vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Trình bày ý kiến của anh chị về quan niệm chọn nghề nghiệp trong tương lai
Hướng dẫn
Trình bày ý kiến của anh chị về quan niệm chọn nghề nghiệp trong tương lai
Bài làm
Khoảng thời gian cuối cấp ba cũng là lúc rất nhiều phụ huynh, học sinh băn khoăn về việc chọn nghề nghiệp trong tương lai. Có rất nhiều người cho rằng nên nghe theo lời bố mẹ và những người đi trước. Cũng có người cho rằng nên chọn theo ý thích của bản thân. Vậy, ý kiến nào là đúng?
Việc chọn nghề nghiệp trong tương lai là một việc rất quan trọng. Nó quyết định rất nhiều trong cuộc sống của bạn sau này. Vì thế, rất nhiều người cho rằng cần phải nghe theo bố mẹ và những người đi trước. Quan niệm này cũng có ưu điểm. Đó là, bố mẹ và những người đi trước là những người từng trải, có kinh nghiệm, họ sẽ có những định hướng tốt cho con em mình. Tuy nhiên, nếu như định hướng của gia đình phù hợp với nguyện vọng và khả năng của các bạn thì việc định hướng mới có tác dụng tốt nhất.
Hiện nay, bố mẹ và gia đình nhiều người luôn cho rằng, học đại học mới có thể thành công. Và vào đại học, thì việc lựa chọn các ngành đều phải là ngành “hot”, điểm cao chứ không dựa vào ý thích, khả năng của các con em mình. Rất nhiều bạn phụ thuộc quá nhiều vào ý kiến của mọi người, mà không chọn theo ý thích của mình. Hay có những gia đình cố gắng tìm đủ mọi cách cho con đi học đại học, dù các bạn ấy không hề thích hoặc không có khả năng. Có lẽ đa số các gia đình và thậm chí là các bạn học sinh cũng có một suy nghĩ rằng “Phải đi học đại học”. Có lẽ chính điều này đã dẫn đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” ở Việt Nam hiện nay. Quá nhiều trường đại học được mở ra tràn lan, và người đi học cũng tràn lan. Kết quả là tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường ngày càng đáng báo động.
Một số người thì cho rằng, nên chọn nghề nghiệp tương lai dựa vào ý thích của mình. Quan niệm này cũng có ý đúng, vì nếu dựa vào ý thích, các bạn sẽ có động lực học, có động lực cố gắng, có động lực tìm tòi và sáng tạo. Tuy nhiên, quan trọng nhất là phải biết dựa vào khả năng của mình để chọn, chứ không chỉ dựa vào ý thích. Có thể bạn rất thích ca hát, nhưng bạn thi vào các trường năng khiếu không đỗ, hay thi qua các cuộc thi không bao giờ được giải, thì bạn chỉ nên coi ca hát là niềm đam mê bên cạnh công việc chính, chứ đừng nên cố chấp theo đuổi, chọn ca hát là nghề nghiệp trong tương lai.
Nhiều tấm gương bỏ học đại học mà vẫn thành công như Bill Gates,…, nhưng bạn nên nhớ, họ phải trả giá nhiều hơn ở “trường đời”, họ học thông qua trải nghiệm, qua cố gắng. Vì vậy, điều quan trọng nhất là bạn phải biết cố gắng, phải biết phấn đấu, phải biết mình muốn gì, biết con đường đi của mình trong tương lai. Đừng để tương lai của mình bị quyết định bởi người khác, cũng đừng quá mù quáng mà lao theo những thứ viển vông. Hãy sáng suốt để chọn một tương lai tốt nhất cho mình.
|
Present your opinion about your future career choice
Instruct
Present your opinion about your future career choice
Assignment
The end of high school is also the time when many parents and students wonder about choosing a future career. There are many people who believe that they should listen to their parents and predecessors. There are also people who believe that you should choose according to your own preferences. So, which opinion is correct?
Choosing a future career is a very important thing. It determines a lot in your life later. Therefore, many people think that it is necessary to listen to their parents and predecessors. This concept also has advantages. That is, parents and predecessors are experienced people, they will have good directions for their children. However, if the family's orientation matches your wishes and abilities, the orientation will have the best effect.
Nowadays, many parents and families always think that only by going to college can they be successful. And when entering university, the choice of majors must be "hot" majors with high scores, not based on the interests and abilities of your children. Many of you depend too much on people's opinions, without choosing according to your preferences. Or there are families who try to find every way to send their children to college, even though they don't like it or can't afford it. Perhaps most families and even students have the thought that "You have to go to college". Perhaps this has led to the situation of "surplus teachers and lack of workers" in Vietnam today. Too many universities were opened everywhere, and people went to school too. As a result, the unemployment situation of new graduates is increasingly alarming.
Some people believe that you should choose your future career based on your preferences. This concept is also correct, because if you rely on your interests, you will be motivated to learn, motivated to try, motivated to explore and create. However, the most important thing is to know how to choose based on your abilities, not just based on your preferences. Maybe you really like singing, but you don't pass the entrance exam to gifted schools, or pass competitions and never win, then you should only consider singing as a passion besides your main job, not should stubbornly pursue and choose singing as a future career.
There are many examples of people dropping out of college and still being successful like Bill Gates, etc., but you should remember, they have to pay more in "life school", they learn through experience, through effort. Therefore, the most important thing is that you must know how to try, must know how to strive, must know what you want, know your path in the future. Don't let your future be decided by others, and don't be too blind to follow unrealistic things. Be wise to choose the best future for yourself.
|
Trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ sự cần thiết của cả trăng và đèn trong bài ca dao sau
Hướng dẫn
– Em cần nắm được ích lợi của trăng và đèn (khi không có điện) để đưa ra ý kiến lập luận.
– Ý kiến lập luận cần thể hiện quan điếm cả trăng và đèn đều có ích.
Bài tham khảo
Mỗi chúng ta đều không ngừng học tập và làm việc. Sẽ ra sao nếu mỗi đêm không có ánh sáng của đèn để đọc sách, làm bài? Ánh sáng của đèn rất cần thiết đôi với mỗi con người. Nhưng không vì thế mà không quí ánh trăng. Trăng đem đến vẻ thơ mộng cho cảnh vật. Trăng làm cho đất trời thêm khoáng đãng, trăng làm cho tâm hồn con người thêm phong phú. Ớ những nơi không có ánh đèn, trăng giúp con người sinh hoạt, di lại thuận tiện hơn. Nhưng nếu vì thế mà coi thường đèn thì thật sai lầm. Trăng cũng có lúc bị mờ bởi những áng mây che. Trăng rất tuyệt vời nhưng không thể thiếu đèn. Chính vì vậy, trăng và đèn đều có ích cho cuộc sống con người.
|
Present your opinion to convince everyone of the necessity of both the moon and the lights in the following folk song
Instruct
– You need to understand the benefits of the moon and lights (when there is no electricity) to make an argument.
– Argumentative opinions need to express the view that both the moon and the lamp are beneficial.
Reference article
Each of us is constantly learning and working. What would happen if every night there was no light to read books or do homework? Lamp light is very necessary for every human being. But that doesn't mean we don't appreciate the moonlight. The moon brings a poetic look to the landscape. The moon makes heaven and earth more spacious, and the moon enriches the human soul. In places where there is no light, the moon helps people live and travel more conveniently. But if you disregard the lights because of that, it's a mistake. The moon is also sometimes obscured by clouds. The moon is wonderful but not without lights. That's why the moon and lights are both beneficial to human life.
|
Trình bày ý kiến hai tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên” và “Học thầy không tày học bạn – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
Tôn sư trọng đạo là một truyền thống lâu đời của dân tộc ta. Để tỏ lòng tôn trọng, biết ơn thầy giáo và ghi nhận vai trò to lớn của thầy giáo đối với sự thành đạt của mỗi cá nhân, tục ngữ ta có câu:
Không thầy đố mày làm nên.
Nhưng cũng lại có truyền thống hiếu học. Không chỉ học thầy, chúng ta còn học bạn:
Học thầy không tày học bạn.
Hai câu tục ngữ đều nói lên tinh thần hiếu học, nhưng thể hiện hai quan niệm dường như mâu thuẫn. Vậy chúng ta nên hiểu việc học thầy học bạn như thế nào cho đúng? Và bản thân chúng có mâu thuẫn hay không?
Xét cho cùng thì hai câu tục ngữ trên không hề mâu thuẫn vì cả hai câu đều nói về vai trò và tác dụng của người dạy đối với người học. Nhưng hai câu tục ngữ lại có chỗ khác nhau do sự tách biệt người dạy là thầy giáo và người dạy là bạn bè ở hai câu. Do sự tách biệt trong so sánh ở hai câu mà hai câu tục ngữ bị đẩy về hai thái cực. “Không thầy đố” mày làm nên” thì tuyệt đối hóa vai trò của người thầy. “Học thầy không tày học bạn” lại tuyệt đối hóa vai trò của người bạn.
Câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn” chưa thỏa đáng vì quá hạ thấp vai trò của người thầy, quá đề cao tác dụng của bạn bè trong việc học. Trong học tập, thầy giáo là người chủ đạo, học trò là người chủ động, bạn bè là người hỗ trợ, giúp đỡ, “xúc tác”. Vì vậy nói “học thầy không tày học bạn” là thái quá, hạ thấp người thầy, quá đề cao vai trò, tác dụng của việc học hỏi bạn bè, xem học bạn hơn học thầy. “Học thầy không tày học bạn” là sai.
Thoáng nhìn, hai câu “Không thầy đố” mày làm nên” và “Học thầy không tày học bạn” dường như là mâu thuẫn. Nhưng khi sóng đôi, chúng sẽ cho ta bài học bổ ích, hoàn chỉnh: vừa kính trọng thầy, vừa coi trọng bạn. Kính trọng thầy để tỏ lòng tôn sư trọng đạo đối với người đã dìu dắt ta “làm nên”. Tôn trọng bạn để học hỏi, nâng đỡ nhau cùng tiến bộ.
|
Presenting the opinion of two proverbs "If you don't have a teacher, you can do it" and "If you don't learn from a teacher, you won't be able to learn from your friends - Test and sample essay 8
Instruct
Assignment
Respecting religion is a long-standing tradition of our nation. To show respect and gratitude to teachers and acknowledge the great role teachers play in each individual's success, we have a proverb:
Should not his teacher.
But there is also a tradition of studiousness. Not only do we learn from teachers, we also learn from friends:
Learning from the teacher is not good at learning from friends.
The two proverbs both speak of the spirit of studiousness, but express two seemingly contradictory concepts. So how should we understand learning from a teacher and a friend correctly? And are they themselves contradictory?
After all, the two proverbs above are not contradictory because both of them talk about the role and effect of the teacher on the learner. But the two proverbs are different due to the separation of the teacher as teacher and the teacher as friend in the two sentences. Due to the difference in comparison in the two sentences, the two proverbs are pushed to two extremes. "If the teacher doesn't challenge you, you can do it" then makes the role of the teacher absolute. "Learning from a teacher is not enough to learning from a friend" absolutizes the role of a friend.
The proverb "Learning from a teacher is not enough to learn from your friends" is not satisfactory because it too downplays the role of the teacher and overemphasizes the effect of friends in learning. In learning, the teacher is the leader, the students are the proactive ones, and friends are the ones who support, help, and "catalyze". Therefore, saying "learning from a teacher is not good enough to learn from friends" is outrageous, degrading the teacher, over-emphasizing the role and effect of learning from friends, considering learning from friends more than learning from the teacher. "Learning from the teacher is not enough to learn from your friends" is wrong.
At first glance, the two sentences "If you don't have a teacher, you can do it" and "If you don't learn from the teacher, you won't be able to learn from your friends" seem to be contradictory. But when paired, they will give us a useful and complete lesson: both respecting the teacher and respecting friends. Respect the teacher to show respect and respect for the person who guided us to "achieve". Respect each other to learn, support each other and progress together.
|
Trình bày ý kiến thế nào là một người bạn tốt.
Hướng dẫn
Trình bày ý kiến thế nào là một người bạn tốt.
Trong cuộc sống chúng ta không chỉ cần có người thân trong gia đình, mà còn rất cần những người bạn tốt. Vậy một người bạn tốt là người như thế nào?
Theo em, người bạn tốt trước hết là người dễ gần gui, có thể hòa nhập với các bạn cùng lớp. Nếu biết hòa nhập với các bạn khác thì riêng bản thân bạn đó đã có nhiều bạn, và chúng ta dễ dàng tìm thấy ở đây một người bạn tốt.
Người bạn tốt phải là người có lòng tốt, biết yêu thương bạn bè. Đối với bạn, phải thật lòng, không dối trá, thì mới có thể là bạn tốt được. Nếu thấy bạn bè gặp phải chuyện buồn thì người bạn phải biết cách an ủi, yêu thương bạn bè là biết cảm thông với bạn, tìm cách giúp đỡ bạn sao cho bạn vui lên, hết buồn, nhưng về việc học tập thì chỉ giúp đỡ khi bạn thực sự cần mình để bạn và mình đều có kết quả tốt nhất trong việc học hành. Không nên vì yêu quý bạn mà làm hộ bài cho bạn, làm cho bạn ỷ lại.
Thêm nữa một người bạn tốt phải là người cần cù, chăm chỉ. Bất kì một người nào cũng cần có đức tính đó, một người bạn mà có đức tính đó thì người chơi với người ấy chắc chắn cũng sẽ học tập được một phần nào ở bạn mình, cần cù, chăm chỉ không chỉ giúp chính bản thân mình, tạo điều kiện cho mình được hoàn thiện hơn mà còn làm cho người bạn cố gắng để được như mình.
Cuối cùng, người bạn tốt nào cũng cần có tính thẳng thắn, đứng đắn. Trong mọi trường hợp bạn ấy phải tỏ rõ đức tính đó của mình. Đó là không bao che khuyết điểm của bạn, cho dù đó là bạn thân hay bạn nào khác mà mọi người ngại “đụng tới”. Thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá những thói hư tật xấu. Nếu mình có lỗi hay khuyết điểm thì phải sẵn sàng nhận. Càng không được tham gia vào những hoạt động không lành mạnh.
Mạt khác người bạn tốt ấy cũng phải có tính bao dung, rộng lượng. Nếu bạn nào có lỗi với mình mà đã hối hận, xin lỗi mình thì mình nên tha lỗi cho bạn, mà không nên chấp nê, để bụng v.v… có như vậy mới là người tốt bụng và do đó, chúng ta sẽ có được nhiều bạn bè hơn.
Em chắc chắn rằng một người tốt có đầy đủ phẩm chất như thế thì ở gia đình bạn ấy cũng sẽ là một người con ngoan của cha mẹ, được mọi người yêu mên, kính trọng.
|
Present your opinion on what a good friend is.
Instruct
Present your opinion on what a good friend is.
In life we not only need family members, but also need good friends. So what is a good friend like?
In my opinion, a good friend is first of all someone who is approachable and can integrate with classmates. If you know how to mingle with other people, you will have many friends, and we can easily find a good friend here.
A good friend must be a kind-hearted person who knows how to love his friends. For you, you have to be honest, not lie, to be a good friend. If you see your friend experiencing sadness, your friend must know how to comfort and love your friend, know how to sympathize with you, and find ways to help you so that you can cheer up and stop being sad, but when it comes to studying, it can only help you. support when you really need me so that you and I can both have the best results in our studies. Don't do your homework for you because you love you, making you dependent.
In addition, a good friend must be diligent and hard-working. Any person needs to have that quality, a friend who has that quality, the person who hangs out with that person will definitely learn something from their friend, being diligent and hardworking not only helps themselves. yourself, creating conditions for yourself to be more perfect but also making your friends strive to be like you.
Finally, every good friend needs to be straightforward and upright. In all cases, he must clearly show that virtue of his. That is not covering up your shortcomings, whether they are close friends or other friends that people are afraid to "touch". Frankly acknowledge and evaluate bad habits. If we have mistakes or shortcomings, we must be willing to admit them. Do not participate in unhealthy activities.
On the other hand, that good friend must also be tolerant and generous. If someone has done something wrong to me and regrets it, apologizes to me, I should forgive them, but should not accept it, take it to heart, etc. Only then will I be a kind person and therefore, we will have more friends.
I am sure that a good person with such qualities will also be a good son of his parents in his family, loved and respected by everyone.
|
Trình bày ý kiến tục ngữ Lá lành đùm lá rách – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
Dân tộc ta lớn lên trên dải đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương sóng gió. Người Việt Nam chịu đựng không biết bao nhiêu tai trời ách nước: giặc ngoại xâm, bão lụt, hỏa hoạn, mất mùa, đói kém… Cứ mỗi lần vượt qua một khó khăn, nhân dân ta lại nhắc nhở nhau một cách sống.
Lá lành đùm lá rách.
Ta cần hiểu ý nghĩa và giá trị của câu tục ngữ này như thế nào để thấm nhuần lời nhắn gửi của ông cha ta để lại?
Câu tục ngữ gợi lên một bài học về đạo lí làm người, về quan hệ giữa con người với nhau. Người ta ở đời, có lúc gặp phải khó khăn, thiếu thốn, hoạn nạn. Lúc ấy nếu tự một mình xoay xở lấy thì thật khó mà vượt qua. Trong hoàn cảnh đó, sự giúp đỡ của người khác, sự chia sẻ của người khác là rất quan trọng. Sự đùm bọc lẫn nhau, tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong cơn hoạn nạn là một cách sống cần thiết, đầy nhân ái.
Xét về giá trị của câu tục ngữ, ta thấy có một giá trị thiết thực. Nói “Lá lành đùm lá rách” là nói đến thái độ nhường cơm sẻ áo giữa những người cùng chung cảnh ngộ, trong cùng một cộng đồng trên cùng một đất nước. Tuy có “lành”, có “rách” nhưng cùng là “lá”. Đây là chia sẻ, là thông cảm. Khi một người bị hoạn nạn, thì những người không bị hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ, đó là “lá lành đùm lá rách”, sự giúp đỡ có thể là không nhiều, nhưng sẽ rất có ý nghĩa, có thể giúp cho người hoạn nạn vượt qua cơn hoạn nạn. Khi một phường, một vùng gặp hoạn nạn, thì những vùng bên cạnh cùng hợp lại, mỗi người một ít, mỗi nhà một ít, mỗi phường, mỗi huyện, mỗi tỉnh một ít, kết quả tạo ra một sự góp sức rất to lớn.
Trải qua hơn ba mươi năm chiến tranh, rồi gần hai chục năm trở lại đây, truyền thông “Lá lành đùm lá rách” đã được nhân dân ta phát huy một cách mạnh mẽ. Chỉ nói riêng mấy năm gần đây, trên đất nước ta đã bao nhiêu lần thiên nhiên gây ra tai họa ghê gớm. Những trận bão ở miền Trung, rồi lũ lụt ở đồng bằng Nam Bộ…, làm cho nhiều đồng ruộng bị tàn phá. Lúa, hoa màu bị mất sạch, bao nhiêu nhà cửa, bệnh viện, trường học… bị phá huỷ. Những khi miền Trung, miền Nam gặp hoạn nạn, khó khăn, cả nước quan tâm theo dõi, kịp thời chia buồn và cứu trợ. Nhờ sự giúp đỡ kịp thời của cả nước, dần dần nỗi đau mất mát được xoa dịu, người dân trở lại với cuộc sống có cơm ăn áo mặc. Những tin tức về trận bão đã được loan báo, những lời kêu gọi đã được phát đi thì những hành động hưởng ứng đã đáp lại ngay. Có người góp vào quỹ cứu trợ hàng triệu đồng, cũng có bạn nhỏ tự mình mang đến một hai nghìn bạc vốn dành dụm từ món tiền ăn sáng của mình để góp phần giúp đỡ những người khó khăn.
Một khía cạnh nào đó, hành động “Lá lành đùm lá rách” không phải chỉ có ý nghĩa giúp đỡ người khác, mà còn chính là giúp đỡ mình. Thường khi gói bánh, lá lành nằm bên ngoài, lá rách nằm bên trong để gói. Gói như vậy thì chiếc bánh mđi kín, mới cứng. Giúp người khác, chia sẻ với người khác cũng chính là giúp mình, làm cho cuộc sống của mình tốt đẹp hơn. Mỗi người khi vượt lên khó khăn, đứng vững hơn, chính là góp phần cho đất nước đứng vững, vượt lên. Cuối cùng, cái thành quả tốt đẹp ấy, mỗi người đều được hưởng. Bởi vậy, “Lá lành đùm lá rách” không còn là phương châm cho những hành động nhất thời, đặc biệt mà đã trở nên một cách sống tốt đẹp trong cuộc sống chúng ta. Hằng ngày, vẫn có người lặng lẽ quyên góp chút ít tiền bạc, quần áo cho một trại phong, một trại nuôi dưỡng người già neo đơn, một trại trẻ mồ côi, một gia đình khó khăn, một người tàn tật… Nhân những dịp tết, những người trong phường lại chạnh nhớ để chia sẻ với những bà con nghèo còn thiếu thốn.
“Lá lành đùm lá rách”, câu nói ngày xưa chỉ mang một ý nghĩa hẹp, nhằm kêu gọi sự đùm bọc lẫn nhau trong một nhà, một họ hay rộng lắm là một làng. Càng ngày, cùng với sự phát triển của đời sống, sự hiểu biết của con người, ý nghĩa của câu nói càng mang một nội dung nhân đạo sâu sắc và rộng rãi. Đây là một câu nói của tình thương đầy tính nhân đạo. Trong một xã hội, không có sức mạnh nào lớn hơn sức mạnh của tình thương. Tình thương phát triển thành tình cảm chung của mọi người, thành nếp sống phổ biến của xã hội thì tội ác cũng sẽ thu hẹp lại, xã hội sẽ ổn định hơn, tốt đẹp hơn. Cái thiện sẽ đẩy lùi cái ác.
“Lá lành đùm lá rách” thật là một cách nói đầy sáng tạo và sâu sắc của người xưa. Tục ngữ không chỉ là văn chương mà còn là triết lí, sống là phải quan tâm đến người khác, phải chia sẻ khó khăn cùng người khác. Đạo lí ấy thật là tốt đẹp mà ngày nay ta cần nuôi dưỡng phát huy.
Tags:văn · Văn 8
|
Presenting the opinion of the proverb Good leaves protect torn leaves - Topics and sample essays 8
Instruct
Assignment
Our nation grew up on an S-shaped strip of land on the shore of the turbulent Pacific Ocean. Vietnamese people have endured countless natural disasters: foreign invaders, storms, floods, fires, crop failures, famine... Every time we overcome a difficulty, our people remind each other of a way of life.
Good leaves protect torn leaves.
How do we need to understand the meaning and value of this proverb to absorb the message left by our ancestors?
The proverb evokes a lesson about human morality and relationships between people. People in life sometimes encounter difficulties, deprivation, and tribulations. At that time, if I managed it alone, it would be difficult to overcome it. In that situation, the help of others and the sharing of others is very important. Mutual protection, solidarity, mutual love, and helping each other in times of trouble is a necessary and compassionate way of life.
In terms of the value of the proverb, we see that it has a practical value. The saying "Good leaves cover torn leaves" refers to the attitude of giving food and sharing clothes among people in the same situation, in the same community in the same country. Although some are "good" and some are "torn", they are still "leaves". This is sharing, this is sympathy. When a person is in trouble, people who are not in trouble come together to help, it is "good leaves cover torn leaves", the help may not be much, but it will be very meaningful, it can help others. tribulation overcomes tribulation. When a ward or region is in trouble, neighboring regions join together, a little from each person, a little from each house, a little from each ward, each district, each province, resulting in a huge contribution. big.
After more than thirty years of war, and in the past twenty years, the communication "Good leaves protect torn leaves" has been strongly promoted by our people. In recent years alone, there have been many times in our country that nature has caused terrible disasters. Storms in the Central region, then floods in the Southern Delta... caused many fields to be destroyed. Rice and crops were lost, many houses, hospitals, schools... were destroyed. When the Central and Southern regions encounter hardships and difficulties, the whole country pays attention and promptly offers condolences and relief. Thanks to the timely help of the whole country, gradually the pain of loss was eased, and people returned to a life of food and clothing. The news about the storm was announced, the calls were made, and response actions were immediately responded. Some people contributed millions of dong to the relief fund, and there were also children who personally brought in one or two thousand silver from their breakfast money to contribute to helping those in need.
In a certain sense, the action "Good leaves cover torn leaves" does not only mean helping others, but also helping oneself. Usually when wrapping cakes, the healthy leaves are on the outside and the torn leaves are on the inside to wrap. Packed like that, the cake will be sealed and hard. Helping others, sharing with others is also helping yourself, making your life better. Each person who overcomes difficulties and stands stronger is contributing to the country's standing and overcoming. In the end, everyone can enjoy that good result. Therefore, "Good leaves protect torn leaves" is no longer a motto for temporary, special actions but has become a good way of living in our lives. Every day, there are still people quietly donating a little money and clothes to a leprosy camp, a home for the lonely elderly, an orphanage, a difficult family, a disabled person... On the occasion of During Tet, people in the ward remember to share with poor people in need.
"Good leaves cover torn leaves", the ancient saying only had a narrow meaning, calling for mutual protection within a family, a family or at most a village. Increasingly, with the development of human life and understanding, the meaning of the saying takes on a deeper and broader humanitarian content. This is a saying of humane love. In a society, there is no power greater than the power of love. If love develops into a common feeling of everyone, into a common way of life in society, crime will also shrink, society will be more stable and better. Good will repel evil.
“Good leaves protect torn leaves” is truly a creative and profound saying of the ancients. Proverbs are not only literature but also philosophy, to live is to care for others, to share difficulties with others. That morality is really good and we need to nurture and promote it today.
Tags: literature · Literature 8
|
Trình bày ý kiến tục ngữ “Lời nói chẳng mất tiền mua – Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
Trong xã hội, con người luôn luôn phải dùng những ngôn ngữ để giao tiếp với nhau. Vậy muốn việc giao tiếp, ứng xử đạt kết quả tốt, lời nói phải khéo léo, tế nhị. Từ xa xưa, ông cha ta đã khuyên:
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Lời nói là một phương tiện mà ai ai cũng có thể sử dụng trong giao tiếp, từ một đứa bé lên năm tới một người cao tuổi, từ một người giàu có danh giá đến những người nghèo khổ, cơ cực. Trong cuộc sống, đó là một công cụ tốt nhất để thể hiện mình và để đạt được mục đích mình mong muốn. Xã hội loài người là một xã hội có tổ chức, có văn hóa, mỗi người đều phải lựa lời, phải chọn lời hay, ý đẹp để giao tiếp và ứng xử. Khi ta sử dụng những lời hay, ý đẹp, lại lựa lời, chọn những lời nói khéo léo, tế nhị thì người nghe vừa lòng, dễ dàng tiếp thu ý kiến của ta, ta thể hiện được mình là một con người văn minh lịch sự, làm cho người khác phải cảm phục và kính trọng. Nếu ai ai cũng lựa lời mà nói thì quan hệ giữa người với người trong xã hội sẽ trở nên thật tốt đẹp. Vì vậy, câu ca dao là một lời khuyên tốt, rất đúng đắn và có ý nghĩa hết sức tích cực. Thực hiện tốt lời khuyên này, ta sẽ luôn thành công trong cuộc đời, trong sự nghiệp. Tuy rằng Lời nói chẳng mất tiền mua, nhưng thực ra là nó vô giá. Không có gì có thể rút lại được lời ta vừa nói, nên trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần, phải đắn đo lựa lời mình định nói. Một lời nói có thể làm hại người khác nhưng cũng có thể làm cho người khác sung sướng. Lời nói không phải bỏ tiền ra mua, vì ai ai cũng có thể có được, nhưng phải nói thế nào để lời nói trở nên đắt giá mới là việc khó, bắt buộc ta phải bỏ nhiều công sức suy nghĩ, trau chuốt.
Một lời nói quan tiền thúng thóc
Một lời nói dùi đục cẳng tay.
Lại có những người ăn nói không đúng chỗ, nói năng với người trên như nói với bạn bè mình. Những người như thế sẽ không bao giờ có thể đạt được mục đích của mình, vì người nghe sẽ khó tiếp thu, để lại những ấn tượng không đẹp cho người nghe.
Lời nói không đắt nhưng chính thành quả của lời nói tạo ra mới đáng giá. Mặc dù không tốn kém, không mất tiền mua nhưng nếu biết sử dụng lời nói hợp lí, bất cứ điều gì cũng có thể diễn ra như mong muốn.
Tuy nhiên, lựa lời mà nói không có nghĩa là xuê xoa, bỏ hết những lời phê phán, góp ý của mình khi thấy người khác sai trái. Ông cha ta đã dạy: Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng. Cho dù có làm mất lòng bạn bằng những lời góp ý thì đến một lúc nào đó, bạn sẽ hiểu và yêu quý ta bởi những lời góp ý đó chỉ để cho bạn tốt hơn.
Đọc và hiểu câu ca dao này, ta phải có được thái độ chân thành, thẳng thắn. Lời nói đẹp là sợi dây vô hình giúp cho con người xích lại gần nhau. Người nào càng biết lựa lời mà nói thì người ấy sẽ càng có nhiều bạn tốt.
Cũng khuyên người ta trong việc ăn nói, ứng xử, ca dao có câu:
Thổi quyển phải biết chuyển hơi
Khuyên người nói phải lựa lời khôn ngoan.
Đọc lại những bài ca dao về ứng xử trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam, ta thấy dù ca dao thể hiện bằng nhiều hình thức nhưng đều có chung một nội dung, là phải biết lựa lời mà nói. Lời nói rẻ mà không hề rẻ chút nào.
Câu ca dao là một lời khuyên bổ ích, giúp con người hoàn thiện và giúp xã hội văn minh hơn. Do vậy, mỗi chúng ta đều phải luôn ghi nhớ và thực hiện tốt lời khuyên này. Làm như vậy là ta đã tự học tập, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tự tôn trọng mình và tôn trọng người khác.
Tags:Văn 8
|
Presenting the opinion of the proverb "Words do not cost money to buy - Choose words to say to please each other" - Topics and sample essays 8
Instruct
Assignment
In society, people always have to use languages to communicate with each other. So, if you want communication and behavior to achieve good results, your words must be skillful and tactful. Since ancient times, our ancestors advised:
Words don't cost money to buy
Choose your words carefully to please each other.
Speech is a means that everyone can use in communication, from a five-year-old child to an elderly person, from a rich and prestigious person to the poor and destitute. In life, it is the best tool to express yourself and achieve your desired goals. Human society is an organized, cultured society. Each person must choose words, good words, and beautiful ideas to communicate and behave. When we use good words, beautiful ideas, and choose words skillfully and tactfully, the listener will be satisfied and easily accept our opinions, and we will show ourselves to be a civilized person. Be polite, make others admire and respect you. If everyone chooses what they say, relationships between people in society will become very good. Therefore, the folk song is good advice, very correct and has a very positive meaning. If you follow this advice well, you will always be successful in life and in your career. Although the Word costs nothing to buy, it is in fact priceless. There is nothing that can take back what we just said, so before speaking we must curl our tongue seven times and carefully choose what we intend to say. A word can harm others, but it can also make others happy. Words don't have to be bought with money, because everyone can have them, but how to say them to make them valuable is a difficult task, requiring us to put in a lot of effort to think and refine them.
A word about money and baskets of rice
A word that punched the forearm.
There are also people who speak inappropriately, speaking to superiors as if they were talking to their friends. People like that will never be able to achieve their goals, because it will be difficult for the listener to absorb, leaving bad impressions on the listener.
Words are not expensive, but it is the fruits they create that are valuable. Even though it is not expensive or costs money to buy, if you know how to use words properly, anything can happen as desired.
However, choosing your words does not mean being indulgent and giving up all your criticism and suggestions when you see others are wrong. Our ancestors taught: Bitter medicine is painful, the truth hurts. Even if I offend you with comments, at some point, you will understand and love me because those comments are only to make you better.
Reading and understanding this folk song, we must have a sincere and straightforward attitude. Beautiful words are invisible strings that help people come closer together. The more a person knows how to choose his words, the more good friends he will have.
It also advises people in speaking and behaving. There is a saying in folk songs:
The atmosphere must be able to transfer vapor
Advise the speaker to choose his words wisely.
Rereading folk songs about behavior in the treasury of Vietnamese folk songs and proverbs, we see that although folk songs are expressed in many forms, they all have the same content, which is to know how to choose the words to say. Words are cheap but not cheap at all.
The folk song is a useful piece of advice, helping people improve and helping society become more civilized. Therefore, each of us must always remember and implement this advice well. By doing so, we self-study, cultivate moral qualities, respect ourselves and respect others.
Tags: Literature 8
|
Trình bày ý kiến về Người bạn tốt – Văn nghị luận – Bài văn hay lớp 8
Hướng dẫn
Trình bày ý kiến về Người bạn tốt
Đề bài: Trong một buổi sinh hoạt lớp, các bạn sôi nổi thảo luận về người bạn tốt. Em hãy trình bày ý kiến của mình về vấn đề đó.
Bài làm
Trong cuộc sống, chúng ta không chỉ cần có những người thân trong gia đình, mà còn rất cần những người bạn tốt. Vậy một người bạn tốt là người như thế nào?
Theo em, người bạn tốt là người dễ gần gũi, có thể hoà nhập với các bạn cùng lớp. Nếu biết hoà nhập với các bạn khác thì riêng bản thân bạn đó đã có nhiều bạn, và chúng ta dễ dàng tìm thấy ở đó một người bạn tốt.
Người bạn tốt, đó phải là người có lòng tốt, biết yêu thương bạn bè. Đối với bạn, phải thực lòng, không dối trá, nếu thấy bạn bè gặp chuyện buồn thì phải biết cách giúp đỡ, an ủi, cảm thông, chia sẻ. Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp mà giúp đỡ bạn, sao cho bạn vui lên, hết buồn. Nhưng trong việc học tập, chỉ giúp đỡ khi bạn thực sự cần mình để bạn và mình đều có kết quả tốt nhất trong học tập. Không nên vì quá yêu bạn mà làm hộ bài cho bạn, để bạn ỷ lại vào mình.
Thêm nữa, một người bạn tốt phải là người cần cù, chăm chỉ. Bất kì một người nào cũng cần có đức tính đó. Một người bạn mà có đức tính đó thì người chơi với người ấy chắc chắn cũng sẽ học tập được một phần nào ở bạn mình. Cần cù, chăm chỉ không chỉ giúp chính bản thân mình, tạo điều kiện cho mình được hoàn thiện hơn mà còn làm người bạn cảm thấy họ có được người bạn như vậy thật là may mắn và họ sẽ phải cố gắng để được như mình.
Tất nhiên, ý kiến của những người bạn xấu đối với bạn đó thì chẳng nói làm gì.
Cuối cùng, người bạn tốt nào cũng cần có tính thẳng thắn, đứng đắn. Trong mọi trường hợp người bạn phải tỏ rõ đức tính đó của mình. Đó là không bao che khuyết điểm của bạn, cho dù đó là bạn thân hay bạn nào khác mà mọi người ngại đụng tới. Thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá những thói hư tật xấu. Nếu mình có lỗi hay khuyết điểm thì phải sẵn sàng nhận. Càng không được tham gia vào những hoạt động không lành mạnh.
Mặt khác, người bạn tốt ấy cũng phải có tính bao dung, rộng lượng. Nếu bạn nào có lỗi với mình mà đã hối hận, xin lỗi mình thì mình nên tha thứ, không nên chấp nê, để bụng,… Có như vậy mọi người mới cảm thấy ở ta một con người tốt bụng và do đó, chúng ta sẽ có được nhiều bạn bè hơn.
Theo em nghĩ, người bạn tốt cần có các đức tính: đoàn kết, hoà nhập, yêu thương bạn bè, thẳng thắn, đứng đắn và biết bao dung, rộng lượng. Nhưng trong thực tế có lẽ rất ít ai có được đầy đủ các phẩm chất như thế. Ai cũng có mặt tốt, mặt chưa tốt, nên các đức tính nêu trên cũng chỉ là lí tưởng mà mỗi người mơ ước đối với người bạn của mình. Muốn có bạn tốt, chúng ta phải góp phần xây dựng cho bạn đó, giúp bạn tránh xa cái xấu, và trở thành tốt hơn. Nếu chúng ta có được nhiều bạn tốt thì cuộc sống chúng ta cũng sẽ được nhiều hạnh phúc. Riêng em, em mong mình có nhiều bạn tốt và mình cũng là một người bạn tốt của các bạn.
Lê Thu Thuỷ
(Trường THCS Lê Ngọc Hân)
>> Xem thêm Trong bài “Bàn về phép học”, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp rất chú ý đến phương pháp học “theo điều học mà làm” tại đây.
Tags:Bài văn hay lớp 8 · Người bạn tốt
|
Present your opinion about Good friend - Essay - Good essay for grade 8
Instruct
Present your opinion about Good Friend
Topic: During a class activity, students enthusiastically discussed about good friends. Please present your opinion on that issue.
Assignment
In life, we not only need family members, but also need good friends. So what is a good friend like?
In my opinion, a good friend is someone who is easy to get along with and can integrate with classmates. If we know how to mingle with other people, we will have many friends, and we can easily find a good friend there.
A good friend must be a kind-hearted person who knows how to love his friends. For you, you must be sincere, not lie. If you see your friends experiencing sadness, you must know how to help, comfort, sympathize, and share. However, depending on each case, we can help you to cheer you up and stop being sad. But in studying, only help when you really need it so that you and I can both have the best results in studying. You should not do your homework because you love you so much, so that you can rely on yourself.
In addition, a good friend must be diligent and hard-working. Any person needs to have that virtue. If a friend has that quality, the person who plays with him or her will certainly learn something from him or her. Being diligent and hardworking not only helps yourself and creates conditions for you to improve, but it also makes your friends feel that they are lucky to have such a friend and they will have to try to be like you. .
Of course, the opinions of those bad friends towards you are meaningless.
Finally, every good friend needs to be straightforward and upright. In all cases, the friend must clearly show that virtue of his. That means not covering up your shortcomings, whether they are close friends or other friends that people are afraid to touch. Frankly acknowledge and evaluate bad habits. If we have mistakes or shortcomings, we must be willing to admit them. Do not participate in unhealthy activities.
On the other hand, that good friend must also be tolerant and generous. If someone has made a mistake with me and regrets it, apologizes to me, I should forgive, not accept it, take it to heart, etc. Only then will everyone feel that I am a kind person and therefore, we will We will have more friends.
In my opinion, a good friend needs to have the following qualities: solidarity, integration, love for friends, straightforwardness, decency, tolerance and generosity. But in reality, perhaps very few people have all such qualities. Everyone has good sides and bad sides, so the virtues mentioned above are just the ideals that each person dreams of for their friends. If we want to have good friends, we must contribute to building them up, helping them stay away from bad things, and become better. If we have many good friends, our lives will also be happy. As for me, I hope I have many good friends and that I am also a good friend to them.
Le Thu Thuy
(Le Ngoc Han Secondary School)
>> See more In the article "Discussing learning", La Son Phu Tu Nguyen Thiep pays close attention to the "follow what you learn" method of learning here.
Tags: Good essay for grade 8 · Good friend
|
Đề bài: Trình bày ý nghĩa tư tưỏng của văn bản Ôn dịch, thuốc lá của Nguyễn Khắc Viện
Bài làm
"Hút thuốc lá là có hại cho sức khoẻ". Thông điệp ấy được ghi trên hầu hết các vỏ bao thuốc lá, những người hút thuốc lá đều biết nhưng không phải ai cũng ý thức được tác hại nhiều mặt của thuốc lá đối với cộng đổng. Ngay từ đầu, nhan đề của văn bản: Ôn dịch, thuốc lá đã cho ta thấy tính chất nghiêm trọng và bức xúc của vấn đề.
Thuốc lá ở đây là nói đến tệ nghiện thuốc lá. Nó được ví một cách rất thoả đáng với Ôn dịch, xem như một thứ bệnh nguy hiểm đến tính mạng của con người và rất dễ lây lan. Hơn nữa, từ Ôn dịch còn mang sắc thái biểu cảm. Nghiện thuốc lá được nói đến trong một cảnh báo gay gắt, đến mức nó đáng trở thành một đối tượng để nguyền rủa.
Trong văn bản này, tác giả bắt đầu phần thứ hai bằng cách dẫn lời Trần Hưng Đạo bàn về cách đánh giặc (từ "Ngày trước"… cho đến “tổn hao sức khoẻ"). So sánh việc chống hút thuốc lá với đánh giặc ngoại xâm, tác giả đã tạo ra một ấn tượng mạnh trước khi tiến hành phân tích y học về tác hại của thuốc lá. Những kết quả nghiên cứu của y học trở thành hệ thống luận cứ rõ ràng, thuyết phục tuyệt đối. Thuốc lá gặm nhấm sức khoẻ của con người tựa như tằm ăn dâu. Nguy hiểm, đáng sợ hơn, sự gặm nhấm của thuốc lá lại vô hình, không nhìn thấy ngay được. Chỉ có hậu quả của nó, những căn bệnh hiểm nghèo là sờ sờ trước mắt chúng ta. Và, không chỉ có thế, tác giả tiến hành phân tích cả những ảnh hường thiệt hại của thuốc lá đến đời sống kinh tế của con người, dù chỉ là bệnh viêm phế quản…
Bằng giả định: "Có người bảo: Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi”, tác giả tiến tới lập luận về tác hại của thuốc lá đối với cả những người không hề hút thuốc lá. Phủ nhận nhận định trong giả định, chứng cứ khoa học cho thấy hút thuốc lá chủ động và hút thuốc lá bị động đều dẫn đến nguy hại cho sức khoẻ. Chống hút thuốc lá không còn là vấn đề chỉ của riêng cá nhân mà, vì nó trực tiếp làm hại cả cộng đồng, cho nên, chống thuốc lá là việc của toàn xã hội.
Tác giả đã so sánh tình hình hút thuốc lá ở Việt Nam với các nước Âu – Mĩ để đưa ra kiến nghị: Đã đến lúc mọi người phải đứng lên chống lại, ngăn ngừa nạn ôn dịch này, bởi: Thứ nhất, ta nghèo hơn các nước Âu – Mĩ rất nhiều nhưng tỉ lệ thanh thiếu niên ở các thành phố lớn của ta hút thuốc lá lại tương đương với họ. Nó không chỉ gây khó khăn về kinh tế, mà còn là con đường dẫn đến sự phạm pháp. Thứ hai, để chống tệ hút thuốc lá, người ta có những biện pháp mạnh hơn ta rất nhiều. Sự so sánh này đã góp phần khẳng định sự đúng đắn của những điều đã nói ở trên, đồng thời tạo tiền đề để đưa ra lời phán xét cuối cùng.
|
Topic: Presenting the ideological meaning of the text An epidemic, tobacco by Nguyen Khac Vien
Assignment
"Smoking is harmful to health." That message is written on most cigarette packs. Smokers know it, but not everyone is aware of the many harmful effects of cigarettes on the community. Right from the beginning, the title of the text: Epidemic, tobacco shows us the serious and pressing nature of the problem.
Tobacco here refers to tobacco addiction. It is very appropriately compared to the Plague, considered a disease that is dangerous to human life and very contagious. Furthermore, the word Wen Dich also has expressive nuances. Smoking addiction is spoken of with such harsh warning that it deserves to be an object of damnation.
In this text, the author begins the second part by quoting Tran Hung Dao discussing how to fight the enemy (from "Back in the day"... to "wasting health"). Compare anti-smoking with fighting the enemy. foreign invaders, the author created a strong impression before conducting medical analysis on the harmful effects of tobacco. The results of medical research became a system of clear and absolutely convincing arguments. Tobacco eats away at people's health like silkworms eat mulberries. More dangerously, the gnawing of tobacco is invisible, only its consequences, dangerous diseases is palpable before our eyes. And, not only that, the author analyzes the harmful effects of cigarettes on people's economic lives, even if it's just bronchitis...
Using the assumption: "Some people say: I smoke, I get sick, leave me alone", the author proceeds to argue about the harmful effects of cigarettes for even those who do not smoke. Deny the statement in the assumption. , scientific evidence shows that both active and passive smoking lead to harm to health. Anti-smoking is no longer just an individual issue, because it directly harms everyone community, so fighting tobacco is the job of the entire society.
The author compared the smoking situation in Vietnam with European and American countries to make recommendations: It is time for everyone to stand up against and prevent this epidemic, because: First, we are poor. much higher than European and American countries, but the rate of teenagers in our big cities smoking is similar to theirs. It not only causes economic hardship, but is also a path to crime. Second, to combat smoking, people have much stronger measures than us. This comparison has contributed to confirming the correctness of what has been said above, while also creating a premise for making the final judgment.
|
Trình bày đặc điểm truyện Chiếc lá cuối cùng – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Gợi ý viết bài
Đối với đề này, chúng ta có thể thực hiện theo ba phần sau:
Phần mở đầu: giới thiệu về tác giả O. Hen-ri và truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của ông; những đặc sắc về nội dung, cốt truyện, nghệ thuật và nhất là ý nghĩa của truyện.
Phần nội dung: trình bày nội dung các vấn đề về câu chuyện, nhân vật trong truyện, hình tượng chiếc lá do cụ Bơ-men vẽ, ý nghĩa của câu chuyện.
Về câu chuyện:
Câu chuyện được đặt trong bối cảnh của một khu phố tồi tàn với những căn phòng cho thuê giá rẻ ở phía tây công viên Oa-sinh-tơn, trong khu phố tồi tàn đó có một ngôi nhà ba tầng, đó chính là căn nhà nơi nhân vật chính trong truyện trú ngụ. Thời điểm được xác định là tháng mười một, khi gió lạnh mùa đông bắt đầu tràn về. Hai nữ họa sĩ trẻ và nghèo là Giôn-xi và Xiu đến thuê chung một căn phòng ở tầng trên cùng của căn nhà. Cụ Bơ-men cũng là một họa sĩ nghèo sống ở tầng dưới cùng. Giôn-xi bị bệnh sưng phổi và cảm thấy không muốn sống nữa mặc cho Xiu hết lời động viên và nhiệt tình chăm sóc. Hàng ngày Giôn-xi nằm quay mặt ra cửa sổ, nhìn những chiếc lá trên cây thường xuân rụng dần và đếm những chiếc lá còn lại. Cô nghĩ rằng khi chiếc lá cuối cùng rời khỏi cành thì cũng là lúc cô phải lìa xa cõi đời. Tâm trạng bi quan của Giôn-xi cứ kéo dài và đến tai cụ Bơ-men. Vào một đêm mưa tuyết khủng khiếp, khi chiếc lá cuối cùng trên cây đã rụng, cụ Bơ-men đã vẽ một chiếc lá thường xuân thay cho chiếc lá cuối cùng. Tuyệt tác của cụ Bơ-men đã cứu sống Giôn-xi nhưng cụ lại ốm nặng và qua đời.
Chiếm vị trí trung tâm của truyện chính là hình ảnh từng chiếc lá trên cây thường xuân già rụng dần. Đó là một hình tượng giàu tính nghệ thuật: một cây thường xuân già cỗi đã cạn nhựa sống chỉ còn lại bộ xương khẳng khiu với mấy chiếc lá và bám vào bức tường đổ nát. Đây chính là hình ảnh về cuộc đời cô đơn, mòn mỏi của ba người nghệ sĩ.
Mỗi chiếc lá rụng lại gợi cảm giác rằng cuộc đời đang lụi tàn dần, mỗi phút trôi qua là một phút mất mát: nét tươi tốt dần tan biến nhường chỗ cho vẻ héo hắt, xơ xác.
Mỗi nhân vật trong truyện là một tính cách, một số phận. Xiu là một nữ họa sĩ nghèo phải nhận vẽ minh họa cho một tạp chí, bán tranh cho lão chủ bút để kiếm tiền chăm sóc Giôn-xi, mua rượu Boóc-đô cho đứa em ốm, mua sườn lợn để đáp ứng cho cái tính háu ăn của mình… Giôn-xi là một nữ họa sĩ trẻ khát khao được vẽ vịnh Na-plơ, bản thân chị bị viêm phổi nặng và sống nhờ vào sự chăm sóc hết lòng của Xiu; Giôn-xi chán chường và không chút hi vọng, cứ nhìn qua cửa sổ đếm từng chiếc lá thường xuân rơi rụng, mỏi mòn đợi chiếc lá cuối cùng lìa cành, xem đó là khoảnh khắc cuối cùng của đời cô. Bơ-men là một họa sĩ già, thường làm mẫu vẽ cho các nghệ sĩ cùng xóm.
Chiếc lá thường xuân vẽ trên tường vào một đêm mưa tuyết khủng khiếp là tuyệt tác của cụ Bơ-men. Nó đã giúp Giôn-xi lấy lại cuộc sống của mình.
Với đức hi sinh cao cả và tài năng tuyệt vời với tâm hồn của một nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, cụ Bơ-men đã vẽ chiếc lá thường xuân định mệnh. Chiếc lá được vẽ trong một đêm lạnh buốt khủng khiếp dưới ánh sáng của một chiếc đèn bão với vài chiếc bút lông rơi vung vãi và một bảng màu xanh vàng pha trộn lẫn lộn.
Bơ-men vẽ chiếc lá với mục đích giành lại sự sống cho Giôn-xi. Và quả thật tuyệt tác đó đã có tác dụng mầu nhiệm đưa Giôn-xi trở về với cuộc sống, với niềm mơ ước sáng tạo của người nghệ sĩ trẻ.
Về ý nghĩa của chủ đề:
“Chiếc lá cuối cùng” mà cụ Bơ-men vẽ không những là một tác phẩm kiệt xuất về mặt nghệ thuật vì nó giống như thật, mà còn là biểu tượng của lòng nhân ái, đức hi sinh cao cả, sự quên mình để bảo tồn sự sống cho người khác. Như vậy truyện đã “Ca ngợi tình yêu thương con người, ca ngợi mục đích và ý nghĩa cao quý của nghệ thuật là hãy yêu thương và hi sinh sự sông vì con người”.
Phần kết luận: cần tóm tắt các đặc điểm chính của truyện và làm nổi bật hình thức, nội dung tự sự của truyện. Phải thấy rằng truyện chỉ đề cập đến một sự việc nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng của nó lại rất lớn lao, đó chính là giá trị của truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”.
|
Presenting the characteristics of the story The Last Leaf - Topics and sample essays 8
Instruct
Suggestions for writing articles
For this topic, we can follow the following three parts:
Introduction: introduction to author O. Henri and his short story The Last Leaf; the unique content, plot, art and especially the meaning of the story.
Content: presents the content of the story, the characters in the story, the image of the leaf drawn by Mr. Bo-men, and the meaning of the story.
About the story:
The story is set in the context of a shabby neighborhood with cheap rental rooms west of Washington Park. In that shabby neighborhood there is a three-story house, which is the house. where the main character in the story resides. The time is determined to be November, when the cold winter wind begins to blow. Two young and poor female artists, Jonah and Xiu, rented a room together on the top floor of the house. Mr. Be-men is also a poor artist who lives on the bottom floor. Jonah was sick with pneumonia and felt like he didn't want to live anymore despite Xiu's encouragement and enthusiastic care. Every day Jonah lay facing the window, watching the leaves on the ivy tree gradually fall and counting the remaining leaves. She thought that when the last leaf left the branch, it was time for her to leave this world. Jonah's pessimistic mood continued and reached Mr. Bemen's ears. On a terrible snowy night, when the last leaf on the tree had fallen, Mr. Behrman drew an ivy leaf in place of the last leaf. Mr. Bemen's masterpiece saved Jonah's life, but he became seriously ill and died.
Occupying the central position of the story is the image of each leaf on the old ivy tree gradually falling. It is a rich artistic image: an old ivy tree that has run out of vitality, leaving only a spindly skeleton with a few leaves and clinging to a crumbling wall. This is the image of the lonely, weary lives of three artists.
Each fallen leaf evokes the feeling that life is fading away, each minute that passes is a minute of loss: the lushness gradually disappears to give way to a withered, ragged look.
Each character in the story has a personality and a destiny. Xiu is a poor female artist who has to work as an illustrator for a magazine, sell paintings to the editor to earn money to take care of Jonah, buy Bordeaux wine for her sick sister, and buy pork ribs to meet her needs. her gluttony... Jonah is a young female artist who aspires to paint the Bay of Naples. She herself has severe pneumonia and lives thanks to Xiu's wholehearted care; Jonah was bored and without hope. He kept looking through the window and counting every ivy leaf that fell, waiting patiently for the last leaf to leave the branch, seeing it as the last moment of her life. Bo-men is an old artist who often serves as a model for artists in his neighborhood.
The ivy leaf painted on the wall on a terrible snowy night is Mr. Be-men's masterpiece. It helped Jonah get his life back.
With great sacrifice and great talent and the soul of a compassionate artist, Mr. Be-men painted the fateful ivy leaf. The leaf was painted on a terribly cold night under the light of a hurricane lamp with a few scattered brushes and a mixed green-yellow palette.
Bemen drew the leaf with the purpose of regaining Jonah's life. And indeed that masterpiece had a miraculous effect in bringing Jonah back to life, to the young artist's creative dream.
About the meaning of the topic:
The "last leaf" that Mr. Be-men painted is not only an outstanding work of art because it is lifelike, but also a symbol of kindness, noble sacrifice, and self-forgetfulness to save lives. preserve life for others. Thus the story "Praises love for people, praises the noble purpose and meaning of art which is to love and sacrifice life for people".
Conclusion: it is necessary to summarize the main features of the story and highlight the narrative form and content of the story. It must be seen that the story only mentions a small incident but its influence is very great, which is the value of the short story "The Last Leaf".
|
Trí khôn một em nhỏ cứu nguy cho ngàn người – Truyện cổ tích Em bé thông minh Ngữ Văn 6
Hướng dẫn
Truyện cổ tích Em bé thông minh
Cùng với loại cổ tích thần kì như truyện Sọ Dừa, truyện Tấm Cám, Thạch Sanh,… kho tàng truyện dân gian nước ta còn có loại cổ tích sinh hoạt, cổ tích sinh hoạt gần như không có yếu tố thần kì, được cấu tạo theo cách “xâu chuỗi” các mẩu chuyện từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, vô cùng hấp dẫn. Truyện Em bé thông minh là một áng cổ tích như thế. Có thể coi tác phẩm thuộc loại truyện “Trạng”. “Trạng” là người thông minh, tài trí hơn người, có khả năng ứng đáp linh hoạt, hoá giải được mọi bài toán, câu đố hiểm hóc. Truyện “Trạng” đề cao trí khôn dân gian, kinh nghiệm sống được vận dụng sáng tạo, đem lại tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên mà thâm thuý. Điều thú vị là nhân vật “Trạng” trong các truyện này nhiều người chẳng được học hành, theo đòi sách vở như các ông Tiến sĩ, Trạng nguyên mà chỉ là một anh nông dân nghèo rớt mồng tơi hoặc một em bé còn ăn bám bố mẹ. Chính em bé đó, bằng trí thông minh, tài ứng đối đã khiến mọi người sửng sốt thán phục. Em bé đó là nhân vật trung tâm của truyện Em bé thông minh. Trí khôn của em không chỉ khiến nhiều người khâm phục mà đã nhiều lần cứu nguy cho cả làng, cả nước, cho ngàn vạn người.
1. Trí khôn, mưu kế của em bé được thử thách như thế nào?
a) Em bé đã phải bốn lần đối mặt với câu đố, bốn bài toán trí tuệ hóc búa. Lần thứ nhất, em phải đáp lại câu đố của quan: “Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?”. Lần thứ hai, em phải tìm ra thâm ý của nhà vua: nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ. Lần thứ ba cũng là thâm ý, thử thách của vua: từ con chim sẻ “phải dọn thành ba cỗ thức ăn ” Và lần thứ tư, vừa là lời thách đố vừa trêu tức, “chơi xỏ” của sứ thần nước ngoài đối với triềụ đình, với toàn dân tộc ta là xâu một sợi chỉ qua ruột con ốc vặn rất dài.
b) Lời thách đố mỗi lần một tăng lên, lần sau khó hơn lần trước. Lần thứ nhất, viên quan đố, lần thứ hai và thứ ba là lời thách đố của nhà vua. Cả hai đều chỉ nhằm tìm người tài giỏi, thông minh. Riêng lần thứ tư thì người đố là “sứ thần” của nước khác. Nhân vật ra đố khác rồi, ý nghĩa cuộc đố cũng khác. Đây không chỉ là tìm người thông minh mà còn hàm ý thử thách trí khôn của cả triều đình, của toàn dân tộc. Xét về tính chất thì sự oái oăm, độ hóc búa của các câu đố, những dữ kiện mà người đố đưa ra mỗi lúc thêm kì quặc. Hoặc là một việc làm “lẩn thẩn”: đếm đường cày mỗi ngày, hoặc là một hiện tượng vô lí, trái lẽ đời: trâu đực đẻ con, một con sẻ bé tẹo làm.thành ba mâm cỗ. Có khi là một việc không chỉ “lẩn thẩn” mà còn kì quặc, éo le đến độ… chỉ có thánh thần mới làm được. Thêm nữa, tính oái oăm, căng thẳng còn được thể hiện ở sự lựa chọn người giải đố. Lần thứ nhất, viên quan yêu cầu em bé giải đố. Lần thứ hai, nhà vua thử thách hai bố con. Con số gấp đôi. Lần thứ ba, nhà vua thách đố cả dân làng. Số người bị lôi vào trận đấu trí tuệ tăng gấp mười, gấp trăm lần rồi! Đến lần thứ tư thì… đáng sợ quá. Sứ thần nước khác thách đố cả triều đình, gồm toàn những ngứời quyền cao, trí sáng. Cứ mỗi lần như thế, hầu nhự mọi người, già trẻ, lớn bé, dân thường, vua chúa đều… bị đẩy vào thế… bí. Dân làng thì “lo lắng, không hiểu thế là thế nào, coi đó là tai hoạ”. Vua quan thì “vò đầu suy nghĩ”, “lắc đầu bó tay”. Trong khi đó, em bé – nhân vật chính của câu chuyện – vốn bị mọi người thờ ơ, coi thường, thì vẫn bình thản như không, thậm chí “còn đùa nghịch ở sau nhà”. Dường như đối với em, mọi sự trên đời, mọi lời thách đố chẳng có gì ghê gớm, khó khăn. Nó là cuộc đời diễn biến hằng ngày mà em từng thấy, từng chơi đùa vui vẻ, hồn nhiên như tâm hồn, trí tuệ của tuổi thơ trong sáng. Mỗi lần kể về một câu đố, tác giả truyện cổ tích này không chỉ đặt ra tình huống đơn giản là sự đối đầu giữa người đố và em bé, một người đối với một người, người lớn đối với trẻ em. Không! Tinh huống đố và yêu cầu giải đố mỗi lúc một tăng cao, cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ đó, ngầm một sự so sánh thú vị: Lần thứ nhất so sánh em bé với người cha, lần thứ hai so sánh em với dân làng, lần thứ ba khi em bé đố lại thì là so sánh chính em với nhà vua và đến lần thứ tư, rõ ràng người kể chuyện muốn so sánh một mình em bé với cả triều đình gồm vua, quan, các ông trạng, các đại thần. Cả bốn lần, nhờ sự so sánh ấy, vị trí em bé được đề cao, trí tuệ em bé toả sáng dần. Em bé, em là… thần đồng đấy ư?
2. Vị thần đồng ấy có trí thông minh như thế nào khi giải các câu đố?
a) Ta hãy lần lượt quan sát cách giải và lắng nghe lời giải của chú bé: Lần thứ nhất, em bé đố lại viên quan: “ngựa của ông đi một ngày được mấy bước”. Lần thứ hai, em bé vặn lí với nhà vua: “Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!”. Lần thứ ba, em cũng đố lại vua, xin vua rèn cái kim thành con dao để xẻ thịt một con chim sẻ làm ba mâm cỗ. Và lần thứ tư, em bé dùng kinh nghiệm sống của nhân dân: kiến thấy mùi mỡ ắt phải tìm đến! Điều thú vị là mỗi lần giải đố, em bé lại dùng một “chiêu” khác nhau. Lần thì lấy “gậy ông đập lưng ông” để đẩy đối phương vào thế bí mà chịu thua cuộc. Lần thì chỉ ra cái “chiêu” của đối phương vô lí, phi lí, trên đời không thể xảy ra khiến đối phương bị “tóm gáy”, mà đầu hàng, hoặc cười xoà vui vẻ,… Điểu thú vị hơn nữa là tất cả những lời giải đố, những chiêu võ trí tuệ của em bé đều không chép từ sách vở nào cả mà bắt nguồn từ kiến thức đời sống. Nó tươi tắn, hồn nhiên mà bất ngờ, đầy sức thuyết phục. Đó chính là sự tươi tắn, thuần hậu, chất phác trong tâm hồn và trí tuệ của nhân dân. Chính nhân dân – những tác giả của câu chuyện cổ tích này – đã gửi trí khôn vào nhân vật em bé, nhờ nhân vật nói hộ mình những suy nghĩ, tính toán, những kinh nghiệm sống để giúp nhau gỡ rối, hoá giải các thử thách, khó khăn của các bài toán, câu đố trong cuộc sống hằng ngày.
|
A child's wisdom saves thousands of people - Fairy tale of a smart child Literature 6
Instruct
Fairy tale Smart baby
Along with magical fairy tales such as the story So Dua, Tam Cam, Thach Sanh, etc., our country's treasure trove of folk tales also has living fairy tales, living fairy tales with almost no magical elements, structured create a "chain" of stories from simple to complex, from low to high, extremely attractive. The story Smart Baby is such a fairy tale. It can be considered that the work belongs to the type of story "Status". "Trang" is a person who is intelligent, more talented than others, has the ability to respond flexibly, and solve all difficult problems and puzzles. The story "Trang" promotes folk wisdom and life experiences that are creatively applied, bringing joyful, innocent yet profound laughter. The interesting thing is that the character "Trang" in these stories is not educated or follows books like the Doctors and Poinsettias, but is just a poor farmer or a parasitic child. parents. That baby, with his intelligence and ability to respond, made everyone amazed and admired. That baby is the central character of the story Smart Baby. Her intelligence not only made many people admire her, but she also saved the whole village, the whole country, and thousands of people many times.
1. How are the baby's intelligence and strategies tested?
a) The baby had to face puzzles, four difficult intellectual problems four times. The first time, I had to answer the mandarin's riddle: "How many miles can your buffalo plow in a day?". The second time, I had to find out the king's secret intention: how to raise those three buffaloes to give birth to nine children, promising to pay the full amount next year. The third time was also the king's secret intention and challenge: from the sparrow "must be prepared into three dishes of food." And the fourth time was both a challenge and a tease, a "trick" of the foreign envoy to the king. with the court and with our entire nation is like threading a thread through the intestines of a very long screw.
b) The challenge increases each time, each time being more difficult than the last. The first time, the official quizzed him, the second and third times were the king's challenges. Both just aim to find talented and intelligent people. Particularly for the fourth time, the quizzer is an "envoy" from another country. The character's quiz is different, the meaning of the quiz is also different. This is not only about finding smart people but also means challenging the intelligence of the entire court and the entire nation. In terms of nature, the strangeness and difficulty of the puzzles and the facts given by the puzzler become more and more strange each time. Either it's a "silly" job: counting the plowing paths every day, or it's an absurd phenomenon, contrary to life: a male buffalo gives birth, a tiny sparrow makes three feasts. Sometimes it's something that's not only "silly" but also so strange and awkward that... only a god could do it. In addition, the irony and tension are also expressed in the choice of puzzle solver. The first time, the official asked the child to solve a puzzle. For the second time, the king tested father and son. Double the number. For the third time, the king challenged all the villagers. The number of people dragged into intellectual battles has increased ten or hundred times! The fourth time... it's so scary. An envoy from another country challenges the entire court, which is full of high-ranking, intelligent people. Every time that happens, almost everyone, young and old, big and small, commoners, kings, etc. are... pushed into a... secretive position. The villagers were "worried, didn't understand what it was, considered it a disaster". The kings and officials "scratched their heads in thought" and "shaked their heads and gave up". Meanwhile, the baby - the main character of the story - who is ignored and despised by everyone, remains calm as if nothing, even "playing around behind the house". It seems that for me, everything in life, every challenge, is not terrible or difficult. It is the everyday life that I have seen, played happily, as innocently as the soul and wisdom of pure childhood. Every time he tells a riddle, the author of this fairy tale not only sets up a simple situation of confrontation between the riddler and the baby, one person against another, an adult against a child. Are not! Puzzle situations and puzzle solving requirements are increasing day by day, both in quantity and quality. From there, an interesting comparison is implicit: The first time compares the baby with the father, the second time compares the baby with the villagers, the third time when the baby asks a question, it compares himself with the king and By the fourth time, it was clear that the narrator wanted to compare the baby alone with the whole court including the king, mandarins, magnates, and ministers. All four times, thanks to that comparison, the baby's position is enhanced and the baby's intelligence gradually shines. Baby, are you... a prodigy?
2. How intelligent is that prodigy when solving puzzles?
a) Let's observe the solution one by one and listen to the little boy's solution: The first time, the little boy quizzed the official: "How many steps does your horse take in a day?" The second time, the baby argued with the king: "How can you give birth if you're male?" The third time, I also challenged the king, asking him to forge the needle into a knife to cut a sparrow into three feasts. And the fourth time, the baby used the people's life experience: when ants see the smell of fat, they must find it! The interesting thing is that each time the baby solves a puzzle, he uses a different "trick". Sometimes, he uses "his stick to hit his back" to push the opponent into a corner and give up. Sometimes pointing out that the opponent's "trick" is unreasonable, unreasonable, impossible in the world, causing the opponent to be "caught", surrendering, or laughing happily,... What is even more interesting is that all Even the baby's riddles and intellectual martial arts moves are not copied from any books but originate from life knowledge. It's fresh, innocent yet surprising, full of convincing power. That is the freshness, purity, and simplicity in the soul and intelligence of the people. It is the people - the authors of this fairy tale - who have sent their wisdom into the baby character, asking the character to speak for them their thoughts, calculations, and life experiences to help each other troubleshoot and resolve problems. challenges and difficulties of math problems and puzzles in everyday life.
|
Trường em có một độỉ bảo vệ cây xanh. Hãy kể lại việc làm của các bạn trong độỉ đó
Gợi ý
Đường vào trường em được trồng hai hàng cây rất đẹp. Nhà trường có ghi biển cấm bẻ cành, hái lá, nhưng hình như tấm biển ấy không có ỷ nghĩa gì với nhiều cậu học trò tinh quái. Giờ ra chơi, giờ tan trường, không một ngày nào lại không có những chiệc lá, hoặc ngọn cây bị bẻ vứt xuống đất. Nhìn hàng cây có vẻ trơ trụi đi vì bàn tay học trò, em cảm thấy rất buồn vì hành động đó của các bạn. Em xin với cô phụ trách Đội cho chúng em thành lập một đội bảo vệ cây xanh của nhà trường. Ý kiến ấy được nhà trường rất hoan nghênh và ủng hộ. Từ hôm đó, đội chúng em chia nhau mỗi người một nhiệm vụ, giờ ra chơi và giờ tan trường là chúng em vào vị trí của mình. Mỗi khi có bạn học sinh nào đi tới định đưa tay hái lá, bẻ cành là chúng em lại nói: Xin bạn đừng hái lá, bẻ cành cây của nhà trường. Hãy giữ cho cây xanh của nhà trường luôn được tươi tốt để bảo vệ ngôi trường xanh – sạch – đẹp. Việc làm đó giờ đây chúng em không còn phải vất vả như ngày đầu nữa, bởi ý thức của các bạn nay được nâng lên. Hàng cây hai bên đường vào trường ngày ngày vươn mình đón ánh nắng mặt trời đem lại cho chúng em những ngọn gió mát lành.
|
My school has a tree protection team. Tell us about your work in that group
Suggest
The road leading to my school is planted with two rows of beautiful trees. The school has a sign prohibiting breaking branches and picking leaves, but it seems that the sign has no meaning to many mischievous students. At recess, after school, not a day goes by without leaves or tree tops being broken and thrown to the ground. Looking at the rows of trees that seemed bare because of the students' hands, I felt very sad because of their actions. I asked the team leader to let us form a team to protect the school's trees. That opinion was highly welcomed and supported by the school. From that day on, our team divided each person into a task. During recess and after school, we took our positions. Every time a student comes up and tries to reach out to pick leaves or break branches, we say: Please don't pick leaves or break branches from the school's tree. Please keep the school's trees always lush to protect the green - clean - beautiful school. We no longer have to work as hard to do that as on the first day, because our awareness has now been raised. The rows of trees on both sides of the road leading to the school stretch out to catch the sunlight every day, bringing us cool breezes.
|
Trường em có phong trào Làm quen qua thư, em hãy viết một bức thư cho bạn ở tỉnh khác để làm quen và hẹn bạn cùng thỉ đua học tốt
Gợi ý
Tiền Hải, ngày 5 / 5 / 2009
Nhật Linh thân mến!
Đầu tiên mình xin tự giới thiệu về bản thân nhé. Mình là Trang học lớp 3C2 Trường Tiểu học Phúc Thắng. Tuần trước cô giáo mình có cho bọn mình xem ảnh của một số học sinh trường bạn trong phong trào Làm quen qua thư. Mình thấy bạn trong ảnh và có cả địa chỉ của bạn nữa trong danh sách. Mình biết bạn cũng như mình rất muôn có nhiều bạn đúng không?
Hôm nay mình viết thư để làm quen và mong được kết bạn cùng bạn, bạn có đồng ý không? Chúng mình sẽ cùng nhau nói chuyện, trao đổi về những vấn đề trong cuộc sống và đặc biệt mình muôn hai đứa mình sẽ cùng nhau thi đua học tập để xem ai đạt được kết quả học tập cao hơn nhé.
Mình hi vọng bạn sẽ không từ chối làm đề nghị của mình. Hãy hồi âm ngay cho mình nhé, mình chờ thư của bạn.
Thôi chào bạn. Địa chỉ của mình là: Nguyễn Hà Trang học sinh lớp 3C2 Trường Tiểu học Phúc Thắng, Tiền Hải, Thái Bình.s
Thân ái chào tạm biệt! Chúc bạn và gia đình luôn mạnh khoẻ và đừng quên viết thư cho mình đấy.
Trang
Nguyễn Hà Trang
|
My school has a movement to get to know each other through letters. Please write a letter to a friend in another province to get to know each other and make an appointment with them to study well.
Suggest
Tien Hai, May 5, 2009
Dear Nhat Linh!
First, let me introduce myself. My name is Trang, studying in class 3C2 at Phuc Thang Primary School. Last week, my teacher showed us photos of some of our school's students participating in the Pen-Friendly movement. I see you in the photo and your address is also on the list. I know you, like me, really want to have many friends, right?
Today I'm writing to get to know you and hope to make friends with you, do you agree? We will talk together, discuss issues in life, and especially I want the two of us to compete in studying together to see who can achieve higher academic results.
I hope you will not refuse to do my proposal. Please reply to me immediately, I am waiting for your letter.
Bye. My address is: Nguyen Ha Trang, student of class 3C2, Phuc Thang Primary School, Tien Hai, Thai Binh.s
Best regard, good bye! Wishing you and your family good health and don't forget to write to me.
Page
Nguyen Ha Trang
|
Trường em đã tổ chức ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Em hãy kể lại buổi lễ ấy
Gợi ý
DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG
A. MỞ BÀI
Giới thiệu quang cảnh trước buổi lễ. Nói lên cảm xúc của bản thân.
B. THÂN BÀI
Kể theo thứ tự diễn biến của buổi lễ. Có thể nêu những suy nghĩ cảm xúc. Sự thể hiện cụ thể đáng chú ý ở một số người tham gia (các bạn, thầy cô giáo, các vị đại biểu).
C. KẾT BÀI
Nêu cảm tưởng cá nhân.
BÀI LÀM
Hôm nay là ngày 20-11, em cùng các bạn bước trên con đường thân quen tràn ngập ánh nắng rực rỡ, lòng vui phơi phới. Những chú chim sâu lao xao trên cành cây như chia vui cùng chúng em.
Em bước vào cổng sân trường đã tràn ngập cờ và hoa. Khắp nơi vang lên tiếng cười nói của các bạn học sinh. Ai cũng mặc áo trắng, quần xanh thật đẹp. Trông xa màu xanh và trắng đan xen vào nhau như những, cánh bướm rập rờn. Phía trên cột cờ là dòng chữ “Lễ kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam”, nổi bật trên nền phông xanh thẳm.
Dưới khán đài là dãy ghế nơi các thầy cô giáo ngồi. Những bông hoa tươi đẹp nhất được cắm vào bình để trên bàn đại biểu. Trong không khí náo nhiệt ấy, bỗng tiếng trống trường vang lên “Tùng!… Tùng!… Tùng…”.
Thầy hiệu trưởng, người cha già của cả trường với mái tóc đã điểm bạc vì năm tháng, dáng người xương xương bước lên lễ đài, giọng nói đầm ấm của thầy cất lên: “Các em ạ! Các em biết không? Để được một bài học hay cho các em, các thầy cô đã phải bỏ ra bao nhiêu công sức, nhiều khi phải thức thâu đêm để có một giáo án tốt. Những ngày mưa giông, gió rét, đường sá lầy lội, có thầy cô ở rất xa nhưng vẫn đến trường đúng giờ. Các thầy cô làm thế là vì các em. Ai cũng muốn các em học thật giỏi, chăm ngoan để trở thành người có ích cho Tổ quốc. Vì vậy các em phải chăm học, ngoan ngoãn”.
Lời nói của thầy hiệu trưởng vừa dứt, một tràng pháo tay nổi lên. Chúng em ai cũng tự nhủ lòng cố gắng chăm ngoan để khỏi phụ lòng mong mỏi của các thầy cô.
Cuối cùng thầy Dũng đọc danh sách những bạn đạt thành tích tốt trong đợt thi đua lập thành tích chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Em rất sung sướng vì trong danh sách ấy có tên em. Một bạn ngồi bên cạnh em reo to:
– Khánh ơi! Có tên bạn đấy, sướng nhé!
Tim em đập rộn lên. Sân trường tràn ngập tiếng cười. Em như thấy các thầy cô nhìn mình trìu mến hơn. Hình như hàng cây xanh ở sân trường cũng như chia niềm vui lớn đó với em và các bạn. Kết thúc buổi lễ là chương trình biểu diễn văn nghệ của các lớp. Những lời ca tiếng hát âm vang trong sáng. Các bạn em như muốn gửi vào lời ca tiếng hát lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với thầy cô. Những điệu múa của các bạn thể hiện rất điêu luyện. Lúc thì như một vườn hoa rực rỡ, lúc thì như những cánh bướm rập rờn đem đến cho người xem một cảm giác thú vị. Đặc sắc nhất là tiết mục lắc vòng của lớp 8 Văn. Những chiếc vòng dưới sự điều khiển khéo léo của các anh, các chị ngoan ngoãn xoay quanh từng người. Tài tình hơn nữa là các chị đứng chồng lên nhau và chuyền cho nhau những chiếc vòng trông như là những diễn viên xiếc thực thụ. Xem tiết mục này ai cũng tấm tắc.
|
My school organized Vietnamese Teachers' Day on November 20. Tell me about that ceremony
Suggest
OUTLINE OF IDEAS
A. OPEN LESSON
Introducing the scene before the ceremony. Speak up about your own feelings.
B. BODY OF THE ARTICLE
Tell in order the events of the ceremony. Can state thoughts and feelings. The specific performance is notable in some participants (you, teachers, delegates).
C. CONCLUSION
State your personal feelings.
ASSIGNMENT
Today is November 20, my friends and I walked on a familiar road filled with bright sunlight, our hearts filled with joy. The birds and insects fluttered on the tree branches as if sharing joy with us.
When I entered the school yard gate, it was filled with flags and flowers. The laughter of students rang out everywhere. Everyone wore beautiful white shirts and blue pants. From a distance, blue and white are intertwined like fluttering butterfly wings. Above the flagpole are the words "Vietnamese Teachers' Day Celebration", standing out against the deep blue background.
Under the stands are rows of chairs where teachers sit. The most beautiful flowers are arranged in a vase on the delegate's table. In that bustling atmosphere, suddenly the sound of the drum rang out, "Tung!... Tung!... Tung...".
The principal, the old father of the whole school with gray hair due to years, a bony figure stepped onto the stage, his warm voice said: "Children! Do you know? To have a good lesson for the children, teachers have to put in a lot of effort, sometimes staying up all night to come up with a good lesson plan. On rainy days, cold winds, muddy roads, some teachers live far away but still come to school on time. Teachers do this for the children. Everyone wants them to study well and be obedient to become useful people for the country. Therefore, you must study hard and be obedient."
As soon as the principal's words ended, a round of applause arose. We all told ourselves to try our best to be obedient so as not to disappoint our teachers' expectations.
Finally, Mr. Dung read the list of those who achieved good results in the achievement competition to celebrate Vietnamese Teachers' Day. I'm very happy because my name is on that list. A friend sitting next to me shouted loudly:
– Khanh! There's your name, be happy!
My heart is pounding. The schoolyard was filled with laughter. I feel like my teachers look at me more affectionately. It seems like the green trees in the school yard also share that great joy with me and my friends. At the end of the ceremony was a cultural performance program by the classes. The lyrics and singing resonate brightly. My friends seemed to want to express their deep gratitude to their teachers in their songs. Your dances are very skillful. Sometimes it's like a brilliant flower garden, sometimes it's like fluttering butterfly wings, giving viewers an interesting feeling. The most special was the hula hoop performance of grade 8 Literature. Under the skillful control of the brothers and sisters, the bracelets obediently rotated around each person. Even more cleverly, the women stood on top of each other and passed the bracelets to each other, looking like real circus performers. Everyone who watches this performance is amazed.
|
Trần thuật sáng tạo truyền thuyết Thánh Gióng
Hướng dẫn
Những bài văn mẫu hay lớp 6
Văn mẫu lớp 6: Trần thuật sáng tạo truyền thuyết Thánh Gióng gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Đề bài: Trần thuật sáng tạo truyền thuyết Thánh Gióng
Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng bên tả ngạn sông Cái (sông Hồng ngày nay) có một người đàn bà nghèo khổ, cô đơn. Sau một đêm mưa to gió lớn, bà ra đồng hái cà. Bà vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy trên luống cà cỏ một lốt chân người rất to, bà bèn đưa chân ướm thử. Kì lạ thay, bà thụ thai, sau đúng một năm trời, bà sinh ra một đứa con trai kháu khỉnh. Nhưng bà rất buồn vì đứa con đã lên ba mà chẳng biết nói, biết cười.
Bấy giờ nước ta bị giặc Ân từ phương Bắc kéo sang xâm lược. Lũ giặc tham lam tàn bạo, ra sức hoành hành. Chúng giết người, cướp của, đốt phá tan hoang. Khói lửa mịt mù sông núi. Thế giặc mạnh lắm. Vua Hùng vô cùng lo sợ, sai sứ giả đi khắp mọi nơi tìm người hiền tài ra đánh giặc để cứu dân, cứu nước.
Sáng tinh mơ, chú bé làng Gióng lắng tai nghe tiếng rao của sứ giả. Lần đầu chú cất tiếng gọi mẹ. Mẹ hiền cảm động, tay run run ôm con vào lòng, nước mắt ứa ra khi nghe con nói: “Mẹ ơi! Xin mẹ cho con được gặp người của nhà vua”. Sứ giả vào nhà, em bé bảo: “Nhà ngươi hãy về tâu với Đức vua đúc cho ta một con ngựa sắt, rèn cho ta một chiếc roi sắt, một áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Từ đó Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no. Áo vừa may, mặc đã chật. Dân làng nô nức đem cơm gạo và vải vóc để nuôi chú. Gióng càng lớn càng tuấn tú, đôi mắt sáng như sao, tiếng nói vang như sấm. Gióng là người Trời:
”Ăn bảy nong cơm, ba nong cà.
Uống một hớp nước cạn đà khúc sông”.
Giặc đã tràn tới chân núi Trâu Sơn. Cả một vùng quê náo động. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé làng Gióng vô cùng mừng rỡ, vươn vai một cái bỗng trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Gióng mặc áo giáp, tay cầm roi sắt, cúi đầu lạy tạ mẹ hiền và dân làng rồi nhảy lên mình ngựa sắt. Ngựa hí vang trời, phun lửa phóng lên như bay. Gióng phingựa xông thẳng vào lũ giặc, vung roi sắt giết giặc. Xác giặc ngổn ngang trên bãi chiến trường. Gióng xông đến đâu, giặc tan đến đấy. Cuộc chiến đang diễn ra dữ dội và ác liệt thì bỗng roi sắt bị gãy. Gióng bình tĩnh nhổ tre làm vũ khí quật vào lũ giặc. Giặc chết như ngả rạ. Tướng giặc bạt vía kinh hồn, gục ngã:
“Đứa thì sứt mũi, sứt tai,
Đứa thì chết nhóc bởi gai tre ngà”.
Giặc Ân thảm bại. Thánh Gióng phi ngựa truy kích giặc Ân đến tận chân núi Sóc Sơn. Giặc tan,ThánhGióng cởi áo giáp sắt mắc lên cành cây, ngoái nhìn lại quê mẹ lần cuối, rồi cùng ngựa sắt bay lên trời biến mất.
Vua Hùng sai lập đền thờ và phong người anh hùng làng Gióng là Phù Đổng Thiên Vương để đời đời ghi nhớ công ơn. Hiện nay, tre đằng ngà, làng Cháy, những ao đầm – dấu chân ngựa sắt… ở huyện Gia Bình thuộc tỉnh Bắc Ninh là những dấu tích thiêng liêng trong chiến trận mà Thánh Gióng còn để lại. Đã hàng ngàn năm nay, hội Gióng là một lễ hội tưng bừng ở nước ta.
|
Narrating the creation legend of Saint Giong
Instruct
Good sample essays for grade 6
Sample essays for grade 6: Narrating the creation of the legend of Saint Giong includes good sample essays for students to refer to and reinforce necessary skills for their upcoming writing test. Invite students to consult.
Topic: Narrating the creation of the legend of Thanh Giong
During the reign of the 6th Hung King, in Giong village on the left bank of the Cai River (today's Red River), there was a poor and lonely woman. After a night of heavy rain and wind, she went to the fields to pick eggplants. She was extremely surprised when she saw a very large human leg on the bed of tomatoes, so she tried it out. Strangely, she conceived, and after exactly one year, she gave birth to a handsome son. But she was very sad because her child was three years old and could not speak or smile.
At that time, our country was invaded by the An invaders from the North. The invaders are greedy and brutal, trying their best to rampage. They killed people, robbed, burned and destroyed. Fire and smoke obscure rivers and mountains. The enemy is very strong. King Hung was extremely afraid and sent messengers everywhere to find talented people to fight the enemy to save the people and the country.
Early in the morning, the boy of Giong village listened to the messenger's announcement. The first time he called out to his mother. The gentle mother was moved, her hands trembling as she hugged her child, tears welled up when she heard the child say: "Mom!" Please let me meet the king's people." The messenger entered the house, and the child said: "Go back and tell the King to cast me an iron horse, forge me an iron whip, an iron armor, and I will defeat these enemies." From then on, Giong grew up very quickly. No matter how much rice you eat, you won't be full. The shirt has just been sewn and is already tight. The villagers eagerly brought rice and cloth to feed him. The older Giong became, the more handsome he became, his eyes were as bright as stars, and his voice was as loud as thunder. Giong is a Heavenly person:
”Eat seven steamed rice, three steamed eggplants.
