze the dialogue between Truong Ba's soul and the butcher's body in the play Truong Ba's soul, butcher's skin by Luu Quang Vu (excerpt learned) to clarify the philosophy of life that the author wants to convey.
When parents separate, everything in the family is also divided in half. Even the brothers' toys were told by their mother to divide them in half, making the two brothers extremely sad. Thanh wants to "give" the two dolls Bodyguard and Little Sister to his younger sister Thuy. But Thuy was afraid that he would split the two dolls in half, so she quickly said, "Why are you so evil?" Are you planning to divide them?
But then she was afraid that without a bodyguard, there would be no one to watch over him while he slept. This shows that Thuy's feelings for her brother are extremely deep, an affectionate little sister who always worries about her loved ones.
Thinking so, Thuy decided to leave all two dolls to her brother Thanh. The two dolls will never have to be apart like Thuy and Thanh. This action of the little girl makes the reader extremely touched, feeling that she seems to be older than her real age, able to think extremely deeply, understand reason, and know how to sacrifice and suffer for the people she loves.
Thuy's farewell to her school, teachers, and close friends also made the reader unable to stop her tears, when she said, "My mother will buy me a basket of fruit to go to the market to sell." ”. Thuy's words shocked the teacher, her face turned pale with pain. A young girl of playing age but from now on cannot go to school, losing her happy childhood to enter a life of hard work. See more: Commentary on the poem 'Great Cuu' in a series of six poems by Do Phu
Author Khanh Hoa, with her humane and emotional sentences, makes readers feel the great loss of children when their families break up, forcing them to grow up early, and lose their lives. Go away to your happy, innocent childhood.
Through his work, the author wants to tell adults to live more positively and not let children suffer the consequences of family separation. Because in any separation, children are always the ones who suffer the most.
Source: Sample document
|
Đề bài: Hãy phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sơn tinh Thủy Tinh. Từ đó, em có suy nghĩ gì về chủ trương xây dựng củng cố đê điều, nghiêm cấm nạn phá rừng của nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Trong những truyện thần thoại đã đọc, em rất thích truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bởi sự cuốn hút, hấp dẫn lạ thường của nó. Truyện mượn thần thánh để giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ và gửi gắm vào đó ước mơ chiến thắng thiên nhiên, bảo vệ cuộc sống của người xưa, đồng thời suy tôn, ca ngợi công lao đựng nước của các vua Hùng.
Cách đây mấy ngàn năm, khi tổ tiên người Việt từ vùng rừng núi chuyển xuống sinh sống ở đồng bằng Bắc Bộ thì năm nào cũng gặp phải một trong những thiên tai đáng sợ là nạn lụt. Nạn lụt do nước lũ từ các con sông, chủ yếu là sông Hồng, sông Đà gây ra. Để bảo vệ thành quả lao động của mình, nhân dân ta đã dũng cảm, mưu trí, bền bỉ tìm cách chống lụt. Việc đắp đê ngăn nước chính là biểu hiện của tinh thần đó.
Từ chuyện chống lũ lụt để bảo vệ mùa màng và đời sống, người xưa đã tưởng tượng thành một câu chuyện với nhiều tình tiết li kì: Hai vị thần cùng muốn cưới một công chúa xinh đẹp làm vợ; rồi người được vợ, kẻ không được vợ, dẫn đến cuộc giao tranh dữ dội. Cuối cùng, bên thắng, bên thua. Kẻ thua cuộc ôm lòng thù hận khôn nguôi, hằng năm vẫn gây sự đánh trả.
Thực tế là hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ, cứ đến mùa mưa bão là nước dâng to, nhưng chưa bao giờ làm ngập nổi núi đồi. Cuối mùa lũ, nước rút đi, sông suối trở lại hiền hòa. Người xưa cho rằng đó là Thần Nước đánh nhau Với Thần Núi để giành lại Mị Nương… Quả là trí tưởng tượng của họ vô cùng phong phú và bay bổng.
Truyện có hai nhân vật: Sơn Tinh – chúa tể của vùng non cao và Thủy Tinh – chúa tể của vùng nước thẳm. Cả hai đều có tài năng phi thường. Sơn Tinh vẫy tay vá phía đông, phía đông nổi lên cồn bải, vẫy tay về phía tây, phía tây lập tức hiện ra những dãy núi đồi. Thủy Tinh gọi gió, gió tới; hô mưa, mưa về. Cả hai vị thần đều tài giỏi. Điều ấy khiến nhà vua băn khoăn không biết chọn ai, đành ra điều kiện: Ngày mai, nếu ai mang lễ vật đến sớm thì được cưới Mị Nương.
