vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Thuyết minh về một căn bệnh gây nguy hại đến tính mạng con người
Gợi ý
Trong nhiều năm trở lại đây, bên cạnh việc tiêm chủng phòng những căn bệnh nguy hiểm như ho gà, sởi, lao,… việc tiêm chủng phòng bệnh viêm não Nhật Bản cũng được nhắc đến như một yêu cầu cấp thiết. Căn bệnh viêm não Nhật Bản thực sự là một căn bệnh nguy hiểm đối với sự sống của con người.
Bệnh viêm não Nhật Bản khởi đầu với triệu chứng sốt rất cao khoảng từ 39 độ C đến 40 độ C. Người bệnh rét run, đau đầu, mệt lả, buồn nôn, nôn… Tình trạng này kéo dài từ một ngày đến sáu ngày. Sau đó là các biểu hiện sốt cao co giật, rối loạn ý thức, kích thích, vật vã, ngủ gà, lơ mơ, hôn mê…
Nguyên nhân mắc bệnh là do virus gây bệnh thuộc họ Togaviridae, xâm nhập cơ thể người qua vết muỗi Culex tritaeniorhynchus và Culex vishnui đốt. Đối tượng mắc bệnh thường là trẻ em, đặc biệt là trẻ em dưới mười lăm tuổi. Bên cạnh đó, người lớn cũng có nguy cơ mắc bệnh. Vừa qua, Viện các bệnh truyền nhiễm và nhiệt đới quốc gia, BV Bạch Mai tiếp nhận nhiều bệnh nhân mắc bệnh trên là người lớn. Khi gây bệnh ở người lớn, bệnh có nguy cơ gây biến chứng cao với những di chứng rất nghiêm trọng. Theo cảnh báo của Viện Vệ sinh Dịch tễ TW, hiện nay, hệ thống y tế và người dân chỉ tập trung cảnh báo viêm não Nhật Bản ở trẻ em. Trong khi bệnh viêm não Nhật Bản ở người lớn thì hầu như chưa được nhắc đến. Tỉ lệ mắc bệnh ở nhóm tuổi trên mười lăm tuổi chiếm từ 5% đến 10% tổng số bệnh viêm não Nhật Bản và khoảng 25% tổng số viêm não virus ở người lớn.Xem thêm: Cảm nhận của em về truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen
Viêm não Nhật Bản là căn bệnh để lại nhiều di hại. Những trường hợp mắc viêm não Nhật Bản thường bị nhiễm khuẩn thần kinh, có thể dẫn đến tổn thương não vĩnh viễn và tỉ lệ tử vong cao. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyên cáo, 50% số người lớn khi mắc bệnh sẽ mang di chứng thần kinh và tâm thần vĩnh viễn. Thống kê trong thời gian qua, Khoa Thần kinh (BV Bạch Mai) tiếp nhận 60 bệnh nhân viêm não Nhật Bản là người lớn vào điều trị, trong đó 47 trường hợp có di chứng nặng, chín trường hợp tiến triển cấp tính, 4 người đã tử vong. Biểu hiện của các loại di chứng của viêm não Nhật Bản ở người lớn rất đa dạng và mang tính lan tỏa. Các di chứng về thần kinh – tâm thần đều chiếm đa số các trường hợp như liệt vận động, rối loạn trương lực cơ, tăng phản xạ gân xương, co giật (động kinh), rối loạn trí tuệ, rối loạn cảm xúc, biến đổi nhân cách. Điều đáng lo ngại là sau 3 năm di chứng của bệnh trở thành vĩnh viễn mặc dù đã được điều trị tích cực.
Mùa viêm não thường bắt đầu vào đầu tháng 4, đỉnh cao của dịch rơi vào tháng 6 đến tháng 7. Nguyên nhân do thời điểm đó là mùa hè nắng nóng, mưa nhiều, muỗi sinh sôi nảy nở nên khả năng bệnh lây lan nhanh. Từ đầu tháng 4, số người mắc viêm não Nhật Bản bắt đầu tăng nhanh và kết thúc vào tháng 9. Những vùng có nguy cơ cao tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và bắc Trung bộ như Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nội, Thanh Hóa. Mỗi năm cả nước có từ 2500 ca đến 3000 ca viêm não, trong đó viêm não Nhật Bản chiếm tới 40% đến 60%.Xem thêm: Trong văn bản "Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000", vấn đề bao bì ni lông đã được tác giả trình bày như thế nào? Viêm não là căn bệnh gây tỉ lệ tử vong cao trong khi đó việc điều trị bệnh hiện nay còn gặp nhiều khó khăn vì chưa có thuốc đặc trị, bệnh nhân đên viện muộn. Bệnh nhân chủ yếu được điều trị triệu chứng như dùng thuốc hạ sốt, chống phù nề, co giật.
Các chuyên gia dịch tễ khuyến cáo, để ngăn ngừa mẳc bệnh viêm não Nhật Bản, ngoài biện pháp tiêm phòng văcxin, người dân cần làm vệ sinh quanh nhà, phun hóa chất diệt muỗi, có lưới bảo vệ nhà, dùng màn chống muỗi, tránh các hoạt động ngoài trời vào chiều tối. Ở một số vùng có nguy cơ cao, cần nhốt gia súc và làm chuồng gia súc xa nhà ở.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation about a disease that endangers human life
Suggest
In recent years, in addition to vaccination against dangerous diseases such as whooping cough, measles, tuberculosis, etc., vaccination against Japanese encephalitis has also been mentioned as an urgent requirement. Japanese encephalitis is truly a dangerous disease for human life.
Japanese encephalitis begins with symptoms of a very high fever ranging from 39 degrees Celsius to 40 degrees Celsius. The patient has chills, headaches, fatigue, nausea, vomiting... This condition lasts from one day to six days. . Then there are symptoms of high fever, convulsions, consciousness disorders, irritability, restlessness, drowsiness, drowsiness, coma...
The cause of the disease is a pathogenic virus of the Togaviridae family, which enters the human body through the bites of Culex tritaeniorhynchus and Culex vishnui mosquitoes. Sufferers of the disease are often children, especially children under fifteen years old. Besides, adults are also at risk of getting the disease. Recently, the National Institute of Infectious and Tropical Diseases, Bach Mai Hospital received many adult patients with the above disease. When causing disease in adults, the disease has a high risk of causing complications with very serious sequelae. According to warnings from the National Institute of Hygiene and Epidemiology, currently, the health system and people only focus on warning of Japanese encephalitis in children. Meanwhile, Japanese encephalitis in adults is hardly mentioned. The incidence of the disease in the age group over fifteen years old accounts for 5% to 10% of the total number of Japanese encephalitis cases and about 25% of the total number of viral encephalitis cases in adults. See more: My impressions about the story The Little Seller Andersen's matches
Japanese encephalitis is a disease that leaves many harmful consequences. Cases of Japanese encephalitis often have neurological infections, which can lead to permanent brain damage and high mortality. The World Health Organization (WHO) recommends that 50% of adults with the disease will have permanent neurological and mental sequelae. According to recent statistics, the Department of Neurology (Bach Mai Hospital) received 60 adult Japanese encephalitis patients for treatment, of which 47 cases had severe sequelae, nine cases had acute progression, and 4 cases had severe sequelae. person who died. Symptoms of the sequelae of Japanese encephalitis in adults are very diverse and widespread. Neurological and mental sequelae account for the majority of cases such as motor paralysis, dystonia, increased tendon reflexes, convulsions (epilepsy), intellectual disorders, emotional disorders, personality change. What is worrying is that after 3 years the sequelae of the disease become permanent despite aggressive treatment.
Encephalitis season usually starts in early April, the peak of the epidemic falls in June to July. The reason is that at that time it is hot summer, lots of rain, mosquitoes multiply, so the disease can spread quickly. . From the beginning of April, the number of people infected with Japanese encephalitis began to increase rapidly and ended in September. High-risk areas are mainly concentrated in the Northern and North Central provinces such as Bac Giang, Bac Ninh, and Hai Phong. Duong, Hung Yen, Thai Binh, Hanoi, Thanh Hoa. Every year the country has from 2,500 to 3,000 cases of encephalitis, of which Japanese encephalitis accounts for 40% to 60%. See more: In the document "Information about Earth Day 2000", the issue of packaging is How was fur presented by the author? Encephalitis is a disease that causes a high mortality rate, while current treatment still faces many difficulties because there is no specific medicine and patients come to the hospital late. Patients are mainly treated symptomatically, such as fever-reducing, anti-edema, and convulsions drugs.
Epidemiological experts recommend that to prevent Japanese encephalitis, in addition to vaccination, people need to clean around the house, spray chemicals to kill mosquitoes, have nets to protect the house, and use mosquito nets. , avoid outdoor activities in the evening. In some high-risk areas, it is necessary to confine livestock and build barns far from houses.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một giống vật nuôi
Gợi ý
Có rất nhiều loài vật đã được con người thuần hoá, nuôi dưỡng và trở thành "thú cưng" trong mỗi gia đình. Nhưng trong số đó, có thể nói mèo là loài vật được yêu chiều, nâng niu nhất.
Mèo nhà là một phân loài trong họ mèo (trong họ mèo còn có báo, linh miêu…). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm.
Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro… Có những chú mèo mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,…
Mèo con từ 1 tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng… Chúng giao tiếp bằng cách kêu "meo"/"mi-ao", "gừ-gừ", rít, gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau.
Thông thường mèo nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23 kg vì được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg). Ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ 14 năm tới 20 năm. Chú mèo già nhất từng biết đến trên thế giới đã sống 36 năm. Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ. Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm.Xem thêm: Hãy viết thư để nói tại sao nước là quý Mèo là những "vận động viên điền kinh" tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt.
Mèo có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón. Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp. Khả năng này được gọi là "phản xạ thăng bằng." Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân. Mèo có thể bước rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên dấu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt ghồ ghề.Xem thêm: Thuyết minh về cây bút bi
Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo.
Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng và vểnh tai theo hướng khác. Mắt mèo cũng là một bộ phận khá đặc biệt. Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh… về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được.
Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá… Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng. Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá.Xem thêm: Bình giảng đoạn thơ sau trong Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu, làm rõ thái độ cảm thông, trân trọng với đại thi hào: Tiếng thơ ai động đất trời. Nghe như non nước vọng lời ngàn thu. Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du. Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngàyMèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả.
Trải qua một thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một "người bảo vệ", một "dũng sĩ diệt chuột" mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ thương. Có lẽ bởi vậy, tình cảm giữa con người và loái mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation about a breed of livestock
Suggest
There are many animals that have been domesticated, raised and become "pets" in every family. But among them, it can be said that cats are the most loved and cherished animals.
Domestic cats are a subspecies of the cat family (in the cat family there are also leopards, lynx...). According to reliable scientific evidence, they have lived closely with humans for about 3,500 to 8,000 years.
There are many different breeds of cats, some of which are hairless or tailless. Cat fur colors are very diverse: white, yellow, ash gray... There are cats with many coat colors, so they have names like calico cat (with three coat colors), striped cat (two coat colors alternating). each other), spotted cat,...
Kittens from 1 month old and older have been taught hunting and hunting movements by the mother cat such as running, jumping, climbing, stalking and pouncing. 4-month-old cats can catch mice, cockroaches, geckos... They communicate by "meowing"/"mi-ao", "grrrrrrrrr", hissing, growling and body language. Cats in colonies use both sounds and body language to communicate with each other.
Usually cats weigh from 2.5 kg to 7 kg. In particular, some cats have reached a weight of 23 kg because they were fed too much. On the contrary, there are also very small cats (less than 1.8 kg). In indoor conditions, cats usually live from 14 to 20 years. The oldest known cat in the world lived for 36 years. Cats conserve energy by sleeping more than most other animals, especially as they get older. Daily sleep time varies, usually 12 hours to 16 hours, average 13 hours to 14 hours. Some cats can sleep 20 hours a day. Because they are usually only active at sunset, cats are very active and playful in the evening and early morning. See more: Write a letter to say why water is precious Cats are talented "athletes" He can run very fast and jump to the ground from a great height. That's because they have a very special body structure.
Cats have four legs, each foot has claws and flesh pads in contact with the ground. Like all other members of the cat family, cats' claws are retractable. Normally, in the resting position, the claws are retracted into the skin and hair around the toe pads. This keeps the claws sharp because they are not in contact with the ground and allows the cat to stalk gently for prey. The front claws are usually sharper than the rear. Cats can extend one or more claws depending on need. When falling from a height, a cat can use its sharp sense of balance and reflexes to rotate its body to the appropriate position. This ability is called the "balance reflex." It always adjusts the body's balance in a certain way, giving them enough time to perform this reflex when falling. Like dogs, cats are toe walkers: they step directly on their toes, their metatarsals forming the visible lower part of the lower leg. Cats can step very precisely, because when they walk, they place their hind paws (almost) directly on the mark of their front paws, minimizing noise and marks left behind. This also helps them have a good position for their hind legs when walking on rough surfaces. See more: Explanation about the ballpoint pen
Effective support for cats during movement, in addition to legs, there is also a tail. Cat tails are long and flexible, they are used to repel flies and mosquitoes. But the main function is to maintain balance when running, jumping and climbing.
Cat ears are quite sensitive. Most cats have straight, high-pricked ears. Thanks to the high dynamism of the ear muscles, cats can turn their body in one direction and prick their ears in another direction. Cat's eyes are also a quite special part. Research shows that cats' vision is best at night compared to humans, and worst during the day. Cat eye colors are quite diverse: yellow, black, brown, blue... in terms of hearing, humans and cats have similar low-level hearing, but cats can hear sounds at high altitudes. higher altitude, even better than dogs. When hearing a certain sound, the cat's ears will turn in that direction; Each cat ear can rotate independently toward the sound source. Cats' sense of smell is also very developed. It is 14 times stronger than that of humans. The number of olfactory cells in their nose is also twice as large, so cats can smell odors that we cannot perceive.
Cats are carnivores, so the objects they hunt for survival are small animals such as mice, snakes, toads, fish... The weapon to hunt is claws. When encountering prey, it usually stands about 5 to 6 meters away from the prey. Then it lies flat, lowering its body close to the ground, eyes staring without blinking at the target and at the same time walking very gently towards the prey to be hunted. When approaching a distance where it feels secure, the cat unleashes its final strength by pushing hard on its hind legs and at the same time launching its whole body forward and using its sharp claws to stretch out and catch the cat. bait. Today, cats always live with people through many generations of descendants. Therefore, cats' food is rice or ready-made food. But the cat's favorite food is still fish. See more: Commentary on the following poem in Dear Nguyen Du - To Huu, clarifying the attitude of sympathy and respect for the great poet: The voice of the poem is moving. Earth and sky. It sounds like mountains and rivers echoing eternal words. Thousands of years from now, remember Nguyen Du. Cats often avoid wet places and stay very clean. To clean its body, it often sticks out its tongue, secretes saliva into its feet and then applies it to its face and whole body. This action shows that its purpose is to erase all stains, even the breath of the human hand that has just held or caressed it. Cats always clean their bodies many times a day, usually when they first wake up or come back from somewhere. That action has become a common habit in cats even when its body has no stains at all.
After a long time of being domesticated by humans, today, cats have become a pet in many families, especially children. Cats are not only a "protector" and a "rat killer" but also a very cute pet. Perhaps because of this, the relationship between humans and cats will become increasingly closer.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một loài hoa mà em yêu thích
Gợi ý
Mỗi khi nhắc đến thế giới loài hoa, thật khó có thể quên được loài hoa hồng kiêu sa, kiều diễm – loài hoa vốn được mệnh danh là “nữ hoàng của các loài hoa”. Đi sâu tìm hiểu về loài hoa này, chúng ta thấy có thật nhiều điều thú vị!
Hoa hồng vốn có nguồn gốc từ xứ sở Ba Tư xa xôi. Từ đất nước Ả-rập thần bí này, hoa hồng đến với khắp các quốc gia trên thế giới. Cho đến nay, có lẽ chưa có mảnh đất nào có bóng con người mà hoa hồng chưa đặt chân đến. Nhưng nổi tiếng nhất, có thể nhắc đến hoa hồng của những đất nước Bun-ga-ri. Một nhà thơ Việt Nam đã từng thốt lên:
Hoa hồng Bun-ga-ri
Ôi! Loài hoa diệu kì!
Có lẽ chính vẻ đẹp và những ý nghĩa thiêng liêng của hoa hồng đã tạo nên sức hút diệu kì thu hút và chinh phục hàng triệu trái tim con người.
Hoa hồng thuộc giống thân cỏ và có rất nhiều loài. Có loài thân leo, có loàị thân thẳng. Có loài không gai, có loài có gai,…. Tuy nhiên, phổ biến nhất vẫn là loài hồng thân thẳng. Thân hoa vươn lên cao chừng một mét. Lá mọc trực tiếp từ thân cây. Lá hoa thường có ba nhánh hình bầu dục, viền có răng cưa. Ngoài ra, trên thân cây thường có gai sắc, nhọn. Tuy nhiên, cũng có loài được lai ghép nên thân trơn nhẵn khiến người ôm hoa không sợ bị gai đâm. Nụ hoa được đặt trang trọng trên đỉnh của thân cây. Dưới nụ hoa xanh tươi còn có đài hoa nâng đỡ. Đủ ngày đủ tháng, nụ hoa bung nở hàng chục cánh hoa mềm mịn đan xếp vào nhau kiêu sa, quyến rũ. Cánh hoa hồng cũng có hình bầu dục, to hơn xu đồng tiền, cánh hoa rất mịn (“mịn như nhung”, nên có loài hoa hồng tên gọi là hồng nhung) và êm nhẹ. Đặc biệt, cánh hoa hồng thường có rất nhiều màu: màu đỏ, màu hồng, màu vàng, màu cam… Với mỗi màu lại có những sắc độ khác nhau: đỏ tươi, huyết dụ, đỏ nhung,…Xem thêm: Cảm nghĩ về tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn
Hoa có rất nhiều tác dụng trong đời sống hàng ngày. Điều dễ thấy là hoa hồng được dùng để làm cảnh trong nhiều gia đình. Chúng ta trồng hoa hồng trong vườn nhà, chúng ta cắm hoa hồng trong lọ, chúng ta tặng nhau những đoá hoa hồng… Sở dĩ hoa hồng thường được trao tặng nhau một cách trang trọng như thế bởi hoa hồng có nhiều ý nghĩa. Hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu cháy bỏng, nồng nàn. Hoa hồng vàng thể hiện tình bạn cao quý, chân thành. Hoa hồng cam thể hiện sự thành đạt, hiển vinh… Số lượng hoa hồng trong mỗi đoá cũng mang những ý nghĩa nhất định thể hiện suy nghĩ của người tặng, đặc biệt là đối với những đoá hồng đỏ. Không chỉ dùng để làm đẹp, hoa hồng còn rất nhiều tác dụng khác. Từ cánh hoa hồng, nhiều quốc gia đã chiết xuất tinh dầu tạo nên những nền công nghiệp nước hoa khổng lồ như Bun-ga-ri, Pháp,… Cũng từ hoa hồng, dân gian ta chế ra những bài thuốc chữa nhiều bệnh thông thường: cảm, đau bụng,…
Có nhiều tác dụng như vậy nhưng hoa hồng không hề khó tính chút nào. Hoa có thể nở bốn mùa trong năm để dâng hương sắc cho cuộc đời đầy ý nghĩa này. Ở nước ta; hoa hồng đẹp nổi tiếng nhất là hoa hồng của cao nguyên Đà Lạt. Từ Đà Lạt, hoa hồng chẳng những đi khắp mọi nẻo đường đất nước mà hoa còn đến với bạn bè khắp năm châu.Xem thêm: Giải thích và bình luận câu tục ngữ: ‘Có làm thì mới có ăn…’. Biết về hoa hồng như vậy, mỗi khi cầm bông hồng trên tay, chúng ta hãy biết trần trọng và yêu quý bông hồng bạn nhé!
Vanmau.edu.vn
|
Explanation about a flower that you love
Suggest
Whenever talking about the world of flowers, it is difficult to forget the beautiful and beautiful rose - a flower that is known as the "queen of flowers". Digging deeper into this flower, we see many interesting things!
Roses originated from the distant land of Persia. From this mystical Arab country, roses come to all countries around the world. Up to now, perhaps there is no land with human shadow where roses have not set foot. But the most famous, we can mention the roses of Bulgaria. A Vietnamese poet once exclaimed:
Bulgarian rose
Oh! Miraculous flower!
Perhaps it is the beauty and sacred meanings of roses that create a magical attraction that attracts and conquers millions of human hearts.
Roses belong to the herbaceous genus and there are many species. There are climbing species, there are straight-stemmed species. There are species without thorns, there are species with thorns, etc. However, the most popular is still the straight stem rose. The flower stem rises about a meter high. Leaves grow directly from the stem. The flower leaves usually have three oval branches with serrated edges. In addition, the tree trunk often has sharp, pointed thorns. However, there are also species that are hybridized so their stems are smooth so that people holding the flowers do not fear being pricked by thorns. Flower buds are placed solemnly on the top of the stem. Under the fresh green flower bud there is also a supporting sepal. Every day and every month, the flower buds bloom with dozens of soft, smooth petals woven together beautifully and seductively. Rose petals are also oval in shape, larger than a coin, very smooth ("smooth as velvet", so there is a species of rose called velvet rose) and soft. In particular, rose petals often have many colors: red, pink, yellow, orange... For each color there are different shades: bright red, blood red, velvet red,... See more: Thoughts about the work "Hich Tuong Si" by Tran Quoc Tuan
Flowers have many uses in daily life. It is easy to see that roses are used as ornamental plants in many homes. We grow roses in our gardens, we put roses in vases, we give each other roses... The reason roses are often given to each other in such a solemn way is because roses have many meanings. Red roses symbolize burning, passionate love. Yellow roses represent noble and sincere friendship. Orange roses represent success, glory... The number of roses in each flower also has certain meanings that express the thoughts of the giver, especially for red roses. Not only used for beauty, roses also have many other uses. From rose petals, many countries have extracted essential oils to create huge perfume industries such as Bulgaria, France, etc. Also from roses, our folk have created remedies to cure many common diseases. Common: cold, stomach ache,...
There are so many effects, but roses are not difficult at all. Flowers can bloom in four seasons of the year to bring fragrance to this meaningful life. In our country; The most famous beautiful rose is the rose of the Da Lat plateau. From Da Lat, roses not only travel all over the country, but they also reach friends across five continents. See more: Explain and comment on the proverb: 'If you work, you will eat...'. Knowing about roses like that, every time we hold a rose in our hands, we should respect and love the rose!
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Thuyết minh về một loài hoa
Mỗi dịp xuân về, ngàn hoa lại khoe sắc. Trong muôn ngàn loài hoa rực rỡ sắc hương ấy có một loài hoa rất dỗi quen thuộc với người Việt Nam: hoa mai vàng.
Mai vàng thuộc họ hàng mai, vốn là một loài cây hoang dã, mọc nơi núi rừng với dáng vẻ tự nhiên mà quyến rũ. Trải qua thời gian cùng với nhu cầu thưởng ngoạn, trao gởi tâm linh, con người đã phát hiện, thuần dưỡng và xem mai như một người bạn thân thiết, tao nhã.
Mai có dáng vẻ thanh cao. Thân cây mềm mại, lá xanh biếc, dịu dàng, hoa tươi, rực rỡ. Mai thường trút lá vào mùa đông và ra hoa vào mùa xuân. Hoa nở thành từng chùm, có cuốn dài treo lơ lửng trên cành, thoảng mùi thơm e ấp, kín đáo. Mỗi nụ hoa thường có năm cánh. Cá biệt có hoa tới những chín, mười cánh. Dân gian vẫn tin rằng năm mới nhà nào có cành mai như vậy là dấu hiệu của điềm lành, của một năm thịnh vượng, an khang.
Mai thuộc loại dễ trồng và cũng dễ chăm sóc. Người ta thường trồng mai bằng cách chọn những hạt mai nhín mẩy, phơi khô rồi đem gieo vào đất ẩm, có thể gieo trong chậu hoặc ngoài vườn. Nó ưa đất ẩm và ánh sáng nhưng không chịu được úng. Vì vậy cần trồng cây mai nơi cao ráo và phải thường xuyên tưới nước cho cây. Nếu trồng trong chậu thì cần chú ý bón phân và thay đất hàng năm. Nếu chăm dóc tốt thì khoảng 5 – 7 năm mai có thể cho hoa. Để có một chậu hoa đẹp thường chú ý cắt nhánh, uống cành, tạo thế để có được những chậu mai có hình dạng độc đáo, mang ý nghĩa sâu sắc,đậm chết triết lí Á Đông. Để mai ra hoa đúng vào ba ngày Tết, người trồng mai thường phải chú ý trút lá và canh thời tiết. Năm nào thời tiết nắng ấm thì trút lá trước Tết khoảng hai mươi lăm ngày. Năm nào rét đậm thì phải trút lá sớm hơn.
Xem thêm: Kể lại một lần đi tham quan cùng các bạn trong lớpTừ lâu cây mai đã đi vào đời sống tinh thần của người Việt Nam. Tương truyền rằng chúa Nguyễn Hoàng lúc di dân vào miền Nam lòng vẫn không nguôi nỗi nhớ thương cành đào xứ Bắc nên mỗi độ xuân về lại dùng cành mai thay thế. Có lẽ thú chơi mai ngày Tết của người Việt ra đời từ đó.Đối với người Việt Nam, nhất là người miền Trung và miền Nam, mai thường là một thứ hoa thường không thể thiếu trong ngày Tết. Ba ngày xuân, ai cũng muốn có một cành mai đẹp trong nhá, vừa để tô điểm sắc xuân, vừa để cầu mong những điều tốt đẹp. Cùng với hoa đào miền Bắc, hoa mai trở thành hiện thân của mùa xuân phương Nam. mai, trúc, cúc, tùng là biểu tượng của bốn mùa: xuân, hạ, thu, đong. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du đã viết: "Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen". Mai là biểu tượng của người quân tử, là bạn tâm giao của những người thanh lịch, tao nhã.
Mai là một cây quý của người Việt Nam. Hiểu biết về cây mai sẽ giúp chúng ta khám phá ra bao điều thú vị để từ đó càng thêm yêu quý, nâng niu trân trọng và biết cách làm tôn vinh giá trị của mai, góp phần làm cho ngàn hoa của xứ sở luôn rực rỡ sắc hương.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê em
|
Topic: Explanation about a flower
Every spring, thousands of flowers bloom. Among the thousands of colorful and fragrant flowers, there is a flower that is very familiar to Vietnamese people: yellow apricot blossom.
Yellow apricot belongs to the apricot family, which is a wild tree that grows in the mountains and forests with a natural and attractive appearance. Over time, along with the need to enjoy and share spirituality, people have discovered, domesticated and considered apricot blossoms as a close, elegant friend.
Mai has a noble appearance. The tree trunk is soft, the leaves are green and gentle, the flowers are fresh and vibrant. Apricot trees usually shed their leaves in winter and flower in spring. The flowers bloom in clusters, with long stalks hanging from the branches, with a shy, discreet fragrance. Each flower bud usually has five petals. In particular, there are flowers with up to nine or ten petals. Folks still believe that in the New Year, any house with such an apricot branch is a sign of good omen, of a prosperous and peaceful year.
Apricot is easy to grow and easy to care for. People often grow apricot trees by choosing plump apricot seeds, drying them, then sowing them in moist soil. They can be sown in pots or in the garden. It prefers moist soil and light but cannot tolerate waterlogging. Therefore, it is necessary to plant apricot trees in a high, dry place and water the tree regularly. If growing in pots, you need to pay attention to fertilizing and changing the soil every year. If you take good care of it, it will bloom in about 5-7 years. To have a beautiful flower pot, we often pay attention to cutting branches, branches, and creating positions to get uniquely shaped apricot pots, with deep meanings, imbued with Asian philosophy. In order for apricot blossoms to bloom on the three days of Tet, apricot growers often have to pay attention to removing leaves and watching the weather. Every year when the weather is warm and sunny, the leaves are shed about twenty-five days before Tet. In cold years, leaves must be shed earlier.
See more: Tell me about a trip with your classmates. Apricot trees have long been part of the spiritual life of Vietnamese people. Legend has it that when Lord Nguyen Hoang migrated to the South, he still couldn't help but miss the peach branches of the North, so every spring he used apricot branches instead. Perhaps the Vietnamese hobby of playing apricot blossoms during Tet was born from there. For Vietnamese people, especially those in the Central and Southern regions, apricot blossoms are often an indispensable flower during Tet. During the three days of spring, everyone wants to have a beautiful apricot branch in their home, both to decorate the spring color and to pray for good things. Along with northern peach blossoms, apricot blossoms become the embodiment of southern spring. Apricot, bamboo, chrysanthemum, and pine are symbols of the four seasons: spring, summer, autumn, and winter. It's no coincidence that Nguyen Du wrote: "Sitting happily and peacefully. Mai is an old friend, crane is an acquaintance." Mai is the symbol of a gentleman, the soulmate of elegant and refined people.
Apricot is a precious tree of Vietnamese people. Understanding the apricot tree will help us discover many interesting things so that we can love, cherish and appreciate it more and know how to honor the value of the apricot tree, contributing to making the country's thousands of flowers always bright. colorful and fragrant.
Source Edufly
See more: Introducing a scenic spot in my hometown
|
Thuyết minh về một món ngon đất Hà Thành – Chả cá Lã Vọng.
Hướng dẫn
Trong rất nhiều món ngon Hà Nội được gần xa biết đến người ta hay nhắc đến bánh tôm Hồ Tây, bánh cốm Hàng Than, cốm làng Vòng, phở Hà Nội… Và dĩ nhiên không thể không nhắc đến chả cá Lã Vọng.
Chả cá Lã Vọng là tên của một đặc sản Hà Nội. Vốn là một món ăn dân gian do gia đình họ Đoàn chế biến, tại số nhà 14 phốChả Cá (trước là phố Hàng Sơn) trong khu phô' cổ giữ bí quyết kinh doanh và đặt tên cho nó như trên. Đến nay, chả cá đã thành món ăn khoái khẩu của thực khách sành ăn Hà Nội. Lâu dần, hai tiếng chả cá được gọi thành tên phố và nó đã trở thành một trong những địa chí văn hoá vật chất nổi tiếng của Hà Nội xưa – nay. Trong nhà hàng luôn bày một ông Lã Vọng ngồi bó gối câu cá bên dòng suối – biểu tượng của người tài giỏi nghĩa hiệp ưu thời mẫn thế phải thúc thủ đợi thời. Vì thế khách ăn quen gọi là chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên gọi của nhà hàng.
Lịch sử về món ăn này được kể lại như sau: Vào những năm thời kỳ Pháp thuộc, ở số 14 Hàng Sơn có một gia đình họ Đoàn sinh sống, họ thường lấy nhà mình làm nơi cưu mang nghĩa quân Đề Thám. Chủ nhà hay làm một món chả cá rất ngon đãi khách, lâu dần thành quen, những vị khách ấy đã giúp gia đình mở một quán chuyên bán món ăn ấy, vừa để nuôi sống gia đình, vừa làm nơi tụ họp. Về sau, hai tiếng “Chả Cá” được gọi thành tên phố. Trong nhà hàng luôn bày một ông Lã Vọng – Khương Tử Nha ngồi bó gối câu cá – biểu tượng của người tài giỏi nhưng đang phải đợi thời. Vì thế khách ăn quen gọi là Chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên nhà hàng và cũng là của món ăn. Bí quyết làm chả cá chỉtruyền lại cho người con cả họ Đoàn. Quán nhỏ nằm giữa phố, trông cũ kỹ, đồ dùng hơi xập xệ, ấy vậy mà khách tây, khách ta cứ tầm trưa, chiều là đông nghịt bởi cái tên quán "Chả cá Lã Vọng" suốt hơn 100 năm nay đã nức tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc. Chả cá Lã Vọng “giữ chân” khách hàng được lâu là bởi sự cẩn thận, tỉ mỉ của người làm từ khâu chọn thực phẩm, chế biến cho đến khi khách dùng món.
Cá làm chả thường là cá lăng tươi. Đây là loại cá ít xương, ngọt thịt và thơm. Đặc biệt nhất và cũng vô cùng hiếm hoi là chả làm từ cá Anh Vũ, bắt ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì – Phú Thọ). Không có cá lăng thì có thể dùng đến cá nheo, cá quả, nhưng cá nheo thì thịt bở hơn và cá quả thì nhiều xương dăm hơn nên không ngon bằng cá lăng. Thịt cá được lọc theo kiểu lạng từ hai bên sườn, thái mỏng, ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm theo một phương cách bí truyền đặc biệt ít nhất hai giờ đồng hồ, rồi kẹp vào cặp tre (hoặc vỉ nướng chả có quết một lớp mỡ cho đỡ dính). Người nướng phải quạt lửa, lật giở đều tay sao cho hai mặt đều chín vàng như nhau. Chuẩn bị ăn, người ta mới mang những kẹp chả nướng đã chín trút vào chảo mỡ – loại mỡ chó (đây là tuyệt chiêu khiến chả cá Lã Vọng nổi tiếng) sôi đặt trên bếp than hoa đặt trên bàn ăn, cùng với rau thì là và hành hoa cắt khúc. Thường người ta không dùng dầu ăn vì nhiệt độ thấp hơn và cá kém thơm hơn. Nước chấm là mắm tôm hảo hạng, vắt chanh tươi đánh sủi lên, một chút ớt cay, dầm nhẹ phảng phất cà cuống, thêm vài giọt rượu trắng. Món rau quả thật quan trọng đối với món chả cá, những lát chuối xanh, ruột trắng nõn mang nhựa chát, đi cùng những lát khế thái mỏng xanh nhưngọc, chua nhức lưỡi. Lạc rang bùi thơm. Khay rau sống phong phú những sung, mơ, ngổ, thơm, đinh lăng, cọng hành nõn, miếng gừng vàng. Cạnh khay rau là đĩa bún. Bún lá, bún con. Bún xếp thành vỉ nhỏ, trắngmuốt, mát lành cùng rau, cùng gia vị cay, cùng thịt cá thơm nướng chả. Miếng chả ngon, đạt yêu cầu là khi nướng chín rồi miếng cá không vỡ, không khô quá, màu vàng, thơm mùi cá nướng, vị ngọt, bùi, béo.
Xem thêm: Từ ý thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều: “Thiện căn ở tại lòng ta/ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Anh (chị) hãy bàn về quan hệ giữa tâm và tàiChả phải ăn nóng. Khi ăn, gắp từng miếng cá ra bát, rưới nước mỡ (đang sôi lên trên, ăn kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng Láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ chấm với mắm tôm. Mắm tôm phải được pha chế bằng cách vắt chanh tươi, thêm ớt, đánh sủi lên rồi tra thêm chút tinh dầu cà cuống, thêm vài giọt rượu trắng, một ít nước mỡ và đường. Một số khách nước ngoài không ăn đượcmắm tôm thì thay bằng nước mắm, nhưng nước mắm ít nhiều khiến món chả cá bị giảm hương vị. Có hai cách ăn phổ biến: Cho cá đã nướng vào chảo mỡ, bỏ hành và rau thì là vào. Khi rau chín tái thì gắp ra ăn với bún, rau thơm, đậu phộng rang và mắm tôm đã pha chế theo cách cho một ít bún vào bát, cho rau và một vài miếng chả cá lên trên, rắc ít lạc rang, rưới chút mắm tôm rồi trộn ăn. Khi ăn mùi mắm tôm quyện với vị ngọt của cá, mùi rau và vị bùi của lạc rang. Do có nhiều mỡ nên khi ăn phải kèm theo cuống hành tươi chẻ nhỏ ngâm qua dấm pha loãng. Hoặc cho chả cá, hành và rau vào bát, rưới nước mỡ đang sôi và dùng ngay, có thể ăn kèm với bánh đa nướng. Cách ăn này làm vừa đủ ăn nếu không cá sẽ nguội, mất ngon. Ngoài hai cách trên, một sô' người có thể cho cả bún vào chảo và đảo nhanh với cá, thì là, hành hoa sau đó trút ra bát ăn. Ăn cách này rất nóng, ngon nhưng hơi nhiều mỡ. Ăn chả cá, phải từ từ ít một để thưởng thức vị thơm của cá nướng, vị ngọt đậm đà của cá chiên, cá lăng, vị chát của chuối, vị chua của khế, vị thơm các loài rau gia vị, mùi đặc biệt của cà cuống, mắm tôm, chanh, ớt cùng nhâm nhi chén rượu quê nhà. Cuối cùng là món canh chua. Sau khi ăn toàn món khô háo nước, thưởng thức thêm nửa bát bún canh chua sôi sùng sục, càng ngon miệng. Thế là ta đã thưởng thức đầy đủ hương vị của chả cá chiên, cá lãng.
Lúc thưởng thức món chả cá thú vị nhất là khi gió heo may về, trời Hà Nội thoáng thu se lạnh. Người ăn cứ thế nhấm nháp, nhẩn nha đàng hoàng. Tiếng mỡ nóng phi hành hoa kêu lép bép. Màu cá nướng vàng rộm thơm lừng đặt trên những lớp rau thì là xanh mướt, bên lò nướng than hồng rực, ấm áp. Vị ngọt bùi của miếng chả cá vàng đều, với sợi bún trắng mỏng quyện với mắm tôm chanh, vị cay thơm của cà cuống, thì là… vừa ăn vừa nhâm nhi với chút rượu mạnh mới thấy hết cái hương vị đặc trưng có một không hai của món ăn lạ miệng, cho ta cái cảm giác như đang được hưởng cái tinh tuý của đất trời. Tất cả những điểu đó đem lại cho món chả cá Lã vọng Hà Nội sự hài hoà đến độc đáo, quyến rũ.
Chả cá, món ăn vừa sang trọng vừa thi vị mà dân Hà thành ưa chuộng, các nhà văn, nhà thơ bao thế hệ vừa thưởng thức vừa ca ngợi, đến muốn… thèm. Chả cá Lã Vọng của Hà Nội cũng đã xuất hiện cả ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhất là ở các Quận 1, Quận 8, Quận Phú Nhuận. Nhiều khách nước ngoài khi đến Việt Nam, thưởng thức món đặc sản này đã phải trầm trồ, thán phục nghệ thuật ẩm thực đến tinh tế, cầu kỳ của người Việt. Chả cá Lã Vọng Hà Nội đã nổi tiếng. Một hãng truyền thông của Mỹ xếp vào vị trí thứ năm trong 10 món nên ăn trước khi… "về trời".
Nguồn: thêm: Giả sử anh (chị) tham gia cuộc thảo luận về một cuốn sách được các bạn học sinh quan tâm, chú ý và được phát biểu những ý nghĩ của mình. Hãy ghi lại suy nghĩ của chính anh (chị)
|
Thuyết minh về một món ngon đất Hà Thành – Chả cá Lã Vọng.
Hướng dẫn
Trong rất nhiều món ngon Hà Nội được gần xa biết đến người ta hay nhắc đến bánh tôm Hồ Tây, bánh cốm Hàng Than, cốm làng Vòng, phở Hà Nội… Và dĩ nhiên không thể không nhắc đến chả cá Lã Vọng.
Chả cá Lã Vọng là tên của một đặc sản Hà Nội. Vốn là một món ăn dân gian do gia đình họ Đoàn chế biến, tại số nhà 14 phốChả Cá (trước là phố Hàng Sơn) trong khu phô' cổ giữ bí quyết kinh doanh và đặt tên cho nó như trên. Đến nay, chả cá đã thành món ăn khoái khẩu của thực khách sành ăn Hà Nội. Lâu dần, hai tiếng chả cá được gọi thành tên phố và nó đã trở thành một trong những địa chí văn hoá vật chất nổi tiếng của Hà Nội xưa – nay. Trong nhà hàng luôn bày một ông Lã Vọng ngồi bó gối câu cá bên dòng suối – biểu tượng của người tài giỏi nghĩa hiệp ưu thời mẫn thế phải thúc thủ đợi thời. Vì thế khách ăn quen gọi là chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên gọi của nhà hàng.
Lịch sử về món ăn này được kể lại như sau: Vào những năm thời kỳ Pháp thuộc, ở số 14 Hàng Sơn có một gia đình họ Đoàn sinh sống, họ thường lấy nhà mình làm nơi cưu mang nghĩa quân Đề Thám. Chủ nhà hay làm một món chả cá rất ngon đãi khách, lâu dần thành quen, những vị khách ấy đã giúp gia đình mở một quán chuyên bán món ăn ấy, vừa để nuôi sống gia đình, vừa làm nơi tụ họp. Về sau, hai tiếng “Chả Cá” được gọi thành tên phố. Trong nhà hàng luôn bày một ông Lã Vọng – Khương Tử Nha ngồi bó gối câu cá – biểu tượng của người tài giỏi nhưng đang phải đợi thời. Vì thế khách ăn quen gọi là Chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên nhà hàng và cũng là của món ăn. Bí quyết làm chả cá chỉtruyền lại cho người con cả họ Đoàn. Quán nhỏ nằm giữa phố, trông cũ kỹ, đồ dùng hơi xập xệ, ấy vậy mà khách tây, khách ta cứ tầm trưa, chiều là đông nghịt bởi cái tên quán "Chả cá Lã Vọng" suốt hơn 100 năm nay đã nức tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc. Chả cá Lã Vọng “giữ chân” khách hàng được lâu là bởi sự cẩn thận, tỉ mỉ của người làm từ khâu chọn thực phẩm, chế biến cho đến khi khách dùng món.
Cá làm chả thường là cá lăng tươi. Đây là loại cá ít xương, ngọt thịt và thơm. Đặc biệt nhất và cũng vô cùng hiếm hoi là chả làm từ cá Anh Vũ, bắt ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì – Phú Thọ). Không có cá lăng thì có thể dùng đến cá nheo, cá quả, nhưng cá nheo thì thịt bở hơn và cá quả thì nhiều xương dăm hơn nên không ngon bằng cá lăng. Thịt cá được lọc theo kiểu lạng từ hai bên sườn, thái mỏng, ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm theo một phương cách bí truyền đặc biệt ít nhất hai giờ đồng hồ, rồi kẹp vào cặp tre (hoặc vỉ nướng chả có quết một lớp mỡ cho đỡ dính). Người nướng phải quạt lửa, lật giở đều tay sao cho hai mặt đều chín vàng như nhau. Chuẩn bị ăn, người ta mới mang những kẹp chả nướng đã chín trút vào chảo mỡ – loại mỡ chó (đây là tuyệt chiêu khiến chả cá Lã Vọng nổi tiếng) sôi đặt trên bếp than hoa đặt trên bàn ăn, cùng với rau thì là và hành hoa cắt khúc. Thường người ta không dùng dầu ăn vì nhiệt độ thấp hơn và cá kém thơm hơn. Nước chấm là mắm tôm hảo hạng, vắt chanh tươi đánh sủi lên, một chút ớt cay, dầm nhẹ phảng phất cà cuống, thêm vài giọt rượu trắng. Món rau quả thật quan trọng đối với món chả cá, những lát chuối xanh, ruột trắng nõn mang nhựa chát, đi cùng những lát khế thái mỏng xanh nhưngọc, chua nhức lưỡi. Lạc rang bùi thơm. Khay rau sống phong phú những sung, mơ, ngổ, thơm, đinh lăng, cọng hành nõn, miếng gừng vàng. Cạnh khay rau là đĩa bún. Bún lá, bún con. Bún xếp thành vỉ nhỏ, trắngmuốt, mát lành cùng rau, cùng gia vị cay, cùng thịt cá thơm nướng chả. Miếng chả ngon, đạt yêu cầu là khi nướng chín rồi miếng cá không vỡ, không khô quá, màu vàng, thơm mùi cá nướng, vị ngọt, bùi, béo.
Xem thêm: Từ ý thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều: “Thiện căn ở tại lòng ta/ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Anh (chị) hãy bàn về quan hệ giữa tâm và tàiChả phải ăn nóng. Khi ăn, gắp từng miếng cá ra bát, rưới nước mỡ (đang sôi lên trên, ăn kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng Láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ chấm với mắm tôm. Mắm tôm phải được pha chế bằng cách vắt chanh tươi, thêm ớt, đánh sủi lên rồi tra thêm chút tinh dầu cà cuống, thêm vài giọt rượu trắng, một ít nước mỡ và đường. Một số khách nước ngoài không ăn đượcmắm tôm thì thay bằng nước mắm, nhưng nước mắm ít nhiều khiến món chả cá bị giảm hương vị. Có hai cách ăn phổ biến: Cho cá đã nướng vào chảo mỡ, bỏ hành và rau thì là vào. Khi rau chín tái thì gắp ra ăn với bún, rau thơm, đậu phộng rang và mắm tôm đã pha chế theo cách cho một ít bún vào bát, cho rau và một vài miếng chả cá lên trên, rắc ít lạc rang, rưới chút mắm tôm rồi trộn ăn. Khi ăn mùi mắm tôm quyện với vị ngọt của cá, mùi rau và vị bùi của lạc rang. Do có nhiều mỡ nên khi ăn phải kèm theo cuống hành tươi chẻ nhỏ ngâm qua dấm pha loãng. Hoặc cho chả cá, hành và rau vào bát, rưới nước mỡ đang sôi và dùng ngay, có thể ăn kèm với bánh đa nướng. Cách ăn này làm vừa đủ ăn nếu không cá sẽ nguội, mất ngon. Ngoài hai cách trên, một sô' người có thể cho cả bún vào chảo và đảo nhanh với cá, thì là, hành hoa sau đó trút ra bát ăn. Ăn cách này rất nóng, ngon nhưng hơi nhiều mỡ. Ăn chả cá, phải từ từ ít một để thưởng thức vị thơm của cá nướng, vị ngọt đậm đà của cá chiên, cá lăng, vị chát của chuối, vị chua của khế, vị thơm các loài rau gia vị, mùi đặc biệt của cà cuống, mắm tôm, chanh, ớt cùng nhâm nhi chén rượu quê nhà. Cuối cùng là món canh chua. Sau khi ăn toàn món khô háo nước, thưởng thức thêm nửa bát bún canh chua sôi sùng sục, càng ngon miệng. Thế là ta đã thưởng thức đầy đủ hương vị của chả cá chiên, cá lãng.
Lúc thưởng thức món chả cá thú vị nhất là khi gió heo may về, trời Hà Nội thoáng thu se lạnh. Người ăn cứ thế nhấm nháp, nhẩn nha đàng hoàng. Tiếng mỡ nóng phi hành hoa kêu lép bép. Màu cá nướng vàng rộm thơm lừng đặt trên những lớp rau thì là xanh mướt, bên lò nướng than hồng rực, ấm áp. Vị ngọt bùi của miếng chả cá vàng đều, với sợi bún trắng mỏng quyện với mắm tôm chanh, vị cay thơm của cà cuống, thì là… vừa ăn vừa nhâm nhi với chút rượu mạnh mới thấy hết cái hương vị đặc trưng có một không hai của món ăn lạ miệng, cho ta cái cảm giác như đang được hưởng cái tinh tuý của đất trời. Tất cả những điểu đó đem lại cho món chả cá Lã vọng Hà Nội sự hài hoà đến độc đáo, quyến rũ.
Chả cá, món ăn vừa sang trọng vừa thi vị mà dân Hà thành ưa chuộng, các nhà văn, nhà thơ bao thế hệ vừa thưởng thức vừa ca ngợi, đến muốn… thèm. Chả cá Lã Vọng của Hà Nội cũng đã xuất hiện cả ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhất là ở các Quận 1, Quận 8, Quận Phú Nhuận. Nhiều khách nước ngoài khi đến Việt Nam, thưởng thức món đặc sản này đã phải trầm trồ, thán phục nghệ thuật ẩm thực đến tinh tế, cầu kỳ của người Việt. Chả cá Lã Vọng Hà Nội đã nổi tiếng. Một hãng truyền thông của Mỹ xếp vào vị trí thứ năm trong 10 món nên ăn trước khi… "về trời".
Nguồn: thêm: Giả sử anh (chị) tham gia cuộc thảo luận về một cuốn sách được các bạn học sinh quan tâm, chú ý và được phát biểu những ý nghĩ của mình. Hãy ghi lại suy nghĩ của chính anh (chị)
|
Thuyết minh về một món ăn mẹ làm
Gợi ý
Nhắc đến người mẹ thân yêu là em nghĩ đến những bữa ăn gia đình ấm cúng với bao món ăn ngon do chính tay mẹ làm. Có một món được gọi là "món tủ" của người, nguyên liệu rất dễ tìm, đơn giản nhứng dưới đôi tay tài hoa của mẹ, chúng được chế biến thành món ăn thật hấp dẫn: món mì xào giòn.
Để làm món mì xào giòn, ta cần chuẩn bị mười hai vắt mì tươi, một cái cật heo, một bộ lòng gà, 100gram nấm rơm búp, l00gram bông cải, 50gram đậu hoà lan, một chiếc đùi gà (hoặc ức gà), 150g tôm bạc thẻ, hai trái cà chua, hai trái ớt, 150gram xương heo nấu lấy một chén nước lèo, 50gram hành ta, một củ tỏi, một củ hành tây, hai muỗng cà phê dầu mè, một muỗng súp bột năng, nửa muỗng cà phê thuốc muối, l00gram bột mì hoặc bột năng để rắc mì, mỡ nước hoặc dầu ăn, muối, tiêu, đường, bột ngọt, xì dầu ngò, dấm.
Để chuẩn bị làm món ăn này, cần đem mì trụng sơ nước sôi rồi để ráo, sau đó gỡ mì cho rời ra. Cật heo bổ đôi, lạng bỏ lõm trong của cật rửa sạch, ngâm cật trong nước có pha chút dấm và muối độ 15 phút, vớt ra, rửa sạch, xắt ra từng miếng độ dày l,5cm. Lòng gà và gan xắt mỏng, mề xắt hoa (khía ngang và khía dọc có bảng khoảng một li). Nấm rơm gọt rửa sạch, trụng sơ nước sôi có cho chút muối cho nấm được giòn. Bông cải cắt miếng vừa ăn, trụng sơ nước sôi. Đậu hoà lan tước xơ hai bên mép, trụng sơ nước sôi có cho chút muối và thuốc muối cho đậu được xanh. Với đùi gà ta lóc nạc, xắt mỏng; tôm bạc thẻ ta rửa sạch, bóc vỏ, rút bỏ chỉ đen, để ráo. Cà chua tỉa hoa một quả, còn lại xắt dọc theo trái độ 8 miếng (xắt theo múi xà). Hành ta và tỏi băm nhỏ. Còn hành tây tỉa lá, hoặc xắt dọc theo củ có bảng độ một cm. Xem thêm: Văn nghị luận: Bàn luận về sức khỏe
Sau giai đoạn sơ chế, ta bắt đầu chiên mì. Đầu tiên, rây bột mì (hoặc bột năng) vào các sợi mì đã luộc chín, cho mì này vào chảo mỡ đã cho một ít tỏi đập dập, chiên từng cọng cho mì được vàng và giòn. Tiếp đến, ta xào thịt. Bắc chảo mỡ nóng, phi hành tỏi cho thơm, cho thịt gà vào xào. Với cật heo, lòng gà ta cũng xào lên cho đều, nêm tiệu, xì dầu, đường, bột ngọt cho vừa ăn. Khi thịt săn, cho nấm rơm, bông cải, đậu hoà lan, sau cùng cho cà chua và hành tây, nêm lại cho vừa ăn, nhắc xuống, cho dầu hào và dầu mè (xào cho rau cải vừa chín tới mới ngon).
Khi các phần của món ăn đã nấu xong, ta bắc ra trang trí món ăn. Đầu tiên, cho mì ra đĩa, phía trên cho hỗn hợp rau và thịt. Khi gần ăn thì hâm sốt lại cho nóng chế lên mì, ở giữa để cà chua và ớt tỉa hoa, rắc tiêu và ngò cho thơm, dùng nóng với xì dầu, ớt xắt khoanh mỏng.
Món mì xào giòn có thể nấu dùng trong những bữa ăn thường ngày hoặc được nằm trong thực đơn của những quán ăn bình dân. Với riêng em, món ăn này gắn với hình ảnh người mẹ đảm đang và vô cùng khéo léo, tinh tế.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation about a dish my mother made
Suggest
When I think of my beloved mother, I think of cozy family meals with delicious dishes made by her own hands. There is a dish called a "chest dish" of people, the ingredients are easy to find and simple, but under the talented hands of mother, they are processed into a very attractive dish: crispy fried noodles.
To make crispy stir-fried noodles, we need to prepare twelve fresh noodles, one pork kidney, one set of chicken intestines, 100 grams of straw mushrooms, 100 grams of broccoli, 50 grams of peas, one chicken thigh (or chicken breast). , 150g silver white shrimp, two tomatoes, two chili peppers, 150 grams of pork bones cooked in a cup of broth, 50 grams of shallots, one garlic, one onion, two teaspoons of sesame oil, one tablespoon of tapioca starch , half a teaspoon of salt, 100 grams of flour or tapioca starch to sprinkle noodles, grease or cooking oil, salt, pepper, sugar, monosodium glutamate, coriander soy sauce, vinegar.
To prepare this dish, boil the noodles in boiling water, drain, then remove the noodles. Cut the pork kidneys in half, remove the inside of the kidneys, wash them, soak the kidneys in water mixed with a little vinegar and salt for 15 minutes, take them out, wash them, cut them into 1.5cm thick pieces. Slice the chicken intestines and liver thinly, and slice the gizzard into pieces (horizontal and vertical slits have a board of about one inch). Wash and clean the straw mushrooms, blanch with boiling water and add a little salt to make the mushrooms crispy. Cut broccoli into bite-sized pieces and blanch with boiling water. Peel the peas from both edges, blanch with boiling water and add a little salt and salt to make the beans green. With lean chicken thighs, thinly sliced; We wash the shrimp, peel them, remove the black veins, and drain. Peel one tomato, cut the remaining tomatoes lengthwise into 8 pieces (cut along the beam). Chopped onion and garlic. As for onions, trim the leaves, or cut them along the bulb to about one centimeter. See more: Essay: Discussing health
After the preliminary processing stage, we start frying the noodles. First, sift flour (or tapioca starch) into the boiled noodles, put the noodles in a greased pan with a little crushed garlic, fry each stalk until golden and crispy. Next, we stir-fry the meat. Heat oil in a pan, saute onion and garlic until fragrant, add chicken and stir-fry. With pork kidneys, chicken intestines are also stir-fried until smooth, seasoned with pepper, soy sauce, sugar, and MSG to taste. When the meat is cooked, add straw mushrooms, broccoli, peas, finally add tomatoes and onions, season to taste, add oyster sauce and sesame oil (saute until the vegetables are just cooked to taste). .
When the parts of the dish are finished cooking, we take them out to decorate the dish. First, put the noodles on a plate, with the vegetable and meat mixture on top. When it's almost time to eat, reheat the sauce until it's hot and pour over the noodles. In the middle, put tomatoes and chili flowers, sprinkle with pepper and cilantro for aroma, serve hot with soy sauce and thinly sliced chili.
Crispy fried noodles can be cooked for everyday meals or on the menu of popular restaurants. For me, this dish is associated with the image of a capable and extremely skillful and sophisticated mother.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một món ăn truyền thống của địa phương
Gợi ý
Vốn là mảnh đất ngàn năm văn hiến, Hà Nội đã hình thành cho mình một nét văn hóa ẩm thực rất riêng. Sau những ngày Tết bộn bề với thịt mỡ, bánh chưng… Người Hà Nội lại làm những bữa bún thang thanh đạm mà không kém phần hấp dẫn.
Bún thang ra đời từ khi nào không ai rõ. Chỉ biết rằng hình ảnh bát bún thang từ lâu đã gắn bó với hình ảnh những cô gái của Hà Nội băm sáu phố phường duyên dáng, khéo léo.
Để làm được món bún thang phải chuẩn bị nguyên liệu khá cầu kì: bún, thịt gà, trứng gà, tôm nõn, nem chạo, xương lợn, rau thơm.
Việc lựa chọn và chế biến các nguyên liệu ấy cũng rất tinh tế. Bún phải là thứ bún sợi nhỏ, trắng trong, không có mùi chua. Thịt gà luộc chín xé sợi nhỏ. Trứng gà lựa lấy lòng đỏ, tráng những lớp mỏng và khô rồi cuộn lại thái thành những sợi nhỏ. Với tôm nõn ta phải ngâm một lát, để ráo nước rồi giã bông. Rau thơm rửa sạch, thái nhỏ, riêng với nem chạo thì ta để nguyên.
Xương lợn là nguyên liệu dùng để nấu nước dùng vì vậy ta nên chọn, xương ống, vừa rẻ vừa ngọt nước. Ta rửa sạch xương, chặt đôi từng khúc cho vào luộc sơ qua rồi rửa sạch. Xương sau khi rửa mới có thể nấu làm nước dùng. Khi nấu, ta cho đầy đủ gia vị, nếm vừa miệng là được. Ban đầu để lửa to, sau khi sôi để lửa nhỏ cho xương nhanh dừ.Xem thêm: Phân tích nhân vật A Phủ qua truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài Sau khi đã chế biến xong các nguyên liệu, ta chuẩn bị cho bữa ăn. Lấy một bát to, ta đặt vào đó lần lượt: bún, thịt gà xe sợi, trứng gà thái sợi, tôm bông, nem chạo, rau thơm rồi cho nước dùng vào. Ta sẽ có bát bún thang với màu trắng của bún, màu trắng ngà của thịt gà, màu vàng của trứng, màu hồng của tôm bông, màu nâu của nem chạo, màu xanh của rau thơm. Đặc biệt, sự trong veo của nước dùng sẽ làm nổi lên những màu sắc hấp dẫn của bát bún.
Hương vị của bún thang rất thanh đạm khác hẳn cái béo ngậy của thịt mỡ hay đồ nếp: Bún thang thường dược dùng sau những ngày Tết ồn ào hay trong những ngày hè cần một món ăn nhẹ nhàng, mát dịu.
Bún thang cùng với phở, bánh tôm…đã trở thành đặc trưng của ẩm thực Hà Nội. Bát bún thang ẩn chứa trong đó sự khéo léo, tinh tế, tỉ mỉ của những “nghệ nhân” ẩm thực đất Hà thành. Và vì thế, bún thang đã “để thương để nhớ” cho tâm hồn bao người con đất Kinh kì cũng như những du khách may mắn trong đời có lần được đến với Thủ đô.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation about a traditional local dish
Suggest
Being a land of thousands of years of civilization, Hanoi has formed its own unique culinary culture. After busy Tet days with fatty meat, banh chung... Hanoians make frugal and no less attractive bun thang meals.
No one knows when bun thang was born. Just know that the image of a bowl of bun thang has long been associated with the image of charming and skillful Hanoi girls chopping six streets.
To make bun thang, you must prepare quite elaborate ingredients: vermicelli, chicken, eggs, shrimp, spring rolls, pork bones, herbs.
The selection and processing of those ingredients is also very delicate. Vermicelli must be thin, white, and not sour. Boiled chicken shredded into small pieces. Select the egg yolks, coat them in thin, dry layers, then roll them up and cut them into small strips. With tender shrimp, we have to soak it for a while, drain it, then pound it. Wash the herbs, chop them finely, and leave them intact with the spring rolls.
Pork bones are the ingredients used to make broth, so we should choose tubular bones, which are both cheap and sweet. We wash the bones, cut each piece in half, boil them briefly and then wash them. Only after washing can bones be cooked to make broth. When cooking, add enough seasoning to taste. At first, turn the heat to high, then after boiling, turn the heat to low so that the bones will brown quickly. See more: Analyzing the character A Phu through the story A Phu and his wife by To Hoai After processing the ingredients, we prepare for the meal. eat. Take a large bowl, put in it one by one: vermicelli, shredded chicken, shredded chicken eggs, cotton shrimp, spring rolls, herbs and then add the broth. We will have a bowl of bun thang with the white color of vermicelli, the ivory white color of chicken, the yellow color of eggs, the pink color of shrimp floss, the brown color of spring rolls, the green color of herbs. In particular, the clarity of the broth will highlight the attractive colors of the vermicelli bowl.
The flavor of bun thang is very frugal, different from the greasiness of fatty meat or sticky rice: Bun thang is often used after noisy Tet days or on summer days when you need a light, cool dish.
Bun thang along with pho, shrimp cakes... has become a characteristic of Hanoi cuisine. The bowl of bun thang contains the ingenuity, sophistication, and meticulousness of the culinary "artisans" of Hanoi. And so, bun thang has been "loved and remembered" for the souls of many Kinh people as well as lucky tourists who once in their lives came to the Capital.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một nhà văn đã được tìm hiểu trong chương trình Ngữ văn 8
Gợi ý
Nhà văn Nam Cao sinh năm 1915, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng (nay thuộc xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam).
Khi còn nhỏ, Nam Cao ở làng và thành phố Nam Định. Từ 1936, bắt đầu viết văn in trên các báọ: Tiểu thuyết thứ bảy, ích hữu… Năm 1938, dạy học tư ở Hà Nội và biết báo. Năm 1941, ông dạy học tư ở Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê, tiếp tục viết văn. Năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc. Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia cướp chính quyền ở phủ Lí Nhân và được cử làm chủ tịch xã. Năm 1946, ông ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hoá cứu quốc và là thư kí toà soạn tạp chí Tiên phong của Hội. Cùng năm đó, ông tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách phóng viên, hoạt động ở Nam Bộ. Sau đó lại trở về nhận công tác ở Ti Văn hoá Nam Hà. Mùa thu 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, làm phóng viên báo Cứu quốc và là thư kí toà soạn báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1950, ông nhận công tác ở tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Uỷ viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương. Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III, bị địch phục kích và hi sinh.
Những sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống của những người tiểu tư sản trí thức nghèo và cuộc sống của người nông dân. Dù viết về đề tài nào thì điều mà Nam Cao quan tâm trước tiên là tình trạng người lao động bị tha hóa biến chất vì bát cơm manh áo.Xem thêm: Giới thiệu về loài hoa của làng quê Việt Nam Ở đề tài tiểu tư sản trí thức nghèo, đáng chú ý nhất là các tác phẩm "Trăng sáng", "Đời thừa", "Mua nhà ", "Truyện tình", "Quên điều độ”, "Nước mắt", "Những truyện không muốn viết",… đặc biệt là tiểu thuyết "Sống mòn" (1944). Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực và cảm động tình trạng nghèo khổ, sống dở, chết dở của người trí thức nghèo. Qua đó, tác giả còn đặc biệt đi sâu vào những tấn bi kịch tâm hồn của họ. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của những tri thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần cao cả, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo, và cuộc sống tàn nhẫn đầy rẫy bất công vô lý đẩy vào cảnh "chết mòn" về tinh thần và sống cuộc "Đời thừa". Phê phán cái xã hội phi nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống và tàn phá tâm hồn con người, Nam Cao đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát tới một cuộc sống đẹp đẽ xứng đáng với con người.
Về đề tài người nông dân: là nhà văn sinh ra và lớn lên nơi chốn bùn lầy nước đọng, Nam Cao hiểu biết khá sâu sắc cuộc sống của những con người thấp cổ bé họng này. Ông đã để lại chừng hai chục truyện ngắn có giá trị về tài nông dân, đáng chú ý là "Lão Hạc", "Chí phèo", "Trẻ con không được ăn thị chó", "Mua danh", "Tư cách mõ", "Một bữa no", "Một đám cưới", "Dì Hảo", "Điếu văn”, “Lang Rận”, “Nửa đêm",… Qua những tác phẩm trên, Nam Cao không chỉ mô tả một cách thấm thía và cảm động những số phận tăm tốì, hẩm hiu, bị ức hiếp, bị tha hoá, lăng nhục mà còn phát hiện và khẳng định phẩm chất lương thiện đẹp đẽ của họ ẩn giấu đằng sau những tầm hồn tưởng như tăm tối và cằn cỗi đó. Chiều sâu mới mẻ của ngòi bút hiện thực và nhân đạo của Nam Cao chính là ở đấy.Xem thêm: Kể một câu chuyện em đã được nghe hay được đọc nói về quan hệ giữa con người với thiên nhiên Cũng như các nhà văn tiểu tư sản khác chưa nắm được chân lý cách mạng, Nam Cao đã không thấy được khả năng đổi đời của người nông dân và triển vọng của xã hội. Song trong truyện ngắn "Điếu văn" (1944), Nam Cao đã viết những dòng dự báo đầy hào hứng "Cuộc đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi!". Đó là lời chào đón chân thành tha thiết tia sáng rạng đông đang báo hiệu ở chân trời lúc bấy giờ.
Sau cách mạng tháng Tám: Nam Cao là một trong số ít nhà văn đã đến với cách mạng ngay từ đầu. Năm 1948, Ông được kết nạp vào Đảng. Ông tham gia Hội văn hoá cứu quốc, tích cực hoạt động cách mạng, kháng chiến, làm Thư ký Tạp chí "Tiền Phong". Nãm 1947 làm thư ký toà soạn báo "Cứu quốc Việt Bẩc". Năm 1950 nhận công tác ở tạp chí "Văn nghệ".
Nam Cao được xem là một trong những cây bút tiêu biểu nhất trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Thời kỳ này, ông viết được nhiều tác phẩm có giá trị như: Nhật ký "Ở rừng" (1948) "Chuyện biên giới" (1950), đặc biệt là truyện ngắn "Đôi mắt" (1948) ra đời giữa lúc giới văn nghệ đang vất vả "nhận đường" là một thành công xuất sắc của văn nghệ kháng chiến lúc đó. Thông qua việc phê phán một nghệ sĩ có "đôi mắt" lệch lạc trong việc nhìn người, nhìn đời, có lối sống trưởng giả, kênh kiệu, nhởn nhơ, lạc lõng giữa cuộc kháng chiến sôi nổi của toàn dân tộc và khẳng định một người nghệ sĩ mới dứt khoát từ bỏ con người cũ, lối sống cũ, và quyết tâm "cách mạng hoá tư tưởng, quần chúng hoá sinh hoạt", trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, "Đôi mắt" xứng đáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của tầng lớp văn nghệ tiểu tư sản đi theo kháng chiến.Xem thêm: Kể về một chuyến du lịch đáng nhớ của em Nam Cao có biệt tài trong việc diễn tả phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động uyển chuyển, tinh tế rất gần với lời ăn, tiếng nói của quần chúng.
Ghi nhận những đóng góp của Nam Cao đối với nền văn học nước nhà, Nhà nước đã tặng thưởng ông giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật (đợt I – năm 1996). Nam Cao xứng đáng là lá cờ đầu của truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation about a writer has been learned in the Literature 8 program
Suggest
Writer Nam Cao was born in 1915, his birth name is Tran Huu Tri, from Dai Hoang village (now Hoa Hau commune, Ly Nhan district, Ha Nam province).
As a child, Nam Cao lived in the village and city of Nam Dinh. From 1936, he started writing for newspapers: Saturday novel, useful... In 1938, he taught privately in Hanoi and learned about journalism. In 1941, he taught privately in Thai Binh. In 1942, he returned to his hometown and continued to write. In 1943, Nam Cao joined the National Salvation Cultural Association. In the August Revolution of 1945, he participated in seizing power in Ly Nhan government and was appointed chairman of the commune. In 1946, he went to Hanoi, worked in the National Salvation Cultural Association and was the editorial secretary of the Association's Pioneer magazine. That same year, he joined the Southern Army as a reporter, operating in the South. After that, he returned to take a job at the Nam Ha Cultural Department. In the fall of 1947, Nam Cao went to Viet Bac to work as a reporter for Cuu Quoc newspaper and as editorial secretary for Viet Bac Cuoc Quoc newspaper. In 1950, he accepted a job at Van Nghe magazine (under the Vietnam Arts Association) and was a member of the Central Arts Subcommittee. In 1951, he joined the agricultural tax delegation in Region III, was ambushed by the enemy and died.
Nam Cao's works before the revolution focused on two main topics: The lives of poor intellectual petty bourgeoisie and the lives of farmers. No matter what topic he writes about, the first thing that Nam Cao cares about is the situation of workers being corrupted and degraded because of poor rice and clothes. See more: Introduction to flowers of Vietnamese villages On the topic of small private poor intellectual property, most notably the works "Bright Moon", "Leftover Life", "Buying a House", "Love Stories", "Forgetting Moderation", "Tears", "Stories You Don't Want to Write" ",... especially the novel "Weary of Life" (1944). In these works, Nam Cao described very realistically and touchingly the poverty, half-life, and half-death of poor intellectuals. Through that, the author also delves deeply into the tragedies of their souls. It is the persistent, silent and painful tragedy of those with a deep sense of the value of life and dignity. , has great ambitions for a noble spiritual career, but is forced by the burden of food and clothing, and a cruel life full of unjust injustice, to a state of spiritual "death" and living a "redundant life". Criticizing the inhumane society that suffocates life and destroys human souls, Nam Cao also expresses the desire for a beautiful life worthy of humans.
Regarding the topic of farmers: as a writer born and raised in a muddy and stagnant place, Nam Cao has a deep understanding of the lives of these small-minded people. He left behind about twenty valuable short stories about the talents of farmers, notably "Lao Hac", "Chi Pheo", "Children must not eat dog meat", "Buying fame", "The status of a fisherman". ", "A full meal", "A wedding", "Auntie Hao", "Eulogy", "Lang Ran", "Midnight",... Through the above works, Nam Cao not only describes in a profound way feel and touch the fates of darkness, darkness, oppression, alienation, and humiliation, but also discover and affirm their beautiful and honest qualities hidden behind seemingly dark and gloomy souls. that barren. The new depth of Nam Cao's realistic and humane writing is right there. See more: Tell a story you have heard or read about the relationship between humans and nature. Just like other novel writers. Other bourgeois have not grasped the truth of revolution, Nam Cao has not seen the ability of farmers to change their lives and the prospects of society. But in the short story "Eulogy" (1944), Nam Cao wrote exciting lines of prediction: "Life cannot stay dark like this forever. The future must be brighter. A dawn has already announced! ". It was a sincere and earnest welcome to the dawn light that was signaling on the horizon at that time.
After the August Revolution: Nam Cao is one of the few writers who came to the revolution from the beginning. In 1948, he was admitted to the Party. He joined the Cultural Association for National Salvation, actively participated in revolutionary and resistance activities, and worked as Secretary of "Tien Phong" Magazine. In 1947, he became the editor-in-chief of the newspaper "Viet Bac National Salvation". In 1950, he accepted a job at "Van Arts" magazine.
Nam Cao is considered one of the most outstanding writers in the early years of the resistance war against the French. During this period, he wrote many valuable works such as: Diary "In the Forest" (1948) "Border Story" (1950), especially the short story "The Eyes" (1948) was born in the midst of the The struggling art "receiving the way" was an outstanding success of the resistance art at that time. Through criticizing an artist whose "eyes" are distorted in looking at people, looking at life, having a bourgeois, arrogant, carefree, and out-of-place lifestyle in the midst of the vibrant resistance of the entire nation and affirming A new artist decisively abandons his old self and old lifestyle, and is determined to "revolutionize thought and popularize life", becoming a soldier on the cultural front, "Eyes" worthy of worthy of being an artistic statement of the petty bourgeoisie artistic class following the resistance. See more: Telling about a memorable trip of Nam Cao has a special talent in describing and analyzing human psychology. Nam Cao's language is lively, flexible, and delicate, very close to the words and voices of the masses.
Recognizing Nam Cao's contributions to the country's literature, the State awarded him the Ho Chi Minh Prize for literature and art (phase I - 1996). Nam Cao deserves to be the flagship of Vietnamese short stories in the early twentieth century.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một nhà văn địa phương
Gợi ý
Đông Anh, một vùng đất ngoại thành Hà Nội quê em là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Nơi đây đã sản sinh cho đất nước nhiều văn sĩ có tài. Nhà văn Ngô Tất Tố cũng là một người con ưu tú của vùng quê địa linh nhân kiệt này.
Ngô Tất Tố sinh năm 1894 ở xã Mai Lâm, xưa kia là làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh. Từ nhỏ, ông đã theo học chữ Nho. Năm Nhâm Tý 1912, ông bắt đầu dự thi. Đến năm Ất Mão 1915 ông đỗ đầu kì sát hạch, nên được gọi là đầu xứ Tố. Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm báo rồi cùng với Tản Đà vào Sài Gòn. Sau gần ba năm ở Sài Gòn không thành công, Ngô Tất Tố trở ra Hà Nội vẫn với hai bàn tay trắng.
Từ đó đến trước Cách mạng tháng Tám, ông từng làm nhiều nghề: dạy học, bốc thuốc, làm báo, viết văn,… ông viết bài cho các báo: Phổ thông, Tương lai, Công dân, Đông Pháp, Thời vụ, Hà Nội tân văn… với nhiều bút danh khác nhau như: Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhơn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Hy Cừ…
Trong cách mạng tháng Tám, ông tham gia Uỷ ban giải phóng xã Lộc Hà. Năm 1946 gia nhập Hội văn hoá Cứu quốc và lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, ông từng là Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Việt Nam, hoạt động ở sở thông tin khu XII, tham gia viết báo Cứu quôc khu VII, Thông tin khu VII, tạp chí Văn nghệ,… và viết văn. Ông đã là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam (Trong Đại hội Văn nghệ lần thứ nhất – 1948).Xem thêm: Kể lại câu chuyện “Cây tre trăm đốt” Ngô Tất Tố có viết nhiều công trình nghiên cứu như: Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim (1938), Mặc Tử (1942), Kinh dịch (1944)… trong đó ông phê phán những tư tưởng tiêu cực của Nho học. Những tác phẩm đã xuất bản của ông đa dạng ở nhiều thể lỏại: Ngô Việt xuân thu (dịch, 1929); Hoàng Hoa Cương (dịch, 1929); Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (truyện kí lịch sử, 1935); Đề Thám (truyện kí lịch sử, viết chung, 1935); Tắt đèn (tiểu thuyết, báo Việt Nữ, 1939; Mai Lĩnh xuất bản, 1940); Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết, 1940; đăng báo Thời vụ, 1941; Mai Lĩnh xuất bản, 1952); Thơ và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940); Đường Thi (sưu tầm, chọn và dịch, 1940); Việc làng (phóng sự, báo Hà Nội tân văn, 1940; Mai Lĩnh xuất bản, 1941); Thi văn bình chú (tuyển chọn, giới thiệu, 1941); Văn học đời Lí (tập I) và Văn học đời Trần (tập II, trong bộ Việt Nam văn học – nghiên cứu, giới thiệu, 1942); Lão Tử (soạn chung, 1942); Mặc Tử (biên soạn, 1942); Hoàng Lê nhất thống chí (dịch, tiểu thuyết lịch sử, 1942; báo Đông Pháp, 1956); Kinh dịch (chú giải, 1953); Suối thép (địch, tiểu thuyết, 1946); Trước lửa chiến đấu (dịch, truyện vừa, 1946); Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946); Duyên máu (dịch, truyện ngắn, 1946); Doãn Thanh Xuân (dịch, truyện ngắn, 1946, 1954); Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (chèo, 1951).Xem thêm: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi…… Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Hai sáng tác nổi tiếng của Ngô Tất Tố là "Lều chõng" và "Tắt đèn".
Trong cuốn tiểu thuyết Lều chõng, ông mô tả cảnh thi cử dưới chế độ xã hội phong kiến xưa, nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng.
Tắt đèn là tác phẩm thành công nhất của Ngô Tất Tố, trong đó ông nêu lên cảnh cơ khổ cùng cực của tầng lớp nông dân Việt Nam dưới sự bóc lột cay nghiệt của giới địa chủ. Tác phẩm phản ánh không khí ngột ngạt, căng thẳng của một làng quê trong những ngày sưu thuế. Gia đình chị Dậu thuộc loại "cùng đinh" nhất nhì trong làng, không có tiền đóng sưu cho chồng và người em chồng đã mất (!). Chị cay đắng bán con, bán chó lấy tiền đóng sưu nhưng vẫn không đủ. Anh Dậu bị bắt giam lại, đường cùng, chị chống trả sự bắt bớ của chính quyền một cách quyết liệt. Vì vậy, chị bị bắt giải lên huyện. Tên tri phủ Tư Ân dùng tiền để lợi dụng chị nhưng chị kiên quyết chống lại. Để có tiền nộp sưu cho chồng, chị phải đi ở vú, bị tên quan phủ già định giở trò bỉ ổi, chị đã vùng chạy ra sân, giữa lúc trời tối đen như mực.
Ghi nhận những đóng góp của Ngô Tất Tố, Hội văn nghệ Việt Nam và Nhà nước đã dành tặng nhà văn những giải thưởng cao quý. Đó hai giải thưởng trong giải thưởng văn nghệ 1949 – 1952 của Hội văn nghệ Việt Nam: giải ba dịch (Trời hửng, Trước lửa chiến đấu) và giải khuyến khích (vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phách). Sau khi qua đời, ông đã được Hội đồng Nhà nước quyết định truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 1996.Xem thêm: Em hãy kể một câu chuyện theo đề tài tự chọnVanmau.edu.vn
|
Narration of a local writer
Suggest
Dong Anh, a suburb of Hanoi, my hometown, is a land rich in historical and cultural traditions. This place has produced many talented writers for the country. Writer Ngo Tat To is also an outstanding son of this talented and spiritual hometown.
Ngo Tat To was born in 1894 in Mai Lam commune, formerly Loc Ha village, General Assembly Phu, Tu Son district, Bac Ninh. From a young age, he studied Confucianism. In the year of the Rat, 1912, he began taking exams. In the year At Mao, 1915, he passed the exam first, so he was called the first in To. In 1926, Ngo Tat To went to Hanoi to work as a journalist and then together with Tan Da went to Saigon. After nearly three unsuccessful years in Saigon, Ngo Tat To returned to Hanoi still with empty hands.
From then until before the August Revolution, he worked in many jobs: teaching, making medicine, journalism, writing,... he wrote articles for newspapers: Popular, Future, Citizen, Dong Phap, Time, Hanoi's new literature... with many different pen names such as: Thuc Dieu, Loc Ha, Loc Dinh, Thon Dan, Pho Chi, Tue Nhon, Thuyet Hai, Xuan Trao, Hy Cu...
During the August Revolution, he joined the Committee for the Liberation of Loc Ha Commune. In 1946, he joined the National Salvation Cultural Association and went to the Viet Bac war zone to participate in the resistance war against the French. He was the head of the Vietnam Arts Association, worked at the information department of Region XII, and participated in writing the National Salvation newspaper. Area VII, Area VII Information, Arts magazine,... and writing. He was a member of the Executive Committee of the Vietnam Arts Association (During the first Congress of Arts - 1948). See more: Retelling the story of "Hundred knot bamboo" Ngo Tat To wrote many research works such as : Critique of Confucianism by Tran Trong Kim (1938), Mac Tu (1942), I Ching (1944)... in which he criticized the negative ideas of Confucianism. His published works are diverse in many genres: Ngo Viet Spring and Autumn (translated, 1929); Hoang Hoa Cuong (translated, 1929); King Ham Nghi with the fall of the capital (historical story, 1935); De Tham (historical story, written jointly, 1935); Turn off the lights (novel, Viet Nu newspaper, 1939; published by Mai Linh, 1940); Ten Chong (novel reportage, 1940; published in Times newspaper, 1941; published by Mai Linh, 1952); Poetry and love (Chinese poetry translation, 1940); Duong Thi (collected, selected and translated, 1940); Village affairs (reportage, Hanoi Tan Van newspaper, 1940; published by Mai Linh, 1941); Poetry commentary (selection, introduction, 1941); Literature of the Ly Dynasty (volume I) and Literature of the Tran Dynasty (volume II, in the series Vietnamese literature - research and introduction, 1942); Lao Tzu (compilation, 1942); Mac Tu (ed., 1942); Hoang Le Nhat Thong Chi (translated, historical novel, 1942; Dong Phap newspaper, 1956); I Ching (commentary, 1953); Steel Stream (Dich, novel, 1946); Before the fire of battle (translated, medium story, 1946); Dawn (translated, short story, 1946); Bloody Fate (translated, short story, 1946); Doan Thanh Xuan (translated, short story, 1946, 1954); Female soldier Bui Thi Phac (cheo, 1951). See more: When I grow up, the Country already exists... I also know how to bow my head and remember the death anniversary of my Patriarch.
Two famous compositions by Ngo Tat To are "The Tent" and "Turn off the lights".
In the novel Tent Chuong, he describes the exam scene under the ancient feudal social regime, highlighting the spiritual collapse of Confucian scholars who used academic examinations as a way to advance their careers all their lives but were completely disappointed. .
Turn Off the Lights is Ngo Tat To's most successful work, in which he highlights the extreme misery of the Vietnamese peasantry under the harsh exploitation of the landlords. The work reflects the stuffy, tense atmosphere of a village during tax collection days. Ms. Dau's family is the second most "same-minded" in the village, with no money to pay for her husband and his deceased brother-in-law (!). She bitterly sold her children and dogs to get money to pay for her collection, but it was still not enough. Mr. Dau was arrested and detained. At last resort, she fiercely resisted the government's arrest. Therefore, she was arrested and taken to the district. The governor, Tu An, used money to take advantage of her, but she resolutely resisted. In order to have money to pay taxes to her husband, she had to work as a nanny. When the old mandarin tried to play a despicable trick, she ran out into the yard in the middle of pitch darkness.
Recognizing Ngo Tat To's contributions, the Vietnam Arts Association and the State awarded the writer noble awards. Those were two awards in the 1949 - 1952 arts awards of the Vietnam Arts Association: third prize (The sky is bright, Before the fire of battle) and consolation prize (cheo play Female Soldier Bui Thi Phach). After his death, the State Council decided to posthumously award him the Ho Chi Minh Prize for literature and arts, the first phase in 1996. See more: Please tell a story based on a topic of your choice Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một thể loại văn học (Phú)
Gợi ý
Phú lá thể loại văn học tiếp thu của văn học Trung Quốc từ đời Trần và được vận dụng liên tục qua các đời Lê, Mạc, Lê, Nguyễn cho đến thời cận đại.
Đây là thể tài xuất hiện tương đối muộn mà sớm thành công. Phú là một thể văn vần, có cấu trúc về câu rất phức tạp (câu, vế ngắn, dài), lại có lối diễn đạt giống lối diễn đạt của văn xuôi. Nói khác đi, phú là một thể văn vần lai văn xuôi. Nguyên thể phú đã có từ lâu trong văn chương Trung Quốc. Đời Đường, thế kỷ 7, 8, 9, đã có nhiều tác giả nổi danh, đặc biệt là Tô Đông Pha với Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú.
Những bài phú của Việt Nam có vần, có đối, câu ngắn, câu dài làm theo thể văn biền ngẫu. Phú làm theo kiểu thơ Li tao, có đệm chữ “Hề” (chừ) ỗ giữa câu. Ví dụ: “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương, chiều lần thăm" chừ Vũ Huyệt” (Bạch Đằng giang phú). Phú biền ngẫu sử dụng câu văn tứ lục chỉnh tề, đối nhau từng đôi một. Ví dụ:
“Ba góc bờ tre vẳng vẳng, huyệt kim quy chênh hẻm đá gang ghềnh
Một chòm bãi cỏ phơi phơi, hang anh vũ thấu lòng sông huếch hoác”
(Ngã ba Hạc phú)
Phú luật thì hạn vần, trong bài phú mỗi đoạn làm theo một vần nhất định đã ra trong đề bài, dùng để đi thi.Xem thêm: Phân tích nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân – văn 12 Phú văn xuôi tuy sử dụng hình thức văn xuôi nhưng vẫn có câu tứ lục.
Về nội dung, phú ban đầu thuộc loại hình tụng ca, được sáng tác để ca ngợi sự nghiệp đế vượng, thiên nhiên, phong cảnh. Phú là thể loại văn học dùng để miêu tả, phô diễn, trình bày, giãi bày tất cả cảnh vật, tâm trạng của con người. Một sáng tác viết theo thể phú có khả năng miêu tả tường tận, bao quát chính xác các sự vật. Thể phú thường dùng để nói những cái tươi tốt, đẹp đẽ. Đề tài trong thể phú rất đa dạng, thịnh hành ở nhà Hán. Theo nhà mĩ học Trung Quốc Lí Trạch Hậu, ở Trung Quôc đề tài của phú là sơn thuỷ, cây rừng, chim thú, thành thị, cung khuyết, mĩ nữ, y phục bách nghệ. Ớ Việt Nam, Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi ngợi ca hoa sen giếng ngọc; Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu ngợi ca sự nghiệp giữ nước anh hùng; Chí Linh sơn phú của Nguyễn Trãi ca ngợi sự nghiệp của Lê Lợi; Phụng thành xuân sắc phú của Nguyễn Giản Thanh ca ngợi cuộc sông thịnh vượng. Phú của nguyễn Công Trư, Cao Bá Quát biểu hiện chí khí con người,…
Về hình tượng, phú cổ thường dùng hai nhân vật “khách – chủ” vần đáp, hoặc dùng hình tượng ẩn dụ, lấy cái này để nói cái kia. Ví dụ bài Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi lấy việc ca ngợi hoa sen giếng ngọc để tự khẳng định giá trị của mình trước nhà vua. Bài Phú con ngựa lá của Nguyễn Phi Khanh và Đoàn Xuân Lôi dùng hình ảnh con ngựa lá để ca ngợi sự nghiệp của nhà vua. Hình tượng xa xưa của phú ở Trung Quốc thường mang tính chất “ẩn ngữ”, tức là bóng giá, mượn cái này để nói cái kia. Nhưng từ Bạch Đằng giang phú, Ngã ba Hạc phú, Hàn nho phong vị phú, Tấi tử đa cùng phú,… thì phú còn mang tính chất miêu tả trực tiếp sự vật, đôi tượng thực tế.Xem thêm: Phân tích bài thơ Sóng của tác giả Xuân Quỳnh Về thủ pháp nghệ thuật, nét đặc trưng của phú là miêu tả sự vật rất nhiều chi tiết, nhìn sự vật từ nhiều góc độ. Bài phú đem lại một sự nhìn ngắm đối tượng rất gần và ngồn ngộn chi tiết. Ví dụ cảnh nghèo trong “Hàn nho phong vị phú”:
Kìa ai, bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ
Đầu kèo mọt toạc vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng
ống nứa đựng đầu kề đầu đỗ
Đầu giường tre mối giũi quanh co
Góc tường đất giun đùn lố nhố
Bóng nắng rọi trứng gà bèn vách, thằng bé tri trô
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó
Trọng cũi lợn nămg gặm máng, đói chẳng muốn kêu
Đầu gian chuột chạy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Một thủ pháp cũng tiêu biểu không kém, đó là sự cường điệu, phóng đại trong đánh giá. Ví dụ cách khen và khoe hoa sen trong giếng ngọc đồng thời chê các thứ hao khác của Mạc Đĩnh Chi:
Ta có giống lạ trong ống áo này
Chẳng phải như đào trần, lí tục, chẳng phải như trúc lánh mai gầy
Câu kỉ phòng tăng khó sánh
Mẫu đơn đất Lạp nào bì;
Giậu Đào lệnh cúc đâu ví được, vườn Linh quân lan sá kể gì!
Ấy giống sen giếng Ngọc trên đỉnh núi Thái Hoa đây.
Phú có nghĩa là phô bày. Với các đặc điểm phô, khen, khoe, giàu chi tiết, nhưng lại có ẩn ý kết hợp với lối văn Li tao, vàn biền ngẫu làm cho phú đọc rất thú vị. Phú là thể loại có nhiều gò bó. Nó đòi hỏi sự tài hoa trong cảm nhận, sự giàu có về từ ngữ mới tránh được sự trùng lặp, gò gẫm và đạt được cái hay tự nhiên.Xem thêm: “Hiền... thấp” (Thân Nhân Trung). Từ ý kiến trên, hãy trình bày ý kiến của anh (chị) về việc rèn luyện tài đức và trách nhiệm với quốc gia của mỗi con người. (Yêu cẩu lập dàn bài) Phú có hai loại: cổ thể và cận thể. Phú cận thể thì quy tắc chặt chẽ, nghiêm ngặt. Phú cổ thể thì phóng khoáng hơn, thể hiện sự sáng tạo của người viết.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation of a literary genre (Phú)
Suggest
Phu La literary genre was absorbed from Chinese literature from the Tran dynasty and continuously applied through the Le, Mac, Le, Nguyen dynasties until modern times.
This is a talent that appeared relatively late but succeeded early. Phu is a form of rhyme, with a very complex sentence structure (short and long sentences, clauses), and an expression similar to that of prose. In other words, phu is a form of hybrid prose and rhyme. The infinitive of fu has existed for a long time in Chinese literature. The Tang Dynasty, 7th, 8th, and 9th centuries, had many famous authors, especially To Dongpo with Former Xich Bich Phu and Later Xich Bich Phu.
Vietnamese poems have rhymes, couplets, short sentences, and long sentences in a parallel style. Phu followed the style of Li tao poetry, with the word "He" (chu) in the middle of the sentence. For example: "Early knock on the boat at Nguyen Tuong, in the afternoon visit" Vu Huyet" (Bach Dang Giang Phu). Phu bien uses neat four-six sentences, opposite each other. For example:
“The three corners of the bamboo bank are echoing, the golden acupuncture point is located in a rugged rocky alley
A cluster of drying grass, Anh Vu cave penetrates the riverbed.
(Hac Phu Junction)
Phu Luat has limited rhyme. In Phu Luat, each paragraph follows a certain rhyme given in the question paper, used for exams. See more: Analysis of the unique features of the artistic style in the work Song Da Boatman by Nguyen Tuan - prose 12 Although Phu prose uses prose form, it still has four-six sentences.
In terms of content, Phu was originally a type of chant, composed to praise the imperial cause of prosperity, nature, and landscape. Phu is a literary genre used to describe, display, present, and express all scenes and human moods. A composition written in the poetic form has the ability to describe thoroughly and accurately cover things. The rich form is often used to say things are lush and beautiful. The themes in the poem are very diverse and popular in the Han Dynasty. According to Chinese aesthetician Ly Trach Hau, in China, the subjects of wealth are mountains and water, trees and forests, birds and animals, cities, palaces, beautiful women, and multi-technique clothes. In Vietnam, Mac Dinh Chi's Jade Province Lien Phu praised the jade well lotus; Bach Dang Giang Phu by Truong Han Sieu praises the heroic cause of defending the country; Nguyen Trai's Chi Linh Son Phu praised Le Loi's career; Nguyen Gian Thanh's Feng Shui, Spring and Riches, praises a prosperous life. The fortunes of Nguyen Cong Tru and Cao Ba Quat represent human character,...
Regarding images, ancient riches often used two characters "guest - host" to rhyme, or used metaphorical images, using one to say the other. For example, Mac Dinh Chi's poem Ngoc Tinh Lien Phu uses praising the lotus flower of the jade well to assert his own value before the king. The article Phu the leaf horse by Nguyen Phi Khanh and Doan Xuan Loi uses the image of the leaf horse to praise the king's career. The ancient image of the rich in China often has a "hidden" nature, that is, a shadow, borrowing one thing to say another. But from Bach Dang Giang Phu, Hac Phu Junction, Han Nho Phong Vi Phu, Tu Tu Da and Phu,... Phu also has the nature of directly describing things, realistic objects. See more: Analysis of the poem Wave by author Xuan Quynh Regarding artistic methods, Phu's characteristic is to describe things in a lot of detail, looking at things from many angles. The article provides a very close look at the subject and is full of details. An example of the poverty scene in "Korean grapes are rich in flavor":
Look, four brick walls, three grass houses
The top of the rafters is painted with stars, and in front of the door spiders spread a wind screen
Bamboo panels separate half the kitchen and half the room
bamboo tube containing beans end to end
The headboard of the bamboo bed has crooked knots
The corner of the wall is full of dirt and worms
The sunlight shined on the eggs, and the boy noticed
Raindrops illuminate the mouse hole in the house, the cat peeks in
In the cage, the pigs gnawed at the trough, hungry and did not want to cry
At first, the mouse ran around swinging the pot, but when he was sad, he left.
An equally typical tactic is exaggeration and exaggeration in evaluation. For example, Mac Dinh Chi's way of praising and showing off the lotus in the jade well while criticizing other things:
I have a strange seed in this sleeve
It's not like a bare peach, it's vulgar, it's not like a thin bamboo with apricot blossoms
The monk's room is hard to compare
Lap land peony form;
The Peach Hedge of the Chrysanthemum is not like that, the Linh Quan orchid garden is nothing!
It is like the Ngoc Well lotus on the top of Thai Hoa mountain.
Phu means to display. With the characteristics of showing off, praising, showing off, rich in details, but with hidden meanings combined with Li tao writing style, many anecdotes make it very interesting to read. Phu is a genre with many constraints. It requires talent in perception and richness in words to avoid repetition and confusion and achieve natural beauty. See also: "Hien... low" (Than Nhan Trung). From the above opinion, please present your opinion about each person's practice of virtue and responsibility to the country. (Requires the dog to make an outline) There are two types of Phu: ancient and near. Phu close body has strict and strict rules. The Phu Co style is more liberal, expressing the writer's creativity.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một thể loại văn học (Trường ca)
Gợi ý
Những bản trường ca vĩ đại trên thế giới đều đánh dấu những giai đoạn lớn, những bước ngoặt của lịch sử. Trường ca I-li-át hơn một vạn rưỡi câu, trường ca Ô-đi- xê hơn một vạn câu của Hô-me-rơ phản ánh thời cổ đại anh hùng của Hy Lạp. Trường ca Rèm-kề của Cam-pu-chia dài hơn một vạn câu đánh giá thời đại rực rỡ nhất của dân tộc Cam-pu-chia. Bộ sử thi của Ấn Độ cũng dài như một bộ kinh tôn giáo… Đó là những bản trường ca bất hủ thuộc về của cải chung của nhân loại.
Trường ca Đăm Săn, Xinh Nhã của Tây Nguyên cũng thuộc vào loại có cỡ trên thế giới.
Trong những năm dài khi dân tộc ta còn bị nô lệ, trường ca hầu như bị phai mờ trong các thể loại văn học. Thỉnh thoảng người ta nhắc đến trường ca như một cái tên chung tượng trưng cho các quyển sảch hay, những tập thơ hay. Trường ca trong nhiều năm không được ai nhắc đến. Năm 1932, cuộc tranh luận về thơ mới thơ cũ nổ ra trên văn đàn một cách sôi nổi, người ta phân rạch ròi ra các khuynh hướng thi ca nhưng cũng chẳng ai nói đến trường ca, may ra có nhắc đến bài Tiếng địch sông Ô của nhà thơ trẻ lúc bấy giờ là Phạm Huy Thông xem đó nhừ một anh hùng ca nhưng cũng diễn giải bằng tích của Tàu.
Trường ca bị quên lãng và bị gán ghép vào những bài thơ dài, thơ truyện và bị đánh mất chân dung của mình. Năm tháng trôi qua, trường ca có lúc thấp thoáng trong những áng văn thơ của một vài tác giả rồi chìm nghỉm như một người con gái hết nhan sắc không được ai nhắc đến.
Cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ đầy hi sinh của dân tộc ta trong ba mươi lăm năm qua đã nảy sinh bao nhiêu bản trường ca. Bản thân những bản trường ca đó lấy ra từ trong máu lửa tro than, từ những cuộc hành quân suốt từ Bắc chí Nam, làm mòn cả đá của những đỉnh Trường Sơn, từ khát vọng cháy bỏng: Không có gì quý hơn độc lập, tự do!Xem thêm: Tuân Tử (313 - 253 trước Công Nguyên) nói: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. Em nghĩ gì về câu nói trên Nhất định phải có những bản trường ca hùng tráng tương xứng để ca ngợi cuộc chiến đấu đầy khí phách anh hùng, ca ngợi công cuộc lao động đầy sáng tạo và không biết mệt mỏi của nhân dân ta. Tất nhiên các thể loại văn học khác cũng có nhiệm vụ đó, nhưng trường ca với đặc trưng của nó có nhiều khả năng trong việc này. Và như không hẹn mà gặp, trường ca đã có mặt những nơi đầu sóng ngọn gió. Đội quân tinh nhuệ này ra đời thật đúng lúc, nó sẽ trở thành đội ngũ hùng hậu tự khẳng định mình, tự mình cắt nghĩa mình, định hình trong đời sống văn học ba mươi lăm nắm tuy chưa dài nhưng trường ca có thể làm một cuộc duyệt binh nho nhỏ trước quãng trường văn học Việt Nam: Lửa sáng rừng của Thái Giang, Bài ca Hắc Hải của Nguyễn Đình Thi, Bài ca chim chơ rao, Ba-dan khát và Cam-pu-chia hy vọng của Thu Bồn, Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Kể chuyện ăn cơm giữa sân của Nguyễn Khắc Phục, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh… Trường ca có khả năng đặc biệt đi vào hiện thực.
Trong thơ trữ tình, khuynh hướng hiện thực cũng được phản ánh, nhưng tính lãng mạn hầu như bao trùm và có những lúc bị quằn lại trước những hiện thực dữ dội. Thơ trữ tình thường né tránh những đề tài quá ư phức tạp trong đời sống và nếu có thể hiện thì phần nhiều sử dụng phương pháp lãng mạn. Trường ca có thể xông vào hiện thực cuộc sống với tất cả sức mạnh của nó, giống như một người công binh đào hầm lại có đủ cả xẻng cuôc, khoan máy, thuốc nổ… Trường ca dám xông vào những chỗ hắc búa, những vỉa đá ngầm của. cuộc sống. Tuy vậy, trường ca chứ không phải tiểu thuyết, trong khuôn khổ đặc trưng của nó, cũng phải kiêng nể một đôi chỗ…
Trường ca có đủ khả năng hiện thực và trữ tình nên sức công phá và độ bền của nó rất lớn. Do sự yêu cầu nghiêm ngặt về bố cục, tính tư tưởng và sự đa dạng của nó nên trường ca là một kiến trúc hoàn hảo có một sức mạnh nương tựa vào nhau, làm tôn thêm vẻ đẹp và sức mạnh cho nhau. Những ngôn ngữ và ‘hình ảnh khi bước vào ngưỡng cửa của trường ca thực sự được chuyển hoá và nâng mình lên một bước, tự bản thân chúng tạo nên cho chúng những vẻ riêng rất là trường ca. Trường ca đã hình thành một bộ môn văn học, lừng lững đi vào đời sống, khác với những ngày tên gọi của nó chỉ thấp thoáng một cái bóng mơ hồ không có bộ mặt và hình dáng.Xem thêm: Kể tóm tắt Truyện An Dương vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ Trường ca là một thể loại thơ dài nhằm thể hiện một chủ đề tư tưởng thông qua hình tượng thơ ca, sử dụng ngôn ngữ, ngôn ngữ, âm điệu, bố cục… một cách điêu luyện và tinh xảo nhất của toàn bộ nghệ thuật thơ ca. Nó động viên nhiều.phương pháp, vốn sông, xúc cảm, lao động trí tuệ nhằm ca ngợi con người, tình yêu, chiến đấu, lao động sáng tạo và thiên nhiên…
Do tính chất của nó như vậy, cho nên hình thức của nó rất phong phú và đa dạng. Phong phú đến nỗi ta lười nhác không muốn định nghĩa nó là cái gì nữa. Đã thế, nó lại đương phát triển nhanh chóng.
Hiện nay trường ca giống như cô gái đẹp, tuỳ theo sự chiêm ngưỡng của người này người khác mà trang điểm thêm cho nó những phần mà mình ưa thích. Tuy nhiên, nó cũng có những qui luật khắt khe của nó. Ngay hiện nay có những bài diễn ca đã được ghi lại bên cạnh chữ to tướng là trường ca nhưng quần chúng không công nhận đó là trường ca, dù bài diễn ca đó hay và tác dụng đến mấy đi nữa. Bừng nên vì cái hay của thể ĩoại này lại chuyển thể nó qua một thể loại khác.
Trường ca khác hẳn với thơ truyện và diễn ca. Có thể vì tạm trường ca là một toà lâu đài, thơ truyện là một toà nhà, diễn ca là một dãy trại lán. Do yêu cầu nghiêm túc của thiết kế mà đẻ ra hình thức này chứ tuyệt đối không phải trọng cái nào, khinh cái nào, vì cái nào sinh ra cũng do yêu cầu của nó.Xem thêm: Viết bài giới thiệu về Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc Gỗ, đá, gạch có thể làm nhà, làm lâu đài, cũng như ngôn ngữ có thể làm diễn ca, làm thơ truyện, làm trường ca. Nhưng gỗ làm toà lâu đài cũng khác gỗ làm lán trại; cũng như ngôn ngữ trường ca khác ngôn ngữ diễn ca. Sự khác nhau đó là do tính tất yếu củạ nội dung.công trình khắt khe đòi hỏi chứ không phải ý muốn một ai. Vì vậy, khi những ngôn ngữ nhân vật bố cục bước vào công trình của trường ca chúng phải kiểm nghiệm mình và nâng mình lên một bước để xứng đáng phù hợp với công trình mà nó đảm nhiệm. Trường ca là một toà lầu đài của thơ ca, là một kiến trúc tổng hợp của thơ ca.
Cũng như các bộ môn văn học khác, trong thơ, nhà thơ phải có thường trực ba con người: một kiến trúc sư thiết kế ra công trình, một người thợ lành nghề để thể hiện công trình đó, một người lao động tận tụy khai thác nguyền vật liệu dồi dào trong đời sống. Có khi nhà kiến trúc sư đi trước, có khi người lao động đi trước, do những nguyên vật liệu đã có đó kêu gọi công trình. Nói chung nguyên vật liệu, vốn sống trong văn học là một thứ nguyên vật liệu đặc biệt. Nó có thể nhao nhao lên đòi kết hợp để biến thành những công trình, nhưng cũng có thể tự nó biến mất đi hoặc nằm ngổn ngang ra đó biến thành những chướng ngại vật, cản trở và có khi vùi lấp nhà thơ. Tất cả cái đó đều do cuộc sông và trình độ của nhà thơ quyết định.
Trong nghệ thuật đều có những bước giông nhau nhưng trong thể loại trường ca cũng có những cái riêng của nó, tin chắc rằng sắp đến mọi người sẽ cùng nhau tìm ra những đặc trưng riêng biệt của nó. Có thể ví thêm mỗi bài thơ như một trận đánh, trường ca lại là một chiến dịch. Nó có đầy đủ những tính chất của các trận đánh, chính vì thế nó khác hẳn một trận đánh, nó có những yêu cầu cao hơn một trận đánh.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một thể loại văn học (Trường ca)
Gợi ý
Những bản trường ca vĩ đại trên thế giới đều đánh dấu những giai đoạn lớn, những bước ngoặt của lịch sử. Trường ca I-li-át hơn một vạn rưỡi câu, trường ca Ô-đi- xê hơn một vạn câu của Hô-me-rơ phản ánh thời cổ đại anh hùng của Hy Lạp. Trường ca Rèm-kề của Cam-pu-chia dài hơn một vạn câu đánh giá thời đại rực rỡ nhất của dân tộc Cam-pu-chia. Bộ sử thi của Ấn Độ cũng dài như một bộ kinh tôn giáo… Đó là những bản trường ca bất hủ thuộc về của cải chung của nhân loại.
Trường ca Đăm Săn, Xinh Nhã của Tây Nguyên cũng thuộc vào loại có cỡ trên thế giới.
Trong những năm dài khi dân tộc ta còn bị nô lệ, trường ca hầu như bị phai mờ trong các thể loại văn học. Thỉnh thoảng người ta nhắc đến trường ca như một cái tên chung tượng trưng cho các quyển sảch hay, những tập thơ hay. Trường ca trong nhiều năm không được ai nhắc đến. Năm 1932, cuộc tranh luận về thơ mới thơ cũ nổ ra trên văn đàn một cách sôi nổi, người ta phân rạch ròi ra các khuynh hướng thi ca nhưng cũng chẳng ai nói đến trường ca, may ra có nhắc đến bài Tiếng địch sông Ô của nhà thơ trẻ lúc bấy giờ là Phạm Huy Thông xem đó nhừ một anh hùng ca nhưng cũng diễn giải bằng tích của Tàu.
Trường ca bị quên lãng và bị gán ghép vào những bài thơ dài, thơ truyện và bị đánh mất chân dung của mình. Năm tháng trôi qua, trường ca có lúc thấp thoáng trong những áng văn thơ của một vài tác giả rồi chìm nghỉm như một người con gái hết nhan sắc không được ai nhắc đến.
Cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ đầy hi sinh của dân tộc ta trong ba mươi lăm năm qua đã nảy sinh bao nhiêu bản trường ca. Bản thân những bản trường ca đó lấy ra từ trong máu lửa tro than, từ những cuộc hành quân suốt từ Bắc chí Nam, làm mòn cả đá của những đỉnh Trường Sơn, từ khát vọng cháy bỏng: Không có gì quý hơn độc lập, tự do!Xem thêm: Tuân Tử (313 - 253 trước Công Nguyên) nói: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. Em nghĩ gì về câu nói trên Nhất định phải có những bản trường ca hùng tráng tương xứng để ca ngợi cuộc chiến đấu đầy khí phách anh hùng, ca ngợi công cuộc lao động đầy sáng tạo và không biết mệt mỏi của nhân dân ta. Tất nhiên các thể loại văn học khác cũng có nhiệm vụ đó, nhưng trường ca với đặc trưng của nó có nhiều khả năng trong việc này. Và như không hẹn mà gặp, trường ca đã có mặt những nơi đầu sóng ngọn gió. Đội quân tinh nhuệ này ra đời thật đúng lúc, nó sẽ trở thành đội ngũ hùng hậu tự khẳng định mình, tự mình cắt nghĩa mình, định hình trong đời sống văn học ba mươi lăm nắm tuy chưa dài nhưng trường ca có thể làm một cuộc duyệt binh nho nhỏ trước quãng trường văn học Việt Nam: Lửa sáng rừng của Thái Giang, Bài ca Hắc Hải của Nguyễn Đình Thi, Bài ca chim chơ rao, Ba-dan khát và Cam-pu-chia hy vọng của Thu Bồn, Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Kể chuyện ăn cơm giữa sân của Nguyễn Khắc Phục, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh… Trường ca có khả năng đặc biệt đi vào hiện thực.
Trong thơ trữ tình, khuynh hướng hiện thực cũng được phản ánh, nhưng tính lãng mạn hầu như bao trùm và có những lúc bị quằn lại trước những hiện thực dữ dội. Thơ trữ tình thường né tránh những đề tài quá ư phức tạp trong đời sống và nếu có thể hiện thì phần nhiều sử dụng phương pháp lãng mạn. Trường ca có thể xông vào hiện thực cuộc sống với tất cả sức mạnh của nó, giống như một người công binh đào hầm lại có đủ cả xẻng cuôc, khoan máy, thuốc nổ… Trường ca dám xông vào những chỗ hắc búa, những vỉa đá ngầm của. cuộc sống. Tuy vậy, trường ca chứ không phải tiểu thuyết, trong khuôn khổ đặc trưng của nó, cũng phải kiêng nể một đôi chỗ…
Trường ca có đủ khả năng hiện thực và trữ tình nên sức công phá và độ bền của nó rất lớn. Do sự yêu cầu nghiêm ngặt về bố cục, tính tư tưởng và sự đa dạng của nó nên trường ca là một kiến trúc hoàn hảo có một sức mạnh nương tựa vào nhau, làm tôn thêm vẻ đẹp và sức mạnh cho nhau. Những ngôn ngữ và ‘hình ảnh khi bước vào ngưỡng cửa của trường ca thực sự được chuyển hoá và nâng mình lên một bước, tự bản thân chúng tạo nên cho chúng những vẻ riêng rất là trường ca. Trường ca đã hình thành một bộ môn văn học, lừng lững đi vào đời sống, khác với những ngày tên gọi của nó chỉ thấp thoáng một cái bóng mơ hồ không có bộ mặt và hình dáng.Xem thêm: Kể tóm tắt Truyện An Dương vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ Trường ca là một thể loại thơ dài nhằm thể hiện một chủ đề tư tưởng thông qua hình tượng thơ ca, sử dụng ngôn ngữ, ngôn ngữ, âm điệu, bố cục… một cách điêu luyện và tinh xảo nhất của toàn bộ nghệ thuật thơ ca. Nó động viên nhiều.phương pháp, vốn sông, xúc cảm, lao động trí tuệ nhằm ca ngợi con người, tình yêu, chiến đấu, lao động sáng tạo và thiên nhiên…
Do tính chất của nó như vậy, cho nên hình thức của nó rất phong phú và đa dạng. Phong phú đến nỗi ta lười nhác không muốn định nghĩa nó là cái gì nữa. Đã thế, nó lại đương phát triển nhanh chóng.
Hiện nay trường ca giống như cô gái đẹp, tuỳ theo sự chiêm ngưỡng của người này người khác mà trang điểm thêm cho nó những phần mà mình ưa thích. Tuy nhiên, nó cũng có những qui luật khắt khe của nó. Ngay hiện nay có những bài diễn ca đã được ghi lại bên cạnh chữ to tướng là trường ca nhưng quần chúng không công nhận đó là trường ca, dù bài diễn ca đó hay và tác dụng đến mấy đi nữa. Bừng nên vì cái hay của thể ĩoại này lại chuyển thể nó qua một thể loại khác.
Trường ca khác hẳn với thơ truyện và diễn ca. Có thể vì tạm trường ca là một toà lâu đài, thơ truyện là một toà nhà, diễn ca là một dãy trại lán. Do yêu cầu nghiêm túc của thiết kế mà đẻ ra hình thức này chứ tuyệt đối không phải trọng cái nào, khinh cái nào, vì cái nào sinh ra cũng do yêu cầu của nó.Xem thêm: Viết bài giới thiệu về Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc Gỗ, đá, gạch có thể làm nhà, làm lâu đài, cũng như ngôn ngữ có thể làm diễn ca, làm thơ truyện, làm trường ca. Nhưng gỗ làm toà lâu đài cũng khác gỗ làm lán trại; cũng như ngôn ngữ trường ca khác ngôn ngữ diễn ca. Sự khác nhau đó là do tính tất yếu củạ nội dung.công trình khắt khe đòi hỏi chứ không phải ý muốn một ai. Vì vậy, khi những ngôn ngữ nhân vật bố cục bước vào công trình của trường ca chúng phải kiểm nghiệm mình và nâng mình lên một bước để xứng đáng phù hợp với công trình mà nó đảm nhiệm. Trường ca là một toà lầu đài của thơ ca, là một kiến trúc tổng hợp của thơ ca.
Cũng như các bộ môn văn học khác, trong thơ, nhà thơ phải có thường trực ba con người: một kiến trúc sư thiết kế ra công trình, một người thợ lành nghề để thể hiện công trình đó, một người lao động tận tụy khai thác nguyền vật liệu dồi dào trong đời sống. Có khi nhà kiến trúc sư đi trước, có khi người lao động đi trước, do những nguyên vật liệu đã có đó kêu gọi công trình. Nói chung nguyên vật liệu, vốn sống trong văn học là một thứ nguyên vật liệu đặc biệt. Nó có thể nhao nhao lên đòi kết hợp để biến thành những công trình, nhưng cũng có thể tự nó biến mất đi hoặc nằm ngổn ngang ra đó biến thành những chướng ngại vật, cản trở và có khi vùi lấp nhà thơ. Tất cả cái đó đều do cuộc sông và trình độ của nhà thơ quyết định.
Trong nghệ thuật đều có những bước giông nhau nhưng trong thể loại trường ca cũng có những cái riêng của nó, tin chắc rằng sắp đến mọi người sẽ cùng nhau tìm ra những đặc trưng riêng biệt của nó. Có thể ví thêm mỗi bài thơ như một trận đánh, trường ca lại là một chiến dịch. Nó có đầy đủ những tính chất của các trận đánh, chính vì thế nó khác hẳn một trận đánh, nó có những yêu cầu cao hơn một trận đánh.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một thể loại văn học hoặc văn bản
Gợi ý
Hài kịch là "Thể loại kịch trong đó có tính cách, tình huống và hành động được thể hiện dưới dạng buồn cười hoặc ẩn chứa cái hài nhằm giễu cợt, phê phán cái xấu, cái lố bịch, cái lỗi thời để tống tiễn nó một cách vui vẻ ra khỏi đời sống xã hội”. Hài kịch cho đến thế kỉ XVII được coi như là thể loại đối lập với bi kịch, và tác phẩm của nó kết thúc nhất thiết phải có hậu.
Hài kịch, như trên đã nói, hướng vào sự cười nhạo cái xấu xa, lố bịch đối lập với lí tưởng xã hội hoặc chuẩn mực đạo đức. Nhân vật của hài kịch thường không có sự tương xứng giữa thực chất bên trong với danh nghĩa bên ngoài của mình nên đã trở thành lố bịch. Cái tính cách trong hài kịch thường được mô tả một cách đậm nét, cận cảnh và ở trạng thái tĩnh, nhất là những nét gây cười. Phạm vi phản ánh của hài kịch hết sức rộng lớn: từ những vấn đề chính trị xã hội đến những thói xấu trong sinh hoạt hàng ngày. Trong hài kịch cũng có thể mô tả nỗi đau khổ của con người, song chỉ có thể cho phép ở một mức độ nhất định cho nỗi đau không lấn át cái cười để từ đó hài kịch chuyển thành chính kịch.Xem thêm: Ôn Tập 1 Tiếng Việt Lớp 5 Học Kì 1
Hài kịch ra đời rất sớm, gần như đồng thời với bi kịch. A-ri-xtô-phan (khoảng 445 – 385 trước Công nguyên) nhà viết kịch Hi Lạp cổ đại được coi là "cha đẻ" của hài kịch.
Do nội dung, tính chất, cung bậc của tiếng cười, hài kịch chia thành nhiều tiểu loại khác nhau như hài kịch tính cách, hài kịch tình huống, hài kịch sinh hoạt, hài kịch trào phúng, v.v.
Cho đến nay, những tác phẩm của nhà hài kịch vĩ đại người Pháp Mô-li-e (1622 – 1673) được coi là hình thức cổ điển của thể loại hài kịch.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation of a literary genre or text
Suggest
Comedy is "a genre of drama in which personalities, situations and actions are presented in a funny or hidden form to mock and criticize the bad, the ridiculous, and the outdated to get rid of them." "Comedy until the 17th century was considered the opposite genre of tragedy, and its works necessarily had happy endings.
Comedy, as mentioned above, aims to laugh at evil and ridiculous things that oppose social ideals or moral standards. Comedy characters often do not have a correspondence between their inner essence and their outer identity, so they become ridiculous. Personality in comedy is often depicted boldly, close-up and in a static state, especially the funny features. The scope of comedy's reflection is extremely broad: from socio-political issues to bad habits in daily life. Comedy can also depict human suffering, but only a certain level of pain can be allowed so that the pain does not overwhelm the laughter so that the comedy can turn into a drama. See more: Review 1 Vietnamese Grade 5 Semester 1
Comedy was born very early, almost simultaneously with tragedy. Aristotle (about 445 - 385 BC) ancient Greek playwright is considered the "father" of comedy.
Due to the content, nature, and level of laughter, comedy is divided into many different subgenres such as personality comedy, situation comedy, daily life comedy, satirical comedy, etc.