Take a sip of water until you reach the bottom of the river."
The enemy has reached the foot of Trau Son mountain. The whole countryside was in an uproar. Just then, the messenger brought iron horses, iron whips, and iron armor. The boy of Giong village was extremely happy. He stretched his arms and suddenly became a majestic and majestic soldier. Giong wore armor, held an iron whip, bowed his head, thanked his mother and the villagers, then jumped on the iron horse. The horse whinnied loudly, spitting fire and jumping up like flying. The horse charged straight at the enemy, swinging his iron whip to kill the enemy. Enemy corpses littered the battlefield. Wherever Giong rushes, the enemy will melt away. The battle was going on fiercely and fiercely when suddenly the iron whip broke. Giong calmly pulled up bamboo and used it as a weapon to throw at the enemy. Enemies die like straw. The enemy general was shocked and collapsed:
“The child has a broken nose, a missing ear,
The other one died because of the thorns of bamboo and ivory."
The An enemy failed miserably. Thanh Giong rode his horse to pursue the An enemy to the foot of Soc Son mountain. When the enemy was defeated, Thanh Giong took off his iron armor, hung it on a tree branch, looked back at his mother's hometown one last time, then flew into the sky with his iron horse and disappeared.
King Hung ordered the establishment of a temple and awarded the hero of Giong village as Phu Dong Thien Vuong to forever remember his gratitude. Currently, ivory bamboo, Chay village, ponds and iron horse footprints... in Gia Binh district, Bac Ninh province are sacred traces of the battle that Thanh Giong left behind. For thousands of years, Giong festival has been a jubilant festival in our country.
|
Trận mưa lụt vừa qua làm vỡ đê thật là khủng khiếp. Em hãy kể lại sự việc đó.
Đài vừa báo bão xong thì cơn bão số sáu cũng ập đến. Bầu trời mưa gió quay cuồng, gào rít. Bà con trong xóm nháo nhác chuẩn bị đủ thứ chống bão. Nào gậy gộc, tre nứa, nào cuốc xẻng loãng xoảng va vào nhau.
Từng cơn gió lốc kéo đến, sấm chớp ầm ầm rung chuyển cả bầu trời. Cây cối nghiêng ngả. Gió thổi rất mạnh rồi mưa ập đến nhanh như chớp. Mưa ào ào như thác. Trận này chưa qua trận khác đã kéo đến, xối xả ngày càng mạnh. Tương chừng bao nhiêu nước ở sông biến, ông trời đầu hút lên rồi đỗ cả xuống đây. Cây cối vặn mình răng rắc trong mưa. Nhìn ra xa chỉ một màn trắng xóa. Mưa to quá, nước lênh láng ngập hết đồng ruộng, con đường làng cũng nhòa đi trong mưa. Suốt mấy ngày, mưa sẫm sập, hết trận này đến trận khác. Nước sông dâng lên nhanh đỏ ngầu, sôi sục, nước xiết quá khiến con đê trở nên mong manh như sắp vỡ ra thành từng mảnh vụn Thanh niện trai tráng trong làng được huy đọng ra để giữ đê Tiếng gọi, tiếng loa ồn ã cả một khúc sông. Hàng trăm, hàng nghìn người vác bao đất, tre, cọc ra chắn bờ đê lại. Nhưng mưa mỗi ngày một to hơn, làm sự cố gắng của bà con cũng vô ích. Đê vỡ. Nước tràn ngập vào vườn, vào sân rất nhiều nhà. Mọi người vội đưa trâu bò lợn gà lên trên nóc. Nước ngập khắp xóm làng. Cả làng tôi bị chìm ngập trong nước. Đứng trên nóc nhà nhìn ra, cả một vùng mênh mỏng như biển vậy. Khủng khiêp quả! Những thân cây chuối, cây phi lao bị bật gốc trôi lênh bềnh. Mãi bốn năm ngày sau, máy bay tiếp tế mới tới, nước cũng rút dân. Cơn bão qua đi, bà con tập trung sửa chữa lại đê điều Cả làng xóm tiêu điều, xơ xác hẳn. Nước cuốn đi vô số của cải của mọi người. Thủy thần cũng chăng trừ nhà tôi, cây chuối, cây na gây tan tành, các cây hoa màu khác cũng bị thổi hết. Quả thật chưa có trận mưa bão nào tai hại đến thế trong vòng năm mươi năm qua. Các cụ bảo thế
|
The recent flood that broke the dike was truly terrible. Let me tell you about that incident.
As soon as the radio reported the storm, storm number six also hit. The wind and rain were spinning and howling. People in the neighborhood were busy preparing everything to fight the storm. Sticks, bamboo, and shovels clanged against each other.
Each storm came, thunder and lightning shook the whole sky. Trees tilted. The wind blew very strongly and then the rain came like lightning. The rain poured like a waterfall. This battle has not yet passed, another battle has come, the torrent is getting stronger and stronger. Approximately how much water in the river has changed, God has sucked it up and dumped it here. Trees twist and crackle in the rain. Looking far away, there was only a white screen. The rain was so heavy, the water flooded the fields, and the village roads were blurred in the rain. For several days, the dark rain fell, one storm after another. The river water rose quickly, red and boiling, the water was so fast that the dike became fragile as if it was about to break into pieces. Young men and women in the village were mobilized to protect the dike. Calls and loudspeakers were loud. a section of river. Hundreds, thousands of people carried bags of soil, bamboo, and stakes to block the dike. But the rain gets heavier every day, making the people's efforts useless. The dike broke. Water flooded into the gardens and yards of many houses. Everyone quickly brought cattle, pigs, and chickens to the roof. Water flooded all over the village. My whole village was submerged in water. Standing on the roof, looking out, the whole area is as vast as the sea. Terrible result! The trunks of banana trees and casuarina trees were uprooted and floating. Only four or five days later did the supply plane arrive and the water also receded. The storm passed, people focused on repairing the dykes. The whole village was devastated and devastated. The water swept away countless people's possessions. The water god also destroyed my house, the banana tree, the custard apple tree, and other crops were also blown away. Indeed, there has never been such a disastrous rainstorm in the past fifty years. The elders said so
|
Trận mưa lụt vừa qua làm vỡ đê thật là khủng khiếp. Em hãy kể lại sự việc đó
Bài làm
Đài vừa báo bão xong thì cơn bão số sáu cũng ập đến. Bầu trời mưa gió quay cuồng, gào rít. Bà con trong xóm nháo nhác chuẩn bị đủ thứ chống bão. Nào gậy gộc, tre nứa, nào cuốc xẻng loãng xoảng va vào nhau.
Từng cơn gió lốc kéo đến, sấm chớp ầm ầm rung chuyển cả bầu trời. Cây cối nghiêng ngả. Gió thổi rất mạnh rồi mưa ập đến nhanh như chớp. Mưa ào ào như thác. Trận này chưa qua trận khác đã kéo đến, xối xả ngày càng mạnh. Tương chừng bao nhiêu nước ở sông biến, ông trời đầu hút lên rồi đỗ cả xuống đây. Cây cối vặn mình răng rắc trong mưa. Nhìn ra xa chỉ một màn trắng xóa. Mưa to quá, nước lênh láng ngập hết đồng ruộng, con đường làng cũng nhòa đi trong mưa. Suốt mấy ngày, mưa sẫm sập, hết trận này đến trận khác. Nước sông dâng lên nhanh đỏ ngầu, sôi sục, nước xiết quá khiến con đê trở nên mong manh như sắp vỡ ra thành từng mảnh vụn Thanh niện trai tráng trong làng được huy đọng ra để giữ đê Tiếng gọi, tiếng loa ồn ã cả một khúc sông. Hàng trăm, hàng nghìn người vác bao đất, tre, cọc ra chắn bờ đê lại. Nhưng mưa mỗi ngày một to hơn, làm sự cố gắng của bà con cũng vô ích. Đê vỡ. Nước tràn ngập vào vườn, vào sân rất nhiều nhà. Mọi người vội đưa trâu bò lợn gà lên trên nóc. Nước ngập khắp xóm làng. Cả làng tôi bị chìm ngập trong nước. Đứng trên nóc nhà nhìn ra, cả một vùng mênh mỏng như biển vậy. Khủng khiêp quả! Những thân cây chuối, cây phi lao bị bật gốc trôi lênh bềnh. Mãi bốn năm ngày sau, máy bay tiếp tế mới tới, nước cũng rút dân. Cơn bão qua đi, bà con tập trung sửa chữa lại đê điều Cả làng xóm tiêu điều, xơ xác hẳn. Nước cuốn đi vô số của cải của mọi người. Thủy thần cũng chăng trừ nhà tôi, cây chuối, cây na gây tan tành, các cây hoa màu khác cũng bị thổi hết. Quả thật chưa có trận mưa bão nào tai hại đến thế trong vòng năm mươi năm qua. Các cụ bảo thế
Cơn bão khủng khiếp đã qua đi hơn sáu tháng nhưng cho đến bây giờ tác hại của nó vẫn còn ảnh hưởng đến mùa màng và cuộc sống của người dân quê tôi.
|
The recent flood that broke the dike was truly terrible. Let me tell you about that incident
Assignment
As soon as the radio reported the storm, storm number six also hit. The wind and rain were spinning and howling. People in the neighborhood were busy preparing everything to fight the storm. Sticks, bamboo, and shovels clanged against each other.
Each storm came, thunder and lightning shook the whole sky. Trees tilted. The wind blew very strongly and then the rain came like lightning. The rain poured like a waterfall. This battle has not yet passed, another battle has come, the torrent is getting stronger and stronger. Approximately how much water in the river has changed, God has sucked it up and dumped it here. Trees twist and crackle in the rain. Looking far away, there was only a white screen. The rain was so heavy, the water flooded the fields, and the village roads were blurred in the rain. For several days, the dark rain fell, one storm after another. The river water rose quickly, red and boiling, the water was so fast that the dike became fragile as if it was about to break into pieces. Young men and women in the village were mobilized to protect the dike. Calls and loudspeakers were loud. a section of river. Hundreds, thousands of people carried bags of soil, bamboo, and stakes to block the dike. But the rain gets heavier every day, making the people's efforts useless. The dike broke. Water flooded into the gardens and yards of many houses. Everyone quickly brought cattle, pigs, and chickens to the roof. Water flooded all over the village. My whole village was submerged in water. Standing on the roof, looking out, the whole area is as vast as the sea. Terrible result! The trunks of banana trees and casuarina trees were uprooted and floating. Only four or five days later did the supply plane arrive and the water also receded. The storm passed, people focused on repairing the dykes. The whole village was devastated and devastated. The water swept away countless people's possessions. The water god also destroyed my house, the banana tree, the custard apple tree, and other crops were also blown away. Indeed, there has never been such a disastrous rainstorm in the past fifty years. The elders said so
The terrible storm has been over for more than six months, but until now its harmful effects still affect the crops and lives of the people in my hometown.
|
Trời trao gươm báu – việc lớn thành công, Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm Ngữ Văn 6
Hướng dẫn
Trời trao gươm báu – việc lớn thành công
Tìm hiểu, suy ngẫm về chùm truyền thuyết cổ xưa xuất hiện trong thời đại các vua Hùng dựng nước như Con Rồng cháu Tiên ; Thánh Gióng ; Sơn Tinh, Thuỷ Tinh,… chúng ta thấy các nhân vật và sự kiên lịch sử đã được nhào nặn, kì ảo hoá, lí tưởng hoá khiến cho chất thực mờ đi, chất mộng mơ, lãng mạn, tưởng tượng hiện rõ. Tiếp sau các truyền thuyết đẫm chất mộng, chất thơ ấy, tổ tiên chúng ta sáng tác nhiều truyền thuyết tiêu biểu mang nhiều yếu tố sự thật lịch sử hơn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu có cốt lõi lịch sử nổi bật là truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm. Đây là loại truyền thuyết vừa giải thích nguồn gốc một địa danh vừa tôn vinh những danh nhân, những anh hùng nổi bật trong lịch sử có công với dân, với nước. Sự tích Hồ Gươm là một trong hàng trăm sáng tác dân gian vể Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn, thế kỷ XV. Tuy tác phẩm mang cốt lõi lịch sử nổi bật, nhưng vẫn có những chi tiết kì ảo, tưởng tượng đặc sắc, toát ra nhiều ý nghĩa. Đọng lại trong suy ngẫm và cảm xúc của người kể, người nghe truyền thuyết này là hình ảnh thanh kiếm “Thuận Thiên”. Nói khác đi, đây là câu chuyện “Trời trao gươm báu, việc lớn ắt thành công”.
1. Vì sao đức Long Quân cho mượn gươm?
Qua truyền thuyết, chúng ta hiểu rằng: Lúc bấy giờ giặc Minh đô hộ nước ta, làm nhiều điều bạo ngược, nhân dân ta: trời đất và lòng người – căm giận chúng đến tận xương tuỷ. Ở vùng Lam Sơn, Lê Lợi đã tập hợp những người dân có nghĩa khí nổi dậy chống giặc. Những ngày đầu, nghĩa quân lực yếu, lương thảo ít, thanh thế chưa cao, nhiều lần bị thua trận. Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết giặc. Như vậy, trời đã thấu hiểu việc đời, lòng dân. Việc làm của nghĩa quân Lam Sơn hợp ý trời, được tổ tiên, thần linh ủng hộ, giúp đỡ. Nhưng cách ủng hộ, giúp đỡ ấy không đơn giản, dễ dàng mà nhiều thử thách, đòi hỏi con người phải thông minh, phải giàu bản lĩnh và có quyết tâm cao.
2. Cách Long Quân cho mượn gươm, Lê Lợi nhận gươm và tổ chức chiến đấu như thế nào?
a) Từ trong lòng nước, lưỡi gươm đến tay người dân. Chàng Lê Thận đánh cá, ba lần quăng chài thả lưới, kéo lưới vẫn chỉ thấy thanh sắt lạ “chui vào lưới mình”. Đưa thanh sắt cạnh mồi lửa, chàng nhận ra một lưỡi gươm. Vậy là, người dân bình thường ấy đã được sông nước tặng vũ khí, thôi thúc chàng lên đường tham gia nghĩa quân. Nhưng “lưỡi gươm” kia vẫn ngủ im. Kể cả lúc chủ tướng Lê Lợi cầm lên xem, thấy hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm, mọi người vẫn không biết đó là báu vật. “Thuận Thiên” nghĩa là “hợp lòng trời, thuận với ý trời”. Có thể Lê Lợi hiểu nghĩa của hai chữ đó, nhưng chưa thấu tỏ được ý thiêng, thâm thuý của thần linh. Đây cũng là một câu đố, một thử thách, đòi hỏi trí thông minh, sự sáng tạo của con người. Trong các truyền thuyết trước, đã xuất hiện những “bài toán”, câu đố. Đến truyện này, câu đố hiện lên ở một vật thiêng bằng chữ thánh hiền khiến cho cả nhân vật trong truyện và người đọc chúng ta băn khoăn, hồi hộp. Câu đố tiếp tục xuất hiện, thần linh tiếp tục thử thách. Lần này sự thử thách không đến với dân mà hiện ra trước mắt. người chủ tướng. Trên đường lui quân, Lê Lợi bỗng thấy “có ánh sáng lạ trên ngọn cây đa… trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận…”. ít ngày sau “khi đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in”. Như vậy là trải qua một quá trình thử thách, thần linh đã phát hiện được người đủ tài đủ đức, có trí sáng, lòng thành để trao gươm báu. Ta thử ví dụ, sau khi vớt được thanh sắt – lưỡi gươm, chàng ngư dân Lê Thận không gia nhập nghĩa quân, không chiến đấu dũng cảm để được Lê Lợi quý mến, gần gũi và chủ tướng Lê Lợi khi nhìn thấy cái chuôi gươm nạm ngọc không nhớ tới lưỡi gươm nhà Lê Thận… thì sự việc sẽ ra sao? Có thể nói, từ trong lòng nước, lưỡi gươm vào tay người dân rồi từ trên rừng sâu, núi cao, chuôi gươm thôi thúc chủ tướng để hoàn thiện một thanh gươm, để hoà hợp ý trời và lòng dân, dũng khí của quân và trí sáng của tướng, hoà hợp lực lượng miền xuôi, sông nước và lực lượng người dân miền núi, rừng già. Điều này gợi nhớ lời dặn xưa của bố Rồng, mẹ Tiên “kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn…”.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
Sau này, trong bản hùng văn Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã thâu tóm sự việc trời trao gươm, dân gửi niềm tin và ý chí, quyết tâm đánh giặc của Lê Lợi bằng hai câu văn đặc sắc như thế. Không rõ truyền thuyết Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm có trước, hay bài hùng văn của Nguyễn Trãi có trước? Điều chắc chắn rằng, đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói chung, cá nhân Lê Lợi nói riêng, nhân dân ta đã tôn vinh bằng những hình ảnh, chi tiết, sự việc, lời văn đẹp nhất.
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ…
(Bình Ngô đại cáo)
Đúng là “Trời trao gươm báu, việc lớn ắt thành công”!
3. Việc lớn thành công rồi, gươm thần trả lại Long Quân như thế nào? Việc ấy có ý nghĩa gì?
Hoàn cảnh diễn ra việc trả gươm khá đặc biệt. Đất nước thanh bình, nhân dân sống yên vui, vua và quần thần được tạm nghỉ ngơi, dạo mát, ngắm cảnh trên mặt hồ, cái lẵng hoa xanh mát, con mắt ngọc long lanh giữa kinh thành. Hồ có tên là Tả Vọng, có lẽ vì hổ nằm ở phía trái cung vua, nhìn về cung điện. Một cái tên bình thường không có gì đặc sắc. Điều đặc sắc là “Khi thuyền rồng tiến ra giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước”. Trong khi đó lưỡi gươm thần đeo bên người, đức vua “tự nhiên động đậy…”. Và Rùa nói được tiếng người: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân! Vua nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng… Rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước…”. Việc trả gươm diễn ra mau chóng, toàn là những chi tiết kì ảo, vừa như có thật, lại vừa như không thật, vừa là chuyện con người lại vừa là chuyện của thần thánh. Nghe chuyện và tưởng tượng, chúng ta không khỏi bàng hoàng, suy ngẫm. Vậy việc trả gươm trên hồ Tả Vọng, sau được đổi thành Hồ Gươm, hồ Hoàn Kiếm có ý nghĩa gì? Trước hết việc ấy phản ánh tư tưởng, tình cảm yêu hoà bình của dân tộc ta. Khi có giặc ngoại xâm, cả thần lẫn người, tổ tiên và con cháu hợp sức vung gươm đánh giặc, khi đất nước thanh bình, chúng ta “treo gươm”, “cất gươm”, “trả gươm” về chốn cũ. Việc ấy cũng có nghĩa là: chúng ta “trả gươm” cho thần thánh, nhờ giữ hộ để “gươm” tạm nghỉ ngơi hoá thân vào khí thiêng non nước. Bọn giặc hãy coi chừng! Hồ Tả Vọng, bên cạnh hoàng cung, nay có tên Ịà “Hoàn Kiếm” sẽ lưu giữ thanh gươm “Thuận Thiên” giữa lòng Tổ quốc, mãi mãi lưu giữ chiến công của nghĩa quân Lam Sơn, thường xuyên nhắc nhở nhân dân nhớ ơn người xưa và cảnh giác trước kẻ thù xâm lược. Tên hồ và “ánh sáng le lói dưới mặt hồ xanh” như trong truyền thuyết kể muôn đời toả sáng các ý nghĩa đó.
|
Trời trao gươm báu – việc lớn thành công, Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm Ngữ Văn 6
Hướng dẫn
Trời trao gươm báu – việc lớn thành công
Tìm hiểu, suy ngẫm về chùm truyền thuyết cổ xưa xuất hiện trong thời đại các vua Hùng dựng nước như Con Rồng cháu Tiên ; Thánh Gióng ; Sơn Tinh, Thuỷ Tinh,… chúng ta thấy các nhân vật và sự kiên lịch sử đã được nhào nặn, kì ảo hoá, lí tưởng hoá khiến cho chất thực mờ đi, chất mộng mơ, lãng mạn, tưởng tượng hiện rõ. Tiếp sau các truyền thuyết đẫm chất mộng, chất thơ ấy, tổ tiên chúng ta sáng tác nhiều truyền thuyết tiêu biểu mang nhiều yếu tố sự thật lịch sử hơn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu có cốt lõi lịch sử nổi bật là truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm. Đây là loại truyền thuyết vừa giải thích nguồn gốc một địa danh vừa tôn vinh những danh nhân, những anh hùng nổi bật trong lịch sử có công với dân, với nước. Sự tích Hồ Gươm là một trong hàng trăm sáng tác dân gian vể Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn, thế kỷ XV. Tuy tác phẩm mang cốt lõi lịch sử nổi bật, nhưng vẫn có những chi tiết kì ảo, tưởng tượng đặc sắc, toát ra nhiều ý nghĩa. Đọng lại trong suy ngẫm và cảm xúc của người kể, người nghe truyền thuyết này là hình ảnh thanh kiếm “Thuận Thiên”. Nói khác đi, đây là câu chuyện “Trời trao gươm báu, việc lớn ắt thành công”.
1. Vì sao đức Long Quân cho mượn gươm?
Qua truyền thuyết, chúng ta hiểu rằng: Lúc bấy giờ giặc Minh đô hộ nước ta, làm nhiều điều bạo ngược, nhân dân ta: trời đất và lòng người – căm giận chúng đến tận xương tuỷ. Ở vùng Lam Sơn, Lê Lợi đã tập hợp những người dân có nghĩa khí nổi dậy chống giặc. Những ngày đầu, nghĩa quân lực yếu, lương thảo ít, thanh thế chưa cao, nhiều lần bị thua trận. Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết giặc. Như vậy, trời đã thấu hiểu việc đời, lòng dân. Việc làm của nghĩa quân Lam Sơn hợp ý trời, được tổ tiên, thần linh ủng hộ, giúp đỡ. Nhưng cách ủng hộ, giúp đỡ ấy không đơn giản, dễ dàng mà nhiều thử thách, đòi hỏi con người phải thông minh, phải giàu bản lĩnh và có quyết tâm cao.
2. Cách Long Quân cho mượn gươm, Lê Lợi nhận gươm và tổ chức chiến đấu như thế nào?
a) Từ trong lòng nước, lưỡi gươm đến tay người dân. Chàng Lê Thận đánh cá, ba lần quăng chài thả lưới, kéo lưới vẫn chỉ thấy thanh sắt lạ “chui vào lưới mình”. Đưa thanh sắt cạnh mồi lửa, chàng nhận ra một lưỡi gươm. Vậy là, người dân bình thường ấy đã được sông nước tặng vũ khí, thôi thúc chàng lên đường tham gia nghĩa quân. Nhưng “lưỡi gươm” kia vẫn ngủ im. Kể cả lúc chủ tướng Lê Lợi cầm lên xem, thấy hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm, mọi người vẫn không biết đó là báu vật. “Thuận Thiên” nghĩa là “hợp lòng trời, thuận với ý trời”. Có thể Lê Lợi hiểu nghĩa của hai chữ đó, nhưng chưa thấu tỏ được ý thiêng, thâm thuý của thần linh. Đây cũng là một câu đố, một thử thách, đòi hỏi trí thông minh, sự sáng tạo của con người. Trong các truyền thuyết trước, đã xuất hiện những “bài toán”, câu đố. Đến truyện này, câu đố hiện lên ở một vật thiêng bằng chữ thánh hiền khiến cho cả nhân vật trong truyện và người đọc chúng ta băn khoăn, hồi hộp. Câu đố tiếp tục xuất hiện, thần linh tiếp tục thử thách. Lần này sự thử thách không đến với dân mà hiện ra trước mắt. người chủ tướng. Trên đường lui quân, Lê Lợi bỗng thấy “có ánh sáng lạ trên ngọn cây đa… trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận…”. ít ngày sau “khi đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in”. Như vậy là trải qua một quá trình thử thách, thần linh đã phát hiện được người đủ tài đủ đức, có trí sáng, lòng thành để trao gươm báu. Ta thử ví dụ, sau khi vớt được thanh sắt – lưỡi gươm, chàng ngư dân Lê Thận không gia nhập nghĩa quân, không chiến đấu dũng cảm để được Lê Lợi quý mến, gần gũi và chủ tướng Lê Lợi khi nhìn thấy cái chuôi gươm nạm ngọc không nhớ tới lưỡi gươm nhà Lê Thận… thì sự việc sẽ ra sao? Có thể nói, từ trong lòng nước, lưỡi gươm vào tay người dân rồi từ trên rừng sâu, núi cao, chuôi gươm thôi thúc chủ tướng để hoàn thiện một thanh gươm, để hoà hợp ý trời và lòng dân, dũng khí của quân và trí sáng của tướng, hoà hợp lực lượng miền xuôi, sông nước và lực lượng người dân miền núi, rừng già. Điều này gợi nhớ lời dặn xưa của bố Rồng, mẹ Tiên “kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn…”.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
Sau này, trong bản hùng văn Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã thâu tóm sự việc trời trao gươm, dân gửi niềm tin và ý chí, quyết tâm đánh giặc của Lê Lợi bằng hai câu văn đặc sắc như thế. Không rõ truyền thuyết Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm có trước, hay bài hùng văn của Nguyễn Trãi có trước? Điều chắc chắn rằng, đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói chung, cá nhân Lê Lợi nói riêng, nhân dân ta đã tôn vinh bằng những hình ảnh, chi tiết, sự việc, lời văn đẹp nhất.
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ…
(Bình Ngô đại cáo)
Đúng là “Trời trao gươm báu, việc lớn ắt thành công”!
3. Việc lớn thành công rồi, gươm thần trả lại Long Quân như thế nào? Việc ấy có ý nghĩa gì?
Hoàn cảnh diễn ra việc trả gươm khá đặc biệt. Đất nước thanh bình, nhân dân sống yên vui, vua và quần thần được tạm nghỉ ngơi, dạo mát, ngắm cảnh trên mặt hồ, cái lẵng hoa xanh mát, con mắt ngọc long lanh giữa kinh thành. Hồ có tên là Tả Vọng, có lẽ vì hổ nằm ở phía trái cung vua, nhìn về cung điện. Một cái tên bình thường không có gì đặc sắc. Điều đặc sắc là “Khi thuyền rồng tiến ra giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước”. Trong khi đó lưỡi gươm thần đeo bên người, đức vua “tự nhiên động đậy…”. Và Rùa nói được tiếng người: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân! Vua nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng… Rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước…”. Việc trả gươm diễn ra mau chóng, toàn là những chi tiết kì ảo, vừa như có thật, lại vừa như không thật, vừa là chuyện con người lại vừa là chuyện của thần thánh. Nghe chuyện và tưởng tượng, chúng ta không khỏi bàng hoàng, suy ngẫm. Vậy việc trả gươm trên hồ Tả Vọng, sau được đổi thành Hồ Gươm, hồ Hoàn Kiếm có ý nghĩa gì? Trước hết việc ấy phản ánh tư tưởng, tình cảm yêu hoà bình của dân tộc ta. Khi có giặc ngoại xâm, cả thần lẫn người, tổ tiên và con cháu hợp sức vung gươm đánh giặc, khi đất nước thanh bình, chúng ta “treo gươm”, “cất gươm”, “trả gươm” về chốn cũ. Việc ấy cũng có nghĩa là: chúng ta “trả gươm” cho thần thánh, nhờ giữ hộ để “gươm” tạm nghỉ ngơi hoá thân vào khí thiêng non nước. Bọn giặc hãy coi chừng! Hồ Tả Vọng, bên cạnh hoàng cung, nay có tên Ịà “Hoàn Kiếm” sẽ lưu giữ thanh gươm “Thuận Thiên” giữa lòng Tổ quốc, mãi mãi lưu giữ chiến công của nghĩa quân Lam Sơn, thường xuyên nhắc nhở nhân dân nhớ ơn người xưa và cảnh giác trước kẻ thù xâm lược. Tên hồ và “ánh sáng le lói dưới mặt hồ xanh” như trong truyền thuyết kể muôn đời toả sáng các ý nghĩa đó.
|
Trời đang nắng bỗng đổ trận mưa rào. Em hãy tả cảnh đó ở nơi em ở
Gợi ý
Cả tuần nay, trời trở nên nóng bức khác thường. Mọi người đều đổ xô ra ngoài hiên nhà trên tay cầm chiếc quạt phe phẩy. Người nào người nấy đều uể oải, mồ hôi nhễ nhại. Cây cối đứng im thẫn thờ ủ rũ… Ai cũng than vắn thở dài mong chờ một trận mưa thật lớn.
Bỗng mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến bao phủ cả bầu trời. Không mấy chôc trời đang sáng giờ đây tốì hẳn lại và sức nóng cũng dịu bớt. Rồi gió bắt đầu nổi dậy, lúc đầu còn nhẹ sau mạnh dần mang theo khí mát lạnh. Sức gió làm các cành cây chao đảo, bụi đường tung bay mù mịt. Các mái nhà lợp tôn lâu năm bị bung đinh vít đập vào nhau ầm ầm. Khách đi đường tăng tốc độ xe hi vọng về đến nhà sớm hơn. Người bộ hành cũng rảo bước nhanh. Nhà nhà đều khép cửa lại để tránh gió. Ai cũng dự đoán sẽ có một trận mưa thật to. Đường phố cũng dần dần vắng khách, lác đác một vài chiếc xe chở hàng về muộn đang ì ạch chống lại với sức gió.
Rồi từ mái nhà vang lên những tiếng “lộp độp” thật mạnh. Những hạt mưa đầu mùa nặng và thưa bắt đầu rơi xuống. Chỉ vài giây sau, một trận mưa rào ào ào ập tới thật nhanh khiến cho mọi người chuẩn bị dọn dẹp chưa kịp phải hối hả chạy tất bật. Nước từ lưng chừng trời tuôn xối xả như trút cơn giận dữ xuống mặt đường. Các giọt nước đan vào nhau tạo thành một bức màn trắng xóa.
Trước kia nóng bức khô khan bao nhiêu thì giờ đây mát mẻ và nơi nào cũng đầy ắp nước. Khách đi đường lỡ bước vội nép vào mái hiên nhà ở hai bên phố để trú mưa. Thỉnh thoảng vài chiếc xe hơi lao nhanh làm tung tóe nước. Nước cuồn cuộn chảy về phía có cống rãnh đục ngầu mang theo rác rêu. Từ trong nhà, các em nhỏ chạy ùa ra sân để tắm mưa. Chúng đùa giỡn la hét, đuổi bắt nhau dưới cơn mưa lấy làm thích lắm. Trên bầu trời một lằn chớp ngoằn ngoèo chợt sáng lóe lên tiếp theo là một tiếng sấm vang rền cả không gian. Mưa vẫn sầm sập trút nước xuống mái nhà, trên đường phố… Được một lúc lâu, mưa dần dần ngớt hạt…
Bầu trời cũng sáng ra. Mưa bắt đầu tạnh. Xe cộ lưu thông trở lại, nhà nhà mở cửa. Trời trong sáng mát rượi. Bụi bậm trên các cành lá như được tắm gội sạch sẽ nên giờ đây cây nào cũng sáng đẹp hẳn ra. Mọi sinh hoạt trở lại bình thường.
Cơn mưa đầu mùa thật to mang lại cho mọi người một niềm vui khoan khoái. Sau những ngày nóng bức khó chịu gần như ngạt thở, giờ đây không khí trở nên mát mẻ, vạn vật như được hồi sinh. Nước mưa sẽ tiếp sức cho ruộng đồng, cho cây lúa được xanh tươi… Vài cánh chim bay ngang trời và vừng thái dương cũng bắt đầu lộ diện ló ra những tia sáng chói lọi len qua những cành cây kẽ lá còn đọng đầy nước. Tất cả những hòa chung niềm vui với mọi người.
|
It was sunny and suddenly it rained heavily. Please describe that scene where you live
Suggest
This whole week, the weather has been unusually hot. Everyone rushed out to the porch, waving fans in their hands. Everyone was tired and sweaty. The trees stood still and sullen... Everyone sighed and waited for a big rain.
Suddenly, dark clouds came from somewhere, covering the entire sky. Not long after, the sky was bright and now it's completely dark and the heat has subsided. Then the wind began to rise, at first light, then gradually stronger, bringing with it cool air. The force of the wind made the tree branches sway, causing road dust to fly. The old corrugated iron roofs were stripped of screws and banged loudly against each other. Passengers speed up their cars in hopes of getting home sooner. Pedestrians also walked quickly. Every house closes its doors to avoid the wind. Everyone predicted there would be a heavy rain. The streets also gradually became empty, with a few late-coming goods trucks lumbering against the wind.
Then from the roof came loud "popping" sounds. The first heavy and sparse raindrops of the season began to fall. Just a few seconds later, a torrential downpour came so quickly that everyone who had not had time to prepare to clean up had to rush and run. Water poured from halfway up the sky as if pouring anger onto the road. Water drops intertwine to form a white curtain.
Before it was hot and dry, now it is cool and everywhere is full of water. Passersby who accidentally stepped quickly hid on the porches of houses on both sides of the street to shelter from the rain. Occasionally a few cars speed by, splashing water. The rushing water flows toward the muddy sewer, carrying moss and trash with it. From inside the house, the children ran to the yard to bathe in the rain. They joked around, screamed, and chased each other in the rain and had a lot of fun. In the sky, a zigzag streak of lightning suddenly flashed, followed by a clap of thunder that echoed throughout the space. The rain was still pouring down on the roofs and on the streets... After a while, the rain gradually stopped...
The sky also brightened. The rain started to stop. Traffic is flowing again, homes are open. The sky is clear and cool. The dust on the branches and leaves seems to have been washed clean, so now every tree is bright and beautiful. All activities return to normal.
The first heavy rain of the season brought everyone a refreshing joy. After days of uncomfortably hot, almost suffocating heat, the air is now cool and everything seems to be revived. The rainwater will energize the fields and make the rice green... A few birds flew across the sky and the sunflowers also began to appear, shining rays of light through the branches and leaves still full of water. All sharing joy with everyone.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 10
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 10)
A. ĐỀ THI
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Xin cảm ơn buổi sớm mai thức dậy
Ta có thêm một ngày mới để yêu thương
Xin mang ơn những buổi hoàng hôn vương
Ta có được bữa cơm gia đình hạnh phúc
Xin biết ơn giấc mộng đầy cảm xúc
Ta có thể rèn tâm thức được bình yên
Nếu một mai ra đi trong an nhiên
Ta sẽ mỉm cười với lòng cảm kích.
(Lòng biết ơn, Tú Yên)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 3. Chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của phép điệp cấu trúc câu trong những câu thơ sau: “Xin cảm ơn buổi sớm mai thức dậy… Xin mang ơn những buổi hoàng hôn vương… Xin biết ơn giấc mộng đầy cảm xúc”. (1 điểm)
Câu 4. Tại sao nhà thơ lại viết:
Xin cảm ơn buổi sớm mai thức dậy
Ta có thêm một ngày mới để yêu thương. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về thông điệp được nêu trong văn bản ở phần đọc hiểu: Lòng biết ơn.
Câu 2. (5 điểm)
Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện một tình yêu vừa có nét truyền thống như tình yêu muôn đời lại vừa in đậm nét hiện đại. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua đoạn thơ sau:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐOC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. (0,5 điểm)
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 4. Câu thơ:
Xin cảm ơn buổi sớm mai thức dậy
Ta có thêm một ngày môi để yêu thương.
thể hiện lẽ sống của tác giả: sống là để yêu thương, mỗi ngày mới thức dậy ta đều thấy biết ơn cuộc đời bởi mình vẫn sống bình yên, khoẻ mạnh để có thể đón nhận và chia sẻ yêu thương với mọi người. Đó là lẽ sống cao đẹp đáng trân trọng và học tập. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIẾM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Lòng biết ơn là gì? Vai trò của lòng biết ơn?
– Biểu hiện của lòng biết ơn.
– Phê phán những kẻ vô ơn, bạc nghĩa.
Đoạn văn mẫu:
Lòng biết ơn là thái độ sống quan trọng và cần thiết đối với mỗi người. Biết ơn là ghi nhớ công lao của những người đã giúp đỡ mình hay đơn giản hơn là đem lại cho mình cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Làm sao ta có thể quên ơn cha mẹ đã ban cho ta cuộc sống, thầy cô đã dạy dỗ ta khôn lớn trưởng thành. Làm sao ta có thể quên công lao các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để cho ta có cuộc sống hoà bình như ngày hôm nay. Làm sao ta có thể không ghi nhớ vẻ đẹp của một tia nắng ấm áp, một giọt sương trong lành… Bởi tất cả đã mang đến cho ta một buổi bình minh tươi đẹp… Lòng biết ơn là biểu hiện của đạo lí truyền thống uống nước nhớ nguồn cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện nay, có không ít người sống vô ơn bạc nghĩa. Thái độ vô ơn ấy thật đáng phê phán. Là thế hệ tương lai của đất nước, chúng ta cần giữ gìn và phát huy lòng biết ơn – một trong những truyền thống đạo lí tốt đẹp của con người Việt Nam.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng kết cấu bài văn ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung:
Bài viết cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ cấn phân tích, nếu ý kiến trích dẫn.
Tình yêu là đề tài muôn thuở của thi ca. Trong vườn thơ tình mênh mông không biên giới ấy, mỗi nhà thơ có một tiếng nói riêng, khi nồng nàn mãnh liệt như Xuân Diệu; khi sâu lắng đầy triết lí như Chế Lan Viên; khi “đau thương” đến tuyệt vọng như Hàn Mặc Tử… Giữa muôn sắc hương ấy, người đọc vẫn không thể nào quên Sóng của Xuân Quỳnh, một bông hoa xinh xắn “nở dọc chiến hào”. Bài thơ là tiếng lòng của người phụ nữ trong tình yêu, vừa hồn nhiên trong sáng lại vừa sâu sắc ý nhị; vừa có nét truyền thống như tình yêu muôn đời lại vừa in đậm nét hiện đại, tiêu biểu là đoạn thơ sau: “Con sóng dưới lòng sâu… Dù muôn vời cách trở.”
b) Thân bài
1. Giải thích
Tình yêu có nét truyền thống là tình yêu mang tâm lí của người phụ nữ Việt Nam xưa, dịu dàng, nữ tính, thuỷ chung trong tình yêu. Tình yêu có nét hiện đại là tình yêu mang tâm lí của người phụ nữ Việt Nam hôm nay, dám biểu lộ cảm xúc cá nhân một cách mạnh mẽ, sôi nổi.
2. Chứng minh
– Tình yêu mang nét hiện đại
Xuân Quỳnh không giấu giếm lòng mình, không ngần ngại bày tỏ tình cảm của mình một cách chân thành, thẳng thắn: “Con sóng dưới lòng sâu… Cả trong mơ còn thức”. Sóng nổi hay chìm, sóng ngày hay đêm, sóng cồn cào khuấy động lòng đại dương là bởi sóng nhớ bờ khôn nguôi. Nỗi nhớ của sóng tưởng đã mãnh liệt nhưng nỗi nhớ của em còn mãnh liệt hơn sóng. Sóng chỉ nhớ bờ trong cõi thực còn em nhớ anh cả trong cõi mơ. Giấc mơ là chiều sâu khôn cùng của nỗi nhớ, chỉ có những ai yêu say đắm mới có thể chia sẻ cùng nữ sĩ nỗi nhớ cồn cào cháy bỏng đến thế. Nếu ca dao xưa mượn hình ảnh ngọn lửa “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than” để diễn tả nỗi nhớ thì Xuân Quỳnh lại mượn hình ảnh sóng nước để diễn tả một nỗi nhớ vừa có chiều sâu, lại vừa có độ dài rộng mênh mông, bao trùm cả cõi thực lẫn cõi mộng, ý thức lẫn vô thức. Nếu người con gái trong ca dao xưa phải mượn hình ảnh khăn, đèn, mắt để diễn tả lòng mình: “Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất… Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt… Mắt thương nhớ ai/ Mắt ngủ không yên” thì Xuân Quỳnh đã trực tiếp bày tỏ tình yêu của mình: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Đó là biểu hiện của một tình yêu mang nét hiện đại.
Một trong những phẩm chất truyền thống cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam là lòng thuỷ chung, son sắt. Mượn hình ảnh trăm ngàn con sóng, dù trải qua bao cách trở vẫn hướng về bờ, Xuân Quỳnh đã khẳng định tấm lòng thuỷ chung, son sắt đến tuyệt đối của người con gái trong tình yêu. Dù đất trời có thay đổi biến thiên, xuôi thành ngược, Bắc thành Nam thì trái tim người con gái đang yêu như một chiếc la bàn đặc biệt vẫn chỉ hướng vể một phương duy nhất: phương anh.
3. Về nghệ thuật: Thể thơ năm chữ, ngôn ngữ thơ trong sáng, tự nhiên, các phép điệp từ, điệp ngữ hô ứng đăng đối, nhịp nhàng…
c) Kết bài
Khái quát nội dung nghệ thuật chung, đoạn thơ thể hiện một tình yêu vừa có nét truyền thống lại vừa có nét hiện đại, tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 10
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 10)
A. ĐỀ THI
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Xin cảm ơn buổi sớm mai thức dậy
Ta có thêm một ngày mới để yêu thương
Xin mang ơn những buổi hoàng hôn vương
Ta có được bữa cơm gia đình hạnh phúc
Xin biết ơn giấc mộng đầy cảm xúc
Ta có thể rèn tâm thức được bình yên
Nếu một mai ra đi trong an nhiên
Ta sẽ mỉm cười với lòng cảm kích.
(Lòng biết ơn, Tú Yên)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 3. Chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của phép điệp cấu trúc câu trong những câu thơ sau: “Xin cảm ơn buổi sớm mai thức dậy… Xin mang ơn những buổi hoàng hôn vương… Xin biết ơn giấc mộng đầy cảm xúc”. (1 điểm)
Câu 4. Tại sao nhà thơ lại viết:
Xin cảm ơn buổi sớm mai thức dậy
Ta có thêm một ngày mới để yêu thương. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về thông điệp được nêu trong văn bản ở phần đọc hiểu: Lòng biết ơn.
Câu 2. (5 điểm)
Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện một tình yêu vừa có nét truyền thống như tình yêu muôn đời lại vừa in đậm nét hiện đại. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua đoạn thơ sau:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐOC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. (0,5 điểm)
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 4. Câu thơ:
Xin cảm ơn buổi sớm mai thức dậy
Ta có thêm một ngày môi để yêu thương.
thể hiện lẽ sống của tác giả: sống là để yêu thương, mỗi ngày mới thức dậy ta đều thấy biết ơn cuộc đời bởi mình vẫn sống bình yên, khoẻ mạnh để có thể đón nhận và chia sẻ yêu thương với mọi người. Đó là lẽ sống cao đẹp đáng trân trọng và học tập. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIẾM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Lòng biết ơn là gì? Vai trò của lòng biết ơn?
– Biểu hiện của lòng biết ơn.
– Phê phán những kẻ vô ơn, bạc nghĩa.
Đoạn văn mẫu:
Lòng biết ơn là thái độ sống quan trọng và cần thiết đối với mỗi người. Biết ơn là ghi nhớ công lao của những người đã giúp đỡ mình hay đơn giản hơn là đem lại cho mình cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Làm sao ta có thể quên ơn cha mẹ đã ban cho ta cuộc sống, thầy cô đã dạy dỗ ta khôn lớn trưởng thành. Làm sao ta có thể quên công lao các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để cho ta có cuộc sống hoà bình như ngày hôm nay. Làm sao ta có thể không ghi nhớ vẻ đẹp của một tia nắng ấm áp, một giọt sương trong lành… Bởi tất cả đã mang đến cho ta một buổi bình minh tươi đẹp… Lòng biết ơn là biểu hiện của đạo lí truyền thống uống nước nhớ nguồn cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện nay, có không ít người sống vô ơn bạc nghĩa. Thái độ vô ơn ấy thật đáng phê phán. Là thế hệ tương lai của đất nước, chúng ta cần giữ gìn và phát huy lòng biết ơn – một trong những truyền thống đạo lí tốt đẹp của con người Việt Nam.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng kết cấu bài văn ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung:
Bài viết cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ cấn phân tích, nếu ý kiến trích dẫn.
Tình yêu là đề tài muôn thuở của thi ca. Trong vườn thơ tình mênh mông không biên giới ấy, mỗi nhà thơ có một tiếng nói riêng, khi nồng nàn mãnh liệt như Xuân Diệu; khi sâu lắng đầy triết lí như Chế Lan Viên; khi “đau thương” đến tuyệt vọng như Hàn Mặc Tử… Giữa muôn sắc hương ấy, người đọc vẫn không thể nào quên Sóng của Xuân Quỳnh, một bông hoa xinh xắn “nở dọc chiến hào”. Bài thơ là tiếng lòng của người phụ nữ trong tình yêu, vừa hồn nhiên trong sáng lại vừa sâu sắc ý nhị; vừa có nét truyền thống như tình yêu muôn đời lại vừa in đậm nét hiện đại, tiêu biểu là đoạn thơ sau: “Con sóng dưới lòng sâu… Dù muôn vời cách trở.”
b) Thân bài
1. Giải thích
Tình yêu có nét truyền thống là tình yêu mang tâm lí của người phụ nữ Việt Nam xưa, dịu dàng, nữ tính, thuỷ chung trong tình yêu. Tình yêu có nét hiện đại là tình yêu mang tâm lí của người phụ nữ Việt Nam hôm nay, dám biểu lộ cảm xúc cá nhân một cách mạnh mẽ, sôi nổi.
2. Chứng minh
– Tình yêu mang nét hiện đại
Xuân Quỳnh không giấu giếm lòng mình, không ngần ngại bày tỏ tình cảm của mình một cách chân thành, thẳng thắn: “Con sóng dưới lòng sâu… Cả trong mơ còn thức”. Sóng nổi hay chìm, sóng ngày hay đêm, sóng cồn cào khuấy động lòng đại dương là bởi sóng nhớ bờ khôn nguôi. Nỗi nhớ của sóng tưởng đã mãnh liệt nhưng nỗi nhớ của em còn mãnh liệt hơn sóng. Sóng chỉ nhớ bờ trong cõi thực còn em nhớ anh cả trong cõi mơ. Giấc mơ là chiều sâu khôn cùng của nỗi nhớ, chỉ có những ai yêu say đắm mới có thể chia sẻ cùng nữ sĩ nỗi nhớ cồn cào cháy bỏng đến thế. Nếu ca dao xưa mượn hình ảnh ngọn lửa “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa, như ngồi đống than” để diễn tả nỗi nhớ thì Xuân Quỳnh lại mượn hình ảnh sóng nước để diễn tả một nỗi nhớ vừa có chiều sâu, lại vừa có độ dài rộng mênh mông, bao trùm cả cõi thực lẫn cõi mộng, ý thức lẫn vô thức. Nếu người con gái trong ca dao xưa phải mượn hình ảnh khăn, đèn, mắt để diễn tả lòng mình: “Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất… Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt… Mắt thương nhớ ai/ Mắt ngủ không yên” thì Xuân Quỳnh đã trực tiếp bày tỏ tình yêu của mình: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Đó là biểu hiện của một tình yêu mang nét hiện đại.
Một trong những phẩm chất truyền thống cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam là lòng thuỷ chung, son sắt. Mượn hình ảnh trăm ngàn con sóng, dù trải qua bao cách trở vẫn hướng về bờ, Xuân Quỳnh đã khẳng định tấm lòng thuỷ chung, son sắt đến tuyệt đối của người con gái trong tình yêu. Dù đất trời có thay đổi biến thiên, xuôi thành ngược, Bắc thành Nam thì trái tim người con gái đang yêu như một chiếc la bàn đặc biệt vẫn chỉ hướng vể một phương duy nhất: phương anh.
3. Về nghệ thuật: Thể thơ năm chữ, ngôn ngữ thơ trong sáng, tự nhiên, các phép điệp từ, điệp ngữ hô ứng đăng đối, nhịp nhàng…
c) Kết bài
Khái quát nội dung nghệ thuật chung, đoạn thơ thể hiện một tình yêu vừa có nét truyền thống lại vừa có nét hiện đại, tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 11
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 11)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
RỄ
Rễ lầm lũi trong đất
Không phải để biết đất mấy tầng sâu
Rễ lam lũ cực nhọc và đen đúa
Vì tầm cao trên đầu
Khi cây chưa chạm tới mây biếc
chưa là nơi ca hát của những loài chim
thì dẫu phải xuyên qua bao tầng đất đá
Rễ vẫn xuyên tìm
Có thể ai đó đã nghe lá hát
Đã nghe từ hoa, từ quả mùi hương
Nhưng với cây, bài ca đích thực
Là từ rễ cất lên.
(Rễ, Nguyễn Minh Khiêm)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 3. Trong văn bản trên có sử dụng nhiều hình ảnh tương phản giữa rễ và những bộ phận còn lại của cây như hoa, quả, lá. Hãy chỉ ra và phân tích hiệu quả của sự tương phản ấy. (1 điểm)
Câu 4. Vì sao tác giả lại viết:
Khi cây chưa chạm tới mây biếc
chưa là nơi ca hát của những loài chim
thì dẫu phải xuyên qua bao tầng đất đá
Rễ vẫn xuyên tìm… (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về thông điệp được nêu trong văn bản ở phần Đọc hiểu:
Có thể ai đó đã nghe lá hát
Đã nghe từ hoa, từ quả mùi hương
Nhưng với cấy, bài ca đích thực
Là từ rễ cất lên.
Câu 2. (5 điểm)
Phân tích hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỀM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. (0,5 điểm)
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 3. Trong văn bản trên, tác giả đã sử dụng những hình ảnh tương phản giữa rễ và những bộ phận của cây như hoa, lá: Rễ “lâm lũi trong đất, rễ lam lũ cực nhọc và đen đúa” đối lập với “lá hát, hoa, quả, mùi hương”. (0,25 điểm)
Tác dụng của phép tương phản: nhấn mạnh sự vất vả lam lũ, cực nhọc của rễ để làm nên những mùa màng cây trái bội thu; thể hiện thái độ trân trọng biết ơn đối với công lao của rễ, làm tăng tính gợi hình biểu cảm của bài thơ. (0,75 điểm)
Câu 4.
Khi cây chưa chạm tới mây biếc
chưa là nơi ca hát của những loài chim
thì dẫu phải xuyên qua bao tầng đất đá
Rễ vẫn xuyên tìm…
Đoạn thơ thể hiện khát vọng mãnh liệt của rễ muốn đưa cây vươn tới những tâm cao, cho dù có phải trải qua bao vất vả gian truân. Với khát vọng lớn lao ấy nên dầu phải trải qua bao tầng đất đá rắn chắc, rễ vẫn xuyên tìm. Qua đó, tác giả đã gửi gắm thông điệp về lòng biết ơn với công lao của rễ, rễ đã lam lũ, cực nhọc để chắt chiu màu mỡ cho cây trổ lá đâm cành, ra hoa kết trái, vươn tới tận mây biếc, là nơi ca hát của các loài chim. (1 điểm)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Lá hát, hoa quả, mùi hương là những thành quả ngọt ngào, còn rễ là biểu tượng của quá trình gian lao vất vả để làm nên thành quả đó; cũng có thể hiểu hoa, quả, lá là ẩn dụ cho người đạt được thành công trong cuộc sống, còn rễ là hình ảnh ẩn dụ cho những người âm thầm đứng đằng sau để làm nên thành công cho người khác.
– Đoạn thơ thể hiện niềm trân trọng biết ơn đối với những con người bé nhỏ thẩm lặng, đã trải qua bao gian lao để làm nên thành công cho người khác.
– Phê phán những người chỉ chú trọng đến thành quả đẹp đẽ ở bề ngoài mà không biết trân trọng quá trình vất vả làm nên thành quả ấy.
Đoạn văn mẫu
Mỗi chúng ta khi ngắm nhìn một cái cây, đều chỉ chú ý đến vẻ đẹp của lá, màu sắc rực rỡ của hoa và mùi hương ngọt ngào của quả chín. Nhưng với cây bài ca đích thực, vẻ đẹp chủ yếu của cây lại là từ rễ cất lên. Hình ảnh lá, hoa, quả là ẩn dụ cho những thành quả ngọt ngào, còn rễ là biểu tượng cho quá trình vất vả gian lao để làm nên thành quả đó. Hãy biết tự hào và trân trọng những thành quả mình đạt được, nhưng cần biết trân trọng hơn quá trình khó nhọc để làm nên thành quả ấy. Hãy ngắm nhìn đường phố sạch sẽ vào buổi sớm bình minh nhưng đừng quên công lao của những người lao công đã âm thầm quét rác hàng đêm. Nhưng thực tế trong cuộc sống hôm nay, không ít kẻ chỉ biết đến thành công của bản thân còn không để ý đến những người âm thầm đứng sau hỗ trợ. Đó là thái độ sống vô ơn, ích kỉ. Chúng ta cẩn luôn trân trọng và biết ơn những người đứng phía sau mỗi thành công, âm thầm làm nên vòng hào quang chiến thắng cho người khác.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng kết cấu bài văn gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài viết cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca.
Thơ ca là tiếng nói của trái tim, của tình cảm, cảm xúc mãnh liệt. Không có tình cảm, cảm xúc thì không thể làm thơ và càng không có thơ hay. Có lẽ vì thế mà chi trong một giây phút xuất thần, nhà thơ Thanh Thảo đã viết nên bài thơ Đàn ghi ta của Lorca như một nén tâm hương dành cho người nghệ sĩ tài năng có số phận oan khuất mà ông vộ cùng ngưỡng mộ – Garcia Lorca. Một trong những hình tượng chủ đạo xuyên suốt bài thơ là hình tượng đàn ghi ta – ẩn dụ cho cuộc đời, số phận và nghệ thuật Lorca: “Những tiếng đàn bọt nước… li la li la li la”.
b) Thân bài
1. Giới thiệu chung về hình tượng tiếng đàn
Hình tượng quen thuộc trong văn học từ tiếng đàn tì bà trong Tì bà hành của Bạch Cư Dị, cho đến tiếng đàn “trong như tiếng hạc bay qua, đục như nước suối mới sa nửa vời” của nàng Kiều trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)… Trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca, tiếng đàn là một hình tượng chủ đạo xuyên suốt bài thơ, là ẩn dụ cho cuộc đời, số phận và nghệ thuật của Lorca.
2. Phân tích
– Tiếng đàn ẩn dụ cho nghệ thuật Lorca
“Những tiếng đàn bọt nước/ li la li la…” Hình ảnh tiếng đàn bọt nước tượng trưng cho nghệ thuật Lorca đẹp đẽ, trong sáng, mong manh dễ bị huỷ diệt nhưng lại có sức sống thật mãnh liệt, giống như bọt nước kia tan rồi lại hiện, mất rồi lại tái sinh. Điệp khúc “li la” vừa mô phỏng âm thanh tiếng đàn, vừa là tên của loài hoa li la (hay còn có tên gọi khác là hoa tử đinh hương) mênh mang sắc tím.
– Tiếng đàn ẩn dụ cho cuộc đời, số phận Lorca
“tiếng ghi ta nâu… tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Tiếng ghi ta nâu, màu nâu của đất, của làn da cô gái Digan rám nắng, tiếng ghi ta lá xanh, màu xanh của bầu trời, của cỏ cây hoa lá vùng Địa Trung Hải… Tiếng đàn gieo sự sống, gieo tình yêu hạnh phúc, gieo khát vọng tự do bỗng đột ngột bị đứt ngang dây “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan/tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Khi Lorca bị bọn phát xít giết hại thì tiếng đàn đang thánh thót vang ngân, đang trong trẻo, vẹn tròn, cũng “vỡ tan”, thậm chí “ròng ròng máu chảy”. Tiếng đàn rỏ máu hay chính Lorca đang quằn quại đau đớn dưới những đòn roi tra tấn tàn bạo. Từ láy “ròng ròng” gợi tả những giọt máu đang rơi, gợi nhớ đến câu thơ Nguyễn Du khi xưa tả tiếng đàn Thuý Kiều trong tiệc rượu hầu Hồ Tôn Hiến:
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Thanh Thảo thể hiện sự sáng tạo hơn ở từ láy “ròng ròng”, ở cách ngắt đôi câu thơ làm hai vế: “tiếng ghi-ta/ ròng ròng máu chảy” khiến người đọc hình dung thật sâu sắc nỗi đau đớn khôn xiết của Lorca, khi đột ngột bị sát hại giữa tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất trong đời người.
– Tiếng đàn bất tử như sự vĩnh hằng của cuộc đời và nghệ thuật Lorca
“không ai chôn cất tiếng đàn/tiếng đàn như cỏ mọc hoang”; “Lorca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc” “li la li la”. Không ai có thể chôn cất nổi tiếng đàn Lorca, nghệ thuật Lorca. Lorca dù đã ra đi nhưng tên tuổi và nghệ thuật sẽ mãi mãi bất tử như cỏ mọc hoang có sức sống vĩnh hằng. Cùng với chiếc ghi-ta bạc – biến ảnh của ghi-ta nâu, ghi-ta lá xanh khi đi sang thế giới bên kia, Lorca sẽ sống mãi trong lòng nhân loại tiến bộ trên thế giới.
3. Về nghệ thuật
Bài thơ có cấu tứ như một bản nhạc giao hưởng với khúc nhạc dạo đầu – cao trào – khúc buông – vĩ thanh. Điệp khúc “li la li la” mô phỏng cú vê ghi-ta lặp đi lặp lại. Điệp từ tiếng ghi-ta gợi những nốt nhạc trở đi trở lại trong một bản đàn, thể thơ tự do viết liền mạch không viết hoa, không dấu chấm câu gợi liên tưởng bài thơ như một suối nhạc miên man trải dài không có điểm dùng… Tất cả đã khiến hình tượng tiếng đàn được biểu hiện thật trọn vẹn cả nội dung và hình thức.
c) Kết bài
Hình tượng tiếng đàn ghi-ta là một hình ảnh chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ bài thơ. Tiếng đàn được biểu hiện trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Tiếng đàn là ẩn dụ cho cuộc đời, số phận và nghệ thuật Lorca. Đây cũng là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho trường phái thơ tượng trưng siêu thực của Thanh Thảo.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 11
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 11)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
RỄ
Rễ lầm lũi trong đất
Không phải để biết đất mấy tầng sâu
Rễ lam lũ cực nhọc và đen đúa
Vì tầm cao trên đầu
Khi cây chưa chạm tới mây biếc
chưa là nơi ca hát của những loài chim
thì dẫu phải xuyên qua bao tầng đất đá
Rễ vẫn xuyên tìm
Có thể ai đó đã nghe lá hát
Đã nghe từ hoa, từ quả mùi hương
Nhưng với cây, bài ca đích thực
Là từ rễ cất lên.
(Rễ, Nguyễn Minh Khiêm)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 3. Trong văn bản trên có sử dụng nhiều hình ảnh tương phản giữa rễ và những bộ phận còn lại của cây như hoa, quả, lá. Hãy chỉ ra và phân tích hiệu quả của sự tương phản ấy. (1 điểm)
Câu 4. Vì sao tác giả lại viết:
Khi cây chưa chạm tới mây biếc
chưa là nơi ca hát của những loài chim
thì dẫu phải xuyên qua bao tầng đất đá
Rễ vẫn xuyên tìm… (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về thông điệp được nêu trong văn bản ở phần Đọc hiểu:
Có thể ai đó đã nghe lá hát
Đã nghe từ hoa, từ quả mùi hương
Nhưng với cấy, bài ca đích thực
Là từ rễ cất lên.
Câu 2. (5 điểm)
Phân tích hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỀM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. (0,5 điểm)
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 3. Trong văn bản trên, tác giả đã sử dụng những hình ảnh tương phản giữa rễ và những bộ phận của cây như hoa, lá: Rễ “lâm lũi trong đất, rễ lam lũ cực nhọc và đen đúa” đối lập với “lá hát, hoa, quả, mùi hương”. (0,25 điểm)
Tác dụng của phép tương phản: nhấn mạnh sự vất vả lam lũ, cực nhọc của rễ để làm nên những mùa màng cây trái bội thu; thể hiện thái độ trân trọng biết ơn đối với công lao của rễ, làm tăng tính gợi hình biểu cảm của bài thơ. (0,75 điểm)
Câu 4.
Khi cây chưa chạm tới mây biếc
chưa là nơi ca hát của những loài chim
thì dẫu phải xuyên qua bao tầng đất đá
Rễ vẫn xuyên tìm…
Đoạn thơ thể hiện khát vọng mãnh liệt của rễ muốn đưa cây vươn tới những tâm cao, cho dù có phải trải qua bao vất vả gian truân. Với khát vọng lớn lao ấy nên dầu phải trải qua bao tầng đất đá rắn chắc, rễ vẫn xuyên tìm. Qua đó, tác giả đã gửi gắm thông điệp về lòng biết ơn với công lao của rễ, rễ đã lam lũ, cực nhọc để chắt chiu màu mỡ cho cây trổ lá đâm cành, ra hoa kết trái, vươn tới tận mây biếc, là nơi ca hát của các loài chim. (1 điểm)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Lá hát, hoa quả, mùi hương là những thành quả ngọt ngào, còn rễ là biểu tượng của quá trình gian lao vất vả để làm nên thành quả đó; cũng có thể hiểu hoa, quả, lá là ẩn dụ cho người đạt được thành công trong cuộc sống, còn rễ là hình ảnh ẩn dụ cho những người âm thầm đứng đằng sau để làm nên thành công cho người khác.
– Đoạn thơ thể hiện niềm trân trọng biết ơn đối với những con người bé nhỏ thẩm lặng, đã trải qua bao gian lao để làm nên thành công cho người khác.
– Phê phán những người chỉ chú trọng đến thành quả đẹp đẽ ở bề ngoài mà không biết trân trọng quá trình vất vả làm nên thành quả ấy.
Đoạn văn mẫu
Mỗi chúng ta khi ngắm nhìn một cái cây, đều chỉ chú ý đến vẻ đẹp của lá, màu sắc rực rỡ của hoa và mùi hương ngọt ngào của quả chín. Nhưng với cây bài ca đích thực, vẻ đẹp chủ yếu của cây lại là từ rễ cất lên. Hình ảnh lá, hoa, quả là ẩn dụ cho những thành quả ngọt ngào, còn rễ là biểu tượng cho quá trình vất vả gian lao để làm nên thành quả đó. Hãy biết tự hào và trân trọng những thành quả mình đạt được, nhưng cần biết trân trọng hơn quá trình khó nhọc để làm nên thành quả ấy. Hãy ngắm nhìn đường phố sạch sẽ vào buổi sớm bình minh nhưng đừng quên công lao của những người lao công đã âm thầm quét rác hàng đêm. Nhưng thực tế trong cuộc sống hôm nay, không ít kẻ chỉ biết đến thành công của bản thân còn không để ý đến những người âm thầm đứng sau hỗ trợ. Đó là thái độ sống vô ơn, ích kỉ. Chúng ta cẩn luôn trân trọng và biết ơn những người đứng phía sau mỗi thành công, âm thầm làm nên vòng hào quang chiến thắng cho người khác.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng kết cấu bài văn gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài viết cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca.
Thơ ca là tiếng nói của trái tim, của tình cảm, cảm xúc mãnh liệt. Không có tình cảm, cảm xúc thì không thể làm thơ và càng không có thơ hay. Có lẽ vì thế mà chi trong một giây phút xuất thần, nhà thơ Thanh Thảo đã viết nên bài thơ Đàn ghi ta của Lorca như một nén tâm hương dành cho người nghệ sĩ tài năng có số phận oan khuất mà ông vộ cùng ngưỡng mộ – Garcia Lorca. Một trong những hình tượng chủ đạo xuyên suốt bài thơ là hình tượng đàn ghi ta – ẩn dụ cho cuộc đời, số phận và nghệ thuật Lorca: “Những tiếng đàn bọt nước… li la li la li la”.
b) Thân bài
1. Giới thiệu chung về hình tượng tiếng đàn
Hình tượng quen thuộc trong văn học từ tiếng đàn tì bà trong Tì bà hành của Bạch Cư Dị, cho đến tiếng đàn “trong như tiếng hạc bay qua, đục như nước suối mới sa nửa vời” của nàng Kiều trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)… Trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca, tiếng đàn là một hình tượng chủ đạo xuyên suốt bài thơ, là ẩn dụ cho cuộc đời, số phận và nghệ thuật của Lorca.
2. Phân tích
– Tiếng đàn ẩn dụ cho nghệ thuật Lorca
“Những tiếng đàn bọt nước/ li la li la…” Hình ảnh tiếng đàn bọt nước tượng trưng cho nghệ thuật Lorca đẹp đẽ, trong sáng, mong manh dễ bị huỷ diệt nhưng lại có sức sống thật mãnh liệt, giống như bọt nước kia tan rồi lại hiện, mất rồi lại tái sinh. Điệp khúc “li la” vừa mô phỏng âm thanh tiếng đàn, vừa là tên của loài hoa li la (hay còn có tên gọi khác là hoa tử đinh hương) mênh mang sắc tím.
– Tiếng đàn ẩn dụ cho cuộc đời, số phận Lorca
“tiếng ghi ta nâu… tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Tiếng ghi ta nâu, màu nâu của đất, của làn da cô gái Digan rám nắng, tiếng ghi ta lá xanh, màu xanh của bầu trời, của cỏ cây hoa lá vùng Địa Trung Hải… Tiếng đàn gieo sự sống, gieo tình yêu hạnh phúc, gieo khát vọng tự do bỗng đột ngột bị đứt ngang dây “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan/tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Khi Lorca bị bọn phát xít giết hại thì tiếng đàn đang thánh thót vang ngân, đang trong trẻo, vẹn tròn, cũng “vỡ tan”, thậm chí “ròng ròng máu chảy”. Tiếng đàn rỏ máu hay chính Lorca đang quằn quại đau đớn dưới những đòn roi tra tấn tàn bạo. Từ láy “ròng ròng” gợi tả những giọt máu đang rơi, gợi nhớ đến câu thơ Nguyễn Du khi xưa tả tiếng đàn Thuý Kiều trong tiệc rượu hầu Hồ Tôn Hiến:
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Thanh Thảo thể hiện sự sáng tạo hơn ở từ láy “ròng ròng”, ở cách ngắt đôi câu thơ làm hai vế: “tiếng ghi-ta/ ròng ròng máu chảy” khiến người đọc hình dung thật sâu sắc nỗi đau đớn khôn xiết của Lorca, khi đột ngột bị sát hại giữa tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất trong đời người.
– Tiếng đàn bất tử như sự vĩnh hằng của cuộc đời và nghệ thuật Lorca
“không ai chôn cất tiếng đàn/tiếng đàn như cỏ mọc hoang”; “Lorca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc” “li la li la”. Không ai có thể chôn cất nổi tiếng đàn Lorca, nghệ thuật Lorca. Lorca dù đã ra đi nhưng tên tuổi và nghệ thuật sẽ mãi mãi bất tử như cỏ mọc hoang có sức sống vĩnh hằng. Cùng với chiếc ghi-ta bạc – biến ảnh của ghi-ta nâu, ghi-ta lá xanh khi đi sang thế giới bên kia, Lorca sẽ sống mãi trong lòng nhân loại tiến bộ trên thế giới.
3. Về nghệ thuật
Bài thơ có cấu tứ như một bản nhạc giao hưởng với khúc nhạc dạo đầu – cao trào – khúc buông – vĩ thanh. Điệp khúc “li la li la” mô phỏng cú vê ghi-ta lặp đi lặp lại. Điệp từ tiếng ghi-ta gợi những nốt nhạc trở đi trở lại trong một bản đàn, thể thơ tự do viết liền mạch không viết hoa, không dấu chấm câu gợi liên tưởng bài thơ như một suối nhạc miên man trải dài không có điểm dùng… Tất cả đã khiến hình tượng tiếng đàn được biểu hiện thật trọn vẹn cả nội dung và hình thức.
c) Kết bài
Hình tượng tiếng đàn ghi-ta là một hình ảnh chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ bài thơ. Tiếng đàn được biểu hiện trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Tiếng đàn là ẩn dụ cho cuộc đời, số phận và nghệ thuật Lorca. Đây cũng là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho trường phái thơ tượng trưng siêu thực của Thanh Thảo.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 13
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 13)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU(3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là giới trẻ Việt Nam rất dễ hùa và a dua theo những ngày lễ của phương Tây như Valentine, Halloween, Noel hay thậm chí là Thanksgiving ( Lễ tạ ơn của người Mĩ)… nhưng với những ngày lễ của dân tộc, đặc biệt là Tết nguyên đán thì họ lại cho rằng nhiều hủ tục, lắm phiền nhiễu làm giảm năng suất lao động và tốn kém.
Thực ra, những ngày lễ tết là cơ hội để thúc đẩỵ tiêu thụ và phát triển kinh tế. Riêng ngày lễ Tình nhân năm 2016, người Mĩ đã tiêu thụ hết 19,7 tỉ USD cho quà tặng của các cặp tình nhàn. Với các dịp lễ đoàn viên gia đình như Lễ tạ ơn và năm mới, con số tiêu thụ gấp khoảng chục lần. Người Mĩ rất chịu khó… nghỉ lễ và những dịp nghỉ lễ là cơ hội thúc đẩy họ kinh doanh, mua bán. Riêng trong mảng điện ảnh, mỗi nám Mĩ có khoảng hơn chục dịp nghỉ lễ khác nhau và mỗi dịp nghỉ lễ, Holywood đều có những bộ phim phù hợp để thu hút khản giả tàng hiệu suất phòng vé.
Việt Nam là một đất nước xuất phát từ nông nghiệp lúa nước, lễ hội cũng khá nhiều và nhiều lễ hội trong đó biến thành hủ tục cân bài trừ. Nhưng với Tết Nguyên đán, với tôi, việc gộp nó vào Tết Tây là một ý kiến phản văn hoá, phản truyền thống và thậm chí là vô cảm nếu xét theo ý nghĩa nhân văn.
Trong cơn lốc của phát triển kinh tế và chạy theo các giá trị văn hoá phương Tây, chúng ta càng ngày càng dễ dàng xem thường và từ bỏ các giá trị vẫn hoắ truyền thống, bởi nó cũ kĩ, lạc hậu và quê mùa.
(Nỡ nào đòi bỏ Tết cổ truyền, Tết của quê hương?, Tuổi trẻ Online)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Phân tích thao tác lập luận của văn bản trên. (1 điểm)
Câu 3. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng nào để chứng tỏ rằng “những ngày lễ tết là cơ hội để thúc đẩy tiêu thụ và phát triển kinh tế’? (0,5 điểm)
Câu 4. Theo em, tác giả có quan điểm như thế nào về việc gộp Tết Tây và Tết Nguyên đán? Quan điểm của em về vấn đề này như thế nào? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỀM)
Câu 1. (2 điểm)
Từ văn bản ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh/chị về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Câu 2. (5 điểm)
Phân tích hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
I. ĐOC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ báo chí/ phong cách ngôn ngữ chính luận. (0,5 điểm)
Câu 2. Thao tác lập luận chính là bác bỏ: Bác bỏ quan điểm muốn xóa bỏ Tết truyền thống của dân tộc vì cho rằng nghỉ lễ tết nhiều gây tốn kém, lãng phí và làm giảm năng suất lao động. Để bác bỏ quan điểm đó, tác giả đưa ra hai lí lẽ chính: lí lẽ thứ nhất cho rằng nghỉ lễ tết là cơ hội để thúc đẩy tiêu thụ và phát triển kinh tế; lí lẽ thứ hai cho rằng quan điểm muốn xóa bỏ Tết Nguyên đán là phản văn hoá, phản truyền thống và thậm chí là vô cảm, thể hiện tâm lí mải chạy theo các giá trị văn hoá phương Tây, càng ngày càng dễ dàng xem thường và từ bỏ các giá trị văn hoá truyền thống. (1 điểm)
Câu 3. Tác giả đã đưa ra các dẫn chứng cụ thể để chứng tỏ rằng “những ngày lễ tết là cơ hội để thúc đẩy tiêu thụ và phát triển kinh tế’ (0,5 điểm)
– Riêng ngày lễ Tình nhân năm 2016, người Mĩ đã tiêu thụ hết 19,7 tỉ USD cho quà tặng của các cặp tình nhân.
– Với các dịp lễ đoàn viên gia đình như Lễ tạ ơn và năm mới, con số tiêu thụ gấp khoảng chục lần.
– Riêng trong mảng điện ảnh, mỗi năm Mĩ có khoảng hơn chục dịp nghĩ lễ khác nhau và mỗi dịp nghỉ lễ, Holywood đều có những bộ phim phù hợp để thu hút khán giả tăng hiệu suất phòng vé.
Câu 4. Tác giả có quan điểm không đổng tình/ phản đối ý kiến gộp Tết Tầy và Tết Nguyên đán.
Thí sinh có thể đồng tình hoặc phản đối ý kiến gộp Tết Tây và Tết Nguyên đán nhưng cần có lí lẽ thuyết phục; không lặp lại ý của tác giả. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần có các ý sau:
– Bản sắc văn hoá dân tộc là gì? Vì sao cần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc?
– Biểu hiện của việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
– Phê phán những hiện tượng đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, rút ra bài học cho bản thân.
Đoạn văn mẫu
Bản sắc văn hoá dân tộc là những nét riêng trong phong tục tập quán, lối sống, cách sinh hoạt, lời ăn tiếng nói của mỗi dân tộc. Trong thế giới phẳng hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hoá là rất quan trọng bởi nó khẳng định tiếng nói riêng của dân tộc trên trường quốc tế. Với dân tộc Việt Nam, một dân tộc có bề dày văn hoá hơn bốn nghìn năm lịch sử, chúng ta có rất nhiễu nét đẹp cần lưu giữ. Thế nhưng hiện nay, có không ít bạn trẻ đã và đang đánh mất bản sắc của dân tộc, họ đua đòi học theo những lễ hội của phương Tây như Halloween, Noel mà lên tiếng chê bai những ngày lễ truyền thống của dân tộc, đặc biệt cho rằng Tết Nguyên đán là phiền nhiễu, lắm hủ tục. Là thế hệ tương lai của đất nước chúng ta cần trân trọng những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, chắt lọc những tinh hoa, loại bỏ những gì đã lạc hậu lỗi thời, học tập những nét đẹp văn hoá nhân loại, hoà nhập nhưng không hoà tan.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng kết cấu bài văn gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài viết cẩn đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng rừng xà nu. (0,5 điểm)
– Mỗi nhà văn hình như đều có duyên nợ với một vùng đất nào đó để thai nghén ra những tác phẩm để đời. Với Nguyễn Trung Thành, tuy quê gốc nhà văn ở miền biển nhưng những tác phẩm hay nhất của ông lại là những sáng tác viết về Tây Nguyên – vùng đất đỏ badan hùng vĩ, nơi có những con người nồng hậu, thuỷ chung, một lòng đi theo Cách mạng.
– Rừng xà nu là truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành, tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam thời kì 1945-1975 viết về cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man bên cánh rừng xà nu. Đi suốt chiều dài tác phẩm, xà nu là hình tượng bao trùm là mạch sống, mạch hồn của tác phẩm.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Hình tượng rừng xà nu mang ý nghĩa tả thực
– Đó là loài cây của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Thân cây cao vút, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi, một cây hàng ngàn hàng vạn cây, không khí ở đây thơm lừng. Xà nu mọc thành đồi thành rừng, đứng trên đồi xà nu trông xa đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp đến tận chân trời. Hình ảnh rừng xà nu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Nguyên Ngọc đến nỗi, khi viết về núi rừng Tây Nguyên, hình tượng đầu tiên ông nghĩ đến chính là rừng xà nu.
– Đó là người bạn thân thiết của dân làng Xô Man. Họ sinh ra, lớn lên và ngã xuống dưới bóng cây xà nu. Thân cành xà nu cháy hồng trong mỗi bếp nhà sàn, khói xà nu xông bảng nứa đen kịt cho Tnú và Mai học chữ, nhựa xà nu cháy rất đượm, thơm nồng nàn, đuốc xà nu soi sáng cho Dít gằn gạo, soi xác mười tên giặc, cái đêm làng Xô Man nổi dậy cả rừng xà nu ào ào rung động… Cây xà nu trở thành chứng nhân lịch sử, gắn bó với cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu của dân làng Xô Man.
– Nỗi đau của cây biểu tượng cho nỗi đau của dân làng: Cả rừng xà nu hàng ngàn hàng vạn cây không cây nào không bị thương, xà nu ứa máu, nhựa xà nu tím bầm đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn. Giống như dân làng Xô Man không nhà nào không chịu đau thương mất mát bởi tội ác của giặc, tiếng kêu khóc vang dậy cả làng.
– Đặc tính của cây biểu tượng cho phẩm chất của dân làng: Xà nu có sức sống mãnh liệt, cây mẹ ngã xuống cây con mọc lên: “Đố chúng nó giết hết rừng xà nu” giống như dân làng Xô Man hết thế hệ này đến thế hệ khác đứng lên đánh Mĩ, anh Quyết hi sinh đã có Tnú, Mai ngã xuống đã có Dít, bé Heng. Xà nu mọc thành đổi, thành rừng như dân làng Xồ Man luôn đoàn kết bên nhau chống giặc ngoại xâm. Xà nu ham ánh sáng và khí trời, luôn phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh sáng giống như dân làng Xô Man yẽu cuộc sống tự do, luôn hướng về mặt trời Cách mạng.
– Các thế hệ xà nu biểu tượng cho các thế hệ dân làng Xô Man: Cây xà nu cổ thụ chính là cụ Mết điểm tựa sức mạnh tinh thần cho cả buôn làng. Cây xà nu trưởng thành dẫu trên mình ngang dọc bao yết đạn, đạn đại bác không giết được chúng chính là biểu tượng cho Tnú, Dít. Cây xà nu còn non đã chết bởi bom đạn hay chính là hình ảnh đứa con trai của Tnú và Mai đã mất.
3. Về nghệ thuật
Kết hợp giữa tả thực và biểu tượng, giữa miêu tả khái quát cả đồi cả rừng xà nu với tả cận cảnh cụ thể từng cây; kết hợp phép so sánh đối chiếu giữa cây và người, tả người thì ví với cây, tả cây lại so sánh với người… Tất cả đã khiến hình tượng rừng xà nu hiện lên thật chân thực sinh động, góp phần tạo nên màu sắc Tây Nguyên, chất sử thi hào hùng cho tác phẩm.
c) Kết bài (0,5 điểm)
Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm, tượng trưng cho vẻ đẹp hào hùng đấy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Qua đó, chất thơ và chất sử thi hoà làm một, thể hiện rõ phong cách văn xuôi Nguyễn Trung Thành.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 13
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 13)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU(3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là giới trẻ Việt Nam rất dễ hùa và a dua theo những ngày lễ của phương Tây như Valentine, Halloween, Noel hay thậm chí là Thanksgiving ( Lễ tạ ơn của người Mĩ)… nhưng với những ngày lễ của dân tộc, đặc biệt là Tết nguyên đán thì họ lại cho rằng nhiều hủ tục, lắm phiền nhiễu làm giảm năng suất lao động và tốn kém.
Thực ra, những ngày lễ tết là cơ hội để thúc đẩỵ tiêu thụ và phát triển kinh tế. Riêng ngày lễ Tình nhân năm 2016, người Mĩ đã tiêu thụ hết 19,7 tỉ USD cho quà tặng của các cặp tình nhàn. Với các dịp lễ đoàn viên gia đình như Lễ tạ ơn và năm mới, con số tiêu thụ gấp khoảng chục lần. Người Mĩ rất chịu khó… nghỉ lễ và những dịp nghỉ lễ là cơ hội thúc đẩy họ kinh doanh, mua bán. Riêng trong mảng điện ảnh, mỗi nám Mĩ có khoảng hơn chục dịp nghỉ lễ khác nhau và mỗi dịp nghỉ lễ, Holywood đều có những bộ phim phù hợp để thu hút khản giả tàng hiệu suất phòng vé.
Việt Nam là một đất nước xuất phát từ nông nghiệp lúa nước, lễ hội cũng khá nhiều và nhiều lễ hội trong đó biến thành hủ tục cân bài trừ. Nhưng với Tết Nguyên đán, với tôi, việc gộp nó vào Tết Tây là một ý kiến phản văn hoá, phản truyền thống và thậm chí là vô cảm nếu xét theo ý nghĩa nhân văn.
Trong cơn lốc của phát triển kinh tế và chạy theo các giá trị văn hoá phương Tây, chúng ta càng ngày càng dễ dàng xem thường và từ bỏ các giá trị vẫn hoắ truyền thống, bởi nó cũ kĩ, lạc hậu và quê mùa.
(Nỡ nào đòi bỏ Tết cổ truyền, Tết của quê hương?, Tuổi trẻ Online)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Phân tích thao tác lập luận của văn bản trên. (1 điểm)
Câu 3. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng nào để chứng tỏ rằng “những ngày lễ tết là cơ hội để thúc đẩy tiêu thụ và phát triển kinh tế’? (0,5 điểm)
Câu 4. Theo em, tác giả có quan điểm như thế nào về việc gộp Tết Tây và Tết Nguyên đán? Quan điểm của em về vấn đề này như thế nào? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỀM)
Câu 1. (2 điểm)
Từ văn bản ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của anh/chị về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Câu 2. (5 điểm)
Phân tích hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
I. ĐOC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ báo chí/ phong cách ngôn ngữ chính luận. (0,5 điểm)
Câu 2. Thao tác lập luận chính là bác bỏ: Bác bỏ quan điểm muốn xóa bỏ Tết truyền thống của dân tộc vì cho rằng nghỉ lễ tết nhiều gây tốn kém, lãng phí và làm giảm năng suất lao động. Để bác bỏ quan điểm đó, tác giả đưa ra hai lí lẽ chính: lí lẽ thứ nhất cho rằng nghỉ lễ tết là cơ hội để thúc đẩy tiêu thụ và phát triển kinh tế; lí lẽ thứ hai cho rằng quan điểm muốn xóa bỏ Tết Nguyên đán là phản văn hoá, phản truyền thống và thậm chí là vô cảm, thể hiện tâm lí mải chạy theo các giá trị văn hoá phương Tây, càng ngày càng dễ dàng xem thường và từ bỏ các giá trị văn hoá truyền thống. (1 điểm)
Câu 3. Tác giả đã đưa ra các dẫn chứng cụ thể để chứng tỏ rằng “những ngày lễ tết là cơ hội để thúc đẩy tiêu thụ và phát triển kinh tế’ (0,5 điểm)
– Riêng ngày lễ Tình nhân năm 2016, người Mĩ đã tiêu thụ hết 19,7 tỉ USD cho quà tặng của các cặp tình nhân.
– Với các dịp lễ đoàn viên gia đình như Lễ tạ ơn và năm mới, con số tiêu thụ gấp khoảng chục lần.