Ngay trong chuyện thách cưới, có lẽ ý nhà vua đã nghiêng về phía Sơn Tinh. Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Rồi trăm ván cơm nếp, trăm nệp bánh chưng… Tất cả đều là sản vật của đồng ruộng, núi rừng. Vì vậy, kẻ thắng cuộc tất nhiên phải là Sơn Tinh. Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, cưới được Mị Nương và đưa nàng về núi Tản Viên. Sơn Tinh thật xứng đôi với nàng công chúa xinh đẹp.
Không cưới được Mị Nương, Thủy Tinh đùng đùng nổi giận. Chàng phô bày hết sức mạnh tàn bạo của mình trong cuộc giao tranh với Sơn Tinh. Gió bão rung chuyển cả đất trời. Mưa làm nước sông hồ dâng lên cuồn cuộn, ngập tràn đồng ruộng, mùa màng, cuốn phăng cây cối, nhà cửa, súc vật. Nước dâng lên sườn đồi, sườn núi làm tróc cây, lở đá… Thủy Tinh muốn nhấn chìm đỉnh núi để tiêu diệt Sơn Tinh, cướp lại Mị Nương.
Nhưng Sơn Tinh cũng trổ hết tài bốc đồi, dời núi, dựng thành ngăn nước. Nước dâng cạo bao nhiêu, núi đồi cao lên bấy nhiêu. Suốt mấy tháng trời, cuộc tấn công của Thủy Tinh thật là dữ dội: giông bão, sấm chớp, mưa như trút nước, đồng ruộng hóa thành sông, sông thành biển cả. Ấy vậy nhưng Sơn Tinh không hề nao núng, vẫn bình tĩnh, sáng suốt chống trả một cách quyết liệt và thắng lợi. Cuối cùng kiệt sức, Thủy Tỉnh phải rút lui.
Xem thêm: Viết thư gửi cho ông bà ở quê hỏi thăm sức khỏeCả hai vị thần đều có tài cao, phép lạ. Nhưng Thủy tinh dù phép thuật cao cường vẫn phải khuất phục trước Sơn Tinh dũng mãnh và mưu trí. Những chi tiết nghệ thuật kì ảo, hoang đường về Sơn Tinh, Thủy Tinh và khí thế hào hùng của cuộc giao tranh giữa hai vị thần thể hiện trí tưởng tượng phong phú của người xưa.
Cuộc giao tranh không chỉ xảy ra một lần mà nhiều lần, năm nào cũng vậy. Nhưng kết cục thì không thay đổi: thần Núi chiến thắng thần Nước. Mị Nương vẫn sống hạnh phúc bên Sơn Tinh trên đỉnh Tản Viên cao vời vợi. Thủy Tinh không sao giành lại được nàng.
Sơn Tinh, Thủy Tinh là những nhân vật hoàn toàn tưởng tượng nhưng lại có ý nghĩa rất thực vì đã khái quát được hiện tượng lũ lụt, đổng thời phản ánh những kì công trong sự nghiệp dựng nước của nhân dân ta dưới triều đại các vua Hùng.
Tất cả những chi tiết kì ảo trên đều nhằm để giải thích hiẹn tượng lũ lụt và việc chống lũ lụt hằng năm của nhân dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Có một chi tiết quan trọng là Sơn Tinh dựng thành ngăn nước. Đó là công việc đắp thành bằng đất của con người – khởi đầu cho những con đê lớn sau này chạy suốt hai bờ những con sông lớn để ngăn lũ. Người xưa để cho Sơn Tinh thắng Thủy Tinh là gửi gắm vào đó ước mơ có được sức mạnh thần kì để chế ngự được nạn lũ lụt – một tai họa lớn của con người.
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh có giá trị nội dung và nghệ thuật rất đặc sắc.
Thủy Tinh là hiện tượng mưa gió, bão lụt ghê gớm hằng năm đã được hình tượng hóa thành kẻ thù hung dữ, truyền kiếp của Sơn Tinh.
Sơn Tinh là hiện thân của người dân Việt cổ cần cù đắp đê phòng chống lũ lụt, là ước mớ chiến thắng thiên tai của người xưa. Tầm vóc vũ trụ, tài năng và khí phách của Sơn Tinh là biểu tượng sinh động cho chiến công của người Việt cổ trong cuộc đấu tranh chống bão lụt ở vùng lưu vực sông Đà và sông Hồng. Đây cũng là kì tích dựng nước của thời đại các vua Hùng và kì tích ấy cho đến nay vẫn được tiếp tục phát huy mạnh mẽ.
Ước mơ xưa giờ đây, đã thành hiện thực. Những công trình Thủy lợi lớn như hệ thống đê điều, mương máng, những hồ nước, đập nước điều hòa dòng chảy của sông Đà, sông Hồng đã thực sự chế ngự được sức tàn phá ghê gớm của nước lũ. Hạt lúa, củ khoai do bà con nông dân đổ mồ hôi làm ra đã được bảo vệ. Ngày nay, con cháu của Sơn Tinh đã và đang thực hiện ước mơ của tổ tiên ngày trước.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nạn phá rừng, cháy rừng diễn ra rất nghiêm trọng trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới sinh thái, môi trường của đất nước ta. Hiện tượng thiên tai lũ lụt xảy ra gây hậu quả rất nghiêm trọng, phần lớn nguyên nhân là do cháy rừng, phá rừng.