Until now, the works of the great French comedian Moliere (1622 - 1673) are considered classic forms of comedy.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Thuyết minh về một trò chơi dân gian
Thả diều không chỉ là thú vui của trẻ con mà của nhiều người thuộc các lứa tuổi khác nhau. Một mảng trời mùa hạ sẽ là không gian rộng lớn cho những cánh diều mặc sức vút lên cao. Chỉ mười đến mười lăm nghìn là bạn sẽ có một chiếc diều khá đẹp. Nhưng bay bổng lên trời cao bằng chính sự khéo léo của đôi tay mới là đam mê của người chơi thả diều.
Muốn có một chiếc diều tốt do chính tay mình làm, bạn cần có: Tre, phải là tre tươi, dẻo, cứng; Giấy: tùy thuộc vào kích cỡ diều bạn định làm, nhưng cứ chuẩn bị càng nhiều càng tiện; Dây:nếu là diều to bạn phải có daay to, nếu không bạn sẽ bị đứt dây nửa chừng lúc đang thả diều, dây cũng phải hai ba cuộn mới đủ cho một chiếc diều cỡ thường; Hồ dán; sáo(chỉ để lắp cho diều to)
Diều có rất nhiều loại: hình hộp, hình vuông, hình rồng, hình chim, hình người….Nhưng để bay cao và vững chắc là diều quạ. Vì thế mà bạn hãy tự làm cho mình một chiếc diều hình quạ là tốt nhất, và mời bạn hãy tham khảo cách làm dưới đây:
Đầu tiên bạn phải làm khung cánh bằng tre nứa. Có lẽ bạn nên chuẩn bịhai thanh tre dài 90 cm thì vừa. Bạn phải buộc vào thanh tre ở trên, đầu kia là thanh ở dưới sao cho thật thang bằng hai bên cánh. Thanh tre này bạn nên để dài khoảng 22, 23cm thì đẹp. Nhưng như thế là chưa đủ, bạn phải làm cho hai bên cánh cong lên bằng cách buộc hai đầu vào thanh trục ở giữa (buộc vào trung điểm của thanh trục). Nhưng đững có uốn cong quá kẻo gãy. Thường thì hai cánh sẽ không cong đều như đường tròn và cong tụ lại ở một chỗ, như thế cũng không sao. Thế là bạn đã có được đôi cánh của con quạ giấy rồi. Tiếp theo là phần đầu và đuôi rất đơn giản:
Xem thêm: Hình ảnh Bác Hồ qua những bài thơ em đã học và đọc thêm trong chương trình Ngữ văn THCSĐầu: Bạn chuẩn bị hai thanh tre nhỏ, ngắn khoảng 9-10cm, buộc vào sát cái trục rồi buộc tiếp vào đầu kia thành mũi nhọn.
Đuôi: cũng là hai thanh tre nhưng dài hơn, khoảng từ 20-30cm, buộc thành hình tam giác. Nhưng một đầu nhọn của tam giác là gắn chặt với thanh trục (ở khoảng 1/3 trục), góc nhọn khoảng 70 độ thì vừa.
Khi đã có khung cả rồi thì bạn mới dán giấy. Nếu giấy nhỏ thì bạn phải dán từng đoạn của cánh và phải kín. Giấy được phủ lên cánh diều, vuốt một nếp theo đường dây, kéo cho phẳng rồi dán mép giấy vào xung quanh thanh tre. Đầu và đuôi cũng tương tự.
Cuối cùng là phần buộc dây (lèo). Bạn phải đục hai lỗ nhỏ trên giấy sát thanh tre ở trên của cánh (hai lỗ nhỏ cân giữa trục, từ trục đến một lỗ khoảng 10-15cm), buộc hai đầu của sợi dây khoảng 3cm vào hai lỗ ta được một phần của lèo. Tiếp theo lấy một đoạn dây khoảng 30cm buộc vào trung điểm của đoạn dây trước, đầu kia buộc vao đuôi cảu trục. Và đoạn dây nối với cuộn dây của bạn sẽ buộc vào đoạn thứ hai ấy, buộc thật chắc nhưng vẫn di chuyển được trên dây thứ hai để chỉnh. Phần chính này khoảng từ 3-5cm (trên đoạn dây thứ hai tính từ phần buộc với dây thứ nhất). Như thế là bạn đã có một con quạ giấy rồi.
Trò chơi thả diều sẽ mãi mãi là thú vui của nhiều người trong những ngày hè oi ả. Những ngày gió to, bạn đem diều ra ngoài đồng hoặc nơi không bị vướng nhà cửa, dây điện mà đưa diều lên trời cao. Đảm bảo bạn sẽ có những giây phút bình yên cùng một cánh chim và một mảng trời xanh biêng biếc.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Thuyết minh về sự gia tăng dân số
|
Topic: Explanation about a folk game
Kite flying is not only a hobby for children but also for many people of different ages. A patch of summer sky will be a large space for kites to soar high. Just ten to fifteen thousand and you will have a pretty nice kite. But flying high into the sky with the skill of one's hands is the passion of kite flyers.
To have a good kite made by yourself, you need: Bamboo, it must be fresh, flexible, and hard; Paper: depends on the size of the kite you plan to make, but prepare as much as is convenient; String: if it's a big kite, you must have a big string, otherwise you will break the string halfway while flying the kite. The string also needs two or three rolls to be enough for a normal-sized kite; Glue; flute (only for big kites)
There are many types of kites: box-shaped, square-shaped, dragon-shaped, bird-shaped, human-shaped... But the one that flies high and firmly is the crow kite. Therefore, it is best to make your own crow-shaped kite, and please refer to the method below:
First you have to make the wing frame out of bamboo. Maybe you should prepare two bamboo sticks 90 cm long to fit. You must tie it to the bamboo bar at the top and the other end to the bar at the bottom so that the ladder is level with both sides. This bamboo stick should be about 22, 23cm long to be beautiful. But that's not enough, you have to make the two sides of the wing curve up by tying the two ends to the axis bar in the middle (tied to the midpoint of the axis bar). But don't bend it too much or it will break. Usually the two wings will not curve evenly like a circle and will curl together in one place, that's okay. So you have the wings of a paper crow. Next is the very simple head and tail:
See more: Uncle Ho's image through the poems I have learned and read more in the Middle School Literature program. First: Prepare two small bamboo sticks, about 9-10cm short, tie them close to the shaft and then tie them to the other end to form point.
Tail: also two bamboo sticks but longer, about 20-30cm, tied into a triangle shape. But one sharp end of the triangle is tightly attached to the axis bar (at about 1/3 of the axis), a sharp angle of about 70 degrees is just right.
Once you have the frame, then you can glue the paper. If the paper is small, you must glue each section of the wing and it must be tight. The paper is covered on the kite, smoothed along the line, pulled flat and then glued the edge of the paper around the bamboo stick. The head and tail are similar.
The last part is tying the rope. You have to punch two small holes in the paper next to the bamboo stick at the top of the wing (two small holes in the middle of the shaft, from the shaft to a hole about 10-15cm), tie the two ends of a string about 3cm into the two holes, we will get a part of the wing. leo. Next, take a piece of string about 30cm and tie it to the midpoint of the previous string, and tie the other end to the tail of the shaft. And the piece of string connected to your coil will be tied to that second piece, tied firmly but still able to move on the second string to adjust. This main part is about 3-5cm (on the second piece of string from the part tied to the first string). So you have a paper crow.
Kite flying will forever be a hobby for many people on hot summer days. On windy days, you can take the kite out into the field or somewhere free from houses or electrical wires to fly the kite high into the sky. Guaranteed you will have peaceful moments with a bird and a patch of blue sky.
Source Edufly
See more: Explanation of population growth
|
Thuyết minh về một tác giả văn học
Gợi ý
Ngày 6/6/1799 đã trở thành ngày đáng nhớ trong không chỉ của những người trong dòng họ Puskiri mà còn là của nước Nga và của cả nhân loại – Ngày thiên tài thơ Alêchxan Xecghêêvits Puskin ra đời. Người đã dùng “phép nhiệm màu thi ca” mang lại niềm vinh quang kiêu hãnh cho nước Nga và tạo ra những biến đổi to lớn trong thế giới văn hoá tinh thần trong đất nước.
Xuất thân từ dòng họ quý tộc lâu đời và quyền quý vào loại bậc nhất nước Nga thời bấy giờ, Puskin được dạy dỗ một cách chu đáo tử tế. Mặc dù đến đời ông Xecgây Livôvits – cha của Puskin, gia đình có phần sa sút song Xécgây Livôvits rất coi trọng việc dạy dỗ học hành cho con cái, duy trì nếp sống văn hoá trong gia đình bởi thế ông đã mời rất nhiều gia sư giỏi về nhà dạy học. Puskin yêu thích thơ văn một phần do thiên tính, một phần thừa hưởng từ một số người trong gia đình, đặc biệt là ông chú – nhà thơ Vaxili Livôvits. Từ những buổi bình thơ đọc văn diễn kịch tại nhà do chú tổ chức, hỗn thơ Puskin được nuôi dưỡng từ đó.
Ngoài những yếu tố ấy, Puskin còn được tiếp xúc cảm nhận vốn thơ ca dân gian từ bà ngoại, lão bộc Nikita Côdơlôp, và nhũ mẫu Aria Rôđiônnôpna. Họ đã gieo vào tâm hồn củá cậu bé Puskin những giá trị tinh thần quý báu của con người Nga, đất nước Nga. Bà ngoại thường dạy cháu tiếng Nga, bởi mặc dù bà rất tự hào vì cậu cháu yêu quý thông minh học giỏi, nói tiếng Pháp như người Pháp nhưng bà cũng không hề muốn cháu bà, một người Nga mà lại nói tiếng Nga như một người nước ngoài. Còn lãọ bộc Nikita.quả là một kho truyền thuyết can trường hào hiệp, thương người sẵn sàng ra tay giúp kẻ yếu. Nhưng Puskin thích nhất vẫn là được nghe nhũ mẫu Aria hát những ca khúc dân gian Nga và nghe bà kể chuyện cổ tích, mặc dù bà không biết chữ nhưng lại có một trí nhớ tuyệt vời. Những bài hát, những câu chuyện có một sức hút kỳ diệu trong tâm hồn ông và trở nên thật gần gũi, tất cả đã in vào tâm trí ông suốt cuộc đời. Cho đến mãi sau này hình ảnh nhũ mẫu vẫn thường xuất hiện trong thơ Puskin với những tình cảm đằm thắm:
Bạn thân thiết trong những ngày cơ cực
Nguồn mến thương nâng bước cuộc đời con.
Sau này, quãng thời gian học tập ở trường Lixê đã để lại nhiều kỉ niệm đẹp trong lòng Puskin. Trong kỳ thi thơ 1815 do trường tổ chức, ông đã viết bài Những kỉ niệm hoàng thôn ghi nhớ lại thời kỳ cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1912 của nhân dân Nga đánh lại đội quân xâm lược của Napôlêông. Bài thơ được đón nhận nhiệt liệt và nhà thơ Giucôpxki không ngần ngại tiên đoán về Puskin là Người khổng lồ tương lai. Cùng quãng thời gian sáu năm học tập ở trường, Puskin đã cho ra đời những bài thơ hay, trẻ trung, trong sáng… Hoa hồng (1815)…Xem thêm: Yếu tố thần kì đã góp phần tạo nên sự thành công cho truyện Tấm Cám. Hãy làm sáng tỏ điều đó. Sau khi tốt nghiệp trường Lixê, Puskin đứng giữa hai sự lựa chọn. Nhận sự bổ nhiệm làm Thư ký Bộ Ngoại giao ở Pêtecbua hay tiếp tục niềm dam mê văn chương, dâng hiến đời mình cho những lý tưởng cao cả. Có sự lựa chọn ấy là bởi đời sống chính trị ở nước Nga đang trở nên gay gắt, chính phủ Nga Hoàng ngày càng phản động. Trước tình hình đó, nhiều trí thức tiến bộ đã tập hợp nhau lại lập ra những tổ chức bí mật chông Nga Hoàng. Puskin cũng hoà mình vào không khí cách mạng đó. Và những bài thơ có nội dung chông Nga Hoàng một cách gay gắt ra đời: Tự do (1817), Những câu chuyện thần thoại Nôen (1818), Gửi Sađaep (1818)… Tất nhiên những vần thơ đó không được in nhưng lại được rât nhiều người chép tay và thuộc lòng. Điều đó đã khiến Nga Hoàng Alêchxan I nổi giận và lo sợ trước những vần thơ gây náo loạn và đòi phải tống cổ Puskin đi Xibia- cũng có nghĩa là bị tống vào cõi chết.
Nhưng được sự giúp đỡ của bạn bè, Puskin chỉ bị đày đi phương Nam bốn năm (1820 – 1824) sau đó bị quản thúc tại trại ấp quê nhà Mikhailôp xcôié hai năm (1824 – 1826). Ớ đó, ông tiếp xúc với những người chiến sĩ tháng chạp và càng ý thức một cách sâu sắc về giá trị, bản chất đích thực của tự do. Bởi thế cảm giác về tự do thường trực trong con người nhà thơ, chỉ cần có một cớ nhưng cũng đủ bật lên câu chữ. Puskin đã viết hàng loạt bài thơ ca ngợi tự do: Ánh mặt trời của ban ngày đã tắt (1820), Người tù (1822), Con chim nhỏ (1823), Người gieo giống tự do trên đồng vắng (1823)…
Ngoài ra nhà thơ còn muốn thử thách mình ở một thể loại lớn hơn – trường ca, và ở một phương pháp mới: lãng mạn. Ông đã thành công với bản trường ca Rutxlan và Lutmila (1820) – tác phẩm đã đưa ông lên ngang hàng với nhiều nhà thơ Nga nổi tiếng đương thời. Đặc biệt nhà thơ Giucôpxki, người từng mệnh danh là đã phát hiện ra chủ nghĩa lãng mạn cho văn học Nga đã tặng Puskin một bức chân dung của chính ông với lời đề tặng: Thầy chiến bại tặng học trò chiến thắng. Đối với nhà thơ trẻ tuổi, đây quả là một phần thưởng to lớn quý giá. Bản trường ca không hề bắt chước mô phỏng những tác phẩm văn học dân gian mà nó được hoàn thiện như một tác phẩm độc lập, in đậm dấu ấn. cá tính sáng tạo, tự do nồng nhiệt của tác giả. Không dừng lại ở đó, Puskin đã sáng tạo thêm hàng loạt những bản trường ca xuất sắc khác như: Người tù Kapka (1820 – 1821), Anh em kẻ cướp (1821 – 1822), Đoàn người Sưgan (1824) phản ánh sự bất mãn không thoả hiệp của thanh niên tiến bộ đương thời với trật tự xã hội hiện hành. Với những tác phẩm này, Puskin được coi là nhà thơ hàng đầu của khuynh hướng lãng mạn tích cực trong văn học Nga đầu thế kỷ XIX.Xem thêm: Viết một bài văn về mảnh đất mà em yêu quý Bị đày sang phương Bắc, tự lòng Mikhailốpxcôie Puskin tiếp tục sáng tác vở bi kịch lịch sử Bôrit Gôđunôp và viết tiếp tiểu thuyết thơ Epghênhi Ổnêghin còn dang dở, thể hiện những trăn trở về lẽ sống và hạnh phúc cá nhân của tầng lớp thanh niên quý tộc.
Trở về Pêtécbua sau sáu năm lưu đày, Puskin tiếp tục làm thơ, viết kịch bằng thơ, viết truyện ngắn, viết báo. Đặc biệt, ông cưới Natalia Gônsarôva – cô gái xinh đẹp nhất Matxcơva năm 1831. Trong khoảng thời gian này tuy hạnh phúc trong cụộc sống gia đình nhưng Puskin luôn cảm thấy ngột ngạt nặng nề bởi mối bất hoà của nhà thơ với Nga hoàng. Nhưng càng buồn đau, ông vẫn tìm thấy niềm vui trong thi ca. Trong hoàn cảnh xót xa tột độ ấy, Puskin cho ra đời những tác phẩm bất hủ. Tiểu thuyết thơ Epghêni Ônêghin được hoàn thành trong thời điểm đó và được xem là cuốn Bách khoa toàn thư của đời sống Nga, trở thành kiệt tác của văn học thế giới. Tiếp theo là chùm truyện ngắn nổi tiếng: Người trưởng trạm, Phát súng, Bão tuyết, Cô tiểu thư nông dân, Con đầm Pic, Con gái viên đại uý… với những tư tưởng mới mẻ, với những bài học có giá trị với con người…
Hơn hết, nhà thơ vẫn giữ được hồn thơ trong trẻo đằm thắm thiết tha mặc dù đang sống trong những ngày buồn đau ảm đạm giữa một triều đình đầy nhỏ nhen xấu xa. Bởi vậy một chút rung động nhỏ nhoi cũng gợi nên những vần thơ xao xuyến tâm hồn như Bông hoa nhỏ, Ngài và anh, Cô và em…
Sau khi viết bài Đài kỷ niệm, Puskin linh cảm thấy một tai hoạ nào đó đang đến gần. Và quả như vậy, tên Pháp lưu vong Đăngtex đã quấy ròi hạnh phúc gia đình, bôi nhọ thanh danh Puskin. Để giữ gìn danh dự, Puskin buộc phải quyết đấu. Ông bị Đăngtex sát hại vào tháng 1 năm 1837Xem thêm: Kể về kỷ niệm với con vật nuôi em yêu Lo sợ bạo loạn trước cái chết của Puskin, chính quyền Nga Hoàng cố ý tổ chức mai táng Puskin một cách lặng lẽ. Một tờ báo địa phương chỉ kịp đưa tin: Mặt trời của thi ca Nga lặn mất rồi. Puskin đã tạ thế, tạ thế giữa độ tuổi tràn trề sung sức, bỏ dở sự nghiệp lớn lao! Bất kì một trái tim Nga nào cũng đều biết cái giá của sự tổn thất không thể bù đắp được này. Chính cái tin đó đã khẳng định vị trí to lớn của nhà thơ lỗi lạc trong trái tim con người nước Nga.
Không chỉ đóng góp vào kho tàng văn học Nga những tác phẩm có giá trị mà Puskin còn đóng góp vào phong cách nghệ thuật thêm phong phú. Do ảnh hưởng từ gia đình mà tác phẩm của ông đậm đà tính dân tộc, phong vị Nga, sử dụng thi liệu hình ảnh từ văn học dân gian.Nga. Ngoài ra, Puskin còn có công lớn trong việc đưa trường ca, kịch có giá trị trong nền văn học Nga. Đồng thời góp phần nâng ngôn ngữ đời sống trở thành ngôn ngữ văn học giàu giá trị. Như vậy, tên tuổi Puskin đã trở thành biểu tượng của văn học Nga, thơ ông gần gũi mọi tâm hồn Nga. Gorki coi Puskin là khởi đầu của mọi khởi đầu.
Tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp văn học và phong cách nghệ thuật của Puskin ta càng khẳng định vai trò to lớn của nhà thơ trong nền văn học Nga và của cả thế giới. Những sáng tác của Puskin đã bồi đắp cho văn học Nga qua hai thế kỉ và cho tới bây giờ chúng ta cũng có thể khẳng định như thế.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một tác giả văn học
Gợi ý
Ngày 6/6/1799 đã trở thành ngày đáng nhớ trong không chỉ của những người trong dòng họ Puskiri mà còn là của nước Nga và của cả nhân loại – Ngày thiên tài thơ Alêchxan Xecghêêvits Puskin ra đời. Người đã dùng “phép nhiệm màu thi ca” mang lại niềm vinh quang kiêu hãnh cho nước Nga và tạo ra những biến đổi to lớn trong thế giới văn hoá tinh thần trong đất nước.
Xuất thân từ dòng họ quý tộc lâu đời và quyền quý vào loại bậc nhất nước Nga thời bấy giờ, Puskin được dạy dỗ một cách chu đáo tử tế. Mặc dù đến đời ông Xecgây Livôvits – cha của Puskin, gia đình có phần sa sút song Xécgây Livôvits rất coi trọng việc dạy dỗ học hành cho con cái, duy trì nếp sống văn hoá trong gia đình bởi thế ông đã mời rất nhiều gia sư giỏi về nhà dạy học. Puskin yêu thích thơ văn một phần do thiên tính, một phần thừa hưởng từ một số người trong gia đình, đặc biệt là ông chú – nhà thơ Vaxili Livôvits. Từ những buổi bình thơ đọc văn diễn kịch tại nhà do chú tổ chức, hỗn thơ Puskin được nuôi dưỡng từ đó.
Ngoài những yếu tố ấy, Puskin còn được tiếp xúc cảm nhận vốn thơ ca dân gian từ bà ngoại, lão bộc Nikita Côdơlôp, và nhũ mẫu Aria Rôđiônnôpna. Họ đã gieo vào tâm hồn củá cậu bé Puskin những giá trị tinh thần quý báu của con người Nga, đất nước Nga. Bà ngoại thường dạy cháu tiếng Nga, bởi mặc dù bà rất tự hào vì cậu cháu yêu quý thông minh học giỏi, nói tiếng Pháp như người Pháp nhưng bà cũng không hề muốn cháu bà, một người Nga mà lại nói tiếng Nga như một người nước ngoài. Còn lãọ bộc Nikita.quả là một kho truyền thuyết can trường hào hiệp, thương người sẵn sàng ra tay giúp kẻ yếu. Nhưng Puskin thích nhất vẫn là được nghe nhũ mẫu Aria hát những ca khúc dân gian Nga và nghe bà kể chuyện cổ tích, mặc dù bà không biết chữ nhưng lại có một trí nhớ tuyệt vời. Những bài hát, những câu chuyện có một sức hút kỳ diệu trong tâm hồn ông và trở nên thật gần gũi, tất cả đã in vào tâm trí ông suốt cuộc đời. Cho đến mãi sau này hình ảnh nhũ mẫu vẫn thường xuất hiện trong thơ Puskin với những tình cảm đằm thắm:
Bạn thân thiết trong những ngày cơ cực
Nguồn mến thương nâng bước cuộc đời con.
Sau này, quãng thời gian học tập ở trường Lixê đã để lại nhiều kỉ niệm đẹp trong lòng Puskin. Trong kỳ thi thơ 1815 do trường tổ chức, ông đã viết bài Những kỉ niệm hoàng thôn ghi nhớ lại thời kỳ cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1912 của nhân dân Nga đánh lại đội quân xâm lược của Napôlêông. Bài thơ được đón nhận nhiệt liệt và nhà thơ Giucôpxki không ngần ngại tiên đoán về Puskin là Người khổng lồ tương lai. Cùng quãng thời gian sáu năm học tập ở trường, Puskin đã cho ra đời những bài thơ hay, trẻ trung, trong sáng… Hoa hồng (1815)…Xem thêm: Yếu tố thần kì đã góp phần tạo nên sự thành công cho truyện Tấm Cám. Hãy làm sáng tỏ điều đó. Sau khi tốt nghiệp trường Lixê, Puskin đứng giữa hai sự lựa chọn. Nhận sự bổ nhiệm làm Thư ký Bộ Ngoại giao ở Pêtecbua hay tiếp tục niềm dam mê văn chương, dâng hiến đời mình cho những lý tưởng cao cả. Có sự lựa chọn ấy là bởi đời sống chính trị ở nước Nga đang trở nên gay gắt, chính phủ Nga Hoàng ngày càng phản động. Trước tình hình đó, nhiều trí thức tiến bộ đã tập hợp nhau lại lập ra những tổ chức bí mật chông Nga Hoàng. Puskin cũng hoà mình vào không khí cách mạng đó. Và những bài thơ có nội dung chông Nga Hoàng một cách gay gắt ra đời: Tự do (1817), Những câu chuyện thần thoại Nôen (1818), Gửi Sađaep (1818)… Tất nhiên những vần thơ đó không được in nhưng lại được rât nhiều người chép tay và thuộc lòng. Điều đó đã khiến Nga Hoàng Alêchxan I nổi giận và lo sợ trước những vần thơ gây náo loạn và đòi phải tống cổ Puskin đi Xibia- cũng có nghĩa là bị tống vào cõi chết.
Nhưng được sự giúp đỡ của bạn bè, Puskin chỉ bị đày đi phương Nam bốn năm (1820 – 1824) sau đó bị quản thúc tại trại ấp quê nhà Mikhailôp xcôié hai năm (1824 – 1826). Ớ đó, ông tiếp xúc với những người chiến sĩ tháng chạp và càng ý thức một cách sâu sắc về giá trị, bản chất đích thực của tự do. Bởi thế cảm giác về tự do thường trực trong con người nhà thơ, chỉ cần có một cớ nhưng cũng đủ bật lên câu chữ. Puskin đã viết hàng loạt bài thơ ca ngợi tự do: Ánh mặt trời của ban ngày đã tắt (1820), Người tù (1822), Con chim nhỏ (1823), Người gieo giống tự do trên đồng vắng (1823)…
Ngoài ra nhà thơ còn muốn thử thách mình ở một thể loại lớn hơn – trường ca, và ở một phương pháp mới: lãng mạn. Ông đã thành công với bản trường ca Rutxlan và Lutmila (1820) – tác phẩm đã đưa ông lên ngang hàng với nhiều nhà thơ Nga nổi tiếng đương thời. Đặc biệt nhà thơ Giucôpxki, người từng mệnh danh là đã phát hiện ra chủ nghĩa lãng mạn cho văn học Nga đã tặng Puskin một bức chân dung của chính ông với lời đề tặng: Thầy chiến bại tặng học trò chiến thắng. Đối với nhà thơ trẻ tuổi, đây quả là một phần thưởng to lớn quý giá. Bản trường ca không hề bắt chước mô phỏng những tác phẩm văn học dân gian mà nó được hoàn thiện như một tác phẩm độc lập, in đậm dấu ấn. cá tính sáng tạo, tự do nồng nhiệt của tác giả. Không dừng lại ở đó, Puskin đã sáng tạo thêm hàng loạt những bản trường ca xuất sắc khác như: Người tù Kapka (1820 – 1821), Anh em kẻ cướp (1821 – 1822), Đoàn người Sưgan (1824) phản ánh sự bất mãn không thoả hiệp của thanh niên tiến bộ đương thời với trật tự xã hội hiện hành. Với những tác phẩm này, Puskin được coi là nhà thơ hàng đầu của khuynh hướng lãng mạn tích cực trong văn học Nga đầu thế kỷ XIX.Xem thêm: Viết một bài văn về mảnh đất mà em yêu quý Bị đày sang phương Bắc, tự lòng Mikhailốpxcôie Puskin tiếp tục sáng tác vở bi kịch lịch sử Bôrit Gôđunôp và viết tiếp tiểu thuyết thơ Epghênhi Ổnêghin còn dang dở, thể hiện những trăn trở về lẽ sống và hạnh phúc cá nhân của tầng lớp thanh niên quý tộc.
Trở về Pêtécbua sau sáu năm lưu đày, Puskin tiếp tục làm thơ, viết kịch bằng thơ, viết truyện ngắn, viết báo. Đặc biệt, ông cưới Natalia Gônsarôva – cô gái xinh đẹp nhất Matxcơva năm 1831. Trong khoảng thời gian này tuy hạnh phúc trong cụộc sống gia đình nhưng Puskin luôn cảm thấy ngột ngạt nặng nề bởi mối bất hoà của nhà thơ với Nga hoàng. Nhưng càng buồn đau, ông vẫn tìm thấy niềm vui trong thi ca. Trong hoàn cảnh xót xa tột độ ấy, Puskin cho ra đời những tác phẩm bất hủ. Tiểu thuyết thơ Epghêni Ônêghin được hoàn thành trong thời điểm đó và được xem là cuốn Bách khoa toàn thư của đời sống Nga, trở thành kiệt tác của văn học thế giới. Tiếp theo là chùm truyện ngắn nổi tiếng: Người trưởng trạm, Phát súng, Bão tuyết, Cô tiểu thư nông dân, Con đầm Pic, Con gái viên đại uý… với những tư tưởng mới mẻ, với những bài học có giá trị với con người…
Hơn hết, nhà thơ vẫn giữ được hồn thơ trong trẻo đằm thắm thiết tha mặc dù đang sống trong những ngày buồn đau ảm đạm giữa một triều đình đầy nhỏ nhen xấu xa. Bởi vậy một chút rung động nhỏ nhoi cũng gợi nên những vần thơ xao xuyến tâm hồn như Bông hoa nhỏ, Ngài và anh, Cô và em…
Sau khi viết bài Đài kỷ niệm, Puskin linh cảm thấy một tai hoạ nào đó đang đến gần. Và quả như vậy, tên Pháp lưu vong Đăngtex đã quấy ròi hạnh phúc gia đình, bôi nhọ thanh danh Puskin. Để giữ gìn danh dự, Puskin buộc phải quyết đấu. Ông bị Đăngtex sát hại vào tháng 1 năm 1837Xem thêm: Kể về kỷ niệm với con vật nuôi em yêu Lo sợ bạo loạn trước cái chết của Puskin, chính quyền Nga Hoàng cố ý tổ chức mai táng Puskin một cách lặng lẽ. Một tờ báo địa phương chỉ kịp đưa tin: Mặt trời của thi ca Nga lặn mất rồi. Puskin đã tạ thế, tạ thế giữa độ tuổi tràn trề sung sức, bỏ dở sự nghiệp lớn lao! Bất kì một trái tim Nga nào cũng đều biết cái giá của sự tổn thất không thể bù đắp được này. Chính cái tin đó đã khẳng định vị trí to lớn của nhà thơ lỗi lạc trong trái tim con người nước Nga.
Không chỉ đóng góp vào kho tàng văn học Nga những tác phẩm có giá trị mà Puskin còn đóng góp vào phong cách nghệ thuật thêm phong phú. Do ảnh hưởng từ gia đình mà tác phẩm của ông đậm đà tính dân tộc, phong vị Nga, sử dụng thi liệu hình ảnh từ văn học dân gian.Nga. Ngoài ra, Puskin còn có công lớn trong việc đưa trường ca, kịch có giá trị trong nền văn học Nga. Đồng thời góp phần nâng ngôn ngữ đời sống trở thành ngôn ngữ văn học giàu giá trị. Như vậy, tên tuổi Puskin đã trở thành biểu tượng của văn học Nga, thơ ông gần gũi mọi tâm hồn Nga. Gorki coi Puskin là khởi đầu của mọi khởi đầu.
Tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp văn học và phong cách nghệ thuật của Puskin ta càng khẳng định vai trò to lớn của nhà thơ trong nền văn học Nga và của cả thế giới. Những sáng tác của Puskin đã bồi đắp cho văn học Nga qua hai thế kỉ và cho tới bây giờ chúng ta cũng có thể khẳng định như thế.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về một tác phẩm văn học
Gợi ý
Giáo dục trẻ em sáu tuổi, nhất là việc tổ chức cuộc sống cho các em ở trường học như thế nào là cả một vấn đề khoa học mà nhiều nhà sư phạm có tâm huyết trên thế giới quan tâm. Với quan niệm chỉ dẫn cho trẻ sáu tuổi không chỉ như là học sinh, mà trước hết, như con người đang phát triển, có cuộc sống đa dạng của. mình và những môi quan hệ tương ứng phức tạp với những người xung quanh, để từ đó chỉ ra rằng mỗi trẻ em có thể được nhận thức và giáo dục như một nhân cách chỉ khi ta tính đến cuộc sống thực của nó, những niềm vui sướng và đau khổ, những nhu cầu và khát vọng, những khả năng và hy vọng của trẻ đó cũng là thông điệp mà tác giả s. A. Amonasvili trong cuốn sách Chào các em muốn gửi tới bạn đọc thông qua sáu chương gồm hơn ba trăm năm mươi trang (bản dịch của PGS.TS. Vũ Nho).
Là Giáo sư, Tiến sĩ Tâm lí học, tác giả s. A. Amonasvili quan tâm đến hầu như tất cả các động thái, hành vi và những biểu hiện tâm sinh lý của trẻ em sáu tuổi để hướng đến mục đích tổ chức cuộc sống cửa các em ở trường học. s. A. Amonasvili không bắt đầu với các em từ ngày khai giảng, mà bắt đầu từ Ngày hôm trước (31 tháng 8) – đúng như tiêu đề của Chương một của cuốn sách với nội dung mô tả không khí nhộn nhịp, tinh thần háo hức của các em ngày mai được đến trường; cuộc làm quen gián tiếp (khi người giáo viên đem hồ sơ riêng của học sinh về nhà); gửi thư chúc mừng đến từng em và yêu cầu ở cuối thư: Hãy lấy bút chì màu và giấy và hãy vẽ người thầy giáo đầu tiên của mình,- đúng như em đã hình dung về thầy, đồng thời tính toán số lượng giờ học, bài học sắp tới cho cả năm học, cho cả thời gian học cấp một, tính toán thậm chí đến từng phút tiếp xúc với trẻ em để cố gắng không đánh mất trên đường một giây nào, sau khi không gieo nó lên cánh đồng sư phạm ươm giống đã được cày bừa kỹ.
Chương hai của cuốn sách có tên Khi tôi còn bé (ngày thứ nhất) tác giả đề cập nhiều phương diện giáo dục đan xen và hòa nhuyễn trong một ngày của học sinh tại lớp học mà trước hết là quan niệm về con người – con người từ tương lai khi tác giả nghĩ: nếu tôi biểu lộ tình yêu thật sự của mình với trẻ em, thì nhất định tôi tiến hành điều đó trong hình thức tốt nhất. Với niềm tin và phương châm như vậy, tác giả xác định trường học là của em – sự bình đẳng về quyền được phát triển như thế nào; quan tâm đến những trò tinh nghịch – nguồn cung cấp thức ăn cho các tư tưởng giáo dục tiến lên xa hơn và tại _sao lại cho rằng: có thể trừng phạt những đứa trẻ tinh nghịch, nhưng thật ra cần phải khích lệ (tr. 42); cách thức nâng niu từng chút tâm hồn trẻ thơ cũng như cẩn trọng hướng dẫn các em từng bậc thang của sự trưởng thành… Tuy nhiên, công việc giáo dục không phải bao giờ cũng chỉ gặp những thuận lợi, nhất là khi có những biểu hiện hành vi của học sinh không diễn ra theo dự doán thì nhà sư phạm phải ứng biến ra sao, v.v…Xem thêm: Giới thiệu Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ
Dù thế nào, việc gây được hứng thú vẫn là vấn đề cốt lõi của giờ dạy học, hay nói một cách bóng bẩy như tiêu đề của Chương ba là: Momut (vị chúa củạ tiếng cười) đối mặt với Morophây (vị chúa của buồn ngủ) trong giờ học, tác giả cuô’n sách trình bày khá tỉ mỉ việc cảm nhận niềm vui nhận thức bộc lộ trên từng nét mặt, cũng như niềm thú vị và hạnh phúc của người thầy giáo khi nhìn thấy học sinh đang suy nghĩ. Không khuôn cứng trong quy định của chương trình, người thầy trong cuốn sách dã sáng tạo ra cách phân định tiết học thành từng phần nhỏ, thiết kế những hoạt động “chuyển tiếp” trong giờ ra chơi, tổ chức cho học sinh thực hành ngôn ngữ trong giao tiếp… Chương bốn (Ngày hội sách học vần) và Chương năm (Bản tổng phổ một ngày học) tác giả đề xuât nguyên tắc soạn sách giáo khoa cho trẻ 6 tuổi (cuốn thứ nhất đưa trẻ vào thế giới hoạt động ngôn ngữ; cuốn thứ hai: thế giới bí ẩn của việc đọc; cuốn thứ ba và bôn phát triển hứng thú đọc) hay xác định chủ đề chính của bản giao hưởng sư phạm, (điều kiện cho cuộc sống phát triển của trẻ chuyển động nhanh chóng và hấp dẫn)… được tác giả xem như những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả dạy học. Tiếp tục mạch các chương trước, trong Chương sáu (Nhân cách) tác giả khái quát công việc giáo dục trẻ sáu tuổi bằng mười câu hỏi cần trả lời có thể và mười câu hỏi cần trả lời không nên và kết luận: Cần phải yêu mến các em bằng tất cả trái tim và để có thể yêu các em như thể cần phải học tập ở các em cách biểu lộ tình yêu, đó như thế nào. Mỗi một ngày đến trường, mồi bài học cần phải được nhà sư phạm hiểu như là món quà tặng trẻ em. Mỗi một sự tiếp xúc của em bé với thầy giáo của mình cần phải có được niềm vui sướng và lạc quan (tr. 349). Thực hiện được công việc thiêng liêng đó, theo tác giả, giáo viên là người có được khả năng và quyền trở thành bất tử nếu như người đó có thể gieo cái mầm tốt đẹp của tâm hồn mình vào tâm hồn học sinh và làm cho trái, tim các em nhạy cảm với mọi mối quan tâm của con người. Người giáo viên chân chính không bao giờ chết vì họ đã hóa thân vào hàng nghìn chàng trai và cô gái, biến thành nhân cách của họ, thành những con người có mục đích cao quý, có trái tim rực cháy của Đankô (tr. 24).Xem thêm: Phân tích nhân vật Uy-lít-xơ trong trích đoạn: Uy-lít-xơ đấu trí, đấu lực với Pô-li-phem Đúng như ý kiến trong Lời tựa của A. V. Petrovski – Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên Xô, cuốn sách của s. A. Amonasvili khác thường ở chỗ không thể xác định được thể loại, nó được thể hiện thông qua cách mô tả hoạt động của thầy giáo với đối tượng trẻ sáu tuổi một cách giản dị, sinh động và sâu sắc. Độc giả Việt Nam có thể thấy tư tưởng c.ủa tác giả s. A. Amonasvili gần gũi, dễ chia sẻ… một phần cũng nhờ ở khả năng chuyển ngữ linh hoạt, mềm mại bởi sở trường kiến thức chuyên môn về phương pháp dạy học của nhà văn – dịch giả Vũ Nho.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation of a literary work
Suggest
Educating six-year-old children, especially how to organize their life at school, is a scientific issue that many enthusiastic educators around the world are interested in. With the concept of guiding six-year-old children not only as students, but first and foremost, as developing human beings with diverse lives. themselves and their corresponding complex relationships with those around them, thereby showing that each child can be perceived and educated as a personality only when we take into account his real life, his joy and suffering, needs and aspirations, abilities and hopes of children are also the message that the author s. A. Amonasvili in the book Hello everyone wants to send it to readers through six chapters consisting of more than three hundred and fifty pages (translated by Associate Professor, Dr. Vu Nho).
Professor, Doctor of Psychology, author s. A. Amonasvili is interested in almost all the movements, behaviors and physiological manifestations of six-year-old children with the aim of organizing their life at school. S. A. Amonasvili does not start with the students from the first day of school, but from the day before (August 31) - exactly as the title of Chapter One of the book describes the bustling atmosphere and eager spirit. The children's excitement about going to school tomorrow; indirect acquaintance (when the teacher brings the student's private file home); Send a congratulatory letter to each child and ask at the end of the letter: Take colored pencils and paper and draw your first teacher - exactly as you envision him, and calculate the number of class hours. , the upcoming lesson for the whole school year, for the whole period of primary school, calculating even every minute of contact with children trying not to lose a single second on the road, after not sowing it in the field Seeding pedagogy has been thoroughly plowed.
Chapter two of the book is called When I was a child (day one), the author mentions many aspects of education that are interwoven and blended together in a student's day in the classroom, first of all the concept of people - children. person from the future when the author thinks: if I express my true love to children, then I will definitely do it in the best form. With such beliefs and mottos, the author determines that school is hers - how equality in rights is developed; interest in mischief - a source of food for further educational ideas and why it is thought that mischievous children can be punished, but in fact they need to be encouraged (p. 42); how to cherish every bit of a child's soul as well as carefully guide them through each step of maturity... However, educational work does not always only meet with advantages, especially when there are signs of Now the student's behavior is not happening as expected, how should the educator improvise, etc. See more: Introduction to the story of the judge of Tan Vien temple by Nguyen Du
In any case, creating interest is still the core issue of teaching, or to put it figuratively as the title of Chapter three is: Momut (the lord of laughter) faces Morophây (the lord of laughter). sleepy) during class, the author of the book presents quite meticulously the feeling of cognitive joy revealed on each facial expression, as well as the excitement and happiness of the teacher when seeing students studying. think. Without rigid rules in the program, the teacher in the book created a way to divide the lesson into small parts, design "transition" activities during recess, and organize students to practice. language in communication... Chapter four (Rhyming book festival) and Chapter five (Score of a school day) the author proposes principles for preparing textbooks for 6-year-old children (the first book brings children into the active world). language dynamics; the second book: the mysterious world of reading; the third book and four develop interest in reading) or identify the main theme of the pedagogical symphony, (conditions for the child's developing life). moving quickly and attractively)... are considered by the author as effective solutions to improve teaching effectiveness. Continuing the flow of the previous chapters, in Chapter six (Personality), the author summarizes the work of educating six-year-old children with ten questions that need to be answered that should be possible and ten questions that need to be answered that should not be answered and concludes: Need to love Love them with all your heart and to be able to love them as if you need to learn from them how to express love, what it looks like. Every day at school, lessons need to be understood by educators as a gift to children. Every contact a child has with his or her teacher should be filled with joy and optimism (p. 349). To carry out that sacred work, according to the author, a teacher has the ability and right to become immortal if he or she can sow the good seed of his or her soul into the student's soul and make it happen. Your heart is sensitive to all human concerns. True teachers never die because they have transformed into thousands of boys and girls, transformed into their personalities, into people with noble goals and burning hearts of Danko (p. 24).See more: Analysis of the character of Uy-Litz in the excerpt: Uy-Litz fights wits and forces with Poliphem Just as the opinion in the Foreword by A. V. Petrovski - Academician of the Academy Forestry of educational science of the USSR, book by S. A. Amonasvili is unusual in that the genre cannot be determined, it is expressed through a simple, vivid and profound description of the teacher's activities with six-year-old children. Vietnamese readers can see the author's thoughts. A. Amonasvili is close and easy to share... partly thanks to the ability to translate smoothly and flexibly due to writer - translator Vu Nho's expertise in teaching methods.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về những tác hại của thuốc lá đối với đời sống con người
Hướng dẫn
– Bệnh nghiện thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng con người còn nặng hơn AIDS.
– Trích dẫn câu văn của Trần Hưng Đạo nêu nhận xét về cách đánh của giặc, trước khi phân tích tác hại của thuốc lá, tác giả ví ngầm thuốc lá với ai? Sự tác hại như thế nào mới là đáng sợ? Cái chết của những người hút thuốc lá có giống như “Giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu” đất nước, dân tộc ta? Như vậy, lối lập luận có chặt chẽ không, có làm tăng độ cảnh báo của tác giả đối với người hút thuốc không?
– Sự thật thì đã có người nói:“Tôi /lút, tôi bị bệnh, mặc tôi!”. Đúng là quyền tự do cá nhân. Nhưng tác giả đã đáp lại như thế nào? Không khí đê thở là tài sản chung hay là tài sản riêng của người nghiện thuốc gây ra mà tác giả dã nêu có đúng ỉ à tội ác không?
– Người lớn đã đẩy con em vào con đường phạm pháp bằng cách nào? Các nước ở châu Âu đã làm gì để chống thuốc lá? Đất nước ta đã thanh toán một số bệnh hiểm nghèo như châu Âu chưa? Bây giờ nhiễm bệnh thuốc lá thì sẽ như thể nào? Kiến nghị của tác giả có xác đáng không?
I. Có câu chuyện kể lại rằng một nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã quan sát thổ dân ở quần đảo Ăng-tin (Antilles) vùng biển Đại Tây Dương quấn một loại lá iu ỉu khô rồi đốt và hút. Nhà thám hiểm đó đã thử làm theo và cảm thấy có chút lâng lâng sảng khoái. Thế là hạt giống được đưa về Tây Ban Nha, châu Âu và rồi lan khắp thế giới, mà nơi trồng nhiều nhất là Trung Quốc, Ân Độ, Bra-xin, Nhật Bản,… Mỗi năm toàn thế giới sản xuất khoảng bốn triệu tấn thuốc lá khô.
ít ai ngờ loại cây dùng để hút chơi, làm thuốc chữa bệnh ngoài da, rắn rết và côn trùng cắn, và có thể chế thành thuốc trừ sâu lại là loài cây độc hại. Ớ Việt Nam, ông Nguyễn Khắc Viện đã lên tiếng báo động: “Ôn dịch, thuốc lá".
II.Bài nghị luận của Nguyễn Khắc Viện có thể được chia làm ba phần, với nội dung cụ thể:
– Ôn dịch thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.
– Cách gây hại của thuốc lá đối với cá nhân người nghiện và đối với những người chung quanh, nhất là đối với thanh thiếu nhi.
– Thế giới chống hút thuốc lá.
ở phần đầu bài của bài văn, với vốn kiến thức khái quát về y học khá rộng, Nguyễn Khắc Viện đã đề cập đến các bệnh nguy hiểm, lây lan nhanh và rộng làm chết người hàng loạt, người đời thường gọi là ôn dịch như dịch hạch, dịch thổ tả, mà “nhờ tiến bộ y học, loài người hầu như đã diệt trừ được những dịch khủng khiếp ấy".Tác giả còn đề cập đến việc “cả thế giới đang lo âu về AIDS” vì chưa tìm ra thuốc điều trị. Nhắc đến những bệnh dịch khủng khiếp đã điều chế được thuốc đặc trị hay chưa là để nhấn mạnh một dịch bệnh khác đã xuất hiện khá lâu, mọi người đều thấy, nhưng vì thiếu hiểu biết nên chưa nhận ra: “Ôn dịch, thuốc lá"! Ôn dịch,về từ Hán Việt có nghĩa là bệnh thời khí hay bệnh truyền nhiễm, nhưng còn có ý mắng nhiếc, chửi rủa trong khẩu ngữ hàng ngày. Trong tựa đề của bài văn, tác giả còn dùng dấu phẩy để tách rời ôn dịchvà thuốc lálà để nhấn mạnh cả hai nghĩa đối với thuốc lá.Điều đó thể hiện thái độ dứt khoát ghê tởm thuốc lá của ông. Tại sao thế? Bởi vì “thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.”
Phần hai của bài văn, tác giả tập trung giải thích, chứng minh và bình luận nhằm trả lời câu hỏi: Tại sao thuốc lá lại đe dọa đến sức khỏe và tính mạng của loài người còn nặng hơn cả AIDS?
Trước khi giải thích và chứng minh để trả lời câu hỏi trên, Nguyên Khắc Viện đã trích dẫn nhận xét của Trần Hưng Đạo về cách xâm lược của quân Nguyên rằng:
“Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu".
Trích dẫn danh ngôn ấy, Nguyễn Khắc Viện muôn so sánh để nhân mạnh sự đáng sợ về cách hủy hoại con người của thuốc lá. Từ ý nghĩ có tính khái quát ấy, tác giả bắt đầu giải thích và chứng minh.
Vốn là một bác sĩ học và tốt nghiệp tại Pháp, Nguyễn Khắc Viện đã vận dụng kiến thức y học để giải thích tại sao chất hắc ín có trong thuốc lá là thủ phạm gây ra bệnh ung thư, mà “trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá".
Xem thêm: Suy nghĩ về tình yêu đất nướcTác giả còn cho người đọc biết trong thuốc lá còn có chất ô-xít cac-bon, “chất này thấm vào máu, bám chặt các hồng cầu không cho chúng tiếp cận ô-xi nữa”.Hồng huyết cầu không được tiếp cận ô-xi thì sẽ không tái sinh. Điều này ảnh hưởng tiêu cực nặng nề đến năng lực làm việc của mỗi người vì sức khỏe ngày một yếu dần đi theo lối “tằm ăn dâu”. Trong thuốc lá còn có chất ni-cô-tin. Đây là một chất gây nghiện cực độc. Khi đã nghiện người hút thuốc lá vẫn sống dai dẳng, sức khỏe bị hao mòn dần như kiểu “tằm ăn dâu” khiến ảnh hưởng đến sức lao động và tốn tiền mua thuốc lá. Lượng ni-cô-tin nhiều gây nên những bệnh cực kỳ nguy hiểm như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim. Để chứng minh những bệnh nguy hại ấy do thuốc lá gây ra, tác giả đã nêu những điều mà ông chứng kiến khi hành nghề ở nhiều bệnh nhân khác nhau. “Có thấy một bệnh nhân bị tắc động mạch chân lên những cơn đau như thể nào, rồi phải
cắt dần từng ngón chân.đến cả bàn chân; có thấy những người 40-50 tuổi đã chết đột xuất vì nhồi máu cơ tim; có thấy những khối ung thư ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê tởm của thuốc lá".Những hình ảnh ấy đã chứng minh cái đáng sợ của những bệnh do thuốc lá gây ra. Đưa những hình ảnh ghê rợn này vào bài viết để nhấn mạnh thêm về sự đáng sợ ấy với hy vọng người chưa biết hút thuốc lá hãy tránh xa nó, còn người đã lỡ hút thì hãy tìm cách từ bỏ nó để cứu vòm họng, hai lá phổi, hồng cầu, các động mạch trong chính cơ thể mình. Nhờ vậy mà sức khỏe tốt dần lên, môi trường trong lành hơn.
Người hút thuốc thường bảo: “7ÌÔỈ hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!".Đúng đó là quyền tự do cá nhân mà luật pháp chưa cấm đoán, nhưng có quyền ra quy định hạn chế do có liên quan đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Không khí để thở là tài sản chung. Hút thuốc nơi công cộng “thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc”, nghĩa là người hút thuốc đã phạm vào tài sản chung ấy. Để chứng minh cho lập luận sắc bén ấy bằng một loạt người bị nhiễm độc vì sông chung với người hút thuốc lá như vợ con, người làm cùng phòng. Tác giả còn cố đánh thức lương tri của mọi người bằng lời văn gây cảm xúc: “Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu".
Người nghĩ đến gia đình, vợ con ắt hẳn sẽ không hút thuốc bên cạnh người vợ đang mang thai sau khi đọc câu văn vừa thắm thiết tình người vừa chỉ rõ hậu quả của sự nhiễm độc khói thuốc lá ấy.
Đoạn cuối phần hai của bài văn, tác giả tập trung nêu gương xấu của người lớn hút thuốc đối với thiếu niên. Ông nêu ra tỉ lệ thanh thiếu niên hút thuốc lá ởcác thành phố lớn Âu-Mĩ ngang bằng với nước ta, nhưng để có tiền mua một bao thuốc lá 555 cho đứng kẻ sành điệu là cả một vấn đề. Với thanh thiếu niên Âu-Mĩ thì đó chỉ là khoản tiền nhỏ, còn với thiếu niên Việt Nam, nếu muôn có thì “c/ĩỉ có một cách là trộm cắp".Ngạn ngữ phương Tây có câu “trộm cắp một quả trứng, (có thể) trộm cắp một con bò (sau này)”.Thông thường là trộm cắp của người trong nhà, lúc đầu lấy ít thôi (quả trứng), nhưng càng về sau thì tài sản trộm cắp càng lớn (con bò). Khi không thể trộm cắp trong nhà nữa thì trộm cắp bên ngoài để thỏa mãn việc hút thuốc lá, uống một cốc bia, rồi đến với ma tuý. Và tác giả quy tội: “Người lớn hút thuốc trước mặt trẻ em, lấy điếu thuốc làm cử chỉ cho một biểu tượng quý trọng, chính là đẩy con em vào con đường phạm pháp".
Phần cuối của bài văn, tác giả bàn về việc chống hút thuốc ở châu Âu bằng những quy định: cấm hút thuốc lá nơi công cộng, phạt nặng những ai vi phạm và tái phạm, cấm quảng cáo thuốc lá trên các phương tiện truyền thông, tuyên truyền rộng khắp những tác hại do thuốc lá gây ra để đạt được mục đích “Mộ/ châu Ấu không còn thuốc lá".Từ thực tế của các nước phát triển ở châu Âu, tác giả đã so sánh với thực trạng nhiều bệnh tật do vi trùng, ký sinh trùng gây ra nhưng chưa thanh toán được ở nước ta, “lại ôm thêm ôn dịch thuốc lá"để cất lời kêu gọi: “Đã à ứng lên chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này".
Với lời văn bình dị, lập luận bằng phép nhân quả, so sánh đối chiếu theo một trật tự hợp lý, Nguyễn Khắc Viện đã giúp người đọc nhận ra thuốc lá là tác nhân chính của một số bệnh nguy hiểm chết người. Nó còn nguy hiểm hơn các bệnh ôn dịch khác do có chất gây nghiện đẩy dần thanh thiếu niên vào con đường phạm pháp, gây tác hại nhiều mặt đối với cuộc sông gia đình và xã hội. Biết vậy nhưng thuốc lá vẫn tồn tại với lời cảnh báo trên bao bì. Và chờ một quyết tâm cao hơn, biện pháp triệt để hơn trong việc phòng chống ôn dịch này.
Nguồn: thêm: Chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta
|
Thuyết minh về những tác hại của thuốc lá đối với đời sống con người
Hướng dẫn
– Bệnh nghiện thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng con người còn nặng hơn AIDS.
– Trích dẫn câu văn của Trần Hưng Đạo nêu nhận xét về cách đánh của giặc, trước khi phân tích tác hại của thuốc lá, tác giả ví ngầm thuốc lá với ai? Sự tác hại như thế nào mới là đáng sợ? Cái chết của những người hút thuốc lá có giống như “Giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu” đất nước, dân tộc ta? Như vậy, lối lập luận có chặt chẽ không, có làm tăng độ cảnh báo của tác giả đối với người hút thuốc không?
– Sự thật thì đã có người nói:“Tôi /lút, tôi bị bệnh, mặc tôi!”. Đúng là quyền tự do cá nhân. Nhưng tác giả đã đáp lại như thế nào? Không khí đê thở là tài sản chung hay là tài sản riêng của người nghiện thuốc gây ra mà tác giả dã nêu có đúng ỉ à tội ác không?
– Người lớn đã đẩy con em vào con đường phạm pháp bằng cách nào? Các nước ở châu Âu đã làm gì để chống thuốc lá? Đất nước ta đã thanh toán một số bệnh hiểm nghèo như châu Âu chưa? Bây giờ nhiễm bệnh thuốc lá thì sẽ như thể nào? Kiến nghị của tác giả có xác đáng không?
I. Có câu chuyện kể lại rằng một nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã quan sát thổ dân ở quần đảo Ăng-tin (Antilles) vùng biển Đại Tây Dương quấn một loại lá iu ỉu khô rồi đốt và hút. Nhà thám hiểm đó đã thử làm theo và cảm thấy có chút lâng lâng sảng khoái. Thế là hạt giống được đưa về Tây Ban Nha, châu Âu và rồi lan khắp thế giới, mà nơi trồng nhiều nhất là Trung Quốc, Ân Độ, Bra-xin, Nhật Bản,… Mỗi năm toàn thế giới sản xuất khoảng bốn triệu tấn thuốc lá khô.
ít ai ngờ loại cây dùng để hút chơi, làm thuốc chữa bệnh ngoài da, rắn rết và côn trùng cắn, và có thể chế thành thuốc trừ sâu lại là loài cây độc hại. Ớ Việt Nam, ông Nguyễn Khắc Viện đã lên tiếng báo động: “Ôn dịch, thuốc lá".
II.Bài nghị luận của Nguyễn Khắc Viện có thể được chia làm ba phần, với nội dung cụ thể:
– Ôn dịch thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.
– Cách gây hại của thuốc lá đối với cá nhân người nghiện và đối với những người chung quanh, nhất là đối với thanh thiếu nhi.
– Thế giới chống hút thuốc lá.
ở phần đầu bài của bài văn, với vốn kiến thức khái quát về y học khá rộng, Nguyễn Khắc Viện đã đề cập đến các bệnh nguy hiểm, lây lan nhanh và rộng làm chết người hàng loạt, người đời thường gọi là ôn dịch như dịch hạch, dịch thổ tả, mà “nhờ tiến bộ y học, loài người hầu như đã diệt trừ được những dịch khủng khiếp ấy".Tác giả còn đề cập đến việc “cả thế giới đang lo âu về AIDS” vì chưa tìm ra thuốc điều trị. Nhắc đến những bệnh dịch khủng khiếp đã điều chế được thuốc đặc trị hay chưa là để nhấn mạnh một dịch bệnh khác đã xuất hiện khá lâu, mọi người đều thấy, nhưng vì thiếu hiểu biết nên chưa nhận ra: “Ôn dịch, thuốc lá"! Ôn dịch,về từ Hán Việt có nghĩa là bệnh thời khí hay bệnh truyền nhiễm, nhưng còn có ý mắng nhiếc, chửi rủa trong khẩu ngữ hàng ngày. Trong tựa đề của bài văn, tác giả còn dùng dấu phẩy để tách rời ôn dịchvà thuốc lálà để nhấn mạnh cả hai nghĩa đối với thuốc lá.Điều đó thể hiện thái độ dứt khoát ghê tởm thuốc lá của ông. Tại sao thế? Bởi vì “thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.”
Phần hai của bài văn, tác giả tập trung giải thích, chứng minh và bình luận nhằm trả lời câu hỏi: Tại sao thuốc lá lại đe dọa đến sức khỏe và tính mạng của loài người còn nặng hơn cả AIDS?
Trước khi giải thích và chứng minh để trả lời câu hỏi trên, Nguyên Khắc Viện đã trích dẫn nhận xét của Trần Hưng Đạo về cách xâm lược của quân Nguyên rằng:
“Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu".
Trích dẫn danh ngôn ấy, Nguyễn Khắc Viện muôn so sánh để nhân mạnh sự đáng sợ về cách hủy hoại con người của thuốc lá. Từ ý nghĩ có tính khái quát ấy, tác giả bắt đầu giải thích và chứng minh.
Vốn là một bác sĩ học và tốt nghiệp tại Pháp, Nguyễn Khắc Viện đã vận dụng kiến thức y học để giải thích tại sao chất hắc ín có trong thuốc lá là thủ phạm gây ra bệnh ung thư, mà “trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá".
Xem thêm: Suy nghĩ về tình yêu đất nướcTác giả còn cho người đọc biết trong thuốc lá còn có chất ô-xít cac-bon, “chất này thấm vào máu, bám chặt các hồng cầu không cho chúng tiếp cận ô-xi nữa”.Hồng huyết cầu không được tiếp cận ô-xi thì sẽ không tái sinh. Điều này ảnh hưởng tiêu cực nặng nề đến năng lực làm việc của mỗi người vì sức khỏe ngày một yếu dần đi theo lối “tằm ăn dâu”. Trong thuốc lá còn có chất ni-cô-tin. Đây là một chất gây nghiện cực độc. Khi đã nghiện người hút thuốc lá vẫn sống dai dẳng, sức khỏe bị hao mòn dần như kiểu “tằm ăn dâu” khiến ảnh hưởng đến sức lao động và tốn tiền mua thuốc lá. Lượng ni-cô-tin nhiều gây nên những bệnh cực kỳ nguy hiểm như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim. Để chứng minh những bệnh nguy hại ấy do thuốc lá gây ra, tác giả đã nêu những điều mà ông chứng kiến khi hành nghề ở nhiều bệnh nhân khác nhau. “Có thấy một bệnh nhân bị tắc động mạch chân lên những cơn đau như thể nào, rồi phải
cắt dần từng ngón chân.đến cả bàn chân; có thấy những người 40-50 tuổi đã chết đột xuất vì nhồi máu cơ tim; có thấy những khối ung thư ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê tởm của thuốc lá".Những hình ảnh ấy đã chứng minh cái đáng sợ của những bệnh do thuốc lá gây ra. Đưa những hình ảnh ghê rợn này vào bài viết để nhấn mạnh thêm về sự đáng sợ ấy với hy vọng người chưa biết hút thuốc lá hãy tránh xa nó, còn người đã lỡ hút thì hãy tìm cách từ bỏ nó để cứu vòm họng, hai lá phổi, hồng cầu, các động mạch trong chính cơ thể mình. Nhờ vậy mà sức khỏe tốt dần lên, môi trường trong lành hơn.
Người hút thuốc thường bảo: “7ÌÔỈ hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!".Đúng đó là quyền tự do cá nhân mà luật pháp chưa cấm đoán, nhưng có quyền ra quy định hạn chế do có liên quan đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Không khí để thở là tài sản chung. Hút thuốc nơi công cộng “thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc”, nghĩa là người hút thuốc đã phạm vào tài sản chung ấy. Để chứng minh cho lập luận sắc bén ấy bằng một loạt người bị nhiễm độc vì sông chung với người hút thuốc lá như vợ con, người làm cùng phòng. Tác giả còn cố đánh thức lương tri của mọi người bằng lời văn gây cảm xúc: “Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu".
Người nghĩ đến gia đình, vợ con ắt hẳn sẽ không hút thuốc bên cạnh người vợ đang mang thai sau khi đọc câu văn vừa thắm thiết tình người vừa chỉ rõ hậu quả của sự nhiễm độc khói thuốc lá ấy.
Đoạn cuối phần hai của bài văn, tác giả tập trung nêu gương xấu của người lớn hút thuốc đối với thiếu niên. Ông nêu ra tỉ lệ thanh thiếu niên hút thuốc lá ởcác thành phố lớn Âu-Mĩ ngang bằng với nước ta, nhưng để có tiền mua một bao thuốc lá 555 cho đứng kẻ sành điệu là cả một vấn đề. Với thanh thiếu niên Âu-Mĩ thì đó chỉ là khoản tiền nhỏ, còn với thiếu niên Việt Nam, nếu muôn có thì “c/ĩỉ có một cách là trộm cắp".Ngạn ngữ phương Tây có câu “trộm cắp một quả trứng, (có thể) trộm cắp một con bò (sau này)”.Thông thường là trộm cắp của người trong nhà, lúc đầu lấy ít thôi (quả trứng), nhưng càng về sau thì tài sản trộm cắp càng lớn (con bò). Khi không thể trộm cắp trong nhà nữa thì trộm cắp bên ngoài để thỏa mãn việc hút thuốc lá, uống một cốc bia, rồi đến với ma tuý. Và tác giả quy tội: “Người lớn hút thuốc trước mặt trẻ em, lấy điếu thuốc làm cử chỉ cho một biểu tượng quý trọng, chính là đẩy con em vào con đường phạm pháp".
Phần cuối của bài văn, tác giả bàn về việc chống hút thuốc ở châu Âu bằng những quy định: cấm hút thuốc lá nơi công cộng, phạt nặng những ai vi phạm và tái phạm, cấm quảng cáo thuốc lá trên các phương tiện truyền thông, tuyên truyền rộng khắp những tác hại do thuốc lá gây ra để đạt được mục đích “Mộ/ châu Ấu không còn thuốc lá".Từ thực tế của các nước phát triển ở châu Âu, tác giả đã so sánh với thực trạng nhiều bệnh tật do vi trùng, ký sinh trùng gây ra nhưng chưa thanh toán được ở nước ta, “lại ôm thêm ôn dịch thuốc lá"để cất lời kêu gọi: “Đã à ứng lên chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này".
Với lời văn bình dị, lập luận bằng phép nhân quả, so sánh đối chiếu theo một trật tự hợp lý, Nguyễn Khắc Viện đã giúp người đọc nhận ra thuốc lá là tác nhân chính của một số bệnh nguy hiểm chết người. Nó còn nguy hiểm hơn các bệnh ôn dịch khác do có chất gây nghiện đẩy dần thanh thiếu niên vào con đường phạm pháp, gây tác hại nhiều mặt đối với cuộc sông gia đình và xã hội. Biết vậy nhưng thuốc lá vẫn tồn tại với lời cảnh báo trên bao bì. Và chờ một quyết tâm cao hơn, biện pháp triệt để hơn trong việc phòng chống ôn dịch này.
Nguồn: thêm: Chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta
|
Thuyết minh về những tác hại của thuốc lá
Hướng dẫn
Thuốc lá không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn ảnh hưởng đến người sức khỏe của con người. Hút thuốc có thể gây một số bệnh nguy hiểm cho người hút và cả những người xung quanh. Vì vậy con người nên từ bỏ thuốc lá càng sớm càng tốt.
Thuốc là không chỉ gây hại cho người hút mà còn gây hại cho những người xung quanh. Ước tính mỗi năm có 5 triệu người chết vì thuốc lá. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và đã tìm thấy trong khói thuốc lá có hơn 4000 hóa chất trong đó có hơn 200 loại có hại cho sức khoẻ, bao gồm chất gây nghiện, các chất gây độc, trong đó có 43 chất được biết là nguyên nhân gây ung thư, đặc biệt là ung thư phổi. Hút thuốc không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến sự duy trì giống nòi.
Ngoài ra hút thuốc lá còn có nguy cơ dẫn đến nhiều bệnh ung thư khác như ung tư miệng, đại tràng, vòm họng, thực quản, gan, thận…Các nhà khoa học đã khảo sát và tìm ra đc rằng tuổi thọ trung bình của người hút thuốc ngắn hơn so với người không hút thuốc từ 05 đến 08 năm, tức là khi hút 1 điếu thuốc tự ta đã làm mất đi 5,5 phút cuộc sống. Thế thì có phải chỉ có người hút mới chịu những tác hại xấu do thuốc lá?Xem thêm: Phân tích bài thơ Dục Thuý Sơn của Nguyễn Trãi.
Những người không hút thuốc nhưng hít phải khói thuốc có nguy cơ bị mắc các bệnh kinh niên và cấp tính về họng, tai và trí tuệ cũng như sức khoẻ thể chất bị ảnh hưởng. Phụ nữ hút thuốc khi mang thai có nguy cơ bị sẩy thai cao hơn, sinh con nhẹ cân, hoặc con bị ốm, tử vong. Trẻ sơ sinh của những người cha hút thuốc trong những tháng trước và trong thời gian mang thai của người mẹ có nguy cơ gấp đôi bị hở hàm ếch, bạch cầu và chịu mức rủi ro bị ung thư não cao hơn tới 40% so với những trẻ có cha không bao giờ hút thuốc. Đó là những ảnh hưởng không nhỏ tí nào.
Theo ước tính, mỗi năm người Việt Nam chi 8.200 tỷ đồng để hút thuốc lá. Trong khi số tiền đó đủ để mua lương thực nuôi sống 10,6 triệu người. Chi tiêu cho thuốc lá ở nước ta cao gấp 3,6 lần phí tổn học hành, gấp 2,5 lần mức chi cho quần áo và gần gấp đôi mức chi cho khám chữa bệnh. Mặt khác, bệnh tật mà thuốc lá đem lại đã tăng thêm gánh nặng kinh tế cho mỗi gia đình và làm mất đi lực lượng lao động. Vì thuốc lá, những người nghèo ngày càng trở nên kiệt quệ. Trong thực tế, đối với nhiều gia đình thì chi phí cho hậu quả của việc hút gây ra còn tốn kém hơn nhiều so với chi phí để mua thuốc. Khi một thanh niên trong gia đình bị ốm do thuốc lá thì gia đình này phải chịu những chi phí điều trị chăm sóc, tốn kém thời gian. Thế là từ chuyện hút thuốc nảy sinh ra nhiều vấn đề khác.Xem thêm: Tôi tên là Oanh Liệt... mới. Dựa theo những lời tâm sự trên, anh (chị) hãy viết một truyện ngắn theo ngôi kể thử nhất kể về số phận và nỗi niềm của một con gà chọi bị bỏ rơi
Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã giảm tỉ lệ người hút thuốc lá một cách nhanh chóng như Hoa Kỳ và Canada. Ở nhiều nước phương Tây, giờ đây việc hút thuốc lá ở những nơi công cộng như nhà hàng, bệnh viện và trường học là phạm pháp. Vì thuốc lá đang bị tẩy chay tại những nước này, các công ty thuốc lá đã để mắt tới những nước đang phát triển, sự hiểu biết của người dân còn có hạn nhằm mục đích phát triển thị trường của mình.
Từ bỏ hút thuốc không có gì là khó, chỉ cần chúng ta quyết tâm là sẽ làm được. Và quan trọng nhất, ta phải quyết tâm cai thuốc: trước khi cai thuốc, ta phải quyết định thật sự mình muốn gì chứ không phải chỉ gia đình, bạn bè của mình muốn gì.Hãy lên kế hoạch cho tương lai, đưa ra các mục tiêu cho mình và lập kế hoạch để thực hiện và hãy tập trung vào các mục tiêu đó hút thuốc có thể xuất hiện trong quá trình thực hiện mục tiêu. Một trong những cách hữu hiệu nhất là nhai kẹo cao su mỗi khi muốn hút thuốc. Tập dần thói quen này dần sẽ thay thế hẳn luôn việc nghiện thuốc lá. Và sau khi ta đã bỏ được, đôi khi những cơn “ghiền” vẫn quay lại. Hãy sẵn sàng để đối phó nếu tình huống đó xảy ra. Cai thuốc không phải là việc dễ dàng nhưng nhiều người vẫn làm được.Xem thêm: Tự ý thức và phẩm giá con người qua đoạn trích Nỗi thương mình trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Hút thuốc lá ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe của cá nhân và của cộng đồng. Vì vậy mọi người hãy từ bỏ thuốc lá để bảo vệ bản thân và những người xung quanh trong gia đình, giảm gánh nặng cho xã hội và góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Nguồn:
|
Explanation about the harmful effects of tobacco
Instruct
Cigarettes not only affect the environment but also affect human health. Smoking can cause a number of dangerous diseases for smokers and those around them. Therefore, people should give up smoking as soon as possible.
Smoking is not only harmful to the smoker but also harmful to those around them. It is estimated that 5 million people die each year from tobacco. Scientists have researched and found that in cigarette smoke there are more than 4,000 chemicals, of which more than 200 are harmful to health, including narcotics and toxic substances, of which 43 are known. is a cause of cancer, especially lung cancer. Smoking not only affects health but also affects the maintenance of the species.
In addition, smoking also has the risk of leading to many other cancers such as cancer of the mouth, colon, nasopharynx, esophagus, liver, kidney... Scientists have surveyed and found that the average life expectancy The life of a smoker is 5 to 8 years shorter than that of a non-smoker, which means that when you smoke 1 cigarette, you lose 5.5 minutes of your life. So is it true that only smokers suffer bad effects from cigarettes? See more: Analysis of the poem Duc Thuy Son by Nguyen Trai.
Non-smokers who inhale secondhand smoke are at risk of chronic and acute diseases of the throat, ears and mind, as well as having their physical health affected. Women who smoke during pregnancy have a higher risk of miscarriage, having a low birth weight baby, or having a sick or dead baby. Babies of fathers who smoked in the months before and during the mother's pregnancy are twice as likely to have cleft palate, leukemia and have up to a 40% higher risk of brain cancer. children whose fathers never smoked. Those are no small effects at all.
According to estimates, every year Vietnamese people spend 8,200 billion VND to smoke cigarettes. Meanwhile, that amount is enough to buy food to feed 10.6 million people. Spending on tobacco in our country is 3.6 times higher than the cost of education, 2.5 times higher than spending on clothing and nearly double the cost of medical examination and treatment. On the other hand, the diseases brought by tobacco have increased the economic burden on each family and eliminated the workforce. Because of tobacco, poor people are becoming more and more exhausted. In fact, for many families, the cost of the consequences of smoking is much more expensive than the cost of buying drugs. When a young person in a family gets sick due to smoking, this family has to bear the costs of treatment and care, which is time-consuming. So from smoking, many other problems arose. See more: My name is Oanh Liet... new. Based on the above confessions, write a short story in first person about the fate and feelings of an abandoned fighting cock.
Currently, many countries around the world have rapidly reduced the rate of smoking, such as the United States and Canada. In many Western countries, it is now illegal to smoke in public places such as restaurants, hospitals and schools. Because cigarettes are being boycotted in these countries, tobacco companies have turned their attention to developing countries with limited people's understanding in order to develop their markets.
Giving up smoking is not difficult, we just need to be determined to do it. And most importantly, we must be determined to quit smoking: before quitting smoking, we must decide what we really want, not just what our family and friends want. Plan for the future, give Set goals for yourself and make a plan to achieve them and stay focused on those goals. Smoking may appear in the process of achieving your goals. One of the most effective ways is to chew gum every time you want to smoke. Gradually practicing this habit will gradually replace smoking addiction. And after we've quit, sometimes the "addictions" still come back. Be ready to deal with it if that situation occurs. Quitting smoking is not an easy task, but many people can still do it. See more: Self-awareness and human dignity through the excerpt "My Love" from "The Tale of Kieu" by Nguyen Du.
Smoking affects the economy, health of individuals and the community. Therefore, everyone should quit smoking to protect themselves and those around them in the family, reduce the burden on society and contribute to the country's economic development.
Source:
|
Đề bài: Thuyết minh về nón lá Việt Nam
Chiếc nón lá là người bạn thủy chung, gần gũi của người phụ nữ Việt Nam. Chiếc nón đã được chạm khắc trên những cổ vật như trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào 2500-3000 năm về trước.
Theo sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, nón cũng có nhiều biến đổi về kiểu dáng và chất liệu. Lúc đầu khi chưa có dụng cụ để khâu thắt, nón được tết đan. Còn loại nón khâu như ngày nay xuất hiện phải nhờ đến sự ra đời của chiếc kim, tức là vào thời kỳ người ta chế luyện được sắt (khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên).
Nguyên liệu làm nón không phức tạp. Ở nơi nào cũng vậy, muốn làm được một chiếc nón phải dùng lá của một loại cọ nhỏ mọc hoang để lợp, dùng một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc (ngày nay người ta thường dùng sợi chỉ nilon) để khâu và tre làm vành. Tàu lá nón khi đem về vẫn còn xanh nhăn nheo, được đem là bằng cách dùng một miếng sắt đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm giẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu nóng quá thì bị giòn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại nhăn như cũ. Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc.
Tre chọn ống dài vuốt nhọn, gác lên dàn bếp hong khói chống mối mọt, dùng làm vòng nón. Nón Chuông (làng nón nổi tiếng Việt Nam ở làng Chuông, huyện Thanh Oai – Hà Nội) có 16 lớp vòng. Con số 16 là kết quả của sự nghiên cứu, lựa chọn qua nhiều năm, cho đến nay đã trở thành một nguyên tắc không thay đổi. Nhưng vẻ đẹp của chiếc nón chủ yếu nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ tạo nên. Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc dùng để khâu thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làng Chuông là các múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng.
Xem thêm: Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long), từ đó nêu ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm nàyCác cô gái Việt Nam chăm chút chiếc nón như một vật trang sức, đôi khi là vật để trao đổi tâm tư tình cảm của riêng mình. Người ta gắn lên đỉnh của lòng nón một mảnh gương tròn nho nhỏ để các cô gái làm duyên kín đáo. Công phu nhất là vừa vẽ chìm dưới lớp lá nón những hoa văn vui mắt, hay những hình ảnh bụi tre, đồng lúa, những câu thơ trữ tình, phải soi lên nắng mới thấy được gọi là nón bài thơ.
Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín đáo của người phụ nữ Việt Nam.
Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao… chiếc nón được coi là một thứ phục trang truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Nón có nhiều loại, nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh mai hơn… tất cả đều để che chắn cho những con người sống trên một dải đất nắng lắm mưa nhiều. Ngoài chức năng che nắng, che mưa, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp cho con người và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo.
Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, má lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ… Người ta đội nón làm đồng, đi chợ, chơi hội.
Con người Việt Nam có tình cảm sâu sắc và gắn bó với chiếc nón lá giản dị dù gặp nó ở bất cứ đâu trên trái đất này.
Xem thêm: Giới thiệu về nhà thơ Tế Hanh, tác giả của bài thơ Quê HươngNguồn Edufly
|
Topic: Explanation about Vietnamese conical hats
The conical hat is a loyal and close friend of Vietnamese women. The hat was carved on antiques such as Ngoc Lu bronze drums and Dao Thinh bronze jars 2500-3000 years ago.
According to historical development through the ages, hats also have many changes in style and material. At first, when there were no tools to sew, hats were braided. As for today's sewn hats, it was thanks to the birth of the needle, which was during the time when people were able to refine iron (around the 3rd century BC).
The materials for making hats are not complicated. In any place, if you want to make a hat, you have to use the leaves of a small wild palm tree to make roofing, use a very tough fiber taken from the sheath of the hook tree (nowadays people often use nylon thread) to sew and bamboo for rims. When brought home, the conical leaves are still green and wrinkled. They are ironed by using a piece of heated iron, placing the leaves on top and smoothing them with a rag. The fire must be moderate. If it's too hot, it will become brittle and burn yellow. If it cools too much, the leaves will be flat at first, then wrinkled again. People burn brimstone to turn the leaves white and at the same time prevent the leaves from getting moldy.
Bamboo chooses a long, pointed tube, hangs it on the stove to smoke to prevent termites, and uses it as a hat ring. Non Chuong (famous Vietnamese conical hat village in Chuong village, Thanh Oai district - Hanoi) has 16 layers of rings. The number 16 is the result of research and selection over many years, and has now become an unchanged principle. But the beauty of the hat is mainly due to the skillful hands of the craftsman. The sewing needles are estimated and are even as measured. The hook threads used for sewing often have different lengths and short ones. If you want to sew continuously, almost all of one thread must be followed by the other. And the talent of the workers of Chuong village is that the seams connecting the crocheted threads are hidden, so that when looking at the hat, you can only see the smooth stitches.
See more: Analyzing the character of a young man in the short story Quiet Sa Pa (Nguyen Thanh Long), thereby stating the ideological meaning of this work. Vietnamese girls take care of their hats like a piece of jewelry, sometimes is an object to exchange one's own thoughts and feelings. People attach a small round mirror to the top of the hat for girls to make discreet charms. The most elaborate work is to draw funny patterns under the cone's leaves, or images of bamboo bushes, rice fields, and lyrical verses, which must be shined in the sun to be seen, and are called poem conical hats.
In art, the hat dance performance of girls with graceful ao dai shows the gentleness, softness and discreetness of Vietnamese women.
Along with ao dai, blouse, field skirt, peach camisole, belt bag... the hat is considered a traditional costume of Vietnamese women. There are many types of hats, pointed hats, wide-brimmed basket hats, ba tam hats like basket hats but slimmer... all to protect people living on a strip of land that is sunny and rainy. In addition to the function of sun and rain protection, the hat also aims to beautify people and is in line with the aesthetic sense of Vietnamese people: delicately and discreetly beautiful.
Under the brim of the hat, the girl's eyes, smile, dimples, sideburns, and white nape seem to be enhanced with charm, discreet yet no less seductive... People wear hats as fields, go to the market, play festivals.
Vietnamese people have a deep affection and attachment to the simple conical hat no matter where they meet it on this earth.
See more: Introduction to poet Te Hanh, author of the poem Que Huong Source Edufly
|
Thuyết minh về phong tục cổ truyền ngày tết
Hướng dẫn
Hàng năm cứ mỗi khi xuân về toàn thể dân tộc lại tưng bừng đón tết để chảo đón một năm mới với bao thắng lợi mới. Trong ngày tết có rất nhiều phong tục truyền thống được diễn ra, trong đó phải kể đến là phong tục trồng cây nêu ngày tết, một trong những phong tục cổ xưa và có ý nghĩa nhất.
Tương truyền rằng, thuở xưa có một cuộc chiến tranh giữa người và ma quỉ. Loài người được Đức Phật từ bi giúp đỡ. Ma quỉ thua trận đã đồng ý nhựơng lại đất cho loài người trong khoảng không gian mà chiếc bóng áo cà sa của Đức Phật phủ trên cây nêu. Chúng chỉ nghĩ rằng: Với chiếc áo cà sa bé tý phủ trên cây nêu, thì phần của con người trên mặt đất không thể lớn hơn cái miếu cô hồn. Nhưng bằng pháp thuật Đức Phật đã làm cho cây nêu vươn lên, cao vút đến tận trời xanh và bóng chiếc áo cà sa lớn đến mức phủ kín mặt đất. Giống quỉ thua cuộc phải ra biển Đông ở. Nhưng Đức Phật từ bi cho phép chúng được trở về đất liền trong những ngày Tết. Để quỉ không xâm phạm vào đất đai có chủ là người ở, Ngài bảo vào những ngày Tết mỗi nhà đều trồng trước cửa một cây nêu làm dấu để lũ quỉ ma biết mà tránh xa.Từ đấy, trải hàng ngàn năm qua – mỗi năm khi Tết đến, mỗi gia đình người Việt và một số dân tộc trong đồng các dân tộc Việt Nam lại trồng một cây nêu cho đến tận bây giờ.Xem thêm: Chứng minh sự giản dị của Bác
Truyền thuyết về cây nêu là như vậy đó, nó mang dấu ấn của Phật giáo, nhưng chúng ta có thể nhận thấy không hề có một nền văn hoá ảnh hưởng Phật giáo nào của các dân tộc khác trên thế giới có cây nêu ngoài Việt Nam. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng: Cây nêu là di sản văn hoá phi vật thể đặc thù của riêng văn hoá Việt và có cội nguồn thuần Việt. Chính hình ảnh chiếc áo cà sa của Đức Phật từ bi phủ lên cây nêu là một hình tượng rất độc đáo thể hiện sự che chở bảo vệ nền văn hoá Việt của Phật pháp khi lịch sử Việt ở lúc thăng trầm bi tráng. Cùng với hình tượng “Hạc và Rùa”; tục ăn trầu; bánh chưng bánh dầy…Sự phổ biến của tục trồng nêu trong văn hoá Việt đã chứng tỏ đây là một biểu tượng được lựa chọn có ý thức cho một giá trị minh triết độc đáo của nó. Về hình tượng cây nêu thì có ba hình tượng còn đến bây giờ. Cả ba hình tượng này đều dùng một thân cây tre trồng thẳng trên mặt đất; sự khác nhau của hình tượng là phần phía trên cây nêu. Đó là: Một loại cổ xưa nhất ; phía trên ngọn tre là một vòng tròn cũng làm bằng tre; nhỏ bằng cái nia; với 2; 3 hoăc 4 thanh tre buộc ngang qua tâm tạo thành hình 4; 6 hoặc 8 điểm trên vòng tròn. Ở những điểm này, người ta treo nhiều hình tượng; đôi đũa; giải bùa tua; giỏ tre … Còn một hình tượng nữa là phía trên ngọn tre treo một hình vuông hoặc chữ nhật. Hình chữ nhật được làm bằng bốn thanh tre sổ xuống và năm thanh tre ngang. Bốn thanh tre buông thẳng xuống tượng cho tứ tung; năm thanh ngang tượng cho Ngũ hoành. Đây cũng là một loại bùa trừ tà trong Đạo giáo biến thể về sau này. Trên hình chữ nhật; người ta cũng treo một đôi đũa trời tượng cho Âm Dương, một giỏ tre trong đó có một túi gạo muối được gói trong vài hoặc giấy điều, là hai vật thiết yếu cho đời sống con người và cũng tượng cho sự phú túc. Trong giỏ còn 12 lá trầu tượng cho 12 tháng, năm nào nhuận có 13 lá. Khi hạ nêu vào ngày mùng 7 tháng Giêng, những lá trầu được lần lượt lấy ra khỏi giỏ tre.Xem thêm: Tả cơn mưa rào mùa hạ
Lá thứ nhất là tháng Giêng; lá thứ hai là tháng 2,…cho đến hết 12 lá. Người ta cho rằng: Lá nào héo là tháng đó trong năm không tốt. Trong giỏ tre còn được bỏ một đòn bánh Tét cũng tượng cho sự phú túc. Ngoài hai dạng cây nêu được trình bầy ở trên; còn một hình tượng cây nêu nữa chỉ có một thân cây tre duy nhất vút cao lên trời xanh. Trên thân cây tre có trang trí, giấy màu và từng khúc có gắn những tua trang trí. Như vậy, với những hình tượng cây nêu còn lưu lại có những khác biệt đã cho thấy dấu ấn của những thăng trầm trong lịch sử Việt.
Hình tượng cây nêu gần như hoàn toàn trùng khớp với hình tượng một tôn giáo được hình thành trong văn minh Lạc Việt đó chính là chiếc nón và cây gậy của ngài Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung tạo nên vương quốc tâm linh đầy huyền ảo. Với hình tượng thân cây tre vút cao, vươn thẳng lên trời xanh, xuyên tâm vòng tròn phía trên cây tre là hình tượng của sự thăng hoa tư tưởng, đạt tới sự viên mãn và trở về với bản thể nguyên thuỷ của vũ trụ.
Với hình tượng cây nêu đã trình bày ở trên, đã cho thấy một hình tượng được lựa chọn có ý thức làm biểu tượng cho sự minh triết Lạc Việt từ một cội nguồn văn hiến của nước Văn Lang dưới thời các vua Hùng dựng nước. Sự vươn lên đạt tới chân tính, hoà nhập với thiên nhiên trong sự an nhiên tự tại và tình yêu con người. Đây chính là thông điệp của tổ tiên truyền lại từ hàng ngàn năm trước cho đời sau; hình tượng của một giá trị minh triết Việt.Xem thêm: Anh (chị) nghĩ như thế nào khi nhà triết học Hi Lạp Dê-nông (346 - 264 trước Công nguyên) nói với một người bẻm mép: “Chúng ta có hai tai và một mồm để nghe nhiều hơn và nói ít hơn”
Tục trồng cây nêu ngày tết có ý nghĩa văn hóa đối với dân tộc Việt, nó vừa mang tính tâm linh vừa mang truyền thống văn hóa đặc trưng của người Việt. Tục trồng cây nêu đã được coi là di sản văn hóa phi vật thể của người Việt, là di sản mà tổ tiên để lại, nhằm nhắc nhở con cháu về cội nguồn của mình.
Nguồn:
|
Explanation about traditional customs on Tet holiday
Instruct
Every year, every year when spring comes, the entire nation jubilantly celebrates Tet to welcome a new year with many new victories. During Tet, there are many traditional customs that take place, including the custom of planting trees on Tet holiday, one of the most ancient and meaningful customs.
Legend has it that long ago there was a war between humans and demons. Humanity is helped by Buddha's compassion. The devil, who lost the battle, agreed to cede land to humans in the space where the shadow of the Buddha's robe covers the tree. They just think: With the tiny robe covering the bamboo tree, the human part on earth cannot be bigger than the soul temple. But with magic, the Buddha made the tree rise up to the blue sky and the shadow of the robe was so big that it covered the ground. The devils who lost had to go to the East Sea to live. But the compassionate Buddha allowed them to return to the mainland during the Tet holidays. To prevent demons from encroaching on land where human owners live, He told each family to plant a tree in front of their door on Tet days as a sign to let demons know to stay away. Since then, over thousands of years - every Every year when Tet comes, every Vietnamese family and some ethnic groups in Vietnam plant a tree until now. See more: Proving Uncle Ho's simplicity
The legend of the neem tree is like that, it bears the mark of Buddhism, but we can see that there is no Buddhist-influenced culture of any other people in the world that has a neem tree besides Vietnam. Male. Therefore, it can be affirmed that: The tree is a unique intangible cultural heritage of Vietnamese culture and has purely Vietnamese roots. The image of the Buddha's robe of compassion covering the tree is a very unique image that represents the protection of Vietnamese culture by Buddhism when Vietnamese history was at a time of ups and downs. Along with the image of "Crane and Turtle"; the custom of chewing betel; banh chung, banh day... The popularity of this planting custom in Vietnamese culture has proven that this is a consciously chosen symbol for its unique wisdom value. Regarding the image of the tree, there are three images that still exist today. All three of these images use a bamboo stem planted straight on the ground; The difference in the image is the part above the tree. They are: The most ancient type; Above the bamboo top is a circle also made of bamboo; as small as a saw; with 2; 3 or 4 bamboo sticks tied across the center form a shape of 4; 6 or 8 points on the circle. At these points, people hang many images; chopsticks; remove tassel charms; Bamboo basket... Another symbol is that above the bamboo top hangs a square or rectangular shape. The rectangle is made of four downward and five horizontal bamboo sticks. Four bamboo sticks hang straight down on the statue in all directions; The five horizontal bars symbolize the Five Horizons. This is also a type of exorcism charm in later variations of Taoism. On the rectangle; People also hang a pair of heavenly chopsticks to symbolize Yin and Yang, and a bamboo basket containing a bag of salted rice wrapped in cashew paper, which are two essential items for human life and also symbolize prosperity. In the basket there are 12 betel leaves for 12 months, and in leap years there are 13 leaves. When it's summer on January 7, the betel leaves are taken out one by one from the bamboo basket. See more: Describe a summer shower
The first leaf is January; The second leaf is February,...until the end of 12 leaves. It is said that any leaf that wilts means that month of the year is not good. In the bamboo basket, there is also a piece of Tet cake, which also symbolizes prosperity. In addition to the two tree types mentioned above; Another image of a bamboo tree has only a single bamboo stem soaring high into the blue sky. The bamboo tree has decorations, colored paper, and each piece has decorative tassels attached. Thus, with the remaining tree images, there are differences that show the mark of ups and downs in Vietnamese history.
The image of the tree almost completely coincides with the image of a religion formed in the Lac Viet civilization, which is the hat and stick of Mr. Chu Dong Tu and Princess Tien Dung, creating a mystical spiritual kingdom. virtual. With the image of a soaring bamboo trunk, reaching straight up into the blue sky, the radial circle above the bamboo tree is the image of the sublimation of thought, reaching perfection and returning to the original essence of the universe.
With the image of the tree presented above, it shows that an image was consciously chosen as a symbol of Lac Viet wisdom from a cultural source of Van Lang country during the time when the Hung kings built the country. The rise to reach true nature, integration with nature in peace and love for humanity. This is the message passed down from ancestors thousands of years ago to future generations; image of a Vietnamese wisdom value. See more: What do you think when the Greek philosopher Deon (346 - 264 BC) said to a gossip: "We have two one ear and one mouth to listen more and talk less”
The custom of planting trees on Tet holiday has cultural significance for the Vietnamese people, it is both spiritual and carries a typical cultural tradition of the Vietnamese people. The custom of planting neem trees has been considered an intangible cultural heritage of the Vietnamese people, a legacy left by their ancestors, to remind their descendants of their roots.
Source:
|
Thuyết minh về quần thể di tích Cố đô Huế – Di sản văn hóa thế giới.
Hướng dẫn
Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Thiên – Huế. Là kinh đô của Việt Nam dưới triều Nguyễn nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền hòa của miền Trung. Huế là một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Năm 1993, Huế đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã, đang, và sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kỳ quan hàng ngàn năm của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO.
Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế chỉ những di tích lịch sử – văn hoá do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Quần thể di tích Cố đô Huế có thể phân chia thành các cụm công trình gồm: Các di tích trong Kinh thành Huế gồm Kinh thành, Hoàng thành, Tử cấm thành. Các di tích bên ngoài Kinh thành Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền, cung điện…
Nằm giữa lòng Huế, bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền nhà Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bốtrí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây: Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành Huế phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế gồm: Kỳ Đài, Trường Quốc Tử Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng thư lâu, Viện Cơ Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần công.
Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng Thành và Tử Cấm Thànhthường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng thành gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh, Điện Phụng Tiên. Hoàng thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cốđô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.
Bên trong Hoàng thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành là vòng tường thành thứ ba của Kinh đô Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử cấm thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc đồng, Điện Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung… Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa nhĩme sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Các di tích ngoài kinh thành Huế bao gồm Lãng tẩm và mét một số di tích khác.
Xem thêm: Nghị luận xã hội về văn hóa ứng xửVề phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn bao gồm: Lãng Gia Long – còn gọi là Thiên Thọ Lăng, thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng để chôn cất vua cha Minh Mạng cách cố đô Huế 12 km. Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng, là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn. Lãng Đồng Khánh còn gọi là Tư Lăng xây dựng để thờ cha, khi Đồng Khánh đột ngột qua đời, Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn không thể xây cất lăng tẩm cho vua, đành đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh. Lăng Dục Đức tên chữ An Lãng cách trung tâm thành phố chưa đầy 2km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Lăng Khải Định còn gọi là ứng Lăng toạ lạc trên triền núi Châu Chữ bên ngoài kinh thành Huế, được xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi, pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim cổ lạ thường, với các tác phẩm nghê thuật ghép tranh sành sứ độc đáo. Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Mỏi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang yên nghỉ.
Các di tích khác bao gồm: Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình. Trấn Bình đài nằm ở vị trí Đông Bắc kinh thành Huế. Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng thành Huế phía trước Kỳ Đài dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông Hương, là trụ sở để đón tiếp các sứ thần nước ngoài. Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh Miếu là nơi thờ Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ. Võ Miếu hay Võ Thánh miếu, là nơi thờ phụng và ghi danh những danh tướng Việt Nam, những tiến sĩ đỗ trong ba khoa thi võ dưới triều Nguyễn. Đàn Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua Nguyễn tế trời. Hổ Quyền còn đọc là Hổ Khuyên là một chuồng nuôi hổ và là một đấu trường độc đáo, đây là đấu trường của những cuộctử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí tiêu khiển. Điện Voi Ré để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn con voi đũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ngày xưa người Chàm thờ nữ thần PoNagar, sau đó người Việt tiếp tục thờ bà xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây, là ngôi chùa cổ nhất của Huế. Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ mặt biển) là một thành lũy dùng để bảo vệ kinh đô triều Nguyễn được xây dựng ở cửa Phía Đông kinh thành Huế. Nghênh Lương Đình hay Nghênh Lương Tạ dùng làm nơi nghỉ chân của nhà vua trước khi đi xuống bến sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Cung An Định tọa lạc bên bờ sông An Cựu, là cung điện riêng của vua Khải Định từ khi còn là thái tử đến khi làm vua, sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị.
Tất cả những công trình kiến trúc trên được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Dã Viên, cồn Bộc Thanh… Nhìn từ phía ngược lại, những công trình kiến trúc ở đây như hoà lẫn vào thiên nhiên tạo nên nhũng tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó.
Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phố Huế lại đón chào ngày lẽ hội trọng đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước cũng như quốc tế.
Nguồn: thêm: Kể lại câu chuyện Ếch ngồi đáy giếng và cho biết em đã rút ra bài học gì từ câu chuyện ấy, em sẽ vận dụng những bài học đó vào cuộc sống như thế nào
|
Thuyết minh về quần thể di tích Cố đô Huế – Di sản văn hóa thế giới.
Hướng dẫn
Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Thiên – Huế. Là kinh đô của Việt Nam dưới triều Nguyễn nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền hòa của miền Trung. Huế là một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Năm 1993, Huế đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã, đang, và sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kỳ quan hàng ngàn năm của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO.
Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế chỉ những di tích lịch sử – văn hoá do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Quần thể di tích Cố đô Huế có thể phân chia thành các cụm công trình gồm: Các di tích trong Kinh thành Huế gồm Kinh thành, Hoàng thành, Tử cấm thành. Các di tích bên ngoài Kinh thành Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền, cung điện…
Nằm giữa lòng Huế, bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền nhà Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bốtrí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây: Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành Huế phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế gồm: Kỳ Đài, Trường Quốc Tử Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng thư lâu, Viện Cơ Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần công.
Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng Thành và Tử Cấm Thànhthường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng thành gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh, Điện Phụng Tiên. Hoàng thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cốđô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.
Bên trong Hoàng thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành là vòng tường thành thứ ba của Kinh đô Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử cấm thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc đồng, Điện Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung… Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa nhĩme sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Các di tích ngoài kinh thành Huế bao gồm Lãng tẩm và mét một số di tích khác.
Xem thêm: Nghị luận xã hội về văn hóa ứng xửVề phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn bao gồm: Lãng Gia Long – còn gọi là Thiên Thọ Lăng, thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng để chôn cất vua cha Minh Mạng cách cố đô Huế 12 km. Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau khi Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng, là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn. Lãng Đồng Khánh còn gọi là Tư Lăng xây dựng để thờ cha, khi Đồng Khánh đột ngột qua đời, Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn không thể xây cất lăng tẩm cho vua, đành đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh. Lăng Dục Đức tên chữ An Lãng cách trung tâm thành phố chưa đầy 2km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Lăng Khải Định còn gọi là ứng Lăng toạ lạc trên triền núi Châu Chữ bên ngoài kinh thành Huế, được xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi, pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim cổ lạ thường, với các tác phẩm nghê thuật ghép tranh sành sứ độc đáo. Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Mỏi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang yên nghỉ.
Các di tích khác bao gồm: Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình. Trấn Bình đài nằm ở vị trí Đông Bắc kinh thành Huế. Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng thành Huế phía trước Kỳ Đài dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông Hương, là trụ sở để đón tiếp các sứ thần nước ngoài. Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh Miếu là nơi thờ Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ. Võ Miếu hay Võ Thánh miếu, là nơi thờ phụng và ghi danh những danh tướng Việt Nam, những tiến sĩ đỗ trong ba khoa thi võ dưới triều Nguyễn. Đàn Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua Nguyễn tế trời. Hổ Quyền còn đọc là Hổ Khuyên là một chuồng nuôi hổ và là một đấu trường độc đáo, đây là đấu trường của những cuộctử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí tiêu khiển. Điện Voi Ré để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn con voi đũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ngày xưa người Chàm thờ nữ thần PoNagar, sau đó người Việt tiếp tục thờ bà xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây, là ngôi chùa cổ nhất của Huế. Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ mặt biển) là một thành lũy dùng để bảo vệ kinh đô triều Nguyễn được xây dựng ở cửa Phía Đông kinh thành Huế. Nghênh Lương Đình hay Nghênh Lương Tạ dùng làm nơi nghỉ chân của nhà vua trước khi đi xuống bến sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Cung An Định tọa lạc bên bờ sông An Cựu, là cung điện riêng của vua Khải Định từ khi còn là thái tử đến khi làm vua, sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị.
Tất cả những công trình kiến trúc trên được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Dã Viên, cồn Bộc Thanh… Nhìn từ phía ngược lại, những công trình kiến trúc ở đây như hoà lẫn vào thiên nhiên tạo nên nhũng tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó.
Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phố Huế lại đón chào ngày lẽ hội trọng đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước cũng như quốc tế.
Nguồn: thêm: Kể lại câu chuyện Ếch ngồi đáy giếng và cho biết em đã rút ra bài học gì từ câu chuyện ấy, em sẽ vận dụng những bài học đó vào cuộc sống như thế nào
|
Thuyết minh về quần thể lăng Bác
Gợi ý
Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỉ nhưng nỗi xót thương và niềm yêu kính của mỗi người dân Việt Nam dành cho Bác Hồ – vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – chưa bao giờ nguôi cạn. Nhớ đến người, những dòng người hướng về lăng Bác tưởng như không bao giờ dừng lại.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và quần thể lăng gồm quảng trường Ba Đình, khu nhà sàn, vườn cây,… sau hai năm xây dựng, ngày 19/8/1975 đã được khánh thành.
Mặt chính của lăng nhìn ra hướng đông là Quảng trường Ba Đình. Lăng gồm ba lớp với chiều cao 21,6 mét. Lớp dưới kết cấu bậc nhiều cấp, có lễ đài dành cho đoàn chủ tịch khi mít tinh. Phần giữa là kết cấu trung tâm của lăng, gồm phòng thi hài, hành lang, cầu thang lên xuống. Phần trên là mái lăng được tạo dáng cách điệu bông sen nở. Mặt chính lăng có dòng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng đá hồng ngọc màu mận chín.
Lăng là nơi lưu giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Cha già dân tộc, người đã được UNESCO tặng danh hiệu Danh nhân Văn hóa thế giới và Anh hùng giải phóng dân tộc nhân kỷ niệm 100 ngày sinh (1890 – 1990).
Công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả lao động sáng tạo của nhiều nhà khoa học và công nhân hai nước Việt Nam – Liên Xô tỏ lòng tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh và là sản phẩm của tình hữu nghị Việt – Xô.Xem thêm: Phân tích giá trị biểu cảm của những câu thơ sau: "Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi... Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng." (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm) Lăng Bác quay về hướng Đông để đón ánh mặt trời, trước cửa lăng là quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi đây, ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã chứng kiến những giờ phút thiêng liêng nhất của dân tộc khi Hồ Chí Minh đứng trước quốc dân đồng bào đọc "Tuyên ngôn Độc lập" công bố với thế giới nền độc lập lâu bền của dân tộc Việt Nam ta. Quảng trường Ba Đình dài 320m, rộng 100m, chia thành 240 ô cỏ xanh tươi là hình tượng những chiếc chiếu trải trên sân đình ở các làng quê Việt Nam xưa, là nơi nhân dân đến dự các buổi lễ trọng thể. Phía tây của Quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chủ tịch. Tại đây còn có Bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn là nơi ở của Người, hồ cá, vườn cây, rặng dừa, những hàng rào dâm bụt… Tất cả đã đi vào thơ ca Việt Nam:
"Anh dẫn em vào cõi Bác xưa
Vườn xoài hoa trắng nắng đu đưa
Có hồ nước lặng sôi tôm cá
Có bưởi cam thơm mát bóng dừa".
(Tố Hữu)
Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên trồng xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 cho tới khi Người qua đời. Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác làm việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá Bác nuôi, bên bờ ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm.Xem thêm: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng của học sinh giỏi Sau nhà là vườn quả với hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng, như cây vú sữa của đồng bào miền Nam gửi biếu Bác năm 1954, bưởi Phúc Trạch, Biên Hòa, Mê Linh; cam Hải Hưng, Xuân Mai, Vân Du, Xã Đoài; quýt Hương Cần, Lý Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ; song mai Đông Mỹ; hồng Tiên Điền (quê hương nhà thơ Nguyễn Du). Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước ngoài như ngàn hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê…
Nhân dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội, ai cũng muốn đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng trường Ba Đình lịch sử. Nhắc đến lăng Bác, lòng người lại rưng rưng trong niềm thương nhớ::
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"
("Viếng lăng Bác" – Viễn Phương)
Vanmau.edu.vn
|
Explanation about the complex of Uncle Ho's mausoleum
Suggest
The war has passed for nearly half a century, but the compassion and love of every Vietnamese person for Uncle Ho - the beloved Father of the Vietnamese people - has never subsided. Remembering you, the stream of people heading towards Uncle Ho's mausoleum seems to never stop.
Ho Chi Minh's Mausoleum and mausoleum complex including Ba Dinh square, stilt houses, gardens,... after two years of construction, was inaugurated on August 19, 1975.
The main side of the mausoleum looks east to Ba Dinh Square. The mausoleum consists of three layers with a height of 21.6 meters. The lower layer has a multi-level structure, with a platform for the presidium during meetings. The middle part is the central structure of the mausoleum, including the corpse room, hallway, and stairs up and down. The upper part is a mausoleum roof shaped in a stylized shape of a blooming lotus. The main face of the mausoleum has the words "President Ho Chi Minh" in plum-colored ruby stone.
The mausoleum is where the body of President Ho Chi Minh, the Father of the Nation, was awarded the title of World Cultural Celebrity and Hero of National Liberation by UNESCO on the occasion of his 100th birthday (1890 - 1990). .
The construction of President Ho Chi Minh's mausoleum is the result of creative labor of many scientists and workers from both Vietnam and the Soviet Union to pay homage to President Ho Chi Minh and is a product of Vietnam - Soviet friendship. .See more: Analyze the expressive value of the following verses: "Mother is trimming corn on Ka-lui mountain... Mother's sun, I lie on her back." (Lullaby for big babies on their mother's back - Nguyen Khoa Diem) Uncle Ho's mausoleum turns east to catch the sunlight, in front of the mausoleum is the historic Ba Dinh square, where, September 2, 1945 witnessed the witnessed the nation's most sacred moments when Ho Chi Minh stood before his countrymen and read the "Declaration of Independence" announcing to the world the lasting independence of our Vietnamese people. Ba Dinh Square is 320m long, 100m wide, divided into 240 squares of green grass, the image of mats spread on communal courtyards in ancient Vietnamese villages, where people came to attend solemn ceremonies. On the west side of the Square is the memorial area of President Ho Chi Minh. There is also the Ho Chi Minh Museum, the stilt house that is his residence, the fish pond, the garden, the coconut groves, the hibiscus fences... All have entered Vietnamese poetry:
"I will lead you into the old Uncle's realm
Mango garden with swaying white flowers in the sun
There is a lake of calm water boiling with shrimp and fish
There is fragrant orange grapefruit and coconut shade."
(To Huu)
In the large garden behind the Presidential Palace, there is a narrow gravel path with mango trees on both sides leading to a small, simple stilt house, located among the canopy of trees. A hibiscus fence surrounds the house, and the entrance gate is made of intertwined tree branches. That is the house where Uncle Ho lived and worked from May 17, 1958 until his death. The floor below the stilt house is where Uncle Ho often meets with the Politburo. Upstairs are two small rooms, where Uncle Ho works and a bedroom with simple, simple items. In front of the house is a fish pond that Uncle Ho raises, on the bank of the pond are orchids that bloom all year round. See more: Analysis of Quang Dung's poem Tay Tien by excellent students. Behind the house is a fruit garden with hundreds of species of precious plants grown by famous students. brought to be planted locally, such as star apple trees sent to Uncle Ho by the Southern people in 1954, grapefruits in Phuc Trach, Bien Hoa, Me Linh; oranges from Hai Hung, Xuan Mai, Van Du, Xa Doai; Huong Can and Ly Nhan tangerines; Thien Phien and Ngoc Ho apples; Dong My apricot; Hong Tien Dien (poet Nguyen Du's hometown). In the garden there are also plants from abroad such as thousands of flowers, mallow trees growing around the pond, king areca trees originally from the Caribbean...
People from all over the country as well as international tourists coming to the capital Hanoi, everyone wants to visit Uncle Ho's mausoleum, visit his house and walk around the historic Ba Dinh Square. When talking about Uncle Ho's mausoleum, people's hearts are filled with nostalgia::
"Every day the stream of people walks in longing
A wreath of flowers to offer seventy-nine springs"
("Visit Uncle Ho's Mausoleum" – Vien Phuong)
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về sự gia tăng dân số
Hướng dẫn
+ Thuyết minh từ sách vở thời cổ đại:
-Chuyện kén rể bằng bàn cờ tướng của nhà thông thái.
-Chuyện từ Kỉnh thánh.
+ Thuyết minh từ thực tế:
-Người phụ nữ có thể sinh nhiều con.
-Nêu tỉ lệ sinh con ở một số nước.
+ Suy nghĩ thêm:
-Ai cũng mong muốn có đủ cơm ăn, áo mặc, được học hành tử tế để mưu cầu hạnh phúc.
-Trái đất không thể rộng thêm, dân số tăng nhiều như một số nước ở châu Phi, châu Á thì sẽ kéo theo nghèo nàn, thất học, lạc hậu…
+ Kêu gọi giảm tốc độ gia tăng dân số.
I. Đọc bài văn thuyết minh xen lẫn tự sự của Thái An, người đọc chợt ngỡ ngàng đến thú vị. Ngỡ ngàng vì tác giả nêu sự việc có liên quan đến mình, gia đình mình,… mà mình không nghĩ tới. Thú vị là ở chỗ Thái An đã 11 luận cổ suy kim"để khơi gợi suy nghĩ và hành động của mỗi người, nhất là với những ai đã nên vợ nên chồng, về "bài toán dân số",bởi đặc tính sinh hoạt của con người khác với muôn loài.
II. Bài văn có 5 đoạn: đoạn đầu là phần mở hài, đoạn cuối là phần kết luận. Phần mở bài được viết bằng lôi văn tự sự nêu thẳng vấn đề: “Bài toán dân sô'đã được đặt ra từ thời cổđạVThái An đã không tin điều này. Điều ấy cũng đúng thôi vì thời cổ đại là thời cách nay dăm bảy ngàn năm về trước, lúc ấy số lượng người còn quá thưa thớt thì người cổ đại đặt ra “bài toán dân sổ"để làm gì mới được chứ! Vả lại “vân đề dân số và kế hoạch hóa gia đình chỉ mới được đặt ra vài chục năm nay” nên tác giả không tin là phải. Nhưng đó chỉ là phản ứng trước mắt có tính nhất thời. Hay nói đúng hơn là nghệ thuật nhận sự thiếu sót về mình trước khi trình bày cái đúng của vấn đề, như Thái An tâm sự: “Thế mà nghe xong câu chuyện này, qua một thoáng liên tưởng, tôi bỗng “sáng mắt ra”.
Cái khéo của tác giả là dùng lối văn tự sự làm phần mở bài rồi dẫn qua lối văn thuyết minh ở phần thân bài bằng cách nêu một sự việc mấu chốt. Sự việc mâu chốt ở đây là “câu chuyện này”.Thế là “câu chuyện này” trở thành dẫn chứng để thuyết minh cho sự việc “bỗng sáng mắt ra” điều mà lúc đầu Thái An đã không tin. Và Thái An đi vào mạch văn kể. “£>ớ là câu chuyện từ một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái. Nhà thông thái đưa ra một bàn cờ tướng gồm 64 ô. Ông yêu cầu các chàng trai thực hiện theo điều kiện sau: đặt 1 hạt thóc vào ô thứ nhất; ô thứ hai đặt 2 hạt thóc; và các ô tiếp theo số thóc cứ thê' nhân đối. Ai đủ số thóc theo yêu cầu của bài toán sẽ là chồng cô gái".Tất nhiên không có chàng trai nào có đủ số thóc đặt vào 64 ô cờ để trở thành chàng rể của nhà thông thái, bởi vì “số thóc được tính ra theo bài toán cấp số nhân ấy, nhiều đến mức có thể phủ khắp bề mặt trái đất này".Khi đặt ra bài toán để kén rể, nhà thông thái thời cổ đại có nghĩ đến sự gia tăng dân số hay không thì không biết, nhưng với Thái An, khi kể lại, thì câu chuyện này có ẩn dụ về bài toán dân số.
Thái An lại viện dẫn Kinh thánh, sách giáo lí của đạo Ki-tô, để thuyết minh thêm vài bài toán dân số một cách cụ thể: không là số thóc mà là sô" người, con người sinh sôi nảy nở trong một khoảng thời gian cụ thể. Thái An cho người đọc biết: “khi khai thiên lập địa, Trái Đất này chỉ có hai
Xem thêm: Cảm nghĩ của em về nhân vật Hoài Văn Hầu, Trần Quốc Toản trong cuốn truyện “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” của Nguyễn Huy Tưởngngười: một chàng A-đam và một nàng E-va; thì đến năm 1995 dân số toàn thế giới là 5,63 tỉ người".Dù A-đam và E-va là nhân vật có thật hay không thì vẫn không ảnh hưởng gì đến thực tế nam nữ trở thành chồng vợ và sự gia tăng dân số: từ hai người vào thuở khai thiên lập địa tới 5,63 tỉ người vào năm 1995, mà theo bài toán của nhà thông thái cổ đại kia thì số người đã ở vào ô thứ 30, với điều kiện là mỗi cặp vợ chồng chỉ được phép có 2 con. Thế nhưng trong thực tế thì không như thế vì “một người phụ nữ có khả năng sinh được rất nhiều con”.Và tác giả đưa ra con số thông kê do hội nghị Cai-rô (Ai Cập) họp ngày 5-9-1994 công bố thì “tỉ lệ sinh con của một phụ nữ Ân Độ là 4,5; Nê-pan: 6,3; Ru-an-đa: 8,1; Tan-da-ni-a: 6, 7; Ma-đa-gát-xca: 6,6… Tính chung toàn châu Phi là 5,8. Phụ nữ Việt Nam là 3,7".Và tác giả còn cho biết thêm “với tỉ lệ hàng năm tăng 1,43% như mười lăm năm trước và 1,57% năm ỉ 990 thì dân sổ của hành tinh chúng ta năm 2015 sẽ là hơn7 tỉ người. Theo bài toán cổ trên, số dân ấy đã mon men sang ồ thứ 31 của bàn cờ".Với tỉ lệ 1,73% và 1,57%, tức là dưới 2% mà chỉ 20 năm sau (1995-2015) dân số thế giới tăng tới trên 1,3 tỉ thì với con số tỉ lệ phụ nữ sinh con ở trên đều gấp đôi hoặc gấp ba tỉ lệ 2% thì tới năm 2015 dân số thế giới chắc chắn sẽ trên 7 tỉ. Còn nếu tính đổ đồng về sự tăng dân số theo ô bàn cờ của nhà thông thái thì cứ 20năm dân số lại ở vào ô kế tiếp. Nếu 2015 dân số ở ô 31 thì 660 năm sau, tức là năm 2675 dân số thế giới sẽ ở ô cuối cùng, ô 64! 660 năm cứ tưởng là dài so với đời một người, còn so với sự vĩnh cửu của nhân loại thì con sô" ấy là một đe dọa, là một cảnh báo “không tồn tại” của nhân loại quá rõ ràng, bởi vì tới lúc ấy diện tích dành cho mỗi con người trên mặt Trái Đất chỉ bằng diện tích một hạt thóc!
Phần kết luận của Bài toán dân sốchỉ có 3 câu văn ngắn: Một câu mang ý kêu gọi, một câu mang ý thúc đẩy hành động, còn câu cuối nêu hậu quả của việc con người có hành động hay không. Nếu không hành động, diện tích mỗi người dành cho mặt đất trong tương lai chỉ bằng diện tích một hạt thóc. Chỗ không có để ở thì lấy đất đâu để sản xuất lương thực? Nếu loài người không chung tay hành động ngay từ bây giờ thì viễn cảnh hủy diệt lẫn nhau chắc chắn sẽ xảy ra. Mọi dân tộc trên mặt đất phải quyết tâm tránh viễn cảnh khủng khiếp ấy. “Muốn thế phải góp phần làm cho chặng đường đi đến ô thứ 64 càng dài lâu hơn càng tốt".Thái An không nói rõ mỗi người phải làm những gì để “gổp phần” vào con đường “tồn tại […] cửa chính loài người”, nhưng bạn đọc có thể suy đoán ra từ những con sô" thuyết minh ở trong bài văn. Trước hết loài người nói chung, môi dân tộc nói riêng, phải thay đổi ngay quan niệm sống lạc hậu của mình. Đã là người thì ai cũng muốn ăn no, mặc ấm, được học hành tử tế để mưu cau hạnh phúc. Ma hạnh phúc thì không thê có từ quân niệm ‘Trời sinh voi thì sinh cỏ”. Một gia đình hai con có cuộc sống tốt hơn gia đình bôn con, gia đình sáu con,… Đó là điều dễ nhận ra trong xã hội hiện nay ở Việt Nam. Khi đã ý thức được hạnh phúc là do chính mình tạo dựng nên thì sẽ thay đổi, và kiên quyết thay đổi quan niệm sống thì sẽ hành động tích cực để mỗi gia đình “dù gái hay trai chỉ hai là đủ”. Và như thế “chặng đường đi đến ô thứ 64 càng dài lâu hơn”.
Bài văn tự sự lân thuyết minh của Thái An dài một trang sách in khoảng 700 từ nhưng nội dung của nó liên quan đến mỗi cá nhân, mỗi dân tộc, và toàn nhân loại. “Tồn tại hay không tồn tại” là vấn đề của con người. Tạo hóa, Trời, Thần không trả lời được câu hỏi ấy, mà chính là con người. Tất nhiên, muốn tồn tại, con người phải thay đổi quan niệm sống, cần phải kê hoạch hóa gia đình để hạn chế gia tăng dân số, để chiến thắng nghèo đoi, bệnh tâht và lạc hậu. Bài văn là một thông điệp đầy ý nghĩa nhân bản
Nguồn: thêm: Nỗi nhớ của người xa quê qua bài ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà. Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
|
Thuyết minh về sự gia tăng dân số
Hướng dẫn
+ Thuyết minh từ sách vở thời cổ đại:
-Chuyện kén rể bằng bàn cờ tướng của nhà thông thái.
-Chuyện từ Kỉnh thánh.