– Riêng trong mảng điện ảnh, mỗi năm Mĩ có khoảng hơn chục dịp nghĩ lễ khác nhau và mỗi dịp nghỉ lễ, Holywood đều có những bộ phim phù hợp để thu hút khán giả tăng hiệu suất phòng vé.
Câu 4. Tác giả có quan điểm không đổng tình/ phản đối ý kiến gộp Tết Tầy và Tết Nguyên đán.
Thí sinh có thể đồng tình hoặc phản đối ý kiến gộp Tết Tây và Tết Nguyên đán nhưng cần có lí lẽ thuyết phục; không lặp lại ý của tác giả. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần có các ý sau:
– Bản sắc văn hoá dân tộc là gì? Vì sao cần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc?
– Biểu hiện của việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
– Phê phán những hiện tượng đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, rút ra bài học cho bản thân.
Đoạn văn mẫu
Bản sắc văn hoá dân tộc là những nét riêng trong phong tục tập quán, lối sống, cách sinh hoạt, lời ăn tiếng nói của mỗi dân tộc. Trong thế giới phẳng hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hoá là rất quan trọng bởi nó khẳng định tiếng nói riêng của dân tộc trên trường quốc tế. Với dân tộc Việt Nam, một dân tộc có bề dày văn hoá hơn bốn nghìn năm lịch sử, chúng ta có rất nhiễu nét đẹp cần lưu giữ. Thế nhưng hiện nay, có không ít bạn trẻ đã và đang đánh mất bản sắc của dân tộc, họ đua đòi học theo những lễ hội của phương Tây như Halloween, Noel mà lên tiếng chê bai những ngày lễ truyền thống của dân tộc, đặc biệt cho rằng Tết Nguyên đán là phiền nhiễu, lắm hủ tục. Là thế hệ tương lai của đất nước chúng ta cần trân trọng những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, chắt lọc những tinh hoa, loại bỏ những gì đã lạc hậu lỗi thời, học tập những nét đẹp văn hoá nhân loại, hoà nhập nhưng không hoà tan.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng kết cấu bài văn gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài viết cẩn đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng rừng xà nu. (0,5 điểm)
– Mỗi nhà văn hình như đều có duyên nợ với một vùng đất nào đó để thai nghén ra những tác phẩm để đời. Với Nguyễn Trung Thành, tuy quê gốc nhà văn ở miền biển nhưng những tác phẩm hay nhất của ông lại là những sáng tác viết về Tây Nguyên – vùng đất đỏ badan hùng vĩ, nơi có những con người nồng hậu, thuỷ chung, một lòng đi theo Cách mạng.
– Rừng xà nu là truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành, tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam thời kì 1945-1975 viết về cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man bên cánh rừng xà nu. Đi suốt chiều dài tác phẩm, xà nu là hình tượng bao trùm là mạch sống, mạch hồn của tác phẩm.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Hình tượng rừng xà nu mang ý nghĩa tả thực
– Đó là loài cây của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Thân cây cao vút, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi, một cây hàng ngàn hàng vạn cây, không khí ở đây thơm lừng. Xà nu mọc thành đồi thành rừng, đứng trên đồi xà nu trông xa đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp đến tận chân trời. Hình ảnh rừng xà nu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Nguyên Ngọc đến nỗi, khi viết về núi rừng Tây Nguyên, hình tượng đầu tiên ông nghĩ đến chính là rừng xà nu.
– Đó là người bạn thân thiết của dân làng Xô Man. Họ sinh ra, lớn lên và ngã xuống dưới bóng cây xà nu. Thân cành xà nu cháy hồng trong mỗi bếp nhà sàn, khói xà nu xông bảng nứa đen kịt cho Tnú và Mai học chữ, nhựa xà nu cháy rất đượm, thơm nồng nàn, đuốc xà nu soi sáng cho Dít gằn gạo, soi xác mười tên giặc, cái đêm làng Xô Man nổi dậy cả rừng xà nu ào ào rung động… Cây xà nu trở thành chứng nhân lịch sử, gắn bó với cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu của dân làng Xô Man.
– Nỗi đau của cây biểu tượng cho nỗi đau của dân làng: Cả rừng xà nu hàng ngàn hàng vạn cây không cây nào không bị thương, xà nu ứa máu, nhựa xà nu tím bầm đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn. Giống như dân làng Xô Man không nhà nào không chịu đau thương mất mát bởi tội ác của giặc, tiếng kêu khóc vang dậy cả làng.
– Đặc tính của cây biểu tượng cho phẩm chất của dân làng: Xà nu có sức sống mãnh liệt, cây mẹ ngã xuống cây con mọc lên: “Đố chúng nó giết hết rừng xà nu” giống như dân làng Xô Man hết thế hệ này đến thế hệ khác đứng lên đánh Mĩ, anh Quyết hi sinh đã có Tnú, Mai ngã xuống đã có Dít, bé Heng. Xà nu mọc thành đổi, thành rừng như dân làng Xồ Man luôn đoàn kết bên nhau chống giặc ngoại xâm. Xà nu ham ánh sáng và khí trời, luôn phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh sáng giống như dân làng Xô Man yẽu cuộc sống tự do, luôn hướng về mặt trời Cách mạng.
– Các thế hệ xà nu biểu tượng cho các thế hệ dân làng Xô Man: Cây xà nu cổ thụ chính là cụ Mết điểm tựa sức mạnh tinh thần cho cả buôn làng. Cây xà nu trưởng thành dẫu trên mình ngang dọc bao yết đạn, đạn đại bác không giết được chúng chính là biểu tượng cho Tnú, Dít. Cây xà nu còn non đã chết bởi bom đạn hay chính là hình ảnh đứa con trai của Tnú và Mai đã mất.
3. Về nghệ thuật
Kết hợp giữa tả thực và biểu tượng, giữa miêu tả khái quát cả đồi cả rừng xà nu với tả cận cảnh cụ thể từng cây; kết hợp phép so sánh đối chiếu giữa cây và người, tả người thì ví với cây, tả cây lại so sánh với người… Tất cả đã khiến hình tượng rừng xà nu hiện lên thật chân thực sinh động, góp phần tạo nên màu sắc Tây Nguyên, chất sử thi hào hùng cho tác phẩm.
c) Kết bài (0,5 điểm)
Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm, tượng trưng cho vẻ đẹp hào hùng đấy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Qua đó, chất thơ và chất sử thi hoà làm một, thể hiện rõ phong cách văn xuôi Nguyễn Trung Thành.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 14
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 14)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Anh bạn thân yêu! Giờ đây tôi đang ở trên thiên đàng – một thế giới diệu kì mà lung linh biết mấy. Nơi này chẳng có ngày hay đêm. Mặt trời, vầng trăng và cả những vì sao lấp lánh cùng nhau tỏa sáng, không gian lúc nào cũng trong veo như pha lê. Mẹ và anh trai tôi đang mỉm cười cùng những linh hồn khác. Chúng tôi không có quốc gia, không phải di cự, không phán biệt tôn giáo, không có khủng bố hay bạo lực… Tất cả đều như nhau – những linh hồn bay nhẹ nhõm thanh thản và yên bình.
Giờ đang là giao thừa. Từ trên đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn cả trái đất. Ngắm nhìn những chùm pháo hoa lộng lẫy bung nở trong màn đêm và lắng nghe tiếng chuông ngân vang. Dưới đó là những mảng màu tương phản. Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… Chao ôi, cuộc sống nơi trần thế! Giờ thì tất cả đã xa vời.
(Trích bức thư đoạt giải Nhất, Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 45)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Phân tích hiệu quả của biện pháp nghệ thuật trong đoạn văn sau:“Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… ”(1 điểm)
Câu 3. Xác định phường thức biểu đạt chính. (0,5 điểm)
Câu 4. Qua việc dựng lên hai thế giới đối lập giữa trần gian và thiên đàng, tác giả bức thư muốn gửi gắm ước mơ gì? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Từ văn bản ở phân Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ với nhan đề: Đấu tranh vì một thế giới hoà bình.
Câu 2. (5 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những nét tương đồng và khác biệt của hình tượng người chiến sĩ trong hai đoạn văn sau:
Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng mảy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổ lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…
Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình bò đi nữa, chính trận đánh đang vẫy gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đẩu giặc Mĩ những đảm lửa dữ dội và những mũi lê nhọn hoắt đang bắt đâu xung phong…
(Trích Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi)
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi, cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đẩu ngón tay nữa. Anh nghe lửa chảy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rổi. Anh không kêu lên. Anh Quỵết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van”. Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Chảy, cháy cả ruột đầy rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!”.
(Trích Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM )
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. (0,5 điểm)
Câu 2.
“Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu..Đoạn văn trên sử dụng nghệ thuật đối lập giữa ánh sáng với mảng tối, tiếng chuông với tiếng súng, hạnh phúc với bất hạnh. Tác dụng của phép đối lập nhằm nhấn mạnh cuộc sống nơi trần gian thật phức tạp, đan xen tốt – xấu, thiện – ác, hạnh phúc và khổ đau, chiến tranh và hoà bình. Đồng thời làm tăng sức gợi hình biểu cảm gây ấn tượng cho người đọc. (1 điểm)
Câu 3. Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 4.
Qua việc dựng nên hai thế giới đối lập giữa thiên đường và trần thế, tác giả đã gửi gắm ước mơ về một thế giới hoà bình không có chiến tranh, không phân biệt tôn giáo hay khủng bố bạo lực. Ở thế giới đó, con người sẽ được sống yên bình tại nơi mình sinh ra, không phải di cư vì chiến tranh bạo loạn hay xung đột sắc tộc. Thiên đường theo mơ ước của tác giả – chú bé Syria ba tuổi chết trên đường tị nạn – đơn giản là nơi hoà bình, không có chiến tranh. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần có các ý sau:
– Hoà bình là ước mơ của toàn nhân loại, có hoà bình sẽ có tất cả mọi điều tốt đẹp khác như giáo dục, vui chơi giải trí, tình yêu, lòng vị tha…
– Phê phán những hành động gây chiến tranh bạo loạn, đi ngược lại khát vọng hoà bình chung của loài người.
Đoạn văn mẫu:
Trong lời một bài hát có đoạn “Em mong sớm đến năm 2000 và mong ước chiến tranh sẽ tàn, để trái đất chỉ còn tiếng hát”. Năm 2000 đã qua và nhân loại đang sống trong thế kỉ mới – thế kỉ 21, nhưng vẫn luôn phải tiếp tục đấu tranh vì một thế giới hoà bình, đấu tranh để ước mơ của mọi người thành hiện thực. Hoà bình – nghĩa là không còn chiến tranh – hai tiếng đơn giản mà thật khó thực hiện biết bao. Vậy mà hiện nay, trên thế giới vẫn còn hàng ngàn người đang phải sống trong cảnh chiến tranh, li tán. vẫn có những đứa trẻ ở Syria chết trên đường tị nạn. Những thường dân ở các nước Châu Phi vẫn ngày ngày phải hứng chịu bom đạn, đối mặt với thẩn Chết. Tại sao nhân loại không ngừng mơ ước khát khao vể một thế giới hoà bình, nhưng mặt khác chính con người lại sản xuất ra các yũ khí huỷ diệt hàng loạt để giết hại chính đồng loại của mình? Mỗi chúng ta hãy chung tay đấu tranh vì một thế giới hoà bình, không chỉ cho riêng ai mà cho toàn nhân loại, không chỉ cho hôm nay mà cả mai sau.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng kết cấu bài văn gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng người chiến sĩ trong hai đoạn văn. (0,5 điểm)
– Giới thiệu Nguyễn Trung Thành, tác phẩm Rừng xà nu và hình tượng Tnú.
– Giới thiệu Nguyễn Thi, tác phẩm Những đứa con trong gia đình và hình tượng Việt.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Phân tích đoạn văn thứ nhất: Cảnh Việt bị thương nằm lại nơi chiến trường
– Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống cách mạng, mang mối thù sâu nặng với giặc Mĩ, anh xung phong tòng quân dù chưa đủ tuổi. Ở Việt luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu “trả thù cho ba má”. Trong trận đánh ở rừng cao su, Việt lập công lớn tiêu diệt được một xe bọc thép của địch nhưng cũng bị thương nặng và lạc đồng đội..
– Khi bị thương, Việt nhiều lần ngất đi tỉnh lại. Mỗi lần tỉnh lại, những hồi ức về ba má, chú Năm, chị Chiến, đồng đội lại hiện về trong tâm trí Việt. Qua đó, ta thấy Việt có một tâm hồn giàu tình cảm gắn bó với quê hương gia đình.
– Đoạn văn thể hiện phẩm chất nổi bật ở Việt là tinh thần ý chí quyết tâm chiến đấu kiên cường dũng cảm. Dù bị thương lạc đơn vị một mình nằm lại chiến trường, Việt vẫn không hề run sợ, vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Việt vẫn cố gắng bò về phía tiếng súng, phía đồng đội đang chiến đấu. Hình ảnh Việt gợi ta nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, dù bị trúng đạn nhưng vẫn gượng đứng lên nhằm thẳng quân thù mà bắn:
Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên
Tì tay trên báng súng
Và anh ngắm bắn
………
Từ dáng đứng của anh
Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
2. Phân tích đoạn văn thứ hai: Cảnh Tnú bị giặc đốt cháy mười đầu ngón tay.
– Ấn tượng sâu sắc nhất trong tâm trí người đọc là đôi bàn tay Tnú bị đốt cháy bởi nhựa xà nu, mười ngón tay bùng bùng như mười ngọn đuốc. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác của giặc, vừa thể hiện lòng dũng cảm, khí phách kiên cường của Tnú. Đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc giàu tính tạo hình
– Giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú nhằm khủng bố tinh thần đấu tranh của dân làng Xô Man, nhưng ngược lại, chính sự kiên cường của Tnú đã khiến mưu đồ ấy thất bại. Tnú nhắm mắt lại rồi mở mắt ra trừng trừng. Nỗi đau lên đến tột cùng khiến anh cắn nát cả môi nhưng anh vẫn kiên quyết không kêu. Nỗi đau nén lại trong lồng ngực rồi òa vỡ thành một lời hiệu triệu mạnh mẽ: Giết. Tiếng thét căm hờn ấy đã khiến dân làng bừng tỉnh, vùng lên cầm giáo mác giết sạch quân thù. Mười ngọn đuốc trên mười đầu ngón tay Tnú đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho dân làng Xô Man, đã cháy lên thành ngọn lửa của tinh thần đồng khởi.
3. Chỉ ra sự tương đồng và khác biệt
– Sự tương đồng: Hai nhân vật đều phải chịu đựng đau đớn về thể xác, đơn độc khi chiến đấu; đều là hình mẫu của người chiến sĩ dũng cảm kiên cường, tuyệt đối trung thành với Cách mạng; là biểu tượng của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
– Việt: Chiến đấu với tinh thần quả cảm mà hồn nhiên, lạc quan yêu đời, tin tưởng vào Cách mạng, vào đồng đội. Ở Việt chủ yếu là nỗi đau thể xác.
– Tnú: Chiến đấu bằng ý chí quyết tâm, lòng căm thù giặc sâu sắc, do vừa trải qua nỗi đau cá nhân khi vợ và con bị giết hại ngay trước mắt. Ở Tnú có sự cộng hưởng cả nỗi đau tinh thần và thể xác.
c) Kết bài
Nêu khái quát vẻ đẹp của hai nhân vật trong những hoàn cảnh đấu tranh gian khổ khác nhau; sự thành công trong nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật. (0,5 điểm)
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 14
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 14)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Anh bạn thân yêu! Giờ đây tôi đang ở trên thiên đàng – một thế giới diệu kì mà lung linh biết mấy. Nơi này chẳng có ngày hay đêm. Mặt trời, vầng trăng và cả những vì sao lấp lánh cùng nhau tỏa sáng, không gian lúc nào cũng trong veo như pha lê. Mẹ và anh trai tôi đang mỉm cười cùng những linh hồn khác. Chúng tôi không có quốc gia, không phải di cự, không phán biệt tôn giáo, không có khủng bố hay bạo lực… Tất cả đều như nhau – những linh hồn bay nhẹ nhõm thanh thản và yên bình.
Giờ đang là giao thừa. Từ trên đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn cả trái đất. Ngắm nhìn những chùm pháo hoa lộng lẫy bung nở trong màn đêm và lắng nghe tiếng chuông ngân vang. Dưới đó là những mảng màu tương phản. Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… Chao ôi, cuộc sống nơi trần thế! Giờ thì tất cả đã xa vời.
(Trích bức thư đoạt giải Nhất, Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 45)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Phân tích hiệu quả của biện pháp nghệ thuật trong đoạn văn sau:“Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… ”(1 điểm)
Câu 3. Xác định phường thức biểu đạt chính. (0,5 điểm)
Câu 4. Qua việc dựng lên hai thế giới đối lập giữa trần gian và thiên đàng, tác giả bức thư muốn gửi gắm ước mơ gì? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Từ văn bản ở phân Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ với nhan đề: Đấu tranh vì một thế giới hoà bình.
Câu 2. (5 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về những nét tương đồng và khác biệt của hình tượng người chiến sĩ trong hai đoạn văn sau:
Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng mảy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổ lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…
Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình bò đi nữa, chính trận đánh đang vẫy gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đẩu giặc Mĩ những đảm lửa dữ dội và những mũi lê nhọn hoắt đang bắt đâu xung phong…
(Trích Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi)
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi, cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đẩu ngón tay nữa. Anh nghe lửa chảy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rổi. Anh không kêu lên. Anh Quỵết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van”. Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Chảy, cháy cả ruột đầy rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!”.
(Trích Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM )
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. (0,5 điểm)
Câu 2.
“Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu..Đoạn văn trên sử dụng nghệ thuật đối lập giữa ánh sáng với mảng tối, tiếng chuông với tiếng súng, hạnh phúc với bất hạnh. Tác dụng của phép đối lập nhằm nhấn mạnh cuộc sống nơi trần gian thật phức tạp, đan xen tốt – xấu, thiện – ác, hạnh phúc và khổ đau, chiến tranh và hoà bình. Đồng thời làm tăng sức gợi hình biểu cảm gây ấn tượng cho người đọc. (1 điểm)
Câu 3. Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 4.
Qua việc dựng nên hai thế giới đối lập giữa thiên đường và trần thế, tác giả đã gửi gắm ước mơ về một thế giới hoà bình không có chiến tranh, không phân biệt tôn giáo hay khủng bố bạo lực. Ở thế giới đó, con người sẽ được sống yên bình tại nơi mình sinh ra, không phải di cư vì chiến tranh bạo loạn hay xung đột sắc tộc. Thiên đường theo mơ ước của tác giả – chú bé Syria ba tuổi chết trên đường tị nạn – đơn giản là nơi hoà bình, không có chiến tranh. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần có các ý sau:
– Hoà bình là ước mơ của toàn nhân loại, có hoà bình sẽ có tất cả mọi điều tốt đẹp khác như giáo dục, vui chơi giải trí, tình yêu, lòng vị tha…
– Phê phán những hành động gây chiến tranh bạo loạn, đi ngược lại khát vọng hoà bình chung của loài người.
Đoạn văn mẫu:
Trong lời một bài hát có đoạn “Em mong sớm đến năm 2000 và mong ước chiến tranh sẽ tàn, để trái đất chỉ còn tiếng hát”. Năm 2000 đã qua và nhân loại đang sống trong thế kỉ mới – thế kỉ 21, nhưng vẫn luôn phải tiếp tục đấu tranh vì một thế giới hoà bình, đấu tranh để ước mơ của mọi người thành hiện thực. Hoà bình – nghĩa là không còn chiến tranh – hai tiếng đơn giản mà thật khó thực hiện biết bao. Vậy mà hiện nay, trên thế giới vẫn còn hàng ngàn người đang phải sống trong cảnh chiến tranh, li tán. vẫn có những đứa trẻ ở Syria chết trên đường tị nạn. Những thường dân ở các nước Châu Phi vẫn ngày ngày phải hứng chịu bom đạn, đối mặt với thẩn Chết. Tại sao nhân loại không ngừng mơ ước khát khao vể một thế giới hoà bình, nhưng mặt khác chính con người lại sản xuất ra các yũ khí huỷ diệt hàng loạt để giết hại chính đồng loại của mình? Mỗi chúng ta hãy chung tay đấu tranh vì một thế giới hoà bình, không chỉ cho riêng ai mà cho toàn nhân loại, không chỉ cho hôm nay mà cả mai sau.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng kết cấu bài văn gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng người chiến sĩ trong hai đoạn văn. (0,5 điểm)
– Giới thiệu Nguyễn Trung Thành, tác phẩm Rừng xà nu và hình tượng Tnú.
– Giới thiệu Nguyễn Thi, tác phẩm Những đứa con trong gia đình và hình tượng Việt.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Phân tích đoạn văn thứ nhất: Cảnh Việt bị thương nằm lại nơi chiến trường
– Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống cách mạng, mang mối thù sâu nặng với giặc Mĩ, anh xung phong tòng quân dù chưa đủ tuổi. Ở Việt luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu “trả thù cho ba má”. Trong trận đánh ở rừng cao su, Việt lập công lớn tiêu diệt được một xe bọc thép của địch nhưng cũng bị thương nặng và lạc đồng đội..
– Khi bị thương, Việt nhiều lần ngất đi tỉnh lại. Mỗi lần tỉnh lại, những hồi ức về ba má, chú Năm, chị Chiến, đồng đội lại hiện về trong tâm trí Việt. Qua đó, ta thấy Việt có một tâm hồn giàu tình cảm gắn bó với quê hương gia đình.
– Đoạn văn thể hiện phẩm chất nổi bật ở Việt là tinh thần ý chí quyết tâm chiến đấu kiên cường dũng cảm. Dù bị thương lạc đơn vị một mình nằm lại chiến trường, Việt vẫn không hề run sợ, vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Việt vẫn cố gắng bò về phía tiếng súng, phía đồng đội đang chiến đấu. Hình ảnh Việt gợi ta nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, dù bị trúng đạn nhưng vẫn gượng đứng lên nhằm thẳng quân thù mà bắn:
Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên
Tì tay trên báng súng
Và anh ngắm bắn
………
Từ dáng đứng của anh
Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
2. Phân tích đoạn văn thứ hai: Cảnh Tnú bị giặc đốt cháy mười đầu ngón tay.
– Ấn tượng sâu sắc nhất trong tâm trí người đọc là đôi bàn tay Tnú bị đốt cháy bởi nhựa xà nu, mười ngón tay bùng bùng như mười ngọn đuốc. Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác của giặc, vừa thể hiện lòng dũng cảm, khí phách kiên cường của Tnú. Đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc giàu tính tạo hình
– Giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú nhằm khủng bố tinh thần đấu tranh của dân làng Xô Man, nhưng ngược lại, chính sự kiên cường của Tnú đã khiến mưu đồ ấy thất bại. Tnú nhắm mắt lại rồi mở mắt ra trừng trừng. Nỗi đau lên đến tột cùng khiến anh cắn nát cả môi nhưng anh vẫn kiên quyết không kêu. Nỗi đau nén lại trong lồng ngực rồi òa vỡ thành một lời hiệu triệu mạnh mẽ: Giết. Tiếng thét căm hờn ấy đã khiến dân làng bừng tỉnh, vùng lên cầm giáo mác giết sạch quân thù. Mười ngọn đuốc trên mười đầu ngón tay Tnú đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho dân làng Xô Man, đã cháy lên thành ngọn lửa của tinh thần đồng khởi.
3. Chỉ ra sự tương đồng và khác biệt
– Sự tương đồng: Hai nhân vật đều phải chịu đựng đau đớn về thể xác, đơn độc khi chiến đấu; đều là hình mẫu của người chiến sĩ dũng cảm kiên cường, tuyệt đối trung thành với Cách mạng; là biểu tượng của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
– Việt: Chiến đấu với tinh thần quả cảm mà hồn nhiên, lạc quan yêu đời, tin tưởng vào Cách mạng, vào đồng đội. Ở Việt chủ yếu là nỗi đau thể xác.
– Tnú: Chiến đấu bằng ý chí quyết tâm, lòng căm thù giặc sâu sắc, do vừa trải qua nỗi đau cá nhân khi vợ và con bị giết hại ngay trước mắt. Ở Tnú có sự cộng hưởng cả nỗi đau tinh thần và thể xác.
c) Kết bài
Nêu khái quát vẻ đẹp của hai nhân vật trong những hoàn cảnh đấu tranh gian khổ khác nhau; sự thành công trong nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lí nhân vật. (0,5 điểm)
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 18
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 18)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ câu bên dưới:
LẮNG NGHE MÀU DÂN TỘC
Tháng 6 – 2012, dự án truyền thông mang tên “Tôi xê dịch” của nhóm bạn trẻ Hà Nội ra mắt. Người sáng lập là Nguyễn Thu Hà, cô gái Hà Nội sinh năm 1991. Đó là một dự án phi lợi nhuận với mục đích tìm hiểu sâu về văn hoá dân tộc. “Tôi xê dịch” đã tổ chức nhiều chuyên đề thông qua một số chương trình tiêu biểu như: “Tham quan Hoàng thành Thăng Long và tìm hiểu văn hóa Hà Nội”, “Trò chơi dân gian Việt Nam”, “Cầu Long Biên”, “Màu dân tộc” (Tìm hiểu làng tranh Đông Hồ – Bắc Ninh),… Dự án tổ chức những tour tìm hiểu về vẫn hoá dán tộc, nghệ thuật dân gian Việt Nam để không chỉ thấy cái tối nhỏ bé của mình trong đời sống, mà còn phải tìm thấy màu dằn tộc trong nếp sống của giới trẻ…
(Theo báo Tuổi trẻ, ngày 23/5/2014)
Câu 1. Đoạn trích được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? (0,5 điểm)
Câu 2. Hãy xác định câu chủ đề của đoạn văn bản. (0,5 điểm)
Câu 3. Trọng đoạn trích, tác giả chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt nào? (0,5 điểm)
Câu 4. Tiêu đề “Lắng nghe màu dân tộc” và cái tên “Tôi xê dịch” được sử dụng biện pháp tu từ chủ yếu nào? Hãy viết khoảng 5-7 dòng nêu tác dụng của biện pháp tu từ này. (1,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỀM)
Câu 1.(2 điểm)
Từ đoạn văn trên, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (không quá 200 từ) trình bày suy nghĩ của mình về dự án “Tôi xê dịch” và trách nhiệm của giới trẻ trong việc bảo tồn văn hoá dân tộc.
Câu 2. (5 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân có đoạn:
Bà lão cúi đẩu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mối có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con và cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói vội “nàng dâu mới”:
– Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái (…) Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
– Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỂ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIẾM)
Câu 1. Đoạn trích được viết theo phong cách ngôn ngữ báo chí. (0,5 điểm)
Câu 2. Câu chủ đề của đoạn văn bản: “Tháng 6 – 2012, dự án truyền thông mang tên “Tôi xê dịch” của nhóm bạn trẻ Hà Nội ra mắt”. (0,5 điểm)
Câu 3. Trong đoạn trích, tác giả chủ yếu sử dụng phương thức biều đạt tự sự. (0,5 điểm)
Câu 4. Thí sinh cần nêu được các ý: biện pháp tu từ nổi bật là ẩn dụ ở hình ảnh “lắng nghe màu dân tộc” và “xê dịch”. Tác dụng: nhằm nói lên yẻ đẹp của văn hoá dân tộc và sự tiếp cận, tìm tòi của chúng ta với văn hoá dân tộc. (1,5 điểm)
Đoạn văn mẫu:
Biện pháp tu từ nổi bật trong tiêu đề văn bản và tên của dự án là ẩn dụ nhằm nói lên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc và sự tiếp cận, tìm tòi của chúng ta với văn hoá dân tộc. Trong tiêu đê’ “lắng nghe màu dân tộc”, cụm từ “màu dân tộc” là cách nói giàu hình ảnh nhằm cụ thể hoá vẻ đẹp của văn hoá dân tộc. Vốn văn hoá ấy như những dải màu sắc rực rỡ và đa dạng đang làm đẹp cho bản sắc dân tộc ta. Để hấp thu được vốn văn hoá ấy, chúng ta phải “lắng nghe”. Có nghĩa là ta không chỉ tiếp nhận bằng mắt mà còn bằng nhiều giác quan khác, bằng sự đón nhận trong thế tĩnh. Và để đón nhận được, ta không chỉ ngồi yên mà phải “xê dịch”, phải có những hoạt động tìm tòi cụ thể. Đồng thời những hoạt động ấy còn để cho mọi người xung quanh hiểu vể văn hoá dân tộc.
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Suy nghĩ về dự án “Tôi xê dịch”: Đoạn văn đã ca ngợi một hoạt động của giới trẻ. Hoạt động này có ý nghĩa và sáng tạo trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đoạn văn mẫu
Dự án truyền thông mang tên “Tôi xê dịch” là một hoạt động của giới trẻ có ý nghĩa và sáng tạo. Dự án đã gửi tới các bạn trẻ thông điệp vê’ việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đất nước đang trong quá trình hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề quan trọng, ý thức của thanh thiếu niên Việt Nam trong vấn đề này là điều rất đáng quan tâm suy nghĩ. Bản sắc vân hoá là yếu tố quan trọng để khẳng định vị thế của dân tộc đó ở giữa cộng đồng thế giới. Thế hệ trẻ là những người nắm giữ tương lai của đất nước, bởi vậy, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một điều vô cùng cần thiết. Thanh thiếu niên Việt Nam cần làm sao để chất văn hoá Việt không mất đi, từ: cách sống, quan niệm, suy nghĩ, ở hoạt động, nói năng, ăn mặc, ứng xử… Tuy nhiên, hiện nay, trong một số bộ phận giới trẻ, dấu ấn của bản sắc ván hoá Việt Nam bị mờ nhạt, mà đậm nét lại là một thứ văn hoá ngoại lai hỗn tạp. Vì vậy, mỗi thanh niên, thiếu niên phải thực sự thấy được giá trị của ván hoá dân tộc. Gia đình, xã hội cũng phải chung sức, chung lòng để tô đậm thêm nữa những giá trị văn hoá dân tộc.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng bài văn với bố cục ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu về Kim Lân, tác phẩm Vợ nhặt và tâm trạng bà cụ Tứ khi nghe Tràng giới thiệu vợ (0,5 điểm)
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không mô tả kĩ hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ mà tập trung thể hiện vẻ đẹp tinh thẩn ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong ba nhân vật của truyện, bà cụ Tứ – mẹ anh Tràng gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc hơn cả bởi tấm lòng nhân hậu rất đáng trân trọng.
b) Thân bài (4 điểm)
– Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng: Giữa những ngày đói, bà cụ Tứ cũng giống mọi người, lần hồi kiếm miếng ăn và lo lắng vì sự ám ảnh của cái đói thì anh Tràng – con trai bà bỗng nhiên nhặt được vợ. (0,25 điểm)
– Tâm trạng bà cụ Tứ: (3,25 điểm)
+ Sau đó: Khi sự tình đã rồi, trước mắt bà là người con dâu, “mặt cúi xuống”, “tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con.. câu văn nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói, một chút tủi hờn, ai oán số phận, nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước việc đã bày ra trước mắt, hoà với chút rưng rưng, xao xuyến một niềm vui. Qua đó, ta lại càng thấy quý trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”.
+ Đánh giá chung: Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ con người. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng sâu xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương.
– Nghệ thuật miêu tả tâm tí của Kim Lân: Diễn tả tâm lí nhân vật thông qua hành động, cử chỉ, nét mặt, ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, phù hợp với nhân vật… Nhờ diễn tả thật xúc động tâm trạng nhân vật, nhà văn giúp người đọc hình dung rõ hơn nghịch cảnh éo le của người lao động trong nạn đói. (1 điểm)
c) Kết bài
Kết lại về tâm trạng bà cụ Tứ và nêu cảm nghĩ của bản thân (0,5 điểm)
Hình ảnh bà cụ Tứ xứng đáng là ánh sáng le lói trong bóng tối bi thảm của truyện. Hình ảnh bà khiến người đọc rung cảm sâu sắc và làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt trở nên thấm thía hơn, cảm động hơn.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 18
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 18)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ câu bên dưới:
LẮNG NGHE MÀU DÂN TỘC
Tháng 6 – 2012, dự án truyền thông mang tên “Tôi xê dịch” của nhóm bạn trẻ Hà Nội ra mắt. Người sáng lập là Nguyễn Thu Hà, cô gái Hà Nội sinh năm 1991. Đó là một dự án phi lợi nhuận với mục đích tìm hiểu sâu về văn hoá dân tộc. “Tôi xê dịch” đã tổ chức nhiều chuyên đề thông qua một số chương trình tiêu biểu như: “Tham quan Hoàng thành Thăng Long và tìm hiểu văn hóa Hà Nội”, “Trò chơi dân gian Việt Nam”, “Cầu Long Biên”, “Màu dân tộc” (Tìm hiểu làng tranh Đông Hồ – Bắc Ninh),… Dự án tổ chức những tour tìm hiểu về vẫn hoá dán tộc, nghệ thuật dân gian Việt Nam để không chỉ thấy cái tối nhỏ bé của mình trong đời sống, mà còn phải tìm thấy màu dằn tộc trong nếp sống của giới trẻ…
(Theo báo Tuổi trẻ, ngày 23/5/2014)
Câu 1. Đoạn trích được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? (0,5 điểm)
Câu 2. Hãy xác định câu chủ đề của đoạn văn bản. (0,5 điểm)
Câu 3. Trọng đoạn trích, tác giả chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt nào? (0,5 điểm)
Câu 4. Tiêu đề “Lắng nghe màu dân tộc” và cái tên “Tôi xê dịch” được sử dụng biện pháp tu từ chủ yếu nào? Hãy viết khoảng 5-7 dòng nêu tác dụng của biện pháp tu từ này. (1,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỀM)
Câu 1.(2 điểm)
Từ đoạn văn trên, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (không quá 200 từ) trình bày suy nghĩ của mình về dự án “Tôi xê dịch” và trách nhiệm của giới trẻ trong việc bảo tồn văn hoá dân tộc.
Câu 2. (5 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân có đoạn:
Bà lão cúi đẩu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mối có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con và cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói vội “nàng dâu mới”:
– Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái (…) Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
– Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỂ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIẾM)
Câu 1. Đoạn trích được viết theo phong cách ngôn ngữ báo chí. (0,5 điểm)
Câu 2. Câu chủ đề của đoạn văn bản: “Tháng 6 – 2012, dự án truyền thông mang tên “Tôi xê dịch” của nhóm bạn trẻ Hà Nội ra mắt”. (0,5 điểm)
Câu 3. Trong đoạn trích, tác giả chủ yếu sử dụng phương thức biều đạt tự sự. (0,5 điểm)
Câu 4. Thí sinh cần nêu được các ý: biện pháp tu từ nổi bật là ẩn dụ ở hình ảnh “lắng nghe màu dân tộc” và “xê dịch”. Tác dụng: nhằm nói lên yẻ đẹp của văn hoá dân tộc và sự tiếp cận, tìm tòi của chúng ta với văn hoá dân tộc. (1,5 điểm)
Đoạn văn mẫu:
Biện pháp tu từ nổi bật trong tiêu đề văn bản và tên của dự án là ẩn dụ nhằm nói lên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc và sự tiếp cận, tìm tòi của chúng ta với văn hoá dân tộc. Trong tiêu đê’ “lắng nghe màu dân tộc”, cụm từ “màu dân tộc” là cách nói giàu hình ảnh nhằm cụ thể hoá vẻ đẹp của văn hoá dân tộc. Vốn văn hoá ấy như những dải màu sắc rực rỡ và đa dạng đang làm đẹp cho bản sắc dân tộc ta. Để hấp thu được vốn văn hoá ấy, chúng ta phải “lắng nghe”. Có nghĩa là ta không chỉ tiếp nhận bằng mắt mà còn bằng nhiều giác quan khác, bằng sự đón nhận trong thế tĩnh. Và để đón nhận được, ta không chỉ ngồi yên mà phải “xê dịch”, phải có những hoạt động tìm tòi cụ thể. Đồng thời những hoạt động ấy còn để cho mọi người xung quanh hiểu vể văn hoá dân tộc.
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Suy nghĩ về dự án “Tôi xê dịch”: Đoạn văn đã ca ngợi một hoạt động của giới trẻ. Hoạt động này có ý nghĩa và sáng tạo trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đoạn văn mẫu
Dự án truyền thông mang tên “Tôi xê dịch” là một hoạt động của giới trẻ có ý nghĩa và sáng tạo. Dự án đã gửi tới các bạn trẻ thông điệp vê’ việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đất nước đang trong quá trình hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề quan trọng, ý thức của thanh thiếu niên Việt Nam trong vấn đề này là điều rất đáng quan tâm suy nghĩ. Bản sắc vân hoá là yếu tố quan trọng để khẳng định vị thế của dân tộc đó ở giữa cộng đồng thế giới. Thế hệ trẻ là những người nắm giữ tương lai của đất nước, bởi vậy, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một điều vô cùng cần thiết. Thanh thiếu niên Việt Nam cần làm sao để chất văn hoá Việt không mất đi, từ: cách sống, quan niệm, suy nghĩ, ở hoạt động, nói năng, ăn mặc, ứng xử… Tuy nhiên, hiện nay, trong một số bộ phận giới trẻ, dấu ấn của bản sắc ván hoá Việt Nam bị mờ nhạt, mà đậm nét lại là một thứ văn hoá ngoại lai hỗn tạp. Vì vậy, mỗi thanh niên, thiếu niên phải thực sự thấy được giá trị của ván hoá dân tộc. Gia đình, xã hội cũng phải chung sức, chung lòng để tô đậm thêm nữa những giá trị văn hoá dân tộc.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng bài văn với bố cục ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu về Kim Lân, tác phẩm Vợ nhặt và tâm trạng bà cụ Tứ khi nghe Tràng giới thiệu vợ (0,5 điểm)
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không mô tả kĩ hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ mà tập trung thể hiện vẻ đẹp tinh thẩn ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong ba nhân vật của truyện, bà cụ Tứ – mẹ anh Tràng gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc hơn cả bởi tấm lòng nhân hậu rất đáng trân trọng.
b) Thân bài (4 điểm)
– Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng: Giữa những ngày đói, bà cụ Tứ cũng giống mọi người, lần hồi kiếm miếng ăn và lo lắng vì sự ám ảnh của cái đói thì anh Tràng – con trai bà bỗng nhiên nhặt được vợ. (0,25 điểm)
– Tâm trạng bà cụ Tứ: (3,25 điểm)
+ Sau đó: Khi sự tình đã rồi, trước mắt bà là người con dâu, “mặt cúi xuống”, “tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con.. câu văn nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói, một chút tủi hờn, ai oán số phận, nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước việc đã bày ra trước mắt, hoà với chút rưng rưng, xao xuyến một niềm vui. Qua đó, ta lại càng thấy quý trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”.
+ Đánh giá chung: Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ con người. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng sâu xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương.
– Nghệ thuật miêu tả tâm tí của Kim Lân: Diễn tả tâm lí nhân vật thông qua hành động, cử chỉ, nét mặt, ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, phù hợp với nhân vật… Nhờ diễn tả thật xúc động tâm trạng nhân vật, nhà văn giúp người đọc hình dung rõ hơn nghịch cảnh éo le của người lao động trong nạn đói. (1 điểm)
c) Kết bài
Kết lại về tâm trạng bà cụ Tứ và nêu cảm nghĩ của bản thân (0,5 điểm)
Hình ảnh bà cụ Tứ xứng đáng là ánh sáng le lói trong bóng tối bi thảm của truyện. Hình ảnh bà khiến người đọc rung cảm sâu sắc và làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt trở nên thấm thía hơn, cảm động hơn.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 19
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 19)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Có mặt tại một số trường THPT trên địa bàn Hà nội trong giờ ra chơi, chứng kiến không ít gương mặt nữ sinh trang điểm lòe lẹt, tóc uốn lọn xoăn, chuốt mi, vẽ mắt. Không để ý đến bạn bè xung quanh, có em còn thản nhiên lôi gương, son môi ra tô như thể đong trong phòng riêng. Cũng có những bạn chỉ chỏ, bàn tản, nhưng dường như các bạn khác cũng đã quá quen với những hành động này.
(Trích bài chép của học sinh)
Câu 1. Có bạn chép bài báo “Nữ sinh đến trường trang điểm như đi dự tiệc” (Đặng Chung, báo Lao động, 18/2/2014) nhưng bị sai về chính tả và diễn đạt. Anh/chị hãy sửa lỗi chính tả và diễn đạt trong văn bản trên. (1 điểm)
Câu 2. Văn bản trên được trình bày theo phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chủ yếu nào? (1 điểm)
Câu 3. Văn bản trên nói về hiện trạng gì? Đặt một tiêu để cho văn bản đó. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Anh/Chị nghĩ sao về việc hiện giờ có nhiều học sinh nữ trang điểm khi tới trường? Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ để bày tỏ ý kiến của anh/chị.
Câu 2. (5 điểm)
Ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá, lịch sử của dân tộc.
Qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Đoạn trích trong sách Ngữ văn 12), anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIẾM)
Câu 1. (1 điểm)
– Sửa lỗi chính tả: Hà Nội, loè loẹt, chỉ trỏ.
– Sửa lỗi diễn đạt: Có mặt tại một số trường THPT trên địa bàn Hà Nội trong giờ ra chơi, chúng tôi chứng kiến không ít gương mặt nữ sinh trang điểm lòe loẹt, tóc uốn lọn xoăn, chuốt mi, vẽ mắt.
Câu 2. Văn bản trên được trình bày theo phong cách ngôn ngữ báo chí và phương thức biểu đạt tự sự. (1 điểm)
Câu 3.
– Văn bản trên nói vê’ hiện trạng nhiều học sinh trang điểm lòe loẹt khi tới trường.
– Tiêu để: Học sinh sành điệu, Sàn diễn trường học, Trang điểm lòe loẹt khi tới trường,…
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Hiện trạng: Có nhiều nữ sinh mất nhiều thời gian chuẩn bị trang điểm trước khi tới lớp.
– Bình luận:
+ Mặt được: Các em đẹp hơn, năng động tự tin hơn, dám khẳng định mình hơn.
+ Mặt chưa được: Mất thời gian học, đi học muộn, tốn tiền,…
– Biện pháp: Học sinh chỉ nên trang điểm trong những dịp đặc biệt cần thiết như: khai giảng, liên hoan hay sinh hoạt, văn nghệ.
Đoạn văn mẫu
Với nhiều nữ sinh, họ không muốn đến trường với vẻ bể ngoài quá đơn giản mà ít nhất phải có chút phấn son hay quần áo hoặc phụ kiện đi kèm nổi bật để tự tin hơn trước bạn bè. Điều đó có nên không? Có người ủng hộ vì cho rằng việc các em trang điểm là dấu hiệu tốt. Các em đẹp hơn, năng động tự tin hơn, dám khẳng định mình hơn. Song đại đa số ý kiến thể hiện sự phản đối. Mọi người cho rằng việc trang điểm làm mất thời gian học, đi học muộn, tốn tiền mĩ phẩm. Hơn nữa, việc trang điểm cầu kì sẽ khiến các em dễ mất vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng. Đó là chưa kể đến, nhiều loại mĩ phẩm không đảm bảo chất lượng bày bán tràn lan trên thị trường sẽ khiến da mặt mỏng manh, nhạy cảm của các em bị dị ứng, nứt nẻ… Việc học sinh trang điểm khi đi học không phải là hành động xấu nhưng chúng ta cũng nên biết chọn phong cách đơn giản, tự nhiên phù hợp với lứa tuổi của mình. Do đó, học sinh chỉ nên trang điểm trong những dịp đặc biệt cần thiết như: khai giảng, liên hoan hay sinh hoạt, văn nghệ. Còn những ngày bình thường nên sử dụng những loại mỹ phẩm dưỡng da nhẹ nhàng hoặc thoa son dưỡng môi chống nẻ, tránh những kiểu trang điểm loè loẹt không phù hợp.
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? và ý kiến trong bài: Ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá, lịch sử của dân tộc. (0,5 điểm)
b) Thân bài (4 điểm)
1. Giải thích, bình luận ý kiến
Đây là một ý kiến nhận xét chính xác về phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tình yêu nước của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện trong tình yêu với thiên nhiên và con người quê hương ông, với xứ Huế thân thương.
Tác phẩm thể hiện tình yêu sông Hương và xứ Huế với bút pháp đậm chất trữ tình. Qua đó, ta thấy được lòng yêu nước, tinh thần dân tộc của tác giả.
Dòng sông xinh đẹp và đa cảm
– Sông Hương vùng thượng lưu:
+ Sông Hương nhìn từ thượng nguồn tựa như bản trường ca của rừng già (rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt…, cuộn xoáy như những cơn lốc…, dịu dàng và say đắm…).
+ Sông Hương hiện ra tựa như “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Nhưng cũng chính rừng già nơi đây cũng đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng già nó trở thành người mẹ phù sa của vùng văn hoá xứ sở.
– Sông Hương ở phần ngoại vi thành phố:
+ Lúc này, sông Hương được ví “như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được “người tình mong đợi” đến đánh thức. Đoạn văn thể hiện năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng giúp nhà văn viết được những câu văn đẩy màu sắc tạo hình và ấn tượng: “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, “dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”.
+ Rồi “giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đổ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu”, vẻ đẹp ấy được tác giả chọn tả bằng một câu văn dài như ngân lên trong hồn người đọc, tạo một dư âm, một ấn tượng không thể phai mờ trong tâm trí người đọc. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga từ bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.
– Sông Hương khi chảy vào thành phố:
+ Qua thành phố, sông Hương trôi thật chậm, thực chậm, “cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Tác giả so sánh với dòng chảy tốc hành của sông Nê-va để thấy quý hơn điệu chảy lặng lờ của sông Hương khi ngang qua thành phố, nhìn nó như là sự “vấn vương của một nỗi lòng”. Điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế ấy thật hợp cảnh hợp tình với những ngôi chùa cổ, những lăng tẩm uy nghi của chốn kinh thành xưa.
Niềm tự hào của văn hoá dân tộc.
+ Dường như sông Hương không muốn xa thành phổ: “Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh… khúc quanh này thật bất ngờ… Đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Cái khúc quanh bất ngờ ấy, trong cảm nhận đấy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành nỗi vương vấn, thành chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, là hành động chí tình của người con gái để gặp lại người tình.
Dòng sông đằm thắm, lắng sâu; kiên cường mạnh mẽ
– Vẻ đẹp sông Hương gắn với lịch sử dân tộc. Sông Hương không chỉ in dấu lịch sử, song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử của riêng nó – một lịch sử hào hùng và dữ dội, bất khuất và đớn đau.
– Vẻ đẹp sông Hương với cuộc đời và thơ ca, nghệ thuật. Sông Hương tạo cảm hứng để ta sáng tạo ra tà áo dài Huế. Không chỉ vậy, sông Hương còn là cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm thơ ca, âm nhạc. Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông.
Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Bài kí kết thúc bằng cách lí giải về cái tên của dòng sông, nhấn mạnh bằng một huyền thoại mĩ lệ, mang đến cho tác phẩm sắc màu lãng mạn. Đó là chuyện về cư dân hai bên bờ sông nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Huyền thoại về tên dòng sông đã nói lên khát vọng của con người nơi đây muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá, lịch sử, địa lí quê hương mình.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 19
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 19)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Có mặt tại một số trường THPT trên địa bàn Hà nội trong giờ ra chơi, chứng kiến không ít gương mặt nữ sinh trang điểm lòe lẹt, tóc uốn lọn xoăn, chuốt mi, vẽ mắt. Không để ý đến bạn bè xung quanh, có em còn thản nhiên lôi gương, son môi ra tô như thể đong trong phòng riêng. Cũng có những bạn chỉ chỏ, bàn tản, nhưng dường như các bạn khác cũng đã quá quen với những hành động này.
(Trích bài chép của học sinh)
Câu 1. Có bạn chép bài báo “Nữ sinh đến trường trang điểm như đi dự tiệc” (Đặng Chung, báo Lao động, 18/2/2014) nhưng bị sai về chính tả và diễn đạt. Anh/chị hãy sửa lỗi chính tả và diễn đạt trong văn bản trên. (1 điểm)
Câu 2. Văn bản trên được trình bày theo phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chủ yếu nào? (1 điểm)
Câu 3. Văn bản trên nói về hiện trạng gì? Đặt một tiêu để cho văn bản đó. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Anh/Chị nghĩ sao về việc hiện giờ có nhiều học sinh nữ trang điểm khi tới trường? Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 từ để bày tỏ ý kiến của anh/chị.
Câu 2. (5 điểm)
Ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá, lịch sử của dân tộc.
Qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Đoạn trích trong sách Ngữ văn 12), anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIẾM)
Câu 1. (1 điểm)
– Sửa lỗi chính tả: Hà Nội, loè loẹt, chỉ trỏ.
– Sửa lỗi diễn đạt: Có mặt tại một số trường THPT trên địa bàn Hà Nội trong giờ ra chơi, chúng tôi chứng kiến không ít gương mặt nữ sinh trang điểm lòe loẹt, tóc uốn lọn xoăn, chuốt mi, vẽ mắt.
Câu 2. Văn bản trên được trình bày theo phong cách ngôn ngữ báo chí và phương thức biểu đạt tự sự. (1 điểm)
Câu 3.
– Văn bản trên nói vê’ hiện trạng nhiều học sinh trang điểm lòe loẹt khi tới trường.
– Tiêu để: Học sinh sành điệu, Sàn diễn trường học, Trang điểm lòe loẹt khi tới trường,…
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Hiện trạng: Có nhiều nữ sinh mất nhiều thời gian chuẩn bị trang điểm trước khi tới lớp.
– Bình luận:
+ Mặt được: Các em đẹp hơn, năng động tự tin hơn, dám khẳng định mình hơn.
+ Mặt chưa được: Mất thời gian học, đi học muộn, tốn tiền,…
– Biện pháp: Học sinh chỉ nên trang điểm trong những dịp đặc biệt cần thiết như: khai giảng, liên hoan hay sinh hoạt, văn nghệ.
Đoạn văn mẫu
Với nhiều nữ sinh, họ không muốn đến trường với vẻ bể ngoài quá đơn giản mà ít nhất phải có chút phấn son hay quần áo hoặc phụ kiện đi kèm nổi bật để tự tin hơn trước bạn bè. Điều đó có nên không? Có người ủng hộ vì cho rằng việc các em trang điểm là dấu hiệu tốt. Các em đẹp hơn, năng động tự tin hơn, dám khẳng định mình hơn. Song đại đa số ý kiến thể hiện sự phản đối. Mọi người cho rằng việc trang điểm làm mất thời gian học, đi học muộn, tốn tiền mĩ phẩm. Hơn nữa, việc trang điểm cầu kì sẽ khiến các em dễ mất vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng. Đó là chưa kể đến, nhiều loại mĩ phẩm không đảm bảo chất lượng bày bán tràn lan trên thị trường sẽ khiến da mặt mỏng manh, nhạy cảm của các em bị dị ứng, nứt nẻ… Việc học sinh trang điểm khi đi học không phải là hành động xấu nhưng chúng ta cũng nên biết chọn phong cách đơn giản, tự nhiên phù hợp với lứa tuổi của mình. Do đó, học sinh chỉ nên trang điểm trong những dịp đặc biệt cần thiết như: khai giảng, liên hoan hay sinh hoạt, văn nghệ. Còn những ngày bình thường nên sử dụng những loại mỹ phẩm dưỡng da nhẹ nhàng hoặc thoa son dưỡng môi chống nẻ, tránh những kiểu trang điểm loè loẹt không phù hợp.
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? và ý kiến trong bài: Ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá, lịch sử của dân tộc. (0,5 điểm)
b) Thân bài (4 điểm)
1. Giải thích, bình luận ý kiến
Đây là một ý kiến nhận xét chính xác về phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tình yêu nước của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện trong tình yêu với thiên nhiên và con người quê hương ông, với xứ Huế thân thương.
Tác phẩm thể hiện tình yêu sông Hương và xứ Huế với bút pháp đậm chất trữ tình. Qua đó, ta thấy được lòng yêu nước, tinh thần dân tộc của tác giả.
Dòng sông xinh đẹp và đa cảm
– Sông Hương vùng thượng lưu:
+ Sông Hương nhìn từ thượng nguồn tựa như bản trường ca của rừng già (rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt…, cuộn xoáy như những cơn lốc…, dịu dàng và say đắm…).
+ Sông Hương hiện ra tựa như “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Nhưng cũng chính rừng già nơi đây cũng đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng già nó trở thành người mẹ phù sa của vùng văn hoá xứ sở.
– Sông Hương ở phần ngoại vi thành phố:
+ Lúc này, sông Hương được ví “như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được “người tình mong đợi” đến đánh thức. Đoạn văn thể hiện năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng giúp nhà văn viết được những câu văn đẩy màu sắc tạo hình và ấn tượng: “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, “dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”.
+ Rồi “giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đổ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu”, vẻ đẹp ấy được tác giả chọn tả bằng một câu văn dài như ngân lên trong hồn người đọc, tạo một dư âm, một ấn tượng không thể phai mờ trong tâm trí người đọc. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga từ bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.
– Sông Hương khi chảy vào thành phố:
+ Qua thành phố, sông Hương trôi thật chậm, thực chậm, “cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Tác giả so sánh với dòng chảy tốc hành của sông Nê-va để thấy quý hơn điệu chảy lặng lờ của sông Hương khi ngang qua thành phố, nhìn nó như là sự “vấn vương của một nỗi lòng”. Điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế ấy thật hợp cảnh hợp tình với những ngôi chùa cổ, những lăng tẩm uy nghi của chốn kinh thành xưa.
Niềm tự hào của văn hoá dân tộc.
+ Dường như sông Hương không muốn xa thành phổ: “Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh… khúc quanh này thật bất ngờ… Đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Cái khúc quanh bất ngờ ấy, trong cảm nhận đấy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành nỗi vương vấn, thành chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, là hành động chí tình của người con gái để gặp lại người tình.
Dòng sông đằm thắm, lắng sâu; kiên cường mạnh mẽ
– Vẻ đẹp sông Hương gắn với lịch sử dân tộc. Sông Hương không chỉ in dấu lịch sử, song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử của riêng nó – một lịch sử hào hùng và dữ dội, bất khuất và đớn đau.
– Vẻ đẹp sông Hương với cuộc đời và thơ ca, nghệ thuật. Sông Hương tạo cảm hứng để ta sáng tạo ra tà áo dài Huế. Không chỉ vậy, sông Hương còn là cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm thơ ca, âm nhạc. Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông.
Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Bài kí kết thúc bằng cách lí giải về cái tên của dòng sông, nhấn mạnh bằng một huyền thoại mĩ lệ, mang đến cho tác phẩm sắc màu lãng mạn. Đó là chuyện về cư dân hai bên bờ sông nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Huyền thoại về tên dòng sông đã nói lên khát vọng của con người nơi đây muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá, lịch sử, địa lí quê hương mình.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 21
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 21)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn văn sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Cách nghĩ khác đầu tiên làm thay đổi cuộc đời Đặng Lê Nguyên Vũ có lẽ là quyết định rời bỏ đại học ỵ danh tiếng và chuỵêh sang thu mua cà phê về rang xay, chế biến theo ý mình. Mẹ ông đã khóc ròng vì quyết định này. Nhưng không, Đặng Lê Nguyên Vũ đã quyết bỏ 6 năm học ngành y thay vì biến cuộc đời mình trở nên vô dụng.
Trên chiếc xe đạp cà tàng của mình, ông đến từng đại lý mua mua cà phê để bắt đầu sự nghiệp. Những ý tưởng lớn dần theo những vòng quay đây nhiệt huyết của bánh xe. Nung nấu trong đầu một chàng trai Tây Nguyên này là câu hỏi: “Tại sao Việt Nam, mà chủ yếu là Buôn Ma Thuột – nơi có hạt cà phê vào loại ngon nhất thế giới, xuất khẩu cà phê cũng vào hàng đâu thế giới, nhưng nông dàn vẫn nghèo, nhưng giá trị về vẫn thấp?
Cách nghĩ khắc tiếp theo làm thay đổi sự nghiệp của anh chàng kinh doanh cà phê rang xay đó là chỉ có chế biến mới tạo nên giả trị đích thực. Tư duy này hiện giờ là phổ biến, tuy nhiên cách đáy 18 năm; khi Hãng cà phê Trung Nguyên ra đời; xuất khẩu cà phê thô vẫn là mục tiêu chính. Khi đó, ý tưởng chế biến cà phê của Vũ bị kêu là khùng, chứ chưa nói đến tham vọng chế biến cà phê ngon để xuất khẩu.
… Tuy nhiên trải ngược với những lời bàn tán, ít lâu sau thương hiệu cà phê Trung Nguỵên vượt ra khỏi ranh người Đắk Lắk. Vào năm 1998, với sức công phá mạnh và cuộc đổ bộ rầm rộ đã giúp cà phê Trung Nguyên phủ khắp cắc ngõ ngách của Sài Gòn, tới từng dân nghiền cà phê. Đặng Lê Nguyên Vũ đã tạo ra cách thức để khách hàng tự mình trở thành người sành điệu về cà phê, tự tạo hình ảnh cá nhàn qua sự lựa chọn khác nhau trong từng hương vị của cà phê.
… Năm 2012, Đặng Lê Nguyên Vũ lần đầu tiên được vinh danh là “Vua cà phê” một cách chính thức trên tờ tạp chí uỵ tín National Geographic Traveller và vào tháng 8/2012, Tạp chí Forbes nhắc lại danh hiệu này với lời ca ngợi “zero to hero” – nhân vật từ vô danh thành anh hùng.
(Theo Con đường thành công của “Vua cà phê” Đặng Lê Nguyên Vũ, báo điện tử
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản. (0,5 điểm)
Câu 2. Đoạn (3) giới thiệu cách nghĩ mới lạ nào của ông Đặng Lê Nguyên Vũ? (0,5 điểm)
Câu 4. Từ bài viết trên, anh/chị hãy nhận xét ngắn gọn (trong khoảng 5-7 dòng) về ông Đặng Lê Nguyên Vũ và việc kinh doanh cà phê của ông. (1,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Ngạn ngữ có câu: “Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép ta ước vọng quá nhiều”. Nhà văn Nga M. Pris-vin lại cho rằng: Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải thiết tha hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại. Từ câu chuyện của Đặng Lê Nguyên Vũ và hai câu nói ở trên, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ước mơ và thành công.
Câu 2. (5 điểm)
“Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường”.
(Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011)
Qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên?
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ báo chí. (0,5 điểm)
Câu 2. Đoạn (3) giới thiệu cách nghĩ mới lạ. Đó là chỉ có chế biến mới tạo nên giá trị đích thực. Tư duy này hiện giờ là phổ biến, tuy nhiên, cách đây 18 năm, khi hãng cà phê Trung Nguyên ra đời, xuất khẩu cà phê thô vẫn là mục tiêu chính. (0,5 điểm)
Câu 3. Việc Đặng Lê Nguyên Vũ lần đầu tiên được vinh danh là “Vua cà phê” một cách chính thức trên tờ tạp chí uy tín National Geographic Traveller cho thấy cà phê của Việt Nam xứng đáng có một vị thế vững chắc trên thị trường quốc tế. (0,5 điểm)
Câu 4. Học sinh có thể trình bày ý kiến của bản thân theo nhiều hướng khác nhau. Cần nêu được ý: Ông Đặng Lê Nguyên Vũ và hoạt động kinh doanh cà phê sáng tạo đã góp phần làm phát triển, vinh danh việc sản xuất cà phê trong nước nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. (1,5 điểm)
Đoạn văn mẫu
Ông Đặng Lê Nguyên Vũ và hoạt động kinh doanh cà phê đầy sáng tạo của ông đã góp phần làm phát triển, vinh danh việc sản xuất cà phê trong nước nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Ông thực sự là một người có tâm huyết với việc sản xuất cà phê trong nước. Những ước mơ, suy nghĩ táo bạo của ông làm thay đổi tư duy của nhiều bạn trẻ, động viên họ khởi nghiệp và dấn bước. Thành công của ông cũng giúp thế giới nhận thức đúng hơn về các sản phẩm cà phê Việt Nạm nói riêng và nông nghiệp Việt Nam nói chung.
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
1. Giải thích:
+ Ước mơ: Là những điều ta muốn đạt được trong tương lai.
+ Thành công: Là điều ta đạt được theo đúng những gì mình mong ước.
+ Đặng Lê Nguyên Vũ: Là tấm gương thành công với ước mơ kinh doanh cà phê.
2. Hai câu nói (0,5 điểm):
Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép ta ước vọng quá nhiều.
Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải thiết tha hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại.
3. Bình luận câu nói (1 điểm):
+ Tấm gương và bài học thành công từ ông Đặng Lê Nguyên Vũ.
+ Hai câu danh ngôn đúng hay sai?
+ Lí do đúng (hoặc sai).
4. Bài học rút ra. (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu
Ngạn ngữ có câu: “Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép ta ước vọng quá nhiều”. Câu nói chỉ ra: Vì cuộc đời con người ngắn ngủi nên mỗi người không đủ thời gian thực hiện nhiểu mơ ước, mong muốn, nhất là những mơ ước, mong muốn xa rời thực tế. Song nhà văn Nga M. Pris-yin lại cho rằng: “Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải thiết tha hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại”. Câu nói của nhà văn Nga khuyến khích con người cần mơ ước nhiều hơn, khao khát mãnh liệt hơn để biến những điều mơ ước thành hiện thực. Hai ý kiến tuy trái ngược nhau song đều đưa ra những lời khuyên bổ ích, giúp con người có những định hướng đúng đắn trong cuộc sống vốn dĩ nhiều khó khăn và phức tạp. Nếu không biết mơ ước, không có những ước mơ cao xa, con người không thể vượt lên thực tại để thực hiện những điều tốt đẹp, kì diệu. Tuy nhiên, không phải cứ ước mơ thật nhiều, khát khạo mãnh liệt thì tất cả đều trở thành hiện thực, vì có những ước mơ viển vông, lãng mạn, xa rời thực tế khiến con người dễ bị rơi vào ảo tưởng, thất vọng. Bài học rút ra là cẩn phải có những hành động tích cực để biến ước mơ thành hiện thực, phải nỗ lực hết mình để thành công. Đồng thời, luôn tự tin vào năng lực của bản thân để tránh những biểu hiện của tư tưởng an phận và mơ ước viển vông, xa rời thực tế.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng bài văn với bố cục ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
a) Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, ý kiến trong bài (0,5 điểm)
Qua Sóng, Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Giải thích, bình luận ý kiến (0,5 điểm)
– Ý kiến nêu trên có ý nghĩa khái quát về thơ và con người nữ sĩ Xuân Quỳnh. Những vần thơ đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ: Tình yêu là cái đẹp, cái cao cả; tình yêu là sự hoàn thiện con người.
– Ý kiến còn có ý nghĩa khái quát, thơ Xuân Quỳnh tiêu biểu cho tiếng nói tâm tư, tình cảm của giới mình.
– Đánh giá: Ý kiến trên hoàn toàn xác đáng. Từ ý kiến trên và qua bài thơ Sóng giúp ta nhìn lại tâm hồn mình để sống đẹp trong tình yêu và trong cuộc đời.
2. Phân tích bài thơ để chứng minh ý kiến (3,5 điểm)
– Về nội dung: Bài thơ thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong hạnh phúc đời thường.
+ Tâm hồn phụ nữ có những rung động mãnh liệt, luôn rạo rực đầy khao khát, luôn tìm cách lí giải tâm hồn mình và đi tìm cội nguồn của tình yêu.
+ Tâm hồn phụ nữ hồn hậu, chân thành với tình yêu đắm say, trong sáng và chung thuỷ.
+ Hi vọng vào tình yêu cao cả trước thử thách nghiệt ngã của thời gian và cuộc đời sẽ hoàn thiện mình.
+ Tình yêu không vị kỉ mà đầy trách nhiệm, muốn hoà nhập vào cái chung để dâng hiến trọn vẹn.
– Về nghệ thuật
+ Sử dụng thể thơ năm chữ, âm điệu bằng trắc của những câu thơ thay đổi đan xen nhau, nhịp điệu phù hợp với nhịp điệu vận động của sóng và phù hợp với cảm xúc của nhân vật trữ tình.
+ Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, diễn tả những trạng thái đối lập mà thống nhất của sóng và của tình cảm con người.
+ Hình tượng sóng trong bài thơ thể hiện sinh động và chính xác những cảm xúc và khát vọng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
c) Kết bài
Kết luận chung vẽ bài thơ Sóng, ý kiến trong đề bài và nêu cảm nghĩ (0,5 điểm)
Ý kiến trong đề bài đã nói được đặc sắc của bài Sóng nói riêng và tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu nói chung. Bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng; vừa mãnh liệt, sôi nổi; vừa hồn nhiên, trong sáng; vừa ý nhị, sâu xa.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 21
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 21)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn văn sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Cách nghĩ khác đầu tiên làm thay đổi cuộc đời Đặng Lê Nguyên Vũ có lẽ là quyết định rời bỏ đại học ỵ danh tiếng và chuỵêh sang thu mua cà phê về rang xay, chế biến theo ý mình. Mẹ ông đã khóc ròng vì quyết định này. Nhưng không, Đặng Lê Nguyên Vũ đã quyết bỏ 6 năm học ngành y thay vì biến cuộc đời mình trở nên vô dụng.
Trên chiếc xe đạp cà tàng của mình, ông đến từng đại lý mua mua cà phê để bắt đầu sự nghiệp. Những ý tưởng lớn dần theo những vòng quay đây nhiệt huyết của bánh xe. Nung nấu trong đầu một chàng trai Tây Nguyên này là câu hỏi: “Tại sao Việt Nam, mà chủ yếu là Buôn Ma Thuột – nơi có hạt cà phê vào loại ngon nhất thế giới, xuất khẩu cà phê cũng vào hàng đâu thế giới, nhưng nông dàn vẫn nghèo, nhưng giá trị về vẫn thấp?
Cách nghĩ khắc tiếp theo làm thay đổi sự nghiệp của anh chàng kinh doanh cà phê rang xay đó là chỉ có chế biến mới tạo nên giả trị đích thực. Tư duy này hiện giờ là phổ biến, tuy nhiên cách đáy 18 năm; khi Hãng cà phê Trung Nguyên ra đời; xuất khẩu cà phê thô vẫn là mục tiêu chính. Khi đó, ý tưởng chế biến cà phê của Vũ bị kêu là khùng, chứ chưa nói đến tham vọng chế biến cà phê ngon để xuất khẩu.
… Tuy nhiên trải ngược với những lời bàn tán, ít lâu sau thương hiệu cà phê Trung Nguỵên vượt ra khỏi ranh người Đắk Lắk. Vào năm 1998, với sức công phá mạnh và cuộc đổ bộ rầm rộ đã giúp cà phê Trung Nguyên phủ khắp cắc ngõ ngách của Sài Gòn, tới từng dân nghiền cà phê. Đặng Lê Nguyên Vũ đã tạo ra cách thức để khách hàng tự mình trở thành người sành điệu về cà phê, tự tạo hình ảnh cá nhàn qua sự lựa chọn khác nhau trong từng hương vị của cà phê.
… Năm 2012, Đặng Lê Nguyên Vũ lần đầu tiên được vinh danh là “Vua cà phê” một cách chính thức trên tờ tạp chí uỵ tín National Geographic Traveller và vào tháng 8/2012, Tạp chí Forbes nhắc lại danh hiệu này với lời ca ngợi “zero to hero” – nhân vật từ vô danh thành anh hùng.
(Theo Con đường thành công của “Vua cà phê” Đặng Lê Nguyên Vũ, báo điện tử
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản. (0,5 điểm)
Câu 2. Đoạn (3) giới thiệu cách nghĩ mới lạ nào của ông Đặng Lê Nguyên Vũ? (0,5 điểm)
Câu 4. Từ bài viết trên, anh/chị hãy nhận xét ngắn gọn (trong khoảng 5-7 dòng) về ông Đặng Lê Nguyên Vũ và việc kinh doanh cà phê của ông. (1,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Ngạn ngữ có câu: “Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép ta ước vọng quá nhiều”. Nhà văn Nga M. Pris-vin lại cho rằng: Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải thiết tha hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại. Từ câu chuyện của Đặng Lê Nguyên Vũ và hai câu nói ở trên, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ước mơ và thành công.
Câu 2. (5 điểm)
“Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường”.
(Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011)
Qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên?
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ báo chí. (0,5 điểm)
Câu 2. Đoạn (3) giới thiệu cách nghĩ mới lạ. Đó là chỉ có chế biến mới tạo nên giá trị đích thực. Tư duy này hiện giờ là phổ biến, tuy nhiên, cách đây 18 năm, khi hãng cà phê Trung Nguyên ra đời, xuất khẩu cà phê thô vẫn là mục tiêu chính. (0,5 điểm)
Câu 3. Việc Đặng Lê Nguyên Vũ lần đầu tiên được vinh danh là “Vua cà phê” một cách chính thức trên tờ tạp chí uy tín National Geographic Traveller cho thấy cà phê của Việt Nam xứng đáng có một vị thế vững chắc trên thị trường quốc tế. (0,5 điểm)
Câu 4. Học sinh có thể trình bày ý kiến của bản thân theo nhiều hướng khác nhau. Cần nêu được ý: Ông Đặng Lê Nguyên Vũ và hoạt động kinh doanh cà phê sáng tạo đã góp phần làm phát triển, vinh danh việc sản xuất cà phê trong nước nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. (1,5 điểm)
Đoạn văn mẫu
Ông Đặng Lê Nguyên Vũ và hoạt động kinh doanh cà phê đầy sáng tạo của ông đã góp phần làm phát triển, vinh danh việc sản xuất cà phê trong nước nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Ông thực sự là một người có tâm huyết với việc sản xuất cà phê trong nước. Những ước mơ, suy nghĩ táo bạo của ông làm thay đổi tư duy của nhiều bạn trẻ, động viên họ khởi nghiệp và dấn bước. Thành công của ông cũng giúp thế giới nhận thức đúng hơn về các sản phẩm cà phê Việt Nạm nói riêng và nông nghiệp Việt Nam nói chung.
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
1. Giải thích:
+ Ước mơ: Là những điều ta muốn đạt được trong tương lai.
+ Thành công: Là điều ta đạt được theo đúng những gì mình mong ước.
+ Đặng Lê Nguyên Vũ: Là tấm gương thành công với ước mơ kinh doanh cà phê.
2. Hai câu nói (0,5 điểm):
Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép ta ước vọng quá nhiều.
Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải thiết tha hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại.
3. Bình luận câu nói (1 điểm):
+ Tấm gương và bài học thành công từ ông Đặng Lê Nguyên Vũ.
+ Hai câu danh ngôn đúng hay sai?
+ Lí do đúng (hoặc sai).
4. Bài học rút ra. (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu
Ngạn ngữ có câu: “Cuộc đời ngắn ngủi không cho phép ta ước vọng quá nhiều”. Câu nói chỉ ra: Vì cuộc đời con người ngắn ngủi nên mỗi người không đủ thời gian thực hiện nhiểu mơ ước, mong muốn, nhất là những mơ ước, mong muốn xa rời thực tế. Song nhà văn Nga M. Pris-yin lại cho rằng: “Phải ước mơ nhiều hơn nữa, phải thiết tha hơn nữa để biến tương lai thành hiện tại”. Câu nói của nhà văn Nga khuyến khích con người cần mơ ước nhiều hơn, khao khát mãnh liệt hơn để biến những điều mơ ước thành hiện thực. Hai ý kiến tuy trái ngược nhau song đều đưa ra những lời khuyên bổ ích, giúp con người có những định hướng đúng đắn trong cuộc sống vốn dĩ nhiều khó khăn và phức tạp. Nếu không biết mơ ước, không có những ước mơ cao xa, con người không thể vượt lên thực tại để thực hiện những điều tốt đẹp, kì diệu. Tuy nhiên, không phải cứ ước mơ thật nhiều, khát khạo mãnh liệt thì tất cả đều trở thành hiện thực, vì có những ước mơ viển vông, lãng mạn, xa rời thực tế khiến con người dễ bị rơi vào ảo tưởng, thất vọng. Bài học rút ra là cẩn phải có những hành động tích cực để biến ước mơ thành hiện thực, phải nỗ lực hết mình để thành công. Đồng thời, luôn tự tin vào năng lực của bản thân để tránh những biểu hiện của tư tưởng an phận và mơ ước viển vông, xa rời thực tế.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng bài văn với bố cục ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
a) Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, ý kiến trong bài (0,5 điểm)
Qua Sóng, Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Giải thích, bình luận ý kiến (0,5 điểm)
– Ý kiến nêu trên có ý nghĩa khái quát về thơ và con người nữ sĩ Xuân Quỳnh. Những vần thơ đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ: Tình yêu là cái đẹp, cái cao cả; tình yêu là sự hoàn thiện con người.
– Ý kiến còn có ý nghĩa khái quát, thơ Xuân Quỳnh tiêu biểu cho tiếng nói tâm tư, tình cảm của giới mình.
– Đánh giá: Ý kiến trên hoàn toàn xác đáng. Từ ý kiến trên và qua bài thơ Sóng giúp ta nhìn lại tâm hồn mình để sống đẹp trong tình yêu và trong cuộc đời.
2. Phân tích bài thơ để chứng minh ý kiến (3,5 điểm)
– Về nội dung: Bài thơ thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong hạnh phúc đời thường.
+ Tâm hồn phụ nữ có những rung động mãnh liệt, luôn rạo rực đầy khao khát, luôn tìm cách lí giải tâm hồn mình và đi tìm cội nguồn của tình yêu.
+ Tâm hồn phụ nữ hồn hậu, chân thành với tình yêu đắm say, trong sáng và chung thuỷ.
+ Hi vọng vào tình yêu cao cả trước thử thách nghiệt ngã của thời gian và cuộc đời sẽ hoàn thiện mình.
+ Tình yêu không vị kỉ mà đầy trách nhiệm, muốn hoà nhập vào cái chung để dâng hiến trọn vẹn.
– Về nghệ thuật
+ Sử dụng thể thơ năm chữ, âm điệu bằng trắc của những câu thơ thay đổi đan xen nhau, nhịp điệu phù hợp với nhịp điệu vận động của sóng và phù hợp với cảm xúc của nhân vật trữ tình.
+ Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, diễn tả những trạng thái đối lập mà thống nhất của sóng và của tình cảm con người.
+ Hình tượng sóng trong bài thơ thể hiện sinh động và chính xác những cảm xúc và khát vọng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
c) Kết bài
Kết luận chung vẽ bài thơ Sóng, ý kiến trong đề bài và nêu cảm nghĩ (0,5 điểm)
Ý kiến trong đề bài đã nói được đặc sắc của bài Sóng nói riêng và tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu nói chung. Bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng; vừa mãnh liệt, sôi nổi; vừa hồn nhiên, trong sáng; vừa ý nhị, sâu xa.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 22
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 22)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc câu truyện sau đây và trả lời câu hỏi bên dưới:
HAI HẠT GIỐNG
Có hai hạt thóc nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đểu là những hạt giống tốt, đểu to khoẻ và chắc mẩy.
Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm “Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ”. Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.
Còn hạt thóc thứ hai thi ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.
Thời gian trôi qua, hạt thóc thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà vì nó chẳng được nhận nước và ánh sáng. Lúc này, chất dinh dưỡng chẳng giúp ích gì được cho nó cả. Nó chết dần chết mòn. Trong khi đó hạt thóc thử hai dù nát tan trong đất nhưng […]
(Theo Hành trang vào đời, NXB Lao động – Xã hội)
Câu 1. Chỉ ra phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên. (1 điểm)
Câu 2. Nêu rõ hai phép tu từ được sử dụng trong những câu văn sau: “Còn hạt thóc thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.” (1 điểm)
Câu 3. Đặt một tiêu đề khác cho câu chuyện này. (0,5 điểm)
Câu 4. Anh/Chị hãy viết tiếp câu cuối, vào dấu [… ] ở cuối đoạn văn để kết thúc câu chuyện. (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị sau khi đọc xong câu chuyện trên.
Câu 2. (5 điểm)
Nêu cảm nhận của anh/chị vể ý thức phản kháng đối với số phận của nhân yật Mị trong đoạn trích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. (Ngữ văn 12, Tập hai)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
Câu 1.(1 điểm)
– Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
– Phương thức biểu đạt chính trong đoạn thơ trên là tự sự.
Câu 2. (1 điểm)
– Phép tu từ ẩn dụ: Hạt thóc giống chỉ những con người sống trên đời. Thái độ vui mừng của hạt thóc khi được gieo xuống đất biểu tượng cho hạnh phúc được cống hiến của con người.
– Phép tu từ nhân hoá: Nhân hoá hạt thóc tạo sự thú vị cho câu chuyện và từ hạt thóc mà nói tới suy nghĩ của con người.
Câu 3. (0,5 điểm)
Các tiêu đề khác: Thái độ sống của con người, Hai thái độ sống, ích kỉ và cống hiến,…
Câu 4. (0,5 điểm)
Những từ phù hợp để viết tiếp vào đoạn kết: “Trong khi đó, hạt thóc thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trìu hạt.”
II. LÀM VĂN (7 ĐIẾM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Giải thích câu chuyện: (0,5 điểm)
+ Hai hạt lúa đại diện cho hai quan niệm, hai lối sống trái chiều nhau.
+ Nội dung câu chuyện thể hiện quy luật cho và nhận trong cuộc sống.
– Bình luận tư tưởng trong câu chuyện (1 điểm):
+ Tư tưởng trong câu chuyện đúng hay sai?
+ Lí do đúng (hoặc sai).
– Bài học rút ra. (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu
Hai hạt lúa đại diện cho hai quan niệm, hai lối sống trái chiều nhau: một bên luôn sẵn sàng cho đi, một bên ích kỉ chỉ biết giữ lại những điểu tốt đẹp cho bản thân mình. Hạt giống thứ nhất chỉ khư khư tìm một nơi trú ngụ là đại diện cho lối sống ích kỉ. Còn hạt giống thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất là đại diện cho lối sống sẵn sàng cho đi. Hạt lúa thứ nhất muốn giữ lại chất dinh dưỡng cho riêng mình trong một hình hài nguyên vẹn tuy không nát tan trong đất nhưng lại tự huỷ hoại và bị tuyệt diệt. Hạt giống thứ hai tưởng rằng đã tan nát trong đất nhưng lại được hồi sinh thành những bông lúa vàng trĩu hạt. Sự tan biến và nảy nở của hai hạt giống là kết quả của việc cho và nhận. Cho đi không có nghĩa là mất, giữ lại không có nghĩa là được. Hãy sẵn sàng dâng hiến cho cuộc đời những gì tốt đẹp mà ta có. Hãy can đảm bước ra đi, âm thâm chịu nát tan để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, ý thức phản kháng đối với số phận của nhân vật Mị (0,5 điểm)
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đồ sộ. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Ý thức phản kháng đối với số phận: Mị không chấp nhận sự an bài, những khó khăn của cuộc đời, tìm một hướng đi khác tốt đẹp hơn cho bản thân mình, hiểu và phê phán thế lực chà đạp cuộc đời của mình,… (0,5 điểm)
2. Ý thức phản kháng đối với số phận của nhân vật Mị (3 điểm)
– Thời chưa làm dâu nhà thống lí
Tuy phải gánh món nợ cho cha mẹ song Mị không chịu lấy con trai thống lí để trả nợ mà vẫn xin cha cho tự lao động kiếm tiền trả nợ cho bố mẹ.
– Khi phải làm dâu nhà thống lí
+ Bị bắt về nhà Thống lí, Mị định tự tử. Việc Mị tìm đến cái diết thể hiện tinh thần phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy.
+ Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc trong đêm tình mùa xuân.
+) Dấu hiệu đấu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: “Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”.
+) Những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”.
+) Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
+) Khi bị A Sử trói vào cột, Mị vẫn trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bổng bềnh trong cảm giác du xuân.
– Đêm đông cởi trói cho A Phủ
+ Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ.
+ Cuối cùng, sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi.
3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm qua ý thức phản kháng đối với số phận của nhân vật Mị (0,5 điểm)
– Ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
– Giải phóng con người khỏi sự chà đạp, cho họ một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Nhà văn đã tin tưởng vào sức mạnh quật khởi, tinh thần đấu tranh để tự giải phóng của họ.
c) Kết bài
Kết luận chung về ý thức phản kháng đối với số phận của nhân vật Mị và nêu cảm nghĩ (0,5 điểm)
Vợ chồng A Phủ đã khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị. Từ đó, tác phẩm tố cáo những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức, bóc lột, đoạ đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác phẩm cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 22
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 22)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc câu truyện sau đây và trả lời câu hỏi bên dưới:
HAI HẠT GIỐNG
Có hai hạt thóc nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đểu là những hạt giống tốt, đểu to khoẻ và chắc mẩy.
Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm “Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ”. Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.
Còn hạt thóc thứ hai thi ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.
Thời gian trôi qua, hạt thóc thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà vì nó chẳng được nhận nước và ánh sáng. Lúc này, chất dinh dưỡng chẳng giúp ích gì được cho nó cả. Nó chết dần chết mòn. Trong khi đó hạt thóc thử hai dù nát tan trong đất nhưng […]
(Theo Hành trang vào đời, NXB Lao động – Xã hội)
Câu 1. Chỉ ra phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên. (1 điểm)
Câu 2. Nêu rõ hai phép tu từ được sử dụng trong những câu văn sau: “Còn hạt thóc thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.” (1 điểm)
Câu 3. Đặt một tiêu đề khác cho câu chuyện này. (0,5 điểm)
Câu 4. Anh/Chị hãy viết tiếp câu cuối, vào dấu [… ] ở cuối đoạn văn để kết thúc câu chuyện. (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị sau khi đọc xong câu chuyện trên.
Câu 2. (5 điểm)
Nêu cảm nhận của anh/chị vể ý thức phản kháng đối với số phận của nhân yật Mị trong đoạn trích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. (Ngữ văn 12, Tập hai)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
Câu 1.(1 điểm)
– Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
– Phương thức biểu đạt chính trong đoạn thơ trên là tự sự.
Câu 2. (1 điểm)
– Phép tu từ ẩn dụ: Hạt thóc giống chỉ những con người sống trên đời. Thái độ vui mừng của hạt thóc khi được gieo xuống đất biểu tượng cho hạnh phúc được cống hiến của con người.
– Phép tu từ nhân hoá: Nhân hoá hạt thóc tạo sự thú vị cho câu chuyện và từ hạt thóc mà nói tới suy nghĩ của con người.
Câu 3. (0,5 điểm)
Các tiêu đề khác: Thái độ sống của con người, Hai thái độ sống, ích kỉ và cống hiến,…
Câu 4. (0,5 điểm)
Những từ phù hợp để viết tiếp vào đoạn kết: “Trong khi đó, hạt thóc thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trìu hạt.”
II. LÀM VĂN (7 ĐIẾM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Giải thích câu chuyện: (0,5 điểm)
+ Hai hạt lúa đại diện cho hai quan niệm, hai lối sống trái chiều nhau.
+ Nội dung câu chuyện thể hiện quy luật cho và nhận trong cuộc sống.
– Bình luận tư tưởng trong câu chuyện (1 điểm):
+ Tư tưởng trong câu chuyện đúng hay sai?