Mất rừng, Sơn Tinh sẽ mất hết sức lực và phép lạ, làm sao chống chọi được với Thủy Tinh?!
Nhà nước ta hiện nay đang có chủ trương vận động nhân dân tích cực xây dựng, củng cố đê điều; nghiêm cấm nạn phá rừng, đi đôi với việc trồng thêm hàng triệu héc-ta rừng phủ xanh đất trống, đồi trọc. Đây là chủ trương đúng đắn và hợp lí, được mọi người đồng tình.
Chẳng lẽ Sơn Tinh lại thua Thủy Tinh? Chuyện xảy ra từ ngàn xưa nhưng vẫn là bài học thiết thực trong cuộc sống hôm nay, cháu con cần ghi nhớ.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du hay nhất
|
Đề bài: Hãy phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sơn tinh Thủy Tinh. Từ đó, em có suy nghĩ gì về chủ trương xây dựng củng cố đê điều, nghiêm cấm nạn phá rừng của nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Trong những truyện thần thoại đã đọc, em rất thích truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bởi sự cuốn hút, hấp dẫn lạ thường của nó. Truyện mượn thần thánh để giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ và gửi gắm vào đó ước mơ chiến thắng thiên nhiên, bảo vệ cuộc sống của người xưa, đồng thời suy tôn, ca ngợi công lao đựng nước của các vua Hùng.
Cách đây mấy ngàn năm, khi tổ tiên người Việt từ vùng rừng núi chuyển xuống sinh sống ở đồng bằng Bắc Bộ thì năm nào cũng gặp phải một trong những thiên tai đáng sợ là nạn lụt. Nạn lụt do nước lũ từ các con sông, chủ yếu là sông Hồng, sông Đà gây ra. Để bảo vệ thành quả lao động của mình, nhân dân ta đã dũng cảm, mưu trí, bền bỉ tìm cách chống lụt. Việc đắp đê ngăn nước chính là biểu hiện của tinh thần đó.
Từ chuyện chống lũ lụt để bảo vệ mùa màng và đời sống, người xưa đã tưởng tượng thành một câu chuyện với nhiều tình tiết li kì: Hai vị thần cùng muốn cưới một công chúa xinh đẹp làm vợ; rồi người được vợ, kẻ không được vợ, dẫn đến cuộc giao tranh dữ dội. Cuối cùng, bên thắng, bên thua. Kẻ thua cuộc ôm lòng thù hận khôn nguôi, hằng năm vẫn gây sự đánh trả.
Thực tế là hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ, cứ đến mùa mưa bão là nước dâng to, nhưng chưa bao giờ làm ngập nổi núi đồi. Cuối mùa lũ, nước rút đi, sông suối trở lại hiền hòa. Người xưa cho rằng đó là Thần Nước đánh nhau Với Thần Núi để giành lại Mị Nương… Quả là trí tưởng tượng của họ vô cùng phong phú và bay bổng.
Truyện có hai nhân vật: Sơn Tinh – chúa tể của vùng non cao và Thủy Tinh – chúa tể của vùng nước thẳm. Cả hai đều có tài năng phi thường. Sơn Tinh vẫy tay vá phía đông, phía đông nổi lên cồn bải, vẫy tay về phía tây, phía tây lập tức hiện ra những dãy núi đồi. Thủy Tinh gọi gió, gió tới; hô mưa, mưa về. Cả hai vị thần đều tài giỏi. Điều ấy khiến nhà vua băn khoăn không biết chọn ai, đành ra điều kiện: Ngày mai, nếu ai mang lễ vật đến sớm thì được cưới Mị Nương.
Ngay trong chuyện thách cưới, có lẽ ý nhà vua đã nghiêng về phía Sơn Tinh. Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Rồi trăm ván cơm nếp, trăm nệp bánh chưng… Tất cả đều là sản vật của đồng ruộng, núi rừng. Vì vậy, kẻ thắng cuộc tất nhiên phải là Sơn Tinh. Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, cưới được Mị Nương và đưa nàng về núi Tản Viên. Sơn Tinh thật xứng đôi với nàng công chúa xinh đẹp.
Không cưới được Mị Nương, Thủy Tinh đùng đùng nổi giận. Chàng phô bày hết sức mạnh tàn bạo của mình trong cuộc giao tranh với Sơn Tinh. Gió bão rung chuyển cả đất trời. Mưa làm nước sông hồ dâng lên cuồn cuộn, ngập tràn đồng ruộng, mùa màng, cuốn phăng cây cối, nhà cửa, súc vật. Nước dâng lên sườn đồi, sườn núi làm tróc cây, lở đá… Thủy Tinh muốn nhấn chìm đỉnh núi để tiêu diệt Sơn Tinh, cướp lại Mị Nương.