+ Thuyết minh từ thực tế:
-Người phụ nữ có thể sinh nhiều con.
-Nêu tỉ lệ sinh con ở một số nước.
+ Suy nghĩ thêm:
-Ai cũng mong muốn có đủ cơm ăn, áo mặc, được học hành tử tế để mưu cầu hạnh phúc.
-Trái đất không thể rộng thêm, dân số tăng nhiều như một số nước ở châu Phi, châu Á thì sẽ kéo theo nghèo nàn, thất học, lạc hậu…
+ Kêu gọi giảm tốc độ gia tăng dân số.
I. Đọc bài văn thuyết minh xen lẫn tự sự của Thái An, người đọc chợt ngỡ ngàng đến thú vị. Ngỡ ngàng vì tác giả nêu sự việc có liên quan đến mình, gia đình mình,… mà mình không nghĩ tới. Thú vị là ở chỗ Thái An đã 11 luận cổ suy kim"để khơi gợi suy nghĩ và hành động của mỗi người, nhất là với những ai đã nên vợ nên chồng, về "bài toán dân số",bởi đặc tính sinh hoạt của con người khác với muôn loài.
II. Bài văn có 5 đoạn: đoạn đầu là phần mở hài, đoạn cuối là phần kết luận. Phần mở bài được viết bằng lôi văn tự sự nêu thẳng vấn đề: “Bài toán dân sô'đã được đặt ra từ thời cổđạVThái An đã không tin điều này. Điều ấy cũng đúng thôi vì thời cổ đại là thời cách nay dăm bảy ngàn năm về trước, lúc ấy số lượng người còn quá thưa thớt thì người cổ đại đặt ra “bài toán dân sổ"để làm gì mới được chứ! Vả lại “vân đề dân số và kế hoạch hóa gia đình chỉ mới được đặt ra vài chục năm nay” nên tác giả không tin là phải. Nhưng đó chỉ là phản ứng trước mắt có tính nhất thời. Hay nói đúng hơn là nghệ thuật nhận sự thiếu sót về mình trước khi trình bày cái đúng của vấn đề, như Thái An tâm sự: “Thế mà nghe xong câu chuyện này, qua một thoáng liên tưởng, tôi bỗng “sáng mắt ra”.
Cái khéo của tác giả là dùng lối văn tự sự làm phần mở bài rồi dẫn qua lối văn thuyết minh ở phần thân bài bằng cách nêu một sự việc mấu chốt. Sự việc mâu chốt ở đây là “câu chuyện này”.Thế là “câu chuyện này” trở thành dẫn chứng để thuyết minh cho sự việc “bỗng sáng mắt ra” điều mà lúc đầu Thái An đã không tin. Và Thái An đi vào mạch văn kể. “£>ớ là câu chuyện từ một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái. Nhà thông thái đưa ra một bàn cờ tướng gồm 64 ô. Ông yêu cầu các chàng trai thực hiện theo điều kiện sau: đặt 1 hạt thóc vào ô thứ nhất; ô thứ hai đặt 2 hạt thóc; và các ô tiếp theo số thóc cứ thê' nhân đối. Ai đủ số thóc theo yêu cầu của bài toán sẽ là chồng cô gái".Tất nhiên không có chàng trai nào có đủ số thóc đặt vào 64 ô cờ để trở thành chàng rể của nhà thông thái, bởi vì “số thóc được tính ra theo bài toán cấp số nhân ấy, nhiều đến mức có thể phủ khắp bề mặt trái đất này".Khi đặt ra bài toán để kén rể, nhà thông thái thời cổ đại có nghĩ đến sự gia tăng dân số hay không thì không biết, nhưng với Thái An, khi kể lại, thì câu chuyện này có ẩn dụ về bài toán dân số.
Thái An lại viện dẫn Kinh thánh, sách giáo lí của đạo Ki-tô, để thuyết minh thêm vài bài toán dân số một cách cụ thể: không là số thóc mà là sô" người, con người sinh sôi nảy nở trong một khoảng thời gian cụ thể. Thái An cho người đọc biết: “khi khai thiên lập địa, Trái Đất này chỉ có hai
Xem thêm: Cảm nghĩ của em về nhân vật Hoài Văn Hầu, Trần Quốc Toản trong cuốn truyện “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” của Nguyễn Huy Tưởngngười: một chàng A-đam và một nàng E-va; thì đến năm 1995 dân số toàn thế giới là 5,63 tỉ người".Dù A-đam và E-va là nhân vật có thật hay không thì vẫn không ảnh hưởng gì đến thực tế nam nữ trở thành chồng vợ và sự gia tăng dân số: từ hai người vào thuở khai thiên lập địa tới 5,63 tỉ người vào năm 1995, mà theo bài toán của nhà thông thái cổ đại kia thì số người đã ở vào ô thứ 30, với điều kiện là mỗi cặp vợ chồng chỉ được phép có 2 con. Thế nhưng trong thực tế thì không như thế vì “một người phụ nữ có khả năng sinh được rất nhiều con”.Và tác giả đưa ra con số thông kê do hội nghị Cai-rô (Ai Cập) họp ngày 5-9-1994 công bố thì “tỉ lệ sinh con của một phụ nữ Ân Độ là 4,5; Nê-pan: 6,3; Ru-an-đa: 8,1; Tan-da-ni-a: 6, 7; Ma-đa-gát-xca: 6,6… Tính chung toàn châu Phi là 5,8. Phụ nữ Việt Nam là 3,7".Và tác giả còn cho biết thêm “với tỉ lệ hàng năm tăng 1,43% như mười lăm năm trước và 1,57% năm ỉ 990 thì dân sổ của hành tinh chúng ta năm 2015 sẽ là hơn7 tỉ người. Theo bài toán cổ trên, số dân ấy đã mon men sang ồ thứ 31 của bàn cờ".Với tỉ lệ 1,73% và 1,57%, tức là dưới 2% mà chỉ 20 năm sau (1995-2015) dân số thế giới tăng tới trên 1,3 tỉ thì với con số tỉ lệ phụ nữ sinh con ở trên đều gấp đôi hoặc gấp ba tỉ lệ 2% thì tới năm 2015 dân số thế giới chắc chắn sẽ trên 7 tỉ. Còn nếu tính đổ đồng về sự tăng dân số theo ô bàn cờ của nhà thông thái thì cứ 20năm dân số lại ở vào ô kế tiếp. Nếu 2015 dân số ở ô 31 thì 660 năm sau, tức là năm 2675 dân số thế giới sẽ ở ô cuối cùng, ô 64! 660 năm cứ tưởng là dài so với đời một người, còn so với sự vĩnh cửu của nhân loại thì con sô" ấy là một đe dọa, là một cảnh báo “không tồn tại” của nhân loại quá rõ ràng, bởi vì tới lúc ấy diện tích dành cho mỗi con người trên mặt Trái Đất chỉ bằng diện tích một hạt thóc!
Phần kết luận của Bài toán dân sốchỉ có 3 câu văn ngắn: Một câu mang ý kêu gọi, một câu mang ý thúc đẩy hành động, còn câu cuối nêu hậu quả của việc con người có hành động hay không. Nếu không hành động, diện tích mỗi người dành cho mặt đất trong tương lai chỉ bằng diện tích một hạt thóc. Chỗ không có để ở thì lấy đất đâu để sản xuất lương thực? Nếu loài người không chung tay hành động ngay từ bây giờ thì viễn cảnh hủy diệt lẫn nhau chắc chắn sẽ xảy ra. Mọi dân tộc trên mặt đất phải quyết tâm tránh viễn cảnh khủng khiếp ấy. “Muốn thế phải góp phần làm cho chặng đường đi đến ô thứ 64 càng dài lâu hơn càng tốt".Thái An không nói rõ mỗi người phải làm những gì để “gổp phần” vào con đường “tồn tại […] cửa chính loài người”, nhưng bạn đọc có thể suy đoán ra từ những con sô" thuyết minh ở trong bài văn. Trước hết loài người nói chung, môi dân tộc nói riêng, phải thay đổi ngay quan niệm sống lạc hậu của mình. Đã là người thì ai cũng muốn ăn no, mặc ấm, được học hành tử tế để mưu cau hạnh phúc. Ma hạnh phúc thì không thê có từ quân niệm ‘Trời sinh voi thì sinh cỏ”. Một gia đình hai con có cuộc sống tốt hơn gia đình bôn con, gia đình sáu con,… Đó là điều dễ nhận ra trong xã hội hiện nay ở Việt Nam. Khi đã ý thức được hạnh phúc là do chính mình tạo dựng nên thì sẽ thay đổi, và kiên quyết thay đổi quan niệm sống thì sẽ hành động tích cực để mỗi gia đình “dù gái hay trai chỉ hai là đủ”. Và như thế “chặng đường đi đến ô thứ 64 càng dài lâu hơn”.
Bài văn tự sự lân thuyết minh của Thái An dài một trang sách in khoảng 700 từ nhưng nội dung của nó liên quan đến mỗi cá nhân, mỗi dân tộc, và toàn nhân loại. “Tồn tại hay không tồn tại” là vấn đề của con người. Tạo hóa, Trời, Thần không trả lời được câu hỏi ấy, mà chính là con người. Tất nhiên, muốn tồn tại, con người phải thay đổi quan niệm sống, cần phải kê hoạch hóa gia đình để hạn chế gia tăng dân số, để chiến thắng nghèo đoi, bệnh tâht và lạc hậu. Bài văn là một thông điệp đầy ý nghĩa nhân bản
Nguồn: thêm: Nỗi nhớ của người xa quê qua bài ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà. Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
|
Thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
Gợi ý
Thể thơ thất ngôn bát cú được hình thành từ thời nhà Đường. Một thời gian dài trong chế độ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài. Thể thơ này đã được phổ biến ở nước ta vào thời Bắc thuộc và chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.
Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vần bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người ta đã có những câu nói vấn đề về luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: các tiếng nhất – tam – ngũ bất luận còn các tiếng: nhị – tứ – lục phân minh. Tuy nhiên trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ. Ví dụ trong bài "Qua Đèo Ngang" được viết theo thể bằng:
"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Xem thêm: Nguyên nhân của các vụ tai nạn giao thông là gì? Hãy viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ của em về vấn đề này t T b B t T B
Cỏ cây chen đá lá chen hoa"
t B b T t B B
Về vần, thể thơ thường có vần bằng được gieo ở tiếng cuối các câu 1 – 2 – 4 – 6 – 8. Vần vừa tạo sự liên kết ý nghĩa vừa có tác dụng tạo nên tính nhạc cho thơ. Ví dụ trong bài "Qua Đèo Ngang", vẫn được gieo là vần "a".
Thể thơ còn có sự giống nhau về mặt âm thanh ở tiếng thứ 2 trong các cặp câu: 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7. Chính điều này tạo cho bài thơ một kết cấu chặt chẽ và nhịp nhàng trong âm thanh. Trong bài thơ "Qua Đèo Ngang": câu 1 – 8 giống nhau ở tất cả các tiếng, trừ tiếng thứ 6 (TTBBTB) câu 2 – 3 giống nhau ở các tiếng 2, 4, 6 (BTB)…
Vế đối, thể thơ có đối ngẫu tương hỗ hoặc đối ngẫu tương phản ở các câu: 3 – 4, 5 – 6. Ở bài thơ "Qua Đèo Ngang" câu 3 – 4 hỗ trợ nhau để bộc lộ sự sống thưa thớt, ít ỏi của con người giữa núi đèo hoang sơ, câu 5 – 6 cùng bộc lộ nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả. Các câu đối cả về từ loại, âm thanh, ý nghĩa.
Câu trúc của thể thơ thát ngôn bát cú gồm bốn phần: Hai câu đề nêu cảm nghĩ chung về người, cảnh vật, hai câu thực miêu tả chi tiết về cảnh, việc, tình để làm rõ cho cảm xúc nêu ở hai câu đề; hai câu luận: bàn luận, mở rộng cảm xúc, thường nêu ý tưởng chính của nhà thơ; hai câu kết: khép lại bài thơ đồng thời nhấn mạnh những cảm xúc đã được giãi bày ở trên. Cấu trúc như vậy sẽ làm tác giả bộc lộ được tất cả nguồn cảm hứng sáng tác, ngạch cảm xúc mãnh liệt để viết lên những bài thơ bất hủ.Xem thêm: Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê em Còn về cách ngắt nhịp của thể thơ, phổ biến là 3 – 4 hoặc 4 – 3 (2 – 2 – 3; 3 – 2 – 2). Cách ngắt nhịp tạo nên một nhịp điệu êm đềm, trôi theo từng dòng cảm xúc của nhà thơ.
Thể thơ thất ngôn bát cú thực sự là một thể tuyệt tác thích hợp để bộc lộ những tình cảm da diết, mãnh liệt đến cháy bỏng đối với quê hương đất nước thiên nhiên. Chính điều đó đã làm tăng vẻ đẹp bình dị của thể thơ. Có những nhà thơ với nguồn cảm hứng mênh mông vô tận đã vượt lên trên sự nghiêm ngặt của thể thơ phá vỡ cấu trúc vần, đối để thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Tóm lại, thể thơ thất ngôn bát cú mãi mãi là một trang giấy thơm tho để muôn nhà thơ viết lên những sáng tác nghệ thuật cao quý cho đời sau.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation of Tang Luat's seven-word, eight-syllable poetic form
Suggest
The seven-word, eight-syllable poetic form was formed during the Tang Dynasty. For a long time during the feudal regime, this form of poetry was used for examinations to select talents. This form of poetry was popular in our country during the Northern colonial period and was mainly used by aristocratic writers.
The structure of the poem consists of 8 lines, each line has 7 words. If the second word of sentence 1 is a flat rhyme, it is called a flat rhyme; if it is a flat rhyme, it is called a metrical rhyme. Poetry has very strict regulations on meter rules. This meter law has created a delicate, flexible and balanced sound network, making the lyrics as melodious as a love song. People have had sayings about the rules of meter in each word in each verse: the first - third - fifth words, regardless of the two - four - six words. However, in the process of composing with their creativity, the authors have reduced the restrictiveness and strictness of the law of meter and trace so that the romantic soul can soar in each verse. For example, in the article "Over Ngang Pass" it is written in the form of:
"Going to Ngang Pass, the shadow of the driver is lost. See more: What are the causes of traffic accidents? Please write a paragraph expressing your thoughts on this issue t T b B t T B
Chen stone plants, leaves flowers chen"
t B b T t B B
Regarding rhyme, poetry often has flat rhyme sown at the end of lines 1 - 2 - 4 - 6 - 8. Rhyme not only creates meaningful connections but also has the effect of creating musicality for poetry. For example, in the song "Qua Deo Ngang", the rhyme "a" is still spelled.
The poetic form also has similarities in sound in the second word in pairs of sentences: 1 - 8, 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7. This gives the poem a tight structure and rhythm. gentle in sound. In the poem "Through Ngang Pass": verses 1 - 8 are the same in all languages, except the 6th language (TTBBTB), verses 2 - 3 are the same in languages 2, 4, 6 (BTB)...
The poem has a reciprocal or contrasting duality in the sentences: 3 - 4, 5 - 6. In the poem "Qua Deo Ngang" verses 3 - 4 support each other to reveal the sparse life, With a small number of people amidst the wild mountains and passes, verses 5 - 6 also reveal the author's longing for his country and home. The sentences are parallel in terms of words, sounds, and meanings.
The sentence structure of the eight-word verse poem consists of four parts: Two sentences stating general feelings about people and places, two sentences describing details about scenes, events, and feelings to clarify the feelings stated in the two sentences. ; two essays: discuss, expand on emotions, often stating the poet's main ideas; two concluding sentences: close the poem while emphasizing the emotions expressed above. Such a structure will help the author reveal all his creative inspirations and intense emotions to write immortal poems. See more: Introducing a scenic spot in my hometown. How about punctuation? The rhythm of poetry is commonly 3 - 4 or 4 - 3 (2 - 2 - 3; 3 - 2 - 2). The staccato rhythm creates a peaceful rhythm, flowing with each flow of the poet's emotions.
The seven-word, eight-phrase poem is truly a masterpiece suitable for expressing the deep, intense and burning feelings for the homeland and nature. That is what enhances the simple beauty of poetry. There are poets with endless sources of inspiration who have overcome the strictness of poetic form, breaking the structure of rhyme and parallelism to express their thoughts and feelings. In short, the seven-word, eight-phrase poetic form will forever be a fragrant page for all poets to write noble artistic creations for future generations.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục – Trích Truyền kì mạn lục – Nguyễn Dữ) (Yêu cầu lập dàn bài)
Gợi ý
1. Tìm hiểu đề:
Đề bài yêu cầu thuyết minh về một tác phẩm văn học “Chuyên chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ. HS cần nhớ được những kiến thức cơ bản về thể loại, xuất xứ, cốt truyện, những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Ngoài ra những nét về tác giả, thời đại… chỉ nhằm làm nổi bật được giá trị của tác phẩm.
2. Dàn ý sơ lược
MỞ BÀI
“Chuyện cliức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ, một trong những tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ kì bút”.
THÂN BÀI
– Giới thiệu chung về tác phẩm:
+ Tác giả: Nguyễn Dữ.
+ Thể loại: Truyền kì.
+ Xuât xứ: Rút từ tập Truyền kỉ mạn lục.
+ Hoàn cảnh sáng tác: khi Nguyễn Dữ dời chôn quan trường về quê vui thú lâm tuyền.
– Giới thiệu tóm tắt nội dung tác phẩm.
– Giới thiệu về giá trị tác phẩm.
+ Giá trị nội dung
+ Giá trị nghệ thuật.
– Đánh giá về giá trị và đóng góp của tác phẩm.
KẾT BÀI
Khẳng định lại ý nghĩa tác phẩm trong tâm hồn người đọc. Khẳng định giá trị của tác phẩm với thời gian.
3. Dàn ý chi tiết:
MỞ BÀI
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một tác phẩm thành công trong việc xây dựng nên hình tượng người trí thức đất Việt khẳng khái, cương trực chống lại cái ác và gian tà.Xem thêm: Tư tưởng về tình cảm của Nguyễn Dữ qua tác phẩm Chuyện chức phán sử đền Tản Viên
Cùng với những tác phẩm khác, truyện đã góp phần làm nên sức sống của Truyền kì mạn lục – một áng “thiên cổ kì bút”.
THÂN BÀI
– Giới thiệu chung về tác phẩm:
+ Tác giả: Nguyễn Dữ.
+ Thể loại: Truyền kì có nguồn gốc từ Trung Quốc, được truyền vào Việt Nam cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI. Truyện truyền kì Việt Nam mang đậm chất dân gian, yếu tố hiện thực và tính nhân văn sâu sắc.
+ Xuất xứ: được rút từ tập Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (xem lại ở đề 2).
– Giới thiệu về giá trị của tác phẩm:
+ Giá trị nội dung:
– Ngợi ca Ngô Tử Văn – hình ảnh một người trí thức nước Việt yêu nước, dũng cảm, khẳng khái chống lại gian tà, bảo vệ cho Thổ công đất Việt.
– Gửi gắm ước mơ công lí, thể hiện niềm tin ở sự chiến thắng của cái thiện với cái ác, chính với tà.
– Đặt vào bổi cảnh lịch sử của thời đại, truyện còn mang một giá trị hiện thực sâu sắc.
+ Giá trị nghệ thuật:
– Sự kết hợp thành công yếu tố ảo và thực.
– Là sự tổng hòa các phương diện nghệ thuật từ cốt truyện đến bố cục, tình tiết.
– Đánh giá về đóng góp và giá trị của tác phẩm trong đời sông văn học và với mỗi người:
+ Đánh dấu bước phát triển quan trọng của văn xuôi tự sự bằng chữ Hán, của thổ loại truyền kì.Xem thêm: Thủ khoa khối C bật mí cách làm bài văn, sử, địa + Dạy ta về lòng dũng cảm, đem đến cho ta niềm tin vào cuộc sống, vào sự chiến thắng của chính nghĩa.
KẾT BAI
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là bài ca chiến đấu và chiến thắng hào hùng của kẻ sĩ cương trực giữa đời.
Truyện còn cho ta bài học nhân sinh: Phải biết dũng cảm đấu tranh với cái ác, cái xấu cho cuộc sống của chúng ta ngày một tốt đẹp hơn.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation of the story The Story of the Judge of Tan Vien Temple (Tan Vien Tu Judge Luc - Excerpt from Truyen Ky Man Luc - Nguyen Du) (Requires making an outline)
Suggest
1. Learn the topic:
The topic requires an explanation of a literary work "The judge of Tan Vien temple" by Nguyen Du. Students need to remember basic knowledge about genre, origin, plot, and unique features of the content and art of the work. In addition, features about the author, era... only serve to highlight the value of the work.
2. Brief outline
OPENING
"The Story of the Tan Vien Temple Judgment" by Nguyen Du, one of the works considered "an ancient period".
BODY OF ARTICLE
– General introduction to the work:
+ Author: Nguyen Du.
+ Genre: Legend.
+ Origin: Extracted from Truyen ky man luc.
+ Circumstances of composition: when Nguyen Du moved to bury the mandarins and returned to his hometown to enjoy forestry.
– Briefly introduce the content of the work.
– Introduction to the value of the work.
+ Content value
+ Artistic value.
– Evaluate the value and contribution of the work.
END
Reaffirming the meaning of the work in the reader's soul. Affirming the value of works over time.
3. Detailed outline:
OPENING
"The Story of the Judge of Tan Vien Temple" is a successful work in building the image of a strong and upright Vietnamese intellectual who fights against evil and wickedness. See more: Nguyen's thoughts on emotions Data from the work The Story of the Judge of Tan Vien Temple
Along with other works, the story has contributed to the vitality of Truyen Ky Man Luc - a "thousand of ancient stories".
BODY OF ARTICLE
– General introduction to the work:
+ Author: Nguyen Du.
+ Genre: Legend originated from China, transmitted to Vietnam in the late 15th and early 16th centuries. Vietnamese legends are rich in folklore, realistic elements and profound humanity.
+ Origin: taken from Nguyen Du's Truyen Ky Man Luc (review in topic 2).
– Introduction to the value of the work:
+ Content value:
- Praising Ngo Tu Van - the image of a Vietnamese intellectual who is patriotic, brave, determined to fight against evil, and protect the Vietnamese land.
– Convey the dream of justice, express belief in the victory of good over evil, justice over evil.
– Set in the historical context of the era, the story also has a profound realistic value.
+ Artistic value:
– Successful combination of virtual and real elements.
– Is a combination of artistic aspects from plot to layout and details.
– Evaluate the contribution and value of the work in the literary life and for each person:
+ Marks an important development step of narrative prose in Chinese characters, of the legendary land genre. See more: The valedictorian of block C reveals how to write essays, history, and geography + Teaches us about courage, brings gives us faith in life, in the victory of justice.
CONCLUSION
"The Story of the Judge of Tan Vien Temple" is a heroic song of battle and victory of a brave warrior in life.
The story also gives us a life lesson: We must courageously fight evil and ugliness to make our lives better and better.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về truyện Chuyện chức phản sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục – Trích Truyền kì mạn lục – Nguyễn Dữ). (Yêu cẩu viết bài văn)
Gợi ý
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một tác phẩm thành công trong công việc xây dựng nên hình tượng người trí thức đất Việt khẳng khái, cương trực chống lại cái ác và gian tà. Cùng với những tác phẩm khác, truyện đã góp phần làm nên sức sống của Truyền kì mạn lục – một áng “thiên cổ kì bút”.
Tác giả Nguyễn Dữ là người Gia Phúc, Hồng Châu, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống vào khoảng cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI. Cha ông là tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu. Nguyễn Dữ thi đỗ Hương tiến (tương đương với Hương công, cử nhân), làm quan ở Thanh Tuyền. Chưa đầy một năm, ông từ quan với lí do về phụng dưỡng mẹ già, từ đấy không hề bước chân tới thành thị. Tương truyền Truyền kì mạn lục được viết trong thời gian ông ở chốn lâm tuyền này.
Truyện được viết theo thể loại truyền kì. Đây là loại truyện có nguồn gốc từ Trung Quốc, được truyền vào Việt Nam, cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI. Truyện truyền kì Việt Nam mang đậm chất dân gian, yếu tô’ hiện thực và tính nhân văn sâu sắc.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được rút từ tập Truyền kỉ mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời ở nửa đầu thế kỉ XVI. Tên tác phẩm có nghĩa là: Tập sách ghi chép tản mạn những truyện kì lạ được lưu truyền nhưng tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt của Nguyễn Dữ. Các truyện hầu hết đều lấy bối cảnh hiện thực ở thời Lý, Trần, Hồ, Lê. Bóc đi cái vỏ hoang đường là hiện thực xã hội phong kiến mà tác giả muốn vạch trần phê phán. Qua tập truyện, người đọc thấy được số phận bất hạnh của người phụ nữ, đồng thời đề cao tinh thần dân tộc, phẩm chất của người trí thức. Truyền kì mạn lục là một tác phẩm đứng đầu trong thể loại truyền kì ở Việt Nam.
Nhân vật chính của truyện là Ngô Tử Văn – một người khẳng khái, chính trực, thấy sự gian tà thì không chịu được. Căm giận tên quái vốn là tướng giặc họ Thôi đã chiếm đền của Thổ Công để nhiễu hại dân lành, Tử Văn châm lửa đốt ngôi đền đó. Tử Văn về nhà và lên cơn ôm sốt. Trong cơn mê, chàng đã mơ thấy bách hộ họ Thôi đến đòi xây trả ngôi đền, nếu không hắn sẽ kiện tới Diêm Vương. Sau đó, Thổ Công cũng hiện tới nói rõ sự thật và bày cho chàng cách đối phó với yêu quái. Tử Văn bệnh nặng rồi mất. Quỷ sứ đã đưa linh hồn chàng xuống gặp Diêm Vương. Đứng ở công đường chốn minh ti, Tử Văn khảng khái đến cùng để vạch trần bộ mặt giả dốì của. tên tướng giặc bại trận. Tên yêu quái hoảng sợ giảng hòa nhưng Diêm Vương đã sai người điều tra và trừng phạt hắn, bia mộ hắn bị nổ tung. Tử Văn trở về nhà chưa được một tháng thì Thổ Công đến đề nghị chàng nhận chức phán sự ở đền Tản Viên. Tử Văn sau đó không bệnh mà chết. Có một người quen cũ tình cờ đã nhìn thấy chàng “chắp tay thi lễ” trong xe ngựa của quan Phán sự rồi thoắt cái lại biến mất trong sương.Xem thêm: Bàn về nghề văn, có người đã mượn một câu thơ trong Truyện Kiều cùa Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Anh (chị) hiểu thế nào về những ý kiến và có suy nghĩ gì về mối quan hệ giữa chữ “tâm” và chữ “tài” của người sáng tác văn chươngChuyện chức phán sự đền Tản Viên có nội dung ngợi ca Ngô Tử Văn – hình ảnh một người trí thức nước Việt yêu nước, dũng cảm, khẳng khái chống lại gian tà, bảo vệ cho thổ thần đất Việt. Hành động đốt đền của chàng không phải vì danh, vì lợi, vì sự liều lĩnh nhất thời mà thể hiện sự cương trực muốn vì dân mà trừ hại. Hơn thế nữa, hành động đó còn mang một tinh thần dân tộc cao cả nhằm bảo vệ cho đền thờ của một vị tướng đã có công với nước. Tính cách ngay thẳng của Ngô Soạn đã được thể hiện nhất quán trong nhiều tình huống thử thách. Đến vương phủ, dù bị đe dọa, vu cáo (“tội ác sâu nặng không dự vào hàng khoan giảm”), dù bị sỉ nhục (“tên này bướng bỉnh, ngoan cố), rồi bị Diêm Vương mắng và uy hiếp, Tử Văn vẫn kiên cường đến cùng để bảo vệ cho lẽ phải. Thái độ đồng tình, ủng hộ, ngợi ca sự cứng cỏi, ngay thẳng của tác giả với Ngô Tử Văn còn được bộc lộ trực tiếp ở lời bàn cuối tác phẩm: kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Lời bàn là sự tranh luận quan, điểm của tác giả với quan điểm của người xưa. Qua đó, khẳng định một cách mạnh mẽ quan điểm của tác giả: kẻ sĩ phải dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ công lí.Xem thêm: Bàn về bài thơ Thuật hoài của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận định: Nói ngắn gọn, khái quát, bài “Thuật hoài” thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại. Phân tích bài thơ để làm rõ nhân định trên
Tác phẩm còn gửi gắm ước mơ công lí, thể hiện niềm tin ở sự chiến thắng của cái thiện với cái ác, cái chính với cái tà. Cuộc đấu tranh quyết liệt không khoan nhượng giữa Tử Văn và hồn ma tên tướng bại trận có một kết thúc có hậu giông như trong chuyện cổ tích: người thiện (Tử Văn) cuối cùng chiến thắng, được giữ chức phán sự ở đền Tản Viên. Còn kẻ gian tà (hồn ma tên tướng giặc) bị nhốt vào ngục Cửu u, hài
cốt tan thành như cám. Nhận chức phán sự, Tử Văn trở thành người bảo vệ công lí, đó chính là mơ ước cao nhất của nhân dân muôn có một người quang minh chính đại, đại biểu của nhân dân và bảo vệ công lí cho nhân dân.
Đặt vào bối cảnh lịch sử của thời đại Nguyễn Dữ (khoảng cuốì thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI), khi chế độ phong kiến bắt đầu suy tàn, nội chiến Lê – Mạc xảy ra, truyện còn mang một giá trị hiện thực sâu sắc. Thế lực ma quỷ, thần linh trong truyện phần nào phản ánh thế lực cường quyền phong kiến bè phái với nhau hãm hại dân lành. Đồng thời, truyện còn lên án lũ giặc ngoại xâm đã chết vẫn còn quấy nhiễu nhân dân.
Với những nội dung trên, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên mang một giá trị nhân văn cao đẹp. Bên cạnh đó, truyện còn phản ánh được tư tưởng tích cực, tiến bộ của Nguyễn Dữ về cuộc sống qua hình tượng kẻ sĩ tích cực – Ngô Tử Văn. Tuy lui về ở ẩn chốn lâm tuyền, nhưng tâm hồn Nguyễn Dữ vẫn gắn bó với cuộc đời.
Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện là ở sự kết hợp thành công yếu tố ảo và thực. Câu chuyện diễn ra đầy tính chất li kì bởi sự xuất hiện của thế giới âm cung với những hồn ma, bóng quỷ với những việc khác thường: người chết đi sống lại từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm lại về cõi dương. Nhưng chuyện lại có vẻ như rất thực bởi cách dẫn người, dẫn việc cụ thể đến cả họ tên, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra sự việc (lai lịch tên tướng giặc cho thấy bối cảnh câu chuyện diễn ra vào thời giặc Minh xâm chiếm nước ta vào năm 1407 – 1427; Tử Văn đi nhận chức phán sự vào năm Giáp Ngọ 1417). Yếu tố kì ảo giúp câu chuyện thêm phần li kì, hấp dẫn. Yếu tố thực làm tăng tính xác thực, làm câu chuyện có ý nghĩa xã hội sâu sắc.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương hay nhất Bên cạnh đó, truyện còn được kể một cách hấp dẫn nhờ sự tổng hòa các phương diện nghệ thuật từ cốt truyện đến bố cục tình tiết. Cốt truyện được kết cấu như một xung đột có mở đầu, phát triển, kết thúc. Nhân vật được khắc họa với tính cách đậm nét, sắc cạnh. Tử Văn cương trực, thẳng thắn; hồn ma bách hộ họ Thôi xảo quyệt, gian trá. Việc khắc họa tính cách nhân vật góp phần làm thể hiện rõ chủ đề câu chuyện: cuộc đấu tranh giữa chính nghĩa và gian tà. Tình tiết li kì, hấp dẫn đan cài tự nhiên, hàm súc. Ngôn ngữ linh hoạt, đa dạng bao gồm lời đối thoại của nhân vật, lời kể của tác giả, lời bình (cuối truyện). Lời bình ở cuối truyện vừa hé lộ chủ đề câu chuyện vừa giúp ta thấy rõ ý nghĩa tích cực trong tư tưởng nhà nho.
Với những giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật đặc sắc, “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đã đem đến thanh công cho Truyền kì mạn lục và đánh dấu bước phát triển quan trọng của văn xuôi tự sự bằng chữ Hán, của thể loại truyền kì. Truyện hấp dẫn với mỗi chúng ta bởi nó dạy ta thế nào là lòng dũng cảm và vì sao phải dũng cảm đấu tranh chông lại cái xấu và cái ác. Truyện đem đến cho ta niềm tin vào cuộc sống, vào sự chiến thắng của chính nghĩa.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là bài ca chiến đấu và chiến thắng hào hùng của kẻ sĩ cương trực giữa đời. Hơn thế nữa, truyện còn đem đến cho ta bài học nhân sinh: phải biết dũng cảm đấu tranh với cái ác, cái xấu cho cuộc sống của chúng ta ngày một tốt đẹp hơn.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về truyện Chuyện chức phản sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục – Trích Truyền kì mạn lục – Nguyễn Dữ). (Yêu cẩu viết bài văn)
Gợi ý
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một tác phẩm thành công trong công việc xây dựng nên hình tượng người trí thức đất Việt khẳng khái, cương trực chống lại cái ác và gian tà. Cùng với những tác phẩm khác, truyện đã góp phần làm nên sức sống của Truyền kì mạn lục – một áng “thiên cổ kì bút”.
Tác giả Nguyễn Dữ là người Gia Phúc, Hồng Châu, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống vào khoảng cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI. Cha ông là tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu. Nguyễn Dữ thi đỗ Hương tiến (tương đương với Hương công, cử nhân), làm quan ở Thanh Tuyền. Chưa đầy một năm, ông từ quan với lí do về phụng dưỡng mẹ già, từ đấy không hề bước chân tới thành thị. Tương truyền Truyền kì mạn lục được viết trong thời gian ông ở chốn lâm tuyền này.
Truyện được viết theo thể loại truyền kì. Đây là loại truyện có nguồn gốc từ Trung Quốc, được truyền vào Việt Nam, cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI. Truyện truyền kì Việt Nam mang đậm chất dân gian, yếu tô’ hiện thực và tính nhân văn sâu sắc.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được rút từ tập Truyền kỉ mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời ở nửa đầu thế kỉ XVI. Tên tác phẩm có nghĩa là: Tập sách ghi chép tản mạn những truyện kì lạ được lưu truyền nhưng tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt của Nguyễn Dữ. Các truyện hầu hết đều lấy bối cảnh hiện thực ở thời Lý, Trần, Hồ, Lê. Bóc đi cái vỏ hoang đường là hiện thực xã hội phong kiến mà tác giả muốn vạch trần phê phán. Qua tập truyện, người đọc thấy được số phận bất hạnh của người phụ nữ, đồng thời đề cao tinh thần dân tộc, phẩm chất của người trí thức. Truyền kì mạn lục là một tác phẩm đứng đầu trong thể loại truyền kì ở Việt Nam.
Nhân vật chính của truyện là Ngô Tử Văn – một người khẳng khái, chính trực, thấy sự gian tà thì không chịu được. Căm giận tên quái vốn là tướng giặc họ Thôi đã chiếm đền của Thổ Công để nhiễu hại dân lành, Tử Văn châm lửa đốt ngôi đền đó. Tử Văn về nhà và lên cơn ôm sốt. Trong cơn mê, chàng đã mơ thấy bách hộ họ Thôi đến đòi xây trả ngôi đền, nếu không hắn sẽ kiện tới Diêm Vương. Sau đó, Thổ Công cũng hiện tới nói rõ sự thật và bày cho chàng cách đối phó với yêu quái. Tử Văn bệnh nặng rồi mất. Quỷ sứ đã đưa linh hồn chàng xuống gặp Diêm Vương. Đứng ở công đường chốn minh ti, Tử Văn khảng khái đến cùng để vạch trần bộ mặt giả dốì của. tên tướng giặc bại trận. Tên yêu quái hoảng sợ giảng hòa nhưng Diêm Vương đã sai người điều tra và trừng phạt hắn, bia mộ hắn bị nổ tung. Tử Văn trở về nhà chưa được một tháng thì Thổ Công đến đề nghị chàng nhận chức phán sự ở đền Tản Viên. Tử Văn sau đó không bệnh mà chết. Có một người quen cũ tình cờ đã nhìn thấy chàng “chắp tay thi lễ” trong xe ngựa của quan Phán sự rồi thoắt cái lại biến mất trong sương.Xem thêm: Bàn về nghề văn, có người đã mượn một câu thơ trong Truyện Kiều cùa Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Anh (chị) hiểu thế nào về những ý kiến và có suy nghĩ gì về mối quan hệ giữa chữ “tâm” và chữ “tài” của người sáng tác văn chươngChuyện chức phán sự đền Tản Viên có nội dung ngợi ca Ngô Tử Văn – hình ảnh một người trí thức nước Việt yêu nước, dũng cảm, khẳng khái chống lại gian tà, bảo vệ cho thổ thần đất Việt. Hành động đốt đền của chàng không phải vì danh, vì lợi, vì sự liều lĩnh nhất thời mà thể hiện sự cương trực muốn vì dân mà trừ hại. Hơn thế nữa, hành động đó còn mang một tinh thần dân tộc cao cả nhằm bảo vệ cho đền thờ của một vị tướng đã có công với nước. Tính cách ngay thẳng của Ngô Soạn đã được thể hiện nhất quán trong nhiều tình huống thử thách. Đến vương phủ, dù bị đe dọa, vu cáo (“tội ác sâu nặng không dự vào hàng khoan giảm”), dù bị sỉ nhục (“tên này bướng bỉnh, ngoan cố), rồi bị Diêm Vương mắng và uy hiếp, Tử Văn vẫn kiên cường đến cùng để bảo vệ cho lẽ phải. Thái độ đồng tình, ủng hộ, ngợi ca sự cứng cỏi, ngay thẳng của tác giả với Ngô Tử Văn còn được bộc lộ trực tiếp ở lời bàn cuối tác phẩm: kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Lời bàn là sự tranh luận quan, điểm của tác giả với quan điểm của người xưa. Qua đó, khẳng định một cách mạnh mẽ quan điểm của tác giả: kẻ sĩ phải dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ công lí.Xem thêm: Bàn về bài thơ Thuật hoài của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận định: Nói ngắn gọn, khái quát, bài “Thuật hoài” thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại. Phân tích bài thơ để làm rõ nhân định trên
Tác phẩm còn gửi gắm ước mơ công lí, thể hiện niềm tin ở sự chiến thắng của cái thiện với cái ác, cái chính với cái tà. Cuộc đấu tranh quyết liệt không khoan nhượng giữa Tử Văn và hồn ma tên tướng bại trận có một kết thúc có hậu giông như trong chuyện cổ tích: người thiện (Tử Văn) cuối cùng chiến thắng, được giữ chức phán sự ở đền Tản Viên. Còn kẻ gian tà (hồn ma tên tướng giặc) bị nhốt vào ngục Cửu u, hài
cốt tan thành như cám. Nhận chức phán sự, Tử Văn trở thành người bảo vệ công lí, đó chính là mơ ước cao nhất của nhân dân muôn có một người quang minh chính đại, đại biểu của nhân dân và bảo vệ công lí cho nhân dân.
Đặt vào bối cảnh lịch sử của thời đại Nguyễn Dữ (khoảng cuốì thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI), khi chế độ phong kiến bắt đầu suy tàn, nội chiến Lê – Mạc xảy ra, truyện còn mang một giá trị hiện thực sâu sắc. Thế lực ma quỷ, thần linh trong truyện phần nào phản ánh thế lực cường quyền phong kiến bè phái với nhau hãm hại dân lành. Đồng thời, truyện còn lên án lũ giặc ngoại xâm đã chết vẫn còn quấy nhiễu nhân dân.
Với những nội dung trên, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên mang một giá trị nhân văn cao đẹp. Bên cạnh đó, truyện còn phản ánh được tư tưởng tích cực, tiến bộ của Nguyễn Dữ về cuộc sống qua hình tượng kẻ sĩ tích cực – Ngô Tử Văn. Tuy lui về ở ẩn chốn lâm tuyền, nhưng tâm hồn Nguyễn Dữ vẫn gắn bó với cuộc đời.
Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện là ở sự kết hợp thành công yếu tố ảo và thực. Câu chuyện diễn ra đầy tính chất li kì bởi sự xuất hiện của thế giới âm cung với những hồn ma, bóng quỷ với những việc khác thường: người chết đi sống lại từ dương gian xuống địa phủ, từ cõi âm lại về cõi dương. Nhưng chuyện lại có vẻ như rất thực bởi cách dẫn người, dẫn việc cụ thể đến cả họ tên, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra sự việc (lai lịch tên tướng giặc cho thấy bối cảnh câu chuyện diễn ra vào thời giặc Minh xâm chiếm nước ta vào năm 1407 – 1427; Tử Văn đi nhận chức phán sự vào năm Giáp Ngọ 1417). Yếu tố kì ảo giúp câu chuyện thêm phần li kì, hấp dẫn. Yếu tố thực làm tăng tính xác thực, làm câu chuyện có ý nghĩa xã hội sâu sắc.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương hay nhất Bên cạnh đó, truyện còn được kể một cách hấp dẫn nhờ sự tổng hòa các phương diện nghệ thuật từ cốt truyện đến bố cục tình tiết. Cốt truyện được kết cấu như một xung đột có mở đầu, phát triển, kết thúc. Nhân vật được khắc họa với tính cách đậm nét, sắc cạnh. Tử Văn cương trực, thẳng thắn; hồn ma bách hộ họ Thôi xảo quyệt, gian trá. Việc khắc họa tính cách nhân vật góp phần làm thể hiện rõ chủ đề câu chuyện: cuộc đấu tranh giữa chính nghĩa và gian tà. Tình tiết li kì, hấp dẫn đan cài tự nhiên, hàm súc. Ngôn ngữ linh hoạt, đa dạng bao gồm lời đối thoại của nhân vật, lời kể của tác giả, lời bình (cuối truyện). Lời bình ở cuối truyện vừa hé lộ chủ đề câu chuyện vừa giúp ta thấy rõ ý nghĩa tích cực trong tư tưởng nhà nho.
Với những giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật đặc sắc, “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” đã đem đến thanh công cho Truyền kì mạn lục và đánh dấu bước phát triển quan trọng của văn xuôi tự sự bằng chữ Hán, của thể loại truyền kì. Truyện hấp dẫn với mỗi chúng ta bởi nó dạy ta thế nào là lòng dũng cảm và vì sao phải dũng cảm đấu tranh chông lại cái xấu và cái ác. Truyện đem đến cho ta niềm tin vào cuộc sống, vào sự chiến thắng của chính nghĩa.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là bài ca chiến đấu và chiến thắng hào hùng của kẻ sĩ cương trực giữa đời. Hơn thế nữa, truyện còn đem đến cho ta bài học nhân sinh: phải biết dũng cảm đấu tranh với cái ác, cái xấu cho cuộc sống của chúng ta ngày một tốt đẹp hơn.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
Hướng dẫn
Kể đến những tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam, ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du và tác phẩm truyện Kiều của ông. Với tấm lòng nhân đạo tha thiết và tài năng văn học kiệt xuất, Nguyễn Du để lại ấn tượng sâu sắc qua những sáng tác của ông, đặc biệt là Truyện Kiều.
Nguyễn Du cũng là người có năng khiếu văn học bẩm sinh, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, ngôi sao chói lọi trong nền văn học trung đại Việt Nam. về sự nghiệp, văn học Nguyễn Du có nhiều sáng tạo lớn cả về chữ Hán và chữ Nôm. Các sáng tác chữ Hán có Thanh Hiên thi tập (78 bài), Bắc hành tạp lục (125 bài), Nam trung tạp ngâm (40 bài)… sáng tác chữ Nôm có Văn chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay còn gọi là Đoạn trường tân thanh.
Truyện Kiều ra đời đầu thế kỉ XIX (khoảng từ 1805 – 1809), tên đầy đủ là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới đứt ruột), mà thường được gọi là “Truyện Kiều”. Tác phẩm viết dựa trên cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng đã có sự sáng tạo tài tình và thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Là truyện thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, dài 3254 câu, chia làm 3 phần (Gặp gỡ và đính ước; Gia biến và lưu lạc; Đoàn tụ). Đề tài của truyện là viết về cuộc đời Kiều nhưng thông qua đó tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ đã chà đạp, xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng; đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều và của người phụ nữ. Tác phẩm còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời với "con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời" của nhà thơ.
Xem thêm: Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Đôi mắt.Truyện Kiều kể về cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc Thuý Kiều. Thuý Kiều là một cô gái sinh trưởng trong gia đình họ Vương có ba chị em: Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan. Kiều là người con gái tài năng và nhan sắc thuộc bậc trên người. Nàng còn là người con hiếu nghĩa. Trong hội đạp thanh, Kiều gặp Kim Trọng, họ đã yêu nhau sau đó đính ước. Khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Mã Giám sinh mua Kiều về Làm Tri. Tú Bà lập mưu biến nàng thành gái lầu xanh. Thúc Sinh chuộc Kiều và cưới nàng làm vợ lẽ. Nàng lại bị Hoạn Thư – vợ Thúc Sinh sai lính đến bắt về làm hoa nô và bày trò đánh ghen. Nàng trốn khỏi nhà Thúc Sinh. Nhưng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải – một anh hùng “đội trời, đạp đất”, chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị chết đứng. Kiềubị ép lấy viên thổ quan. Nhục nhã, đau đớn, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử, được sư Giác Duyên cứu và đi tu. Kim Trọng trở lại sau nửa năm, chàng kết duyên với Thuý Vân theo lời trao duyên của Kiều.
Sau này, Kim Trọng và Vương Quan đã bỏ nhiều công sức tìm Thúy Kiều. Rất may họ đã gặp lại Thuý Kiều, Kiều được đoàn tụ với gia đình và Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc.
Giá trị của Truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu là nội dung và nghệ thuật.
Nguồn: thêm: La Rochefoucault có nói: “Một quyển sách tốt là một người bạn hiền”. Bằng một số tác phẩm tiêu biểu, em hãy làm sáng tỏ điều này
|
Explanation about author Nguyen Du and his work The Tale of Kieu.
Instruct
When mentioning outstanding authors and works of Vietnamese medieval literature, we immediately think of Nguyen Du and his work Kieu. With a passionate humanitarian heart and outstanding literary talent, Nguyen Du left a deep impression through his works, especially The Tale of Kieu.
Nguyen Du is also a person with innate literary talent, a master in using Vietnamese, a shining star in Vietnamese medieval literature. Regarding his career and literature, Nguyen Du has many great creations in both Chinese and Nom characters. Compositions in Chinese include Thanh Hien Thi Tap (78 songs), Bac Hanh Tap Luc (125 songs), Nam Trung Tap Diem (40 songs)... Compositions in Nom include Van Summoning Souls, Literature for Living the Two Girls of Truong Luu , typically the work The Tale of Kieu, also known as Doan Truong Tan Thanh.
The Tale of Kieu was born in the early 19th century (about 1805 - 1809), the full name is "Doan Truong Tan Thanh" (The Heartbreaking New Cry), and is often called "The Tale of Kieu". The work is based on the novel "The Story of Kim Van Kieu" by Thanh Tam Tai Nhan (China) but has ingenious creativity and changes, adding many elements in the plot to suit social circumstances. Vietnam Association at that time. It is a Nom poetic story written in six-eight verse, 3,254 lines long, divided into 3 parts (Meeting and engagement; Family transformation and wandering; Reunion). The topic of the story is about Kieu's life, but through it, she denounces the feudal society at that time for trampling and pushing women to the end; At the same time, he praised the beauty of Thuy Kieu's soul and that of women. The work also clearly shows the reality of contemporary life with the poet's "eyes that see the six realms, a heart that thinks of eternity".
See more: Analysis of the artistic characteristics of writer Nam Cao in the short story The Eyes. The Story of Kieu tells about the troubled life of a talented girl Thuy Kieu. Thuy Kieu is a girl who grew up in the Vuong family with three sisters: Thuy Kieu, Thuy Van and Vuong Quan. Kieu is a girl with superior talent and beauty. She is also a filial child. During the festival, Kieu met Kim Trong, they fell in love and then got engaged. When Kim Trong returned to Lieu Duong to attend his uncle's funeral, Kieu's family encountered a disaster and Kieu had to sell herself to ransom her father. Ma Giam Sinh bought Kieu to become Tri. Tu Ba plotted to turn her into a prostitute. Thuc Sinh redeemed Kieu and married her as his concubine. Hoan Thu - Thuc Sinh's wife sent soldiers to capture her as a flower slave and play tricks on her. She escaped from Thuc Sinh's house. But falling into the hands of Bac Ba, Bac Hanh had to enter the brothel a second time. Here, Kieu met Tu Hai - a hero who "climbed the sky and trampled the earth", he redeemed Kieu from the brothel, helping Kieu repay kindness and revenge. Kieu fell for Ho Ton Hien's trick again, Tu Hai died. Kieu was forced to take the earth official. Humiliated and in pain, she jumped into the Tien Duong River and committed suicide. Monk Giac Duyen saved her and became a monk. Kim Trong returned after half a year, he got married to Thuy Van according to Kieu's promise.
Later, Kim Trong and Vuong Quan spent a lot of effort to find Thuy Kieu. Fortunately, they met Thuy Kieu again. Kieu was reunited with her family and Kim Trong after fifteen years of wandering.
The value of The Tale of Kieu is expressed in two main aspects: content and art.
Source: more: La Rochefoucault said: "A good book is a good friend." With some typical works, let me clarify this
|
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi. (Yêu cầu lập dàn bài)
Gợi ý
1. Tìm hiểu đề:
Đề bài yêu cầu thuyết minh về một tác giả văn học Nguyễn Trãi. HS cần nắm được những thông tin cơ bản liên quan đến tác giả. cần phải giới thiệu được sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi. Đồng thời làm nổi bật được nội dung, giá trị một số tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng, nghệ thuật của chính tác giả. Những vấn đề khác như cuộc đời, thời đại… chỉ nhằm làm nổi bật sự nghiệp văn học của tác giả.
2. Dàn ý sơ lược:
MỞ BÀI
Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Trãi và vị trí của ông trong nền vàn học dân tộc.
THÂN BÀI
– Giới thiệu về cuộc đời của Nguyễn Trãi
– Giới thiệu về sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi
– Những tác phẩm chính
– Nguyễn Trãi – nhà văn chính luận xuất sắc
– Nguyễn Trãi – nhà thơ trữ tình sâu sắc
– Đánh giá chung về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi.
KẾT BÀI
Khẳng định lại những đóng góp và vị trí của Nguyễn Trãi trong nền văn học dân tộc.
3. Dàn ý chi tiết:
MỞ BÀI
Nguyễn Trãi là một nhà thơ, nhà văn kiệt xuất, là danh nhân văn hoá thế giới có những đóng góp lớn cho sự phát triển của văn hoá, văn học dân tộc.Xem thêm: Anh (chị) hãy thuyết minh về đại thi hào dân tộc Nguyễn DuTHÂN BÀI
– Giới thiệu về cuộc đời Nguyễn Trãi:
+ Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là ức Trai, quê gốc ở Chi Ngại (Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội).
+ Giới thiệu về cha, mẹ của Nguyễn Trãi.
+ Cuộc đời ông gắn liền với nhiều biến cố thăng trầm của dân tộc: giặc Minh sang xâm lược, Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê…
+ Cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời của một người anh hùng lẫy lừng nhưng lại oan khuất và bi kịch nhất trong lịch sử.
– Giới thiệu về sự nghiệp văn chương Nguyễn Trãi:
+ Nói Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận xuất sắc bởi ông có một khôi lượng lớn các tác phẩm chính luận sáng ngời chủ nghĩa yêu nước, nhân nghĩa. Nghệ thuật viết chính luận của ông cũng lên đến bậc thầy.
+ Nguyễn Trãi còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc:
– Về mặt nội dung: Thơ ông phản chiếu vẻ đẹp của một tâm hồn rong sáng, đầy sức sống. Nguyễn Trãi hiện lên trong thơ vừa là người anh hùng vĩ đại, vừa là con người trần thế bình dị.
– Về mặt nghệ thuật: Ông đã có những cách tân lớn trên hai phương diện thể loại và ngôn ngữ. Ông đã đan xen thành công những câu thơ lục ngôn vào thể thơ thất ngôn Đường luật. Ông đã góp phần Việt hoá ngôn ngữ thơ Nôm.
– Đánh giá về đóng góp của Nguyễn Trãi với văn hoá, văn học dân tộc:Xem thêm: Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ+ Ông đã trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thông văn học Lý – Trần đồng thời mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới.
+ Ông đã để lại tập thơ Nôm sớm nhất trở thành di sản thơ Nôm Việt Nam độc đáo.
+ Nguyễn Trãi đã đưa ý thức dân tộc lên đến đỉnh cao kết tinh tư tưởng Việt Nam thời trung đại.
KẾT BÀI:
– Nguyễn Trãi sống mãi trong tâm hồn người đọc bởi ông vừa là nhà thơ vừa là danh nhân văn hoá lớn.
– Nguyễn Trãi được coi là người đặt nền móng cho thơ Nôm Việt Nam phát triển và lên đến đỉnh cao.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation about author Nguyen Trai. (Requires an outline)
Suggest
1. Learn the topic:
The topic requires an explanation about a literary author Nguyen Trai. Students need to grasp basic information related to the author. It is necessary to introduce Nguyen Trai's literary career. At the same time, it highlights the content and value of some works that represent the author's own ideology and art. Other issues such as life, era... are only intended to highlight the author's literary career.
2. Brief outline:
OPENING
General introduction about author Nguyen Trai and his position in ethnic studies.
BODY OF ARTICLE
– Introduction to the life of Nguyen Trai
– Introduction to Nguyen Trai's poetic career
– Main works
– Nguyen Trai – excellent political writer
– Nguyen Trai – profound lyrical poet
– General assessment of Nguyen Trai's life and poetry.
END
Reaffirming Nguyen Trai's contributions and position in national literature.
3. Detailed outline:
OPENING
Nguyen Trai is an outstanding poet, writer, and world cultural celebrity who has made great contributions to the development of national culture and literature. See more: Please explain about the great poem. National hero Nguyen DuTHAN BAI
– Introduction to Nguyen Trai's life:
+ Nguyen Trai (1380 - 1442), nicknamed Uc Trai, originally from Chi Ngai (Hai Duong) then moved to Nhi Khe (Thuong Tin, Hanoi).
+ Introducing Nguyen Trai's father and mother.
+ His life was associated with many ups and downs of the nation: the Ming invaders invaded, Le Loi established the Later Le dynasty...
+ Nguyen Trai's life is the life of a famous hero but the most unjust and tragic in history.
– Introduction to Nguyen Trai's literary career:
+ It is said that Nguyen Trai is an excellent political writer because he has a large volume of political works illuminating patriotism and humanity. His art of writing political essays is also masterful.
+ Nguyen Trai is also a profound lyrical poet:
– In terms of content: His poetry reflects the beauty of a bright, vibrant soul. Nguyen Trai appears in poetry as both a great hero and a simple earthly person.
– In terms of art: He has made great innovations in both genre and language aspects. He successfully interwoven six-word verses into the seven-word Tang Luat poem. He contributed to Vietnameseizing the Nom poetic language.
– Evaluation of Nguyen Trai's contribution to national culture and literature: See also: Analysis of the character Mi in the excerpt A Phu and his wife+ He has become a literary phenomenon that crystallizes Ly literary communication – Tran also opened a new phase of development.
+ He left behind the earliest collection of Nom poetry, which became a unique Vietnamese Nom poetry heritage.
+ Nguyen Trai brought national consciousness to the pinnacle of crystallizing Vietnamese thought in the medieval period.
END:
– Nguyen Trai lives forever in the hearts of readers because he is both a poet and a great cultural celebrity.
– Nguyen Trai is considered the person who laid the foundation for Vietnamese Nom poetry to develop and reach its peak.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi. (Yêu cầu viết bài văn)
Gợi ý
Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một người anh hùng dân tộc đồng thời là danh nhân văn hoá thế giới. “Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại bấy giờ” (Phạm văn Đồng).
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là ức Trai, quê gốc ở Chi Ngại (Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội), ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hoá, văn học. Thân sinh là Nguyễn úng Long (sau đổi là Nguyễn Phi Khanh), một nho sinh nghèo, học giỏi, thi đỗ thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố thăng trầm: Biến cố trong gia đình (mẹ mất lúc 5 tuổi, khi ông 27 tuổi, cha và em bị bắt đày sang Trung Quốc). Biến cố của đất nước (nhà Hồ lên thay nhà Trần, giặc Minh sang xâm lược, Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê, trong thời bình triều đình chia rẽ, rối ren).
Sống trong thời đại bi hùng của lịch sử, cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời của một người anh hùng lẫy lừng nhưng lại oan khuất và bi kịch nhất trong lịch sử.
Nguyễn Trãi đã sớm khắc sâu nợ nước thù nhà từ lời dặn của cha năm 1407.
Nguyễn Trãi có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và công cuộc chống giặc Minh. Ông tham gia khởi nghĩa từ năm 1417 với tư cách là một quân sư tài ba. Cuối năm 1427, đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Sau đó, ông hăm hở tham gia công cuộc xây dựng đất nước.
Nguyễn Trãi không thực hiện được hoài bão của mình trong thời bình. Những mâu thuẫn nội bộ trong triều đình phong kiến dẫn đến việc sát hại các công thần. Nguyễn Trãi tùng bị nghi oan, bị bắt giam rồi được tha. Tình thế ấy buộc ông phải xin về ở ẩn tại Côn Sơn. Chỉ mấy tháng sau, vua Lê Thái Tông lại vời ông ra làm việc. Thật không may, ba năm sau (1442), vua đột tử trong lần đi kinh lí miền Đông. Bọn gian thần nhân cơ hội này đã buộc tội Nguyễn Trãi và khép ông vào tội tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi và sưu tầm lại thơ văn của ông.Xem thêm: Anh/ chị hãy phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí Ông là một bậc đại anh hùng của dân tộc và là người góp phần xây dựng nên lịch sử vẻ vang của triều Hậu Lê. Đồng thời, ông cũng là người chịu oan khuất nhất trong lịch sử. Bên cạnh đó, ông còn là nhân vật toàn tài hiếm có với nhiều đóng góp nổi bật trong mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá, văn học. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Ông là người có sự nghiệp văn chương đồ sộ với đủ các thể loại trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Những tác phẩm viết bằng chữ Hán có: Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, ức Trai thi tập, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng… Sáng tác bằng chữ Nôm có Quốc âm thi tập (254 bài thơ chữ Nôm) viết theo thể Đường luật, Đường luật xen lẫn lục ngôn. Ngoài ra, ông còn để lại bộ Dư địa chí – một bộ sách cổ nhất về địa lí của nước ta.
Nói Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận xuất sắc vì ông để lại một khôi lượng khá lớn các tác phẩm chính luận. Tiêu biểu như: Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, Chiếu biểu viết dưới triều Lề… Tư tưởng xuyên suốt các áng văn đó là tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước thương dân.
Về giá trị nội dung, những áng văn chính luận của ông có đóng góp lớn cho sự nghiệp chiến đấu và xây dựng đất nước của triều Hậu Lê. Quân trung tù mệnh tập gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giấy tờ để giao thiệp với triều đình nhà Minh. Tác phẩm là sự kết hợp sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước, nhân nghĩa và nghệ thuật viết văn chính luận bậc thầy của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo được coi là tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc ta, là bản cáo trạng đanh thép về tội ác kẻ thù, là bản hùng ca về khởi nghĩa Lam Sơn, là áng văn yêu nước của thời đại. Trong đó, nền tảng của những giá trị đó dựa trên tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước hoà làm một.Xem thêm: Nhà văn lớn người Pháp, Mác-xen Pruts cho rằng: “Đối... biết đến”. Vận dụng phong cách nghệ thuật của một tác giả để phân tích và chứng minh ý kiến trên Về giá trị nghệ thuật, văn chính luận của Nguyễn Trãi hấp dẫn ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, bút pháp thay đổi linh hoạt tuỳ vào đối tượng và mục đích sử dụng.
Thơ văn Nguyễn Trãi là tâm hồn của ông, trong sáng và đầy sức sống. Cả hai tập thơ Quốc âm thi tập và ức Trai thi tập đã ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là người anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế.
Con người anh hùng của Nguyễn Trãi thể hiện ở hai khía cạnh: lí tưởng anh hùng và phẩm chất anh hùng. Lí tưởng anh hùng là sự kết hợp nhân nghĩa với yêu nước thương dân. Còn phấm chất anh hùng thể hiện ở sự mạnh mẽ, kiên trung, vì nước, vì dân chiến đấu chống ngoại xâm và chông cường quyền bạo ngược.
Hoà hợp với con người anh hùng, trong tâm hồn Nguyễn Trãi còn có con người trần thế. Nguyễn Trãi đau nỗi đau của con người và yêu tình yêu con người. Nguyễn Trãi đau nỗi đau cho mình thì ít mà đau đời thì nhiều. Ông thường xót xa cho thói đời đen bạc: “Phượng những tiếc cao diều hãy liệng / Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”. Ồng khát khao một cuộc sống thái bình, thịnh trị cho dân: “Rượu năm ba chén đổi công danh/ cầu một ngày coi đời thái bình”.
Tình yêu Nguyễn Trãi dành nhiều cho thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống. Và đặc biệt, với Nguyễn Trãi: “Lòng yêu thiên nhiên vạn vật là kích thước để đo một tấm hồn” (Xuân Diệu). Thiên nhiên trong thơ chữ Nôm của ông bình dị, dân giã tạo nên một môi trường sống thanh cao mà ở đó con người giữ được những vẻ đẹp trong sáng trong tâm hồn: “Quét trúc bước qua dòng suôi/ Thưởng mai về đạp bóng trăng”. Ông đến với thiên nhiên như về với người bạn tri kỉ để gởi gắm triết lí và tình cảm thân thiết ruột thịt: “Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn/ ú ấp cùng ta làm cái con”. Nguyễn Trãi luôn dành những tình cảm nồng hậu, ấm áp cho bạn bè, người thân, làng xóm, quê hương…Xem thêm: Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Có thể nói, khía cạnh con người trong thời anh hùng Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản góp phần nâng người anh hùng dân tộc lên tầm nhân loại.
Nói Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình kiệt xuất còn bởi ông đã đóng góp cho thơ ca Việt Nam những thành tựu nghệ thuật mang ý nghĩa kết tinh trên cả hai bình diện cơ bản là thể loại và ngôn ngữ. Thể thơ thất ngôn xen những câu lục ngôn là những cố gắng lớn của ông trên con đường Việt hoá thơ Đường luật. Ông còn đưa vào trong thơ những chất liệu chưng cất từ ngôn ngữ của đời sông hằng ngày và sử dụng một cách sáng tạo những thi liệu dân gian (ca dao, tục ngữ…).
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hoá lớn của dân tộc. Ông đã trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lý – Trần đồng thời mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới. về nội dung: Văn chương Nguyễn Trãi hội tụ hai nguồn cảm hứng là yêu nước và nhân đạo. Nguyễn Trãi đã đưa ý thức dân tộc lên đến đỉnh cao kết tinh tư tưởng Việt Nam thời trung đại. về nghệ thuật: Nguyễn Trãi là người đầu tiên đã đạt nền móng cho thơ ca tiêhg Việt về hai phương diện ngôn ngữ và thể loại, ông đã để lại tập thơ Nôm sớm nhất làm di sản thơ Nôm Việt Nam độc đáo. Cho đến nay, chúng ta vẫn tiếp thu và phát huy những thành tựu thơ ca và vãn hoá của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi còn mãi với thời gian là người anh hùng dân tộc kì tài nhưng cũng là người oan khuất nhất trong lịch sử. Nguyễn Trãi vừa là nhà thơ kiệt xuất vừa là danh nhân văn hoá thế giới. Thơ chữ Hán cũng như chữ Nôm của ông, chính luận hay trữ tình đều phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của một con người vĩ đại và con người đời thường. Ông là bông hoa đầu mùa của thơ Nôm Việt Nam.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi. (Yêu cầu viết bài văn)
Gợi ý
Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một người anh hùng dân tộc đồng thời là danh nhân văn hoá thế giới. “Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại bấy giờ” (Phạm văn Đồng).
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là ức Trai, quê gốc ở Chi Ngại (Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội), ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hoá, văn học. Thân sinh là Nguyễn úng Long (sau đổi là Nguyễn Phi Khanh), một nho sinh nghèo, học giỏi, thi đỗ thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố thăng trầm: Biến cố trong gia đình (mẹ mất lúc 5 tuổi, khi ông 27 tuổi, cha và em bị bắt đày sang Trung Quốc). Biến cố của đất nước (nhà Hồ lên thay nhà Trần, giặc Minh sang xâm lược, Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê, trong thời bình triều đình chia rẽ, rối ren).
Sống trong thời đại bi hùng của lịch sử, cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời của một người anh hùng lẫy lừng nhưng lại oan khuất và bi kịch nhất trong lịch sử.
Nguyễn Trãi đã sớm khắc sâu nợ nước thù nhà từ lời dặn của cha năm 1407.
Nguyễn Trãi có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và công cuộc chống giặc Minh. Ông tham gia khởi nghĩa từ năm 1417 với tư cách là một quân sư tài ba. Cuối năm 1427, đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Sau đó, ông hăm hở tham gia công cuộc xây dựng đất nước.
Nguyễn Trãi không thực hiện được hoài bão của mình trong thời bình. Những mâu thuẫn nội bộ trong triều đình phong kiến dẫn đến việc sát hại các công thần. Nguyễn Trãi tùng bị nghi oan, bị bắt giam rồi được tha. Tình thế ấy buộc ông phải xin về ở ẩn tại Côn Sơn. Chỉ mấy tháng sau, vua Lê Thái Tông lại vời ông ra làm việc. Thật không may, ba năm sau (1442), vua đột tử trong lần đi kinh lí miền Đông. Bọn gian thần nhân cơ hội này đã buộc tội Nguyễn Trãi và khép ông vào tội tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi và sưu tầm lại thơ văn của ông.Xem thêm: Anh/ chị hãy phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí Ông là một bậc đại anh hùng của dân tộc và là người góp phần xây dựng nên lịch sử vẻ vang của triều Hậu Lê. Đồng thời, ông cũng là người chịu oan khuất nhất trong lịch sử. Bên cạnh đó, ông còn là nhân vật toàn tài hiếm có với nhiều đóng góp nổi bật trong mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá, văn học. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Ông là người có sự nghiệp văn chương đồ sộ với đủ các thể loại trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Những tác phẩm viết bằng chữ Hán có: Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, ức Trai thi tập, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng… Sáng tác bằng chữ Nôm có Quốc âm thi tập (254 bài thơ chữ Nôm) viết theo thể Đường luật, Đường luật xen lẫn lục ngôn. Ngoài ra, ông còn để lại bộ Dư địa chí – một bộ sách cổ nhất về địa lí của nước ta.
Nói Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận xuất sắc vì ông để lại một khôi lượng khá lớn các tác phẩm chính luận. Tiêu biểu như: Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, Chiếu biểu viết dưới triều Lề… Tư tưởng xuyên suốt các áng văn đó là tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước thương dân.
Về giá trị nội dung, những áng văn chính luận của ông có đóng góp lớn cho sự nghiệp chiến đấu và xây dựng đất nước của triều Hậu Lê. Quân trung tù mệnh tập gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giấy tờ để giao thiệp với triều đình nhà Minh. Tác phẩm là sự kết hợp sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước, nhân nghĩa và nghệ thuật viết văn chính luận bậc thầy của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo được coi là tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc ta, là bản cáo trạng đanh thép về tội ác kẻ thù, là bản hùng ca về khởi nghĩa Lam Sơn, là áng văn yêu nước của thời đại. Trong đó, nền tảng của những giá trị đó dựa trên tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước hoà làm một.Xem thêm: Nhà văn lớn người Pháp, Mác-xen Pruts cho rằng: “Đối... biết đến”. Vận dụng phong cách nghệ thuật của một tác giả để phân tích và chứng minh ý kiến trên Về giá trị nghệ thuật, văn chính luận của Nguyễn Trãi hấp dẫn ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, bút pháp thay đổi linh hoạt tuỳ vào đối tượng và mục đích sử dụng.
Thơ văn Nguyễn Trãi là tâm hồn của ông, trong sáng và đầy sức sống. Cả hai tập thơ Quốc âm thi tập và ức Trai thi tập đã ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là người anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế.
Con người anh hùng của Nguyễn Trãi thể hiện ở hai khía cạnh: lí tưởng anh hùng và phẩm chất anh hùng. Lí tưởng anh hùng là sự kết hợp nhân nghĩa với yêu nước thương dân. Còn phấm chất anh hùng thể hiện ở sự mạnh mẽ, kiên trung, vì nước, vì dân chiến đấu chống ngoại xâm và chông cường quyền bạo ngược.
Hoà hợp với con người anh hùng, trong tâm hồn Nguyễn Trãi còn có con người trần thế. Nguyễn Trãi đau nỗi đau của con người và yêu tình yêu con người. Nguyễn Trãi đau nỗi đau cho mình thì ít mà đau đời thì nhiều. Ông thường xót xa cho thói đời đen bạc: “Phượng những tiếc cao diều hãy liệng / Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”. Ồng khát khao một cuộc sống thái bình, thịnh trị cho dân: “Rượu năm ba chén đổi công danh/ cầu một ngày coi đời thái bình”.
Tình yêu Nguyễn Trãi dành nhiều cho thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống. Và đặc biệt, với Nguyễn Trãi: “Lòng yêu thiên nhiên vạn vật là kích thước để đo một tấm hồn” (Xuân Diệu). Thiên nhiên trong thơ chữ Nôm của ông bình dị, dân giã tạo nên một môi trường sống thanh cao mà ở đó con người giữ được những vẻ đẹp trong sáng trong tâm hồn: “Quét trúc bước qua dòng suôi/ Thưởng mai về đạp bóng trăng”. Ông đến với thiên nhiên như về với người bạn tri kỉ để gởi gắm triết lí và tình cảm thân thiết ruột thịt: “Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn/ ú ấp cùng ta làm cái con”. Nguyễn Trãi luôn dành những tình cảm nồng hậu, ấm áp cho bạn bè, người thân, làng xóm, quê hương…Xem thêm: Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Có thể nói, khía cạnh con người trong thời anh hùng Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản góp phần nâng người anh hùng dân tộc lên tầm nhân loại.
Nói Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình kiệt xuất còn bởi ông đã đóng góp cho thơ ca Việt Nam những thành tựu nghệ thuật mang ý nghĩa kết tinh trên cả hai bình diện cơ bản là thể loại và ngôn ngữ. Thể thơ thất ngôn xen những câu lục ngôn là những cố gắng lớn của ông trên con đường Việt hoá thơ Đường luật. Ông còn đưa vào trong thơ những chất liệu chưng cất từ ngôn ngữ của đời sông hằng ngày và sử dụng một cách sáng tạo những thi liệu dân gian (ca dao, tục ngữ…).
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hoá lớn của dân tộc. Ông đã trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lý – Trần đồng thời mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới. về nội dung: Văn chương Nguyễn Trãi hội tụ hai nguồn cảm hứng là yêu nước và nhân đạo. Nguyễn Trãi đã đưa ý thức dân tộc lên đến đỉnh cao kết tinh tư tưởng Việt Nam thời trung đại. về nghệ thuật: Nguyễn Trãi là người đầu tiên đã đạt nền móng cho thơ ca tiêhg Việt về hai phương diện ngôn ngữ và thể loại, ông đã để lại tập thơ Nôm sớm nhất làm di sản thơ Nôm Việt Nam độc đáo. Cho đến nay, chúng ta vẫn tiếp thu và phát huy những thành tựu thơ ca và vãn hoá của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi còn mãi với thời gian là người anh hùng dân tộc kì tài nhưng cũng là người oan khuất nhất trong lịch sử. Nguyễn Trãi vừa là nhà thơ kiệt xuất vừa là danh nhân văn hoá thế giới. Thơ chữ Hán cũng như chữ Nôm của ông, chính luận hay trữ tình đều phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của một con người vĩ đại và con người đời thường. Ông là bông hoa đầu mùa của thơ Nôm Việt Nam.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá
Thuốc lá gây hại cho con người, không chỉ với người hút thuốc mà còn ảnh hưởng đến cả những người xung quanh. Vì vậy chúng ta cần phải biết được tác hại của chúng, biết để không hút và giúp người thân của bạn từ bỏ thuốc lá.
Chúng ta có thể viết ra được không biết bao nhiêu là trang giấy để nói về tác hại thuốc lá. Mỗi năm, thế giới có 5 triệu người chết vì thuốc lá, nhiều hơn số tử vong do tai nạn, bị lao và AIDS cộng lại. Nếu không có biện pháp ngăn chặn, sau 25 năm nữa, con số này sẽ là 10 triệu ca; 2/3 trong số đó thuộc các nước đang phát triển. Thuốc lá được tạo nên từ những gì mà lại gây hại đến vậy?
Trong khói thuốc lá có hơn 4000 hóa chất trong đó có hơn 200 loại có hại cho sức khoẻ, bao gồm chất gây nghiện, các chất gây độc và 43 được biết là nguyên nhân gây ung thư. Hút thuốc làm tăng tỷ lệ tử vong từ 30 đến 80%, chủ yếu là do các bệnh ung thư (ung thư phổi), bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, các bệnh tim gây suy thoái giống nòi do làm giảm khả năng sinh sản ở cả nam và nữ.….
Ngoài ra, hút thuốc còn làm giảm khả năng lưu thông của máu trong cơ thể, tăng nhịp tim và làm suy giảm sức khoẻ của bạn, dẫn đến nhiều bệnh ung thư khác như ung tư miệng, đại tràng, vòm họng, thực quản, gan, thận…Các nhà khoa học đã khảo sát và tìm ra đc rằng tuổi thọ trung bình của người hút thuốc ngắn hơn so với người không hút thuốc từ 05 đến 08 năm, tức là khi hút 1 điếu thuốc tự ta đã làm mất đi 5,5 phút cuộc sống. Thế thì có phải chỉ có người hút mới chịu những tác hại xấu do thuốc lá?
Ngoài con đường hút thuốc trực tiếp, thuốc lá còn có thể gây hại qua việc ta hít phải khói thuốc của người khác. Trẻ em và người lớn, những người không hút thuốc nhưng sống trong khói thuốc của những người khác chụi rủi ro cao hơn hoặc bị mắc các bệnh kinh niên và cấp tính về họng, tai và trí tuệ cũng như sức khoẻ thể chất bị ảnh hưởng. Phụ nữ có mang mà hút thuốc sẽ chịu rủi ro bị sẩy thai cao hơn, sinh con nhẹ cân, hoặc con bị ốm, tử vong. Trẻ sơ sinh của những người cha hút thuốc trong những tháng trước và trong thời gian mang thai của người mẹ có nguy cơ gấp đôi bị hở hàm ếch, bạch cầu và chịu mức rủi ro bị ung thư não cao hơn tới 40% so với những trẻ có cha không bao giờ hút thuốc. Đó là những ảnh hưởng không nhỏ tí nào.
Không chỉ gây bệnh, thuốc lá còn gây thiệt hại kinh tế rất lớn cho xã hội. Mỗi năm, một người có hút thuốc ở Việt Nam chi gần 700.000 đồng cho thuốc lá. Với 12 triệu người hút, một năm chúng ta tốn hơn 8.200 tỷ đồng cho mặt hàng này. Trong khi số tiền đó đủ để mua lương thực nuôi sống 10,6 triệu người.Thêm nữa, một khảo sát gần đây cho thấy, chi tiêu cho thuốc lá ở nước ta cao gấp 3,6 lần phí tổn học hành, gấp 2,5 lần mức chi cho quần áo và gần gấp đôi mức chi cho khám chữa bệnh.
Xem thêm: Tóm tắt đoạn trích Tức nước vỡ bờ (Tắt đèn - Ngô Tất Tố)Mặt khác, bệnh tật mà thuốc lá đem lại đã tăng thêm gánh nặng kinh tế cho mỗi gia đình và làm mất đi lực lượng lao động. Vì thuốc lá, những người nghèo ngày càng trở nên kiệt quệ.Trong thực tế, đối với nhiều gia đình thì chi phí cho hậu quả của việc hút gây ra còn tốn kém hơn nhiều so với chi phí để mua thuốc. Khi một thanh niên trong gia đình bị ốm do thuốc lá thì gia đình này phải chịu những chi phí điều trị chăm sóc, tốn kém thời gian. Thế là từ chuyện hút thuốc nảy sinh ra nhiều vấn đề khác.
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại thuốc lá mang nhãn mác phương Tây, nhiều người cứ nghĩ rằng người phương Tây hút thuốc nhiều. Thực ra không phải như vậy. Tại Hoa Kỳ và Canada, tỷ lệ người hút thuốc lá đang giảm một cách nhanh chóng. Ở nhiều nước phương Tây, giờ đây việc hút thuốc lá ở những nơi công cộng như nhà hàng, bệnh viện và trường học là phạm pháp. Vì thuốc lá đang bị tẩy chay tại những nước này, các công ty thuốc lá đã để mắt tới những nước đang phát triển như đất nước chúng ta chẳng hạn. Các công ty thuốc lá muốn chúng ta tin rằng hút thuốc là “cao sang”.
Thực ra hút thuốc là một thói quen của người nghèo. Người nghèo dễ dẫn tới hút thuốc nhất và cũng là người có ít khả năng tiền bạc để mua thuốc nhất. Số tiền mà người ta dùng để mua thuốc lá thay vì mua những đồ vật cần thiết cho cuộc sống là mối hiểm hoạ nghiêm trọng tới tài sản của mình và gia đình. Tiền tiêu tốn vào thuốc lá thay vì những thứ cần thiết cơ bản khác cho cuộc sống như thực phẩm, đồ dùng gia đình …Và còn nhiều nghịch cảnh khác ko kể ra hết được.
Đã biết được những điều trên, chúng ta – những người đã nghiện thuốc lá và những người chưa cần phải làm gì? Trước hết, đối với những người chưa hút, đừng hút thuốc và hãy động viên bạn bè mình không dùng thuốc lá! Áp lực phụ cũng có thể tích cực! Tiếp đó bạn có thể động viên họ hàng và bạn bè cai thuốc và giúp đỡ họ trong quá trình này.
Còn với những người đã nghiện hút, phải tìm được nguyên nhân vì sao mình lại hút thuốc, để từ đó tìm cách làm sao cho mình bỏ được. Và quan trọng nhất, ta phải quyết tâm cai thuốc: trước khi cai thuốc, ta phải quyết định thật sự mình muốn gì chứ không phải chỉ gia đình, bạn bè của mình muốn gì.Hãy lên kế hoạch cho tương lai, đưa ra các mục tiêu cho mình và lập kế hoạch để thực hiện và hãy tập trung vào các mục tiêu đó hút thuốc có thể xuất hiện trong quá trình thực hiện mục tiêu. Một trong những cách hữu hiệu nhất là nhai kẹo cao su mỗi khi muốn hút thuốc. Tập dần thói quen này dần sẽ thay thế hẳn luôn việc nghiện thuốc lá. Và sau khi ta đã bỏ được, đôi khi những cơn “ghiền” vẫn quay lại. Hãy sẵn sàng để đối phó nếu tình huống đó xảy ra. Cai thuốc không phải là việc dễ dàng nhưng nhiều người vẫn làm được.
Nói tóm lại, thuốc lá gây ra nhiều tác hại ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe của cá nhân và của cộng đồng. Cái vòng luẩn quẩn nghèo đói – thiếu hiểu biết – hút thuốc – bệnh tật, nghèo đói… sẽ không bao giờ kết thúc nếu thuốc lá chưa được loại trừ ra khỏi cuộc sống người dân. Vì vậy, chúng ta phải quyết tâm nói “không” với thuốc lá, vì một xã hội văn minh, phát triển, vì một tương lai tươi sáng cho loài người nói chung và đất nước Việt Nam nói riêng.
Xem thêm: Hình ảnh Bác Hồ qua những bài thơ em đã học và đọc thêm trong chương trình Ngữ văn THCS
|
Topic: Explanation about the harmful effects of tobacco
Cigarettes are harmful to people, not only the smoker but also those around them. Therefore, we need to know their harmful effects, know not to smoke and help your loved ones quit smoking.
We can write countless pages to talk about the harmful effects of tobacco. Every year, 5 million people in the world die from tobacco, more than the number of deaths from accidents, tuberculosis and AIDS combined. If there are no preventive measures, after 25 years, this number will be 10 million cases; Two-thirds of them belong to developing countries. What are cigarettes made of that are so harmful?
In cigarette smoke there are more than 4,000 chemicals, of which more than 200 are harmful to health, including narcotics, toxic substances and 43 are known to cause cancer. Smoking increases mortality from 30 to 80%, mainly due to cancer (lung cancer), chronic obstructive pulmonary disease, and heart diseases that cause racial degradation by reducing fertility. in both men and women....
In addition, smoking also reduces blood circulation in the body, increases heart rate and reduces your health, leading to many other cancers such as cancer of the mouth, colon, nasopharynx, and esophagus. , liver, kidney... Scientists have surveyed and found that the average life expectancy of smokers is 5 to 8 years shorter than that of non-smokers, which means that when smoking 1 cigarette, we do it ourselves. Lost 5.5 minutes of life. So is it only smokers who suffer from the harmful effects of tobacco?
In addition to direct smoking, cigarettes can also cause harm through inhaling other people's smoke. Children and adults who do not smoke but are exposed to other people's smoke are at greater risk for chronic and acute diseases of the throat, ear, and mind, as well as for their physical health. enjoy. Pregnant women who smoke have a higher risk of miscarriage, having a low birth weight baby, or having a sick or dead baby. Babies of fathers who smoked in the months before and during the mother's pregnancy are twice as likely to have cleft palate, leukemia and have up to a 40% higher risk of brain cancer. children whose fathers never smoked. Those are no small effects at all.
Not only does it cause disease, tobacco also causes huge economic damage to society. Every year, a smoker in Vietnam spends nearly 700,000 VND on cigarettes. With 12 million smokers, we spend more than 8,200 billion VND a year on this item. Meanwhile, that amount of money is enough to buy food to feed 10.6 million people. Additionally, a recent survey shows that spending on cigarettes in our country is 3.6 times higher than the cost of education, 2 times higher than the cost of education. .5 times the spending on clothes and nearly double the spending on medical examination and treatment.
See more: Summary of excerpt The moment the water breaks the bank (Turn off the lights - Ngo Tat To) On the other hand, the diseases brought by tobacco have increased the economic burden on each family and eliminated the workforce. Because of cigarettes, poor people are becoming more and more exhausted. In fact, for many families, the cost of the consequences of smoking is much more expensive than the cost of buying drugs. When a young person in a family gets sick due to smoking, this family has to bear the costs of treatment and care, which is time-consuming. So from smoking, many other problems arise.
On the market today there are many types of cigarettes with Western labels, many people think that Westerners smoke a lot. Actually, that's not the case. In the United States and Canada, the rate of smoking is decreasing rapidly. In many Western countries, it is now illegal to smoke in public places such as restaurants, hospitals and schools. Because cigarettes are being boycotted in these countries, tobacco companies have set their sights on developing countries like ours. Tobacco companies want us to believe that smoking is “luxurious.”
Actually smoking is a habit of poor people. Poor people are most likely to smoke and are also the people with the least money to buy drugs. The money people use to buy cigarettes instead of buying things necessary for life is a serious danger to their property and their families. Money spent on cigarettes instead of other basic necessities for life such as food, household appliances... And there are many other adversities too numerous to mention.
Knowing the above, what do we - those who are addicted to cigarettes and those who are not - need to do? First of all, for those who have not smoked, do not smoke and encourage your friends not to use tobacco! Secondary pressure can also be positive! Next you can encourage your relatives and friends to quit smoking and help them in the process.
As for those who are addicted to smoking, they must find the reason why they smoke, and from there find a way to quit. And most importantly, we must be determined to quit smoking: before quitting smoking, we must decide what we really want, not just what our family and friends want. Plan for the future, give Set goals for yourself and make a plan to achieve them and stay focused on those goals. Smoking may appear in the process of achieving your goals. One of the most effective ways is to chew gum every time you want to smoke. Gradually practicing this habit will gradually replace smoking addiction. And after we've quit, sometimes the "addictions" still come back. Be ready to deal with it if that situation occurs. Quitting smoking is not an easy task, but many people can still do it.
In short, tobacco causes many harmful effects on the economy, health of individuals and the community. The vicious cycle of poverty - ignorance - smoking - disease, poverty... will never end if tobacco is not eliminated from people's lives. Therefore, we must be determined to say "no" to tobacco, for a civilized, developed society, for a bright future for humanity in general and Vietnam in particular.
See more: Uncle Ho's image through the poems I have learned and read more in the Secondary School Literature program
|
Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi,
Hướng dẫn
Nguyễn Trãi được biết đến trong lịch sử dân tộc không chỉ là một vị quan có đức có tài và còn là một nhà văn nhà thơ tiêu biểu, để lại nhiều sáng tác bất hủ trong kho tàng văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm được coi là áng thiên cổ hùng văn của văn học dân tộc là tác phẩm Bình Ngô đại cáo, thể hiện ý chí hào hùng và lòng yêu nước của dân tộc.
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được viết bằng chữ Hán, dùng trong trường hợp công bố một sự việc trước toàn dân. Ngay ở phần đầu bài cáo, tác giả đã dùng những lập luận hết sức chặt chẽ để chứng minh tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của dân tộc, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc.
Sau khi dùng những lập luận sắc bén để chứng minh, tác giả lại tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Tác giả đã chỉ rõ âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. ngoài ra tác giả còn nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân. Bài cáo đã làm nổi bật chí khí đánh giặc cứu nước của toàn dân tộc và những thắng lợi hào hùng mà chúng ta đạt được, khiến người đọc thật tự hào.Xem thêm: Cảm nhận về câu ca dao: Ước gì sông rộng một gang, Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.
Tác phẩm là cảm hứng anh hùng hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Tác phẩm đã tạo nên sự tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
Bình Ngô đại cáo đã tổng kết lại tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất, ý chí căm thù giặc của dân tộc. Nó đã làm cho những vấn đề trong lịch sử được lưu giữ muôn đời, đem đến cho mọi người dân niềm tự hào dân tộc, từ đó là động lực để toàn dân kiên quyết đứng lên đấu tranh dành thắng lợi vĩ đại cho đất nước trong những giai đoạn sau đó.
Nguồn:
|
Explanation of the work Binh Ngo Dai Cao by Nguyen Trai,
Instruct
Nguyen Trai is known in the nation's history not only as a virtuous and talented mandarin but also as a typical writer and poet, leaving behind many immortal compositions in the Vietnamese literary treasure. One of the works considered an ancient epic of national literature is the work Binh Ngo Dai Cao, expressing the heroic will and patriotism of the nation.
The work "Binh Ngo Dai Cao" is written in Chinese characters, used in the case of announcing an event before the entire people. Right at the beginning of the article, the author used very rigorous arguments to prove the righteousness of the nation's resistance war against the invaders, which is the ideology of humanity combined with national independence.
After using sharp arguments to prove, the author denounced the barbaric crimes of the Ming invaders. The author clearly pointed out the plot to rob the country, the policy of anti-humane rule, and the brutal massacre. In addition, the author also highlights the suffering and misery of the people. The article highlights the entire nation's will to fight the enemy and save the country and the heroic victories we have achieved, making readers very proud. See more: Feelings about the folk song: I wish the river were wider cast iron, bridge the bib so he can come over and play.
The work is a vibrant and intense heroic inspiration. The work has created pride in the nation's long-standing cultural traditions and heroes, boiling indignation at the crimes of the enemy, sadness at the pain and suffering of the people, and anxiety at times. facing the difficulties of the resistance war, when heroically praising victory, when solemnly declaring the independence of the nation and country.
Binh Ngo Dai Cao summarized the indomitable fighting spirit and the nation's will to hate the enemy. It has made historical problems preserved forever, giving all people national pride, thereby being the motivation for all people to resolutely stand up and fight to win great victory for the country. in later stages.
Source:
|
Đề bài: Thuyết minh về vai trò của cây cối bảo vệ môi trường sống
Con người sống, tồn tại, làm việc, giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là “rừng”…
Không phải dĩ nhiên mà trái đất được gọi là hành tinh xanh. Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, trái đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống – một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng – một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.
Rừng là gì? Đó là một quần lạc sinh địa, trong đó sinh vật rừng, đất và khí hậu tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau.
Nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Vậy thì tại sao rừng lại có một ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống con người?
Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển.
Hãy thử tưởng tượng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt.
Cuộc sống con người không chỉ được quyết định ở yếu tố vật chất mà nó còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên khách quan. Trong đó xói mòn đất là một hiện tượng tự nhiên thường xảy ra nơi những vùng dồi dào, đất trọc ít cây bao phủ.
Xói mòn làm cho lớp đất mặt bị rửa trôi, tạo thành khe rãnh gây lũ lụt, đất trôi lở… ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống con người. Rồi hiện tượng gió, gió mạnh ảnh hưởng lớn đến cây rừng làm giảm 30 – 90% sự đồng hóa thực vật, gió nóng làm giảm khả năng thụ phấn của cây, dèm cát vùi lấp đồng ruộng, nhà cửa… Tất cả những thiên tai khủng khiếp đó đều có thể được ngăn chặn hoặc giảm bớt bằng cách trồng cây xanh.
Rừng điều hòa khí hậu, điều tiết dòng chảy trên mặt đất, bảo vệ, cải tạo làm tơi xốp đất, giữ nước cho sản xuất, hạn chế sức phá hoại của gió ngăn sự di chuyển của cát vào sâu đất liền, ngăn chặn gió, bão, mùa màng, làng xóm. Không chỉ thế rừng còn là nguồn cung cấp cho con người gỗ, củi, hoa quả và làm phân xanh. Có thể nói rừng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người.
Không chỉ là yếu tố, thành phần chính trong hoàn cảnh sống của con người mà rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm. Rừng có các loại cây từ thấp lên cao. ở mỗi tầng là một môi trường hoàn cảnh thích nghi riêng biệt với từng loài vật. Nào thỏ, hươu, nai, hổ đến khỉ, vượn, sóc, chim… đó là những loài động vật rất quý hiếm mà môi trường sống duy nhất của chúng chính là rừng – thiên nhiên hoang dã.
Trong rừng có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu,… rồi các loại thuốc quý. Có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho chế biến công nghiệp như rừng cao su, rừng tre, nứa, keo tai tượng,….
Xem thêm: Kể lại một kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của mìnhBên cạnh đó rừng còn là môi trường sinh thái trong lành – một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn.
Ảnh hưởng lớn và có tính chất quyết định đến sự sống con người rừng còn rất có ích với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ… hiểu rõ được những lợi ích và ảnh hưởng của rừng ta mới thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó như thế nào?
Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi – một điều kiện thiên nhiên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó còn lại bao nhiêu? Không hiểu rõ tầm quan trọng của rừng rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi nhất là những người dân thiếu hiểu biết “đốt nương làm rẫy” khai phá rừng một cách vô ý thức. Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng hiểu được sự sai trái trong hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai khác rừng trái phép để kiệm lợi về mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác thiếu quy củ, đốt rừng, phá rừng ấy thật không thể tưởng tượng được.
Từng tự hào với cánh rừng U Minh rộng lớn, phong phú thì nhưng chỉ vì thiếu ý thức, công tác quản lý kém mà hàng trăm, hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường người dân và thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp đẽ xưa kia những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây chỉ còn là những quả đồi trọc, những khu rừng thứ sinh.
Tiếp theo đó là những thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra nào hạn hán, nào lũ lụt, nào sụt lở đất… làm thiệt hại bao tiền của và đau đớn hơn là tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chống xói mòn, để bảo vệ làng mạc. Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì một sự vô ý thức, sự thiếu hiểu biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra.
Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người đang dần dần bị tàn phá, hủy hoại. Những loại động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao loài động vật bị tuyệt chủng, bị đem vào danh sách đỏ. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng.
Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn.
Hiện nay Đảng và chính quyền nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi “phủ xanh đồi trọc”.
Tác động của con người tới tái sinh tự nhiên là rất lớn bởi trong tái sinh tự nhiên thường gặp hoàn cảnh bất lợi, ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng của cây con. Để khắc phục người sản xuất phải chủ động tạo hoàn cảnh sống thích hợp bằng cách chặt phá những cây, cành mọc quá rậm, phát bớt bụi để hạt tiếp xúc nảy mầm dễ và xới đất tơi xung quanh gốc. Là học sinh, sinh viên chúng ta có thể góp sức nhỏ của mình trong công cuộc cải tạo rừng bằng cách tuyên truyền tầm quan trọng của rừng, hậu quả của việc khai thác trái phép và có thể trồng cây quanh nhà để góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống trong xóm làng.
Hãy yêu quý và bảo vệ rừng để trái đất của chúng ta mãi là “hành tinh xanh” “Tổ quốc Việt Nam yêu dấu, có sạch đẹp mãi được không. Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc vào bạn mà thôi”.
Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích cái hay của hình ảnh thơ: Lá vàng rơi trên giấy - Ngoài giời mưa bụi bay (Ông đồ - Vũ Đình Liên)
|
Đề bài: Thuyết minh về vai trò của cây cối bảo vệ môi trường sống
Con người sống, tồn tại, làm việc, giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là “rừng”…
Không phải dĩ nhiên mà trái đất được gọi là hành tinh xanh. Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, trái đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống – một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng – một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.
Rừng là gì? Đó là một quần lạc sinh địa, trong đó sinh vật rừng, đất và khí hậu tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau.
Nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Vậy thì tại sao rừng lại có một ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống con người?
Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển.
Hãy thử tưởng tượng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt.
Cuộc sống con người không chỉ được quyết định ở yếu tố vật chất mà nó còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên khách quan. Trong đó xói mòn đất là một hiện tượng tự nhiên thường xảy ra nơi những vùng dồi dào, đất trọc ít cây bao phủ.
Xói mòn làm cho lớp đất mặt bị rửa trôi, tạo thành khe rãnh gây lũ lụt, đất trôi lở… ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống con người. Rồi hiện tượng gió, gió mạnh ảnh hưởng lớn đến cây rừng làm giảm 30 – 90% sự đồng hóa thực vật, gió nóng làm giảm khả năng thụ phấn của cây, dèm cát vùi lấp đồng ruộng, nhà cửa… Tất cả những thiên tai khủng khiếp đó đều có thể được ngăn chặn hoặc giảm bớt bằng cách trồng cây xanh.
Rừng điều hòa khí hậu, điều tiết dòng chảy trên mặt đất, bảo vệ, cải tạo làm tơi xốp đất, giữ nước cho sản xuất, hạn chế sức phá hoại của gió ngăn sự di chuyển của cát vào sâu đất liền, ngăn chặn gió, bão, mùa màng, làng xóm. Không chỉ thế rừng còn là nguồn cung cấp cho con người gỗ, củi, hoa quả và làm phân xanh. Có thể nói rừng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người.
Không chỉ là yếu tố, thành phần chính trong hoàn cảnh sống của con người mà rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm. Rừng có các loại cây từ thấp lên cao. ở mỗi tầng là một môi trường hoàn cảnh thích nghi riêng biệt với từng loài vật. Nào thỏ, hươu, nai, hổ đến khỉ, vượn, sóc, chim… đó là những loài động vật rất quý hiếm mà môi trường sống duy nhất của chúng chính là rừng – thiên nhiên hoang dã.
Trong rừng có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu,… rồi các loại thuốc quý. Có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho chế biến công nghiệp như rừng cao su, rừng tre, nứa, keo tai tượng,….
Xem thêm: Kể lại một kỷ niệm đáng nhớ thời thơ ấu của mìnhBên cạnh đó rừng còn là môi trường sinh thái trong lành – một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn.
Ảnh hưởng lớn và có tính chất quyết định đến sự sống con người rừng còn rất có ích với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ… hiểu rõ được những lợi ích và ảnh hưởng của rừng ta mới thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó như thế nào?
Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi – một điều kiện thiên nhiên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó còn lại bao nhiêu? Không hiểu rõ tầm quan trọng của rừng rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi nhất là những người dân thiếu hiểu biết “đốt nương làm rẫy” khai phá rừng một cách vô ý thức. Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng hiểu được sự sai trái trong hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai khác rừng trái phép để kiệm lợi về mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác thiếu quy củ, đốt rừng, phá rừng ấy thật không thể tưởng tượng được.
Từng tự hào với cánh rừng U Minh rộng lớn, phong phú thì nhưng chỉ vì thiếu ý thức, công tác quản lý kém mà hàng trăm, hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường người dân và thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp đẽ xưa kia những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây chỉ còn là những quả đồi trọc, những khu rừng thứ sinh.
Tiếp theo đó là những thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra nào hạn hán, nào lũ lụt, nào sụt lở đất… làm thiệt hại bao tiền của và đau đớn hơn là tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chống xói mòn, để bảo vệ làng mạc. Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì một sự vô ý thức, sự thiếu hiểu biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra.
Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người đang dần dần bị tàn phá, hủy hoại. Những loại động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao loài động vật bị tuyệt chủng, bị đem vào danh sách đỏ. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng.
Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn.
Hiện nay Đảng và chính quyền nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi “phủ xanh đồi trọc”.
Tác động của con người tới tái sinh tự nhiên là rất lớn bởi trong tái sinh tự nhiên thường gặp hoàn cảnh bất lợi, ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng của cây con. Để khắc phục người sản xuất phải chủ động tạo hoàn cảnh sống thích hợp bằng cách chặt phá những cây, cành mọc quá rậm, phát bớt bụi để hạt tiếp xúc nảy mầm dễ và xới đất tơi xung quanh gốc. Là học sinh, sinh viên chúng ta có thể góp sức nhỏ của mình trong công cuộc cải tạo rừng bằng cách tuyên truyền tầm quan trọng của rừng, hậu quả của việc khai thác trái phép và có thể trồng cây quanh nhà để góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống trong xóm làng.
Hãy yêu quý và bảo vệ rừng để trái đất của chúng ta mãi là “hành tinh xanh” “Tổ quốc Việt Nam yêu dấu, có sạch đẹp mãi được không. Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc vào bạn mà thôi”.
Xem thêm: Viết đoạn văn phân tích cái hay của hình ảnh thơ: Lá vàng rơi trên giấy - Ngoài giời mưa bụi bay (Ông đồ - Vũ Đình Liên)
|
Thuyết minh về vai trò của rừng trong cuộc sống con người
Gợi ý
Con người sống, tồn tại, lầm việc, giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là rừng.
Không phải dĩ nhiên mà Trái Đất được gọi là hành tinh xanh. Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, Trái Đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống – một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng – một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.
Rừng là gì? Đó là một quần lạc sinh địa, trong đó sinh vật rừng, đất và khí hậu tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Vậy thì tại sao rừng lại có một ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống con người?
Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Hãy thử tượng tưởng xem nếu như Trái Đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân. Nói cách khác, không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt.
Cuộc sống con người không chỉ được quyết định ở yếu tố vật chất mà nó còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên khách quan. Trong đó xói mòn đất là một hiện tượng tự nhiên thường xảy ra nơi những vùng dồi dào, đất trọc ít cây bao phủ. Xói mòn làm cho lớp đất mặt bị rửa trôi, tạo thành khe rãnh gây lũ lụt, đất trôi lở… ảnh hưởng nghiệm trọng tới sản xuất và đời sống con người. Rồi hiện tượng gió, gió mạnh ảnh hưởng lớn đến cây rừng Ịàm giảm 30 – 90% sự đồng hóa thực vật, gió nóng làm giảm khả năng thụ phấn của cây, đem cát vùi lấp đồng ruộng, nhà cửa… Tất cả những thiên tai khủng khiếp đó đều có thể được ngăn chặn hoặc giảm bớt bằng cách trồng cây xanh. Rừng điều hòa khí hậu, điều tiết dòng chảy trên mặt đất, bảo vệ, cải tạo làm tơi xốp đất, giữ nước cho sản xuất, hạn chế sức phá hoại của gió ngăn sự di chuyển của cát vào sâu đất liền, ngăn chặn gió, bão, mùa màng, làng xóm. Không chỉ thế, rừng còn là nguồn cung cấp cho con người gỗ, củi, hoa quả và làm phân xanh. Có thể nói rừng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người.Xem thêm: Nụ cười hài hước trong bài ca dao: Cưới nàng anh toan dẫn voi… Dẫn con chuột béo mời dân, mời làng. Không chỉ là yếu tố, thành phần chính trong hoàn cảnh sống của con người mà rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm. Rừng có các loại cây từ thấp lên cao. Ớ mỗi tầng là một môi trường hoàn cảnh thích nghi riêng biệt với từng loài vật. Nào thỏ, hươu, nai, hổ đến khỉ, vượn, sóc, chim… đó là những loài động vật rất quý hiếm mà môi trường sống duy nhất của chúng chính là rừng – thiên nhiên hoang dã.
Trong rừng có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu… rồi các loại thuôc quý như sâu, tam thất rất có lợi cho sức khoẻ. Hay có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho sự sống, cõng nghiệp như rừng cao su.
Bên cạnh đó rừng còn là môi trường sinh thái trong lành – một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn.
Ảnh hưởng lớn và có tính chất quyết định đến sự sống con người rừng còn rất có ích với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ… hiểu rõ được những lợi ích và ảnh hưởng của rừng ta mới thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó như thế nào?
Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi – một điều kiện thiên niên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó còn lại bao nhiêu? Không hiểu rõ tầm quan trọng của rừng rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi, nhất là những người dân thiếu hiểu biết đốt nương làm rẫy khai phá rừng một cách vô ý thức. Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng, hiểu được sự sai trái trong hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai khác rừng trái phép để kiếm lợi về mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác thiếu quy củ, đốt rừng, phá rừng ấy thật không thể tưởng tượng được. Từng tự hào với cánh rừng u Minh rộng lớn, phong phú thế nhưng chỉ vì thiếu ý thức, công tác quản lý kém mà hàng trăm, hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường người dân và thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của Nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp đẽ xưa kia, những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây chỉ còn là những quả đôì trọc, những khu rừng thứ sinh. Tiếp theo đó là những thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra nào hạn hán, nào lũ lụt, nào sụt lở đất… làm thiệt hại bao tiền của và đau đớn hơn là tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chông xói mòn, để bảo vệ làng mạc. Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì một sự vô ý thức, sự thiếu hiểu biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra.Xem thêm: Anh (chị) hãy phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) thể hiện trong cảnh ngộ từ khi cô bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người đang dần dần bị tán phá, hủy hoại. Những loại động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao loài động vật bị tuyệt chủng, bị đem vào danh Sách Đỏ. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng.
Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn.
Hiện nay Đảng và chính quyền Nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi phủ xanh đồi trọc.
Tác động của con người tới tái sinh tự nhiên là rất lớn bởi trong tái sinh tự nhiên thường gặp hoàn cảnh bất lợi, ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng của cây con. Để khắc phục, người sản xuất phải chủ động tạo hoàn cảnh sống thích hợp bằng cách chặt phá những cây, cành mọc quá rậm, phát bớt bụi để hạt tiếp xúc nảy mầm dễ và xới đất tơi xung quanh gốc. Là học sinh, sinh viên chúng ta có thể góp sức nhỏ của mình trong công cuộc cải tạo rừng bức cách tuyên truyền tầm quan trọng của rừng, hậu quả của. việc khại thác trái phép và có thể trồng cây quanh nhà để góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống trong xóm làng.Xem thêm: Suy nghĩ về câu nói của Em-mơ-sơn: “Đời người được đo bằng tư tưởng và hành động, chứ không phải bằng thời gian.” Hãy yêu quý và bảo vệ rừng để Trái Đất của chúng ta mãi là hành tinh xanh: Tổ quốc Việt Nam yêu dấu, có sạch đẹp mãi được không. Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc vào bạn mà thôi.
Vanmau.edu.vn
|
Thuyết minh về vai trò của rừng trong cuộc sống con người
Gợi ý
Con người sống, tồn tại, lầm việc, giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là rừng.
Không phải dĩ nhiên mà Trái Đất được gọi là hành tinh xanh. Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, Trái Đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống – một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng – một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.
Rừng là gì? Đó là một quần lạc sinh địa, trong đó sinh vật rừng, đất và khí hậu tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Vậy thì tại sao rừng lại có một ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống con người?
Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Hãy thử tượng tưởng xem nếu như Trái Đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân. Nói cách khác, không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt.
Cuộc sống con người không chỉ được quyết định ở yếu tố vật chất mà nó còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên khách quan. Trong đó xói mòn đất là một hiện tượng tự nhiên thường xảy ra nơi những vùng dồi dào, đất trọc ít cây bao phủ. Xói mòn làm cho lớp đất mặt bị rửa trôi, tạo thành khe rãnh gây lũ lụt, đất trôi lở… ảnh hưởng nghiệm trọng tới sản xuất và đời sống con người. Rồi hiện tượng gió, gió mạnh ảnh hưởng lớn đến cây rừng Ịàm giảm 30 – 90% sự đồng hóa thực vật, gió nóng làm giảm khả năng thụ phấn của cây, đem cát vùi lấp đồng ruộng, nhà cửa… Tất cả những thiên tai khủng khiếp đó đều có thể được ngăn chặn hoặc giảm bớt bằng cách trồng cây xanh. Rừng điều hòa khí hậu, điều tiết dòng chảy trên mặt đất, bảo vệ, cải tạo làm tơi xốp đất, giữ nước cho sản xuất, hạn chế sức phá hoại của gió ngăn sự di chuyển của cát vào sâu đất liền, ngăn chặn gió, bão, mùa màng, làng xóm. Không chỉ thế, rừng còn là nguồn cung cấp cho con người gỗ, củi, hoa quả và làm phân xanh. Có thể nói rừng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người.Xem thêm: Nụ cười hài hước trong bài ca dao: Cưới nàng anh toan dẫn voi… Dẫn con chuột béo mời dân, mời làng. Không chỉ là yếu tố, thành phần chính trong hoàn cảnh sống của con người mà rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm. Rừng có các loại cây từ thấp lên cao. Ớ mỗi tầng là một môi trường hoàn cảnh thích nghi riêng biệt với từng loài vật. Nào thỏ, hươu, nai, hổ đến khỉ, vượn, sóc, chim… đó là những loài động vật rất quý hiếm mà môi trường sống duy nhất của chúng chính là rừng – thiên nhiên hoang dã.
Trong rừng có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu… rồi các loại thuôc quý như sâu, tam thất rất có lợi cho sức khoẻ. Hay có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho sự sống, cõng nghiệp như rừng cao su.
Bên cạnh đó rừng còn là môi trường sinh thái trong lành – một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn.
Ảnh hưởng lớn và có tính chất quyết định đến sự sống con người rừng còn rất có ích với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ… hiểu rõ được những lợi ích và ảnh hưởng của rừng ta mới thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó như thế nào?
Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi – một điều kiện thiên niên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó còn lại bao nhiêu? Không hiểu rõ tầm quan trọng của rừng rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi, nhất là những người dân thiếu hiểu biết đốt nương làm rẫy khai phá rừng một cách vô ý thức. Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng, hiểu được sự sai trái trong hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai khác rừng trái phép để kiếm lợi về mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác thiếu quy củ, đốt rừng, phá rừng ấy thật không thể tưởng tượng được. Từng tự hào với cánh rừng u Minh rộng lớn, phong phú thế nhưng chỉ vì thiếu ý thức, công tác quản lý kém mà hàng trăm, hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường người dân và thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của Nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp đẽ xưa kia, những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây chỉ còn là những quả đôì trọc, những khu rừng thứ sinh. Tiếp theo đó là những thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra nào hạn hán, nào lũ lụt, nào sụt lở đất… làm thiệt hại bao tiền của và đau đớn hơn là tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chông xói mòn, để bảo vệ làng mạc. Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì một sự vô ý thức, sự thiếu hiểu biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra.Xem thêm: Anh (chị) hãy phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) thể hiện trong cảnh ngộ từ khi cô bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người đang dần dần bị tán phá, hủy hoại. Những loại động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao loài động vật bị tuyệt chủng, bị đem vào danh Sách Đỏ. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng.
Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn.
Hiện nay Đảng và chính quyền Nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi phủ xanh đồi trọc.
Tác động của con người tới tái sinh tự nhiên là rất lớn bởi trong tái sinh tự nhiên thường gặp hoàn cảnh bất lợi, ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng của cây con. Để khắc phục, người sản xuất phải chủ động tạo hoàn cảnh sống thích hợp bằng cách chặt phá những cây, cành mọc quá rậm, phát bớt bụi để hạt tiếp xúc nảy mầm dễ và xới đất tơi xung quanh gốc. Là học sinh, sinh viên chúng ta có thể góp sức nhỏ của mình trong công cuộc cải tạo rừng bức cách tuyên truyền tầm quan trọng của rừng, hậu quả của. việc khại thác trái phép và có thể trồng cây quanh nhà để góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống trong xóm làng.Xem thêm: Suy nghĩ về câu nói của Em-mơ-sơn: “Đời người được đo bằng tư tưởng và hành động, chứ không phải bằng thời gian.” Hãy yêu quý và bảo vệ rừng để Trái Đất của chúng ta mãi là hành tinh xanh: Tổ quốc Việt Nam yêu dấu, có sạch đẹp mãi được không. Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc vào bạn mà thôi.
Vanmau.edu.vn
|
Đề bài: Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý.
Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.
Về lịch sử:
Văn Miếu được xây dựng từ “tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.”.
Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442)Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc.
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khóa thi 1442 trở đi.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại
Về kiến trúc:
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Xem thêm: Cho câu chủ đề: "Những chuyến tham quan, du lịch đem đến cho ta nhiều niềm vui", em hãy viết một đoạn văn tổng phân hợpPhía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh.
Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85 cm x 85 cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú cua bầu trời toả xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ.
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia tiến sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu tả và hữu. Trong đó, 12 bia đầu tiên (cho các khoa thi những năm 1442-1514) được dựng vào thời Lê sơ, 2 bia (cho các khoa 1518, 1529) được dựng vào triều nhà Mạc, còn 68 bia cuối cùng (các khoa thi những năm 1554-1779) được dựng vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia gồm có 1 Bi đình nằm ở chính giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 bia) xếp thành hai hàng, nằm hai bên Bi đình. Bi đình khu bên trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bi đình khu bên phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toà trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.
Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.
Xem thêm: Bài văn của con gái bị mẹ bỏ rơiNguồn Edufly
|
Đề bài: Thuyết minh về Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý.
Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.
Về lịch sử:
Văn Miếu được xây dựng từ “tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.”.
Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442)Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc.
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khóa thi 1442 trở đi.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại
Về kiến trúc:
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Xem thêm: Cho câu chủ đề: "Những chuyến tham quan, du lịch đem đến cho ta nhiều niềm vui", em hãy viết một đoạn văn tổng phân hợpPhía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh.
Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85 cm x 85 cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú cua bầu trời toả xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ.
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia tiến sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu tả và hữu. Trong đó, 12 bia đầu tiên (cho các khoa thi những năm 1442-1514) được dựng vào thời Lê sơ, 2 bia (cho các khoa 1518, 1529) được dựng vào triều nhà Mạc, còn 68 bia cuối cùng (các khoa thi những năm 1554-1779) được dựng vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia gồm có 1 Bi đình nằm ở chính giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 bia) xếp thành hai hàng, nằm hai bên Bi đình. Bi đình khu bên trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bi đình khu bên phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toà trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.
Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.
Xem thêm: Bài văn của con gái bị mẹ bỏ rơiNguồn Edufly
|
Thuyết minh yêu cầu đọc – hiểu văn bản văn học
Gợi ý
Văn bản văn học (còn gọi là văn bản nghệ thuật, văn bản văn chương) có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, văn bản văn học là tất cả các văn bản sử dụng ngôn từ một cách nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, văn bản văn học chỉ bao gồm các sáng tác có hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng hư cấu (tức là tạo ra những hình tượng bằng tưởng tượng). Văn bản văn học theo nghĩa hẹp vừa có ngôn từ nghệ thuật vừa có hình tượng nghệ thuật.
Mục đích đọc văn bản văn học là để chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, nghệ thuật của văn bản; qua đó thực hiện giao lưu văn hoá, phát triển các năng lực tinh thần của bản thân và sống có ý thức tự giác.
Nhưng dù với bất kì mục đích nào, người đọc đều thực hiện ỵiệc tiếp nhận các giá trị tư tưởng, nghệ thuật; giao lưu tư tưởng, tình cảm với tác giả, với những người đã đọc trước; bày tỏ thái độ đồng cảm hay không đồng cảm với văn bản văn học.
Những yêu cầu chính của việc đọc – hiểu văn bản văn học đó là: hiểu văn bản ngôn từ, hiểu ý nghĩa của hình tượng, hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả; từ đó hình thành sự đánh giá đối với vãn bản và đạt đến mức độ thưởng thức các giá trị của văn bản.Xem thêm: Hãy bình luận lời dạy sau đây của Bác Hồ: “Điều gì phải thì cố làm cho kì được, dù là việc khó. Điều gì trái thì hết sức tránh, dù là điều trái nhỏ” Để hình thành được kĩ năng đọc – hiểu văn bản văn học, người đọc chẳng những phải thường xuyên đọc nhiều tác phẩm văn học mà còn phải biết tra cứu, học hỏi, biết tưởng tượng, suy ngẫm, tạo thành thói quen phân tích và thưởng thức văn học.
Điều kiện đọc văn’ban văn học: phải có tri thức về bối cảnh lịch sử, truyền thống văn hoá, hoàn cảnh sáng tác, thể loại văn học của văn bản: phải có kĩ năng đọc, phân tích, khái quát và diễn đạt những suy nghĩ của mình, dồng thời phải biết rung cảm, tưởng tượng, đồng cảm với vẻ đẹp của văn bản văn học; phải có ý thức đọc nhiều, tập tra cứu tài liệu, hỏi han, suy nghĩ và trao đổi ý kiến với người khác để rèn luyện kĩ năng đọc.
Các bước đọc văn bản văn học bao gồm: đọc thông, đọc thuộc; đọc kĩ, đọc sâu; đọc – hiểu và đọc sáng tạo; đọc đánh giá và đọc ứng dụng.
Vanmau.edu.vn
|
Explanation requires reading and understanding literary texts
Suggest
Literary texts (also known as artistic texts, literary texts) have a broad and narrow meaning. In a broad sense, literary texts are all texts that use language artistically. In a narrow sense, literary texts only include compositions with artistic images built by fiction (that is, creating images through imagination). Literary texts in the narrow sense have both artistic words and artistic images.
The purpose of reading literary texts is to grasp the ideological and artistic values of the text; thereby carrying out cultural exchanges, developing one's own mental abilities and living with self-awareness.
But no matter what the purpose, readers accept ideological and artistic values; exchange thoughts and feelings with the author and those who have read it before; express sympathy or disagreement with the literary text.