+ Lí do đúng (hoặc sai).
– Bài học rút ra. (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu
Hai hạt lúa đại diện cho hai quan niệm, hai lối sống trái chiều nhau: một bên luôn sẵn sàng cho đi, một bên ích kỉ chỉ biết giữ lại những điểu tốt đẹp cho bản thân mình. Hạt giống thứ nhất chỉ khư khư tìm một nơi trú ngụ là đại diện cho lối sống ích kỉ. Còn hạt giống thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất là đại diện cho lối sống sẵn sàng cho đi. Hạt lúa thứ nhất muốn giữ lại chất dinh dưỡng cho riêng mình trong một hình hài nguyên vẹn tuy không nát tan trong đất nhưng lại tự huỷ hoại và bị tuyệt diệt. Hạt giống thứ hai tưởng rằng đã tan nát trong đất nhưng lại được hồi sinh thành những bông lúa vàng trĩu hạt. Sự tan biến và nảy nở của hai hạt giống là kết quả của việc cho và nhận. Cho đi không có nghĩa là mất, giữ lại không có nghĩa là được. Hãy sẵn sàng dâng hiến cho cuộc đời những gì tốt đẹp mà ta có. Hãy can đảm bước ra đi, âm thâm chịu nát tan để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, ý thức phản kháng đối với số phận của nhân vật Mị (0,5 điểm)
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đồ sộ. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Ý thức phản kháng đối với số phận: Mị không chấp nhận sự an bài, những khó khăn của cuộc đời, tìm một hướng đi khác tốt đẹp hơn cho bản thân mình, hiểu và phê phán thế lực chà đạp cuộc đời của mình,… (0,5 điểm)
2. Ý thức phản kháng đối với số phận của nhân vật Mị (3 điểm)
– Thời chưa làm dâu nhà thống lí
Tuy phải gánh món nợ cho cha mẹ song Mị không chịu lấy con trai thống lí để trả nợ mà vẫn xin cha cho tự lao động kiếm tiền trả nợ cho bố mẹ.
– Khi phải làm dâu nhà thống lí
+ Bị bắt về nhà Thống lí, Mị định tự tử. Việc Mị tìm đến cái diết thể hiện tinh thần phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy.
+ Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc trong đêm tình mùa xuân.
+) Dấu hiệu đấu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: “Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”.
+) Những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”.
+) Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
+) Khi bị A Sử trói vào cột, Mị vẫn trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bổng bềnh trong cảm giác du xuân.
– Đêm đông cởi trói cho A Phủ
+ Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ.
+ Cuối cùng, sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi.
3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm qua ý thức phản kháng đối với số phận của nhân vật Mị (0,5 điểm)
– Ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
– Giải phóng con người khỏi sự chà đạp, cho họ một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Nhà văn đã tin tưởng vào sức mạnh quật khởi, tinh thần đấu tranh để tự giải phóng của họ.
c) Kết bài
Kết luận chung về ý thức phản kháng đối với số phận của nhân vật Mị và nêu cảm nghĩ (0,5 điểm)
Vợ chồng A Phủ đã khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị. Từ đó, tác phẩm tố cáo những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức, bóc lột, đoạ đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác phẩm cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 23
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 23)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Chưa bao giờ cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này. Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kiết (kết tụ lại) cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cải tâm sự không tiết ra được. Nó là nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống thở than của một cảnh ngộ tri ấm… Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó Là cái dư ba của bể chiều đứt chán sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cỡ cuối thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tuỷ. Nó là cải lả lay nhào lìa của lá bỏ cành… Nó là cái oan uổng nghìn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khổn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím.
(Trích Chùa đàn – Nguyễn Tuân)
Câu 1. Đoạn văn được trần thuật theo ngôi thứ mấy? (0,5 điểm)
Câu 2. Trong đoạn, tác giả sử dụng nhiều câu văn dài hay ngắn? Vi sao tác giả sử dụng như vậy? (0,5 điểm)
Câu 3. Nêu biện pháp tu từ chủ yếu được tác giả sử dụng trong đoạn văn dưới đây và nêu tác dụng của biện pháp tu từ ấy. (1,5 điểm)
Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào khống gian. Nó nghẹn ngào, liễm kiết (kết tụ lại) cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết ra được.
Câu 4. Nêu câu văn thâu tóm chủ đề của đoạn trích. (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Từ đoạn trích trên, anh/chị hãy viết thành một đoạn văn khoảng 200 từ nói lên vai trò của nghệ thuật với cuộc sống con người.
Câu 2. (5 điểm)
Vẽ hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca (Thanh Thảo), có ý kiến cho rằng: Tiếng đàn là thân phận Lorca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: Tiếng đàn là vẻ đẹp tâm hổn, là sức sống bất diệt của nghệ thuật Lorca.
Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh/chị hãy bình luận về hai ý kiến trên.
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Đoạn văn được viết theo ngôi thứ ba kết hợp với ngôi thứ nhất (tác giả và nhân vật cùng kể).
Lí do: Miêu tả những cung bậc khác nhau dồn dập vang tới của tiếng đàn và những cảm xúc say mê của người nghe.
Câu 3.
– Biện pháp tu từ chủ yếu được tác giả sử dụng trong việc miêu tả tiếng đàn:
+ Nhân hoá: “Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian”.
+ Điệp từ, điệp cấu trúc: “Nó nghẹn ngào, liễm kiết (kết tụ lại) cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết ra được.”.
– Tác dụng: Nhằm thể hiện âm thanh tiếng đàn như tiếng lòng của một cá thể có tâm trạng, nỗi niềm đau khổ… Đồng thời, giúp cho đoạn văn giàu hình ảnh, nhạc điệu, sinh động, hấp dẫn hơn trong việc đặc tả các cung bậc tiếng đàn.
Câu 4. Câu văn thâu tóm chủ đề của đoạn trích: “Chưa bao giờ cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này.”
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Giải thích nghệ thụật là gì? (0,5 điểm)
– Bình luận vể vai trò của nghệ thuật với cuộc sống con người. (1 điểm)
Đoạn văn mẫu
Nghệ thuật gồm những hoạt động, bộ môn tạo ra cái đẹp cho cuộc sống. Nó bao gồm: âm nhạc, hội hoạ, sân khấu, văn học, điện ảnh… Nghệ thuật có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhân loại. Nghệ thuật vốn là bộ môn của cái đẹp, do vậy, nó bảo lưu, gìn giữ, phát triển cái đẹp cho mọi người cùng chiêm ngưỡng. Chúng đem lại sự thoải mái, vui vẻ, hoá giải được những phiền não, căng thẳng. Thứ ba, vai trò của nghệ thuật thể hiện ở phương diện giáo dục. Nghệ thuật khiến mọi người sống nhân đạo hơn. Nó bồi dưỡng các cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mĩ và lí tưởng thẩm mĩ. Xây dựng những tình cảm lành mạnh, trong sáng, mạnh mẽ để con người có thể phân biệt rạch ròi giữa cái cũ – cái mới, giữa cái xấu – cái đẹp, là công việc trọng tâm của giáo dục thẩm mĩ. Nó làm phong phú thêm thế giới nội tâm của chúng ta, khiến ta thấy yêu đời và muốn sống tốt hơn. Nghệ thuật thật tuyệt vời, do vậy, chúng ta cần trân trọng những tác phẩm nghệ thuật và những người tạo ra nó.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
Yêu cầu vê nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu vê tác giả, tác phẩm, nêu ý kiến trong bài (0,5 điểm)
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Thanh Thảo luôn tìm tòi khám phá sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Đàn ghi-ta của Lorca là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy sáng tạo ấy.
– Giới thiệu ý kiến: Tiếng đàn là thân phận Lorca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: Tiếng đàn là vẻ đẹp tâm hồn, là sức sống bất diệt của nghệ thuật Lorca.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Giải thích, bình luận ý kiến (1 điểm)
– Ý kiến thứ nhất: Tiếng đàn là thân phận Lorca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị. Ý kiến nói về việc tiếng đàn thành biểu trưng cho số phận đầy bi kịch của Lorca, đồng thời nói lên thực trạng xã hội Tây Ban Nha rên xiết dưới ách phát xít.
– Ý kiến thứ hai: Tiếng đàn là vẻ đẹp tâm hổn, là sức sống bất diệt của nghệ thuật Lorca. Ý kiến thứ hai khẳng định tiếng đàn là biểu trưng cho tài năng nghệ thuật, ước mong tranh đấu và khát vọng cách tân nghệ thuật của Lorca. Tuy Lorca mất, song di sản nghệ thuật của Lorca vẫn còn mãi.
– Cả hai ý kiến đều đúng. Nó đã nêu được ý nghĩa biểu trưng của tiếng đàn trong bài.
2. Chứng minh qua bài Đàn ghi-ta của Lorca (3 điểm)
– Tiếng đàn là thân phận Lor-ca, cũng là thần phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị (1 điểm)
+ Tiếng ghi-ta “bọt nước”: Đây là liên tưởng đầu tiên về tiếng đàn của Lorca và cũng là một liên tưởng lạ lùng, độc đáo, gợi nhiều ám ảnh. Đặc biệt là khi đặt nó trong mối quan hệ với cuộc đời của Lorca: rất ngắn ngủi (chết khi mới 38 tuổi) và rất đau thương (khi chưa hoàn thành khát vọng đấu tranh và chưa đi hết con đường sáng tạo nghệ thuật, bị bắt, bắn chết rồi bị ném xác xuống giếng để phi tang). Trong liên tưởng của Thanh Thảo, hình ảnh Lorca và tiếng đàn Lorca đã nhập vào bọt nước, hiện diện thành bọt nước, mong manh và ám ảnh như bọt nước.
+ “Tiếng ghi-ta ròng ròng mảu chảy”- là sự sống ở dạng tồn tại đau thương và bi tráng nhất. Âm thanh tiếng ghi-ta là giai điệu, là sự sống của tâm hồn. Máu chảy ròng ròng lại gợi sự tàn bạo và vết thương đau đớn, gợi sự sống đang bị huỷ diệt tàn bạo nhất.
+ “tiếng ghi-ta nâu/bầu trời cô gái ấy”: “nâu” có thể là màu của vỏ đàn, màu của đất đai quê hương hay màu da cô gái Lorca yêu. Song khi gắn với “bầu trời cô gái ấy” thì “tiếng ghi-ta nâu” đã là âm vang và màu sắc của tình yêu, tiếng ghi-ta đã chứa đựng trong nó thế giới của những rung động tình yêu say mê đắm đuối. Lạ là ở chỗ âm thanh tiếng ghi-ta lại mở ra một khoảng trời, một phần đời sống riêng tư với tình yêu dành cho “cô gái ấy” nghĩa là nó chứa đựng cái phần cuộc sống riêng tư mà cũng rạo rực say mê.
+ “tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy”: “lá xanh” là thiên nhiên tươi tắn, là cỏ cây với cuộc sống tự nhiên; “lá xanh biết mấy” đã là sắc xanh làm xao xuyến cả tâm hồn. “Tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy” là tỉếng ghi-ta mang màu xanh của sự sống và niềm thiết tha khắc khoải với sự sống.
+ “không ai chôn cất tiếng đàn/tiếng đàn như cỏ mọc hoang”: tiếng đàn không chết, tinh thần G. Lorca không mất đi, mà đã làm một cuộc hoá thân vĩ đại vào thiên nhiên. “Cỏ mọc hoang” vừa gợi sức sống mãnh liệt, hoang dại, sức lan tỏa không gì ngăn cản được, vừa là chứng nhân, vừa là một tri âm với người lãng tử trong khúc du ca.
+ chuỗi điệp âm “li-la li-la li-la” như một chuỗi âm buông do người đệm đàn lướt qua hàng dây – những âm thanh ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Ở vị trí mở đẩu và kết thúc bài thơ, chuỗi âm thanh này góp phần hoàn tất hình tượng tiếng đàn như một sự sống mãnh liệt mà mơ hồ, kiêu bạc và lãng đãng, ngân vang da diết mà lặng lẽ để gợi mở những cảm nhận, hình dung, thậm chí là những ám ảnh về một hình tượng khác – hoàn chỉnh yà trọn vẹn hơn – hình tượng Lorca.
c) Kết bài
Kết luận chung về tiếng đàn, về các ý kiến và nêu cảm nhận chung (0,5 điểm)
Hình tượng tiếng đàn trong tác phẩm Đàn ghi-ta của Lorca là một biểu tượng cho nghệ thuật, biểu tượng tinh thần bất khuất của Lorca được nổi bật lên trong tác phẩm. Qua tiếng đàn, nhà thơ đã mang đến cho người đọc một tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân chống phát-xít bạo tàn.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 23
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 23)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Chưa bao giờ cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này. Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào, liễm kiết (kết tụ lại) cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cải tâm sự không tiết ra được. Nó là nỗi ủ kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống thở than của một cảnh ngộ tri ấm… Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó Là cái dư ba của bể chiều đứt chán sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cỡ cuối thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tuỷ. Nó là cải lả lay nhào lìa của lá bỏ cành… Nó là cái oan uổng nghìn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khổn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím.
(Trích Chùa đàn – Nguyễn Tuân)
Câu 1. Đoạn văn được trần thuật theo ngôi thứ mấy? (0,5 điểm)
Câu 2. Trong đoạn, tác giả sử dụng nhiều câu văn dài hay ngắn? Vi sao tác giả sử dụng như vậy? (0,5 điểm)
Câu 3. Nêu biện pháp tu từ chủ yếu được tác giả sử dụng trong đoạn văn dưới đây và nêu tác dụng của biện pháp tu từ ấy. (1,5 điểm)
Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào khống gian. Nó nghẹn ngào, liễm kiết (kết tụ lại) cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết ra được.
Câu 4. Nêu câu văn thâu tóm chủ đề của đoạn trích. (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Từ đoạn trích trên, anh/chị hãy viết thành một đoạn văn khoảng 200 từ nói lên vai trò của nghệ thuật với cuộc sống con người.
Câu 2. (5 điểm)
Vẽ hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca (Thanh Thảo), có ý kiến cho rằng: Tiếng đàn là thân phận Lorca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: Tiếng đàn là vẻ đẹp tâm hổn, là sức sống bất diệt của nghệ thuật Lorca.
Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh/chị hãy bình luận về hai ý kiến trên.
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Đoạn văn được viết theo ngôi thứ ba kết hợp với ngôi thứ nhất (tác giả và nhân vật cùng kể).
Lí do: Miêu tả những cung bậc khác nhau dồn dập vang tới của tiếng đàn và những cảm xúc say mê của người nghe.
Câu 3.
– Biện pháp tu từ chủ yếu được tác giả sử dụng trong việc miêu tả tiếng đàn:
+ Nhân hoá: “Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian”.
+ Điệp từ, điệp cấu trúc: “Nó nghẹn ngào, liễm kiết (kết tụ lại) cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết ra được.”.
– Tác dụng: Nhằm thể hiện âm thanh tiếng đàn như tiếng lòng của một cá thể có tâm trạng, nỗi niềm đau khổ… Đồng thời, giúp cho đoạn văn giàu hình ảnh, nhạc điệu, sinh động, hấp dẫn hơn trong việc đặc tả các cung bậc tiếng đàn.
Câu 4. Câu văn thâu tóm chủ đề của đoạn trích: “Chưa bao giờ cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này.”
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Giải thích nghệ thụật là gì? (0,5 điểm)
– Bình luận vể vai trò của nghệ thuật với cuộc sống con người. (1 điểm)
Đoạn văn mẫu
Nghệ thuật gồm những hoạt động, bộ môn tạo ra cái đẹp cho cuộc sống. Nó bao gồm: âm nhạc, hội hoạ, sân khấu, văn học, điện ảnh… Nghệ thuật có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhân loại. Nghệ thuật vốn là bộ môn của cái đẹp, do vậy, nó bảo lưu, gìn giữ, phát triển cái đẹp cho mọi người cùng chiêm ngưỡng. Chúng đem lại sự thoải mái, vui vẻ, hoá giải được những phiền não, căng thẳng. Thứ ba, vai trò của nghệ thuật thể hiện ở phương diện giáo dục. Nghệ thuật khiến mọi người sống nhân đạo hơn. Nó bồi dưỡng các cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mĩ và lí tưởng thẩm mĩ. Xây dựng những tình cảm lành mạnh, trong sáng, mạnh mẽ để con người có thể phân biệt rạch ròi giữa cái cũ – cái mới, giữa cái xấu – cái đẹp, là công việc trọng tâm của giáo dục thẩm mĩ. Nó làm phong phú thêm thế giới nội tâm của chúng ta, khiến ta thấy yêu đời và muốn sống tốt hơn. Nghệ thuật thật tuyệt vời, do vậy, chúng ta cần trân trọng những tác phẩm nghệ thuật và những người tạo ra nó.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
Yêu cầu vê nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu vê tác giả, tác phẩm, nêu ý kiến trong bài (0,5 điểm)
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Thanh Thảo luôn tìm tòi khám phá sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Đàn ghi-ta của Lorca là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy sáng tạo ấy.
– Giới thiệu ý kiến: Tiếng đàn là thân phận Lorca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: Tiếng đàn là vẻ đẹp tâm hồn, là sức sống bất diệt của nghệ thuật Lorca.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Giải thích, bình luận ý kiến (1 điểm)
– Ý kiến thứ nhất: Tiếng đàn là thân phận Lorca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị. Ý kiến nói về việc tiếng đàn thành biểu trưng cho số phận đầy bi kịch của Lorca, đồng thời nói lên thực trạng xã hội Tây Ban Nha rên xiết dưới ách phát xít.
– Ý kiến thứ hai: Tiếng đàn là vẻ đẹp tâm hổn, là sức sống bất diệt của nghệ thuật Lorca. Ý kiến thứ hai khẳng định tiếng đàn là biểu trưng cho tài năng nghệ thuật, ước mong tranh đấu và khát vọng cách tân nghệ thuật của Lorca. Tuy Lorca mất, song di sản nghệ thuật của Lorca vẫn còn mãi.
– Cả hai ý kiến đều đúng. Nó đã nêu được ý nghĩa biểu trưng của tiếng đàn trong bài.
2. Chứng minh qua bài Đàn ghi-ta của Lorca (3 điểm)
– Tiếng đàn là thân phận Lor-ca, cũng là thần phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác ngự trị (1 điểm)
+ Tiếng ghi-ta “bọt nước”: Đây là liên tưởng đầu tiên về tiếng đàn của Lorca và cũng là một liên tưởng lạ lùng, độc đáo, gợi nhiều ám ảnh. Đặc biệt là khi đặt nó trong mối quan hệ với cuộc đời của Lorca: rất ngắn ngủi (chết khi mới 38 tuổi) và rất đau thương (khi chưa hoàn thành khát vọng đấu tranh và chưa đi hết con đường sáng tạo nghệ thuật, bị bắt, bắn chết rồi bị ném xác xuống giếng để phi tang). Trong liên tưởng của Thanh Thảo, hình ảnh Lorca và tiếng đàn Lorca đã nhập vào bọt nước, hiện diện thành bọt nước, mong manh và ám ảnh như bọt nước.
+ “Tiếng ghi-ta ròng ròng mảu chảy”- là sự sống ở dạng tồn tại đau thương và bi tráng nhất. Âm thanh tiếng ghi-ta là giai điệu, là sự sống của tâm hồn. Máu chảy ròng ròng lại gợi sự tàn bạo và vết thương đau đớn, gợi sự sống đang bị huỷ diệt tàn bạo nhất.
+ “tiếng ghi-ta nâu/bầu trời cô gái ấy”: “nâu” có thể là màu của vỏ đàn, màu của đất đai quê hương hay màu da cô gái Lorca yêu. Song khi gắn với “bầu trời cô gái ấy” thì “tiếng ghi-ta nâu” đã là âm vang và màu sắc của tình yêu, tiếng ghi-ta đã chứa đựng trong nó thế giới của những rung động tình yêu say mê đắm đuối. Lạ là ở chỗ âm thanh tiếng ghi-ta lại mở ra một khoảng trời, một phần đời sống riêng tư với tình yêu dành cho “cô gái ấy” nghĩa là nó chứa đựng cái phần cuộc sống riêng tư mà cũng rạo rực say mê.
+ “tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy”: “lá xanh” là thiên nhiên tươi tắn, là cỏ cây với cuộc sống tự nhiên; “lá xanh biết mấy” đã là sắc xanh làm xao xuyến cả tâm hồn. “Tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy” là tỉếng ghi-ta mang màu xanh của sự sống và niềm thiết tha khắc khoải với sự sống.
+ “không ai chôn cất tiếng đàn/tiếng đàn như cỏ mọc hoang”: tiếng đàn không chết, tinh thần G. Lorca không mất đi, mà đã làm một cuộc hoá thân vĩ đại vào thiên nhiên. “Cỏ mọc hoang” vừa gợi sức sống mãnh liệt, hoang dại, sức lan tỏa không gì ngăn cản được, vừa là chứng nhân, vừa là một tri âm với người lãng tử trong khúc du ca.
+ chuỗi điệp âm “li-la li-la li-la” như một chuỗi âm buông do người đệm đàn lướt qua hàng dây – những âm thanh ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Ở vị trí mở đẩu và kết thúc bài thơ, chuỗi âm thanh này góp phần hoàn tất hình tượng tiếng đàn như một sự sống mãnh liệt mà mơ hồ, kiêu bạc và lãng đãng, ngân vang da diết mà lặng lẽ để gợi mở những cảm nhận, hình dung, thậm chí là những ám ảnh về một hình tượng khác – hoàn chỉnh yà trọn vẹn hơn – hình tượng Lorca.
c) Kết bài
Kết luận chung về tiếng đàn, về các ý kiến và nêu cảm nhận chung (0,5 điểm)
Hình tượng tiếng đàn trong tác phẩm Đàn ghi-ta của Lorca là một biểu tượng cho nghệ thuật, biểu tượng tinh thần bất khuất của Lorca được nổi bật lên trong tác phẩm. Qua tiếng đàn, nhà thơ đã mang đến cho người đọc một tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân chống phát-xít bạo tàn.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 24
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 24)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau đây và trả lời câu hỏi:
Cuộc đời ai cũng có những tấm bằng
Để làm giấy chứng minh
Để cầu mong thành đạt
Những tấm bằng như những bảng chỉ đường qua những đường phố hẹp
Để đến đại lộ cuộc đời ngày càng mở rộng thêm
Có những vĩ nhân được nhân loại khắc tên
Bởi các tấm bằng xứng danh trong lịch sử
Và có những tấm bằng chứng nhận những việc làm tuy nhỏ
Nhưng cố gắng hết mình, vẫn quý trọng biết bao!
(Trích Tấm bằng, Hoàng Ngọc Quý)
Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Câu thơ số 4 sử dụng biện pháp tu từ gì? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ ấy. (0,5 điểm)
Câu 3. Từ bốn câu thơ cuối, anh/chị hãy lí giải ý nghĩa nhan đề bài thơ. (1 điểm)
Câu 4. Bài thơ gửi đến cho anh/chị thông điệp gì? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIẾM)
Câu 1. (2 điểm)
Anh/Chị hãy viết một đoạn văn ngắn, khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của mình về việc học chỉ vì điểm trong một số bộ phận học sinh hiện nay.
Câu 2. (5 điểm)
Đặt bên cạnh những truyện ngắn viết trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ như Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi thì Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu có sự đổi mới gì về đề tài, nhân vật, điểm nhìn trần thuật?
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIỀM)
Câu 1. Thể thơ tự do. (0,5 điểm)
Câu 2. Câu thơ số 4 sử dụng biện pháp so sánh: so sánh những tấm bằng với những bảng chỉ đường qua những đường phố hẹp
– Tác dụng: Biện pháp so sánh làm rõ tác dụng của những tấm bằng. Tấm bằng sẽ mở ra những cơ hội của cuộc đời, giúp chúng ta sống và làm việc dễ dàng hơn. (0,5 điểm)
Câu 3. Ý nghĩa nhan đề bài thơ: Hiểu theo nghĩa đen, tấm bằng chỉ là một tờ giấy chứng nhận công sức của bản thân chúng ta trong việc vượt qua, đạt được một mục tiêu học tập, lao động nào đó. Nó thường được một tổ chức chứng nhận. Nhưng theo nghĩa bóng, tấm bằng chỉ sự thành công của chúng ta trong việc hoàn thành các mục tiêu, vượt qua các khó khăn. Do vậy, có thể có những bằng cấp cao, vinh dự do các tổ chức chứng nhận; song cũng có những tấm bằng chứng nhận những việc làm tuy nhỏ: lòng nhân ái của ta với người khác, sự nỗ lực vượt khó của bản thân… Nó có thể không được in ra thành giấy để trao tặng nhưng trong mắt mọi người xung quanh, nó xứng đáng là tấm bằng và vẫn là một thứ đáng quý trọng. (1 điểm)
Những tấm bằng rất đáng quý, vì nó là sự chứng nhận cho công sức học tập, lao động của chúng ta và được cả xã hội vinh danh. Tuy nhiên, cũng có những việc làm nhỏ bé xứng đáng được “trao bằng” vì nó cao cả, xứng đáng được trân trọng. Những tấm bằng ấy là sự công nhận của mọi người xung quanh với những việc làm tốt đẹp của chúng ta. Từ đó, là động lực để ta nỗ lực phấn đấu đạt những danh hiệu cao quý. Song đó không phải tất cả. Không phải mọi thứ đều được tính bằng điểm số, bằng cấp; cũng như không phải mọi hành động của chúng ta đều vì bằng cấp. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Nêu hiện trạng: Có một số học sinh chỉ chăm chăm vào điểm, không chú ý tới chất lượng học tập. (0,5 điểm)
– Bình luận (1 điểm):
+ Tác hại: Việc này dẫn tới học đối phó, học tủ, quay cóp, thậm chí làm nảy sinh tính đố kị trong học tập.
+ Nguyên nhân: Học sinh chưa hiểu được mục đích của việc học, chịu áp lực phải đạt được điểm số quá cao.
– Biện pháp: Giải thích cho học sinh hiểu ý nghĩa đích thực của việc học, giáo viên và nhà trường không gây áp lực về điểm số,… (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu:
Hiện nay, có không ít học sinh chỉ chú tâm vào điểm số, không chú ý tới chất lượng học tập. Thực tế, để đánh giá hiệu quả học tập, chúng ta phải căn cứ vào nhiều phương diện: nỗ lực phấn đấu, cách thức học, kết quả. Điểm chỉ là một phần. Do vậy, cách học chỉ vì điểm cao là sai lầm. Cách học này sẽ khiến học sinh không chú trọng bồi dưỡng kiến thức mà chỉ nhằm mục đích học đối phó, học tủ. Có học sinh còn dùng nhiều thủ đoạn để đạt điểm cao, như: quay cóp, xin xỏ,… Thậm chí, có em còn vì điểm mà sinh ra tính đố kị trong học tập. Nguyên nhân chính là do học sinh chưa hiểu được mục đích của việc học. Các em cho rằng học để lấy bảng thành tích cao. Điều này cũng một phần do có những thầy cô và bố mẹ đánh giá học lực của học sinh qua điểm số. Hệ thống giáo dục cũng đặt nặng áp lực điểm số lên vai học sinh. Biện pháp để xử lí tình trạng này là phải giải thích cho học sinh hiểu ý nghĩa đích thực của việc học. Hơn thế, giáo viên, phụ huynh, nhà trường và xã hội nên đánh giá toàn diện học sinh, không nên gây áp lực về điểm số cho các em. Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tiếp tục đề ra một sô biện pháp mới để làm giảm tình trạng học vì điểm trong học sinh hiện nay.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu vê tác giả, tác phẩm, ý kiến được nêu trong để bài. (0,5 điểm)
b) Thân bài (4 điểm)
1. Sự đổi mới về đề tài (1,5 điểm)
Không chỉ tiếp nối đề tài chiến tranh với một góc nhìn khác, Nguyễn Minh Châu còn là người tiên phong trong việc khám phá vùng đất mới. Đó là đời sống con người trong thời bình với những góc khuất, những chỗ ẩn mờ. Chiếc thuỵền ngoài xa chính là tác phẩm tiêu biểu cho cái nhìn mới này. Dự cảm lo âu của nhà văn về thân phận con người đã thối thúc ông hướng đến thông điệp: sự ngu dốt tối tăm cùng với cuộc sống lao động cực nhọc có thể dẫn đến số phận bi đát của người nông dân. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, gia đình người đàn bà hàng chài chính là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống ấy.
2. Sự đổi mới vê nhân vật (1,5 điểm)
Tuy vẫn giữ quan điểm về việc đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn mỗi con người, nhưng trong các tác phẩm thời kì đổi mới, Nguyễn Minh Châu chú ý hơn tới các nhân vật lao động, có số phận vất vả, đau khổ. Nhân vật của ồng hiện lên trong cuộc sống cực nhọc mưu sinh, phải chịu những nỗi khổ đói nghèo không thể giải tỏa. Ở đây, con người hiện lên chân thực đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo tăm tối – một kiểu nhân vật chưa hề có trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước nám 1975. Hình ảnh tiêu biểu chính là người đàn bà cam chịu, không một tiếng kêu rên khi hứng chịu những trận đòn roi ấy, vẫn cương quyết bảo vệ gia đình và các con, từ chối con đường giải thoát cho chính mình bằng li hôn.
Nguyễn Minh Châu đã tìm tòi và sáng tạo ra các hình thức tổ chức điểm nhìn, tạo ra hiệu quả tối ưu cho tác phẩm: điểm nhìn gắn với ngôi kể, sự dịch chuyển, gia tăng điểm nhìn. Cả ba bình diện này đều được thể hiện rõ nét trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Minh Châu đã chọn hình thức kể theo ngôi thứ nhất – nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhờ hình thức kể chuyện này, câu chuyện trở nên gần gũi hơn, kết quả chân thực hơn và cũng có sức thuyết phục hơn. Ta còn thấy có sự dịch chuyển liên tục từ điểm nhìn trong diễn biến câu chuyện. Nguyễn Minh Châu đã đa dạng hoá, di chuyển điểm nhìn từ tác giả đến người kể chuyện, đến các nhân vật như nhiếp ảnh Phùng, rồi chánh án Đẩu và đặc biệt, có lúc nhà văn trao cho nhân vật chức năng trần thuật để cho người đàn bà hàng chài tự kể lại cuộc đời mình.
c) Kết bài
Kết luận chung về sự đổi mới trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa và nêu cảm nghĩ của bản thân. (0,5 điểm)
Với những tác phẩm mang chủ nghĩa hiện thực, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự đổi mới trong cách nhìn hiện thực. Đồng thời, ông còn thể hiện khát vọng của mình về khả năng tác động kì diệu của văn học đối với đời sống và con người, đặt vấn đề về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 24
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 24)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc văn bản sau đây và trả lời câu hỏi:
Cuộc đời ai cũng có những tấm bằng
Để làm giấy chứng minh
Để cầu mong thành đạt
Những tấm bằng như những bảng chỉ đường qua những đường phố hẹp
Để đến đại lộ cuộc đời ngày càng mở rộng thêm
Có những vĩ nhân được nhân loại khắc tên
Bởi các tấm bằng xứng danh trong lịch sử
Và có những tấm bằng chứng nhận những việc làm tuy nhỏ
Nhưng cố gắng hết mình, vẫn quý trọng biết bao!
(Trích Tấm bằng, Hoàng Ngọc Quý)
Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Câu thơ số 4 sử dụng biện pháp tu từ gì? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ ấy. (0,5 điểm)
Câu 3. Từ bốn câu thơ cuối, anh/chị hãy lí giải ý nghĩa nhan đề bài thơ. (1 điểm)
Câu 4. Bài thơ gửi đến cho anh/chị thông điệp gì? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIẾM)
Câu 1. (2 điểm)
Anh/Chị hãy viết một đoạn văn ngắn, khoảng 200 từ, trình bày suy nghĩ của mình về việc học chỉ vì điểm trong một số bộ phận học sinh hiện nay.
Câu 2. (5 điểm)
Đặt bên cạnh những truyện ngắn viết trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ như Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi thì Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu có sự đổi mới gì về đề tài, nhân vật, điểm nhìn trần thuật?
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIỀM)
Câu 1. Thể thơ tự do. (0,5 điểm)
Câu 2. Câu thơ số 4 sử dụng biện pháp so sánh: so sánh những tấm bằng với những bảng chỉ đường qua những đường phố hẹp
– Tác dụng: Biện pháp so sánh làm rõ tác dụng của những tấm bằng. Tấm bằng sẽ mở ra những cơ hội của cuộc đời, giúp chúng ta sống và làm việc dễ dàng hơn. (0,5 điểm)
Câu 3. Ý nghĩa nhan đề bài thơ: Hiểu theo nghĩa đen, tấm bằng chỉ là một tờ giấy chứng nhận công sức của bản thân chúng ta trong việc vượt qua, đạt được một mục tiêu học tập, lao động nào đó. Nó thường được một tổ chức chứng nhận. Nhưng theo nghĩa bóng, tấm bằng chỉ sự thành công của chúng ta trong việc hoàn thành các mục tiêu, vượt qua các khó khăn. Do vậy, có thể có những bằng cấp cao, vinh dự do các tổ chức chứng nhận; song cũng có những tấm bằng chứng nhận những việc làm tuy nhỏ: lòng nhân ái của ta với người khác, sự nỗ lực vượt khó của bản thân… Nó có thể không được in ra thành giấy để trao tặng nhưng trong mắt mọi người xung quanh, nó xứng đáng là tấm bằng và vẫn là một thứ đáng quý trọng. (1 điểm)
Những tấm bằng rất đáng quý, vì nó là sự chứng nhận cho công sức học tập, lao động của chúng ta và được cả xã hội vinh danh. Tuy nhiên, cũng có những việc làm nhỏ bé xứng đáng được “trao bằng” vì nó cao cả, xứng đáng được trân trọng. Những tấm bằng ấy là sự công nhận của mọi người xung quanh với những việc làm tốt đẹp của chúng ta. Từ đó, là động lực để ta nỗ lực phấn đấu đạt những danh hiệu cao quý. Song đó không phải tất cả. Không phải mọi thứ đều được tính bằng điểm số, bằng cấp; cũng như không phải mọi hành động của chúng ta đều vì bằng cấp. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Nêu hiện trạng: Có một số học sinh chỉ chăm chăm vào điểm, không chú ý tới chất lượng học tập. (0,5 điểm)
– Bình luận (1 điểm):
+ Tác hại: Việc này dẫn tới học đối phó, học tủ, quay cóp, thậm chí làm nảy sinh tính đố kị trong học tập.
+ Nguyên nhân: Học sinh chưa hiểu được mục đích của việc học, chịu áp lực phải đạt được điểm số quá cao.
– Biện pháp: Giải thích cho học sinh hiểu ý nghĩa đích thực của việc học, giáo viên và nhà trường không gây áp lực về điểm số,… (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu:
Hiện nay, có không ít học sinh chỉ chú tâm vào điểm số, không chú ý tới chất lượng học tập. Thực tế, để đánh giá hiệu quả học tập, chúng ta phải căn cứ vào nhiều phương diện: nỗ lực phấn đấu, cách thức học, kết quả. Điểm chỉ là một phần. Do vậy, cách học chỉ vì điểm cao là sai lầm. Cách học này sẽ khiến học sinh không chú trọng bồi dưỡng kiến thức mà chỉ nhằm mục đích học đối phó, học tủ. Có học sinh còn dùng nhiều thủ đoạn để đạt điểm cao, như: quay cóp, xin xỏ,… Thậm chí, có em còn vì điểm mà sinh ra tính đố kị trong học tập. Nguyên nhân chính là do học sinh chưa hiểu được mục đích của việc học. Các em cho rằng học để lấy bảng thành tích cao. Điều này cũng một phần do có những thầy cô và bố mẹ đánh giá học lực của học sinh qua điểm số. Hệ thống giáo dục cũng đặt nặng áp lực điểm số lên vai học sinh. Biện pháp để xử lí tình trạng này là phải giải thích cho học sinh hiểu ý nghĩa đích thực của việc học. Hơn thế, giáo viên, phụ huynh, nhà trường và xã hội nên đánh giá toàn diện học sinh, không nên gây áp lực về điểm số cho các em. Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tiếp tục đề ra một sô biện pháp mới để làm giảm tình trạng học vì điểm trong học sinh hiện nay.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu vê tác giả, tác phẩm, ý kiến được nêu trong để bài. (0,5 điểm)
b) Thân bài (4 điểm)
1. Sự đổi mới về đề tài (1,5 điểm)
Không chỉ tiếp nối đề tài chiến tranh với một góc nhìn khác, Nguyễn Minh Châu còn là người tiên phong trong việc khám phá vùng đất mới. Đó là đời sống con người trong thời bình với những góc khuất, những chỗ ẩn mờ. Chiếc thuỵền ngoài xa chính là tác phẩm tiêu biểu cho cái nhìn mới này. Dự cảm lo âu của nhà văn về thân phận con người đã thối thúc ông hướng đến thông điệp: sự ngu dốt tối tăm cùng với cuộc sống lao động cực nhọc có thể dẫn đến số phận bi đát của người nông dân. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, gia đình người đàn bà hàng chài chính là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống ấy.
2. Sự đổi mới vê nhân vật (1,5 điểm)
Tuy vẫn giữ quan điểm về việc đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn mỗi con người, nhưng trong các tác phẩm thời kì đổi mới, Nguyễn Minh Châu chú ý hơn tới các nhân vật lao động, có số phận vất vả, đau khổ. Nhân vật của ồng hiện lên trong cuộc sống cực nhọc mưu sinh, phải chịu những nỗi khổ đói nghèo không thể giải tỏa. Ở đây, con người hiện lên chân thực đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo tăm tối – một kiểu nhân vật chưa hề có trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước nám 1975. Hình ảnh tiêu biểu chính là người đàn bà cam chịu, không một tiếng kêu rên khi hứng chịu những trận đòn roi ấy, vẫn cương quyết bảo vệ gia đình và các con, từ chối con đường giải thoát cho chính mình bằng li hôn.
Nguyễn Minh Châu đã tìm tòi và sáng tạo ra các hình thức tổ chức điểm nhìn, tạo ra hiệu quả tối ưu cho tác phẩm: điểm nhìn gắn với ngôi kể, sự dịch chuyển, gia tăng điểm nhìn. Cả ba bình diện này đều được thể hiện rõ nét trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Minh Châu đã chọn hình thức kể theo ngôi thứ nhất – nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhờ hình thức kể chuyện này, câu chuyện trở nên gần gũi hơn, kết quả chân thực hơn và cũng có sức thuyết phục hơn. Ta còn thấy có sự dịch chuyển liên tục từ điểm nhìn trong diễn biến câu chuyện. Nguyễn Minh Châu đã đa dạng hoá, di chuyển điểm nhìn từ tác giả đến người kể chuyện, đến các nhân vật như nhiếp ảnh Phùng, rồi chánh án Đẩu và đặc biệt, có lúc nhà văn trao cho nhân vật chức năng trần thuật để cho người đàn bà hàng chài tự kể lại cuộc đời mình.
c) Kết bài
Kết luận chung về sự đổi mới trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa và nêu cảm nghĩ của bản thân. (0,5 điểm)
Với những tác phẩm mang chủ nghĩa hiện thực, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự đổi mới trong cách nhìn hiện thực. Đồng thời, ông còn thể hiện khát vọng của mình về khả năng tác động kì diệu của văn học đối với đời sống và con người, đặt vấn đề về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 25
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 25)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIẾM)
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Có một nhà xã hội học, trong khi đi tìm hiểu thực tế cho để tài của mình sắp viết thi gặp một trường hợp khả thú vị:
Anh A và anh B đều có một người cha nghiện ngập và vũ phu. Sau này, anh A trở thành một chàng trai luôn đi đầu trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội và bạo lực gia đình. Còn anh B thì lại là một phiên bản của cha anh. Nhà xã hội học đã đặt cùng một câu hỏi cho cả hai người: “Điều gì khiến anh trở nên như thế?”. Và nhà xã hội học đã nhận được cùng một câu trả lời: “Có một người cha như thế, nên tôi phải như thế”.
(Sưu tầm)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Hãy giải thích ý nghĩa của cụm từ “như thế” trong lời nói của anh A và anh B. (1,5 điểm)
Câu 3. Đặt nhan đề cho đoạn văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 4. Đoạn văn bản gợi cho anh/chị nhớ tới văn bản nào đã học trong chương trình? (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về câu chuyện trên bằng đoạn vân khoảng 200 từ.
Câu 2. (5 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn trích sau:
Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quả, càng uống lại càng tỉnh ra. Tình ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn chỉ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức.
(Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ vân 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2008)
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cú uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng MỊ thì đang sống về ngày trước. Tai Mị vàng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng.
(Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phương thức biểu đạt của văn bản là tự sự. (0,5 điểm)
Câu 2. (1,5 điểm)
– Cụm từ “như thế” trong lời nói của anh B:
+ “như thế” 2: chỉ việc anh ta cũng nghiện ngập và bạo lực như bố
– Cụm từ “như thế” trong lời nói của anh A:
+ “như thế” 1: chỉ người bố nghiện ngập và bạo lực.
+ “như thế” 2: chỉ việc anh ta phấn đấu vươn lên, đi đầu trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội và bạo lực gia đình.
Câu 3. Đặt nhan đề: Anh A và anh B, Một hoàn cảnh – hai con người,… (0,5 điểm)
Câu 4. Đoạn văn bản gợi nhớ tới văn bản: Chiếc thuyền ngoài xa… (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Phân tích câu chuyện: (0,5 điểm)
+ Câu chuyện về nạn bạo lực gia đình và sự ảnh hưởng tới con cái. Có đứa con bị nhiễm tính bạo lực của cha. Có người lại vươn lên, chống lại nó.
+ Đây là câu chuyện ngụ ý về môi trường xấu và sự tác động của hoàn cảnh với con người cũng như ý chí vượt lên của con người trước hoàn cảnh.
+ Ý nghĩa cả câu.
– Bình luận câu chuyện (1 điểm):
+ Câu danh ngôn đúng hay sai?
+ Lí do đúng (hoặc sai).
– Bài học rút ra (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu:
Đây là câu chuyện về hai người cùng ở hoàn cảnh cha nghiện ngập và bạo lực nhưng họ lại có phản ứng, thay đổi khác nhau trước hoàn cảnh. Anh B thì lại là một phiên bản của cha anh – cũng nghiện ngập và bạo lực. Điều này chứng tỏ, anh B không có nghị lực, bản lĩnh để giữ vững được tính cách tốt của mình. Còn anh A trở thành một chàng trai luôn đi đầu trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội và bạo lực gia đình. Ta có thể thấy, anh đã không bị những năm tháng tuổi thơ kinh hoàng làm ảnh hưởng tới tương lai của mình. Bên cạnh đó, anh không chịu đựng mà còn có tinh thần phản kháng, chống lại bạo lực và lối sống tệ nạn như của người cha. Câu chuyện còn giúp chúng ta xác lập một thế đứng vững chắc trước những tác động tiêu cực ngoài xã hội và nếu bị rơi vào một hoàn cảnh không thuận lợi, đầy rẫy những tiêu cực thì chúng ta nên có quyết tâm vượt qua. Nó giúp chúng ta có tinh thần cảnh giác trước những tác động tiêu cực của môi trường xung quanh để luôn luôn “gần mực mà vẫn không đen” và chúng ta nên có ý chí quyết tâm trở thành một ngọn đèn luôn luôn tỏa sáng.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu vê tác giả, tác phẩm, hai trích đoạn trong đề (0,5 điểm)
– Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Chí Phèo đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc, nhất là đoạn Chí uống say, sau khi bị Thị Nở cự tuyệt.
– Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong đó, đoạn văn được coi là hay nhất chính là đoạn kể về Mị trong đêm tình mùa xuân. Đoạn văn đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Cảm nhận về đoạn trích 1 (1,5 điểm)
Sau khi bị Thị Nở từ chối chung sống và cũng không còn cách nào níu giữ được Thị, Chí Phèo rơi vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng, mọi hi vọng cho một tương lai “làm người” bỗng chốc tan thành mây khói. Trong cơn tuyệt vọng ấy, Chí Phèo như tỉnh hẳn và chua xót nhận ra bi kịch tinh thần của cuộc đời mình – vốn sinh ra là người nhưng lại không được làm “người”. Hắn vật vã, đau đớn. Càng tuyệt vọng, hắn càng uống rượu; nhưng càng uống rượu, hắn càng tỉnh ra. Trong tận sâu thẳm tâm hồn, hắn ý thức được nỗi đau thân phận của mình.
2. Cảm nhận về đoạn trích 2 (1,5 điểm)
Đoạn văn miêu tả Mị trong đêm tình mùa xuân với sự trỗi dậy của tâm hồn. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thẩn quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người, nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên. Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát vọng sống của Mị trỗi dậy. Mị vừa như uống cho hả giận, vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo. Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng đã nguội tắt.
– Giống nhau
+ Cùng nói về cảnh uống rượu với nỗi uất ức khó vơi của hai con người ở dưới đáy của đau khổ.
+ Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đạt tới bậc thầy.
– Khác nhau
* Về nội dung:
+ Đoạn trích 1: Thể hiện nỗi đau khổ vì bị tan vỡ khát vọng họàn lương. Việc uống rượu là một phản ứng tất yếu trong chuỗi bi kịch này. Vì thế nó đau đớn hơn.
+ Đoạn trích 2: Thể hiện sự hồi sinh tâm hồn của Mị. Việc uống rượu như một nguyên nhân tạo nên sự hồi sinh ấy. Nó thực tế là tín hiệu đáng mừng trong tâm hồn tưởng như đã nguội tắt của Mị.
* Về nghệ thuật:
+ Đoạn trích 1: Dùng câu cảm, câu văn ngắn, nhịp nhanh, đan xen lời tác giả và ý nghĩ của nhân vật.
+ Đoạn trích 2: Dùng nhiều câu kể, phối hợp câu văn dài ngắn khác nhau.
c) Kết bài
Kết luận chung vẽ hai đoạn trích, nêu cảm nghĩ (0,5 điểm)
Ở hai đoạn văn này, tác giả đã miêu tả hành động của các nhân vật trong những giây phút bộc lộ tâm trạng thật nhất của cuộc đời. Qua đó, các đoạn văn góp phần thể hiện tinh thần nhân văn, tồ đậm tính cách nhân vật và thể hiện một cách chân thật, cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của các truyện ngắn.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề số 25
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 25)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIẾM)
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Có một nhà xã hội học, trong khi đi tìm hiểu thực tế cho để tài của mình sắp viết thi gặp một trường hợp khả thú vị:
Anh A và anh B đều có một người cha nghiện ngập và vũ phu. Sau này, anh A trở thành một chàng trai luôn đi đầu trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội và bạo lực gia đình. Còn anh B thì lại là một phiên bản của cha anh. Nhà xã hội học đã đặt cùng một câu hỏi cho cả hai người: “Điều gì khiến anh trở nên như thế?”. Và nhà xã hội học đã nhận được cùng một câu trả lời: “Có một người cha như thế, nên tôi phải như thế”.
(Sưu tầm)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2. Hãy giải thích ý nghĩa của cụm từ “như thế” trong lời nói của anh A và anh B. (1,5 điểm)
Câu 3. Đặt nhan đề cho đoạn văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 4. Đoạn văn bản gợi cho anh/chị nhớ tới văn bản nào đã học trong chương trình? (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về câu chuyện trên bằng đoạn vân khoảng 200 từ.
Câu 2. (5 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn trích sau:
Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quả, càng uống lại càng tỉnh ra. Tình ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn chỉ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức.
(Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ vân 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2008)
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cú uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng MỊ thì đang sống về ngày trước. Tai Mị vàng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng.
(Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phương thức biểu đạt của văn bản là tự sự. (0,5 điểm)
Câu 2. (1,5 điểm)
– Cụm từ “như thế” trong lời nói của anh B:
+ “như thế” 2: chỉ việc anh ta cũng nghiện ngập và bạo lực như bố
– Cụm từ “như thế” trong lời nói của anh A:
+ “như thế” 1: chỉ người bố nghiện ngập và bạo lực.
+ “như thế” 2: chỉ việc anh ta phấn đấu vươn lên, đi đầu trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội và bạo lực gia đình.
Câu 3. Đặt nhan đề: Anh A và anh B, Một hoàn cảnh – hai con người,… (0,5 điểm)
Câu 4. Đoạn văn bản gợi nhớ tới văn bản: Chiếc thuyền ngoài xa… (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Phân tích câu chuyện: (0,5 điểm)
+ Câu chuyện về nạn bạo lực gia đình và sự ảnh hưởng tới con cái. Có đứa con bị nhiễm tính bạo lực của cha. Có người lại vươn lên, chống lại nó.
+ Đây là câu chuyện ngụ ý về môi trường xấu và sự tác động của hoàn cảnh với con người cũng như ý chí vượt lên của con người trước hoàn cảnh.
+ Ý nghĩa cả câu.
– Bình luận câu chuyện (1 điểm):
+ Câu danh ngôn đúng hay sai?
+ Lí do đúng (hoặc sai).
– Bài học rút ra (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu:
Đây là câu chuyện về hai người cùng ở hoàn cảnh cha nghiện ngập và bạo lực nhưng họ lại có phản ứng, thay đổi khác nhau trước hoàn cảnh. Anh B thì lại là một phiên bản của cha anh – cũng nghiện ngập và bạo lực. Điều này chứng tỏ, anh B không có nghị lực, bản lĩnh để giữ vững được tính cách tốt của mình. Còn anh A trở thành một chàng trai luôn đi đầu trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội và bạo lực gia đình. Ta có thể thấy, anh đã không bị những năm tháng tuổi thơ kinh hoàng làm ảnh hưởng tới tương lai của mình. Bên cạnh đó, anh không chịu đựng mà còn có tinh thần phản kháng, chống lại bạo lực và lối sống tệ nạn như của người cha. Câu chuyện còn giúp chúng ta xác lập một thế đứng vững chắc trước những tác động tiêu cực ngoài xã hội và nếu bị rơi vào một hoàn cảnh không thuận lợi, đầy rẫy những tiêu cực thì chúng ta nên có quyết tâm vượt qua. Nó giúp chúng ta có tinh thần cảnh giác trước những tác động tiêu cực của môi trường xung quanh để luôn luôn “gần mực mà vẫn không đen” và chúng ta nên có ý chí quyết tâm trở thành một ngọn đèn luôn luôn tỏa sáng.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng bài văn với bố cục gồm ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
a) Mở bài
Giới thiệu vê tác giả, tác phẩm, hai trích đoạn trong đề (0,5 điểm)
– Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Chí Phèo đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc, nhất là đoạn Chí uống say, sau khi bị Thị Nở cự tuyệt.
– Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong đó, đoạn văn được coi là hay nhất chính là đoạn kể về Mị trong đêm tình mùa xuân. Đoạn văn đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.
b) Thân bài (4 điểm)
1. Cảm nhận về đoạn trích 1 (1,5 điểm)
Sau khi bị Thị Nở từ chối chung sống và cũng không còn cách nào níu giữ được Thị, Chí Phèo rơi vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng, mọi hi vọng cho một tương lai “làm người” bỗng chốc tan thành mây khói. Trong cơn tuyệt vọng ấy, Chí Phèo như tỉnh hẳn và chua xót nhận ra bi kịch tinh thần của cuộc đời mình – vốn sinh ra là người nhưng lại không được làm “người”. Hắn vật vã, đau đớn. Càng tuyệt vọng, hắn càng uống rượu; nhưng càng uống rượu, hắn càng tỉnh ra. Trong tận sâu thẳm tâm hồn, hắn ý thức được nỗi đau thân phận của mình.
2. Cảm nhận về đoạn trích 2 (1,5 điểm)
Đoạn văn miêu tả Mị trong đêm tình mùa xuân với sự trỗi dậy của tâm hồn. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thẩn quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người, nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên. Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát vọng sống của Mị trỗi dậy. Mị vừa như uống cho hả giận, vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo. Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng đã nguội tắt.
– Giống nhau
+ Cùng nói về cảnh uống rượu với nỗi uất ức khó vơi của hai con người ở dưới đáy của đau khổ.
+ Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đạt tới bậc thầy.
– Khác nhau
* Về nội dung:
+ Đoạn trích 1: Thể hiện nỗi đau khổ vì bị tan vỡ khát vọng họàn lương. Việc uống rượu là một phản ứng tất yếu trong chuỗi bi kịch này. Vì thế nó đau đớn hơn.
+ Đoạn trích 2: Thể hiện sự hồi sinh tâm hồn của Mị. Việc uống rượu như một nguyên nhân tạo nên sự hồi sinh ấy. Nó thực tế là tín hiệu đáng mừng trong tâm hồn tưởng như đã nguội tắt của Mị.
* Về nghệ thuật:
+ Đoạn trích 1: Dùng câu cảm, câu văn ngắn, nhịp nhanh, đan xen lời tác giả và ý nghĩ của nhân vật.
+ Đoạn trích 2: Dùng nhiều câu kể, phối hợp câu văn dài ngắn khác nhau.
c) Kết bài
Kết luận chung vẽ hai đoạn trích, nêu cảm nghĩ (0,5 điểm)
Ở hai đoạn văn này, tác giả đã miêu tả hành động của các nhân vật trong những giây phút bộc lộ tâm trạng thật nhất của cuộc đời. Qua đó, các đoạn văn góp phần thể hiện tinh thần nhân văn, tồ đậm tính cách nhân vật và thể hiện một cách chân thật, cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của các truyện ngắn.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 1
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 1)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc trích đoạn sau và thực hiện các yêu cầu nêu bên dưới:
Bất cứ ai cũng đã từng thất bại, đã từng vấp ngã ít nhất một lần trong đời như một quy luật bất biến của tự nhiên. Có nhiều người có khả năng vực dậy, đứng lên rồi nhẹ nhàng bước tiếp như thể chẳng có chuyện gì xảy ra, nhưng cũng có nhiều người chỉ có thể ngồi một chỗ và vẫn luôn tự hỏi lí do vì sao bản thân lại có thể dễ dàng “mắc bẫy” đến như thế…
Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đều mang lại cho ta một bài học đáng giá: về một bài toán đã áp dụng cách giải sai, về lòng tốt đã gửi nhầm chủ nhân hay vẽ một tình yêu lâu dài bỗng phát hiện đã trao nhầm đối tượng,…
Đừng để khỉ tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi. Thời gian làm tuổi trẻ đi qua nhanh lắm, không gì là mãi mãi, nên hãy sống hết mình để không nuối tiếc những gì chỉ còn lại trong quá khứ mà thôi…
(Trích Hãy học cách đứng lên sau vấp ngã, theo 4/6/2015)
Câu 1. Hãy chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Đoạn văn trên để cập đến nội dung gì? (0,5 điểm)
Câu 3. Hãy giải thích vì sao tác giả lại cho rằng “Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đểu mang lại cho ta một bài học đáng giá”. (1 điểm)
Câu 4. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì trong hai câu văn sau: “Đừng để khi tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi”? Hãy phân tích hiệu quả biểu đạt của biện pháp tu từ đó. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Có ý kiến cho rằng: “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”. Anh/Chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của mình vể ý kiến trên.
Câu 2. (5 điểm)
Nêu cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
(Việt Bắc – Tố Hữu, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam)
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính trong trích đoạn trên là nghị luận. (0,5 điểm)
Câu 2. Nội dung đoạn trích (0,5 điểm)
– Hãy đứng lên sau vấp ngã vì mỗi lẩn vấp ngã là một lần ta rút ra được những bài học cho bản thân.
– Hãy biết yêu thương, sẻ chia, đồng cảm để không phải nuối tiếc khi nhìn lại quá khứ.
Câu 3. Những bài học rút ra: (1 điểm)
– Bài học vể kinh nghiệm sống.
– Bài học về ý chí, nghị lực vươn lên.
– Bài học về giá trị đáng quý của cuộc sống.
Câu 4. Đoạn văn sử dụng ba biện pháp tu từ (Học sinh chỉ cần nêu được 1 trong 3 biện pháp tu từ): (1 điểm)
+ Điệp ngữ (Đừng để khi)
+ Điệp cấu trúc ngữ pháp (lặp cấu trúc ngữ pháp).
+ Đối lập (tia nắng… đã lên >< giọt lệ… rơi).
– Tác dụng:
+ Biện pháp điệp ngữ; điệp cấu trúc ngữ pháp: Tạo âm hưởng nhịp nhàng, cân đối; nhấn mạnh, khuyến khích mọi người hãy từ bỏ những ưu phiền để sống vui vẻ, hòa nhịp với thế giới xung quanh…
+ Biện pháp đối lập: Làm nổi bật sự trái ngược giữa ngoại cảnh với tâm trạng con người, nhằm khích lệ con người từ bỏ những ưu phiền, hướng đến cuộc sống vui tươi, ý nghĩa.
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
– Biết cách làm kiểu bài nghị luận xã hội với bố cục rõ ràng, mạch lạc.
– Hành văn trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, độ dài không quá 200 từ.
– Kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận,… dẫn chứng tiêu biểu.
Yêu cầu về kiến thức
Bài viết có thể trình bày theo nhiểu cách khác nhau nhưng cần làm rõ những yêu cẩu cơ bản sau:
– Giải thích: Thế nào là chiến thắng và chiến thắng bản thân mình?
– Sống là đấu tranh, con người phải đấu tranh và phải chiến thắng.
– Đấu tranh với bản thân, với chính mình là cuộc chiến vô cùng khó khăn:
– Nêu bài học: Đấu tranh với chính mình là điều cần thiết. Đó cũng là cách để con người hoàn thiện nhân cách.
Đoạn văn mẫu
Chiến thắng là kết quả tốt đẹp mà chúng ta đạt được sau một thời gian đấu tranh. Có một câu nói đã thể hiện rất sâu sắc về ý nghĩa của chiến thắng là “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”. Chiến thắng bản thân là tự đấu tranh vượt lên cái xấu, cái thấp hèn trong chính con người mình. Cuộc sống vốn dĩ luôn cần sự đấu tranh để sinh tồn, ví dụ đấu tranh chống thiên tai, chống đói nghèo,… Nhưng cuộc đấu tranh với những yếu tố khách quan không khó khăn bằng đấu tranh với chính bản thân mình. Bởi lẽ, điều không tốt ở chính ta không phải lúc nào cũng dễ nhận ra – nhất là khi ta đứng trước những cám dỗ. Tuy nhiên, nếu nhận ra hạn chế của bản thân để vươn lên lại là sự tự khẳng định mình. Có rất nhiều tấm gương như thế, chẳng hạn Socrates nói ngọng bẩm sinh nhưng ông đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu với phần khiếm khuyết của bản thân bằng cách tập nói, luyện diễn thuyết trước sóng biển để trở thành nhà hùng biện. Như vậy, câu nói chứa đựng một quan niệm sống đúng đắn – hướng con người vươn tới những giá trị đích thực của bản thân để hoàn thiện nhân cách.
Câu 2. (5 điểm)
– Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Biết cách chọn và phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đê’ nghị luận.
– Bài viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức
Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo được các ý cơ bản sau:
a) Mở bài (0,5 điểm)
– Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Bài thơ Việt Bắc được viết vào tháng 10 năm 1954 – thời điểm diễn ra cuộc chia tay giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Tác phẩm là khúc ca trữ tình nồng nàn, đắm say về những lẽ sống lớn, ân tình lớn của con người cách mạng.
– Nỗi nhớ hướng về cảnh và người ở quê hương Việt Bắc, là một nội dung nổi bật của bài thơ, được thể hiện xuất sắc trong đoạn thơ.
b) Thân bài (4 điểm)
– Hai dòng đầu: Khái quát nội dung của đoạn với nỗi nhớ cả hoa và người Việt Bắc. Cảnh vật lẫn con người Việt Bắc hoà quyện với nhau thành một thể thống nhất.
– Tám dòng thơ tiếp theo: Nỗi nhớ về Việt Bắc qua bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Câu lục nói cảnh, còn câu bát “vẽ” về người.
+) Mùa đông: Màu hoa chuối đỏ tươi nổi bật giữa màu xanh trầm tịch của rừng già, khiến cho bức tranh thêm rực rỡ, ấm nóng. Mùa đông, người đi làm nương rẫy với con dao đi rừng lấp loá gài thắt lưng. Trên đèo cao đầy nắng, tẩm vóc con người như lớn lao, mạnh mẽ, rắn rỏi hơn giữa núi rừng hùng vĩ.
+) Mùa xuân: Trong sáng, tinh khôi và đẩy sức sống với “mơ nở trắng rừng”. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân như lan toả và tràn trề nhựa sống. Nghệ thuật đảo “trắng rừng” gợi cảm giác cả cánh rừng như bừng sáng trong sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Con người cần mẫn trong công việc đan nón. Động từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần cù, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
+) Mùa thu: Yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hoà bình”. Ánh trăng của tự do, của hoà bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Mùa thu là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thuỷ chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc, của núi rừng, của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng.
Như vậy, với bốn cặp thơ lục bát ngắn gọn, bốn mùa của thiên nhiên Việt Bắc được gợi tả sắc nét, tràn đầy sức sống với đủ hình ảnh, âm thanh, màu sắc, có sự kết hợp hài hoà giữa thiên nhiên và con người. Tất cả để lại cho người đi một nỗi nhớ khôn nguôi.
– Nghệ thuật
Thể thơ lục bát quen thuộc vừa dân dã, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Giọng thơ nhịp nhàng uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người đi, kẻ ở. Nhịp điệu cân đối, cô đúc, ngân nga, dìu dặt, vừa thắt buộc lại, vừa mới mẻ lạ lùng. Cách sử dụng các đại từ “mình – ta” vừa truyền thống, vừa hiện đại. Đặc biệt là điệp từ “nhớ” được nhắc lại nhiều lần, mỗi lần mang một sắc thái khác nhau theo cấp độ tăng tiến, thể hiện những rung động chân thành, mặn mà thắm thiết của nhà thơ với thiên nhiên và con người Việt Bắc.
c) Kết bài (0,5 điểm)
Với những nét chấm phá đơn sơ, giản dị, vừa cổ điển, vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh thiên nhiên và con người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Tất cả đều tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Đoạn thơ như một khúc tình ca về tấm lòng thuỷ chung của người cách mạng với quê hương Việt Bắc.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 1
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 1)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc trích đoạn sau và thực hiện các yêu cầu nêu bên dưới:
Bất cứ ai cũng đã từng thất bại, đã từng vấp ngã ít nhất một lần trong đời như một quy luật bất biến của tự nhiên. Có nhiều người có khả năng vực dậy, đứng lên rồi nhẹ nhàng bước tiếp như thể chẳng có chuyện gì xảy ra, nhưng cũng có nhiều người chỉ có thể ngồi một chỗ và vẫn luôn tự hỏi lí do vì sao bản thân lại có thể dễ dàng “mắc bẫy” đến như thế…
Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đều mang lại cho ta một bài học đáng giá: về một bài toán đã áp dụng cách giải sai, về lòng tốt đã gửi nhầm chủ nhân hay vẽ một tình yêu lâu dài bỗng phát hiện đã trao nhầm đối tượng,…
Đừng để khỉ tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi. Thời gian làm tuổi trẻ đi qua nhanh lắm, không gì là mãi mãi, nên hãy sống hết mình để không nuối tiếc những gì chỉ còn lại trong quá khứ mà thôi…
(Trích Hãy học cách đứng lên sau vấp ngã, theo 4/6/2015)
Câu 1. Hãy chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Đoạn văn trên để cập đến nội dung gì? (0,5 điểm)
Câu 3. Hãy giải thích vì sao tác giả lại cho rằng “Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đểu mang lại cho ta một bài học đáng giá”. (1 điểm)
Câu 4. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì trong hai câu văn sau: “Đừng để khi tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi”? Hãy phân tích hiệu quả biểu đạt của biện pháp tu từ đó. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Có ý kiến cho rằng: “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”. Anh/Chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của mình vể ý kiến trên.
Câu 2. (5 điểm)
Nêu cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
(Việt Bắc – Tố Hữu, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam)
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính trong trích đoạn trên là nghị luận. (0,5 điểm)
Câu 2. Nội dung đoạn trích (0,5 điểm)
– Hãy đứng lên sau vấp ngã vì mỗi lẩn vấp ngã là một lần ta rút ra được những bài học cho bản thân.
– Hãy biết yêu thương, sẻ chia, đồng cảm để không phải nuối tiếc khi nhìn lại quá khứ.
Câu 3. Những bài học rút ra: (1 điểm)
– Bài học vể kinh nghiệm sống.
– Bài học về ý chí, nghị lực vươn lên.
– Bài học về giá trị đáng quý của cuộc sống.
Câu 4. Đoạn văn sử dụng ba biện pháp tu từ (Học sinh chỉ cần nêu được 1 trong 3 biện pháp tu từ): (1 điểm)
+ Điệp ngữ (Đừng để khi)
+ Điệp cấu trúc ngữ pháp (lặp cấu trúc ngữ pháp).
+ Đối lập (tia nắng… đã lên >< giọt lệ… rơi).
– Tác dụng:
+ Biện pháp điệp ngữ; điệp cấu trúc ngữ pháp: Tạo âm hưởng nhịp nhàng, cân đối; nhấn mạnh, khuyến khích mọi người hãy từ bỏ những ưu phiền để sống vui vẻ, hòa nhịp với thế giới xung quanh…
+ Biện pháp đối lập: Làm nổi bật sự trái ngược giữa ngoại cảnh với tâm trạng con người, nhằm khích lệ con người từ bỏ những ưu phiền, hướng đến cuộc sống vui tươi, ý nghĩa.
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
– Biết cách làm kiểu bài nghị luận xã hội với bố cục rõ ràng, mạch lạc.
– Hành văn trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu, độ dài không quá 200 từ.
– Kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận,… dẫn chứng tiêu biểu.
Yêu cầu về kiến thức
Bài viết có thể trình bày theo nhiểu cách khác nhau nhưng cần làm rõ những yêu cẩu cơ bản sau:
– Giải thích: Thế nào là chiến thắng và chiến thắng bản thân mình?
– Sống là đấu tranh, con người phải đấu tranh và phải chiến thắng.
– Đấu tranh với bản thân, với chính mình là cuộc chiến vô cùng khó khăn:
– Nêu bài học: Đấu tranh với chính mình là điều cần thiết. Đó cũng là cách để con người hoàn thiện nhân cách.
Đoạn văn mẫu
Chiến thắng là kết quả tốt đẹp mà chúng ta đạt được sau một thời gian đấu tranh. Có một câu nói đã thể hiện rất sâu sắc về ý nghĩa của chiến thắng là “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”. Chiến thắng bản thân là tự đấu tranh vượt lên cái xấu, cái thấp hèn trong chính con người mình. Cuộc sống vốn dĩ luôn cần sự đấu tranh để sinh tồn, ví dụ đấu tranh chống thiên tai, chống đói nghèo,… Nhưng cuộc đấu tranh với những yếu tố khách quan không khó khăn bằng đấu tranh với chính bản thân mình. Bởi lẽ, điều không tốt ở chính ta không phải lúc nào cũng dễ nhận ra – nhất là khi ta đứng trước những cám dỗ. Tuy nhiên, nếu nhận ra hạn chế của bản thân để vươn lên lại là sự tự khẳng định mình. Có rất nhiều tấm gương như thế, chẳng hạn Socrates nói ngọng bẩm sinh nhưng ông đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu với phần khiếm khuyết của bản thân bằng cách tập nói, luyện diễn thuyết trước sóng biển để trở thành nhà hùng biện. Như vậy, câu nói chứa đựng một quan niệm sống đúng đắn – hướng con người vươn tới những giá trị đích thực của bản thân để hoàn thiện nhân cách.
Câu 2. (5 điểm)
– Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Biết cách chọn và phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đê’ nghị luận.
– Bài viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức
Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo được các ý cơ bản sau:
a) Mở bài (0,5 điểm)
– Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Bài thơ Việt Bắc được viết vào tháng 10 năm 1954 – thời điểm diễn ra cuộc chia tay giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Tác phẩm là khúc ca trữ tình nồng nàn, đắm say về những lẽ sống lớn, ân tình lớn của con người cách mạng.
– Nỗi nhớ hướng về cảnh và người ở quê hương Việt Bắc, là một nội dung nổi bật của bài thơ, được thể hiện xuất sắc trong đoạn thơ.
b) Thân bài (4 điểm)
– Hai dòng đầu: Khái quát nội dung của đoạn với nỗi nhớ cả hoa và người Việt Bắc. Cảnh vật lẫn con người Việt Bắc hoà quyện với nhau thành một thể thống nhất.
– Tám dòng thơ tiếp theo: Nỗi nhớ về Việt Bắc qua bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Câu lục nói cảnh, còn câu bát “vẽ” về người.
+) Mùa đông: Màu hoa chuối đỏ tươi nổi bật giữa màu xanh trầm tịch của rừng già, khiến cho bức tranh thêm rực rỡ, ấm nóng. Mùa đông, người đi làm nương rẫy với con dao đi rừng lấp loá gài thắt lưng. Trên đèo cao đầy nắng, tẩm vóc con người như lớn lao, mạnh mẽ, rắn rỏi hơn giữa núi rừng hùng vĩ.
+) Mùa xuân: Trong sáng, tinh khôi và đẩy sức sống với “mơ nở trắng rừng”. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân như lan toả và tràn trề nhựa sống. Nghệ thuật đảo “trắng rừng” gợi cảm giác cả cánh rừng như bừng sáng trong sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Con người cần mẫn trong công việc đan nón. Động từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần cù, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
+) Mùa thu: Yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hoà bình”. Ánh trăng của tự do, của hoà bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Mùa thu là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thuỷ chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc, của núi rừng, của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng.
Như vậy, với bốn cặp thơ lục bát ngắn gọn, bốn mùa của thiên nhiên Việt Bắc được gợi tả sắc nét, tràn đầy sức sống với đủ hình ảnh, âm thanh, màu sắc, có sự kết hợp hài hoà giữa thiên nhiên và con người. Tất cả để lại cho người đi một nỗi nhớ khôn nguôi.
– Nghệ thuật
Thể thơ lục bát quen thuộc vừa dân dã, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Giọng thơ nhịp nhàng uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người đi, kẻ ở. Nhịp điệu cân đối, cô đúc, ngân nga, dìu dặt, vừa thắt buộc lại, vừa mới mẻ lạ lùng. Cách sử dụng các đại từ “mình – ta” vừa truyền thống, vừa hiện đại. Đặc biệt là điệp từ “nhớ” được nhắc lại nhiều lần, mỗi lần mang một sắc thái khác nhau theo cấp độ tăng tiến, thể hiện những rung động chân thành, mặn mà thắm thiết của nhà thơ với thiên nhiên và con người Việt Bắc.
c) Kết bài (0,5 điểm)
Với những nét chấm phá đơn sơ, giản dị, vừa cổ điển, vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh thiên nhiên và con người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Tất cả đều tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Đoạn thơ như một khúc tình ca về tấm lòng thuỷ chung của người cách mạng với quê hương Việt Bắc.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 3
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 3)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Cần lưu ý là dưới những danh từ truyền thống như chí, công danh, phận sự,… Nguyễn Công Trứ đã lồng vào đó những nội dung của ý thức cá nhân, ngược với thánh hiền. Khổng Tử nói: “Kẻ sĩ chí ở đạo, nếu xấu hổ về nỗi áo xấu cơm thô thì không thể cùng bàn bạc về đạo” (Lý nhân). Khổng Tử lại nói: “Người quân tử làm việc đời, không có gì là thích hay không thích, hợp với nghĩa thì làm” (Lý nhân). Nguyễn Công Trứ đề cao hai chữ “thích chí”, và chí của ông là chí được thi thố tài năng cá nhân, “Làm nên đấng anh hùng đấu đấy tỏ”, lấy việc nghèo khổ làm điều xấu xa, nhục nhã (Hàn nho phong vị phú). Khổng Tử đối lập quân tử và tiểu nhân ở chỗ người quân tử chỉ chăm lo đạo đức cao thượng còn tiểu nhân chỉ chăm lo ăn sung mặc sướng. Nguyễn Công Trứ coi trọng cả hai: “Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ”, “Càng tài tử càng nhiêu tình ái”,… Khổng Tử chủ trương sống khổ hạnh, xử thế nghiêm trang. Nguyễn Công Trứ xem đời là một cuộc chơi: “Đem ngàn vàng mua lấy tiếng cười – Phong lưu cho bõ kiếp người”. Có thể nói, dưới hình thức ngôn ngữ nhà nho, Nguyễn Công Trứ đã diễn đạt một ý thức cá nhân mới – thích chí, hành lạc.”
(Con người cá nhân trong văn học Việt Nam thế kỉ XIX – Trần Đình Sử)
Câu 1. Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngỏn ngữ nào? (0,5 điểm)
Câu 2. Xác định thao tác lập luận chủ yếu của đoạn trích trên. (0,75 điểm)
Câu 3. Anh/Chị hiểu thế nào về ý thức cá nhân thích chí, hành lạc của Nguyễn Công Trứ? (1 điểm)
Câu 4. Thông điệp nào của đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị? (0,75 điểm)
II. LÀM VÀN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm) Viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề “công danh” trong cuộc sống hiện nay.
Câu 2. (5 điểm) Cảm nhận về phong vị dân gian trong đoạn thơ sau:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đẩu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
(Việt Bắc, Tố Hữu)
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ khoa học
Câu 2. Thao tác lập luận chủ yếu: Thao tác so sánh
Câu 3. Ý thức cá nhân thích chí, hành lạc của Nguyễn Công Trứ rất độc đáo và gây được ấn tượng với hậu thế. Theo Nguyễn Công Trứ, thích chí, hành lạc trước hết phải có khát vọng lập công danh, khẳng định được vị trí của mình ở trong cõi đời. Thứ hai, đó là yêu cầu về sự cân bằng giữa đạo đức và việc tận hưởng cuộc sống. Quan niệm của Khổng Tử là quan niệm quá cứng nhắc, gò bó con người trong những khuôn khổ tù túng. Nguyễn Công Trứ đã hướng đến sự giải phóng cá nhân cả về phương diện đạo đức lẫn phương diện đời sống thường nhật. Đây là một quan niệm rất tiến bộ, mới mẻ, cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Câu 4. Thí sinh trả lời theo cảm nhận của bản thân, không cần theo một đáp án có sẵn nào. Chỉ cần thí sinh đưa ra được thông điệp, giải thích một cách hợp lí lí do chọn thông điệp đó thì có thể đạt điểm tuyệt đối.
II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Giải thích khái niệm công danh, khái quát quan niệm công danh trong xã hội cũ.
– Nêu quan niệm của giới trẻ về công danh hiện nay.
– Rút ra bài học hành động.
Đoạn văn mẫu
Công danh là địa vị xã hội và tiếng tăm, là lí tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/Phải có danh gì với núi sông”. Hiện nay, một bộ phận lớn thanh niên vẫn giữ được khát vọng đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình với mong muốn xã hội tốt đẹp hơn. Họ có khả năng tự chủ về kinh tế, họ có lòng nhiệt thành để giúp đỡ những số phận bất hạnh,… Phần lớn các bạn trẻ ngày nay đặt mục tiêu là phải thật thành công trong cuộc sống, khẳng định được vị trí của mình trong xã hội. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ thanh niên lại không suy nghĩ được như thế. Họ sống hờ hững với những gì diễn ra xung quanh, sống theo quan niệm: “Được đến đâu thì hay đến đó”, “Nước đến chân mới nhảy”, chỉ biết nghĩ cho riêng mình, không nỗ lực, không cố gắng. Từ việc hiểu về khái niệm công danh, thanh niên chúng ta cán phải biết và tạo cho mình một lý tựởng sống cao đẹp, vì mọi người, vì quê hương đất nước.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng kết cấu bài văn ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
– Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Bài thơ Việt Bắc được viết vào tháng 10 năm 1954, thời điểm diễn ra cuộc chia tay giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Tác phẩm là khúc ca trữ tình nồng nàn, đắm say về những lẽ sống lớn, ân tình lớn của con người cách mạng.
– Phong vị dân gian là một đặc điểm nổi bật của bài thơ, được thể hiện xuất sắc trong đoạn thơ sau:
“Ta với mình, mình với ta
……
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
b) Thân bài
*Phân tích khái quát đoạn thơ
– Khẳng định tình nghĩa
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.
Câu thơ “Ta với mình/mình với ta” ngắt nhịp 3/3, cặp đại từ mình – ta lặp lại, xoắn xuýt để thể hiện sự quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt. Câu thơ tiếp theo với nhịp ngắt 2/2/2/2 chắc khoẻ là lời khẳng định chắc chắn “lòng ta – sau trước – mặn mà – đinh ninh”. Tiếp đó, “Mình đi mình lại nhớ mình” là sự láy lại, là câu trả lời cho sự băn khoăn của người ở lại trong khổ thơ trên, “Mình đi mình có nhớ mình”. Và để cụ thể cho nỗi nhớ ấy, tác giả mượn cách so sánh, cách đo đếm đậm màu sắc dân gian: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
*Tái hiện hình ảnh Việt Bắc trong hồi tưởng
– Nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
+ Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm.
* Phân tích phong vị dân gian trong đoạn thơ
– Khái niệm phong vị dân gian: Được hiểu là chất dân gian, là màu sắc, hương vị dân gian.
– Phong vị dân gian trong bài thơ Việt Bắc được tạo nên từ cách vận dụng nhuần nhuyễn những yếu tố nghệ thuật quen thuộc của văn học dân gian. Đoạn trích nêu trên thể hiện rất rõ phong vị dân gian đó.
+ Biểu hiện 1: Kết cấu đối đáp trong khung cảnh chia tay đầy lưu luyến – đây là một mô-típ quen thuộc trong ca dao, dân ca.
+ Biểu hiện 2: Những từ “mình” “ta” và cấu trúc lời hỏi, lời đáp đối ứng, gợi nhớ đến những câu ca dao về tình cảm lứa đôi.
+ Biểu hiện 3: Nhiều hình ảnh ước lệ quen thuộc của ca dao, dân ca được Tố Hữu sử dụng rất thích hợp với khung cảnh và tâm trạng trong bài thơ như “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”, “nhớ gì như nhớ người yêu”…
+ Biểu hiện 4: Phong vị ấy còn thể hiện ở âm điệu thiết tha, quyến luyến như những lời ru trong ca dao, dân ca.
+ Biểu hiện 5: Không chỉ dừng ở những yếu tố hình thức, phong vị ca dao, dân ca của bài Việt Bắc nói chung, đoạn trích nói riêng còn thấm sâu trong nội dung tư tưởng – cảm xúc. Đó là sự trân trọng, thiết tha với mọi nghĩa tình, ân tình, đề cao đạo lí thuỷ chung, son sắt vốn là những quan niệm đạo lí và cách sống đã thành truyền thống của dân tộc và được thể hiện sâu đậm trong ca dao, dân ca.
c) Kết bài
Nhờ thấm đượm phong vị ca dao dân ca mà bài thơ nói chung, đoạn trích nói riêng đã có được sự hoà quyện, thống nhất giữa nội dung mang tính cách mạng với truyền thống tinh thần và thẩm mĩ của dân tộc, làm cho tư tưởng, tình cảm, hiện thực của thời đại nhập vào nguồn mạch dân tộc một cách tự nhiên.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 3
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 3)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“Cần lưu ý là dưới những danh từ truyền thống như chí, công danh, phận sự,… Nguyễn Công Trứ đã lồng vào đó những nội dung của ý thức cá nhân, ngược với thánh hiền. Khổng Tử nói: “Kẻ sĩ chí ở đạo, nếu xấu hổ về nỗi áo xấu cơm thô thì không thể cùng bàn bạc về đạo” (Lý nhân). Khổng Tử lại nói: “Người quân tử làm việc đời, không có gì là thích hay không thích, hợp với nghĩa thì làm” (Lý nhân). Nguyễn Công Trứ đề cao hai chữ “thích chí”, và chí của ông là chí được thi thố tài năng cá nhân, “Làm nên đấng anh hùng đấu đấy tỏ”, lấy việc nghèo khổ làm điều xấu xa, nhục nhã (Hàn nho phong vị phú). Khổng Tử đối lập quân tử và tiểu nhân ở chỗ người quân tử chỉ chăm lo đạo đức cao thượng còn tiểu nhân chỉ chăm lo ăn sung mặc sướng. Nguyễn Công Trứ coi trọng cả hai: “Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ”, “Càng tài tử càng nhiêu tình ái”,… Khổng Tử chủ trương sống khổ hạnh, xử thế nghiêm trang. Nguyễn Công Trứ xem đời là một cuộc chơi: “Đem ngàn vàng mua lấy tiếng cười – Phong lưu cho bõ kiếp người”. Có thể nói, dưới hình thức ngôn ngữ nhà nho, Nguyễn Công Trứ đã diễn đạt một ý thức cá nhân mới – thích chí, hành lạc.”
(Con người cá nhân trong văn học Việt Nam thế kỉ XIX – Trần Đình Sử)
Câu 1. Đoạn văn trên được viết theo phong cách ngỏn ngữ nào? (0,5 điểm)
Câu 2. Xác định thao tác lập luận chủ yếu của đoạn trích trên. (0,75 điểm)
Câu 3. Anh/Chị hiểu thế nào về ý thức cá nhân thích chí, hành lạc của Nguyễn Công Trứ? (1 điểm)
Câu 4. Thông điệp nào của đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị? (0,75 điểm)
II. LÀM VÀN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm) Viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề “công danh” trong cuộc sống hiện nay.
Câu 2. (5 điểm) Cảm nhận về phong vị dân gian trong đoạn thơ sau:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đẩu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
(Việt Bắc, Tố Hữu)
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ khoa học
Câu 2. Thao tác lập luận chủ yếu: Thao tác so sánh
Câu 3. Ý thức cá nhân thích chí, hành lạc của Nguyễn Công Trứ rất độc đáo và gây được ấn tượng với hậu thế. Theo Nguyễn Công Trứ, thích chí, hành lạc trước hết phải có khát vọng lập công danh, khẳng định được vị trí của mình ở trong cõi đời. Thứ hai, đó là yêu cầu về sự cân bằng giữa đạo đức và việc tận hưởng cuộc sống. Quan niệm của Khổng Tử là quan niệm quá cứng nhắc, gò bó con người trong những khuôn khổ tù túng. Nguyễn Công Trứ đã hướng đến sự giải phóng cá nhân cả về phương diện đạo đức lẫn phương diện đời sống thường nhật. Đây là một quan niệm rất tiến bộ, mới mẻ, cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Câu 4. Thí sinh trả lời theo cảm nhận của bản thân, không cần theo một đáp án có sẵn nào. Chỉ cần thí sinh đưa ra được thông điệp, giải thích một cách hợp lí lí do chọn thông điệp đó thì có thể đạt điểm tuyệt đối.
II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Giải thích khái niệm công danh, khái quát quan niệm công danh trong xã hội cũ.
– Nêu quan niệm của giới trẻ về công danh hiện nay.
– Rút ra bài học hành động.