Nhưng Sơn Tinh cũng trổ hết tài bốc đồi, dời núi, dựng thành ngăn nước. Nước dâng cạo bao nhiêu, núi đồi cao lên bấy nhiêu. Suốt mấy tháng trời, cuộc tấn công của Thủy Tinh thật là dữ dội: giông bão, sấm chớp, mưa như trút nước, đồng ruộng hóa thành sông, sông thành biển cả. Ấy vậy nhưng Sơn Tinh không hề nao núng, vẫn bình tĩnh, sáng suốt chống trả một cách quyết liệt và thắng lợi. Cuối cùng kiệt sức, Thủy Tỉnh phải rút lui.
Xem thêm: Viết thư gửi cho ông bà ở quê hỏi thăm sức khỏeCả hai vị thần đều có tài cao, phép lạ. Nhưng Thủy tinh dù phép thuật cao cường vẫn phải khuất phục trước Sơn Tinh dũng mãnh và mưu trí. Những chi tiết nghệ thuật kì ảo, hoang đường về Sơn Tinh, Thủy Tinh và khí thế hào hùng của cuộc giao tranh giữa hai vị thần thể hiện trí tưởng tượng phong phú của người xưa.
Cuộc giao tranh không chỉ xảy ra một lần mà nhiều lần, năm nào cũng vậy. Nhưng kết cục thì không thay đổi: thần Núi chiến thắng thần Nước. Mị Nương vẫn sống hạnh phúc bên Sơn Tinh trên đỉnh Tản Viên cao vời vợi. Thủy Tinh không sao giành lại được nàng.
Sơn Tinh, Thủy Tinh là những nhân vật hoàn toàn tưởng tượng nhưng lại có ý nghĩa rất thực vì đã khái quát được hiện tượng lũ lụt, đổng thời phản ánh những kì công trong sự nghiệp dựng nước của nhân dân ta dưới triều đại các vua Hùng.
Tất cả những chi tiết kì ảo trên đều nhằm để giải thích hiẹn tượng lũ lụt và việc chống lũ lụt hằng năm của nhân dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Có một chi tiết quan trọng là Sơn Tinh dựng thành ngăn nước. Đó là công việc đắp thành bằng đất của con người – khởi đầu cho những con đê lớn sau này chạy suốt hai bờ những con sông lớn để ngăn lũ. Người xưa để cho Sơn Tinh thắng Thủy Tinh là gửi gắm vào đó ước mơ có được sức mạnh thần kì để chế ngự được nạn lũ lụt – một tai họa lớn của con người.
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh có giá trị nội dung và nghệ thuật rất đặc sắc.
Thủy Tinh là hiện tượng mưa gió, bão lụt ghê gớm hằng năm đã được hình tượng hóa thành kẻ thù hung dữ, truyền kiếp của Sơn Tinh.
Sơn Tinh là hiện thân của người dân Việt cổ cần cù đắp đê phòng chống lũ lụt, là ước mớ chiến thắng thiên tai của người xưa. Tầm vóc vũ trụ, tài năng và khí phách của Sơn Tinh là biểu tượng sinh động cho chiến công của người Việt cổ trong cuộc đấu tranh chống bão lụt ở vùng lưu vực sông Đà và sông Hồng. Đây cũng là kì tích dựng nước của thời đại các vua Hùng và kì tích ấy cho đến nay vẫn được tiếp tục phát huy mạnh mẽ.
Ước mơ xưa giờ đây, đã thành hiện thực. Những công trình Thủy lợi lớn như hệ thống đê điều, mương máng, những hồ nước, đập nước điều hòa dòng chảy của sông Đà, sông Hồng đã thực sự chế ngự được sức tàn phá ghê gớm của nước lũ. Hạt lúa, củ khoai do bà con nông dân đổ mồ hôi làm ra đã được bảo vệ. Ngày nay, con cháu của Sơn Tinh đã và đang thực hiện ước mơ của tổ tiên ngày trước.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nạn phá rừng, cháy rừng diễn ra rất nghiêm trọng trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới sinh thái, môi trường của đất nước ta. Hiện tượng thiên tai lũ lụt xảy ra gây hậu quả rất nghiêm trọng, phần lớn nguyên nhân là do cháy rừng, phá rừng.
Mất rừng, Sơn Tinh sẽ mất hết sức lực và phép lạ, làm sao chống chọi được với Thủy Tinh?!