The main requirements of reading and understanding literary texts are: understanding the verbal text, understanding the meaning of the images, understanding the author's thoughts and feelings; From there, form an evaluation of the text and reach the level of enjoying the value of the text. See more: Comment on the following teachings of Uncle Ho: "What is right, try to do it until it is right, even though it's difficult. Avoid anything that is wrong, even if it is a small thing." To form the skill of reading and understanding literary texts, readers must not only regularly read many literary works but also know how to look up and learn. , know how to imagine, reflect, and form the habit of analyzing and enjoying literature.
Conditions for reading literary texts: must have knowledge of the historical context, cultural traditions, circumstances of creation, literary genre of the text: must have the skills to read, analyze, generalize and interpret To express your thoughts, at the same time, you must know how to feel, imagine, and sympathize with the beauty of literary texts; Must be conscious of reading a lot, practice looking up documents, asking questions, thinking and exchanging ideas with others to practice reading skills.
Steps to read literary texts include: reading fluently, memorizing; read carefully, read deeply; reading - comprehension and creative reading; Read reviews and read apps.
Vanmau.edu.vn
|
Thà thắp lên một ngọn nến, hơn là nguyền rủa bóng đêm. Nêu suy nghĩ của anh (chị) về câu châm ngôn trên.
Hướng dẫn
– Thông qua cách diễn đạt bóng bẩy, câu châm ngôn chứa đựng gợi ý hay sự đòi hỏi về một thái độ sống đầy tinh thần trách nhiệm của từng cá nhân. Ở đây có sự đối lập giữa hai hình ảnh: ngọn nến và bóng đêm, giữa hai lối ứng xử: thắp và nguyền rủa.
– Cuộc sống không phải bao giờ cũng được như ta mơ ước. Không gian, môi trường sống của ta thường vẫn tồn tại nhiều điều không như ý khiến ta phải phiền lòng hay buồn bực, khó chịu. Chuyện này có từ muôn xưa và có lẽ không bao giờ chấm dứt.
– Nguyền rủa bóng đêm, trút giận dữ bằng lời nói vào môi trường sống tệ hại là phản ứng bình thường, quen thuộc của bất cứ ai chưa hay không chịu thoả hiệp với cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, trì trệ. Phản ứng đó, thái độ đó cần được cảm thông, bởi không phải nó không chứa đựng những yếu tố tích cực. Tuy nhiên, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đây thì không khéo ta chỉ làm cho môi trường bị ô nhiễm trầm trọng thêm, do ít nhất nó phải gánh thêm những lời không tốt đẹp (dù những lời đó hướng vào đối tượng nào đi nữa).
Xem thêm: Tóm tắt truyện "Ông già và biển cả" của nhà văn Hê-minh-uê– Nguyền rủa suông không làm thay đổi được hoàn cảnh. Rốt cục, nó chỉ chứng tỏ sự bất lực của người nguyền rủa, xét theo quan điểm phát triển. Rõ ràng, đáy chưa thể, chưa phải là một sự lựa chọn tối ưu. Người thực sự có bản lĩnh là người biết thực thi những hành động cụ thể để làm thay đổi hoàn cảnh, cải biến nó từng bước một cho tới khi đạt được kết quả cuối cùng. Tất cả giống như việc thắp một ngọn nến. Một ngọn nến chưa xua được bóng đêm nhưng mỗi người thắp một ngọn nến thì không gian bóng đêm sẽ bị thu hẹp cho đến khi biến mất. Như vậy, mỗi người, ai cũng cố gắng làm một điều gì đó tốt đẹp thì thành tựu đạt được sẽ lớn lao khác thường. Câu châm ngôn không chỉ có ý nghĩa khích lệ những hành động tích cực ở từng cá nhân mà còn ngầm ẩn một lời kêu gọi họp quần, nghĩa là kêu gọi sự chung sức, chung lòng.
– Cuộc sống xung quanh ta còn nhiều điều tiêu cực. Mọi người, ai cũng thế, trên cương vị và trong phạm vi của mình, tuỳ theo khả năng của bản thân, hoàn toàn có thể làm được những điều tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa, làm cho cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn.
(Lưu ý: Trên đây chỉ là những luận điểm khái quát. Người viết cần nêu và phân tích những ví dụ cụ thể, thể hiện sự hiểu biết và tính năng động xã hội của mình.)
Nguồn: thêm: Nghị luận xã hội “Tránh voi chả xấu mặt nào” và “Im lặng là vàng”
|
It's better to light a candle than curse the darkness. State your thoughts on the above maxim.
Instruct
– Through figurative expression, the proverb contains a suggestion or demand for a responsible life attitude of each individual. Here there is a contrast between two images: candle and darkness, between two behaviors: lighting and cursing.
– Life is not always as we dream. Our space and living environment often have many unsatisfactory things that make us upset, sad, and uncomfortable. This story has been around for a long time and will probably never end.
– Cursing the darkness and venting anger with words on a bad living environment are normal and familiar reactions of anyone who has not or refuses to compromise with badness, evil, backwardness, and stagnation. That reaction, that attitude needs to be understood, because it does not contain positive elements. However, if it all stops here, we will only make the environment more seriously polluted, because at least it will have to bear more negative words (no matter who those words are directed at). again).
See more: Summary of the story "The Old Man and the Sea" by writer He-min-ue - Mere curses cannot change the situation. Ultimately, it only proves the impotence of the curser, from a developmental point of view. Obviously, the bottom is not yet possible, not an optimal choice. A truly courageous person is someone who knows how to take specific actions to change the situation, improving it step by step until the final result is achieved. It's all like lighting a candle. One candle cannot dispel the darkness, but if each person lights a candle, the space of darkness will narrow until it disappears. Thus, if everyone tries to do something good, the achievements will be exceptionally great. The proverb not only has the meaning of encouraging positive actions in each individual, but also implicitly calls for a meeting, meaning a call for joint efforts and solidarity.
– There are many negative things in life around us. Everyone, everyone, in their position and within their scope, depending on their own abilities, can absolutely do small but meaningful things, making life better and brighter. .
(Note: The above are just general arguments. The writer needs to give and analyze specific examples, demonstrating his or her understanding and social dynamism.)
Source: more: Social commentary "Avoiding elephants is not embarrassing" and "Silence is golden"
|
Thành công của Xuân Diệu trong việc sử dụng hình ảnh và nhịp điệu ở các bài thơ Vội vàng, Đây mùa thu tới, Thơ duyên
Gợi ý
“Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Khi dành tặng cho Xuân Diệu lời khen như một lời ca ngợi ấy, Hoài Thanh có lẽ đã nghĩ đến những hình ảnh thơ vô cùng mới mẻ, độc đáo, xuân tình xuân sắc vá nhịp điệu thơ phá cách hài hòa với nội dung tư tưởng trong thơ của Xuân Diệu. Thành công của Xuân Diệu trong việc sử dụng hình ảnh, nhịp điệu ở các bài thơ “Vộì vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên” chẳng những minh chứng lời nhận xét – lời khen sắc sảo của Hoài Thanh mà còn góp phần khẳng định tài năng thơ Xuân Diệu.
Phải nói trước rằng cả ba tuyệt phẩm xinh xắn trên đều nằm trong tập “Thơ thơ” – tập thơ đầu tay của Xuân Diệu đầu năm 1938. Người thanh niên tuổi hai mươi. (“Không phải là hai mươi tuổi” – lưu ý của Hoài Thanh) đã thổi vào thơ cái “rạo rực băn khoăn” đầy sức sống của tuổi trẻ.
Bước vào thế giới hình ảnh thơ Xuân Diệu là bước vào thế giới của cảm xúc, cảm giác tinh tế, của hoa thơm cỏ lạ xuân tình xuân sắc, của hòa hợp lứa đôi… và của những gì mới mẻ táo bạo nhất trong thơ ca đương thời.
Nhắc đến “Vội vàng” là nhắc đến những hình ảnh thơ tràn đầy sức sống, căng đầy khát vọng tình yêu hạnh phúc. “Vội vàng” là vội vàng sống, vội vàng tận hưởng niềm say mê hạnh phúc ở đời kẻo bỏ qua, phí hoài những tháng năm xuân sắc.Vẽ ra hình ảnh thiên nhiên mùa xuân, nhà thơ ngợi ca cuộc sống, nhắc nhở mỗi người hãy biết trân trọng nâng niu từng giây từng phút cuộc đời.
Cuộc sống ấy có gì vậy? Có “ong bướm này đây tuần tháng mật” có “hoa của đồng nội xanh rì” có “yến anh” của “khúc tình si”. Tất cả đều là những hình ảnh thơ rạo rực xuân tình. Ong bướm gợi tình yêu gái trai, hoa và chim cũng gợi tình đôi lứa. Đã vậy, đó còn là ong bướm, hoa chim đang độ say sưa nhất của tình yêu “tuần tháng mật”. Giây phút khoảnh khắc ấy đầy mê say, có con người nào không khát khao tận hưởng mãi?Xem thêm: Phân tích tính huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Cuộc sống muôn màu muôn vẻ quá. Phải làm sao để cảm lấy, đón lấy cho đủ đầy. Thế nên Xuân Diệu mởi uống cả cuộc đời bằng mọi giác quan mình có. Hình ảnh thơ đó sống động đến vô cùng. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”. Chỉ một hình ảnh của cuộc sống thi nhân đón nhận đến mấy lần kia đấy. “Tháng giêng” là một thời điểm trong năm nhưng đó không phải thời điểm bình thường. “Tháng giêng” là tháng đầu tiên của mùa xuân rạo rực mê say, lấ tháng đầu tiên của một năm khát sống. Thế nên tháng giêng được Xuân Diệu khao khát đến vô ngần. Thi nhân nếm thử vị tháng giêng để hưởng cái “ngon”, thi nhân kề môi say sưa để đê mê với sự dịu ngọt như “một cặp môi gần”. Đem cái trừu tượng ví với một điều cụ thể, lấy tháng năm để so với đôi môi người thiếu nữ, còn gì táo bạo mới mẻ hơn thế? Vẫn đẹp, vẫn đượm hương tình yêu ngây ngất nhưng khi sợ thời gian qua mau, lo cuộc đời đang chóng tắt, thi nhân lo muốn “ôm” “riết” “say” tất cả những hình ảnh xinh đẹp của cuộc đời. Hình ảnh thơ khi ấy rất động và đạt đến độ viên mãn. Phải là “mây đưa” “gió lượn” mới sống động. Là cỏ là cây nhưng phải là cô cây đầy “mùi thơm” “ánh sáng” và “thanh sắc”. Hình ảnh thơ như bị cuốn theo cái “vội vàng” rất xuân rất trẻ của chàng trai tuổi hai mươi tham lam này.
Cũng cần khẳng định thêm điều nữa, ở cả ba bài thơ này của Xuân Diệu, không thể chê hình ảnh thơ không đẹp, không trẻ. Chỉ có điều ở mỗi bài mỗi vẻ mà thôi, ở “Vội vàng” chúng cũng vội vàng rạo rực. Nhưng trong “Đây mùa thu tới” lại có nét gì buồn ngơ ngẩn, thê lương.
Tả mùa thu thi nhân lấy liễu làm biểu tượng đã là buồn là lạ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Bởi liễu vốn là biểu tượng của mùa xuân cơ, liễu xanh tươi như người con gái dịu dàng tha thướt. Lấy liễu tả thu, Xuân Diệu còn để liễu như người thiếu nữ chịu tang thì nỗi buồn càng quá lắm. “Lệ ngàn hàng” còn như nỗi buồn ngàn trùng tiếp nối.Xem thêm: Ấn tượng về tính cách nhân vật A Phủ. Bút pháp của nhà văn khi miêu tả Mị và nhân vật A Phủ.
Hình ảnh “áo mơ phai” cũng gây nhiều tranh cãi. Là màu vàng phai hay màu giấc mơ tàn phai? Mỗi cách hiểu lại có cái hay riêng, đành để thơ ca thản nhiên làm khó người đọc bởi sự trừu tượng, đa nghĩa của nó.
Tinh tế và gợi cảm, những câu thơ như “Những luồng run rẩy rung rinh lá/ Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” gieo vào lòng người những ấn tượng không thể nào quên. Đặt cho gió thu cái tên “run rẩy” – “luồng run rẩy” (luồng gió) tức là đang nhắc đến bản chất của gió thu (se lạnh). Câu thơ đặt bốn phụ âm “r” liên tiếp “run rẩy rung rinh” khiến ta có cảm giác cả chiếc lá, cả con người ta cũng như đang run lên vì cái se lạnh kỳ lạ kia. Đặc biệt hình ảnh “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” thì như có mà như không. Có bởi sự hiện hữu của một cành cây như thế. Không vì cái mỏng manh bé nhỏ vô thường “nhánh” “khô“ “gầy” “xương” “mỏng manh”.
Cảnh vật đã gợi buồn, gợi đơn chiếc, hình ảnh thiếu nữ mùa thu càng hoàn thiện nét xa xăm, cô độc của bức tranh.
“ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
ở “Thơ duyên”, đúng như tựa đề bài thơ, cảnh vật và con người có sự giao hòa rất “duyên”. Hình ảnh thơ chẳng khi nào lẻ loi, luôn luôn có đôi có lứa, dựa vào nhau, ngả vào nhau, giao hòa với nhau tạo nên “Thơ duyên” rất tình tứ: chiều mộng và nhánh duyên, cây me và chim (cặp chim nữa!), trời xanh và lá… Anh và em!
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
“Em bước điềm nhiên không vướng chân A
nh đi lững đững chẫng theo gần”
Nhắc đến nét “duyên” của cảnh không thể bỏ qua hình ảnh “Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Có thể nói, chỉ riêng câu thơ này của Xuân Diệu đã tạo ra nhiều đột phá trong thơ. Không thể diễn tả chính xác cái chấp chới “phân vân” của cánh cò, chỉ biết thi nhân đã thổi hồn vào đó với tất cả niềm rung cảm, đồng điệu với thiên nhiên.Xem thêm: Nhà văn lớn người Pháp, Mác-xen Pruts cho rằng: “Đối... biết đến”. Vận dụng phong cách nghệ thuật của một tác giả để phân tích và chứng minh ý kiến trên Cùng với những hình ảnh thơ mới mẻ, tinh tế, gợi cảm, nhịp điệu thơ cũng góp phần tạo nên thành công của mỗi thi phẩm.
Chủ đề “Vội vàng” đã có được một nhịp thơ gấp gấp, dồn dập diễn tả thành công cái mê say, khao khát, sự “vội vàng” rất trẻ của nhà thơ. Nhịp điệu này được sự “hỗ trợ” rất “đắc lực” của các điệp từ.
‘“Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm vái tình yêu
Ta muốn thâu trong một cải hôn nhiều”.
Đến “Đây mùa thu tới”, sự “vội vàng” sôi nổi không còn, chỉ thấy u buồn lặng lẽ. Nhịp thơ chậm rãi, trầm lắng. Đặc biệt những vần bắt nhau liên tiếp và những dấu ba chấm (…) diễn tả tinh tế bước đi của thời gian:
“Rặng liễu đìu hiu dứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò..”..
“Thơ duyên” lại mang một phong cách khác. Không phải “vội vàng” nhưng cũng không quá “nghĩ ngợi”. “Thơ duyên” là bài thơ về sự hòa hợp của đất trời lòng người, nhịp thơ đều đều, vui tươi như trải dài ra sự say mê xinh xắn. Nhât là những câu có đan xen các từ láy:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều”.
Nghe nhịp điệu câu thơ đã thấy êm ái lạ!
Hình ảnh thơ, nhịp điệu thơ là những yếu tố thuộc về đặc trưng thi pháp thơ Xuân Diệu, ơ cả ba bài thơ trên, hai yếu tố đó thành công bởi sự hài hòa thống nhất giữa hình thức và nội dung tư tưởng tác phẩm
Vanmau.edu.vn
|
Thành công của Xuân Diệu trong việc sử dụng hình ảnh và nhịp điệu ở các bài thơ Vội vàng, Đây mùa thu tới, Thơ duyên
Gợi ý
“Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Khi dành tặng cho Xuân Diệu lời khen như một lời ca ngợi ấy, Hoài Thanh có lẽ đã nghĩ đến những hình ảnh thơ vô cùng mới mẻ, độc đáo, xuân tình xuân sắc vá nhịp điệu thơ phá cách hài hòa với nội dung tư tưởng trong thơ của Xuân Diệu. Thành công của Xuân Diệu trong việc sử dụng hình ảnh, nhịp điệu ở các bài thơ “Vộì vàng”, “Đây mùa thu tới”, “Thơ duyên” chẳng những minh chứng lời nhận xét – lời khen sắc sảo của Hoài Thanh mà còn góp phần khẳng định tài năng thơ Xuân Diệu.
Phải nói trước rằng cả ba tuyệt phẩm xinh xắn trên đều nằm trong tập “Thơ thơ” – tập thơ đầu tay của Xuân Diệu đầu năm 1938. Người thanh niên tuổi hai mươi. (“Không phải là hai mươi tuổi” – lưu ý của Hoài Thanh) đã thổi vào thơ cái “rạo rực băn khoăn” đầy sức sống của tuổi trẻ.
Bước vào thế giới hình ảnh thơ Xuân Diệu là bước vào thế giới của cảm xúc, cảm giác tinh tế, của hoa thơm cỏ lạ xuân tình xuân sắc, của hòa hợp lứa đôi… và của những gì mới mẻ táo bạo nhất trong thơ ca đương thời.
Nhắc đến “Vội vàng” là nhắc đến những hình ảnh thơ tràn đầy sức sống, căng đầy khát vọng tình yêu hạnh phúc. “Vội vàng” là vội vàng sống, vội vàng tận hưởng niềm say mê hạnh phúc ở đời kẻo bỏ qua, phí hoài những tháng năm xuân sắc.Vẽ ra hình ảnh thiên nhiên mùa xuân, nhà thơ ngợi ca cuộc sống, nhắc nhở mỗi người hãy biết trân trọng nâng niu từng giây từng phút cuộc đời.
Cuộc sống ấy có gì vậy? Có “ong bướm này đây tuần tháng mật” có “hoa của đồng nội xanh rì” có “yến anh” của “khúc tình si”. Tất cả đều là những hình ảnh thơ rạo rực xuân tình. Ong bướm gợi tình yêu gái trai, hoa và chim cũng gợi tình đôi lứa. Đã vậy, đó còn là ong bướm, hoa chim đang độ say sưa nhất của tình yêu “tuần tháng mật”. Giây phút khoảnh khắc ấy đầy mê say, có con người nào không khát khao tận hưởng mãi?Xem thêm: Phân tích tính huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Cuộc sống muôn màu muôn vẻ quá. Phải làm sao để cảm lấy, đón lấy cho đủ đầy. Thế nên Xuân Diệu mởi uống cả cuộc đời bằng mọi giác quan mình có. Hình ảnh thơ đó sống động đến vô cùng. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”. Chỉ một hình ảnh của cuộc sống thi nhân đón nhận đến mấy lần kia đấy. “Tháng giêng” là một thời điểm trong năm nhưng đó không phải thời điểm bình thường. “Tháng giêng” là tháng đầu tiên của mùa xuân rạo rực mê say, lấ tháng đầu tiên của một năm khát sống. Thế nên tháng giêng được Xuân Diệu khao khát đến vô ngần. Thi nhân nếm thử vị tháng giêng để hưởng cái “ngon”, thi nhân kề môi say sưa để đê mê với sự dịu ngọt như “một cặp môi gần”. Đem cái trừu tượng ví với một điều cụ thể, lấy tháng năm để so với đôi môi người thiếu nữ, còn gì táo bạo mới mẻ hơn thế? Vẫn đẹp, vẫn đượm hương tình yêu ngây ngất nhưng khi sợ thời gian qua mau, lo cuộc đời đang chóng tắt, thi nhân lo muốn “ôm” “riết” “say” tất cả những hình ảnh xinh đẹp của cuộc đời. Hình ảnh thơ khi ấy rất động và đạt đến độ viên mãn. Phải là “mây đưa” “gió lượn” mới sống động. Là cỏ là cây nhưng phải là cô cây đầy “mùi thơm” “ánh sáng” và “thanh sắc”. Hình ảnh thơ như bị cuốn theo cái “vội vàng” rất xuân rất trẻ của chàng trai tuổi hai mươi tham lam này.
Cũng cần khẳng định thêm điều nữa, ở cả ba bài thơ này của Xuân Diệu, không thể chê hình ảnh thơ không đẹp, không trẻ. Chỉ có điều ở mỗi bài mỗi vẻ mà thôi, ở “Vội vàng” chúng cũng vội vàng rạo rực. Nhưng trong “Đây mùa thu tới” lại có nét gì buồn ngơ ngẩn, thê lương.
Tả mùa thu thi nhân lấy liễu làm biểu tượng đã là buồn là lạ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Bởi liễu vốn là biểu tượng của mùa xuân cơ, liễu xanh tươi như người con gái dịu dàng tha thướt. Lấy liễu tả thu, Xuân Diệu còn để liễu như người thiếu nữ chịu tang thì nỗi buồn càng quá lắm. “Lệ ngàn hàng” còn như nỗi buồn ngàn trùng tiếp nối.Xem thêm: Ấn tượng về tính cách nhân vật A Phủ. Bút pháp của nhà văn khi miêu tả Mị và nhân vật A Phủ.
Hình ảnh “áo mơ phai” cũng gây nhiều tranh cãi. Là màu vàng phai hay màu giấc mơ tàn phai? Mỗi cách hiểu lại có cái hay riêng, đành để thơ ca thản nhiên làm khó người đọc bởi sự trừu tượng, đa nghĩa của nó.
Tinh tế và gợi cảm, những câu thơ như “Những luồng run rẩy rung rinh lá/ Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” gieo vào lòng người những ấn tượng không thể nào quên. Đặt cho gió thu cái tên “run rẩy” – “luồng run rẩy” (luồng gió) tức là đang nhắc đến bản chất của gió thu (se lạnh). Câu thơ đặt bốn phụ âm “r” liên tiếp “run rẩy rung rinh” khiến ta có cảm giác cả chiếc lá, cả con người ta cũng như đang run lên vì cái se lạnh kỳ lạ kia. Đặc biệt hình ảnh “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” thì như có mà như không. Có bởi sự hiện hữu của một cành cây như thế. Không vì cái mỏng manh bé nhỏ vô thường “nhánh” “khô“ “gầy” “xương” “mỏng manh”.
Cảnh vật đã gợi buồn, gợi đơn chiếc, hình ảnh thiếu nữ mùa thu càng hoàn thiện nét xa xăm, cô độc của bức tranh.
“ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
ở “Thơ duyên”, đúng như tựa đề bài thơ, cảnh vật và con người có sự giao hòa rất “duyên”. Hình ảnh thơ chẳng khi nào lẻ loi, luôn luôn có đôi có lứa, dựa vào nhau, ngả vào nhau, giao hòa với nhau tạo nên “Thơ duyên” rất tình tứ: chiều mộng và nhánh duyên, cây me và chim (cặp chim nữa!), trời xanh và lá… Anh và em!
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
“Em bước điềm nhiên không vướng chân A
nh đi lững đững chẫng theo gần”
Nhắc đến nét “duyên” của cảnh không thể bỏ qua hình ảnh “Con cò trên ruộng cánh phân vân”. Có thể nói, chỉ riêng câu thơ này của Xuân Diệu đã tạo ra nhiều đột phá trong thơ. Không thể diễn tả chính xác cái chấp chới “phân vân” của cánh cò, chỉ biết thi nhân đã thổi hồn vào đó với tất cả niềm rung cảm, đồng điệu với thiên nhiên.Xem thêm: Nhà văn lớn người Pháp, Mác-xen Pruts cho rằng: “Đối... biết đến”. Vận dụng phong cách nghệ thuật của một tác giả để phân tích và chứng minh ý kiến trên Cùng với những hình ảnh thơ mới mẻ, tinh tế, gợi cảm, nhịp điệu thơ cũng góp phần tạo nên thành công của mỗi thi phẩm.
Chủ đề “Vội vàng” đã có được một nhịp thơ gấp gấp, dồn dập diễn tả thành công cái mê say, khao khát, sự “vội vàng” rất trẻ của nhà thơ. Nhịp điệu này được sự “hỗ trợ” rất “đắc lực” của các điệp từ.
‘“Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm vái tình yêu
Ta muốn thâu trong một cải hôn nhiều”.
Đến “Đây mùa thu tới”, sự “vội vàng” sôi nổi không còn, chỉ thấy u buồn lặng lẽ. Nhịp thơ chậm rãi, trầm lắng. Đặc biệt những vần bắt nhau liên tiếp và những dấu ba chấm (…) diễn tả tinh tế bước đi của thời gian:
“Rặng liễu đìu hiu dứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò..”..
“Thơ duyên” lại mang một phong cách khác. Không phải “vội vàng” nhưng cũng không quá “nghĩ ngợi”. “Thơ duyên” là bài thơ về sự hòa hợp của đất trời lòng người, nhịp thơ đều đều, vui tươi như trải dài ra sự say mê xinh xắn. Nhât là những câu có đan xen các từ láy:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều”.
Nghe nhịp điệu câu thơ đã thấy êm ái lạ!
Hình ảnh thơ, nhịp điệu thơ là những yếu tố thuộc về đặc trưng thi pháp thơ Xuân Diệu, ơ cả ba bài thơ trên, hai yếu tố đó thành công bởi sự hài hòa thống nhất giữa hình thức và nội dung tư tưởng tác phẩm
Vanmau.edu.vn
|
Thành ngữ có câu: “Không thể bẻ đũa cả nắm”. Anh (chị) có suy nghĩ gì? Bàn luận về tình đoàn kết trong xã hội
Gợi ý
Chuyện kể rằng trong một gia đình nọ, người cha rất buồn vì những đứa con của ông, tuy là anh em một nhà như lúc nào cũng ghen ghét, đố kị nhau. Một ngày, người cha ốm nặng, trước khi qua đời ông gọi những đúa con của mình lại và giao cho chúng một bó đũa rồi bảo chúng bẻ cả bó đũa ấy. Những người con loay hoay mãi nhưng vẫn không thể làm gì được. Lúc này ông mới lấy từng chiếc đũa ra và bẻ một cách dễ dàng. “Không thể bẻ đũa cả nắm”. Những người con cúi đầu, thấm thía bài học về tình đoàn kết.
Câu chuyện dân gian được đúc kết thành câu thành ngữ tuy giản dị nhưng mang ý nghĩa giáo dục rất lớn. Nó bắt nguồn từ một sự thực trong đời sống. Giống như việc những con sếu khi bay theo đàn hình mũi tên thì có thể tiết kiệm được sức lực và giúp đỡ nhau khi cần thiết; những con kiến cùng nhau khênh con mồi to hơn nó rất nhiều lần về tổ; con ong xây dựng được những công trình kiến trúc vĩ đại…; một bó đũa được tạo nên từ nhiều cây đũa sẽ làm thành một khối vững chắc, khó lay chuyển. Những chiếc đũa đứng một mình thì có vẻ mỏng manh, yếu ớt nhưng khi xếp cạnh nhau, song song, trợ lực cho nhau, là một thách thức cho bất cứ ai muốn phá tan cái khối thống nhất cứng cáp ấy. Mỗi chiếc đũa, khi đặt trong bó đũa đã trở thành một phần của một khối thống nhất. Nếu như việc tác động lực vào một chiếc đũa duy nhất khiến cho nó dễ dàng bị biến dạng thì khi ở trong một khối, khi cái này đã là điểm tựa của cái kia, đó là một việc làm không hề đơn giản. Câu thành ngữ nhận định “không thể bẻ đũa cả nắm” là muốn khẳng định đến tính tuyệt đối sức mạnh của chúng khi đặt trong một khối thống nhất, một sức mạnh tổng hợp, vững chãi. Câu chuyện về bó đũa nhưng lại có ý nghĩa giáo dục thật lớn.Xem thêm: Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao Triết học chỉ ra rằng con người tồn tại trong các mốì quan hệ, không có con người cá nhân, cá thể. Mỗi người không thể tồn tại một mình mà không liên quan với những người xung quanh. Các mối quan hệ đó lại phát triển theo các chiều hướng phức tạp khác nhau. Trong đó mối quan hệ mang tính thân thiện, tương trợ lẫn nhau giữa con người là mối quan hệ quan trọng và cần thiết nhất. Trong một cộng đồng người, tình đoàn kết giúp bồi dưỡng và phát triển mối quan hệ theo chiều hướng tốt đẹp này. Tình đoàn kết là sự yêu mến, gắn bó giữa người với người, kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung. Tình đoàn kết mang đến cho tập thể sức mạnh tổng hợp, vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Hồ Chí Minh xưa đã từng rất quan tâm đến vấn đề này. Người kêu gọi nhân dân ta: “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết! Thành công! Thành công! Đại thành công!”. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết cũng được khẳng định trong các bài ca hết sức gần gũi của Người:
“Hòn đá to
Hòn đá nặng
Một người nhấc
Nhấc không đặng
Hòn đá to
Hòn đá nặng
Nhiều người nhấc
Nhấc lên đặng”.
Và thực tế những cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã là minh chứng hùng hồn cho chân lí ấy. Trước biết bao những thủ đoạn chia rẽ, tàn phá,… ác liệt của thực dân đế quốc, ngày ngày, từng đoàn xe thồ dân công vẫn lên đường vì khúc ruột miền Nam. Lớp lớp thế hệ Việt Nam vẫn “Lớp cha trước lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Tình đoàn kết đã giúp cho một dân tộc Việt Nam nhỏ bé, chiến thắng được những kẻ thù to lớn, xây dựng nên một hình ảnh Việt Nam thật đẹp trong lòng nhân dân thế giới.Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Trong xã hội hiện đại, tinh thần đoàn kết vẫn giữ nguyên giá trị. Một dân tộc đoàn kết là một dân tộc đầy sức mạnh có thể vượt qua tất cả mọi phong ba bão táp, khẳng định vị thế của mình trên trường quôc tế. Không chỉ có vậy, đoàn kết còn giúp chúng ta có đủ sức mạnh để chống lại các âm mưu thù địch đang diễn biến phức tạp. Nếu không có tinh thần đoàn kết, thống nhất một lòng dưới sự lãnh đạo của Nhà nước và Đảng cộng sản thì những câu chuyện như ở Tây Nguyên, hay đồng bào Công giáo sẽ luôn là những mối đe dọa thường trực đến vận mệnh và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong cuộc sống thường ngày, tình đoàn kết cũng giúp người ta sống tốt hơn, chan hoà với nhau hơn. Tục ngữ có câu: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn” là vì lẽ đó. Gia đình đoàn kết thì cuộc sống hoà thuận, hạnh phúc. Hàng xóm láng giềng đoàn kết thì “Tối lửa tắt đèn có nhau”, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Bạn bè đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập. Câu chuyện về những đôi bạn cùng tiến sẽ vẫn mang lại cho mọi người sự xúc động và cảm phục sâu sắc.
“Không thể bẻ đũa cả nắm”. Ý thức được điều này, mỗi chúng ta, một cá nhân, một phần trong tập thể, cần rèn luyện cho mình tinh thần đoàn kết. Gần gũi nhất là với những người đang sống xung quanh mình, cùng nhau vượt qua khó khăn. Đoàn kết với đồng bào mình, dân tộc mình, đoàn kết với bạn bè thế giới, để cuộc sống trên trái đất này ngày càng tốt đẹp hơn.Xem thêm: Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu“Giọt nước chỉ hoà vào biển cả mới không cạn mà thôi”.
Vanmau.edu.vn
|
There is an idiom that says: "You can't break a handful of chopsticks." What do you think? Discuss solidarity in society
Suggest
The story goes that in a certain family, the father was very sad because his children, although they were brothers, were always jealous and envious of each other. One day, the father was seriously ill. Before he passed away, he called his children together and gave them a bunch of chopsticks and told them to break the whole bunch of chopsticks. The children struggled forever but still could not do anything. Only then did he take out each chopstick and break it easily. "You can't break chopsticks whole." The children bowed their heads, absorbing the lesson of solidarity.
The folk tale is summarized into a simple idiom but has great educational significance. It originates from a fact in life. Just like when cranes fly in arrow-shaped flocks, they can save energy and help each other when needed; The ants together carry prey much larger than themselves back to the nest; Bees can build great architectural works...; A bundle of chopsticks made from many chopsticks will form a solid block that is difficult to shake. Chopsticks standing alone seem fragile and weak, but when placed next to each other, parallel, supporting each other, it is a challenge for anyone who wants to destroy that sturdy unity. Each chopstick, when placed in a bundle of chopsticks, becomes part of a unified block. If applying force to a single chopstick makes it easily deformed, then when in a block, when one is the fulcrum of the other, it is not a simple task. The idiom saying "you can't break a whole bunch of chopsticks" is to affirm the absolute power of them when placed in a unified block, a solid, synthetic strength. The story about the bundle of chopsticks has great educational significance. See more: Analysis of the short story Chi Pheo by Nam Cao Philosophy shows that people exist in relationships, there is no individual person or personality. can. Each person cannot exist alone without relating to those around them. Those relationships develop in different complicated directions. The friendly and mutually supportive relationship between people is the most important and necessary relationship. In a human community, solidarity helps foster and develop relationships in this good direction. Solidarity is the love and attachment between people, forming a unified block, working together for a common purpose. Solidarity gives the collective strength to overcome all difficulties and obstacles. Ho Chi Minh was once very interested in this issue. He called on our people: “Unite! Unite! Great solidarity! Success! Success! Great success!”. The power of solidarity is also affirmed in his very close songs:
“Big rock
Heavy stone
One person lifts
Can't lift it
Big rock
Heavy stone
Many people lifted
Please lift it up."
And in fact, the nation's great resistance wars have been eloquent proof of that truth. In the face of so many fierce tactics of division, destruction, etc. of the imperialist colonialists, every day, convoys of civil servants still set out for the sake of the Southern region. The Vietnamese generation is still "The father's class comes first, the children's class follows / Have become comrades marching together". Solidarity has helped a small Vietnamese people defeat huge enemies, building a beautiful image of Vietnam in the hearts of people around the world. See more: Feelings about the poem This village Vi Da In modern society, the spirit of solidarity still retains its value. A united nation is a powerful nation that can overcome all storms and affirm its position in the international arena. Not only that, solidarity also helps us have enough strength to fight against complicated hostile plots. If there is no spirit of solidarity and unity under the leadership of the State and the Communist Party, stories like those in the Central Highlands or the Catholic people will always be a constant threat to the destiny and great national unity bloc.
In everyday life, solidarity also helps people live better and more harmoniously with each other. There is a proverb that says: "If a husband and wife agree with each other, even the East Sea will dry up" for that reason. If a family is united, life will be harmonious and happy. When neighbors unite, "At night when the fire turns off the lights, we have each other", helping each other overcome difficulties. Friends unite and help each other in studying. The story of couples working together will still bring everyone deep emotion and admiration.
"You can't break chopsticks whole." Aware of this, each of us, an individual, a part of the collective, needs to train ourselves in the spirit of solidarity. The closest thing is to the people living around you, overcoming difficulties together. Unite with your compatriots, your people, unite with friends around the world, so that life on this earth becomes increasingly better. See more: Analyzing the appeal of Xuan Dieu's poem "Hush" "Drops" Only when water merges with the sea does it not dry up."
Vanmau.edu.vn
|
1. Thân em như tấm lụa đào,… c.Phân tích cái hay của bài ca dao thứ 3
Gợi ý
Đề bài:
1. Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
2. Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi
3. Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!
Mặt trăng sánh với mặt trời,
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.
Mình ơi! Có nhớ ta chăng
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.
a. Trình bày những hiểu biết của anh (chị) về ca dao.
b. Tìm và làm rõ điểm giống nhau giữa hai bài ca dao số 1 và số 2.
c. Phân tích cái hay của bài ca dao thứ 3.
Hướng dẫn:
а. Về nội dung: Ca dao diễn tả đời sống tâm hồn, tình cảm của nhân dân trong mối quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội, đất nước. Có ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa, ca dao hài hước,…
Về nghệ thuật: Ca dao thường là sáng tác tập thể, ngắn gọn, gần gũi với ngôn ngữ hằng ngày, giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ, thường dùng lôi diễn đạt theo một số công thức quen thuộc.
b. Điểm giống nhau giữa hai bài ca dao số 1 và số 2:
– Là lời hát than về thân phận không may mắn.Xem thêm: Tả một chị bán hàng đang làm việc ở cửa hàng bách hóa (hoặc cửa hàng hợp tác xã mua bán) lúc đông khách– Nhân vật trữ tình là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
– Đều bắt đầu bằng cụm từ ‘’Thân em như..”
c.Bài ca dao số 3 mở đầu bằng cách nói quen thuộc “Trèo lên cây…”. Nhưng cây ở bài này là cây khế, một loại cây cũng khá phổ biến, gần gũi với người lao động Việt Nam. Điều đặc biệt là thời gian diễn ra hành động: “nửa ngày”. Trong dân gian, nửa ngày, giữa buổi là khoảng thời gian dang dở.
– “Ai làm chua xót lòng mày khế ơi”. Khế chua, lòng người cũng chua chát, lỡ làng. Từ “ai” phiếm chỉ, mơ hồ, không xác định lại càng làm nổi bật thêm cảm xúc này.
– Cặp lục bát tiếp theo mượn hình ảnh mặt trăng, mặt trời, sao Hôm, sao Mai – tượng trưng cho sự xứng đôi vừa lứa, sự gắn bó không thể chia lìa để giải bày tình yêu.
– Cặp lục bát cuối trực tiếp bày tỏ và khẳng định tình cảm bằng câu hỏi hàm ý khẳng định: xa nhau mình có nhớ ta, còn ta luôn nhớ nhung chờ đợi như thể ngôi sao Vượt vẫn ngày ngày chờ đợi ánh trăng, dù cô đơn mòn mỏi.
Vanmau.edu.vn
|
1. Your body is like peach silk,... c. Analyze the beauty of the 3rd folk song
Suggest
Topic:
1. Your body is like peach silk,
Floating in the middle of the market, who knows whose hands it belongs to?
2. Your body is like a thorny baby tuber,
The inside is white and the outside is black.
Hey, try it and see!
When I taste it, I realize that you are sweet
3. Climb the star fruit tree for half a day,
Who made this heart sour, star fruit!
The moon compares with the sun,
The Evening Star compares closely with the Morning Star.
Oh honey! Do you remember me?
I am like the Surpass star waiting for the moon in the sky.
a. Present your knowledge about folk songs.
b. Find and clarify the similarities between two folk songs Không. 1 and Không. 2.
c. Analyze the beauty of the third folk song.
Instruct:
а. Regarding content: Folk songs describe the spiritual and emotional life of people in personal, family, social and country relationships. There are folk songs of self-pity, love and gratitude, humorous folk songs,...
About art: Folk songs are often collective compositions, short, close to everyday language, rich in comparative images and metaphors, often using expressions according to some familiar formulas.
b. Similarities between two folk songs number 1 and number 2:
– It is a song lamenting the unfortunate fate. See more: Describes a saleswoman working at a department store (or cooperative store) when it is crowded with customers – The lyrical character is a woman in feudal society.
– They all start with the phrase “My body is like..”
c. Folk song number 3 opens with the familiar saying "Climb the tree...". But the tree in this article is the star fruit tree, a tree that is also quite popular and close to Vietnamese workers. What's special is the time the action takes place: "half a day". In folk culture, half a day or the middle of a day is an unfinished period of time.
– "Who made your heart so sour, star fruit?" Star fruit is sour, people's hearts are also sour, they miss the village. The word "who" is vague, vague, and undefined, further highlighting this feeling.
– The next pair of hexagrams borrows the images of the moon, the sun, the Evening star, the Morning star - symbolizing good compatibility, inseparable attachment to express love.
– The last couple directly expressed and affirmed their feelings with a question that implied affirmation: we miss each other when we are apart, and we always miss and wait as if the star still waits for the moonlight every day, even though exhausted loneliness.
Vanmau.edu.vn
|
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương qua bài Bánh trôi nước
Gợi ý
Hồ Xuân Hương là một thi sĩ tài hoa bậc nhất trong nền văn học cổ Việt Nam. Thơ bà ẩn sau những tiếng cười tưởng chừng như tinh nghịch, châm biếm lại chứa chan niềm cảm thông, xót xa cho số phận người phụ nữ. Đây là vấn đề mà trước bà rất nhiều nhà thơ đã nói đến, nhưng với Hồ Xuân Hương cái nhìn về phụ nữ có phần mới hơn, sâu sắc hơn và mang tính thời đại hơn. Vấn đề này thể hiện rõ trong bài Bánh trôi nước:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bày nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tắm lòng son
Bài thơ này bà đã tả thực chiếc bánh trôi. Nguyên liệu làm bánh là bột nếp trắng mịn, xay nhuyễn, nặn tròn trịa đẹp mắt. Quá trình luộc bánh chìm nổi trong nước SÔI lửa bỏng. Bánh tròn hay méo, rắn hay nát là do tay người làm bánh. Dẫu thế nào bánh vẫn giữ nguyên màu đỏ của nhân bánh. Quá trình làm bánh trôi theo lời tả của Hồ Xuân Hương là thực tế. Thông qua việc tả thực đưa đến cho người đọc sự liên tưởng đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu kết hợp nghệ thuật ẩn dụ so sánh ngầm đặc sắc kín đáo. Hồ Xuân Hương đã thốt lên hai tiếng thân em gợi cho ta nhớ đến những câu ca dao quen thuộc: Xem thêm: Chí Phèo - một nhân vật điển hình Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Hay:
Thân em như hạt mưa xa
Hạt vào đài các hạt ra ngoài đồng
Đây chính là những câu hát than thân, trách phận của người phụ nữ Việt Nam xưa kia, nhưng những từ trắng, tròn gợi sự tự hào, kiêu hãnh về vẻ đẹp hình thể của họ. Ta chờ đợi hạnh phúc đến với họ nhưng tiếc thay:
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lẽ ra với vẻ đẹp nhan sắc như thế người phụ nữ phải được sống sung sướng hạnh phúc, trái lại họ gặp nhiều bất hạnh, tai hoạ, sóng gió của cuộc đời, họ long đong lận đận chìm nỗi giữa cuộc đời.
Càng đau khổ hơn khi:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Cuộc đời mình ra sao, số phận như thế nào là do người khác định đoạt "nhào nặn". Người phụ nữ không tự quyết định được số phận của mình. Chế độ phong kiến nam tôn nữ ti, nam quyền độc tôn, người phụ nữ phải phó thác cuộc đời cho xã hội, cho nam giới. Xã hội thật bất công họ không có chút quyền hạn gì, địa vị gì trong gia đình và xã hội.
Trước Hồ Xuân Hương, Nguyễn Dữ đã từng đặt ra vấn đề về người phụ nữ. Trong Chuyện người con gái Nam Xương – Vũ Nương đức hạnh nết na thuỷ chung mà cuộc đời nàng quá ngắn ngủi. Người đẩy nàng vào chỗ chết chính là người chồng – người từng gắn bó máu thịt với cuộc đời nàng. Do đa nghi, ghen tuông, gia trưởng, người chồng đã dẫn đến nỗi oan uổng của Vũ Nương. Xem thêm: Viết đoạn văn miêu tả dòng sông vào mùa nước lũ Thơ Hồ Xuân Hương viết nhiều về người phụ nữ nhưng những người phụ nữ trong các bài thơ của bà không phải là những người phụ nữ đài các "tầng lớp trên". Họ là những người phụ nữ bình dân:
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Suốt đời lăn lóc đám cỏ hôi
Vì vậy khi nhìn vẻ đẹp của họ ta phải chú ý đến vẻ đẹp bên trong chớ nên chỉ chú ý đến hình thể bề ngoài:
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Nỗi đau của người phụ nữ ở đây là không có cách nào tự vệ chống trả. Tuy nhiên dẫu cho xã hội có xoay chuyển xô đẩy ra sao thì em vẫn giữ tấm lòng son. Bất chấp hoàn cảnh họ kiên trinh giữ lấy tấm lòng trinh trắng, thuỷ chung. Vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp khoẻ khoắn, bình dân, hồn nhiên.
Mặc dầu xã hội xô đẩy vùi dập nhưng người phụ nữ vẫn ngẩng cao đầu tuyên chiến với cuộc đời, vượt lên không chịu sa lầy trong vũng bùn nhơ của cuộc đời, giữ lấy giá trị chân chính của mình. Người phụ nữ ấy có ý thức về mình, luôn sống với tình nghĩa, không chịu lép vế trước nam giới.
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
Cuộc đời Hồ Xuân Hương chịu nhiều cay đắng, bất hạnh, làm lẽ Tổng Cóc, làm lẽ Phủ Vĩnh Tường… Bà thay lời những người phụ nữ cất lên tiếng nói phản kháng cái kiếp chồng chung đầy nghịch lý: Xem thêm: Phân tích nhân vật Mị để thấy được sức sống tiềm tàng của nhân vật này qua truyện Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
(Làm lẽ)
Tóm lại bài thơ Bánh trôi nước có ý nghĩa khái quát như một lời tổng kết về nhân cách và số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Người phụ nữ trong bài thơ này có phẩm chất cao đẹp, đức hạnh thuỷ chung nhưng không được trân trọng. Do địa vị phụ thuộc, cuộc đời bảy nồi ba chìm lăn lóc. Hồ Xuân Hương đã xoáy sâu vào tận ngõ ngách của cuộc đời để nêu lên tấn bi kịch của người phụ nữ. Nhưng dẫu thế nào họ vẫn sống đẹp, sống chân chính để bảo toàn phẩm giá của mình. Lời thơ của bà cũng là lời thơ của cả một kiếp người đòi "tự do"
Bài thơ Bánh trôi nước nhà thơ đã đặt ra vấn đề người phụ nữ, một vấn đề nhức nhối mà không ít nhà thơ nhà văn đã nói đến. Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu đã từng đề cập. Có lẽ vấn đề này không riêng gì ai mà tất cả chúng ta, cả xã hội hãy đấu tranh vì sự bình đẳng của phụ nữ.
Vanmau.edu.vn
|
The fate of women in Ho Xuan Huong's poetry through the poem Floating Water Cake
Suggest
Ho Xuan Huong is one of the most talented poets in ancient Vietnamese literature. Her poetry hides behind seemingly mischievous and sarcastic laughter, but is filled with sympathy and sadness for the fate of women. This is an issue that many poets before her have talked about, but with Ho Xuan Huong, the view on women is somewhat newer, deeper and more contemporary. This problem is clearly shown in the article Water Floating Cake:
Her body is both white and round
Display three floating and sinking water with young water
The snake is crushed even if it is molded by your own hands
But I still keep my lipstick on
In this poem, she realistically described the floating cake. The ingredients for making the cake are fine white glutinous rice flour, pureed and beautifully shaped into a round shape. The process of boiling the cake sinks and floats in BOILING water. Whether a cake is round or misshapen, solid or crushed depends on the baker's hands. Regardless, the cake still retains the red color of the filling. The process of making floating cakes as described by Ho Xuan Huong is realistic. Through realistic descriptions, it gives readers an idea of the fate of women in feudal society.
The poetic voice is gentle and mellow, combined with the unique and discreet art of implicit comparison and metaphor. Ho Xuan Huong uttered two words: Your body reminds us of familiar folk songs: See more: Chi Pheo - a typical character Your body is like peach silk
Floating in the middle of the market, who knows whose hands it belongs to?
Or:
My body is like distant raindrops
The seeds enter the station and the seeds go out into the field
These are songs of self-pity and responsibility of ancient Vietnamese women, but the white, round words evoke pride and arrogance about their physical beauty. We wait for happiness to come to them but unfortunately:
Seven floating sunken with water
With beauty like that, women should be able to live happily and happily, on the contrary, they encounter many misfortunes, disasters, and upheavals of life, they struggle and sink in the middle of life.
It's even more painful when:
The snake is crushed even if it is molded by your own hands
How our life turns out, what our fate is, is determined by others. Women cannot decide their own fate. In the feudal system, men respect women, male power is exclusive, women must entrust their lives to society and men. Society is so unfair they have no rights or status in family and society.
Before Ho Xuan Huong, Nguyen Du once raised the issue of women. In the story of the girl Nam Xuong - Vu Nuong was virtuous and loyal, but her life was too short. The person who pushed her to death was her husband - the person who was once attached to her life by flesh and blood. Due to suspicion, jealousy, and patriarchy, the husband led to Vu Nuong's injustice. See more: Write a paragraph describing a river during flood season Ho Xuan Huong's poetry writes a lot about women, but the women in her poems are not the women of the "upper classes". They are ordinary women:
My mother gave birth to a stuffed snail
All my life, I've been rolling around in the smelly grass
Therefore, when looking at their beauty, we must pay attention to their inner beauty and not only pay attention to their external appearance:
But I still keep my heart
The pain of the woman here is that she has no way to defend herself. However, no matter how society turns and pushes, I still maintain my good heart. Regardless of the circumstances, they steadfastly maintain a pure and faithful heart. Their beauty is healthy, popular, and innocent.
Even though society has pushed and crushed her, women still hold their heads high and declare war on life, overcome and refuse to get bogged down in the mud of life, keeping their true values. That woman is self-aware, always lives with gratitude, and refuses to be inferior to men.
For example, I can change my destiny to become a boy
So that's how much heroism there is
(Dedicated to Sam Nghi Dong temple)
Ho Xuan Huong's life suffered a lot of bitterness and misfortune, being the boss of Tong Coc, being the boss of Vinh Tuong Palace... She spoke out on behalf of the women to protest against the paradoxical cohabitation life: See more: Analysis character Mi to see the potential vitality of this character through the story A Phu and his wife - To Hoai One wears a cotton blanket, the other is cold
Damn my father for getting married together
(Make excuses)
In short, the poem Banh troi nuoc has a general meaning as a summary of the personality and fate of women in ancient society. The woman in this poem has noble qualities and loyal virtues but is not appreciated. Due to his dependent status, life is full of ups and downs. Ho Xuan Huong delved deep into every corner of life to highlight the tragedy of women. But no matter what, they still live beautifully and honestly to preserve their dignity. Her poetry is also the poetry of an entire human life demanding "freedom".
In the poem "Banh troi nuoc" the poet raised the issue of women, a painful issue that many poets and writers have talked about. Nguyen Du, Ho Xuan Huong, Nguyen Du, Nguyen Dinh Chieu have mentioned it. Perhaps this problem is not just for everyone, but all of us, the whole society, should fight for women's equality.
Vanmau.edu.vn
|
Thơ Hai-cư của Ba-sô.
Hướng dẫn
Ma-su-ô Ba-sô (1644 – 1694), nhà thơ bậc thầy về thơ Hai-cư của Nhật. Ông xuất thân trong một gia đình thuộc dòng dõi võ sĩ đạo Sa-mu-rai của xứ I-ga.
Hai-cư là thể loại thơ ca truyền thống Nhật Bản. Đây là thể thơ ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết. Trong tiếng Nhật 17 âm tiết đó được viết thành một hàng, khi phiên âm La tinh nó mới được ngắt thanh ba đoạn theo thứ tự 5/7/5. Cá biệt có những bài có 19 âm tiết.
Ba dòng (đoạn) thơ Hai cư có chức năng khác nhau:
– Dòng thứ nhất dùng để giới thiệu.
– Dòng thứ hai tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng thứ ba.
– Dòng thứ ba: Kết lại tứ thơ, nhưng thường không bao giờ rõ ràng và đủ ý mà phải mở ra những suy tư cảm xúc cho người đọc.
Trong mỗi bài thơ đều phải có quý ngữ (từ chỉ mùa)
Mỗi bài thơ là một khoảnh khắc của cảnh vật và đỉnh điểm của cảm xúc.
Thơ Hai-cư bao giờ cũng có nội dung liên quan đến thiên nhiên và đưa ra những triết lí về thiên nhiên.
– Bài 1: là nỗi cảm về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay). Đã mười mùa sương xa quên, tức là mười năm đằng đẵng nhà thơ sống ở Ê-đô. Có một lần trở về quê cha đất tổ ông không thể nào quên được Ê-đô. Mười mùa sương gợi lòng lạnh giá của kẻ xa quê. Vậy mà về quê lại nhớ Ê-đô. Tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.
– Bài 2: Ki-ô-tô là nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666 – 1672). Sau đó ông chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau trở lại Ki-ô-tô nghe tiếng chim đỗ quyên hót ông đã làm bài thơ này. Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, loài chim báo mùa hè, tiếng khắc khoải gọi lại kỉ niệm một thời tuổi trẻ. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xắm. Thơ Ba-sô đã gây ấn tượng đầy lãng mạn. Giữthơ cũng bồng bềnh trong khẳng định thầm lặng của nỗi nhớ, sự hoài cảm.
– Bài 3: Một mớ tóc bạc di vật còn lại của mẹ, cầm trên tay mà Ba-sô rưng rưng dòng lệ chảy. Nỗi lòng thương cảm xót xa khi mẹ không còn. Hình ảnh "làn xương thu" mơ hồ gợi nỗi buồn trống trải bởi công sinh thành, dưỡng dục chưa được báo đền. Tình mẫu tử khiến người đọc cũng rưng rưng.
Xem thêm: Cảm nghĩ của em khi đọc Truyện lạ nhà thuyền chài trích trong Thánh Tông di thảo.– Bài 4: Người đọc bắt gặp nỗi buồn nhân thế. Bố mẹ đẻ ra con không nuôi được vì nghèo đói mà mang bỏ trong rừng sâu. Sự thực ấy đi vào thơ gợi lên biết bao nỗi buồn tê tái. Tiếng vượn hú không phải rùng rợn mà "não nề" cả gan ruột, không còn nỗi buồn mà là nỗi đau nhân thế. Tiếng trẻ "than khóc" vì bị bỏ rơi không phải vì cha mẹ nó độc ác mà vì cực chẳng đã, không nuôi nổi. Nỗi buồn ấy gửi vào gió mua thu tái tê. Nỗi buồn ấy đã nâng bổng giá trị thơ Ba-sô tới đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo. Điều đáng nói trong cái buồn ấy có nỗi đau đời, càng đau hơn vì "đau đời có cứu được đời đâu".
– Bài 5: Vẻ đẹp về khát vọng trong tâm hồn nhà thơ. Mưa giăng, một chú khỉ con thầm ước (khát vọng) có một chiếc áo tơi để che mưa. Mượn mưa để nói về một hiện thực nào đó trong cuộc đời (đói khổ, rét mướt chẳng hạn). Chú khỉ con ấy là một sinh mạng một con người, một kiếp người và là con người chung trong cuộc đời. Chú khỉ mong hay nhân vật trữ tình mong mỏi làm thế nào để khỏi đói rét, khỏi khổ. Vẻ đẹp tâm hồn ấy lấp lánh giá trị nhân đạo thiết thực.
– Bài 6: Chúng ta bắt gặp cánh “hoa đào lả tả" và sóng nước hồ Bi-oa. Hoa đào lả tả hoa rụng báo hiệu mùa xuân ở Nhật Bản đã qua. Đây là thời kì chuyển giao mùa.
Cái nhỏ bé nhất, đơn sơ nhất, tưởng như không có sinh linh nhưng cũng vẫn mang trong mình mối tương quan giao hòa, chuyển hóa của vũ trụ. Một cánh hoa đào mỏng tang nhỏ xíu cũng khiến hồ Bi-oa nổi sóng
– Bài 7: Ta bắt gặp "tiếng ve ngân”, đặc trưng của mùa hè. Sự liên tưởng về giao mùa được hòa cảm trong cái nhìn, sự cảm giao và lắng nghe âm thanh. Xúc cảm ấy củạ nhà thơ thật tinh tế. Hình ảnh thơ rất đẹp: Hoa đào, hồ Bi-oa và tiếngve ngân không chỉ lan tỏa trong không gian mà còn thấm sâu vào đá, đang vật chất biểu tượng cho tính cứng cỏi. Câu thơ đằm trong cảm nhận sâu sắc, thắm trong cái tình của con người với thiên nhiên, tạo vật.
– Bài 8: Bản chất Ba-sô rất thích đi lãng du (đi nhiều nơi trên đất nước). Con người đã đến lúc này (bài thơ này tác giả sáng tác trước khi mất) còn có khát vọng gì nữa khi gần đất xa trời rồi. Không! Ba-sô vẫn có khát vọng sống để đi tiếp cuộc du hành. Khát vọng sống không phải để hưởng thụ mà thực hiện sở thích của mình, du hành trên đất nước. Lạc quan biết bao! Bài thơ không chỉ nói lên tình yêu của nhà thơ với cuộc sống mà còn là sứ mệnh của thi nhân. Yêu đời, yêu người, yêu cái đẹp, Ba-sô sẽ còn mãi làm thơ về cuộc đời này ngay cả khi mộng hồn đã rời sang thế giới bên kia.
Nguồn: thêm: Em hiểu như thế nào về cốt và cách của thơ mà Viên Mai nói đến? Giữa cốt và cách, cái nào là yếu tố quyết định? Nêu ví dụ để chứng minh.
|
Baso's Haiku poem.
Instruct
Masuo Baso (1644 - 1694), Japanese master poet of Haiku poetry. He came from a family of Samurai warriors of I-ga.
Hai-ku is a genre of traditional Japanese poetry. This is the shortest poem in the world, with only 17 syllables. In Japanese, those 17 syllables are written in a row, but when transcribed into Latin, they are broken into three segments in the order 5/7/5. In particular, there are songs with 19 syllables.
The three lines (paragraphs) of Hai Cu poetry have different functions:
– The first line is used for introduction.
– The second line continues the above idea and prepares for the third line.
– Third line: Concludes the four poems, but is often never clear and meaningful, but must open up emotional reflections for the reader.
In every poem there must be precious words (words indicating seasons).
Each poem is a moment of scenery and a peak of emotion.
Haiku poetry always has content related to nature and offers philosophies about nature.
– Lesson 1: feelings about Edo (Edo is today's Tokyo). Ten seasons of fog have passed away, that is, ten long years that the poet lived in Edo. Once when he returned to his ancestral homeland, he could never forget Edo. Ten seasons of dew evoke the cold feelings of those far from home. Yet when I return home, I miss Edo. Love for the homeland has merged into one.
– Lesson 2: Kioto is where Baso lived in his youth (1666 – 1672). Then he moved to Edo. Twenty years later, when he returned to Kiyot, he heard the sound of the rhododendron singing and wrote this poem. The poem is a nostalgia through the sounds of rhododendrons, summer birds, anxious sounds calling back memories of a time of youth. It is a heartbreaking sound mixed with sadness and vague joy about a distant time. Baso's poetry made a romantic impression. Hold poetry also floats in the silent affirmation of nostalgia and nostalgia.
– Lesson 3: A clump of silver hair, the remaining relic of his mother, held in Ba-so's hand, tears welled in his eyes. My heart feels sad when my mother is no longer there. The image of "autumn bones" vaguely evokes the sadness and emptiness because the work of birth and upbringing has not been rewarded. Motherly love makes readers cry.
See more: My feelings when reading The Strange Story of the Fishing Boat House quoted in Thanh Tong's manuscript.– Lesson 4: The reader encounters the sadness of the world. The parents gave birth to a child that could not be raised because of poverty, so they abandoned him in the deep forest. That truth goes into poetry and evokes so much sadness. The howling of a gibbon is not scary but "heartbreaking", not sadness but human pain. The sound of a child "crying" because of being abandoned is not because his parents are cruel, but because he is miserable and unable to raise them. That sadness is sent into the numbing autumn wind. That sadness has elevated the value of Baso's poetry to the pinnacle of humanitarianism. What is worth mentioning is that in that sadness there is the pain of life, even more painful because "pain in life cannot save life".
– Lesson 5: The beauty of desire in the poet's soul. When it rains, a little monkey secretly wishes (desires) to have a raincoat to cover the rain. Borrowing rain to talk about a certain reality in life (hunger, poverty, cold, for example). That little monkey is a human life, a human life and a common person in life. The monkey hopes or the lyrical character wishes to avoid hunger, cold, and suffering. The beauty of that soul sparkles with practical humanitarian values.
– Lesson 6: We see the petals of "peach blossoms" and the waves of Lake Bi-oa. The falling peach blossoms signal that spring has passed in Japan. This is the transition period.
The smallest, simplest thing, seemingly devoid of life, still carries within itself the relationship of harmony and transformation of the universe. A tiny, thin peach petal can make Lake Bi-oa ripple
– Lesson 7: We encounter "the sound of cicadas", characteristic of summer. The association of changing seasons is harmonized in the look, sympathy and listening to the sound. The poet's emotion is very delicate. The poetic images are very beautiful: Peach blossoms, Bi-oa lake and the sound of civets not only permeate the space but also penetrate deep into the rocks, symbolizing the strength of the poem. passionate about human love for nature and creation.
– Lesson 8: By nature, Ba-so loves to wander (travel to many places around the country). People have come to this point (the author composed this poem before his death), what other aspirations do people have when they are so close to earth and far from heaven? Are not! Ba-so still has the desire to live to continue his journey. My desire to live is not to enjoy myself but to fulfill my hobbies and travel around the country. How optimistic! The poem not only speaks of the poet's love for life but also the poet's mission. Loving life, loving people, loving beauty, Baso will forever write poetry about this life even after his dream has left the other world.
Source: more: How do you understand the essence and style of poetry that Vien Mai talks about? Between essence and style, which is the deciding factor? Give examples to demonstrate.
|
Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết trong khát vọng về một hạnh phúc đời thường
Hướng dẫn
1. Mở bài
Giới thiệu và nêu vấn đề: Thơ Xuân Quỳnh đậm chất nữ tính, hồn hậu, chân thực và da diết niềm khát khao hạnh phúc đời thường. Tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng là lời "tự hát" bộc lô niềm khao khát nhận thức về tình yêu, về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
2. Thân bài
Có thể phân tích bài thơ theo những cách khác nhau, song cần nêu bật được những nội dung sau:
– Vẻ đẹp nữ tính trong bài thơ Sóng: thể hiện qua những cảm nhận riêng về sóng, những tâm tư da diết về tình yêu.
+ Ngay từ khổ thơ đầu, Xuân Quỳnh đã thể hiện những phát hiện về sóng. Đó là sự đối nghịch giữa dữ dội/ dịu êm, ồn ào/lặng lẽ. Nhưng đối nghịch mà lại đồng nhất, đồng hiện: Dữ dội và dịu êm – Ôn ào và lặng lẽ. Con sóng của Xuân Quỳnh ngầm chứa một nội lực thật mạnh mẽ, song cũng đầy bí ẩn: Sông không hiểu nổi mình -Sóng tìm ra tận bể. Giai điệu thơ ngay từ đầu đã thật da diết và cháy bỏng, với niềm khát khao được khám phá, được trải lòng mình cùng sóng.
+ Sự cắt nghĩa đầy băn khoăn về tình yêu, về bản thể trong tình yêu cũng mang đậm chất nữ tính. Những từ ngữ: bắt đầu từ đâu, khi nào, không biết nữa,… là lời tự thú với lòng mình về sự bí ẩn đến diệu kì của tình yêu. Cũng như sóng, như gió trước biển cả, tình yêu là sức mạnh tự nhiên, vẻ đẹp tự nhiên, sâu xa và bí ẩn như tự nhiên. Câu thơ "Em cũng không biết nữa" như một cái lắc đầu nũng nịu nhưng không che giấu được niềm hạnh phúc mà người phụ nữ đang có, đang tận hưởng.
Xem thêm: Môn Tập làm văn tiểu học khó thật!– Những khát khao da diết về hạnh phúc đời thường:
+ Sóng và em là hình tượng sóng đôi có sự tương đồng, gặp gỡ ở chỗ cùng không nguôi thương nhớ, tương tư; cùng thuỷ chung chờ đợi, hi vọng, tin tưởng, thao thức, trở trăn: "Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức". Và dẫu con sóng có gặp những truân chuyên, trắc trở của đời thường khi phải xuôi bắc – ngược nam thì nó vẫn vượt qua tất cả để "Hướng về anh – một phương".
+ Sóng và em cùng cháy lên niềm khao khát hoá thân, hoà nhập vào thế giới vĩnh hằng, bất tử của "biển lớn tình yêu" để "ngàn năm còn vỗ". Không gian mênh mông, thời gian vô tận, vậy mà con sóng vẫn ấm áp vì được vỗ về, che chở trong "biển lớn tình yêu". Và niềm khát khao đó đã trở thành lời "tự hát" không chỉ cho riêng Xuân Quỳnh mà cho tất cả những tâm hồn đang yêu.
– Nhận xét, đánh giá về vẻ đẹp của thơ Xuân Quỳnh qua bài thơ Sóng.
+ Với bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh đã tạo được sự kết nối rất đẹp giữa thơ ca truyền thống và thơ ca hiện đại. Những lời ca muôn đời của các cô gái gửi gắm trong các bài ca dao – dân ca đã được Xuân Quỳnh tiếp nối và làm mới thêm qua những vần thơ vừa đằm thắm vừa da diết suy tư.
+ Tâm hồn giàu nữ tính, khao khát tình yêu và hạnh phúc của Xuân Quỳnh được thổ hiện qua những câu thơ 5 chữ, với những sáng tạo nghệ thuật về hình tượng sóng (những ẩn dụ, liên tưởng, biểu tượng,…) đã thể hiện những sắc điệu phong phú của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận, ấn tượng riêng của cá nhân về vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh qua bài thơ.
Nguồn: thêm: Lập dàn ý bài văn tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong vườn cây (hoặc trong công viên, trên cánh đồng, trên nương rẫy, đường phố)
|
Xuan Quynh's poetry is imbued with feminine beauty and is the voice of a soul rich in compassion, kindness, honesty, and always passionate in its desire for everyday happiness.
Instruct
1. Open the lesson
Introduction and problem statement: Xuan Quynh's poetry is feminine, soulful, honest and passionate about the desire for happiness in everyday life. Typical of the soul of Xuan Quynh's poetry, the poem "Song" is a "self-sing" that expresses the desire for awareness of love and the soul of a woman in love.
2. Body of the article
The poem can be analyzed in different ways, but it is necessary to highlight the following contents:
– Feminine beauty in the poem Waves: expressed through personal feelings about waves, deep thoughts about love.
+ Right from the first stanza, Xuan Quynh expressed his discoveries about waves. It is the contrast between fierce/soft, loud/quiet. But opposite but identical, present at the same time: Intense and gentle - Noisy and quiet. Xuan Quynh's waves secretly contain a powerful inner force, but are also full of mystery: The river cannot understand itself - The wave finds its way to the sea. The poem's melody from the beginning was passionate and burning, with the desire to discover and share one's heart with the waves.
+ The anxious explanation about love and the essence of love is also deeply feminine. The words: where to start, when, don't know,... are a confession to my heart about the wonderful mystery of love. Like the waves, like the wind before the sea, love is a natural force, a natural beauty, as deep and mysterious as nature. The verse "I don't know anymore" is like a pampering shake of the head but it cannot hide the happiness that the woman is having and enjoying.
See more: Elementary school writing practice is really difficult!– Desperate desires for everyday happiness:
+ Song and you are images of two pairs with similarities, meeting in the same place of endless love and affection; faithfully waiting, hoping, believing, restless, wondering: "My heart misses you - Even in my dreams and awake". And even though the wave encounters the troubles and obstacles of everyday life when it has to go north and south, it still overcomes everything to "Towards you - one direction".
+ The waves and you both burn with the desire to incarnate and integrate into the eternal, immortal world of the "great sea of love" so that "it will still be crashing for a thousand years". Space is vast, time is endless, yet the waves are still warm because they are comforted and protected in the "big sea of love". And that desire has become a "self-sing" not only for Xuan Quynh but for all souls in love.
– Comment and evaluate the beauty of Xuan Quynh's poetry through the poem Waves.
+ With the poem Waves, Xuan Quynh created a beautiful connection between traditional poetry and modern poetry. The eternal lyrics of the girls engraved in folk and folk songs were continued and renewed by Xuan Quynh through poems that are both loving and thoughtful.
+ Xuan Quynh's feminine soul, longing for love and happiness is expressed through 5-word poems, with artistic creations of wave images (metaphors, associations, symbols,...) expressed the rich tones of a woman's soul in love.
3. Conclusion
Express personal feelings and impressions about the beauty of Xuan Quynh's soul through the poem.
Source: more: Outline an essay describing a morning (or noon, or afternoon) scene in a garden (or in a park, in a field, in a field, on a street)
|
Thơ Đường và bài Buổi sớm mùa xuân của Mạnh Hạo Nhiên qua một số bản dịch.
Hướng dẫn
Thơ Đường rất kín đáo, ít khi tả thẳng mà mượn cái này để tả cái khác “Họa vân lộ nguyệt ” (vẽ mây nẩy trăng) là bút pháp của các nhà thơ Đường thường dùng. Người đọc phải để ý đến bút pháp này, mà người dịch lại càng phải để tâm hơn mới dịch được cái độc đáo đó.
Như bài ‘‘Xuân hiểu ” của Mạnh Hạo Nhiên:
Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phongvũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu?
Trần Trọng San dịch:
Giấc xuân quên khuấy sáng,
Đây đó tiếng chim ca.
Đêm qua trời mưa gió,
Làm rơi mấy đoá hoa.
Nguyễn Thế Nức dịch:
Đêm qua một giấc mơ màng,
Tỉnh ra chim đã kêu vangquanh nhà.
Gió mưa một trận đêm qua,
Làm cho hoa rụngbiết là đườngbao
Ngô Tất Tố dịch:
Giấc xuân không biết sáng trời,
Tiếng chim nghe đã mái ngoài đua kêu.
Đêm qua mưa gió dập dền,
Biết rằng hoa rụngít nhiều sao đây.
Bài thơ tả cảnh nhàn nhã của một ẩn sĩ trong buổi sáng mùa xuân. Từ đêm hôm qua đến sáng hôm nay, tác giả vẫn chưa bước xuống chân giường, vẫn còn hưởng thú nằm trong chăn. Mọi diễn tiến xung quanh đều do thính quan cảm nhận: nghe tiếng chim kêu biết trời đã sáng, mơ hồ nghe có tiếng gió mưa đêm qua chỉ là nghe chứ không phải là thấy. Chỉ có bản dịch của Tương Như cho thấy được hai lần nghe của nguyên tác.
Giấc xuân sáng chẳng biết,
Khắp nơi chim ríu rít.
Đêm nghe tiếnggió mưa,
Hoa rụng nhiều hay ít?
Nguyễn Thị Tuyết Hạnh
Nguồn: thêm: Nêu cảm nghĩ của em về một người thân yêu
|
Tang poetry and Spring Morning by Manh Hao Nhien through several translations.
Instruct
Tang poetry is very discreet, rarely describing directly, but borrows one thing to describe another. "Painting clouds and moon" is the pen method often used by Tang poets. Readers must pay attention to this style, and translators must pay even more attention to translate that uniqueness.
Like the article “Spring Understands” by Manh Hao Nhien:
Xuan Mien suddenly understood,
The land of literature.
Da Lai Phong Vu Thanh,
Tri tri flower multi-minimum?
Translated by Tran Trong San:
A forgotten spring dream,
Here and there the sound of birds singing.
Last night it was windy and rainy,
Dropped some flowers.
Translated by Nguyen The Nuc:
Last night was a dream,
When I woke up, birds were chirping around the house.
It was windy and rainy last night,
Make the flowers fall, know the way
Ngo Tat To translated:
The dream of spring does not know the morning sky,
The sound of birds chirping outside can be heard.
Last night it was raining and windy,
I know how little the flowers fall.
The poem describes the leisurely scene of a hermit on a spring morning. From last night to this morning, the author has not yet stepped off the foot of the bed, still enjoying lying under the blanket. All developments around are sensed by the senses: hearing the chirping of birds to know that it is morning, vaguely hearing the sound of wind and rain last night is just hearing, not seeing. Only Tuong Nhu's translation shows two hearings of the original.
The morning spring dream I don't know,
Everywhere birds chirping.
At night, I heard the sound of wind and rain,
Are the flowers falling more or less?
Nguyen Thi Tuyet Hanh
Source: more: State your feelings about a loved one
|
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Người có tính tự chủ là người luôn hành động theo ý mình mà không cần quan tâm đến hoàn cảnh và những người xung quanh. Anh (chị) có tán thành ý kiến trên không? Hãy cùng các bạn thảo luận và bày tỏ quan điểm của mình.
Từ xưa, con người đã được coi là trung tâm của vũ trụ. Con người xuất hiện với vai trò là làm chủ và cải biến thế giới. Một trong những phẩm chất nổi bật đáng tự hào của con người là tính tự chủ. Nhờ có tính tự chủ mà con người đã sáng tạo ra nhiều vẻ đẹp khác thường cho cuộc sống. Tuy nhiên, có khá nhiều ý kiến khác nhau xung quanh tính tự chủ. Có ý kiến cho rằng: Người có tính tự chủ là người luôn hành động theo ý mình mà không cần quan tâm đến hoàn cảnh và những người xung quanh. Xem xét, phân tích một cách khách quan, chúng ta thấy ý kiến trên có phần đúng và phần chưa đúng.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu thế nào là người cố tính tự chủ? Tự chủ là tự điều hành, quản lí mọi công việc của mình, không bị ai chi phối. Từ xưa, con người đã đánh giá cao vai trò của mình và đặt ngang hàng với trời đất (thiên – địa – nhân). Như vậy, về bản chất, con người từ khi mới xuất hiện đã có tính tự chủ rất cao. Tính tự chủ của con người là tính tự lập trong cuộc sống. Đối với tự nhiên, con người luôn tìm cách tiếp cận, thăm dò, khám phá, giải thích các hiện tượng thời tiết, khí hậu, tìm cách chế ngự thiên tai như bão lụt, hạn hán, sóng thần, núi lửa, băng giá… Trong lao động sản xuất, con người tự chủ luôn tìm cách chung sống hòa thuận, đoàn kết, khắc phục khó khăn để làm ra của cải. Trong chiến đấu, con người tự chủ luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ với đồng chí, đồng đội để chiến thắng kẻ thù. Trong đời sống văn hóa, tinh thần, con người tự chủ luôn biết lắng nghe để tìm sự đồng tình, đồng điệu trong tâm hồn bạn bè, tri âm, tri kỉ.
Tính tự chủ của con người có vai trò to lớn trong cuộc sống tập thể và cá nhân. Người có tính tự chủ cao nếu ở cương vị của một thủ lĩnh hoặc người lãnh đạo, người chỉ huy, người quản lí… thường đưa ra những đường lối, chính sách, quyết định đúng đắn, sáng suốt, kịp thời, có tính hiệu quả cao và có ảnh hưởng to lớn, tạo ra những bước ngoặt trong cuộc sống của bản thân và tập thể, cộng đồng xã hội.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc ta đã có biết bao gương sáng về những con người có tính tự chủ cao. Từ xa xưa, để mở mang giang sơn gấm vóc, Lạc Long Quân và Âu Cơ đã quyết định chia đôi một trăm người con, nửa lên rừng, nửa xuống biển lập nghiệp. Để có một kinh đô ngàn năm văn hiến như Hà Nội ngày nay, vua Lý Thái Tổ đã táo bạo ra quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Quyết định sáng suốt đó đến tận bây giờ vẫn còn làm cho hàng triệu con tim đồng tình và thán phục. Trong kháng chiến chống quân Nguyên, mấy lần Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn đã quyết định bỏ Thăng Long trong tình trạng vườn không nhà trống dể dụ địch, sau đó tổng phản công chiếm lại kinh đô. Trong kháng chiến chống quân Thanh, Quang Trung Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân thần tốc, quyết định bí mật tấn công quân giặc vào mồng năm Tết để làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại 1954, đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã quyết định kéo pháo vào trận địa rồi lại kéo pháo ra để nghi binh, đánh lừa quân địch, nhờ đó mà làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu…
Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ lớp 11Trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay, có rất nhiều gương sáng về tính tự chủ. Đó là những kỹ sư, cán bộ, công nhân dám nghĩ dám làm, không sợ trách nhiệm, biết xả thân vì việc lớn của đất nước, của xã hội. Họ đã xây dựng thành công nhiều công trình vĩ đại như những giàn khoan dầu trên biển Đông, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử, thủy điện sông Đà, Trị An, Yaly, đường dây điện cao thế 500 kilôvôn,…
Đặc điểm nổi bật của những con người có tính tự chủ cao là trong tâm hồn họ luôn cháy sáng ngọn lửa của niềm tin và nghị lực. Họ có ý chí và sự quyết đoán cao, nhưng không phải vì thế mà họ không cần quan tâm đến hoàn cảnh và những người xung quanh.
Như trên đã nói, người tự chủ là người có tính quyết đoán. Nhưng để có sự quyết đoán, họ luôn luôn lắng nghe và tham khảo ý kiến của mọi người, của tập thể. Vì chỉ có lắng nghe sự góp ý của số đông thì họ mới có đủ thông tin và dữ liệu để xử lý, xem xét vấn đề một cách kĩ càng, thấu đáo, từ đó quyết định của họ mới mang tính khách quan, khả thi, công việc mới tiến triển thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Sử sách còn ghi chuyện vua Lý Thái Tổ trước khi quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (1010) đã hỏi ý kiến của bá quan văn võ trong triều và cả dân chúng. Trần Hưng Đạo cùng vua Trần mở hội nghị Diên Hồng để hỏi ý kiến các vị bô lão trong cả nước và tướng sĩ trước khi mở chiến dịch đánh quân Nguyên. Ngày nay, Quốc hội và Đảng ta cũng thường xuyên trưng cầu ý kiến toàn dân trước khi ban bố một chính sách quan trọng nào đó.
Lắng nghe ý kiến mọi người là điều cần thiết và bổ ích mà bất cứ ai có tính tự chủ đều nên làm. Cho nên ý kiến cho rằng: Người có tính tự chủ là người luôn hành động theo ý mình mà không cần quan tâm đến hoàn cảnh và những người xung quanh có phần cực đoan, phiến diện.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn có những người luôn luôn và chỉ khăng khăng làm theo ý mình. Đó không phải là tự chủ mà là độc đoán, chủ quan, duy ý chí. Trong một quốc gia, có người tự cho mình cái quyền đứng trên Hiến pháp pháp luật để tìm mọi cách đục khoét vơ vét cho bản thân. Trong cơ quan, có nhiều người vì quyền lực cá nhân mà bất chấp dư luận, coi thường tổ chức. Trong một gia đình, có người chỉ nghĩ đến quyền lợi bản thân nên đưa ra những quyết định sai trái, dẫn tới đổ vỡ hạnh phúc. Đó là những kẻ coi trời bằng vung, trước sau cũng bị xã hội đào thải, lên án.
Như vậy, đã là người có tính tự chủ thì phải có sự hiểu biết và tôn trọng mọi người, lấy sức mạnh tập thể bồi đắp cho sức mạnh của bản thân. Đó là phương châm sống đúng đắn, hợp thời:
Con người muốn sống con ơi!
Phải yêu đồng chí yêu người anh em.
(Tố Hữu)
Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, con người có tính tự chủ cần phải có sự liên kết, phối hợp, chia sẻ với cộng đồng hơn bao giờ hết. Những người ở vị trí lãnh đạo, càng phải hiểu rõ điều đó hơn ai hết để tránh những quyết định chủ quan, sai lầm, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc cho dân, cho nước.
Xem thêm: Phân tích hình tượng người nông dân trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
|
Topic: There is an opinion that: A person with autonomy is someone who always acts according to their own will without paying attention to the circumstances and people around them. Do you agree with the above opinion? Let's discuss and express our opinions.
Since ancient times, humans have been considered the center of the universe. Humans appear with the role of mastering and transforming the world. One of the outstanding and proud qualities of humans is self-control. Thanks to self-control, people have created many unusual beauties for life. However, there are many different opinions about autonomy. There is an opinion that: A person with autonomy is someone who always acts according to their own will without paying attention to the circumstances and people around them. Looking and analyzing objectively, we see that the above opinion is partly correct and partly incorrect.
First of all, we need to find out what a self-controlled person is? Autonomy means running and managing all your work yourself, without being influenced by anyone. Since ancient times, people have highly appreciated their role and placed it on an equal footing with heaven and earth (heaven - earth - people). Thus, in essence, since the very beginning, humans have had a very high degree of autonomy. Human autonomy is independence in life. Regarding nature, people always seek to approach, explore, discover, and explain weather and climate phenomena, and find ways to control natural disasters such as storms, floods, droughts, tsunamis, volcanoes, and ice. price... In productive labor, autonomous people always find ways to live together in harmony, solidarity, and overcome difficulties to create wealth. In combat, self-reliant people always stand side by side, sharing the same sufferings with comrades and comrades to defeat the enemy. In cultural and spiritual life, autonomous people always know how to listen to find agreement and harmony in the souls of friends, confidants, and confidants.
Human autonomy plays a huge role in collective and individual life. A person with high autonomy if in the position of a leader or leader, commander, manager... often makes correct, wise, timely, and effective guidelines, policies, and decisions. Highly effective and has great influence, creating turning points in the lives of individuals, groups, and social communities.
Over thousands of years of history, our nation has had many shining examples of people with high self-control. Since ancient times, in order to expand the country, Lac Long Quan and Au Co decided to divide their hundred children into two, half to go to the forest and half to go to the sea to start a business. To have a capital of a thousand years of civilization like today's Hanoi, King Ly Thai To boldly decided to move the capital from Hoa Lu to Thang Long. That wise decision still makes millions of hearts agree and admire until now. During the resistance war against the Yuan army, Hung Dao king Tran Quoc Tuan several times decided to leave Thang Long without a house to lure the enemy, then counter-attacked to recapture the capital. During the resistance war against the Qing army, Quang Trung Nguyen Hue directly commanded the speedy operation, deciding to secretly attack the enemy on the first day of Tet to achieve the historic Dong Da victory. During the great Dien Bien Phu campaign in 1954, General Vo Nguyen Giap also decided to pull artillery into the battlefield and then pull the artillery out again to create diversions and deceive the enemy, thereby achieving the shocking Dien Bien Phu victory. globe…
See more: Feelings about the poem This Thon Vi Da grade 11 In the cause of building the country today, there are many shining examples of self-control. These are engineers, officers, and workers who dare to think and do things, are not afraid of responsibility, and know how to sacrifice themselves for the great things of the country and society. They have successfully built many great projects such as oil rigs in the East Sea, the historic Ho Chi Minh route, hydroelectric plants of Da River, Tri An, Yaly, 500 kilovolt high voltage power lines,...
The outstanding characteristic of people with high self-control is that the fire of faith and determination always burns in their souls. They have high will and determination, but that doesn't mean they don't need to care about circumstances and people around them.
As mentioned above, a self-controlled person is an assertive person. But to be decisive, they always listen and consult everyone's and the collective's opinions. Because only by listening to the opinions of the majority will they have enough information and data to process and consider the issue carefully and thoroughly, from which their decisions will be objective and feasible. The new work progresses smoothly and achieves high efficiency.
History books also record the story of King Ly Thai To, before deciding to move the capital from Hoa Lu to Thang Long (1010), asking for opinions from civil and martial arts officials in the court and the people. Tran Hung Dao and King Tran opened the Dien Hong conference to consult with elders throughout the country and generals before launching a campaign to fight the Yuan army. Today, the National Assembly and our Party also regularly consult with the entire population before announcing an important policy.
Listening to people's opinions is a necessary and useful thing that anyone with self-control should do. Therefore, the opinion that: A person with self-control is someone who always acts according to their own will without paying attention to the circumstances and people around them is somewhat extreme and one-sided.
However, today there are still people who always and only insist on doing what they want. That is not autonomy but authoritarianism, subjectivity, and willpower. In a country, there are people who think they have the right to stand above the Constitution and the law to find ways to exploit things for themselves. In the agency, there are many people who, because of their personal power, ignore public opinion and despise the organization. In a family, some people only think about their own interests and make wrong decisions, leading to broken happiness. These are people who take the sky seriously and are always eliminated and condemned by society.
Thus, to be a person with autonomy, one must have understanding and respect for everyone, and use collective strength to build up one's own strength. That is a correct and timely life motto:
People want to live, my child!
We must love our comrades and our brothers.
(To Huu)
In the current trend of global integration, autonomous people need to connect, coordinate, and share with the community more than ever. Those in leadership positions must understand this more clearly than anyone else to avoid subjective and erroneous decisions, leading to unfortunate consequences for the people and the country.
See more: Analysis of the image of the farmer in the Can Giuoc martyr's funeral
|
Thầy giáo Ha – men (văn bản Buổi học cuối cùng An-phông-xơ Đô-đê) trong buổi học cuối cùng có gì khác. Hãy tả lại thầy giáo Ha men trong buổi học ấy
Gợi ý
Trong buổi học cuối cùng, hình ảnh thầy Ha-men (văn bản Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê) hiện lên thật khác với những ngày thường.
Thầy mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục điểm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. Đó là bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng. Mái tóc đã lốm đốm hoa râm của thầy được chải gọn gàng. Thầy đi đôi giày đen rất hợp với sự trang trọng của bộ lễ phục.
Thầy chuẩn bị bài học rất chu đáo. Giáo án được viết bằng thứ mực đắt tiền; những dòng chữ nghiêng nghiêng, rõ ràng, nắn nót, kẻ tiêu đề cẩn thận nổi bật trên nền giấy trắng tinh. Thầy giảng bài bằng giọng nói dịu dàng; lời nhắc nhở của thầy cũng hết sức nhã nhặn, trong suốt buổi học người không giận dữ quát mắng học sinh một lời nào. Ngay cả với cậu bé đến muộn Phrăng, thầy cũng chỉ nhẹ nhàng mời vào lớp. Tất cả học sinh trong lớp đều thấy rằng: Chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng bài như vậy.
Trong bài giảng của mình, thầy luôn ca ngợi tiếng Pháp – tiếng nói dân tộc – và tự phe bình mình cũng như mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Mỗi lúc thầy nói đến những điều đó, giọng thầy như nghẹn lại, lạc đi và gương mặt hằn lên những nếp nhăn đau đớn. Thầy còn nhấn mạnh rằng, chính tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa trong chốn lao tù, giúp mỗi người tù vượt tù "vượt ngục tinh thần", nuôi dưỡng lòng yêu nước.Xem thêm: Nền văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 là “nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn” Anh (chị) hãy trình bày ý kiến của mình về nhận định trênBuổi học kết thúc, những tiếng kèn hiệu khiến thầy Ha-men xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy đã viết thật to lên bảng: "Nước Pháp muôn năm”.
Những thay đổi của thầy Ha-men trong buổi học cuối cùng đã khẳng định một điều chắc chắn: Thầy là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu nước sâu sắc.
Vanmau.edu.vn
|
Teacher Ha-men (text Alphonse Dode's Last Lesson) is different in the last lesson. Describe teacher Ha Men in that lesson
Suggest
During the last lesson, the image of teacher Hamen (text The Last Lesson by Alphonse Dode) appeared very different from normal days.
The teacher wore a green robe decorated with finely folded lotus leaves and a round hat made of embroidered black silk. It is a formal outfit only used on special days when there are inspections or rewards. The teacher's gray hair was neatly combed. The teacher wore black shoes that matched the formality of his formal attire.
The teacher prepared the lesson very carefully. Lesson plans are written in expensive ink; The lines of italic, clear, neat, carefully drawn titles stand out on the pure white paper background. The teacher lectures in a gentle voice; The teacher's reminders were also very polite. During the lesson, he did not angrily yell at the students. Even for the late boy Phran, the teacher just gently invited him into class. All students in the class saw that: Never before had the teacher taught a lesson so patiently.
In his lectures, he always praised French - the national language - and criticized himself and everyone else for sometimes neglecting learning and teaching French. Every time he said those things, his voice seemed choked and lost and his face showed wrinkles of pain. He also emphasized that French is the weapon, the key in prison, helping each prisoner escape "spiritually", nurturing patriotism. See more: Vietnamese literature after the Revolution The August 1945 network is "literature mainly with epic tendencies and romantic inspiration." Please present your opinion on the above statement. The class ended, the trumpet sounds made teacher Ha-men Very emotional, pale, choked up, unable to finish a sentence. He wrote loudly on the board: "Long live France."
Teacher Ha-men's changes in the last lesson confirmed one thing for sure: He is a person who loves teaching, loves his mother tongue, and is deeply patriotic.
Vanmau.edu.vn
|
Thế nào gọi là tự trọng? Tự trọng quan hệ đối với cách ứng xử như thế nào
Gợi ý
Tự trọng là gì? Là lòng tự quý mình, tự coi mình có giá trị.
Trong vũ trụ, chỉ riêng loài người biết mình có đời sôhg tinh thần cao vượt lên trên hết vạn vật; có lí trí phân biệt thị phi, thiện ác, quan niệm lí tưởng tận mĩ tận thiện, để ngày ngày hướng về chỗ chí thiện ấy mà cố sức tiến lên. Lại có ý chí nghị lực, tự do chọn lấy đường hành động ở đời, biết mưu cuộc sinh tồn tiến thủ bằng cách lợi dụng, phát triển các khả năng; con người có và biết rằng có những ưu điểm nói trên này, thì tự nhiên nhận ra được giá trị của mình, và sinh lòng tự tôn tự trọng.
Lòng tự trọng không nên lẫn với tính tự kiêu, tự đắc, là tính xấu. Nhiều kẻ quá ỷ vào thông minh, tài đức chân thực hay tưởng tượng của họ rồi coi khinh người khác; lòng tự trọng, trái lại thường đi đôi với đức nhân hậu, khiêm nhường.
Cho nên người tự trọng không hề nghĩ một ý, làm một việc, nói một câu làm hạ giá mình đi; luôn luôn nhìn vào “con người lí tưởng” họ cẩn thận từng li, không bao giờ dám để vì một chút trễ nải hững hờ lùi xa ra, thụt lui xuống dưới trình độ họ đã vượt qua đến gần con người lí tưởng.Xem thêm: Truyện cổ tích là gì? Lòng tự trọng là động cơ cực kì quan hệ trong đời sống cá nhân và xã hội.
Đối với cá nhân, vì biết tự trọng, nên ta kìm hãm biết bao thú tính; ta cố sức làm nẩy nở các khả nàng tinh thần để xứng đáng là loài cao quý nhất trong vạn vật; ta không chịu hãm mình trong vòng ngu dốt, cũng không chịu để cho lương tâm hay tình cảm khô khan, nghèo nàn, tối tăm, thô bạo như con người nguyên thủy buổi sơ khai.
Lại cũng vì tự trọng, ta có đủ nghị lực chế ngự được nội tâm, khiến cho tình cảm phát ra trúng chỗ không mất thăng bằng; nhờ vậy ta sẽ tự luyện để ứng phó với cuộc đời, đi đến chỗ: “giàu sang không đắm đuối say mê, nghèo hèn không biến tiết, đổi lòng, gặp kẻ mạnh, không chịu uốn gối khom lưng”, tóm lại đứng trước mọi biến cố ở đời, đều ung dung đường hoàng.
Đối vơi mọi người trong xã hội, người tự trọng cẩn thận lời nói, cách cử chỉ, không a dua xiểm nịnh, cũng không cậy quyền hông hách, biết giữ lòng trung trực, hòa nhã, kính cẩn; tuy mình khỏe mà không hiếp kẻ yếu, chẳng thà chịu chết còn hơn để mất phẩm giá của mình.
Phải biết tự trọng! Đó là một điều cần thiết trong đạo sống với bản thân ta và đối với hết thảy mọi người! Riêng về phần người dân Việt Nam, lòng tự trọng lại quan hệ khác thường. Trong bao nhiêu năm nô lệ ta bị đè nén không dám ngửng cổ lên, kẻ có sức mạnh coi ta như tôi đòi, tự ta cũng nảy ra tâm lí, thái độ tự ti, tự hạ. Sự yếu đuôi về tinh thần ấy rất nguy hiểm, vì muốn tranh đấu thắng lợi để tạo nên một cuộc đời tốt đẹp thì đầu tiên phải tranh đâ’u bản thân, gây lòng tự tin: “chúng ta chỉ được hưởng những điều đáng hưởng”: nếu ta có bộ óc hèn nhát, còn mong tranh giành cùng người sao nổi?Xem thêm: Tóm tắt sử thi Ô-đi-xê của Hi Lạp Nhưng muốn tránh sự khinh rẻ ấy thì đừng có làm việc gì đáng bỉ, ta phải biết coi trọng và nhớ tới câu nói của nhà triết học Đức: “Hãy cư xử sao cho con người ở mình cũng như kẻ khác là cứu cánh chứ không là phương tiện”. Nếu trong toàn thể dân tộc, ai ai cũng hiểu đại nghĩa và biết tự trọng thì tất cả những mưu mô chia rẽ, xâm lược, những hành động bất công, áp bức, bóc lột còn có thể có nữa hay không?
Vanmau.edu.vn
|
What is called self-respect? How self-esteem is related to behavior
Suggest
What is self-esteem? It is self-esteem and self-esteem.
In the universe, only humans know that they have a high spiritual life that surpasses all things; To have reason to distinguish between good and evil, to conceive the ideal of perfection and perfection, to strive to move forward day by day towards that place of goodness. Having willpower, freedom to choose a path of action in life, knowing how to survive and advance by taking advantage of and developing abilities; People who have and know that they have the above mentioned advantages will naturally realize their value and develop self-respect.
Self-esteem should not be mixed with arrogance and arrogance, which are bad qualities. Many people rely too much on their real or imagined intelligence and virtue and look down on others; Self-esteem, on the contrary, often goes hand in hand with kindness and humility.
Therefore, a self-respecting person never thinks a single thought, does a single thing, or says a single sentence that degrades himself; always looking at the "ideal person" they are careful every inch, never daring to let the slightest delay indifferently back away, regress below the level they have surpassed to get close to the ideal person. See more: What is a fairy tale? Self-esteem is an extremely important motivator in personal and social life.
For individuals, because we know self-respect, we suppress many animalistic tendencies; I try my best to develop my spiritual abilities to be worthy of being the noblest of all things; We refuse to be trapped in ignorance, nor do we let our conscience or emotions become dry, poor, dark, or rough like primitive humans in the beginning.
Also because of self-respect, we have enough strength to control our inner thoughts, causing our emotions to be in the right place without losing balance; Thanks to that, we will train ourselves to cope with life, reaching the point: "we are rich and do not become infatuated with passion, when we are poor, we do not change our temper or change our hearts, when we meet strong people, we do not bend our knees and stoop", in short, we stand Before all events in life, be calm and dignified.
For everyone in society, self-respecting people are careful with their words and gestures, do not flatter, nor rely on authority to be overbearing, know how to maintain integrity, gentleness, and respect; Even though I'm strong, I don't rape the weak. I'd rather die than lose my dignity.
Must have self-respect! It is a necessary thing in the way of life for ourselves and for everyone! As for Vietnamese people, self-esteem is very different. For so many years as a slave, I was oppressed and did not dare to raise my neck. Those with power treated me like a servant. I myself also developed a mentality, an attitude of inferiority and self-deprecation. That mental weakness is very dangerous, because if we want to fight successfully to create a good life, we must first fight for ourselves and build self-confidence: "we only enjoy the things that are worthy of our lives." enjoy": if we have a cowardly mind, how can we still hope to compete with others? See also: Summary of the Greek epic Odyssey But if you want to avoid that contempt, don't do anything despicable. , we must know how to value and remember the saying of the German philosopher: "Behave in such a way that you and others are an end, not a means." If in the entire nation, everyone understood great righteousness and self-respect, would all the plots of division, invasion, unjust actions, oppression, and exploitation still be possible?
Vanmau.edu.vn
|
Thế nào là một tình bạn đẹp
Gợi ý
”Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên chùa”.
Từ cổ chí kim, tình bạn là thứ tình cảm cao đẹp luôn được con người trân trọng và gắng công gìn giữ, bồi đắp. Vậy thế nào là một tình bạn đẹp?
Tình bạn là thứ tình cảm được gây dựng trên cơ sở những đặc điểm chung giữa người này và người khác. Đó có thể là sở thích, năng khiếu, công việc,… nhưng thường tình đó là độ tuổi cùng những đặc điểm tương đồng về tâm lí, tính cách,…
Một tình bạn đẹp trước hết phải là một tình bạn được xây dựng trên cơ sở là sự đồng cảm, vô tư, không vụ lợi, tính toán. Điều đó có nghĩa là những người bạn đến với nhau vì những yếu tố khách quan: cùng giống nhau về tính cách, sở thích, tâm lí,… nên tìm đến nhau để sẻ chia, tâm sự. Một tình bạn xuất phát từ sự tính toán, vụ lợi đồng nghĩa với một tình bạn chết. Bởi vì khi người ta đến với nhau sau khi tính toán xem được gì từ nhau thì có nghĩa họ đang lợi dụng mối quan hệ của mình, và vì thế khi mối quan hệ lợi ích mất đi thì cái gọi là tình bạn giữa họ cũng tan thành hư ảo.
Trong một tình bạn đẹp, bạn bè đối xử với nhau chân thành, thân ái, có thiện ý, biết hi sinh cho nhau. Xuất phát từ sự vô tư khi đến với nhau, trong những hành động, cử chi của mình những người bạn luôn thể hiện thiện ý, tình thân ái đối với nhau, mong những điều tốt đẹp sẽ đến với bạn của mình. Đó có thể là một lời khen tặng hay một lời động viên dành cho bạn giúp bạn có động lực để phấn đấu. Đó cũng có thể là những ý kiến bênh vực bạn trước sự gièm pha, nghi ngờ sai của những người khác,… Hơn thế, thế hiện tình bạn cao đẹp, chân thành còn có những người bạn sẵn sàng hi sinh cho lợi ích của nhau.Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông trấn Vũ canh gà Thọ Xương”- văn lớp 7 Tuy vậy, bạn bè không có nghĩa là a dua theo những thói xấu của bạn. Ngược lại, cần phải biết đấu tranh với những cái xấu của nhau hướng nhau đến những điều tốt đẹp. Thấy bạn có những cách ứng xử thiếu văn hoá: nói năng thiếu lễ độ, văng tục, đánh cãi nhau,… hay có những biểu hiện tiêu cực như hút thuốc, trốn tiết, bỏ giờ,… một người bạn tốt phải là người biết 90 tránh những sai lầm ấy và hơn thế là đấu tranh, khuyên giải giúp bạn mình sửa chữa sai lầm.
Tình bạn là một trong những thứ tình cảm tự nhiên, thiêng liêng nhất của con người. Đặc biệt, những người học sinh càng cần xây dựng cho mình một tình bạn trong sáng, vô tư và cao đẹp.
Vanmau.edu.vn
|
What is a beautiful friendship?
Suggest
”Just left and met a good friend
It's as good as eating peaches at the temple."
From ancient times to modern times, friendship is a beautiful feeling that people always cherish and strive to preserve and cultivate. So what is a beautiful friendship?
Friendship is a feeling built on the basis of common characteristics between one person and another. It could be hobbies, talents, work,... but usually it's age and similar psychological, personality traits,...
A beautiful friendship must first of all be a friendship built on the basis of empathy, impartiality, disinterest, and calculation. That means friends come together because of objective factors: similar personalities, interests, psychology, etc., so they come to each other to share and confide. A friendship that comes from calculation and self-interest means a dead friendship. Because when people come together after calculating what they can get from each other, it means they are taking advantage of their relationship, and so when the beneficial relationship is lost, the so-called friendship between them is also lost. dissolve into nothingness.
In a beautiful friendship, friends treat each other sincerely, cordially, have good intentions, and know how to sacrifice for each other. Stemming from the impartiality when coming together, in their actions and gestures, friends always show goodwill and affection towards each other, hoping that good things will come to their friends. It can be a compliment or a word of encouragement for you to help you be motivated to strive. These can also be opinions that defend you against other people's slander, wrong suspicions, etc. Moreover, showing noble and sincere friendship, there are also friends who are willing to sacrifice for the benefit of others. see more: Expressing feelings about the folk song "The wind carries bamboo branches to la da, The sound of the town bell Vu soups Tho Xuong chicken" - grade 7 literature However, friends do not mean following one's bad habits. Friend. On the contrary, we need to know how to fight each other's bad things and guide each other to the good things. Seeing that you have uncultured behavior: speaking disrespectfully, swearing, arguing,... or showing negative signs such as smoking, skipping class, skipping class,... a good friend must be someone who Know 90 to avoid those mistakes and moreover, fight and advise to help your friend correct their mistakes.
Friendship is one of the most natural and sacred human feelings. In particular, students need to build for themselves a pure, carefree and beautiful friendship.
Vanmau.edu.vn
|
Thế nào là tiết kiệm? Tiết kiệm có ý nghĩa gì?
Gợi ý
Thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí
1) Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là "xem đồng tiền bằng cái trống", gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu; tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giữ vào việc tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo khoa học thì tiết kiệm là tích cực chứ không phải là tiêu cực.
2) Trong 80 năm nước ta bị đế quốc Pháp rồi đến đế quốc Nhật vơ vét hết, vì vậy mà kinh tế của nước ta nghèo nàn, lạc hậu. Nay chúng ta cần phải có một nền kinh tế khá để kháng chiến và kiến quốc. Muốn xây dựng nền kinh tế thì phải có tiền của để làm vốn. Muốn có vốn thì các nước tư bản dùng ba cách: vay mượn nước ngoài, ăn cướp của các thuộc địa, bóc lột nông dân, công nhân. Những cách đó chúng ta đều không thể làm được.
Chúng ta chỉ có cách là, một mặt tăng gia sản xuất, một mặt tiết kiệm để tích trữ thêm vốn cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của ta.
3) Chúng ta phải tiết kiệm thì giờ. Thí dụ việc gì trước kia làm 2 ngày, nay vì tổ chức sắp xếp khéo, năng suất cao, ta có thể làm trong một ngày là xong. Xem thêm: Ca dao xưa có bài: "Công cha như núi Thái Sơn ,Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con". Giải thích câu ca dao và lấy những nhân vật thiếu nhi trong văn học để chứng minh rằng: Các em vẫn luôn làmChúng ta phải tiết kiệm sức lao động. Thí dụ: việc gì trước kia phải dùng 10 người, nay ta phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng cao năng suất của mọi người, nhờ vậy chỉ dùng 5 người cũng làm được.
Chúng ta phải tiết kiệm tiền của. Việc gì trước kia phải dùng nhiều người, nhiều thì giờ, phải tốn 2 vạn đồng. Nay vì tiết kiệm được sức người và thời giờ, nguyên liệu cho nên chỉ tốn một vạn đồng là đủ.
Nói tóm lại: Chúng ta phải tìm cách sắp xếp tổ chức cho hợp để một người có thể làm việc như hai người, một ngày có thể làm việc của hai ngày, một đồng có thể dùng bằng hai đồng.
4) Tất cả mọi người đều phải tiết kiệm. Trước nhất là các cơ quan, các đơn vị bộ đội, các xí nghiệp. Có người nói: bộ đội chỉ lo thi đua đánh giặc, lập công, bộ đội không phải là cơ quan sản xuất thì tiết kiệm thế nào?
Trong quân đội có Quân nhu, Quân giới, Vận tải… là những cơ quan cần phải tiết kiệm. Thí dụ: trước kia đổ đồng mỗi chiến sĩ bắn 60 viên đạn mới hạ được một tên địch, nay vì luyện tập siêng năng, bắn khá, tính đổ đồng mỗi chiến sĩ chỉ bắn 10 viên đạn thì hạ một tên địch. Thế là chiến sĩ tiết kiệm được 80% đạn, do đó mà quân đội tiết kiệm được nguyên liệu và nhân công đúc đạn để chế tạo những vũ khí khác. Trước kia Cục vận tải phải chở 100 xe đạn, nay chỉ cần chở 20 xe, tiết kiệm được xe cộ và dầu mỡ, xe chạy ít thì đường sẽ phải chữa ít. Thế là tiết kiệm được dân công… Xem thêm: Em hiểu như thế nào về lời dạy của Bác Hồ dành cho học sinh chúng ta: "Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó" Trong các chiến dịch thu được nhiều chiến lợi phẩm (thuốc đạn, lương thực, súng ống), bộ đội biết quý trọng nó, tiết kiệm nó để dùng nó mà đánh lại giặc như thế cũng là tăng gia sản xuất.
Có người nói: các cơ quan, thí dụ cơ quan tư pháp, ngoài việc tăng gia để tự túc thì có gì mà tiết kiệm?
Cơ quan nào cũng cần và cũng có thể tiết kiệm được. Một thí dụ: Cơ quan nào cũng dùng phong bì, nếu mỗi cơ quan đều tiết kiệm, chiếc phong bì dùng hai, ba lần thì mỗi năm Chính phủ có thể tiết kiệm được hàng chục tấn giấy. Nếu cán bộ tư pháp nâng cao năng suất làm việc mau chóng thì sẽ giúp cho những đồng bào có việc đến tư pháp tiết kiệm được ngày giờ để tăng gia sản xuất…
Hồ Chí Minh.
(Trích bài Thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu – 1962).
Vanmau.edu.vn
|
What is savings? What does saving mean?
Suggest
Practice thrift and fight against embezzlement and waste
1) Saving is not being stingy, it is not "seeing money as a drum", when you encounter something worth doing but don't do it, or something worth spending but don't spend it; Saving does not mean forcing soldiers, officials and people to fast or not to eat. On the contrary, saving is to keep increased production, but increasing production is to raise the living standards of soldiers, officers and people. Scientifically speaking, saving is positive, not negative.
2) For 80 years, our country was completely exploited by the French empire and then by the Japanese empire, so our country's economy was poor and backward. Now we need to have a decent economy to fight the war and build the country. If you want to build an economy, you must have money as capital. To get capital, capitalist countries use three ways: borrowing from abroad, robbing colonies, and exploiting farmers and workers. We cannot do those things.
Our only way is to increase production on the one hand and save money to accumulate more capital for our economic construction and development.
3) We must save time. For example, what used to be done in 2 days, now because of good organization and high productivity, we can do it in one day. See more: An ancient folk song has the song: "A father's merit is like the Thai Son mountain, a mother's love is like water flowing from a source. A heart to worship one's mother and respect one's father, Fulfilling filial piety is the filial piety." Explain the folk song and use children's characters in literature to prove that: Children always do We must save labor. For example: what used to require 10 people, now we have to organize it well, we have to increase everyone's productivity, so that we can do it with only 5 people.
We must save money. What used to take a lot of people, a lot of time, and cost 20,000 dong. Now, because it saves human effort, time, and materials, it only costs ten thousand dong.
In short: We must find a way to arrange the organization so that one person can work like two people, one day can do two days' work, one dollar can be used as two dollars.
4) Everyone has to save. First are agencies, army units, and enterprises. Some people say: the soldiers only worry about fighting the enemy and achieving achievements. The soldiers are not a production agency, so how can they save money?
In the army, there are Ordnance, Ordnance, Transportation... which are agencies that need to be thrifty. For example: in the past, each soldier shot 60 bullets to kill one enemy. Now, because of diligent training and good shooting, each soldier only shot 10 bullets to kill one enemy. So soldiers save 80% of bullets, so the army saves raw materials and labor to cast bullets to make other weapons. Previously, the Transport Department had to carry 100 ammunition trucks, now it only needs to carry 20 vehicles, saving vehicles and oil. The less vehicles run, the less roads will need to be repaired. That saves people's money... See more: How do you understand Uncle Ho's teachings for our students: "If you have talent but no virtue, you are useless. If you have virtue but no talent, you will work." "Everything is difficult" In campaigns where a lot of booty is obtained (suppositories, food, guns), the soldiers know how to value it, save it to use it to fight the enemy, thus increasing production. .
Some people say: agencies, for example judicial agencies, besides increasing their income to be self-sufficient, what can they save?
Every agency needs and can save money. An example: Every agency uses envelopes. If each agency saves money and uses an envelope two or three times, the Government can save dozens of tons of paper each year. If judicial officers improve their work productivity quickly, it will help people who have judicial work save time and time to increase production...
Ho Chi Minh.
(Excerpt from the article Practicing thrift and combating corruption, waste, and bureaucracy - 1962).
Vanmau.edu.vn
|
Thời thơ ấu, em sống với bà. Bà đã kể lại cho em nhiều kỉ niệm cảm động. Hãy kể lại một trong những kỉ niệm đó
Gợi ý
Năm em lên bảy tuồi, bố em nhập ngũ, em về ở với bà nội. Nhà bà em ở cạnh con sông Châu, vườn nhiều cây trái. Mỗi chiều bà lại ra vườn hái chanh, cam, ổi… để sáng hôm sau ra chợ bán. Buổi trưa khi em đi học về, bà ra cổng đón, trao cho em bịch kẹo, cái bánh đa dày cộm, cái bắp ngô nóng. Với tuổi thơ, những thứ quà ấy thật quý giá.
Rồi ngày Tết, ngày giỗ, ngày hè, ngày đông, biết bao nhiêu kỉ niệm, nhưng với em, kỉ niệm sâu sắc nhất là kỉ niệm em bị bệnh thương hàn.
Hôm đó, vừa tan học về thì trời đổ mưa. Mưa kéo dài cả tiếng. Đứng ở lớp mà bụng dạ em nôn nao. Em nghĩ đến cái bánh đa dòn tan, cái bắp ngô mềm, ngọt ngào… lác đác đã có bạn đội mưa về. Nóng ruột quá., em lấy cặp che đầu, chạy ào ra cổng. Nhưng mới qua cổng trường một quãng thì mưa to, bên kia đường không có nhà, em đành chạy tiếp, em đang chạy thì nghe tiếng bà gọi:
– Lộc ơi! Áo mưa đây cháu.
Bà kéo em tới dưới một gốc cây lớn, khoác áo mưa cho em, nói:
– Khổ quá! Bà đi chợ về muộn nên không kịp đưa áo mưa ra cho cháu được.Xem thêm: Em hãy kể tóm tắt truyền thuyết Bánh chưng, Bánh giầy
Hai bà cháu đội mưa về nhà. Bà bảo em thay quần áo, rồi bà trao cho cái bánh đa nóng. Bà cũng bị ướt. Nhìn nước da tái nhợt, bàn tay run rẩy của bà, em thấy xót xa quá. Chiều đó em lên cơn sốt, lúc mê lúc tỉnh. Bệnh kéo dài, thỉnh thoảng tỉnh dậy, em nghe tiếng bà thì thào với mấy cô bác:
– Khổ quá! Cha thì ở chiến trường, mẹ thì bận công tác, lại một nách hai con nhỏ…
Rồi bà sờ trán, sờ chân em. Bà vắt nước cam cho em uống. Hơn tháng sau thì em khỏe, nhưng bà lại bệnh. Bà đã già, lo lắng quá nên sức khỏe suy sụp. Dì Hảo ở cạnh nhà sang cháo lão giúp cho bà cháu em. Ít lâu sau thì bà em ngồi dậy, rồi đi lại được! Nhưng bà đã yếu lắm, tóc bà bạc trắng, mặt bà hốc hác, lưng bà còng hẳn xuống, bước đi run run.
Mấy tháng sau thì bố em về. Gia đình em chuyển vào Đồng Nai. Em xin ở lại với bà nhưng không được. Lúc chia tay, em ôm lấy bà, khóc nức nở. Em nói trong nước mắt: “Bà ơi! Bà cố giữ gìn sức khỏe”.
Với em, hình ảnh bà thật đẹp đẽ, đầy yêu thương. Em không thể nào quên được vẻ mặt lo lắng của bà những ngày em đau ốm. Em chỉ mong sao bà sống đến lúc em đi làm. Có tiền lương em sẽ mua quà cho bà.Xem thêm: “Bài hát nhà tranh bị gió thu phá nát” của Đỗ Phủ chứa chan tình yêu thương con người... Hãy phân tích bài thơ để chứng minh ý kiến trênVanmau.edu.vn
|
During my childhood, I lived with my grandmother. She told me many touching memories. Let's recount one of those memories
Suggest
When I was seven years old, my father joined the army, and I went to live with my grandmother. My grandmother's house is next to the Chau River, the garden has many fruit trees. Every afternoon she goes to the garden to pick lemons, oranges, guavas... to sell at the market the next morning. At noon when I came home from school, she came to the gate to welcome me and gave me a bag of candy, a thick rice cake, and a hot corn. For children, those gifts are precious.
Then New Year's Day, death anniversary, summer day, winter day, so many memories, but for me, the most profound memory is the memory of me being sick with typhoid.
That day, as soon as I got home from school, it started to rain. The rain lasted for an hour. Standing in class, my stomach felt queasy. I think of the crispy rice paper, the soft, sweet corn... occasionally I have friends coming home from the rain. I was so impatient, I grabbed my bag to cover my head and ran out the gate. But just a short distance past the school gate, it started raining heavily. There was no house on the other side of the street. I had to keep running. As I was running, I heard my grandmother calling:
– Loc! Here's my raincoat.
She pulled me under a big tree, put a raincoat on me, and said:
– How miserable! She came home late from the market so she didn't have time to give her raincoat. See more: Please briefly tell the legend of Banh Chung and Banh Giay
The two of them walked home through the rain. She told me to change clothes, then she gave me a hot rice cake. She was also wet. Looking at her pale skin and shaking hands, I felt so sorry. That afternoon I had a fever and was sometimes unconscious and sometimes awake. The illness lasted for a long time. Sometimes when I woke up, I heard my grandmother whispering to my aunts and uncles:
– How miserable! Father is on the battlefield, mother is busy with work, and has two small children under her arm...
Then she touched my forehead and feet. She squeezed orange juice for me to drink. More than a month later, I was fine, but she was sick again. She was old and worried so much that her health collapsed. Aunt Hao, who lives next door, came over to help my niece and nephew. Not long after, my grandmother sat up and could walk again! But she was very weak, her hair was white, her face was haggard, her back was completely bent, her steps trembled.
A few months later, my father returned. My family moved to Dong Nai. I asked to stay with her but I couldn't. When we broke up, I hugged her and cried. She said with tears in her eyes: “Grandma! She tries to maintain her health."
To me, her image is beautiful and full of love. I can never forget her worried face on the days I was sick. I just hope she lives until I go to work. If I have a salary, I will buy a gift for my grandmother. See more: "The song that the cottage was destroyed by the autumn wind" by Do Phu is filled with love for people... Analyze the poem to prove your opinion on Vanmau.edu .VN
|
Thời trang nói gì? (đề mở)
Gợi ý
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề mở, chỉ nêu luận đề, không nêu thao tác lập luận. Đây là vấn đề cập nhật hằng ngày trong cuộc sống hiện đại hôm nay, có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Bài làm phải nêu được chủ kiến của mình, có lí lẽ để bảo vệ cho chủ kiến đó nhằm thuyết phục người đọc hướng tới giải quyết một vấn đề dang diễn ra trong cuộc sống một cách thiết thực, có hiệu quả.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Bản chất của con người là luôn luôn vươn tới cái đẹp trong cuộc sống. Và thời trang là một trong nhừng phương tiện hữu hiệu để góp phần tồn cao vẻ đẹp của con người. Nhưng thời trang chỉ là phương tiện, cái quyết định vẫn là con người sử dụng thời trang đó như thế nào cho hài hòa, hợp lí, tự nhiên để đem đến vẻ đẹp không chỉ cho mình mà còn cho cả cộng đồng. Đây chính là vấn đề văn hóa mặc có liên quan đến nhân cách của từng con người và lối sống của toàn xã hội.