Đoạn văn mẫu
Công danh là địa vị xã hội và tiếng tăm, là lí tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/Phải có danh gì với núi sông”. Hiện nay, một bộ phận lớn thanh niên vẫn giữ được khát vọng đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình với mong muốn xã hội tốt đẹp hơn. Họ có khả năng tự chủ về kinh tế, họ có lòng nhiệt thành để giúp đỡ những số phận bất hạnh,… Phần lớn các bạn trẻ ngày nay đặt mục tiêu là phải thật thành công trong cuộc sống, khẳng định được vị trí của mình trong xã hội. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ thanh niên lại không suy nghĩ được như thế. Họ sống hờ hững với những gì diễn ra xung quanh, sống theo quan niệm: “Được đến đâu thì hay đến đó”, “Nước đến chân mới nhảy”, chỉ biết nghĩ cho riêng mình, không nỗ lực, không cố gắng. Từ việc hiểu về khái niệm công danh, thanh niên chúng ta cán phải biết và tạo cho mình một lý tựởng sống cao đẹp, vì mọi người, vì quê hương đất nước.
Câu 2. (5 điểm)
– Viết đúng kết cấu bài văn ba phần.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Bài cần đảm bảo các ý sau:
a) Mở bài
– Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Bài thơ Việt Bắc được viết vào tháng 10 năm 1954, thời điểm diễn ra cuộc chia tay giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Tác phẩm là khúc ca trữ tình nồng nàn, đắm say về những lẽ sống lớn, ân tình lớn của con người cách mạng.
– Phong vị dân gian là một đặc điểm nổi bật của bài thơ, được thể hiện xuất sắc trong đoạn thơ sau:
“Ta với mình, mình với ta
……
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
b) Thân bài
*Phân tích khái quát đoạn thơ
– Khẳng định tình nghĩa
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.
Câu thơ “Ta với mình/mình với ta” ngắt nhịp 3/3, cặp đại từ mình – ta lặp lại, xoắn xuýt để thể hiện sự quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt. Câu thơ tiếp theo với nhịp ngắt 2/2/2/2 chắc khoẻ là lời khẳng định chắc chắn “lòng ta – sau trước – mặn mà – đinh ninh”. Tiếp đó, “Mình đi mình lại nhớ mình” là sự láy lại, là câu trả lời cho sự băn khoăn của người ở lại trong khổ thơ trên, “Mình đi mình có nhớ mình”. Và để cụ thể cho nỗi nhớ ấy, tác giả mượn cách so sánh, cách đo đếm đậm màu sắc dân gian: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
*Tái hiện hình ảnh Việt Bắc trong hồi tưởng
– Nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
+ Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm.
* Phân tích phong vị dân gian trong đoạn thơ
– Khái niệm phong vị dân gian: Được hiểu là chất dân gian, là màu sắc, hương vị dân gian.
– Phong vị dân gian trong bài thơ Việt Bắc được tạo nên từ cách vận dụng nhuần nhuyễn những yếu tố nghệ thuật quen thuộc của văn học dân gian. Đoạn trích nêu trên thể hiện rất rõ phong vị dân gian đó.
+ Biểu hiện 1: Kết cấu đối đáp trong khung cảnh chia tay đầy lưu luyến – đây là một mô-típ quen thuộc trong ca dao, dân ca.
+ Biểu hiện 2: Những từ “mình” “ta” và cấu trúc lời hỏi, lời đáp đối ứng, gợi nhớ đến những câu ca dao về tình cảm lứa đôi.
+ Biểu hiện 3: Nhiều hình ảnh ước lệ quen thuộc của ca dao, dân ca được Tố Hữu sử dụng rất thích hợp với khung cảnh và tâm trạng trong bài thơ như “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”, “nhớ gì như nhớ người yêu”…
+ Biểu hiện 4: Phong vị ấy còn thể hiện ở âm điệu thiết tha, quyến luyến như những lời ru trong ca dao, dân ca.
+ Biểu hiện 5: Không chỉ dừng ở những yếu tố hình thức, phong vị ca dao, dân ca của bài Việt Bắc nói chung, đoạn trích nói riêng còn thấm sâu trong nội dung tư tưởng – cảm xúc. Đó là sự trân trọng, thiết tha với mọi nghĩa tình, ân tình, đề cao đạo lí thuỷ chung, son sắt vốn là những quan niệm đạo lí và cách sống đã thành truyền thống của dân tộc và được thể hiện sâu đậm trong ca dao, dân ca.
c) Kết bài
Nhờ thấm đượm phong vị ca dao dân ca mà bài thơ nói chung, đoạn trích nói riêng đã có được sự hoà quyện, thống nhất giữa nội dung mang tính cách mạng với truyền thống tinh thần và thẩm mĩ của dân tộc, làm cho tư tưởng, tình cảm, hiện thực của thời đại nhập vào nguồn mạch dân tộc một cách tự nhiên.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 4
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 4)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIẾM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
NGỤ NGÔN CỦA MỖI NGÀY
Ngồi cùng trang giấy nhỏ
Tôi đi học mỗi ngày
Tôi học cây xương rồng
Trời xanh cùng nắng, bão
Tôi học trong nụ hồng
Màu hoa chừng rỏ máu
Tôi học lời ngọn gió
Chẳng bao giờ vu vơ
Tôi học lời của biển
Đừng hạn hẹp bến bờ
Tôi học lời con trẻ
Về thế giới sạch trong
Tôi học lời già cả
Về cuộc sống vô cùng
Tôi học lời chim chóc
Đang nói về bình minh
Và trong bia mộ đá
Lời răn dạy đời mình.
(Đỗ Trung Quân)
Câu 1. Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ nào? Phương thức biểu đạt chính là gì? (0,5 điểm)
Câu 2. Chỉ ra biện pháp tu từ nổi bật được sử dụng trong văn bản. (0,5 điểm)
Câu 3. Theo anh/chị, tác giả đã học được những bài học gì trong các câu thơ sau: (1 điểm)
Tôi học cây xương rồng
Trời xanh cùng nắng, bão
Tôi học trong nụ hồng
Màu hoa chừng rỏ máu.
Câu 4. Đọc văn bản, anh/chị hiểu như thế nào vê’ ý nghĩa của nhan đề: “Ngụ ngôn của mỗi ngày”? (1 điểm)
II. LÀM VĂN ( 7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị vể quan niệm học của nhà thơ Đỗ Trung Quân trong phẩn Đọc hiểu.
Câu 2. (5 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu bên dưới:
Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự đo.
Bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được…
(Trích Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật; Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 2. Biện pháp tu từ nổi bật: Điệp cấu trúc: Tôi học.., tôi học lời… (0,5 điểm)
Câu 3. TÁc giả học được những bài học quý từ thiên nhiên: Cây xương rồng cho bài học yề nghị lực sống trong môi trường rộng lớn (trời xanh) và khắc nghiệt (nắng bão); nụ hồng cho bài học về những gì đẹp đẽ (màu hoa) có khi phải trả giá bằng cả nỗi đau (rỏ máu). (1 điểm)
Câu 4. Ý nghĩa nhan đề: Mỗi ngày, cuộc sống quanh ta đểu mang đến cho ta những bài học quý báu như những câu chuyện ngụ ngôn vậy. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
– Viết đúng một đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
– Quan niệm về việc học của Đỗ Trung Quân:
+ Là quan niệm đúng đắn về việc học. (0,5 điểm)
+ Việc học không chỉ là học tập trên trường lớp, trong sách vở mà còn là hành trình mỗi người tự trải nghiệm và khám phá từ cuộc sống. (1 điểm)
– Bài học: Học là quá trình chúng ta trau dồi thường xuyên, mỗi ngày. (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu:
Sự học giống như một quyển sách không có trang cuối. Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã nêu lên những quan niệm đúng đắn về học thông qua bài thơ Ngụ ngôn của mỗi ngày. Đó là học trong sách vở và học ở cuộc sống xung quanh. Thiên nhiên, con người quanh ta luôn là người thầy vĩ đại, dạy cho ta những bài học vô giá. Bởi học không phải chỉ là tiếp thu trì thức mà còn là quá trình làm giàu cho tâm hổn bằng lòng yêu thương rộng lớn như biển cả, bằng nghị lực ý chí vượt chông gai, bằng sự biết ơn,… Chỉ có cuộc sống mới dạy ta đẩy đủ và ý nghĩa nhất tất cả những điều đó. Cuộc sống là trường đại học của mỗi người. Hãy mở lòng mình với cuộc sống và con người quanh ta để thấy yêu hơn cuộc sống này và nhận những bài học ý nghĩa mà cuộc sống dạy ta. Như thế, sự học là quá trình trau dồi thường xuyên hằng ngày để mở rộng hiểu biết và để hoàn thiện nhân cách sống.
Câu 2. (5 điểm)
– Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Biết cách chọn và phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.
– Bài viết mạch lạc, trong sáng, cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh có thể trình bày theo nhiểu cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác phẩm, đoạn trích.
b) Thân bài
1. Khái quát hoàn cảnh, mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận của tác phẩm
2. Vị trí và vai trò của đoạn trích: Là đoạn mở đầu, có vai trò đặt vấn đề cho bản Tuyên ngôn Độc lập.
3. Nhiệm vụ của phấn mở đầu bản Tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài.
Nguyên lí của Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc. Nhưng ở đây Bác không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà dẫn lời bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của tất cả các dân tộc.
4. Ý nghĩa sâu sắc
– Dẫn dắt hai bản tuyên ngôn nổi tiếng đã thành những chân lí tiến bộ được cả thế giới thừa nhận, Hồ Chí Minh đã tạo sức thuyết phục cho phần đặt vấn đề gián tiếp, thể hiện tầm hiểu biết sâu rộng của Bác.
– Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết:
+ Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khoá miệng” bọn thực dân Pháp, đế quốc Mĩ đang âm mưu xâm lược nước ta.
– Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại, của hai nước lớn, như thế cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1791). Đằng sau nghệ thuật viết văn nghị luận là một niềm tự hào dân tộc chan chứa của Hồ Chí Minh.
– Sau khi nhắc đến quyền tự do, bình đẳng của mỗi người trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dần tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyển sung sướng và quyển tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” ấy là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX.
5. Nghệ thuật: Mở đầu bằng lời hô gọi thu hút: “Hỡi đồng bào cả nước” và kết thúc phần đặt vấn đề bằng một câu khẳng định chắc nịch: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Với lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng tiêu biểu, giọng văn hùng hồn, đoạn văn mở đầu đã nhấn mạnh cơ sở pháp lí vững chắc cho lời tuyên bố độc lập ở phần sau.
c) Kết bài
Khẳng định lại đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại được viết bằng một nghệ thuật đặc sắc, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 4
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 4)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIẾU (3 ĐIẾM)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
NGỤ NGÔN CỦA MỖI NGÀY
Ngồi cùng trang giấy nhỏ
Tôi đi học mỗi ngày
Tôi học cây xương rồng
Trời xanh cùng nắng, bão
Tôi học trong nụ hồng
Màu hoa chừng rỏ máu
Tôi học lời ngọn gió
Chẳng bao giờ vu vơ
Tôi học lời của biển
Đừng hạn hẹp bến bờ
Tôi học lời con trẻ
Về thế giới sạch trong
Tôi học lời già cả
Về cuộc sống vô cùng
Tôi học lời chim chóc
Đang nói về bình minh
Và trong bia mộ đá
Lời răn dạy đời mình.
(Đỗ Trung Quân)
Câu 1. Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ nào? Phương thức biểu đạt chính là gì? (0,5 điểm)
Câu 2. Chỉ ra biện pháp tu từ nổi bật được sử dụng trong văn bản. (0,5 điểm)
Câu 3. Theo anh/chị, tác giả đã học được những bài học gì trong các câu thơ sau: (1 điểm)
Tôi học cây xương rồng
Trời xanh cùng nắng, bão
Tôi học trong nụ hồng
Màu hoa chừng rỏ máu.
Câu 4. Đọc văn bản, anh/chị hiểu như thế nào vê’ ý nghĩa của nhan đề: “Ngụ ngôn của mỗi ngày”? (1 điểm)
II. LÀM VĂN ( 7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị vể quan niệm học của nhà thơ Đỗ Trung Quân trong phẩn Đọc hiểu.
Câu 2. (5 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu bên dưới:
Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự đo.
Bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được…
(Trích Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1. Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật; Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm. (0,5 điểm)
Câu 2. Biện pháp tu từ nổi bật: Điệp cấu trúc: Tôi học.., tôi học lời… (0,5 điểm)
Câu 3. TÁc giả học được những bài học quý từ thiên nhiên: Cây xương rồng cho bài học yề nghị lực sống trong môi trường rộng lớn (trời xanh) và khắc nghiệt (nắng bão); nụ hồng cho bài học về những gì đẹp đẽ (màu hoa) có khi phải trả giá bằng cả nỗi đau (rỏ máu). (1 điểm)
Câu 4. Ý nghĩa nhan đề: Mỗi ngày, cuộc sống quanh ta đểu mang đến cho ta những bài học quý báu như những câu chuyện ngụ ngôn vậy. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1.(2 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
– Viết đúng một đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
– Quan niệm về việc học của Đỗ Trung Quân:
+ Là quan niệm đúng đắn về việc học. (0,5 điểm)
+ Việc học không chỉ là học tập trên trường lớp, trong sách vở mà còn là hành trình mỗi người tự trải nghiệm và khám phá từ cuộc sống. (1 điểm)
– Bài học: Học là quá trình chúng ta trau dồi thường xuyên, mỗi ngày. (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu:
Sự học giống như một quyển sách không có trang cuối. Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã nêu lên những quan niệm đúng đắn về học thông qua bài thơ Ngụ ngôn của mỗi ngày. Đó là học trong sách vở và học ở cuộc sống xung quanh. Thiên nhiên, con người quanh ta luôn là người thầy vĩ đại, dạy cho ta những bài học vô giá. Bởi học không phải chỉ là tiếp thu trì thức mà còn là quá trình làm giàu cho tâm hổn bằng lòng yêu thương rộng lớn như biển cả, bằng nghị lực ý chí vượt chông gai, bằng sự biết ơn,… Chỉ có cuộc sống mới dạy ta đẩy đủ và ý nghĩa nhất tất cả những điều đó. Cuộc sống là trường đại học của mỗi người. Hãy mở lòng mình với cuộc sống và con người quanh ta để thấy yêu hơn cuộc sống này và nhận những bài học ý nghĩa mà cuộc sống dạy ta. Như thế, sự học là quá trình trau dồi thường xuyên hằng ngày để mở rộng hiểu biết và để hoàn thiện nhân cách sống.
Câu 2. (5 điểm)
– Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Biết cách chọn và phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.
– Bài viết mạch lạc, trong sáng, cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh có thể trình bày theo nhiểu cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
a) Mở bài
Giới thiệu tác phẩm, đoạn trích.
b) Thân bài
1. Khái quát hoàn cảnh, mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận của tác phẩm
2. Vị trí và vai trò của đoạn trích: Là đoạn mở đầu, có vai trò đặt vấn đề cho bản Tuyên ngôn Độc lập.
3. Nhiệm vụ của phấn mở đầu bản Tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài.
Nguyên lí của Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc. Nhưng ở đây Bác không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà dẫn lời bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của tất cả các dân tộc.
4. Ý nghĩa sâu sắc
– Dẫn dắt hai bản tuyên ngôn nổi tiếng đã thành những chân lí tiến bộ được cả thế giới thừa nhận, Hồ Chí Minh đã tạo sức thuyết phục cho phần đặt vấn đề gián tiếp, thể hiện tầm hiểu biết sâu rộng của Bác.
– Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết:
+ Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khoá miệng” bọn thực dân Pháp, đế quốc Mĩ đang âm mưu xâm lược nước ta.
– Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại, của hai nước lớn, như thế cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1791). Đằng sau nghệ thuật viết văn nghị luận là một niềm tự hào dân tộc chan chứa của Hồ Chí Minh.
– Sau khi nhắc đến quyền tự do, bình đẳng của mỗi người trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dần tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyển sung sướng và quyển tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” ấy là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX.
5. Nghệ thuật: Mở đầu bằng lời hô gọi thu hút: “Hỡi đồng bào cả nước” và kết thúc phần đặt vấn đề bằng một câu khẳng định chắc nịch: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Với lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng tiêu biểu, giọng văn hùng hồn, đoạn văn mở đầu đã nhấn mạnh cơ sở pháp lí vững chắc cho lời tuyên bố độc lập ở phần sau.
c) Kết bài
Khẳng định lại đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại được viết bằng một nghệ thuật đặc sắc, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 5
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 5)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
(1) Một lần tình cờ tôi đọc được bài viết “Hạnh phúc là gì?” trên blog của một người bạn. (2) Bạn ấy viết rằng: “Hạnh phúc là được nằm trong chăn ấm xem ti-vi cùng với gia đình. (3) Hạnh phúc là được trùm chăn kín và được mẹ pha cho cốc sữa nóng. (4) Hạnh phúc là được cùng đứa bạn thân nhong nhong trên khắp phố. (5) Hạnh phúc là ngồi co ro hàng giờ trong quán cà phê, nhấm nháp li ca-cao nóng và bàn chuyện chiến sự… thế giới cùng anh em chiến hữu…”.
(6) Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao? (7) ừ nhỉ! (8) Dường như lâu nay chúng ta chỉ quen với việc than phiền mình bất hạnh chứ ít khi biết được rằng mình đang hạnh phúc. (9) Hãy một lần thử nghĩ xem: Khi chúng ta than phiền vì bố mẹ quá quan tầm đến chuyện của mình thì ngoài kia biết bao nhiêu người thèm hơi ấm của mẹ, thèm tiếng cười của bố, thèm được vẽ nhà để được mắng; khi chúng ta cảm thấy thiệt thòi khỉ không được ngồi xe hơi chỉ vì phải chạy xe máy giữa trời nắng thì ngoài kia biết bao nhiêu bạn của chúng ta mồ hôi nhễ nhại, gò mình đạp xe lên những con dốc vắng; khi chúng ta bất mãn với chuyện học hành quá căng thẳng thì ngoài kia biết bao người đang khao khát một lần được đến trường, một lần được cầm cây bút để viết lên những ước mơ; khi chúng ta…
(Dẫn theo Bài tập Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục, 2007)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Tại sao tác giả lại “Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao?”? (1 điểm)
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu (9). (1 điểm)
Câu 4. Anh/Chị hãy rút ra thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích trên? (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. Qua đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) bày tỏ suy nghĩ của mình về: Hạnh phúc của giới trẻ trong thời đại ngày nay. (2 điểm)
Anh/Chị hãy phân tích đoạn thơ sau để làm rõ nét đặc sắc trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
(Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
I. ĐỌC HIỂU(3 ĐIỂM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ chính luận. (0,5 điểm)
Câu 2. (1 điểm)
Tác giả “Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao?” bởi vì:
– Khi nghĩ đến hạnh phúc thì con người thường nghĩ đến những gì cao xa, to lớn nhưng thực ra hạnh phúc là những gì rất giản dị, gần gũi quanh ta. (0,5 điểm)
– Con người thường không nhận ra giá trị của những gì mình đang có, vì vậy thường “than phiền mình bất hạnh chứ ít khi biết được rằng mình đang hạnh phúc”. (0,5 điểm)
Câu 3. (1 điểm)
Những biện pháp tu từ được sử dụng trong câu (9): liệt kê, điệp ngữ, tương phản-đối lập. (0,5 điểm)
– Tác dụng:
+ Tạo giọng điệu thiết tha, hùng hồn, mạnh mẽ để tăng tính thuyết phục. (0,25 điểm)
+ Nhấn mạnh sự tương phản về hoàn cảnh của chúng ta và biết bao nhiêu người để từ đó gợi ra quan niệm về một hạnh phúc giản đơn. (0,25 điểm)
Câu 4. (0,5 điểm)
Thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích: Chúng ta cần biết trân trọng những hạnh phúc bình dị, giản đơn nhưng thiết thực trong cuộc sống.
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
– Biết cách viết đoạn văn nghị luận xã hội, vận dụng tốt các thao tác lập luận để giải quyết vấn đề một cách thuyết phục.
– Đoạn văn mạch lạc, rõ ràng; hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
Yêu cầu về kiến thức
Có thể có những quan điểm khác nhau nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức, lẽ phải. Dưới đây chỉ là những định hướng cơ bản:
Hạnh phúc là một trạng thái tâm lí của con người khi ta cảm thấy vui vẻ, thoả mãn.
Bàn luận (1 điểm)
– Quan niệm của giới trẻ về hạnh phúc: (0,5 điểm)
+ Hạnh phúc là hưởng thụ.
+ Hạnh phúc là trải nghiệm.
+ Hạnh phúc là sống vì người khác.
+ Hạnh phúc là hài hoà giữa lợi ích của cá nhân và cộng đổng…
– Vì sao giới trẻ hiện nay lại có những quan niệm khác nhau vể hạnh phúc? (0,5 điểm)
+ Trong thời đại kinh tế xã hội ngày càng phát triển, con người dễ coi trọng lối sống yật chất, dễ nảy sinh quan niệm hạnh phúc là hưởng thụ.
+ Thời đại ngày nay cũng đặt ra nhiều thách thức, cơ hội, vì vậy giới trẻ cũng năng động hơn, dám sống dám trải nghiệm, dám hi sinh vì người khác…
– Bài học nhận thức và hành động (0,5 điểm)
+ Cần có những quan niệm đúng đắn về hạnh phúc.
+ Luôn hoàn thiện mình để hướng tới một hạnh phúc chân chính.
Lưu ý: Nếu viết không đúng hình thức đoạn văn sẽ trừ 0,5 điểm.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
Hiểu đề, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn để. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
Yêu cầu về kiến thức:
Cần đáp ứng được những ý cơ bản sau:
1. Giới thiệu chung: (0,5 điểm)
Giới thiệu về Nguyễn Khoa Điềm, chương thơ Đất Nước và đoạn trích.
2. Phân tích (4 điểm)
1. Tổng quát (0,5 điểm)
a) Vị trí đoạn thơ (0,25 điểm)
Đất Nước thuộc phẩn đầu chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng, được chia làm hai phần. Phần một là những cảm nhận mới mẻ về đất nước. Phần hai là tư tưởng: “Đất Nước của Nhân dân”. Đoạn thơ nằm ở phần một của đoạn trích Đất Nước.
b) Khái quát giá trị nổi bật của đoạn thơ (0,25 điểm)
Đoạn thơ là cảm nhận về đất nước gắn với những gì bình dị, thân thiết đối với mỗi con người, từ ngữ giản dị, trong sáng mà vẫn giàu sức gợi.
2. Nét đặc sắc trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước (3,5 điểm)
a) Quan niệm về đất nước là những gì gần gũi, thân thuộc nhất
– Đất hước là sự thống nhất của các mối quan hệ: cá nhân với cá nhân (Khi hai đứa cầm tay), cá nhân với cộng đồng (Khi chúng ta cầm tay mọi người), thế hệ này với thế hệ khác (Mai này con ta lớn lên/ Con sẽ mang Đất Nước đi xa..(1 điểm)
b) Trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước
– Từ cảm nhận sâu sắc, mới mẻ về đất nước, tác giả nhắn nhủ với thế hệ trẻ Đất Nước là máu xương- nghĩa là máu thịt, là một- phần sự sống của mình. Vì thế, thế hệ trẻ phải biết gắn bó, san sẻ, phải có trách nhiệm với đất nước. Đồng thời, phải biết hoá thân bằng hành động sẵn sàng hi sinh cho đất nước. Có như thế, đất nước mới bền vững muôn đời. (1 điểm)
– Đoạn thơ có những câu mang sắc thái mệnh lệnh với sự lặp lại cụm từ “phải biết”, nhưng đây là mệnh lệnh của trái tim, của tình cảm gắn bó thiết tha với đất nước. Từ “Đất Nước” được viết hoa, lặp lại sáu lần là bản thông điệp về trách nhiệm và lòng tự hào của tuổi trẻ đối với đất nước. (0,75 điểm)
3. Đánh giá chung (0,5 điểm)
– Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hoá thân trong những gì bình dị, gần gũi, thân thiết đối với mỗi con người.
– Đất nước là sự hài hoà trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Sự sống mỗi cá nhân không phải chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hoá tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân.
– Đánh thức được ở thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm với đất nước. Tuy là đoạn thơ chính luận nhưng người đọc không cảm thấy đó là những lời “giáo huấn” mà chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân thành, tha thiết.
– Sử dụng những từ ngữ, hình ảnh giản dị, trong sáng mà vẫn giàu sức gợi; thể thơ tự do, biến đổi linh hoạt về nhịp điệu; có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận và trữ tình.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 5
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 5)
A. ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
(1) Một lần tình cờ tôi đọc được bài viết “Hạnh phúc là gì?” trên blog của một người bạn. (2) Bạn ấy viết rằng: “Hạnh phúc là được nằm trong chăn ấm xem ti-vi cùng với gia đình. (3) Hạnh phúc là được trùm chăn kín và được mẹ pha cho cốc sữa nóng. (4) Hạnh phúc là được cùng đứa bạn thân nhong nhong trên khắp phố. (5) Hạnh phúc là ngồi co ro hàng giờ trong quán cà phê, nhấm nháp li ca-cao nóng và bàn chuyện chiến sự… thế giới cùng anh em chiến hữu…”.
(6) Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao? (7) ừ nhỉ! (8) Dường như lâu nay chúng ta chỉ quen với việc than phiền mình bất hạnh chứ ít khi biết được rằng mình đang hạnh phúc. (9) Hãy một lần thử nghĩ xem: Khi chúng ta than phiền vì bố mẹ quá quan tầm đến chuyện của mình thì ngoài kia biết bao nhiêu người thèm hơi ấm của mẹ, thèm tiếng cười của bố, thèm được vẽ nhà để được mắng; khi chúng ta cảm thấy thiệt thòi khỉ không được ngồi xe hơi chỉ vì phải chạy xe máy giữa trời nắng thì ngoài kia biết bao nhiêu bạn của chúng ta mồ hôi nhễ nhại, gò mình đạp xe lên những con dốc vắng; khi chúng ta bất mãn với chuyện học hành quá căng thẳng thì ngoài kia biết bao người đang khao khát một lần được đến trường, một lần được cầm cây bút để viết lên những ước mơ; khi chúng ta…
(Dẫn theo Bài tập Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục, 2007)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Tại sao tác giả lại “Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao?”? (1 điểm)
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu (9). (1 điểm)
Câu 4. Anh/Chị hãy rút ra thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích trên? (0,5 điểm)
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. Qua đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) bày tỏ suy nghĩ của mình về: Hạnh phúc của giới trẻ trong thời đại ngày nay. (2 điểm)
Anh/Chị hãy phân tích đoạn thơ sau để làm rõ nét đặc sắc trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
(Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
I. ĐỌC HIỂU(3 ĐIỂM)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ chính luận. (0,5 điểm)
Câu 2. (1 điểm)
Tác giả “Bất chợt giật mình, hạnh phúc đơn giản vậy sao?” bởi vì:
– Khi nghĩ đến hạnh phúc thì con người thường nghĩ đến những gì cao xa, to lớn nhưng thực ra hạnh phúc là những gì rất giản dị, gần gũi quanh ta. (0,5 điểm)
– Con người thường không nhận ra giá trị của những gì mình đang có, vì vậy thường “than phiền mình bất hạnh chứ ít khi biết được rằng mình đang hạnh phúc”. (0,5 điểm)
Câu 3. (1 điểm)
Những biện pháp tu từ được sử dụng trong câu (9): liệt kê, điệp ngữ, tương phản-đối lập. (0,5 điểm)
– Tác dụng:
+ Tạo giọng điệu thiết tha, hùng hồn, mạnh mẽ để tăng tính thuyết phục. (0,25 điểm)
+ Nhấn mạnh sự tương phản về hoàn cảnh của chúng ta và biết bao nhiêu người để từ đó gợi ra quan niệm về một hạnh phúc giản đơn. (0,25 điểm)
Câu 4. (0,5 điểm)
Thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích: Chúng ta cần biết trân trọng những hạnh phúc bình dị, giản đơn nhưng thiết thực trong cuộc sống.
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
– Biết cách viết đoạn văn nghị luận xã hội, vận dụng tốt các thao tác lập luận để giải quyết vấn đề một cách thuyết phục.
– Đoạn văn mạch lạc, rõ ràng; hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
Yêu cầu về kiến thức
Có thể có những quan điểm khác nhau nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức, lẽ phải. Dưới đây chỉ là những định hướng cơ bản:
Hạnh phúc là một trạng thái tâm lí của con người khi ta cảm thấy vui vẻ, thoả mãn.
Bàn luận (1 điểm)
– Quan niệm của giới trẻ về hạnh phúc: (0,5 điểm)
+ Hạnh phúc là hưởng thụ.
+ Hạnh phúc là trải nghiệm.
+ Hạnh phúc là sống vì người khác.
+ Hạnh phúc là hài hoà giữa lợi ích của cá nhân và cộng đổng…
– Vì sao giới trẻ hiện nay lại có những quan niệm khác nhau vể hạnh phúc? (0,5 điểm)
+ Trong thời đại kinh tế xã hội ngày càng phát triển, con người dễ coi trọng lối sống yật chất, dễ nảy sinh quan niệm hạnh phúc là hưởng thụ.
+ Thời đại ngày nay cũng đặt ra nhiều thách thức, cơ hội, vì vậy giới trẻ cũng năng động hơn, dám sống dám trải nghiệm, dám hi sinh vì người khác…
– Bài học nhận thức và hành động (0,5 điểm)
+ Cần có những quan niệm đúng đắn về hạnh phúc.
+ Luôn hoàn thiện mình để hướng tới một hạnh phúc chân chính.
Lưu ý: Nếu viết không đúng hình thức đoạn văn sẽ trừ 0,5 điểm.
Câu 2. (5 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng
Hiểu đề, biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn để. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
Yêu cầu về kiến thức:
Cần đáp ứng được những ý cơ bản sau:
1. Giới thiệu chung: (0,5 điểm)
Giới thiệu về Nguyễn Khoa Điềm, chương thơ Đất Nước và đoạn trích.
2. Phân tích (4 điểm)
1. Tổng quát (0,5 điểm)
a) Vị trí đoạn thơ (0,25 điểm)
Đất Nước thuộc phẩn đầu chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng, được chia làm hai phần. Phần một là những cảm nhận mới mẻ về đất nước. Phần hai là tư tưởng: “Đất Nước của Nhân dân”. Đoạn thơ nằm ở phần một của đoạn trích Đất Nước.
b) Khái quát giá trị nổi bật của đoạn thơ (0,25 điểm)
Đoạn thơ là cảm nhận về đất nước gắn với những gì bình dị, thân thiết đối với mỗi con người, từ ngữ giản dị, trong sáng mà vẫn giàu sức gợi.
2. Nét đặc sắc trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước (3,5 điểm)
a) Quan niệm về đất nước là những gì gần gũi, thân thuộc nhất
– Đất hước là sự thống nhất của các mối quan hệ: cá nhân với cá nhân (Khi hai đứa cầm tay), cá nhân với cộng đồng (Khi chúng ta cầm tay mọi người), thế hệ này với thế hệ khác (Mai này con ta lớn lên/ Con sẽ mang Đất Nước đi xa..(1 điểm)
b) Trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước
– Từ cảm nhận sâu sắc, mới mẻ về đất nước, tác giả nhắn nhủ với thế hệ trẻ Đất Nước là máu xương- nghĩa là máu thịt, là một- phần sự sống của mình. Vì thế, thế hệ trẻ phải biết gắn bó, san sẻ, phải có trách nhiệm với đất nước. Đồng thời, phải biết hoá thân bằng hành động sẵn sàng hi sinh cho đất nước. Có như thế, đất nước mới bền vững muôn đời. (1 điểm)
– Đoạn thơ có những câu mang sắc thái mệnh lệnh với sự lặp lại cụm từ “phải biết”, nhưng đây là mệnh lệnh của trái tim, của tình cảm gắn bó thiết tha với đất nước. Từ “Đất Nước” được viết hoa, lặp lại sáu lần là bản thông điệp về trách nhiệm và lòng tự hào của tuổi trẻ đối với đất nước. (0,75 điểm)
3. Đánh giá chung (0,5 điểm)
– Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hoá thân trong những gì bình dị, gần gũi, thân thiết đối với mỗi con người.
– Đất nước là sự hài hoà trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Sự sống mỗi cá nhân không phải chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hoá tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân.
– Đánh thức được ở thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm với đất nước. Tuy là đoạn thơ chính luận nhưng người đọc không cảm thấy đó là những lời “giáo huấn” mà chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân thành, tha thiết.
– Sử dụng những từ ngữ, hình ảnh giản dị, trong sáng mà vẫn giàu sức gợi; thể thơ tự do, biến đổi linh hoạt về nhịp điệu; có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận và trữ tình.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 6
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 6)
A. ĐỀ THI
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
TRÁI TIM HOÀN HẢO
Tác giả: Khuyết danh
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chằng hề có một tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đểu đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: “Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!”. Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lẫy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cười nói:
– Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đây sẹo và vết cắt.
– Mỗi vết cắt trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè… Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thỉ họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tôi trao lại họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những nếp sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hi vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi.
Chàng trai đứng ỵên với giọt nước mắt lẳn trên má. Anh bước tới, xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trải tim đầy vết tích của cụ trao cho chàng trai. Çhúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh…
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 3. Theo anh/chị, vì sao tác giả cho rằng: “Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại.”?
Câu 4. Thông điệp nào của đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị?
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu: “Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh…”
Câu 2. (5 điểm)
Nhận xét về đoạn trích Đất Nước, có ý kiến cho rằng: Cái đặc sắc, độc đáo của đoạn thơ là sự cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp, nhiều bình diện và làm nổi bật tư tưởng: “Đất Nước của Nhân dân”.
Anh/Chị hãy phân tích đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm để làm sáng tỏ nhận định trên:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
………….
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
(Trích trường ca Mặt đường khát vọng, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIẾM)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: tự sự. (0,5 điểm)
Câu 2. Trao yêu thương sẽ nhận được yêu thương. (0,5 điểm)
Câu 3. Tác giả quan niệm như vậy bởi vì tình yêu bản chất là sự cho đi không tính toán. Với họ, trao yêu thương đã là hạnh phúc rồi. (1 điểm)
Câu 4. Thí sinh có thể chọn một thông điệp phù hợp (Ví dụ: Thông điệp về cho – nhận, thông điệp về đức hi sinh…) và lý giải vì sao đó là thông điệp ý nghĩa. (1 điểm).
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Giải thích câu nói (0,5 điểm)
+ Nghĩa đen
+ Nghĩa bóng
– Bình luận ý nghĩa rút ra từ câu nói. (1 điểm)
– Bài học rút ra. (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu
Câu chuyện kết thúc với câu nói đầy ý nghĩa: “Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh..Sau khi hiểu được vẻ đẹp của lối sống biết cho và nhận, anh thanh niên đã xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầỵ vết tích của cụ trao cho chàng trai. Hành động đó là biểu tượng đẹp về sự san sẻ tình yêu thương cho nhau giữa chàng trai với cụ già nói riêng và con người nói chung. Một lối sống đẹp không phải là lối sống ích kỉ mà là lối sống dám cho và dám nhận. Dám cho đi tình thương mà không hề tính toán, dám chia sẻ những gì mình có cho người còn thiếu thốn. Chẳng hạn như chia sẻ với đồng bào miền Trung mỗi mùa bão lụt. Đồng thời, chúng ta cũng nên mở rộng tâm hồn, đón nhận tình cảm của người khác. Chỉ vậy, tâm hồn ta mới phong phú, tươi đẹp. Đó mới là cách ứng xử hài hoà giữa cho và nhận trong cuộc sống.
Yêu cầu về kĩ năng
– Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn để văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Biết cách chọn và phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.
– Bài viết mạch lạc, trong sáng, cảm xúc, khống mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
a) Mở bài (0,5 điểm)
Giới thiệu tác giả, đoạn trích và ý kiến trong đề bài. (0,5 điểm)
b) Thân bài (4 điểm)
1. Giải thích, bình luận ý kiến (0,5 điểm)
– Ý kiến đã chỉ ra được đúng đặc sắc về mặt nội dung của đoạn trích. Đó là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
– Tư tưởng này để cao vai trò của người dân trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thật ra đã có manh nha từ trong lịch sử xa xưa. Những nhà tư tưởng lớn, những nhà vân lớn của dân tộc đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu) hoặc cảm thông sâu sắc với số phận của nhân dân, của mọi lớp người trong nhân dân (Nguyễn Du với Văn Chiêu hồn, Truyện Kiều). Đến giai đoạn chống Mĩ, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” một lần nữa được nhận, thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này.
a) Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thể hiện ở hình thức nghệ thuật (1 điểm)
– Nhà thơ trước hết đã lựa chọn thể loại trường ca – một thể thơ có dung lượng lớn, quy mô đồ sộ để khắc hoạ tẩm vóc kì vĩ của đất nước trong những thời khắc thiêng liêng nhất của lịch sử.
– Tác giả cũng lựa chọn hình thức trữ tình là lời tâm tình đằm thắm của một người con trai với một người con gái…
– Trong đoạn trích, chất liệu văn hoá, văn học dân gian đã trở thành chất liệu cơ bản để xây dựng hình tượng, thể hiện tư tưởng.
b) Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thể hiện ở nội dung (2,5 điểm)
Khái niệm đất nước thường được hiểu trên các phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá trong mối quan hệ với con người. Mang tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định rõ trong đoạn trích này: địa lí là hoá thân cuộc đời nhân dân, lịch sử do nhân dân tạo thành và văn hoá cũng do nhân dân xây dựng trong quá trình sinh sống.
– Địa lí của nhân dân: Nguyễn Khoa Điểm đã gợi niềm tự hào về địa lí quê hương bằng cách gợi ra những danh lam, thắng cảnh, những di tích lịch sử, văn hoá của đất nước. Mỗi địa danh ấy đều gắn với một truyền thuyết, một huyền thoại do nhân dân lao động sáng tạo ra để giải thích nguồn gốc sự hình thành của nó…
– Lịch sử của nhân dân: Lịch sử của dân tộc là lịch sử của hai công cuộc: lao động dựng xây và chiến đấu giữ gìn, cả hai công cuộc đó đều do nhân dân làm nên…
– Văn hoá của nhân dân: Nhà thơ đã gợi ra một cuộc chạy tiếp sức, không ngừng nghỉ của mọi thế hệ nhân dân để nuôi dưỡng, bồi đắp, lưu truyền dòng chảy văn hoá để kết nối các thế hệ. “Hạt lúa”, “ngọn lửa” là biểu tượng văn hoá vật chất của nền văn minh lúa nước ở Việt Nam; “giọng nói”, “tên xã, tên làng” là biểu tượng thiêng liêng của văn hoá tinh thẩn…
c) Kết bài (0,5 điểm)
Kết luận lại về đoạn trích, ý kiến trong đề bài.
|
Tuyển chọn đề thi Ngữ Văn kì thi THPT – Đề thi số 6
Hướng dẫn
Tuyển chọn đề thi THPT Ngữ Văn (Đề 6)
A. ĐỀ THI
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
TRÁI TIM HOÀN HẢO
Tác giả: Khuyết danh
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chằng hề có một tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đểu đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: “Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!”. Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lẫy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cười nói:
– Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đây sẹo và vết cắt.
– Mỗi vết cắt trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè… Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thỉ họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tôi trao lại họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những nếp sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hi vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi.
Chàng trai đứng ỵên với giọt nước mắt lẳn trên má. Anh bước tới, xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trải tim đầy vết tích của cụ trao cho chàng trai. Çhúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh…
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 3. Theo anh/chị, vì sao tác giả cho rằng: “Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại.”?
Câu 4. Thông điệp nào của đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị?
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu: “Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh…”
Câu 2. (5 điểm)
Nhận xét về đoạn trích Đất Nước, có ý kiến cho rằng: Cái đặc sắc, độc đáo của đoạn thơ là sự cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp, nhiều bình diện và làm nổi bật tư tưởng: “Đất Nước của Nhân dân”.
Anh/Chị hãy phân tích đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm để làm sáng tỏ nhận định trên:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
………….
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
(Trích trường ca Mặt đường khát vọng, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)
B. HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIẾM)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: tự sự. (0,5 điểm)
Câu 2. Trao yêu thương sẽ nhận được yêu thương. (0,5 điểm)
Câu 3. Tác giả quan niệm như vậy bởi vì tình yêu bản chất là sự cho đi không tính toán. Với họ, trao yêu thương đã là hạnh phúc rồi. (1 điểm)
Câu 4. Thí sinh có thể chọn một thông điệp phù hợp (Ví dụ: Thông điệp về cho – nhận, thông điệp về đức hi sinh…) và lý giải vì sao đó là thông điệp ý nghĩa. (1 điểm).
II. LÀM VĂN (7 ĐIỂM)
Câu 1. (2 điểm)
Yêu cầu về hình thức
– Viết đúng đoạn văn khoảng 200 từ.
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt,…
Yêu cầu về nội dung
Đoạn văn cần làm rõ được các ý sau:
– Giải thích câu nói (0,5 điểm)
+ Nghĩa đen
+ Nghĩa bóng
– Bình luận ý nghĩa rút ra từ câu nói. (1 điểm)
– Bài học rút ra. (0,5 điểm)
Đoạn văn mẫu
Câu chuyện kết thúc với câu nói đầy ý nghĩa: “Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh..Sau khi hiểu được vẻ đẹp của lối sống biết cho và nhận, anh thanh niên đã xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầỵ vết tích của cụ trao cho chàng trai. Hành động đó là biểu tượng đẹp về sự san sẻ tình yêu thương cho nhau giữa chàng trai với cụ già nói riêng và con người nói chung. Một lối sống đẹp không phải là lối sống ích kỉ mà là lối sống dám cho và dám nhận. Dám cho đi tình thương mà không hề tính toán, dám chia sẻ những gì mình có cho người còn thiếu thốn. Chẳng hạn như chia sẻ với đồng bào miền Trung mỗi mùa bão lụt. Đồng thời, chúng ta cũng nên mở rộng tâm hồn, đón nhận tình cảm của người khác. Chỉ vậy, tâm hồn ta mới phong phú, tươi đẹp. Đó mới là cách ứng xử hài hoà giữa cho và nhận trong cuộc sống.
Yêu cầu về kĩ năng
– Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn để văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Biết cách chọn và phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.
– Bài viết mạch lạc, trong sáng, cảm xúc, khống mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức
Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
a) Mở bài (0,5 điểm)
Giới thiệu tác giả, đoạn trích và ý kiến trong đề bài. (0,5 điểm)
b) Thân bài (4 điểm)
1. Giải thích, bình luận ý kiến (0,5 điểm)
– Ý kiến đã chỉ ra được đúng đặc sắc về mặt nội dung của đoạn trích. Đó là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
– Tư tưởng này để cao vai trò của người dân trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thật ra đã có manh nha từ trong lịch sử xa xưa. Những nhà tư tưởng lớn, những nhà vân lớn của dân tộc đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu) hoặc cảm thông sâu sắc với số phận của nhân dân, của mọi lớp người trong nhân dân (Nguyễn Du với Văn Chiêu hồn, Truyện Kiều). Đến giai đoạn chống Mĩ, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” một lần nữa được nhận, thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này.
a) Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thể hiện ở hình thức nghệ thuật (1 điểm)
– Nhà thơ trước hết đã lựa chọn thể loại trường ca – một thể thơ có dung lượng lớn, quy mô đồ sộ để khắc hoạ tẩm vóc kì vĩ của đất nước trong những thời khắc thiêng liêng nhất của lịch sử.
– Tác giả cũng lựa chọn hình thức trữ tình là lời tâm tình đằm thắm của một người con trai với một người con gái…
– Trong đoạn trích, chất liệu văn hoá, văn học dân gian đã trở thành chất liệu cơ bản để xây dựng hình tượng, thể hiện tư tưởng.
b) Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thể hiện ở nội dung (2,5 điểm)
Khái niệm đất nước thường được hiểu trên các phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá trong mối quan hệ với con người. Mang tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định rõ trong đoạn trích này: địa lí là hoá thân cuộc đời nhân dân, lịch sử do nhân dân tạo thành và văn hoá cũng do nhân dân xây dựng trong quá trình sinh sống.
– Địa lí của nhân dân: Nguyễn Khoa Điểm đã gợi niềm tự hào về địa lí quê hương bằng cách gợi ra những danh lam, thắng cảnh, những di tích lịch sử, văn hoá của đất nước. Mỗi địa danh ấy đều gắn với một truyền thuyết, một huyền thoại do nhân dân lao động sáng tạo ra để giải thích nguồn gốc sự hình thành của nó…
– Lịch sử của nhân dân: Lịch sử của dân tộc là lịch sử của hai công cuộc: lao động dựng xây và chiến đấu giữ gìn, cả hai công cuộc đó đều do nhân dân làm nên…
– Văn hoá của nhân dân: Nhà thơ đã gợi ra một cuộc chạy tiếp sức, không ngừng nghỉ của mọi thế hệ nhân dân để nuôi dưỡng, bồi đắp, lưu truyền dòng chảy văn hoá để kết nối các thế hệ. “Hạt lúa”, “ngọn lửa” là biểu tượng văn hoá vật chất của nền văn minh lúa nước ở Việt Nam; “giọng nói”, “tên xã, tên làng” là biểu tượng thiêng liêng của văn hoá tinh thẩn…
c) Kết bài (0,5 điểm)
Kết luận lại về đoạn trích, ý kiến trong đề bài.
|
TUẦN 11: Tập làm văn miêu tả lớp 3: Miêu tả về quê hương của em
Hướng dẫn
TUẦN 11: Tập làm văn miêu tả lớp 3
1. Hãy viết về quê hương em hoặc nơi em đang ở:
(Gợi ý:
+ Quê hương là nơi em sinh ra, lớn lên, nơi ông bà, cha mẹ, họ hàng của em sinh sống,…
+ Quê em có thể ở làng quê, nông thôn, cũng có thể ỏ các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh,… Nếu em ít biết vể quê hương, có thể kể vể nơi em đang ở cùng cha mẹ.
+ Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? (Sông, suối, hổ, núi, rừng cây, đồng ruộng, cây đa, bến đò, nhà của, phố xá,… đẹp như thế nào?)
+ Cảnh vật đó có gì đáng nhớ?
+ Tinh cảm của em với quê hương như thế nào? Nó có gắn liền với tuổi
thơ của em không? Có gắn với cuộc sống của những người thân không?
* Khi kể em cần sử dụng những từ gợi tả hoặc những hình ảnh so sánh để bài văn thêm sinh động.)
Bài tham khảo 1
Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng núi tỉnh Hoà Bình. Từ lúc rời quê lên Hà Nội học, lúc nào tôi cũng nhớ da diết về quê hương với những dãy núi cao, những dải đồi xanh ngát, những thửa ruộng bậc thang do thiên nhiên tự tạo càng tô thêm vẻ đẹp của núi rừng. Đó đây, những cụm nhà sàn khiêm nhường ẩn mình giữa những lùm cây. Dốc Cun ngày xưa một thời hiển hách, nay đã được san bằng và mở rộng cho những đoàn xe nối đuôi nhau lên Thuỷ điện Hoà Bình và đưa du khách về Khu du lịch sinh thái Kim Bôi. Mảnh đất quê hương tôi đang từng ngày, từng giờ thay da, đổi thịt. Nếu có dịp, xin mời các bạn một lần ghé qua quê hương tôi, chắc chắn các bạn sẽ hài lòng về con người và cảnh vật nơi đây.
Quê hương là gì hả mẹ?
Mà thầy cô dạy phải yêu nhiều
Quê hương là gì hả mẹ?
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều
Những câu thơ trên chứa đựng một tình cảm lớn lao đối với quê hương của mỗi người. Đó chính là nơi ta được sinh ra và lớn lên. Nó chở che ta những ngày ta còn thơ bé và luôn là chỗ dừng chân cho những người con xa quê đi làm ăn trở về sau những năm tháng bôn ba khắp mọi nơi.
Như một lẽ tất nhiên, các bạn ai cũng có quê hương và em cũng vậy. Trong trái tim em, quê em thật đẹp và em luôn tự hào về hai tiếng thiêng liêng ấy.
Quê em cũng như bao làng quê khác, có gốc đa, giếng nước, sân đình, có con sông quê hương chảy dài mang nước đến cho xóm làng, có cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, có những đàn trâu tung tăng gặm cỏ và đặc biệt nơi đây có những con người chất phác, sống với nhau bằng tình cảm rất chân thành. Em yêu quê hương không phải vì nó giàu sang, trù phú mà chính vì nó gắn bó với cuộc sống của dân làng và với tuổi thơ của những đứa trẻ như em. Nhớ đến mùa thu hoạch lúa, trời nắng gay gắt, các bác nông dân trên người lấm tấm mồ hôi vì mệt nhọc nhưng trên mặt vẫn hiện lên nụ cười rạng rỡ mừng vì một vụ lúa bội thu, em lại nhớ đến câu ca dao:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Nhớ cả những quán nước chè dưới những gốc cây cổ thụ phục vụ những cô bác nông dân đi làm đồng về, nhớ hình ảnh quen thuộc của những đứa trẻ đi mò cua, bắt ốc. Quê hương còn gắn với tuổi thơ của chúng em bằng những buổi chiều chạy theo những anh chị lớn hơn đi thả diều trên cánh đồng lúa đã được thu hoạch xong chỉ còn trơ gốc rạ, rồi đến món khoai nướng, ngô nướng quen thuộc của bọn trẻ chăn trâu. Yêu quê hương là yêu luôn cả những điều bình dị, mộc mạc, đơn sơ đó bởi vì chính những hình ảnh này làm nên quê hương của mỗi người.
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Quê hương luôn là niềm tự hào trong tâm trí em, sau này dù có đi đến nơi đâu đi chăng nữa, thì hình ảnh quê hương luôn khắc sâu trong trái tim em vì ở nơi đó có những người thân và kỉ niệm gắn với một thời thơ ấu không thể nào quên.
Bài tham khảo 3:
“Quê hương” là hai tiếng gọi thân thương nhất đối với mỗi một con người. Bởi đó là nơi chúng kiến ta sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Đối với em cũng vậy, quê hương em thật đẹp và mỗi lần nhắc gọi quê hương em thấy trong lòng trào dâng bao cảm xúc khó tả.
Quê hương em là một làng quê rất trù phú. Những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, những bãi ngô, nương dâu xanh tít tắp đến tận chân trời. Con đường làng ngoằn ngoèo, quanh co nhưng vô cùng sạch sẽ vì được làm bằng bê tông. Từ ngày có đường bê tông sạch sẽ, chúng em đi học không còn phải chịu cảnh lầy lội bùn đất như trước kia nữa.
Tuy rằng cuộc sống đã khấm khá hơn nhưng ở quê em, mọi người vẫn sống với nhau rất chan hòa, tình cảm. Khi bắt đầu một ngày mới, các bác nông dân thường rủ nhau ra đồng. Các chị hàng xén đẩy xe đi chợ, nói chuyện về giá cả hôm nay. Còn chúng em thì í ới gọi nhau đi học, cười đùa và nói chuyện làm cho làng xóm nhỏ trở nên xôn xao và tràn đầy sức sống hơn. Những buổi tối liên hoan văn nghệ, các cụ ông cụ bà cũng hào hứng đi xem rồi tham gia đọc thơ, kể chuyện nữa.
Những cánh diều đủ màu sắc, đủ hình dáng bay lên cao, cao mãi trên triền đê lộng gió có lẽ là hình ảnh mà em thích thú nhất. Hy vọng những ước mơ của chúng em sau này cũng sẽ bay cao, bay xa như thế.
Diện mạo quê hương em đang thay đổi từng ngày và ngày một giàu đẹp hơn. Em rất yêu quê hương của mình. Chính vì thế sau này, dù có đi đâu xa đi nữa thì em vẫn luôn nhớ về quê hương.
|
WEEK 11: Practice writing descriptive writing for grade 3: Describe your hometown
Instruct
WEEK 11: Practice writing descriptive writing for grade 3
1. Write about your hometown or where you are staying:
(Suggest:
+ Hometown is the place where you were born, grew up, where your grandparents, parents, relatives live,...
+ Your hometown can be in the countryside, it can also be in big cities like Hanoi, Hai Phong, Ho Chi Minh City, etc. If you know little about your hometown, you can tell about where you live. with parents.
+ What scene do you love most in your hometown? (How beautiful are rivers, streams, tigers, mountains, forests, fields, banyan trees, wharfs, houses, streets, etc.?)
+ What is memorable about that scene?
+ How do you feel about your homeland? It is associated with age
my poetry? Is it related to the lives of loved ones?
* When telling, you need to use descriptive words or comparative images to make the essay more vivid.)
Reference article 1
I was born and raised in the mountains of Hoa Binh province. Since leaving my hometown to study in Hanoi, I have always missed my homeland with its high mountains, green hills, and terraced fields created by nature, adding to the beauty of the mountains and forests. Here and there, clusters of humble stilt houses hide among the trees. Doc Cun, once glorious in the past, has now been leveled and expanded to allow convoys of vehicles to go to Hoa Binh Hydropower Plant and take tourists to Kim Boi Ecotourism Area. My homeland is changing its skin and flesh every day, every hour. If you have the opportunity, I would like to invite you to visit my hometown once, you will definitely be satisfied with the people and scenery here.
What is homeland mom?
But teachers teach us to love a lot
What is homeland mom?
But anyone who goes away remembers a lot
The above verses contain a great affection for each person's homeland. That is where we were born and raised. It sheltered us during our childhood days and was always a stopping place for children who were away from home working and returning after years of traveling everywhere.
Of course, everyone has a homeland and so do I. In my heart, my hometown is beautiful and I am always proud of those two sacred words.
My hometown is like many other villages, with a banyan tree, a well, a communal house yard, a long flowing hometown river that brings water to the villages, rice fields as straight as the stork flies, and herds of buffaloes freely grazing. And especially here there are simple people, living together with very sincere feelings. I love my homeland not because it is rich and prosperous, but because it is attached to the lives of villagers and to the childhood of children like me. Remembering the rice harvest season, when the sun was scorching hot, the farmers were covered in sweat from fatigue but still had a bright smile on their faces, happy for a bumper rice crop. I remembered the folk song. :
Someone please bring a bowl full of rice
A flexible aromatic bitter seeds want to share"
I remember the tea shops under the old trees serving the farmers returning from work in the fields, and the familiar images of children looking for crabs and snails. Our homeland is still associated with our childhood through the afternoons of following our older brothers and sisters to fly kites in rice fields that have been harvested, leaving only stubble, followed by our familiar grilled potatoes and corn. children herding buffaloes. Loving one's homeland means loving even those simple, rustic, simple things because it is these images that make up each person's homeland.
Each person's homeland is unique
Like there's only one mother
If anyone does not remember homeland
Will not grow into a human being
My homeland is always a pride in my mind. No matter where I go in the future, the image of my homeland will always be engraved in my heart because there are relatives and memories associated with a certain person. unforgettable childhood.
Reference article 3:
“Homeland” are the two dearest calls to every person. Because that is where we were born, grew up and matured. For me too, my hometown is so beautiful and every time I call it, I feel so many indescribable emotions welling up in my heart.
My hometown is a very prosperous village. The rice fields are as straight as the stork flies, the corn fields and mulberry fields are green as far as the horizon. The village road is zigzag and winding but extremely clean because it is made of concrete. Since the day there were clean concrete roads, we no longer had to endure mud and mud when going to school like before.
Even though life has gotten better, in my hometown, people still live together very harmoniously and affectionately. When starting a new day, farmers often invite each other to go to the fields. The shopkeepers pushed carts to the market and talked about today's prices. As for us, we called each other to go to school, laughed and talked, making the small village become more bustling and full of life. In the evenings of the arts festival, old men and women were also excited to watch and participate in reading poetry and telling stories.
Kites of all colors and shapes flying high and high on the windy dike slopes are probably the image that I enjoy the most. Hopefully our dreams will also fly high and far in the future.
The appearance of my hometown is changing every day and becoming richer and more beautiful. I love my homeland very much. That's why in the future, no matter where I go, I will always remember my homeland.
|
Tuần 12: Luyện từ và câu (Bảo vệ môi trường)
Hướng dẫn
TUẦN 12: LUYỆN TỪ VÀ CÂU
TIẾT 1: BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Câu 1: Đọc đoạn văn đã cho (SGK TV5 tập 1 trang 115).
a) Phân biệt nghĩa của các cụm từ: khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên.
Gợi ý: Phân biệt nghĩa của các cụm từ:
–Khu dân cư: Là khu vực dành cho nhân dân ăn ở, sinh hoạt.
–Khu sản xuất: Khu làm việc của các nhà máy, xí nghiệp…
–Khu bảo tồn thiên nhiên: Là khu vực trong đó các loài động thực vật, cảnh quan thiên nhiên được con người bảo vệ.
b) Mỗi từ ở cột A ứng với nghĩa nào của nó ở cột B.
Câu 2: Thay từ bảo vệ trong câu sau bằng một từ đồng nghĩa với nó. – Chúng em bảo vệ môi trường sạch đẹp.
Gợi ý: Thay từ bảo vệ bằng một từ đồng nghĩa trong câu đã cho, như sau:
–Chúng em giữ gìn (gìn giữ) môi trường sạch đẹp.
TIẾT 2: BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Câu 1: Tìm quan hệ từ trong đoạn trích SGK TV5 tập 1 trang 121 và cho biết mối quan hệ từ nối những từ ngữ nào trong câu?
Gợi ý: Tìm quan hệ từ và cho biết mối quan hệ từ nối những từ ngữ nào trong đoạn văn đã cho, như sau:
–Của: nối “cái cày” với “người H’möng”.
–Bằng: nối “bắp cày” với “gỗ tốt màu đen”.
–Như (2): nối “hùng dũng” với “một chàng hiệp sĩ đeo cung ra trận”.
Câu 2: Các từ in đậm được dùng trong mỗi câu dưới đây biểu thị những quan hệ gì?
a)Quân sĩ cùng nhân dân trong vùng tìm điTmọi cách đế cứu voi khỏi bãi lầy nhưng vô hiệu.
b)Thuyền chúng tôi tiếp tục chèo, đi tới ba nghìn thước rồi mà vẫn thấy chim đậu trắng xóa trên những cành cây gie sát ra sông.
c) Nếu hoa có ở trời cao
Thì bầy ong cũng mang vào mật thơm.
Gợi ý:Các từ in đậm trong các câu đã cho biểu thị những quan hệ:
–Từ nhưng trong câu (a) biểu thị quan hệ đối lập.
–Từ mà trong câu (b) biểu thị quan hệ đối lập.
–Cặp từ nếu…. thì trong câu (c) biểu thị quan hệ giả thiết – kết quả.
Câu 3: Tìm quan hệ từ (và, nhưng, trên, thì, ở, của) thích hợp với mỗi ô trống dưới đây:
a)Trời bây giờ trong vắt, thăm thẳm….. cao
b)Một vầng trâng tròn, to….. đỏ hồng hiện lên…… chân trời sau rặng tre đen….. một ngôi làng xa.
c)Trăng quầng……hạn, trăng tán….. mưa
d)Tôi đã đi nhiều nơi, đóng quân ở nhiều chỗ đẹp hơn đây nhiều, nhân dân coi tôi như người làng….. thương yêu tôi hết mực,…… sao sức quyến rũ, nhớ thương vẫn không mãnh liệt, day dứt bằng mảnh đất cọc cằn này.
–Câu (a) điền từ: và
–Câu (b) điền từ: và, ở, của
–Câu (c) điền từ: thì, thì
–Câu (d) điền từ: và, nhưng
Câu 4: Đặt một câu với mỗi quan hệ từ: mà, thì, bằng.
Gợi ý: Đặt câu với mỗi quan hệ từ đã cho, như sau:
–Mà: Ngày Chủ nhật lao động làm sạch đẹp môi trường mệt thật mà vui, phải không bạn?
–Thì: Cậu không chịu khó học bài thì không thể giỏi được đâu!
–Bằng: Chúng ta phải nỗ lực phấn đấu đạt bằng được danh hiệu học sinh giỏi bằng chính khả năng của mình.
|
Week 12: Practice words and sentences (Environmental protection)
Instruct
WEEK 12: PRACTICE WORDS AND SENTENCES
SECTION 1: ENVIRONMENTAL PROTECTION
Question 1: Read the given passage (Textbook TV5, volume 1, page 115).
a) Distinguish the meanings of the phrases: residential area, production area, nature reserve.
Hint: Distinguish the meanings of the phrases:
– Residential area: Is the area for people to live and live.
– Production area: Working area of factories, enterprises...
–Nature reserve: An area in which flora, fauna, and natural landscapes are protected by humans.
b) Each word in column A corresponds to its meaning in column B.
Question 2: Replace the word protect in the following sentence with a word that is synonymous with it. – We protect a clean and beautiful environment.
Hint: Replace the word protect with a synonym in the given sentence, as follows:
–We keep (preserve) a clean and beautiful environment.
SECTION 2: ENVIRONMENTAL PROTECTION
Question 1: Find the word relationship in the excerpt of TV5 textbook, volume 1, page 121 and tell which words in the sentence the word relationship connects?
Hint: Find word relationships and tell which words connect words in the given paragraph, as follows:
–Of: connects “plow” with “Hmöng people”.
–Bang: connects “wasp” with “good black wood”.
–Like (2): connects “heroic” with “a knight carrying a bow into battle”.
Question 2: What relationships do the words in bold used in each sentence below represent?
a) Soldiers and people in the area tried every way to save the elephant from the swamp but to no avail.
b) Our boat continued to row, going three thousand meters but still saw white birds perched on tree branches close to the river.
c) If flowers exist in the sky
The bees also bring in fragrant honey.
Hint: The words in bold in the given sentences represent relationships:
–The word but in sentence (a) indicates a relationship of opposition.
–The word that in sentence (b) indicates a relationship of opposition.
–The pair of words if…. The tense in sentence (c) represents the hypothesis-result relationship.
Question 3: Find the word relationship (and, but, on, then, in, of) that fits each blank box below:
a) The sky is now clear, deep... high
b) A big, round moon.... red rose appeared... the horizon behind the black bamboo row... a far away village.
c) Moon halo……drought, moon canopy….. rain
d) I have traveled to many places, stationed in many more beautiful places than here, the people consider me as a villager.... they love me so much,... why is the charm and longing still not strong and tormenting? by this barren land.
–Sentence (a) fill in the words: and
–Sentence (b) fill in the words: and, in, of
–Sentence (c) fill in the words: tense, then
–Sentence (d) fill in the words: and, but
Question 4: Make a sentence with each relative word: that, then, equal.
Hint: Make sentences with each given word relation, as follows:
–But: Sunday working to clean up and beautify the environment is really tiring but fun, right?
–So: If you don't study hard, you can't be good!
–Diploma: We must strive to achieve the title of good student with our own abilities.
|
Tuần 13: Chính tả Hành trình của bầy Ong
Hướng dẫn
Câu 1: Nhớ – viết bài: Hành trình của bầy ong (10 dòng đầu) SGK TV5 tập 1 trang 117.
Gợi ý: Viết lại bài Hành trình của bầy ong 10 dòng đầu bằng trí nhớ của mình. Viết xong, em đối chiếu lại với văn bản đế sửa chữa lại những chữ viết sai.
Câu 2:
a) Gợi ý: Tìm các từ ngữ chứa các tiếng cho trước như sau:
-Sâm: củ sâm, trời sâm sẫm tối.
-Xâm: xâm lăng, xâm nhập, xâm lược, xâm xi…
-Sương: màn sương, sương sớm, sươrig mù, sương muối…
-Xương: xương hàm, xương đùi, xương xẩu…
-Sưa: say sưa
-Xưa: ngày xưa, xưa lắm rồi, xa xưa.
-Siêu: siêu sắc thuốc, siêu sao, siêu nước uống, siêu âm.
–Xiêu: xiêu vẹo, xiêu xiêu, xiêu lòng.
b) Gợi ý: Các tiếng chứa các vần đã cho, như sau:
-Buốt, nuốt, tuốt, chuốt, suốt, tuột, chuột..
-Cuốc, cuộc, buộc, luộc, đuốc, thuộc…
-Lướt, mướt, mượt, vượt, rượt đuổi
-Lược, cá cược, được, xước, tước đoạt, dược phẩm, bắt chước, thước thợ…
-Hiểu biết, mải miết, tiết kiệm, kiệt xuất…
–Điếc tai, liếc mắt, đơn chiếc, vụ việc, xanh biếc, thiếc…
Câu 3: Điền vào chỗ trống.
a)s hay X?
Đàn bò vàng trên đồng cỏ…anh…anh
Gặm cả hoàng hôn, gặm buổi chiều…ót lại.
Gợi ý: s hay x:
Đàn bò vàng trên đồng cỏ xanh xanh
Gặm cả hoàng hôn, gặm buổi chiều sót lại.
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm târn vàng
Sột soạ… gió trêu tà áo biế….
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang.
Gợi ý: t hay c:
……….
Sột soạt gió trêu tá áo biếc
……….
|
Week 13: Spelling Journey of the Bees
Instruct
Question 1: Remember - write: The journey of the bees (first 10 lines) TV5 textbook volume 1 page 117.
Suggestion: Rewrite the first 10 lines of The Journey of the Bees using your memory. After writing, I compare it with the text to correct any mistakes.
Question 2:
a) Hint: Find words containing the given words as follows:
- Ginseng: ginseng root, the sky is dark.
-Invasion: invade, invade, invade, invade...
-Dew: mist, morning dew, fog, hoarfrost...
- Bones: jawbone, femur, bony bones...
-Sua: drunk
-Once upon a time: long ago, long ago, long ago.
-Super: super decoction, super star, super drink, super sound.
–Xiao: to fall apart, to fall down, to fall in love.
b) Hint: The words contain the given rhymes, as follows:
-Stinging, swallowing, plucking, sharpening, threading, slipping, rat...
- Hoe, fight, tie, boil, torch, burn...
-Glide, smooth, smooth, overtake, chase
-Comb, bet, gain, scratch, deprive, medicine, imitate, ruler...
-Knowledgeable, diligent, frugal, outstanding...
–Deaf ears, squinting eyes, alone, trouble, blue, tin...
Question 3: Fill in the blanks.
a)s or X?
Herd of yellow cows on the grassland...you...you
Eating the sunset, munching on the afternoon... in the end.
Hint: s or x:
Herd of yellow cows on green pastures
Gnawing the sunset, nibbling the remaining afternoon.
In the bright sunlight: the apricot smoke dissipates
A pair of thatched roofs stained with gold
Rustling... the wind teases the hem of my shirt...
On the Thien Ly platform. Spring shines.
Hint: t or c:
……….
The rustling wind teased dozens of blue clothes
……….
|
Tuần 13: Luyện từ và câu (Bảo vệ môi trường)
Hướng dẫn
Câu 1: Qua đoạn văn đã cho (SGK TV5 tập 1 trang 126), em hiểu Khu bảo tồn da dạng sinh học là gì?
Gợi ý: Đọc đoạn văn đã cho để nắm được nội dung cơ bản. Từ đó em có thế hiếu được Khu bảo tồn đa dạng sinh học là như thế nào.
-Khu bảo tồn: là nơi lưu giữ.
-Đa dạng sinh học: là nhiều loài động thực vật.
–Khu bảo tồn đa dạng sinh học: là nơi lưu giữ nhiều loài động thực vật.
Câu 2: Xếp các hành động nêu trong ngoặc đơn và nhóm thích hợp:
a)Hành động bảo vệ môi trường.
b)Hành động phá hoại môi trường.
(Phá rừng, trồng cây, đánh cá bằng mìn, trồng rừng, xả rác bừa bãi, đốt nương, săn bắn thú rừng, phủ xanh đồi trọc, đánh cá bằng điện, buôn bán động vật hoang dã).
Gợi ý:Xếp các hành động đã cho vào các nhóm thích hợp, như sau:
a)Hành động bảo vệ môi trường: trồng cây, trồng rừng, phủ xanh đồi trọc.
b)Hành động phá hoại môi trường: phá rừng, đánh cá bằng mìn, xả rác bừa bãi, đốt nương, săn bắn thú rừng, đánh cá bằng điện, buôn bán động vật hoang dã.
Câu 3: Chọn một trong các cụm từ ở bài tập 2 làm đề tài, em hãy viết một đoạn văn khoảng năm câu về đề tài đó.
Gợi ý:Viết đoạn văn về đề tài: Hành động bảo vệ môi trường.
TIẾT 2: BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Câu 1: Tìm các cặp quan hệ từ trong những câu sau:
a)Nhờ phục hồi rừng ngập mặn mà ở nhiều địa phương, môi trường đã có những thay đổi rất nhanh chóng.
b)Lượng cua con trong vùng rừng ngập mặn phát triển, cung cấp đủ giống không những cho hàng nghìn đầm cua ở địa phương mà còn cho hàng trăm đầm cua ở các vùng lân cận.
Gợi ý:Những cặp quan hệ từ trong các câu đã cho là:
-Câu (a): Nhờ….. mà
–Câu (b):……….Không những……… mà……………
Câu 2: Hãy chuyển mỗi cặp câu trong đoạn (a) hoặc đoạn (b) dưới đây thành một câu sử dụng các cặp quan hệ từ Vì……... nên hoặc Chẳng những……. mà còn.
a)Mấy năm qua, chúng ta đã làm tốt công tác thông tin tuyên truyền để người dân thấy rõ vai trò của rừng ngập mặn đối với việc bảo vệ đê diều. Vì thê ở ven biển các tỉnh như Cà Mau, Bạc Liêu, Nghệ An, Thái Bình, Quảng Ninh… đều có phong trào trồng rừng ngập mặn.
Gợi ý: Chuyển mỗi cặp câu ở trong hai đoạn văn a, b, mỗi đoạn thành một câu có sử dụng các cặp quan hệ từ Vì…….. nênhoặc Chẳng những……….. mà còn, như sau:
a)Vì mấy năm qua, chúng ta…….. nên ở ven biển các tỉnh
b)Chẳng những ở ven biển các tỉnh……….. mà rừng ngập mặn cònđược trồng…………
Câu 3: Hai đoạn văn đã cho có gì khác nhau? Đoạn nào hay hơn? Vì sao? (SGK TV5 tập 1 trang 131-132)
Gợi ý:Hai đoạn văn đã cho, ta thấy:
-Giống nhau về nội dung.
-Khác nhau ở hình thức diễn đạt (đoạn b có sử dụng nhiều quan hệ từ).
Theo em, đoạn (a) hay hơn đoạn (b). Vì ở đoạn (b) việc sử dụng thêm quan hệ từ không phù hợp lắm, hành văn đọc lên ta cảm thấy nặng nề, lủng củng, không phản ánh đúng tâm trạng của nhân vật mà lời văn cần phải diễn đạt. Đoạn (a) nhẹ nhàng trôi chảy phản ánh đúng tâm trạng, hành động nhân vật.
|
Week 13: Practice words and sentences (Environmental protection)
Instruct
Question 1: Through the given passage (Textbook TV5, volume 1, page 126), do you understand what a Biodiversity Conservation Area is?
Hint: Read the given passage to grasp the basic content. From there, I can understand what a Biodiversity Conservation Area is like.
- Conservation area: is a place to preserve.
-Biodiversity: many species of plants and animals.
– Biodiversity conservation area: is a place to preserve many species of flora and fauna.
Question 2: Put the actions mentioned in parentheses into the appropriate group:
a) Actions to protect the environment.
b) Actions that destroy the environment.
(Deforestation, tree planting, mine fishing, afforestation, littering, slash and burn, wild animal hunting, greening of bare hills, electric fishing, wildlife trade).
Hint: Put the given actions into appropriate groups, as follows:
a) Actions to protect the environment: planting trees, planting forests, greening bare hills.
b) Actions that destroy the environment: deforestation, fishing with mines, littering, burning fields, hunting wild animals, electric fishing, and trading in wild animals.
Question 3: Choose one of the phrases in exercise 2 as the topic, write a paragraph of about five sentences on that topic.
Suggestion:Write a paragraph on the topic: Action to protect the environment.
SECTION 2: ENVIRONMENTAL PROTECTION
Question 1: Find pairs of word relationships in the following sentences:
a) Thanks to mangrove forest restoration, in many localities, the environment has changed very rapidly.
b) The number of baby crabs in the mangrove forest is growing, providing enough seeds not only for thousands of local crab ponds but also for hundreds of crab ponds in neighboring areas.
Hint: The pairs of related words in the given sentences are:
-Sentence (a): Thanks to...
–Sentence (b):……….Not only………but……………
Question 2: Change each pair of sentences in paragraph (a) or paragraph (b) below into a sentence using the relative pairs Because……... so or Not only……. but also.
a) Over the past few years, we have done a good job of information and propaganda work so that people can clearly see the role of mangrove forests in protecting dykes. Therefore, in coastal provinces such as Ca Mau, Bac Lieu, Nghe An, Thai Binh, Quang Ninh... there is a movement to plant mangrove forests.
Suggestion: Convert each pair of sentences in two paragraphs a, b, each paragraph into a sentence using the relative pairs of words Because…….. should or Not only……….. but also, as follows:
a)Because of the past few years, we…….. should stay on the coastal provinces
b) Not only in coastal provinces……….. but mangrove forests are also planted…………
Question 3: What is the difference between the two given passages? Which part is better? Why? (Textbook TV5, volume 1, pages 131-132)
Hint: In the two given paragraphs, we see:
-Same content.
-Different in form of expression (paragraph b uses many word relationships).
In my opinion, paragraph (a) is better than paragraph (b). Because in paragraph (b), the use of additional conjunctions is not very appropriate, the writing feels heavy, clunky, and does not accurately reflect the mood of the character that the text needs to express. Paragraph (a) flows gently and accurately reflects the character's mood and actions.
|
Tuần 14: Chính tả Chuỗi Ngọc Lam
Hướng dẫn
Câu 1: Nghe – viết bài Chuỗi ngọc lam (từ “Pi-e ngạc ngiên”đến “Cô bé mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt đi”.) SGK TV5 tập 1 trang 134 – 135.
Gợi ý: Em nhờ bạn hay người thân đọc phần văn bản quy định trong bài Chuỗi ngọc lam, em viết. Viết xong đối chiếu với văn bản, sai chữ nào sửa lại cho đúng.
Câu 2:
a) Tìm những từ ngữ chứa các tiếng trong bảng sau:
Tranh
Trưng
Trúng
Trèo
Tranh giành
Trưng bày
Trúng đích
Leo trèo
Tranh đấu
Trưng tráo
Trúng thầu
Trèo lên cao
Chiến tranh
Đặc trưng
Trúng tuyển
Trèo đèo
Sang trưng
Chanh
Chưng
Chúng
Chèo
Chanh chua
Bánh chưng
Quần chúng
Mái chèo
Quả chanh
Chưng diện
Chúng nó
Chèo thuyền
Lanh chanh
Chưng hửng
Chúng ta
Chèo chống
Chúng sinh
b) Tìm những từ ngữ chứa các tiếng trong bảng sau:
Báo
Cao
Lao
Mào
Báo cáo
Trên cao
Bệnh lao
Bông mào gà
Sách báo
Chiều cao
Ném lao
Mào đầu
Nhà báo
Cao tay
Cây lao
Chim chào mào
Cao kiến
Lao tâm
Cao nguyên
Báu
Cau
Lau
Màu
Kho báu
Cau có
Lau chùi
Bột màu
Kho báu
Quả cau
Dẻ lau
Tô màu
Của báu
Mặt cau lại
Lau nhau
Màu hồng
Màu mỡ
Câu 3: Tìm tiếng thích hợp với mỗi ô trống để hoàn chỉnh mẫu tin đã cho (SGK TV5 tập 1 trang 137). Biết rằng: Chữ ở các ô số 1 có vần ao hoặc au, chữ ở ô số 2 bắt đầu bằng tr hoặc ch.
Gợi ý: Tìm tiếng thích hợp với mỗi ô trông đế hoàn chinh mẫu tin đã cho, như sau:
Nhà môi trường 18 tuổi
Người dân hòn đảo Ha-oai rất tự hào về bãi biển Cu-a-loa vì vẻ đẹp mê hồn của thiên nhiên ở đây. Nhưng đã có một dạo, môi trường ven biển bị đe dọa trầm trọng do nguồn rác từ các tàu đánh cá, nhừng vỉa san hô chết, cá, rùa bị mắc bẫy… tấp vào bờ. Trước tình hình đó, một cô gái có tên là Na-ka-mu-ra, 18 tuối đã thành lập nhóm Hành động vì môi trường gồm 60 thành viên. Họ đã giăng những tấm lưới khổng lồ ngăn rác tấp vào bờ. Tháng 3 năm 2000, chỉ trong 8 ngày nghỉ cuối tuần, 7 xe rác khống lồ đã được chở đi, trả lại vẻ đẹp cho bãi biển.
|
Week 14: Turquoise String Spell
Instruct
Question 1: Listen - write the article The Turquoise String (from "Pi-e was surprised" to "The little girl smiled brightly and ran away".) TV5 textbook volume 1 pages 134 - 135.
Suggestion: Ask your friends or relatives to read the prescribed text in the article The Turquoise String I wrote. After writing, compare it with the text and correct any incorrect words.
Question 2:
a) Find words containing the sounds in the following table:
Painting
Trung
Win
Climb
Dispute
Display
On target
Climb
Fight
Show off
Winning bid
Climb up high
War
Featured
Elect
Climb the pass
Luxurious
Lemon
Distillation
They
Paddle
Sour lemon
Chung cake
People
Paddle
Lemon
Show off
They
Rowing
Lemon flax
Disorient
We
Rowing
People
b) Find words containing the sounds in the following table:
Newspaper
High
TB
Crest
Report
Up high
Tuberculosis
Chicken comb
Books and newspapers
Height
Throw javelin
Prelude
Journalist
High-handed
Spear
The crested bird
High opinion
Labored mind
Plateau
Treasure
Cau
Wipe
Color
Treasure
Scowl
Cleaner
Color powder
Treasure
Areca nut
Cleaning cloth
Color
Treasure
Face frowned
Wipe each other
Pink
Fertile
Question 3: Find the appropriate word for each blank box to complete the given information (Textbook TV5, volume 1, page 137). Know that: The words in box number 1 rhyme ao or au, the words in box number 2 start with tr or ch.
Hint: Find the appropriate word for each cell to complete the given information, as follows:
18 year old environmentalist
The people of Hawaii island are very proud of Cua Loa beach because of the enchanting beauty of nature here. But there was a time when the coastal environment was seriously threatened due to trash from fishing boats, dead coral reefs, trapped fish and turtles... washing ashore. Faced with that situation, a girl named Nakamura, 18 years old, founded an Environmental Action group with 60 members. They have set up giant nets to prevent trash from washing ashore. In March 2000, in just 8 weekends, 7 huge garbage trucks were hauled away, returning the beauty of the beach.
|
Tuần 15: Luyện từ và câu (Tổng kết vốn từ)
Hướng dẫn
Câu 1: Chọn ý thích hợp nhất để giải nghĩa từ hạnh phúc.
a)Cảm giác dễ chịu vì được ăn ngon ngủ yên.
b)Trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.
c)Hồ hơi háo hức sẩn sàng làm mọi việc.
Gợi ý:Chọn ý thích hợp để giải nghĩa từ hạnh phúc, như sau:
-Chọn ý (b): Trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện. (X)
Câu 2: Tìm những từ đồng nghĩa và trái nghĩa với từ hạnh phúc.
Gợi ý:
Tìm những từ đồng nghĩa và trái nghĩa với từ hạnh phúc, như sau:
-Nhừng từ đồng nghĩa: sung sướng, may mắn, mãn nguyện…
–Những từ trái nghĩa: bất hạnh, đau khổ, cực khổ…
Câu 3: Mỗi người có thế có một cách hiếu khác nhau về hạnh phúc. Theo em, trong các yếu tố dưới đây, yếu tố nào là quan trọng nhất để tạo nên một gia đình hạnh phúc?
a)Giàu có c) Mọi người sống hòa thuận
b)Con cái học giỏi d) Bố mẹ có chức vụ cao
Gợi ý:Điều quan trọng nhất để tạo nên hạnh phúc là:
-Chọn ý (c) Mọi người sống hòa thuận.
Điều này đã được cha ông tống kết để dạy cho con cháu “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.
TIẾT 2: TỔNG KẾT VỐN TỪ
Câu 1: Liệt kê các từ ngữ:
b)Chỉ những người gần gũi em trong trường học.
c)Chỉ các nghề nghiệp khác nhau.
d)Chĩ các dân tộc anh em trên đất nước ta.
Gợi ý: Liệt kê các từ ngữ theo từng nội dung đã cho, như sau:
a)Chỉ những người thân trong gia đình:
-Cha, mẹ, ông, bà, cô, cô, bác, chú, thím, cậu, mợ, anh, chị, em, con, cháu…
b)Chỉ những người gần gũi em trong trường học:
-Thầy, cô, bạn bè trong lớp, bạn bè trong trường, bạn lớp trưởng, bạn lớp phó, bạn Chi đội trưởng, tống phụ trách đội, bác bảo vệ, chị lao công…
c)Chỉ các nghề nghiệp khác nhau:
-Giáo viên, bác sĩ, kỹ sư, kiến trúc sư, họa sĩ, nhạc sĩ, công nhân, nông dân, thợ thủ công, bộ đội, công an, doanh nhân, phi công…
d)Chỉ các dân tộc anh em trên đất nước ta:
–Kinh, Tày, Nùng, Mường, Mèo, Ê-đê, Vân Kiều, Ba-na, Thái, Xơ-đăng…
Câu 2: Tìm các câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao nói về quan hệ gia đình, thầy trò, bè bạn.
Gợi ý:Tìm các câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao nói về quan hệ gia đình, thầy trò, bạn bè, như sau:
-Quan hệ gia đình:
Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần.
Chị ngã em nâng; chim có tô người có tông; Con hơn cha là nhà có phúc; Con có cha. ihư nhà có nóc v.v…
Không thầy đô mày làm nên; Tôn sư trọng đạo; Kính thầy yêu bạn; Trọng thầy mới được làm thầy v.v…
-Quan hệ bạn bè:
Học thầy không tày học bạn; Chọn bạn mà chơi; Bạn nối khố; Buôn có bạn, bán có phường…
Câu 3: Tìm các từ ngữ miêu tả hình dáng của người.
a)Miêu tả mái tóc.
b)Miêu tả đôi mắt.
c)Miêu tả khuôn mặt.
d)Miêu tả làn da.
e)Miêu tả vóc người.
Gợi ý: Các từ ngữ miêu tả hình dáng của người:
a)Miêu tả mái tóc: tóc mây, tóc huyền, tóc tơ, tóc rễ tre, đen mượt, đen nhánh, óng ả, óng mượt, hoa râm, bạc phơ, muối tiêu…
b)Miêu tả đôi mắt: mắt bồ câu, mắt lươn, mắt lá răm, mắt ốc nhồi, mắt phượng, mắt ti hí, mắt trong xanh…
c)Miêu tả khuôn mặt: mặt chữ điền, mặt trái xoan, mặt lưỡi cày, mặt xương, mặt thịt, mặt bầu bầu, mặt ngựa, mặt bánh đúc…
d)Miêu tả làn da: da dâu, da trắng, da nâu, da đồng hun, đen như cột nhà cháy, hồng hào, xanh xao, trắng như trứng gà bóc, trắng mịn, ngăm ngăm…
e)Miêu tả vóc người: cao, gầy, lùn, cao lêu nghêu, gầy như cò ma, to như voi, mập mạp, còm nhom, dáng thư sinh, dáng tiểu thư, mình dây, dáng bè bè, liễu yếu dào tơ, công tử bột, thanh tú, gầy đét, tầm thước..