Nhà nước ta hiện nay đang có chủ trương vận động nhân dân tích cực xây dựng, củng cố đê điều; nghiêm cấm nạn phá rừng, đi đôi với việc trồng thêm hàng triệu héc-ta rừng phủ xanh đất trống, đồi trọc. Đây là chủ trương đúng đắn và hợp lí, được mọi người đồng tình.
Chẳng lẽ Sơn Tinh lại thua Thủy Tinh? Chuyện xảy ra từ ngàn xưa nhưng vẫn là bài học thiết thực trong cuộc sống hôm nay, cháu con cần ghi nhớ.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du hay nhất
|
Đề bài: Hồ gươm là trái tim của thủ đô Hà Nội mà chắc hẳn ai cũng đã từng nghe về sự tích về nó. Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sự tích Hồ Gươm.
Ai đã một lần đặt chân đến Hà Nội đều không thể không đến thăm Hồ Gươm. Hồ Gươm như một lẵng hoa xinh đẹp nằm giữa lòng thành phố. Sự tích cái tên Hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với gần ngàn năm lịch sử của đất Thăng Long.
Sự tích Hồ Gươm là một thiên truyện vô cùng đẹp đẽ trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong việc được gươm và trả gươm của Lê Lợi, yếu tố hiện thực và kì ảo hòa quyện với nhau tạo nên sức hấp dẫn kì lạ. Bằng những hình tượng cực kì đẹp đẽ như Rùa Vàng, gươm thần, truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh xâm lược. Truyện cũng nhằm giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ và ca ngợi truyền thống đánh giặc giữ nước oai hùng, bất khuất của dân tộc ta.
Bố cục của truyện gồm hai phần: Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm thần đánh giặc và sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Long Vương đòi lại gươm.
Bối cảnh của truyện là thế kỉ XV, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta. Chúng coi dân ta như cỏ rác và làm nhiều điều bạo ngược khiến thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Tội ác của chúng quả là trời không dung, đất không tha.
Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa, nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa nhưng vì thế lực còn non yếu nên thua trận liên tiếp. Thấy vậy, Long Quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để giết giặc. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã được tổ tiên, thần linh giúp đỡ và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Lê Lợi và Lê Thận nhận được gươm thần không phải từ một thế giới xa lạ nào mà ở ngay chính trên quê hương họ. Lê Thận đi kéo lưới ở bến sông, ba lần kéo lên đều chi được một thanh sắt. Lần thứ ba, ông nhìn kĩ thì là một lưỡi gươm. Con số 3 theo quan niệm dân gian tượng trưng cho số nhiều, có ý nghĩa khẳng định và ý nghĩa tạo tình huống, tăng sức hấp dẫn cho truyện. Lê Thận đem lưỡi gươm ấy về cất ở xó nhà rồi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau này trở thành người tâm phúc của Lê Lợi. Nhân một hôm đến nhà Lê Thận, chủ tướng Lê Lợi nhìn thấy lười gươm rực lên hai chữ Thuận Thiên (thuận theo ý trời) bèn cầm lên xem nhưng chưa biết đó là gươm thần.
Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng. Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây có ánh sáng khác lạ. Ông trèo lên xem thử, nhận ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được dưới nước tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in.
Không phải tình cờ người xưa để cho Lê Thận bắt được lưỡi gươm từ dưới đáy sông và Lê Lợi bắt được chuôi gươm từ trong rừng thẳm. Hai chi tiết đó có dụng ý nhấn mạnh gươm thiêng là do linh khí của sông núi hun đúc mà thành. Lưỡi gươm dưới nước tượng trưng cho hình ảnh miền xuôi, chuôi gươm trên rừng tượng trưng cho hình ảnh miền núi. Hai hình ảnh ấy kết hợp lại, ý nói ở khắp nơi trên đất Việt, các dân tộc đều có khả năng đánh giặc, cứu nước. Từ đồng bằng sông nước tới vùng núi non hiểm trở, mọi người đều một lòng yêu nước và sẵn sàng đứng lên cứu nước, giết giặc ngoại xâm.
Tuy lưỡi gươm ở nơi này, chuôi gươm ở nơi khác nhưng khi đem lắp vào nhau thì vừa như in. Điều đó thể hiện nghĩa quân trên dưới một lòng và các dân tộc đồng tâm nhất trí cao độ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại xâm.
Gươm thiêng phải được trao vào tay người hiền tài, có lòng yêu nước nhiệt thành, có ý chí cứu nước. Cho nên mới có chi tiết thú vị: ba lần Thận kéo lưới lên đều chi được một thanh sắt (lưỡi gươm); trong đám người chạy giặc vào rừng sâu, chỉ một mình Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ phát ra từ ngọn cây cao, nơi có treo chuôi gươm báu. Và một hôm, khi chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lên ở xó nhà. Ánh sáng của thanh gươm và hai chữ Thuận Thiên khắc trên gươm như một lời khuyến khích, động viên của thần linh, của tổ tiên đối với Lê Lợi. Thuận Thiên là hợp ý trời. Hãy hành động cứu nước vì hành động đó hợp với lẽ trời. Mà đã hợp lẽ trời thì tất yếu sẽ hợp với lòng người và tin chắc sẽ thành công.