Ai mà chẳng muốn mặc đẹp. Mặc đẹp là sự tôn trọng mình và tôn trọng người. Nhưng như thế nào là mặc đẹp? Có người cho rằng mặc đẹp thì áo quần phải lòe loẹt, sặc sỡ, trang phục phải chạy theo mốt này, mốt nọ, thậm chí ăn mặc có hở hang một chút cũng không sao – thời "hiện đại" mà! Anh con trai vốn xuất thân từ nông thôn, đưa người yêu về "ra mắt" bố mẹ mình lần đầu tiên, mà cô gái lại mặc váy quá ngắn, áo quá mỏng và cổ áo lại trễ xuống quá rộng thì coi sao tiện. Cô gái đưa chàng rể tương lai về giới thiệu với gia đình mà tóc lại nhuộm xanh đỏ, dài ngang lưng, lại đeo cả hoa tai và dây chuyền vàng thì không hiểu đó là "nam thanh" hay "nữ tú"? Có bao giờ thầy giáo lại mặc áo phông không cổ để lên lđp giảng bài công như một nữ cán bộ lại mặc "bộ đồ" ở nhà đến công sở làm việc? Không hiếm những ca sĩ lên sân khấu biểu diễn đã khiến khán giả phải khó chịu về cách ăn mặc "không bình thường" cùng như ta vẫn thầy đây đó những thanh niên mặc quần đùi, áo may-ô ba lỗ (thậm chí có khi cởi trần) phóng xe máy như điên giữa những phô" sang trọng và đông người… Những điều đó đều có liên quan đến văn hóa mặc của con người: mặc thế nào cho đẹp, cho sang trọng, đứng đắn, đúng lúc, đúng chỗ, và điều quan trọng nhất là mặc thế nào để hòa đồng vào lối sông của cộng đồng, làm đẹp cho dân tộc và phù hợp với xu thê" của thời đại. Xem thêm: Giới thiệu về sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam CaoỞ đây có vấn đề truyền thống dân tộc và xu thế thời đại, cần phải quan niệm và ứng xử thế nào cho hợp lí và hài hòa trong trang phục? Có người cho rằng ta là người Việt Nam, người phương Đông thì ăn mặc phải nền nã, kín đáo, đứng đắn, tạo cho người đàn ông vẻ đẹp tao nhã, thanh cao, người phụ nữ vẻ đẹp tha thướt, dịu dàng. Điều đó, dĩ nhiên là đúng, nhưng chưa đủ vì như thế chỉ mới giừ được bản sắc dân tộc mà chưa hội nhập được với thời đại. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, quan niệm về cái đẹp của trang phục đã có sự thay đổi. Cái đẹp phải gắn với cái tiện ích phù hợp với cuộc sống năng động và tiến lên như vũ bão của con người. Trang phục phải tạo ra vẻ đẹp khỏe mạnh tự nhiên thoải mái của con người lao động sáng tạo – con người hành động. Nếu chú ý sẽ thấy, cái áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, tuy vẫn giữ được nét duyên dáng tha thướt của nó, nhưng đã có sự cách tân đáng kể phù hợp với thời đại mới. Và để phù hợp với cuộc sông hiện đại, chúng ta đã có nhiều loại trang phục khác nhau, trong đó cái đẹp và cái tiện ích đã được kết hợp hài hòa để làm nên vẻ đẹp riêng của từng loại trang phục: trang phục cồng sở, trong nhà máy, trong hầm mỏ, trong nhà trường, trong bệnh viện; trang phục dạ hội, đi du lịch, đi tắm biển,… Xem thêm: Quan niệm của anh (chị) về giá trị nhân đạo trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng mà anh (chị) đã đọc
Trang phục làm đẹp cho con người nhưng con người phải biết sử dụng trang phục. Không nên chạy theo mốt này, mốt nọ, nay thời trang này, mai thời trang khác, dẫn đến mình là nô lệ cho thời trang chứ không phải làm chủ thời trang, cần chú ý điều cốt lõi sau đây: thời trang trước hết phải hợp với mình (thì nó mới tôn vẻ đẹp của bản thân), sau nữa phải phù hợp với những người xung quanh đổ góp phần làm đẹp cho cộng đồng (ở gia đình, ở công sở, nhà máy, Trường học, khu phố…). Cũng cái áo ấy thôi, vậy mà có người mặc vào (đúng lúc, đúng chỗ) thì sang trọng, đẹp, được mọi người tán thưởng; nhưng cũng có người mặc vào thì lại kệch cỡm, lô’ lăng, gây phản cảm, không được chấp nhận. Bản thân cái áo không có tội tình gì, điều quan trọng là người sử dụng nó có phù hợp hay không? Người ta nói: "Nét chữ thể hiện tính người"; cách ăn mặc cũng biểu hiện rất rõ nhân cách con người. Nhìn vào một con người ăn mặc như thê" nào có thể thấy được nhâncách người đó ra sao. Nguyễn Du quả đã hết sức tinh tế khi giới thiệu nhân cách Mã Giám Sinh trước hết qua cách ăn mặc của y:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
(Truyện Kiểu)
Nhân dân ta có câu: "Người quen xem dạ, người lạ xem áo" cũng là như vậy. Bởi thời trang chính là văn hóa mặc. Mà văn hóa mặc, trước hết là tự trọng, sau nữa là tôn trọng người. Có tự trọng thì mới tôn trọng người. Đó là văn hóa ứng xử trong thời đại hội nhập khi con người chung sống với nhau trong cộng đồng nhân loại. Trang phục đâu chỉ là chuyện ăn mặc của riêng từng người mà chính là văn hóa mặc để làm đẹp cho lối sống của toàn xã hội, trong đó có vẻ đẹp của nhân cách mỗi con người góp phần.
"Người đẹp vì lụa". Nhưng không phải cứ đắp lụa vào người là đẹp. Phải biết sử dụng "lụa" đó sao cho tốt nhất, phù hợp nhất với trang phục của mình. Trang phục của mỗi con người chỉ đẹp khi nó hài hòa với lối sống của dân tộc, của cộng đồng và nhân loại. Xem thêm: Phân tích nhân vật A Phủ qua truyện Vợ chồng A Phủ của Tô HoàiBẢI ĐỌC THÊM
TRANG PHỤC
Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu,… phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người.
Người ta nói: "Ăn cho mình, mặc cho người", có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xòe váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp… Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hóa xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc quần áo lòe loẹt, nói cười oang oang.
Người xưa đã dạy: "Y phục xứng kì đức". Ản mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, tự làm xấu mình đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hóa, biết ứng xử chính là người biết tự hòa mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: "Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện". Chí lí thay!
Thế mới biết, trang phục hợp văn hóa, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp.
Vanmau.edu.vn
|
Thời trang nói gì? (đề mở)
Gợi ý
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề mở, chỉ nêu luận đề, không nêu thao tác lập luận. Đây là vấn đề cập nhật hằng ngày trong cuộc sống hiện đại hôm nay, có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Bài làm phải nêu được chủ kiến của mình, có lí lẽ để bảo vệ cho chủ kiến đó nhằm thuyết phục người đọc hướng tới giải quyết một vấn đề dang diễn ra trong cuộc sống một cách thiết thực, có hiệu quả.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Bản chất của con người là luôn luôn vươn tới cái đẹp trong cuộc sống. Và thời trang là một trong nhừng phương tiện hữu hiệu để góp phần tồn cao vẻ đẹp của con người. Nhưng thời trang chỉ là phương tiện, cái quyết định vẫn là con người sử dụng thời trang đó như thế nào cho hài hòa, hợp lí, tự nhiên để đem đến vẻ đẹp không chỉ cho mình mà còn cho cả cộng đồng. Đây chính là vấn đề văn hóa mặc có liên quan đến nhân cách của từng con người và lối sống của toàn xã hội.
Ai mà chẳng muốn mặc đẹp. Mặc đẹp là sự tôn trọng mình và tôn trọng người. Nhưng như thế nào là mặc đẹp? Có người cho rằng mặc đẹp thì áo quần phải lòe loẹt, sặc sỡ, trang phục phải chạy theo mốt này, mốt nọ, thậm chí ăn mặc có hở hang một chút cũng không sao – thời "hiện đại" mà! Anh con trai vốn xuất thân từ nông thôn, đưa người yêu về "ra mắt" bố mẹ mình lần đầu tiên, mà cô gái lại mặc váy quá ngắn, áo quá mỏng và cổ áo lại trễ xuống quá rộng thì coi sao tiện. Cô gái đưa chàng rể tương lai về giới thiệu với gia đình mà tóc lại nhuộm xanh đỏ, dài ngang lưng, lại đeo cả hoa tai và dây chuyền vàng thì không hiểu đó là "nam thanh" hay "nữ tú"? Có bao giờ thầy giáo lại mặc áo phông không cổ để lên lđp giảng bài công như một nữ cán bộ lại mặc "bộ đồ" ở nhà đến công sở làm việc? Không hiếm những ca sĩ lên sân khấu biểu diễn đã khiến khán giả phải khó chịu về cách ăn mặc "không bình thường" cùng như ta vẫn thầy đây đó những thanh niên mặc quần đùi, áo may-ô ba lỗ (thậm chí có khi cởi trần) phóng xe máy như điên giữa những phô" sang trọng và đông người… Những điều đó đều có liên quan đến văn hóa mặc của con người: mặc thế nào cho đẹp, cho sang trọng, đứng đắn, đúng lúc, đúng chỗ, và điều quan trọng nhất là mặc thế nào để hòa đồng vào lối sông của cộng đồng, làm đẹp cho dân tộc và phù hợp với xu thê" của thời đại. Xem thêm: Giới thiệu về sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam CaoỞ đây có vấn đề truyền thống dân tộc và xu thế thời đại, cần phải quan niệm và ứng xử thế nào cho hợp lí và hài hòa trong trang phục? Có người cho rằng ta là người Việt Nam, người phương Đông thì ăn mặc phải nền nã, kín đáo, đứng đắn, tạo cho người đàn ông vẻ đẹp tao nhã, thanh cao, người phụ nữ vẻ đẹp tha thướt, dịu dàng. Điều đó, dĩ nhiên là đúng, nhưng chưa đủ vì như thế chỉ mới giừ được bản sắc dân tộc mà chưa hội nhập được với thời đại. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, quan niệm về cái đẹp của trang phục đã có sự thay đổi. Cái đẹp phải gắn với cái tiện ích phù hợp với cuộc sống năng động và tiến lên như vũ bão của con người. Trang phục phải tạo ra vẻ đẹp khỏe mạnh tự nhiên thoải mái của con người lao động sáng tạo – con người hành động. Nếu chú ý sẽ thấy, cái áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, tuy vẫn giữ được nét duyên dáng tha thướt của nó, nhưng đã có sự cách tân đáng kể phù hợp với thời đại mới. Và để phù hợp với cuộc sông hiện đại, chúng ta đã có nhiều loại trang phục khác nhau, trong đó cái đẹp và cái tiện ích đã được kết hợp hài hòa để làm nên vẻ đẹp riêng của từng loại trang phục: trang phục cồng sở, trong nhà máy, trong hầm mỏ, trong nhà trường, trong bệnh viện; trang phục dạ hội, đi du lịch, đi tắm biển,… Xem thêm: Quan niệm của anh (chị) về giá trị nhân đạo trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng mà anh (chị) đã đọc
Trang phục làm đẹp cho con người nhưng con người phải biết sử dụng trang phục. Không nên chạy theo mốt này, mốt nọ, nay thời trang này, mai thời trang khác, dẫn đến mình là nô lệ cho thời trang chứ không phải làm chủ thời trang, cần chú ý điều cốt lõi sau đây: thời trang trước hết phải hợp với mình (thì nó mới tôn vẻ đẹp của bản thân), sau nữa phải phù hợp với những người xung quanh đổ góp phần làm đẹp cho cộng đồng (ở gia đình, ở công sở, nhà máy, Trường học, khu phố…). Cũng cái áo ấy thôi, vậy mà có người mặc vào (đúng lúc, đúng chỗ) thì sang trọng, đẹp, được mọi người tán thưởng; nhưng cũng có người mặc vào thì lại kệch cỡm, lô’ lăng, gây phản cảm, không được chấp nhận. Bản thân cái áo không có tội tình gì, điều quan trọng là người sử dụng nó có phù hợp hay không? Người ta nói: "Nét chữ thể hiện tính người"; cách ăn mặc cũng biểu hiện rất rõ nhân cách con người. Nhìn vào một con người ăn mặc như thê" nào có thể thấy được nhâncách người đó ra sao. Nguyễn Du quả đã hết sức tinh tế khi giới thiệu nhân cách Mã Giám Sinh trước hết qua cách ăn mặc của y:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
(Truyện Kiểu)
Nhân dân ta có câu: "Người quen xem dạ, người lạ xem áo" cũng là như vậy. Bởi thời trang chính là văn hóa mặc. Mà văn hóa mặc, trước hết là tự trọng, sau nữa là tôn trọng người. Có tự trọng thì mới tôn trọng người. Đó là văn hóa ứng xử trong thời đại hội nhập khi con người chung sống với nhau trong cộng đồng nhân loại. Trang phục đâu chỉ là chuyện ăn mặc của riêng từng người mà chính là văn hóa mặc để làm đẹp cho lối sống của toàn xã hội, trong đó có vẻ đẹp của nhân cách mỗi con người góp phần.
"Người đẹp vì lụa". Nhưng không phải cứ đắp lụa vào người là đẹp. Phải biết sử dụng "lụa" đó sao cho tốt nhất, phù hợp nhất với trang phục của mình. Trang phục của mỗi con người chỉ đẹp khi nó hài hòa với lối sống của dân tộc, của cộng đồng và nhân loại. Xem thêm: Phân tích nhân vật A Phủ qua truyện Vợ chồng A Phủ của Tô HoàiBẢI ĐỌC THÊM
TRANG PHỤC
Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu,… phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người.
Người ta nói: "Ăn cho mình, mặc cho người", có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xòe váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp… Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hóa xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc quần áo lòe loẹt, nói cười oang oang.
Người xưa đã dạy: "Y phục xứng kì đức". Ản mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, tự làm xấu mình đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hóa, biết ứng xử chính là người biết tự hòa mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: "Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện". Chí lí thay!
Thế mới biết, trang phục hợp văn hóa, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp.
Vanmau.edu.vn
|
Thử tưởng tượng em đang được ngồi trên thuyền giữa dòng sông La tấp nập đông vui. Hãy tả lại cảnh tượng đó
Gợi ý
Em hãy đọc đoạn thơ dưới đây, trích từ bài thơ Bè xuôi sông La:
"… Bè ta xuôi sông La
Dẻ cau cùng táu mật
Muồng đen và trai đất
Lát chun rồi lát hoa
Sông La ơi sông La
Trong veo như ánh mắt
Bờ tre xanh im mát
Mươn mướt đôi hàng mi
Bè đi chiều thầm thì
Gỗ lượn đàn thong thơ
Như bầy trâu lim dim
Đằm mình trong êm ả
Sóng long lanh vẩy cá
Chim hót trên bờ đê…"
Thử tưởng tượng em đang được ngồi trên thuyền giữa dòng sông La tấp nập đông vui ấy. Hãy tả lại cảnh tượng đó.
Bài làm
"…Sông La ơi sông La
Trong veo như ánh mắt
Bờ tre xanh im mát
Mươn mướt đôi hàng mi…"
Những hình ảnh thơ "trong veo" trong bài thơ "Bè xuôi sông La" của nhà thơ Vũ Duy Thông cứ hiện lên một cách mê say trong tâm trí em. Thế rồi hôm ấy, em nằm mơ được ngồi "bè xuôi sông La".
Em đang ngồi trên một chiếc bè mảng trôi giữa dòng sông La lịch sử. Xung quanh em, tấp nập thuyền bè xuôi ngược. Những chiếc bè lớn được ghép từ nhiều phiến gỗ, trên đó chở biết bao loại gỗ quý: táu mật, muồng đen, trai đất, lát chun, lát hoa,… Bao nhiêu loài gỗ bấy lâu em chỉ đọc trong sách bâỵ giờ được nhìn tận mắt, thật thú vị. Các súc gỗ đều được pha từ các thân cây cô thụ nên khá lớn, thịt gỗ rất rắn, mỗi loài lại mang một màu đặc trưng: màu vàng ươm, màu trắng sữa, riêng gỗ lim thì đen bóng khiến ta ngỡ là đồng đen. Các thuyền lớn thì chở nhiều loại lâm sản khác của rừng: những buồng cau lớn, những loại thảo dược như thảo quả, đinh hương,… Điều thú vị nhất là giữa dòng chảy hơi dốc của sông La còn xuất hiện nhiều thân gỗ được thả trôi. Bác lái bè giải thích rằng đó là những thân gỗ được hạ từ mé thượng nguồn của dòng sông rồi được thả trôi về phía hạ nguồn. Mỗi thân gỗ lại có kí hiệu riêng của chủ nên không lo bị lạc. Quả thực, quan sát kĩ em thấy trên mỗi thân gỗ đều được khắc những tên riêng.Xem thêm: Hãy làm rõ bản chất xấu xa của bọn thực dân phong kiến dưới chế độ (những năm đầu thế kỉ XX), qua hai văn bản: "Sống chết mặc bay" của Phạm Duy Tốn và "Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu" (Ngữ văn 7 tập hai)
Chiếc bè cứ êm đềm trôi đi, biết bao bè gỗ, thuyền cau đã trôi qua trước mắt em. Gương mặt những người lái bè, lái thuyền ai cũng hăm hở, tươi tắn; Họ đều tay đẩy mái chèo khua nước, thỉnh thoảng lại dừng tay lái khẽ lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt, Giữa dòng sông La này, muốn nói chuyện phải hét lên thật to để thắng được khoảng cách và tiếng rì rào của nước. Bởi thế, thỉnh thoảng lại bất chợt vang lên tiếng hú chào nhau của các bác lái. Tiếng cười giòn giã sau đó theo mặt nước mà lan ra khắp không gian. Càng đi, càng thấy trong không khí có một mùi hương gì ngọt mát, đó phải chăng là hương cây, hương nước sông La?
Ngồi bè trôi trên sông La còn có một cảm giác thú vị nữa là được ngắm dòng nước trong veo cùng những hàng cây rợp bóng hai bên bờ. Nước sông La chẳng những mát lành mà còn vô cùng trong trẻo. Ngồi trên bè, khẽ nghiêng mình xuống, em có thể thấy gương mặt mình in rất rõ trên mặt nước. Trên bờ sông, hai rặng tre mươn mướt bốn mùa, có lẽ đã mấy chục năm nay tre nghiêng nghiêng soi bóng xuống dòng sông. Thỉnh thoảng, dưới khóm tre lại có chú trâu nằm nhởn nhơ nhai lại cỏ. Các chú binh thản nhìn thuyền bè qua lại trên sông như một cảnh tượng quen thuộc. Sông La như ánh mắt trẻ thơ trong vắt mà những hàng tre là những hàng mi cong vút đáng yêu…Xem thêm: Có ý kiến cho rằng: Thiếu sức tưởng tượng, tri thức không có tiềm năng phát triển. Anh (chị) có suy nghĩ gì? Bàn luận về ý nghĩa của sức tưởng tượng trong quá trình học tậpBè cứ trôi, nước sông La cứ êm đềm tuôn chảy. Và dẫu đã tỉnh cơn mơ em vẫn mong một ngày được đến vói sông La để ngắm những cảnh tượng đầy hấp dẫn nơi này.
Vanmau.edu.vn
|
Imagine you are sitting on a boat in the middle of the bustling La River. Please describe that scene
Suggest
Please read the poem below, excerpted from the poem "Raft down the La River":
"... Our raft went down the La River
Areca chestnuts and honeydew
Black mosquito and land clam
Slice rubber and then slice flowers
La River, La River
Clear as eyes
Cool green bamboo banks
Smooth your eyelashes
The afternoon raft whispered
Wooden fluted thong poetry
Like a herd of buffaloes half asleep
Immerse yourself in tranquility
Glittering waves of fish scales
Birds sing on the dike..."
Imagine you are sitting on a boat in the middle of the bustling La River. Please describe that scene.
Assignment
"…La River oh La River
Clear as eyes
Cool green bamboo banks
Fluff your eyelashes..."
The "clear" poetic images in the poem "Raft down the La River" by poet Vu Duy Thong keep appearing enchantingly in my mind. Then that day, I dreamed of sitting on a "raft down the La River".
I am sitting on a raft floating in the middle of the historic La River. Around me, there are bustling boats going up and down. Large rafts are assembled from many wooden slabs, carrying many types of precious wood on them: honeycomb, black cassis, mussel, rubber slices, flower slices, etc. I have only read about so many species of wood in books for a long time now. Seeing it with my own eyes, it's really interesting. The logs are all made from single tree trunks, so they are quite large, the wood flesh is very solid, each species has a characteristic color: bright yellow, milky white, ironwood in particular is shiny black, making us think it is black copper. . Large boats carry many other types of forest products: large areca chambers, herbs such as cardamom, cloves, etc. The most interesting thing is that in the slightly sloping flow of the La River, there are also many wood trunks that can be harvested. float. The raft driver explained that these were wooden trunks lowered from the upstream side of the river and then floated downstream. Each wooden trunk has its own symbol, so you don't have to worry about getting lost. Indeed, if we look closely, we can see that each wooden trunk is engraved with unique names. See more: Let's clarify the evil nature of the feudal colonialists under the regime (early years of the 20th century), through two documents. Version: "Live and die" by Pham Duy Ton and "Good tricks are Varen and Phan Boi Chau" (Literature 7, volume two)
The raft continued to drift peacefully, countless wooden rafts and areca boats passed before my eyes. The faces of the rafters and boatmen were all eager and bright; They both pushed the oars and splashed the water, occasionally stopping the steering wheel to gently wipe the drops of sweat from their faces. In the middle of this La river, if they wanted to talk, they had to shout loudly to overcome the distance and the murmur of the river. water. Therefore, from time to time, the drivers' howls of greeting to each other suddenly rang out. Crisp laughter then followed the water surface and spread throughout the space. The more I walked, the more I felt a sweet and cool scent in the air. Could it be the scent of trees or the scent of La River water?
Sitting on a raft floating on the La River has another interesting feeling: watching the clear water and the shady trees on both sides. The water of La River is not only cool but also extremely clear. Sitting on the raft, slightly leaning down, I could see my face clearly printed on the water. On the riverbank, two bamboo groves are lush throughout the seasons. Perhaps for decades, the bamboo has been tilted, reflecting on the river. Occasionally, under a bamboo grove, there is a buffalo lying around, chewing grass. The monks calmly looked at the boats going back and forth on the river like a familiar scene. La River is like the clear eyes of a child while the bamboo rows are lovely curled eyelashes... See more: There is an opinion that: Lacking imagination, knowledge has no potential for development. What do you think? Discuss the meaning of imagination in the learning process. The raft keeps floating, the water of the La River flows gently. And even though I have woken up from the dream, I still hope that one day I can go to La River to see the fascinating scenes of this place.
Vanmau.edu.vn
|
Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà
Hướng dẫn
1. Khái quát chung
– Giới thiệu tác giả Trần Đình Hượu và tác phẩm Đến hiện đại từ truyền thống
– Giới thiệu nhận định chung về văn hoá Việt Nam: “Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà”.
2. Nội dung
a) Giải thích lời nhận định của tác giả Trần Đình Hượu
– Tính thiết thực khiến cho văn hoá Việt gắn bó sâu sắc với đời sống cộng đồng. Chẳng hạn như chùa là nơi thờ Phật tôn nghiêm nhưng đồng thời diễn ra nhiều sinh hoạt thế tục như ma chay, cưới hỏi, nuôi nấng trẻ em cơ nhỡ…
– Tính linh hoạt thể hiện rõ ở khả năng tiếp nhận và biến đổi các giá trị văn hoá thuộc nhiều nguồn khác nhau sao cho phù hợp với đời sống bản địa của người Việt: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo… đều có chỗ đứng trong văn hoá Việt.
– Tính dung hoà là hệ quả tất yếu của hai thuộc tính trên trong văn hoá của người Việt. Các giá trị văn hoá thuộc nhiều nguồn khác nhau, không loại trừ nhau mà được người Việt tiếp thu có chọn lọc để tạo nên sự hài hoà bình ổn trong đời sống văn hoá.
Chính vì thế, vốn văn hoá Việt truyền thống giàu giá trị nhân bản, không sa vào tình trạng cực đoan, cuồng tín.
b) Trong mặt tích cực lại tàng ẩn những hạn chế:
– Luôn mang quan niệm “dĩ hoà vi quý” nên trong mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần, vật chất, văn hoá Việt chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, nổi bật, vì dung hoà nên thiếu những sáng tạo lớn, không đạt đến những giá trị phi phàm, kì vĩ. Trí tuệ không được đề cao.
– Tuy nhiên, trong hoàn cảnh địa lí, lịch sử, xã hội cụ thể của cộng đồng của dân tộc Việt Nam, tính thiết thực, linh hoạt, dung hoà đảm bảo cho văn hoá Việt tồn tại qua những gian nan bất trắc của lịch sử.
Nguồn: thêm: Văn học Việt Nam qua mắt bạn bè quốc tế
|
The general spirit of Vietnamese culture is practical, flexible, and harmonious
Instruct
1. General overview
– Introducing author Tran Dinh Huu and his work Coming to modernity from tradition
– Introducing a general statement about Vietnamese culture: "The general spirit of Vietnamese culture is practical, flexible, and harmonious."
2. Content
a) Explain author Tran Dinh Huu's comments
– Practicality makes Vietnamese culture deeply attached to community life. For example, the pagoda is a place of solemn worship of Buddha but at the same time many secular activities take place such as funerals, weddings, raising orphaned children...
– Flexibility is clearly shown in the ability to receive and transform cultural values from many different sources to suit the local life of Vietnamese people: Buddhism, Confucianism, Taoism, Christianity Religion, Islam... all have a place in Vietnamese culture.
– Harmony is an inevitable consequence of the above two attributes in Vietnamese culture. Cultural values come from many different sources, do not exclude each other, but are selectively absorbed by Vietnamese people to create harmony and stability in cultural life.
That is why traditional Vietnamese culture is rich in human values and does not fall into extremism or fanaticism.
b) In the positive side, there are hidden limitations:
- Always carrying the concept of "harmony is precious", so in all areas of spiritual and material life, Vietnamese culture does not have great stature, does not have an important or prominent position, because of harmony, it lacks Great creations do not reach extraordinary and magnificent values. Intelligence is not promoted.
– However, in the specific geographical, historical, and social circumstances of the community of the Vietnamese people, practicality, flexibility, and harmony ensure that Vietnamese culture survives the hardships and uncertainties of the Vietnamese people. history.
Source: more: Vietnamese literature through the eyes of international friends
|
Tiếng nói than thân trong câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Hướng dẫn
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Bài ca dao thường được hiểu là lời than của một người con gái đương thì đang lo lắng, bâng khuâng, hồi hộp trước ngưỡng cửa tình yêu – hôn nhân. Lo lắng là phải, bởi người phụ nữ xưa đâu có được toàn quyền quyết định số phận của mình. Họ đã được dạy về tam tòng, tứ đức và dường như đã chấp thuận việc "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" như một chuyện hiển nhiên. Họ cũng hiểu sự gả bán tất yếu sẽ xảy ra đối với mình. Biết vào tay ai, biết thuộc về ai, do ai sở hữu? – đó là câu hỏi không dễ và nhiều khi không thể trả lời. Cụm từ vào tay ai rõ ràng có thấm đượm một chút cam phận, ngậm ngùi.
Tuy nhiên, cái hấp dẫn, cái độc đáo của bài ca dao gắn liền với việc so sánh thân em với tấm lụa đào (những bài khác cùng chủ đề lại có cái hay riêng của chúng khi so sánh thân em với hạt mưa rào, hạt mưa sa…)- Nếu chỉ dừng ở dòngthơ thứ nhất (dòng lục), người tiếp nhận sẽ "đọc" ra từ đây một niềm tự hào và thậm chí là niềm kiêu hãnh của cô gái ý thức được rất rõ giá trị của mình. Một so sánh phù hợp, gắn liền với một hình ảnh đẹp, mềm mại, óng ả, có thể tự nó đứng ra như một biểu trưng xứng đáng để tôn vinh người phụ nữ! Sự than thân rõ ràng chưa được thể hiện ở đây.
Xem thêm: Bình giảng "Tự tình" - Bài I của Hồ Xuân HươngPhải đọc tới dòng thơ thứ hai (dòng bát), ta mới thấy chủ đề bài ca dao lộ diện. Từ phất phơ rất gợi hình và gọi cảm, có thể khơi dậy thoáng bâng khuâng trong lòng ta về hình ảnh của một tấm lụa đang lay động trong gió, lại vừa đánh thức ở ta niềm đồng cảm đối với nỗi lo âu mơ hồ của nhân vật trữ tình. Cho đến khi các cụm từ “giữa chợ” và “biết vào tay” ai xuất hiện, bài ca dao mới thực sự gây ấn tượng chua xót về thân phận người phụ nữ trong xã hội. Thì ra, tấm lụa đào được đưa ta không chỉ để khoe, để cho người đời thưởng lãm, mà mục đích cuối cùng là để bán (khoe cũng nhằm tới việc dễ bán mà thôi!). Mà đã thành món hàng đem đi bán thì mọi sự may rủi đều có thể xảy ra, tùy thuộc vào người mua cùng thái độ của họ. Người mua là ai, cô gái chưa thể biết và vì vậy cô khó lòng có được sự an tâm. Trong hoàn cảnh này, không muốn mà lời than cứ bật ra. Trước khi tiếng than lộ ra qua giọng điệu, nó đã được "báo trước” từ việc tác giả dân gian lựa chọn hình ảnh so sánh và đặt tấm lụa đào vào một tương quan cụ thể: tấm lụa đào – chợ – tay người mua. Rõ ràng, bài ca dao đã được cấu tứ một cách chặt chẽ và hoàn hảo.
Bài ca dao, tuy thế, không tự khuôn mình vào một sắc thái giọng điệu duy nhất và do vậy cũng có thể đưa lại cảm nhận nhiều chiều. Vấn đề là ở chỗ: tác giả dân gian chỉ dừng ở việc gợi ra tình huống mà không nói rốt ráo về cái kết quả (buồn thảm hay may mắn) sẽ đến. Những người diễn xướng và tiếp nhận khác nhau, tùy sự liên tưởng đến những khả năng khác nhau nhất xảy ra đối với mình hay đối với nhân vật trữ tình, sẽ có những phản ứng tâm lí không đồng nhất. Một thoáng chốc tâm trạng thế là đã được neo lại bởi nghệ thuật ngôn từ, để rồi gieo rất nhiều vương vấn vào lòng người tiếp nhận hay những người tiềm tàng khả năng đồng tác giả với bài ca dao đó!.
Nguồn: thêm: Bạn có yêu đời không? Vậy đừng phung phí thời gian và chất liệu của cuộc sống được làm bằng thời gian (Fran - klin). Viết đoạn văn bàn về vai trò của thời gian
|
The voice of self-pity in the folk song: My body is like peach silk, fluttering in the middle of the market, knowing whose hands it belongs to.
Instruct
Your body is like peach silk
Flying in the middle of the market, knowing whose hands it belongs to
The folk song is often understood as the lament of a teenage girl who is worried, anxious, and nervous on the threshold of love - marriage. It is right to be worried, because ancient women did not have the right to decide their own fate. They have been taught about the three obediences and four virtues and seem to have accepted "where parents put their children will sit" as a matter of course. They also understand that marriage will inevitably happen to them. Who owns it, who belongs to it, who owns it? – that is not an easy question and sometimes impossible to answer. Whose hands the phrase falls into is clearly imbued with a bit of resignation and sadness.
However, the appeal and uniqueness of the folk song is associated with the comparison of your body to peach silk (other songs on the same topic have their own beauty when comparing your body to raindrops, raindrops fall...)- If we only stop at the first line of the poem (green line), the recipient will "read" from here a pride and even the pride of a girl who is very aware of the value of me. An appropriate comparison, associated with a beautiful, soft, shiny image, can stand on its own as a worthy symbol to honor women! Self-pity is clearly not expressed here.
See more: Commentary on "Self-Love" - Poem I by Ho Xuan HuongWe must read the second line of the poem (the eighth line) to see the theme of the folk song appear. The word flutter is very evocative and evocative, it can evoke a feeling of wistfulness in our hearts about the image of a piece of silk moving in the wind, and it also awakens in us sympathy for the vague anxiety of people. lyrical character. It wasn't until the phrases "in the middle of the market" and "knowing whose hands" appeared that the folk song really made a bitter impression about the status of women in society. It turns out that the peach silk was given to us not only to show off, for people to enjoy, but the ultimate purpose is to sell (showing off also makes it easier to sell!). Once it becomes an item for sale, all sorts of misfortunes can happen, depending on the buyer and their attitude. The girl cannot know who the buyer is and so it is difficult for her to have peace of mind. In this situation, complaints just pop out without wanting to. Before the lament was revealed through the tone, it was "foreshadowed" by the folk author's choice of comparative images and placing the peach silk in a specific relationship: peach silk - market - buyer's hand. Clearly, the folk song has been structured tightly and perfectly.
Folk songs, however, do not define themselves into a single tone and therefore can also give a multi-dimensional feeling. The problem is: the folk author only stops at suggesting the situation without talking about the outcome (sad or lucky) that will come. Different performers and receivers, depending on their associations with the most different possibilities that happen to them or to the lyrical character, will have heterogeneous psychological reactions. For a moment, that mood was anchored by the art of language, then sowed many questions in the hearts of the receiver or potential co-authors of that folk song!.
Source: more: Do you love life? So don't waste time and the stuff of life is made of time (Fran - klin). Write a paragraph discussing the role of time
|
Tiếng nói tâm hồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Hướng dẫn
Trong bài thơ Tràng giang, nhà thơ Huy Cận viết:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Anh (chị) lắng nghe thấy gì về tiếng nói tâm hồn của nhân vật trữ tình thể hiện trong đoạn thơ trên?
– Tràng giang (in trong tập Lửa thiêng, 1940) là một kiệt tác của nền thơ Việt Nam hiện đại, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận thời kì trước Cách mạng với giọng “ảo não”, với niềm khắc khoải khôn nguôi trước một không gian xa vắng và thời gian chiều tà hết sức đặc trưng.
– Đoạn trích gồm khổ 2 và khổ 3 của bài thơ, dựng lên sống động hình ảnh của một buổi chiều muộn trên sông với những đặc điểm nổi bật là mênh mông, đìu hiu, cô liêu, lặng lẽ. Bức tranh gần như đơn sắc, có màu xanh, màu vàng (bờ xanh, bãi vàng) nhưng những màu đó nhạt mờ và nhoà lẫn vào nhau. Sự vật trong bức tranh toả đều trên nền rộng, với những cồn nhỏ nổi lơ thơ, rải rác đây đó; với những hàng bèo nối nhau trôi trên dòng nước. Động thái ở đây chỉ là sự đưa lướt đìu hiu của gió, nhịp điệu dịch chuyển miên man, vô định của bèo. Âm thanh được gợi lên cũng mơ hồ, xao xác như có như không… Bút pháp tạo hình đã đạt đến trình độ bậc thầy. Mọi chi tiết miêu tả đều gây được cho người đọc những ấn tượng khó phai mờ.
Xem thêm: Nghị luận xã hội về văn hóa cảm ơn- Văn 12– Cảnh trí hiện lên như thật, gợi tình quê đậm đà. Ta tưởng như nhà thơ chỉ việc vẽ lại những gì đã thấy, đã quan sát được tại một địa điểm xác định. Kì thực, đây trước hết là một bức tranh tâm hồn của thi nhân. Cảnh buồn nhưng thực ra là người buồn, lòng buồn. Trong dáng nét chuyển động của gió, ta nghe được tiếng lòng khắc khoải trước không gian. Qua cử chỉ lắng tai ghi nhận tiếng chợ chiều ngày muộn, ta thấy được niềm chắt chiu những âm thanh của sự sống. Qua nét vẽ những véc tơ chuyển động ngược chiều của nắng xuống, trời lên, ta cảm nhận được rất rõ nỗi chới với rợn ngợp của một tâm hồn quá nhạy cảm với cái rộng dài vô biên của vũ trụ. Qua chi tiết tả những hàng bèo trôi, ta thấy hiện lên một tâm sự hoang mang với câu hỏi về đâu cắt cứa âm thầm. Qua ánh mắt tìm kiếm một chuyến đò ngang, một cây cầu bắc nối hai bờ, ta hiểu được sự cựa quậy của một niềm mong mỏi, mong mọi sự vật trong cõi đời này không tồn tại cách biệt nhau đến thế…
– Tiếng nói trữ tình trong đoạn thơ, cũng như trong cả bài thơ là tiếng nói của cái tôi cá nhân. Cái tôi ấy nhìn sâu vào lòng mình và thấy trong đó có cả một thế giới cần được bày tỏ, với tất cả những gì thật nhất: có nỗi cô đơn, có niềm khát sống. Cái tôi ấy, trong khi tâm trí hướng về những không gian xa xôi thì các giác quan vẫn luôn mở rộng để ghi nhận những hình sắc cụ thể, mến thân của cuộc đời.
– Đoạn thơ thể hiện rất sâu nỗi sầu nhân thế cũng như nỗi sầu vũ trụ của Huy Cận. Tất cả quyện chặt vào nhau, làm cho mọi sự vật hiện hữu trước mắt ta cũng mang chở một suy tư bát ngát, hướng tói những câu hỏi lớn của tồn tại vốn giày vò tâm trí của bao bậc thức giả xưa nay. Ngược lại, những suy nghĩ siêu hình, trừu tượng cũng nhờ bao cảnh trí, dáng nét, âm thanh quen thuộc mà về gần với những vui buồn của nhân gian, dễ nhận được sự chia sẻ, đồng cảm của độc giả rộng rãi.
– Nói về tiếng nói tâm hồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ, không thể không nhận thấy sự thiết tha đối với những gì thuộc về “tình tự dân tộc”. Cảnh và tình đều rất Việt Nam. Phong vị dân tộc, cổ điển thấm đượm trong cách dùng từ (đặc biệt là các từ láy như lơ thơ, đìu hiu, chót vót, mênh mông, lặng lẽ), dùng các thi liệu đã quen (tiếng chợ chiều, cảnh sông dài trời rộng, chuyến đò ngang, những cụm bèo trôi dạt…); trong nghệ thuật tạo ra chiều sâu ám gợi, tượng trưng của các hình ảnh. Kiểu ứng xử với ngôn từ ở trên cho thấy sự nặng lòng với truyền thống của một nhà thơ mới, trong khi học hỏi nhiều kinh nghiệm nghệ thuật của các nền thơ lớn ở phương Tây, vẫn không quên suối nguồn thi ca mà mình đã được tắm gội trong đó từ tuổi ấu thơ.
Nguồn: Bộ Giáo Dục & Đào Tạo Xem thêm: Có người lạ đến hỏi bố mẹ em. Em sẽ trả lời thế nào nếu bố mẹ có ở nhà và nếu bố mẹ đi vắng
|
The soulful voice of the lyrical character in Huy Can's poem Trang Giang
Instruct
In the poem Trang Giang, poet Huy Can wrote:
Ignoring the small dunes and the desolate wind,
The sound of the village is far away from the afternoon market.
The sun goes down, the sky rises to a towering depth;
Song Long, wide sky, lonely station.
Wherever the duck drifts, rows follow rows;
Immense without a single ferry crossing.
Without asking for any intimacy,
Quietly the green shore meets the golden beach.
What do you hear about the spiritual voice of the lyrical character expressed in the above poem?
– Trang Giang (published in the collection Sacred Fire, 1940) is a masterpiece of modern Vietnamese poetry, clearly demonstrating the artistic style of Huy Can's poetry in the pre-Revolutionary period with a "dreamy" voice, with a strong passion. I'm inconsolable in front of a remote space and a very special sunset time.
– The excerpt includes stanzas 2 and 3 of the poem, vividly creating the image of a late afternoon on the river with the outstanding characteristics of vastness, desolation, loneliness, and silence. The picture is almost monochrome, with blue and yellow (green shore, yellow beach), but those colors are pale and mixed together. The objects in the painting are spread out evenly on a large background, with small floating dunes scattered here and there; with rows of water hyacinths floating on the water. The movement here is just the lonely swaying of the wind, the endless, uncertain rhythm of water hyacinth's movements. The sounds evoked are also vague and disturbing, as if they were present or not... The visual style has reached a master level. Every descriptive detail leaves an indelible impression on the reader.
See more: Social discussion on the culture of gratitude - Text 12– The scene appears realistic, with a rich rural eroticism. We think that the poet just needs to draw what he has seen and observed at a certain location. In fact, this is first of all a picture of the poet's soul. Sad scene but actually sad person, sad heart. In the movement of the wind, we can hear the sound of our heart restlessly facing the space. Through the act of listening to the sounds of the late afternoon market, we can see the joy of capturing the sounds of life. Through the drawing of vectors moving in the opposite direction of the sun falling and the sky rising, we can clearly feel the overwhelming fear of a soul that is too sensitive to the boundless breadth of the universe. Through the detailed description of the rows of floating water hyacinth, we see a feeling of confusion emerging with the question of where to cut silently. Through our eyes looking for a ferry across, a bridge connecting the two banks, we understand the stirrings of a longing, hoping that all things in this world do not exist so far apart...
– The lyrical voice in the poem, as well as in the entire poem, is the voice of the individual ego. That ego looks deep into his heart and sees in it a whole world that needs to be expressed, with all that is most real: there is loneliness, there is a thirst for life. That ego, while the mind is directed towards distant spaces, the senses are always expanded to note the specific, dear shapes of life.
– The poem deeply expresses Huy Can's sadness in the world as well as the sadness in the universe. Everything is tightly intertwined, making everything that exists before our eyes also carry an immense thought, pointing towards the great questions of existence that have tormented the minds of many intellectuals of the past. On the contrary, metaphysical and abstract thoughts also come close to the joys and sorrows of humanity thanks to familiar scenes, shapes, and sounds, easily receiving the sharing and sympathy of a wide audience.
– Talking about the spiritual voice of the lyrical character in the poem, it is impossible not to notice the passion for what belongs to "national sentiment". The scene and love are both very Vietnamese. The national and classical flavor is imbued in the way of using words (especially redundant words such as absent-minded, gloomy, towering, immense, quiet), using familiar poetic materials (the sounds of the afternoon market, river scenes the long, wide sky, the horizontal boat trip, the drifting clusters of water hyacinth...); In art, creating suggestive and symbolic depth of images. The above style of dealing with language shows the heavy heart for tradition of a new poet who, while learning a lot of artistic experience from great poetry in the West, still does not forget the source of poetry that he has learned. bathed in it from childhood.
Source: Ministry of Education and Training See more: A stranger came to ask about my parents. How will you answer if your parents are at home and if your parents are away?
|
Tiếng Việt Ôn Tập Cuối Học Kì 1 Lớp 5
Hướng dẫn
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý:Ôn luyện lại các bài tập đọc, học thuộc lòng. Nắm tên bài, tác giả, thế loại, nội dung, cách đọc và học thuộc các bài học thuộc lòng.
Câu 2: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Giữ lấy màu xanh. Nội dung cần trình bày: tên bài, tác giả, thế loại, nội dung chính.
Gợi ý: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Giữ lấy màu xanh, như sau:
Tên bài
Tác giả
Nội dung chính
Thể loại
Chuyện một khu vườn nhỏ
Vân Long
Miêu tả vẻ đẹp của khu vườn và tình yêu thiên nhiên của
hai ông cháu.
Văn
Tiếng vọng
Nguyễn Quang
Thiều
Diễn tả tâm trạng day dứt cua tác giả trước cái chết đáng
thương của một con chim nhỏ.
Thơ
Mùa thảo quả
Ma Văn Kháng
Miêu tả vẻ đẹp của rừng tháo quả chín.
Văn
Hành trình của bầy ong
Nguyễn Đức Mậu
Kể, tả cuộc hành trình đi tìm mật ngọt của bầy ong.
Thơ
Người gác rừng tí hon
Nguyễn Thị Cẩm Châu
Bạn nhỏ là một người yêu rừng, thông minh, dũng cảm bảo
vệ rừng.
Văn
Trồng rừng ngập mặn
Phan Nguyên
Hồng
Biện pháp quan trọng để bảo vệ đê điều, cải tạo môi trường
và góp phần tăng thu nhập là tăng cường trồng rừng ngập mặn.
Văn
Câu 3: Giả sử em là bạn của nhân vật bạn nhỏ (truyện Người gác rừng tí hon), em hãy nên nhận xét về bạn nhỏ và tìm dẫn chứng minh họa cho nhận xét của em.
Gợi ý: Hãy nêu những nhận xét về bạn nhỏ và tìm dẫn chứng minh họa về những nhận xét của em qua bài Người gác rừng tí hon như sau:
-Bạn nhỏ là một người có tình yêu đối với rừng. (“Tình yêu rừng của ba đã sớm truyền sang em.” “Thay ba đi tuần rừng”).
-Có tinh thần cảnh giác. (“Phát hiện những dấu chân người lớn hằn trên đất, em thắc mắc: “..”.
-Bạn nhỏ là một người rất thông minh, dũng cảm, nhanh nhẹn, linh hoạt bảo vệ rừng. Thấy lạ, em lần theo dấu chân. “Em chạy theo đường tắt về quán bà Hai, xin bà cho gọi điện thoại” báo cho công an. “Em chộp lấy dây thừng lao ra, buộc căng hai đầu dây vào hai chạc cây để chặn xe”. “Em dồn hết sức xô ngã gã”.
TIẾT 2
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc học thuộc lòng trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người nắm tên bài, tác giả, thể loại, nội dung chính làm cơ sở trả lời câu hỏi (2).
Câu 2: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người. Nội dung cần trình bày: tên bài, tác giả, thể loại, nội dung chính.
Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người như sau:
Tên bài
Tác giả
Nội dung chính
Thể loại
Chuỗi ngọc lam
Phun-tơn
uốc-xlê
Tình cảm của người em đối với chị mình và tấm lòng của con người coi tình cảm cao hơn giá trị tiền bạc.
Văn
Hạt gạo làng ta
Trần
Đăng
Khoa
Hạt gạo được làm ra từ mồ hôi nước mắt của người lao động. Hạt gạo là hạt vàng.
Thơ
Buôn Chư Lênh đón cô giáo
Hà Đình Cẩn
Tình cảm yêu thương, quý trọng của người dân Tây Nguyên đôi với cô giáo và cái chữ.
Văn
Về ngồi nhà đang xây
Đồng
Xuân
Lan
Hình ảnh đẹp đẽ, sống động của ngôi nhà đang xây, qua đó tác giả ca ngợi cuộc sống mới trên đất nước ta.
Thơ
Thầy thuốc như me hiền
Trần
Phương
Hạnh
Ca ngợi Hải Thượng Lãn Ông – một thầy thuốc nhân từ, đức độ, không màng danh lợi.
Văn
Thầy cúng đi bệnh viện
Nguyễn
Lăng
Lên án những cách suy nghĩ cách làm lạc hậu mê tín dị đoan nhằm làm cho mọi người hiểu: cúng bái không phải là cách chữa lành bệnh cho con người.
Văn
Xem thêm: Dựa vào dàn ý đã lập ở tuần 1, em hãy viết một bài văn tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong vườn cây (hay trong công viên trên cánh đồng, trên nương rẫy, đường phố)
Câu 3: Trong bài thơ em đã học ở chủ diêm Vì hạnh phúc con người, em thích những câu thơ nào nhất? Hãy trình bày cái hay của những câu thơ đó đề các bạn hiểu và tán thưởng sự lựa chọn của em.
Gợi ý:Trong hai bài thơ em đã học ở chủ điểm Vì hạnh phúc con người, em thích những câu thơ sau:
– Ví dụ các câu:
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
(Hạt gạo làng ta)
Ý nói: Hạt gạo chứa đựng bao khó khăn vất vả của con người. Cụ thể là hình ảnh của người mẹ. Mẹ phải chịu đựng biết bao gian khổ “một nắng hai sương” trên đồng ruộng mới làm ra hạt gạo.
– Ví dụ những câu:
Ngôi nhà như trẻ nhỏ
Lớn lên với trời xanh…
(Về ngôi nhà đang xây)
Ý nói: Niềm vui hi vọng trước cuộc sống mới.
TIẾT 3
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý: Đọc lại những bài tập đọc đã học, nắm tên bài, tác giả, nội dung chính.
Câu 2: Điền những từ ngữ em biết vào bảng sau:
Sinh quyển
(Môi trường động thực vật)
Thủy quyển
(Môi trường nước)
Khí quyển
(Môi trường không khí)
Các sự vật trong môi trường
con người, thú vật (trâu, bò, gà, vịt, hươu, nai,…);
cây cối (cây trên rừng, cây trồng…)
sông, suối, ao hồ, biển cả…
bầu trời vũ trụ, mây không khí,
ánh sáng…
Những hành động bảo vệ
môi trường
Trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, trồng rừng
ngập mặn, chống săn bắn thú rừng, chim chóc.
Giữ sạch nguồn nước, xây dựng
các nhà máy nước sạch…
Lọc khói công nghiệp xử lí rác thải,
chống ô nhiễm bầu không khí…
TIẾT 4
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc, học thuộc lòng. Nắm nội dung bài.
Xem thêm: Kể câu truyện có nội dung có công mài sắt có ngày nên kim
Câu 2: Nghe – viết bài Chợ Ta-sken (SGK TV5 tập 1 trang 174).
Gợi ý:Nhờ bạn hoặc người thân đọc bài Chợ Ta-sken, em viết. Sau đó tự kiểm tra sửa chữa những lỗi mắc phải, viết lại cho đúng.
TIẾT 5
Tham khảo bài làm tại đây: Hãy viết thư gửi một người thân đang ở xa kể lại kếtquả học tập rèn luyện của em trong học kì I.
TIẾT 6
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc, học thuộc lòng đã học. Nắm tên bài, tác giả, nội dung, thể loại.
Câu 2: Đọc và trả lời câu hỏi bài Chiều biên giới.
a)Tìm trong bài thơ một từ đồng nghĩa với từ biên cương.
b)Trong khổ thơ 1, các từ đầu và ngọn được dùng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyền?
c)Có những đại từ xưng hô nào được dùng trong bài thơ?
d)Viết một câu miêu tả hình ảnh mà câu thơ Lúa lượn bậc thang mây gợi ra cho em.
Gợi ý: Đọc và trả lời các câu hỏi bài Chiều biên giới như sau:
a)Từ đồng nghĩa với từ biên cương có trong bài là từ biên giới.
b)Trong khổ thơ 1: từ đầu và từ ngọn được dùng với nghĩa chuyển.
c)Những đại từ xưng hô được dùng trong bài thơ là: em và ta.
d)Câu văn miêu tả hình ảnh mà câu thơ Lúa lượn bậc thang mây gợi ra cho em, như sau:
“Những thửa ruộng bậc thang chạy từ chân đồi lên đến sườn đồi được lợp bỏi một màu xanh mướt thấp thoáng trong màn sương mỏng, trông mới đẹp làm sao!
TIẾT 7: BÀI LUYỆN TẬP
A- Đọc thầm văn bản đã cho (trang 177 SGK TV5 tập 1)
B- Dựa vào nội dung bài đọc, chọn câu trả lời đúng như sau:
1-Chọn ý (c): Quê hương. (X)
2-Chọn ý (a): Nước sông đầy ắp. (X)
3-Chọn ý (e): Màu áo của những người thân trong gia đình. (X)
4-Chọn ý (a): Miêu tả được chính xác màu sắc rực rỡ những cánh buồm. (X)
5-Chọn ý (b): Lá buồm căng phồng như ngực người khổng lồ. (X)
6-Chọn ý (b): Vì những cánh buồm gắn bó với con người từ bao đời nay. (X)
7-Chọn ý (a) Một từ. Đó là từ khổng lồ
8-Chọn ý (a) Một cặp từ. Đó là cặp: ngược >< xuôi
9-Chọn ý (c) Đó là hai từ đồng âm.
10-Chọn ý (c) Ba quan hệ từ. Đó là: còn, thì, cứ.
TIỂT 8: BÀI LUYỆN TẬP
Đề: Em hãy tả một người thân đang làm việc (đang nấu cơm, đọc bảo, khâu vá, làm vườn, xây nhà hay học bài..).
(Tả một cô bán hàng)
Sáng nay, em cùng Hoa đến cửa hàng văn phòng phẩm trên đường Nguyễn Tri Phương để mua một số dụng cụ học tập. Tại đây, chúng em gặp một cô mậu dịch viên thật dễ mến và dễ thương. Tên cô là Nguyễn Thị Phương.
Cửa hàng nằm phía bên phải hướng ra bùng binh nơi giao nhau của nhiều con đường nên lúc nào cũng nhộn nhịp đông vui. Ở quầy hàng dụng cụ học sinh nào là bút, thước, com pa, cặp sách… không thiếu một thứ gì. Tất cả được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp. Cô Phương còn rất trẻ, có lẽ cũng chỉ độ mười tám đôi mươi như chị Hai em. Cô có dáng người thon thả, cân đối. Chiếc áo dài màu hồng nhạt bó sát lấy cơ thể tạo cho cô một vẻ đẹp rực rỡ kiêu sa. Nói một cách công bằng, cô đẹp không kém gì những diễn viên điện ảnh Hàn Quốc. Mái tóc đen như gỗ mun xõa quá vai rất hợp với khuôn mặt trái xoan của cô. Đặc biệt cô có đôi môi đỏ thắm luôn tươi cười để lộ hàì-Ti răng nhỏ, đều trắng muốt. Tay cô thoăn thoắt lấy hàng đưa cho khách, miệng không quên nói những lời cám ơn dịu ngọt. Khách hàng mỗi lúc một đông. Người hỏi mua chiếc cặp, người hỏi mua tập vở, com pa, chì, thước… Có một ông khách mua một cây bút Hero cầm lên xem rồi xin đổi lại Hồng Hà. Thấy không vừa ý, ông lại xin đổi bút Kim tinh, cô vẫn vui vẻ chiều ý khách mà không hề tỏ thái độ bực bội gì. Em và Hoa mua hai cái hộp bút rất đẹp. Cô trả tiền thừa xong, không quên dặn dò chúng em đếm kĩ trước lúc cất vào cặp.
Qua cách bán hàng và thái độ đốĩ xử với khách, em thấy mến và phục cô quá. Nếu như sau này làm mậu dịch viên, em sẽ cố gắng làm được như cô Phương.
Xem thêm: Soạn bài: Tập đọc Kì diệu rừng xanh
|
Tiếng Việt Ôn Tập Cuối Học Kì 1 Lớp 5
Hướng dẫn
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý:Ôn luyện lại các bài tập đọc, học thuộc lòng. Nắm tên bài, tác giả, thế loại, nội dung, cách đọc và học thuộc các bài học thuộc lòng.
Câu 2: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Giữ lấy màu xanh. Nội dung cần trình bày: tên bài, tác giả, thế loại, nội dung chính.
Gợi ý: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Giữ lấy màu xanh, như sau:
Tên bài
Tác giả
Nội dung chính
Thể loại
Chuyện một khu vườn nhỏ
Vân Long
Miêu tả vẻ đẹp của khu vườn và tình yêu thiên nhiên của
hai ông cháu.
Văn
Tiếng vọng
Nguyễn Quang
Thiều
Diễn tả tâm trạng day dứt cua tác giả trước cái chết đáng
thương của một con chim nhỏ.
Thơ
Mùa thảo quả
Ma Văn Kháng
Miêu tả vẻ đẹp của rừng tháo quả chín.
Văn
Hành trình của bầy ong
Nguyễn Đức Mậu
Kể, tả cuộc hành trình đi tìm mật ngọt của bầy ong.
Thơ
Người gác rừng tí hon
Nguyễn Thị Cẩm Châu
Bạn nhỏ là một người yêu rừng, thông minh, dũng cảm bảo
vệ rừng.
Văn
Trồng rừng ngập mặn
Phan Nguyên
Hồng
Biện pháp quan trọng để bảo vệ đê điều, cải tạo môi trường
và góp phần tăng thu nhập là tăng cường trồng rừng ngập mặn.
Văn
Câu 3: Giả sử em là bạn của nhân vật bạn nhỏ (truyện Người gác rừng tí hon), em hãy nên nhận xét về bạn nhỏ và tìm dẫn chứng minh họa cho nhận xét của em.
Gợi ý: Hãy nêu những nhận xét về bạn nhỏ và tìm dẫn chứng minh họa về những nhận xét của em qua bài Người gác rừng tí hon như sau:
-Bạn nhỏ là một người có tình yêu đối với rừng. (“Tình yêu rừng của ba đã sớm truyền sang em.” “Thay ba đi tuần rừng”).
-Có tinh thần cảnh giác. (“Phát hiện những dấu chân người lớn hằn trên đất, em thắc mắc: “..”.
-Bạn nhỏ là một người rất thông minh, dũng cảm, nhanh nhẹn, linh hoạt bảo vệ rừng. Thấy lạ, em lần theo dấu chân. “Em chạy theo đường tắt về quán bà Hai, xin bà cho gọi điện thoại” báo cho công an. “Em chộp lấy dây thừng lao ra, buộc căng hai đầu dây vào hai chạc cây để chặn xe”. “Em dồn hết sức xô ngã gã”.
TIẾT 2
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc học thuộc lòng trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người nắm tên bài, tác giả, thể loại, nội dung chính làm cơ sở trả lời câu hỏi (2).
Câu 2: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người. Nội dung cần trình bày: tên bài, tác giả, thể loại, nội dung chính.
Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người như sau:
Tên bài
Tác giả
Nội dung chính
Thể loại
Chuỗi ngọc lam
Phun-tơn
uốc-xlê
Tình cảm của người em đối với chị mình và tấm lòng của con người coi tình cảm cao hơn giá trị tiền bạc.
Văn
Hạt gạo làng ta
Trần
Đăng
Khoa
Hạt gạo được làm ra từ mồ hôi nước mắt của người lao động. Hạt gạo là hạt vàng.
Thơ
Buôn Chư Lênh đón cô giáo
Hà Đình Cẩn
Tình cảm yêu thương, quý trọng của người dân Tây Nguyên đôi với cô giáo và cái chữ.
Văn
Về ngồi nhà đang xây
Đồng
Xuân
Lan
Hình ảnh đẹp đẽ, sống động của ngôi nhà đang xây, qua đó tác giả ca ngợi cuộc sống mới trên đất nước ta.
Thơ
Thầy thuốc như me hiền
Trần
Phương
Hạnh
Ca ngợi Hải Thượng Lãn Ông – một thầy thuốc nhân từ, đức độ, không màng danh lợi.
Văn
Thầy cúng đi bệnh viện
Nguyễn
Lăng
Lên án những cách suy nghĩ cách làm lạc hậu mê tín dị đoan nhằm làm cho mọi người hiểu: cúng bái không phải là cách chữa lành bệnh cho con người.
Văn
Xem thêm: Dựa vào dàn ý đã lập ở tuần 1, em hãy viết một bài văn tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong vườn cây (hay trong công viên trên cánh đồng, trên nương rẫy, đường phố)
Câu 3: Trong bài thơ em đã học ở chủ diêm Vì hạnh phúc con người, em thích những câu thơ nào nhất? Hãy trình bày cái hay của những câu thơ đó đề các bạn hiểu và tán thưởng sự lựa chọn của em.
Gợi ý:Trong hai bài thơ em đã học ở chủ điểm Vì hạnh phúc con người, em thích những câu thơ sau:
– Ví dụ các câu:
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
(Hạt gạo làng ta)
Ý nói: Hạt gạo chứa đựng bao khó khăn vất vả của con người. Cụ thể là hình ảnh của người mẹ. Mẹ phải chịu đựng biết bao gian khổ “một nắng hai sương” trên đồng ruộng mới làm ra hạt gạo.
– Ví dụ những câu:
Ngôi nhà như trẻ nhỏ
Lớn lên với trời xanh…
(Về ngôi nhà đang xây)
Ý nói: Niềm vui hi vọng trước cuộc sống mới.
TIẾT 3
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý: Đọc lại những bài tập đọc đã học, nắm tên bài, tác giả, nội dung chính.
Câu 2: Điền những từ ngữ em biết vào bảng sau:
Sinh quyển
(Môi trường động thực vật)
Thủy quyển
(Môi trường nước)
Khí quyển
(Môi trường không khí)
Các sự vật trong môi trường
con người, thú vật (trâu, bò, gà, vịt, hươu, nai,…);
cây cối (cây trên rừng, cây trồng…)
sông, suối, ao hồ, biển cả…
bầu trời vũ trụ, mây không khí,
ánh sáng…
Những hành động bảo vệ
môi trường
Trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, trồng rừng
ngập mặn, chống săn bắn thú rừng, chim chóc.
Giữ sạch nguồn nước, xây dựng
các nhà máy nước sạch…
Lọc khói công nghiệp xử lí rác thải,
chống ô nhiễm bầu không khí…
TIẾT 4
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc, học thuộc lòng. Nắm nội dung bài.
Xem thêm: Kể câu truyện có nội dung có công mài sắt có ngày nên kim
Câu 2: Nghe – viết bài Chợ Ta-sken (SGK TV5 tập 1 trang 174).
Gợi ý:Nhờ bạn hoặc người thân đọc bài Chợ Ta-sken, em viết. Sau đó tự kiểm tra sửa chữa những lỗi mắc phải, viết lại cho đúng.
TIẾT 5
Tham khảo bài làm tại đây: Hãy viết thư gửi một người thân đang ở xa kể lại kếtquả học tập rèn luyện của em trong học kì I.
TIẾT 6
Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng.
Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc, học thuộc lòng đã học. Nắm tên bài, tác giả, nội dung, thể loại.
Câu 2: Đọc và trả lời câu hỏi bài Chiều biên giới.
a)Tìm trong bài thơ một từ đồng nghĩa với từ biên cương.
b)Trong khổ thơ 1, các từ đầu và ngọn được dùng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyền?
c)Có những đại từ xưng hô nào được dùng trong bài thơ?
d)Viết một câu miêu tả hình ảnh mà câu thơ Lúa lượn bậc thang mây gợi ra cho em.
Gợi ý: Đọc và trả lời các câu hỏi bài Chiều biên giới như sau:
a)Từ đồng nghĩa với từ biên cương có trong bài là từ biên giới.
b)Trong khổ thơ 1: từ đầu và từ ngọn được dùng với nghĩa chuyển.
c)Những đại từ xưng hô được dùng trong bài thơ là: em và ta.
d)Câu văn miêu tả hình ảnh mà câu thơ Lúa lượn bậc thang mây gợi ra cho em, như sau:
“Những thửa ruộng bậc thang chạy từ chân đồi lên đến sườn đồi được lợp bỏi một màu xanh mướt thấp thoáng trong màn sương mỏng, trông mới đẹp làm sao!
TIẾT 7: BÀI LUYỆN TẬP
A- Đọc thầm văn bản đã cho (trang 177 SGK TV5 tập 1)
B- Dựa vào nội dung bài đọc, chọn câu trả lời đúng như sau:
1-Chọn ý (c): Quê hương. (X)
2-Chọn ý (a): Nước sông đầy ắp. (X)
3-Chọn ý (e): Màu áo của những người thân trong gia đình. (X)
4-Chọn ý (a): Miêu tả được chính xác màu sắc rực rỡ những cánh buồm. (X)
5-Chọn ý (b): Lá buồm căng phồng như ngực người khổng lồ. (X)
6-Chọn ý (b): Vì những cánh buồm gắn bó với con người từ bao đời nay. (X)
7-Chọn ý (a) Một từ. Đó là từ khổng lồ
8-Chọn ý (a) Một cặp từ. Đó là cặp: ngược >< xuôi
9-Chọn ý (c) Đó là hai từ đồng âm.
10-Chọn ý (c) Ba quan hệ từ. Đó là: còn, thì, cứ.
TIỂT 8: BÀI LUYỆN TẬP
Đề: Em hãy tả một người thân đang làm việc (đang nấu cơm, đọc bảo, khâu vá, làm vườn, xây nhà hay học bài..).
(Tả một cô bán hàng)
Sáng nay, em cùng Hoa đến cửa hàng văn phòng phẩm trên đường Nguyễn Tri Phương để mua một số dụng cụ học tập. Tại đây, chúng em gặp một cô mậu dịch viên thật dễ mến và dễ thương. Tên cô là Nguyễn Thị Phương.
Cửa hàng nằm phía bên phải hướng ra bùng binh nơi giao nhau của nhiều con đường nên lúc nào cũng nhộn nhịp đông vui. Ở quầy hàng dụng cụ học sinh nào là bút, thước, com pa, cặp sách… không thiếu một thứ gì. Tất cả được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp. Cô Phương còn rất trẻ, có lẽ cũng chỉ độ mười tám đôi mươi như chị Hai em. Cô có dáng người thon thả, cân đối. Chiếc áo dài màu hồng nhạt bó sát lấy cơ thể tạo cho cô một vẻ đẹp rực rỡ kiêu sa. Nói một cách công bằng, cô đẹp không kém gì những diễn viên điện ảnh Hàn Quốc. Mái tóc đen như gỗ mun xõa quá vai rất hợp với khuôn mặt trái xoan của cô. Đặc biệt cô có đôi môi đỏ thắm luôn tươi cười để lộ hàì-Ti răng nhỏ, đều trắng muốt. Tay cô thoăn thoắt lấy hàng đưa cho khách, miệng không quên nói những lời cám ơn dịu ngọt. Khách hàng mỗi lúc một đông. Người hỏi mua chiếc cặp, người hỏi mua tập vở, com pa, chì, thước… Có một ông khách mua một cây bút Hero cầm lên xem rồi xin đổi lại Hồng Hà. Thấy không vừa ý, ông lại xin đổi bút Kim tinh, cô vẫn vui vẻ chiều ý khách mà không hề tỏ thái độ bực bội gì. Em và Hoa mua hai cái hộp bút rất đẹp. Cô trả tiền thừa xong, không quên dặn dò chúng em đếm kĩ trước lúc cất vào cặp.
Qua cách bán hàng và thái độ đốĩ xử với khách, em thấy mến và phục cô quá. Nếu như sau này làm mậu dịch viên, em sẽ cố gắng làm được như cô Phương.
Xem thêm: Soạn bài: Tập đọc Kì diệu rừng xanh
|
Tiền – không là tất cả. Anh (chị) nghĩ gì về ý kiến này
Gợi ý
Có một câu nói hài hước rằng: “Có nhiều thứ không thể mua được bằng tiền, nhưng có thể mua được bằng… nhiều tiền”.
Quan niệm về giá trị đồng tiền của mỗi người hoàn toàn khác nhau. Có người xem nó là ông chủ tốt, người khác lại xem nó là đầy tớ tồi. Nhiều người cho rằng tiền là chiếc chìa khóa vạn năng, có thể làm được mọi thứ. Có đúng thế không?
Còn bạn, bạn có tin tiền là chiếc đũa thần đầy quyền lực đôì với tất cả mọi thứ trên đời này?
Riêng đối với tôi, tiền – không là tất cả.
1. Tiền không mua được tri thức?
Dinh, 24 tuổi, học lực ở mức trung bình. Thế nhưng, cô vẫn tiến đều trên con đường công danh. Đó là nhờ vào “năng khiếu” xài tiền của mẹ.
Tiền mua cho Dinh bằng tú tài loại giỏi. Tiền đưa cô vào Đại học Y khoa. Cuối cùng, tiền đưa cô vào làm việc tại một bệnh viện Răng – Hàm – Mặt lớn tại thành phố.
Thế nhưng, sau khi Dinh nhận việc được vài tháng, đoàn thanh tra về kiểm tra nhân sự đột ngột. Bằng giả của Dinh được phơi bày.
Dĩ nhiên, ngay lập tức, cô bị đình chỉ công tác.
Dinh mất tất cả. Không việc làm, không tương lai. Suốt ngày, cô chỉ còn biết tự giam mình trong phòng chẳng dám gặp gỡ bạn bè.Xem thêm: Dựa vào đoạn trích Hồi trống cổ Thành (Trích Tam quốc diễn nghĩa), hãy viết bài văn ngắn phát biểu cảm nghĩ về hai câu thơ tác giả viết ở cuối hồi I: "An đắc khoái... trên đời" Dinh đâu phải là trường hợp hi hữu. Báo chí đã từng phanh phui ông quan huyện nọ, bà chuyên viên kia, vị quan sở, quan tỉnh ấy đã “xài” bằng giả bằng tiền, đã leo chức, mua chức bằng tiền, khiến cho nhiều người phải “ở” ra, rồi tự hỏi: “Chuyện lạ mà như thật!”, “Chuyện thật mà như bịa”. Đồng tiền ghê gớm quá!
2. Tiền có mua được hạnh phúc?
Minh, 24 tuổi, là bác sĩ mới ra trường, được đánh giá là một thầy thuốc đầy tiềm năng. Anh chỉ có một cái “tội” là quá nghèo, không đủ khả năng “Zo” vào các bệnh viện để làm việc.
Luôn cháy bỏng ước mơ được đổi đời, anh quyết tâm trụ lại thành phố để kiếm tiền.
Anh chớp được cơ hội khi một tiểu thư con nhà giàu yêu anh. Đám cưới được tổ chức rình rang.
Nhờ “phúc”vợ, Minh mở phòng mạch tại nhà. Vốn giỏi chuyên môn lại khéo giao tiếp, phòng mạch của Minh ăn nên làm ra.
Hai năm sau, anh đưa mẹ và em gái lên thành phố sinh sống.
Cũng từ đó, Minh rơi vào tình trạng khổ tâm khi luôn phải đứng giữa hai bên tình – hiếu.
Nhìn nàng dâu kênh kiệu, coi thường chồng, người mẹ thương con chỉ biết khóc thầm. Nhiều lần bà còn đòi về quê sống.
Thấy em chồng mở tiệm thuốc gần nhà bằng “khúc ruột” của mình, cô vợ suốt ngày đay nghiến.Xem thêm: Nghị luận xã hội - Đọc sách là tìm đến một thế giới khác Chỉ tội cho Minh, lúc an ủi mẹ, khi khuyên can vợ, lúc bảo ban em, lúc nào anh cũng cảm thấy buồn, thấy căng thẳng. Anh luôn là tâm điểm của mọi sự xung đột trong gia đình. Thậm chí, khi các “đương sự” không thể đổ bực bội lên người khác, họ chọn anh!
Minh luôn tự hỏi, giờ đây, mình đã có nhiều tiền, nhưng sao không thể thảnh thơi, vui vẻ như từng mong ước?
3. Tiền không thể mua được tình yêu?
Ngày đi học, tối bán hàng thuê, cuộc sống của Thanh, 19 tuổi, khó khăn như bao sinh viên xa quê khác. Hoàng, 28 tuổi, là một giám đốe trẻ thành đạt. Anh thân với ông chủ của Thanh. Nhiều lần đêh chơi, thấy cô dễ thương, hiền lành, Hoàng nảy sinh tình cảm nên theo đuổi.
Mọi người đinh ninh thế nào Thanh cũng gật đầu vì kiếm đâu ra người đàn ông vừa tài giỏi, vừa tốt bụng.
Nể lời chủ, Thanh nhận lời đi uống nước với giám đốc Hoàng. Mọi người nhanh chóng nói ra nói vào rằng: “Lọ Lem gặp Hoàng tử”.
Nhưng sau đó, ai cũng ngạc nhiên khi biết cô một mực từ chốỉ tình cảm của Hoàng.
Ông chủ dò hỏi: “Hoàng là người tốt, biết làm ăn và giàu có. Anh ấy sẽ giúp em trong cuộc sống, thậm chí đỡ đần cả gia đình em ở quê. Sao em lại bỏ lỡ cơ hội?”
Thanh chỉ nói nhẹ nhàng: “Đan giản là vì em không yêu anh ấy. Con tim có lí lẽ riêng của nó. Và tình yêu lại không định giá bằng tiền”.
4. Tiền có thật là chìa khóa vạn năng?Xem thêm: Có người cho rằng sự ham muốn vô độ về tiền bạc sẽ dẫn con người đến chỗ sa đoạ tâm hồnTiền có thể mua ngôi nhà, nhưng không mua được tổ ấm
Tiền có thể mua được chiếc giường, nhưng không mua được giấc ngủ
Tiền mua được chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.
Tiền có thể mua được thuốc, nhưng không mua được sức khỏe…
Chắc chắn còn rất nhiều điều thuộc về chiều sâu bên trong của con người là vô giá. Tiền rất quan trọng trong cuộc sống. Chúng ta vật vã phấn đấu học tập, làm việc
cũng một phần vì nó.
Nhưng tiền có bao giờ mua được nhân phẩm và lương tâm đâu! Bạn đừng bao giờ biến mình thành nô lệ của đồng tiền.
Vanmau.edu.vn
|
Money is not all. What do you think about this idea?
Suggest
There is a funny saying: "There are many things that cannot be bought with money, but can be bought with... a lot of money."
Each person's concept of the value of money is completely different. Some people see it as a good master, others see it as a bad servant. Many people think that money is a universal key that can do everything. Is it true?
And you, do you believe that money is a powerful magic wand for everything in this world?
As for me, money is not everything.
1. Money cannot buy knowledge?
Dinh, 24 years old, has average academic performance. However, she still progresses steadily on the career path. That's thanks to my mother's "talent" for spending money.
Money bought Dinh a baccalaureate degree with excellent grades. Money got her into Medical University. Finally, money brought her to work at a large Dental - Maxillofacial - Facial hospital in the city.
However, after Dinh took the job for a few months, the inspection team suddenly came back to check the personnel. Dinh's fake diploma was exposed.
Of course, she was immediately suspended from work.
Dinh lost everything. No job, no future. All day long, she could only lock herself in her room, not daring to meet her friends. See more: Based on the excerpt from Hoi Co Thanh (Romance of the Three Kingdoms), write a short essay expressing your feelings about the two sentences. The author writes at the end of chapter I: "A happy life... in this world." Dinh is not a rare case. The press once exposed that district official, that specialist, that department official, that provincial mandarin who "used" fake degrees with money, climbed positions, bought positions with money, causing many people to "live" out. , then ask yourself: "Strange story but it seems real!", "True story but it seems fake". The money is terrible!
2. Can money buy happiness?
Minh, 24 years old, is a newly graduated doctor and is considered a potential physician. His only "crime" is that he is too poor and cannot afford to go to hospitals to work.
Always burning with the dream of changing his life, he was determined to stay in the city to make money.
He seized the opportunity when a young lady from a rich family fell in love with him. The wedding was held in full swing.
Thanks to the "blessing" of his wife, Minh opened a medical clinic at home. Having good expertise and good communication skills, Minh's clinic is doing well.
Two years later, he brought his mother and sister to the city to live.
From then on, Minh fell into a miserable state of mind when he always had to stand between the two sides of love and filial piety.
Looking at the arrogant daughter-in-law, looking down on her husband, the loving mother could only cry silently. Many times she even asked to return to her hometown to live.
Seeing her brother-in-law open a pharmacy near the house with her "gut", the wife was upset all day. See more: Social discussion - Reading books is finding another world. Only Minh's fault, when comforting her mother, When dissuading my wife, when telling you, I always feel sad and stressed. He is always the center of all conflicts in the family. Even when the "litigants" couldn't blame others for their frustration, they chose him!
Minh always wondered, now, I have a lot of money, but why can't I be as relaxed and happy as I ever wanted?
3. Money cannot buy love?
Going to school during the day and selling goods at night, the life of Thanh, 19 years old, is as difficult as that of many other students far from home. Hoang, 28 years old, is a successful young director. He is close to Thanh's boss. Hanging out many times, seeing her cute and gentle, Hoang had feelings for her so he pursued her.
No matter what everyone thought, Thanh nodded because he couldn't find a man who was both talented and kind.
Respecting the owner's words, Thanh accepted to go for a drink with director Hoang. Everyone quickly said: "Cinderella meets the Prince".
But later, everyone was surprised to learn that she persistently refused to show Hoang's feelings.
The boss asked: "Hoang is a good person, knows how to do business and is rich. He will help you in life, even help your whole family in the countryside. Why did you miss the opportunity?”
Thanh just said softly: "Dan simply because I don't love him. The heart has its own reasons. And love is not priced in money."
4. Is money really the universal key? See more: Some people believe that an insatiable desire for money will lead people to spiritual ruin. Money can buy a house, but not a home.
Money can buy a bed, but not sleep
Money can buy a watch, but not time.
Money can buy medicine, but not health...
Surely there are many things about the inner depths of people that are priceless. Money is very important in life. We struggle to study and work
partly because of it.
But money can never buy dignity and conscience! You should never become a slave to money.
Vanmau.edu.vn
|
Tnú là nhân vật đậm màu sắc sử thi mà vẫn có tính cách riêng biệt, độc đáo.
Hướng dẫn
a) Tầm vóc sử thi toát lên từ hình ảnh chàng trai Tây Nguyên gan góc, dũng cảm, một lòng trung thành với cách mạng
– Ngay từ nhỏ, Tnú đã không sợ gian khổ, nguy hiểm khi làm liên lạc cho anh Quyết. Tnú nhanh nhẹn, dũngcảm, luồn rừng nhanh như con sóc, vượt suối chỉ chọn nơi thác dữ để tránh ổ phục kích của giặc. Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt luôn cái thư và không thốt lên một lời khai dù bọn lính tra hỏi. Cụ Mết và người Xô Man rất tự hào về đứa con dũng cảm của làng: "Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta".
– Bị giặc bắt, bị giam cầm, Tnú vẫn vượt ngục trở về làng đúng vào lúc kẻ thù khủng bố dữ dội hòng dập tắt cuộc đấu tranh giành tự do của đồng bào Xô Man: anh Quyết đã hi sinh, dân làng nhiều người bị giặc giết hại. Tnú đã nhận lấy trách nhiệm thiêng liêng: cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc. Anh lên núi Ngọc Linh lấy đá mài về để dân làng mài vũ khí. Hằnh động ấy thể hiện ý chí bất khuất của những con người yêu tự do, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì tự do.
– Trong những giờ phút đau thương nhất (vợ con bị giặc sát hại, bản thân cận kề cái chết,…), Tnú vẫn giữ vững tinh thần bất khuất của người cộng sản. Anh chỉ lo lắng cho số phận của buôn làng, cho cuộc chiến đấu còn dang dở: "Đến khi có lệnh Đảng cho đánh, ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc?". Tnú chỉ tiếc không được tiếp tục sống để cầm vũ khí cùng dân làng chiến đấu.
– Lúc bị ngọn lửa đốt cháy mười đầu ngón tay, Tnú đau đớn đến cùng cực: "Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi" nhưnơ Tnú vẫn nhớ lời anh Quyết: "Người cộng sản không thèm kêu van".
– Khi đốt cháy hai bàn tay Tnú, kẻ thù không chỉ muốn giết anh mà còn muốn dùng máu lửa để dập tắt khát vọng tự do của người Xô Man. Thằng Dục muốn họ phải khiếp sợ mà chấp nhận sống kiếp nô lệ: "Số kiếp chúng mày không phải số kiếp cầm giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe không!". Nhưng Tnú đã không chịu khuất phục. Với hai bàn tay tàn tật "ngón tay còn hai đốt", "không mọc ra được nữa", anh vẫn cầm súng lên đường chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Chiến công anh kể cho dân làng nghe đêm về thăm làng đã khẳng định sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên và chân lí của thời đại mà cụ Mết muốn truyền cho các thế hệ sau: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!".
b) Tính cách riêng biệt, độc đáo được thể hiện rõ nét nhất qua cách biểu hiện tình yêu thương, gắn bó sâu nặng với gia đình, quê hương
– Yêu buôn làng, núi rừng:
Xem thêm: Phân tích tính sử thi trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành- Văn 12+ Ngay từ khi còn là một cậu bé, Tnú đã sớm có ý thức về trách nhiệm với buôn làng. Tnú làm liên lạc cho anh Quyết trước hết vì lời dạy của cụ Mết: "Cán bộ là Đảng. Đảng còn,núi nước này còn". Học chữ thua Mai, cậu bé lấy đá đập vào đầu để tự trừng phạt mình, đập vỡ cả tấm bảng… Nhưng nghe anh Quyết nói phải biết chữ mới làm được cán bộ giúp dân làng đánh giặc, Tnú lại kiên trì học… Lúc cận kề cái chết, nỗi băn khoăn duy nhất của anh là ai sẽ lãnh đạo dân làng đứng lên cầm vũ khí đánh giặc.
+ Rời làng Xô Man đi chiến đấu, Tnú nhớ da diết tiếng chày giã gạo vang lên mỗi buổi chiều. Nó gắn liến với hình ảnh những người phụ nữ Strá dịu dàng, tần tảo như mẹ anh, như Mai, Dít (khác với niềm tự hào của cụ Mết về rừng cây xà nu: "Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta […] Đố nó giết hết rừng xà nu này!"…). Nó mang theo cả nhịp sống bình yên, đầm ấm của quê nhà. Tnú thuộc từng gốc cây trên lối đi, nhớ từng khuôn mặt của người già. Dường như anh cảm nhận được cả hương vị của dòng nước chảy ra từ máng nước làng mình. Dù đã rửa mặt ở suối rồi nhưng Tnú vẫn để cho dòng nước ấy xối lên khắp người mình như những ngày xưa.
+ Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ và lớn lên trongtình thương yêu, đùm bọc của làng. Ngày trở về, dẫu không còn gia đình riêng nhưng anh không hể có cảm giác lẻ loi, đơn độc vì làng Xô Man là ngôi nhà, là tổ ấm tràn ngập niềm yêu thương, trìu mến của anh. Những tình cảm yêu thương ấy chính là cội nguồn tạo nên sức mạnh phi thường của Tnú, giúp anh vượt qua mọi thử thách, mọi mất mát, hi sinh trên con đường chiến đấu.
– Yêu thương vợ con:
+ Tnú đã không thể nghe theo tiếng gọi của lí trí, lời khuyên của cụ Mết khi anh chứng kiến cảnh vợ con bị hành hạ. Dù biết sẽ phải trả giá bằng sinh mạng của mình, Tnúvẫn xông vào giữa vòng vây của bọn lính, dang đôi cánh tay "như hai cánh lim chắc" ôm lấy mẹ con Mai.
+ Trở về thăm làng, từng kỉ niệm xưa lại trỗi dậy. Anh nhớ từ lúc Mai còn là một cô bé hồn nhiên, nhanh nhẹn, tiếng nói lanh lảnh đến khi cô là một thiếu nữ để rơi trên tay anh những giọt nước mắt "vừa xấu hổ vừa thương yêu". Qua nơi gặp gỡ Mai ngày xưa, kỉ niệm cũ lại "cứa vào lòng anh". Nỗi đau mất Mai còn nguyên vẹn trong tâm hồn Tnú dù bao nhiêu năm tháng đã trôi qua.
+ Ngồi bên bếp lửa, nhìn thoáng qua gương mặt Dít, anh đã bàng hoàng ngỡ Mai còn sống: "Tnú bất chợt nghe một luồng lạnh rân rân ở mặt và ở ngực. Mai! Trước mắt anh là Mai đấy!".
c) Tnú là người con ưu tú nhất của làng Xô Man, cũng là hiộn thân cho vẻ đẹp của một thế hệ, một thời đại. Cùng với tầm vóc sử thi, những nét cá tính độc đáo, riêng biệt khiến cho nhân vật Tnú càng trở nên sống động, chân thực.
Nguồn: thêm: Em hãy tưởng tượng và kể lại cuộc gặp gỡ của em với một nhân vật trong truyền thuyết đã làm nên một phong tục cổ truyền ngày tết
|
Tnú is a character with epic colors but still has a distinct and unique personality.
Instruct
a) Epic stature exudes from the image of a brave, courageous Central Highlands boy with loyalty to the revolution
– From a young age, Tnú was not afraid of hardship or danger when working as a contact for Mr. Quyet. Tnú was agile and brave, running through the forest as quickly as a squirrel, crossing streams, only choosing fierce waterfalls to avoid enemy ambushes. When captured by the enemy, Tnú swallowed the letter and did not utter a single statement even though the soldiers questioned him. Mr. Met and the Xo Man people are very proud of the village's brave son: "His life is miserable, but his belly is as clean as the spring water of our village."
– Arrested and imprisoned by the enemy, Tnú still escaped from prison and returned to the village right at the time when the enemy was violently terrorizing to extinguish the struggle for freedom of the Soviet Man people: Mr. Quyet sacrificed his life, and many villagers. was killed by the enemy. Tnú accepted the sacred responsibility: together with Mr. Met, he led the villagers to prepare weapons to fight the enemy. He went to Ngoc Linh mountain to get grinding stones so the villagers could sharpen their weapons. That action shows the indomitable will of freedom-loving people, ready to fight and sacrifice for freedom.
– In the most painful moments (his wife and children were murdered by the enemy, he was close to death, etc.), Tnú still maintained the indomitable spirit of a communist. He only worries about the fate of the village, about the unfinished battle: "When the Party orders to fight, who will be the leader of the Xo Man villagers to fight the enemy?". Tnú only regrets not being able to continue living to take up arms and fight with the villagers.
– When the fire burned the tips of his ten fingers, Tnú was in extreme pain: "I heard the fire burning in my chest, burning in my stomach. My blood was salty on the tip of my tongue. My teeth had bitten my lip" butnên Tnú still remembers Mr. Quyet's words: "Communists don't bother to complain."
– When burning Tnú's hands, the enemy not only wanted to kill him but also wanted to use blood and fire to extinguish the Soviet people's desire for freedom. Duc wants them to be terrified and accept a life of slavery: "Your fate is not the fate of holding a spear. Give up the dream of holding a spear, you hear me!". But Tnú did not yield. With two disabled hands, "with two fingers left" and "no longer growing", he still held a gun and set out to fight and defeat the enemy. The victory he told the villagers that night when he visited the village affirmed the strong vitality of the people of the Central Highlands and the truth of the era that Mr. Met wanted to pass on to future generations: "They have guns, we must Take the spear!".
b) A distinct and unique personality is most clearly expressed through expressions of love and deep attachment to family and homeland.
– Love villages, mountains and forests:
See more: Analyzing the epic in the story "The Snake Forest" by Nguyen Trung Thanh - Literature 12+ Ever since he was a boy, Tnú had an early sense of responsibility to the village. Tnú contacted Mr. Quyet first of all because of Mr. Met's teachings: "The cadres are the Party. The Party still exists, the mountains and water still exist." Losing to Mai in learning to read, the boy hit his head with a rock to punish himself, breaking the board... But hearing Mr. Quyet say that he had to be literate to be an officer to help the villagers fight the enemy, Tnú persevered in studying... When Near death, his only concern was who would lead the villagers to take up arms and fight the enemy.
+ Leaving Xo Man village to fight, Tnú deeply missed the sound of the pestle pounding rice every afternoon. It is associated with the image of gentle, diligent Strá women like his mother, Mai, and Dit (different from Mr. Met's pride in the sandalwood forest: "There is no tree as strong as the earthy sandalwood tree." I [...] Don't let it kill all this snake forest!"...). It carries with it the peaceful and warm rhythm of life of the homeland. Tnú knows every tree on the path, remembers every face of the old people. It seemed he could feel the taste of the water flowing from his village's water trough. Even though he had washed his face in the stream, Tnú still let the water pour over his body like in the old days.
+ Tnú lost his parents at a young age and grew up in the love and care of the village. On his return, even though he no longer had his own family, he could not feel lonely or alone because Xo Man village was his house, his home filled with love and affection. Those feelings of love are the source of Tnú's extraordinary strength, helping him overcome all challenges, all losses, and sacrifices on the path of battle.
– Love your wife and children:
+ Tnú was unable to listen to the call of reason and Mr. Met's advice when he witnessed his wife and children being abused. Even though he knew he would have to pay with his life, Tnú still rushed into the middle of the soldiers' siege, spreading his arms "like strong iron wings" to hug Mai and her child.
+ Returning to visit the village, old memories resurfaced. He remembers from when Mai was an innocent, agile girl with a clear voice until she was a young woman who shed tears of "both shame and love" in his hands. Passing by the place where Mai met in the past, old memories "cut into his heart". The pain of losing Mai remains intact in Tnú's soul no matter how many years have passed.
+ Sitting by the fire, glancing at Dit's face, he was shocked to think that Mai was still alive: "Tnú suddenly felt a cold sensation on his face and chest. Mai! In front of me is Mai!".
c) Tnú is the most outstanding son of Xo Man village, and also represents the beauty of a generation and an era. Along with epic stature, unique and distinct personality traits make the character Tnú even more vivid and realistic.
Source: more: Imagine and recount your encounter with a legendary character who created a traditional Tet custom
|
Trao đổi vổi bạn em về ý nghĩa của câu chuyện Những hạt thóc giống
Gợi ý
Hùng: Đọc xong truyện Những hạt thóc giống cậu cảm thấy thế nào?
Mạnh: Tớ thấy đây quả là một câu chuyện thú vị và rất có ý nghĩa. Chú bé Chôm tuy mồ côi, nhà nghèo nhưng lại rất trung thực. Chú không vì lợi ích trước mắt mà nói dối. Đức tính ấy quả rất đáng coi trọng.
Hùng: Tớ cũng nghĩ giống cậu. Với lòng trung thực, Chôm rất xứng đáng để lên ngôi vua trị vì vương quốc. Và chúng ta cũng thấy, sau này Chôm đã trở thành ông vua sáng của đất nước Khơme đúng không?
Mạnh: Ừ! Trung thực quả là đức tính quan trọng của con người. Chẳng thế mà từ xưa, nhà vua đã biết lấy đó làm tiêu chí chọn người kế vị cho mình. Và cho đến bây giờ nó vẫn còn được xã hội hết sức coi trọng. Đặc biệt là trong môi trường học tập như trường học của chúng ta.
Hùng: Chứ còn gì nữa! Thế nên cô giáo mới thường xuyên nhắc nhở chúng ta phải trung thực trong thi cử. Mình phải nghe lời cô để trở thành người học sinh ngoan và sau này là một người có ích cho xã hội.
Mạnh: Mình tán thành. Chúng ta phải học tập chú bé Chôm chứ!
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Tả cây xấu hổ
|
Discuss with your friends the meaning of the story The Seeds of Rice
Suggest
Hung: How do you feel after reading the story Grains of Rice Like You?
Manh: I find this to be an interesting and very meaningful story. Although little Chom is an orphan and a poor family, he is very honest. I don't lie for immediate benefit. That virtue is truly worthy of respect.
Hung: I also think the same as you. With honesty, Chom is very worthy to be crowned king of the kingdom. And we also see that Chom later became the bright king of the Khmer country, right?
Manh: Yes! Honesty is truly an important human virtue. That's why from ancient times, the king knew how to use that as a criterion for choosing his successor. And until now it is still highly respected by society. Especially in a learning environment like our school.
Hung: But nothing else! That's why teachers often remind us to be honest in exams. I have to listen to her to become a good student and later a useful person for society.
Manh: I agree. We must learn from little Chom!
Vanmau.edu.vn
See more: Describe the tree of shame
|
Đề bài: Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Nhàn
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:
Xem thêm: Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Gia ThiềuThu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho. đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui
(Thói đời)
Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du hay nhất
|
Đề bài: Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Nhàn
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:
Xem thêm: Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Gia ThiềuThu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho. đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui
(Thói đời)
Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.
Nguồn Edufly
Xem thêm: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du hay nhất
|
Trong buổi học đầu xuân, các bạn kể những niềm vui ngày Tết và bỗng nhiên nghe Bảng Đen tâm sự. Em hãy kể lại câu chuyện đó
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI
Hoàn cảnh xảy ra sự việc:
+ Thời gian: Sau Tết, buổi sớm mai lạnh.
+ Không gian: ở một ngôi trường vừa thức dậy.
B. THÂN BÀI
D. Mọi người trong lớp đang kể chuyện vui ngày tết.
E. Bảng đen cũng lên tiếng ngỏ lời tâm sự.
F. Bảng kể lại những công ích của mình cho các bạn học sinh và tủi thân thấy mình bị hành hạ.
+ Bảng bị rạch chằng chịt bởi những vết dao sắc.
+ Bảng không được treo chắc chắn nên bị rớt và bị gãy góc.
+ Bảng bị banh đá vào mặt nên bị mất một mảng sơn.
G. Bảnh đen khuyên nhủ chân tình:
+ Yêu cầu treo mình chắc chắn.
+ Yêu cầu phải biết tôn trọng mình, phải bảo vệ mình để nó giúp ích cho các bạn học sinh.
+ Mong các bạn nhỏ học hành tốt để không phụ lòng thầy cô và của nó.
+ Nhắc nhở những học sinh còn quậy phá và ngủ gật.
+ Chúc tết đầu năm.
C. KẾT BÀI
+ Trống đánh vào lớp.
+ Bạn Mai thay lớp cảm ơn Bảng Đen.
+ Cô giáo vào lớp, buổi học bắt đầu.
BÀI LÀM
Sau Tết, những buổi sớm mai thường se lạnh. Ngôi trường cấp một nhỏ nhắn còn ẩn hiện trong màn sương mỏng lửng lơ. Tuy mùa đông đã cởi chiếc áo xanh của mình để đón rước nàng xuân, thế mà ngôi trường vẫn còn như ngủ rất kỹ trong khí trời có gió heo may…
Rồi ông mặt trời ló dạng. Nắng rải vàng sân trường, nắng như những lớp bụi óng len lỏi vào trong lớp học. Nắng rực rỡ và chiếu sáng các khuôn mặt đầy sức xuân của lớp tôi. Ngôi trường đã thức dậy.
Tụ tập tại lớp là các bạn nhỏ lớp 1A chúng tôi. Ai cũng hăng hái kể chuyện ngày xuân trong dịp nghỉ Tết vừa qua. Bé Mai với bím tóc mềm hoe hoe vàng, ngúng nguẩy đôi bướm trên đầu trông thật dễ thương. Bạn ấy khoe: "Năm nay, mẹ tôi đưa tôi xuống thuyền, dắt tôi về với ngoại nè, ở quê ngoại lạ lắm nghe, có dừa nước, có cây bần mà quả của nó chắc là ăn ngon lắm!" Nam là một cậu bé lí lắc nhất lớp tôi cướp lời: "Tớ cũng về quê nội của tớ chứ bộ. Ở đó cũng có bần, tớ đã ăn nó rồi, chát ơi là chát, đâu ngon lành gì! Nghe nói ăn nhiều là chết vì ngộ độc đấy!…".Xem thêm: Kể lại kỉ niệm của em với mẹ Bỗng có tiếng nói từ bức tường trước mặt: "Các bạn ơi, cho tôi tâm sự vài lời cùng các bạn với!". Tất cả chúng tôi ngơ ngác, mọi người đều đưa cặp mắt nhìn lên tấm bảng đen và quay lại nhìn nhau.
"Ai vậy kìa…" – Mai lúng túng.
"Chẳng lẽ bảng lại nói được sao" – Nam im thin thít rồi nghi ngờ hỏi.
"Đúng đấy, chính tôi là Bảng Đen đang nói với các bạn đấy! Các bạn có cho tôi được nói đôi lời đầu năm mới không?".
Mai chau mày:
"Nhưng mà Bảng ơi, "tâm sự" là cái gì, tôi không hiểu!".
Ừ nhỉ, sao lại không nói chuyện như tụi mình mà lại "tâm sự"? "tâm sự" nghĩa là bạn định bày trò chơi cho chúng tôi phải không hở Bảng? – Nam cũng thắc mắc như Mai.
Không đâu, tâm sự nghĩa là chúng mình trò chuyện thân mật với nhau đấy mà!
À, vậy thì Bảng cứ nói chuyện với chúng tôi đi. Đầu năm nghe Bảng nói chuyện chắc cũng thú vị lắm đây! Nam lên tiếng.
Bảng Đen chậm rãi tiếp lời: "Chắc có lẽ từ khi bước vào lớp học này, cho đến hôm nay, đã bao lần các bạn theo bàn tay cô giáo nhìn thấy những chữ viết và những con số. Nhưng đã có bạn nào nghĩ và chú ý đến tôi chưa? Tôi không tự khoe mình đâu nhưng cũng thật là tủi thân khi thấy mình làm việc có ích cho mọi người mà lại bị mọi người hất hủi và hành hạ.Xem thêm: Tả cây đào cũng cần văn mẫu Ủa, đã có ai đốì xử tệ với Bảng Đen thế hở bạn? Mai lên tiếng cắt ngang lời Bảng Đen.
Bạn hãy nhìn lên mặt bên phải của tôi thì rõ. Bạn có thấy những vết dao rạch chằng chịt với việc khắc những chữ a, b, c xiêu xọ không thể xóa được trên mặt tôi đấy không? Và phía bên trái, bạn không thấy một mảng sơn của tôi đã bị bong ra do một quả banh các bạn đá trong lớp đập vào đó sao? Bạn hãy nhìn góc dưới của tôi đi, nó bị vênh ra và gãy mép, đó là do các bạn treo tôi trên hai sợi dây thép nhỏ xíu cho nên một lần các bạn níu lấy tôi để quét mạng nhện và tôi rớt xuống mới ra cơ sự đó…
Bảng ơi, bạn trách chúng tôi nhiều quá đấy, đầu năm như vậy là chúng tôi không hên tí nào. Sao bạn không trách người nào đã kẻ trên mặt bạn cơ man là những ô vuông? Nam trách Bảng.
Bảng giải thích: Ồ, vậy là bạn đã nghĩ sai cho người ta rồi. Nếu không có những ô vuông đó thì các bạn khó lòng mà tập viết cho đúng dòng, đúng ô ở trong tập. Nó cần thiết hơn là bạn tưởng… Đấy, có những đường rạch nó cần thiết và có những đường rạch nó nguy hại như thế đó.
Nam cúi đầu xấu hổ. Hình như thủ phạm của những chữ cái được khắc vào Bảng là do chính bạn ấy thiếu suy nghĩ mà có.
Bảng Đen bỗng chuyển lời nhỏ nhẹ:
– Các bạn ơi, tôi nói để các bạn biết những sai lầm của mình mà sửa, chứ tôi đâu có trách móc nặng lời đâu. Tôi hy vọng là tôi sẽ được buộc chặt hơn, chứ cứ đứng thế này tôi e sợ một ngày nào mình lại bị đổ đánh rầm như dạo nọ… Các bạn ạ, lớp học này đón các bận từ trường mẫu giáo lên đây đầu tiên chính là tôi. Và cũng chính tôi giúp các bạn tròn miệng tập nói chữ wO" lần đầu tiên. Các bạn còn nhớ cái ngày cô giáo viết nắn nót trong ô vuông chữ "O" khá to và sau đó cả cô trò cùng đọc. Rồi cô bảo các bạn theo đúng mẫu trên mặt tôi mà viết vào trong tập. Từ đó đến nay, bao nhiêu bài học đã qua đi, bao nhiêu lần mặt tôi được viết và được bôi xóa. Tôi hy vọng các bạn sè không phụ lòng cô giáo và nếu bạn nào còn biết cảm ơn tôi thì ráng mà học hành cho giỏi. Tôi cũng khuyên các bạn đừng có nghịch phá, đừng nói chuyện riêng và đừng ngủ gục ở trong lớp. Ở trên tường này mỗi lúc nhìn thấy vậy, tôi buồn quá và hôm nay mới có dịp được tâm sự với các bạn đấy! Một năm mới nữa đã đến. Các bạn thêm một tuổi thì tôi chúc các bạn cũng thêm nhiều kiến thức và thêm nhiều việc tốt…Xem thêm: Soạn bài Em bé thông minh Tiếng trống đánh báo giờ vào học. Bảng Đen im lặng, chúng tôi ngồi im không động đậy. Cứ y như một giấc mơ Mai vẫn đang tròn xoe mắt nhìn Bảng rất ngạc nhiên. Nam cúi đầu đượm chút buồn rầu. Tôi đành lên tiếng: – "Cảm ơn bạn rất nhiều Bảng Đen ạ, chúng tôi xin hứa sẽ nghe lời khuyên chân tình của bạn. Và ngay cuối buổi học này chúng tôi sẽ treo bạn bằng sợi dây chì to và chắc hơn".
Cô giáo đi vào lớp, chúng tôi nghiêm trang đứng dậy chào. Buổi học đầu năm bắt đầu…
Vanmau.edu.vn
|
During the first spring class, the students talked about the joys of Tet and suddenly heard Blackboard's confession. Let me tell that story again
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPEN LESSON
Circumstances of the incident:
+ Time: After Tet, the morning is cold.
+ Space: in a school that just woke up.
B. BODY OF THE ARTICLE
D. Everyone in the class is telling funny stories about Tet.
E. The blackboard also spoke up to confide.
F. The board recounted his public service to the students and felt sorry for himself when he saw that he was being tortured.
+ The board was riddled with sharp knife cuts.
+ The board was not hung securely so it fell and broke the corner.
+ The board was kicked in the face by a ball, so a piece of paint was lost.
G. Black gives sincere advice:
+ Ask to hang yourself securely.
+ Requires you to respect yourself and protect yourself so that it can help the students.
+ Hope the children study well so as not to disappoint their teachers and children.
+ Remind students who are still disruptive and falling asleep.
+ Happy New Year.
C. CONCLUSION
+ The drum beats in the classroom.
+ Mai thanked the Blackboard on behalf of the class.
+ The teacher enters the classroom and the lesson begins.
ASSIGNMENT
After Tet, the mornings are often chilly. The small primary school is still hidden in the thin mist. Although winter has taken off its blue shirt to welcome spring, the school still seems to be sleeping soundly in the windy air...
Then the sun appeared. The sun spreads gold across the schoolyard, the sun is like layers of shiny dust creeping into the classroom. The sun was bright and illuminated the youthful faces of my class. The school has woken up.
Gathering in the classroom are our class 1A children. Everyone enthusiastically told stories about spring days during the recent Tet holiday. Baby Mai with her soft blonde pigtails, wiggling a pair of butterflies on her head, looks so cute. She boasted: "This year, my mother took me on the boat and took me back to my grandmother. It's very strange in my grandmother's hometown. There are water coconuts and cork trees whose fruit must be delicious!" Nam was the smartest boy in the class and I interrupted him: "I also went back to my grandfather's hometown. There's also dirt there, I've eaten it, it's acrid, it's not delicious! I heard it's eaten a lot. I died from poisoning!...". See more: Telling about my memories with my mother Suddenly there was a voice from the wall in front of me: "Guys, let me confide a few words with you!". We were all bewildered, everyone looked up at the blackboard and back at each other.
"Who is that..." - Mai was confused.
"Could it be that the board can speak?" - Nam remained silent and then asked doubtfully.
"That's right, it's me who is Blackboard talking to you! Will you let me say a few words at the beginning of the new year?".
Mai frowned:
"But Bang, what is "confiding"? I don't understand!".
Yeah, why don't we talk like we do and "confide"? "confide" means you intend to show us a game, right Bang? – Nam also wondered like Mai.
No, confiding means we talk intimately to each other!
Ah, then Bang just talk to us. Hearing Board talk at the beginning of the year must be very interesting! Nam spoke up.
Blackboard slowly continued: "Perhaps since entering this classroom, until today, how many times have you followed the teacher's hand and seen the letters and numbers? But have any of you thought? and pay attention to me? I'm not boasting about myself, but it's really sad to see that I'm doing something useful for everyone but being rejected and abused by everyone. See more: Describing a peach tree also needs a model Wow, has anyone treated Black Board so badly? Mai interrupted Black Board's words.
Please look at my right face to see clearly. Do you see the intricate knife cuts and indelible carvings of the letters a, b, and c on my face? And on the left, don't you see a piece of my paint that was peeled off because a ball my friends kicked in class hit it? Look at my bottom corner, it's warped and the edges are broken, that's because you hung me on two tiny steel wires, so one time you grabbed me to sweep away the spider web and I fell down. That incident…
Bang, you blame us too much, we are not lucky at the beginning of the year like this. Why don't you blame the person who drew so many squares on your face? Nam blamed Bang.
Explanation panel: Oh, so you gave that person the wrong idea. Without those squares, it would be difficult for you to practice writing on the right lines and in the right boxes in your notebook. It is more necessary than you think... See, there are lines that are necessary and there are lines that are dangerous like that.
Nam bowed his head in shame. It seems that the culprit of the letters engraved on the Board was his own thoughtlessness.
Blackboard suddenly spoke softly:
– Guys, I'm telling you so you can know your mistakes and correct them, but I'm not blaming you harshly. I hope that I will be tied tighter, but if I keep standing like this, I'm afraid that one day I will fall and crash like I did... Everyone, this class welcomes the first students from kindergarten to come here. is me. And it was also me who helped the students practice saying the word "wO" for the first time. They still remember the day the teacher neatly wrote the letter "O" in a fairly large square and then all the students read it together. Then she said. You guys follow the pattern on my face and write it in your notebook. Since then, how many lessons have passed, how many times my face has been written and erased? I hope you won't disappoint the teacher And if you still know how to thank me, try to study well. I also advise you not to be disruptive, not to talk in private and not to fall asleep in class every time you see that So sad and today I have the opportunity to confide in you! Another new year has come. You are one year older, I wish you more knowledge and more good things... See more: Prepare lesson Em smart kid. The drum sounded to announce the start of class. The Blackboard was silent, we sat still, just like in a dream. Mai was still looking at Nam with her eyes wide in surprise. I had to speak up: - "Thank you very much, Black Board, we promise to listen to your sincere advice. And right at the end of this lesson, we will hang you with a bigger and stronger lead rope."
The teacher entered the classroom and we solemnly stood up to greet her. The first class of the year begins…
Vanmau.edu.vn
|
Trong bài Mộí khúc ca xuân 12 – 1977, Tố Hữu đã bày tỏ một quan niệm nhân sinh ý nghĩa: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Hãy giải thích và bình luận
Gợi ý
HƯỚNG DẪN
– Giải thích:
+ Cho là công hiến, là hi sinh, là tương thân tương ái: cha mẹ dành cho con cái, con cái dành cho gia đình, của những người (có thể là không thân thiết) trong cuộc sống với nhau…
+ Nhận là đón lấy, hưởng thụ, chiếm lĩnh…
-> Giữa cho và nhận luôn có môi quan hệ tương tác cùng nhau, thực tế đã luôn chứng tỏ rằng khi ta cho cũng là lúc ta nhận được từ những hạnh phúc sung sướng của người khác. Ý thơ là một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng nhưng hết sức chân thành và sâu sắc của tác giả về lối sống đẹp ở dời.
– Bàn luận:
+ Trong cuộc sống hiện tại lí tưởng sống cao đẹp này vẫn luôn được phát huy và gìn giữ (những hành động, nghĩa cử cao đẹp của nhiều người qua những chương trình như thắp sáng ước mơ hay vòng tay nhân ái… đã nói lên điều đó).
+ Tuy vậy, trong cuộc sống, ở đâu đó vẫn có những người chỉ biết đón nhận, hưởng thụ từ người khác chứ không bao giờ biết ban tặng, công hiến và hi sinh, chúng ta cần phải phê phán lối sống ích kỉ, hẹp hòi đó.Xem thêm: Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Đau đớn thay phận đàn bà. Nhận xét đó có còn đúng với người phụ nữ trong cuộc sống hôm nay?Vanmau.edu.vn
|
In the song Moi Khuc Ca Spring 12 - 1977, To Huu expressed a meaningful concept of life: "Living is not giving but only receiving yourself." Please explain and comment
Suggest
INSTRUCT
- Explain:
+ Giving is dedication, sacrifice, and mutual love: parents for their children, children for the family, of people (who may not be close) in life together...
+ To receive is to receive, enjoy, possess...
-> There is always an interactive relationship between giving and receiving. Reality has always proven that when we give, we also receive happiness from others. The idea of the poem is a gentle but extremely sincere and profound message from the author about a beautiful lifestyle.
- Discuss:
+ In today's life, this noble ideal of living is always promoted and preserved (the noble actions and gestures of many people through programs such as lighting dreams or compassionate arms... have shown that that).
+ However, in life, somewhere there are still people who only know how to receive and enjoy from others but never know how to give, contribute and sacrifice. We need to criticize the selfish lifestyle, That's narrow-minded. See more: In the work The Tale of Kieu, Nguyen Du wrote: How painful is the fate of women. Is that comment still true for women in today's life? Vanmau.edu.vn
|
Trong bài thơ Một khúc ca xuân, nhà thơ Tố Hữu viết: “Nếu là con chim, chiếc lá… Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Em có suy nghĩ gì về lí tưởng sống của thanh niên
Gợi ý
Đề bài:
Trong bài thơ Một khúc ca xuân, nhà thơ Tố Hữu viết:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Em có suy nghĩ gì về lí tưởng sống của thanh niên
Bài làm:
Cuộc đời có bao giờ muôn hình vạn trạng. Trong bức tranh muôn vẻ ấy, có mặt tốt, mặt xấu, mặt tích cực, mặt tiêu cực và chắc chắn có người sống có lí tưởng và người sống không có lí tưởng. Nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng thơ thật hay về lí tưởng sống:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lễ nào vay mà không có tra?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Thiết nghĩ đây là vấn đề đáng để thanh niên chúng ta quan tâm, bàn luận.
Nhưng muốn đi đến tận gốc rễ của vấn đề, trước hết ta phải tìm hiểu thế nào là lí tưởng? Lí tưởng là mục đích sống cao đẹp của con người. Người sống có lí tưởng luôn hướng tới vẻ đẹp chân, thiện, mĩ; luôn hướng tới sự chan hòa, sẻ chia, nhân ái, sống vì mọi người, muốn công hiến tài năng, sức lực vì quê hương, đất nước, luôn cố gắng bay cao, bay xa thể hiện bản lĩnh của bản thân.
Phó mặc số phận! Phó mặc cuộc đời! Tuổi trẻ không có lí tưởng như phiến đá lớn vô dụng. Khi ấy chúng ta không thể ngước mắt nhìn xa mà còn đui điếc về tâm hồn. Chúng ta chỉ biết sống với những mục đích tầm thường. Chỉ vun vén, tô vẽ cho vẻ bề ngoài của bản thân. Từ đó mà sinh ra thói ích kỉ, nhỏ nhen. sống không lí tưởng, không mục đích là tự ta đang đẩy ta vào ngõ cụt của cuộc đời. Còn nếu mục đích tầm thường thì cũng làm cho tâm hồn con người không cất cao lên được.Xem thêm: Người ta thấy ở văn xuôi Nguyễn Ái Quốc "một nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh”. Hãy chứng tỏ điều đó qua truyện ngắn Vi hành Con thuyền sống với biển khơi mênh mông cần đặt cho mình một ngọn hải đăng để cập bến. Con người nếu sống không có mục đích lí tưởng cũng thường dễ dàng mất phương hướng. Dễ bị những cám dỗ đen tối nhấn chìm tài năng, sức lực, tuổi trẻ. Nếu sống không có mục đích, buông thả chắc chắn chúng ta sẽ không có được kết cục tốt đẹp. Điệu nhạc lạc loài với những ham muốn tầm thường, xấu xa chẳng thể tồn tại được lâu.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ có biết bao “anh thanh niên” như nhân vật của Nguyễn Thành Long… Họ đã ra đi vì lí tưởng cao đẹp của cả dân tộc. Họ ra đi với tiếng gọi thiêng liêng của hai chữ – hòa bình. Họ ra đi không tiếc máu xương, tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc cá nhân… Họ ngã xuô’ng ở tuổi đôi mươi mà bao trang nhật kí còn dang dở vẫn đang được lật giở theo dòng thời gian (Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc, Nhật kí Đặng Thùy Trâm) nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm, về mục đích sống của bản thân với Tể quốc mến yêu. Họ là những người vô danh không tên, không tuổi: “Họ đã sống và chết / Giản dị và bình tâm / Không ai nhớ mặt đặt tên / Nhưng họ đã làm ra Đất nước” (Đất Nước — Nguyễn Khoa Điềm). Họ là Phan Đình Giót – người anh hùng đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai. Là người thanh niên trẻ tuổi, quả cam, quyết một lòng yêu nước, tin tưởng vào cách mạng – Nguyễn Văn Trỗi. Trong giây phút cuối cùng ngã xuống dưới làn súng quân thù anh vẫn hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm / Việt Nam muôn năm!”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi trên tấm ảnh “Nguyễn Văn Trỗi trên pháp trường” như sau: “Vì Tổ quốc, vì nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chông đế quốc Mĩ đến hơi thở cuối cùng. Chí khí lẫm liệt, anh hùng Trỗi là tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước, nhất là cho thanh niên học tập. Chúng ta hôm nay tạc dạ, ghi ơn, kết nôì truyền thông của thế hệ trẻ đi trước”…Xem thêm: Phân tích tính sử thi trong truyện Rừng xà nu
Có người đặt câu hỏi: Lớp trẻ ngày nay liệu có dám hi sinh tính mạng, công hiến sức lực vì Tổ quốc, đồng bào? Câu hỏi ấy đã có câu trả lời từ thực tế. Thanh niên Việt Nam hôm nay là thế hệ năng động, sáng tạo, giàu hoài bão bay cao, bay xa. Lí tưởng sống cao đẹp của thanh niên ngày nay bắt đầu từ những hành động nhỏ nhặt nhất. Từ sẻ chia miếng cơm, manh áo giúp đồng bào nghèo đến các chương trình lớn như đưa con chữ đến vùng sâu, vùng xa, hiến máu nhân đạo, đến các cuộc thi sáng tạo trẻ, Robocon, Olympic… Thanh niên Vỉệt Nam luôn khẳng định được vị trí của mình trong khu vực cũng như trên thế giới. Tuổi trẻ Việt Nam luôn khao khát vươn tới đỉnh vinh quang, nở nụ cười phất cao lá cờ Tổ quốc Việt Nam trên tay như Hoàng Anh Tumi, Lê Công Vinh….
Trong thời kì hội nhập kinh tế thế giới, thanh niên Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với bản tính linh hoạt, sáng tạo, tiếp thu nhanh, thanh niên Việt Nam hôm nay dễ dàng tiếp thu một cách nhanh chóng những tinh hoa văn hóa, thành tựu khoa học kĩ thuật của nhân loại. Đại thắng mùa xuân 1975 mở ra một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên độc lập, tự do, thông nhất đất nước. Nước ta bắt đầu đi lên từ con số 0 tròn trĩnh. Ở điểm xuất phát như vậy, bước vào thế kỉ XXI – thế kỉ của nền kinh tế tri thức, nước ta còn gặp muôn vàn khó khăn, nhất là khi ta đã trở thành thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều đó mở ra cho chúng ta không ít vận hội lẫn nhiều thách thức khó lường. Bởi vậy mỗi thanh niên cần ý thức được trách nhiệm của bản thân – trong học tập cũng như trong lao động, lập cho mình một kế hoạch rõ ràng và từng bước thực hiện để đạt được mục đích.Xem thêm: Thuyết minh về một tác phẩm văn học Tuy nhiên, bên cạnh những thanh niên có lí tưởng sống, mục đích sống đẹp vẫn còn một bộ phận thanh niên sổng không có lí tưởng hoặc mục đích sổng thấp hèn. Ngày nay, không ít thanh niên xem “hưởng thụ” là mục đích sôhg của bản thân. Hầu hết, họ là những cậu ấm, cô chiêu con nhà giàu có. Cú đánh võng ngoạn mục trên đường phố, cơn khoái lạc sau khi dùng cocain, thuốc lắc… không có gì không thể với họ. Hoặc lại có thanh niên toan tính vụ lợi cá nhân. Họ sẵn sàng lợi dụng sự giúp đỡ của người khác chỉ để thu vén cho mình. Lối sống như vậy nhất định sẽ bị xã hội đào thải.