Câu 4: Dùng một sô từ vừa tìm được (ở bài tập 3), viêt một đoạn văn khoảng năm câu tả hình dáng của một người thân hoặc một người em quen biết.
“Mọi người đều khen chị gái tôi đẹp. Chị đang ở tuổi mười tám đôi mươi lại là sinh viên ăn mặc hợp thời trang nữa nên trông chị lúc nào cũng duyên dáng thu hút mọi người. Chị có một thân hình dong dỏng, đẹp như một cô người mẫu. Làn da của chị vừa trắng vừa hồng. Chị ít khi trang điểm mà vẫn xinh như diễn viên diện ảnh”.
|
Week 15: Practice words and sentences (Summarize vocabulary)
Instruct
Question 1: Choose the most appropriate idea to explain the word happiness.
a) Feeling comfortable because you can eat well and sleep peacefully.
b) A state of happiness because you feel your wishes have been completely achieved.
c)Ho is a little excited and ready to do anything.
Hint: Choose the appropriate idea to explain the meaning of the word happiness, as follows:
-Choose (b): A state of happiness because you feel your wishes have been completely achieved. (X)
Question 2: Find synonyms and antonyms for the word happiness.
Suggest:
Find synonyms and antonyms for the word happiness, as follows:
-Synonyms: happy, lucky, contented...
–Antonyms: misfortune, suffering, hardship...
Question 3: Each person may have a different understanding of happiness. In your opinion, which of the factors below is the most important to create a happy family?
a) Wealthy c) Everyone lives in harmony
b) Children study well d) Parents have high positions
Suggestion: The most important thing to create happiness is:
-Choose (c) Everyone lives in harmony.
This was summed up by our ancestors to teach our children and grandchildren: "If a husband and wife agree with each other, the East Sea will dry up."
SECTION 2: SUMMARY OF VOCABULARY
Question 1: List the words:
b)Only people close to you at school.
c) Shows different occupations.
d) Only the brother nations in our country.
Suggestion: List words according to each given content, as follows:
a) Only family members:
-Father, mother, grandfather, grandmother, aunt, uncle, uncle, aunt, uncle, aunt, brother, sister, brother, child, grandchild...
b)Only people close to you at school:
-Teachers, teachers, friends in class, friends in school, class president, class vice president, Chi captain, team leader, security guard, janitor...
c) Indicates different occupations:
-Teachers, doctors, engineers, architects, painters, musicians, workers, farmers, craftsmen, soldiers, police, businessmen, pilots...
d) Only the ethnic groups in our country:
–Kinh, Tay, Nung, Muong, Meo, Ede, Van Kieu, Ba-na, Thai, Xo-dang…
Question 2: Find proverbs, idioms, and folk songs about family relationships, teachers, students, and friends.
Suggestion: Find proverbs, idioms, and folk songs about relationships between family, teachers, students, and friends, as follows:
-Family relationship:
Brothers are like limbs
If the tear heals, it covers the bad or helps.
If you fall, I will lift you up; Birds have colored people; More children are blessed father; I have a father. like a house with a roof, etc.
Without a teacher, you can do it; The teacher respects the religion; Dear teacher, love you; Only by respecting the teacher can one become a teacher, etc.
-Friendship:
Learning from a teacher is not good at learning from friends; Choose your friend wisely; Friends; Commercial with you, sell with wards…
Question 3: Find words that describe the person's appearance.
a) Describe the hair.
b) Describe the eyes.
c)Describe the face.
d)Describe the skin.
e) Describe your body shape.
Suggestion: Words to describe a person's appearance:
a) Describe the hair: cloudy hair, black hair, fine hair, bamboo hair, silky black, jet black, shiny, silky, gray, silvery, salt and pepper...
b) Describe the eyes: pigeon eyes, eel eyes, laksa leaves eyes, stuffed snail eyes, phoenix eyes, tiny eyes, clear blue eyes...
c) Describe the face: square face, oval face, plowshare face, bone face, flesh face, oval face, horse face, cake face...
d) Describe the skin: strawberry skin, white skin, brown skin, bronze skin, black as a burnt pillar, rosy, pale, white as a peeled egg, smooth white, dark...
e) Describe body shape: tall, thin, short, lanky, skinny like a ghost stork, big like an elephant, chubby, scrawny, student-shaped, lady-like, thin-bodied, flat-shaped, weak willow Silky, handsome, delicate, skinny, medium sized..
Question 4: Using some of the words you just found (in exercise 3), write a paragraph of about five sentences describing the appearance of a relative or someone you know.
“Everyone compliments my sister on how beautiful she is. She is in her twenties and is a student who dresses fashionably, so she always looks charming and attracts everyone. She has a slim, beautiful body like a model. Her skin is both white and pink. She rarely wears makeup but is still as beautiful as an actress in pictures."
|
Tuần 16: Chính tả Về ngôi nhà đang xây
Hướng dẫn
Câu 1: Nghe – viết bài về ngôi nhà đang xây (hai khổ đầu).
Gợi ý: Em nhờ bạn hay người thân đọc hai khổ thơ đầu bài về ngôi nhà đang xây, em viết. Sau đó đối chiếu lại với văn bản, sai chữ nào sửa lại chữ ấy. Viết đúng mẫu chữ, tốc độ viết theo quy định.
Câu 2:
a) Hãy tìm những từ ngữ chứa các tiếng dưới đây:
rẻ
– rẻ rúng, rẻ quạt
rây
– cái rây bột
dẻ
– hạt dẻ, mảnh dẻ
dây
– sợi dây, dây dưa, dây dọi, dây leo, nhảy dây
giẻ
– mảnh giẻ, giẻ lau, chim giẻ cùi, giẻ rách
giây
– kim giây
– giây lát
– giây phút…
b)Tìm những từ ngữ chứa các tiếng chỉ khác nhau ở âm đầu v hay d:
vàng
màu vàng, vàng hoa mướp, vàng bạc
vào
ra vào, đi vào, vào bài
vỗ
vồ về, sóng vỗ
dàng
dễ dàng
dào
dào dạt, dồi dào…
dỗ
dỗ dành, dạy dỗ…
c) Tìm những từ ngữ:
– Chứa các tiếng chỉ khác nhau ở vần iêm hay im:
chiếm
lúa chiêm, vụ chiêm, chiêm chiếp
liêm
liêm khiết, câu liêm, thanh liêm
chim
con chim, bầy chim, trứng chim
lim
gỗ lim, lim dim
diếp
– rau diếp
kiếp
– kiếp người, số kiếp
– kiếp trâu ngựa…
díp
dao díp, díp mắt
kíp
– kíp nổ, cần kíp
– làm theo ca kíp
– (1) chứa tiếng bắt đầu bằng r hay gi.
– (2) chứa tiếng bắt đầu bằng v hay d.
Gợi ý: Tìm tiếng thích hợp điền vào chỗ trống để hoàn chỉnh mẩu chuyện Thầy quên mặt nhà con hay sao? như sau:
– Thứ tự điền như sau:
Thầy quên mặt nhà con (rồi) hay sao?
Có anh……… than thở bảo:
-Cậu hãy vẽ……… rồi…….. treo. Thiên hạ……….lo gì…………. khá.
Nghe lời………. rồi lại………….ngồi bên. Vẽ xong………. đắc ý lắm.
Một hôm………….., hỏi:
-Anh vẽ………….đó?
Anh Trả lời:
– Chết nỗi………….rồi hay sao?
Ông bố…………..tiếp:
–Thì ra…………. kì dị làm vậy?
|
Week 16: Spelling About the house under construction
Instruct
Question 1: Listen - write about the house under construction (first two paragraphs).
Suggestion: Ask a friend or relative to read the first two stanzas of the poem about the house under construction that you wrote. Then compare it with the text, correct any incorrect words. Write in the correct letter form and writing speed according to regulations.
Question 2:
a) Find words that contain the following words:
cheap
– cheap, cheap
sieve
– flour sieve
chestnut
– chestnut, slender
wire
– rope, melon line, plumb line, climbing rope, jumping rope
rag
– rag, rag, jay, rag
second
– second hand
- shortly
- moments…
b) Find words that contain sounds that differ only in the initial sound v or d:
Yellow
yellow, luffa yellow, silver gold
enter
In and out, in and out, in and out
pat
pounce, waves crash
easy
easy
Wow
abundant, abundant…
coax
coax, teach…
c) Find the words:
– Contains sounds that differ only in rhyme or im:
accounting for
Dreaming of rice, dreaming of crop, dreaming of chirping
integrity
integrity, honesty, integrity
bird
bird, flock of birds, bird eggs
lim
ironwood, ironwood
Lettuce
- lettuce
life
– human life, number of lives
- life of buffalo and horse...
dipp
knife, eye-twist
kip
– detonator, detonator
– work in shifts
– (1) contains words starting with r or gi.
– (2) contains words starting with v or d.
Hint: Find suitable words to fill in the blanks to complete the story Did you forget my family's face? as follows:
– The order of filling is as follows:
Have you forgotten my family's face?
Some guy……… lamented and said:
-You should draw……… then…….. hang it. People…….why worry…………. rather.
Listen………. then………….sit next to you. Finished drawing………. very pleased.
One day………….., asked:
-You drew that………….?
English Answer:
– Is it dead………….or what?
The father…………..continued:
–So…………. weird to do that?
|
Tuần 16: Luyện từ và câu (Tổng kết vốn từ)
Hướng dẫn
Câu 1: Tìm những từ đồng nghĩa và trái nghĩa với các từ sau:
a)Nhân dân c) Dũng cảm
b)Trung thực d) Cần cù
Gợi ý: Tìm những từ đồng nghĩa, trái nghĩa với những từ cho trước, như sau:
a)Nhân hậu
+ Đồng nghĩa: nhân nghĩa, nhân ái, nhân từ, phúc hậu, phúc đức…
+ Trái nghĩa: bất nhân, bất nghĩa, ác độc, tàn bạo, tàn nhẫn, vô đạo, bạo tàn…
b)Trung thực
+ Đồng nghĩa: thẳng thắn, thật thà, ngay thẳng, thành thật…
+ Trái nghĩa: dối trá, lừa lọc, mánh khóe, gian giảo, giả dối, gian manh, lừa đảo, lừa lọc…
c)Dũng cảm
+ Đồng nghĩa: gan dạ, anh dũng, bạo gan
+ Trái nghĩa: nhát gan, hèn nhát, nhát như cáy….
d)Cần cù
+ Đồng nghĩa: siêng năng, chịu khó, nhẫn nại, chuyên cần, chăm chỉ…
+ Trái nghĩa: biếng nhác, làm biếng, lười nhác…
Câu 2: Đọc bài văn Cô Chấm (SGK TV5 tập 1 trang 156).
Cho biết Cô Chấm là người có tính cách như thế nào? Nêu những chi tiết và từ ngữ minh họa cho nhận xét của em.
Gợi ý:Đọc bài văn Cô Chấm cô Chấm có tính cách sau đây:
-Tính trung thực, thẳng thắn.
-Chăm chỉ, siêng năng.
-Nặng tình cảm, dễ xúc động.
* Những chi tiết và từ ngữ thế hiện tính cách của cô Chấm:
-Tính trung thực, thẳng thắn:
+ “Đôi mắt Chấm định nhìn ai thì dám nhìn thẳng.”
+ “Bình điểm ở tổ, ai làm hơn, làm kém, Chấm nói ngay, nói thẳng băng. Với mình, Châm có hôm dám nhận hơn người khác bốn năm điểm. Chấm thẳng như thế nhưng không bị ai giận, vì người ta biết trong bụng Châm không có gì độc địa.
-Chăm chỉ siêng năng
+ Chấm cần cơm và lao động để sống.
+ Chấm hay làm, đó là một nhu cầu của sự sông, không làm chân tay nó bứt rứt.
+ Tết, Chấm ra đồng từ sớm mồng hai, có bắt ở nhà cũng không được.
Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng mưa để cho cây lúa mọc lên…
-Nặng tình cảm, dễ xúc động
+ Chấm hay nghĩ ngợi, dễ cảm thương… khóc gần suổt buổi. Đêm ấy ngủ trong giấc mơ, Chấm lại khóc mất bao nhiêu nước mắt (vì những cảnh ngộ trong phim).
TIẾT 2: TỔNG KẾT VỐN TỪ
Câu 1: Tự kiểm tra vốn từ của mình.
a)Xếp các tiếng sau đây thành những nhóm đồng nghĩa: đỏ, trắng, xanh, hồng, điều, bạch, biếc, đào, lục, son.
b)Tìm các tiếng cho trước trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống thích hợp:
(đen, thâm, mun, huyền, ô, mực)
-Bảng màu đen gọi là bảng……….
-Mắt màu đen gọi là mắt………
-Ngựa màu đen gọi là ngựa……
-Mèo màu đen gọi là mèo……..
-Chó màu đen gọi là chó………
-Quần màu đen gọi là quần……….
a)Xếp các tiếng sau đây thành những nhóm đồng nghĩa:
-đỏ, son, điều
-xanh, biếc, lục
-trắng, bạch
-hồng, đào
b)Điền các tiếng cho trước thích hợp vào chỗ trống, như sau:
-Bảng màu đen gọi là bảng đen.
-Mắt màu đen gọi là mắt huyền.
-Ngựa màu đen gọi là ngựa ô.
-Mèo màu đen gọi là mèo mun.
-Chó màu đen gọi là chó mực.
–Quần màu đen gọi là quần thâm.
Câu 2-3: Đọc bài văn “Chữ nghĩa trong văn miêu tả” (SGK TV5 tập 1 trang 160), em hãy đặt câu theo một trong những yêu cầu sau:
a)Miêu tả một dòng sông, dòng suối hoặc dòng kênh đang chảy.
b)Miêu tả đôi mắt của em bé.
c)Miêu tả dáng đi của một người.
Gợi ý: Đặt câu theo những yêu cầu sau:
a)Miêu tả một dòng sông, dòng suối hoặc dòng kênh đang chảy.
-Con sông Kiên Giang vốn trong xanh hiền hòa là thế, vậy mà khi mùa mưa xuống, nước bạc ầm ầm đổ về trông nó hung tợn như một kẻ ham chơi bạt mạng.
b)Miêu tả đôi mắt của em bé.
-Đôi mắt của bé Hà sáng trong như trời mùa thu.
c)Miêu tả dáng đi của một người.
–Cái tính cách trầm tĩnh của bác ấy dường như cũng được biểu hiện trong cả dáng đi, điệu đứng của mình: chậm và chắc từng bước một.
|
Week 16: Practice words and sentences (Summarize vocabulary)
Instruct
Question 1: Find synonyms and antonyms for the following words:
a) People c) Courage
b) Honest d) Diligent
Hint: Find synonyms and antonyms with the given words, as follows:
a) Kindness
+ Synonyms: kindness, compassion, benevolence, kindness, virtue...
+ Antonyms: inhumane, unjust, cruel, brutal, cruel, immoral, brutal...
b) Honesty
+ Synonyms: straightforward, honest, upright, honest...
+ Antonyms: lie, deceit, trick, deceit, deceit, deceit, deceit, deceit...
c) Courage
+ Synonym: brave, brave, daring
+ Antonyms: cowardly, cowardly, cowardly...
d) Diligent
+ Synonyms: diligent, industrious, patient, diligent, diligent…
+ Antonyms: lazy, lazy, lazy...
Question 2: Read the article Ms. Dot (TV5 textbook, volume 1, page 156).
What kind of personality is Ms. Dot? Give details and words that illustrate your comments.
Suggestion: Read the article Ms. Dot Ms. Dot has the following personality:
-Honesty and straightforwardness.
-Hard working.
-Heavily emotional, easily emotional.
* Details and words that show Ms. Dot's personality:
-Honesty and straightforwardness:
+ "Dot's eyes dare to look at someone when they dare to look straight."
+ “Assess the scores in the team, who does better and who does worse. The grader speaks immediately and frankly. For me, Cham sometimes dared to receive four or five points more than others. Even though he was so straightforward, no one got angry because people knew there was nothing poisonous in Cham's stomach.
-Hard working
+ Dot needs rice and labor to live.
+ Dot or do, it is a need of life, it does not make its limbs restless.
+ Tet, Dot goes to the fields early on the second day, even if they catch them at home, they can't catch them.
Dots are as rustic as a piece of soil. That land companions the sun and rain to help the rice grow...
-Heavily emotional, easily emotional
+ Dot often thinks, is sympathetic... cries almost all the time. That night, while sleeping in his dream, Dot cried many tears (because of the situations in the movie).
SECTION 2: SUMMARY OF VOCABULARY
Question 1: Test your own vocabulary.
a) Arrange the following words into synonymous groups: red, white, blue, pink, cashew, white, blue, peach, green, vermilion.
b) Find the words given in parentheses and fill in the appropriate blanks:
(black, dark, ebony, black, dark, ink)
-The black board is called the……….
-Black eyes are called……… eyes.
-Black horses are called horses...
-Black cats are called cats……..
-A black dog is called a dog………
-Black pants are called……….
a) Arrange the following words into synonymous groups:
-red, vermilion, cashew
-blue, blue, green
-white, white
-peach
b) Fill in the blanks with suitable words as follows:
-The black board is called the blackboard.
-Black eyes are called dark eyes.
-Black horses are called black horses.
-Black cats are called ebony cats.
-Black dogs are called black dogs.
–Black pants are called dark pants.
Sentences 2-3: Reading the essay "Meaning in descriptive text" (Textbook TV5, volume 1, page 160), make a sentence according to one of the following requirements:
a)Describe a flowing river, stream or canal.
b) Describe the baby's eyes.
c)Describe a person's gait.
Hint: Make sentences according to the following requirements:
a)Describe a flowing river, stream or canal.
-The Kien Giang river is so clear and gentle, yet when the rainy season comes, silver water rushes in, looking ferocious like a person who is greedy for play.
b) Describe the baby's eyes.
-Baby Ha's eyes are as bright as the autumn sky.
c)Describe a person's gait.
–His calm personality also seems to be expressed in his gait and standing: slow and steady, step by step.
|
Tuần 17: Luyện từ và câu (Ôn tập về câu)
Hướng dẫn
Câu 1: Lập bảng phân loại các từ trong khổ thơ sau đây theo cấu tạo của chúng. Biết rằng các từ đã được phân cách với nhau bằng dấu gạch chéo.
Hai/ cha con/ bước/ đi/ trên/ cát/
Ánh/ mặt trời/ rực rỡ/ biển xanh/
Bóng/ cha/ dài/ lênh khênh/
Bóng/ con/ tròn/ chắc nịch/
Tìm thêm ví dụ minh họa cho các kiểu cấu tạo từ trong bảng phân loại em vừa lập (mỗi kiểu ba ví dụ).
Gợi ý: Lập bảng phân loại các từ trong đoạn thơ đã cho theo cấu tạo của chúng, như sau:
Từ đơn
Từ phức
Từ láy
hai, bước, đi, trên, cát, ánh, biển, xanh,
bóng, cha, dài, bóng, con, tròn
cha con, mặt trời chắc nịch
rực rỡ, lênh khênh
-Một số ví dụ minh họa thêm:
+ Từ đơn: nhà, đi, học,…
+ Từ phức: nhà cửa, đường sá, sòng ngòi…
+ Từ láy: biêng biếc, rung rinh, long lanh…
Câu 2: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ với nhau như thế nào?
-Đó là những từ đồng nghĩa.
-Đó là những từ đồng âm.
-Đó là một từ nhiều nghĩa.
a)đánh cờ, đánh giặc, đánh trông
b)trong veo, trong vắt, trong xanh
c)thi đậu, xôi đậu, chim đậu trên cành
Gợi ý:Các từ trong mỗi nhóm đã cho, chúng có quan hệ với nhau, như sau:
a)đánh cờ, đánh giặc, đánh trống (đánh là từ nhiều nghĩa).
c)thi đậu, xôi đậu, chim đậu trên cành (đậu là những từ đồng âm).
Câu 3: Đọc đoạn văn Cây rơm (SGK TV5 tập 1 trang 167). Tìm các từ đồng nghĩa với những từ in đậm trong bài văn. Theo em, vì sao nhà văn chọn từ in đậm mà không chọn những từ đồng nghĩa với nó.
Gợi ý:Đọc đoạn văn Cây rơm (SGK TV5 tập 1 trang 167):
a)Những từ đồng nghĩa với những từ in đậm là:
-tinh ranh: khôn khéo, tinh khôn, láu lỉnh…
-dâng: cho, tặng, biếu
-êm đềm: êm ấm, êm dịu, êm êm
b)Nhà văn chọn những từ tinh ranh, dâng, êm đềm mà không chọn những từ đồng nghĩa với các từ ấy là vì không có một từ đồng nghĩa nào có sắc thái biểu đạt cũng như sắc thái biểu cảm phù hợp với văn cảnh của đoạn văn.
Câu 4: Tìm từ trái nghĩa thích hợp với mỗi chỗ trông trong các thành ngữ, tục ngữ sau:
a)có mới nới
b)Xâu gỗ,nước sơn
c)Mạnh dùng sức,dùng mưu
Gợi ý:Điền thêm từ ngữ đế hoàn thành các quán ngữ, thành ngữ, như sau:
a)Có mới nới cũ
b)Xấu gỗ, tốt nước sơn
c)Mạnh dùng sức, yếu dùng mưu
TIẾT 2: ÔN TẬP VỀ CÂU
Câu 1: Đọc mẩu chuyện Nghĩa của từ củng (SGK TV5 tập 1 trang 171) và thực hiện nhiệm vụ sau:
a)Tìm trong mẩu chuyện ấy:
-Một câu kể;
-Một câu cảm;
-Một câu khiến.
b)Nêu những dấu hiệu của mỗi câu nói trên.
Gợi ý: Đọc mẩu chuyện Nghĩa của từ củng và thực hiện các nhiệm vụ đã nêu, như sau:
a)Trong mẩu chuyện có:
-Một câu hỏi: Đó là câu Nhưng vì sao cô biết cháu đã cóp bài của bạn?
-Một câu kê: Đó là câu Cháu nhà chị hôm nay cóp bài kiểm tra của bạn.
-Một câu cảm: Đó là câu Thế thì đáng buồn quá!
-Một câu khiến: Đó là câu Không đâu!
b)Những dấu hiệu của mỗi câu nói trên là:
-Câu hỏi: Có nội dung nghi vân (hỏi) buộc (yêu cầu) người khác phải trả lời. Cuối câu có dấu chấm hỏi.
-Câu kể: Có nội dung kề, tả hoặc thuật lại một sự việc nào đó. Cuối câu có dấu chấm.
-Câu cảm: Có nội dung bộc lộ cảm xúc. Cuối câu có dấu châm cảm (dấu chấm than).
–Cáu khiến: Có nội dung yêu cầu (ra mệnh lệnh…) buộc người khác thực hiện. Cuối câu có dấu châm cảm (chấm than).
Câu 2: Phân loại các kiểu câu kể trong mẩu chuyện Quyết định độc đáo (SGK TV5 tập 1 trang 171). Xác định thành phần của từng câu (chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ)
Gợi ý:Phân loại các kiểu câu kể trong mẩu chuyện: Quyết định độc đáo và xác định các thành phần của câu như sau:
-Câu 1: Cách đây không lâu, lãnh đao Hội đồng thành phố
ở nước Anhđã quyết định phat tiền các công chức nói hoăc viết tiếng Anh không đúng chuẩn. (P, C-V)
VN
-Câu 2: Theo quyết định này, mỗi lần mắc lỗi, công chứcbi phạt 1 bảng. (P1, P2, C-V)
TN1 TN2 CN VN
-Câu 3: Ông chủ tịch Hôi đồng thành phố tuyên bố
CN
sẽ không kí bất cứ văn bản nào có lỗi ngữ pháo và chính tả. (C-V)
VN
-Câu 4: Đâylà môt biện pháp mạnh nhằm giữ gìn sư trong sáng của tiếng Anh
CN VN(C-V)
|
Week 17: Practice words and sentences (Review sentences)
Instruct
Question 1: Create a table to classify the words in the following stanza according to their structure. Know that words are separated by slashes.
Two/ father and son/ walked/ on/ the/ sand/
Light/sun/brilliant/blue sea/
The shadow/ father/ is long/ floating/
Ball/ small/ round/ firm/
Find more examples to illustrate the types of word formation in the classification table you just created (three examples for each type).
Hint: Create a table to classify the words in the given poem according to their structure, as follows:
Single word
Complex words
Alliterative Expressions
two, step, away, on, sand, shining, sea, blue,
shadow, father, long, shadow, child, round
father and son, the sun is firm
brilliant, radiant
-Some additional illustrative examples:
+ Simple words: home, go, study,...
+ Complex words: houses, roads, casinos...
+ Words: sparkling, fluttering, sparkling...
Question 2: How are the words in each group below related to each other?
-Those are synonyms.
-Those are homophones.
-It's a word with many meanings.
a) playing chess, fighting enemies, fighting
b) clear, clear, clear blue
c) passing exam, sticky rice beans, birds perching on branches
Hint: The words in each given group are related to each other, as follows:
a) play chess, fight enemies, play drums (beat is a word with many meanings).
c) bean contest, bean sticky rice, bird perch on a branch (bean are homophones).
Question 3: Read the passage The Straw (Textbook TV5, volume 1, page 167). Find synonyms for the words in bold in the text. In your opinion, why did the writer choose the word in bold and not its synonyms?
Suggestion: Read the passage The Straw (Textbook TV5, volume 1, page 167):
a) Synonyms for the words in bold are:
- cunning: clever, shrewd, cunning...
- to offer: to give, to give, to give
-calm: warm, gentle, smooth
b) The writer chooses the words cunning, offering, and gentle without choosing synonyms for those words because there are no synonyms with expressive nuances as well as expressive nuances suitable to the context. of the paragraph.
Question 4: Find the appropriate antonym for each position in the following idioms and proverbs:
a) have just loosened
b) String wood, paint
c) Strong uses force and cunning
Hint: Fill in more words to complete the proverbs and idioms, as follows:
a) There is new and old
b) Bad wood, good paint
c) The strong use force, the weak use cunning
SECTION 2: REVIEW SENTENCES
Question 1: Read the story The meaning of the word cong (TV5 textbook, volume 1, page 171) and do the following task:
a) Find in that story:
-A narrative;
-A feeling sentence;
-One sentence.
b) State the signs of each of the above statements.
Hint: Read the story about the meaning of the word "cung" and perform the stated tasks, as follows:
a) In the story there are:
-A question: That's the question But how do you know that I copied your friend's work?
-A sentence: That's the sentence My niece copied your test today.
-An emotional sentence: That sentence is so sad!
-A sentence that makes: That's a No!
b) The signs of each of the above statements are:
-Question: Has doubtful content (question) that forces (requests) others to answer. There is a question mark at the end of the sentence.
- Narrative sentence: Contains content that describes, describes, or narrates a certain event. There is a period at the end of the sentence.
-Emotional sentences: Contains content expressing emotions. At the end of the sentence there is an exclamation mark (exclamation mark).
–Irritating: There is a request (order...) to force others to do it. At the end of the sentence there is an exclamation mark (exclamation mark).
Question 2: Classify the types of sentences in the story Unique Decision (Textbook TV5, volume 1, page 171). Identify the components of each sentence (subject, predicate, adverb)
Hint: Classify the types of sentences in the story: Decide on originality and identify the components of the sentence as follows:
-Question 1: Not long ago, the leader of the City Council
In the UK, they have decided to pay civil servants who do not speak or write English correctly. (P, C-V)
VN
-Question 2: According to this decision, every time a mistake is made, the civil servant will be fined 1 pound. (P1, P2, C-V)
TN1 TN2 CN VN
-Question 3: The Chairman of the City Council declared
CN
will not sign any documents containing grammatical or spelling errors. (C-V)
VN
-Question 4: This is a strong measure to preserve the purity of English
VN CN(C-V)
|
Tuần 19: Tiếng Việt lớp 3: Nghe và kể lại câu chuyện Chàng trai làng Phù Ủng.
Hướng dẫn
HỌC KÌ 2
TUẦN 19: Tập kể chuyện lớp 3
1. Nghe và kể lại câu chuyện Chàng trai làng Phù ủng:
(Gợi ý:
Muốn nắm vững nội dung câu chuyện, em cần trả lời được các câu hỏi sau:
– Chuyện xảy ra ở đâu? Vào thời gian nào?
– Truyện có những nhân vật nào?
Sau đó đọc 3 câu hỏi gợi ý, quan sát tranh minh hoạ trong Sách giáo khoa Tiếng Việt 3, tập hai, trang 12 để nhớ lại câu chuyện.
+ Khi kể chuyện, phần đầu em kể giọng chậm rãi, thong thả. Đoạn Hưng Đạo Vương xuất hiện giọng dồn dập hơn. Phần cuối nhịp kể lại thong thả. Lời đối thoại của Hưng Đạo Vương: ngạc nhiên, của chàng trai: lễ phép, từ tốn.)
Tham khảo: Tiếng Việt lớp 3: Ôn tập thi cuối kì 1
2. Bài tham khảo:
Sáng hôm ấy, bên vệ đường làng Phù ủng có một chàng trai đội nắng ngồi đan sọt. vẻ mặt chàng đăm chiêu suy nghĩ. Những giọt mồ hôi lấm tấm trên gương mặt trẻ trung.
Giữa lúc ấy, đoàn quân đưa Trần Hưng Đạo đi qua làng. Đường hẹp, quân đông, loa thét đinh tai, vậy mà chàng trai vẫn ngồi điềm nhiên, mải mê đan sọt. Quân mở đường giận dữ lấy giáo đâm vào đùi, máu chảy, chàng trai vẫn không ngẩng mặt.
Kiệu Hưng Đạo Vương đến. Như sực tỉnh, chàng trai vội đứng dậy vái chào. Hưng Đạo Vương hỏi:
-Đùi bị đâm chảy máu mà nhà ngươi không biết sao?
Chàng trai đáp:
– Tôi đang mải nghĩ mấy câu trong sách Binh thư nên không để ý, xin Đại vương đại xá cho.
Trần Hưng Đạo hỏi tên, chàng trai xưng là Phạm Ngũ Lão. Hỏi đến phép dùng binh, chàng trai trả lời rất trôi chảy. Hưng Đạo Vương tỏ lòng mến trọng, đưa chàng trai theo về kinh đô. Về sau, Phạm Ngũ Lão cầm quân đánh giặc, lập được nhiều chiến công lớn, trở thành một vị tướng tài ba.
3. Viết tiếp vào chỗ trống để hoàn chỉnh câu trả lời cho câu hỏi b và c trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3, tập hai, trang 12:
– Câu a: Quân lính đâm giáo vào đùi chàng trai vì kiệu của Trần Hưng Đạo qua làng, người đông, đường hẹp, loa thét đinh tai mà…………………
– Câu b: Trần Hưng Đạo đưa chàng trai về kinh đô vì thấy chàng là một người
|
Week 19: Grade 3 Vietnamese: Listen and retell the story of Phu Ung village boy.
Instruct
SEMESTER 2
WEEK 19: Practice telling stories for grade 3
1. Listen and retell the story of Phu Ngoc village boy:
(Suggest:
To understand the content of the story, you need to answer the following questions:
– Where did it happen? When?
– What characters does the story have?
Then read the 3 suggested questions and observe the illustrations in Vietnamese Textbook 3, volume two, page 12 to recall the story.
+ When telling a story, I tell the first part slowly and leisurely. Doan Hung Dao Vuong appeared with a more urgent voice. The last part has a leisurely narrative rhythm. Hung Dao Vuong's dialogue: surprised, the young man's: polite, gentle.)
Reference: Vietnamese grade 3: Review for final exam 1
2. Reference article:
That morning, on the side of the road in Phu Ngoc village, there was a young man sitting under the sun, weaving baskets. His face looked thoughtful. Drops of sweat appeared on his youthful face.
At that time, the army took Tran Hung Dao through the village. The road is narrow, the army is large, the loudspeakers are deafening, yet the young man still sits calmly, engrossed in weaving baskets. The angry pioneer took a spear and stabbed him in the thigh, causing blood to flow, but the young man still did not look up.
Kieu Hung Dao Vuong arrived. As if suddenly awakened, the young man quickly stood up and bowed. Hung Dao Vuong asked:
-You didn't know that your thigh was stabbed and bleeding?
The boy replied:
– I was so busy thinking about a few sentences in the book War that I didn't pay attention. Please grant me a great pardon, Your Majesty.
Tran Hung Dao asked his name, the young man said he was Pham Ngu Lao. When asked about the use of soldiers, the young man answered very fluently. Hung Dao Vuong expressed his respect and took the young man with him to the capital. Later, Pham Ngu Lao led the army to fight the enemy, achieved many great victories, and became a talented general.
3. Continue writing in the blank to complete the answers to questions b and c in the Vietnamese 3 textbook, volume two, page 12:
– Question a: The soldiers stabbed spears into the young man's thighs as Tran Hung Dao's palanquin passed through the village, there were many people, the roads were narrow, the loudspeakers were deafening, but……………………
– Question b: Tran Hung Dao took the boy back to the capital because he saw that he was a person
|
Tuần 1: Cấu tạo của bài văn tả cảnh (tập làm văn 5)
Hướng dẫn
Câu 1:Đọc và phân đoạn bài văn Hoàng hôn trên sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Xác định nội dung từng đoạn.
Gợi ý: Bài Hoàng hôn trên sông Hương được chia làm ba phần:
a.Mở bài: Từ đầu đến “thành phố vốn hằng ngày đã rất yên tĩnh này”.
-Nội dung: Nêu đặc điểm của Huế vào lúc hoàng hôn.
b.Thân bài: Từ “Mùa thu” đến “khoảnh khắc yên tĩnh của buổi chiều cũng chấm dứt”.
-Nội dung: Sự chuyển đổi màu sắc của sông Hương cùng với những hoạt động của con người ở hai bên bờ và trên dòng sông Hương vào thời điểm hoàng hôn.
(Phần thân bài gồm hai đoạn: đoạn 1 từ “Mùa thu” cho đến “hàng cây”, nói về sự thay đổi sắc màu của sông Hương từ lúc bắt đầu hoàng hôn đến lúc trời tối hẳn. Đoạn 2: từ “Phía bên sông” cho đến “cũng chấm dứt”, nói về hoạt động của con người ở hai bờ sông và trên mặt sông từ lúc hoàng hôn đến lúc thành phô’ lên đèn).
c.Kết bài: Phần còn lại của văn bản.
– Nội dung: Huế thức dậy sau buổi hoàng hôn với nhịp sống mới.
Câu 2:Thứ tự miêu tả trong bài văn trên có gì giông và khác với bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa
Gợi ý:Thứ tự miêu tả trong hai bài văn: Hoàng hôn trên sông Hương và Quang cảnh làng mạc ngày mùa
*Khác: – Bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa tả từng bộ phận của cảnh.
-Bài Hoàng hôn trên sông Hương tả cảnh vật theo sự biên đổi của thời gian.
Cụ thể là: Quang cảnh làng mạc ngày mùa, tác giả đã giới thiệu màu sắc bao trùm lên làng quê vào ngày mùa. Đó là màu vàng, sau đó tác giả di sâu hơn tả chi tiết cảnh vật với sắc độ màu vàng khác nhau, rồi thời tiết và con người cần cù say mê với công việc trong ngày mùa.
-Bài Hoàng hôn trên sông Hương, tác giả khái quát đặc điểm chung của Huế vào lúc hoàng hôn. Đó là sự yên tĩnh. Tiếp đó, tác giả tả về sự thay đổi sắc màu của sông Hương theo sự biến chuyển của thời gian từ lúc bắt đầu hoàng hôn cho đến lúc trời tối hẳn. Cuối cùng là sự thức dậy của Huế sau thời diếm hoàng hôn.
Câu 3: Từ hai bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa và Hoàng hôn trên sông Hương, hãy rút ra nhận xét về cấu tạo của bài văn tả cảnh.
Gợi ý: Cấu tạo của bài văn tả cảnh: Gồm có ba phần:
a.Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả.
c.Kết luận: Kết thúc việc miêu tả một cách tự nhiên hoặc nêu lên cảm nghĩ của người viết.
LUYỆN TẬP
Câu 1:Nhận xét cấu tạo của bài văn Nắng trưa,
Gợi ý: Cấu tạo của bài văn Nắng trưa:
Bài văn Nắng trưa gồm ba phần:
-Phần 1: Mở bài: Là câu đầu tiên của văn bản. Nội dung: Nhận xét
khái quát về cái nắng vào ban trưa.
-Phần 2: Thân bài: Phần này gồm có bốn đoạn, mỗi đoạn được giới hạn bởi câu mỏ đầu và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng. Cụ thể là:
+ Đoạn 1: “Buổi trưa., bốc lên mãi”
*Nội dung: Đặc tả về cái nắng ban trưa thật dữ dội.
+ Đoạn 2: từ “Tiếng gì xa vắng… mí mắt khép lại”
*Nội dung: Không khí nặng nề, oi bức, tĩnh lặng do cái nắng chói chang khó chịu của ban trưa đem lại.
+ Đoạn 3: từ “Con gà nào… cũng lặng im”
*Nội dung: Hoạt động và trạng thái của muôn vật giữa cái nắng trưa oi ả. Không gian như đi vào sự tĩnh lặng.
+ Đoạn 4: từ “Ây thế… thửa ruộng chưa xong”
*Nội dung: Sự vất vả của người mẹ dưới cái nắng trưa dữ dội.
— Phần 3: Kết bài: Câu cuối của văn bản.
*Nội dung: Tình cảm của người con đối với mẹ.
Gợi ý: Em có thể chọn bất kì cảnh nào gần gũi với em nhất và quan sát chúng vào một buổi nhất định (sáng, trưa, chiều). Chú ý: huy động tất cả các giác quan của mình vào quan sát cảnh ấy: thị giác, cảm giác, thính giác… Trong quá trình quan sát, em cần thực hiện theo một trình tự nhâ’t định. (Từ gần đến xa, hay từ xa đến gần; từ trên xuông dưới hay từ dưới lên trên). Quan sát được gì, ghi vào vỏ, sau đó liên kết chúng lại thành một dàn ý chi tiết rồi viết thành một bài văn hoàn chỉnh.
|
Week 1: Structure of a scene description essay (writing practice 5)
Instruct
Question 1: Read and analyze the essay Sunset on the Perfume River by Hoang Phu Ngoc Tuong. Determine the content of each paragraph.
Suggestion: The article Sunset on the Perfume River is divided into three parts:
a.Introduction: From the beginning to "this city that is very quiet every day".
-Content: Describe the characteristics of Hue at sunset.
b. Body of the poem: From "Autumn" to "the quiet moment of the afternoon also ends".
-Content: The change in color of the Perfume River along with human activities on both banks and on the Perfume River at sunset.
(The body of the article consists of two paragraphs: paragraph 1 from "Autumn" to "tree line", talks about the change in color of the Huong River from the beginning of sunset to complete darkness. Paragraph 2: from "Phuong "side of the river" until "also ends", talking about human activities on the river banks and on the river surface from sunset until the city lights up).
c. Conclusion: The rest of the text.
– Content: Hue wakes up after sunset with a new rhythm of life.
Question 2: How is the order of description in the above article similar or different from the article Scenes of the village during harvest time?
Suggestion: Order of description in the two essays: Sunset on the Perfume River and Scenery of the village during harvest time
*Other: – The article Landscapes of villages during the summer describes each part of the scene.
-The article Sunset on the Perfume River describes the landscape according to the changes of time.
Specifically: Scene of the village during harvest time, the author introduced the colors covering the village during harvest time. That is the color yellow, then the author goes deeper and describes in detail the landscape with different shades of yellow, then the weather and the industrious people passionate about work during the harvest.
-In the article Sunset on the Perfume River, the author summarizes the general characteristics of Hue at sunset. It was quiet. Next, the author describes the change in color of the Huong River according to the change of time from the beginning of sunset until it is completely dark. Finally, the awakening of Hue after sunset.
Question 3: From the two articles Scenes of the village during harvest time and Sunset on the Perfume River, draw comments on the structure of the scene description essay.
Suggestions: Structure of a scene description essay: Consists of three parts:
a.Introduction: General introduction to the scene to be described.
c. Conclusion: End the description naturally or state the writer's feelings.
PRACTICE
Question 1: Comment on the structure of the essay Noon Sun,
Suggestion: Structure of the essay Noon Sun:
The essay Noon Sun consists of three parts:
-Part 1: Introduction: Is the first sentence of the text. Content: Comments
Overview of the sun at noon.
-Part 2: Body: This part includes four paragraphs, each paragraph is limited by the first sentence and ends with a line break. Detail:
+ Paragraph 1: “Noon, rising forever”
*Content: Description of the intense noon sun.
+ Paragraph 2: from "Some distant sound... eyelids closed"
*Content: The atmosphere is heavy, sultry, and quiet caused by the uncomfortably bright sunlight of noon.
+ Paragraph 3: from "Every chicken... is silent"
*Content: Activities and states of all things in the sweltering midday sun. The space seemed to enter silence.
+ Paragraph 4: from “Ahh… the field is not yet finished”
*Content: A mother's hardship under the fierce noon sun.
— Part 3: Conclusion: The last sentence of the text.
*Content: A child's feelings towards his mother.
Suggestion: You can choose any scenes that are closest to you and observe them on a certain day (morning, noon, afternoon). Note: mobilize all your senses to observe the scene: sight, feeling, hearing... During the observation process, you need to follow a certain order. (From near to far, or from far to near; from top to bottom or from bottom to top). What you observe, write it down, then link it together into a detailed outline and then write it into a complete essay.
|
Tuần 1: Luyện từ và câu (Từ đồng nghĩa)
Hướng dẫn
TIẾT 1: LUYỆN TỪ VÀ CÂU
Câu 1: Xếp những từ in đậm thành từng nhóm đồng nghĩa trong đoạn văn đã cho (SGK TV5 tập 1 trang 8).
Gợi ý:Những nhóm từ đồng nghĩa trong đoạn văn đã cho là.
+ hoàn cầu – năm châu
+ non sông – nước nhà
Câu 2: Tìm những từ đồng nghĩa với mỗi từ sau đây:
“đẹp, to lớn, học tập”
Gợi ý: Những từ đồng nghĩa với các từ đã cho là.
-đẹp: xinh, xinh đẹp, kiều diễm, đẹp đẽ, mĩ lệ…
-to lớn: khổng lồ, vĩ đại, to tướng, to đùng…
-học tập: học hành, học hỏi, học việc…
Câu 3: Đặt câu với một cặp từ đồng nghĩa em vừa tìm được ở bài tập 2.
Gợi ý:Đặt câu với một cặp từ đồng nghĩa vừa tìm được như sau.
-Cháu Hương con chị Ba xinh đáo để.
–Tiết mục múa của lớp em trông đẹp mắt lắm.
TIẾT 2: LUYỆN TỪ VÀ CÂU
Câu 1: Tìm các từ đồng nghĩa:
a) Chỉ màu xanhc) Chỉ màu trắng
b) Chỉ màu đỏ d) Chỉ màu đen
Gợi ý: Tìm các từ đồng nghĩa.
a)Chỉ màu xanh: xanh, xanh xanh, xanh lơ, xanh lam, xanh biếc, xanh da trời, xanh nước biển, xanh ngát, xanh ngắt, xanh rờn, xanh mướt.
b)Chỉ màu đỏ: đo đỏ, đỏ cờ, đỏ au, đỏ chói, đỏ chóe, đỏ chót, đỏ hoe, đỏ hỏn, đỏ lòm, đỏ ối, đỏ quạch, đỏ rực, đỏ ửng…
d)Chỉ màu đen: đen đen, đen kịt, đen đúa, đen thui, đen ngòm, đen nhánh, đen đủi…
Câu 2: Đặt câu với một từ em vừa tìm được ở bài tập 1.
Gợi ý: Đặt câu với một từ em vừa tìm được.
-Bầu trời xanh ngắt một màu.
-Trái ớt chín đỏ chót nhìn thật thích mắt.
-Con bé nhà ai mà trắng trẻo thế.
–Những cục than đá đen nhánh trông thật đẹp.
Câu 3: Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh bài văn sau: Cá hồi vượt thác (SGK TV5 tập 1 trang 13).
Gợi ý:Em chọn từ đúng để hoàn chỉnh đoạn văn bài Cá hồi vượt thác như sau.
-Đàn cá hồi gặp thác phải nghỉ lại lấy sức để sáng mai vượt sóng. Suốt đêm thác réo điên cuồng. Nước tung lên thành những búi trắng như tơ. Suốt đêm đàn cá rậm rịch.
Mặt trời vừa nhô lên. Dòng thác óng ánh sáng rực dưới nắng. Tiếng nước xối gầm vang. Những con cá hồi lấy đà lao vút lên như chim. Chúng chọc thủng màn mưa thác trắng. Những đôi vây xòe ra như đôi cánh.
Đàn cá hồi lần lượt vượt thác an toàn. Đậu “chân” bên kia ngọn thác, chúng chưa kịp chờ cho cơn choáng di qua, lại hối hả lên đường.
|
Week 1: Practice words and sentences (Synonyms)
Instruct
SECTION 1: PRACTICE WORDS AND SENTENCES
Question 1: Arrange the words in bold into synonym groups in the given passage (Textbook TV5, volume 1, page 8).
Hint: The groups of synonyms in the given passage are.
+ globe – five continents
+ mountains and rivers – home country
Question 2: Find synonyms for each of the following words:
“beautiful, big, studying”
Hint: Synonyms for the given words are.
-beautiful: beautiful, beautiful, graceful, beautiful, beautiful...
- huge: giant, great, huge, huge...
-study: study, learn, apprentice...
Question 3: Make a sentence with a pair of synonyms you just found in exercise 2.
Hint: Make a sentence with a pair of synonyms you just found as follows.
- Huong, Ba's daughter, is so beautiful.
–Your class's dance performance looked very beautiful.
SECTION 2: PRACTICE WORDS AND SENTENCES
Question 1: Find synonyms:
a) Blue thread c) White thread
b) Red thread d) Black thread
Hint: Find synonyms.
a) Blue only: blue, blue-green, blue-green, blue-green, blue-green, sky-blue, sea-blue, light-blue, light-blue, deep-green, green.
b) Red thread: red, flag red, auburn red, dazzling red, dazzling red, extreme red, bluish red, crimson red, crimson red, amniotic red, crimson red, blazing red, blushing red...
d) Black thread: black black, jet black, pitch black, pitch black, jet black, pitch black, unlucky black...
Question 2: Make a sentence with a word you just found in exercise 1.
Hint: Make a sentence with a word you just found.
-The sky is a solid blue color.
-The ripe red chili looks very pleasing to the eye.
-Whose baby is this white?
–The black coals look so beautiful.
Question 3: Choose the appropriate word in parentheses to complete the following text: Salmon crossing the waterfall (Textbook TV5, volume 1, page 13).
Hint: Choose the correct word to complete the paragraph of the article Salmon over the waterfall as follows.
-The salmon encountered the waterfall and had to rest to gain strength to cross the waves tomorrow morning. All night the waterfall roared crazily. The water splashed up into white, silk-like tufts. All night long the fish were crowded.
The sun has just risen. The waterfall shines brightly in the sunlight. The sound of rushing water echoed. The salmon rushed up like birds. They pierced the white waterfall rain. The fins spread out like wings.
The salmon flock safely crossed the waterfall one after another. Parking their "feet" on the other side of the waterfall, they didn't have time to wait for the shock to pass, so they hurriedly set off again.
|
Tuần 2: Luyện từ và câu (Luyện tập về Từ đồng nghĩa)
Hướng dẫn
TIẾT 1: LUYỆN TẬP VỀ TỪ ĐỒNG NGHĨA
Câu 1: Tìm trong bài Thư gửi các học sinh hoặc Việt Nam thân yêu những từ đồng nghĩa với từ Tổ quốc.
Gợi ý: Trong bài Thư gửi các học sinh và bài Việt Nam thân yêu có những từ đồng nghĩa với từ Tổ quốc là: nước nhà, non sông, đất nước.
Câu 2: Tìm thêm những từ đồng nghĩa với từ Tổ quốc.
Gợi ý: Những từ đồng nghĩa với Tổ quốc, đó là những từ: giang sơn, quốc gia, quê hương, đất mẹ…
Câu 3: Trong từ Tổ quốc tiếng quốc có nghĩa là nước. Em hãy tìm thêm những từ chứa tiếng quốc.
Gợi ý:Tìm thêm những từ chứa tiếng quốc (quốc nghĩa là nước). Đó là những từ:
–quốc dân, quốc sự, quốc nạn, quốc ca, ái quôc, vệ quốc, quốc hiệu, quốc học, quốc hội, quốc huy, quốc khánh, quốc kì, quốc ngữ, quôc phòng, quốc giáo, quốc doanh, quốc lập…
Câu 4: Đặt câu với những từ dưới đây:
a)Quê hương b) Quê mẹ
a)Quê cha đất tổ d) Nơi chôn rau cắt rốn
Gợi ý:Đặt câu với những từ cho trước, như sau:
a)Quê hương: Quê hương em ở tận ngoài Bắc.
b)Quê mẹ: Xa xứ, người ta thường nhớ về quê mẹ.
c)Quê cha đất tổ: Những người sống xa Tổ quốc, họ luôn hướng về quê cha đất tổ.
d)Nơi chôn rau cắt rốn: Bố em nói: “Tết này bố sẽ đưa cả nhà về thăm nơi chôn rau cắt rốn của mình.”
TIẾT 2: LUYỆN TẬP VỀ TỪ ĐỒNG NGHĨA
Câu 1: Tìm những từ đồng nghĩa trong đoạn văn đã cho (SGK TV5 tập 1 trang 22).
Gợi ý: Những từ đồng nghĩa là: mẹ, má, u, bu, bầm, bủ, mạ.
Câu 2: Xếp các từ cho dưới đây thành những nhóm từ đồng nghĩa: bao la, lung linh, vắng vẻ, hiu quạnh, long lanh, lóng lánh, mênh mông, vắng teo, vắng ngắt, bát ngát, lấp loáng, lấp lánh, hiu hắt, thênh thang.
Gợi ý: Xếp các từ đã cho thành những nhóm từ đồng nghĩa, như sau:
-bao la, mênh mông, bát ngát, thênh thang.
-lung linh, long lanh, lóng lánh, lấp loáng, lấp lánh.
-vắng vẻ, hiu quạnh, vắng teo, vắng ngắt, hiu hắt.
Câu 3: Viết một đoạn văn miêu tả khoảng năm câu, trong đó có dùng một số từ đã nêu ở bài tập 2.
Gợi ý: Viết một đoạn văn miêu tả có dùng một số từ nêu ở trên như sau.
-Cánh đồng lúa quê em mênh mông bát ngát. Vụ nối vụ, mùa nối mùa. Hết màu xanh bao la lại đến màu vàng của biển lúa. Cánh đồng ấy nổi tiếng là vựa thóc của miền Nam.
-Hồ Trúc Giang ở ngay trung tâm thị xã. Hồ có một vẻ đẹp thật thi vị. Ban đêm, mặt hồ lung linh ánh điện. Thỉnh thoảng những làn gió thổi qua, mặt hồ gợn sóng lăn tăn, lấp lánh ánh sáng bạc.
|
Week 2: Practice words and sentences (Practice Synonyms)
Instruct
SECTION 1: PRACTICE ON SYNONYMS
Question 1: Find in the article Letter to students or beloved Vietnam the synonyms of the word Fatherland.
Suggestion: In the article Letter to the students and the article Dear Vietnam, there are words that are synonymous with the word Fatherland: home country, country, country.
Question 2: Find more synonyms for the word Fatherland.
Suggestion: Synonyms for Fatherland are the words: country, nation, homeland, motherland...
Question 3: In the word Fatherland, Quoc means country. Please find more words containing the national language.
Suggestion: Find more words containing national language (quoc means country). These are the words:
– national, national affairs, national disaster, national anthem, patriotism, national defense, national emblem, national school, national assembly, national emblem, national day, national flag, national language, national defense, national religion, state enterprise, national create…
Question 4: Make sentences with the words below:
a) Homeland b) Motherland
a) Father's homeland d) Place of birth and birth
Hint: Make sentences with the words given, as follows:
a) Hometown: My hometown is in the North.
b) Motherland: Away from home, people often miss their motherland.
c) Fatherland: People who live far away from their country always look towards their fatherland.
d) The place where our umbilical cord was buried: My father said: "This Tet, I will take the whole family back to visit the place where my umbilical cord was buried."
SECTION 2: PRACTICE ON SYNONYMS
Question 1: Find synonyms in the given passage (Textbook TV5, volume 1, page 22).
Suggestion: Synonyms are: mother, mother, u, bu, bruise, bu, mama.
Question 2: Arrange the words given below into groups of synonyms: immense, sparkling, deserted, lonely, glittering, sparkling, immense, deserted, deserted, immense, sparkling, sparkling secluded, desolate, spacious.
Hint: Arrange the given words into groups of synonyms, as follows:
- vast, immense, immense, spacious.
-shimmering, glittering, sparkling, sparkling, sparkling.
- deserted, lonely, deserted, deserted, desolate.
Question 3: Write a descriptive paragraph in about five sentences, using some of the words mentioned in exercise 2.
Hint: Write a descriptive paragraph using some of the words mentioned above as follows.
-The rice fields in my hometown are vast. Crop after crop, season after season. From the vast green to the yellow of the sea of rice. That field is famous as the granary of the South.
- Truc Giang Lake is right in the center of town. The lake has a truly poetic beauty. At night, the lake surface shimmers with electric light. Occasionally the breeze blows, the surface of the lake ripples, sparkling with silver light.
|
Tuần 3: Luyện từ và câu (Luyện tập về Từ đồng nghĩa)
Hướng dẫn
TIẾT 1: LUYỆN TẬP VỀ TỪ ĐỒNG NGHĨA
Câu 1: Xếp các từ ngữ trong ngoặc đơn vào nhóm thích hợp nêu dưới đây:
a)công nhân b) nông dân
c)doanh nhân d) quân nhân
a)trí thức g) học sinh
(Giáo viên, đại úy, trung sĩ, thợ điện, thợ cơ khí, thợ cấy, thợ cày, học sinh tiểu học, học sinh trung học, bác sĩ, kĩ sư, tiểu thương, nhà tư sản).
Gợi ý: Xếp các từ ngữ cho trước vào nhóm thích hợp như sau:
a)Công nhân: thợ điện, thợ cơ khí.
b)Nông dân: thợ cấy, thợ cày.
c)Doanh nhân: tiểu thương, nhà tư sản.
d)Quân nhân: đại úy, trung sĩ.
e)Trí thức: giáo viên, bác sĩ, kĩ sư.
g) Học sinh: học sinh tiểu học, học sinh trung học.
Câu 2: Đọc truyện Con Rồng cháu Tiên và trả lời câu hỏi (SGK TV5 tập 1 trang 27).
a)Vì sao người Việt Nam ta gọi nhau là đồng bào?
b)Tìm từ bắt đầu bằng tiếng đồng (có nghĩa là “cùng”).
c)Đặt câu với một trong những từ vừa tìm được.
Gợi ý:
Đọc truyện “Con Rồng cháu Tiên” và trả lời câu hỏi, như sau:
a)Người Việt Nam ta gọi nhau là đồng bào là vì đều sinh ra từ
bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ (dồng nghĩa là cùng, bào nghĩa
là cái rau – cái rau nuôi dưỡng thai nhi trong bụng mẹ).
-đồng bào, đồng chí, đồng lòng, đồng hương, đồng thời, đồng bọn, đồng ca, đồng cảm, đồng điệu, đồng dạng, đồng hành, đồng đội, đồng hao, đồng tình, đồng nghĩa, đồng môn, đồng loạt, đồng nghiệp, đồng tâm, đồng khởi, đồng loại, đồng diễn v.v…
c)Đặt câu với một trong những từ vừa tìm được.
–Tiết mục đồng ca của lớp em thật là tuyệt!
TIẾT 2: LUYỆN TẬP VỀ TỪ ĐỒNG NGHĨA
Câu 1: Điền vào các từ xách, đeo, khiêng, kẹp, vác vào những ô trống thích hợp trong đoạn văn đã cho (SGK TV5 tập 1 trang 32-33)
Gợi ý: Điền các từ cho trước thích hợp vào các ô trống trong đoạn văn theo trình tự sau:
-đeo – xách – vác – khiêng – kẹp
Câu 2: Chọn ý thích hợp trong ngoặc để giải thích ý nghĩa chung của các câu tục ngữ sau:
a)Cáo chết ba năm quay đầu về núi.
b)Lá rụng về cội.
c)Trâu bảy năm còn nhớ chuồng.
(Làm người phải thủy chung; gắn bó với quê hương là tình cảm tự nhiên; loài vật thường nhớ nơi ở cũ).
Gợi ý:Chọn ý thích hợp trong ngoặc đơn để giải thích ý nghĩa chung của các câu tục ngữ đã cho, như sau:
-Chọn ý: Gắn bó với quê hương là tình cảm tự nhiên. Nội dung này có thể giải thích nghĩa chung cho cả ba câu tục ngữ.
Câu 3: Dựa theo ý một khổ thơ trong bài sắc màu em yêu, hãy viết một đoạn văn miêu tả màu sắc đẹp của những sự vật mà em yêu thích. Chú ý sử dụng những từ đồng nghĩa trong đoạn văn
-Xanh, đỏ, vàng, lam, chàm, tím… mỗi màu đều có những vẻ đẹp riêng của nó. Với em, màu xanh vẫn là màu em thích nhất. Đó là màu xanh của đồng bằng, rừng núi, màu của biển cả mênh mang và cũng là màu của bầu trời trong xanh vời vợi trên kia. Màu của ước mơ hi vọng.
|
Week 3: Practice words and sentences (Practice Synonyms)
Instruct
SECTION 1: PRACTICE ON SYNONYMS
Question 1: Put the words in parentheses into the appropriate group below:
a) workers b) farmers
c) businessman d) soldier
a) intellectual g) student
(Teachers, captains, sergeants, electricians, mechanics, transplanters, plowmen, elementary school students, high school students, doctors, engineers, small traders, bourgeois).
Hint: Put the given words into the appropriate groups as follows:
a) Workers: electricians, mechanics.
b) Farmers: transplanters, plowmen.
c) Businessmen: small traders, bourgeois.
d) Soldiers: captain, sergeant.
e) Intellectuals: teachers, doctors, engineers.
g) Students: elementary school students, high school students.
Question 2: Read the story The Dragon and the Fairy's Descendants and answer the questions (Textbook TV5, volume 1, page 27).
a) Why do Vietnamese people call each other compatriots?
b) Find words that start with dong (meaning "same").
c) Make a sentence with one of the words you just found.
Suggest:
Read the story "The Dragon and the Fairy" and answer the questions as follows:
a) Vietnamese people call each other compatriots because we are all born from Vietnam
Au Co's mother's bag of hundreds of eggs (synonym means same, defense
is a vegetable - a vegetable that nourishes the fetus in the mother's womb).
- compatriots, comrades, of the same mind, compatriots, at the same time, companions, chorus, sympathize, in the same tune, identical, companion, comrades, fellow, sympathize, sympathize, fellow, fellow series, colleague, concentric, co-emergent, of the same kind, co-occurring, etc.
c) Make a sentence with one of the words you just found.
–My class's choir performance was really great!
SECTION 2: PRACTICE ON SYNONYMS
Question 1: Fill in the words carry, carry, carry, clip, carry in the appropriate blank boxes in the given paragraph (Textbook TV5, volume 1, page 32-33)
Hint: Fill in the appropriate words given in the blank boxes in the paragraph in the following order:
- carry – carry – carry – carry – clip
Question 2: Choose the appropriate idea in brackets to explain the general meaning of the following proverbs:
a) The fox died three years ago and returned to the mountain.
b) Leaves fall back to their roots.
c) A seven-year-old buffalo still remembers the barn.
(Being a human being must be faithful; attachment to one's homeland is a natural feeling; animals often remember their old home).
Hint: Choose the appropriate idea in parentheses to explain the general meaning of the given proverbs, as follows:
-Choose idea: Attachment to the homeland is a natural feeling. This content can explain the general meaning of all three proverbs.
Question 3: Based on the idea of a stanza in the poem Colors I Love, write a paragraph describing the beautiful colors of the things you love. Pay attention to using synonyms in the passage
-Green, red, yellow, blue, indigo, purple... each color has its own beauty. For me, blue is still my favorite color. It is the green color of the plains, the mountains, the color of the vast sea and also the color of the clear blue sky above. The color of dreams and hopes.
|
Tuần 4: Chính tả Anh Bộ Đội cụ Hồ gốc Bỉ
Hướng dẫn
Câu 1: Nghe – viết Anh bộ đội cụ Hồ gốc Bỉ (SGK TV5 tập 1 trang 38).
Gợi ý:Em nhờ bạn hay người thân đọc, em viết lại bài đã cho. Viết xong đối chiếu với văn bản. Sai chữ nào sửa lại chữ ấy. Chú ý mẫu chữ, tốc độ viết cho đúng.
Câu 2: Chép vần của các tiếng in đậm trong câu sau vào mô hình cấu tạo vần. Cho biết giữa các tiếng ấy có gì giống nhau và khác nhau.
“Nhận rõ tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược, năm 1949, ông chạy sang hàng ngũ quân đội ta, lấy tên Việt là Phan Lăng”.
Gợi ý:Chép vần của các tiếng in đậm đã cho như sau:
-Nghĩa: Phần vần là ia.
-Chiến: Phần vần là iên.
•Giống nhau: Âm chính của mỗi tiếng đều là nguyên âm ia, iê (i + a; i + ê).
•Khác nhau: Tiếng nghĩa không có âm cuối. Tiếng chiến có âm cuối.
Câu 3: Nêu quy tắc ghi dấu thanh ở các tiếng trên.
Gợi ý: Quy tắc ghi dấu thanh của các tiếng, như sau.
-Tiếng nghĩa không có âm cuối nên dấu thanh đặt ở âm i (âm đầu của nguyên âm đôi ia, iê).
-Tiếng chiến có âm cuối vần nên dấu thanh đặt trên âm thứ hai (âm ê của nguyên âm đôi iê).
Đây là quy tắc được sử dụng chung cho Tiếng Việt đối với những tiếng có nguyên âm đôi.
|
Week 4: English spelling Uncle Ho's Belgian origin
Instruct
Question 1: Listen - write Uncle Ho's English soldier from Belgium (TV5 textbook volume 1 page 38).
Suggestion: Ask a friend or relative to read it and rewrite the given article. After writing, compare with the text. If any word is wrong, correct that word. Pay attention to letterforms and writing speed correctly.
Question 2: Copy the rhymes of the words in bold in the following sentence into the rhyme structure model. Tell us what is similar and what is different between these languages.
"Recognizing the unjust nature of the war of invasion, in 1949, he fled to join our army, taking the Vietnamese name Phan Lang."
Hint: Copy the rhyme of the given words in bold as follows:
-Meaning: The rhyming part is ia.
-Chien: The rhyming part is ien.
•Same: The main sounds of each word are the vowels ia, iê (i + a; i + ê).
•Difference: Meaning does not have a final sound. The sound of war has a final sound.
Question 3: State the rules for recording tone marks in the above languages.
Hint: The rules for recording the tone marks of sounds are as follows.
-The English language does not have a final sound, so the tone mark is placed on the i sound (the first sound of the diphthongs ia, iê).
-The sound of war has a rhyming final sound, so the tone mark is placed on the second sound (the ê sound of the diphthong iê).
This is a rule commonly used in Vietnamese for languages with diphthongs.
|
Tuần 5: Chính tả Một chuyên gia máy xúc
Hướng dẫn
Câu 1: Nghe – viết bài Một chuyên gia máy xúc (từ “Qua khung cửa”.._..đến “những nét giản dị thân mật”) SGK TV5 tập 1 trang 45.
Gợi ý:Em nhờ bạn hay người thân đọc, em viết bài đã cho. Viết xong, đối chiếu với văn bản. Sai chữ nào sửa chữ ấy. Chú ý viết đúng mẫu chữ và tốc độ theo quy định.
Câu 2: Tìm các tiếng có chứa uô, ua trong bài văn Anh hùng Núp tại Cu-ba (SGK TV5 tập 1 trang 47). Giải thích quy tắc ghi dấu thanh áp dụng trong mỗi tiếng em vừa tìm được.
Gợi ý: Tìm các tiếng có chứa uô, ua trong đoạn văn. Đó là những tiếng: “của, múa, cuốn, buôn, cuộc”.
-Các tiếng của, múa không có âm cuối, dấu thanh ghi trên âm đầu của nguyên âm đôi ua (trên âm u).
–Các tiếng cuốn, cuộc có âm cuối Hên dâu thanh ghi ở âm thứ hai của nguyên âm đôi uô (trên hoặc dưới âm ô).
Tóm lại: Trong tiếng Việt những tiếng nào có nguyên âm đôi như hai trường hợp trên đều ghi dấu thanh như thế cả.
Câu 3: Tìm tiếng có chứa uô hoặc ua thích hợp với mỗi chỗ trống trong các thành ngữ dưới đây:
-….. người như một.
-Chậm như…..
-Ngang như…..
-Cày sâu….. bẫm.
Gợi ý: Tìm tiếng có chứa uô hay ua thích hợp với mỗi chỗ trống trong các thành ngữ đã cho, như sau:
-Chậm như rùa.
-Ngang như cua.
–Cày sâu cuốc bẫm.
|
Week 5: Spelling An excavator expert
Instruct
Question 1: Listen - write the article An excavator expert (from "Through the door".._..to "simple and intimate features") Textbook TV5 volume 1 page 45.
Suggestion: Ask a friend or relative to read it, I'll write the article for you. After writing, compare with the text. If any word is wrong, correct that word. Pay attention to writing in the correct letter form and speed according to regulations.
Question 2: Find words containing uô and ua in the text Hero Hiding in Cuba (Textbook TV5, volume 1, page 47). Explain the rules for registering tone marks that apply to each sound you just found.
Hint: Find words containing uô and ua in the passage. Those are the words: "of, dance, roll, trade, fight".
-The sounds of and dance do not have a final sound, the tone mark is recorded on the first sound of the diphthong ua (on the sound u).
–The sounds rolling and cai have the final sound Hen dau thanh recorded in the second sound of the diphthong uô (above or below the sound o).
In short: In Vietnamese, all languages that have diphthongs like the two cases above all have voice accents like that.
Question 3: Find the word containing uô or ua that fits each blank in the idioms below:
-….. people are like one.
-Slow as...
-Same as…..
-Plow deeply….. fat.
Hint: Find words containing uô or ua that fit each blank in the given idioms, as follows:
-Slow like turtle.
-As flat as a crab.
–Plow deeply and hoe deeply.
|
Tuần 5: Luyện từ và câu (Từ đồng âm)
Hướng dẫn
TIẾT 1: TỪ ĐỒNG ÂM
Câu 1: Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của từ hòa bình:
a)Trạng thái bình thản.
b)Trạng thái không có chiến tranh.
c)Trạng thái hiền hòa, yên ả.
Gợi ý: Chọn câu trả lời đúng nghĩa từ hòa bình, như sau:
–Chọn (b) trạng thái không có chiến tranh.
Câu 2: Những từ nào dưới đây đồng nghĩa với từ hòa bình:
— bình yên- bình thản
—lặng yên- thái bình
—hiền hòa— thanh thản
—thanh bình- yên tĩnh
Gợi ý: Những từ đồng nghĩa với từ hòa bình là: bình yên, thanh bình, thái bình.
Câu 3: Em hãy viết một đoạn văn từ 5 – 7 câu miêu tả cảnh thanh bình của một miền quê hoặc thành phố mà em biết.
Gợi ý: Đoạn văn miêu ta cánh thanh bình của một miền quê:
Quê tôi thuộc một vùng đồng bằng chiêm trũng miền Trung. Mảnh đất ấy tuy còn nghèo nhưng họ sống với nhau thật tình cảm, thật đầm ấm. Từ khi tôi biết, tôi hiểu thì ở đây họ sống với nhau bằng cái tình. Nghĩa là bằng sự chia sẻ “bát cơm manh áo” cho nhau. Chưa bao giờ tôi thấy cảnh đôi co, cãi lộn hay giằng xé nhau một cái gì đó. Và cũng chưa bao giờ thấy cảnh trộm cắp, trấn lột xảy ra ở đây. Có thể nói là một miền quê yên ả thanh bình. Tôi yêu quê mình lắm.
Câu 1: Phân biệt nghĩa của những từ đồng âm trong các cụm từ sau đây:
a)Cánh đồng – tượng đồng – một nghìn đồng
b)Hòn đá – đá bóng
c)Ba và má – ba tuổi
Gợi ý: Phân biệt nghĩa của những từ đồng âm, như sau:
-Đồng (trong cánh đồng): là một khoảng đất rộng, bằng phẳng dùng để cày cấy trồng trọt.
-Đồng (trong tượng đồng): kim loại có màu đỏ thường dùng để kéo dây điện, dát mỏng, đúc tượng… để ví một cái gì bền vững theo quan niệm của người xưa.
-Đồng (trong một nghìn đồng): dùng để chỉ đơn vị tiền tệ.
-Đá (trong hòn đá): chất rắn cấu tạo nên vỏ trái đất, kết thành từng tảng, từng hòn.
-Đá (trong đá bóng): một động tác dùng chân đưa bóng đi một nơi nào đó của con người.
-Ba, má (trong ba và má): dùng để chỉ những người đã sinh và nuôi dưỡng mình.
–Ba (trong ba tuổi): từ chỉ số lượng 1, 2, 3, 4…
Câu 2: Đặt câu để phân biệt từ đồng âm bàn, cờ, nước.
Gợi ý:Đặt câu để phân biệt từ đồng âm:
*Bàn:
-Tôi muốn bàn với anh một việc.
-Cái bàn này tôi vừa mới mua.
*Cờ:
-Cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh ở giữa là Quốc kì của ta.
-Bố em đang chơi cờ với bác hàng xóm.
*Nước:
-Rót hộ mình một li nước!
Câu 3: Đọc truyện Tiền tiêu (SGK TV5 tập 1 trang 52) và cho biết vì sao Nam tưởng ba mình đã chuyên sang làm việc tại ngân hàng.
Gợi ý:Đọc truyện Tiển tiêu và cho biết vì sao Nam tưởng ba mình đã chuyển sang làm việc tại ngân hàng?
–Là vì Nam nhầm lẫn hai từ “tiển tiêu” (vị trí quan trọng, nơi có bô” trí canh gác ở phía trước khu vực đóng quân hướng về phía địch) với “tiền tiêu” (tiền dùng để xài, mua bán thứ gì đó phục vụ cho cuộc sống).
Câu 4: Đố vui:
a)Trùng trục như con chó thui
Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu
(Là con gì)
b)Hai cây cùng có một tên
Cây xòe mặt nước, cây trên chiến trường
Cây này bảo vệ quê hương
Cây kia hoa nở soi gương mặt hồ.
Gợi ý:
-Câu a: Là con chó thui đã được nướng chín (chứ không phải là số 9).
-Câu b: Là cây hoa súng và khẩu súng.
|
Week 5: Practice words and sentences (Homophones)
Instruct
SECTION 1: HOMOPHONE WORDS
Question 1: Which line below states the correct meaning of the word peace:
a) Calm state.
b) A state of no war.
c) A gentle and peaceful state.
Hint: Choose the correct answer from the word peace, as follows:
–Choose (b) a state where there is no war.
Question 2: Which of the following words is synonymous with the word peace:
— peaceful - calm
—quiet- peaceful
—gentle— serene
—peaceful- quiet
Hint: Synonyms for the word peace are: peace, tranquility, peace.
Question 3: Write a paragraph of 5-7 sentences describing the peaceful scene of a countryside or city you know.
Suggestion: The paragraph describes the peacefulness of a countryside:
My hometown is in a low-lying plain in the Central region. Even though that land was still poor, they lived together very affectionately and warmly. Since I know, I understand that here they live together with love. That means by sharing "bowls of rice and clothes" with each other. I have never seen a couple arguing, arguing or tearing each other apart over something. And I have never seen theft or robbery happening here. It can be said to be a quiet and peaceful countryside. I love my hometown very much.
Question 1: Distinguish the meaning of homophones in the following phrases:
a) Field – bronze statue – one thousand dong
b) Stone – soccer
c) Dad and mom – three years old
Hint: Distinguish the meaning of homophones, as follows:
- Field (in the field): is a large, flat area of land used for cultivating crops.
-Bronze (in bronze statues): a red metal often used to draw electric wires, laminate, cast statues... to represent something sustainable according to the concept of the ancients.
- Dong (in one thousand dong): refers to the currency unit.
-Rock (in a rock): the solid substance that makes up the earth's crust, forming into rocks and stones.
-Kick (in soccer): a human movement using the foot to move the ball somewhere.
-Father, mother (in father and mother): used to refer to the people who gave birth and raised you.
–Three (of three years old): quantity words 1, 2, 3, 4…
Question 2: Make sentences to distinguish the homophones table, flag, and country.
Hint: Make sentences to distinguish homophones:
*Table:
-I want to discuss something with you.
-I just bought this table.
*Flag:
-The red flag with the five-pointed yellow star in the middle is our National Flag.
-My father is playing chess with the neighbor.
*Water:
-Pour me a glass of water!
Question 3: Read the story Tien Tieu (Textbook TV5, volume 1, page 52) and explain why Nam thought his father had moved to work at a bank.
Suggestion: Read the story Tieu Tieu and explain why Nam thought his father had moved to work at the bank?
–It's because Nam confused the words "outpost" (an important position, where there is a guard station in front of the stationed area facing the enemy) with "outpost" (money used to spend, buy and sell). something that serves life).
Question 4: Fun quiz:
a) Same axis as a dirty dog
Nine eyes, nine noses, nine tails, nine heads
(What is it)
b) Two trees have the same name
Trees spread across the water surface, trees on the battlefield
This tree protects the homeland
The flowers blooming on that tree reflect the surface of the lake.
Suggest:
-Question a: It's a grilled dog (not the number 9).
-Question b: It's a water lily and a gun.
|
Tuần 6: Chính tả Ê-mi-li,con
Hướng dẫn
Câu 1: Nhớ – viết bài Ê-mi-li,con… (từ “Ê-mi-li-con ôi”đến hết).
Gợi ý:Viết bài Ê-mi-li,con theo quy định số dòng, câu đã cho bằng trí nhớ. Viết xong đối chiếu với văn bản để sửa chữa những chữ viết sai.
Câu 2: Tìm những tiếng có chứa ưa hoặc ươ trong hai khổ thơ dưới đây. Nêu nhận xét về cách ghi dấu thanh ở các tiếng ấy. Thuyền đậu, thuyền đi hạ kín mui Lưa thưa mưa biển ấm chân trời Chiếc tàu chở cá về bến cảng Khói lẫn màu mây tưởng đảo khơi.
Em bé thuyền ai ra giỡn nước Mưa xuân tươi tót cả cây buồm Biến bằng không có dòng xuôi ngược Cơm giữa ngày mưa gạo trắng thơm.
Gợi ý: Tìm những tiếng có ưa hoặc ươ trong hai khổ thơ đã cho. Nêu nhận xét cách ghi dấu thanh, như sau:
-Đó là những tiếng lưa, thưa, mưa, nước, tưởng, ngược, giữa, mưa
-Những tiếng lưa, thưa, mưa, giữa không có âm cuối, dấu thanh ghi trên âm đầu âm thứ nhất của nguyên âm đôi ưa (trên âm u).
-Những tiêng tưởng, nước, ngược có âm cuối, dấu thanh ghi ở trên hoặc dưới âm thứ hai của nguyên âm đôi ươ (trên hoặc dưới âm ơ).
Câu 3: Tìm tiếng có chứa ưa hoặc ươ thích hợp với mỗi chỗ trống trong các thành ngữ dưới đây:
-chảy đá mòn.
-thử vàng, gian nan thử sức.
-Cầu được ước thấy.
-Năm nắng mười mưa.
–Nước chảy đá mòn.
–Lửa thử vàng, gian nan thử sức.
|
Week 6: Spelling Emili, son
Instruct
Verse 1: Remember - write the song Emili, son... (from "Oh Emilicon" to the end).
Hint: Write the article Emi-li, child according to the given number of lines and sentences using memory. After writing, compare it with the text to correct any misspellings.
Question 2: Find the words containing "lik" or "u" in the two stanzas below. Comment on how to record tone marks in those sounds. The boat docks, the boat sails with its roof down. The rain is sparse and the sea is warm. The horizon is a boat carrying fish back to the harbor. Smoke mixed with the color of clouds resembles an island.
Who's the little boat boy out to play in the water? The spring rain is so fresh that the entire sail is gone. If there's no current going up or down, rice in the middle of a rainy day is fragrant white rice.
Hint: Find the words having liking or wu in the two given stanzas. Comment on how to record bar marks, as follows:
-Those are the sounds of slow, sparse, rain, water, thought, reverse, middle, rain
-The sounds are slow, sparse, rainy, in the middle without a final sound, the tone mark is recorded on the first sound of the diphthong phu (on the u sound).
-Thought, water, and reverse sounds have the final sound, the register mark above or below the second sound of the diphthong eu (above or below the ô sound).
Question 3: Find the word containing prefer or u that fits each blank in the idioms below:
- flowing rock erosion.
-try gold, try hardship.
-You get what you wish for.
-Years of sunshine and ten days of rain.
– Flowing water erodes rocks.
-Fire proves gold, arduous challenge.
|
Tuần 6: Luyện từ và câu (Hữu nghị – Hợp tác)
Hướng dẫn
TIẾT 1: DÙNG TỪ ĐỒNG ÂM ĐỂ CHƠI CHỮ
Câu 1: Xếp những từ có tiếng “hữu” cho dưới đây thành hai nhóm a và b.
a)Hữu có nghĩa là “bạn bè”.
b)Hữu có nghĩa là “có”.
(hữu nghị, hữu hiệu, chiến hữu, hữu tình, thân hữu, hữu ích, hữu hảo, bằng hữu, bạn hữu, hữu dụng)
Gợi ý:Xếp những từ có nghĩa hữu đã cho thành hai nhóm a, b như sau:
*Nhóm a: Hữu có nghĩa là bạn bè, gồm các từ: hữu nghị, chiến hữu, thân hữu, hữu hảo, bằng hữu, bạn hữu.
*Nhóm b: Hữu có nghĩa là có, gồm các từ: hữu hiệu, hữu tình, hữu ích, hữu dụng.
Câu 2: Xếp các từ có tiếng “hợp” cho dưới đây thành hai nhóm a và b.
a)Hợp có nghĩa là “gộp lại”.
b)Hợp có nghĩa là “đúng với yêu cầu”.
(hợp tình, hợp tác, phù hợp, hợp thời, hợp lệ, hợp nhất, hợp pháp, hợp lực, hợp lí, thích hợp)
Gợi ý: Xếp các từ có tiếng hợp cho trước thành hai nhóm a, b như sau:
*Nhóm a: Hợp có nghĩa là gộp lại, gồm: hợp tác, hợp nhất, hợp lực.
*Nhóm b: Hợp có nghĩa là đúng với yêu cầu: hợp tình, phù hợp, hợp thời, hợp lệ, hợp pháp, hợp lí, thích hợp.
Câu 3: Đặt một câu với một từ ở bài tập 1 và một câu với một từ ở bài tập 2.
*Hữu:
-Chúng ta đều là bạn hữu của nhau.
-Cái nón của mình tuy cũ nhưng còn hữu dụng lắm.
* Hợp:
-Chúng mình phải hợp lực lại mới khiêng được hòn đá này.
-Lời đề nghị của bạn lớp trưởng vào lúc này là rất thích hợp.
|
Week 6: Practice words and sentences (Friendship – Cooperation)
Instruct
SECTION 1: USE HOMOPHONE WORDS TO PLAY WORDS
Question 1: Arrange the words with the sound "huu" given below into two groups a and b.
a) Huu means "friend".
b) Huu means "to have".
(friendly, effective, comrades, friendly, friendly, helpful, friendly, friendly, friend, useful)
Hint: Arrange the given meaningful words into two groups a and b as follows:
*Group a: Friend means friend, including the words: friendship, comrade, friend, friendly, friend, friend.
*Group b: Being means having, including the words: effective, sentient, useful, useful.
Question 2: Arrange the words with the sound "match" below into two groups a and b.
a) Hop means "put together".
b) Suitable means "according to requirements".
(appropriate, cooperative, appropriate, timely, valid, unified, legal, synergistic, reasonable, appropriate)
Hint: Arrange the given words with similar sounds into two groups a and b as follows:
*Group a: Combine means to combine, including: cooperate, unite, join forces.
*Group b: Suitable means in accordance with the requirements: reasonable, suitable, timely, valid, legal, reasonable, appropriate.
Question 3: Make a sentence with a word from exercise 1 and a sentence with a word from exercise 2.
*Huu:
-We are all friends.
-My hat is old but still very useful.
* Fit:
-We have to join forces to carry this stone.
-The class president's suggestion at this time is very appropriate.
|
Tuần 7: Luyện tập tả cảnh sông nước (Vịnh Hạ Long)
Hướng dẫn
Câu 1.Đọc bài văn Vịnh Hạ Long, SGK Tiếng Việt, tập 1, trang 70.
a)Xác định phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.
b)Phần thân bài gồm có mấy đoạn? Mỗi đoạn miêu tả những gì?
c)Những câu văn in đậm có vai trò gì trong mỗi đoạn văn và trong cả bài.
Gợi ý:
a.Bài văn gồm có ba phần:
-Mở bài: Câu đầu của văn bản vịnh Hạ Long là một thắng cảnh có một không hai của đất nước Việt Nam.
-Thân bài: Gồm ba đoạn. Mỗi đoạn được giới hạn bằng câu mở đầu in đậm và kết thúc bằng một dấu chấm xuông dòng.
-Kết bài: Câu cuôi cùng của văn bản.
b.Phần thân bài có ba đoạn:
-Đoạn 1: Giới thiệu về vẻ đẹp của vịnh Hạ Long.
-Đoạn 2: Nét duyên dáng của thiên nhiên vịnh Hạ Long.
-Đoạn 3: Những nét riêng biệt hấp dẫn về mỗi mùa của vịnh Hạ Long.
c.Những câu văn in đậm có vai trò quan trọng trong mỗi đoạn và cả bài. Đó là câu nêu lên ý chính của mỗi đoạn làm cơ sở cho người đọc hiếu được nội dung chính của cả bài.
Câu 2.Đọc nội dung của các đoạn và các câu đã cho dưới mỗi đoạn (SGK Tiếng Việt 5, tập 1, trang 72). Em hãy lựa chọn câu mở đoạn thích hợp làm câu mơ đầu cho mồi đoạn.
-Đoạn 1: Em có thể chọn câu (a) “Tây Nguyên là miền đất núi non điệp trùng”.
-Đoạn 2: Em có thề chọn câu (c) “Nhưng Tây Nguyên đâu chỉ có núi cao và rừng rậm. Tây Nguyên còn có những thảo nguyên rực rỡ trong nắng dịu mùa xuân, như những tấm lụa muôn màu, muôn sắc”.