Xem thêm: Kể lại một buổi lao động công ích của lớp em tại trườngĐằng sau hình ảnh có vẻ hoang đường ấy chính là ý chí của muôn dân. Ý dân là ý trời. Trời trao mệnh lớn cho Lê Lợi cũng có nghĩa là nhân dân tin tưởng, trao ngọn cờ khởi nghĩa vào tay người anh hùng áo vải đất Lam Sơn. Gươm chọn người và người đã nhận thanh gươm, tức là nhận trách nhiệm trước đất nước, dân tộc. Lời nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho Lê Lợi đã phản ánh rất rỗ điều đó. Đây là trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để bảo đền tổ quốc.
Như vậy là gươm báu đã trao đúng vào tay người hiền tài, cho nên đã phát huy hết sức mạnh lợi hại của nó. Từ khi có gươm thiêng, nhuệ khi của nghĩa quân Lam Sơn ngày một tăng, đánh đâu thắng đấy, bao phen làm cho quân giặc bạt vía kinh hồn. Sức mạnh đoàn kết của con người kết hợp với sức mạnh của vũ khí thần kì đã làm nên chiến thắng vẻ vang.
Chuyện Long Quân cho mượn gươm được tác giả dân gian miêu tả rất khéo. Nếu để Lê Lợi trực tiếp nhận chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân, trên dưới một lòng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm thống nhất, hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của toàn dân trên mọi miền đất nước.
Lúc ở nhà Lê Thận, lưỡi gươm tỏa sáng trong gốc nhà tối giống như cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã được nhen nhóm từ trong nhân dân. Ánh sáng thanh gươm thúc giục mọi người lên đường. Ánh sáng phát ra lấp lánh từ gươm thiêng phải chăng là ánh sáng của chính nghĩa, của khát vọng tự do, độc lập muôn đời.
Thanh gươm tỏa sáng có sức tập hợp mọi người. Gươm thần tung hoành ngang dọc, mở đường cho nghĩa quân đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng dáng một tên giặc Minh nào trên đất nước ta.
Đánh tan quân xâm lược, non sông trở lại thanh bình. Lê Lợi lên ngôi vua, đóng đô ở Thăng Long. Một ngày nọ, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp này, Long Quân sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần và Lê Lợi hiểu ý thần linh, đã trao gươm cho Rùa Vàng. Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần để đánh giặc, nay đất nước đã yên bình thì đồi gươm lại.
Rùa Vàng há miệng đón lấy gươm thần và lặn xuống nước. Gươm và Rùa đã chìm đáy nước, người ta vẩn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Đấy là ánh sáng của hào quang chiến thắng vẻ vang, ánh sáng của quyết tâm giết giặc bảo vệ tổ quốc. Những hình ảnh thần kì trên đã để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng bao người. Chi tiết này có ý nghĩa lớn lao: Khi vận nước ngàn cân treo sợi tóc, thần linh, tổ tiên trao gươm báu cho con cháu giữ gìn giang sơn, bờ cõi. Nay đất nước độc lập, bắt đầu giai đoạn xây dựng trong hòa bình thì gươm báu – hùng khí của tổ tiên lại trở về cõi thiêng liêng.
Hình ảnh Lê Lợi trả gươm đã nói lên khát vọng hòa bình của dân tộc ta. Dân tộc Việt Nam yêu hòa bình, không thích chiến tranh nhưng kẻ nào xâm phạm đến chủ quyền độc lập, tự do của đất nước này đều sẽ được một bài học nhớ đời. Việc cho mượn gươm và đòi lại gươm của Long Quân như một lời răn dạy chí tình của ông cha ta đối với vị vua mới Lê Lợi: trừng trị kẻ thù thì phải dùng bạo lực, còn cai trị nhân dân thì nên dùng ân đức.
Lê Lợi nhận gươm trên đất Thanh Hóa nhưng lại trả gươm tại hồ Tả Vọng ở Thăng Long, Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết này bị giới hạn bởi vì lúc này, Lê Lợi đã là vua và kinh thành Thăng Long là thủ đô, tượng trưng cho cả nước. Việc trả gươm diễn ra ở đây mới thể hiện hốt được tư tưởng yêu hòa bình và tỉnh thần cảnh giác của toàn dân tộc.
Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm thần vẫn còn đó và nhắc nhở tinh thần cảnh giác đối với mọi người, răn đe những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn của khởi nghĩa Lam Sơn đối với giặc Minh, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta.
Cái tên Hồ Gươm gắn liền với huyền thoại lịch sử ấy sẽ mãi mãi tồn tại với thời gian, với sự ngưỡng mộ của bao thế hệ Việt Nam yêu hước.