Là một thanh niên thời đại mới tôi luôn xác định ý thức trách nhiệm của bản thân đối với gia đình và xã hội. “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống”. Bạn nghĩ thế nào về câu nói ấy của L. Tôn-xtôi?
Vanmau.edu.vn
|
In the poem A Song of Spring, poet To Huu wrote: "If you were a bird, a leaf... Living is not giving but receiving only yourself." What do you think about the ideal life of young people?
Suggest
Topic:
In the poem A Spring Song, poet To Huu wrote:
"If you are a bird, a leaf
The bird must sing, the leaf must be green
Why should borrow without paying?
Living is not about giving but receiving only yourself.
What do you think about the ideal life of young people?
Assignment:
Life has many different shapes and sizes. In that diverse picture, there are good sides, bad sides, positive sides, negative sides and certainly there are people who live with ideals and people who live without ideals. Poet To Huu wrote beautiful lines of poetry about the ideal of life:
"If you are a bird, a leaf
The bird must sing, the leaf must be green
What ceremony borrows without checking?
Living is not about giving but receiving only yourself.
I think this is an issue worthy of our young people's attention and discussion.
But if we want to get to the root of the problem, we must first find out what is ideal? Ideal is the noble purpose of human life. People who live with ideals always aim for truth, goodness, and beauty; always aiming for harmony, sharing, kindness, living for everyone, wanting to devote talent and strength to the homeland and country, always trying to fly high and far to show one's bravery.
Leave it to fate! Give up on life! Youth without ideals is like a large, useless stone. At that time, we could not raise our eyes to see far away but were also blind and deaf in our soul. We only know how to live with trivial purposes. Just cultivate and paint your appearance. From there, selfishness and pettiness are born. Living without ideals and without purpose is pushing ourselves into a dead end in life. If the purpose is trivial, it will prevent the human soul from rising higher. See more: People see in Nguyen Ai Quoc's prose "a unique flexible narrative art and a deep satirical pen." Full of fighting spirit, fresh and humorous." Let's prove it through the short story Vi Hanh. A boat living on the vast ocean needs to have a lighthouse to reach its shore. If people live without one Ideal goals are often easily lost, susceptible to dark temptations that engulf our talents, strength, and youth. If we live without purpose and indulgence, we will certainly not have a good outcome beautiful music. Mismatched music with trivial, evil desires cannot last long.
During the two resistance wars against the French and the Americans, there were many "young men" like Nguyen Thanh Long's character... They left for the noble ideals of the entire nation. They left with the sacred call of two words - peace. They passed away without regret, their youth, their love, their personal happiness... They fell down in their twenties, but many unfinished diary pages were still being turned over in the flow of time (Forever Two Years Old). (Nguyen Van Thac's Diary of Dang Thuy Tram) reminds us of our responsibility and our purpose in life with our beloved country. They are nameless, ageless people: "They lived and died / Simply and calmly / No one remembers their faces or names / But they created the Country" (Country - Nguyen Khoa Diem). They are Phan Dinh Giot - the hero who used his body to fill the hole in the battleship. As a young man, orange, determined to be patriotic, believing in the revolution - Nguyen Van Troi. In the last moment of falling under enemy gunfire, he still shouted: "Long live Ho Chi Minh / Long live Vietnam!". President Ho Chi Minh wrote on the photo "Nguyen Van Troi on the execution ground" as follows: "For the Fatherland, for the people, martyr Nguyen Van Troi heroically fought against American imperialism until his last breath. With great spirit, hero Troi is a shining revolutionary example for all patriots, especially for young people studying. Today we express our gratitude, express our gratitude, and connect with the communication of the previous young generation"...See more: Analyzing the epic in the story The Forest of Snakes
Some people ask the question: Do today's young people dare to sacrifice their lives and devote their strength for the Fatherland and their compatriots? That question has an answer from reality. Today's Vietnamese youth are a dynamic, creative generation, rich in ambitions to fly high and far. The noble living ideals of today's youth start from the smallest actions. From sharing food and clothes to help poor people to major programs such as bringing literacy to remote areas, donating blood, to youth creativity contests, Robocon, Olympics... Vietnamese youth always affirming its position in the region as well as in the world. Vietnamese youth always aspire to reach the peak of glory, smiling and waving the Vietnamese Fatherland flag in their hands like Hoang Anh Tumi, Le Cong Vinh...
During the period of world economic integration, Vietnamese youth play an important role in the cause of building and protecting the Fatherland. With a flexible, creative, and quick-to-learn nature, Vietnamese youth today easily and quickly absorb the cultural quintessence and scientific and technical achievements of mankind. The great victory of spring 1975 opened a new era: the era of independence, freedom, and unification of the country. Our country started to grow from zero. At such a starting point, entering the 21st century - the century of the knowledge economy, our country still faces countless difficulties, especially when we have become a member of the World Trade Organization (WTO). . That opens up many opportunities and unpredictable challenges for us. Therefore, every young person needs to be aware of their own responsibilities - in study as well as in work, create a clear plan and take steps to achieve the goal. See more: Explanation of a Literary works However, besides the young people who have ideals of life and beautiful life goals, there is still a group of young people who have no ideals or low life goals. Nowadays, many young people consider "enjoyment" as their life's purpose. Most of them are young men and women from rich families. Spectacular swings on the street, pleasure after using cocaine, ecstasy... nothing is impossible for them. Or there are young people who plan for personal gain. They are willing to take advantage of others' help just to make ends meet for themselves. Such a lifestyle will definitely be eliminated by society.
As a young man of the new age, I always determine my sense of responsibility towards my family and society. “Ideals are guiding lights. Without ideals, there is no steadfast direction, and without steadfast direction, there is no life.” What do you think about that statement of L. Tonxto?
Vanmau.edu.vn
|
Trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, hình tượng con tàu mang ý nghĩa biểu tượng. Anh (chị) hãy viết đoạn văn làm rõ ý nghĩa biểu tượng đó
Gợi ý
Bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên là khúc hát say mê, rạo rực của một tâm hồn thơ đã thoát khỏi cái khung chật hẹp của một cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của nhân dân, đất nước. Trong niềm vui bừng tỉnh đó, hồn thơ Chế Lan Viên như hóa thân thành con tàu tâm tưởng hăm hở trở về với nhân dân, với cuộc đời.
“Tây Bắc ư? Có riêng gi Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc hổn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
Bài thơ là lời mời gọi lên Tây Bắc nhưng Tây Bắc ở đây cũng là một biểu tượng cho những miền xa xôi của Tổ quốc. Chính vì thế, hình tượng con tàu là biểu tượng cho tâm hồn nhà thơ đang khao khát lên đường, vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, quấn quanh để đến với cuộc đời rộng lớn.
Có thể nói, nghệ thuật đâu phải tự nó nói đến, mà chỉ có thể khẳng định khi người nghệ sỹ mở lòng đón nhận và hòa nhập với cuộc đời rộng lớn "Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép". Ngược lại, nếu lòng anh "đã hóa những con tàu" và tiếng hát con tàu hòa nhập cùng khúc hát của bốn bề Tổ quốc thì cho dù chưa có đường tàu lên Tây Bắc nhưng hình tượng con tàu vẫn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.Xem thêm: Cảm nhận của em về bài ca dao: Rủ nhau lên núi đốt than. Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành. Củi than nhem nhuốc với tình. Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên Đầu tiên, Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi khát vọng lên đường của mọi người:
"Anh có nghe gió ngàn đang vẫy gọi
Ngoài của ô, tàu đói những vầng trăng"
Nhà thơ nói với người khác mà cũng là nói với chính mình. Cuộc kháng chiến trường kì gian khổ đã kết thúc, miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới đang rất cần sự chung tay giúp sức của tất cả những người con yêu nước. Cuộc sông lớn đó là ngọn nguồn cúa mọi sáng tạo nghệ thuật. Từ sự chiêm nghiêm về cuộc đời thơ của chính mình, Chế Lan Viên đã đưa ra những lời khuyên đầy tâm huyết: hay đi ra khỏi cái cô đơn, chặt hẹp của mình mà hòa nhập với mọi người, hãy vượt ra khỏi chân trời của cái tôi nhỏ bé để đến với “châri trời của tất cả”. Đi theo con đường ấy, có thể tìm kiếm được nghệ thuật chân chính và gặp được tâm hồn của chính mình trong cuộc sông rộng lớn của nhân dân.
"Chảng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia"
Chính vì lẽ đó mà tâm hồn thơ Chế Lan Viên muốn hóa thân thành con tàu tâm tưởng, khao khát lên đường, hăm hở say sưa, háo hức trong hành trình về với cuộc đời rộng lớn, về với nhân dân. Khát vọng đến với cuộc sống rộng lớn, đến với nhân dân đã trở thành cảm hứng, tình cảm chân thành của nhà thơ. Trong tập thơ Ánh sáng và phù sa, khát vọng ấy đã một lần được vang lên:Xem thêm: Nghị luận xã hội về thói vô trách nhiệm“Ỏi chim én có hay không, chim én?
Đến những đảo xa, đến những đảo mờ
Ớ đâu chưa đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về lòng ngậm những cành thơ”
Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”, khát vọng ây mỗi lúc càng được bộc lộ cụ thể hơn, say mê hơn và rạo rực hơn. “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”, “Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội/ Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”. Khát vọng ấy càng trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết khi có sự gặp gỡ giữa nhân dân với nhu cầu tình cám của nhà thơ “Đất nước gọi hay lòng ta gọi”, ở đây, tiếng gọi của cuộc sống lớn, của nhân dân, đất nước đã thực sự trở thành sự thôi thúc bên trong của chính nhà thơ.
Nhìn chung, bài thơ Tiếng hát con tàu đã sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật đặc sắc. Hình ảnh – biểu tượng con tàu đã thúc giục con người lên đường, đến với những miền xa xôi của đất nước, với cuộc sống của nhân dân đồng thời hình tượng con tàu còn là lời nhắc nhở hãy trở về với chính lòng mình, với những tình cảm sáng trong, những nghĩa tình sâu nặng từng làm nên ý nghĩa của đời người trong một thời kì không thể nào quên.
Vanmau.edu.vn
|
In the poem The Singing of the Ship by Che Lan Vien, the image of the ship has symbolic meaning. Please write a paragraph to clarify the meaning of that symbol
Suggest
The poem "The Singing of the Ship" by Che Lan Vien is a passionate, passionate song of a poetic soul that has escaped the narrow framework of a small ego to reach the vast horizon of the people and the land. water. In that awakening joy, Che Lan Vien's poetic soul seemed to transform into a ship of thoughts eager to return to the people and to life.
“Northwest? There is something unique in the Northwest
When our hearts have turned into ships
When the Fatherland burst into song
Our soul is the Northwest, no more"
The poem is an invitation to the Northwest, but the Northwest here is also a symbol for remote regions of the Fatherland. Therefore, the image of the ship is a symbol of the poet's soul, which is longing to set out, to go beyond the narrow, winding life to reach the vast life.
It can be said that art does not speak for itself, but can only be affirmed when the artist opens his heart to receive and integrate with the vast life "There is no poetry in a closed heart". On the contrary, if his heart "has turned into ships" and the songs of the ships merge with the songs of all corners of the Fatherland, then even though there is no train route to the Northwest, the image of the ship still has a deep symbolic meaning. sharp.See more: My feelings about the folk song: Invite each other to go to the mountain to burn coal. The husband carries the burden and the wife carries the burden. Charcoal and firewood are smudged with love. Remember the words of gold and stone, please don't forget. First, Che Lan Vien borrowed images of nature to evoke people's desire to go on a journey:
"Do you hear the wind calling?
Outside the umbrella, the ship is starving for moons"
The poet speaks to others but also to himself. The long and arduous resistance war has ended, the North has begun to build a new life and is in dire need of the help of all patriots. That great river is the source of all artistic creation. From the contemplation of her own poetic life, Che Lan Vien gave enthusiastic advice: get out of your loneliness and narrowness to mingle with everyone, go beyond the horizon. of the small self to reach the "heaven of all". Following that path, you can find true art and meet your own soul in the vast life of the people.
"There is no poetry in a closed heart
My soul waits to meet you up there"
That's why Che Lan Vien's poetic soul wants to transform into a train of thought, yearning to set out, eager to get drunk, excited on the journey back to the vast life, back to the people. The desire to reach a broader life and reach the people has become the poet's inspiration and sincere feelings. In the poetry collection Light and Alluvium, that desire was once echoed: See also: Social commentary on irresponsibility "Is the swallow good or not, swallow?
To distant islands, to dim islands
Wherever you haven't gone yet, your heart will come
When I returned, I held the branches of poetry in my heart."
In the poem "The Singing of the Ship", this desire is expressed more and more specifically, more passionately and more passionately. "When my hearts have turned into ships", "Ships, please quickly flap your wings/ My eyes crave the hundred-gauge red tile roof". That desire becomes more intense than ever when there is a meeting between the people and the emotional needs of the poet "The country calls or our hearts call", here, the call of great life, of humanity. The people and the country have truly become the poet's own inner urge.
Overall, the poem The Singing of the Ship has created unique artistic images. The image - the symbol of the ship has urged people to set out, to reach remote areas of the country, to the people's lives. At the same time, the image of the ship is also a reminder to return to one's own heart, with clear feelings and deep love that once made the meaning of human life in an unforgettable period.
Vanmau.edu.vn
|
Trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, khổ thơ nào để lại trong em nhiều ấn tượng nhất? Viết đoạn văn nêu rõ lí do
Gợi ý
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng.
Không phải là "ngửa mặt nhìn lên trăng" mà là "ngửa mặt nhìn lên mặt" vì với Nguyễn Duy lúc này, trăng đích thực là một con người có gương mặt, có ánh nhìn và tâm trạng. Chính nhà thơ cũng không rõ mình đang nghĩ gì, chỉ biết rằng "có cái gì rưng rưng". Có thể là đối mắt "rưng rưng" hay có thể là sự thức dậy của tâm hồn con người. Một cảm giác vừa như buồn vui, vừa như mừng tủi trào lên trong lòng đôi bạn. Khoảng trời xưa hồi sinh, đưa Nguyễn Duy trở về với năm tháng đã qua cùng với sông, với đồng, với rừng… Nhà thơ tiếc nuối quá khứ, khao khát mong gặp lại cảm giác thân thuộc ngày xưa.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Thay mặt Chính phủ và Nhân dân Việt Nam gửi thư (điện) chúc mừng Trung Quốc phóng thành công tàu vũ trụ có người lái lên vũ trụ
|
In the poem Moonlight by Nguyen Duy, which stanza leaves the most impression on you? Write a paragraph clearly stating the reason
Suggest
Turn your face up and look at your face
something is tearing up
like copper, like a tank
like rivers and forests.
It's not "looking up at the moon" but "looking up at the face" because for Nguyen Duy at this time, the moon is truly a person with a face, eyes and mood. The poet himself did not know what he was thinking, he only knew that "something was tearing up". It could be a "teary" eye contact or it could be the awakening of the human soul. A feeling of both sadness and joy welled up in the couple's hearts. The old sky revived, bringing Nguyen Duy back to the past years with the river, the fields, the forests... The poet regrets the past, longing to see the old familiar feeling again.
Vanmau.edu.vn
See more: On behalf of the Government and People of Vietnam, send a letter (telegram) congratulating China on successfully launching a manned spacecraft into space
|
Trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám 1945, Bác Hồ có viết: “Non… các cháu”. Em hiểu lời nói đó như thế nào
Gợi ý
Đề bài:
Trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám 1945, Bác Hồ có viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu”. Em hiểu lời nói đó như thế nào?
Bài làm:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến sự nghiệp nuôi dưỡng, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Bác rất quan tâm việc học hành của các cháu thiếu nhi trong cả nước, ngay sau ngày đất nước giành được tự do, Bác đã kí quyết định thành lập Nhà bình dân học vụ. Và cũng trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám 1945, Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu”. Lời dạy của Người gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm.Xem thêm: Giải thích câu "Người ta là hoa của đất" Cách mạng tháng Tám thành công đưa đất nước ta từ thân phận của những nô lệ đứng lên làm chủ đất nước. Tên đất nước Việt Nam đã hiển thị trên bản đồ thế giới từ thời khắc Bác đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình vào ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945. Nhưng cũng cỏ một sự thật là hơn tám mươi năm nộ lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp đã biến nước ta trở thành một nước lạc hậu về mọi mặt. Kinh tế sa sút, què quặt. Hơn chín mười phần trăm (90%) dân số mù chữ, nhiều tệ nạn xã hội đang bóp nghẹt.nền văn hóa đất nước: nghiện hút, nghiện rượu, mê tín dị doan,… Không những thế, nhiều kẻ thù chính trị còn đang lăm le tái chiếm nước ta: Pháp, Tưởng, Anh,… Chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ và gặp nhiều nguy hiểm. Tương lai dân tộc sẽ ra sao? Trước thực tế đó, Bác Hồ đặt ra một câu hỏi thực tỉnh trách nhiệm của mỗi người dân đối với đất nước: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không”.
Đất nước vừa giành được độc lập còn vô cùng non trẻ với những tàn tích, của chế độ phong kiến – thực dân để lại liệu có thể đứng vững hay không? Có thể trở nên vẻ vang, khẳng định mình trước bạn bè năm châu được hay không? Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ vang. Nhưng vinh quang qua đi ta phải biết sống cho hôm nay và sống cho tương lai, phải biết khẳng định mình trong thời bình. Để phát triển đất nước không gì hơn là phải học tập, chiến đấu, Hao động sản xuất ra của cầi vật chất làm giàu cho xã hội; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, chấn hưng văn hóa nước nhà. Vậy thì nhiệm vụ ấy không thuộc về ai khác mà chính là tuổi trẻ. Bởi vậy Bác viết: “chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu”. Thế hệ cha anh hôm nay sẽ gắng sức lao động, chiến đấu để giữ gìn đất nước, các cháu phải biết học tập để mai này dựng xây đất nước.Xem thêm: Sự kết hợp giữa chất chính luận với chất trữ tình trong đoạn trích Đất Nước (trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm. Khoa học kĩ thuật của thế giới đang ngày càng phát triển. Những nước phát triển trên thế giới đều lấy học thức làm nền tảng cho mình. Nhật, Mĩ, Anh, Hàn Quốc, Trung Quốc,."., các “cường quốc năm châu” đã và đang đẳu tư vào nền giáo dục của ihình Tất lớn. Lực lượng chất xám khổng lồ của họ lại quay lại phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Các nhà kinh tế chiến lược, các nhà quân sự tài ba, các doanh nhân thành đạt, các nhà bác học, giáo sư,… những con người mang vinh quang về cho những đất nước ấy đều là sản phạm của nền giáo dục phát triển, đều là những con người đã và đang học tập không ngừng. Những tấm gương ngời sáng ấy đã khẳng định một chân lí: Muốn phát triển phải dựa vào thế hệ trẻ với vốn học thức sâu rộng, uyên thâm. Vậy lời nói của Bác chẳng những là một lời khuyên dạy mà còn là một chân lí sáng ngời: Đất nước muốn phắt triển được thì tuổi trẻ phải ra. sức thi đua học tập.
Thấm nhuần tư tưởng và lời dạy của Bác Hồ, học sinh chúng em biết mình cần cố gắng học tập nhiều hơn nữa. Lớp lớp cha anh tổ tiên đã dùng xương máu để tạo nên nền tảng vững chắc của đất nước thì hôm nay chúng em sẽ dùng mồ hôi và công sức để mang những viên gạch tri thức xây dựng đài vinh quang để dưa đất nước vươn lên “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác từng mong ước. ‘Xem thêm: Hãy viết thư để nói tại sao nước là quýVanmau.edu.vn
|
In a letter to students on the opening day of the first school year after the August Revolution of 1945, Uncle Ho wrote: "Young children". I understand what those words mean
Suggest
Topic:
In a letter to students on the opening day of the first school year after the August Revolution of 1945, Uncle Ho wrote: "Will the Vietnamese countryside become glorious or not, will the Vietnamese people be able to stand shoulder to shoulder with the great powers?" Whether the country in five continents succeeds or not depends largely on your efforts in studying." How do you understand that statement?
Assignment:
During his lifetime, President Ho Chi Minh always took care of the cause of nurturing, training and fostering the young generation. Uncle Ho was very interested in the education of children throughout the country. Right after the day the country gained freedom, he signed a decision to establish the House of Popular Education. And also in a letter to students on the opening day of the first school year after the August Revolution of 1945, he wrote: "Will the Vietnamese countryside become glorious or not, will the Vietnamese people be able to stand shoulder to shoulder with the great powers?" Whether the country in five continents succeeds or not depends largely on your efforts in studying." His teachings give us much to ponder. See more: Explaining the phrase "People are the flowers of the earth" The August Revolution successfully brought our country from the status of slaves to become the master of the country. The name of the country Vietnam has been displayed on the world map since the moment Uncle Ho read the Declaration of Independence at Ba Dinh Square on September 2, 1945. But it is also a fact that more than eighty years of slavery Under the yoke of French colonial rule, our country became a backward country in every aspect. The economy is in decline and crippled. More than ninety percent (90%) of the population is illiterate, many social evils are suffocating the country's culture: drug addiction, alcoholism, superstition,... Not only that, many political enemies are still trying to retake our country: France, Chiang, England,... Our newly established government is still young and facing many dangers. What will the nation's future be like? Faced with that reality, Uncle Ho posed a real question about each person's responsibility towards the country: "Will Vietnam's rivers become glorious or not, can the Vietnamese people be able to stand shoulder to shoulder with great powers?" five continents or not?
The country that has just won independence is still extremely young, with the ruins of the feudal-colonial regime left behind, can it still stand? Is it possible to become glorious and assert yourself before friends from all over the world? The August Revolution was a great and glorious revolution. But the glory has passed, we must know how to live for today and live for the future, we must know how to assert ourselves in times of peace. To develop the country, there is nothing more than studying, fighting, and producing material goods to enrich society; absorb the quintessence of human culture and revive the country's culture. So that task belongs to no one else but the youth. Therefore, Uncle Ho wrote: "Thanks in large part to your efforts in studying." Today's generation will work hard and fight to preserve the country. You must learn to build the country tomorrow. See more: The combination of political commentary and lyricism in the passage Excerpted from Dat Quoc (epic The Road of Desire) by Nguyen Khoa Diem. The world's science and technology is increasingly developing. Developed countries in the world all use education as their foundation. Japan, America, England, Korea, China, etc., the "powerhouses of the five continents" have been investing in the education system of Big Tat. Their huge brain power has returned to serve. the cause of national development. Strategic economists, talented military leaders, successful businessmen, scientists, professors,... people who bring glory to those countries are all The products of developed education are people who have been studying continuously. Those shining examples have affirmed a truth: To develop, we must rely on the young generation with extensive knowledge. , profound. So Uncle Ho's words are not only a piece of advice but also a shining truth: If a country wants to develop, its youth must compete and study.
Immersed in Uncle Ho's thoughts and teachings, we students know we need to try harder to study. Our ancestors and ancestors used their blood and bones to create a solid foundation for the country, today we will use our sweat and effort to bring the bricks of knowledge to build a glorious monument for the country to rise. "to stand shoulder to shoulder with the powers of the five continents" as Uncle Ho once wished. 'See more: Please write a letter to say why water is valuable. Vanmau.edu.vn
|
Trong chương trình Giáo dục và Đào tạo lớp 9 Trung học cơ sở, các em đang theo học một số nghề phổ thông. Em hãy nêu những suy nghĩ của mình về việc lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên hiện nay
Gợi ý
Đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, c trước hết là để kiếm sống, rồi để thể hiện năng lực, khẳng định vị trí của bản thân. Song, có rất nhiều người vẫn đang băn khoăn lo nghĩ không biết nên chọn nghề như thế nào: Chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của bản thân, chọn nghề đang được ưa chuộng trong đời sống xã hội hay nhất quyết theo đuổi nghề bản thân thiết tha yêu thích?
Vấn đề này thật khó khăn đối với thế hệ chúng ta bởi tuổi trẻ còn thiếu kinh nghiệm, bồng bột, nông nổi dễ đưa ra những quyết định thiếu chín chắn, làm phí đi nhiều thời gian, sức lực. Nghề nghiệp là vấn đề gắn bó lâu dài với đời sống mỗi cá nhân, chỉ cần chọn sai nghề ta sẽ phải trả giá.
Vậy phải lựa chọn nghề nghiệp như thế nào?
Thực ra, chỉ cần làm một vài phép suy luận nhỏ ta sẽ có một câu trả lời.
Nghề nghiệp trước hết đòi hỏi con người phải có khả năng làm công việc đó. Tức là phải có hệ thống tri thức, kĩ năng kĩ xảo về công việc bạn lựa chọn. Có như vậy bạn mới làm việc có sản phẩm (vật chát hay phi vật chất). Hơn nữa, nghề nghiệp đòi hỏi sự ổn định. Bạn khó có thể nay làm nghề này mai làm nghề khác. Đặc biệt ngày nay, khi vấn đề chuyên môn hoá đang được chú trọng thì việc ổn định việc làm đi sâu tìm tòi, sáng tạo trong lao động càng được khuyên khích. Thay đổi việc làm, bạn sẽ bắt đầu lại những kiến thức mới, kĩ năng kĩ xảo mới, những quan hệ mới,… Chừng ấy việc tiêu hao quá nhiều thời gian sức lực của bạn. Chưa kể những khả năng ấy sẽ giảm đần theo tuổi tác, bạn cũng sẽ không có nhiều thời gian để lao động, hoặc lao động không có hiệu quả. Bên cạnh đó, tình cảm nghề nghiệp cũng là yếu tố quan trọng. Nó trở thành động lực để bạn say mê với việc làm của mình.Xem thêm: Em hãy kể lại câu chuyện theo kiểu cổ tích mà em đã đọc Như vậy, nếu chọn nghề dựa vào tiêu chí nghề nghiệp đang được ưa chuộng trong đời sống thì ta tưởng tượng xem? Ta biết rằng xã hội ngày nay đang vận động biến đổi không ngừng. Yêu cầu xã hội mỗi ngày mỗi khác. Mới cách đây khoảng hai chục năm, công nghiệp nặng còn thu hút sự tập trung khai thác của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì ngày nay xã hội đem thành quả và tiềm năng công nghệ thông tin, dịch vụ xã hội, khoa học công nghệ,… làm tiêu chí đánh giá sự phát triển của mỗi quốc gia, khu vực. Nói như vậy để thấy được sự lựa chọn này quá mạo hiểm! Bạn có chắc rằng mình sẵn sằng thay đổi nghề nghiệp theo chu kì 20 năm, 15 năm, 10 năm,… hay thậm chí là 5 năm, 4 năm,… không? Đó là chưa kể đến việc liệu bạn có khả năng hoàn thành tốt công việc đó? Bạn có thực sự say mê với lựa chọn của mình? Thực tế, không ít người chạy theo nhu cầu của xã hội, thay đổi công việc cho hợp với thời thế. Hậu quả là việc cũ chưa đem về tiền bạc đã mất rất nhiều thời gian, sức lực, tiền bạc cho công việc mới. Mong bạn nhớ rằng: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!
Còn nếu bạn nhất quyết theo đuổi nghề mà mình thiết tha yêu thích thì phải tính đến năng lực của bản thân mình. Tình cảm nghề nghiệp là yếu tố không thể thiếu song năng lực lại là yếu tố cần cho mọi công việc. Bạn yêu thích thơ văn, bạn mong muốn trở thành nhà văn nhưng những gì bạn viết ra người đọc không thể hiểu nổi một phần; hay nó nhạt nhẽo vô vị người ta đọc rồi quên ngay sau đó. Khi ấy, bạn bị lạc lõng, bất lực bên bờ cát dài của con chữ. Bạn bế tắc hoàn toàn. Lựa chọn con đường này, bạn sa vào tình cảnh “lực bất tòng tâm” đau khổ vô cùng. Chẳng những đời sống kinh tế bị khốn cùng, mà tâm hồn bạn cũng bị chất vấn day dứt không yên. Lúc đó, tình yêu nghề nghiệp trở thành gánh nặng ghìm bước chân bạn trên đường đời.Xem thêm: Em hãy giới thiệu cách làm một món ăn Chốt lại mọi con đường, hướng lựa chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế, hợp lí và khả thi hơn cả.
Có năng lực, điều đó hứa hẹn thành công trong công việc của bạn. Cũng có nghĩa nó mở ra khả năng đạt mức cao trong đời sống vật chất. Hội tụ lại mọi điều, bạn được xã hội tôn vinh và trở thành người thành đạt. Một chút nhạy bén với thị trường, một chút khả năng tính toán, ngoại giao, quan hệ,… bấy nhiêu điều đủ tạo nên năng lực một nhà kinh doanh có tài. Năng động, sắc sảo, tinh tế, thẳng thắn cộng với khả năng “viết lách” và vốn sống phong phú – đó là những gì cần có ở một nhà báo tài ba,… Nhắc đến nghề nghiệp là nhắc đến công việc; nhắc đến công việc là nhắc đến khả năng làm việc. Vậy là gì nếu không phải là yếu tố năng lực khi lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai?
Cũng có thể nghề nghiệp bạn có khả năng không “thịnh hành” lắm trong xã hội. Giới sinh viên từng “lưu truyền” một câu (không biết nên gọi là câu gì): nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa, bỏ qua Sư phạm. Như vậy không có nghĩa xã hội không cần đến nghề của bạn cũng như cuộc sống không thể thiếu những người thầy. Quan trọng là bạn biết nỗ lực giành lấy những thành công trong lĩnh vực của mình. Xã hội có thể “bỏ qua” nhưng là bó qua những kẻ bất tài, kém chí. Thực tế, mỗi ngành nghề đóng một vai trò khác nhau trong đời sống, thiếu đi một trong số đó xã hội sẽ khủng hoảng rối loạn. Vậy bạn cần khẳng định mình là ai trong giới của mình.Xem thêm: Nêu những suy nghĩ của em về vấn đề tự học Tình cảm là thứ không thể gò ép, bắt buộc. Song cũng cần nhìn nhận rằng bất cứ nghề nào cũng có cái hay, cái đẹp, cái cao quý riêng của mình. Chẳng có nghề nghiệp chân chính nào hèn kém cả. Bất cứ nghề nào ta bỏ ra mồ hôi, công sức thì đều đáng trân trọng. Bỏ ra một chút thời gian để tìm hiểu về nghề ta sẽ thấy được vẻ đẹp và tầm quan trọng của nó. Từ đó sẽ nảy sinh tình cảm mến yêu quý trọng. Có ai không tự hào khi mình là giáo viên – là những kĩ sư tâm hồn đi gieo những mầm sống cho đời? Có ai không tự hào khi mình là người công nhân xây cầu, đi bắc những nhịp yêu thương, đi nốì những bờ ánh sáng?…. Và ai ai cũng tự hào khi mình lao động, kiếm sống bằng đôi bàn tay chân chính, bằng khối óc trong sạch của bản thân mình.
Cũng cần nói rằng, trong thực tế có rất nhiều bạn khi lựa chọn nghề nghiệp phải chịu những sức ép từ phía gia đình. Lại có bạn lựa chọn mà không hề suy nghĩ hay suy nghĩ viển vông, vượt quá tầm khả năng,… Những điều ấy cũng chẳng khác gì lựa chọn theo yêu cầu của xã hội hay chạy theo ham muốn cá nhân. Chúng chỉ khiến ta thoả mãn tâm lí trong một thời gian ngắn đế rồi phải trả giá cả cuộc đời lao động của mình.
Công việc, nghề nghiệp cần được định hướng sớm để mỗi cá nhân có hướng chuẩn bị hành trang về tri thức, kĩ năng kĩ xảo. Những yếu tố sẽ tạo nên những thành công bứt phá trong sự nghiệp mỗi con người. Lựa chọn nghề mghiệp cần dựa trên sự kết hợp hài hoà giữa năng và sở thích trong đó năng lực đóng vai trò quyết định
Vanmau.edu.vn
|
Trong chương trình Giáo dục và Đào tạo lớp 9 Trung học cơ sở, các em đang theo học một số nghề phổ thông. Em hãy nêu những suy nghĩ của mình về việc lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên hiện nay
Gợi ý
Đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, c trước hết là để kiếm sống, rồi để thể hiện năng lực, khẳng định vị trí của bản thân. Song, có rất nhiều người vẫn đang băn khoăn lo nghĩ không biết nên chọn nghề như thế nào: Chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của bản thân, chọn nghề đang được ưa chuộng trong đời sống xã hội hay nhất quyết theo đuổi nghề bản thân thiết tha yêu thích?
Vấn đề này thật khó khăn đối với thế hệ chúng ta bởi tuổi trẻ còn thiếu kinh nghiệm, bồng bột, nông nổi dễ đưa ra những quyết định thiếu chín chắn, làm phí đi nhiều thời gian, sức lực. Nghề nghiệp là vấn đề gắn bó lâu dài với đời sống mỗi cá nhân, chỉ cần chọn sai nghề ta sẽ phải trả giá.
Vậy phải lựa chọn nghề nghiệp như thế nào?
Thực ra, chỉ cần làm một vài phép suy luận nhỏ ta sẽ có một câu trả lời.
Nghề nghiệp trước hết đòi hỏi con người phải có khả năng làm công việc đó. Tức là phải có hệ thống tri thức, kĩ năng kĩ xảo về công việc bạn lựa chọn. Có như vậy bạn mới làm việc có sản phẩm (vật chát hay phi vật chất). Hơn nữa, nghề nghiệp đòi hỏi sự ổn định. Bạn khó có thể nay làm nghề này mai làm nghề khác. Đặc biệt ngày nay, khi vấn đề chuyên môn hoá đang được chú trọng thì việc ổn định việc làm đi sâu tìm tòi, sáng tạo trong lao động càng được khuyên khích. Thay đổi việc làm, bạn sẽ bắt đầu lại những kiến thức mới, kĩ năng kĩ xảo mới, những quan hệ mới,… Chừng ấy việc tiêu hao quá nhiều thời gian sức lực của bạn. Chưa kể những khả năng ấy sẽ giảm đần theo tuổi tác, bạn cũng sẽ không có nhiều thời gian để lao động, hoặc lao động không có hiệu quả. Bên cạnh đó, tình cảm nghề nghiệp cũng là yếu tố quan trọng. Nó trở thành động lực để bạn say mê với việc làm của mình.Xem thêm: Em hãy kể lại câu chuyện theo kiểu cổ tích mà em đã đọc Như vậy, nếu chọn nghề dựa vào tiêu chí nghề nghiệp đang được ưa chuộng trong đời sống thì ta tưởng tượng xem? Ta biết rằng xã hội ngày nay đang vận động biến đổi không ngừng. Yêu cầu xã hội mỗi ngày mỗi khác. Mới cách đây khoảng hai chục năm, công nghiệp nặng còn thu hút sự tập trung khai thác của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì ngày nay xã hội đem thành quả và tiềm năng công nghệ thông tin, dịch vụ xã hội, khoa học công nghệ,… làm tiêu chí đánh giá sự phát triển của mỗi quốc gia, khu vực. Nói như vậy để thấy được sự lựa chọn này quá mạo hiểm! Bạn có chắc rằng mình sẵn sằng thay đổi nghề nghiệp theo chu kì 20 năm, 15 năm, 10 năm,… hay thậm chí là 5 năm, 4 năm,… không? Đó là chưa kể đến việc liệu bạn có khả năng hoàn thành tốt công việc đó? Bạn có thực sự say mê với lựa chọn của mình? Thực tế, không ít người chạy theo nhu cầu của xã hội, thay đổi công việc cho hợp với thời thế. Hậu quả là việc cũ chưa đem về tiền bạc đã mất rất nhiều thời gian, sức lực, tiền bạc cho công việc mới. Mong bạn nhớ rằng: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!
Còn nếu bạn nhất quyết theo đuổi nghề mà mình thiết tha yêu thích thì phải tính đến năng lực của bản thân mình. Tình cảm nghề nghiệp là yếu tố không thể thiếu song năng lực lại là yếu tố cần cho mọi công việc. Bạn yêu thích thơ văn, bạn mong muốn trở thành nhà văn nhưng những gì bạn viết ra người đọc không thể hiểu nổi một phần; hay nó nhạt nhẽo vô vị người ta đọc rồi quên ngay sau đó. Khi ấy, bạn bị lạc lõng, bất lực bên bờ cát dài của con chữ. Bạn bế tắc hoàn toàn. Lựa chọn con đường này, bạn sa vào tình cảnh “lực bất tòng tâm” đau khổ vô cùng. Chẳng những đời sống kinh tế bị khốn cùng, mà tâm hồn bạn cũng bị chất vấn day dứt không yên. Lúc đó, tình yêu nghề nghiệp trở thành gánh nặng ghìm bước chân bạn trên đường đời.Xem thêm: Em hãy giới thiệu cách làm một món ăn Chốt lại mọi con đường, hướng lựa chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế, hợp lí và khả thi hơn cả.
Có năng lực, điều đó hứa hẹn thành công trong công việc của bạn. Cũng có nghĩa nó mở ra khả năng đạt mức cao trong đời sống vật chất. Hội tụ lại mọi điều, bạn được xã hội tôn vinh và trở thành người thành đạt. Một chút nhạy bén với thị trường, một chút khả năng tính toán, ngoại giao, quan hệ,… bấy nhiêu điều đủ tạo nên năng lực một nhà kinh doanh có tài. Năng động, sắc sảo, tinh tế, thẳng thắn cộng với khả năng “viết lách” và vốn sống phong phú – đó là những gì cần có ở một nhà báo tài ba,… Nhắc đến nghề nghiệp là nhắc đến công việc; nhắc đến công việc là nhắc đến khả năng làm việc. Vậy là gì nếu không phải là yếu tố năng lực khi lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai?
Cũng có thể nghề nghiệp bạn có khả năng không “thịnh hành” lắm trong xã hội. Giới sinh viên từng “lưu truyền” một câu (không biết nên gọi là câu gì): nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa, bỏ qua Sư phạm. Như vậy không có nghĩa xã hội không cần đến nghề của bạn cũng như cuộc sống không thể thiếu những người thầy. Quan trọng là bạn biết nỗ lực giành lấy những thành công trong lĩnh vực của mình. Xã hội có thể “bỏ qua” nhưng là bó qua những kẻ bất tài, kém chí. Thực tế, mỗi ngành nghề đóng một vai trò khác nhau trong đời sống, thiếu đi một trong số đó xã hội sẽ khủng hoảng rối loạn. Vậy bạn cần khẳng định mình là ai trong giới của mình.Xem thêm: Nêu những suy nghĩ của em về vấn đề tự học Tình cảm là thứ không thể gò ép, bắt buộc. Song cũng cần nhìn nhận rằng bất cứ nghề nào cũng có cái hay, cái đẹp, cái cao quý riêng của mình. Chẳng có nghề nghiệp chân chính nào hèn kém cả. Bất cứ nghề nào ta bỏ ra mồ hôi, công sức thì đều đáng trân trọng. Bỏ ra một chút thời gian để tìm hiểu về nghề ta sẽ thấy được vẻ đẹp và tầm quan trọng của nó. Từ đó sẽ nảy sinh tình cảm mến yêu quý trọng. Có ai không tự hào khi mình là giáo viên – là những kĩ sư tâm hồn đi gieo những mầm sống cho đời? Có ai không tự hào khi mình là người công nhân xây cầu, đi bắc những nhịp yêu thương, đi nốì những bờ ánh sáng?…. Và ai ai cũng tự hào khi mình lao động, kiếm sống bằng đôi bàn tay chân chính, bằng khối óc trong sạch của bản thân mình.
Cũng cần nói rằng, trong thực tế có rất nhiều bạn khi lựa chọn nghề nghiệp phải chịu những sức ép từ phía gia đình. Lại có bạn lựa chọn mà không hề suy nghĩ hay suy nghĩ viển vông, vượt quá tầm khả năng,… Những điều ấy cũng chẳng khác gì lựa chọn theo yêu cầu của xã hội hay chạy theo ham muốn cá nhân. Chúng chỉ khiến ta thoả mãn tâm lí trong một thời gian ngắn đế rồi phải trả giá cả cuộc đời lao động của mình.
Công việc, nghề nghiệp cần được định hướng sớm để mỗi cá nhân có hướng chuẩn bị hành trang về tri thức, kĩ năng kĩ xảo. Những yếu tố sẽ tạo nên những thành công bứt phá trong sự nghiệp mỗi con người. Lựa chọn nghề mghiệp cần dựa trên sự kết hợp hài hoà giữa năng và sở thích trong đó năng lực đóng vai trò quyết định
Vanmau.edu.vn
|
Trong chương trình Ngữ văn 8 có rất nhiều tác phẩm văn học thể hiện tình yêu đất nước và niềm tự hào dân tộc. Em hãy viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của bản thân về quê hương đất nước
Gợi ý
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Trong trái tim mỗi chúng ta bao giờ cũng chỉ có một người mẹ, một người cha và một quê hương.
Quê hương là nơi chúng ta sinh ra và lớn lên. Quê hương là nơi có hình ảnh người mẹ, người cha mà ta hằng yêu quý. Tình yêu quê hương đã rèn cho con người ta thêm dũng cảm hơn trên con đường đầy chông gai của cuộc sống. Tình yêu quê hương đó thôi thúc chúng ta sống có ích hơn cho đất nước. Quê hương còn là nỗi nhớ da diết của những người con khi xa quê. Chính nỗi nhớ quê hương đã luôn nhắc nhở họ phải cống hiến hết sức mình cho quê hương đất nước. Quê hương đã bồi đắp cho chúng ta nhiều tình cảm cao quý: phải biết nhớ khi xa quê, phải biết đau khi đất nước bị quân giặc xâm lược, phải biết yêu thương những gì thuộc về quê hương, phải biết hy sinh thân mình cho quê hương, đất nước. Cha mẹ chỉ có thể sinh ra và dạy bảo chúng ta, còn việc trở thành một người con chân chính của đất nước là do quê hương tạo ra: "Cha mẹ cho em cả hình hài. Thầy cô cho em cả kiến thức… Nhưng em chỉ thành người khi em sống giữa cuộc đời, em chỉ thành người khi em sống giữa quê hương…. Đất nước mến thương cho em thành người".Xem thêm: Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng CuộiVanmau.edu.vn
|
In the Literature 8 program, there are many literary works expressing love for the country and national pride. Write a paragraph expressing your feelings about your homeland
Suggest
Each person's homeland is unique
Like there's only one mother
If anyone does not remember homeland
Will not grow into a human being
In each of our hearts there is always only one mother, one father and one homeland.
Homeland is where we were born and raised. Homeland is the place where there is an image of the mother and father that we always love. Love for the homeland has forged people to be more courageous on the thorny path of life. That love for our homeland urges us to live more usefully for the country. Homeland is also a deep nostalgia for children when they are far away from home. It is the nostalgia for their homeland that always reminds them to devote their best to their homeland and country. Our homeland has nurtured us with many noble feelings: we must know how to remember when we are far from home, we must know how to feel pain when our country is invaded by enemy troops, we must know how to love what belongs to our homeland, we must know how to sacrifice ourselves. for homeland and country. Parents can only give birth and teach us, but becoming a true child of the country is created by the homeland: "Parents give you the body. Teachers give you the knowledge... But I only become a person when I live in the middle of life, I only become a person when I live in the middle of my homeland... The country loves me and lets me become a person." See more: My feelings about Tan Da's mood through the poem Want become CuoiVanmau.edu.vn
|
Trong cuộc sống, em đã gặp nhiều chuyện ấn tượng khó quên. Hãy kể lại một câu chuyện mà em thích thú nhất
Gợi ý
Cuộc sống muôn màu muôn vẻ làm nảy sinh nhiều sự việc bất ngờ, cảm động. Và cầu chuyện mà tồi gặp cách đây một tuần là một chuyện như vậy.
Câu chuyện bắt đầu từ giờ ra chơi. Sau hai hồi trông giòn giã, cả lớp tôi sung sướng chạy ùa ra sân trường ồn ào. Rồi mỗi người một trò: đá bóng, kéo co, đá cầu… Tôi đang cùng mấy đứa bạn túm tụm dưới gốc cây bàng nói chuyện thì cậu Bình "bép xép" và một vài bạn khác kéo đến. Sở dĩ Bình có cái biệt hiệu đó vì tuy là con trai, nhưng Bình hay đi “buôn” chuyện và khá ác khẩu. Gần đến nơi, Hùng đã nói to:
– Các cậu ơi, lớp mình xảy ra một chuyện hay lắm!
Nghe đến đây, cả lũ con gái chúng tôi với bản tính tò mò vội hỏi dồn tới tấp:
– Chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy? Nói nhanh lên…
Thằng Bình đưa mắt nhìn quanh rồi rủ rỉ:
– Dạo này tớ thường xuyên để ý tới hành tung của bạn Công. Bạn ấy có cái gì lạ lắm. Cứ mỗi giờ ra chơi lại có một bà mang đến cho bạn ấy một cái bọc rất to, mà Công cứ giấu giấu diếm diếm như sợ ai phát hiện vậy. Tớ nghi lắm, không biết trong bọc đó có cái gì nhỉ?Xem thêm: Dựa vào những tác phẩm đã học hoặc đã đọc và các mẩu chuyện về Bác Hồ kính yêu hãy chứng minh rằng nhân dân ta đã được Bác dành cho tình yêu bao la, sâu nặng, đặc biệt là thiếu niên nhi đồngNghe Bình nói về Công, tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên. Đó là một cậu con trai mới chuyển vào lớp tôi. Cậu ta nhút nhát, thấp bé, nước da ngãm đen, lầm lì, chẳng bao giờ nói chuyện với ai, cứ đến lớp rồi ra về lẳng lặng như một cái bóng.
– Vậy không biết trong đó là cái gì nhỉ?
Cả lũ chúng tôi tranh nhau nói. Xem ra đó là một điều bí ẩn lớn mà chúng tôi muốn khám phá.
– Hay là tiền?
– Vớ vẩn. Tiền gì mà nhiều thế được!
– Hay là thứ gì đó ăn được?
– Cũng có thể đấy. Không chừng cu cậu được người quen bồi dưỡng nên giấu không cho bọn mình biết.
– Thôi thôi thôi, các bà đừng nói linh tinh, cứ đi kiểm tra rồi sẽ rõ. Mà kìa, Công đang ôm cái bọc kia kìa, lại đó thôi.
Bình thầm thì tổng kết rồi chợt la toáng lên cái phát hiện lạ lùng của nó.
Cả lũ chúng tôi chạy lại gần Công. Bình quát to:
– Công! Mày có cái gì trong bọc đấy, mở ra coi!
Công hốt hoảng trả lời:
– Không, không có gì đâu.
– Cậu định giấu bọn tớ hả, không giấu được đâu. Thôi, mở ra đi nhanh lên.
– Đừng, các cậu đừng mà! Đừng…!
Công chưa nói hết câu thì cả lũ chúng tôi đã xâu xúm vào giật cái bọc khỏi tay cậu ta. Cái bọc tuột ra, rơi xuồng đất. Tung toé trên sân là những cuộng rau muống đã héo úa.Xem thêm: Nghị luận xã hội câu tục ngữ “Ở hiền gặp lành”– Các cậu thật quá đáng – Công gào lên, giọng đầy căm hận, nước mắt rơi trên bờ má, cả bọn chúng tôi lùi lại, im lặng.
Thì ra nhà Công nghèo, cậu ta phải đi xín cuông rau muông thừa về cho lợn, gà ãn. Công thì khổ quá, còn chúng tôi thì sung sướng quá, ngày chỉ rửa bát hai lần mà cũng không xong. Mắt tôi nhòa dần đi trong khi xung quanh vẫn rực rỡ một màu nắng vàng óng.
Sau chuyện xảy ra, lớp tôi trở nên trầm lắng hơn, ít có tiếng cãi vã, trêu chọc của Bình cũng như những trò đùa quái ác của chúng các bạn ấy. Giờ đây, mồi khi nhìn thấy Công, tôi lại cảm thấy xấu hổ vô cùng. Tôi tự trách mình vì đã có lỗi với cậu ấy. Đã có nhiều lúc, tôi muôn nói lời xin lỗi với Công, nhưng cho đến bây giờ, câu nói đó vẫn chưa được cất thành lời.
Vanmau.edu.vn
|
In life, I have encountered many unforgettable impressions. Tell me a story that interests you the most
Suggest
The colorful life gives rise to many unexpected and touching events. And the story I encountered a week ago was such a thing.
The story begins at recess. After two moments of looking crispy, my whole class happily ran out into the noisy school yard. Then each person had a game: soccer, tug of war, shuttlecock... I was huddled with my friends under the almond tree talking when Mr. Binh "tattled" and a few other friends came. The reason why Binh has that nickname is because even though he is a boy, Binh often "gossips" and is quite rude. Almost there, Hung said loudly:
– Guys, something interesting happened in our class!
Hearing this, all of us girls, with their curious nature, quickly asked:
- What's going on? What's going on? Say quickly…
Binh looked around and whispered:
– Lately I've been paying close attention to Cong's whereabouts. There's something strange about her. Every recess, a lady would bring him a very large bundle, which Cong kept hiding as if he was afraid someone would find out. I'm very suspicious, I wonder what's in that package? See more: Based on the works you've studied or read and stories about beloved Uncle Ho, let's prove that our people have received Uncle Ho's love. immense, profound, especially for young children. Listening to Binh talk about Cong, we were all surprised. It was a boy who had just transferred into my class. He was shy, short, dark-skinned, taciturn, never talked to anyone, just went to class and left quietly like a shadow.
– So I wonder what's in there?
We all struggled to speak. It seems like a big mystery that we want to explore.
– Or money?
- Nonsense. How much money can there be?
– Or something edible?
– That's possible. Perhaps he was raised by an acquaintance, so he hid it from us.
– Okay, okay, ladies, don't talk nonsense, just go check and you'll understand. But look, Cong is holding that bundle, just there.
Binh silently summarized and then suddenly shouted out his strange discovery.
We all ran closer to Cong. Binh shouted loudly:
- Labour! You have something in that bag, open it!
Cong replied in panic:
– No, it's nothing.
– Are you planning to hide it from us? You can't hide it. Well, open it quickly.
– Don't, you guys don't! Do not…!
Before Cong could finish his sentence, all of us gathered together and snatched the package from his hand. The bundle slipped off and fell to the ground. Sprinkled on the field were wilted spinach rolls. See more: Social discussion proverb "Good people bring good things" - You guys are too much - Cong screamed, his voice full of hatred, tears falling on the shore Mother, we all stepped back and remained silent.
It turned out that Cong's family was poor, so he had to go to the grocery store to buy leftover vegetables to feed the pigs and chickens. Work is so miserable, but we are so happy, we only wash the dishes twice a day but still can't finish it. My eyes gradually blurred while the surrounding area was still bright with golden sunlight.
After what happened, my class became quieter, with less arguing and teasing from Binh as well as their cruel jokes. Now, when I see Cong, I feel extremely embarrassed. I blame myself for making a mistake with him. There have been many times when I wanted to say sorry to Cong, but until now, that sentence has not been put into words.
Vanmau.edu.vn
|
Trong cuộc thi hái hoa tặng mẹ, tặng cô nhân ngày 8 tháng 3 do lớp em tổ chức, nếu nhận được câu hỏi: Hãy đọc một bài thơ về mẹ mà em thích nhất thì em sẽ dọc bài thơ nào? Tại sao
Gợi ý
Có những bài thơ ta bất chợt gặp trong đời nhưng lại để trong ta những ấn tương thật sâu đậm. Có một bài thơ tôi đã đọc trên báo “Thiếu niên tiền phong” từ ngày tôi còn rất nhỏ, đến nay tôi không còn nhớ tên bài thơ, nhớ tên tác giả nhưng từng câu, từng chữ trong bài thì tôi còn nhớ như ín. Một bài thơ cảm động vể tình mẫu tử:
“Hoa cúc vàng trước cửa
Giữ mùa thu tảo tần
Giữ hao gầy dáng mẹ
Những tháng ngày chênh vênh
Con có khoáng trời xanh
Cả trong mơ cũng đẹp
Con có một mặt trời
Rực rỡ muôn tia nắng
Nhưng có gì đẹp hơn
Tình yêu thương của mẹ
Như khoảng trời xanh đó
Như mặt trời lung linh
Giờ đã sang mùa đông
Gió lạnh về bên cửa
Áo len mẹ đan xong
Con cười trong giấc ngủ”.
Bài thơ là những lời tâm tình cảm động của người con về tình mẹ. Ngay từ những dòng đầu, tác giả đã nhắc đến tên một loài hoa tượng trưng cho tình mẫu tử: hoa cúc. Đó là loài hoa trong cổ tích mà người con gái nhỏ vì tình yêu mẹ tha thiết đã xé nhỏ từng cánh hoa đế mẹ được sống lâu hơn. Hoa cúc cũng là loài hoa gọi mùa thu về với trần gian để dưới mỗi mái nhà lại vẳng lên lời hát: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ, năm canh chầy thức đủ vừa năm…”. Với người con trong bài thơ thì hoa cúc và mùa thu lại mang thêm một ý nghĩa nữa:Xem thêm: Viết đoạn văn làm rõ giá trị biểu cảm của thủ pháp điệp ngữ trong văn bản “Sau phút chia li” (trích “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm)“Giữ hao gầy dáng mẹ
Những tháng ngày chênh vênh”.
Mùa thu với cái se lạnh của đất trời càng làm se thắt thêm những trái tim bé nhỏ biết yêu thương. Và trước hết là yêu thương mẹ, người mẹ tảo tần vất vả với tháng năm. Tác giả đã dùng một từ thật hay: “chênh vênh”. Đó là một từ tượng hình chỉ thế không vững, bất ổn định. Dùng từ chênh vênh để nói về những tháng ngày của đời mẹ nhằm nhấn mạnh sự truân chuyên, vất vả, nhọc nhằn.
Khác với mẹ, con chưa phải gánh vác việc nhà; ngược lại, con có cả một khung trời mộng mơ đầy màu sắc:
“Con có khoảng trời xanh
Cả trong mơ cũng đẹp
Con có một mặt trời
Rực rỡ muôn tia nắng”.
Chỉ có tuổi trẻ mới có thể nói “Con có…” nhiều điều sống động và tươi đẹp đến thế bởi chúng em có nhiều ước mơ, có nhiều mộng tưởng. Mà thế giới của những mơ mộng thì khi nào chẳng đẹp, chẳng hấp dẫn, quyến rũ! Nhưng thật lạ kì! Còn có một thế giới còn đẹp hơn cả trong mơ, mà đó lại là một thế giới có thực:
“Nhưng có gì đẹp hơn
Tình yêu thương của mẹ
Như khoảng trời xanh đó
Như mặt trời lung linh”.
Đó là thế giới của yêu thương, của tình mẫu tử. Tình mẹ mang đến cho con sự ấm áp, yên vui nhất trên thế gian này. Tình mẹ rộng lớn như “khoảng trời xanh” bát ngát, tình mẹ nồng ấm như “mặt trời lung linh”. Có một nhà văn đã nói: “Gần mặt trời thì sáng, gần mẹ hiền thì ấm”. Quả thực, với cuộc đời con, mẹ như mặt trời mang lại ánh sáng, sự ấm áp, niềm tin và sự sống.Xem thêm: Cảm nghĩ về mái trường em đang học Bài thơ khép lại bằng hình ảnh mẹ theo sát bên con giữa mùa đông lạnh giá. Mẹ đan áo cho con để con được hưởng những làn hơi ấm áp, để con được tự do mơ ưởc về những miền đất xa xôi của tuổi thơ mình:
“Giờ đã sang mùa đông
Gió lạnh về bên cửa
Áo len mẹ đan xong
Con cười trong giấc ngủ”.
Nụ cười trong giấc mơ là nụ cười của hạnh phúc và của niềm tin yêu.
Bài thơ viết về tình mẫu tử, một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của con người. Nhưng không vì sức nặng của đề tài mà bài thơ trở nên khô cứng, khuôn sáo. Cái hay của bài thơ là sự nhẹ nhàng, tinh tế của thể thơ năm chữ, sự ngắn gọn hàm súc của bốn khổ thơ ngắn ngủi và nhất là những hình ảnh thơ đẹp đẽ, gần gũi với lứa tuổi chúng em. Chính bởi những điều giản dị mà sâu sắc ấy, bài thơ đã theo suốt em trong những năm rất dài nhắc nhở em nhớ về mẹ và luôn biết ơn người.
Vanmau.edu.vn
|
In the competition to pick flowers for my mother and aunt on March 8 organized by my class, if I received the question: Read a poem about your mother that you like the most, which poem would you read? Why
Suggest
There are poems that we suddenly encounter in life but leave deep impressions on us. There is a poem I read in the newspaper "Young Pioneers" when I was very young. To this day, I no longer remember the name of the poem or the author's name, but I still remember every sentence and every word in the poem. . A touching poem about motherly love:
“Yellow chrysanthemums in front of the door
Keep autumn algal blooms
Maintain your mother's figure
The days are uneven
I have blue sky minerals
Even in dreams it is beautiful
I have a sun
Brilliant rays of sunlight
But what's more beautiful?
Mother's love
Like that blue sky
Like the shimmering sun
It's winter now
Cold wind coming towards the door
Mom finished knitting the sweater
I laugh in my sleep."
The poem is a child's touching words about his mother's love. Right from the first lines, the author mentioned the name of a flower that symbolizes motherly love: chrysanthemum. It is a flower in a fairy tale where the little girl, out of love for her mother, tore each petal into small pieces so that her mother could live longer. Chrysanthemums are also the flowers that call autumn back to the world so that under every roof the song can be heard: "Autumn wind, mother lulls her children to sleep, in the early morning hours of the year, staying awake is enough for the year...". For the child in the poem, chrysanthemums and autumn have another meaning: See more: Write a paragraph clarifying the expressive value of the alliterative device in the text "After the moment of separation" (excerpt from "Chinh" soaking assistant" by Dang Tran Con and Doan Thi Diem) "Maintain your mother's slim figure
The days are uncertain."
Autumn with the coldness of heaven and earth tightens the little hearts that know how to love. And first of all, love your mother, the mother who has worked hard over the years. The author used a really good word: "discrepancies". It is a figurative word that indicates unstable, unstable. Using the word precarious to talk about the days of a mother's life is to emphasize the hardship, hardship, and hardship.
Unlike my mother, I don't have to shoulder the burden of housework; On the contrary, I have a colorful dream sky:
“I have blue sky
Even in dreams it is beautiful
I have a sun
Brilliant with all the rays of sunlight."
Only youth can say "I have..." so many vivid and beautiful things because we have many dreams and fantasies. But the world of dreams is never beautiful, attractive, seductive! But it's so strange! There is a world even more beautiful than the dream, and it is a real world:
“But there's nothing more beautiful
Mother's love
Like that blue sky
Like the shimmering sun."
It is a world of love and motherly love. A mother's love brings her child the most warmth and happiness in this world. A mother's love is as vast as the immense "blue sky", a mother's love is as warm as the "shimmering sun". There is a writer who said: "Close to the sun is bright, close to a gentle mother is warm." Indeed, to a child's life, a mother is like the sun, bringing light, warmth, faith and life. See more: Feelings about the school I'm studying in. The poem ends with the image of a mother following closely by her child's side. in the middle of cold winter. Mother knits clothes for me so that I can enjoy the warm breath, so that I can freely dream about the distant lands of my childhood:
“It's winter now
Cold wind coming towards the door
Mom finished knitting the sweater
I laugh in my sleep."
The smile in the dream is the smile of happiness and love.
The poem is about motherly love, one of the most sacred human feelings. But not because of the weight of the topic, the poem becomes dry and cliché. The beauty of the poem is the lightness and sophistication of the five-word poetic form, the conciseness of the four short stanzas and especially the beautiful poetic images, close to our age group. Because of those simple yet profound things, the poem has followed me for many years, reminding me of my mother and always being grateful to her.
Vanmau.edu.vn
|
Trong cuộc đối thoại với Đế Thích, nhân vật Hồn Trương Ba (Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ) có nói: “Không… cần biết!”. Lởi thoại đó của nhân vật mang ý nghĩa gì?
Gợi ý
Đề bài:
Trong cuộc đối thoại với Đế Thích, nhân vật Hồn Trương Ba (Vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ) có nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt, ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lởi thoại dó của nhân vật mang ý nghĩa gì?
Bài làm:
Vào những năm tám mươi của thế kỉ XX, sự chuyển biến mạnh mẽ của xã hội và văn học đã đặt ra yêu cầu đối với các tầng lớp nhân dân nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của bản thân nhằm giải phóng tư tưởng và sức lao động của con người. Số phận con người, vấn đề cá nhân cần được khám phá toàn diện. Trong hoàn cảnh đó, Lưu Quang Vũ đi theo tiếng gọi của thời đại đã dựa trên một câu chuyện cổ của dân gian để viết vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Vở kịch đã đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó. Trong cuộc đối thoại với Đế Thích, nhân vật Hồn Trương Ba có nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đó của nhân vật mang những ý nghĩa rất sâu xa.Xem thêm: Những hiểu biết của em về tục ngữ Việt Nam Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được viết từ 1981 đến 1984 ra mắt công chúng. Trương Ba làm nghề trồng vườn, khoảng hơn 50 tuổi, chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con cháu. Do thái độ làm việc tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu (Thiên đình), Trương Ba bị chết bất ngờ. Vì thương quý Trương Ba đã từng chơi cờ với mình nên Đế Thích (vị tiên nổi tiếng cao cờ) đã cho hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt (vừa chết được một ngày) để được sống lại. Thế là hồn Trương Ba vẫn giữ nguyên vẹn nhưng phải trú ngụ ở thân xác anh hàng thịt. Điều trớ trêu bất hạnh cũng bắt đầu xảy ra. Hồn Trương Ba không thể sống chung với vợ người hàng thịt. Về nhà mình, hồn Trương Ba cũng không được vợ, con, cháu và bạn bè quý mến, yêu thương vì thân xác thô kệch, tính cách thô thiển của anh hàng thịt. Trương Ba rất đau khổ. Cuối cùng Trương Ba quyết định xin Đế Thích cho anh hàng thịt và cu Tị (bạn cháu mình) sống lại, mình thì chết hẳn không nhập vào xác của ai nữa.
Lời thoại trên của nhân vật nói với Đế Thích khi Đế Thích đề nghị để hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị.
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”, nhận định này mang tư tưởng triết học sâu sắc, nó phản ánh đòi hỏi của sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa tư tưởng và biểu hiện, hành động. Được sống theo đúng bản chất của mình là một nhu cầu, một quyền lợi thiêng liêng của con người. Việc sống nhờ, sống dựa vào thân xác anh hàng thịt khiến hồn Trương Ba không được sống thực với con người mình. Có câu “ở đời không nên dựa hơi ai mà thở” bởi khi đó, con người tồn tại thật đấy nhưng tất cả mọi tư tưởng đều bị chi phối, điều khiển bởi một kẻ khác. Trong cuộc sống, con người nhiều khi chỉ nghĩ đến kết quả mà không quan tâm đến cách thức. Có khi vì mục đích mà bất chấp mọi thủ đoạn. Có thể suy nghĩ của Đế Thích cũng là biểu hiện của điều đó: ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Đến đây, ta chợt nhớ đến nỗi băn khoăn của chàng hoàng tử Hăm-lét: sống hay không sống? Đó là vấn dề. Sống để chấp nhận mọi mũi tên của số phận phũ phàng hay đứng lên chng lại nó đằng nào cao quý hơn? Sống hay không sống không còn quan trọng nữa mà điều quan trọng là sống như thế nào, sống ra sao…? Đế Thích không hiểu được điều đó. Trường hợp hồn Trương Ba, việc sống dựa vào xác hàng thịt đã khiến hồn ông trở thành nô lệ cho thân xác. Từ đó, nhân vật hồn Trương Ba bộc lộ yêu cầu: "Tôi muôn được là tôi toàn vẹn". Đó là nhu cầu được thống nhất giữa hành động và tư tưởng của nhân vật. Trương Ba trong xác hàng thịt có một tâm hồn thanh cao, đẹp đẽ nhưng lại mang cái hình hài anh hàng thịt nặng nề, cục mịch. Đó là chưa kể ông còn có những hành động thô kệch, xa lạ với con người vốn có của mình. Từ đó, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề triết học nữa đó là sự thông nhất toàn vẹn giữa nội dung và hình thức, giữa hình thức và bản chất của vấn đề, của các sự vật, hiện tượng trong xã hội.Xem thêm: Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù (Có dàn ý chi tiết) Lời thoại trên khiến người đọc nhận ra sự đau đớn dằn vặt của Hồn Trương Ba. Linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau. Nhưng phải là thể thống nhất. Linh hồn phải được sống đúng trong thân xác của mình. Không thể sống vay mượn, trú ẩn nơi không phải là của mình. Sống như thế thì lúc nào cũng chỉ thấy bi kịch.
Sau sự việc trên, Trương Ba đã quyết định dứt khoát từ chối việc nhập hồn vào cu Tị. Việc trú ngụ vào thân xác chú bé Tị có một cám dỗ: có thể gần gũi hơn với gia đình, bởi bản thân chú bé ấy cũng được gia đình ông yêu quý. Nhưng hồn Trương Ba lại khổ sở khi nghĩ đến những tình huống dở khóc dở cười khi một tâm hồn già cỗi trú ngụ trong thể xác một cậu bé con. ông cay đến sự mỉa mai của tạo hoá. Không chấp nhận mượn thân xác chú bé Tị nữa nhưng hồn Trương Ba cũng không cam chịu với thể xác anh hàng thịt. Ông chấp nhận cái chết để không sống giả, sống mà không được là chính mình. Quyết định trên của hồn Trương Ba thể hiện một tính cách quyết đoán, mạnh mẽ, một sự tự trọng đáng khâm phục và bên cạnh đó là một tấm lòng nhân hậu giàu tình thương.
Với tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, Lưu Quang Vũ sáng tác vở kịch "Hồn Trương Ba, đa hàng thịt" nhằm phê phán biểu hiện tiêu cực của lối sống lúc bấy giờ. Lời thoại trên hướng đến tình trạng con người phải sống giả, không được như bản thân mình. Đó là nguy cơ đẩy con người tới chỗ tha hoá do danh và lợi. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá không có sự hài hoà giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch, mà thôi. Quá đây, tác giả muôn gửi đến người đọc một thông điệp tha thiết: Cuộc sống con người chỉ thực sự hạnh phúc, chỉ có giặ trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất toàn vẹn.Xem thêm: Nghị luận xã hội về Uống nước nhớ nguồn Vanmau.edu.vn
|
Trong cuộc đối thoại với Đế Thích, nhân vật Hồn Trương Ba (Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ) có nói: “Không… cần biết!”. Lởi thoại đó của nhân vật mang ý nghĩa gì?
Gợi ý
Đề bài:
Trong cuộc đối thoại với Đế Thích, nhân vật Hồn Trương Ba (Vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ) có nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt, ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lởi thoại dó của nhân vật mang ý nghĩa gì?
Bài làm:
Vào những năm tám mươi của thế kỉ XX, sự chuyển biến mạnh mẽ của xã hội và văn học đã đặt ra yêu cầu đối với các tầng lớp nhân dân nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của bản thân nhằm giải phóng tư tưởng và sức lao động của con người. Số phận con người, vấn đề cá nhân cần được khám phá toàn diện. Trong hoàn cảnh đó, Lưu Quang Vũ đi theo tiếng gọi của thời đại đã dựa trên một câu chuyện cổ của dân gian để viết vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Vở kịch đã đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó. Trong cuộc đối thoại với Đế Thích, nhân vật Hồn Trương Ba có nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đó của nhân vật mang những ý nghĩa rất sâu xa.Xem thêm: Những hiểu biết của em về tục ngữ Việt Nam Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được viết từ 1981 đến 1984 ra mắt công chúng. Trương Ba làm nghề trồng vườn, khoảng hơn 50 tuổi, chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con cháu. Do thái độ làm việc tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu (Thiên đình), Trương Ba bị chết bất ngờ. Vì thương quý Trương Ba đã từng chơi cờ với mình nên Đế Thích (vị tiên nổi tiếng cao cờ) đã cho hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt (vừa chết được một ngày) để được sống lại. Thế là hồn Trương Ba vẫn giữ nguyên vẹn nhưng phải trú ngụ ở thân xác anh hàng thịt. Điều trớ trêu bất hạnh cũng bắt đầu xảy ra. Hồn Trương Ba không thể sống chung với vợ người hàng thịt. Về nhà mình, hồn Trương Ba cũng không được vợ, con, cháu và bạn bè quý mến, yêu thương vì thân xác thô kệch, tính cách thô thiển của anh hàng thịt. Trương Ba rất đau khổ. Cuối cùng Trương Ba quyết định xin Đế Thích cho anh hàng thịt và cu Tị (bạn cháu mình) sống lại, mình thì chết hẳn không nhập vào xác của ai nữa.
Lời thoại trên của nhân vật nói với Đế Thích khi Đế Thích đề nghị để hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị.
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”, nhận định này mang tư tưởng triết học sâu sắc, nó phản ánh đòi hỏi của sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa tư tưởng và biểu hiện, hành động. Được sống theo đúng bản chất của mình là một nhu cầu, một quyền lợi thiêng liêng của con người. Việc sống nhờ, sống dựa vào thân xác anh hàng thịt khiến hồn Trương Ba không được sống thực với con người mình. Có câu “ở đời không nên dựa hơi ai mà thở” bởi khi đó, con người tồn tại thật đấy nhưng tất cả mọi tư tưởng đều bị chi phối, điều khiển bởi một kẻ khác. Trong cuộc sống, con người nhiều khi chỉ nghĩ đến kết quả mà không quan tâm đến cách thức. Có khi vì mục đích mà bất chấp mọi thủ đoạn. Có thể suy nghĩ của Đế Thích cũng là biểu hiện của điều đó: ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Đến đây, ta chợt nhớ đến nỗi băn khoăn của chàng hoàng tử Hăm-lét: sống hay không sống? Đó là vấn dề. Sống để chấp nhận mọi mũi tên của số phận phũ phàng hay đứng lên chng lại nó đằng nào cao quý hơn? Sống hay không sống không còn quan trọng nữa mà điều quan trọng là sống như thế nào, sống ra sao…? Đế Thích không hiểu được điều đó. Trường hợp hồn Trương Ba, việc sống dựa vào xác hàng thịt đã khiến hồn ông trở thành nô lệ cho thân xác. Từ đó, nhân vật hồn Trương Ba bộc lộ yêu cầu: "Tôi muôn được là tôi toàn vẹn". Đó là nhu cầu được thống nhất giữa hành động và tư tưởng của nhân vật. Trương Ba trong xác hàng thịt có một tâm hồn thanh cao, đẹp đẽ nhưng lại mang cái hình hài anh hàng thịt nặng nề, cục mịch. Đó là chưa kể ông còn có những hành động thô kệch, xa lạ với con người vốn có của mình. Từ đó, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề triết học nữa đó là sự thông nhất toàn vẹn giữa nội dung và hình thức, giữa hình thức và bản chất của vấn đề, của các sự vật, hiện tượng trong xã hội.Xem thêm: Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù (Có dàn ý chi tiết) Lời thoại trên khiến người đọc nhận ra sự đau đớn dằn vặt của Hồn Trương Ba. Linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau. Nhưng phải là thể thống nhất. Linh hồn phải được sống đúng trong thân xác của mình. Không thể sống vay mượn, trú ẩn nơi không phải là của mình. Sống như thế thì lúc nào cũng chỉ thấy bi kịch.
Sau sự việc trên, Trương Ba đã quyết định dứt khoát từ chối việc nhập hồn vào cu Tị. Việc trú ngụ vào thân xác chú bé Tị có một cám dỗ: có thể gần gũi hơn với gia đình, bởi bản thân chú bé ấy cũng được gia đình ông yêu quý. Nhưng hồn Trương Ba lại khổ sở khi nghĩ đến những tình huống dở khóc dở cười khi một tâm hồn già cỗi trú ngụ trong thể xác một cậu bé con. ông cay đến sự mỉa mai của tạo hoá. Không chấp nhận mượn thân xác chú bé Tị nữa nhưng hồn Trương Ba cũng không cam chịu với thể xác anh hàng thịt. Ông chấp nhận cái chết để không sống giả, sống mà không được là chính mình. Quyết định trên của hồn Trương Ba thể hiện một tính cách quyết đoán, mạnh mẽ, một sự tự trọng đáng khâm phục và bên cạnh đó là một tấm lòng nhân hậu giàu tình thương.
Với tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, Lưu Quang Vũ sáng tác vở kịch "Hồn Trương Ba, đa hàng thịt" nhằm phê phán biểu hiện tiêu cực của lối sống lúc bấy giờ. Lời thoại trên hướng đến tình trạng con người phải sống giả, không được như bản thân mình. Đó là nguy cơ đẩy con người tới chỗ tha hoá do danh và lợi. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá không có sự hài hoà giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch, mà thôi. Quá đây, tác giả muôn gửi đến người đọc một thông điệp tha thiết: Cuộc sống con người chỉ thực sự hạnh phúc, chỉ có giặ trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất toàn vẹn.Xem thêm: Nghị luận xã hội về Uống nước nhớ nguồn Vanmau.edu.vn
|
Trong các truyện đọc về danh nhân thế giới em thích nhất truyện nào? Em hãy kể lại và cho biết cảm nghĩ của em
Gợi ý
Buổi chiều ánh nắng vàng như mật ong thấm đẫm trên cảnh vật. Gió xào xạc nghịch ngợm với đám lá tre đang vung vẫy, rung tít lên. Một cụm mây trắng như bông trôi nhè nhẹ trên nền trời xanh ngắt. Đồng lúa mới xanh mát làm sao. Hương lúa dìu dịu, ngọt ngào đầy quyến rũ. Trên bờ ruộng, một đàn trẻ tóc trái đào đang mải mê chơi nặn tượng. Chúng đang thi đấy! Ai nặn khéo nhất sẽ được công kênh đi hết bờ thửa ruộng này.
Chú bé gương mặt bầu bĩnh, mắt sáng như sao đang chăm chú tạo nên hình một con voi. Trán chú nhăn lại ra vẻ say mê lắm. Dưới bàn tay bé xíu, khéo léo của chú, con voi đã dần dần hiện ra. Đôi môi tươi như hai cánh hoa của chú bé nở một nụ cười thật tươi.
Bọn trẻ quây quần lại bên nhau để tranh giải. Nào là con cóc ngộ nghĩnh với hai con mắt lồi ra to tướng, con lợn béo núc ních với cái bụng lê gần sát đất, cả con chó dường như chuẩn bị sủa nữa. Thế rồi, con voi của chú bé đường hoàng đi ra. Cái vòi vung vẩy như đang tìm một cây mía nào đó, đôi tai to như hai cái quạt ve vẩy liên hồi. Bọn trẻ “À” lên thích thú ngắm con voi đi khắp một vòng. Thì ra, chú bé này lấy bốn con cua để gắn vào chân voi, lấy đỉa làm vòi còn đôi tai thì có sẵn bươm bướm đậu. Con voi trông như thật, đường hoàng đi trong tiếng reo hò vui vẻ của lũ trẻ. Bọn chúng cùng ùa vòa, công kênh cậu bé đi khắp thửa ruộng. Tiếng cười đùa vang khắp cánh đồng.Xem thêm: Thuyết minh về quần thể di tích Cố đô Huế – Di sản văn hóa thế giới. Cậu bé ấy chính là Lương Thế Vinh, một nhà toán học, nhà bác học tài ba của nước ta thuở trước. Từ nhỏ cậu đã có một trí tưởng tượng phong phú, trí thông minh tuyệt diệu mở đầu cho trình độ uyên bác sau này. Nhà bác học uyên thâm ấy là ngôi sao sáng mãi trên vòm trời Việt Nam.
Vanmau.edu.vn
|
Which one of the stories about famous people in the world do you like best? Please tell me and tell me your thoughts
Suggest
In the afternoon, the golden sunlight is like honey soaked in the landscape. The wind rustled mischievously with the waving and shaking bamboo leaves. A cluster of white, cotton-like clouds floats gently across the blue sky. The rice fields are so green and cool. The scent of rice is gentle, sweet and seductive. On the edge of the field, a group of peach-haired children are engrossed in making statues. They are competing! Whoever shapes the most skillfully will be able to make the channel go all the way to the edge of this field.
The boy with a chubby face and eyes as bright as stars is intently creating the shape of an elephant. His forehead wrinkled as if he was very fascinated. Under his tiny, skillful hands, the elephant gradually appeared. The boy's lips as fresh as two flower petals smiled brightly.
The children gathered together to compete for prizes. There was a funny toad with two huge bulging eyes, a fat pig with a belly that was dragging almost to the ground, and even a dog that seemed ready to bark. Then, the boy's elephant walked out with dignity. The trunk waved as if searching for a certain sugarcane tree, the ears were as big as two fans and waved continuously. The children said "Ah" excitedly watching the elephant go around. It turns out, this boy used four crabs to attach to the elephant's legs, used leeches to make the trunk and his ears had butterflies attached to them. The elephant looks real, walking proudly amid the joyful cheers of the children. They rushed in together, carrying the boy around the field. Laughter echoed throughout the fields. See more: Explanation about the complex of Hue Monuments - World Cultural Heritage. That boy is Luong The Vinh, a talented mathematician and scientist of our country in the past. From a young age, he had a rich imagination and wonderful intelligence that paved the way for future erudition. That profound scientist is an ever-shining star in the Vietnamese sky.
Vanmau.edu.vn
|
Trong các tác phẩm văn học dân gian đã học, em thích nhất nhân vật nào? Hãy phát hiểu cảm nghĩ về nhân vật đó
Gợi ý
Sau khi học xong các tác phẩm dân gian, em cứ bồi hồi suy nghĩ về nhân vật con cò trong bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm, một con cò đảm đang, giữ vững phẩm chất trong sạch cho đến phút chót cuộc đời.
Mở đầu bài ca dao, đã thấy ngay hình ảnh bi đát của con cò, vì “đi ăn đêm, đậu phải cành mềm” nên đã bị “lộn cổ xuống ao”. Vì sao cò lại đi ăn đêm? Phải chăng cò có cả một đàn con nheo nhóc chờ mồi ở tổ há miệng đòi ăn? Phải chăng cò bố không còn nữa, đã trút cả gánh nặng nuôi con lên đôi vai gầy yếu của cò mẹ, nên nó lam lũ đêm hôm? Chắc hẳn là thế. Tôi hình dung cò mẹ đã lặn lội vất vả suốt từ sớm mai đến chiều muộn vẫn không đủ ăn cho cả lũ cò con. Thấy con tranh nhau há mỏ gào ăn, cò mẹ không thể đành lòng; quá thương con nên lại gượng cất cánh ra đi. Nhưng sức cò có hạn, cò đã cả ngày kiếm ăn kiệt lực, mắt hoa, đầu váng, chân run đứng không vững nữa. Hình ảnh “lộn cổ” cho ta thấy cò đã chồn chân, mất sức đến mức nào! Và lúc này, cò đang mấp mé giữa cái sống với cái chết. Cò nghĩ ngợi gì, chọn lựa con đường nào đây? Mấy câu sau là lời kêu cứu thảm thiết của cò. "… Ông vớt tôi nao!” cò đã chọn con đường sống. Cuộc sống của cò quá cơ cực, nhưng cò vẫn thiết tha muốn sống. Điều đó dễ hiểu: cò rất thương con, cò có trách nhiệm làm mẹ. Cò đã kêu cứu: ông chài, ông câu hay ông qua đường nào đó ơi, hãy “vớt tôi nao!”, tiếng “nao” cho thấy giọng kêu đã đuối hơi, cạn sức lắm rồi.Xem thêm: Văn học trung đại Việt Nam có vị trí gì trong nền văn học dân tộc và đã trải qua những giai đoạn phát triển nào? … Giai đoạn văn học từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII
Trong cái hoàn cảnh bi đát ấy, lúc cái chết kề bên, đã sáng ngời lên triết lí sống cao cả của người lao động Việt Nam xưa, thông qua lời trăng trối của cò:
Có xáo thỉ xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con!
Mặc dù cò đi ăn đêm, nhưng là đi kiếm ăn cho con, chứ không làm gì gian tham vụng trộm. Nó đã sống trong bần hàn, nhưng không hề nhơ nhuốc. Vì thế, nó không thể để con phải hổ thẹn thấy mẹ chết trong dơ dáy. Thật thanh cao, tự trọng biết bao!
Hình ảnh con cò trong bài ca dao chính là hình ảnh đại diện cho nhân dân ta, thật thà, chịu khó và đặc biệt là có phẩm chất cao quý “đói cho sạch, rách cho thơm”. Và con cò cũng là hiện thân cho người phụ nữ Việt Nam tần tảo, đôn hậu, yêu chồng thương con ở xã hội ta những thuở nào.
Vanmau.edu.vn
|
Among the folk literature works you have studied, which character do you like the most? Find out how you feel about that character
Suggest
After finishing studying folk works, I kept thinking about the stork character in the folk song The stork that goes out to eat at night, a responsible stork, maintaining its pure qualities until the end of its life. .
At the beginning of the folk song, we immediately see the tragic image of the stork, because "it went out to eat at night and landed on a soft branch" so it "fell upside down into the pond". Why do storks go out to eat at night? Does the stork have a whole flock of chicks waiting for prey in the nest, opening their mouths to ask for food? Is it possible that the father stork is no longer there and has placed the entire burden of raising his children on the mother stork's weak shoulders, so he is busy at night? Surely so. I imagine that the mother stork has worked hard from early morning until late afternoon and still doesn't have enough food for all her baby storks. Seeing her children fighting with each other, opening their beaks and screaming to eat, the mother stork could not bear it; I loved my child so much that I forced myself to take off. But the stork's strength is limited, the stork has been exhausted all day searching for food, his eyes are dizzy, his head is dizzy, his legs are shaking and he can't stand anymore. The image of "turning its neck upside down" shows us how much the stork has become restless and exhausted! And right now, the stork is teetering between life and death. What do you think about, which path to choose? The following few sentences are the stork's pitiful cry for help. "... Can you save me?" The stork has chosen the path of life. The stork's life is too difficult, but the stork still wants to live. That's understandable: the stork loves her children very much, the stork has to call for help: the fisherman, the fisherman Or a passerby, please "pick me up!", the sound of "nao" shows that the voice is exhausted, exhausted. See more: What is the position of Vietnamese medieval literature in literature? nation and what stages of development has it gone through? ... Literary period from the 15th century to the end of the 17th century
In that tragic situation, when death was near, the noble life philosophy of ancient Vietnamese workers shone through the stork's last words:
There are disturbances in the clear water
Don't disturb the turbid water and hurt the little stork's heart!
Although the stork goes out to eat at night, it is to find food for its children, not to do anything greedy or sneaky. It has lived in poverty, but not in squalor. Therefore, he cannot let his child be ashamed to see his mother die in filth. How noble and respectful!
The image of the stork in the folk song is the image that represents our people, honest, hard-working and especially has the noble qualities of "being hungry until clean, torn until fragrant". And the stork is also the embodiment of Vietnamese women who are diligent, kind, and love their husbands and children in our society in the past.
Vanmau.edu.vn
|
Trong giấc mơ, em được một bà tiên cho ba điều ước và em đã thực hiện cả ba điều ước đó. Hãy kể lại câu chuyện theo trình tự thời gian
Gợi ý
Đêm nào em cũng nằm mơ, nhưng chưa bao giờ em lại có được một giấc mơ kì diệu đến vậy. Em nằm mơ thấy mình lạc vào một thế giới thần tiên thật diệu kì, bốn bề mây phủ, sơn thuỷ hữu tình và gặp một bà tiên. Bà nói: “cháu yêu, cháu là một đứa trẻ ngoan vì đã biết nghe lời bố mẹ, chăm chỉ học hành và làm nhiều việc giúp đỡ gia đình. Bây giờ bà muốn tặng cho cháu ba điều ước”.
Em vui ơi là vui vì quá bất ngờ. Nhưng, nghĩ mãi em vẫn không biết nên chọn điều ước nào và cuối cùng em đã ước: Con ước con được thật nhiều kẹo để mỗi khi con thèm là sẽ có ngay. Bà tiên mỉm cười xoa đầu em và đồng ý.
Hôm trước, mẹ mua cho con một bộ búp bê Baby. Con thích lắm. Con ước được xinh như búp bê để có nhiều quần áo đẹp và giày dép mới. Vừa nói xong thì bỗng nhiên có một làn khói trắng nhẹ nhàng bay qua rồi dần dần biến mất. Trước mặt em lúc này có biết bao nhiêu là quần áo đẹp đủ các màu sắc rực rỡ và bao nhiêu là váy, là giày dép…, thứ gì cũng đẹp làm em hoa cả mắt. Em sung sướng reo lên. Bà tiên mỉm cười rồi nói: Thế là con đã ước hai điều ước rồi, chỉ còn một điều ước cuối cùng nữa thôi.Xem thêm: Viết thư cho chú ở nước ngoài kể về tình hình gia đìnhNhưng khi được như búp bê rồi em lại nhận ra rằng: chẳng có điều gì quý hơn là được làm con của bố mẹ, đwợc bố mẹ yêu thương và chăm sóc. Và thế là em đã được bà tiên cho cả ba điều ước, và được bà khen là em bé ngoan. Em vô cùng vui sướng.
Vanmau.edu.vn
|
In the dream, I was given three wishes by a fairy and I fulfilled all three of them. Tell the story in chronological order
Suggest
I dream every night, but I have never had such a magical dream. I dreamed that I was lost in a magical fairy world, surrounded by clouds, charming mountains and water, and met a fairy. She said: "Dear child, you are a good child because you listen to your parents, study hard and do many things to help the family. Now I want to give you three wishes."
I'm so happy because I was so surprised. But, after thinking about it, I still didn't know which wish to choose and finally I made a wish: I wish for a lot of candy so that every time I crave it, I can have it right away. The fairy smiled and patted my head and agreed.
The other day, mom bought me a set of Baby dolls. I like it very much. I wish to be as pretty as a doll so I can have lots of beautiful clothes and new shoes. As soon as he finished speaking, suddenly a white smoke gently flew past and gradually disappeared. In front of me right now there are so many beautiful clothes of all bright colors and so many dresses, shoes..., everything is so beautiful that it makes my eyes dizzy. I shouted happily. The fairy smiled and said: So you have made two wishes, there is only one last wish left. See more: Write a letter to your uncle abroad telling about your family situation But when you become like a doll, you realized that there is nothing more precious than being a child of parents, being loved and cared for by their parents. And so I was granted all three wishes by the fairy, and she praised me for being a good baby. I'm extremely happy.
Vanmau.edu.vn
|
Trong hội nghị học tốt sắp tới của lớp, em được phân công viết bản tham luận về vấn đề xây dựng phương hướng học tập, rèn luyện của người học sinh. Em hãy viết bản tham luận đó
Gợi ý
Kính thưa các thầy cô giáo!
Thưa các bạn học sinh!
Học tập là một nhiệm vụ hàng đầu đối với mỗi người học sinh bởi tri thức, tầm hiểu biết sâu rộng sẽ là vấn đề quyết định cơ bản trong khả năng làm việc của mỗi chúng ta sau này. Từ sự ý thức về tầm quan trọng của việc học tập, sau đây em xin phép được trình bày bản tham luận về vấn đề học tập.
Phát huy tính tích cực, chủ động của mỗi học sinh, các thầy cô sẽ là người đóng vai trò hướng dẫn cho học sinh trong quá trình tự học của mỗi người. Vì vậy, để có được kết quả học tập tốt mỗi chúng ta cần xác định rõ mục tiêu học tập đúng đắn ngay từ đầu. Cụ thể, đó là xây dựng cho mình một lòng đam mê học hỏi, khám phá tri thức. Đó là kim chỉ nam định hướng cho chúng ta phương pháp, cách thức thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Trước hết, mỗi học sinh cần tự rèn luyện và phát huy tính tự chủ trong học tập, rèn khả năng đọc – hiểu, có thế thoát li sách vở khi làm bài kiếm tra, khi trình bày một vấn đề.Xem thêm: Suy nghĩ về câu nói Việc học như trồng cây Kiến thức nhân loại là vô cùng rộng lớn, vì vậy đọc nhiều sách vở, tham khảo nhiều nguồn tài liệu để tích luỹ tri thức cũng là một việc làm vô cùng cần thiết. Việc học có thế là đọc sách trên thư viện, lắng nghe lời giảng từ các thầy cô giáo, đọc sách báo, tạp chí,… Đặc biệt, chúng ta nên hết sức tận dụng sự tiện lợi của các phương tiện hiện đại nhằm tìm kiếm và sử dụng các thông tin trên Internet. Do đó, một công việc cần thiết khác lả học và tập áp dụng những công nghệ mới mẻ trong việc học.
Song song với việc tích luỹ kiến thức, chúng ta còn cần tập trung rèn giũa đạo đức và xây dựng lối sống chuẩn mực. Sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng cũng kéo theo sự lan tràn các thông tin "rác" tác động không tốt đến lối sống, cách nghĩ, cách làm,… của người học sinh. Bởi vậy, chúng ta cần kiên định trong tư tưởng đạo đức và lối sống.
Đế hoàn thành tốt việc học tập, việc rèn luyện đạo đức, lối sống cũng như cân đối thời gian cho các hoạt động khác, việc sắp xếp thời gian, xây dựng kế hoạch cũng là một việc không thế thiếu, sắp xếp thời gian hợp lí giúp học sinh chủ động trong công việc hàng ngày, đặc biệt tránh được tình trạng học gấp, học tủ khi mùa thi sắp đến gần. Đổì với mỗi bài học, chúng ta có thể xây dựng các sườn ý cơ bản với những ý chính có hệ thống hợp lí, liên kết logic. Điều đó giúp ta mau nhớ và nhớ được nhiều kiến thức.Xem thêm: Tưởng tượng [...]. Hãy viết một bài thuyết minh ngắn (từ 15 đến 20 dòng) để giới thiệu với mọi người về vẻ đẹp của con người và cảnh vật Sa Pa mà người hoạ sĩ đã nhận ra. Bài thuyết minh có sử dụng yếu tố nghị luận và miêu tả (cảnh vật và nội tâm) Mặt khác, em xin đề đạt nguyện vọng của bản thân là mỗi khối lớp, căn cứ vào điều kiện cụ thế có thế được nhà trường cho tổ chức những buổi dã ngoại, thực tế đến những đại danh có trong chương trình học như Côn Sơn, hồ Ba Bể,… và mời các nhà thơ, nhà văn,… đến trường nói chuyện.
Trên đây là một vài suy nghĩ của cá nhân em về việc xây dựng phương hướng học tập, rèn luyện của người học sinh. Còn ở lứa tuồi học sinh nên em không tránh khỏi những suy nghĩ non nớt, chủ quan vì vậy em rất mong được các thầy cô giáo và các bạn học sinh góp ý, bổ sung đế bản tham luận của em được sâu sắc hơn, để việc học tập của chúng em được tót hơn.
Em xin chân thành, cảm ơn!
Vanmau.edu.vn
|
In the upcoming class's good learning conference, I am assigned to write a paper on the issue of building a student's learning and training direction. Please write that essay
Suggest
Dear teachers!
Dear students!
Studying is a top task for every student because knowledge and in-depth understanding will be the basic deciding factor in each of us's ability to work later. From the awareness of the importance of learning, below I would like to present an essay on the issue of learning.
Promoting the positivity and initiative of each student, teachers will act as guides for students in each person's self-study process. Therefore, to get good learning results, each of us needs to clearly define the right learning goals from the beginning. Specifically, it is about building a passion for learning and discovering knowledge. It is a guideline that guides us on the methods and methods to achieve the set goals.
First of all, each student needs to train and develop self-control in learning, practice reading and comprehension skills, and be able to leave books when taking tests or presenting a problem. See more: Reflection Think about the saying Learning is like planting a tree. Human knowledge is extremely vast, so reading many books and consulting many sources to accumulate knowledge is also an extremely necessary job. Learning can be reading books in the library, listening to lectures from teachers, reading books, newspapers, magazines, etc. In particular, we should take full advantage of the convenience of modern means to learn. Find and use information on the Internet. Therefore, another necessary task is to learn and practice applying new technologies in learning.
Along with accumulating knowledge, we also need to focus on cultivating ethics and building a standard lifestyle. The development of mass media also leads to the spread of "junk" information that negatively impacts the lifestyle, way of thinking, working, etc. of students. Therefore, we need to be steadfast in our moral thoughts and lifestyle.
To successfully complete studies, moral training, lifestyle as well as balance time for other activities, arranging time and building plans is also an indispensable task. Reasonable methods help students be proactive in their daily work, especially avoiding the situation of rushing and studying when the exam season is approaching. For each lesson, we can build basic ideas with main ideas that have a reasonable system and logical connections. That helps us remember quickly and remember a lot of knowledge. See more: Imagine [...]. Write a short exposition (from 15 to 20 lines) to introduce everyone to the beauty of the people and landscape of Sa Pa that the artist has realized. The presentation uses elements of discussion and description (scenery and interiority). On the other hand, I would like to express my wish that each grade level, based on specific conditions, can be given permission by the school. organize field trips and field trips to famous places in the curriculum such as Con Son, Ba Be lake,... and invite poets, writers,... to the school to talk.
Above are some of my personal thoughts on building a student's learning and training direction. As a student, I cannot avoid having immature and subjective thoughts, so I look forward to receiving comments from teachers and students to make my essay more profound. so that our learning can be better.
Thank you sincerely!
Vanmau.edu.vn
|
Trong kho tàng ca dao Việt Nam, có rất nhiều bài ca dao mở đầu bằng: “Thân em như… ” Anh (chị) hãy cho biết tác dụng của cách mở đầu ấy
Gợi ý
Ca dao là tiếng nói diễn tả đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động trong các mối quan hệ lứa đôi, gia đình, quê hương, đất nước. Trong kho tàng dân gian ấy, bên cạnh những bài ca dao hài hước, ca dao tình nghĩa, những câu ca dao than thân luôn để lại cho người đọc cảm giác ngậm ngùi, xót xa cho những bất hạnh con người gặp phải trong xã hội đặc biệt là đốì với người phụ nữ. Những bài ca dao mở đầu bằng cụm từ Thân em như… nghe sao xót xa, thương cảm…
Nhắc đến chùm ca dao này, ta có thể nhớ đến hàng loạt các bài ca dao như:
– Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào giếng nước, hạt ra ruộng cày
– Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, kẻ phàm rửa chân
– Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ, biết vào tay ai?
– Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi…
Những bài ca dao ngay từ đầu nó đã giúp xác định đối tượng than thân là người phụ nữ. Trong xã hội phong kiến xưa, đó là những người chịu nhiều bất hạnh nhất. Họ có cuộc đời bị phụ thuộc, bị ràng buộc trong lễ giáo, qui tắc khắt khe, không thể tự quyết định được tương lai và vận mệnh của mình. Việc lặp đi lặp lại cụm từ thân em với tần suất lớn khiến cho hệ thông ca dao mở đầu bằng Thân ẹm như… trở thành lời chung của người phụ nữ trong xã hội cũ, về giá trị con người và thân phận nhỏ bé, yếu ớt, đắng cay, tội nghiệp của họ. Các tác giả dân gian đã để cho họ tự giãi bày nỗi khổ, để cho họ tự ý thức về mình và thân phận của mình. Đọc tất cả những bài ca dao, có thể thấy một điểm chung, người phụ nữ tự nhận mình giống như những thứ gần gũi, thậm chí là bình dị, mộc mạc trong cuộc sống nhưng chúng cũng ẩn chứa vẻ đẹp. Tự ý thức được vẻ đẹp của mình: như tấm lụa đào, đẹp mềm mại, như giọt mưa, giếng nước trong lành, như cây quế ngát lừng hương thơm, như củ ấu gai ngọt bùi… tức người phụ nữ đã tự nhận thức được những giá trị của bản thân. Nhận thức được nhưng xã hội lại đầy bất công, số phận của họ thì thật chông chênh, không có gì đảm bảo. Bi kịch số phận vì thế mà càng trở nên sâu sắc. Đáng thương nhất là ở chỗ khi người con gái bước vào cái tuổi đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì nỗi lo về thân phận lại ập ngay đến với họ. Và có khi, ý thức được giá trị của mình.mà lại vẫn phải mời mọc da diết: Ai ơi nếm thử mà xem / Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi. Giá trị được khẳng định nhưng lại không được ai biết đến. Đã xót xa lại càng xót xa hơn. Người phụ nữ có ngoại hình và phẩm cách tốt đẹp lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc, đằng này, lại là hai từ thân em vang lên xe xót. Họ ý thức được vẻ đẹp của mình nhưng cũng ý thức được những bất công và bất hạnh mình gặp phải trong cuộc sống. Và càng ý thực về phẩm giá thì nỗi đau thân phận càng trở nên sâu sắc.Xem thêm: Nghị luận xã hội về vấn đề học đi đôi với hành
Bằng cách mở đầu như vậy, các tác giả dân gian đã để cho nhân vật thân em tự nhận thức và thấm thìa về thân phận của mình. Nỗi đau khiến cho giá trị phê phán, tố cáo càng đậm nét. Thân em như giếng giữa đàng, trong lành, ngọt mát, nếu gặp phải người thanh lịch thì còn được trân trọng còn gặp kẻ phàm tục thì chỉ trở thành thứ nước rửa chân tầm thường. Tấm lụa đào phất phơ giữa chợ rồi không biết sẽ vào tay ai, như một thứ hàng mua bán. Và có khi, họ chỉ như cây quế ở giữa rừng, ngát hương mà không ai biết đến… Cuộc sống và sự kìm kẹp của xãì hội đã khiến cho người phụ nữ không thể tự quyết định tương lai và vận mệnh của mình. Họ càng ý thức được về mình thì càng thấm thìa thân phận và nỗi đau của chính mình và vì thế nó càng trở nên day dứt, ám ảnh. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy một điều rằng cách mở đầu như vậy khiến cho lời than trong các bài ca dao được nhấn mạnh, gây sự chú ý đối với người nghe, người đọc. Đặt cụm từ thân em lên ngay từ đầu sẽ mang lại cho người đọc ấn tượng về một cái gì đó nghe thật ngậm ngùi, dự cảm sau nó nhiều bất hạnh, đáng thương.
Với cách mở đầu như vây, dân gian đã làm nên một mô-típ thường gặp trong ca dao than thân Việt Nam. Bên cạnh những lời than thân nói chung của người Iao động, của nhân dân, lời than thân giành riêng cho người phụ nữ này đã khẳng định giá trị nhân đạo và nhăn văn cao cả của cha ông ta từ xưa đến nay thể hiện qua văn học dân gian, suối nguồn nuôi dưỡng những tâm hồn Việt.Xem thêm: Viết đoạn văn từ 10 đến 15 dòng tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng ThủyVanmau.edu.vn
|
In the treasury of Vietnamese folk songs, there are many folk songs that begin with: "My body is like..." Please tell us the effect of that opening.
Suggest
Folk songs are the voices that express the spiritual life, thoughts, and emotions of working people in their relationships with couples, families, homeland, and country. In that folk treasure, besides the humorous folk songs and sentimental folk songs, the self-pity folk songs always leave the reader with a feeling of pity and sorrow for the misfortunes people encounter in society. especially for women. Folk songs begin with the phrase My body is like... it sounds so sad and pitiful...
Referring to this series of folk songs, we can remember a series of folk songs such as:
– My body is like falling raindrops
The grain goes into the well, the grain goes into the plowed field
- I like the well itself between Paradise
Wise people wash their faces, common people wash their feet
– Your body is like peach silk
Floating in the middle of the market, who knows whose hands it belongs to?
– My body is like a thorny tubercle
The inside is white and the outside is black
Hey, try it and see
When I taste it, I realize that you are sweet...
From the beginning, folk songs helped identify the object of mourning as women. In ancient feudal society, those were the people who suffered the most misfortune. Their lives are dependent, bound by strict rituals and rules, and cannot decide their own future and destiny. The repetition of the phrase my body with great frequency makes the system of folk songs that begin with "My body like... become the common words of women in the old society, about human value and small status, their weakness, their bitterness, their pity. Folk authors let them express their suffering, letting them be self-aware of themselves and their fate. Reading all the folk songs, we can see one thing in common, women identify themselves as close, even simple, rustic things in life, but they also contain hidden beauty. Being self-aware of her own beauty: like peach silk, soft and beautiful, like raindrops, a well of fresh water, like a fragrant cinnamon tree, like a sweet and fleshy water chestnut root... that means a woman is self-aware. get your own values. Realizing that society is full of injustice, their fate is uncertain and there is no guarantee. The tragedy of fate thus becomes even more profound. The most pitiful thing is that when a girl enters the most beautiful and happiest age of her life, worries about her fate immediately come to her. And sometimes, being aware of your own value, you still have to invite deeply: Come, taste it and see / When you taste it, you'll know that I'm sweet. The value is affirmed but not known to anyone. Already sad, even more sad. A woman with a good appearance and good character should be happy, but here, two words from your body echo loudly. They are aware of their beauty but are also aware of the injustices and misfortunes they encounter in life. And the more truly aware of dignity, the deeper the pain of one's fate becomes. See more: Social commentary on the issue of learning coupled with action
By opening like that, folk authors let the main character become self-aware and understand his own fate. Pain makes the value of criticism and denunciation even stronger. My body is like a well in the middle of the street, fresh, sweet and cool. If I meet elegant people, I will still be respected, but if I meet worldly people, I will only become ordinary foot-washing water. The peach silk flutters in the middle of the market, not knowing whose hands it will be in, like a commodity to be bought and sold. And sometimes, they are just like a cinnamon tree in the middle of the forest, fragrant but no one knows... Life and society's constraints have made it impossible for women to decide their own future and destiny. The more they are aware of themselves, the more they understand their own fate and pain, and so it becomes more tormenting and haunting. Besides, it can be noticed that such an opening makes the lament in folk songs emphasized, attracting the attention of listeners and readers. Putting the phrase "your body" right from the beginning will give the reader the impression of something that sounds sad, with a premonition of much unhappiness and pity behind it.
With such an opening, folk songs have created a common motif in Vietnamese lament songs. Besides the general condolences of the workers and the people, the condolences dedicated to this woman have affirmed the humanitarian values and noble literature of our ancestors from past to present, expressed through folk literature, the source that nourishes Vietnamese souls. See more: Write a paragraph of 10 to 15 lines summarizing the story of An Duong Vuong and Mi Chau - Trong ThuyVanmau.edu.vn
|
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Tô Hoài viết Vợ chồng A Phủ’, sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu viết Chiếc thuyền ngoài xa.
Hướng dẫn
Câu hỏi này nhằm đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản nghệ thuật của HS về hai hình tượng văn học. Tuy nhiên, yêu cầu chính của câu hỏi không phải là chỉ ra đặc điểm của hai nhân vật (MỊ và người đàn bà hàng chài) mà là thông qua hai nhân vậtthấy được những điểm khác biệt trong cách nhìn nhận, cách giải quyết vấn đề và thông điệp của hai nhà văn.
Để đáp ứng tốt yêu cầu của câu hỏi, trước hết HS cần hiểu chính xác các khái niệm cách nhìn nhận, cách giải quyết vấn đề và thông điệp của nhà văn; từ đó mới đối chiếu vào hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Chiếc thuyền ngoài xa để chỉ ra sự khác biệt trên ba phương diện ấy.
Tham khảo gợi ý sau:
– Cách nhìn nhận một hiện tượng đời sống cho thấy nhân sinh quan của nhà văn. Cụ thể ở đây là trước nỗi khốn khổ của người phụ nữ, Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu nhìn nhận thế nào? Nỗi khổ ấy có gì giống và khác nhau? Đâu là nguyên nhân của nỗi khổ ấy?
– Cách giải quyết vấn đề là hướng giải thoát cho nhân vật, thể hiện rõ nhất ở cách kết thúc tác phẩm.
+ Trong Vợ chồng A Phủ, Mị thoát khỏi nỗi khổ bằng ý chí, nghị lực và sức sống tiềm tàng; bằng cách chạy theo A Phủ đến khu du kích Phiềng Sa. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh cuộc đời tự do, hạnh phúc của đôi trai gái.
Xem thêm: Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà (Có dàn ý chi tiết)+ Trong Chiếc thuyền ngoài xa, người đàn bà hàng chài xin không li dị người chồng vũ phu, nghĩa là vẫn cam chịu cảnh khốn khổ với những trận đòn để đổi lại một điều khác. Kết thúc tác phẩm, những nhân chứng của sự việc – nhân vật "tôi" và chánh án Đẩu đã hiểu ra, "vỡ ra" nhiều điều trong nhận thức về cuộc sống trước hành động của người phụ nữ này.
– Thông điệp của nhà văn là ý nghĩa của hình tượng mà người viết muốn gửi gắm trong đó; đó cũng là tư tưởng của nhà văn trước hiện thực mà ông chứng kiến, miêu tả.
+ Qua câu chuyện của Mị, thông điệp Tô Hoài muốn gửi gắm chỉ có thể hiểu là: Cuộc sống của người phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám là vô cùng cực khổ; người phụ nữ chỉ có thể thoát khỏi nỗi khổ đó khi dám vùng lên và đi theo cách mạng (đơn nghĩa).
+ Ý nghĩa của câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong truyện của Nguyễn Minh Châu thì rất đa dạng, phong phú (đa thanh):
• Tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: nghệ thuật cần gắn liền với cuộc sống; người nghệ sĩ không thể nhìn cuộc sống bằng con mắt đơn giản, chỉ thấy được hình thức bề ngoài;…
• Cuộc sống vốn đầy những nghịch lí và bi kịch mà nhiều khi chỉ người trong cuộc mới hiểu hết và có quyết định phù hợp.
• Tâm hồn, tình cảm và ý chí của người phụ nữ, dù chỉ là người phụ nữ bình thường, cũng là một bí ẩn, một thế giới kì lạ, sâu thẳm, không dễ gì hiểu hết…
Có thể nêu lên, bằng nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhiều ý nghĩa khác nữa, miễn là không gượng ép, áp đật..
Nguồn: thêm: Phân tích tình huống truyện Vợ Nhặt của Kim Lân
|
During the resistance war against the French colonialists, To Hoai wrote A Phu and His Wife', and after 1975, Nguyen Minh Chau wrote The Boat in the Far Away.
Instruct
This question aims to evaluate students' ability to read and understand artistic texts about two literary images. However, the main requirement of the question is not to point out the characteristics of the two characters (MI and the fisherman) but through the two characters to see the differences in the way they perceive and solve problems. theme and message of two writers.
To meet the requirements of the question well, students first need to accurately understand the concepts of perspective, problem solving and the writer's message; From there, we compared the two works A Phu and Husband and Wife and The Boat Far Away to show the differences in those three aspects.
Refer to the following suggestions:
– The way of looking at a life phenomenon shows the writer's outlook on life. Specifically, how do To Hoai and Nguyen Minh Chau view the misery of women? What is similar and different about that suffering? What is the cause of that suffering?
– The way to solve the problem is the way to liberate the character, most clearly shown in the way the work ends.
+ In A Phu and his wife, Mi escapes suffering with her will, energy and potential vitality; by following A Phu to the Phieng Sa guerrilla area. The end of the work is the image of the free and happy life of a couple.
See more: Analyzing the image of the Da River ferryman (With a detailed outline)+ In The Boat in the Far Away, the fisherman woman asks not to divorce her abusive husband, meaning she is still willing to endure the miserable situation with other people. beating in exchange for something else. At the end of the work, the witnesses of the incident - the character "I" and Judge Dau - understood and "uncovered" many things in their perception of life before this woman's actions.
– The writer's message is the meaning of the image that the writer wants to convey; That is also the writer's thought before the reality he witnessed and described.
+ Through Mi's story, the message To Hoai wants to convey can only be understood as: A woman's life before the August Revolution was extremely miserable; Women can only escape that suffering when they dare to rise up and follow the revolution (single meaning).
+ The meaning of the story about the fishing woman in Nguyen Minh Chau's story is very diverse and rich (multi-voice):
• Artistic declaration of Nguyen Minh Chau: art needs to be associated with life; The artist cannot look at life with simple eyes, only seeing the external form;…
• Life is full of paradoxes and tragedies that sometimes only insiders can fully understand and make appropriate decisions.
• The soul, emotions and will of a woman, even an ordinary woman, is also a mystery, a strange, deep world, not easy to understand...
It is possible to express, in many different expressions, many other meanings, as long as it is not forced or overwhelming.
Source: more: Situational analysis of the story The Picked Up Wife by Kim Lan
|
Trong lời ru của bà mẹ Tà-ôi… yêu nước. Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm để chứng minh ý kiến trên
Gợi ý
Đề bài:
“Trong lời ru của bà mẹ Tà-ôi (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm) không chỉ có lình yêu thương con tha thiết mà còn có cả tình cảm và nhận thức về hành động cách mạng của người dân yêu nước”.
Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm để chứng minh ý kiến trên.
Bài làm:
Trong những năm tháng kháng chiến chống ngoại xâm gian lao cúa dân tộc, mọi tình cảm cá nhân cua mỗi con người đều gắn bó sâu đậm với tình yêu quê hương đất nước. Trong kháng chiến chống Pháp, người đọc biết đến một ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân – một người nông dân có tình yêu làng gắn bó với tình yêu đất nước thiêng liêng. Và trong kháng chiến chống Pháp, ta biết đến một Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm. Xuyên suốt bài thơ là lời người mẹ dân tộc. Tà-ôi ru con mà “Trong lời ru cúa bà mẹ Tà-ôi không chỉ có tình yêu thương con tha thiết mà còn có cả tình cảm và nhận thức về hành động cách mạng của người dân yêu nước”.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào năm 1971, năm mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hồi cam go, khốc liệt nhất, mỗi người dàn Việt Nam đang dốc toàn sức toàn lực của mình để góp phần cho chiến đấu. Trong cuộc ra quân “bốn mươi thế kỉ cùng ra trận” của toàn dân tộc có cả những em bé Tây Nguyên nằm trên lưng mẹ – các em ngoan ngoãn lấy lưng mẹ làm nôi đế cha mẹ yên tâm đánh Mĩ. Và bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là tiếng hát ru của người mẹ dân tộc Tà-ôi dành cho những đứa con rất mực thân yêu ấy. Tiếng ru của mẹ là tiếng yêu con và cũng là tiếng yêu nước tha thiết, bồi hồi.Xem thêm: Qua văn bản Phong cách Hồ Chí Minh của Lê Anh Trà, em hãy viết đoạn văn cho biết tại sao Hồ Chí Minh có được một vốn văn hoá nhân loại sâu rộng và phong phú Bài thơ được thể hiện dưới ba khúc hát, mỗi khúc được mở đầu giống nhau bằng hai câu ”Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi / Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ" và kết thúc mỗi khúc là lời ru trực tiếp của người mẹ.
Trong khúc ca thứ nhất, người mẹ ru con khi dịu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi!
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Con nằm trên lưng mẹ mà có khác gì con đang nằm trong bụng mẹ. Mẹ giã gạo, nhịp chày là nhịp ru con, mồ hôi lao động thấm vào giấc ngủ yên lành của ccn để con sẻ chia với mẹ nỗi vất vả, nhọc nhằn. Hàng loạt hình ảnh hoán dụ: mồ hôi, má, vai, lưng, tim được sử dụng rất hiệu quả. Toàn bộ con người mẹ đang hướng đến con, đang dành cho con những gì tốt đẹp nhất. Và tình yêu con sâu nặng ấy gắn liền với tình thương thiết tha những người lính cụ Hồ:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Mẹ thương a-kay và cũng là thương bộ đội. Trong ước mơ củà mẹ có giấc mơ cho con khỏe mạnh "vung chày lún sân" và có giấc mơ cho bộ đội "hạt gạo trắng ngần" để ăn no đánh Mĩ.
Khúc ca thứ hai của mẹ cất lên khi dịu con trên lưng đi tỉa bắp trên núi Ka-lưi.
Mẹ đang tia bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thỉ to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng lảm mẹ mỏi
Xem thêm: Nghị luận xã hội về biến đổi khí hậu Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
Mặt trời, ánh sáng, những cái mà cây không thế thiếu, là phía hoa lá hướng về thì nằm trên đồi. Mặt trời, niềm tin và hi vọng của mẹ, là bé đang nằm trên lưng. Hình ảnh ẩn dụ "Mặt trời của mẹ" đã diễn tả sâu sắc ý nghĩa của con trong sự sông của mẹ. Ước mơ, khát vọng của mẹ hướng cả về con. Đôi bàn tay tỉa bắp, chiếc lưng thon dịu con trên lưng và lòng mẹ cất lên tiếng hát về ước mơ đẹp đẽ của mình:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…
Tình thương mẹ dành cho con, tình thương mẹ cũng dành cho cả dân làng đang trong cơn đói. Và bởi thế, ước mơ của mẹ dành cho con “mai sau con lớn phát mười Ka-lưi” nhưng trước hết là dành cho làng bản “con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều” để dân làng đi qua những năm tháng gian lao, khắc nghiệt.
Lời ru của mẹ tiếp tục cất lên khi đang “chuyển lán đạp rừng”:
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn.
Em đang cùng mẹ gắn bó hơn bao giờ hết với cuộc kháng chiến gian lao của dân tộc, chẳng những “chuyển lán, đạp rừng” mà còn trực tiếp “cầm súng” “cầm chông” chiến đấu trực tiếp với kẻ thù. Và hơn thế, em và mẹ cũng bước vào con đường Trường Sơn máu lửa. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào mẹ cũng không rời em nửa bước. Em nằm trên lưng trở thành động lực, niềm tin để động vịên mẹ ngay cả khi vất vả, hiểm nguy nhất. Giấc mơ của mẹ tỏa rạng trong lòng như thứ ánh sáng diệu kì:Xem thêm: Giải thích câu ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông, Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Đến đây, tình yêu thương con đã hòa nhập không phải với một đối tượng cụ thể mà với cái chung của toàn dân tộc: đất nước “mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước”. Giấc mơ của mẹ là được gặp Bác Hồ – niềm tin yêu, điểm tựa tinh thần của toàn dân tộc. Và mẹ mơ cho con được thành người tự do trong tương lai.
Có thế nói, người mẹ dân tộc Tà-ôi hiện lên trong dáng vẻ tảo tần, lam lũ vất vả của người mẹ Việt Nam trong chiến tranh bom đạn. Đau thương vô ngần nhưng không khi nào trái tim mẹ ngưng lại nhịp thương con và cũng vì thế mà không khi nào ngưng lại nhịp thương đất nước. Đặc biệt, trong giấc mơ của mẹ, khi nào cũng có giấc mơ dành cho đất nước, dành cho con. Mơ cho đất nước trước rồi đến mơ cho con, điều đó khẳng định rằng người mẹ Tà-ôi ý thức rất rõ: hạnh phúc của đất nước gắn liền với hạnh phúc của mỗi công dân trong đó có đứa con thân yêu của mình.
“Trong lời ru của bà mẹ Tà-ôi” quả là “không chỉ có tình yêu thương con tha thiết mà còn có cả tình cảm và nhận thức về hành động cách mạng của người dân yêu nước”. Chính những điều đó trở thành động lực đế những người mẹ này nói riêng và những bà mẹ Tây Nguyên nói chung dốc hết sức mình cho cuộc kháng chiến chung của đất nước. Năm tháng qua đi, chiến tranh chỉ còn là những bụi mờ của dĩ vãng nhưng bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm vẫn sống trong lòng người bởi trái tim nóng bỏng yêu thương của một người mẹ, một người dân yêu nước.