Câu 3.Hãy viết câu mở đoạn cho hai đoạn văn ở bài tập 2 theo ý của riêng em.
Gợi ý:
– Em có thể viết như sau:
*Đoạn 1: Đến với Tây Nguyên, bạn sẽ thấy một vùng đồi núi bạt ngàn với những cánh rừng hoang sơ, nguyên thủy.
*Đoạn 2: Tây Nguyên không chỉ có núi cao rừng rậm mà còn là miền đất rực rỡ với những sắc màu tuyệt đẹp.
|
Week 7: Practice describing river scenes (Ha Long Bay)
Instruct
Question 1. Read the article Ha Long Bay, Vietnamese Textbook, volume 1, page 70.
a) Determine the Introduction, Body, and Conclusion.
b) How many paragraphs does the body of the essay consist of? What does each paragraph describe?
c) What role do the sentences in bold play in each paragraph and in the whole article?
Suggest:
a.The essay consists of three parts:
-Introduction: The first sentence of the text Ha Long Bay is a unique landscape of Vietnam.
- Body: Contains three paragraphs. Each paragraph is limited by a bold opening sentence and ends with a full stop.
- Conclusion: The last sentence of the text.
b.The body of the article has three paragraphs:
-Paragraph 1: Introduction to the beauty of Ha Long Bay.
-Paragraph 2: The natural charm of Ha Long Bay.
-Paragraph 3: The unique and attractive features of each season of Ha Long Bay.
c. Sentences in bold have an important role in each paragraph and the whole article. It is a sentence that states the main idea of each paragraph as a basis for readers to understand the main content of the whole article.
Question 2. Read the content of the paragraphs and the sentences given below each paragraph (Vietnamese Textbook 5, volume 1, page 72). Please choose a suitable opening sentence as the first sentence for the paragraph.
-Paragraph 1: You can choose sentence (a) "The Central Highlands is a land of endless mountains."
-Paragraph 2: Can you choose sentence (c) “But the Central Highlands are not just high mountains and dense forests. The Central Highlands also has brilliant steppes in the gentle spring sunshine, like colorful silk sheets.
Question 3. Write the opening sentences for the two paragraphs in exercise 2 according to your own ideas.
Suggest:
– You can write like this:
*Paragraph 1: Coming to the Central Highlands, you will see a vast mountainous area with wild, primitive forests.
*Paragraph 2: The Central Highlands not only has high mountains and dense forests but is also a brilliant land with beautiful colors.
|
Tuần 7: Luyện từ và câu (Từ nhiều nghĩa)
Hướng dẫn
TIẾT 1: TỪ NHIỀU NGHĨA
Câu 1: Trong những câu nào, các từ mắt, chân, đầu mang nghĩa gốc và trong những câu nào, chúng mang nghĩa chuyển?
a)Mắt:
– Đôi mắt của bé mở to.
-Quả na mở mắt.
b)Chân:
– Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
-Bé đau chân.
c)Đầu:
– Khi viết, em đừng ngoẹo đầu.
-Nước suối đầu nguồn rất trong.
Gợi ý: Trong những câu cho trước có những từ mang nghĩa gốc hoặc nghĩa chuyển là:
a)- Đôi mắt của bé mở to. (mang nghĩa gốc)
-Quả na mỏ mắt. (mang nghĩa chuyển)
b)- Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân, (mang nghĩa chuyển)
-Bé đau chân, (mang nghĩa gốc)
c)- Khi viết, em đừng ngoẹo đầu. (mang nghĩa gốc)
–Nước suối đầu nguồn rất trong, (mang nghĩa chuyển)
Câu 2: Các từ chỉ bộ phận cơ thể người và động vật thường là từ nhiều nghĩa. Hãy tìm một sô từ ví dụ về chuyển nghĩa của những từ sau: lưỡi, miệng, cổ, tay, lưng.
Gợi ý: Tìm một số từ chuyển nghĩa từ những từ chỉ bộ phận cơ thể người như sau:
*Lưỡi: lưỡi cày, lưỡi liềm, trăng lưỡi liềm…
*Miệng: miệng hố, miệng giếng, mồm miệng thế gian, độc miệng độc mồm, vết thương đã kín miệng…
*Cổ: cổ chai, cổ lọ, cổ bình, cổ tay, cổ áo…
*Tay: tay áo, tay quay, tay vợt, tay súng…
TIẾT 2: TỪ NHIỀU NGHĨA
Câu 1: Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ chạy trong mỗi câu ở cột A.
Gợi ý: Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ chạy trong mỗi câu ởcột A, như sau:
Câu 2: Dòng nào dưới đây nêu đúng nét nghĩa chung của từ chạy có tất cả các câu trên.
a)Sự di chuyển
b)Sự vận động nhanh
c)Di chuyển bằng chân
Gợi ý: Nét nghĩa chung của từ chạy có trong tất cả câu trên là:
–Chọn (a) Sự vận động nhanh.
Câu 3: Từ ăn trong câu nào dưới đây được dùng với nghĩa gốc?
a)Bác Lê lội ruộng nhiều nên bị nước ăn chân.
b)Cứ chiều chiều, Vũ lại nghe tiếng còi tàu vào cổng ăn than.
c)Hôm nào cũng vậy, cả gia đình tôi cùng ăn với nhau bữa cơm tối rất vui vẻ.
Gợi ý: Từ ăn trong các câu đã cho được dùng với nghĩa gốc là:
–Câu (c): Hôm nào cũng vậy, cả gia đình tôi cùng ăn với nhau bữa cơm tốì rất vui vẻ.
Câu 4: Chọn một trong hai từ dưới đây và đặt câu để phân biệt các nghĩa của từ ấy.
a)Đi:
-Nghĩa 1: Tự di chuyển bằng chân.
-Nghĩa 2: Mang (xỏ) vào chân hoặc tay để che, giữ.
b)Đứng:
-Nghĩa 1: Ở tư thế thân thẳng, chân đặt trên mặt nền.
Gợi ý: Đặt câu hỏi để phân biệt các nghĩa của mỗi từ đã cho, như sau:
a)Đi
-Nghĩa 1: Tự di chuyển bằng chân.
*Chúng tôi đi dạo mát dọc bờ sông.
-Nghĩa 2: Mang (xỏ) vào tay hoặc chân để che, giữ.
*Trời lạnh, con đi đôi tất vào cho ấm.
b)Đứng
-Nghĩa 1: Ở tư thế thân thằng chân đặt trên mặt nền.
*Chúng tôi đứng nghiêm, mắt hướng về lá Quốc kì.
-Nghĩa 2: Ngừng chuyển động.
*Tôi đứng nhìn những con thuyền xuôi ngược trên sông.
|
Week 7: Practice words and sentences (Words with multiple meanings)
Instruct
SECTION 1: WORDS MULTIPLE MEANINGS
Question 1: In which sentences do the words eye, foot, and head have original meanings and in which sentences do they have shifting meanings?
a) Eyes:
– The baby's eyes opened wide.
-The custard apple opened its eyes.
b) Legs:
– My heart is still as steady as a three-legged stool.
-The baby's feet hurt.
c) Head:
– When writing, don't turn your head.
-The upstream spring water is very clear.
Hint: In the given sentences, there are words with original or shifting meanings:
a)- The baby's eyes opened wide. (original meaning)
-Eye-beaked custard apple. (meaning transfer)
b)- My heart is still as steady as a three-legged stool, (meaning to move)
-Baby's leg hurts, (original meaning)
c)- When writing, don't turn your head. (original meaning)
–The spring water at the source is very clear, (meaning transfer)
Question 2: Words referring to human and animal body parts often have multiple meanings. Find some examples of translations of the following words: tongue, mouth, neck, hand, back.
Suggestion: Find some words that translate meanings from words referring to human body parts as follows:
*Blades: plowshare, sickle, crescent moon...
*Mouth: pit mouth, well mouth, worldly mouth, poisonous mouth, closed wound...
* Neck: bottle neck, bottle neck, vase neck, wrist, shirt collar...
*Hands: sleeves, crank arms, tennis arms, gun arms...
SECTION 2: WORDS MULTIPLE MEANINGS
Question 1: Find in column B the appropriate explanation for the word running in each sentence in column A.
Hint: Find in column B the appropriate explanation for the word running in each sentence in column A, as follows:
Question 2: Which line below correctly states the general meaning of the word run in all of the above sentences?
a) Movement
b) Fast movement
c) Move with your feet
Hint: The general meaning of the word run in all the above sentences is:
–Choose (a) Fast movement.
Question 3: In which sentence below is the word eat used in its original meaning?
a) Uncle Le waded in the fields so much that the water ate his feet.
b) Every afternoon, Vu hears the whistle of the train entering the coal port.
c) Every day, my whole family eats dinner together very happily.
Hint: The word eat in the given sentences is used with the original meaning:
–Sentence (c): Every day, my whole family eats dinner together very happily.
Question 4: Choose one of the two words below and write a sentence to distinguish the meanings of that word.
a) Go:
-Meaning 1: Moving on your own with your feet.
-Meaning 2: Wear (pierce) on the leg or arm to cover or hold.
b) Standing:
-Meaning 1: In a straight body position, feet placed on the ground.
Hint: Ask questions to distinguish the meanings of each given word, as follows:
a)Go
-Meaning 1: Moving on your own with your feet.
*We went for a nice walk along the river.
-Meaning 2: Wear (pierce) on the arm or leg to cover or hold.
*If it's cold, wear socks to keep warm.
b) Standing
-Meaning 1: In a position with the body and legs placed on the ground.
*We stand at attention, eyes facing the National Flag.
-Meaning 2: Stop moving.
*I stood and watched the boats going up and down the river.
|
Tuần 7: Văn minh nơi công cộng
Hướng dẫn
TUẦN 7: Văn minh nơi công cộng
1. Hãy viết vào chỗ trống những chi tiết còn thiếu trong câu chuyện” Không nỡ nhìn”:
Trên một chuyến xe bus…………………….., có anh thanh niên đang ngồi cứ lấy hai tay……….
………………… Một bà cụ ngồi bên thấy thế bèn hỏi:
– Cháu…………………….? Có cần dầu xoa không?
Anh thanh niên nói nhỏ:
– Không ạ. Cháu không nỡ…………………………………………………………………………………………
Tham khảo: Kể về ngày đầu đi học
2. Viết nhận xét của em về anh thanh niên trong câu chuyện trên:
3. Em rút ra bài học gì qua câu chuyện trên
4. Dựa vào nội dung câu chuyện trên, em hãy viết đoạn văn ngắn ( từ 5-7 câu) kể về một hành vi văn minh nơi công cộng:
Các em có thể tham khảo bài viết dưới đây
Cái sự nắng nóng cực độ của mùa hè cứ thi nhau chen lấn xô đẩy xuống mặt đường. Ông mặt trời luôn tay ném ánh nắng xuống đất. Nóng bức đã tồi tệ nay lại thêm phần khắc nghiệt hơn vì những tiếng còi inh tai nhức óc của xe cộ trên đường. Không thể chịu được nữa em đã cố vào chiếc xe buýt số 28 kia để về nhà. Ở đó, đã có một câu chuyện hết sức thú vị xảy ra
Chiếc xe đã mau chóng rời khỏi bến. Trên xe chật ních người và chỉ có những người may mắn lắm mới tìm được ghế ngồi. Chẳng ai thèm nói một câu nào cả vì học đã quá mệt mỏi rồi. Bồng từ phía dưới có một bà cụ cất tiếng nói với anh trai trẻ:
Bà cũng khoảng 80 tuổi. Mái tóc bạc phơ và vài sợi lấm tấm mồ hôi. Những nếp nhăn bây giờ càng hằng rõ hơn trên khuôn mặt đã trải nhiều sương gió. Anh thanh niên dáng chừng không thích và bảo:
“Dại gì mà nhường ghế cho bà, đã già rồi còn lởn vởn ở đây, về nhà mà chăm con cháu đi”.
Câu nói của anh ta như chiếc búa giáng vào tai mọi người. Ai cũng quay xuống nhìn bà cụ một cách ái ngại, rồi nhìn anh thanh niên như để trách móc. Bà cụ chưa khỏi bàng hoàng trước lời nói đó thì đã có một cô bé dìu bà cụ về chỗ. Cô bé thật phúc hậu với hai mắt sáng ngời nhìn bà cụ rồi nói.
“Bà mệt thì cứ ngồi đây cho lại sức, cháu đứng cũng không mỏi”.
Bà cụ vừa vui mừng, vừa xúc động rồi rối rít cảm ơn cô bé. Chính cô bé đã làm cho mọi người thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Anh thanh nhiên kia cúi mặt xuống vì anh biết rằng mình đã không bằng một em nhỏ bé bỏng.
Chiếc xe đã dừng lại ở bến. Ôi! Bây giờ em mới thấy mỏi chân vì bị đứng nhiều đây. Nhưng em vẫn vui vẻ vì biết rằng trên đời này còn rất nhiều người tốt bụng.
|
Week 7: Civility in public places
Instruct
WEEK 7: Civility in public
1. Write in the blanks the missing details in the story "Can't bear to look":
On a bus…………………….., there was a young man sitting with his hands……….
………………… An old lady sitting next to her saw this and asked:
- Grandchildren…………………….? Do you need massage oil?
The young man whispered:
- Không. I can't bear…………………………………………………………………………………………
Reference: Tell about the first day of school
2. Write your comments about the young man in the story above:
3. What lesson do you learn from the above story?
4. Based on the story above, write a short paragraph (5-7 sentences) about a civilized behavior in public:
You can refer to the article below
The extreme heat of summer keeps jostling each other and pushing each other down the road. The sun always throws sunlight to the ground. The already bad heat is now even more severe because of the deafening sirens of the vehicles on the road. Unable to bear it anymore, I tried to get on bus number 28 to go home. There, a very interesting story happened
The car quickly left the station. The bus was packed with people and only the lucky ones could find a seat. No one wanted to say a word because studying was too tiring. From below, an old woman spoke to the young man:
She is also about 80 years old. Her hair was gray and a few strands were stained with sweat. The wrinkles are now more obvious on a face that has been exposed to a lot of wind and dew. The young man didn't seem to like it and said:
"Why would I give up my seat to you? You're old and still hanging around here. Go home and take care of your children and grandchildren."
His words were like a hammer hitting everyone's ears. Everyone turned to look at the old woman with concern, then looked at the young man as if to reproach her. Before the old lady could recover from her shock at those words, a little girl helped her back to her seat. The very kind girl with bright eyes looked at the old lady and said.
"If you're tired, just sit here to regain your strength. I won't get tired from standing."
The old lady was both happy and touched and thanked the girl profusely. It was she who made everyone feel light and comfortable. The young man looked down because he knew that he was not as good as a small child.
The car stopped at the station. Oh! Now my legs feel tired from standing so much. But I'm still happy because I know that there are many kind people in this world.
|
Tuần 8: Luyện từ và câu (Thiên nhiên – Từ nhiều nghĩa)
Hướng dẫn
Câu 1: Dòng nào dưới đây giải thích đúng nghĩa từ “thiên nhiên”?
a)Tất cả những gì do con người tạo ra.
b)Tất cả những gì không do con người tạo ra.
c)Tất cả mọi thứ tồn tại xung quanh con người.
Gợi ý: Giải thích đúng nghĩa từ thiên nhiên là dòng (b).
–Tất cả những sự vật hiện tượng không do con người tạo ra.
Câu 2: Tìm trong các thành ngữ, tục ngữ sau đây những từ chỉ các sự vật, hiện tượng thiên nhiên.
a)Lên thác xuống ghềnh.
b)Góp gió thành bão.
c)Qua sông phải lụy đò.
d)Khoai đất lạ, mạ đất quen.
Gợi ý: Những từ chỉ các sự vật, hiện tượng thiên nhiên có trong các thành ngữ, tục ngữ đã cho là:
a)thác, ghềnh
b) gió, bão
a)sông
d) khoai, đất, mạ, đất
Câu 3: Tìm những từ ngữ miêu tả không gian. Đặt câu với một trong các từ ngữ vừa tìm được.
a)Tả chiều rộng b) Tả chiều dài (xa)
a)Tả chiều cao d) Tả chiều sâu
Gợi ý: Tìm những từ ngữ miêu tả không gian và đặt câu với một trong các từ ngữ ấy.
a)Tả chiều rộng: bao la, bát ngát, mênh mông, vô tận, bất tận.
-Đặt câu: Ruộng đồng quê em rộng bao la thẳng cánh cò bay.
b)Tả chiều dài, xa: tít táp, mù khơi, ngút ngàn, tít chân trời, vô tận, bất tận…
-Tả chiều cao: cao ngất nghểu, cao vút, cao chất ngất, cao chót vót.
-Đặt câu: ở Thành phố Hồ Chí Minh mới xuất hiện những khu
nhà lầu ba mươi, bốn mươi tầng lầu cao chất ngất.
b)Tả chiều sâu: sâu hun hút, sâu hoắm, sâu thảm thẳm, sâu không đáy…
-Đặt câu: Những cái hang đá ở động Phong Nha sâu hun hút.
Câu 4: Tìm những từ ngũ’ miêu tả sóng nước. Đặt câu với một trong các từ ngữ vừa tìm được,
a)Tả tiếng sóng
b) Tả làn sóng nhẹ
c)Tả đợt sóng mạnh
Gợi ý: Tìm những từ ngữ miêu tả sóng nước và đặt câu với các từ ngữ ấy như sau:
a)Tả tiếng sóng: oàm oạp, ầm ầm, rì rào, lao xao…
-Đặt câu: Sóng vỗ vào mạn thuyền oàm oạp.
b)Tả làn sóng nhẹ: lăn tăn, nhấp nhô…
-Đặt câu: Mặt hồ lăn tăn gợn sóng.
c)Tả đợt sóng mạnh: cuồn cuộn, ào ạt, trào dâng…
-Đặt câu: Những đợt sóng ào ạt xô vào bờ tung bọt trắng xóa.
TIẾT 2: TỪ NHIỀU NGHĨA
Câu 1: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa?
a)Chín
-Lúa ngoài đồng đã chín vàng.
-Tổ em có chín học sinh.
-Nghĩ cho chín rồi hãy nói.
b)Đường
-Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt.
-Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại.
c)Vạt
-Những vạt nương màu mật Lúa chín ngập lòng thung.
-Chú Tư lấy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre.
-Những người Giáy, người Dao Đi tìm măng hái nấm
Vạt áo chàm thấp thoáng Nhuộm xanh cả nắng chiều.
Gợi ý: Tìm các từ in đậm đã cho, xác định từ nào là từ đồng âm, từ nào là từ nhiều nghĩa, như sau:
a)Chín
-Từ chín trong câu (1) là từ nhiều nghĩa.
-Từ chín trong câu 2 là từ đồng âm với từ chín ở câu (1) và (3).
-Từ chín trong câu 3 là từ nhiều nghĩa.
b)Đường
-Từ đường trong câu (1) là từ đồng âm.
-Từ đường trong hai câu (2, 3) là hai cách dùng của một từ nhiều nghĩa.
c) Vạt
-Từ vạt ở câu (1) và (3) là hai cách dùng của một từ nhiều nghĩa.
-Từ vạt trong câu (2) là từ đồng âm với từ vạt ở câu (1) và (3).
Câu 2: Dưới đây là một số tính từ và những nghĩa phổ biến của chúng.
a)Cao
-Có chiều cao lớn hơn mức bình thường.
-Có số lượng hoặc chất lượng hơn hẳn mức bình thường.
b)Nặng
-Có trọng lượng hơn mức bình thường.
-Ở mức độ cao hơn, trầm trọng hơn mức bình thường.
c)Ngọt
-Có vị như vị của đường, mật
-(Lời nói) nhẹ nhàng, dễ nghe.
-(Âm thanh) nghe êm tai.
Với mỗi từ nói trên, em hãy đặt một số câu để phân biệt các nghĩa của chúng.
a)Cao
-Anh ấy cao lều khều.
-Vụ lúa vừa rồi, tính quân bình một sào, nhà em thu hoạch cao nhất xã.
b)Nặng
-Trong lớp, em là người nặng kí (cân) nhất 55 kg.
-Con đường sát bờ sông càng lúc càng hư hỏng nặng.
c)Ngọt
-Quả cam này ngọt nhỉ!
-Đừng cáu với em, con phải nói ngọt với nó.
–Giọng hát của chị ấy nghe sao mà ngọt quá!
|
Week 8: Practice words and sentences (Nature – Words with many meanings)
Instruct
Question 1: Which line below correctly explains the meaning of the word "nature"?
a) Everything created by humans.
b) Anything not created by humans.
c)Everything that exists around humans.
Hint: The correct explanation of the word nature is line (b).
–All phenomena are not created by humans.
Question 2: Find in the following idioms and proverbs words that refer to natural things and phenomena.
a) Going up the waterfall and down the rapids.
b) Contribute wind to become a storm.
c) To cross the river, you have to take a boat.
d) Potatoes in strange soil, seedlings in familiar soil.
Suggestion: Words referring to natural things and phenomena found in the given idioms and proverbs are:
a) waterfalls, rapids
b) wind, storm
a) river
d) potatoes, soil, rice seedlings, soil
Question 3: Find words that describe space. Make sentences with one of the words you just found.
a) Describe the width b) Describe the length (far)
a) Describe the height d) Describe the depth
Hint: Find words that describe space and make a sentence with one of those words.
a) Describe breadth: vast, immense, immense, endless, endless.
-Set a sentence: My countryside fields are vast and straight to the wings of a stork.
b) Describe the length and distance: far away, far away, endless, as far as the horizon, endless, endless...
-Description of height: towering, towering, towering, towering.
-Set a sentence: in Ho Chi Minh City, new areas have appeared
The buildings are thirty or forty stories high.
b) Describe the depth: deep, deep, abysmal, bottomless...
-Set a sentence: The caves in Phong Nha cave are extremely deep.
Question 4: Find words that describe water waves. Make a sentence with one of the words you just found,
a) Describe the sound of waves
b) Describe a light wave
c) Describe a strong wave
Hint: Find words that describe water waves and make sentences with those words as follows:
a) Describe the sound of waves: roaring, rumbling, whispering, rushing...
-Set a sentence: The waves crashed against the side of the boat.
b) Describe light waves: rippling, undulating...
-Set a sentence: The surface of the lake is rippling.
c) Describe a strong wave: rolling, rushing, surging...
-Set a sentence: Rushing waves rushed to the shore, creating white foam.
SECTION 2: WORDS MULTIPLE MEANINGS
Question 1: In the following words in bold, which words are homophones and which words are words with multiple meanings?
a) Nine
-The rice in the field is ripe and golden.
-My team has nine students.
-Think before you speak.
b) Road
-This bowl of tea has a lot of sugar so it is very sweet.
-The workers are repairing the phone lines.
c) Flap
-The honey-colored fields of ripe rice flood the valley.
-Uncle Tu took a knife and sharpened the tip of the bamboo stick.
-The Giay and Dao people go looking for bamboo shoots and pick mushrooms
The hem of the indigo shirt appears dyed blue even in the afternoon sun.
Hint: Find the given words in bold, determine which words are homophones and which words are words with multiple meanings, as follows:
a) Nine
-The word nine in sentence (1) is a word with multiple meanings.
-The word nine in sentence 2 is a homophone with the word nine in sentences (1) and (3).
-The word nine in sentence 3 is a word with many meanings.
b) Road
-The word sugar in sentence (1) is a homophone.
-The word sugar in two sentences (2, 3) are two uses of a word with many meanings.
c) Flap
-The word flap in sentences (1) and (3) are two uses of a word with multiple meanings.
-The word flap in sentence (2) is a homophone with the word flap in sentences (1) and (3).
Question 2: Below are some adjectives and their common meanings.
a) High
-Is taller than normal.
-Having a quantity or quality that is far above the normal level.
b) Heavy
-Heavier than normal.
-At a higher level, more severe than normal.
c) Sweet
-Tastes like sugar and honey
-(Speech) gentle, easy to hear.
-(Sound) sounds pleasant.
For each word above, write some sentences to distinguish their meanings.
a) High
-He is tall and tall.
-Last rice crop, on average per acre, my family had the highest harvest in the commune.
b) Heavy
-In class, I am the heaviest (weighing) 55 kg.
-The road near the riverbank is increasingly damaged.
c) Sweet
-This orange is sweet!
-Don't be angry with me, you have to talk sweetly to him.
–Her voice sounds so sweet!
|
Tuần 8: Viết về một người hàng xóm
Hướng dẫn
Tuần 8: Kể về người hàng xóm mà em yêu quý
1.Viết về một người hàng xóm mà em yêu quý( từ 5-7 câu):
( Gợi ý: Kể về người hàng xóm à giới thiệu, miêu tả, phát biểu cảm nghĩ về người đó. Người hàng xóm được em quý mến có phải là một người tốt, có thể là một người lớn tuổi, hoặc một anh, chị hay một người bạn. Người đó tên là gì? Bao nhiêu tuổi? Làm nghề gì? Tình cảm của gia đình em đối với người đó như thế nào? Tình cảm của người hàng xóm đối với gia đình em ra sao? Cần nêu được những đức tính tốt, những hành động tốt của người này. Đó phải là một con người cụ thể chứ không phải là một người chung chung do em tưởng tượng ra. Có như vậy lời kể của em mới chân thực, có sức sống, và cuốn hút người nghe, người đọc.)
Em có thể tham khảo bài viết dưới đây
Bài làm 1
Phía bên kia khu vườn nhà tôi là nhà bà Hợi. Bà là “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Bà có năm người con: bốn trai, một gái. Hai anh con trai và ông cụ đã hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Hai người còn còn lại của cụ đều đã có gia đình và đều ở trên tỉnh. Mấy lần anh con trai về rước bà lên ở chung, nhưng bà không đi. Bà nói ở dưới quê quen rồi, bà không đi đâu cả. Năm nay, bà đã ngoài sáu mươi rồi nhưng vẫn còn khỏe mạnh, hoạt bát. Trong xóm, ai cũng quý mến, kính trọng bà. Bà thường hay sang nhà chơi với nội tôi. Hai bà rất quý nhau. Lần nào gặp tôi, bà cũng ôm tôi vào lòng, vuốt mái tóc dài quá vai của tôi mà nói: “Tối nay, sang ngủ với bà cho vui. Bà sẽ kể chuyện cổ tích cho cháu nghe và cả chuyện đánh Mĩ nữa. Cháu thích chuyện gì, bà kể chuyện đó!” Bà rất thương tôi. Có quà gì ngon mà chú Hòa, cô Hạnh gửi biếu bà, bà đều dành phần cho nội tôi và tôi. Trong xóm tôi, hễ có chuyện khúc mắc gì giữa xóm giềng với nhau, người ta thường nhờ bà đến hòa giải. Nội tôi thường nói: “Ở xóm này, bà Hợi là trung tâm của sự đoàn kết, là chất kết dính mọi người lại với nhau trong tình làng nghĩa xóm”. Bà Hợi của tôi là thế đó. Không chỉ riêng tôi, kính trọng quý mến mà xóm làng ai cũng nể trọng bà.
Nhà chị Phượng chỉ cách nhà em một con hẻm nhỏ. Hàng ngày, em thường sang chơi với chị và được chị cưng chiều lắm. Mồ côi mẹ từ tấm bé, chị thiếu đi tình thương bao la của một người mẹ. Bố chị ở vậy, nuôi chị cho đến bây giờ. Năm nay, chị học lớp 12 trường chuyên của tỉnh. Cả xóm em, ai cũng khen chị, quý chị. Bởi chị vừa đẹp người vừa đẹp cả nết. Đặc biệt ở chị có một điểm mà em rất quý mến, kính phục. Đó là tình thương của chị đối với người già. Bà cụ Tứ ở cách nhà em một khoảnh vườn. Bà sống đơn độc một thân một mình trong căn nhà nhỏ, không con cái, cháu chắt. Nghe đâu trước đây cụ cũng có gia đình, nhưng chiến tranh đã cướp mất ông lão và anh con trai duy nhất của bà. Từ đó cho đến giờ, bà vẫn sống thui thủi một mình. Cảm thông với số phận đơn chiếc của bà cụ, chị Phượng không ngày nào không đến thăm. Mỗi lần đến với bà cụ, chị thường rủ em cùng đi. Chị giúp bà quét dọn nhà cửa, giặt giũ quần áo, cơm cháo cho bà mỗi khi bà bệnh. Không ruột rà máu mủ, không họ hàng thân thích, vậy mà chị Phượng chăm bà, thương yêu bà như bà nội, bà ngoại của mình. Điều đó thật đáng quý. Còn với em, chị coi em như đứa em ruột. Có cái gì ngon, cái gì đẹp, chị cũng chia phần cho em, và còn hướng dẫn thêm cho em học nữa. Bố mẹ em rất quý chị, coi chị như con gái của mình.
Cách nhà tôi không xa là nhà anh Hoàng. Anh Hoàng học lớp 12 với anh trai tôi. Tối nào, hai anh cũng học chung, khi thi ở nhà tôi, khi thì ở nhà anh. Ba mẹ anh chỉ có mỗi mình anh là con trai độc nhất. Nhiều người cho rằng những đứa con độc nhất thường nghịch ngợm khó bảo. Không biết lời nói đó đúng hay sai, riêng tôi thì tôi thấy không đúng. Anh Hoàng là một người mà tôi rất quý trọng. Cả mẹ tôi và ba tôi đều khen anh Hoàng ngoan, hiền, dễ thương. Nhiều lúc ba tôi thường nói với anh Trung tôi rằng: “Con làm bạn với Hoàng là ba yên tâm rồi. Gia đình nó cũng là một gia đình khá giả, vậy mà nó sống rất bình thường, không đua đòi lêu lổng, lại chăm học nữa. Con nên học ở Hoàng những đức tính ấy!”. Những gì ba tôi nói về anh Hoàng, tôi đều khẳng định được cả. Chưa bao giờ tôi thấy anh cầm một điếu thuốc hay uống một li rượu. Anh đến nhà tôi thường là cầm những cuốn sách, tập vở để học, thinh thoảng mới rủ anh tôi đi dạo mát quanh vườn một lát, rồi cả hai anh lại ngồi vào bàn, cắm cúi học bài. Tuần nào, anh cũng mua cho tôi một cuốn “Khăn quàng đỏ” và dặn tôi đọc những mẩu chuyện trong đó để kể cho anh nghe. Tôi quý mến anh Hoàng như anh Trung của tôi vậy.
Bài làm 4
Trong xóm, em quý mến nhất là bác Hà, tổ trưởng của khu phố em.
Bác Hà năm nay đã ngoài 50 tuổi rồi, bác mở tiệm tạp hóa gần nhà em. Bác ấy có dáng cao gầy, mắt sáng, tính tình lại vui vẻ Bác rất hài hòa, quan tâm đến mọi người, nhất là đối với gia đình của em. Khi rảnh rỗi, bác lại sang nhà em hỏi han chuyện trò và còn kể cho em nghe chuyện cổ tích hay thật là hay. Cả xóm em ai cũng yêu mến bác Hà vì bác ấy hiền lành và tốt bụng.
Mùa hè năm nay gia đình em chuyển đến nơi ở mới. Người hàng xóm đầu tiên mà em quen là chị Diệp. Chị có dáng người cao cao. Mái tóc của chị dài và luôn được tết gọn gàng. Chị rất vui tính. Mỗi khi chị cười để lộ chiếc răng khểnh trông thật duyên. Buổi chiều nào chị cũng sang nhà em chơi. Lúc đầu em còn rất bỡ ngỡ nhưng nhờ có chị nên em đã làm quen được với rất nhiều bạn mới. Rồi chị dẫn em ra nhà văn hóa, sân chơi, vườn hoa. Em rất vui được làm bạn với chị Diệp. Em mong chị Diệp mãi mãi ở gần nhà em.
Bài làm 6
Bà Long ở gần là hàng xóm của nhà em bà tầm khoảng hơn 70 tuổi. Bà Long thường sang nhà em và cho em quà. Bà ở một mình nên rất cô đơn vì vậy những lúc rảnh rỗi gia đình em lại đến thăm bà, em rất thích chơi với bà. Bà thường kể cho em nghe những câu chuyện cổ tích. Bà còn nhắc em đi học sớm và ngoan ngoãn nghe cô giảng bài. Bà Long như người thân trong gia đình em. Mỗi khi, trung thu ngôi nhà của bà Long lại đầy tiếng cười. Em rất yêu bà Long.
Bài làm 7
Cô Thanh là người hàng xóm thân thiết của nhà em. Cô hai mươi bảy tuổi. Cô là giáo viên dạy lớp một trường Tiểu học Kim Đồng. Vì cô nổi tiếng là một giáo viên dạy giỏi cấp thành phố nên rất nhiều bố mẹ học sinh tin tưởng và gửi con mình vào học lớp cô. Cô Thanh rất hiền và dịu dàng, cô thường sang dạy em Ngọc học bài và cho hai chị em bánh kẹo, đôi lúc cô cũng giúp mẹ em nấu ăn và các việc khác. Gia đình em coi cô như một thành viên trong gia đình mình.
|
Week 8: Write about a neighbor
Instruct
Week 8: Tell about the neighbor you love
1.Write about a neighbor you love (5-7 sentences):
(Suggestion: Tell about your neighbor, introduce, describe, and express your feelings about that person. Is the neighbor you like a good person, maybe an elder, or a brother? sister or a friend. What is that person's name? How old is he? What is the neighbor's feelings towards his family? understand the good qualities and good actions of this person. It must be a specific person, not a general person you imagine. Only then will your story be true and alive , and attracts listeners and readers.)
You can refer to the article below
Exercise 1
On the other side of my garden is Mrs. Hoi's house. She is a "Vietnamese heroic mother". She has five children: four boys, one girl. His two sons and the old man died in the resistance war against America. His remaining two children are both married and live in the province. Several times his son came home to pick her up to live with him, but she did not go. She said she was used to living in the countryside, she wouldn't go anywhere. This year, she is over sixty but still healthy and active. In the neighborhood, everyone loves and respects her. She often comes to my house to play with my grandfather. The two ladies loved each other very much. Every time she saw me, she hugged me, stroked my shoulder-length hair and said: "Tonight, come sleep with me for fun." She will tell you fairy tales and stories about fighting America. Whatever you like, I'll tell it!" She loves me very much. If there were any good gifts that Uncle Hoa and Miss Hanh sent to her, she would give some to my grandmother and me. In my neighborhood, whenever there is any dispute between neighbors, people often ask her to come and mediate. My grandmother often said: "In this hamlet, Mrs. Hoi is the center of solidarity, the substance that binds everyone together in neighborly love." That's how my Mrs. Hoi is. Not only me, but everyone in the village respects her.
Ms. Phuong's house is just a small alley away from my house. Every day, I often come to play with my sister and she pampers me very much. Orphaned at a young age, she lacks the immense love of a mother. Her father stayed there and raised her until now. This year, she is in grade 12 at a provincial specialized school. Everyone in my neighborhood praises and admires her. Because she is both beautiful in person and beautiful in personality. In particular, there is one thing about her that I really love and admire. That is her love for the elderly. Mrs. Tu lives a garden away from my house. She lives alone in a small house, without any children or grandchildren. It is said that she also had a family before, but the war took away the old man and her only son. From then until now, she has lived alone. Sympathizing with the old woman's lonely fate, Ms. Phuong never went a day without visiting her. Every time I go to see the old lady, I often invite you to go with me. She helps her grandmother clean the house, wash clothes, and cook porridge for her whenever she is sick. No blood relatives, no relatives, yet Ms. Phuong took care of her, loved her like her grandmother. That's so precious. As for you, I consider you as my younger sibling. If there is something delicious or beautiful, she will share it with you, and even guide you further in learning. My parents love you very much and consider you as their daughter.
Not far from my house is Mr. Hoang's house. Mr. Hoang studied in grade 12 with my brother. Every night, the two of us studied together, sometimes the exam was at my house, sometimes it was at his house. His parents had him as their only son. Many people think that only children are often naughty and difficult to discipline. I don't know if that statement is right or wrong, personally I don't think it's right. Mr. Hoang is a person that I respect very much. Both my mother and my father praised Mr. Hoang for being good, gentle, and cute. Many times my father often told my brother Trung: "If you make friends with Hoang, I feel secure. His family is also a well-off family, yet he lives a very normal life, doesn't hustle and bustle, and studies hard. You should learn those virtues from Hoang!" I can confirm everything my father said about Mr. Hoang. I have never seen him hold a cigarette or drink a glass of wine. He usually comes to my house with books and notebooks to study. Occasionally he invites my brother to walk around the garden for a while, then both of them sit at the table and study. Every week, he buys me a book "Red Scarf" and tells me to read the stories in it to tell him. I love Mr. Hoang like my brother Trung.
Exercise 4
In the neighborhood, I love Uncle Ha the most, the leader of my neighborhood.
Uncle Ha is over 50 years old this year. He opened a grocery store near my house. He is tall and thin, has bright eyes, and has a cheerful personality. He is very harmonious and cares about everyone, especially my family. When he has free time, he comes to my house to chat and talk to me and also tells me really good fairy tales. Everyone in my neighborhood loves Uncle Ha because he is gentle and kind.
This summer my family moved to a new place. The first neighbor I met was Ms. Diep. She has a tall figure. Her hair is long and always neatly braided. She is very funny. Every time she smiles, her crooked teeth look so charming. Every afternoon, she comes to my house to play. At first I was very confused, but thanks to you, I made many new friends. Then she took me to the cultural house, playground, and flower garden. I'm very happy to be friends with Ms. Diep. I hope Ms. Diep will always be near my house.
Exercise 6
Mrs. Long who lives nearby is her sister's neighbor and is about 70 years old. Mrs. Long often comes to my house and gives me gifts. She lives alone so she is very lonely, so in her free time my family visits her, I really like to play with her. She often tells me fairy tales. She also reminded me to go to school early and obediently listen to her lectures. Mrs. Long is like a member of my family. Every Mid-Autumn Festival, Mrs. Long's house is full of laughter. I love Mrs. Long very much.
Exercise 7
Miss Thanh is my close neighbor. She is twenty-seven years old. She is a first grade teacher at Kim Dong Primary School. Because she is famous as a good teacher at the city level, many parents trust her and send their children to her class. Ms. Thanh is very gentle and gentle. She often comes to teach Ngoc her lessons and gives her two sisters candy. Sometimes she also helps her mother cook and do other things. My family considers her as a member of their family.
|
Tuần 9: Chính tả Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà
Hướng dẫn
Câu 1: Nhớ – viết bài Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà (SGK TV5 tập 1 trang 69).
Gợi ý: Viết bài Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sông Đà bằng nhớ. Viết xong đối chiếu với văn bản để sửa chữa những chữ viết sai.
Câu 2:
a) Mỗi cột trong bảng dưới đây ghi một cặp tiếng chỉ khác nhau ở âm đầu l hay n. Hãy tìm những từ ngữ có các tiếng đó:
la
lẻ
lo
lở
na
nẻ
no
nở
Gợi ý: Tìm những từ ngữ có các tiếng đã cho chỉ khác âm đầu l và n, như sau:
–la mắng, rầy la, la hét, la bàn…. – tiền lẻ, lẻ bạn, lẻ loi….
-nết na, quả na… –nứt nẻ, nẻ toác….
-đất lở, lở lói, lở loét… –lo lắng, nỗi lo, lo nghĩ, lo sợ
-hoa nở, nở rộ…. -ăn no, cánh buồm no gió, no nê….
b)Mỗi cột trong bảng dưới đây ghi một cặp tiếng chỉ khác nhau ở âm cuối n hay ng. Hãy tìm những từ ngữ có tác dụng đó.
man
vần
buôn
vươn
mang
vầng
buông
vương
Gợi ý:Tìm những từ ngữ có các tiếng đã cho chỉ khác âm cuối n hay ng,
-man mác, man dại, lan man… –âm vần, đánh vần, vần thơ…
-mang vác, mang tiếng… –vầng trăng, vầng hào quang, vầng trán…
-buôn bán, buôn lậu, buôn làng… –vươn tới, vươn vai, vươn lên…
Câu 3: Thi tìm nhanh.
a)Các từ láy âm đầu l.
Gợi ý:Các từ láy âm đầu l:
-là lạ, lạ lùng, lai láng, lạnh lẽo, lung lay, lỏng lẻo, lam lũ, lung linh, lành lạnh, lạnh lùng, lay lắt, lặng lẽ, lập lòe…
b)Các từ láy vần có âm cuối ng.
Gợi ý: Các từ láy vần có âm cuối ng:
–lóng ngóng, lúng túng, lung tung, bùng nhùng, bắng nhắng, lẳng lặng, đăng đắng, trăng trắng, văng vẳng, lẳng nhăng, lang thang…
|
Week 9: Spelling The sound of ba-la-la-ca on the Da River
Instruct
Question 1: Remember - write the article The sound of ba-la-lai-ca on the Da River (Textbook TV5 volume 1 page 69).
Suggestion: Write the song "The sound of Ba-la-la-ca on the Da River" using memory. After writing, compare it with the text to correct any misspellings.
Question 2:
a) Each column in the table below records a pair of sounds that differ only in the initial sound l or n. Look for words with those sounds:
la
odd
worry
miss
na
chappy
no
bloom
Hint: Find words with the given sounds that differ only in the initial sounds l and n, as follows:
– scold, scold, scream, compass…. – odd money, odd friends, lonely….
-na, fruit of custard apple... -cracked, cracked...
-slides, landslides, ulcers... -worries, worries, worries, fears
-flowers bloom, bloom... -full of food, full of wind, full of sails...
b) Each column in the table below records a pair of sounds that differ only in the final sound n or ng. Find words that have that effect.
man. man
rhyme
trade
reach
carry
halo
let go of
king
Hint: Find words with the given sounds that differ only in the final sound n or ng,
-wild, wild, rambling... -rhyme, spelling, rhyme...
-carrying, carrying a reputation... -moon, halo, forehead...
-trade, smuggling, village... -reach out, stretch out, rise up...
Question 3: Quick search test.
a) Words with alliteration at the beginning l.
Hint: Words with negative sounds at the beginning of l:
-is strange, strange, hybrid, cold, shaky, loose, shaky, shimmering, cool, cold, shaky, quiet, flickering...
b) Rhyming words have the final ng sound.
Hint: Rhyming words with the ending ng sound:
– clumsy, awkward, haphazard, flustered, absent-minded, quiet, bitter, white, wandering, promiscuous, wandering...
|
Tuần 9: Luyện tập thuyết trình tranh luận (tiếp theo)
Hướng dẫn
Câu 1: Dựa vào ý kiến của một nhân vật trong mẩu chuyện (SGK Tiếng Việt 5 tập 1 trang 93), em hãy mở rộng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết trình, tranh luận cùng các bạn trong nhóm.
Hướng dẫn
*Đất nói:
– Tôi có chất màu mỡ để nuôi cây lớn. Không có tôi cây không thể sống được. Cây phải bám chặt vào tôi mới sinh sôi nảy nở được. Các bạn không thấy sao? Hễ cây nào bị nhổ lên khỏi mặt đất đều chết hết cả. Tôi giúp cho cây đứng vững không bị gió xô đổ, không bị lũ cuốn trôi. Nhờ có tôi mà cây cối tồn tại và phát triến xanh tươi. Tôi chính là người cần nhất cho cây xanh.
*Nước kể công: Nếu chất màu không có nước vận chuyển thì cây có lớn lên được không? Làm sao cây có thế sống mà không có nước được? Chẳng những cây rất cần mà vạn vật trên trái đất đều có mặt tôi cả. Vì vậy tôi là người cần nhât cho cây xanh.
*Không khí chẳng chịu thua, nói: Cây xanh rất cần khí trời. Không có khí trời thì tất cả cây cối đều chết rũ. Các cậu thử đưa cây xanh vào trong một cái bình không có không khí, thử hỏi cây sẽ tồn tại được bao lâu? Vì vậy, tôi mới đích thực là người mà cây xanh rất cần, cần hơn ai hết.
*Ánh sáng nhẹ nhàng nói: Cây cối dù có đủ đất, nước, không khí nhưng thiếu ánh sáng thì sẽ không thể có màu xanh. Không có màu xanh thì còn gọi cây xanh sao được! Thử hỏi trên trái đất này vắng tôi đi, mọi vật sẽ sông ra sao? Tâ’t cả đều ở trong tăm tôi, trong băng giá và tất nhiên sẽ không một ai tồn tại, sự sống cũng không có. Bởi vậy, tôi mới là người cây xanh cần hơn cả.
Câu 2:Trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy rõ sự cần thiết của cả trăng và đèn trong bài ca dao đã cho (SGK Tiếng Việt 5, tập 1, trang 94).
Hướng dẫn
Theo em trăng và đèn đều rất cần cho cuộc sống chúng ta. Ban đêm nếu bầu trời không có trăng, màn đêm sẽ buông xuôntg bao trùm lấy vũ trụ. Con người sè mất đi những buổi nghỉ ngơi dạo mát sau một ngày làm việc mệt nhọc. Trẻ con sẽ không có những cuộc chơi vui vầy dưới ánh trăng, nhất là ở nông thôn, cuộc sống sẽ trơ nên tẻ nhạt vô cùng. Và nếu không có đèn thì đêm đến, cuộc sông cũng chìm trong đêm tối và yên lặng. Do đó trăng và đèn đều cần cho cuộc sống về đêm của con người.
|
Week 9: Practice debate presentations (continued)
Instruct
Question 1: Based on the opinion of a character in the story (Vietnamese Textbook 5, volume 1, page 93), expand your arguments and evidence to present and debate with your group members.
Instruct
*Land says:
– I have fertile matter to grow big trees. Without me the tree cannot live. The tree must cling tightly to me to reproduce. Don't you see? Every tree that is pulled out of the ground will die. I help the tree stand firmly so it won't be knocked down by the wind or swept away by floods. Thanks to me, trees exist and grow green. I am the person who needs the trees the most.
*Water counts: If the pigment does not have water to transport, can the plant grow? How can plants live without water? Not only do trees need me, but all things on earth have me. Therefore, I am the person who needs the trees the most.
*The air did not give up, saying: Trees really need air. Without air, all trees will die. Try putting a green plant in a vase without air, how long will it last? Therefore, I am truly the person that trees need, more than anyone else.
*Light gently says: Even though plants have enough soil, water, and air, without light they cannot be green. Without green color, how can a tree be called green? I wonder how things would be if I were absent on this earth? Everything is in darkness, in ice and of course no one will exist, there will be no life. Therefore, I am the one who needs the trees the most.
Question 2: Present your opinion to convince everyone to clearly see the necessity of both the moon and lights in the given folk song (Vietnamese Textbook 5, volume 1, page 94).
Instruct
In my opinion, the moon and lights are both very necessary for our lives. At night, if there is no moon in the sky, darkness will fall and cover the universe. People will miss out on leisurely walks after a tiring day of work. Children will not have fun playing under the moonlight, especially in the countryside, life will be extremely boring. And if there is no light, when night comes, the river will also be dark and silent. Therefore, the moon and lights are both necessary for human night life.
|
Tuần 9: Luyện tập thuyết trình tranh luận (tập làm văn 5)
Hướng dẫn
Câu 1. Đọc bài Cái gì quý nhất (SGK Tiếng Việt 5, tập 1, trang 85) nêu nhận xét:
a)Các bạn Hùng, Quý, Nam tranh luận về vấn đề gì?
b)Ý kiến của mỗi bạn như thê nào? Lí lẽ đưa ra đế bảo vệ ý kiến đó ra sao?
c)Thầy giáo muốn thuyết phục Hùng, Quý, Nam công nhận điều gì? Thầy đã lập luận như thế nào? Cách nói của thầy thể hiện thái độ tranh luận như thê nào?
Hướng dẫn
a)Các bạn Hùng, Quý, Nam tranh luận về vân đề: “Trên đời này cái gì quý nhất”.
b)Mỗi bạn đều có những ý kiến riêng của mình.
-Hùng thì cho là lúa gạo là cái quý nhât.
-Quý thì cho là vàng là cái quý nhâ’t.
-Nam thì cho là thì giờ là cái quý nhât.
* Lí lẽ đưa ra để bảo vệ ý kiến của mình thì ai cũng đúng và đều có sức thuyết phục người nghe. Tuy vậy lí lẽ của mỗi bạn chỉ đúng ở một khía cạnh, chưa toàn diện.
c)Thầy giáo muôn thuyết phục cả ba bạn về cái quý nhất trên đời là người lao động thì thầy phải đưa ra lí lẽ có sức thuyết phục hơn cả. Lí lẽ đó phải toàn diện nhìn ở mọi phía đều đúng cả, buộc người nghe phải thừa nhận. Cách tranh luận của thầy rất thoải mái, tự do, không áp đặt ý kiến của mình cho người khác.
Hướng dẫn
-Hùng: Theo mình cái quý nhất trên đời là lúa gạo. Ông cha mình thường nói: “non lương thì rũ gối” đó sao! Các cậu thử không ăn một vài bữa xem nào? Cái đói sẽ hành hạ cậu đến chết.
-Quý: Hùng nói cũng có lí nhưng theo mình vàng mới là quý nhất. Có vàng tức là có tiền, có tiền thì mua tiên cũng được. Chắc các cậu cũng đã từng nghe cha ông mình nói: “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” đó sao! Có tiền sẽ có tất cả. Đúng không nào?
– Nam: Theo tớ, quý nhất là thì giờ. Nếu chăm chỉ cày cấy trên thửa ruộng của mình thì sẽ có lúa gạo. Hôm nay không có vàng, làm việc hăng say, biết buôn bán giỏi sẽ có tiền. Có tiền sẽ có vàng. Chứ bỏ phí thì giờ, để cho nó trôi qua thì không tài nào lấy lại được. Hôm nay các cậu ham chơi không học bài, bị điểm kém, ở lại lớp, sinh ra chán nản, bỏ học. Càng lớn càng khó học. Như vậy thì giờ chẳng phải là cái quý nhất trên đời này sao!
|
Week 9: Practice presenting and arguing (writing practice 5)
Instruct
Question 1. Read the article What is most precious (Vietnamese Textbook 5, volume 1, page 85) and comment:
a) What issue did Hung, Quy, and Nam argue about?
b)What is your opinion? What are the arguments given to defend that opinion?
c) What does the teacher want to convince Hung, Quy, and Nam to acknowledge? How did you reason? How does the teacher's way of speaking show his argumentative attitude?
Instruct
a) Hung, Quy, and Nam debated the question: "What is the most precious thing in this world?"
b) Each of you has your own opinions.
-Hung thinks rice is the most precious thing.
-When it comes to precious things, gold is the most precious thing.
- Men think that time is the most precious thing.
* The arguments given to defend one's opinion are correct and have the power to convince the listener. However, each of your arguments is only correct in one aspect, not comprehensive.
c) If the teacher wants to convince all three of you that the most valuable thing in the world is the worker, he must give the most convincing argument. That argument must be comprehensive and true from all sides, forcing the listener to admit it. The teacher's way of arguing is very comfortable and free, without imposing his opinions on others.
Instruct
-Hung: In my opinion, the most precious thing in the world is rice. My ancestors often said: "If you don't have enough money, you will fall to the knees" isn't that so? You guys try not eating for a few meals? Hunger will torture you to death.
- Precious: What Hung says makes sense, but in my opinion gold is the most precious. Having gold means having money. If you have money, you can buy money. Surely you have heard your ancestors say: "Strong for rice, bold for money"! If you have money, you will have everything. Right?
– Nam: In my opinion, the most precious thing is time. If you work hard to cultivate your field, you will have rice. Today there is no gold, work hard, know how to trade well and you will have money. If you have money, you will have gold. But if you waste time and let it go, you can't get it back. Today, the boys were having fun and didn't study, got bad grades, stayed in class, got bored, and dropped out of school. The older you get, the harder it is to learn. So isn't time the most precious thing in this world?
|
Tuần 9: Luyện từ và câu (Thiên nhiên)
Hướng dẫn
Câu 1; 2: Đọc mẩu chuyện: Bầu trời mùa thu (SGK TV5 tập 1 trang 87). Tìm những từ ngữ tả bầu trời trong mẩu chuyện ấy. Những từ ngữ nào thể hiện sự so sánh, nhân hóa bầu trời?
Gợi ý:Trong mẩu chuyện Bầu trời mùa thu, những từ ngữ tả bầu trời thể hiện sự so sánh, nhân hóa là:
a)Tả bầu trời thể hiện sự so sánh: Bầu trời xanh như mặt nước mệt mỏi trong ao.
b)Tả bầu trời thể hiện sự nhân hóa: Bầu trời được rửa mặt sau cơn mưa – Bầu trời dịu dàng – Bầu trời buồn bã – Bầu trời trầm ngâm – Bầu trời nhớ tiếng hót của bầy chim sơn ca – Bầu trời ghé sát mặt đất – Bầu trời cúi xuống lắng nghe để tìm xem chim én đang ở trong bụi cây hay ở nơi nào.
Câu 3: Dựa theo cách dùng từ ngữ ở mẩu chuyện trên, viết một đoạn văn khoảng năm câu tả một cảnh đẹp ở quê em hoặc nơi em sinh sống.
-Học……..cày ……..
– ……..……..đố mày làm nên
-Cô giáo như ……..……..
-Trọng thầy mới được……..……..
-Họckhông tày học ……..……..
-Không biết thì …….., muốn giỏi phải……..
-Chọn ban mà……..
Gợi ý:Viết đoạn văn miêu tả cảnh đẹp ở quê em.
“Quê em là một vùng đồng bằng nổi tiếng trù phú, “gạo trắng nước trong”. Đầu làng có một cây đa cổ thụ trên trăm tuổi, cành lá xum xuê. Nó đứng đó từ bao đời nay như một người vệ sĩ, đứng canh ở cổng làng. Cách chỗ cây đa chừng trăm mét là con sông Cẩm Lí nước trong xanh như mắt mèo. Không biết nó bắt nguồn từ đâu nhưng khi chảy qua địa phận làng em thì nó giông như cánh tay của người mẹ dịu dàng ôm ấp đứa con thân yêu của mình. Cuối làng là một bãi phu sa bạt ngàn dâu xanh. Những chiều tà, lũ trẻ chúng tôi thường hay vui chơi ở bãi dâu này với những trò nghịch ngợm của trẻ thơ: trôn tìm, đánh vật, đánh trận giả, đá bóng, diễn kịch v.v… vui hết chỗ nói.”
TIẾT 2:
Câu 1: Các từ in đậm trong đoạn thơ đã cho (SGK TV5 tập 1 trang 92) dùng để chỉ ai? Những từ đó được viết hoa nhằm biểu lộ điều gì?
Gợi ý:Các từ in đậm trong đoạn thơ đã cho dùng để chỉ: Bác Hồ.
– Những từ đó được viết hoa nhằm biểu lộ tình cảm và sự kính trọng của toàn dân đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Câu 2: Tìm những đại từ được dùng trong bài ca dao đã cho (SGK TV5 tập 1 trang 93).
Gợi ý: Những đại từ được dùng trong bài ca dao:
Cái cò, cái vạc, cái nông,
Sao mày giẫm lúa nhà ông, hỡi cò?
Không không, tôi đứng tren bờ
Me con cai diệc do ngờ cho tôi
Chẳng tin ông đến mà coi
Me con nhà nó còn ngồi ở đây.
Câu 3: Dùng đại từ thích hợp thay thế cho danh từ bị lặp lại nhiều lần trong câu chuyện Con chuột tham lam (SGK TV5 tập 1 trang 93).
Gợi ý: Dùng đại từ thich hợp để thay thế cho danh từ bị lặp lại nhiều lần trong câu chuyện Con chuột tham lam, như sau:
“Chuột ta gặm vách nhà. Một cái khe hở hiện ra. Chuột chui qua khe và tìm được rất nhiều thức ăn. Là một con chuột tham lam nên nó ăn nhiều quá, nhiều đến mức bụng nó phình ra to. Đến sang, chuột tòm đường trở về ổ, nhưng bụng to quá, nó không sao lách được qua khe hở được”.
|
Week 9: Practice words and sentences (Nature)
Instruct
Question 1; 2: Read the story: Autumn sky (TV5 textbook volume 1 page 87). Find words to describe the sky in that story. What words show comparison and personification of the sky?
Hint: In the story Autumn Sky, the words describing the sky that show comparison and personification are:
a) Describe the sky showing comparison: The sky is as blue as the tired water in a pond.
b) Describe the sky showing personification: The sky is washed after the rain - The sky is gentle - The sky is sad - The sky is pensive - The sky remembers the song of the nightingale - The sky is close ground – The sky bent down to listen to find out if the swallow was in the bushes or somewhere else.
Question 3: Based on the word usage in the story above, write a paragraph of about five sentences describing a beautiful scene in your hometown or where you live.
-Study……..plow……..
– ……..……..you can do it
-The teacher is like ……..……..
- Only by respecting the teacher……..……..
-Studying without learning skills ……..……..
-If you don't know, then …….., if you want to be good, you have to ……..
-Choose your board……..
Hint: Write a paragraph describing the beautiful scenery in your hometown.
"My hometown is a famous delta with "white rice, clear water". At the beginning of the village there is an ancient banyan tree over a hundred years old with luxuriant branches and leaves. It has stood there for generations like a bodyguard, standing guard at the village gate. About a hundred meters away from the banyan tree is the Cam Ly river, the water is as clear as a cat's eye. I don't know where it originates from, but when it flows through my village, it is like a mother's arms gently hugging her beloved child. At the end of the village is a sandy beach with thousands of green strawberries. In the late afternoons, our children often have fun in this mulberry field with mischievous children's games: hide and seek, wrestling, mock battles, soccer, acting, etc. It's so much fun."
SECTION 2:
Question 1: Who do the words in bold in the given poem (Textbook TV5, volume 1, page 92) refer to? What are those words capitalized to express?
Hint: The words in bold in the given poem refer to: Uncle Ho.
– Those words are capitalized to express the affection and respect of the entire people for the great leader of the nation.
Question 2: Find the pronouns used in the given folk song (Textbook TV5, volume 1, page 93).
Hint: Pronouns used in folk songs:
The stork, the cauldron, the shallow,
Why are you trampling my rice, stork?
No no, I'm standing on the shore
My mother and heron gave me the benefit of the doubt
If you don't believe me, come and see
His mother and children are still sitting here.
Question 3: Use appropriate pronouns to replace nouns that are repeated many times in the story The Greedy Mouse (Textbook TV5, volume 1, page 93).
Hint: Use appropriate pronouns to replace nouns that are repeated many times in the story The Greedy Mouse, as follows:
“Our mice gnawed on the walls of the house. A crack appear. The mouse crawled through the crack and found a lot of food. Being a greedy mouse, it ate too much, so much that its belly bulged out. When morning arrived, the mouse found its way back to the nest, but its belly was so big that it couldn't squeeze through the gap.
|
Tuổi thơ không muốn chia ly – Bình giảng văn lớp 7
Hướng dẫn
Tác phẩm mang tên là Cuộc chia tay của những con búp bê, nhưng mạch chính của truyện kể về hai bạn nhỏ – hai anh em ruột trong một gia đình khá giả – phải chia tay nhau vì hạnh phúc gia đình đổ vỡ, bố mẹ li hôn. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Người xưng “tôi” trong truyện (Thành) là người chứng kiến các việc xảy ra, cũng là người cùng chịu nỗi đau như em gái (Thuỷ) của mình. Cách chọn ngôi kể này giúp tác giả thể hiện được sâu sắc tình cảm, tâm trạng của nhân vật, nhất là nỗi lòng người kể chuyện, Thêm nữa, kể chuyện theo cách này, tác phẩm mang tính chân thực cao và do vậy, sức thuyết phục cũng cao hơn. Đọc truyện ngắn này, người đọc – nhất là lớp trẻ chúng ta. – hiểu ra và suy ngẫm được nhiều điều về nỗi đắng cay trong cuộc đời và những tình người đằm thắm, nhân hậu, nhất là tình anh em ruột thịt.
Bố cục của truyện gồm ba phần, mạch lạc và chặt chẽ:
1.Mẹ bắt hai anh em Thành – Thuỷ chia đồ chơi. Đây là cuộc chia tay thứ nhất, trong đó có câu chuyện về hai con búp bê, con Vệ Sĩ và con Em Nhỏ.
2.Thành đưa em đến lớp chào, rồi chia tay cô giáo và các bạn. Đây là cuộc chia tay thứ hai, cuộc chia li đẫm nước mắt.
3.Thành và Thuỷ thực sự phải chia tay nhau. Thành ở lại, Thuỷ theo mẹ về quê. Búp bê Vệ Sĩ ở lại. Búp bê Em Nhỏ về quê. Nhưng việc bất ngờ đã xảy ra. Thuỷ quay lại đưa cho Thành con búp bê Em Nhỏ để nó mãi mãi ở bên con Vệ Sĩ, “con Em Nhỏ quàng tay vào con Vệ Sĩ”… Như vậy là những con búp bê bé nhỏ, hồn nhiên kia không bao giờ phải chia li, cũng như tuổi thơ của Thành và Thuỷ không bao giờ muốn chia li.
Nghệ thuật bố cục của nhà văn Khánh Hoài thật tài hoa, đáng học tập. Cách bố cục ấy hài hoà với những chi tiết, những hình ảnh và ngôn ngữ kể chuyện đã thể hiện biết bao nội dung, ý nghĩa của tác phẩm.
Trước hết, chúng ta thấy tình anh em ruột thịt của Thành và Thuỷ thật đằm thắm, trong trẻo. Hai anh em họ rất mực gần gũi, thương yêu, chia sẻ cho nhau mọi buồn vui, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong mọi công việc. Thấy áo anh rách, Thuỷ mang kim chỉ ra tận sân vận động vá áo cho anh. Thương anh đêm hay ngủ mê gặp ma, Thuỷ đã “võ trang” cho con Vệ Sĩ đặt đầu giường, gác cho Thành ngủ ngon. Rồi Thuỷ nhường tất cả búp bê cho anh,.. Còn Thành thì, đáp lại tấm lòng hiền thảo, vị tha của em, cũng đã làm nhiều việc tốt, vì em. Thành giúp em học tập. Chiều nào Thành cũng đón em đi học về, dắt tay nhau vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ. Khi mẹ bắt phải chia đồ chơi, Thành đã nhường hết cho em. Sau đó Thành lại cùng em đến trường để em được chào và chia tay cô giáo, chia tay bạn bè,… Trong quan hệ anh, em giữa Thành và Thuỷ xảy ra một việc thật cảm động. Đó là việc chia đồ chơi, chia hai búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ. Thấy anh lấy hai con búp bê đặt sang hai phía, Thuỷ bỗng “tru tréo lên giận dữ”, nói: “Sao anh ác thế!”. Thành nói: “Anh cho em tất cả”, rồi đặt con Vệ Sĩ vào cạnh con Em Nhỏ giữa đống đồ chơi của Thuỷ. Cặp mắt Thuỷ dịu lại, như có vẻ bằng lòng. Nhưng chợt nghĩ ra điều gì, em lại kêu lên: “Nhưng… lấy ai gác đêm cho anh?”… Như vậy, lời nói và hành động của Thuỷ trước việc này dường như đầy những mâu thuẫn. Lúc đầu, em không muốn hai con búp bê chia tay nhau. Em “tru tréo lên”, nghĩa là em kêu to lên, gắt gỏng, tỏ ý tức giận, trách Thành “ác thế”. Nhưng sau, khi thấy anh trai để hai búp bê ở bên nhau theo ý muốn của mình thì… Thủy lại cũng “kêu lên”, nghĩa là cũng không đồng ý cách giải quyết của anh, vì như thế thì “lấy ai gác đêm cho anh”. Rõ ràng, ở đây có diều éo le, trái ngược, đối lập nhau giữa sự thật – búp bê phải chia tay, hai anh em phải chia tay, niềm vui tuổi trẻ bị chia cắt – và tình anh em gắn bó, tấm lòng vị tha của đứa em nhỏ với người anh thân yêu. Sự thật cuộc đời thật cay đắng mâu thuẫn với tình người ngọt ngào, êm dịu. Đưa ra tình huống này, tác giả thiên truyện muốn gợi lên trong lòng bạn dọc những suy nghĩ lắng sâu và đợi chờ câu trả lời của bạn đọc. Vậy, muốn giải quyết mâu thuẫn này thì làm thế nào? Có lẽ cách tốt nhất là gia đình Thành – Thuỷ phải đoàn tụ, hai anh em không phải chia tay nhau, búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ cũng không phải chia tay nhau. Cuối truyện, nhà văn kể một chi tiết thật thoả đáng: Thuỷ quay trở lại đặt con Em Nhỏ bên cạnh con Vệ Sĩ để chúng không bao giờ xa nhau. Hành động này của Thuỷ gợi cho người đọc lòng mến trọng đối với Thuỷ, mến trọng một em bé gái giàu lòng vị tha, rất thương anh, thương những con búp bê, thà mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, thà mình chịu thiệt thòi để anh luôn có con Vệ Sĩ gác cho giấc ngủ được ngon lành. Xây dựng chi tiết kết thúc truyện như thế, nhà văn muốn nhắn gửi tới mọi người rằng: cuộc chia tay của các em nhỏ là rất vô lí, là không nên có, không nên để nó xảy ra. Ý tưởng ấy nhắc nhở những người cha, người mẹ. Ý tưởng ấy cũng chia sẻ nỗi khao khát cháy bỏng của tuổi thơ chúng ta: tuổi thơ phải được hạnh phúc, tuổi thơ không muốn chia tay,…
Tiếp sau những chi tiết, tình huống biểu hiện tấm lòng và hành động cao đẹp của tình anh em Thành – Thuỷ, nhà văn kể về tình thầy trò, tình bạn, cũng bằng những chi tiết, tình huống truyện thật cảm động. Khi biết Thuỷ đến chào để chia tay, cô giáo Tâm đã “ôm chặt lấy em”, như không muốn chia tay. Còn bạn bè của Thuỷ thì “cả lớp sững sờ… khóc thút thít”, rồi mấy đứa bạn thân bỏ chỗ ngồi, nắm chặt lấy tay Thuỷ như chẳng muôn rời,… Nhưng điều khiến mọi người sửng sốt nhất là lúc nghe Thuỷ nói: “Nhà bà ngoại em ở xa trường lắm. Mẹ em bảo sẽ sắm cho em một thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán”. Điều đó nghĩa là sau cuộc chia tay thầy và bạn này, cô bé đáng thương sẽ không được đi học nữa, sẽ bị ném ra cuộc đời kiếm sống, sẽ vĩnh viễn mất niềm vui của tuổi học trò… “Trời ơi!”, cô giáo đã kêu lên, tái mặt và nước mắt giàn giụa. Lũ bạn nhỏ của Thuỷ cũng khóc, mỗi lúc một to hon. Đọc đến chi tiết này, sống mũi ai mà không cay cay, nước mắt ai mà không rơm rớm… Chúng ta vừa cảm động trước tình cảm thầy trò, bè bạn của cô giáo và các em học sinh lớp của Thuỷ, vừa thêm xót thương cảnh ngộ éo le của anh em, gia đình Thành – Thuỷ. Kể lại cuộc chia tay đẫm nước mắt ấy, Thành đã tâm sự: “Ra khỏi trường, tôi kinh ngạc thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật”. Tại sao lại như thế? Phải chăng, Thành thấy “kinh ngạc” vì: trong khi mọi việc đều diễn ra bình thường, cảnh vật vẫn êm đẹp, cuộc đời vẫn bình yên, thì… hai anh em và gia đình Thành phải chịu sự mất mát, đổ vỡ quá lớn? Nói cách khác, Thành ngạc nhiên vì: trong tâm hồn mình đang nổi dông bão vì sắp phải chia lìa đứa em thân thương, thế mà bên ngoài, mọi người và trời đất vẫn không có gì thay đổi. Đây là một tình huống trớ trêu, đối chọi giữa nội tâm và ngoại cảnh. Cũng là một diễn biến tâm lí được tác giả miêu tả rất hài hoà, tương tự như một đoạn ở phần đầu truyện: Trong khi hai anh em
Qua câu chuyện này, tác giả Khánh Hoài muốn nhắn gửi đến mọi người điều gì? Rõ ràng tên truyện là Cuộc chia tay của những con búp bê, nhưng đây lại là chuyện về con người, của con người. Cuộc chia tay đau đớn và đầy cảm động của hai em bé trong truyện khiến người đọc thấm thìa rằng: tình cảm gia đình, hạnh phúc gia đình vô cùng quý giá và quan trọng. Mọi người hãy cố gắng bảo vệ vù giữ gìn, không nên vì bất kì lí do gì để làm tổn hại đến những tình cảm tự nhiên, trong sáng ấy, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Và một mạch ngầm nữa của văn bản phải chăng là: Tuổi thơ không biết và không bao giờ mong muốn chia li?
Xem lại bài bình giảng Một lát thư ngắn chất chứa bao nỗi niềm
|
Tuổi thơ không muốn chia ly – Bình giảng văn lớp 7
Hướng dẫn
Tác phẩm mang tên là Cuộc chia tay của những con búp bê, nhưng mạch chính của truyện kể về hai bạn nhỏ – hai anh em ruột trong một gia đình khá giả – phải chia tay nhau vì hạnh phúc gia đình đổ vỡ, bố mẹ li hôn. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Người xưng “tôi” trong truyện (Thành) là người chứng kiến các việc xảy ra, cũng là người cùng chịu nỗi đau như em gái (Thuỷ) của mình. Cách chọn ngôi kể này giúp tác giả thể hiện được sâu sắc tình cảm, tâm trạng của nhân vật, nhất là nỗi lòng người kể chuyện, Thêm nữa, kể chuyện theo cách này, tác phẩm mang tính chân thực cao và do vậy, sức thuyết phục cũng cao hơn. Đọc truyện ngắn này, người đọc – nhất là lớp trẻ chúng ta. – hiểu ra và suy ngẫm được nhiều điều về nỗi đắng cay trong cuộc đời và những tình người đằm thắm, nhân hậu, nhất là tình anh em ruột thịt.
Bố cục của truyện gồm ba phần, mạch lạc và chặt chẽ:
1.Mẹ bắt hai anh em Thành – Thuỷ chia đồ chơi. Đây là cuộc chia tay thứ nhất, trong đó có câu chuyện về hai con búp bê, con Vệ Sĩ và con Em Nhỏ.
2.Thành đưa em đến lớp chào, rồi chia tay cô giáo và các bạn. Đây là cuộc chia tay thứ hai, cuộc chia li đẫm nước mắt.
3.Thành và Thuỷ thực sự phải chia tay nhau. Thành ở lại, Thuỷ theo mẹ về quê. Búp bê Vệ Sĩ ở lại. Búp bê Em Nhỏ về quê. Nhưng việc bất ngờ đã xảy ra. Thuỷ quay lại đưa cho Thành con búp bê Em Nhỏ để nó mãi mãi ở bên con Vệ Sĩ, “con Em Nhỏ quàng tay vào con Vệ Sĩ”… Như vậy là những con búp bê bé nhỏ, hồn nhiên kia không bao giờ phải chia li, cũng như tuổi thơ của Thành và Thuỷ không bao giờ muốn chia li.
Nghệ thuật bố cục của nhà văn Khánh Hoài thật tài hoa, đáng học tập. Cách bố cục ấy hài hoà với những chi tiết, những hình ảnh và ngôn ngữ kể chuyện đã thể hiện biết bao nội dung, ý nghĩa của tác phẩm.
Trước hết, chúng ta thấy tình anh em ruột thịt của Thành và Thuỷ thật đằm thắm, trong trẻo. Hai anh em họ rất mực gần gũi, thương yêu, chia sẻ cho nhau mọi buồn vui, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong mọi công việc. Thấy áo anh rách, Thuỷ mang kim chỉ ra tận sân vận động vá áo cho anh. Thương anh đêm hay ngủ mê gặp ma, Thuỷ đã “võ trang” cho con Vệ Sĩ đặt đầu giường, gác cho Thành ngủ ngon. Rồi Thuỷ nhường tất cả búp bê cho anh,.. Còn Thành thì, đáp lại tấm lòng hiền thảo, vị tha của em, cũng đã làm nhiều việc tốt, vì em. Thành giúp em học tập. Chiều nào Thành cũng đón em đi học về, dắt tay nhau vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ. Khi mẹ bắt phải chia đồ chơi, Thành đã nhường hết cho em. Sau đó Thành lại cùng em đến trường để em được chào và chia tay cô giáo, chia tay bạn bè,… Trong quan hệ anh, em giữa Thành và Thuỷ xảy ra một việc thật cảm động. Đó là việc chia đồ chơi, chia hai búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ. Thấy anh lấy hai con búp bê đặt sang hai phía, Thuỷ bỗng “tru tréo lên giận dữ”, nói: “Sao anh ác thế!”. Thành nói: “Anh cho em tất cả”, rồi đặt con Vệ Sĩ vào cạnh con Em Nhỏ giữa đống đồ chơi của Thuỷ. Cặp mắt Thuỷ dịu lại, như có vẻ bằng lòng. Nhưng chợt nghĩ ra điều gì, em lại kêu lên: “Nhưng… lấy ai gác đêm cho anh?”… Như vậy, lời nói và hành động của Thuỷ trước việc này dường như đầy những mâu thuẫn. Lúc đầu, em không muốn hai con búp bê chia tay nhau. Em “tru tréo lên”, nghĩa là em kêu to lên, gắt gỏng, tỏ ý tức giận, trách Thành “ác thế”. Nhưng sau, khi thấy anh trai để hai búp bê ở bên nhau theo ý muốn của mình thì… Thủy lại cũng “kêu lên”, nghĩa là cũng không đồng ý cách giải quyết của anh, vì như thế thì “lấy ai gác đêm cho anh”. Rõ ràng, ở đây có diều éo le, trái ngược, đối lập nhau giữa sự thật – búp bê phải chia tay, hai anh em phải chia tay, niềm vui tuổi trẻ bị chia cắt – và tình anh em gắn bó, tấm lòng vị tha của đứa em nhỏ với người anh thân yêu. Sự thật cuộc đời thật cay đắng mâu thuẫn với tình người ngọt ngào, êm dịu. Đưa ra tình huống này, tác giả thiên truyện muốn gợi lên trong lòng bạn dọc những suy nghĩ lắng sâu và đợi chờ câu trả lời của bạn đọc. Vậy, muốn giải quyết mâu thuẫn này thì làm thế nào? Có lẽ cách tốt nhất là gia đình Thành – Thuỷ phải đoàn tụ, hai anh em không phải chia tay nhau, búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ cũng không phải chia tay nhau. Cuối truyện, nhà văn kể một chi tiết thật thoả đáng: Thuỷ quay trở lại đặt con Em Nhỏ bên cạnh con Vệ Sĩ để chúng không bao giờ xa nhau. Hành động này của Thuỷ gợi cho người đọc lòng mến trọng đối với Thuỷ, mến trọng một em bé gái giàu lòng vị tha, rất thương anh, thương những con búp bê, thà mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, thà mình chịu thiệt thòi để anh luôn có con Vệ Sĩ gác cho giấc ngủ được ngon lành. Xây dựng chi tiết kết thúc truyện như thế, nhà văn muốn nhắn gửi tới mọi người rằng: cuộc chia tay của các em nhỏ là rất vô lí, là không nên có, không nên để nó xảy ra. Ý tưởng ấy nhắc nhở những người cha, người mẹ. Ý tưởng ấy cũng chia sẻ nỗi khao khát cháy bỏng của tuổi thơ chúng ta: tuổi thơ phải được hạnh phúc, tuổi thơ không muốn chia tay,…
Tiếp sau những chi tiết, tình huống biểu hiện tấm lòng và hành động cao đẹp của tình anh em Thành – Thuỷ, nhà văn kể về tình thầy trò, tình bạn, cũng bằng những chi tiết, tình huống truyện thật cảm động. Khi biết Thuỷ đến chào để chia tay, cô giáo Tâm đã “ôm chặt lấy em”, như không muốn chia tay. Còn bạn bè của Thuỷ thì “cả lớp sững sờ… khóc thút thít”, rồi mấy đứa bạn thân bỏ chỗ ngồi, nắm chặt lấy tay Thuỷ như chẳng muôn rời,… Nhưng điều khiến mọi người sửng sốt nhất là lúc nghe Thuỷ nói: “Nhà bà ngoại em ở xa trường lắm. Mẹ em bảo sẽ sắm cho em một thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán”. Điều đó nghĩa là sau cuộc chia tay thầy và bạn này, cô bé đáng thương sẽ không được đi học nữa, sẽ bị ném ra cuộc đời kiếm sống, sẽ vĩnh viễn mất niềm vui của tuổi học trò… “Trời ơi!”, cô giáo đã kêu lên, tái mặt và nước mắt giàn giụa. Lũ bạn nhỏ của Thuỷ cũng khóc, mỗi lúc một to hon. Đọc đến chi tiết này, sống mũi ai mà không cay cay, nước mắt ai mà không rơm rớm… Chúng ta vừa cảm động trước tình cảm thầy trò, bè bạn của cô giáo và các em học sinh lớp của Thuỷ, vừa thêm xót thương cảnh ngộ éo le của anh em, gia đình Thành – Thuỷ. Kể lại cuộc chia tay đẫm nước mắt ấy, Thành đã tâm sự: “Ra khỏi trường, tôi kinh ngạc thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật”. Tại sao lại như thế? Phải chăng, Thành thấy “kinh ngạc” vì: trong khi mọi việc đều diễn ra bình thường, cảnh vật vẫn êm đẹp, cuộc đời vẫn bình yên, thì… hai anh em và gia đình Thành phải chịu sự mất mát, đổ vỡ quá lớn? Nói cách khác, Thành ngạc nhiên vì: trong tâm hồn mình đang nổi dông bão vì sắp phải chia lìa đứa em thân thương, thế mà bên ngoài, mọi người và trời đất vẫn không có gì thay đổi. Đây là một tình huống trớ trêu, đối chọi giữa nội tâm và ngoại cảnh. Cũng là một diễn biến tâm lí được tác giả miêu tả rất hài hoà, tương tự như một đoạn ở phần đầu truyện: Trong khi hai anh em
Qua câu chuyện này, tác giả Khánh Hoài muốn nhắn gửi đến mọi người điều gì? Rõ ràng tên truyện là Cuộc chia tay của những con búp bê, nhưng đây lại là chuyện về con người, của con người. Cuộc chia tay đau đớn và đầy cảm động của hai em bé trong truyện khiến người đọc thấm thìa rằng: tình cảm gia đình, hạnh phúc gia đình vô cùng quý giá và quan trọng. Mọi người hãy cố gắng bảo vệ vù giữ gìn, không nên vì bất kì lí do gì để làm tổn hại đến những tình cảm tự nhiên, trong sáng ấy, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Và một mạch ngầm nữa của văn bản phải chăng là: Tuổi thơ không biết và không bao giờ mong muốn chia li?
Xem lại bài bình giảng Một lát thư ngắn chất chứa bao nỗi niềm
|
Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông
Hướng dẫn
Đề bài: Phát biểu ý kiến về vấn đề tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
Hướng dẫn làm bài
a.Mở bài
Giới thiệu vấn đề: Tai nạn giao thông hiện nay đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội.
b.Thân bài
-Mỗi một ngày đi qua, bản tin an toàn giao thông trên các phương tiện thông tin đại chúng lại thông báo số vụ tai nạn, số người chết và bị thương. Không ngày nào lại không có. Tai nạn giao thông đang cướp đi sinh mạng và cuộc sống của biết bao người, để lại đau thương và những gánh nặng cho biết bao gia đình và cho xã hội. Tai nạn giao thông là thường xuyên, dai dẳng và ghê ghớm hơn bất cứ tai họa nào – ngay cả chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh… cũng không”giết người” nhiều bằng…
-Nhà nước đã ban hành Luật Giao thông và những nghị định về an toàn giao thông, xây dựng và cải tạo nhiều công trình giao thông, nhằm mục đích cải thiện các phương tiện giao thông trên nhiều trục đường quốc lộ, tỉnh lộ và nội thành…
-Tai nạn giao thông trong vài nưm qua có giảm đi, nhưng khôn đáng kể. Và đó cũng không phải là kết quả chắc chắn. Vẫn có người chết, người bị thương… Thỉnh thoảng lại có những vụ tai nạn xe cổ thảm khóc, kinh hoàng.
+ Đời sống ngày một cao hơn, các phương tiện giao thông ngày càng nhiều và tốc độ cũng lớn hơn…
+ Dân số tăng, người tham gia giao thông cũng đông hơn
+ Trong khi đó, sự phát triển hạ tầng phục vụ giao thông dù được quan tâm nhưng cũng không đáp ứng kịp. Đường sá trở nên chật hẹp và mau chóng xuống cấp, hư hỏng…
+ Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn là sự thiếu ý thức của con người khi tham gia giao thông. Những kẻ thiếu hiểu biết về luật giao thông, thiếu văn hóa, tính tình nóng nảy, thô lỗ… dễ trở thành “những hung thần trên đường phố”… Người đi đường dù cận thận đến mấy, gặp chúng thì cũng khó tránh khỏi tai họa.
-Đề xuất giải pháp: Giảm thiểu tai nạn giao thông đòi hỏi sự đồng bộ của nhiều giải pháp.
+ Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giao thông, quản lí chặt chẽ chất lượng xây dựng công trình giao thông.
+ Các lực lượng chức năng cần kiểm tra thường xuyên và chặt chẽ hơn.
+ Việc giáo dục tuyên truyền an toàn giao thông cần đa dạng và phổ biến hơn nữa.
+ Giải pháp hữu hiệu và chắc chắn nhất là nâng cao nhận thức của người tham gia giao thông. Đây là thử thách khó khăn nhất, bởi thay đổi ý thức cho những người thiếu ý thức không bao giờ là điều dễ dàng.
c.Kết bài
+ Tuổi trẻ học đường là một lực lượng tuyên truyền đông đảo và tích cực. Mỗi một học sinh chung tay góp sức vào việc tuyên truyền an toàn giao thông và bảo vệ công trình giao thông thì phạm vi và hiệu quả giáo dục sẽ rất lớn.
+ Học sinh cũng là một lực lượng tham gia giao thông đông đảo. Tình trạng giao thông có phức tạp hơn hay không, một phần lớn là bởi ý thức chấp hành luật lệ giao thông của lực lượng này.
|
School youth think and act to contribute to reducing traffic accidents
Instruct
Topic: Express your opinion on the issue of school youth thinking and acting to contribute to reducing traffic accidents.
Instructions for homework
a.Open the lesson
Introduction to the problem: Traffic accidents are currently the top concern of the entire society.
b. Body of the article
-Every day that passes, traffic safety bulletins on mass media announce the number of accidents, deaths and injuries. There is no day without it. Traffic accidents are claiming the lives and livelihoods of countless people, leaving pain and burdens on countless families and society. Traffic accidents are more frequent, persistent and terrible than any other disaster - even wars, natural disasters, epidemics... do not "kill" as many people as...
-The State has promulgated the Traffic Law and decrees on traffic safety, built and renovated many traffic works, aiming to improve means of transport on many national, provincial and national highways. urban…
-Traffic accidents in the past few years have decreased, but not significantly. And that's not a certain result either. There are still people dead, people injured... Occasionally there are tragic, horrifying classic car accidents.
+ Life is getting higher and higher, there are more and more means of transport and the speed is also greater...
+ Population increases, traffic participants also increase
+ Meanwhile, the development of traffic infrastructure, although given attention, has not been able to keep up. Roads become narrow and quickly deteriorate and become damaged...