Xem thêm: Hãy miêu tả quang cảnh tưng bừng nơi em ở vào một ngày đầu xuân mới
|
Đề bài: Hồ gươm là trái tim của thủ đô Hà Nội mà chắc hẳn ai cũng đã từng nghe về sự tích về nó. Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sự tích Hồ Gươm.
Ai đã một lần đặt chân đến Hà Nội đều không thể không đến thăm Hồ Gươm. Hồ Gươm như một lẵng hoa xinh đẹp nằm giữa lòng thành phố. Sự tích cái tên Hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với gần ngàn năm lịch sử của đất Thăng Long.
Sự tích Hồ Gươm là một thiên truyện vô cùng đẹp đẽ trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong việc được gươm và trả gươm của Lê Lợi, yếu tố hiện thực và kì ảo hòa quyện với nhau tạo nên sức hấp dẫn kì lạ. Bằng những hình tượng cực kì đẹp đẽ như Rùa Vàng, gươm thần, truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh xâm lược. Truyện cũng nhằm giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ và ca ngợi truyền thống đánh giặc giữ nước oai hùng, bất khuất của dân tộc ta.
Bố cục của truyện gồm hai phần: Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm thần đánh giặc và sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Long Vương đòi lại gươm.
Bối cảnh của truyện là thế kỉ XV, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta. Chúng coi dân ta như cỏ rác và làm nhiều điều bạo ngược khiến thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Tội ác của chúng quả là trời không dung, đất không tha.
Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa, nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa nhưng vì thế lực còn non yếu nên thua trận liên tiếp. Thấy vậy, Long Quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để giết giặc. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã được tổ tiên, thần linh giúp đỡ và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Lê Lợi và Lê Thận nhận được gươm thần không phải từ một thế giới xa lạ nào mà ở ngay chính trên quê hương họ. Lê Thận đi kéo lưới ở bến sông, ba lần kéo lên đều chi được một thanh sắt. Lần thứ ba, ông nhìn kĩ thì là một lưỡi gươm. Con số 3 theo quan niệm dân gian tượng trưng cho số nhiều, có ý nghĩa khẳng định và ý nghĩa tạo tình huống, tăng sức hấp dẫn cho truyện. Lê Thận đem lưỡi gươm ấy về cất ở xó nhà rồi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau này trở thành người tâm phúc của Lê Lợi. Nhân một hôm đến nhà Lê Thận, chủ tướng Lê Lợi nhìn thấy lười gươm rực lên hai chữ Thuận Thiên (thuận theo ý trời) bèn cầm lên xem nhưng chưa biết đó là gươm thần.
Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng. Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây có ánh sáng khác lạ. Ông trèo lên xem thử, nhận ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được dưới nước tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in.
Không phải tình cờ người xưa để cho Lê Thận bắt được lưỡi gươm từ dưới đáy sông và Lê Lợi bắt được chuôi gươm từ trong rừng thẳm. Hai chi tiết đó có dụng ý nhấn mạnh gươm thiêng là do linh khí của sông núi hun đúc mà thành. Lưỡi gươm dưới nước tượng trưng cho hình ảnh miền xuôi, chuôi gươm trên rừng tượng trưng cho hình ảnh miền núi. Hai hình ảnh ấy kết hợp lại, ý nói ở khắp nơi trên đất Việt, các dân tộc đều có khả năng đánh giặc, cứu nước. Từ đồng bằng sông nước tới vùng núi non hiểm trở, mọi người đều một lòng yêu nước và sẵn sàng đứng lên cứu nước, giết giặc ngoại xâm.
Tuy lưỡi gươm ở nơi này, chuôi gươm ở nơi khác nhưng khi đem lắp vào nhau thì vừa như in. Điều đó thể hiện nghĩa quân trên dưới một lòng và các dân tộc đồng tâm nhất trí cao độ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại xâm.
Gươm thiêng phải được trao vào tay người hiền tài, có lòng yêu nước nhiệt thành, có ý chí cứu nước. Cho nên mới có chi tiết thú vị: ba lần Thận kéo lưới lên đều chi được một thanh sắt (lưỡi gươm); trong đám người chạy giặc vào rừng sâu, chỉ một mình Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ phát ra từ ngọn cây cao, nơi có treo chuôi gươm báu. Và một hôm, khi chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lên ở xó nhà. Ánh sáng của thanh gươm và hai chữ Thuận Thiên khắc trên gươm như một lời khuyến khích, động viên của thần linh, của tổ tiên đối với Lê Lợi. Thuận Thiên là hợp ý trời. Hãy hành động cứu nước vì hành động đó hợp với lẽ trời. Mà đã hợp lẽ trời thì tất yếu sẽ hợp với lòng người và tin chắc sẽ thành công.