Vanmau.edu.vn
|
Trong lời ru của bà mẹ Tà-ôi… yêu nước. Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm để chứng minh ý kiến trên
Gợi ý
Đề bài:
“Trong lời ru của bà mẹ Tà-ôi (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm) không chỉ có lình yêu thương con tha thiết mà còn có cả tình cảm và nhận thức về hành động cách mạng của người dân yêu nước”.
Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm để chứng minh ý kiến trên.
Bài làm:
Trong những năm tháng kháng chiến chống ngoại xâm gian lao cúa dân tộc, mọi tình cảm cá nhân cua mỗi con người đều gắn bó sâu đậm với tình yêu quê hương đất nước. Trong kháng chiến chống Pháp, người đọc biết đến một ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân – một người nông dân có tình yêu làng gắn bó với tình yêu đất nước thiêng liêng. Và trong kháng chiến chống Pháp, ta biết đến một Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm. Xuyên suốt bài thơ là lời người mẹ dân tộc. Tà-ôi ru con mà “Trong lời ru cúa bà mẹ Tà-ôi không chỉ có tình yêu thương con tha thiết mà còn có cả tình cảm và nhận thức về hành động cách mạng của người dân yêu nước”.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào năm 1971, năm mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hồi cam go, khốc liệt nhất, mỗi người dàn Việt Nam đang dốc toàn sức toàn lực của mình để góp phần cho chiến đấu. Trong cuộc ra quân “bốn mươi thế kỉ cùng ra trận” của toàn dân tộc có cả những em bé Tây Nguyên nằm trên lưng mẹ – các em ngoan ngoãn lấy lưng mẹ làm nôi đế cha mẹ yên tâm đánh Mĩ. Và bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là tiếng hát ru của người mẹ dân tộc Tà-ôi dành cho những đứa con rất mực thân yêu ấy. Tiếng ru của mẹ là tiếng yêu con và cũng là tiếng yêu nước tha thiết, bồi hồi.Xem thêm: Qua văn bản Phong cách Hồ Chí Minh của Lê Anh Trà, em hãy viết đoạn văn cho biết tại sao Hồ Chí Minh có được một vốn văn hoá nhân loại sâu rộng và phong phú Bài thơ được thể hiện dưới ba khúc hát, mỗi khúc được mở đầu giống nhau bằng hai câu ”Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi / Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ" và kết thúc mỗi khúc là lời ru trực tiếp của người mẹ.
Trong khúc ca thứ nhất, người mẹ ru con khi dịu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi!
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Con nằm trên lưng mẹ mà có khác gì con đang nằm trong bụng mẹ. Mẹ giã gạo, nhịp chày là nhịp ru con, mồ hôi lao động thấm vào giấc ngủ yên lành của ccn để con sẻ chia với mẹ nỗi vất vả, nhọc nhằn. Hàng loạt hình ảnh hoán dụ: mồ hôi, má, vai, lưng, tim được sử dụng rất hiệu quả. Toàn bộ con người mẹ đang hướng đến con, đang dành cho con những gì tốt đẹp nhất. Và tình yêu con sâu nặng ấy gắn liền với tình thương thiết tha những người lính cụ Hồ:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Mẹ thương a-kay và cũng là thương bộ đội. Trong ước mơ củà mẹ có giấc mơ cho con khỏe mạnh "vung chày lún sân" và có giấc mơ cho bộ đội "hạt gạo trắng ngần" để ăn no đánh Mĩ.
Khúc ca thứ hai của mẹ cất lên khi dịu con trên lưng đi tỉa bắp trên núi Ka-lưi.
Mẹ đang tia bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thỉ to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng lảm mẹ mỏi
Xem thêm: Nghị luận xã hội về biến đổi khí hậu Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
Mặt trời, ánh sáng, những cái mà cây không thế thiếu, là phía hoa lá hướng về thì nằm trên đồi. Mặt trời, niềm tin và hi vọng của mẹ, là bé đang nằm trên lưng. Hình ảnh ẩn dụ "Mặt trời của mẹ" đã diễn tả sâu sắc ý nghĩa của con trong sự sông của mẹ. Ước mơ, khát vọng của mẹ hướng cả về con. Đôi bàn tay tỉa bắp, chiếc lưng thon dịu con trên lưng và lòng mẹ cất lên tiếng hát về ước mơ đẹp đẽ của mình:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…
Tình thương mẹ dành cho con, tình thương mẹ cũng dành cho cả dân làng đang trong cơn đói. Và bởi thế, ước mơ của mẹ dành cho con “mai sau con lớn phát mười Ka-lưi” nhưng trước hết là dành cho làng bản “con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều” để dân làng đi qua những năm tháng gian lao, khắc nghiệt.
Lời ru của mẹ tiếp tục cất lên khi đang “chuyển lán đạp rừng”:
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn.
Em đang cùng mẹ gắn bó hơn bao giờ hết với cuộc kháng chiến gian lao của dân tộc, chẳng những “chuyển lán, đạp rừng” mà còn trực tiếp “cầm súng” “cầm chông” chiến đấu trực tiếp với kẻ thù. Và hơn thế, em và mẹ cũng bước vào con đường Trường Sơn máu lửa. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào mẹ cũng không rời em nửa bước. Em nằm trên lưng trở thành động lực, niềm tin để động vịên mẹ ngay cả khi vất vả, hiểm nguy nhất. Giấc mơ của mẹ tỏa rạng trong lòng như thứ ánh sáng diệu kì:Xem thêm: Giải thích câu ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông, Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Đến đây, tình yêu thương con đã hòa nhập không phải với một đối tượng cụ thể mà với cái chung của toàn dân tộc: đất nước “mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước”. Giấc mơ của mẹ là được gặp Bác Hồ – niềm tin yêu, điểm tựa tinh thần của toàn dân tộc. Và mẹ mơ cho con được thành người tự do trong tương lai.
Có thế nói, người mẹ dân tộc Tà-ôi hiện lên trong dáng vẻ tảo tần, lam lũ vất vả của người mẹ Việt Nam trong chiến tranh bom đạn. Đau thương vô ngần nhưng không khi nào trái tim mẹ ngưng lại nhịp thương con và cũng vì thế mà không khi nào ngưng lại nhịp thương đất nước. Đặc biệt, trong giấc mơ của mẹ, khi nào cũng có giấc mơ dành cho đất nước, dành cho con. Mơ cho đất nước trước rồi đến mơ cho con, điều đó khẳng định rằng người mẹ Tà-ôi ý thức rất rõ: hạnh phúc của đất nước gắn liền với hạnh phúc của mỗi công dân trong đó có đứa con thân yêu của mình.
“Trong lời ru của bà mẹ Tà-ôi” quả là “không chỉ có tình yêu thương con tha thiết mà còn có cả tình cảm và nhận thức về hành động cách mạng của người dân yêu nước”. Chính những điều đó trở thành động lực đế những người mẹ này nói riêng và những bà mẹ Tây Nguyên nói chung dốc hết sức mình cho cuộc kháng chiến chung của đất nước. Năm tháng qua đi, chiến tranh chỉ còn là những bụi mờ của dĩ vãng nhưng bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm vẫn sống trong lòng người bởi trái tim nóng bỏng yêu thương của một người mẹ, một người dân yêu nước.
Vanmau.edu.vn
|
Trong mỗi ngôi trường đều giương cao khẩu hiệu: “Xây dựng mái trường xanh, sạch, đẹp”. Em hiểu khẩu hiệu đó như thế nào? Hãy viết đoạn văn giải thích rõ?
Gợi ý
Xanh, sạch và đẹp từ lâu đã trở thành yêu cầu đối với một xã hội tiến bộ, văn minh. Xanh, sạch, đẹp luôn đi cùng với nhau bởi có bạn mới có tôi và ngược lại.Xanh được hiểu là màu xanh do cây côi máng lại. Sạch được định nghĩa ở nhiều cấp độ. Là không có bụi bặm rác rưởi, cáu ghét hoặc không bị hoen ố. Là không chứa chất bẩn hoặc yếu tố gây hại do được xử lý theo đúng tiêu chuẩn vệ sinh. Đẹp cụng vậy. Đó có thế là hình thức hoặc phẩm chất đem lại sự hứng thú đặc biệt, làm cho người ta thích nhìn, ngắm hoặc kính phục. Đó cũng có thể là có được sự hài hòa tượng xứng. Vậy thế nào là một mái trường “Xanh, sạch, đẹp”? Đó là một ngôi trường, được bao phủ bởi bóng mát của cây xanh. Đó có thể là những cây thân quen với lứa tuổi học trò như phượng, bằng lăng, bàng… hay cau vua, liễu rủ,… Điều đặc biệt là học sinh trong ngôi trường ấy phải có ý thức nuôi trồng, giữ gìn và bảo vệ những cây xanh ấy. Đó cũng là ngôi trường sạch sẽ, không có bụi bặm cáu bẩn, không có rác bị vứt bừa bãi, hệ thống thùng rác được sử dụng một cách hữu hiệu, học sinh không tạo rác một cách vô ý thức. Đó còn là ngôi trường được quy hoạch hài hòa, xây cất hợp lí; phòng học được bài trí đẹp mắt… Ngôi trường xanh sẽ có được không khí trong lành, sẽ có được khung cảnh đẹp mất. Ngôi trường sạch thì mới có được vẻ đẹp đáng yêu đáng nhớ,… Vậy là để xây dựng được một ngôi trường xanh, sạch, đẹp thì trước hết phải xây dựng ý thức tích cực ở mỗi học sinh.Xem thêm: Thầy giáo Ha - men (văn bản Buổi học cuối cùng An-phông-xơ Đô-đê) trong buổi học cuối cùng có gì khác. Hãy tả lại thầy giáo Ha men trong buổi học ấyVanmau.edu.vn
|
In each school, the slogan is raised: "Building a green, clean, beautiful school roof". How do you understand that slogan? Please write a paragraph to explain clearly?
Suggest
Green, clean and beautiful have long been requirements for a progressive, civilized society. Green, clean, beautiful always go together because with you, there is me and vice versa. Green is understood as the green color left by orphaned trees. Cleanliness is defined on many levels. There is no dust, trash, dirt or tarnish. Does not contain dirt or harmful elements because it is processed according to hygiene standards. So beautiful. It can be a form or quality that brings special interest, making people like to look at, admire or admire. It can also mean having symbolic harmony. So what is a "Green, clean, beautiful" school roof? It is a school, covered by the shade of green trees. These can be trees familiar to students of school age such as phoenix, banyan tree, eagle... or areca palm, weeping willow, etc. The special thing is that students in that school must be conscious of cultivating, preserving and protecting them. Protect those trees. It is also a clean school, with no dust or dirt, no trash thrown around, the trash can system is used effectively, and students do not create trash unconsciously. It is also a school with harmonious planning and reasonable construction; Classrooms are beautifully decorated... A green school will have fresh air and a beautiful view. Only when a clean school has a lovely, memorable beauty... So in order to build a green, clean, and beautiful school, we must first build a positive consciousness in each student. See more: Teacher Ha - men (text Alphonse Do-de's Last Lesson) in the last lesson is nothing different. Please describe teacher Ha Men in that lesson. Vanmau.edu.vn
|
Trong một đêm trăng chơi đùa với các bạn, em gặp một người bạn mới và từ đó có nhiều kỷ niệm đáng nhớ về người bạn đó. Em hãy kể về những kỷ niệm đẹp ấy
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
(Giới thiệu nhân vật và hoàn cảnh).
+ Buổi tối trăng lên.
+ Tôi ra điểm hẹn để chơi với bạn bè.
B. THÂN BÀI:
(Phát triển câu chuyện)
1. Tôi tới trễ bị phạt và đành chấp nhận giữ cột tùng cho tụi bạn trốn tôi.
2. Tôi rời chỗ đi kiếm tụi nó và lần đến nơi đánh đàn.
3. Gặp một cô gái nhỏ đang đánh đàn bên hồ nước.
4. “Bắt cóc” cô bé giữ cột thay minh. Cô bé van xin bọn tôi tha và trả cây đàn. Bọn tôi lôi cuốn cô bé vào cuộc chơi của mình. Cô bé chấp nhận làm “nhiệm vụ”.
5. Thời gian trôi qua nhanh chóng, chúng tôi thân nhau và thường chơi với nhau. Hôm nay, cô bé đến muộn khiến chúng tôi phải chờ.
6. Cô bé giải thích và nói lời từ biệt. Tất cả chúng tôi đều im lặng và nhớ bạn ấy, không muốn bạn ấy ra đi.
C. KẾT LUẬN:
+ Nhớ những đêm trăng chơi đùa là nhớ về cô bạn nhỏ.
+ Mong ngày gặp lại.
BÀI LÀM
Trăng lên. Ánh trăng dát vàng trên những mái nhà, trăng rụng trên ngọn sầu riêng, trăng rơi lốm đốm trên sân nhà… Năn nỉ mãi cuối cùng tôi cũng được ra chơi với thằng Sơn, thằng Dũng…
Tôi chạy đến điểm hẹn thường ngày thì tụi nó đã đến từ lâu, tiếng thằng Sơn lớn nhất:Xem thêm: Em hãy phân tích nhân vật Phan Bội Châu trong truyện "Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu" của Nguyễn Ái Quốc – Mày đến trễ cho mày giữ cột tùng.
Luật lệ của bọn tôi từ “ngàn đời” nay là thế. Nhưng từ trước đến nay, tôi chưa bao giờ được “diễm phúc” đó. Có lẽ tại tôi lớn nhất và hay ăn gian nhất trong bọn, còn hôm nay tôi biết bọn nó muốn “trả thù” tôi.
– Thôi được hôm nay đại ca sẽ giừ tùng cho các tiểu đệ.
Thằng Hùng lếu tếu:
– Phải vậy mới được chứ.
Tôi bực mình:
– Chạy không, tao mà đổi ý thì không có 5 với 10 gì hết.
Vù một cái, tụi nó trốn đâu mất, hừm… tụi mày nhanh thiệt.
– Rồi chưa? – Tôi hỏi.
Không một tiếng trả lời, tôi biết chắc chắn tụi nó đã đâu vào đấy cả rồi. Tôi rời khỏi cột tùng, đang kiếm tụi nó chợt tôi nghe một tiếng gì đó… tiếng đàn… chà… tôi quên rằng tôi có nhiệm vụ giữ cột tùng, chỉ cần một chút sơ hở tôi có thể giữ “suốt đời”, tôi đi theo, tiếng đàn.
Bên hồ nước, một cậu bé, không, một cô bé, tôi nhận ra vì hai cái bím tóc lắc lư trong ánh trăng – đang ngồi ôm đàn. Tiếng đàn khi trầm khi ấm, khi réo rắt, khi thánh thót, khi bay bổng vào trong đêm trăng mênh mông. Tôi như bị mê mẩn bởi tiếng đàn, tôi tiến lại gần, con bé giật mình ngơ ngác nhìn tôi.
– Nhật…
Tiếng thằng Hùng làm tôi giật nẩy người. Thằng Sơn liến thoắng:
– Tiếp tục nữa chứ mậy?
– “Đại ca” bị tiếng đàn của “yêu tinh” mê muội rồi – Thằng Hùng xỉa vô.Xem thêm: Cảm nhận của em về bài thơ Con cò của Chế Lan ViênNhìn con bé ngơ ngác, tôi chợt nảy ra một sáng kiến, bắt “hắn” thay tôi giữ nhiệm vụ “tối quan trọng” của tôi. Tôi đưa tay ra hiệu cho tụi nó im lặng rồi tiến lại giật cây đàn trong tay con bé, con bé mếu máo:
– Trả lại đây…
– Mày tên gì? – Tôi hỏi.
– Thuyên Thuyên. – Con bé trả lời
– Người gì bé tí mà mang cái tên nghe mỏi miệng quá vậy? – Thằng Dũng xen vào.
– Mày ở đâu đến đây, bộ không biết chỗ này là của tụi tao hở?
Tôi tiếp tục. Tự dưng tôi tưởng tượng tôi là quan tòa mà bị cáo là con oắt con có hai bím tóc lắc lư trước mặt tôi.
– Mày xâm chiếm gia cư bất hợp pháp – Thằng Hùng tiếp.
Con bé chuyển sang trạng thái lo sợ, trông mà tội nghiệp.
– Em mới về đây nên không biết.
– Vậy mày ở đâu?
– Em ở thị xã.
– Mày chuyển nhà về đây à?
– Không, em về nhà nội.
– Thôi được rồi…
Con bé tưởng tôi đã buông tha, liền ngước đôi mắt mèo nhìn tôi van xin:
– Anh cho em xin lại cây đàn.
– Muốn xin lại hả, đâu có dễ dàng như vậy được. Nếu muốn tao trả đàn cho mày, mày phải giữ cột tùng cho tụi tao.
– Giữ cột tùng là sao – Con bé tiếp tục ngơ ngác.
Tôi vờ úp mặt vào lòng bàn tay: – 5, 10, 15, 20…
– Nhưng xong rồi anh phải trả đàn lại cho em.
– Tao lấy đàn của mày làm gì. Chịu không nói mau.Xem thêm: Những nét chính về sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân– Chịu.
Cả bọn cười ồ lên. Nhưng sung sướng nhất là tôi thành công trong việc chinh phục một con bé từ thị xã về.
Đêm nay trăng tròn vành vạnh, những giọt trăng long lanh rụng xuống khắp trần gian. Bọn chúng tôi lại tiếp tục những trò chơi không bao giờ dứt. Chợt thằng Hùng hét lên: “Thuyên Thuyên tới”. Kể từ cái hôm gặp nhau, cái tên Thuyên Thuyên đối với chúng tôi không còn xa lạ nữa. Có thể nói bọn chúng tôi thân nhau như… tôi không biết dùng từ ngữ nào để tả, chỉ biết rằng chúng tôi rất thân với nhau. Tôi nhìn theo hướng của thằng Hùng. Hai cái bím tóc lắc lư, lắc lư đi đến chỗ chúng tôi.
– Sao hôm nay mày đến chậm thế? – Tôi hỏi.
Thuyên Thuyên không trả lời, hình như nó khóc, nó khóc thật, khóc nức nở, làm bọn chúng tôi bối rối:
– Ngày mai… em phải về… thị xã. Cả nội em cũng chuyển luôn về trên đó.
Không ai nói với ai một lời nào, cả bọn đều im lặng, dường như trong mỗi người cùng chung một tâm trạng. Thằng Hùng sụt sịt… tôi cũng muốn khóc nhưng kìm lại được, bởi vì tôi không muốn có biệt danh “mít ướt” như Hùng.
Thuyên Thuyên, cô bé tôi gặp trong đêm trăng, cùng chúng tôi đùa giỡn trong đêm trăng và ra đi mãi mãi trong đêm trăng. Nhưng cô bé ơi, dù em ở phương trời nào, tụi anh sẽ không bao giờ quên em. Cũng như em sẽ không bao giờ quên các anh, phải không Thuyên Thuyên.
Vanmau.edu.vn
|
On a moonlit night playing with my friends, I met a new friend and from then on I have many memorable memories of that friend. Let me tell you about those beautiful memories
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
(Introduce characters and situations).
+ At night the moon rises.
+ I went to the rendezvous point to play with friends.
B. BODY OF THE ARTICLE:
(Story development)
1. I was punished for being late and had to accept holding the spare pole so my friends could hide from me.
2. I left the place to look for them and went to the piano playing place.
3. Meet a little girl playing the piano by the lake.
4. "Kidnapping" the little girl holding the pole for her. The girl begged us to forgive her and return the guitar. We attracted her into our game. The girl accepted to do the "mission".
5. Time passed quickly, we became close and often played together. Today, the girl was late, making us wait.
6. The girl explained and said goodbye. We were all silent and missed her, not wanting her to leave.
C. CONCLUSION:
+ Remembering the moonlit nights of playing is remembering my little friend.
+ Hope to see you again someday.
ASSIGNMENT
The moon rises. The moonlight gilded the rooftops, the moon fell on the durian tree, the moon fell speckled on the yard... After begging and pleading, I finally got to play with Son and Dung...
I ran to the usual meeting point and they had already arrived, Son's voice was the loudest: See more: Analyze the character Phan Boi Chau in the story "Good tricks are Varen and Phan Boi Chau" by Nguyen Ai Quoc – You're late, let me keep the pine tree.
Our rules have been like this for "thousands of years". But until now, I have never been that "blessed". Maybe it's because I'm the oldest and cheat the most among them, but today I know they want to "revenge" on me.
- Okay, today, big brother will save some for the younger brothers.
Hung joked:
– That must be it.
I annoyed:
– Don't run, if I change my mind, it won't be 5 or 10.
Whoosh, they disappeared somewhere, hmm... you guys are really fast.
– Already? - I ask.
Without a single answer, I knew for sure they were all in place. I left the pine pole and was looking for them when I suddenly heard something... the sound of a guitar... well... I forgot that I had the duty to keep the pine pole, with just a little loophole I could keep it "for life", I follow, the sound of the piano.
By the lake, a boy, no, a girl, I recognized her because her pigtails swayed in the moonlight - was sitting holding an instrument. The sound of the instrument is sometimes deep, sometimes warm, sometimes melodious, sometimes melodious, sometimes soaring into the vast moonlit night. I was mesmerized by the sound of the piano. I approached and the girl looked at me startled and bewildered.
- Japan…
Hung's voice made me jump. Son spoke fluently:
– Will you continue?
- "Big Brother" is fascinated by the sound of the "goblin" - Hung said. See more: My thoughts on the poem The Stork by Che Lan Vien Looking at the bewildered girl, I suddenly came up with an idea. , forcing "him" to take over my "most important" task for me. I raised my hand to signal them to be quiet, then approached and snatched the guitar from her hand. She cried:
– Give it back…
- What's your name? - I ask.
– Thuyen Thuyen. – The child answered
– What kind of tiny person has such a boring name? – Dung interjected.
– Where do you come from? Don't you know this place belongs to us?
I continue. Suddenly I imagined I was a judge and the defendant was a little girl with two pigtails swaying in front of me.
– You invaded the house illegally – Hung continued.
The girl turned into a scared state, looking pitiful.
– I just got here so I don't know.
– So where are you?
– I live in town.
– Are you moving home here?
– No, I'm going home.
- That is enough…
She thought I had given up, so she looked up at me pleadingly with her cat eyes:
– Please give me back my guitar.
– Do you want to ask back? It's not that easy. If you want me to return the instrument to you, you must keep the spare pole for us.
– What does it mean to hold the pine tree? – The girl continued to be confused.
I pretended to put my face in my palm: – 5, 10, 15, 20…
– But after that, you have to return the guitar to me.
– Why did I take your guitar? Cuu doesn't speak quickly. See more: Main features of Nguyen Tuan's literary career - Cuu.
They all burst out laughing. But the happiest thing was that I succeeded in conquering a girl from town.
Tonight the moon is full, glittering moon drops falling all over the world. We continued our never-ending games. Suddenly Hung shouted: "Thuyen Thuyen is coming". Since the day we met, the name Thuyen Thuyen is no longer strange to us. It can be said that we are as close as... I don't know what words to use, I just know that we are very close to each other. I looked in Hung's direction. The two pigtails swayed and swayed towards us.
– Why are you so late today? - I ask.
Thuyen Thuyen did not answer, it seemed like she was crying, she was really crying, sobbing, making us confused:
– Tomorrow... I have to go back... to town. Even my grandmother moved back there.
No one said a word to anyone, they were all silent, it seemed like everyone was in the same mood. Hung sniffled... I also wanted to cry but I couldn't hold it back, because I didn't want to have the nickname "cryy" like Hung.
Thuyen Thuyen, the girl I met on the moonlit night, played with us on the moonlit night and passed away forever on the moonlit night. But little girl, no matter where you are, we will never forget you. Just like you, I will never forget you guys, right, Thuyen Thuyen.
Vanmau.edu.vn
|
Trong ngành Giáo dục đang phát động phong trào “Chống bệnh thành tích trong giáo dục”. Em hãy viết đoạn văn nêu cách hiểu của mình về vấn đề “bệnh thành tích trong giáo dục”
Gợi ý
“Bệnh thành tích trong giáo dục” là việc chạy theo những danh hiệu mà cố tình vi phạm những quy định về kiểm tra, đánh giá tạo ra thành tích ảo, không đúng với thực chất và làm cản trở sự phát triển của giáo dục. Trong một thời gian dài, chúng ta quá coi trọng những bản báo cáo thành tích, những con số "trăm phần trăm" (100%) đầy ma lực, những bằng khen, những lời tuyên dương,… cần hiểu rằng thành tích không phải là xấu, ngược lại đó là điều tôt đẹp. Thừa nhận thành tích là ghi nhận những cô gắng nỗ lực và kết quả tốt đẹp trong giáo dục. Điều đó có tác dụng động viên các cá nhân, đơn vị tiếp tục phát huy năng lực, sở trường đê đạt kết quả tốt hơn nữa. Nhưng nếu không phải là thành tích mà là "bệnh thành tích" thì cần hiểu rằng đó đã trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã hội. "Bệnh thành tích" được biểu hiện ở những báo cáo sai sự thật, ở những lời khen ngợi, tuyên dương sai người, sai đơn vị. Và hậu quả của nó thật khôn lường: sự thật đã có hàng trăm học sinh ngồi nhầm lớp, nhầm trường; đã có hàng chục giáo viên được ghi rihận là giáo viên dạy giỏi nhưng không nhận được sự tin tưởng của học sinh,… Rõ ràng, cần chữa trị triệt để căn bệnh này.Xem thêm: Nêu cảm nghĩ của em về một người thân yêuVanmau.edu.vn
|
In the Education sector, the movement "Combating achievement disease in education" is being launched. Please write a paragraph stating your understanding of the issue of "achievement disease in education"
Suggest
"Achievement disease in education" is the pursuit of titles while deliberately violating regulations on testing and evaluation, creating virtual achievements that are not true to the essence and hindering the development of education. . For a long time, we have placed too much importance on achievement reports, magical "hundred percent" (100%) numbers, certificates of merit, commendations, etc. We need to understand that achievements are not must be bad, on the contrary it is good. Recognizing achievements is recognizing efforts and good results in education. That has the effect of encouraging individuals and units to continue promoting their abilities and strengths to achieve even better results. But if it is not achievement but "achievement disease", then we need to understand that it has become a painful problem in society. "Achievement disease" is manifested in false reports, in praise and praise of the wrong people and wrong units. And its consequences are unpredictable: the truth is that there are hundreds of students sitting in the wrong class, at the wrong school; There are dozens of teachers who are recognized as good teachers but do not receive the trust of students... Clearly, this disease needs to be thoroughly treated. See more: Express your feelings about a relative loveVanmau.edu.vn
|
Trong nhà em có ba phương tiện giao thông xe đạp, xe máy và ô tô. Chúng cãi nhau, so bì hơn thua kịch liệt
Gợi ý
Một đêm, đang mơ màng ngủ bỗng tôi nghe thấy tiếng động từ phía nhà xe.
Tiếng động mỗi lúc một lớn dần. Tò mò không hiểu chuyện gì đang xảy ra, tôi lặng lẽ bước xuống giường. Đứng ngoài cửa, tôi ngạc nhiên khi thấy ba anh xe đạp, xe máy, ô tô đang cãi nhau, so bì hơn thua rất kịch liệt.
Khu nhà nhỏ bé phía sau là nơi cư trú của mấy chiếc xe nhà tôi, xe máy cũ của bố, xe đạp đi học của tôi. Đã mấy năm nay chúng luôn sống với nhau rất hoà thuận. Niềm vui hay nỗi buồn đều chia sẻ và giúp đỡ nhau. Nhưng từ khi chiếc ô tô mới về ở chung thì giữa các xe xuất hiện mâu thuẫn. Chúng ngấm ngầm chê bai nhau, so bì thiệt hơn qua từng việc nhỏ. Tôi biết điều đó nhưng không nghĩ rằng chúng lại cãi nhau kịch liệt đến vậy. Dường như bao nhiêu khó chịu trong lòng được chúng bộc bạch hết. Đêm nay, tôi mới tận mắt chứng kiến chúng cãi nhau. Ba xe, xe nào cũng cho ý kiến của mình đúng, đang cố tranh luận phản bác ý kiến nhau.
Đầu tiên là chiếc ô tô: “Các anh làm sao so bì được với tôi. Tôi hiện đại nhất, đẹp nhất và có nhiều tác dụng nhất. Tôi có đầy đủ tiện nghi trong người như một căn nhà di động, nào ti vi, đài phát thanh, máy điều hoà… Gia đình ông chủ lại có bốn người, đi đâu chơi mà dùng tôi thì tiện lợi quá rồi. Các anh liệu có làm được như thế không?”, ô tô nói với giọng đầy kiêu hãnh, tự hào. Nghe vậy, xe máy liền lên tiếng: Dù anh có hiện đại đến đâu thì cũng không thể tiện lợi bằng tôi được. Tôi tuy không sang trọng như anh nhưng tôi chạy rất nhanh, những chỗ đông người hay ùn tắc anh chịu chết nhưng tôi vẫn có thể vượt qua dễ dàng. Anh cồng kềnh đi đâu cũng chiếm nhiều diện tích. Còn tôi, khiêm tốn và giản dị nên được mọi người sử dụng nhiều hơn. Mà bây giờ họ hàng nhà tôi được sản xuất ngày càng đa dạng, chất lượng cũng tốt hơn với nhiều kiểu dáng, màu sắc, không thua kém gì anh đâu nhé. Quan trọng, tôi đã gắn bó với ông chủ nhà suốt bao năm nay. Trải qua bao vất vả của những ngày nắng gắt, mưa giông tôi đều tận tình phục vụ ông chủ. Từ ngày chưa có anh, gia đình nhà chủ đều rất quí tôi, coi tôi là số một. Đã nhiều năm rồi nên tôi mới cũ đi và xấu xí như thế này đây. Chắc ông chủ không còn yêu tôi nữa…”. Nói đến đây, xe máy bật khóc nức nở. Có lẽ nó đang xúc động lắm khi nhớ về một thời đã xa.Xem thêm: Phải chăng ‘Im lặng là vàng’?
Không biết lúc này ô tô suy nghĩ gì. Im lặng một lát, cuối cùng, chiếc xe đạp cũ của tôi mới nhỏ nhẹ lên tiếng: “Các anh ai cũng cho mình đúng, mình tiện lợi nhất, tốt nhất nhưng không ai biết rằng trong chúng ta xe đạp tôi là người có mặt sớm nhất. Từ lâu lắm rồi, tôi được con người sáng tạo ra thay thế cho nhiều phưong tiện khác. Lúc đó, ai có một chiếc xe đạp để đi thì thật hạnh phúc. Tôi gọn nhẹ nhất, đi lại dễ dàng, còn giúp con người tập thể dục khi sử dụng tôi nữa. Mà các anh ai cũng cần phải có “thức ăn” mới chịu chạy, nếu không thì đành đứng xó. Còn tôi, chẳng cần xăng dầu vẫn bon bon. Tôi cũng là người gắn bó lâu nhất với gia đình chủ, từ ngày họ còn khó khăn. Tôi cùng ông chủ đi làm, cùng ông đưa đón cậu chủ mỗi ngày, cùng bà chủ đi chợ hay đi đâu xa…. Cứ thế đã bao năm rồi…”. Mỗi xe, xe nào cũng đưa ra nhũng lí lẽ rất thuyết phục. Nhưng cả ba xe không ai chịu ai vẫn khăng khăng cho rằng mình tốt nhất, được gia đình chủ yêu nhất và xứng đáng là người được sử dụng nhều nhất.
Chúng mải mê cãi cọ mà không biết tôi đứng nghe từ bao giờ. Tôi bước vào khi chúng vẫn còn tranh luận. Nhìn thấy tôi, chúng ngạc nhiên, sửng sốt. Nhìn một lượt nhũng chiếc xe trong gia đình, tôi thấy những điều chúng nói đều có lí. Những chiếc xe này đã giúp gia đình tôi thật nhiều. Không chỉ vậy, chúng còn gắn bó cùng gia đình tôi với bao kỉ niệm từ thuở còn khó khăn. Tôi lại gần từng chiếc xe, vỗ về và âu yếm chúng. Chúng nằm yên ngoan ngoãn dõi theo tôi. “Các bạn xe ạ. Tôi đã nghe hết những điều các bạn nói. Ai cũng có ý kiến của mình và đều đúng cả. Các anh đều có ích với gia đình tôi. Thử hỏi, nếu thiếu các bạn thì không chỉ gia đình tôi mà bao nhiêu gia đình khác sẽ thế nào. Vì thế, các anh hãy bình tĩnh lại và lắng nghe nhau nói xem sao. Các anh sẽ hiểu nhau và thông cảm với nhau hơn đây. Từ nay, gia đình tôi sẽ sử dụng đều tất cả các anh. Khi có dịp đi đâu xa, cả nhà tôi nhờ anh ô tô nhé. Còn anh xe máy, anh vẫn ngày ngày giúp bố đến cơ quan, anh xe đạp giúp tôi đến trường. Như thế ai cũng có việc riêng vậy vẫn phát huy được những chức năng của mình. Các anh hãy nhớ, không ai là người thừa cả và cũng không ai hơn thua ai vì mỗi người đều có sức mạnh riêng của mình… Những chiếc xe im lặng gật gù vẻ tán đồng. Chúng nhìn nhau thân thiện như để giảng hoà…Xem thêm: Trong vai Sứ giả hãy kể lại câu chuyện Thánh GióngCuộc cãi vã giữa những chiếc xe kết thúc từ đó. Ai cũng chăm chỉ làm công việc của mình. Chúng lại sống vui vẻ, hoà thuận bên nhau. Và cũng từ đó, để thể hiện lòng biết ơn với những người bạn nhỏ, gia đình tôi luôn chú ý giữ gìn và chăm sóc chúng tốt hơn.
Vanmau.edu.vn
|
In my house there are three means of transportation: bicycles, motorbikes and cars. They quarreled and compared each other fiercely
Suggest
One night, while I was sleeping, I suddenly heard a noise from the garage.
The noise grew louder each time. Curious as to what was going on, I quietly got out of bed. Standing outside the door, I was surprised to see three guys on bicycles, motorbikes, and cars arguing fiercely.
The small house behind is where my family's cars, my father's old motorbike, and my school bicycle reside. For several years now they have lived together in harmony. Happiness or sadness are shared and helped each other. But since the new car came to live together, there have been conflicts between the cars. They secretly criticize each other, comparing each other over each little thing. I knew that but I didn't think they would argue so fiercely. It seemed like they were expressing all the discomfort in their hearts. Tonight, I witnessed them arguing with my own eyes. Three cars, each of which has its own opinion correct, are trying to argue and refute each other's opinions.
First is the car: “You guys can't compare with me. I am the most modern, most beautiful and most effective. I have all the amenities like a mobile home, TV, radio, air conditioner... The boss's family has four people, so it's very convenient to use me wherever I go. Can you do that?", the car said with a proud, proud voice. Hearing that, the motorbike immediately spoke up: No matter how modern you are, you can't be as convenient as me. Although I'm not as luxurious as you, I run very fast. In crowded places or traffic jams, you'll die but I can still pass easily. He's bulky and takes up a lot of space wherever he goes. As for me, being humble and simple, people use me more. But now my family's production is increasingly diverse, the quality is also better with many designs and colors, not inferior to yours. Importantly, I have been with my landlord for many years. Through all the hardships of hot sunny days and stormy days, I wholeheartedly served my boss. From the time I didn't have him, my host family loved me very much and considered me number one. It's been many years so I'm old and ugly like this. Maybe the boss doesn't love me anymore...". Speaking of this, the motorbike burst into tears. Perhaps it is very emotional when remembering a time long gone. See more: Is 'Silence is golden'?
I don't know what the car is thinking right now. Silence for a moment, finally, my old bicycle spoke softly: "You all think I'm right, I'm the most convenient, the best, but no one knows that among us, I'm the one with the best bike." earliest face. A long time ago, I was created by humans to replace many other means. At that time, anyone who had a bicycle to ride was very happy. I am the most compact, easy to move around, and also help people exercise when using me. But you all need to have "food" to run, otherwise you will have to stand alone. As for me, I still have fun without needing gasoline. I am also the person who has been with the owner's family the longest, since their difficult days. I go to work with my boss, pick up my boss every day, go to the market with my boss or go somewhere far away... It's been like that for so many years..." Each car and every car offers very convincing arguments. But of all three cars, no one still insists that they are the best, most loved by the owner's family and deserve to be used the most.
They were so engrossed in arguing that they didn't know how long I had been listening. I walked in while they were still arguing. Seeing me, they were surprised and shocked. Looking at the cars in the family, I see that what they say makes sense. These cars have helped my family a lot. Not only that, they are also attached to my family with many memories from difficult times. I approached each car, patted and caressed them. They lay quietly and obediently watched me. “Car friends. I've heard everything you said. Everyone has their own opinion and they are all right. You are all helpful to my family. Just ask, without you, what would happen to not only my family but also many other families? So, please calm down and listen to each other. You will understand each other and sympathize with each other better. From now on, my family will use all of you equally. When I have a chance to go somewhere far, my whole family will ask for your car. As for the motorbike guy, he still helps my dad get to work every day, and the bike guy helps me get to school. That way everyone has their own work and can still promote their functions. Remember, no one is redundant and no one is better than anyone else because everyone has their own strength... The cars silently nodded in agreement. They looked at each other in a friendly way as if to make peace... See more: As the messenger, tell the story of Thanh Giong. The quarrel between the cars ended from there. Everyone works hard at their job. They lived happily and harmoniously together. And since then, to show gratitude to our little friends, my family has always paid attention to preserving and taking better care of them.
Vanmau.edu.vn
|
Trong những buổi học tuần trước, em thấy buổi học nào có kết quả hơn cả? Em hãy thuật lại buổi học ấy
Gợi ý
Em không sao quên được ngày thứ hai tuần qua trong sổ đầu bài của lớp em, cô giáo cho điểm và đánh giá là buổi học có kết quả tốt nhất.
Hôm ấy, em đến trường rất sớm. Vừa bước vào lớp, em ngạc nhiên vô cùng khi tổ trực làm vệ sinh rất tốt. Bảng đen không dính tí bụi. Trong ngoài sau lớp được quét dọn sạch sẽ. Trên bàn cô còn có một lọ hoa lay ơn tươi thắm. Các bạn truy bài rất sôi nổi. Một bạn lên bảng viết bài tập đọc, chúng em chép bài theo. Xong rồi chúng em chạy ra sân chơi. Nắng vàng gay gắt đổ xuồng sân trường nhưng các bạn vui đùa dưới bóng mát cây me tây. Chúng em đang hăng say bỗng ba tiếng trống quen thuộc vang lên: “Tùng! Tùng! Tùng”. Các bạn bỏ dở cuộc chơi chạy lại trước lớp chỉnh tề xếp hàng vào học. Thế là buổi học bắt đầu. Lớp phó văn thể mỹ bắt giọng hát đầu giờ. Hát xong cũng là lúc cô giáo bước vào lớp. Lớp trưởng hô khẩu hiệu chào cô, tất cả chúng em đứng dậy. Cô khẽ mỉm cười vẫy tay cho học sinh ngồi xuống. Hôm nay, cô mặc áo dài màu tím hoa sim, dáng đi uyển chuyển, tà áo bay bay trong gió. Cô kiểm lại bài: Qua thậm thình các bạn đều thuộc bài, nhất là bạn Khánh Ngân thường ngày đọc ê a mà hôm nay cũng đạt điểm. Cô rất vui và ghi điểm vào sổ rồi gấp lại. Cô ghi tựa bài mới: Yết Kiêu. Cô đọc và giảng bài. Giọng của cô khi trầm khi bổng nghe rất hấp đẫn. Chúng em nghe say sưa và có lúc tưởng mình đang ở vào thời đại của Yết Kiêu. Em cảm thấy khâm phục Yết Kiêu. Yết Kiêu như một con giao long vùng vẫy trên sóng nước. Đục thuyền làm cho giặc Nguyên sợ hãi không còn mộng xâm lăng. Giảng bài xong, cô đặt câu hỏi rồi gọi các bạn trả lời, các bạn rất háo hức giơ tay. Những ánh mắt đăm đăm nhìn cô như muốn cô gọi mình trả lời. Cô gọi vài bạn đọc bài, các bạn đọc rất hay, rất diễn cảm và trả lời các cầu hỏi đầy đủ. Xem thêm: Bình giảng bài thơ Chiều tối (Mộ) trong Nhật kí trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh để làm rõ chất thép, vẻ đẹp cổ điển, vẻ đẹp hiện đại, tấm lòng nhân đạo bao la của Người
Cô bước lên bục giảng, viết toán cho chúng em làm. Cô gọi một số bạn lên bảng sửa bài về nhà. Các bạn Thảo, Hải Bằng, Kim Ngân và Thu Hằng sửa bài, các bạn này thường xuyên làm toán sai, hôm nay cũng đạt điểm mười. Chúng em giở tập ra sửa. Chà! Bài hôm nay khó quá! Toàn là số thập phân. Nhiều tiếng xì xào tỏ ra bối rối. Cô bảo chúng em yên lặng. Cô lại bước lên bục giảng, chúng em lại chăm chú lắng nghe. Dưới sự chỉ dẫn của cô, những con số thập phân kia không còn đáng ghét nữa. Tiếp đó, chúng em làm bài tập. Cô gió mát rượi nghiêng mình qua cửa sổ nhìn chúng em làm bài. Bài gần xong thì giờ ra chơi cũng đã đến. Hai chục phút thoải mái trôi qua rất mau, chúng em vào học tiết ba. Cô phát vở toán cho chúng em, em sung sướng vô cùng khi có điểm mười đỏ chói trên vở. Sang tiết thứ ba này là môn khoa học với bài mới là “Nhiệt kế”. Cô gọi ba bạn trả bài cũ, bạn nào cũng đạt điểm cao. Cô cho thí nghiệm mô tả nhiệt kế như: nhiệt kế đo thời gian, nhiệt kế đo thân nhiệt, mỗi loại đều rất công dụng. Cô đặt câu hỏi khoa học bạn nào cũng trả lời đúng, đầy đủ. Sang tiết thứ tư là môn đạo đức. Câu chuyên thật vui và ngộ nghĩnh. Cô dạy chúng em cách nói chuyên xã giao với người lớn tuổi. Em thấy mình nhiều lúc chưa tỏ lòng tôn kính đúng mức đối với người già. Em cần phải nhường bước đi, phải nói năng lễ phép với các cụ. Bởi vì chính những người ấy đã đóng góp nhiều cho xã hội. Cuối buổi học, cô khen chúng em có chuẩn bị tốt ở nhà nên học hành sôi nổi và nghiêm túc. Khi tiếng trống báo hiệu giờ chào cờ, chúng em xếp hàng để tham dự buổi lễ chào cờ đầu tuần. Buổi học ngày thứ hai thật là đáng ghi nhớ. Em nghĩ rằng tất cả các buổi học trong tuần đều như vậy thì không lo gì về kết quả ở kỳ thi sắp tới. Xem thêm: Người ấy sống mãi trong lòng tôiVanmau.edu.vn
|
Of the lessons last week, which lesson did you find most effective? Please tell me about that lesson
Suggest
I can't forget last Monday, in my class's first lesson book, the teacher graded and rated the class as having the best results.
That day, I went to school very early. As soon as I entered the classroom, I was extremely surprised when the team on duty cleaned very well. The blackboard doesn't have any dust on it. Inside and outside the classroom is swept clean. On her table there is also a vase of fresh gladiolus flowers. You guys read the article very enthusiastically. One student went to the board to write a reading assignment, and we copied it. After that, we ran to the playground. The harsh yellow sun poured down on the school yard, but the students had fun under the shade of the tamarind tree. We were enthusiastic and suddenly three familiar drum sounds rang out: "Tung! Tung! Tung”. The students abandoned the game and ran back to the front of the class to line up neatly to go in. So the lesson began. The assistant class in fine arts started singing at the beginning of class. After singing, the teacher entered the classroom. The class president shouted a slogan to greet her, and we all stood up. She smiled slightly and waved for the students to sit down. Today, she wears a purple ao dai, her gait is graceful, her dress flutters in the wind. She checked the lesson: Even though all of you knew the lesson, especially Khanh Ngan, who usually reads it every day, she also got a score today. She was very happy and wrote down the points in the book and then closed it. She wrote the new title: Yet Kieu. She reads and lectures. Her voice, sometimes low and sometimes high, sounds very attractive. We listened passionately and sometimes thought we were in Yet Kieu's era. I feel admiration for Yet Kieu. Yet Kieu is like a dragon struggling on the waves. Destroying the boat made the Yuan invaders so scared that they no longer dreamed of invading. After the lecture, she asked questions and then called on you to answer. You all eagerly raised your hands. The eyes stared at her as if wanting her to call him and answer. She called a few people to read the article, they read it very well, were very expressive and answered the questions fully. See more: Commentary on the poem Evening (Tomb) in President Ho Chi Minh's Prison Diary to clarify his steel, classic beauty, modern beauty, and immense humanity.
She stepped up to the podium and wrote math for us to do. She called some friends to the board to correct their homework. Thao, Hai Bang, Kim Ngan and Thu Hang corrected their homework. These students often got math wrong. They also scored ten points today. We opened the notebook and edited it. Rub! Today's lesson is so difficult! All are decimals. Many whispers expressed confusion. She told us to be quiet. She stepped up to the podium again, and we listened attentively. Under her guidance, those decimal numbers are no longer obnoxious. Next, we did the exercises. The cool breeze leaned through the window and watched us do our homework. The lesson is almost over and it's time to play. Twenty comfortable minutes passed quickly, and we entered third period. She gave us math notebooks. I was extremely happy when there was a bright red ten point on the notebook. This third period is a science subject with a new lesson called "Thermometer". She called three of her friends to return their old papers, and all of them got high scores. She gave an experiment describing thermometers as: thermometers to measure time, thermometers to measure body temperature, each of which is very useful. She asked scientific questions and everyone answered correctly and completely. The fourth period is ethics. The story is really fun and funny. She taught us how to speak politely with older people. I feel like I often don't show proper respect to the elderly. You need to give way and speak politely to the elders. Because those people have contributed a lot to society. At the end of the lesson, she praised us for being well prepared at home so we studied enthusiastically and seriously. When the drums signaled flag-raising time, we lined up to attend the flag-raising ceremony at the beginning of the week. The second day's class was truly memorable. I think if all the lessons during the week are like that, I won't have to worry about the results of the upcoming exam. See more: That person lives forever in my heartVanmau.edu.vn
|
Trong phần 2 của bản Tuyên ngôn, tác giả đã lập luận như thế nào để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Việt Nam ta?
Hướng dẫn
Bố cục của bản Tuyên ngôn Độc lập.
Gợi ý:
+ Phần 1: từ đầu đến “không ai có thể chối cãi được”: Nêu nguyên lí làm cơ sở lí luận và tư tường cho bản Tuyên ngôn: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc
+ Phần 2: tiếp đến “chứ không phải từ tay Pháp”: Tố cáo tội ác của thực dân Pháp về mọi mặt. Chứng minh thực dân Pháp là kẻ làm trái nguyên lí; nhân dân ta là người thực hiện đúng nguyên lí đã tự đứng lên giành chính quyền. Đập tan âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp và xóa bỏ tất cả các đặc quyền, đặc lợi của chúng ở nước ta.
+ Phần 3: Đoạn còn lại: Lời tuyên bố quyền độc lập, tự do của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với thế giới và ý chí quyết tâm giữ vững quyền tự do độc lập của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Việc trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập (1776) của nước Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1791) của Cách mạng Pháp trong phần mở đầu có ý nghĩa gì?
Gợi ý:
a) Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, tác giả đưa ra dẫn chứng từ hai tuyên ngôn nổi tiếng là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1791) của Cách mạng Pháp và Tuyên ngôn Độc lập (1776) của nước Mĩ, khẳng định quyền con người và quyền các dân tộc. Cách viết sắc xảo này đã đem lại ý nghĩa sâu sắc cho bản Tuyên ngôn được viết trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ.
b) Đây là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”, “dùng khoá của địch khoá miệng địch”, lấy lí lẽ của nước người để phản bác những âm mưu của chính các nước đó. Tác giả đã rất linh hoạt khi kết hợp ý kiến của người với ý kiến của mình: “suy rộng ra câu ấy có nghĩa là….”, từ khẳng định quyền con người. Bác đã chuyển sang quyền của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
Xem thêm: Bạn Thùy Trang kể về gia đìnhc) Ra đời trong bối cảnh Chiến tranh Thế giới Thứ hai vừa kết thúc, các nước đồng minh đang tranh giành ảnh hưởng đòi chia quyền kiểm soát nhũng vùng bọn phát xít từng chiếm đóng. Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ nói với nhân dân Việt Nam, các nước trên thế giới mà còn hướng tới bọn thực dân đế quốc, ngăn chặn ngay ý đồ chiếm lại nước ta một lần nữa của thực dân Pháp. Đồng thời khẳng định cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của nhân dân Việt Nam. Chống phát xít, chống đế quốc là cuộc đấu tranh chính nghĩa (thực hiện quyền độc lập, tự do, bình đẳng – lẽ phải thông thường mà chính các nước Pháp, Mĩ đã từng tuyên bố), buộc chính các nước thực dân, đế quốc không được phép coi thường, phủ nhận
Cách lập luận này của tác giả rất chặt chẽ, đầy tính chiến đấu
Trong phần 2 của bản Tuyên ngôn, tác giả đã lập luận như thế nào để khẳng định quyền độc lập tự do của nước Việt Nam ta?
Gợi ý:
Trong phần 2 của bản Tuyên ngôn, tác giả tập trung tố cáo tội ác của thực dân Pháp với nhân dân ta trong suốt 80 năm đô hộ nhằm bác bỏ nhũng luận điệu xảo trá của thực dân Pháp, phù nhận lí lẽ “bảo hộ”, vạch trần bản chất xâm lược và bóc lột, đập tan âm mưu xâm lược trở lại của chúng cũng như để chứng minh tính tất yếu của Cách mạng Việt Nam, tạo cơ sở cho tuyên bố độc lập. Hồ Chí Minh đã lần lượt đưa ra những dẫn chứng thật tiêu biểu:
– về chính trị: Chúng không cho… chúng thi hành… chúng lập ra nhà tù… chúng ràng buộc… chúng dùng thuốc phiện
– về kinh tế: Chúng bóc lột… chúng cướp… chúng giữ…
– về quân sự: khi phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương… thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng… bỏ chạy… không bảo hộ được ta… bán nước ta hai lần cho Nhật… lại thẳng tay khủng bố Việt Minh… nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị…
Đoạn văn được viết với khí thế hừng hực của ngọn lửa căm hờn quân xâm lược và lòng yêu nước, thương dân. Những hình ảnh chân thực, tư liệu chính xác, điệp từ chúng nhắc lại liên tiếp làm cho âm hưởng đoạn văn càng thêm nhức nhối, tạo nên sức mạnh cho lời tuyên bố độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam:
“Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam ”
Nguồn: thêm: Thời gian biểu trong ngày của em
|
In part 2 of the Declaration, how did the author argue to affirm the independence and freedom of our country?
Instruct
Layout of the Declaration of Independence.
Suggest:
+ Part 1: from the beginning to "no one can deny": State the principles that serve as the theoretical and ideological basis for the Declaration: All people are born with equal rights, the right to life, the right to freedom and the right to pursue happiness
+ Part 2: next "not from the hands of the French": Denouncing the crimes of the French colonialists in all aspects. Proving that the French colonialists were the ones who violated the principles; Our people are the ones who correctly implemented the principles and stood up to gain power. Smash the French colonialists' plot to re-invade and eliminate all of their privileges and privileges in our country.
+ Part 3: The remaining paragraph: The declaration of the right to independence and freedom of the Government of the Democratic Republic of Vietnam to the world and the determination to maintain the right to freedom and independence of the entire Vietnamese people.
What is the significance of quoting America's Declaration of Independence (1776) and the French Revolution's Declaration of the Rights of Man and Citizen (1791) in the introduction?
Suggest:
a) At the beginning of the Declaration of Independence, the author gives evidence from two famous declarations, the Declaration of the Rights of Man and of the Citizen (1791) of the French Revolution and the Declaration of Independence (1776) of the United States, affirming define human rights and peoples' rights. This sharp writing style brought profound meaning to the Declaration written in the historical circumstances of that time.
b) This is the art of "hitting your back with your stick", "using the enemy's key to lock the enemy's mouth", using the arguments of other countries to refute the plots of those countries. The author was very flexible when combining other people's opinions with his own: "In general, that sentence means...", from affirming human rights. He turned to the rights of peoples: "All peoples in the world are born equal, all peoples have the right to life, the right to happiness and the right to freedom."
See more: Thuy Trang talks about her familyc) Born in the context of World War II, which had just ended, allied countries were competing for influence, demanding to share control over areas once occupied by the fascists. The Declaration of Independence not only speaks to the people of Vietnam and other countries around the world but also addresses the imperialist colonialists, immediately stopping the French colonialists' intention to take back our country again. At the same time, it affirms the struggle for independence and freedom of the Vietnamese people. Anti-fascism and anti-imperialism is a righteous struggle (exercising the right to independence, freedom, equality - the common sense that France and America themselves have declared), forcing the colonial countries themselves, The empire cannot be ignored or denied
The author's way of arguing is very rigorous and combative
In part 2 of the Declaration, how did the author argue to affirm the independence and freedom of our country?
Suggest:
In part 2 of the Declaration, the author focuses on denouncing the crimes of the French colonialists against our people during 80 years of colonial rule in order to refute the cunning arguments of the French colonialists and accept the argument of "protection". ”, exposing the nature of invasion and exploitation, crushing their plot to invade again as well as proving the inevitability of the Vietnamese Revolution, creating a basis for declaring independence. Ho Chi Minh in turn gave typical examples:
– about politics: They don't allow... they enforce... they set up prisons... they bind... they use opium
– about the economy: They exploit… they rob… they keep…
– militarily: when the Japanese fascists invaded Indochina... the French colonialists knelt down and surrendered... fled... failed to protect us... sold our country twice to Japan... brutally terrorized the Viet Minh... heartless kill the majority of political prisoners...
The passage was written with a fiery spirit of hatred for the invaders and patriotism and love for the people. The realistic images, accurate documents, and repeated repetitions of the words make the paragraph's resonance even more painful, creating strength for the declaration of independence and sovereignty of the Vietnamese people:
“Therefore, we, the Provisional Government of the new Vietnam, representing the entire Vietnamese people, declare that we will completely break away from colonial relations with France and abolish all treaties that France has signed on Vietnam, abolish all French privileges in Vietnam."
Source: more: My daily schedule
|
Trong rừng có nhiêu lối đi Và tôi chọn lối đi chưa có dấu chân người
Hướng dẫn
Nhà thơ Mĩ Robert Frost viết:
"Trong rừng có nhiêu lối đi
Và tôi chọn lối đi chưa có dấu chân người."
Anh (chị) suy nghĩ gì về ý tưởng gợi lên từ hai câu thơ trên?
– Giải thích ý thơ:
+ Trong rừng có nhiều lối đi: cuộc sống có nhiều con đường, nhiều cách thức, nhiều lựa chọn để mỗi người có lựa chọn riêng cho cuộc tổn sinh và phát triển.
+ Lối đi không có dấu chân người: lối đi mới có nhiều điều thú vị, nhưng cũng có thể gặp những nguy hiểm, thách thức, khó khăn; chỉ cách nghĩ, lối sống mới thì mới thể hiện được sự lựa chọn riêng, sáng tạo.
+ Tôi chọn: thể hiện sự chủ động, tích cực lựa chọn, dám dấn thân trong cuộc sống của người viết.
– Phân tích, chứng minh:
+ Vì sao con người cần lựa chọn lối đi riêng, mới mẻ?
Vì mỗi người có những nhận thức, cách nghĩ, cách nhìn khác nhau về cuộc sống; nhữno quan niệm khác nhau về giá trị sự sống cũng như giá trị bản thân.
Vì cuộc sống bao giờ cũng phong phú, luôn chứa đựng những cơ hội cũng như thách thức mở ra những lối đi riêng, những ngả đường mới.Mặt khác, cuộc sống luôn vận động và phạt triển, không ai tắm hai lần trên một dòng sông (Hê-ra-clit) nên những con dường đã có người đi sẽ không tránh khỏi mòn cũ, lạc hậu, lỗi thời.
Xem thêm: So sánh nghệ thuật xây dựng hai nhân vật Mị và A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài).+ Con người lựa chọn lối đi riêng như thế nào?
Có thể là: Chọn lối đi riêng trong học tập; chọn lối đi riêng trong lao động, sinh hoạt; chọn lối đi riêng trong nghiên cứu khoa học; chọn lối đi riêng trong đấu tranh, bảo vệ, giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống,…
+ Lối đi riêng có ýnghĩa như thế nào?
Giúp cho con người trở nên chủ động, linh hoạt, phát huy tận độ năng lực, sở trường, hạn chế sở đoản; tôi rèn bản lĩnh và ý chí; nâng cao khát vọng… tức là nâng cao giá trị bản thân và giá trị sự sống.
Góp phần làm cho cuộc sống thêm phong phú và phát triển.
– Bàn luận, đánh giá:
+ Lối đi riêng tuyệt nhiên không phải là lối đi lập dị, xa lạ với những giá trị phổ quát của nhân sinh. Đó là lựa chọn tích cực của những người chân chính. Phê phán những ngộ nhận về lối đi riêng, về sáng tạo ở kẻ tài hèn, đức mỏng, chí đoản.
+ Muốn đi lối di riêng, mới mẻ, con người cần: chủ động, không ngừng trau dồi trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn và phải có bản lĩnh vững vàng trước khó khăn, thách thức, chấp nhận trả giá.
– Liên hệ: Thế hệ thanh niên hiện nay dám dấn thân, có bản lĩnh và chọn lối đi riêng cho bản thân mình như thế nào?
Nguồn:
|
There are many paths in the forest. And I choose the path without any human footprints
Instruct
American poet Robert Frost wrote:
"There are many paths in the forest
And I chose the path without any human footprints."
What do you think about the ideas evoked by the two verses above?
– Explanation of poetic meaning:
+ In the forest there are many paths: life has many paths, many ways, many choices so that each person has their own choice for survival and development.
+ The path has no human footprints: the new path has many interesting things, but can also encounter dangers, challenges, and difficulties; Only a new way of thinking and lifestyle can express individual and creative choices.
+ I choose: shows the writer's initiative, positive choice, and dare to engage in life.
– Analyze and prove:
+ Why do people need to choose their own, new path?
Because each person has different perceptions, ways of thinking, and perspectives on life; There are different concepts about the value of life as well as self-worth.
Because life is always rich, always contains opportunities as well as challenges to open new paths and paths. On the other hand, life is always moving and evolving, no one takes a shower twice in the same day. river (Heraclit), so the roads that have been traveled by people will inevitably be old, outdated, and outdated.
See more: Compare the art of building the two characters Mi and A Phu in the short story A Phu and his wife (To Hoai).+ How do people choose their own path?
It could be: Choose your own path in learning; choose your own path in work and living; choose your own path in scientific research; choose your own path in fighting, protecting and preserving traditional cultural values,...
+ What does private entrance mean?
Help people become proactive, flexible, maximize their abilities and strengths, and limit their weaknesses; I forge my bravery and will; Raising aspirations... means enhancing self-worth and the value of life.
Contribute to making life richer and more developed.
– Discuss and evaluate:
+ A private path is absolutely not an eccentric path, alien to the universal values of human life. That is the positive choice of genuine people. Criticizing misconceptions about one's own path and creativity in people with weak talent, weak morals, and short-lived ideas.
+ To follow a unique, new path, people need to: be proactive, constantly cultivate intelligence, nurture the soul and have a strong spirit in the face of difficulties and challenges, and accept to pay the price.
– Contact: How does the current generation of young people dare to commit, have courage and choose their own path?
Source:
|
Trong số những tác phẩm đã học và đọc thêm, em thích tác phẩm nào nhất. Phân tích tác phẩm đó để làm rõ lí do
Gợi ý
Nhắc đến thơ Hàn Mặc Tử là người ta nghĩ ngay đến những vần thơ điên của ông, khi đọc chúng ta thấy phải rùng mình. Nhưng trong tập “Thơ điên” này, Hàn lại có một bài thơ hay đến mềm mại, nhẹ nhàng. Đó là bài: “Mùa xuân chín”.
Trong làn nắng ửng khói mơ tan.
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát bên đồi;
– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
– Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Được chiêm ngưỡng những tác phẩm của ông, ta mới thấy đây là một tài thơ, một hồn thơ luôn trỗi dậy ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Thi sĩ Hàn viết bài thơ này khi căn bệnh phong đang tàn phá cơ thể ông rất dữ dội. Ấy vậy mà lời thơ vẫn say đắm, trẻ đẹp, mùa xuân ấy vẫn thấm màu sự sống.
Ta đã thường thấy mùa xuân về trong thơ của Nguyễn Bính
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy"
Đây cũng là mùa xuân, nhưng lại như vừa đến mang theo mưa xuân lất phất. Hàn Mặc Tử sao lại gọi là mùa xuân “chín”?
Xuân đến là mùa hội lại về, có biết bao nhiêu nắng vàng điểm trên mái nhà tranh. Lại còn những làn “khói mơ”, làn khói mờ mờ nửa hư nửa thực, như đang bước vào thế giới của các nàng tiên. Vì đoạn thơ xuất hiện tà áo biếc, một thoáng của các cô thôn nữ đang khăn áo đi xem hội. Phải nói rằng tác giả rất tinh tế đã cảm nhận được cả tiếng động “sột soạt” của những tà áo biếc. Không biết là gió thổi mà gây ra tiếng động hay tại các cô rảo bước nhanh quá làm tà áo lất phất bay trong gió. Vậy là bức tranh đầu tiên đã hiện ra, có cái nắng, có khói sương, có gió, tà áo biếc là dấu hiệu có con người. Và đặc biệt là sự phát hiện mới mẻ của nhà thơ: “Bóng xuân sang”, mùa xuân đã đến.Xem thêm: Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ Bài thơ vừa có tính hiện đại nhưng lại đậm chất cổ điển. Câu thơ: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” gợi cho ta nhớ đến: “Cỏ non xanh tận chân trời” của thi hào Nguyễn Du ngày nào. Nhưng cái độc đáo của chàng thi sĩ Hàn Mặc Tử ở chỗ thể hiện được một không gian rộng mà thoáng không một đứt đoạn, cỏ mà như sóng, phải chăng lòng người cũng đang có những đợt sóng ngầm nào đó? Đến khi con người xuất hiện thì mới thấy rõ hơn. Bài thơ có hai chỗ như một lời nói trực tiếp, thì đây là lời nói trực tiếp đầu tiên, nhưng không biết là lời của nhà thơ hay lời của một người nào đó. Bức tranh đang vui vẻ nhộn nhịp, tưởng như tràn đầy những lời ca tiếng hát của những cô thôn nữ, thì xuất hiện một lời:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
Đây là lời nhắc nhở hay một lời phán truyền? Có lẽ là một lời nhắc nhẹ nhàng mà thôi. Nhưng không chỉ các cô thôn nữ kia phải giật mình mà ngay cả người đọc cũng phải gật đầu mà tấm tắc như ngộ ra rằng: lẽ đời là thế! Một giấc mơ đẹp như thế này đâu dễ có, vậy mà Hàn lại kéo họ ra để họ nhìn thấy hiện tại nghiệt ngã này. Lời thơ như bùi ngùi lắng xuống, các cô gái xuân kia có biết rằng hội xuân năm sau sẽ không có đông đủ như vậy không? Sẽ có nhiều cô bỏ bạn, bỏ hội mà theo chồng và mãi mãi các cô không còn được bên nhau thế này nữa. Ta cũng thấy rằng chính nhà thơ cũng bất lực trước hiện thực này, có lẽ chỉ thở dài một cái và nghĩ mà buồn vì không có cái gì là ổn định bất biến. Những cái tốt đẹp thường đến muộn mà đi nhanh trong phút chốc, còn những nỗi buồn thì đến nhanh quá, hiện thực phũ phàng quá! Chỉ riêng câu thơ này thôi cũng làm tôi phải thấy quý những người bạn của mình hơn, quý những phút giây bên nhau hơn. Bởi lẽ sẽ có lúc chính mình phải từ bỏ “cuộc chơi” để đeo vào mình cái nghiệp chồng con. Đây đúng là cái vốn có của con người, được Hàn Mặc Tử gói lại trong vài câu thơ của mùa xuân.Xem thêm: Hịch là gì? Viết đoạn văn nêu đặc điểm của thể hịch trong đó có sử dụng một câu phủ định Nỗi buồn chỉ thoáng qua rồi không khí mùa xuân lại trở lại với tiếng hát của đám hội xuân:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Tưởng chừng như tiếng hát rất mỏng manh, nhẹ như một làn khói mỏng. Ta cứ cảm thấy tiếng hát này có thể nhìn thấy, nhìn rõ là đằng khác vì có sự định vị ở nơi “lưng chừng núi”. Còn có âm vực rất yếu ớt “hổn hển”, gợi ra một hơi thở có khi là gấp gáp nhưng biết đâu lại khó khăn. Chính vì tiếng hát này không mạnh mà rất nhỏ, chỉ “thầm thĩ” nên nghe có vẻ là ý vị, thơ ngây. Phải chăng lúc này mùa xuân đang chín? Nhưng có ngẫm ra mới thấy cái âm thanh mỏng manh kia thật vô định và khó nắm bắt được nó. Vừa là hữu hình vì thấy nó ở giữa lưng chừng một ngọn núi, nghe thấy lời nhưng lại là cái vô hình, non nớt khó có thể tồn tại lâu được. Chắc chắn lời ca ấy sẽ tan biến, sẽ mất ngay sau đó! Vậy là bức tranh xuân ngoài kia dù có đẹp đến đâu, có nắng ửng đến hồng bao nhiêu đi nữa thì cũng làm nhà thơ thấy cái thực tại xung quanh mình không sao nắm giữ được, nó luôn bất ổn và làm tâm hồn nhà thơ có một chút bất an. Một ý nghĩa cuộc sống nữa được nhà thơ chiêm nghiệm ra, đó là những gì xung quanh ta tưởng rằng có thể nắm bắt, có thể lấy làm của ta nhưng mới chỉ là “nghe ra” thôi chứ chưa phải là “chắc chắn là vậy”.
Cuối bài thơ lại là hình ảnh người phụ nữ với một vẻ đẹp “chân quê”, đậm chất đồng nội hiện lên trên nền trắng có “nắng chang chang”. Người lữ khách nhìn cảnh xuân mà nhớ về quê nhà. Đúng theo kiểu: “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xưa”, nghĩa là hiện tại giúp người ta nhìn về quá khứ nhưng cũng đôi chút dự cảm về tương lai. Mùa xuân đã chín, lòng người cũng vì thế mà đang dần nghĩ suy chăng? Xuân đã chín thì tất theo lẽ thường phải sang mùa, con người hết tuổi “hát bên đồi” thì cũng phải chuyển sang tuổi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Thế nên vào những thời điểm như vậy “chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi, cô đành lỗi bước với tình quân…” ắt phải sang lòng. Một câu hỏi ở cuối bài nhưng không chỉ cho ta nhiều câu trả lời mà còn cho ta thấy tâm tư, nỗi lòng của người khách xa khi gặp đúng khi mùa xuân đương chín. Có thể đứng ngắm nhìn cảnh sắc, nghe tiếng hát, xem các cô thôn nữ đi hội mà lòng muốn hướng về dĩ vãng xa xôi. Người đó cũng có một người thương nơi quê nhà, và không biết giờ này đang làm gì nữa, cô có còn chờ đợi không hay đã gặp tình cảnh khác mất rồi. Chỉ hai, ba hình ảnh miêu tả mùa xuân mà có tới vài ba nét tâm trạng trong đó.Xem thêm: Thuyết minh về cặp kính đeo mắt Bài thơ “Mùa xuân chín” đã cho người đọc thấy một hồn thơ Hàn Mặc Tử đầy nỗi niềm u uất nghĩ suy. Một cảm nhận từ bài thơ đó là một bức tranh mùa xuân chín nhưng không khí lại ảm đạm, buồn đến não nề, càng cảm thụ càng thấy các tầng ý nghĩa nhưng lại bất lực trước nó. Bởi lẽ hạnh phúc đâu có dễ nắm lấy, đôi khi nó hữu hình nhưng hầu như là vô hình nên thường cho người ta những sự nghi cảm. Chính thiên nhiên và con người luôn thay đổi mà cho ta những lo lắng đó, đúng như tầm trạng của Hàn trong một bài thơ khác: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ lúc này đang phải chiến đấu rất mệt mỏi với bệnh tật mà vẫn để lại một mùa xuân chín, một hoài cảm, một dự báo cho tương lai là một điều đáng kính phục lắm. Từ bài thơ này, người ta có thể nhận ra nhiều tầng ý nghĩa để thấy tâm hồn nhà thơ không hề yếu ớt, mà vẫn còn tinh tế, đa chiều khi nhìn nhận sự việc.
Vanmau.edu.vn
|
Trong số những tác phẩm đã học và đọc thêm, em thích tác phẩm nào nhất. Phân tích tác phẩm đó để làm rõ lí do
Gợi ý
Nhắc đến thơ Hàn Mặc Tử là người ta nghĩ ngay đến những vần thơ điên của ông, khi đọc chúng ta thấy phải rùng mình. Nhưng trong tập “Thơ điên” này, Hàn lại có một bài thơ hay đến mềm mại, nhẹ nhàng. Đó là bài: “Mùa xuân chín”.
Trong làn nắng ửng khói mơ tan.
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát bên đồi;
– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
– Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Được chiêm ngưỡng những tác phẩm của ông, ta mới thấy đây là một tài thơ, một hồn thơ luôn trỗi dậy ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Thi sĩ Hàn viết bài thơ này khi căn bệnh phong đang tàn phá cơ thể ông rất dữ dội. Ấy vậy mà lời thơ vẫn say đắm, trẻ đẹp, mùa xuân ấy vẫn thấm màu sự sống.
Ta đã thường thấy mùa xuân về trong thơ của Nguyễn Bính
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy"
Đây cũng là mùa xuân, nhưng lại như vừa đến mang theo mưa xuân lất phất. Hàn Mặc Tử sao lại gọi là mùa xuân “chín”?
Xuân đến là mùa hội lại về, có biết bao nhiêu nắng vàng điểm trên mái nhà tranh. Lại còn những làn “khói mơ”, làn khói mờ mờ nửa hư nửa thực, như đang bước vào thế giới của các nàng tiên. Vì đoạn thơ xuất hiện tà áo biếc, một thoáng của các cô thôn nữ đang khăn áo đi xem hội. Phải nói rằng tác giả rất tinh tế đã cảm nhận được cả tiếng động “sột soạt” của những tà áo biếc. Không biết là gió thổi mà gây ra tiếng động hay tại các cô rảo bước nhanh quá làm tà áo lất phất bay trong gió. Vậy là bức tranh đầu tiên đã hiện ra, có cái nắng, có khói sương, có gió, tà áo biếc là dấu hiệu có con người. Và đặc biệt là sự phát hiện mới mẻ của nhà thơ: “Bóng xuân sang”, mùa xuân đã đến.Xem thêm: Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ Bài thơ vừa có tính hiện đại nhưng lại đậm chất cổ điển. Câu thơ: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” gợi cho ta nhớ đến: “Cỏ non xanh tận chân trời” của thi hào Nguyễn Du ngày nào. Nhưng cái độc đáo của chàng thi sĩ Hàn Mặc Tử ở chỗ thể hiện được một không gian rộng mà thoáng không một đứt đoạn, cỏ mà như sóng, phải chăng lòng người cũng đang có những đợt sóng ngầm nào đó? Đến khi con người xuất hiện thì mới thấy rõ hơn. Bài thơ có hai chỗ như một lời nói trực tiếp, thì đây là lời nói trực tiếp đầu tiên, nhưng không biết là lời của nhà thơ hay lời của một người nào đó. Bức tranh đang vui vẻ nhộn nhịp, tưởng như tràn đầy những lời ca tiếng hát của những cô thôn nữ, thì xuất hiện một lời:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
Đây là lời nhắc nhở hay một lời phán truyền? Có lẽ là một lời nhắc nhẹ nhàng mà thôi. Nhưng không chỉ các cô thôn nữ kia phải giật mình mà ngay cả người đọc cũng phải gật đầu mà tấm tắc như ngộ ra rằng: lẽ đời là thế! Một giấc mơ đẹp như thế này đâu dễ có, vậy mà Hàn lại kéo họ ra để họ nhìn thấy hiện tại nghiệt ngã này. Lời thơ như bùi ngùi lắng xuống, các cô gái xuân kia có biết rằng hội xuân năm sau sẽ không có đông đủ như vậy không? Sẽ có nhiều cô bỏ bạn, bỏ hội mà theo chồng và mãi mãi các cô không còn được bên nhau thế này nữa. Ta cũng thấy rằng chính nhà thơ cũng bất lực trước hiện thực này, có lẽ chỉ thở dài một cái và nghĩ mà buồn vì không có cái gì là ổn định bất biến. Những cái tốt đẹp thường đến muộn mà đi nhanh trong phút chốc, còn những nỗi buồn thì đến nhanh quá, hiện thực phũ phàng quá! Chỉ riêng câu thơ này thôi cũng làm tôi phải thấy quý những người bạn của mình hơn, quý những phút giây bên nhau hơn. Bởi lẽ sẽ có lúc chính mình phải từ bỏ “cuộc chơi” để đeo vào mình cái nghiệp chồng con. Đây đúng là cái vốn có của con người, được Hàn Mặc Tử gói lại trong vài câu thơ của mùa xuân.Xem thêm: Hịch là gì? Viết đoạn văn nêu đặc điểm của thể hịch trong đó có sử dụng một câu phủ định Nỗi buồn chỉ thoáng qua rồi không khí mùa xuân lại trở lại với tiếng hát của đám hội xuân:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Tưởng chừng như tiếng hát rất mỏng manh, nhẹ như một làn khói mỏng. Ta cứ cảm thấy tiếng hát này có thể nhìn thấy, nhìn rõ là đằng khác vì có sự định vị ở nơi “lưng chừng núi”. Còn có âm vực rất yếu ớt “hổn hển”, gợi ra một hơi thở có khi là gấp gáp nhưng biết đâu lại khó khăn. Chính vì tiếng hát này không mạnh mà rất nhỏ, chỉ “thầm thĩ” nên nghe có vẻ là ý vị, thơ ngây. Phải chăng lúc này mùa xuân đang chín? Nhưng có ngẫm ra mới thấy cái âm thanh mỏng manh kia thật vô định và khó nắm bắt được nó. Vừa là hữu hình vì thấy nó ở giữa lưng chừng một ngọn núi, nghe thấy lời nhưng lại là cái vô hình, non nớt khó có thể tồn tại lâu được. Chắc chắn lời ca ấy sẽ tan biến, sẽ mất ngay sau đó! Vậy là bức tranh xuân ngoài kia dù có đẹp đến đâu, có nắng ửng đến hồng bao nhiêu đi nữa thì cũng làm nhà thơ thấy cái thực tại xung quanh mình không sao nắm giữ được, nó luôn bất ổn và làm tâm hồn nhà thơ có một chút bất an. Một ý nghĩa cuộc sống nữa được nhà thơ chiêm nghiệm ra, đó là những gì xung quanh ta tưởng rằng có thể nắm bắt, có thể lấy làm của ta nhưng mới chỉ là “nghe ra” thôi chứ chưa phải là “chắc chắn là vậy”.
Cuối bài thơ lại là hình ảnh người phụ nữ với một vẻ đẹp “chân quê”, đậm chất đồng nội hiện lên trên nền trắng có “nắng chang chang”. Người lữ khách nhìn cảnh xuân mà nhớ về quê nhà. Đúng theo kiểu: “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xưa”, nghĩa là hiện tại giúp người ta nhìn về quá khứ nhưng cũng đôi chút dự cảm về tương lai. Mùa xuân đã chín, lòng người cũng vì thế mà đang dần nghĩ suy chăng? Xuân đã chín thì tất theo lẽ thường phải sang mùa, con người hết tuổi “hát bên đồi” thì cũng phải chuyển sang tuổi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Thế nên vào những thời điểm như vậy “chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi, cô đành lỗi bước với tình quân…” ắt phải sang lòng. Một câu hỏi ở cuối bài nhưng không chỉ cho ta nhiều câu trả lời mà còn cho ta thấy tâm tư, nỗi lòng của người khách xa khi gặp đúng khi mùa xuân đương chín. Có thể đứng ngắm nhìn cảnh sắc, nghe tiếng hát, xem các cô thôn nữ đi hội mà lòng muốn hướng về dĩ vãng xa xôi. Người đó cũng có một người thương nơi quê nhà, và không biết giờ này đang làm gì nữa, cô có còn chờ đợi không hay đã gặp tình cảnh khác mất rồi. Chỉ hai, ba hình ảnh miêu tả mùa xuân mà có tới vài ba nét tâm trạng trong đó.Xem thêm: Thuyết minh về cặp kính đeo mắt Bài thơ “Mùa xuân chín” đã cho người đọc thấy một hồn thơ Hàn Mặc Tử đầy nỗi niềm u uất nghĩ suy. Một cảm nhận từ bài thơ đó là một bức tranh mùa xuân chín nhưng không khí lại ảm đạm, buồn đến não nề, càng cảm thụ càng thấy các tầng ý nghĩa nhưng lại bất lực trước nó. Bởi lẽ hạnh phúc đâu có dễ nắm lấy, đôi khi nó hữu hình nhưng hầu như là vô hình nên thường cho người ta những sự nghi cảm. Chính thiên nhiên và con người luôn thay đổi mà cho ta những lo lắng đó, đúng như tầm trạng của Hàn trong một bài thơ khác: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ lúc này đang phải chiến đấu rất mệt mỏi với bệnh tật mà vẫn để lại một mùa xuân chín, một hoài cảm, một dự báo cho tương lai là một điều đáng kính phục lắm. Từ bài thơ này, người ta có thể nhận ra nhiều tầng ý nghĩa để thấy tâm hồn nhà thơ không hề yếu ớt, mà vẫn còn tinh tế, đa chiều khi nhìn nhận sự việc.
Vanmau.edu.vn
|
Trong thế giới AIDS, im lặng là chết
Gợi ý
Biết kể gì về một cô gái 25 tuổi? Nàng xinh đẹp, thông minh, và nàng đã chết. Câu chuyện Love story làm rung động không biết bao nhiêu trái tim đã mở đầu như thế. Kể về cuộc đời của một con người là một việc làm khó khăn! Có những số phận may mắn hơn những số phận khác và có những niềm hạnh phúc và nỗi đau thương không dễ gọi tên. Tôi đã từng có cơ hội lắm việc trong một dự án Chăm sóc và hỗ trợ toàn diện cho trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV. Hàng ngày chúng tôi đối mặt với những người phụ nữ trẻ tuổi nhiễm HIV và những đứa trẻ nhiễm bệnh từ mẹ, hay không nhiễm nhưng đang sống với những người mẹ có HIV. Mỗi người một số phận, có người đáng trách, có người đáng giận, có người chỉ đáng thương, và có những câu chuyện về những tâm hồn trong sáng rơi vào đau khổ làm rơi nước mắt. Tôi muốn tất cả chúng ta có cơ hội để cùng hiểu về họ, cảm thông, chia sẻ và mỗi chúng ta cũng sẽ hiểu thêm về một căn bệnh dễ dàng đến với chúng ta theo những con đường không ngờ tới! Bởi vì trong thế giới AIDS, im lặng là chết.
Sự phân biệt đối xử, kỳ thị và thái độ thờ ơ của cộng đồng lẫn chính phủ các quốc gia đang mang lại nhiều cái chết thương tâm không đáng có vì căn bệnh này. Nhắn nhủ với báo giới bên lề Hội nghị Quốc tế về AIDS lần thứ mười lăm đang được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan nói: Nếu có điều chúng tôi đã học được qua hai thập kỷ AIDS hoành hành, thì đó là trong thế giới của AIDS, im lặng là chết… Là những người thuộc giới truyền thống, các bạn hãy dem căn bệnh này ra khỏi bổng tối, và hãy để mọi người nói về nó một cách cởi mở và có hiểu biết. Đốì với giới lãnh đạo các nước, Tổng Thư ký LHQ Kofi Annan nhấn mạnh cần nói về AIDS với quan điểm tự hào, không phải là điều đáng xấu hổ. Các nước nghèo cần nhận thức rõ thảm hoạ AIDS và công khai thông báo thực trạng lây nhiễm HIV/ADIS ở nước mình, từ đó có được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế. Thực chất, đối với các nựớc nghèo, vấn đề lớn chưa hẳn là thiếu nguồn tài chính quốc tế hỗ trợ cho chương trình phòng tránh AIDS mà là thiếu các điều kiện cơ sở hạ tầng để thực hiện tốt các chương trình điều trị và phòng bệnh, hạ tầng về y tế, về kiến thức, kinh nghiệm giáo dục, truyền thống v.v… Còn ở các nước giàu, điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ cũng chưa đảm bảo thành công trong cuộc đấu tranh với AIDS, mà chính là cần sự quan tâm không phân biệt đôi xử với mọi tầng lớp, thành phần nhiễm bệnh. Đơn cử ngay tại nước Mỹ, xã hội vẫn tự hào về những giá trị nhân quyền và văn minh, tình trạng phân biệt chủng tộc và thái độ thờ ơ của giới lãnh đạo cũng gây ảnh hưởng đến cuộc chiến chông AIDS, vấn đề người Mỹ gốc Phi nhiễm HIV tại nước này đang ngày càng gia tăng khi có hơn 50% số người nhiễm HIV ở Mỹ là người da màu. Nhưng trong 5232 áp phích tuyên truyền và 445 bài phát biểu tậi Hội nghị Quốc tế lần thứ 15 về AIDS, trong đó có nhiều bài phát biểu của Mỹ, không có một dòng nào nhắc đến tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS của người Mỹ gốc Phi.Xem thêm: Em hãy hóa thân vào con chim để miêu tả con chim bị nhốt trong lồng
Đốì với cộng đồng xã hội, để tạo được bầu không khí cởi mở cho những bệnh nhân AIDS tự tâm sự và trao đổi, cũng như để mọi người dân có kiến thức phòng chống lây nhiễm, cần xoá bỏ những tư tưởng kỳ thị và phân biệt. Tổ chức Lao động Quốc tế mới đây kêu gọi mọi người lao động nên tự nguyện thử HIV, xem đầy là hoạt động thường kỳ. Một quan chức hoạt động trong lĩnh vực phòng chống AIDS cấp độ toàn cầu từng nhận định, nếu 90% sô người nhiễm HIV không biết mình nhiễm bệnh, coi như sự nghiệp chông HIV/AIDS đã thất bại, một hiện trạng đang xảy ra ngay tại các nước đang phát triển. Hội nghị về AIDS tại Thái Lan cũng đề cập đến vấn đề này và khuyến khích thử nghiệm HIV thường kỳ, áp dụng đối với các bệnh nhân đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện, trung tâm y tế. Những người này nên được yêu cầu thử luôn cả virus HIV nhưng họ có thể từ chối nếu không muốn.
Hội nghị Quốc tế về AIDS lần thứ mười lăm đang được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan, quy tụ hơn 17.000 đại bỉểu đến từ 160 nước trên thế giới. Theo mong đợi, Hội nghị sẽ kết thúc với nhiều cam kết quan trọng thúc đẩy hơn nữa công tác phòng chống AIDS hiện nay. Theo đánh giá của Tổng Thư ký LHQ Koki Annan, thảm hoạ AIDS không chỉ là vấn đề sức khoẻ mà đe doạ trực tiếp đến tiến trình phát triển của nhân loại. Nhưng kể từ hội nghị quốc tế cuối cùng về AIDS được tổ chức năm 2002 đến.nay, tốc độ hoành hành của dịch bệnh đã gia tăng chóng mặt khi có đến sáu triệu người thiệt mạng so với tổng số hai mươi triệu bệnh nhân đã chết vì AIDS kể từ khi phát hiện ca đầu tiên hồi năm 1981. Trên thế giới hiện có ba mươi tám triệu người nhiễm AIDS, riêng trong năm 2003 có đến gần năm triệu ca nhiễm mới. Căn bệnh cũng đang đe doạ ngày càng lớn đến phụ nữ và trẻ em khi có đến hơn một nửa số người nhiễm bệnh ở độ tuổi trưởng thành là phụ nữ, còn số trẻ em bị mồ côi vì mất cha, mẹ do AIDS đang ngày càng tăng. Trẻ em cũng khó có cơ hội được chữa trị AIDS do thiếu thuốc riêng thích hợp.Xem thêm: Chỉ ra và phân lích hiệu quả của thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ dưới đây: "Lòng này gửi gió đông có tiện? ... Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong." (Chinh phụ ngâm - Nguyễn Gia Thiều; bản dịch của Đoàn Thị Điểm). Trong số người nhiễm HIV/AIDS hiện nay, học sinh sinh viên chiếm tỷ lệ khá lớn. Đặc biệt, số học sinh, sinh viên sông xa nhà, trọ học hoặc ở trong các ký túc xá sa vào con đường tiêm chích ma tuý nhiều hơn cả. Đã có không ít học sinh, sinh viên nghiện hút phạm pháp để có tiền miua thuốc. Trầm trọng hơn, có em phát hiện mình nhiễm HIV đã tự vẫn.
Việc ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS hiện nay rất cần sự kiên trì, đồng tâm, đồng lòng của toàn xã hội, của mỗi gia đình, của từng thành viên. Các ngành chức năng cũng khó có thể giúp từng cá nhân, từng gia đình không chế HIV/AIDS. Mỗi bà mẹ, ông bố, mỗi thành viên của từng gìa đình hãy biết quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, hãy chia sẻ và giúp cho lớp trẻ biết “nói không với ma tuý”.
Hiện nay, ở nhiều tỉnh, thành phố phong trào Bạn giúp bạn, Câu lạc bộ đồng đẳng thu hút rất đông những người tiêm chích ma tuý, những người nhiễm HIV/AIDS và gia đình vào sinh hoạt. Có thể nói, những mô hình này đang trở thành điểm tựa cho những người lầm lạc muốn có một cơ hội làm lại cuộc đời.
Tuy nhiên, ở Hà Nội mô hình này lại chưa được phổ biến. Nhiều nơi nắm rõ từng người nghiện hút, nhưng việc giúp họ hối cải thì chưa được bao nhiêu. Khi những người này phạm tội thì bắt đưa đi tập trung cải tạo. Hết thời hạn thả về. Về được một thời gian lại phạm tội, lại bắt, hết hạn lại thả… Cái vòng tròn cứ tiếp tục cho đên khi kẻ gây tội mắc bệnh và ra đi. Hiện nay việc quản lý người nghiện ma tuý có phạm tội vẫn đang là bài toán khó và biện pháp ngăn chặn mang tính quyết định vẫn là từ chính các gia đình.Xem thêm: Bình luận về ý nghĩa của hình ảnh ngọc trai - giếng nước trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy Cuộc sống của những người bị nhiễm HIV/AIDS có lẽ sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều khi xã hội không còn những kì thị. Như nhóm Hoa Hướng Dương là một nhóm đã lập ra một diễn đàn kêu gọi sự ủng hộ và giúp đỡ những người chẳng may mang trong mình căn bệnh thế kỷ.
Vanmau.edu.vn
|
Trong thế giới AIDS, im lặng là chết
Gợi ý
Biết kể gì về một cô gái 25 tuổi? Nàng xinh đẹp, thông minh, và nàng đã chết. Câu chuyện Love story làm rung động không biết bao nhiêu trái tim đã mở đầu như thế. Kể về cuộc đời của một con người là một việc làm khó khăn! Có những số phận may mắn hơn những số phận khác và có những niềm hạnh phúc và nỗi đau thương không dễ gọi tên. Tôi đã từng có cơ hội lắm việc trong một dự án Chăm sóc và hỗ trợ toàn diện cho trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV. Hàng ngày chúng tôi đối mặt với những người phụ nữ trẻ tuổi nhiễm HIV và những đứa trẻ nhiễm bệnh từ mẹ, hay không nhiễm nhưng đang sống với những người mẹ có HIV. Mỗi người một số phận, có người đáng trách, có người đáng giận, có người chỉ đáng thương, và có những câu chuyện về những tâm hồn trong sáng rơi vào đau khổ làm rơi nước mắt. Tôi muốn tất cả chúng ta có cơ hội để cùng hiểu về họ, cảm thông, chia sẻ và mỗi chúng ta cũng sẽ hiểu thêm về một căn bệnh dễ dàng đến với chúng ta theo những con đường không ngờ tới! Bởi vì trong thế giới AIDS, im lặng là chết.
Sự phân biệt đối xử, kỳ thị và thái độ thờ ơ của cộng đồng lẫn chính phủ các quốc gia đang mang lại nhiều cái chết thương tâm không đáng có vì căn bệnh này. Nhắn nhủ với báo giới bên lề Hội nghị Quốc tế về AIDS lần thứ mười lăm đang được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan nói: Nếu có điều chúng tôi đã học được qua hai thập kỷ AIDS hoành hành, thì đó là trong thế giới của AIDS, im lặng là chết… Là những người thuộc giới truyền thống, các bạn hãy dem căn bệnh này ra khỏi bổng tối, và hãy để mọi người nói về nó một cách cởi mở và có hiểu biết. Đốì với giới lãnh đạo các nước, Tổng Thư ký LHQ Kofi Annan nhấn mạnh cần nói về AIDS với quan điểm tự hào, không phải là điều đáng xấu hổ. Các nước nghèo cần nhận thức rõ thảm hoạ AIDS và công khai thông báo thực trạng lây nhiễm HIV/ADIS ở nước mình, từ đó có được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế. Thực chất, đối với các nựớc nghèo, vấn đề lớn chưa hẳn là thiếu nguồn tài chính quốc tế hỗ trợ cho chương trình phòng tránh AIDS mà là thiếu các điều kiện cơ sở hạ tầng để thực hiện tốt các chương trình điều trị và phòng bệnh, hạ tầng về y tế, về kiến thức, kinh nghiệm giáo dục, truyền thống v.v… Còn ở các nước giàu, điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ cũng chưa đảm bảo thành công trong cuộc đấu tranh với AIDS, mà chính là cần sự quan tâm không phân biệt đôi xử với mọi tầng lớp, thành phần nhiễm bệnh. Đơn cử ngay tại nước Mỹ, xã hội vẫn tự hào về những giá trị nhân quyền và văn minh, tình trạng phân biệt chủng tộc và thái độ thờ ơ của giới lãnh đạo cũng gây ảnh hưởng đến cuộc chiến chông AIDS, vấn đề người Mỹ gốc Phi nhiễm HIV tại nước này đang ngày càng gia tăng khi có hơn 50% số người nhiễm HIV ở Mỹ là người da màu. Nhưng trong 5232 áp phích tuyên truyền và 445 bài phát biểu tậi Hội nghị Quốc tế lần thứ 15 về AIDS, trong đó có nhiều bài phát biểu của Mỹ, không có một dòng nào nhắc đến tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS của người Mỹ gốc Phi.Xem thêm: Em hãy hóa thân vào con chim để miêu tả con chim bị nhốt trong lồng
Đốì với cộng đồng xã hội, để tạo được bầu không khí cởi mở cho những bệnh nhân AIDS tự tâm sự và trao đổi, cũng như để mọi người dân có kiến thức phòng chống lây nhiễm, cần xoá bỏ những tư tưởng kỳ thị và phân biệt. Tổ chức Lao động Quốc tế mới đây kêu gọi mọi người lao động nên tự nguyện thử HIV, xem đầy là hoạt động thường kỳ. Một quan chức hoạt động trong lĩnh vực phòng chống AIDS cấp độ toàn cầu từng nhận định, nếu 90% sô người nhiễm HIV không biết mình nhiễm bệnh, coi như sự nghiệp chông HIV/AIDS đã thất bại, một hiện trạng đang xảy ra ngay tại các nước đang phát triển. Hội nghị về AIDS tại Thái Lan cũng đề cập đến vấn đề này và khuyến khích thử nghiệm HIV thường kỳ, áp dụng đối với các bệnh nhân đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện, trung tâm y tế. Những người này nên được yêu cầu thử luôn cả virus HIV nhưng họ có thể từ chối nếu không muốn.
Hội nghị Quốc tế về AIDS lần thứ mười lăm đang được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan, quy tụ hơn 17.000 đại bỉểu đến từ 160 nước trên thế giới. Theo mong đợi, Hội nghị sẽ kết thúc với nhiều cam kết quan trọng thúc đẩy hơn nữa công tác phòng chống AIDS hiện nay. Theo đánh giá của Tổng Thư ký LHQ Koki Annan, thảm hoạ AIDS không chỉ là vấn đề sức khoẻ mà đe doạ trực tiếp đến tiến trình phát triển của nhân loại. Nhưng kể từ hội nghị quốc tế cuối cùng về AIDS được tổ chức năm 2002 đến.nay, tốc độ hoành hành của dịch bệnh đã gia tăng chóng mặt khi có đến sáu triệu người thiệt mạng so với tổng số hai mươi triệu bệnh nhân đã chết vì AIDS kể từ khi phát hiện ca đầu tiên hồi năm 1981. Trên thế giới hiện có ba mươi tám triệu người nhiễm AIDS, riêng trong năm 2003 có đến gần năm triệu ca nhiễm mới. Căn bệnh cũng đang đe doạ ngày càng lớn đến phụ nữ và trẻ em khi có đến hơn một nửa số người nhiễm bệnh ở độ tuổi trưởng thành là phụ nữ, còn số trẻ em bị mồ côi vì mất cha, mẹ do AIDS đang ngày càng tăng. Trẻ em cũng khó có cơ hội được chữa trị AIDS do thiếu thuốc riêng thích hợp.Xem thêm: Chỉ ra và phân lích hiệu quả của thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ dưới đây: "Lòng này gửi gió đông có tiện? ... Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong." (Chinh phụ ngâm - Nguyễn Gia Thiều; bản dịch của Đoàn Thị Điểm). Trong số người nhiễm HIV/AIDS hiện nay, học sinh sinh viên chiếm tỷ lệ khá lớn. Đặc biệt, số học sinh, sinh viên sông xa nhà, trọ học hoặc ở trong các ký túc xá sa vào con đường tiêm chích ma tuý nhiều hơn cả. Đã có không ít học sinh, sinh viên nghiện hút phạm pháp để có tiền miua thuốc. Trầm trọng hơn, có em phát hiện mình nhiễm HIV đã tự vẫn.
Việc ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS hiện nay rất cần sự kiên trì, đồng tâm, đồng lòng của toàn xã hội, của mỗi gia đình, của từng thành viên. Các ngành chức năng cũng khó có thể giúp từng cá nhân, từng gia đình không chế HIV/AIDS. Mỗi bà mẹ, ông bố, mỗi thành viên của từng gìa đình hãy biết quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, hãy chia sẻ và giúp cho lớp trẻ biết “nói không với ma tuý”.
Hiện nay, ở nhiều tỉnh, thành phố phong trào Bạn giúp bạn, Câu lạc bộ đồng đẳng thu hút rất đông những người tiêm chích ma tuý, những người nhiễm HIV/AIDS và gia đình vào sinh hoạt. Có thể nói, những mô hình này đang trở thành điểm tựa cho những người lầm lạc muốn có một cơ hội làm lại cuộc đời.
Tuy nhiên, ở Hà Nội mô hình này lại chưa được phổ biến. Nhiều nơi nắm rõ từng người nghiện hút, nhưng việc giúp họ hối cải thì chưa được bao nhiêu. Khi những người này phạm tội thì bắt đưa đi tập trung cải tạo. Hết thời hạn thả về. Về được một thời gian lại phạm tội, lại bắt, hết hạn lại thả… Cái vòng tròn cứ tiếp tục cho đên khi kẻ gây tội mắc bệnh và ra đi. Hiện nay việc quản lý người nghiện ma tuý có phạm tội vẫn đang là bài toán khó và biện pháp ngăn chặn mang tính quyết định vẫn là từ chính các gia đình.Xem thêm: Bình luận về ý nghĩa của hình ảnh ngọc trai - giếng nước trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy Cuộc sống của những người bị nhiễm HIV/AIDS có lẽ sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều khi xã hội không còn những kì thị. Như nhóm Hoa Hướng Dương là một nhóm đã lập ra một diễn đàn kêu gọi sự ủng hộ và giúp đỡ những người chẳng may mang trong mình căn bệnh thế kỷ.
Vanmau.edu.vn
|
Trong thế giới khốc liệt của AIDS, không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết (Cô-phi An-nan). Quan niệm của anh (chị) về vấn đề này.
Hướng dẫn
Trọng tâm của bài luận- là quan niệm, thái độ của cộng đồng, của xã hội với những người nhiễm HIV và suy nghĩ của bản thân anh (chị) trước vấn đề này. Trong đó, cần nhấn mạnh rằng, sự phân biệt, kì thị với những người nhiễm HIV là thái độ sai lầm. Thái độ đó sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội. Vì thế, cần phải lên tiếng một cách thẳng thắn về căn bệnh thế kỉ này vì im lặng "đồng nghĩa với cái chết".
Có thể tham khảo gợi ý sau:
– Nêu vắn tắt sự lan tràn với tốc độ khủng khiếp của đại dịch AIDS trên phạm Vi toàn thế giới; chỉ rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là thái độ bàng quan hoặc xa lánh của cộng đồng đối với những người bị nhiễm bệnh; trích dẫn lời cảnh báo của Nguyên Tổng thư kí Liên hiệp quốc Cô-phi An-nan: "Trong thế giới khốc liệt của AIDS, không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới đó, im lặng ‘đồng nghĩa với cái chết".
– Giải thích ngắn gọn tư tưởng được nêu trong lời thông điệp:
+ Phê phán, phủ định sự phân biệt, kì thị với những người bị nhiễm HIV/AIDS. Có thể dựa vào các câu hỏi gợi ý sau: Trong thế giới khốc liệt của AIDS, không có khái niệm chúng ta và họ: Vì sao tác giả gọi đó là một thế giới khốc liệt? Khái niệm "chúng ta và họ" nghĩa là gì? Bằng cách nói này, Cô-phi An-nan muốn phủ định, phê phán thái độ sai lầm nào của cộng đồng xã hội? Chúng ta không thể tách biệt và quay lưng với những con người bất hạnh, những người rất cần sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần…
Xem thêm: Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh+ Chỉ ra hậu quả nặng nềcủa thái độ sai lầm đó: Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết: Im lặng nghĩa là gì? Vì sao thái độ đó lại đồng nghĩa với cái chết? Chính sự bàng quan và né tránh của cộng đồng đã làm tăng nguy cơ lây nhiễm căn bệnh chết người này trên phạm vi toàn thế giới.
– Bàn luận, mở rộng vấn đề:
+ Hiện tượng phân biệt "chúng ta" và "họ" là phổ biến trên thế giới. Những người nhiễm HIV thường bị cộng đồng dân cư nơi họ làm việc, sinh sống coi thường, xa lánh; những người chưa nhiễm bệnh coi HIV không phải là chuyện của mình…
+ Thái độ ấy đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng: người mắc bệnh không dám công khai nên nguy cơ lây nhiễm càng cao; người chưa mắc bệnh thiếu sự hiểu biết nên khôngbiết cách phòng tránh… Im lặng còn là sự dửng dưng, mất cảnh giác và thiếu tinh thần đấu tranh trước đại dịch AIDS. Trong khi đó, hiểm hoạ này có thể tấn công bất kì ai, vào bất kì lúc nào… Sự "im lặng" của "chúng ta" và "họ" đã tạo điều kiện thuận lợi cho căn bệnh thế kỉ gieo rắc cái chết khắp nơi và với một tốc độ kinh hoàng…
– Liên hệ bản thân:
+ Trên địa bàn cư trú của anh (chị), cộng đồng có thái độ như thế nào trước những người bị nhiễm HIV? Điều đó có ảnh hưởng như thế nào đối với việc phòng, chống căn bệnh này? Theo anh (chị) cần phải làm gì để thay đổi tình trạng đó?
+ Bản thân anh (chị) đã có những hành động cụ thể nào để góp phần vào cuộc chiến đấu chống lại hiểm hoạ HIV?
– Khẳng định sự đúng đắn và sâu sắc tronglời kêu gọi đầy tâm huyết của vị nguyên là Tổng thư kí Liên hiệp quốc. Mỗi chúng ta, đặc biệt là những người trẻ tuổi, cần phải tích cực góp phần vào việc thay đổi thái độ đối với những người nhiễm HIV. Bởi vì, đây là điều kiện có ý nghĩa quyết định đối với mục đích đẩy lùi đại dịch này…
Nguồn: thêm: Bên cạnh một Tú Xương quyết liệt dữ dội trong châm biếm, trào phúng, còn có một Tú Xương da diết và đằm thắm trong trữ tình. Bài thơ Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thứ hai. Anh (chị) hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ điều đó
|
In the brutal world of AIDS, there is no such thing as us and them. In that world, silence means death (Co-phi An-nan). What is your opinion on this issue?
Instruct
The focus of the essay is the concept and attitude of the community and society towards people living with HIV and your own thoughts on this issue. In particular, it should be emphasized that discrimination and discrimination against people infected with HIV is a wrong attitude. That attitude will lead to serious consequences for the entire society. Therefore, it is necessary to speak out frankly about this disease of the century because silence "means death".
You can refer to the following suggestions:
– Briefly state the terrible spread of the AIDS epidemic worldwide; points out that one of the causes leading to this situation is the community's indifferent or shunned attitude towards infected people; Quoting the warning of former United Nations Secretary-General Cofi Annan: "In the fierce world of AIDS, there is no concept of us and them. In that world, silence 'is synonymous with death. die".
– Briefly explain the ideas stated in the message:
+ Criticize and negate discrimination and discrimination against people infected with HIV/AIDS. You can rely on the following suggested questions: In the fierce world of AIDS, there is no concept of us and them: Why does the author call it a fierce world? What does the concept of "us and them" mean? By saying this, Co-phi An-nan wants to negate and criticize which wrong attitude of the social community? We cannot separate and turn our backs on unfortunate people who are in dire need of care, sharing, and help both physically and mentally...
See more: Ho Chi Minh's perspective on literary creation+ Pointing out the severe consequences of that wrong attitude: In that world, silence means death: What does silence mean? Why does that attitude mean death? It is the community's indifference and avoidance that has increased the risk of spreading this deadly disease worldwide.
– Discuss and expand the issue:
+ The phenomenon of distinguishing between "us" and "them" is common in the world. People infected with HIV are often despised and shunned by the communities where they work and live; People who are not infected consider HIV to be none of their business...
+ That attitude has led to serious consequences: people with the disease do not dare to disclose it publicly, so the risk of infection is higher; People who have not yet had the disease lack understanding so they don't know how to prevent it... Silence is also indifference, loss of vigilance and lack of fighting spirit in the face of the AIDS epidemic. Meanwhile, this threat can attack anyone, at any time... The "silence" of "us" and "them" has created favorable conditions for the disease of the century to spread death. everywhere and at a terrifying speed…
– Contact yourself:
+ In your area of residence, what is the community's attitude towards people infected with HIV? How does that affect the prevention and control of this disease? What do you think needs to be done to change that situation?
+ What specific actions have you personally taken to contribute to the fight against the threat of HIV?
– Affirming the correctness and profoundness of the passionate call of the former Secretary General of the United Nations. Each of us, especially young people, needs to actively contribute to changing attitudes towards people living with HIV. Because this is a decisive condition for the purpose of repelling this pandemic...
Source: more: Besides the fierce and fierce Tu Xuong in satire and satire, there is also a passionate and loving Tu Xuong in lyricism. The poem Love Your Wife is a poem that represents the second trend. Please analyze the poem to clarify that
|
Trong thế giới… Anh chị có thể làm gì để hưởng ứng lời kêu gọi ấy
Gợi ý
Đề bài:
Trong thế giới khốc liệt của AIDS không có khái niệm “chúng ta và họ”, “thế giới đó”, im lặng đồng nghĩa với cải chết. Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn (Cô phi An nan – Thông điệp phòng chống AIDS 1-12-2003). Anh chị có thể làm gì để hưởng ứng lời kêu gọi ấy?
Bài làm:
I. MỞ BÀI
Hiện nay, nhân loại hằng ngày, hằng giờ đang phải đương đầu với nạn dịch tràn qua mọi châu lục như một trận gió đen. Đó là nạn dịch HIV, bệnh dịch suy giảm miễn dịch, chưa có phương thức cứu chữa. HIV có thể quét sạch tất cả, không trừ một ai. Thậm chí đó là những đứa trẻ, mầm non của tương lai, là những chàng thanh niên khỏe đẹp có thể biến thiên nhiên thành điện thép cho con người hạnh phúc mai sau. Vì vậy, nhân ngày 1-12-2003, Tổng thư kí Liên hợp quốc đã đưa thông điệp khẩn thiết phòng chông AIDS: “Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/ AIDS bắt đầu từ chính các bạn”, ở một đoạn khác, ông viết tiếp: “Trong thế giới khóc liệt của AIDS không có khái niệm “chúng ta và họ”, “thế giới đó”, im lặng đồng nghĩa với cái chết”.
II. THÂN BÀI
1. HIV/AIDS là một thế giới khốc liệt, là thảm họa của loài người
a – Gần hai thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX và nay đã bước sang thập niên của thế kỉ XXI, mặc dù tất cả các nhà y học tài ba của thế giới đã vào cuộc để tìm ra một thứ thuốc hữu hiệu để chữa căn bệnh đồng nghĩa với tử thần. Đó là căn bệnh có cái tên gớm ghiếc HIV. Nhưng tất cả đang bó tay, chưa tìm được một thứ vácxin nào có thể phòng ngừa và tiêu diệt được thứ virut khủng khiếp ấy. Những thứ thuôc tốt nhất hiện có cũng chỉ có ý nghĩa giúp bệnh nhân có thể kéo dài sự sông và những biện pháp phòng ngừa cũng chỉ nhằm giảm bớt sự lây lan căn bệnh quái ác ấy từ người này sang người khác, không để nó trở thành đại dịch mang tính toàn cầu mà thôi.Xem thêm: Một lần em mơ gặp ông Bụt. Hãy kể lại cuộc gặp gỡ đób. – HIV dù chưa là một đại dịch nhưng cho đến nay nó đã lấy đi hàng triệu sinh mệnh. Nếu tính bình quân, chỉ tính đến năm 2007 thì cứ mỗi ngày trôi qua, thế giới có thêm mười tám nghìn người nhiễm HIV, nghĩa là cứ mỗi giờ thì có bảy trăm năm mươi người mắc vào thứ bệnh mà lưỡi hái tử thần đang kề tận cổ ấy. Tất nhiên cho đến giờ phút này, con số thông kê đang tăng lên một cách đáng sợ.
c.– Điều đáng buồn và đáng sợ hơn là hầu hết bệnh nhân đều là những người trẻ tuổi, cái tuổi của tương lai, cái tuổi đang trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần và là niềm hi vọng của mỗi gia đình. Giờ đây họ chẳng những không lao động được mà còn phải tập trung vào chữa bệnh. Kèm theo dó là bao người thân phải tập trung chăm lo cho những người bệnh ấy, chưa kể là bao nhiêu của cải phải lần lượt đội nón ra đi vì căn bệnh hiểm nghèo ấy. Thế là hậu quả biết bao người vợ mất chồng, người mẹ mất con. Có biết bao trại trẻ mồ côi làng SOS dành cho những đứa trẻ đã mang virut HIV/AIDS mọc lên như nấm. Các bạn hãy tưởng tượng, riêng khu vực châu Phi cận sa mạc Sahara với dân số một phần mười thế giới thì số người dương tính với HIV đã chiếm gần bảy tám phần trăm dân số’. Còn ở nước ta, con số nhiễm bệnh đã lên tới ba trăm nghìn người, số người đã chết lên tới con số hàng mấy chục ngàn người. Theo công bố của Bộ Y tế, cứ mười phút trôi qua, thì có thêm một người nhiễm phải căn bệnh hiểm nghèo đó.Xem thêm: Hãy kể lại một vài câu chuyện cười đã đọc ngoài chương trình mà anh (chị) cho là có ý nghĩa phê phán sâu sắc2. Không có khái niệm “chúng ta” và “họ”
а. – Không ai được phép coi đây là việc của người khác, chỉ liên quan đến “họ”, tức là những người nhiễm HIV, hay đang bước sang thời kì AIDS. Trước hết, với đạo lí làm người, không ai được quyền dửng dưng trước tai họa của nhân loại. Vì như Mác đã nói: “Đã là con người thì không ai được phép quay lưng với nỗi đau khổ của đồng loại”. HIV đang tác động xấu đôi với đời sông của loài người. Mỗi năm thê’ giới chúng ta bỏ ra hàng chục, thậm chí là hàng trăm tỉ đô la để chữa trị và ngăn ngừa căn bệnh hiểm nghèo ấy. Số tiền đó đáng lẽ có thể dùng để sản xuất ra của cải, lương thực, phòng ngừa thiên tai, xóa đói giảm nghèo cho những nước còn chậm phát triển.
b. – Căn bệnh quái ác nói trên có nhiều đường lây lan như truyền máu không an toàn, lây từ mẹ sang con, đời sông tình dục không lành mạnh, thiếu ý thức. Nếu xem căn bệnh này chỉ là của ai đó, không liên quan đến mình, không có những biện pháp phòng ngừa triệt để thì thần chết vẫn có thể đến gõ cửa mỗi chúng ta và từng nhà.
3. Phải lên tiếng, phải hành động
a. – Mỗi người phải làm gì? Trước hết phải lên tiếng: phải cảnh báo với mọi người về nguy cơ lây nhiễm căn bệnh quái ác này để mọi người tích cực phòng tránh. Phải có cái nhìn đúng đắn và thái độ đôì xử đúng với những người nhiễm HIV. Phải coi họ như những người không may bị nhiễm căn bệnh mà đến nay y học đang bất lực.Xem thêm: Viết đoạn văn ngắn tự giới thiệu về bản thânb. – Từ những con đường lây nhiễm được xác định, người ta có thể gần gũi, không được coi họ như những người bỏ đi. Không được mặc cảm, định kiến, phải biết yêu thương, giúp đỡ họ tạo dựng được niềm tin và nghị lực để sông khỏe, sống vui. Bởi một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Bởi tình thương nói như Nam Cao là tiêu chuẩn cao nhất để xác định tư cách làm người. Không có tình thương, con người chỉ là một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỉ. Một lời động viên, an ủi đốì với những người nhiễm HIV sẽ tích thêm năng lượng để họ sông mạnh mẽ, lạc quan hơn.
III. KẾT LUẬN
Không được tự chia ra hai thế giới “chúng ta và họ”. Trong thế giới đó, “im lặng đồng nghĩa với cái chết”. Hãy sát cánh bên nhau, bàn tay ấm nóng tình thương, tay trong tay, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi và tiêu diệt căn bệnh quái ác, khủng khiếp này để loài người không phải sông trong nước mắt mà trong nụ cười tươi vui thân thiện và hạnh phúc.
Vanmau.edu.vn
|
In the world... What can you do to respond to that call?
Suggest
Topic:
In the fierce world of AIDS, there is no concept of "us and them", "that world", silence means death. Please stand with me, because the fight against HIV/AIDS starts with you (Co Phi An Nan - AIDS Prevention Message, December 1, 2003). What can you do to respond to that call?
Assignment:
I. OPEN LESSON
Currently, humanity is having to cope every day, every hour with an epidemic that is spreading across every continent like a black wind. That is the HIV epidemic, the immunodeficiency epidemic, for which there is no cure. HIV can wipe out everyone, without exception. They are even children, preschoolers of the future, healthy and beautiful young men who can turn nature into steel and electricity for future happiness. Therefore, on December 1, 2003, the Secretary General of the United Nations sent an urgent message to prevent AIDS: "Stand with me, because the fight against HIV/AIDS starts with you." , in another paragraph, he continued: "In the crying world of AIDS there is no concept of 'us and them', 'that world', silence means death."
II. BODY OF ARTICLE
1. HIV/AIDS is a fierce world, a disaster for humanity
a – Nearly the last two decades of the twentieth century and now entering the decade of the twenty-first century, although all the world's talented medical scientists have stepped in to find an effective medicine to treat The disease is synonymous with death. It is a disease with the hideous name HIV. But everyone is at a loss, and have not found a vaccine that can prevent and destroy that terrible virus. The best available medicines are only meant to help the patient prolong his life, and preventive measures are only meant to reduce the spread of that evil disease from one person to another, not allowing it to spread. became a global pandemic. See more: One time I dreamed of meeting Mr. Buddha. Tell me about that meeting. – Although HIV is not yet a pandemic, it has so far claimed millions of lives. If calculated on average, only up to 2007, every day that passes, the world has an additional eighteen thousand people infected with HIV, meaning that every hour, seven hundred and fifty people are infected with the disease that the death scythe is causing. next to that neck. Of course up to this moment, the statistics are increasing terrifyingly.
c.– What is sadder and scarier is that most of the patients are young people, the age of the future, the age that directly produces material and spiritual wealth and is the hope of every person. family. Now not only are they unable to work, but they also have to focus on treatment. Along with that, many relatives have to focus on taking care of those sick people, not to mention how much wealth has to be sacrificed one by one because of that dangerous disease. As a result, many wives lost their husbands and mothers lost their children. There are countless SOS village orphanages for children who have carried the HIV/AIDS virus that have sprung up like mushrooms. Just imagine, in sub-Saharan Africa alone, with one-tenth of the world's population, the number of HIV-positive people accounts for nearly seven or eight percent of the population. In our country, the number of infected people has reached three hundred thousand, the number of deaths has reached tens of thousands. According to the announcement of the Ministry of Health, every ten minutes that pass, one more person is infected with that dangerous disease. See more: Please retell a few jokes you read outside the program that you think are funny. has profound critical meaning2. There is no concept of “us” and “them”.
а. – No one is allowed to consider this as someone else's business, only related to "them", that is, people infected with HIV, or entering the AIDS period. First of all, with human morality, no one has the right to be indifferent to the disasters of humanity. Because as Marx said: "As a human being, no one is allowed to turn their back on the suffering of their fellow human beings." HIV is having a negative impact on human life. Every year our world spends tens, even hundreds of billions of dollars to treat and prevent this dangerous disease. That money could have been used to produce wealth, food, prevent natural disasters, and alleviate poverty in underdeveloped countries.
b. – The above mentioned evil disease has many ways of spreading such as unsafe blood transfusion, transmission from mother to child, unhealthy sex life, lack of awareness. If you view this disease as just someone else's, unrelated to you, and without thorough preventive measures, death can still come knocking on each of us's doors and every home.
3. Must speak up, must take action
a. – What must each person do? First of all, we must speak up: we must warn everyone about the risk of infection with this evil disease so that everyone can actively prevent it. We must have the right view and the right attitude towards people living with HIV. They must be considered as unfortunate people infected with a disease that medical science is currently unable to do. See more: Write a short paragraph introducing yourself b. – From the identified routes of infection, people can be close, not consider them as abandoned people. We must not feel guilty or prejudiced, we must know how to love and help them build trust and strength to live healthy and happy lives. Because a smile is equal to ten doses of tonic. Because love, as Nam Cao said, is the highest standard to determine human status. Without love, man is just an animal dictated by selfishness. A word of encouragement and comfort to people infected with HIV will add more energy to help them live stronger and more optimistic.
III. CONCLUDE
Don't divide yourself into two worlds: "us and them". In that world, "silence means death". Let's stand together, hands warm with love, hand in hand, let's together repel and destroy this evil and terrible disease so that humanity will not live in tears but in joyful smiles. friendly and happy.
Vanmau.edu.vn
|
Trong truyện cổ tích Việt Nam, em thích nhân vật nào nhất? Phát hiểu cảm nghĩ của em về nhân vật đó
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
1. TÌM HIỂU ĐỀ:
– Đây là kiểu bài phát biểu cảm nghĩ về một nhân vật văn hóa. Tuy nhiên đề bài không chỉ rõ là phát biểu cảm nghĩ về nhân vật nào, trong tác phẩm nào. Cho nên, cũng có thể xem đề bài này thuộc kiểu tự do, dành quyền tự do cho người viết tự chọn lựa nhân vật mà mình yêu thích trong một truyện cổ tích nào đó.
– Trước hết, người làm bài cần phải xác định rõ nhân vật mà mình yêu thích. Phải chú ý là nhân vật trong truyện cổ tích chứ không phải là một thể loại khác.
– Ở đây, giả thiết người viết lựa chọn nhân vật Mai An Tiêm trong truyện cổ tích Sự tích dưa hấu.
Trên cơ sở tìm hiểu kỹ tác phẩm và nhân vật, người viết cần phải nêu được cảm nghĩ chân thực và sâu sắc của mình qua cuộc đời của nhân vật Mai An Tiêm, người viết có thể rút ra bài học cho mình.
2. DÀN BÀI SƠ LƯỢC:
a) Mở bài
– Giới thiệu nhân vật yêu thích nhất trong truyện cổ tích
+ Nêu cảm nghĩ chung về nhân vật.
b) Thân bài:
– Quý trọng những phẩm chất và nhân cách cao quý của Mai An Tiêm.
+ Mai An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người.
+ Mai An Tiêm có lòng tự trọng
– Khâm phục tinh thần vượt qua những khó khăn gian khổ của Mai An Tiêm.
+ Hoàn cảnh sống trên đảo rất khó khăn, thiếu thốn
+ Mai An Tiêm đã khắc phục được những khó khăn.
– Trân trọng và biết ơn công lao của Mai An Tiêm tìm ra giống dưa quý.
c) Kết luận
Khẳng định một lần nữa cảm nghĩ chung về nhân vật Mai An Tiêm.
4. DÀN BÀI CHI TIẾT:
a) Mở bài
– Giới thiệu nhân vật Mai An Tiêm, nhân vật mình yêu thích nhất trong truyện cố tích Sự tích dưa hấu.
– Nêu cảm nghĩ chung về nhân vật Mai An Tiêm: quý trọng những phẩm chất và tính cách cao quý, đồng thời trân trọng và biết ơn công lao của Mai An Tiêm tìm ra giống dưa quý.Xem thêm: Phân tích truyện Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoàib) Thân bài
– Quý trọng những phẩm chất và nhân cách của Mai An Tiêm.
+ Mai An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người.
+ Mai An Tiêm có lòng tự trọng.
. Thói thường, các quan được một chút bổng lộc của vua thì nâng niu ca tụng.
. Mai An Tiêm xem thường các thứ ấy và thường nói: “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”.
– Khâm phục tinh thần vượt qua những khó khăn, gian khổ của Mai An Tiêm.
+ An Tiêm cùng gia đình sống ngoài đảo trong hoàn cảnh rất khó khăn thiếu thốn.
. Chỉ có chiếc gươm cùn để hộ thân.
. Chỉ có năm ngày lương, một chiếc nồi. Phải hái quả, ăn rau dại, mò cua, bắt hến để ăn.
. Không có nhà cửa, phải sống trong hốc đá.
+ Trong điều kiện sống vô cùng gian khổ đó, Mai An Tiêm đã bộc lộ những tính chất đáng quý.
. Biết tổ chứa cuộc sống cho gia đình.
. Tin ở sức mình, dùng tài trí cùng gia đình khắc phục khó khăn.
– Trân trọng và biết ơn công lao của Mai An Tiêm.
+ Mai An Tiêm đã trồng được giống dưa quý
+ Mai An Tiêm đã tìm cách liên hệ với đất liền.
+ Mai An Tiêm được vua cho thuyền ra đón về.
c) Kết bài:
– Nhấn mạnh một lần nữa cảm nghĩ chung về Mai An Tiêm: Khâm phục và quý trọng một con người có tài trí, có nhân cách, biết vượt lên mọi khó khăn thiếu thôn, tự mình tạo lập ra cuộc sống của mình.
– Rút ra bài học thấm thía cho bản thân: phải biết tự lập, chủ động xây dựng cuộc sống của mình.
4. GỢI Ý LÀM BÀI:
a) Mở bài:
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều truyện cổ tích hay. Em rất thích truyện Sự tích dưa hấu, trong đó, nhân vật Mai An Tiêm đã để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc. Nhân vật Mai An Tiêm, với những phẩm chất và tính cách cao quý, đặc biệt là công lao đem về cho đất nước một giống dưa quý, đã thực sự chiếm được tình cảm trân trọng và biết ơn của người đọc.Xem thêm: Cảm nghĩ câu nói “Đèn nhà ai nấy rạng”- văn lớp 7b) Thân bài:
Đọc Sự tích dưa hấu, ai cũng thấy quý trọng nhân vật Mai An Tiêm. Người con nuôi thứ mười bảy của Hùng Vương này có tài tháo vát và có trí hơn người. Chính vì thế mà An Tiêm được yêu mến và thường được vua ban cho của ngon vật quý.
Người đọc quý trọng An Tiêm không chi vì An Tiêm có tài mà còn vì ông là người có nhân cách, có lòng tự trọng, có ý thức tự lập, tự mình làm ra của cải để nuôi sống mình. An Tiêm không muốn sống ỷ lại vào người khác, không muốn nhận ơn huệ cua người khác, dẫu đó là ơn huệ của nhà vua. Thói thường, các quan được một chút lộc của vua thi nâng niu ca tụng. Trái lại. An Tiêm xem thường những thứ ấy và thường bảo: "Của biếu là cùa lo, của cho là của nợ”. Đó là một thái độ đúng, thể hiện nhân cách cao quý của một con người biết tự trọng.
Lời nói của An Tiêm đến tai nhà vua. Vua tức giận và ra lệnh đày An Tiêm và gia đình ra một hòn đảo nhỏ. Giữa hòn đảo hoang nơi biển khơi, An Tiêm chi có một chiếc gươm cùn để hộ thân. Không có nhà cửa, cả gia đình phải sống trong một cái hốc đá. Chỉ có năm ngày lương thực cùng với chiếc nồi, gia đình An Tiêm phải sống bằng rau quả, con ngao con hến và chim trời do chính mình vất và tìm kiếm và săn bắn được. Chứng kiến cảnh sống gian khổ của gia đình An Tiêm giữa một hòn đảo hoang vu, ai cũng khâm phục tinh thần khắc phục những khó khăn, gian khổ cùa An Tiêm cùng gia đình. Những phẩm chất tốt đẹp đó của An Tiêm thật đáng trân trọng.
Đọc Sự tích dưa hấu, người đọc chăm chú theo dõi quá trình tìm được giống dưa quý của An Tiêm. Khi thấy con chim ăn một mảnh dưa lạ, An Tiêm thầm nghĩ: chim ăn được có lẽ người cũng ăn được. An Tiêm lấy gươm xới đất và gieo hạt dưa. Ít ngày sau thấy dưa mọc mầm, đâm lá. Nàng Ba cũng giúp An Tiêm sớm chiều chăm sóc mấy dây dưa lạ. Người đọc cùng hồi hộp với vợ chồng An Tiêm khi hai người trông thấy “Mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi còn ra hoa, kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít ngày sau đã như con chuột, rồi con lợn con”. Trong lòng mỗi người dọc chúng ta, ai cũng hân hoan khi thấy cả nhà An Tiêm mừng rờ, bồng bế nhau ra bãi “trẩy" dưa. An Tiêm và gia đình đã đổ biết bao mồ hôi và nước mắt để cho giống dưa mới lạ, “càng ngày càng sai, quá to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt".Xem thêm: Những thói xấu ban đầu chỉ là người khách qua đường; sau đó thành người bạn ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính An Tiêm vẫn không hết hi vọng được trở về đất liền. Cứ mỗi lần trẩy dưa, An Tiêm lại lấy mấy quả đánh dấu và thả ra biển. Sau biết bao lần trăng tròn lại trăng già, quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến đảo xin giống dưa quý. An Tiêm đã đổi được thức ăn và cất được chiếc nhà xinh xinh.
Nhà vua khi được ăn dưa quý, biết là An Tiên còn sống, ngẫm nghĩ thấy mình sai, đã cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm về đất liền. Việc An Tiêm tim ra được giống dưa quý cũng như việc ông được về sống ở đất liền đâu phải tự nhiên mà có. Hiểu rõ những ngày gian khổ, công lao vất vả cùa An Tiêm góp cho đất nước một sản vật quý hiếm, người đọc ai cũng trân trọng và biết ơn ông.
c) Kết bài:
Truyện cổ tích nhầm giải thích nguồn gốc dưa hấu này đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về nhân vật Mai An Tiêm. Người đọc khâm phục và quý trọng ông, một con người vừa có tài trí, có nhân cách, vừa biết làm chủ hoàn cảnh, vượt lên mọi khó khăn gian khổ, tự mình tạo ra cuộc sống của mình.
Từ cuộc đời của nhân vật Mai An Tiêm, người đọc có thể rút ra những bài học thấm thía cho bản thân: Không bao giờ được ỷ lại vào người khác, phải chủ động xây dựng cuộc sống cho bản thân mình.
Vanmau.edu.vn
|
Trong truyện cổ tích Việt Nam, em thích nhân vật nào nhất? Phát hiểu cảm nghĩ của em về nhân vật đó
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
1. TÌM HIỂU ĐỀ:
– Đây là kiểu bài phát biểu cảm nghĩ về một nhân vật văn hóa. Tuy nhiên đề bài không chỉ rõ là phát biểu cảm nghĩ về nhân vật nào, trong tác phẩm nào. Cho nên, cũng có thể xem đề bài này thuộc kiểu tự do, dành quyền tự do cho người viết tự chọn lựa nhân vật mà mình yêu thích trong một truyện cổ tích nào đó.
– Trước hết, người làm bài cần phải xác định rõ nhân vật mà mình yêu thích. Phải chú ý là nhân vật trong truyện cổ tích chứ không phải là một thể loại khác.
– Ở đây, giả thiết người viết lựa chọn nhân vật Mai An Tiêm trong truyện cổ tích Sự tích dưa hấu.
Trên cơ sở tìm hiểu kỹ tác phẩm và nhân vật, người viết cần phải nêu được cảm nghĩ chân thực và sâu sắc của mình qua cuộc đời của nhân vật Mai An Tiêm, người viết có thể rút ra bài học cho mình.
2. DÀN BÀI SƠ LƯỢC:
a) Mở bài
– Giới thiệu nhân vật yêu thích nhất trong truyện cổ tích
+ Nêu cảm nghĩ chung về nhân vật.
b) Thân bài:
– Quý trọng những phẩm chất và nhân cách cao quý của Mai An Tiêm.
+ Mai An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người.
+ Mai An Tiêm có lòng tự trọng
– Khâm phục tinh thần vượt qua những khó khăn gian khổ của Mai An Tiêm.
+ Hoàn cảnh sống trên đảo rất khó khăn, thiếu thốn
+ Mai An Tiêm đã khắc phục được những khó khăn.
– Trân trọng và biết ơn công lao của Mai An Tiêm tìm ra giống dưa quý.
c) Kết luận
Khẳng định một lần nữa cảm nghĩ chung về nhân vật Mai An Tiêm.
4. DÀN BÀI CHI TIẾT:
a) Mở bài
– Giới thiệu nhân vật Mai An Tiêm, nhân vật mình yêu thích nhất trong truyện cố tích Sự tích dưa hấu.
– Nêu cảm nghĩ chung về nhân vật Mai An Tiêm: quý trọng những phẩm chất và tính cách cao quý, đồng thời trân trọng và biết ơn công lao của Mai An Tiêm tìm ra giống dưa quý.Xem thêm: Phân tích truyện Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoàib) Thân bài
– Quý trọng những phẩm chất và nhân cách của Mai An Tiêm.
+ Mai An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người.
+ Mai An Tiêm có lòng tự trọng.
. Thói thường, các quan được một chút bổng lộc của vua thì nâng niu ca tụng.
. Mai An Tiêm xem thường các thứ ấy và thường nói: “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”.
– Khâm phục tinh thần vượt qua những khó khăn, gian khổ của Mai An Tiêm.
+ An Tiêm cùng gia đình sống ngoài đảo trong hoàn cảnh rất khó khăn thiếu thốn.
. Chỉ có chiếc gươm cùn để hộ thân.
. Chỉ có năm ngày lương, một chiếc nồi. Phải hái quả, ăn rau dại, mò cua, bắt hến để ăn.
. Không có nhà cửa, phải sống trong hốc đá.
+ Trong điều kiện sống vô cùng gian khổ đó, Mai An Tiêm đã bộc lộ những tính chất đáng quý.
. Biết tổ chứa cuộc sống cho gia đình.
. Tin ở sức mình, dùng tài trí cùng gia đình khắc phục khó khăn.
– Trân trọng và biết ơn công lao của Mai An Tiêm.
+ Mai An Tiêm đã trồng được giống dưa quý
+ Mai An Tiêm đã tìm cách liên hệ với đất liền.
+ Mai An Tiêm được vua cho thuyền ra đón về.
c) Kết bài:
– Nhấn mạnh một lần nữa cảm nghĩ chung về Mai An Tiêm: Khâm phục và quý trọng một con người có tài trí, có nhân cách, biết vượt lên mọi khó khăn thiếu thôn, tự mình tạo lập ra cuộc sống của mình.
– Rút ra bài học thấm thía cho bản thân: phải biết tự lập, chủ động xây dựng cuộc sống của mình.
4. GỢI Ý LÀM BÀI:
a) Mở bài:
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều truyện cổ tích hay. Em rất thích truyện Sự tích dưa hấu, trong đó, nhân vật Mai An Tiêm đã để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc. Nhân vật Mai An Tiêm, với những phẩm chất và tính cách cao quý, đặc biệt là công lao đem về cho đất nước một giống dưa quý, đã thực sự chiếm được tình cảm trân trọng và biết ơn của người đọc.Xem thêm: Cảm nghĩ câu nói “Đèn nhà ai nấy rạng”- văn lớp 7b) Thân bài:
Đọc Sự tích dưa hấu, ai cũng thấy quý trọng nhân vật Mai An Tiêm. Người con nuôi thứ mười bảy của Hùng Vương này có tài tháo vát và có trí hơn người. Chính vì thế mà An Tiêm được yêu mến và thường được vua ban cho của ngon vật quý.
Người đọc quý trọng An Tiêm không chi vì An Tiêm có tài mà còn vì ông là người có nhân cách, có lòng tự trọng, có ý thức tự lập, tự mình làm ra của cải để nuôi sống mình. An Tiêm không muốn sống ỷ lại vào người khác, không muốn nhận ơn huệ cua người khác, dẫu đó là ơn huệ của nhà vua. Thói thường, các quan được một chút lộc của vua thi nâng niu ca tụng. Trái lại. An Tiêm xem thường những thứ ấy và thường bảo: "Của biếu là cùa lo, của cho là của nợ”. Đó là một thái độ đúng, thể hiện nhân cách cao quý của một con người biết tự trọng.
Lời nói của An Tiêm đến tai nhà vua. Vua tức giận và ra lệnh đày An Tiêm và gia đình ra một hòn đảo nhỏ. Giữa hòn đảo hoang nơi biển khơi, An Tiêm chi có một chiếc gươm cùn để hộ thân. Không có nhà cửa, cả gia đình phải sống trong một cái hốc đá. Chỉ có năm ngày lương thực cùng với chiếc nồi, gia đình An Tiêm phải sống bằng rau quả, con ngao con hến và chim trời do chính mình vất và tìm kiếm và săn bắn được. Chứng kiến cảnh sống gian khổ của gia đình An Tiêm giữa một hòn đảo hoang vu, ai cũng khâm phục tinh thần khắc phục những khó khăn, gian khổ cùa An Tiêm cùng gia đình. Những phẩm chất tốt đẹp đó của An Tiêm thật đáng trân trọng.
Đọc Sự tích dưa hấu, người đọc chăm chú theo dõi quá trình tìm được giống dưa quý của An Tiêm. Khi thấy con chim ăn một mảnh dưa lạ, An Tiêm thầm nghĩ: chim ăn được có lẽ người cũng ăn được. An Tiêm lấy gươm xới đất và gieo hạt dưa. Ít ngày sau thấy dưa mọc mầm, đâm lá. Nàng Ba cũng giúp An Tiêm sớm chiều chăm sóc mấy dây dưa lạ. Người đọc cùng hồi hộp với vợ chồng An Tiêm khi hai người trông thấy “Mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi còn ra hoa, kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít ngày sau đã như con chuột, rồi con lợn con”. Trong lòng mỗi người dọc chúng ta, ai cũng hân hoan khi thấy cả nhà An Tiêm mừng rờ, bồng bế nhau ra bãi “trẩy" dưa. An Tiêm và gia đình đã đổ biết bao mồ hôi và nước mắt để cho giống dưa mới lạ, “càng ngày càng sai, quá to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt".Xem thêm: Những thói xấu ban đầu chỉ là người khách qua đường; sau đó thành người bạn ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính An Tiêm vẫn không hết hi vọng được trở về đất liền. Cứ mỗi lần trẩy dưa, An Tiêm lại lấy mấy quả đánh dấu và thả ra biển. Sau biết bao lần trăng tròn lại trăng già, quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến đảo xin giống dưa quý. An Tiêm đã đổi được thức ăn và cất được chiếc nhà xinh xinh.
Nhà vua khi được ăn dưa quý, biết là An Tiên còn sống, ngẫm nghĩ thấy mình sai, đã cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm về đất liền. Việc An Tiêm tim ra được giống dưa quý cũng như việc ông được về sống ở đất liền đâu phải tự nhiên mà có. Hiểu rõ những ngày gian khổ, công lao vất vả cùa An Tiêm góp cho đất nước một sản vật quý hiếm, người đọc ai cũng trân trọng và biết ơn ông.
c) Kết bài:
Truyện cổ tích nhầm giải thích nguồn gốc dưa hấu này đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về nhân vật Mai An Tiêm. Người đọc khâm phục và quý trọng ông, một con người vừa có tài trí, có nhân cách, vừa biết làm chủ hoàn cảnh, vượt lên mọi khó khăn gian khổ, tự mình tạo ra cuộc sống của mình.
Từ cuộc đời của nhân vật Mai An Tiêm, người đọc có thể rút ra những bài học thấm thía cho bản thân: Không bao giờ được ỷ lại vào người khác, phải chủ động xây dựng cuộc sống cho bản thân mình.
Vanmau.edu.vn
|
Trong truyện ngắn “Cuộc chia tay của những con búp bê” (Khánh Hoài), hãy chứng minh rằng hai anh em Thành, Thuỷ rất mực gần gũi, thương yêu, chia sẻ và luôn quan tâm đến nhau
Gợi ý
“Cuộc chia tay của những con búp bê” của tác giả Khánh Hoài, truyện ngắn đặc sắc kêu gọi tình thương của xã hội đốì với những số phận tuổi thơ bất hạnh đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc. Nhân vật chính trong tác phẩm, hai anh em Thành và Thủy, đều yêu thương và quan tâm đến nhau rất mực nhưng quyết định phũ phàng của bố mẹ khiến hai em phải rời xa nhau. Tình cảm anh em của hai nhân vật khiến độc giả không khỏi đau xót.
Vì bố mẹ chia tay nhau, hai anh em Thành và Thuỷ cũng phải mỗi người một ngả: Thuỷ về quê với mẹ còn Thành ở lại với bố. Hai anh em nhường đồ chơi cho nhau, Thuỷ đau đớn chia tay thầy cô, khi chia tay còn quyến luyến anh không muốn rời,… Những cuộc chia tay gợi lên trong bạn đọc những xúc cảm mạnh mẽ cùng nỗi xót thương cho cảnh ngộ mà lẽ ra những người bạn nho không phải gánh chịu. Tình cảm mà hai anh em dành cho nhau càng khiến ta thấy ngậm ngùi, đau xót.
Sống trong gia đình tuy bồ’ mẹ không còn yêu thương nhau nhưng hai em Thành và Thủy lại biết quan tâm đến nhau rất mực. Khi Thành đi đá bóng bị rách áo không dám về nhà. Thuỷ thương anh mang kim ra tận sân vận động để vá áo cho anh. Đến lượt Thành, trước sự quan tâm của cô em gái ngoan ngoãn, cậu cảm động vô cùng và từ đó thường giúp em mình học. Sáng Thành đưa em đến lớp rồi chiều chiều lại đón em về.Xem thêm: “Cuộc đời mất đi tình bạn, thế giới mất đi mặt trời” (Cicero) Ngày chia tay, khi người mẹ nhắc nhở hai đứa con chia đồ chơi, với Thủy, em coi ảnh trai mình như điểm tựa duy nhất “run lên bần bật, kinh hoàng đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn tôi (anh trai mình)”. Suốt đêm qua, Thành cũng lắng nghe từng tiếng khóc “nức nở, tức tưởi” của em mà lòng đau xót, “cắn chặt môi để khỏi bật lên tiếng khóc to nhưng nước mắt cứ tuôn ra như suối”. Trong cuộc chia tay đau đớn này, hai anh em luôn hướng về nhau để sẻ chia nỗi lòng.
Tình yêu thương cảm động của hai nhân vật này được thể hiện rõ nhất qua việc chia búp bê. Hai con búp bê Em Nhỏ và Vệ Sĩ vốn là đồ chơi chung của hai anh em, được hai anh em rất yêu thích. Lúc chia đồ chơi, Thành nhường em hết: “Anh cho em tất”. Thủy buồn bã: “Em để hết lại cho anh”. Với trẻ nhỏ, đồ chơi là những thứ các em rất thích, thậm chí còn thích hơn cả quà bánh. Nhưng ở đây, hai anh em nhường nhau tất cả, không nhận cho mình dù chỉ một món đồ vật nào. Sự vị tha cảm động ấy chỉ có thể có ở tình anh em thắm thiết, cảm động. Bị mẹ bắt chia đôi đồ chơi, Thành caỵ đắng tách hai con búp bê. Thủy vừa giận dữ trách anh chia rẽ hai người “bạn” nhỏ vừa lo sợ anh không có con Vệ Sĩ canh giấc ngủ…. Ngay giờ phút chia tay anh để đi đến một nơi xa xôi, một nơi mà cô bé cũng không thể lo được cho số phận của mình, phải bỏ học đi bán hàng, Thủy vẫn thương, vẫn lo cho anh trai yêu quý của mình. Trước những giọt nước mắt của cô em gái, Thành chỉ còn biết lấy khăn cho em lau mặt, đưa em đến trường chào cô giáo và bạn bè. Hai đứa trẻ đi trên đường nắm sát tay nhau chỉ- sợ một trong hai người vuột mất…Xem thêm: Bi kịch của người phụ nữ qua đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du. (Yêu cầu viết bài văn) Câu chuyện kết lại bằng những chi tiết vô cùng cảm động: Thủy để lại con búp bê, bắt anh trai hứa “không bao giờ để chúng nó ngồi cách xa nhau”; Thành mếu máo hứa với em và đứng như chôn chân xuống đất nhìn theo bóng cô em gái bé nhỏ liêu xiêu. Trong hành động của hai anh em khi ấy hàm chứa một mong ước lớn lao: hai anh em luôn được ở bên nhau để cùng chia sẻ cuộc sống.
Tình yêu thương mà hai anh em Thành và Thủy dành cho nhau thật lớn lao, sâu sắc và thiêng liêng. Tình cảm ấy của hai em cùng hoàn cảnh bất hạnh mà hai em gặp phải là lời thức tỉnh những người làm cha, làm mẹ phải biết giữ gìn hạnh phúc gia đình và vun đắp những tình cảm hồn nhiên trong sáng của tuổi thơ.
Vanmau.edu.vn
|
In the short story "The Dolls' Farewell" (Khanh Hoai), prove that the two brothers Thanh and Thuy are very close, love, share and always care for each other.
Suggest
"The Dolls' Farewell" by author Khanh Hoai, a unique short story calling for society's love for unfortunate childhood fates, has left readers with many emotions. The main characters in the work, brothers Thanh and Thuy, both love and care for each other very much, but their parents' cruel decision causes them to separate. The brotherly love between the two characters makes readers feel sad.
Because their parents broke up, the two brothers Thanh and Thuy had to go their separate ways: Thuy returned home with her mother and Thanh stayed with his father. The two brothers gave each other their toys, Thuy painfully said goodbye to her teacher. When they broke up, she was still attached to him and didn't want to leave,... The breakup evokes strong emotions in readers and sadness for their plight. which our grape friends should not have to suffer. The love that the two brothers have for each other makes us feel even more sad and painful.
Living in a family where both parents no longer love each other, Thanh and Thuy know how to care for each other very much. When Thanh went to play soccer, his shirt was torn and he didn't dare go home. Thuy took a needle to the stadium to mend his shirt. Thanh, in turn, was deeply moved by his obedient sister's concern and from then on often helped his sister study. Thanh took her to class in the morning and picked her up in the afternoon. See more: "Life has lost friendship, the world has lost sun" (Cicero) On the day of farewell, when the mother reminded her two children to divide their toys , for Thuy, she considered her brother's photo as her only support, "trembling, terrified, looking at me (her brother) with desperate eyes". All night long, Thanh also listened to each of her "sobbing, angry" cries with pain, "biting his lips to keep from crying out loud, but the tears kept flowing like a stream." During this painful breakup, the two brothers always turned to each other to share their hearts.
The touching love of these two characters is most clearly shown through the sharing of dolls. The two dolls Little Sister and Bodyguard were originally shared toys between the two brothers and were loved by the two brothers very much. When dividing the toys, Thanh gave them all to him: "I give you everything." Thuy said sadly: "I leave everything to you." For young children, toys are things they like very much, even more than gifts. But here, the two brothers gave each other everything, not accepting even a single item for themselves. That touching altruism can only exist in passionate, touching brotherhood. Being forced by his mother to divide the toys in half, Thanh bitterly separated the two dolls. Thuy angrily blamed him for separating the two little "friends" and worried that he didn't have a bodyguard to watch his sleep... Right at the moment of saying goodbye to him to go to a far away place, a place where she could not take care of her own fate and had to drop out of school to work as a seller, Thuy still loved and worried about her beloved brother. . Faced with his younger sister's tears, Thanh could only help her wipe her face with a towel and take her to school to greet her teacher and friends. Two children walking on the street holding each other's hands - afraid that one of them will slip away...See more: A woman's tragedy through the excerpt "Giving love" by Nguyen Du. (Required to write an essay) The story ends with extremely touching details: Thuy left the doll behind, making her brother promise to "never let them sit apart"; Thanh smiled and promised her sister and stood rooted to the ground, looking at the shadow of her distraught little sister. The actions of the two brothers at that time contained a great wish: the two brothers could always be together to share life.
The love that brothers Thanh and Thuy have for each other is great, deep and sacred. That feeling of the two children and the unfortunate situation they encountered is a wake-up call for fathers and mothers to know how to preserve family happiness and cultivate the innocent and pure feelings of childhood.
Vanmau.edu.vn
|
Trong truyện ngụ ngôn Treo biển em có suy nghĩ gì về lời góp ý của những người qua đường. Em rút ra bài học gì từ câu chuyện này
Gợi ý
Tiếng cười trong câu chuyện Treo hiển bất chợt vỡ òa khi người đọc đọc đến chi tiết người chủ cửa hàng cất nốt chữ “Cá". Vậy thực chất những lời góp ý về nội dung tấm biển là gì?
Trước hết, ta cần thấy rằng, nội dung tấm biển nhà hàng đã treo ban đầu “ở đây có bán cá tươi” bao gồm bốn yếu tố cơ bản: “Ở đây” – chỉ địa điểm bán hàng; “có bán” – chỉ hoạt động kinh doanh của nhà hàng; “cá” – chỉ mặt hàng đang kinh doanh; “tươi” – chỉ chất lượng, chủng loại mặt hàng, phân biệt với chủng loại khác (cá khô chẳng hạn). Như vậy, tuy nội dung tấm biển hơi dài nhưng khá đầy đủ và hoàn toàn có thể sử dụng được!
Nhưng rồi cũng lần lượt có bốn người góp ý về tấm biển.
Người thứ nhất bình phẩm chữ “tươi”. Nhà này xưa nav quen bán cá ươn. Ý kiến này không thỏa đáng bởi như trên đã phân tích, chữ tươi ở đây ngoài ý nghĩa chỉ phẩm chất (tươi) còn có ý nghĩa chỉ chủng loại (không phải cá khô). Hơn thế, chữ “tươi” còn nhằm khẳng định chất lượng của mặt hàng (không phải ươn) nên làm tăng sức hấp dẫn của mặt hàng là cá. Bởi thế, chữ tươi là cần thiết.Xem thêm: Hãy kể lại một lần em làm việc tốt Người thứ hai bình phẩm hai chữ “Ở đây”: Chẳng lẽ ra hàng hoa mua cá. Ý kiến này thoạt nghe có vẻ có lí. Tuy nhiên, trong “nghệ thuật quảng cáo”, hai chữ “ở đây” không thừa. Chúng có ý nghĩa tác động, tạo sự chú ý cho khách hàng. Chẳng hạn: A! Đây rồi! Đồ dùng học tập mình cần!
Người thứ ba thì bàn về hai chữ “có bán”. Có ý kiến cho rằng ý kiến này đúng một nửa (để chữ bán, bỏ chữ có). Chữ bán đúng là rất cần thiết, nó chỉ tính chất kinh doanh (bán chứ không mua). Không có chữ bán, e rằng khách hàng không biết nơi này bán cá (mời khách hãy đến mua) hay là mua cá (mang cá đến để bán). Tuy nhiên, cũng như hai chữ “ở đây", chữ có cũng không thừa. Nó có ý nghĩa khẳng định, nhấn mạnh hoạt động kinh doanh của nhà hàng. Nếu bỏ chữ có, tấm biển vẫn đủ ý nhưng sức tác động trong quảng cáo sẽ nhẹ đi rất nhiều. Ta hãy thử đọc lên và so sánh ở đây bán cá và ở đây có bán cá.
Người cuối cùng bàn về chữ.“cá”. Ý kiến này vô lí nhất. Ai bán bất cứ mặt hàng gì, bằng cách này hay cách khác, cũng đều phải quảng cáo cho mặt hàng của mình. Không quảng cáo, ai biết nhà hàng có bán không mà đến mua, dù cá vẫn cứ bày ra đây. Rất có thể đây cũng là cách chơi khăm của người láng giếng. Thấy anh hàng xóm ai bảo cũng nghe, không cần suy xét phải trái, anh ta bèn đưa ra lời góp ý phi lí nhất trong số các lời góp ý của mọi người. Thế mà anh chủ cửa hàng vẫn cứ nghe theo.Xem thêm: Tả cơn mưa mùa xuânNhư vậy, cả bốn yếu tô trong tấm biển, ở mức độ này hay mức độ khác đều cần thiết, thậm chí có những yếu tố không thể lược bỏ đi được (bán, cá, tươi). Tiếng cười bật ra vì nhà hàng treo biển mà không hiểu ý nghĩa công việc mình đã làm, chỉ nghe người ta nói mà không cần suy xét, răm rắp làm theo, rốt cuộc là lãng phí tiền của, công sức mà không được việc gì, lại còn bị mọi người cười chê.
Treo hiển thuộc loại truyện cười nhằm phê phán những cái xấu, cái đáng cười ngay trong quần chúng nhân dân. Truyện cho ta bài học bổ ích: khi làm việc gì cũng phải suy nghĩ trước sau. Cũng có thể lắng nghe góp ý của người khác nhưng phải cẩn trọng suy xét đúng sai, phải có chủ kiến khi làm việc kẻo phí công vô ích mà lại mang tiếng “Đẽo cày giữa đường", bị thiên hạ cười chê mà vẫn không mang lại kết quả việc làm như mong muốn.
Vanmau.edu.vn
|
In the fable of Hanging the Sign, what do you think about the comments of passersby? What lesson do you learn from this story?
Suggest
The laughter in the story Hanging suddenly burst when the reader read the details of the shop owner finishing the word "Fish". So what are the actual comments about the content of the sign?
First of all, we need to see that the content of the original restaurant sign "fresh fish is sold here" includes four basic elements: "Here" - indicates the sales location; “for sale” – refers to the restaurant's business activities; “fish” – refers to the item being traded; “Fresh” – indicates the quality and type of product, distinguishing it from other types (dried fish, for example). Thus, although the content of the sign is a bit long, it is quite complete and completely usable!
But then four people in turn commented on the sign.
The first person commented on the word "fresh". This house used to sell spoiled fish. This opinion is unsatisfactory because as analyzed above, the word fresh here, in addition to the meaning of quality (fresh), also has the meaning of species (not dried fish). Furthermore, the word "fresh" also serves to confirm the quality of the item (not rotten), thus increasing the appeal of the fish item. Therefore, fresh words are necessary. See more: Tell me about a time when you did a good deed. The second person commented on the words "Here": Shouldn't you go to the flower shop to buy fish. This idea seems reasonable at first glance. However, in "advertising art", the two words "here" are not redundant. They have a meaningful impact and attract customers' attention. For example: Ah! Here it is! School supplies I need!
The third person discussed the words "for sale". There is an opinion that this opinion is half correct (leave the word sell, omit the word yes). The word "sell" is very necessary, it refers to the nature of business (selling, not buying). There is no word for sale, I'm afraid customers don't know if this place sells fish (please come and buy) or buy fish (bring fish to sell). However, like the two words "here", the word "yes" is not redundant. It has the meaning of affirming and emphasizing the restaurant's business activities. If the word "yes" is removed, the sign still has enough meaning, but the impact is internal. The advertisement will be a lot lighter. Let's try to read it and compare here selling fish and here selling fish.
The last person discussed the word "fish". This opinion is the most absurd. Anyone who sells any product, in one way or another, must advertise their product. Without advertising, who knows if the restaurant sells it or not but comes to buy it, even though the fish is still displayed here. Most likely this is also a prank by the neighbor. Seeing that the neighbor listened to everything he said, without needing to consider right or wrong, he gave the most unreasonable suggestion among everyone's suggestions. Yet the store owner still listened. See more: Describing the spring rain Thus, all four elements in the sign, to one degree or another, are necessary, even some elements cannot be omitted. disposable (sold, fish, fresh). Laughter broke out because the restaurant put up a sign without understanding the meaning of the work they were doing, just listening to what people said without thinking, and quickly following, ultimately wasting money and effort without getting the job done. No matter what, everyone laughed at him.
Hanging on display is a type of joke intended to criticize the bad and laughable things right among the masses. The story gives us a useful lesson: when doing anything, we must think before and after. You can also listen to other people's opinions, but you must be careful to consider right and wrong. You must have an opinion when working, so as not to waste effort in vain and become known as "Plowing in the middle of the road", being laughed at by people but still not doing anything. bring desired employment results.
Vanmau.edu.vn
|
Trong truyện “Quả dưa đỏ”, cứ mỗi lần trẩy quả, Mai An Tiêm đều lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Em hãy kể lại hành trình của quả dưa trở về đất liền
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI:
Giới thiệu nhân vật và hoàn cảnh.
+ Trái dưa hấu cùng với các bạn sắp được làm sứ giả về nơi đất liền.
+ Tâm trạng của nó rất nôn nao khi nghĩ đến cuộc hành trình.
B. THÂN BÀI:
(Phát triển câu chuyện).
1. Chúng tôi được đưa ra bờ. An Tiêm lấy gươm cùn đánh dấu lên mình từng trái rồi thả xuống biển.
2. Chúng tôi trôi trên sóng nước. Nhớ đảo muốn quay về nhưng nghĩ thương chú An Tiêm đang hi vọng, chúng tôi thôi thúc nhau tìm đường đến đất liền.
3. Chỉ có biển xanh bát ngát bao la. Bao nhiêu điều kì diệu mà chúng tôi được chứng kiến.
4. Biển nổi gió bão, chúng tôi phải vất vả vật lộn với sóng, Nghĩ đến kì vọng của An Tiêm, chúng tôi vượt qua những khó khăn. Tuy nhiên chúng tôi đã lạc nhau. Mỗi người một ngả.
5. Không biết bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm. Tôi được một chiếc thuyền vớt lên. Một viên quan tắm rửa và đặt tôi lên đĩa để dâng cho vua.
C. KẾT LUẬN:
Nghe tin được dâng lên vua, tôi mừng quá, sức mong mình chín cho thật ngon thật ngọt để hi vọng ngày trở về của An Tiêm đến gần hơn.Xem thêm: Văn biểu cảm về sự vật, con người - Lời yêu thương gửi bố của conBÀI LÀM
Tôi và một số bạn dưa nữa được vợ chồng chú An Tiêm chọn làm sứ giả trở về đất liền. Biết được điều đó, tôi hồi hộp và nôn nao lạ kì khi nghĩ đến cuộc hành trình của mình.
Tờ mờ sáng hôm sau, chúng tôi được đưa ra bìa đảo. Ở đây, chú An Tiêm dùng cái gươm cùn đánh dấu lên mình chúng tôi rồi thả xuống biển. Lúc này biển thật hiền lành, đưa chúng tôi bập bềnh trôi. Đi được một quãng, ngoái nhìn lại hòn đảo mến yêu đã nuôi mình lớn lên, tôi chợt thấy rất buồn. Vợ chồng chú An Tiêm vẫn còn đứng đó, dõi mắt trông theo chúng tôi với cả niềm hi vọng. Tất cả những hình ảnh ấy đập vào mắt tôi, như thôi thúc tôi mau đi tìm đường trở về đất liền. Bởi vì hòn đảo sẽ xanh tươi hơn, cuộc sống của chú An Tiêm sẽ phong phú hơn, nếu những sứ giả như chúng tôi làm tròn trách nhiệm của mình. Sau khi trôi đi được một đoạn đường nữa, bóng dáng của hòn đảo đã khuất hẳn. Giờ thì trước mắt chúng tôi chỉ là biển rộng bát ngát, bao la. Mặt biển trong xanh mát lạnh làm chúng tôi sảng khoái vô cùng. Lúc này mặt trời đang nhô lên từ phía chân trời, mạng theo những tia nắng ấm áp chiếu xuống biển. Mọi vật dưới biển như bừng tỉnh sau một đêm dài. Những chú cá bé nhỏ lượn lờ theo quan sát chúng tôi với đôi mắt ngạc nhiên. Cảnh biển bây giờ làm chúng tôi vô cùng thích thú. Chúng tôi cùng nhau đùa giỡn, trò chuyện cùng với những chú cá hiếu kỳ. Thỉnh thoảng một vài anh chàng rong biển cứ bám vào chúng tôi, xin được cùng làm bạn đồng hành về đất liền.Xem thêm: Cảm nghĩ về bài Cảnh khuya của Hồ Chí Minh hay nhất Cuộc hành trình đang vui vẻ như thế, biển bỗng thay đổi bất ngờ và trở nên dữ dằn. Những cơn gió rất mạnh, những đợt sóng dâng trào như muốn nhấn chìm tất cả sự sống trên mặt biển. Anh em dưa chúng tôi cũng vất vả vô cùng khi chống đỡ với những cơn hung thần ấy. Chính những lúc nguy hiểm như vậy, tôi chợt thấy đôi mắt kì vọng của chú An Tiêm hiện ra, nó như tiếp thêm một sức mạnh cho tôi vượt qua những trở ngại đó. Sau mấy giờ vật lộn, biển cả trở lại hiền lành như một người mẹ, là nơi nương tựa của tôi sau cơn mệt nhọc. Khi tỉnh táo hẳn, nhìn ra chung quanh, tôi đã không còn thấy những anh bạn của mình. Có lẽ cơn bão vừa qua đã làm chúng tôi lạc nhau.
Và cứ thế mình tôi trên biển cả, hết ngày rồi lại đến đêm, trăng non rồi lại trăng già không biết bao bận, lênh đênh trôi không định hướng. Cho tới một ngày kia, tôi chợt lạc vào một nơi thật lạ, cũng nước xanh biếc, cũng cá lội tung tăng, thế nhưng, nó không mênh mông vô tận như biển mà hai bên là đất liền có phố chợ, nhà cửa, có người qua lại đông đúc, rất là vui vẻ. Chợt nhìn ra xa, tôi thấy một chiếc thuyền chở một số người từ từ tiến về hướng tôi. Khi chiếc thuyền đến gần. Chợt một người phát hiện ra tôi, vớt lên và dâng cho một người mà anh ta gọi là quan Lạc Hầu. Khi về đến nhà, viên quan này tắm rửa cho tôi thật sạch sẽ và đặt tôi trên một cái đĩa to tướng.Xem thêm: Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và nói lên cảm nghĩ của em Vài hôm sau, tôi vô tình nghe được rằng quan sẽ dâng tôi cho nhà vua. Lúc đó, tôi mừng rỡ vô cùng. Và tôi cố gắng chín thật ngon để khi vua nhận ra sản vật của chú An Tiêm, thì người sẽ suy nghĩ lại mà xá tội cho vợ chồng đứa con đầy ý chí và nghị lực, đứa con chỉ tin rằng hạnh phúc có được trên đời là nhờ khối óc, bàn tay của chính mình thôi.
Vanmau.edu.vn
|
In the story "Cantaloupe", every time she picks fruit, Mai An Tiem takes a few marked fruits and releases them into the sea. Tell me about the melon's journey back to the mainland
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPENING:
Introduce characters and situations.
+ Watermelon and his friends are about to be messengers to the mainland.
+ His mood is very anxious when thinking about the journey.
B. BODY OF THE ARTICLE:
(Story development).
1. We were taken to shore. An Tiem used a blunt sword to mark each fruit and then dropped it into the sea.
2. We float on the waves. Missing the island and wanting to return, but thinking of Uncle An Tiem's hope, we urged each other to find a way to the mainland.
3. There is only the vast blue sea. How many miracles we witnessed.
4. The sea was stormy, we had to struggle with the waves. Thinking of An Tiem's expectations, we overcame the difficulties. However, we got lost. Each person goes their own way.
5. I don't know how many days and nights. I was picked up by a boat. An official washed me and placed me on a plate to present to the king.
C. CONCLUSION:
Hearing the news of being presented to the king, I was so happy, I wished I could cook it until it was delicious and sweet so that the day of An Tiem's return would come closer. See more: Expressive writing about things and people - Words of love sent your fatherHOMEWORK
I and a few other friends were chosen by Uncle An Tiem and his wife as messengers to return to the mainland. Knowing that, I felt strangely nervous and anxious when thinking about my journey.
Early the next morning, we were taken to the edge of the island. Here, Uncle An Tiem used a blunt sword to mark our bodies and then dropped them into the sea. At this time, the sea was very gentle, letting us float. After walking a while, I looked back at the beloved island that raised me, and I suddenly felt very sad. Uncle An Tiem and his wife were still standing there, watching us with hope. All those images caught my eyes, as if urging me to quickly find a way back to the mainland. Because the island will be greener, Uncle An Tiem's life will be richer, if messengers like us fulfill our responsibilities. After drifting a little further, the island's silhouette had completely disappeared. Now, before our eyes is just a vast, vast sea. The cool blue sea surface made us extremely refreshed. At this time, the sun was rising from the horizon, warm rays of sunlight shining into the sea. Everything under the sea seemed to awaken after a long night. Small fish hovered around watching us with surprised eyes. The sea view now makes us extremely excited. We played together and talked with the curious fish. Occasionally a few seaweed guys kept clinging to us, asking to be our companions back to the mainland. See more: Thoughts on the best article Late Night Scenes by Ho Chi Minh The journey is so fun, the sea suddenly changed unexpectedly and became fierce. The winds were very strong, the waves surged as if they wanted to drown all life on the sea surface. We, my brothers, also struggled extremely hard to cope with those evil spirits. At such dangerous times, I suddenly saw Uncle An Tiem's expectant eyes appear, it seemed to give me strength to overcome those obstacles. After several hours of struggle, the sea became gentle like a mother, my refuge after fatigue. When I was fully awake, I looked around and could no longer see my friends. Perhaps the recent storm made us lose each other.
And so I was alone on the sea, day after day, night after day, new moon then old moon for countless times, drifting without direction. Until one day, I suddenly got lost in a strange place, with blue water and fish swimming around, but it was not endless like the sea, but on both sides was land with market streets, houses, There were a lot of people going back and forth, very happy. Suddenly looking into the distance, I saw a boat carrying a number of people slowly moving towards me. As the boat approached. Suddenly someone discovered me, picked me up and offered it to a person he called Lac Hau mandarin. When I got home, this official washed me thoroughly and placed me on a huge plate. See more: Analyze the poem Nam Quoc Son Ha by Ly Thuong Kiet and express his feelings A few days later , I accidentally heard that the mandarin was going to give me to the king. At that time, I was extremely happy. And I try to cook it deliciously so that when the king recognizes Uncle An Tiem's product, he will think again and forgive the sins of the couple, their child full of will and determination, the child who only believes that happiness can be found on earth. Life depends only on your own mind and hands.
Vanmau.edu.vn
|
Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Đau đớn thay phận đàn bà. Nhận xét đó có còn đúng với người phụ nữ trong cuộc sống hôm nay?
Hướng dẫn
Tham khảo một số ý cụ thể sau:
– Nhận xét của Nguyễn Du là một lời than, một niềm cảm thông sâu sắc đối với thân phận đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Người phụ nữ, ở vào thời kì đó, phải sống một cuộc đời bất hạnh: bị coi thường, có nhan sắc, đức hạnh và tài năng nhưng bị vùi dập, hoặc bị biến thành món đồ chơi hoặc phải sống cuộc đời chìm nổi, lênh đênh… không được hưởng hạnh phúc, nhất là hạnh phúc lứa đôi. Số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào người khác.
HS lấy dẫn chứng chứng minh từ Truyện Kiều (Nguyễn Du), Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ), Chinh phụ ngâm (nguyên tác Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều), thơ Hồ Xuân Hương… Không phải chỉ Nguyễn Du, chính Đặng Trần Côn (và dịch giả Đoàn Thị Điểm?) cũng đã từng thốt lên: "Thuở trời đất nổi cơn gió bụi – Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên'', hay Nguyễn Gia Thiều cũng từng than thở và bất bình: "Oán chi những khách tiêu phòng – Mà xui phận bạc nằm trong má đào?"…
– Trong thời đại hiện nay, vị trí và cuộc sống của người phụ nữ đã có nhiều thay đổi. Một mặt, họ giữ một vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, là người xây tổ ấm hạnh phúc; mặt khác, họ tham gia vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhiều người trong số họ đã khẳng định được trình độ, tài năng của mình và thành công trong sự nghiệp.
Họ làm chủ cuộc sống của mình, được mọi người, trong đó có nam giới tôn trọng. Họ được quyền bình đẳng với nam giới. Có nhiều tổ chức, nhiều chương trình hành động đã và đang đứng ra để ủng hộ, bảo vệ hoặc trao quyền lãnh đạo cho phụ nữ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn có những phụ nữ là nạn nhân của bạo hành giới, bạo hành gia đình; quyền lợi và bản thân họ chưa được tôn trọng và bảo vệ.
– Khẳng định: về cơ bản, nhận xét của Nguyễn Du không còn đúng với cuộc sống hôm nay, hoặc chỉ đúng với những người phụ nữ chưa biết vươn lên làm chủ cuộc đời của mình, hoặc chỉ tồn tại trong suy nghĩ của những kẻ vẫn còn mang nặng tư tưởng coi thường phụ nữ. Vấn đề đặt ra là phải hiểu đúng vai trò của người phụ nữ trong đời sống và xã hội, từ đó tôn trọng, giúp đỡ, bảo vệ và khẳng định họ để làm cho đời sống được cân bằng và văn minh hơn.
Bài làm tham khảo
Nguyễn Du (1765 – 1820) là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Ông đã được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Tuy xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến nhưng cuộc đời Nguyễn Du lại phải trải qua nhiều lưu lạc, đau khổ. Vì vậy, ông thông cảm với nhân dân, đặc biệt là với số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn lời Thúy Kiều, một cô gái tài hoa bạc mệnh để khái quát chung về số phận bi thảm của người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Câu thơ xót xa, ai oán như một lời than phẫn uất trước định mệnh cực kì vô lí, bất công đối với phụ nữ. Tiếc thay, trong xã hội phong kiến, bạc mệnh đã trở thành số phận chung của bao kẻ hồng nhan.
Bạc mệnh là số phận mỏng manh, bạc bẽo, nói rộng ra là cuộc đời gặp nhiều tai ương, buồn khổ. Người bạc mệnh có kiếp sống long đong, lận đận hoặc chết yểu một cách thảm thương.
Nguyễn Du tan nát cả cõi lòng khi hạ bút viết những câu thơ như có nước mắt rơi, máu chảy. Đằng sau lời than thống thiết ấy là một hiện thực cay đắng, phũ phàng: xã hội phong kiến bất công chà đạp tàn bạo lên nhân phẩm người phụ nữ.
Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng lớp 7Trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy, người phụ nữ bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng. Họ bị biến thành nô lệ của những ràng buộc nghiệt ngã từ phía lễ giáo phong kiến và những quan niệm lạc hậu như tam tòng, thủ tiết, nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, nữ nhân ngoại tộc… số phận họ hoàn toàn phụ thuộc vào tay kẻ khác. Thậm chí, họ còn bị coi như hàng hóa, dùng để bán mua, đổi chác. Bài thơ Bánh trôi nước của Hổ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thể hiện thật sinh động những thân phận đau thương ấy.
Hồ Xuân Hương ví thân phận người phụ nữ như chiếc bánh trôi: Thân em Vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non, Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn… Nguyễn Du miêu tả quãng đời đầy truân chuyên, bão tố của nàng Kiều: Thoắt mua về thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi; Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương… Người con gái tài sắc vẹn toàn ấy lẽ ra phải được sống ấm êm bên cha mẹ, hạnh phúc bên người yêu, nhưng thế lực đen tối, bạo tàn trong xã hội mà đồng tiền là chúa tể đã cướp đi của nàng tất cả những gì tốt đẹp nhất và nhẫn tâm xô đẩy nàng xuống tận lớp bùn nhơ dưới đáy xã hội. Mỗi lần Kiều cố gắng vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng số phận là một lần nàng bị dìm sâu hơn nữa.
Từ kiếp bạc mệnh của Thúy Kiều, nhà thơ khái quát lên thành lời chung, kiếp đau khổ chung của người phụ nữ. Văn học thời ấy đã từng nói đến cái chết thảm thương, oan khốc của Người con gái Nam xương (Nguyễn Dữ); một nạn nhân của chiến tranh và lễ giáo phong kiến bất công. Hay một nàng Đạm Tiên nổi danh tài sắc một thì mà phải rơi vào cảnh: Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Trong xã hội cũ, hỏi có bao nhiêu nàng Đạm Tiên như thế?
Câu thơ: Đau đớn thay phận đàn bà… không chỉ là một tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, lên án đanh thép cái chế độ phong kiến vô nhân đạo, chà đạp không thương tiếc lên nhân phẩm con người nói chung và phụ nữ nói riêng. Bởi vậy nó chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao cả.
Trong chế độ mới ưu việt, người phụ nữ được gia đình và xã hội tôn trọng: Vai trò to lớn của họ được đánh giá đúng đắn. Chính những điều đó đã giải phóng người phụ nữ ra khỏi những ràng buộc phi lí xưa nay, khơi dậy tiềm năng vô tận của họ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Không phải trong cuộc sống hiện nay đã thật sự chấm dứt những quan niệm bất công đối với người phụ nữ, nhưng thái độ coi thường và những hành vi xúc phạm đến nhân phẩm phụ nữ đã và đang bị xã hội nghiêm khắc lên án.
Tuy ra đời cách đây đã gần hai thế kỉ nhưng những câu thơ tâm huyết của Nguyễn Du vẫn gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Nó vừa là lời than thống thiết về nỗi đau khổ to lớn của kiếp người, vừa là lời kết án tội ác của chế độ phong kiến bất công chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ. Người đọc bao thế hệ đã nhận được từ hai câu thơ này thông điệp của Nguyễn Du: Hãy cứu lấy phụ nữ, hãy bảo vệ phụ nữ và trả lại cho họ vị trí xứng đáng, thiêng liêng mà Tạo hóa đã ban cho họ là duy trì sự sống của loài người trên trái đất.
Nguồn: thêm: Hãy bàn luận ý kiến sau đây: “Học trò phải kính yêu và biết ơn thầy, cô giáo"
|
Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Đau đớn thay phận đàn bà. Nhận xét đó có còn đúng với người phụ nữ trong cuộc sống hôm nay?
Hướng dẫn
Tham khảo một số ý cụ thể sau:
– Nhận xét của Nguyễn Du là một lời than, một niềm cảm thông sâu sắc đối với thân phận đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Người phụ nữ, ở vào thời kì đó, phải sống một cuộc đời bất hạnh: bị coi thường, có nhan sắc, đức hạnh và tài năng nhưng bị vùi dập, hoặc bị biến thành món đồ chơi hoặc phải sống cuộc đời chìm nổi, lênh đênh… không được hưởng hạnh phúc, nhất là hạnh phúc lứa đôi. Số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào người khác.
HS lấy dẫn chứng chứng minh từ Truyện Kiều (Nguyễn Du), Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ), Chinh phụ ngâm (nguyên tác Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều), thơ Hồ Xuân Hương… Không phải chỉ Nguyễn Du, chính Đặng Trần Côn (và dịch giả Đoàn Thị Điểm?) cũng đã từng thốt lên: "Thuở trời đất nổi cơn gió bụi – Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên'', hay Nguyễn Gia Thiều cũng từng than thở và bất bình: "Oán chi những khách tiêu phòng – Mà xui phận bạc nằm trong má đào?"…
– Trong thời đại hiện nay, vị trí và cuộc sống của người phụ nữ đã có nhiều thay đổi. Một mặt, họ giữ một vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, là người xây tổ ấm hạnh phúc; mặt khác, họ tham gia vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhiều người trong số họ đã khẳng định được trình độ, tài năng của mình và thành công trong sự nghiệp.
Họ làm chủ cuộc sống của mình, được mọi người, trong đó có nam giới tôn trọng. Họ được quyền bình đẳng với nam giới. Có nhiều tổ chức, nhiều chương trình hành động đã và đang đứng ra để ủng hộ, bảo vệ hoặc trao quyền lãnh đạo cho phụ nữ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn có những phụ nữ là nạn nhân của bạo hành giới, bạo hành gia đình; quyền lợi và bản thân họ chưa được tôn trọng và bảo vệ.
– Khẳng định: về cơ bản, nhận xét của Nguyễn Du không còn đúng với cuộc sống hôm nay, hoặc chỉ đúng với những người phụ nữ chưa biết vươn lên làm chủ cuộc đời của mình, hoặc chỉ tồn tại trong suy nghĩ của những kẻ vẫn còn mang nặng tư tưởng coi thường phụ nữ. Vấn đề đặt ra là phải hiểu đúng vai trò của người phụ nữ trong đời sống và xã hội, từ đó tôn trọng, giúp đỡ, bảo vệ và khẳng định họ để làm cho đời sống được cân bằng và văn minh hơn.
Bài làm tham khảo
Nguyễn Du (1765 – 1820) là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Ông đã được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Tuy xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến nhưng cuộc đời Nguyễn Du lại phải trải qua nhiều lưu lạc, đau khổ. Vì vậy, ông thông cảm với nhân dân, đặc biệt là với số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn lời Thúy Kiều, một cô gái tài hoa bạc mệnh để khái quát chung về số phận bi thảm của người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Câu thơ xót xa, ai oán như một lời than phẫn uất trước định mệnh cực kì vô lí, bất công đối với phụ nữ. Tiếc thay, trong xã hội phong kiến, bạc mệnh đã trở thành số phận chung của bao kẻ hồng nhan.
Bạc mệnh là số phận mỏng manh, bạc bẽo, nói rộng ra là cuộc đời gặp nhiều tai ương, buồn khổ. Người bạc mệnh có kiếp sống long đong, lận đận hoặc chết yểu một cách thảm thương.
Nguyễn Du tan nát cả cõi lòng khi hạ bút viết những câu thơ như có nước mắt rơi, máu chảy. Đằng sau lời than thống thiết ấy là một hiện thực cay đắng, phũ phàng: xã hội phong kiến bất công chà đạp tàn bạo lên nhân phẩm người phụ nữ.
Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng lớp 7Trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy, người phụ nữ bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng. Họ bị biến thành nô lệ của những ràng buộc nghiệt ngã từ phía lễ giáo phong kiến và những quan niệm lạc hậu như tam tòng, thủ tiết, nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, nữ nhân ngoại tộc… số phận họ hoàn toàn phụ thuộc vào tay kẻ khác. Thậm chí, họ còn bị coi như hàng hóa, dùng để bán mua, đổi chác. Bài thơ Bánh trôi nước của Hổ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thể hiện thật sinh động những thân phận đau thương ấy.
Hồ Xuân Hương ví thân phận người phụ nữ như chiếc bánh trôi: Thân em Vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non, Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn… Nguyễn Du miêu tả quãng đời đầy truân chuyên, bão tố của nàng Kiều: Thoắt mua về thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi; Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương… Người con gái tài sắc vẹn toàn ấy lẽ ra phải được sống ấm êm bên cha mẹ, hạnh phúc bên người yêu, nhưng thế lực đen tối, bạo tàn trong xã hội mà đồng tiền là chúa tể đã cướp đi của nàng tất cả những gì tốt đẹp nhất và nhẫn tâm xô đẩy nàng xuống tận lớp bùn nhơ dưới đáy xã hội. Mỗi lần Kiều cố gắng vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng số phận là một lần nàng bị dìm sâu hơn nữa.
Từ kiếp bạc mệnh của Thúy Kiều, nhà thơ khái quát lên thành lời chung, kiếp đau khổ chung của người phụ nữ. Văn học thời ấy đã từng nói đến cái chết thảm thương, oan khốc của Người con gái Nam xương (Nguyễn Dữ); một nạn nhân của chiến tranh và lễ giáo phong kiến bất công. Hay một nàng Đạm Tiên nổi danh tài sắc một thì mà phải rơi vào cảnh: Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Trong xã hội cũ, hỏi có bao nhiêu nàng Đạm Tiên như thế?
Câu thơ: Đau đớn thay phận đàn bà… không chỉ là một tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, lên án đanh thép cái chế độ phong kiến vô nhân đạo, chà đạp không thương tiếc lên nhân phẩm con người nói chung và phụ nữ nói riêng. Bởi vậy nó chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao cả.
Trong chế độ mới ưu việt, người phụ nữ được gia đình và xã hội tôn trọng: Vai trò to lớn của họ được đánh giá đúng đắn. Chính những điều đó đã giải phóng người phụ nữ ra khỏi những ràng buộc phi lí xưa nay, khơi dậy tiềm năng vô tận của họ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Không phải trong cuộc sống hiện nay đã thật sự chấm dứt những quan niệm bất công đối với người phụ nữ, nhưng thái độ coi thường và những hành vi xúc phạm đến nhân phẩm phụ nữ đã và đang bị xã hội nghiêm khắc lên án.
Tuy ra đời cách đây đã gần hai thế kỉ nhưng những câu thơ tâm huyết của Nguyễn Du vẫn gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Nó vừa là lời than thống thiết về nỗi đau khổ to lớn của kiếp người, vừa là lời kết án tội ác của chế độ phong kiến bất công chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ. Người đọc bao thế hệ đã nhận được từ hai câu thơ này thông điệp của Nguyễn Du: Hãy cứu lấy phụ nữ, hãy bảo vệ phụ nữ và trả lại cho họ vị trí xứng đáng, thiêng liêng mà Tạo hóa đã ban cho họ là duy trì sự sống của loài người trên trái đất.
Nguồn: thêm: Hãy bàn luận ý kiến sau đây: “Học trò phải kính yêu và biết ơn thầy, cô giáo"
|
Trong Tụng giá hoàn kinh của Trần Quang Khải, em cảm nhận thế nào về niềm vui chiến thắng và lòng tự hào sau cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên?
Gợi ý
Trong chặng đường lịch sử oai hùng của dân tộc, nhà Trần đã cắm những mốc son chói lọi với ba lần chiến thắng quân xâm lược Mông – Nguyên, tạo nên một thời đại oanh liệt với hào khí Đông A bất tử.
Hào khí ấy bao trùm cả núi sông và in dấu ấn đậm nét trong bài thơ Phò giá về kinh của Trần Quang Khải:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Chương Dương là một bến sông nằm ở hữu ngạn sông Hồng, nơi diễn ra trận thủy chiến ác liệt vào tháng 6 năm 1285. Còn Hàm Tử là một địa danh thuộc tả ngạn sông Hồng, nơi diễn ra trận quyết chiến mở màn cuộc tấn công của quân dân nhà Trần tháng 4 năm 1285. Hai trận chiến ác liệt đã tạo nên hai chiến thắng lẫy lừng, làm xoay chuyển cả cục diện chiến tranh. Từ thế "bị động" phải rút lui để bảo toàn lực lượng, ta chuyển sang thế chủ động tiến công dịch (cướp giáo giặc, bắt quân thù). Hai câu thơ 10 tiếng đã khắc hoạ tư thế của dân tộc vào hình thế núi sông anh linh muôn thuở, với bản lĩnh quả cảm vô song, với phong thái ung dung, đường hoàng, làm chủ tình thế, "đứng trên đầu thù" (đoạt sáo, cầm Hồ). Xem thêm: Nguyễn Minh Châu từng bày tỏ khát vọng đi tìm con người ở bên trong con người Ta hãy đọc lại hai câu thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Bình dị thế thôi mà nghe âm vang cả tiếng trống trận thúc liên hồi, tiếng gươm khua, giáo đập, tiếng hò reo dậy đất. Từ hai câu thơ cô đọng, hàm súc, người đọc cảm nhận được cái không khí chiến tranh, cái hào khí Đông A Ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu (Phạm Ngũ Lão), cả hình ảnh oai phong lẫm liệt của tướng sĩ nhà Trần. Một cảm xúc hân hoan, tràn ngập trong tâm hồn vị chiến tướng thắng trận đang kiêu hãnh trở về kinh đô trong sự đón chào nồng nhiệt của nhân dân.
Hào quang chiến thắng làm cho người ta ngây ngất nhưng không choáng ngợp. Nên ngay sau lúc đang tận hưởng niềm vui chiến thắng Trần Quang Khải đã mong ước một nền thái bình muôn thuở cho đất nước"
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu.
Nhà Trần đi qua hai cuộc chiến tranh với bao đau thương nên họ rất hiểu rõ giá trị của cuộc sống thái bình, bởi nó được đổi bằng biết bao nước mắt và máu xương. Dường như Trần Quang Khải nhắc đến hai chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử như chỉ để nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng máu xương của cha ông đã đổ để mà chung lòng góp sức, đem hết tài năng và nhiệt huyết (tu trí lực) vào công cuộc kiến thiết nước nhà, sao cho non nước này bền vững đến ngàn thu. Xem thêm: Em hãy giải thích câu tục ngữ: “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ" Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu, tự bản thân niềm mong ước ấy đã đẹp lắm rồi, tha thiết lắm rồi. Nhưng nó càng đẹp hơn, tha thiết hơn bởi nó là niềm suy tư trăn trở của một vị tướng xuất thân từ tầng lớp đại quý tộc nhà Trần, ngay trong lúc khói lửa binh đao còn chưa tan hẳn, "bụi trường chinh" còn bám đầy trên chiến giáp.
Bài thơ mở ra bằng hào khí chiến thắng và khép lại bằng khát vọng hoà bình. Hai nguồn cảm xúc lớn lao ấy đã nâng bài thơ lên một tầm cao để nghìn đời sau người đời còn được chiêm ngưỡng.
Vanmau.edu.vn
|
In Chanting the Hoan Kinh by Tran Quang Khai, how do you feel about the joy of victory and pride after the resistance war against the Mongol-Yuan army?
Suggest
In the nation's heroic history, the Tran Dynasty set brilliant milestones with three victories over Mongol and Yuan invaders, creating a glorious era with immortal Dong A pride.
That aura covers the mountains and rivers and leaves a bold mark in Tran Quang Khai's poem "Pride of the Sutras":
Chuong Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
Chuong Duong is a river wharf located on the right bank of the Red River, where a fierce naval battle took place in June 1285. Ham Tu is a place on the left bank of the Red River, where the decisive battle that opened the attack took place. of the Tran Dynasty's army and people in April 1285. Two fierce battles created two glorious victories, turning the whole war situation around. From a "passive" position of having to retreat to preserve our forces, we switched to an active offensive position (stealing the enemy's spears and capturing the enemy). The two 10-hour verses portray the nation's posture in the form of eternally heroic mountains and rivers, with unparalleled bravery, with a leisurely and dignified demeanor, mastering the situation, "standing above the enemy's head." " (winning the flute, holding the Ho). See more: Nguyen Minh Chau once expressed his desire to find the person inside. Let's read the two verses again:
Chuong Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
It's so simple that you can hear the echo of the continuous beating of drums, the sound of swords, the banging of spears, and the cheers that stir the earth. From these two concise, concise verses, the reader can feel the atmosphere of war, the aura of Dong A Ba's strong army swallowing buffaloes (Pham Ngu Lao), and the majestic image of the army's generals. Bare. A feeling of joy filled the soul of the victorious general who proudly returned to the capital to be warmly welcomed by the people.
The aura of victory makes people ecstatic but not overwhelmed. So right after enjoying the joy of victory, Tran Quang Khai wished for eternal peace for the country.
Peace should strive
That country is thousands of years old.
The Tran Dynasty went through two wars with so much pain, so they clearly understood the value of a peaceful life, because it was exchanged for so many tears and blood. It seems that Tran Quang Khai mentioned the two victories of Chuong Duong and Ham Tu as if just to remind everyone to appreciate the blood and bones their ancestors shed so that they can contribute wholeheartedly and bring all their talent and enthusiasm (cultivate intelligence). force) into the work of building the country, so that this country is sustainable until the end of time. See more: Please explain the proverb: "A horse hurts the whole ship without eating grass" Thai Binh should strive - That country is thousands of years old, that wish itself is very beautiful, very earnest But it is even more beautiful and earnest because it is the troubled thoughts of a general from the great aristocracy of the Tran Dynasty, even while the smoke and fire of soldiers and swords had not yet completely dissipated, "the dust of the long march". still clinging to the armor.
The poem opens with the spirit of victory and closes with the desire for peace. Those two great sources of emotion have raised the poem to a high level so that people can still admire it for thousands of generations to come.
Vanmau.edu.vn
|
Trong vai Lang Liêu em hãy kể lại câu chuyện “Bánh chưng, bánh giầy”
Gợi ý
DÀN BÀI
Mở bài:
+ Lang Liêu tự giới thiệu về bản thân.
+ Gợi chuyện để kể về nguồn gốc của việc làm ra bánh chưng và bánh giầy.
Thân bài:
+ Chuyện Vua Hùng muốn tìm người nối ngôi và cách lựa chọn của nhà vua.
+ Chuyện các lang làm các món cao lương mĩ vị, nem công chả phượng để dâng lên vua cha.
+ Chuyện về số phận thiệt thòi của bản thân.
+ Chuyện Lang Liêu nằm mộng được Bụt dạy cách làm loại bánh mới.
+ Chuyện Lang Liêu làm bánh dâng vua. Cách thức làm bánh cụ thể.
+ Chuyện vua Hùng chọn các món ăn của các lang và ngợi khen, chỉ ra ý nghĩa rồi đặt tên cho bánh chưng, bánh giầy của Lang Liêu.
Kết bài:
+ Lang Liêu được chọn nối ngôi vua; bánh chưng, bánh giầy trở thành thứ bánh không thể thiếu trong các ngày lễ Tết của dân tộc và là một món ăn ngon trong ngày thường.
+ Suy nghĩ về ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy trong thời hiện đại.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Viết một đoạn văn ngắn giới thiệu về tổ của em
|
As Lang Lieu, tell the story "Banh Chung, Banh Giay"
Suggest
OUTLINE
Opening:
+ Lang Lieu introduced himself.
+ Create stories to tell about the origin of making Banh Chung and Banh Giay.
Body of the article:
+ The story of King Hung wanting to find a successor and the king's choice.
+ The story of the langs making delicious delicacies, spring rolls with phoenix to offer to their father the king.
+ Story about one's own disadvantaged fate.
+ The story of Lang Lieu dreaming that the Buddha taught him how to make a new type of cake.
+ The story of Lang Lieu making cakes for the king. Specific baking methods.
+ The story of King Hung choosing the dishes of the langs and praising, pointing out the meaning and naming Lang Lieu's banh chung and banh giay.
End:
+ Lang Lieu was chosen to succeed the king; Banh Chung and Banh Giay have become indispensable cakes in the nation's Tet holidays and are a delicious dish on weekdays.
+ Think about the meaning of banh chung and banh giay in modern times.
Vanmau.edu.vn
See more: Write a short paragraph introducing your team
|
Trong vai Lang Liêu em hãy kể lại truyện Bánh Chưng, bánh Giầy
Gợi ý
Ta tên là Liêu. Là con trai nhà vua nhưng ta không giống các anh em khác, quanh năm thức khuya dậy sớm trồng ngô khoai, cấy lúa. Trong nhà ta chỉ ngô lúa là nhiều.
Một hôm, vua cha gọi chúng ta lại, phán rằng:
– Cha biết mình gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một người trong số các con. Các con hãy làm cỗ để cúng tổ tiên. Ai làm được món ăn quý vừa ý ta thì sẽ được chọn.
Nghe vua cha phán truyền như thế, các hoàng tử anh em của ta thi nhau cho người đi khắp nơi tìm kiếm thức ăn quý, nào là sơn hào hải vị, nem công, chả phượng để mong được làm vua. Ta không có điều kiện làm việc ấy mà cũng không muốn thế vì ta nghĩ món ăn dâng cúng Tiên vương phải do tay mình làm ra. Ta băn khoăn, lo lắng bao ngày. Ta nhiều lúa gạo, đậu đỗ, ngô khoai, nhưng những thức đó thì tầm thường quá, biết làm thế nào? Một đêm, ta mơ thấy thần tiên mách bảo: "Hãy lấy gạo làm bánh mà tế lễ". Càng ngâm ta thấy lời thần thật đúng, các thứ của ngon vật lạ kia ăn mãi rồi cũng chán, còn lúa gạo thì dùng được mãi. Ta bèn chọn lấy thứ gạo nếp trắng ngon nhất, ngâm kĩ, làm bánh hình vuông gói trong lá dong. Nhân bánh bằng thịt lợn, đậu xanh. Ta lại làm thêm một thứ bánh hình tròn bằng cách giã mịn cơm nếp đã đổ thật dẻo. Những thứ bánh ấy thật thơm ngon, ta sung sướng dâng cúng Tiên vương.Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng
Ngày lễ Tiên vương, các anh em ta dâng lên bao nhiêu của ngon vật lạ nhưng vua cha chỉ lướt qua. Đến mâm cúng của ta, Người dừng lại rất lâu. Ta tâu bày những lời thần mách bảo. Sau khi cùng triều thần ăn thử, Người rất vừa lòng và phán rằng, bánh hình vuông tượng trưng cho đất, cỏ cây cỏ muông thú, đặt tên là bánh chưng, bánh hình tròn tượng trưng cho trời, đặt tên là bánh giầy.
Vua cha trang trọng tuyên bố ta được giải nhất và được truyền ngôi. Ta vô cùng sung sướng và cảm động. Từ đó, ta luôn chăm lo cho việc trồng cấy, chăn nuôi của nhân dân để nhà nhà đều được no ấm.
Vanmau.edu.vn
|
As Lang Lieu, tell the story of Banh Chung and Banh Giay
Suggest
My name is Lieu. As the king's son, I am not like the other brothers, who stay up late and get up early all year round to plant corn and potatoes and transplant rice. In our house, only corn and rice are abundant.
One day, our father called us together and said:
– Father knows that he is close to earth and far from heaven. I want to pass the throne to one of you. Please make a feast to worship your ancestors. Whoever can make a precious dish that pleases me will be chosen.
Hearing what the king said, our princes and brothers competed to send people everywhere to look for precious foods, such as seafood, spring rolls, and phoenix spring rolls, hoping to become king. I don't have the conditions to do that and I also don't want to because I think the food offered to the Immortal King must be made by my own hands. I wondered and worried for many days. We have plenty of rice, beans, corn and potatoes, but those foods are so ordinary, what can we do? One night, I dreamed that an angel told me: "Use rice to make cakes and sacrifice." The more I meditate, the more I see that the god's words are true. You will get tired of eating all those strange and delicious things, but rice can be used forever. I chose the best white sticky rice, soaked it thoroughly, and made square cakes wrapped in dong leaves. The cake is filled with pork and green beans. We make another round cake by pounding the poured sticky rice until smooth. Those cakes are so delicious, I am happy to offer them to the Immortal King. See more: Express your feelings about the story The best doctor is in the heart
On the First King's Day, our brothers offered many delicious gifts, but our father only passed by. When he came to my offering tray, he stopped for a long time. I tell you what God tells me. After trying it with his courtiers, he was very satisfied and said that the square cake symbolizes the earth, grass, plants, animals, and animals, and named it banh chung, and the round cake symbolizes the sky, and named it banh giay.
The king solemnly announced that I won the first prize and was given the throne. I am extremely happy and touched. Since then, we have always taken care of the people's farming and animal husbandry so that everyone in the family can be prosperous.
Vanmau.edu.vn
|
Trong vai Lạc Long Quân kể lại truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên
Gợi ý
Ta là Lạc Long Quân, vốn thuộc nòi Rồng, con trai của Thần Long Nữ. Gia tộc ta định cư hàng ngàn năm nay tại vùng đất Lạc Việt phì nhiêu. Sinh ra, ta đã mang mình rồng, có sức khoẻ vô địch và biết rất nhiều phép lạ. Họ hàng nhà rồng của ta vốn quen sống dưới nước nên chỉ thỉnh thoảng mới lên trên mặt đất. Mỗi khi lên cạn, ta thường dùng phép thần thông của mình để diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh – những loài yêu quái bấy lâu làm hại dân lành. Thương đời sống của nhân dân còn cực khổ, ta bèn dạy họ trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở. Xong việc, ta lại về thuỷ cung báo hiếu với Thần Long Nữ – mẫu hậu của mình. Chỉ khi có việc cần ta mới hiện lên.
Vào một ngày đẹp trời, trong khi đang đi thăm thú dân tình, ta gặp một người con gái xinh đẹp tuyệt trần đang dạo bước gần cung điện Long Trang. Hỏi ra mới biết nàng tên gọi Âu Cơ, thuộc dòng họ Thần Nông sinh sống ở vùng núi cao phương Bắc. Nghe tiếng vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng tìm đến thăm. Sau nhiều lần trò chuyện, ta và nàng đem lòng thương mến nhau rồi chúng ta kết duyên vợ chng, cùng nhau chung sống trên cạn ở cung điện Long Trang.Xem thêm: Từ xưa đến nay, cha ông ta luôn coi văn học là một thứ vũ khí chiến đấu mạnh mẽ và sắc bén. Em hãy làm sáng tỏ quan niệm đó
Ta hạnh phúc vô cùng khi ít lâu sau Âu Cơ mang thai. Sau chín tháng mười ngày, thật kì lạ, nàng sinh ra một bọc trăm trứng. Kì lạ hơn nữa, trăm trứng nở ra một trăm chú bé con bụ bẫm, trắng trẻo, hồng hào. Trông chúng mới đáng yêu làm sao. Bởi ta là giống Rồng, vợ ta – nàng Âu Cơ lại là giống Tiên nên những đứa con của chúng ta sinh ra không cần bú mớm mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi ngô và đứa con nào cũng có sức khỏe như ta. Từ khi có đàn con khoẻ mạnh, xinh đẹp, cuộc sống của vợ- chồng ta ngày càng hạnh phúc và vui vẻ. Cung điện lúc nào cũng rộn rã tiếng cười nói, nô đùa của bọn trẻ. Thế nhưng không hiểu sao trong lòng ta luôn cảm thấy một nỗi trống trải không yên. Đó là nỗi niềm nhớ sông, nhớ nước, nhớ quê hương…da diết. Nỗi nhớ cứ ngày một trào dâng trong lòng ta. Cuối cùng, không thể sống mãi trong nỗi nhớ nhung được nữa, ta đành từ biệt người vợ yêu và đàn con để trở về thủy cung. Thật tội nghiệp! Âu Cơ phải ở lại một mình nuôi con, tháng ngày chờ đợi mong ta quay về. Ta biết nàng buồn tủi cho phận mình lắm! Nhưng ta cũng không thể sống mãi trên cạn được. Ta vốn nòi Rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng Tiên ở chốn non cao. Kẻ ở cạn, người ở nước, tính tình tập quán khác nhau khó mà ăn ở cùng nhau lâu dài được. Cuối cùng, sau bao ngày trăn trở nghĩ suy, ta quyết định nói hết tâm ý của ta cho nàng. Hiểu được suy nghĩ và những khó khăn của ta, Âu Cơ đồng ý đưa năm mươi con lên núi. Năm mươi người con còn lại theo ta xuống biển. Tuy xa cách nhưng khi có việc vẫn giúp đỡ lẫn nhau, không bao giờ quên lời hẹn ước.Xem thêm: Mùa hè đến với rực rỡ hoa phượng, râm ran tiếng ve. Em hãy tả lại cảnh này và nói lên cảm tưởng của mình khi hè đếnVới tài năng và sức mạnh của thần, người con trưởng của ta theo mẹ được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Trong triều đình có tướng văn, tướng võ. Những đứa cháu của ta sinh ra trai thì gọi là lang, gái thì gọi là Mị Nương. Con cháu ta thay phiên nhau đời đời cai quản đất Phong Châu. Hiệu Vùng Vương được giữ đến 18 đời. Cứ cha truyền con nối không hề thay đổi.
Dù sống xa sông cách núi nhưng con cháu của ta luôn tự nhắc nhở nhau biết mình đều là con Rồng, cháu Tiên, phải thương yêu, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn, làm cho nước nhà ngày càng thêm phồn vinh, hùng cường.
Vanmau.edu.vn
|
Playing the role of Lac Long Quan, he narrates the legend of the Dragon and the Fairy's grandson
Suggest
I am Lac Long Quan, originally from the Dragon race, son of the Dragon Goddess. Our family has settled for thousands of years in the fertile land of Lac Viet. Born, I had the body of a dragon, had invincible health and knew many miracles. Our dragon relatives are used to living underwater, so they only occasionally come to the surface. Every time I land, I often use my magical powers to eliminate Ngu Tinh, Ho Tinh, and Moc Tinh - monsters that have long harmed innocent people. Feeling sorry for the people's miserable lives, we taught them how to grow crops, raise livestock, and how to live. After finishing work, I returned to the aquarium to show my filial piety to Than Long Nu - my mother. Only when something is needed do we show up.
On a beautiful day, while visiting people, I met a stunningly beautiful girl walking near Long Trang palace. When asked, we found out that her name was Au Co, of the Than Nong family living in the high mountains of the North. Hearing that Lac land had many fragrant flowers and strange grasses, she came to visit. After many conversations, she and I fell in love with each other and then we got married and lived together on land at Long Trang palace. See more: From ancient times to now, our ancestors have always considered literature to be a powerful and sharp fighting weapon. Let me clarify that concept
I was extremely happy when shortly after Au Co became pregnant. After nine months and ten days, strangely, she gave birth to a sac of a hundred eggs. Even more strangely, one hundred eggs hatched and gave birth to one hundred plump, white, and rosy babies. They look so adorable. Because I am a Dragon, my wife Au Co is a Fairy, so our children are born without needing to be breastfed but grow up on their own, with handsome faces and all of our children are as healthy as us. . Since having healthy, beautiful children, our lives have become increasingly happier and more joyful. The palace is always bustling with the laughter and playing of children. But for some reason, I always feel an emptiness and restlessness in my heart. That is the feeling of missing the river, missing the water, missing the homeland...so deeply. Nostalgia keeps rising in our hearts. Finally, unable to live in nostalgia anymore, I had to say goodbye to my beloved wife and children and return to the aquarium. So poor! Au Co had to stay behind to raise her children alone, waiting for months and days for me to return. I know you are very sad for your fate! But we cannot live on land forever. I am of the Dragon race in the deep waters, you are of the Fairy race in the high mountains. People living on land and people living in water have different personalities and habits, making it difficult to live together for a long time. Finally, after many days of thinking and thinking, I decided to tell her all my thoughts. Understanding my thoughts and difficulties, Au Co agreed to take fifty children up the mountain. The remaining fifty children followed me into the sea. Even though they are far apart, they still help each other when things come up, never forgetting their promises. See more: Summer comes with brilliant poinciana flowers and the buzzing sound of cicadas. Please describe this scene and express your feelings when summer comes. With my talent and strength, my eldest son followed his mother and was promoted to king, taking the title Hung Vuong, with the capital in Phong Chau, named the country Van Lang. In the royal court, there were literary generals and martial generals. When my grandchildren give birth to boys, they are called Lang, and girls are called Mi Nuong. Our descendants will take turns forever governing Phong Chau land. The title of Region Vuong has been kept for up to 18 generations. It is passed down from father to son without change.
Even though we live far from rivers and mountains, our children and grandchildren always remind each other that they are all Dragons and Fairies, and must love and help each other in times of difficulty, making our country more and more prosperous and heroic. strong.
Vanmau.edu.vn
|
Trong vai Lạc Long Quân, em hãy kể lại truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”
Gợi ý
DÀN BÀI
Mở bài:
+ Lạc Long Quân tự giới thiệu mình (người kể chuyện tự giới thiệu).
+ Giới thiệu chuyện sẽ kể (nguồn gốc của dân tộc Việt Nam).
Thân bài:
+ Những nét đặc biệt về ngoại hình, tài năng của Lạc Long Quân và những hành động giúp đỡ nhân dân của ngài.
+ Lạc Long Quân gặp Âu Cơ; những đặc điểm về ngoại hình, tính cách của Âu Cơ.
+ Lạc Long Quân và Âu Cơ kết duyên.
+ Âu Cơ mang thai và sinh ra cái bọc trăm trứng nở trăm con; sự kì lạ trong việc lớn lên của một trăm người con.
+ Những khó khăn trong việc chung sông của hai vợ chồng khác nòi giống dẫn đến việc Lạc Long Quân và Âu Cơ quyết định mỗi người đưa năm mươi con đến xứ sở của mình và hẹn ước giúp đỡ nhau.
+ Việc lập vua Hùng của người Việt cổ.
Kết bài:
Những suy nghĩ của Lạc Long Quân về tình cảm của các dân tộc anh em trên đất nước trải qua hàng nghìn năm lịch sử.
Vanmau.edu.vn
Xem thêm: Phân tích bài thơ “Dọn về làng” của Nông Quốc Chấn
|
As Lac Long Quan, tell the legend "The Dragon and the Fairy"
Suggest
OUTLINE
Opening:
+ Lac Long Quan introduces himself (the narrator introduces himself).
+ Introduce the story to be told (origin of the Vietnamese people).
Body of the article:
+ Special features of Lac Long Quan's appearance, talent and his actions to help the people.
+ Lac Long Quan meets Au Co; Au Co's appearance and personality characteristics.
+ Lac Long Quan and Au Co got married.
+ Au Co became pregnant and gave birth to a sac of a hundred eggs that hatched a hundred children; the strangeness of growing up a hundred children.
+ The difficulties in living together between a couple of different races led to Lac Long Quan and Au Co deciding to each bring fifty children to their country and pledging to help each other.
+ The establishment of King Hung by the ancient Vietnamese people.
End:
Lac Long Quan's thoughts on the feelings of the brotherly peoples of the country spanning thousands of years of history.
Vanmau.edu.vn
See more: Analysis of the poem "Moving back to the village" by Nong Quoc Chan
|
Trong vai mụ vợ hãy kể lại chuyện Ông lão đánh cá và con cá vàng
Gợi ý
Cứ nghĩ lại hồi ấy, tôi lại thấy hối hận biết bao nhiêu. Giá như lúc đó, tôi không quá tham lam, không có ảo tưởng điên rồ để bây giờ lại trở về con số không, làm mất lòng tin của chồng mình thì tốt biết bao! Và chắc hẳn bây giờ các cháu đã biết tôi là ai, tôi chính là mụ vợ thật đáng ghét trong truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng.
Hồi ấy, vợ chồng sống rất an bình. Tôi ở nhà may vá lưới và làm những công việc nhà, tôi còn nuôi được một con lợn mập mạp. Ông lão nhà tôi thì đi đánh cá, hôm có, hôm không. Tuy hai vợ chồng tôi già lại sống cảnh nghèo túng trong một túp lều lụp xụp trên bờ biển nhưng cuộc sống của chúng lôi vẫn êm ấm. Cho đến một ngày…
Tôi đang loay hoay trước cái máng lợn vừa bị mẻ một miếng lớn thì ông lão đi đánh cá về. Ông ấy vui vẻ kể cho tôi nghe về chuyện con cá vàng biết nói, nó hứa đáp ứng mọi yêu cầu nhưng ông lão không cần gì cả. Lúc đầu, tôi không tin, nghĩ ông ấy đùa, nhưng thấy thế, tôi tin là thật. Một cơn giận bùng lên, trong đầu tôi có ý nghĩ: "Nếu có con cá vàng ấy nói thật thì sao lão ngốc nghếch đến mức không xin gì cả? Tôi vội nói với lão chồng:
– Ông thật quá ngu ngốc! Ông nhìn xem nhà cửa chúng ta thế nào, cả cái máng cho lợn ăn cũng tả tơi. Ông hãy ra biển xin ngay con cá vàng một cái máng lợn ăn mới đi!Xem thêm: Phân tích hình ảnh Nồi cháo cám trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân-Văn 12Thế là chồng tôi đi ra biển. Tôi không biết ông ấy có xin con cá được không nhưng vẫn háo hức muốn nhìn thấy phép màu của con cá lạ. Tôi đợi một phút, hai phút rồi năm phút chẳng thấy gì. Bỗng, một luồng sáng bao quanh cái máng lợn.
Rồi khi ánh sáng biết mất… Trời! Trước mắt tôi, cái máng lợn mới toanh chẳng sứt mẻ gì cả hiện ra. Chồng tôi chạy về đến túp lều và vô cùng thích thú khi thấy cái máng mới. Tôi nhìn quanh và tự hỏi: "Có con cá có phép thuật như vậy tại sao mình phải sống trong một túp lều tồi tàn rách nát này cơ chứ??’. Tôi nói với chồng:
– Ừ! Thì đã có máng lợn mới rồi. Nhưng ông có thấy chúng ta đang sống trong một cái lều rách nát không? Hãy đi mau ra biển và xin con cá một ngôi nhà mới. Nhanh lên!
Thế là chồng tôi lại chạy ra biển. Tôi trông theo cái bóng khuất dần của chồng và mong chờ. Quả nhiên, chỉ một lát sau, tôi bàng hoàng khi thấy mình không còn ngồi trong lúp lều tối tăm nữa mà là một ngôi nhà khang trang với đầy đủ tiện nghi và sáng sủa. Tôi sung sướng ngắm mái nhà sơn đỏ với ống khói nhô cao. Tôi quả thật chưa bao giờ dám nghĩ mình có được ngôi nhà đẹp vậy.
Nhưng niềm vui chẳng kéo dài. Chỉ vài ngày là tôi cáu kỉnh vì ý nghĩ: "Thế khi đã có nhà mới rồi, mình vẫn phải làm những công việc nhà ư? Không! Không thể như thế! Tôi muốn có người hầu kẻ hạ”. Thế là tôi đanh mặt lại và nghiêm giọng nói với ông lão:Xem thêm: Nghị luận xã hội Nhân bất học bất tri lý
– Tại sao tôi lại lấy ông cơ chứ? Ông chỉ là một gã đàn ông ngu ngốc. Tôi không muốn làm một mụ nông dân quèn nữa, tôi muốn trở thành nhất phẩm phu nhân. Ông hãy đi mau ra biển và xin con cá. Nhanh lên!
Chồng tôi kêu lên:
– Bà có điên không vậy? Đã có nhà mới rồi thế mà còn muốn là nhất phẩm phu nhân ư?
Lúc đầu, ông ta lên giọng thế, nhưng tôi chỉ dọa nạt một hồi là ông phải đi. Trong chốc lát, tôi choáng váng khi thấy mình đang ở trong một tòa nhà tráng lệ. Trên người tôi, một bộ váy áo mềm mại, lấp lánh, nhìn quanh những cô gái đang quỳ dưới chân tôi. Một cô gần tôi nhất nói: "Thưa nhất phẩm phu nhân! Phu nhân còn cần gì nữa không ạ?" Thì ra điều tôi mong muốn đã thành hiện thực. Thế là từ bây giờ tôi có thể chơi bời thoải mái rồi!
Tôi đứng trên thềm cao, sai phái gia nhân việc này việc nọ. Tôi thấy mình thật cao quý. Bỗng tôi nhìn thấy chồng tôi, cái vẻ mặt nhếch nhác, quần áo tồi tàn đen phát ghét. Tôi đuổi ông ta xuống chăm sóc cho ngựa.
Vui vẻ được mấy hôm, rồi tôi lại nghĩ: "Dù làm nhất phẩm phu nhân đi nữa thì vẫn phải cúi mình trước những ông hoàng bà chúa! Mình phải làm nữ hoàng cho cả thiên hạ quỳ xuống dưới chân!". Thế là tôi cho gọi ông chồng đến và bắt ông ta phải đi xin con cá vàng cho tôi làm nữ hoàng. Ông lão giãy lên nói:
– Thôi tôi xin mụ. Mụ ăn chẳng biết đường ăn nói chẳng biết đường nói mà đòi làm nữ hoàng ư?Xem thêm: Tưởng tượng em có lần mắc lỗi và bị biến thành con mèo trong ba ngàyTức điên người, tôi tát cho ông ta một cái trời giáng, đây là lần đầu tiên tôi đánh ông chồng. Tôi gào to:
– Mày dám cãi một bà nhất phẩm phu nhân à? Có đi không hay là ta sai người lôi đi?
Nhìn ông lão lủi thủi đi, tôi hả hê lắm. Thế là chỉ trong giây phút tôi đã trở thành nữ hoàng, điều mà tôi nằm mơ cũng không được. Đầu đội vương miện, tôi uể oải nhấm nháp những món ăn của phương xa mà thị nữ dâng lên. Ông lão đã trở về, nhìn tôi cười:
– Tâu nữ hoàng, bây giờ nữ hoàng đã vừa lòng rồi chứ ạ?
Tôi không thèm trả lời, ra lệnh đuổi lão đi.
Nhưng chỉ vài hôm, tôi chán làm nữ hoàng, liền sai người đi tìm ông chồng, bắt ông ta đòi con cá vàng cho tôi làm vua của biển cả. Ông ấy không dám nói một lời, lủi thủi đi. Tôi mơ màng nghĩ đến cảnh mình làm Long Vương ngự trên mặt biển, con cá vàng hầu hạ bên người tôi và làm theo mọi ý muốn của tôi. Chợt đầu óc tôi quay cuồng, lâu đài biến mất, kẻ hầu người hạ, vàng bạc cũng tan, tất cả trở về như cũ, tôi là một bà lão nghèo nàn, mặc cái váy vá ngồi trước cái máng..lợn sứt mẻ trước túp lều lụp xụp.
Dù bây giờ, ông chồng tôi đã tha thứ cho tôi nhưng không bao giờ tôi lại tha thứ cho mình. Đây chính là một bài- học thật xứng đáng đối với tôi. Mong rằng đừng ai phạm sai lầm như tôi. Xin chào tạm biệt các bạn.
Vanmau.edu.vn
|
As the wife, tell the story of the old fisherman and the goldfish
Suggest
Whenever I think back to that time, I feel so much regret. If only I hadn't been so greedy at that time, didn't have crazy delusions and now I'm back to nothing, losing my husband's trust, how nice it would be! And surely now you all know who I am, I am the hateful wife in the story The Old Fisherman and the Goldfish.
At that time, the couple lived very peacefully. I stay at home sewing nets and doing housework, and I also raise a fat pig. My old man goes fishing, some days he does, some days he doesn't. Although my husband and I are old and live in poverty in a shabby hut on the beach, our lives are still peaceful. Until one day…
I was struggling in front of the pig trough that had just had a big chip on it when the old man came back from fishing. He happily told me about the talking goldfish, which promised to meet all requests but the old man didn't need anything. At first, I didn't believe him, thinking he was joking, but seeing that, I believed it was true. An anger flared up, and in my mind was the thought: "If that goldfish is telling the truth, why are you so stupid that you don't ask for anything? I quickly said to my husband:
– You are so stupid! He looked at our house, even the pig feeding trough was in tatters. Please go to the sea and ask the goldfish for a new pig feeding trough! See more: Analyzing the image of the bran porridge pot in the short story "The Wife Picked Up" by Kim Lan-Van 12So my husband went to the sea. I didn't know if he could ask for the fish, but I was still eager to see the miracle of the strange fish. I waited a minute, two minutes, then five minutes and nothing. Suddenly, a beam of light surrounded the pig trough.
Then when the light disappeared... Oh God! Before my eyes, a brand new pig trough appeared without any dents. My husband ran back to the hut and was extremely excited to see the new trough. I looked around and asked myself: "If there is such a magical fish, why do I have to live in this shabby, tattered hut??'. I told my husband:
- YES! There is a new pig trough now. But do you see we are living in a tattered tent? Go quickly to the sea and ask the fish for a new home. Hurry up!
So my husband ran to the beach again. I watched my husband's fading shadow and waited. Sure enough, just a moment later, I was shocked to see that I was no longer sitting in a dark hut but in a spacious house with full amenities and light. I happily looked at the red-painted roof with its high chimney. I really never thought I would have such a beautiful house.
But the joy didn't last. Just a few days later I was irritable because I thought: "So when I have a new house, do I still have to do the housework? No! That's not possible! I want to have servants and servants." So I was stubborn. He turned his face and said in a serious voice to the old man: See more: Social commentary People are not educated and are not rational
– Why did I marry you? He's just a stupid man. I don't want to be a humble farmer anymore, I want to become a first-class lady. Go quickly to the sea and ask for a fish. Hurry up!
My husband exclaimed:
– Are you crazy? You already have a new house, but you still want to be a first-class wife?
At first, he raised his voice like that, but I only threatened him for a while and he had to leave. For a moment, I was stunned to find myself in a magnificent building. On my body, a soft, sparkling dress, looking around at the girls kneeling at my feet. One of the girls closest to me said: "My dearest lady! Is there anything else you need?" It turns out what I wanted came true. So from now on I can play freely!
I stood on the high step, ordering servants to do this and that. I feel so noble. Suddenly I saw my husband, his face disheveled, his clothes black and disgusting. I sent him down to take care of the horse.
I was happy for a few days, then I thought: "Even if I become a first-class lady, I still have to bow down to kings and queens! I have to be a queen for the whole world to kneel at my feet!". So I called my husband and forced him to ask for a goldfish to let me be his queen. The old man raised his voice and said:
– Please, I beg you. She doesn't know how to eat or speak and doesn't know how to speak, so she wants to be queen? See more: Imagine you once made a mistake and turned into a cat for three days. Angry, I slapped him hard, This is the first time I hit my husband. I shouted loudly:
– Do you dare to argue with a first class lady? Are you going or should I send someone to drag you away?
Looking at the old man walking away, I was very happy. So in just a moment I became a queen, something I couldn't even dream of. Wearing a crown, I lazily sipped the dishes from far away that the maid offered me. The old man returned, looked at me and smiled:
– Your Majesty, are you satisfied now?
I didn't bother to answer and ordered him to go away.
But within a few days, I was tired of being queen, so I sent someone to find my husband and make him ask for the goldfish so that I could become king of the sea. He didn't dare say a word and just walked away. I dreamily thought of myself as the Dragon King sitting on the sea, the goldfish serving me and following my every wish. Suddenly my mind was spinning, the castle disappeared, the servants, the gold and silver melted away, everything returned to the way it was, I was a poor old woman, wearing a patched dress sitting in front of a mangled pig trough. in front of the shanty hut.
Even though my husband has forgiven me now, I will never forgive myself. This is a truly worthy lesson for me. Hopefully no one makes the same mistake as me. Hello everyone.
Vanmau.edu.vn
|
Trong vai Người mẹ hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng
Gợi ý
Mấy đêm nay cu Bi không chịu đi ngủ sớm. Nó vẫn quen trước khi đi ngủ được bà kể cho nghe một câu chuyện. Vậy mà bà đi lên Bắc Giang mãi chưa về. Bố nó kể chuyện gì nó cũng không nín, đành dỗ rằng: "Cu Bi cứ ngủ đi, tí nữa bố nhờ bà tiên đến kể chuyện Thánh Gióng cho con nghe". Cu Bi vẫn ấm ức nhưng rồi cũng ngủ thiếp đi. Quả nhiên trong mơ, nó thấy một bà cụ đến kể cho nó nghe câu chuyện ngày xưa…
"Cháu ạ, bà chính là mẹ của Thánh Gióng đây. Bà sẽ kể cho cháu nghe chuyện Thánh Gióng đánh giặc Ân như thế nào nhé".
Ngày ấy ông và bà đều đã già mà chưa có nổi một mụn con. Ông bà buồn lắm nhưng không biết làm thế nào. Một hôm bà ra đồng, thấy một vết chân rất to giữa ruộng, liền ướm thử chân vào đấy. Không ngờ về nhà bà mang thai. Một năm sau, bà sinh được một cậu con trai bụ bẫm, kháu khỉnh. Bà mừng không để đâu cho hết, nghĩ chắc vì mình ăn ở hiền lành nên được Trời Phật thương.
Em bé rất khoẻ mạnh, đẹp đẽ, chỉ có điều từ lúc lọt lòng cho đến năm lên ba tuổi, nó không hề nói cười hay nô đùa chạy nhảy, suốt ngày nằm quay mặt vào vách, mặc cho bà ra sức chuyện trò, dỗ dành. Bà đã khóc rất nhiều nhưng đứa trẻ vẫn cứ đặt đâu nằm đấy, không nói không cười.Xem thêm: Tả cảnh đầm sen vào mùa hạNăm ấy, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Quân giặc rất đông và hung ác, đi đến đâu chúng tàn phá, cướp bóc đến đấy. Quan quân triều đình đánh nhau với chúng mấy trận toàn thua, tình thế nước nhà thật vô cùng nguy ngập.
Một hôm bà đang thu dọn nhà cửa, chuẩn bị chạy giặc thì có tiếng sứ giả rao:
– Bớ làng trên xóm dưới! Bớ nhân dân khắp chốn cùng quê! Giặc Ân đã sang xâm lược nước ta, gây ra bao tội ác. Đất nước lâm nguy. Ai có tài hãy ra giúp nước!
Nghe sứ giả nói vậy, bà vừa thu dọn vừa lẩm bẩm than phiền: "Con người ta ai cũng hết lòng vì dân vì nước. Con nhà mình đã ba tuổi rồi mà vẫn cứ nằm một chỗ thế kia. Không biết lớn lên có đỡ đần được cha mẹ chút gì không chứ chẳng mong giúp nước." Bất chợt có tiếng nói:
– Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Bà giật mình, sửng sốt. Ai vừa nói câu ấy? Nhưng trong nhà có ai đâu? Không có lẽ…
– Kìa mẹ! Mẹ ra gọi sứ giả vào đây đi! Nhanh lên, kẻo ông ấy đi mất bây giờ!
Bà mừng cuống. Đúng là nó rồi. Không ngờ vừa nói câu đầu tiên, nó đã đòi đi đánh giặc. Không kịp hết ngạc nhiên, bà vội chạy ra mời sứ giả vào. Nó bảo ông ta:Xem thêm: Cảm nhận của em về nhân vật Tấm trong Tấm Cám– Ngươi về bẩm với nhà vua, rèn cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một chiếc nón bằng sắt, ta sẽ đánh tan quân giặc này.
Sứ giả kinh ngạc quay về cung. Bà quay vào nấu cơm cho con. Bỗng dưng nó ăn rất khoẻ, bao nhiêu cơm cũng không đủ. Bà con làng xóm nghe tin, tới tấp mang cơm mang cà sang góp. Chẳng mấychốc đã có bảy nong cơm, ba nong cà bày ra.
Thế mà nó cũng chỉ ăn loáng cái đã hết. Con bà lớn nhanh quá. Áo thì vừa may xong đã chật căng đứt chỉ.
Sứ giả mang roi sắt, ngựa sắt, nón sắt đến. Con bà vươn vai hóa thành tráng sĩ, mình cao hơn trượng. Tráng sĩ đội nón sắt, cầm gậy sắt, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt tung bờm hí vang rồi cất vó phi như bay, bụi cuốn theo mù mịt. Dân làng nô nức cầm gậy gộc, dao cuốc chạy theo. Bà cũng đã già, lại là phụ nữ, đành ra ngõ ngóng tin con thắng trận trở về.
Chẳng mấy chốc đã có tin vui. Quân giặc bị đánh tan tác, tháo chạy về nước. Đám đàn ông trai tráng trong làng cũng đã trở về, náo nức ca ngợi con trai bà giỏi giang như thần. Bà cứ chờ, chờ mãi mà vẫn không thấy nó trở về. Lòng người mẹ nóng như lửa đốt. Linh tính bảo bà rằng con bà sẽ không bao giờ trở về nữa.Xem thêm: Phân tích nhân vật Ông lão đánh cá trong tác phẩm Ông Lão Đánh Cá và Con Cá Vàng.Thế rồi một ngày kia bà nằm mộng thấy có sứ giả nhà trời về báo: sau khi đánh tan giặc Ân, Ngọc Hoàng đã ra lệnh triệu con bà về thiên đình gấp, vì thế nó không kịp về chào từ biệt mẹ già. Bà đem câu chuyện trong mơ kể cho dân làng nghe, lúc bấy giờ họ mói nói thật với bà rằng: chính mắt họ trông thấy tráng sĩ cưỡi ngựa leo lên đỉnh núi rồi cả người cả ngựa bay thẳng lên trời như một ánh chớp sáng.
Mọi người đều gọi nó là Thánh Gióng. Nhà vua thấy nó được sinh ra ở làng Phù Đổng, phong cho nó làm Phù Đổng Thiên Vương. Nhưng đối với bà, đó mãi mãi vẫn đứa con bé bỏng…".
Sáng hôm sau cu Bi ngủ dậy thì đã thấy bà nó đang quét lá ngoài sân. Mà sao trông bà giống bà cụ trong câu chuyện hôm qua đến thế!
Vanmau.edu.vn
|
As the Mother, tell the story of Saint Giong
Suggest
These past few nights, Cu Bi has refused to go to bed early. He is still used to being told a story by his grandmother before going to bed. Yet she went to Bac Giang and never returned. No matter what his father told him, he couldn't keep quiet, so he had to coax him: "Cu Bi, just go to sleep, I'll ask the fairy to come and tell you the story of Saint Giong later." Cu Bi was still upset but then fell asleep. Sure enough, in the dream, he saw an old woman come and tell him a story from the past...
"My dear, I am Saint Giong's mother. I will tell you the story of how Saint Giong fought the An invaders."
At that time, he and she were both old and had not yet had a child. They are very sad but don't know what to do. One day, when she went to the field, she saw a very large footprint in the middle of the field, so she immediately tried to put her foot in it. Unexpectedly, she came home pregnant. A year later, she gave birth to a plump, handsome son. She was so happy that she thought it was because she was kind and gentle that God and Buddha loved her.
The baby was very healthy and beautiful, but from the time he was born until he was three years old, he never talked or laughed or ran or jumped, lying all day with his face facing the wall, despite her trying to talk. appease. She cried a lot but the child still lay there, not speaking or smiling. See more: Description of the lotus pond in the summer That year, the An invaders invaded our country. The enemy army was very large and ferocious. Wherever they went, they destroyed and plundered. The imperial army fought several battles with them and lost, the country's situation was extremely dangerous.
One day, she was cleaning up the house, preparing to flee, when a messenger heard the voice:
– Bully the village above and the village below! Ignore people everywhere and in the countryside! The An enemy invaded our country, causing many crimes. The country is in danger. Anyone with talent should come out and help the country!
Hearing the messenger say that, she tidied up and muttered a complaint: "All people are devoted to the people and the country. My child is already three years old and still lying in the same place like that. I don't know if he will grow up or not." Can you help my parents a little, I don't want to help the country." Suddenly a voice said:
– Mom, invite the messenger to come here for me!
She was startled and shocked. Who just said that? But is there anyone in the house? No maybe…
– Hey mom! Mom, call the messenger here! Hurry, or he will disappear now!
She was overjoyed. That's it. Unexpectedly, as soon as he said the first sentence, he wanted to go fight the enemy. Not having time to get over her surprise, she quickly ran out to invite the messenger in. It told him: See more: My feelings about the character Tam in Tam Cam - You go back and tell the king, forge me an iron horse, an iron whip and an iron helmet, I will destroy it. This enemy army.
The messenger returned to the palace in surprise. She went back to cooking for her children. Suddenly he ate very well, no matter how much rice he ate, it wasn't enough. When the villagers heard the news, they rushed to bring rice and eggplants to contribute. Soon there were seven steamed rice and three grilled egg dishes.
Yet it only ate what was gone. Your child is growing up so fast. As soon as the shirt was sewn, it was already tight and had broken threads.
The messenger brought iron whips, iron horses, and iron helmets. Her son stretched and turned into a warrior, taller than a staff. The soldier put on an iron helmet, held an iron stick, and jumped on the horse's back. The iron horse blew its mane and neighed loudly, then took off and galloped away, dust swirling in the air. The villagers eagerly ran after them, holding sticks, knives and hoes. She was also old and a woman, so she had to go out to wait for news that her son would return victorious.
Soon there was good news. The enemy army was defeated and fled back to the country. The young men in the village also returned, excitedly praising her son for being as talented as a god. She kept waiting and waiting but still did not see it return. A mother's heart is as hot as fire. Her intuition told her that her son would never return. See also: Analysis of the character of the old fisherman in the work The Old Fisherman and the Goldfish. Then one day she dreamed that there was a messenger. Heaven returned to report: after defeating the An invaders, the Jade Emperor ordered her son to be summoned to heaven urgently, so he did not have time to say goodbye to his old mother. She told the story of her dream to the villagers, only then did they tell her the truth: with their own eyes they saw the hero riding a horse climbing to the top of the mountain and then both his body and horse flying straight up into the sky like a flash of light. .
Everyone calls it Thanh Giong. The king saw that he was born in Phu Dong village and appointed him Phu Dong Thien Vuong. But for her, it will always be her baby...".
The next morning, when Bi woke up, he saw his grandmother sweeping leaves in the yard. Why does she look so much like the old lady in yesterday's story!
Vanmau.edu.vn
|
Trong vai Sứ giả hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng
Gợi ý
Trong cuộc đời có những chuyện thật kì lạ. Ta may mắn được chứng kiến câu chuyện về Phù Đổng Thiên Vương. Hôm nay ta sẽ kể cho các cháu nghe chuyện ngày xưa chàng đã đánh đuổi giặc Ân như thế nào.
Nghe tin giặc Ân sắp sang xâm lược, triều đình vô cùng lo lắng. Nhà vua cử ta đi khắp nơi kêu gọi người tài đánh đuổi quân thù. Khi ta đến kêu loa ở vùng làng Gióng thì có bà cụ ngập ngừng gọi ta vào nhà. Ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy trong nhà chỉ có chú bé chừng ba tuổi, trông rất khôi ngô. Chú bé cất giọng nói:
– Ngươi về bẩm với nhà vua, rèn cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một chiếc nón bằng sắt, ta sẽ đánh tan quân giặc này.
Ta choáng váng trước những lời nói ấy. Cậu bé này thì đánh sao nổi giặc? Nhưng thấy thái độ nghiêm túc của cậu bé, ta ngạc nhiên vô cùng. Chào hai mẹ con bà cụ ra về, ta lân la hỏi thăm hàng xóm bà con kể rằng, và được họ cho biết. Hai ông bà vốn nghèo khó, lại hiếm muộn đường con cái nhưng sống rất lương thiện, phúc hậu. Một hôm, bà lão ra thăm đồng, thấy một vết chân rất to ben ướm thử chân vào. Thế rồi có mang. Hai ông bà mừng lắm. Nhưng một năm sau, bà cụ mới sinh, lúc đó ông lão đã mất. Kì lạ thay, đứa bé đẹp đẽ đáng yêu nhưng không nói không cười, đặt đâu nằm đấy. Năm nay nó đã ba tuổi mà mọi sự vẫn không thay đổi.Xem thêm: Hãy kể diễn cảm truyện Cây Bút Thần bằng lời kể của em và nêu cảm nhận về câu chuyện đó.Chắc đúng là người nhà trời xuống giúp nước ta rồi. Ta vội trở vồ tâu trình lên nhà vua. Người nửa tin nửa ngờ song vẫn tập hợp tất cả sắt thép mọi nơi, tất cả thợ giỏi đều được mời về cung để kịp rèn một con ngựa sắt, một chiếc nón sắt và một cây gậy sắt lớn.
Giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước vô cùng nguy ngập. Ta tuân mệnh vua mang đến các thứ cậu bé yêu cầu. Ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy trước mắt mình không phải là một cậu bé mà là chàng thanh niên khỏe mạnh. Chàng vươn vai hóa thành tráng sĩ, mình cao hơn trượng. Tráng sĩ đội nón sắt, cầm gậy sắt, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt vươn cổ hí lén một tiếng, lửa phun rừng rực đốt cháy trụi cả một bụi tre đầu ngõ.
– Lạy mẹ, con đi!
Chàng nói rồi ra roi, Ngựa tung bờm phi thẳng đến chỗ quân giặc. Khắp nơi nhân dân nô nức cầm dao, gậy theo sau. Ngựa phi đến đâu, tre hai bên đường vàng sém đến đấy (sau này được gọi là tre đằng ngà), vết chân ngựa in xuống đất thành một dãy ao hồ (bây giờ vẫn còn ở làng Phù Đổng).
Trông thấy ta từ xa, quân giặc vội quay đầu, vứt giáo tháo chạy. Nhưng chúng chạy đâu cho thoát? Ngựa phun lửa đốt chúng cháy trụi từng mảng, roi sắt vung lên một lần thì đã có cả chục thằng bị hất tung lên trời.Xem thêm: Tả cảnh Hồ GươmBỗng "rắc" một cái, chiếc roi sắt gẫy làm đôi. Quân giặc thấy thế mừng rỡ, định hô nhau xông lại. Sẵn các bụi tre bên đường, chàng vươn mình nhổ bật lên, quật túi bụi xuống đầu giặc. Chẳng mấy chốc quân giặc đã không còn một mống.
Giặc tan, tráng sĩ một mình một ngựa lên núi. Lên đến đỉnh, chàng cởi áo giáp vắt trên ngọn cây cao, rồi cùng ngựa sắt từ từ cất mình bay vào không trung.
Nhà vua về thăm làng Gióng, được dân làng kể: từ sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu vươn vai hóa thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt, đánh tan giặc rồi về trời. Nhà vua phong chàng là Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ ngay tại quê nhà, hàng năm mở hội rất to. Năm nào ta cũng đến hội để tỏ lòng ngưỡng mộ chàng, người anh hùng của nhân dân.
Vanmau.edu.vn
|
As the Messenger, tell the story of Saint Giong
Suggest
In life there are strange things. We were fortunate to witness the story of Phu Dong Thien Vuong. Today I will tell you the story of how he fought off the An enemy in the past.
Hearing that the An enemy was about to invade, the court was extremely worried. The king sent me everywhere to call for talented people to expel the enemy. When I went to call the loudspeaker in Giong village, an old lady hesitantly called me into her house. I was extremely surprised to see that there was only a little boy about three years old in the house, looking very handsome. The boy raised his voice and said:
- You go back and report to the king, forge me an iron horse, an iron whip and an iron hat, I will defeat this enemy army.
I was stunned by those words. How can this boy fight against the enemy? But seeing the boy's serious attitude, I was extremely surprised. Saying goodbye to the old mother and her child as they left, I asked the neighbors what they had to say, and they told me. The couple was poor and had no children, but they lived a very honest and kind life. One day, the old woman went to visit the field, saw a very large footprint and tried to put her foot in it. Then there was pregnancy. The two of them were very happy. But a year later, the old woman gave birth, and at that time the old man passed away. Strangely enough, the baby was beautiful and adorable, but he didn't speak or smile, just lying there. This year he is three years old and everything still hasn't changed. See more: Tell the story of The Magic Pen in your own words and express your feelings about that story. It must be true that people from heaven have come down to help our country. . I quickly returned and reported to the king. He half believed and half doubted, but still gathered all the iron and steel from everywhere. All the good workers were invited to the palace to promptly forge an iron horse, an iron hat and a large iron stick.
The enemy has reached the foot of Trau Mountain, the country is extremely dangerous. I obeyed the king's orders and brought everything the boy requested. I was extremely surprised to see that before my eyes was not a boy but a healthy young man. He stretched his arms and turned into a warrior, taller than a staff. The soldier put on an iron helmet, held an iron stick, and jumped on the horse's back. The iron horse stretched its neck and neighed secretly, and the fire erupted, burning down a bamboo bush at the end of the alley.
– Mom, I'm leaving!
He spoke and then used the whip. The horse unleashed its mane and galloped straight towards the enemy. Everywhere people eagerly followed with knives and sticks. Wherever the horse galloped, the bamboo on both sides of the road scorched yellow (later called ivory bamboo), the horse's footprints were printed on the ground to form a series of ponds and lakes (still in Phu Dong village today).
Seeing us from afar, the enemy soldiers quickly turned around, dropped their spears and fled. But where do they run to escape? The horse breathed fire and burned them to pieces. With one swing of the iron whip, dozens of them were thrown into the sky. See more: Description of Hoan Kiem Lake scene Suddenly, with a "crack", the iron whip broke in half. The enemy soldiers were happy to see this and were about to shout to each other to rush back. Having prepared the bamboo bushes on the side of the road, he stretched himself and pulled them up, bringing the dust bag down on the enemy's head. Soon the enemy army was gone.
When the enemy was defeated, the soldier went up the mountain alone and on his horse. Reaching the top, he took off his armor and hung it on the top of a tall tree, then slowly took off with his iron horse and flew into the air.
The king visited Giong village and was told by the villagers: since meeting the messenger, the boy grew up as fast as he could. No matter how much food he ate, he was not satisfied. The clothes he had just sewn were already tight, so his relatives had to contribute rice to feed him. When the enemy came, he stretched his arms and transformed into a majestic soldier, defeated the enemy and returned to heaven. The king named him Phu Dong Thien Vuong, established a temple in his hometown, and held a huge festival every year. Every year we come to the festival to pay our respects to him, the people's hero.
Vanmau.edu.vn
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.