Xem thêm: Kể lại một buổi lao động công ích của lớp em tại trườngĐằng sau hình ảnh có vẻ hoang đường ấy chính là ý chí của muôn dân. Ý dân là ý trời. Trời trao mệnh lớn cho Lê Lợi cũng có nghĩa là nhân dân tin tưởng, trao ngọn cờ khởi nghĩa vào tay người anh hùng áo vải đất Lam Sơn. Gươm chọn người và người đã nhận thanh gươm, tức là nhận trách nhiệm trước đất nước, dân tộc. Lời nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho Lê Lợi đã phản ánh rất rỗ điều đó. Đây là trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để bảo đền tổ quốc.
Như vậy là gươm báu đã trao đúng vào tay người hiền tài, cho nên đã phát huy hết sức mạnh lợi hại của nó. Từ khi có gươm thiêng, nhuệ khi của nghĩa quân Lam Sơn ngày một tăng, đánh đâu thắng đấy, bao phen làm cho quân giặc bạt vía kinh hồn. Sức mạnh đoàn kết của con người kết hợp với sức mạnh của vũ khí thần kì đã làm nên chiến thắng vẻ vang.
Chuyện Long Quân cho mượn gươm được tác giả dân gian miêu tả rất khéo. Nếu để Lê Lợi trực tiếp nhận chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân, trên dưới một lòng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm thống nhất, hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của toàn dân trên mọi miền đất nước.
Lúc ở nhà Lê Thận, lưỡi gươm tỏa sáng trong gốc nhà tối giống như cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã được nhen nhóm từ trong nhân dân. Ánh sáng thanh gươm thúc giục mọi người lên đường. Ánh sáng phát ra lấp lánh từ gươm thiêng phải chăng là ánh sáng của chính nghĩa, của khát vọng tự do, độc lập muôn đời.
Thanh gươm tỏa sáng có sức tập hợp mọi người. Gươm thần tung hoành ngang dọc, mở đường cho nghĩa quân đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng dáng một tên giặc Minh nào trên đất nước ta.
Đánh tan quân xâm lược, non sông trở lại thanh bình. Lê Lợi lên ngôi vua, đóng đô ở Thăng Long. Một ngày nọ, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp này, Long Quân sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần và Lê Lợi hiểu ý thần linh, đã trao gươm cho Rùa Vàng. Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần để đánh giặc, nay đất nước đã yên bình thì đồi gươm lại.
Rùa Vàng há miệng đón lấy gươm thần và lặn xuống nước. Gươm và Rùa đã chìm đáy nước, người ta vẩn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Đấy là ánh sáng của hào quang chiến thắng vẻ vang, ánh sáng của quyết tâm giết giặc bảo vệ tổ quốc. Những hình ảnh thần kì trên đã để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng bao người. Chi tiết này có ý nghĩa lớn lao: Khi vận nước ngàn cân treo sợi tóc, thần linh, tổ tiên trao gươm báu cho con cháu giữ gìn giang sơn, bờ cõi. Nay đất nước độc lập, bắt đầu giai đoạn xây dựng trong hòa bình thì gươm báu – hùng khí của tổ tiên lại trở về cõi thiêng liêng.
Hình ảnh Lê Lợi trả gươm đã nói lên khát vọng hòa bình của dân tộc ta. Dân tộc Việt Nam yêu hòa bình, không thích chiến tranh nhưng kẻ nào xâm phạm đến chủ quyền độc lập, tự do của đất nước này đều sẽ được một bài học nhớ đời. Việc cho mượn gươm và đòi lại gươm của Long Quân như một lời răn dạy chí tình của ông cha ta đối với vị vua mới Lê Lợi: trừng trị kẻ thù thì phải dùng bạo lực, còn cai trị nhân dân thì nên dùng ân đức.
Lê Lợi nhận gươm trên đất Thanh Hóa nhưng lại trả gươm tại hồ Tả Vọng ở Thăng Long, Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết này bị giới hạn bởi vì lúc này, Lê Lợi đã là vua và kinh thành Thăng Long là thủ đô, tượng trưng cho cả nước. Việc trả gươm diễn ra ở đây mới thể hiện hốt được tư tưởng yêu hòa bình và tỉnh thần cảnh giác của toàn dân tộc.
Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm thần vẫn còn đó và nhắc nhở tinh thần cảnh giác đối với mọi người, răn đe những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn của khởi nghĩa Lam Sơn đối với giặc Minh, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta.
Cái tên Hồ Gươm gắn liền với huyền thoại lịch sử ấy sẽ mãi mãi tồn tại với thời gian, với sự ngưỡng mộ của bao thế hệ Việt Nam yêu hước.
Xem thêm: Hãy miêu tả quang cảnh tưng bừng nơi em ở vào một ngày đầu xuân mới
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.