+ But the most important cause is still people's lack of awareness when participating in traffic. People who lack understanding of traffic laws, lack culture, have a hot temper, are rude... can easily become "villains on the street"... No matter how careful a pedestrian is, it is difficult to avoid encountering them. disaster.
-Proposed solution: Minimizing traffic accidents requires the synchronization of many solutions.
+ The state needs to invest more in traffic and strictly manage the quality of traffic construction.
+ Authorities need to check more frequently and closely.
+ Traffic safety education and propaganda needs to be more diverse and popular.
+ The most effective and certain solution is to raise awareness of traffic participants. This is the most difficult challenge, because changing consciousness for people who lack consciousness is never easy.
c. Conclusion
+ School youth are a large and active propaganda force. Every student joins hands to contribute to propagating traffic safety and protecting traffic works, the scope and effectiveness of education will be great.
+ Students are also a large force participating in traffic. Whether the traffic situation is more complicated or not, largely depends on this force's awareness of obeying traffic rules.
|
Tác giả Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến (1835-1909) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc. Ông để lại nhiều bài thơ nói về tình bạn: bạn cùng quê, bạn đồng học, bạn đồng khoa…
“Ai lên thăm hỏi bác Châu Cầu
Lụt lội năm nay bác ở đâu…”
(Lụt hỏi thăm bạn)
“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…”
(Khóc Dương Khuê)
Châu cầu, Dương Khuê là hai bạn đồng khoa của Nguyễn Khuyến. Bài “Bạn đến chơi nhà” là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của ông, nói lên một tình bạn đẹp.
Câu nhập đề rất tự nhiên, như một lời nói mộc mạc của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp lại bạn. Lời chao vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng không xiết:
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà”.
Chữ “bác” gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng, một cách xưng hô thân tình. Đằng sau câu thơ – lời chào hỏi – có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoé mắt đôi bạn già.
“Đã bấy lâu nay” là bao năm tháng? Tính thời gian không được xác định cụ thể, nhưng chắc chắn là đã khá lâu, vì sức yếu, tuổi già… nên xiết bao đợi chờ, mong nhớ. Bộ phận trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên đầu câu thơ diễn tả sự xac cáhc nhớ mong, làm nổi bật ý thơ: niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn. Trong bài thơ “Khóc Dương Khuê”, có một chi tiết giúp ta cảm nhận được một phần nào cái hay, cái tình ẩn chứa trong câu nhập đề:
“Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần,
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”.
Chữ “bác” được nói đến trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” là bạn chí thân, ở xa, lâu ngày mới gặp nên Nguyễn Khuyến rất mừng và cảm động.
Sáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh. Một ý thơ bao trùm: Đã lâu ngày bạn mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây? Một tình thế khá éo le: “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa”. Chữ “thời” (thì) là một hư từ, rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm thường nhạt nhẽo. Nhưng dưới ngòi bút Tam nguyên Yên Đổ, nó trở nên thanh thoát tự nhiên vô cùng, chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, điêu luyện.
“Chín sào tư thổ là nơi ở,
Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà”.
(Ngày xuân dạy các con – 1)
Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói, một lối biểu cảm: Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân! Có ao và cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu… Bức tranh vườn Bùi thân thuộc hiện lên sống động, vui tươi. Một nếp sống thong dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch, ấm áp cây đời và tình người rất đáng tự hào. Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn ra thăm vườn cây ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về quê ở ẩn. Phép đối hợp cách, chặt chẽ; cảnh với cảnh, thượng hạ, trắc – bằng phân minh, tạo nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi lời thơ cân xứng, hoà hợp như cảnh vườn tược xinh xắn, hữu tình:
“Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà”.
Dân gian có câu: “Khách đến chơi nhà khong gà cũng vịt”. Qua các câu thơ trên, ta thấy Nguyễn Khuyến đang giãi bày với bạn: trong nhà ngoài vườn có bao nhiêu thứ, nhưng thực ra chẳng có gì để thiết bạn, đãi bạn vì tất cả mọi thứ, mọi thức chưa đến lúc, đến thời! Câu thơ thứ bảy tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng định luôn cái “không có”:
Phải chăng cái nghèo của cụ Tam nguyên Yên Đổ đã đến mức ấy ư? “Vẻ chi một mớ trầu cay” (ca dao). Nhà thơ đã thậm xưng hoá cái nghèo, thi vị hoá cái nghèo. Một ông quan to triều Nguyễn về quê ở ẩn, với một cơ ngơi “chín sào tư thổ là nơi ở” thì không thể “miếng trầu là đầu câu chuyện” để tiếp bạn cũng “không có”. Đây là một lời thơ hóm hỉnh, pha chút tự trào vui vui, để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của thực đan Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm làng quê hương.
Câu kết là một sự “bùng nổ” về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao, cỗ đầy, cao lương mĩ vị, cơm gà cá gỏi, mà chỉ có một tấm lòng, một tình bạn chân thành, thắm thiết:
“Bác đến chơi đây, ta với ta”.
Lần thứ hai, chữ “bác” đã xuất hiện trong bài thơ, thể hiện mọt sự trìu mến, kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, không quản đường sá xa xôi đến thăm tôi, còn gì quý hoá bằng! Tình bạn là trên hết. Không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm, tri kỉ. Mọi cái đều “không có” nhưng lại “có”; tình bằng hữu thân thiết. Chữ “ta” là đại từ nhẵnng, trong bài thơ này là “tôi”, là “bác”, là “hai chúng ta”, không có gì cách bức nữa. Cụm từ “ta với ta” biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn, toả rộng trong không gian và thời gian. Với cụm từ “ta với ta” trong câu thơ “Một mảnh tình riêng ta với ta” của Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách ly hương khi đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, còn ở đây, trong câu thơ của Nguyễn Khuyến lại ấm áp tình đời và sau nặng tình bạn. Qua đó, ta cảm nhận được phần nào tính cá thể hoá cua ngôn ngữ và sắc điệu trữ tình tạo nên giá trị văn chương trong những bài thơ cổ.
“Từ trước bảng vàng nhà sẵn có,
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi”
(“Gửi bác Châu Cầu”)
“Đến thăm bác, bác đang đau ốm,
vừa thấy tôi, bác nhổm dậy ngay.
Bác bệnh tật, tôi yếu gầy.
Giao du rồi biết sau này ra sao?”
(“Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương”)
Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, niêm luật, đối chặt chẽ, hợp cách. Ngôn ngữ thuần nôm, không có một từ Hán – Việt nào, đọc lên nghe thanh thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên. Ta có cảm giác như Nguyễn Khuyến xuất thân thành chương. Đặc biệt bố cục bài thơ không theo qui cách; đề, thực, luận, kết – mà lại cấu trúc theo: (1+6+1) câu đầu nói lên niềm vui khi bạn đến; 6 câu giữa hóm hỉnh, cười vui không có gì để tiếp bạn; câu cuối chỉ có tình bạn đẹp mà thôi!
Bài thơ nôm khó quên này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bằng hữu thâm giao, chân tình, một tấm lòng hồn hậu, đẹp đẽ. Tình bạn của Nguyễn Khuyến trong sáng, thanh bạch, đối lập với nhan tình thế thái “còn bạc, còn tiền, còn đệ tử – Hết cơm hết rượu hết ông tôi” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kịch liệt lên án. Hai nhà thơ sống cách nhau mấy trăm năm mà có chung một tâm hồn lớn: nhân hậu, thuỷ chung, thanh bạch. Tâm hồn đó, tấm lòng đó của tiền nhân đối với ngày nay vẫn xứng đáng là tấm gương sáng để mọi người soi chung. Nguyễn Khuyến không những là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà còn là nhà thơ của tình bạn trong sáng, thuỷ chung và cao đẹp rất đáng yêu, đáng kính.
|
Author Nguyen Khuyen
Nguyen Khuyen (1835-1909) is the nation's outstanding Nom poet. He left behind many poems about friendship: friends from the same hometown, classmates, classmates...
“Who came to visit Uncle Chau Cau?
Where are you when it's flooded this year..."
(Flood asks for you)
“Uncle Duong, that's enough
The gentle cloudy water touches my heart..."
(Crying Duong Khue)
Chau Cau and Duong Khue are two classmates of Nguyen Khuyen. The song "You come to visit" is one of his unique Nom poems, expressing a beautiful friendship.
The introduction is very natural, like a simple statement from a poet after many days of seeing you again. The words were enthusiastic, expressing unspeakable joy:
"It's been a long time since you came home."
The word "uncle" evokes a warm, friendly and respectful attitude, a friendly way of addressing. Behind the poem - the greeting - there may be tears welling up in the corners of the old couple's eyes.
How many years does "it's been a long time" mean? The time has not been specifically determined, but it has certainly been quite a long time, because of weakness, old age... so much waiting and longing. The adverbial part of time is placed at the beginning of the poem to describe the longing for separation, highlighting the poetic idea: the emotion and infinite joy of seeing you again. In the poem "Crying Duong Khue", there is a detail that helps us feel some of the beauty and love hidden in the introductory sentence:
“If I want to travel again, I will grow old and lazy,
I met you once three years ago,
Hold hands and ask questions near and far
I'm glad that you're still in good spirits."
The word "uncle" mentioned in the poem "Friend comes to visit" is a close friend who lives far away and has not seen each other for a long time, so Nguyen Khuyen was very happy and touched.
The next six verses exude a humorous smile. One overarching poetic idea: It's been a long time since you last came to visit, what should I get for you? A rather unfortunate situation: "The children are away, the market is far away." The word "tense" is a fictional word that rarely appears in poetry because it easily falls into bland banality. But under the pen of Tam Nguyen Yen Do, it becomes extremely natural and elegant, proving that he has a mature and skilled artistic spirit.
“Nine acres of land is the place to live,
A bundle of broken letters is a family karma."
(Spring day teaches children – 1)
Parts of fact and argument, the systematic nature of poetic language is very strict, consistent in one way of speaking, one way of expression: Having everything but still not having anything to treat to close friends! There are ponds and fish, gardens and chickens, eggplants and mustard greens, luffa and gourds... The familiar picture of Bui's garden appears lively and cheerful. A simple, diligent, and lovely lifestyle. A life of purity, warmth, and human love is something to be proud of. We feel like Nguyen Khuyen is taking his friend's hand to visit the garden and fish pond, enjoying the rustic pleasures of a mandarin returning to his hometown to live in seclusion. The parallelism is proper and strict; scene with scene, upper and lower, horizontal - with distinction, creating a gentle, joyful poetic voice, symmetrical and harmonious lyrics like a lovely, charming garden scene:
“The pond is deep and the water is deep, so you can fish wisely
Large garden fence sparse, hard chase chickens".
There is a folk saying: "Guests who come to visit the house are neither chickens nor ducks". Through the above verses, we see that Nguyen Khuyen is confiding to his friend: there are many things in the house and garden, but in fact there is nothing to treat you to or treat you to because everything, everything has not yet arrived. time! The seventh verse continues and expands the above poetic idea, affirming the "nothing":
Has Mr. Tam Nguyen Yen Do's poverty reached that level? "What does a bunch of spicy betel look like" (folk song). The poet has exalted poverty, poeticized poverty. A high-ranking mandarin of the Nguyen Dynasty returned to his hometown to live in hiding, with a property of "nine acres of private land as his residence", he could not "have a piece of betel as the beginning of the story" to receive friends and also "didn't have any". This is a humorous poem, mixed with a bit of self-deprecation and joy, to express a pure life, a noble soul of a Confucian who refused the salary of the French food, and retired to live a simple life in the village. hometown.
The ending is an "explosion" of ideas and emotions. Receiving you does not need a high tray, a full meal, delicious delicacies, chicken rice and fish salad, but only a heart, a sincere and passionate friendship:
"Uncle, I'm here to play, you and I."
For the second time, the word "uncle" appeared in the poem, expressing affection and respect. He didn't care about his old age and weak health, didn't care about the long distance to visit me, what could be more precious than that! Friendship comes first. No material thing can replace true friendship and soulmate. Everything is "not there" but "is"; close friendship. The word "we" is a simple pronoun, in this poem it is "I", "you", "the two of us", there is nothing more pressing. The phrase "me and me" expresses a complete, overflowing joy that settles in the soul, spreading throughout space and time. With the phrase "me and me" in the poem "A piece of love between you and me" by Ba Huyen Thanh Quan, there is the lonely sadness of the exile when standing on the top of Ngang pass at sunset, but here, in the verse Nguyen Khuyen's poetry is warm with love and then heavy with friendship. Through that, we can partly feel the individualization of language and lyrical tones that create literary value in ancient poems.
“Since before, the house's gold table was available,
It's just inside you and outside me."
(“To Uncle Chau Cau”)
“I came to visit my uncle, he is sick.
As soon as he saw me, he stood up immediately.
Uncle is sick, I am weak and thin.
Let's meet and know what will happen in the future?
(“Sending my regards to Minister Duong”)
The poem is written in the form of seven-word, eight-syllable verse, with rules, closely parallel, and appropriate. The language is pure, without a single Sino-Vietnamese word, reading it sounds elegant, gentle, and natural. I feel like Nguyen Khuyen came from a strong background. In particular, the poem's layout is irregular; topic, fact, conclusion, conclusion - but structured as follows: (1+6+1) the first sentence speaks of the joy when you arrive; The middle 6 sentences are humorous and laugh out loud with nothing to welcome you; The last sentence only has beautiful friendship!
This unforgettable poem shows a beautiful poetic soul, a deep and sincere friendship, a kind and beautiful heart. Nguyen Khuyen's friendship is pure and honest, in contrast to the situation of "still money, money, and disciples - I'm out of rice, out of wine, out of my grandfather" that Nguyen Binh Khiem vehemently condemned. The two poets lived several hundred years apart but shared the same great soul: kindness, loyalty, and purity. That soul, that heart of our ancestors still deserves to be a shining example for everyone to look at today. Nguyen Khuyen is not only a poet of Vietnamese sceneries but also a poet of pure, loyal and beautiful friendship that is very lovely and respectable.
|
Tác giả, tác phẩm, Phân tích bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương
Tác giả, tác phẩm
Trần Tế Xương (1870 – 1907), là một nhân tài để lại sự nghiệp thơ ca bất tử nhưng cuộc đời lại bất hạnh, ngắn ngủi.
Hai mảng thơ trào phúng , trữ tình viết về quê hương, đất nước, con người đặc biệt có những sáng tạo khi khắc họa chân dung người phụ nữ.
Bài thơ viết về bà Tú, người vợ chịu thương chịu khó của ông.
Phân tích tác phẩm
a. Hai câu đề
“quanh năm buôn bán ở mom sông/ nuôi đủ năm con với một chồng” là lời kể về công việc làm ăn lo toan cho gia đình của bà Tú.
“Quanh năm” chỉ thời gian suốt cả năm không kể ngày mưa hay nắng, quanh năm còn là vòng xoay liên tục của thời gian, từ năm này qua năm khác.
Địa điểm mà công việc:
+ Mom sông: phần đất nhô ra ở phía lòng sông, nơi chênh vênh nguy hiểm.
+ buôn bán: công việc đầy bon chen, mặc cả giữ chốn đông người.
Sự tri ân của ông dành cho bà: “nuôi đủ năm con với một chồng”
+ Nuôi đủ: không thừa, không thiếu thốn
+Cách đếm: năm con một chồng cho thấy bà Tú phải một mình gánh vác cả gia đình 6 người chưa kể bản thân mình.
Qua câu thơ hình ảnh bà Tú tảo tần hiện lên rõ nét, bà nuôi đủ ở đây không chỉ là đủ ăn đủ mặc cho các con mà còn đủ để ông tiêu pha chuyện đèn sách cả những thú ăn chơi của những kẻ sĩ ngày xưa. Trong cái thời buổi khó khăn, một mình buôn bán lo thân đã vất vả, đằng này lại nuôi đủ thêm 6 miệng ăn. Nỗi chua chát ấy được nhà thơ thể hiện khôi hài thông qua hình ảnh “năm con với một chồng”. Ông đánh đồng bản thân mình là một thứ con đặc biệt, đứa con này lại đặt ngang hàng với 5 đứa còn lại. Tú Xương vẽ nên hình ảnh đôi gánh hàng mà bà Tú gành hằng ngày, một bên là 5 con một bên là chồng. Tự trách bản thân là gánh nặng cho vợ, ông cũng gửi niềm tri ân của mình đến bà Tú một cách kín đáo.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ eo sèo mặt nước buổi đò đông” cảnh làm ăn vất vả mưu sinh của bà Tú.
“Lặn lội thân cò” hình ảnh thân cò, cái cò trong ca dao xuất hiện rất nhiều để chỉ người nông dân nói chúng và người phụ nữ nói riêng vất vả, gian truân…Qua bàn tay sáng tạo của Tú Xương, nó trở thành thân cò chỉ bà Tú, không còn là một cánh cò nào đấy mơ hồ về số kiếp con người, thân cò chỉ thân phận cụ thể, nỗi đau cụ thể.
So với ca dao hình ảnh thân cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của thời gian mà còn cái rợn ngợp vô cùng của không gian “khi quãng vắng” chỉ thời điểm vắng vẻ, nguy hiểm ở một nơi hẻo lánh.
Biện pháp đảo ngữ “lặn lội” lên trước “thân cò” nhấn mạnh sự vất vả nhọc nhằn của công việc buôn bán.
“Eo èo mặt nước” từ láy eo sèo chỉ âm thanh nhốn nhào, ồn ào của buổi chợ trong đó có lời qua tiếng lại, mặc cả bán mua.
“Buổi đò đông” Ca dao có câu” Con ơi nhớ lấy câu này, sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” để nhắc nhở chuyến đò đông ẩn chứa nhiều nguy hiểm. Vậy mà, bà phải buôn bán chốn đò đông.
Hai câu thơ sử dụng biệp pháp đối lập “lặn lội thân cò ó eo sèo mặt nước” “buổi đò đông ó nơi quãng vắng” để làm nổi bật tính chất công việc của bà Tú.
“Một duyên hai nợ, âu đành phận/ năm nắng mười mưa dám quản công” cảnh đời éo le oái oăm bà Tú phải chịu.
Hai câu thơ Tú Xương sử dụng hai thành ngữ “một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa”
+ “Một duyên hai nợ” theo triết trí nhà phật, con người gặp được nhau, đến với nhau là duyên nhưng sống với nhau thì do nợ. Bà Tú đến với ông Tú duyên chỉ có một mà nợ có đến hai, chứng tỏ bà Tú phải chịu nhiều thiệt thòi, éo le để trả nợ ân tình.
+ “năm nắng mười mưa” số đếm năm mười tăng theo cấp số nhân như muốn nói bà Tú sống với ông Tú phải chịu nhiều vất vả, nỗi vất vả ấy ngày một tăng dần.
+ “Âu đành phận, dám quản công” chỉ thái độ cam chịu, chấp nhận số phận của bà Tú, cực khổ thế, gian nan là thế mà bà nào dám quản công.
Ông Tú lên tiếng nói hộ vợ mình nỗi cực nhọc, đắng cay của cuộc đời, ấy cũng là nỗi dằn vặt bấy lâu nay của ông, một kẻ sĩ chí lớn nhưng phải ngửa tay xin tiền vợ tiêu xài. Lời thơ như một tiếng thở dài chua xót, nặng nề. Qua đó, ta thấy được nỗi lòng của ông Tú, hơn ai hết ông là người thấu hiểu, cảm thông và yêu thương vợ mình.
d. Hai câu kết
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ có chồng hờ hững cũng như không” là tiếng chủi mình, chửi đời.
“Thói đời” tác giả đang nhắc đến là những định kiến và tư tưởng khắc khe về người phụ nữ, phụ nữ phải tam tòng, tứ đức, công dung ngôn hạnh. Họ đặt ra cho người phụ nữ quá nhiều đòi hỏi nhưng lại cướp mất đi của họ nhiều quyền lợi.
“Cha mẹ” tác giả vận dụng lời ăn tiếng nói của dân gian vào thơ tạo nên một giọng điệu thơ gân gũi, dung dị rất đời thường nhưng cũng chứa đựng nhiều suy ngẫm.
“Ăn ở bạc” tác giả oán trách thói đời bạc bẽo, bà Tú vì nợ mà phải gánh vác trách nhiệm nặng nề, nhưng không phải vì thế ông đổ hết cho duyên số. Tú Xương chửi chính bản thân mình làm chồng mà “hờ hững” để vợ gánh vác một mình.
Tú Xương sòng phẳng với cuộc đời và cũng sòng phẳng nhìn nhận bản thân, ông không tiếc lời mạt sát, chửi chính mình. Qua đó ta thấy một Tú Xương không hề hờ hững như ông đã nói mà là một ông Tú nặng tình đời, tình người, có nhân cách cao đẹp, đáng quý hơn là tấm lòng chân thành với vợ.
Nghệ thuật
Vận dụng nhiều ca dao, thành ngữ, khẩu ngữ dân gian và sáng tạo rất thành công.
Ý nghĩa tác phẩm
Khắc họa chân dung người phụ nữ trong xã hội phong kiến tảo tần, đảm đang thương yêu hi sinh mình vì gia đình, qua đó thấy được tấm lòng trân quý của người chồng dành cho vợ.
|
Author, work, Analysis of the poem Loving Wife by Tran Te Xuong
Author, work
Tran Te Xuong (1870 - 1907), was a talented person who left behind an immortal poetic career, but his life was unhappy and short.
Two pieces of satirical and lyrical poetry written about homeland, country, and people are especially creative when portraying women.
The poem is written about Mrs. Tu, his loving and hard-working wife.
Analysis of works
a. Two sentences
"Doing business all year round at mom river/ raising five children with one husband" is an account of Mrs. Tu's work to take care of her family.
“All year round” refers to the time throughout the year regardless of rainy or sunny days. Year round is also a continuous rotation of time, from year to year.
Location where work:
+ River slope: protruding land on the river bed, a dangerous precarious place.
+ trading: work is full of hustle and bustle, bargaining in crowded places.
His gratitude to her: "raising five children with one husband"
+ Sufficient nourishment: no excess, no shortage
+Counting method: five children, one husband, shows that Mrs. Tu has to take care of the whole family of 6 people alone, not including herself.
Through the poem, the image of Mrs. Tu Tao Qin appears clearly, she raised enough here not only enough to eat and clothe her children but also enough for him to spend time chatting, reading, and enjoying the entertainment of the scholars of the past. . In these difficult times, it was hard enough to do business alone, but here I was able to feed 6 more mouths. That bitterness is humorously expressed by the poet through the image of "five children and one husband". He considered himself a special child, this child was on par with the other 5 children. Tu Xuong paints the image of a pair of goods that Mrs. Tu carries every day, on one side is her 5 children and on the other side is her husband. Blaming himself for being a burden to his wife, he also secretly sent his gratitude to Mrs. Tu.
"Diving like a stork in the desert / snaking the water surface on a crowded boat" is a scene of Mrs. Tu's hard work to make a living.
"Diving with the body of a stork" the image of a stork's body and a stork appear a lot in folk songs to refer to the hardships and hardships of farmers and women in particular... Through the creative hands of Tu Xuong, it became The stork body refers to Mrs. Tu, no longer some stork wing that is vague about human destiny, the stork body refers to a specific fate, specific pain.
Compared to folk songs, the image of a stork's body in Tu Xuong's poetry not only appears in the horror of time but also in the extreme horror of space. "When it's empty" it refers to a lonely and dangerous time in a remote place. avoid.
The inversion of "diving" before "stork's body" emphasizes the hardship of trading work.
"Water surface" is a word that refers to the hustle and bustle of the market, including the exchange of words and bargaining.
"The crowded ferry" There is a folk song saying "My child, remember this saying, the river is deep, don't wade, the ferry is full, don't cross" to remind that the winter ferry contains many dangers. Yet, she had to do business in crowded places.
The two verses use the contrasting meter "diving with the eagle's body on the water's surface" and "the crowded osprey boat in the deserted place" to highlight the nature of Ms. Tu's work.
"One fate, two debts, I can't help but dare to take care of things in years of sunshine and ten days of rain" and the miserable life that Mrs. Tu had to endure.
Two lines of Tu Xuong's poem use two idioms: "one fate, two debts, five days of sunshine and ten days of rain"
+ "One fate, two debts" according to Buddhist philosophy, people meeting each other and coming together is fate, but living together is due to debt. Mrs. Tu came to Mr. Tu with only one predestined relationship but two debts, proving that Mrs. Tu had to endure many disadvantages and hardships to repay her debt of gratitude.
+ "five sunny and ten rainy" the count of five ten increases exponentially as if to say that Mrs. Tu living with Mr. Tu has to endure many hardships, and that hardship gradually increases.
+ "I accept my fate, I dare to manage the public" refers to Ms. Tu's attitude of resignation and acceptance of her fate. It is so miserable and difficult that she does not dare to manage the public.
Mr. Tu spoke up for his wife about the hardships and bitterness of life, which was also his long-standing torment, a man with great ambition but had to ask his wife for money to spend. The poem is like a bitter, heavy sigh. Through that, we can see Mr. Tu's feelings, more than anyone else he understands, sympathizes and loves his wife.
d. Two concluding sentences
"Parents who are bad at life/having a husband who is indifferent is the same as nothing" is the language of insulting oneself and cursing life.
The "worldly habits" the author is referring to are prejudices and strict ideas about women, women must have three obediences, four virtues, and good manners. They place too many demands on women but rob them of many rights.
The author's "parents" apply folk speech to poetry, creating a poetic tone that is close and simple, very everyday but also contains many thoughts.
"Living at money" the author complains about ungrateful life habits, Mrs. Tu has to shoulder heavy responsibilities because of debt, but that's not why he blames everything on fate. Tu Xuong cursed himself as a husband and "indifferently" left his wife to shoulder the burden alone.
Tu Xuong was fair with life and also fair in his views of himself. He did not hesitate to insult or curse himself. Through this, we see a Tu Xuong who is not indifferent as he said, but a Tu Xuong who is passionate about life and humanity, has a noble personality, and is more precious than his sincere heart towards his wife.
Art
Applying many folk songs, idioms, and folk sayings is very successful.
Meaning of the work
Portraying the portrait of a woman in a feudal society, brave and loving, sacrificing herself for her family, thereby showing the husband's precious heart for his wife.
|
Tác giả, tác phẩm, phân tích bài thơ “Câu cá mùa thu” Nguyễn Khuyến
Tác giả, tác phẩm
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là nhà nho yêu nước, có cốt cách thanh cao nhưng bất lực trước thế sự.
Được mệnh danh là nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam.
Bài thơ nằm trong chùm thơ Thu – Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh
Đề tài viết về mùa thu, đề tài quen thuộc trong thơ ca Trung đại.
Phân tích tác phẩm
a. Bức tranh mùa thu
Bức tranh thu rất điển hình cho mùa thu của làng quê Bắc bộ.
+ Ao thu, gió thu và cả trời thu đều rất độc đáo vì được lựa chọn rất khéo léo qua cách dùng từ của Nguyễn Khuyến.
+ Nhà thơ đã hòa mình vào cuộc sống vùng nông thôn Bắc bộ nên hơn ai hết ông cảm nhận những thay đổi của cảnh sắc rất tinh tế, ông bắt được những khoảnh khắc rất đắc của thiên nhiên.
Cảnh vật hiện lên sinh động quan nhiều giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác..
+ Màu sắc: nước trong veo, sóng biếc, lá vàng, trời xanh ngắt.
+ Chuyển động: lá khẽ đưa vèo, sóng hơi gợn tí, mây lơ lửng
+ Cảnh vật hài hòa: ao nhỏ – thuyền bé; gió nhẹ – sóng gợn, trời xanh – nước trong, khách vắng teo – chủ thể trầm lặng.
+ sự phối màu có chủ ý: xanh trời, xanh nước, xanh tre, xanh bèo, xanh sóng và chỉ duy màu vàng của lá.
Cảnh vật được tả rất tĩnh: không gian yên ắng, ít người, vắng khách, những chuyển động rất nhẹ nhàng không làm cho cảnh vật động mà còn tĩnh hơn cả tiếng cá đớp mồi cũng hư hư thực thực.
Toát lên sự tĩnh lặng, yêm ái của làng cảnh vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Đó là nơi nhà thơ ở ẩn, thoát tục, tránh những bon chen của cuộc đời, xa lìa danh vọng.
b.Tình thu
Trong cả bài thơ chỉ thấy bóng dáng con người ở cuối “tựa gối buông cần lâu chẳng được/ cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Chúng ta thấy cảnh vật hiện lên qua đôi mắt của chủ thể đang ngồi câu cá. Thế nhưng dường như người câu cá lại không tha thiết với chiếc cần câu của mình bởi trong lòng nặng nỗi niềm, đó là tình thu.
Chỉ có thể là một cõi lòng tĩnh lặng, yên ắng mới cảm nhận được sự tĩnh lặng của cảnh vật và tinh tế phát hiện những cử động rất khẽ của không gian. Có thể nói cảnh vật của Thu điếu là cõi lòng của thi nhân, cõi lòng của thi nhân cũng chính là hơi thở của làng quê vùng chiêm trũng.
Không gian yên ắng, tĩnh lặng chứa đựng nỗi niềm tâm sự, đó là nỗi ưu hoài, phiền muộn, cô quạnh chứa đựng trong cái máu xanh ngắt lạnh lẽo của cảnh vật.
Dù ở ẩn để lánh xa thói đời, nhưng thực sự người ẩn sĩ Nguyễn Khuyến lại không thể ung dung câu cá, ngắm mây trời. Trong lòng ông còn u hoài những nỗi buồn về thời cuộc, sự nuối tiếc, niềm mong chời và nỗi hoài nghi.
Tất cả xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân và nỗi khoắc khoải khôn nguôi của một kẻ sĩ bất lực trước thời cuộc.
Nghệ thuật
Bút pháp thơ Đường tả cảnh ngụ tình, thi trung hữu họa
Sử dụng biện pháp đối lập tài tình.
Ý nghĩa văn bản
Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên làng quê Bắc bộ vào mùa thu đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương của nhà thơ và nỗi u hoài trước thế sự.
|
Author, work, analysis of the poem "Autumn Fishing" Nguyen Khuyen
Author, work
Nguyen Khuyen (1835 - 1909) was a patriotic Confucian, with a noble personality but powerless in the face of world affairs.
Known as the poet of Vietnamese villagers.
The poem is in the collection of poems Thu - Thu euphoria, Thu dampness, Thu Vinh
The topic of writing is about autumn, a familiar topic in Medieval poetry.
Analysis of works
a. Autumn painting
The autumn picture is very typical for the autumn of Northern villages.
+ The autumn pond, the autumn wind and the autumn sky are all very unique because they were chosen very skillfully through Nguyen Khuyen's use of words.
+ The poet has immersed himself in the life of the Northern countryside, so more than anyone else, he feels the changes in the landscape very subtly, he captures the very best moments of nature.
Scenes appear vividly through many senses such as sight, hearing, touch...
+ Color: clear water, blue waves, yellow leaves, blue sky.
+ Movement: leaves gently sway, waves ripple slightly, clouds float
+ Harmonious landscape: small pond - small boat; gentle breeze - ripples, blue sky - clear water, few guests - quiet subject.
+ intentional color combination: sky blue, water blue, bamboo green, water hyacinth green, wave green and only the yellow color of the leaves.
The scene described is very quiet: the space is quiet, few people, no visitors, very gentle movements do not make the scene move but are even quieter than the sound of fish biting bait which is also false and false.
Exuding the tranquility and serenity of the village scene in the Northern Delta countryside. That is where the poet hides, escapes the world, avoids the hustle and bustle of life, and stays away from fame.
b. Autumn love
In the whole poem, we only see the silhouette of a human being at the end: "If you lean on your knees and let go of the rod for a long time, you won't be able to do it / The fish won't move under the water duck's feet." We see the scene appear through the eyes of the subject sitting fishing. However, it seems that the fisherman is not passionate about his fishing rod because he has a heavy feeling in his heart, which is autumn love.
Only a calm, quiet heart can feel the stillness of the landscape and delicately detect the very slight movements of space. It can be said that the landscape of Thu eu is the poet's heart, the poet's heart is also the breath of the countryside in the lowland area.
The quiet, still space contains feelings of confidence, which are the sadness, sadness, and loneliness contained in the cold blue blood of the landscape.
Even though he lived in seclusion to stay away from worldly habits, the hermit Nguyen Khuyen could not leisurely fish or watch the clouds. In his heart, he was still filled with sadness about the times, regrets, expectations and doubts.
It all comes from the heart of patriotism and love for the people and the endless anxiety of a scholar who is powerless before the times.
Art
Tang's poetic style depicts a scene of love, while the poem depicts a scene
Use clever countermeasures.
Text meaning
The beauty of the natural painting of the Northern countryside in the fall simultaneously shows the poet's love for nature, his homeland, and his melancholy before world events.
|
Tác giả, tác phẩm, ý nghĩa nhan đề bài thơ Tự Tình Hồ Xuân Hương
Tác giả
Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh năm mất) là một thiên tài kì nữ trong làng thơ trung đại Việt Nam nhưng cuộc đời lại éo le, bất hạnh.
Bà là người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh, có học thức lại có nhan sắc đồng thời chúng ta tìm thấy ở bà tâm hồn của người phụ nữ hiện đại thích tự do, phóng khoáng.
Bi kịch cuộc đời của bà lớn nhất là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát tình yêu tự do nhưng lại hai lần làm lẽ.
Chủ đề thơ của bà chủ yếu viết về người phụ nữ bằng cái nhìn của người phụ nữ vừa trào phúng lại vừa trữ tình, vừa ngông nghênh ngạo mạng lại vừa thiết tha chua xót.
Tác phẩm
Bài thơ nằm trong chùm thơ Tự Tình gồm 3 bài: Tự tình I, Tự tình II, Tự tình III
Ý nghĩa nhan đề
Tự tình có nghĩa là bộc lộ tâm tình, tâm tình ở đây không phải che đậy hay vay mượn bất cứ cảnh vật nào để bộc lộ. Xuân Hương nói về chính mình, về nỗi cô đơn của kiếp người, nỗi bất hạnh của kiếp má hồng.
Bài thơ là nỗi tự tình của riêng Xuân Hương nhưng cũng là nỗi đau đáu, bẽ bàng của một lớp phụ nữ bị chèn ép, bị chế độ phong kiến làm cho dang dở, lẻ lo
Tác phẩm làm hiện lên một hình tượng phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa bi thương, phẫn uất lại vừa mạnh mẽ, cố chấp vừa bất hạnh trước tình duyên hẩm hiu nhưng lại tràn đầy nỗi khao khát cháy bỏng hạnh phúc lứa đôi.
5. Nghệ thuật:
– Sử dụng từ ngữ độc đáo, sắc nhọn: đâm, xiên
– Từ tả âm thanh: văng vẳng
– Từ tả cảm giác: trơ trọi, ngán..
– Tả thời gian: xuân đi xuân lại lại
– Sự bé mọn, tầm thường: mảnh tình, san sẻ, tí, con con..
|
Author, work, meaning of the title of the poem Tu Tinh Ho Xuan Huong
Author
Ho Xuan Huong (year of birth and death unknown) was a genius in medieval Vietnamese poetry, but her life was difficult and unhappy.
She is a strong, intelligent, educated and beautiful woman. At the same time, we find in her the soul of a modern woman who likes freedom and generosity.
The greatest tragedy of her life was her desire for marital happiness, her desire for free love, but she did it twice.
The subject of her poetry is mainly written about women from the perspective of a woman who is both satirical and lyrical, both arrogant and arrogant and passionate and bitter.
Work
The poem is part of a series of Self-Love poems including 3 poems: Self-Love I, Self-Love II, Self-Love III
Title meaning
Self-love means revealing feelings, feelings here do not have to be covered up or borrowed from any scene to reveal. Xuan Huong talks about herself, about the loneliness of human life, the unhappiness of the rosy-cheeked life.
The poem is Xuan Huong's own self-love, but it is also the pain and humiliation of a class of women oppressed and left unfinished and alone by the feudal regime.
The work shows an image of women in feudal society who are both sad, angry, strong, stubborn and unhappy in the face of a miserable love, but full of burning desire for marital happiness.
5. Art:
– Use unique, sharp words: stab, skewer
– Words to describe sound: echo
– Words to describe the feeling: lonely, bored..
– Describe time: spring again and again
– Smallness, triviality: piece of love, sharing, tiny, childish..
|
Tác hại của ma túy đối với con người
Hướng dẫn
Tác hại của ma túy đối với con người
Loài người đang từng bước chân vào thế kỉ mới của những thời đại côn gngheej phát triển, gioa thoa văn hóa thì ngày càng có những điểm lợi và hại khiến cho con người phải thực sự thông minh và bản lĩnh mới kiểm soát được. Sự gioa thoa vă hóa, sự thay đổi của cái cũ với cái mới khiến cho ma túy xâm nhập vào đời sống con người. Nó không những khiến cho con người trở nên phụ thuộc sống ảo mà con khiến bao gia đình rơi vào cuộc sống sống không bằng chết
Vây ma túy có nghĩa là gì mà nó lại khiến cho con người lao đầu vào như vậy?
Ma túy chính là chất kích thích khi dùng một lần có thể gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo. ma túy khi đưa vào cơ thể sống sẽ làm thay đổi trạng thái nhận thức và sinh lý. Tên gọi khác của ma túy đôi khi được người ta gọi với cái tên Heeroin. ma túy có chứa các chất tư nhiên tổng hợp có tác dụng lên thần kinh trung ương gây cảm giác như giảm đau, hưng phấn. một khi đã sử dụng có thể khiến con người rất dễ bị nghiện
Trong ma túy thì người ta chia ra làm nhiều loại khác nhau mức độ và tính mạnh yếu của chúng gây ra cho con người cũng khác nhay như ma túy cần sa, thuốc phiện, heroin, ma túy đá. Dấu hiệu của những người nghiện thuốc hoặc lên cơn thèm thuốc đó chính là họ nghiện rồi thì sẽ làm mọi cách để có thuốc nữa, đôi khi có thể vì thèm thuốc mà họ bất chấp tất cả để có thuốc và hít. Chính ma túy là cái lí do gián tiếp khiến đạo đức con người đi đến suy thoái và khác hẳn với chúng ta những con người bình thường, những người nghiện thuốc họ có thể bát chấp tất cả. Nhiều vụ cướp giật, giết người cướp của cũng từ đây mà ra. Khi trong gia đình có một người nghiện không những họ cố bán tất cả những thứ có giá trị trong gia đình để có thuốc, mà bên cạnh đó mọi người còn xa lánh.
Ma túy là hiểm họa của toàn nhân loại. nó đã trở thành chất cấm trong mọi hình thức vận chuyển và tàng trữ. Ma túy đã gây ra biết bao nhiêu hiểm họa cũng như tác hại cho đời sống con người và suy thoái đạo đưucs. Chính vì thế chúng ta, mỗi con người nên nâng cao ý thức của bản thân để chính mình và những người thân yêu không trở thành nạn nhân của ma túy.
Nguồn: Bài văn hay
|
Harmful effects of drugs on humans
Instruct
Harmful effects of drugs on humans
Humanity is gradually entering a new century of technological development and cultural cross-fertilization, and there are increasingly advantages and disadvantages that people must be truly intelligent and brave to control. Cultural interference, the change of the old with the new, causes drugs to penetrate human life. It not only makes people become dependent on virtual life, but also causes many families to fall into a life that is not equal to death
What does drug addiction mean that it causes people to rush into it like that?
Drugs are stimulants that can cause addiction when used once, whether of natural or artificial origin. Drugs when introduced into the living body will change cognitive and physiological states. Another name for the drug is sometimes called Heeroin. Drugs contain synthetic natural substances that act on the central nervous system, causing feelings such as pain relief and euphoria. Once used, it can make people very susceptible to addiction
Drugs are divided into many different types, the level and strength of their effects on humans are also different, such as marijuana, opium, heroin, and crystal meth. The sign of people who are addicted to drugs or have drug cravings is that once they are addicted, they will do everything to get more drugs. Sometimes because of drug cravings, they will do anything to get drugs and inhale them. Drugs are the indirect reason that causes human morality to decline and is different from us normal people, drug addicts can accept everything. Many robberies, murders and robberies also come from here. When there is an addict in the family, not only do they try to sell all the valuable things in the family to get drugs, but besides that, everyone also shuns them.
Drugs are a danger to all humanity. It has become a banned substance in all forms of transportation and storage. Drugs have caused many dangers as well as harm to human life and moral degradation. That's why we, each person, should raise our awareness so that we and our loved ones do not become victims of drugs.
Source: Good article
|
Tác hại của nói chuyện trong giờ học
Hướng dẫn
Đề: Nghị luận xã hội về Tác hại của nói chuyện trong giờ học
Đất nước ta đang trên đường phát triển, phát triển về kinh tế – xã hội và song song với đó là phát triển về nền văn hóa, nền văn minh nước nhà. Lối sống văn hóa, văn minh đã phát triển và lan tỏa rộng khắp xã hội ta. Thế nhưng đâu đó, vẫn còn những hành vi không phù hợp với nền văn hóa tiên tiến nước ta tồn tại. Đặc biệt, trong một môi trường đầy tri thức như trường học thì những hành vị đó lại tồn tại một cách khá phổ biến, đó là quay cóp, chửi tục,…nhưng hành động thường gặp nhất vẫn là nói chuyện riêng trong giờ học.
Nói chuyện riêng trong giờ học, tức là họ – những người học sinh – nói, bàn bạc và thảo luận về những vấn đề rất “trọng đại, lớn lao” ko hề liên quan đến những gì mà người giáo viên đang giảng dạy trên lớp, chẳng hạn như “bộ phim hôm qua như thế nào”, “kiểu tóc mới của mình ra sao”,…
Và cái việc bàn luận những sự việc như thế trong giờ học dường như đã trở thành “chuyện thường ngày” ở hầu hết các trường học, lớp học ở nước ta.
Để rồi những người học sinh đấy sẽ phải bỏ lỡ một phần hoăc tất cả những kiến thức, thông tin về bài học mà người giáo viên đang giảng dạy. Và mọi thứ nào chỉ có “họ làm họ chịu” mà ngay cả những người bạn ngồi xung quanh họ cũng phải bị ảnh hưởng một phần từ những tiếng ồn do họ gây ra.
Trên tất cả, hành vi nói chuyện riêng trong giờ học có thể nói là một hành vi vô cùng vô văn hóa, thật khó có thể chấp nhận dc khi nó được thực hiện bởi những người đã và đang học văn hóa trong trường lớp. Hành vi này vô văn hóa ở chỗ những người thực hiện nó, tức là đã không dành sự tôn trọng cho người đang truyền giảng kiến thức cho mình, cho những người xung quanh mình và cho cả chính bản thân mình.
Hành vi này là kết quả của sự kết hợp giữa những người học sinh đã đánh mất đi lòng tự trọng, đã đánh mất đi tinh thần hiếu học với những người cầm phấn có một phương pháp giảng dạy rất ư là “hấp dẫn”, “hấp dẫn” đến nỗi khiến người học khó có thể mà tập trung vào bài học được. Một tiết học mà người dạy vô cùng nhàm chán, khô khan thì làm sao có thể khiến học sinh chú ý và một học sinh lười biếng, không có lòng tự trọng thì dù tiết học có hay, sinh động đến thế nào đi chăng nữa thì cũng ko thể khiến người học sinh đó chú ý được.
Để hành vi vô văn hóa này được loại bỏ hoàn toàn ra khỏi môi trường tri thức trường lớp thì trước hết, mỗi người học sinh cần phải biết đến lòng tự trọng và phải xác định được mục đích học tập là gì để từ đó xác định được học tập như thế nào ở trong lớp học. Ngoài ra, những người đứng lớp cũng phải tự xem xét lại phương pháp giảng dạy của mình tại sao lại không thể thu hút được sự chú ý của học sinh để từ đó sữa chữa, rút kinh nghiệm. Và cuối cùng thì sự phản đối, thái độ đấu tranh của các bạn khi hặp những hành vi này cũng khiến nó trở nên dần dần biến mất.
|
Harmful effects of talking during class
Instruct
Topic: Social discussion on the harmful effects of talking during class
Our country is on the path of development, socio-economic development and parallel with that is the development of the country's culture and civilization. A cultural and civilized lifestyle has developed and spread throughout our society. But somewhere, there are still behaviors that are inconsistent with our country's advanced culture. In particular, in an environment full of knowledge like school, these behaviors exist quite commonly, such as copying, cursing, etc., but the most common action is still talking in private during class time. .
Talking privately during class means they - the students - talk, discuss and discuss very "important, great" issues that have nothing to do with what the teacher is teaching. class, such as “how was the movie yesterday”, “how is my new hairstyle”,…
And discussing such things during class seems to have become a "daily thing" in most schools and classrooms in our country.
Then those students will have to miss part or all of the knowledge and information about the lesson the teacher is teaching. And everything is just "they do it for them" but even the friends sitting around them must be partly affected by the noise they make.
Above all, the act of talking privately during class can be said to be an extremely uncultured behavior, it is difficult to accept when it is done by people who have been learning culture in school. This behavior is uncultured in that the people who do it do not have respect for the person who is imparting knowledge to them, to the people around them, and to themselves.
This behavior is the result of a combination of students who have lost their self-esteem and studious spirit and those who hold chalk and have a very "attractive" teaching method. So "attractive" that it makes it difficult for learners to concentrate on the lesson. A lesson in which the teacher is extremely boring and dry will not be able to attract students' attention, and a lazy student with no self-esteem, no matter how good and lively the lesson is. It's impossible to get that student's attention.
In order for this uncultured behavior to be completely eliminated from the school's intellectual environment, first of all, each student needs to know self-esteem and must determine what the purpose of learning is to determine from there. determine how to learn in the classroom. In addition, classroom teachers must also review their teaching methods to see why they cannot attract students' attention so that they can correct and learn from experience. And in the end, your opposition and fighting attitude when encountering these behaviors also causes it to gradually disappear.
|
Tác hại của rượu và thuốc lá
Hướng dẫn
Đề bài: Tác hại của rượu và thuốc lá
Bài làm
Hút thuốc là và uống rươu nhiều là hai kẻ thù lớn nhất của sức khỏe và tuổi thọ con người. trong những năm gần đây, việc hút thuốc lá và lạm dụng rượu bia là hai mối quan tâm hàng đầu trong lĩnh vực y tế vầ bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Trong một năm, số ngày nghi làm việc tăng lên, các bệnh viên ngày càng tăng những bệnh tim phổi, mạch máu…đều có liên quan tới việc hút thuốc và uống rượu. Người ta đã khuyến cáo và chứng minh bằng những chứng cớ khóa học rất cụ thể về mối đe dọa của thuốc lá với đời sống, tuổi thọ của con người. Đặc biệt là tác động mạnh và gần như tức thì trên các bệnh tim mạhc, lao phổi, ung thư. Những người phụ nữ hút thuốc lá và uống rượu lúc mang thai có nguy cơ sinh non, dị tật và khả năng sẩy thai cao.
cả rượu và chất nicotin đều là chết gây nghiện khó kiểm soát. Nhiều người lúc đầu chỉ hút thuốc và uống rượu như là một thói quen nhưng sau đó họ không tự kiểm soát được và trở nên nghiện ngập từ lúc nào.
Tác hại của thuốc lá
Thuốc lá hủy hoại cơ thể do ba chất chính có trong thuốc và khói thuốc lá là nicotin, carbon monoxide, và chất khói thuốc
Carbon monoxide có trong máu làm giảm lưu lượng tuần hoàn máy tới các mô và trong thời gian dài sẽ bị xơ vữa động mạch
Khói thuốc lá là nguyên nhân gây những bệnh phổi mạn tính, ung thư phổi
Thuốc lá và bệnh ung thư
Mối liên quan giữa việc hút thuốc lá và ung thư phổi đã được biết từ rất lâu, 90% người ung thư phổi bị chết đều có hút thuốc lá. Những cơ quan khác cũng bị ung thư do thuốc lá là miệng, hầu, họng, thanh quản, môi, bàng quang…
Hút thuốc lá bằng ống hút xì gà có khả năng giảm lượng khói thuốc hít vào phổi nhưng cũng khó tránh khỏi ung thư miệng và họng
Những nguy cơ khác của việc hút thuốc lá
Rất nhiều người không ý thức được tác hại của việc hút thuốc lá trầm trọng đến mức độ nào
Trước tiên phải kể tới những bệnh mạn tính của đường hô hấp. Nhiều người bị ho thường xuyên đến mức mà người ta gọi là “ho thuốc lá”. Rất nhiều người chết do tâm phế mạn và khỉ thủng phổi
Người hút thuốc lá chắc chắn sẽ chết sớm hơn do các bệnh mạch vành. Họ thường xuyên đau thắt ngực do những cơn thiếu máu cơ tim, nghĩa là những lúc giảm thời lượng máu đến nuôi cơ tim. Nguy cơ ngồi máu cơ tim xảy ra nhiều hơn ở người hút thuốc. Họ cũng dễ bị đột quỵ hơn người bình thường. ngoài ra người hút thuốc lá nhiều cũng dễ bị lóet dạ dày và hành tá tràng.
đơn giản là không hút thuốc.
Nếu bạn không chế ngự được bản thân và không bỏ được thói quan rất xấu nay thì chắc chắc sẽ có nguy cơ bị bệnh cao hơn hẳn những người khác. Nếu cần có thể nhờ đến sự trợ giúp của người thân, bạn bèvà ngay cả các loại kẹo hay chewing gum thay thế thuốc lá. Nhưng, chính bạn sẽ phải là người quyết định bỏ thuốc như khi bạn quyết định hút thuốc.
Rượu và bệnh tật
Uống nhiều rượu và uống thường xuyên rất có hại cho sức khỏe, trước mắt là mắc các chứng bênh vầ gan nặg như gan thoái hóa mỡ, viên gan do rượu, xơ gan, ung thư gan. khi đó, mô gan không còn mịn như bình thường mà gồm toàn những mô xơ và không có chức năng thải ra các chất độc ra khỏi cơ thể.
Uống rượu nhiều làm tăng nguy cơ bệnh huyết áp cao, nhồi máu cơ tim và khả năng đột quỵ cao.
Rượu cũng làm rối loạn tiêu hóa và tăng các bệnh thuộc hệ tiêu hóa như viêm dạ dày, viêm tụy, loét dạ dày, ung thư miệng, lưỡi, hầu, thực quản, ruột. Người uống rượu thường không ăn uống điều độ và rối loạn tiêu hóa nặng.
Uống nhiều rượu lâu dài làm tổn thương não, rối loạn tri thức và ý thức, rối loạn hành vi và cử cỉ, không kiểm soát được bản thân.
Vấn đề xã hội
tệ nạn uống rượu và mối quan tâm chung của toàn xã hội. Rượu là nguyên nhân làm giảm năng suất lao động, gây ra các tệ nạn xã hội, bao lực, gia đình tan vỡ, con cái hư hỏng.Rượu gây tai nạn giao thông và rất nhiều tệ nạn xã hội khác xuất phát từ rượu
Phải coi rượu cũng là một loại thuốc độc hại gây nghiện. Cần giáo dục thanh thiếu niên và nguy hại của rượu. Trước tiên bạn hãy tự tránh cho mình và người thân, bạn bè để bảo vệ và giữ gìn sức khỏe.
|
Harmful effects of alcohol and tobacco
Instruct
Topic: Harmful effects of alcohol and tobacco
Assignment
Smoking and drinking too much alcohol are the two biggest enemies of human health and longevity. In recent years, smoking and alcohol abuse are two leading concerns in the field of health and public health protection. During the year, the number of days off work increases, and hospitals increasingly report heart, lung, and vascular diseases... all related to smoking and drinking alcohol. People have recommended and proven with very specific evidence the threat of tobacco to human life and longevity. Especially strong and almost immediate impact on cardiovascular diseases, tuberculosis, and cancer. Women who smoke and drink alcohol during pregnancy have a high risk of premature birth, birth defects and miscarriage.
Both alcohol and nicotine are addictive and difficult to control. Many people at first just smoke and drink alcohol as a habit, but then they can't control themselves and become addicted.
The harmful effects of tobacco
Cigarettes damage the body due to the three main substances contained in cigarettes and cigarette smoke: nicotine, carbon monoxide, and tobacco smoke.
Carbon monoxide in the blood reduces blood circulation to tissues and in the long term will cause atherosclerosis
Cigarette smoke is the cause of chronic lung diseases and lung cancer
Tobacco and cancer
The relationship between smoking and lung cancer has been known for a long time, 90% of people who die from lung cancer are smokers. Other organs also affected by cancer due to smoking are the mouth, pharynx, larynx, lips, bladder...
Smoking with a cigar tube has the ability to reduce the amount of smoke inhaled into the lungs, but it is also difficult to avoid mouth and throat cancer.
Other risks of smoking
Many people are not aware of how serious the harmful effects of smoking are
First of all, chronic diseases of the respiratory tract must be mentioned. Many people have a cough so frequent that it is called "smoker cough". Many people died from chronic heart failure and punctured lungs
Smokers will certainly die earlier from coronary heart disease. They often have angina due to myocardial ischemia, which means when the amount of blood that reaches the heart muscle is reduced. The risk of myocardial infarction occurs more in smokers. They are also more likely to have a stroke than normal people. In addition, people who smoke a lot are also susceptible to gastric and duodenal ulcers.
simply don't smoke.
If you cannot control yourself and cannot give up this very bad habit, you will certainly have a higher risk of getting sick than others. If necessary, you can ask for help from relatives, friends and even candy or chewing gum to replace cigarettes. But, you will have to be the one who decides to quit smoking just like you decided to smoke.
Alcohol and disease
Drinking a lot of alcohol and drinking regularly is very harmful to your health. In the short term, you will suffer from serious liver diseases such as fatty liver, alcoholic liver disease, cirrhosis, and liver cancer. At that time, liver tissue is no longer as smooth as normal but consists entirely of fibrous tissue and has no function of eliminating toxins from the body.
Drinking too much alcohol increases the risk of high blood pressure, heart attack and stroke.
Alcohol also causes digestive disorders and increases digestive system diseases such as gastritis, pancreatitis, stomach ulcers, cancer of the mouth, tongue, pharynx, esophagus, and intestines. People who drink alcohol often do not eat regularly and have severe digestive disorders.
Long-term heavy drinking causes brain damage, knowledge and consciousness disorders, behavioral and gesture disorders, and loss of self-control.
Social Issues
The evil of drinking alcohol and the general concern of the whole society. Alcohol is the cause of reduced labor productivity, social evils, violence, broken families, and spoiled children. Alcohol causes traffic accidents and many other social evils that stem from alcohol.
Alcohol must also be considered a toxic drug that causes addiction. Need to educate teenagers about the dangers of alcohol. First, please protect yourself and your relatives and friends to protect and preserve your health.
|
Có ý kiến cho rằng: “Hồ Xuân Hương là một phụ nữ nổi loạn, phá phách vì thơ bà cười cợt những định kiến của xã hội phong kiến, những kẻ mũ cao áo rộng mà đạo đức giả, bà cười từ nho sĩ đến tăng lữ và cả vua chúa”. Nhưng có một Hồ Xuân Hương ban ngày phá phách, cười cợt nhưng ban đêm khóc thầm, ngậm ngùi, chua xót. Bài thơ Tự tình II là tâm sự thống thiết của nữ sĩ về cảnh ngộ, số phận của bản thân mình.
Tên gọi bài thơ Tự tình là tự bộc lộ nỗi lòng. Hồ Xuân Hương đã khắc hoạ hiện thực tâm hồn của một người phụ nữ bất hạnh. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương giãi bày tình cảnh cô đơn của mình: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Có một nhân vật trong đêm khuya đang thao thức, trằn trọc. Thao thức thì mới nghe được trống cầm canh từ xa vọng lại “văng vẳng”. Tiếng trống giữ nhịp thời gian bình thường, đêm nào chẳng vậy! Nhưng với Hồ Xuân Hương lại thành dồn dập. Câu thơ không còn tả không gian, thời gian khách quan nữa mà chứa đầy cảm xúc. Tâm hồn Hồ Xuân Hương muốn yên tĩnh nhưng chẳng yên tĩnh được; muốn tan chảy khi âm thanh trống canh lại ngăn cản. Câu thơ gợi được tâm trạng buồn bực, khó chịu, u uất, bứt rứt. “trống canh dồn” là cảm nhận được thời gian đang hối thúc, đêm tàn, ngày lên người soi mình vào cái lặng im, trống rỗng đã cô đơn lại thắm nỗi trơ trọi. Câu thơ thừa đề xoáy sâu nỗi cô đơn “trơ cái hồng nhan với nước non”. “Hồng nhan” chỉ người phụ nữ đẹp, vậy mà thiếu vắng người tri kỉ trở nên vô duyên, vô phận, Hồ Xuân Hương nói “cái hồng nhan” là đã tiếc thân mình ghê gớm. Ghép chữ “cái” vào “hồng nhan”, lại đảo ngữ đưa từ “trơ” ra phía trước để nhấn mạnh một thiếu phụ cô độc, bẽ bàng. Hồng nhan đáng lẽ phải được quân tử yêu thương, đằng này lại trơ ra với nước non. Nghệ thuật đối khắc hoạ cái tôi bé nhỏ, đối lập với cả vũ trụ, cả thế giới, cả đời. Một cái tôi mơn mởn xuân sắ, rạo rực xuân tình bị bỏ rơi, bị lãng quên thì những đau khổ, bực bội bị đẩy lên đỉnh điểm. Cách ngắt nhịp 1/3/3 như nghẹn tức.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Nỗi cô đơn của Hồ Xuân Hương đâu phải chỉ một đêm một ngày mà đã biết bao đêm, bao tháng, bao năm. Để nguôi quên tình cảnh xót xa, người cô phụ tìm đến men rượu. Nhưng cứ say rồi lại tỉnh. Đó là vòng luẩn quẩn, chứa đầy nỗi chán chường, vô vọng vì sự cô đơn đã thấm vào tận máu. Muốn quên mà không quên được, đó mới thực sự là nỗi khổ. Một nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao đã triết lý: “ Người ta khổ mà không biết mình khổ thì không khổ”. Còn người cứ nhận thức được nỗi khổ của mình thì dù cố dằn hắt, vùi nén thì càng thắm thiết, nhọc lòng. Ta lại như nhìn thấy người đàn bà uống rượu suông trong đêm vắng, đem chính cái hồng nhan của mình ra làm thức nhắm, để rồi rợn lên, rùng mình, gợi lại về tuổi xuân sắp trôi qua “vầng trăng bóng xế”.
Vầng trăng vừa có thật vừa tượng trưng, vầng trăng bóng xế gợi đêm đã gần tàn, Hồ Xuân Hương thức trắng đêm. Vầng trăng gợi ý nghĩa hạnh phúc, Hồ Xuân Hương cảm xúc về hạnh phúc vẫn chưa tròn đầy. Bà đã chờ đợi, mong mỏi; khát khao nhưng vẫn trăng đã xế lại còn khuyết mà chẳng biết khi nào tròn. Có lẽ Hồ Cuân Hương đã nếm trải đầy đủ những vị chua chát, đắng cay cuộc đời mà sự ngọt ngào hạnh phúc vẫn xa vời, Hai câu thơ là tâm trạng buồn chán, ảm đạm kéo dài; lại như một lời giễu cợt, mình sắp già rồi mà hạnh phúc vẫn thiếu hụt, xa vời; tình duyên vẫn cọc cạch, lẻ loi.
Hai câu luận của bài thơ ta thực đêm trăng nhưng ngụ tình:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nhìn ra không gian đất trời mênh mông, không cùng, Hồ Xuân Hương phát hiện những cảnh vật bé mọn, là rêu, là đá. Từng đám rêu yếu ớt lại cựa quậy, xiên ngang mặt đất để trồi lên, mấy hòn đá vô tri đang nhô lên xé rách cả bầu trời. Dường như đất cũng hẹp mà trời cũng chất khiến các vật vô tri, vô giác muốn phá phách, tung hoành. Nghệ thuật đảo ngữ và dùng động từ mạnh” “xiên”, “đâm” để tạo cảm giác mạnh mẽ, tung hoành. Hình tượng thiên nhiên phản ánh hình ảnh của con người. Với cá tính mạnh mẽ, táo bạo, quyết không cam chịu số phận bi thảm; Hồ Xuân Hương muốn phản kháng để tìm hạnh phúc cho bản thân. Hoàn cảnh đáng buồn không thể làm tê liệt tình yêu cuộc sống của bà. Cái chồi mầm sự sống ấy vẫn cựa quậy muốn thoát khỏi bóng đêm dưới mặt đất để vươn ra không gian đất trời mênh mông.
Đến hai câu kết, dù đã có sự nổ lực, dù phản kháng nhưng khát vọng Hồ Xuân Hương như ngọn cỏ bị hòn đá tảng ngàn năm của lễ giáo phong kiến đè bẹp đến héo úa. Vì thế, tâm trạng Hồ Xuân Hương kết lại thành khối ngao ngán, buồn chán: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại / Mảnh tình san sẻ tí con con”. Bà nhận ra mùa xuân của đất trời tuần hoàn “đi” “lại lại” mà tuổi xuân của con người trôi qua không bao giờ quay về. Sự tương phản khắc nghiệt giữa thiên nhiên và cuộc đời con người làm bà hiểu rõ hạnh phcus là cơ hội và buồn thay, cơ hội đó dường như không đến với Hồ Xuân Hương. Với người khác, hạnh phúc là khối tình, là tâm tình, thì với Hồ Xuân Hương tội nghiệp chỉ là mảnh tình san sẻ tí con con. Mảnh tình của Xuân Hương bé như mảnh vỡ. Lại có người hiểu câu cuối là sự gắng gượng đấu tranh, dẫu số phận không mỉm cười, dẫu cơ hội hạnh phúc chưa đến được nhưng Hồ Xuân Hương vẫn khát khao, vẫn đợi chờ một mảnh tình ai đó san sẻ với bà dù là “bé con con”.
Hồ Xuân Hương đã sử dụng nhuần nhuyễn các từ thuần Việt để Việt hoá thể thơ Đường luật, xoá nhoà tính ước lệ tượng trưng, mang lại hình ảnh màu sắc, đường nét của cảnh, của tâm trạng. Những từ chỉ tình thái “dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc”; các tính từ chỉ trạng thái “say, tỉnh, khuyết, tròn” đã diễn tả những cảm nhận sâu sắc về sự đời và số phận.
“Thân em như hạt mưa rào”
“Thân em như giếng giữa đàng”
“Thân em như trái bần trôi”
Rồi có tiếng thở than, oán trách, uất hận của người chinh phụ có chồng đi chinh chiến biền biệt phương xa, của người cung nữ bị vua chúa ruồng bỏ. Hay như Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Hồ Xuân Hương có một điểm riêng là viết về chính bi kịch của đời mình. Chế độ phong kiến đề cao nam quyền “trọng nam khinh nữ”; “phu xướng phụ tuỳ” đã cắt xén không thương tiếc những tình cảm riêng tư, tình yêu con người. Có những gọng kiềm đã xiết chặt cuộc đời người phụ nữ. Hồ Xuân Hương mạnh mẽ nêu lên những đòi hỏi chính đáng về quyền sống và quyền hạnh phúc. Thơ Hồ Xuân Hương mang một quan niệm nhân sinh mới mẻ, táo bạo, rất tiến bộ về con người và cuộc sống của con người. Hồ Xuân Hương xem xét con người tồn tại trên mặt đất này với tất cả những nhu cầu trần thế, hiện thực. Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta thấy trong đó vừa có tiếng cười, vừa có tiếng khóc. Nhưng đối với bà, cười hay khóc đều thể hiện tình cảm yêu đời thiết tha.
Tự tình II như tiếng khóc dài phơi trải nỗi lòng của người phụ nữ khát khao duyên phận, ấm ức duyên tình. Nói như giáo sư Trần Đình Sử “là sự thương thân của một ý thức cá nhân đã thức tỉnh”.
|
Có ý kiến cho rằng: “Hồ Xuân Hương là một phụ nữ nổi loạn, phá phách vì thơ bà cười cợt những định kiến của xã hội phong kiến, những kẻ mũ cao áo rộng mà đạo đức giả, bà cười từ nho sĩ đến tăng lữ và cả vua chúa”. Nhưng có một Hồ Xuân Hương ban ngày phá phách, cười cợt nhưng ban đêm khóc thầm, ngậm ngùi, chua xót. Bài thơ Tự tình II là tâm sự thống thiết của nữ sĩ về cảnh ngộ, số phận của bản thân mình.
Tên gọi bài thơ Tự tình là tự bộc lộ nỗi lòng. Hồ Xuân Hương đã khắc hoạ hiện thực tâm hồn của một người phụ nữ bất hạnh. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương giãi bày tình cảnh cô đơn của mình: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Có một nhân vật trong đêm khuya đang thao thức, trằn trọc. Thao thức thì mới nghe được trống cầm canh từ xa vọng lại “văng vẳng”. Tiếng trống giữ nhịp thời gian bình thường, đêm nào chẳng vậy! Nhưng với Hồ Xuân Hương lại thành dồn dập. Câu thơ không còn tả không gian, thời gian khách quan nữa mà chứa đầy cảm xúc. Tâm hồn Hồ Xuân Hương muốn yên tĩnh nhưng chẳng yên tĩnh được; muốn tan chảy khi âm thanh trống canh lại ngăn cản. Câu thơ gợi được tâm trạng buồn bực, khó chịu, u uất, bứt rứt. “trống canh dồn” là cảm nhận được thời gian đang hối thúc, đêm tàn, ngày lên người soi mình vào cái lặng im, trống rỗng đã cô đơn lại thắm nỗi trơ trọi. Câu thơ thừa đề xoáy sâu nỗi cô đơn “trơ cái hồng nhan với nước non”. “Hồng nhan” chỉ người phụ nữ đẹp, vậy mà thiếu vắng người tri kỉ trở nên vô duyên, vô phận, Hồ Xuân Hương nói “cái hồng nhan” là đã tiếc thân mình ghê gớm. Ghép chữ “cái” vào “hồng nhan”, lại đảo ngữ đưa từ “trơ” ra phía trước để nhấn mạnh một thiếu phụ cô độc, bẽ bàng. Hồng nhan đáng lẽ phải được quân tử yêu thương, đằng này lại trơ ra với nước non. Nghệ thuật đối khắc hoạ cái tôi bé nhỏ, đối lập với cả vũ trụ, cả thế giới, cả đời. Một cái tôi mơn mởn xuân sắ, rạo rực xuân tình bị bỏ rơi, bị lãng quên thì những đau khổ, bực bội bị đẩy lên đỉnh điểm. Cách ngắt nhịp 1/3/3 như nghẹn tức.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Nỗi cô đơn của Hồ Xuân Hương đâu phải chỉ một đêm một ngày mà đã biết bao đêm, bao tháng, bao năm. Để nguôi quên tình cảnh xót xa, người cô phụ tìm đến men rượu. Nhưng cứ say rồi lại tỉnh. Đó là vòng luẩn quẩn, chứa đầy nỗi chán chường, vô vọng vì sự cô đơn đã thấm vào tận máu. Muốn quên mà không quên được, đó mới thực sự là nỗi khổ. Một nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao đã triết lý: “ Người ta khổ mà không biết mình khổ thì không khổ”. Còn người cứ nhận thức được nỗi khổ của mình thì dù cố dằn hắt, vùi nén thì càng thắm thiết, nhọc lòng. Ta lại như nhìn thấy người đàn bà uống rượu suông trong đêm vắng, đem chính cái hồng nhan của mình ra làm thức nhắm, để rồi rợn lên, rùng mình, gợi lại về tuổi xuân sắp trôi qua “vầng trăng bóng xế”.
Vầng trăng vừa có thật vừa tượng trưng, vầng trăng bóng xế gợi đêm đã gần tàn, Hồ Xuân Hương thức trắng đêm. Vầng trăng gợi ý nghĩa hạnh phúc, Hồ Xuân Hương cảm xúc về hạnh phúc vẫn chưa tròn đầy. Bà đã chờ đợi, mong mỏi; khát khao nhưng vẫn trăng đã xế lại còn khuyết mà chẳng biết khi nào tròn. Có lẽ Hồ Cuân Hương đã nếm trải đầy đủ những vị chua chát, đắng cay cuộc đời mà sự ngọt ngào hạnh phúc vẫn xa vời, Hai câu thơ là tâm trạng buồn chán, ảm đạm kéo dài; lại như một lời giễu cợt, mình sắp già rồi mà hạnh phúc vẫn thiếu hụt, xa vời; tình duyên vẫn cọc cạch, lẻ loi.
Hai câu luận của bài thơ ta thực đêm trăng nhưng ngụ tình:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nhìn ra không gian đất trời mênh mông, không cùng, Hồ Xuân Hương phát hiện những cảnh vật bé mọn, là rêu, là đá. Từng đám rêu yếu ớt lại cựa quậy, xiên ngang mặt đất để trồi lên, mấy hòn đá vô tri đang nhô lên xé rách cả bầu trời. Dường như đất cũng hẹp mà trời cũng chất khiến các vật vô tri, vô giác muốn phá phách, tung hoành. Nghệ thuật đảo ngữ và dùng động từ mạnh” “xiên”, “đâm” để tạo cảm giác mạnh mẽ, tung hoành. Hình tượng thiên nhiên phản ánh hình ảnh của con người. Với cá tính mạnh mẽ, táo bạo, quyết không cam chịu số phận bi thảm; Hồ Xuân Hương muốn phản kháng để tìm hạnh phúc cho bản thân. Hoàn cảnh đáng buồn không thể làm tê liệt tình yêu cuộc sống của bà. Cái chồi mầm sự sống ấy vẫn cựa quậy muốn thoát khỏi bóng đêm dưới mặt đất để vươn ra không gian đất trời mênh mông.
Đến hai câu kết, dù đã có sự nổ lực, dù phản kháng nhưng khát vọng Hồ Xuân Hương như ngọn cỏ bị hòn đá tảng ngàn năm của lễ giáo phong kiến đè bẹp đến héo úa. Vì thế, tâm trạng Hồ Xuân Hương kết lại thành khối ngao ngán, buồn chán: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại / Mảnh tình san sẻ tí con con”. Bà nhận ra mùa xuân của đất trời tuần hoàn “đi” “lại lại” mà tuổi xuân của con người trôi qua không bao giờ quay về. Sự tương phản khắc nghiệt giữa thiên nhiên và cuộc đời con người làm bà hiểu rõ hạnh phcus là cơ hội và buồn thay, cơ hội đó dường như không đến với Hồ Xuân Hương. Với người khác, hạnh phúc là khối tình, là tâm tình, thì với Hồ Xuân Hương tội nghiệp chỉ là mảnh tình san sẻ tí con con. Mảnh tình của Xuân Hương bé như mảnh vỡ. Lại có người hiểu câu cuối là sự gắng gượng đấu tranh, dẫu số phận không mỉm cười, dẫu cơ hội hạnh phúc chưa đến được nhưng Hồ Xuân Hương vẫn khát khao, vẫn đợi chờ một mảnh tình ai đó san sẻ với bà dù là “bé con con”.
Hồ Xuân Hương đã sử dụng nhuần nhuyễn các từ thuần Việt để Việt hoá thể thơ Đường luật, xoá nhoà tính ước lệ tượng trưng, mang lại hình ảnh màu sắc, đường nét của cảnh, của tâm trạng. Những từ chỉ tình thái “dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc”; các tính từ chỉ trạng thái “say, tỉnh, khuyết, tròn” đã diễn tả những cảm nhận sâu sắc về sự đời và số phận.
“Thân em như hạt mưa rào”
“Thân em như giếng giữa đàng”
“Thân em như trái bần trôi”
Rồi có tiếng thở than, oán trách, uất hận của người chinh phụ có chồng đi chinh chiến biền biệt phương xa, của người cung nữ bị vua chúa ruồng bỏ. Hay như Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Hồ Xuân Hương có một điểm riêng là viết về chính bi kịch của đời mình. Chế độ phong kiến đề cao nam quyền “trọng nam khinh nữ”; “phu xướng phụ tuỳ” đã cắt xén không thương tiếc những tình cảm riêng tư, tình yêu con người. Có những gọng kiềm đã xiết chặt cuộc đời người phụ nữ. Hồ Xuân Hương mạnh mẽ nêu lên những đòi hỏi chính đáng về quyền sống và quyền hạnh phúc. Thơ Hồ Xuân Hương mang một quan niệm nhân sinh mới mẻ, táo bạo, rất tiến bộ về con người và cuộc sống của con người. Hồ Xuân Hương xem xét con người tồn tại trên mặt đất này với tất cả những nhu cầu trần thế, hiện thực. Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta thấy trong đó vừa có tiếng cười, vừa có tiếng khóc. Nhưng đối với bà, cười hay khóc đều thể hiện tình cảm yêu đời thiết tha.
Tự tình II như tiếng khóc dài phơi trải nỗi lòng của người phụ nữ khát khao duyên phận, ấm ức duyên tình. Nói như giáo sư Trần Đình Sử “là sự thương thân của một ý thức cá nhân đã thức tỉnh”.
|
Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình (bài II)
Hướng dẫn
Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình (bài II)
Nếu như người thường mượn rượu giải sầu thì các nhà thơ lại thường mượn cảnh tả tình. Nhưng cũng giống như mượn rượu giải sầu, sầu càng sâu, mượn cảnh tả tình, tình càng đau. Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương – bà “Chúa Thơ Nôm” đã bao lần đắm chìm trong những nỗi buồn, nỗi tuyệt vọng về thân phận bọt bèo, hẩm hiu của người con gái tràn trề hi vọng nhưng thực tế cuộc sống lại không cho bà được thỏa mãn những ước mong. Bài thơ “Tự tình” (bài II) là những vần thơ chất chứa nhiều cảm xúc của Xuân Hương nhất. Dường như bao nhiêu tâm sự của cuộc đời cay đắng, bà đều dồn hết vào từng con chữ, từng âm điệu.
Buồn thương cho phận gái nổi trôi, muốn yêu mà chẳng được vẹn tròn. Tình người cứ thế qua đi, mặc cho người con gái giữa những tủi hổ và đớn đau. Xuân Hương không khóc như những cô gái khác khi thất tình nhưng trong lòng đầy rẫy những suy tư:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Không biết vô tình hay cố ý mà Xuân Hương lại tự đưa mình đến một nơi thanh vắng trong đêm khuya tĩnh lặng. Bóng đêm và những tiếng trống văng vẳng từ xa vọng lại càng làm cho lòng người thêm quạnh hiu. Nhất là đối với một cô gái đang mang trong mình những nỗi ưu tư buồn phiền về tình duyên trắc trở. Làm sao không buồn không đau khi “yêu rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu, người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết” (Xuân Diệu). Xuân Hương tự nhận thấy sự bẽ bàng và phũ phàng cho thân phận “hồng nhan” của mình. Thế nên bà đã dùng từ “trơ” chứ không phải một từ nào khác. “Trơ” là trần trụi, là bi thương, là oán hờn, tủi nhục. Chẳng biết tình yêu mà nhà thơ nhận được bao nhiêu mà giờ đây hương tình lẫn men rượu hòa quyện vào nhau, khiến người con gái lúc tỉnh lúc say. Là say tình hay say rượu? Là tỉnh hay là mê?. Nỗi buồn thấm thía, lại được thêm ánh trăng khuyết mờ ảo làm lòng người ngao ngán:
Nếu như các nhà thơ khác lấy ánh trăng để tả về một tình yêu trọn vẹn, nồng nàn và tha thiết, thì ở đây, vầng trăng của Xuân Hương lại chỉ là một vầng trăng khuyết, “khuyết chưa tròn”, cũng giống như mảnh tình dang dở mà Xuân Hương đang ôm ấp. Cho đến bao giờ người con gái ấy mới có được tình yêu trọn vẹn của cuộc đời mình? Trăng đêm nay khuyết, nhưng vẫn có những ngày tròn, còn tình yêu của Xuân Hương, đến lúc nào mới được tròn như trăng?
Đau buồn và phẫn uất, nhưng Xuân Hương vẫn gắng gượng vươn lên, dù niềm hi vọng rất nhỏ bé mong manh:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Đến ngay cả những đám rêu yếu mềm còn có sức sống mãnh liệt “xiên ngang mặt đất” để vươn lên, và những hòn đá tuy nhỏ bé nhưng vẫn đủ nhọn để “đâm toạc chân mây”. Vậy cớ gì mà con người lại không thể vượt lên trên số phận của mình? Biết rằng, không gì là không thể làm được nhưng mặt khác, cái gì cũng có giới hạn của nó. Nhất là với thời gian, thời gian đâu có chờ đợi ai bao giờ. Thế nên, lại một lần nữa, Xuân Hương ôm mối tình dở dang lâm vào bi kịch đau thương:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Giá như đám rêu kia và những hòn đá kia có thể thấu hiểu nỗi niềm tương tư của Xuân Hương thì hay biết mấy. Nhưng đá và rêu chỉ là vật vô tri vô giác. Ngàn năm đá vẫn vậy, nhưng chỉ một năm với đời người cũng đã là cả một sự thay đổi lớn. Ngoảnh đi ngoảnh lại, xuân đến xuân đi, nghĩa là đời người đã già thêm một tuổi. Xuân cứ trẻ mãi, nhưng mỗi một cuộc đời chỉ có duy nhất một mùa xuân mà thôi. Xuân đến mang sự tươi tốt cho đất trời cho thiên nhiên, nhưng lại lấy đi của đời người một mùa xuân. Đó là quy luật của tạo hóa, nhưng nếu tình duyên trọn vẹn, có lẽ Xuân Hương cũng chẳng hờn giận mùa xuân đến thế. Nhưng cứ mỗi một xuân đi qua mà Xuân Hương vẫn chưa có được một mối tình trọn vẹn, trong khi đó, cuộc đời cứ trôi dần trôi khiến “mảnh tình san sẻ tí con con”. Tình duyên đã chẳng vẹn tròn, lại bị san sẻ bởi mỗi năm qua đi, Xuân Hương đâu còn nhiều mùa xuân để mà tận hưởng tình yêu nữa. E rằng, hết cả tuổi xuân mà vẫn chưa trọn khối tình. Thế nên, mùa xuân không có gì đáng vui với Xuân Hương, ngược lại đó là dấu hiệu đáng buồn cho một mảnh tình lại bị phôi pha, nhạt nhòa. Không ai hiểu lí do vì sao tình duyên của bà lại dở dang và trắc trở nhưng chắc chắn một điều rằng, Xuân Hương đang rất buồn, rất đau khổ. Càng buồn bao nhiêu, bà càng khát khao hạnh phúc bấy nhiêu. Nhưng càng khát khao lại càng tuyệt vọng bởi không ai có thể chạy đua với thời gian. Xuân Hương cũng vậy, cuộc đời cứ thế trôi đi theo những mùa xuân nối tiếp nhau. Nhà thơ chẳng hào hứng gì với mùa xuân như Xuân Diệu đã từng thốt lên:
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Cả Xuân Diệu và Xuân Hương đều khát khao một tình yêu trọn vẹn nhưng tình yêu của Xuân Hương là tình yêu đôi lứa, là thứ tình cảm đòi hỏi phải có sự đáp trả của đối phương mới trở thành trọn vẹn. Còn Xuân Diệu, tình yêu của ông là tình yêu thiên nhiên, yêu sự sống, ông muốn hưởng thụ tình yêu của mình bất kỳ lúc nào cũng được, ông không bị phụ thuộc vào đối phương như Xuân Hương. Bởi thế, Xuân Hương đã liên tục rơi vào tâm trạng buồn tủi, bẽ bàng khi không đạt được những điều mình muốn.
Như vậy, bài thơ đã thể hiện tâm trạng, thái độ của Xuân Hương: vừa đau buồn vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Bài thơ cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và tài năng độc đáo của “Bà Chúa Thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình tượng.
|
Ho Xuan Huong's confession in the article Self-love (article II)
Instruct
Ho Xuan Huong's confession in the article Self-love (article II)
If ordinary people borrow wine to relieve their sadness, poets often borrow scenes to describe love. But just like borrowing wine to relieve sadness, the deeper the sadness, borrowing the scene to describe the love, the more painful the love. Female poet Ho Xuan Huong - the "Lord of Nom Poetry" has many times been immersed in the sadness and despair of the miserable and desolate situation of a girl full of hope but in reality life does not allow her wishes were fulfilled. The poem "Self-Love" (Lesson II) is Xuan Huong's poems containing the most emotions. It seemed like she poured all the feelings of her bitter life into every word and every tone.
Sad for the fate of a girl floating around, wanting to love but not being able to be fulfilled. Human love just passes away, leaving the girl in the midst of shame and pain. Xuan Huong doesn't cry like other girls when they fall in love, but her heart is full of thoughts:
“Late at night, drums and drums can be heard playing
Inert to the beauty of young water
A cup of fragrant wine brings drunkenness back to consciousness
The waning moon is not yet full"
Don't know if it was intentional or not, but Xuan Huong took herself to a quiet place in the dead of night. The darkness and the sounds of drums echoing from afar make people feel even more lonely. Especially for a girl who is carrying sadness and worries about difficult love relationships. How can you not be sad or hurt when "you love so much but receive so little, people ignore you or are indifferent without you knowing" (Xuan Dieu). Xuan Huong realized the humiliation and cruelty of her "beautiful" status. That's why she used the word "inert" and not any other word. "Inert" means nakedness, sadness, resentment, and humiliation. I don't know how much love the poet received, but now the scent of love and alcohol are mixed together, making the girl sometimes sober and sometimes drunk. Drunk in love or drunk? Is it awake or unconscious?. The sadness is profound, supplemented by the dim crescent moonlight, making people feel bored:
If other poets use moonlight to describe a complete, passionate and passionate love, then here, Xuan Huong's moon is just a crescent moon, "not yet full", just like The unfinished love that Xuan Huong is embracing. When will that girl find the perfect love of her life? The moon is waning tonight, but there are still full days. As for Xuan Huong's love, when will it be as full as the moon?
Sad and angry, but Xuan Huong still tried to rise up, even though her hope was very small and fragile:
“Across the ground there are clusters of moss
Pierce the base of the clouds, kick a few rocks"
Even the weak mosses still have strong vitality to "cross the ground" to rise, and the rocks, although small, are still sharp enough to "pierce the base of the clouds". So why can't people rise above their fate? Know that nothing is impossible, but on the other hand, everything has its limits. Especially with time, time waits for no one. So, once again, Xuan Huong embraced her unfinished love and fell into painful tragedy:
“I'm bored of spring again and again
A piece of love to share a little bit"
It would be great if only those mosses and those rocks could understand Xuan Huong's longing. But rocks and moss are just inanimate objects. Thousands of years of stone are still the same, but just one year in a person's life is a big change. Looking back and forth, spring comes and spring passes, meaning one's life has grown another year older. Spring is forever young, but each life has only one spring. Spring brings freshness to the earth and sky to nature, but it takes away spring from people's lives. That is the law of creation, but if love was perfect, perhaps Xuan Huong would not be so angry with spring. But with each spring that passes, Xuan Huong still hasn't had a perfect love, meanwhile, life keeps passing by, causing "little pieces of love to be shared". The love was not perfect and was shared because with each passing year, Xuan Huong did not have many springs left to enjoy love. I'm afraid that after all my youth, love still hasn't come to an end. Therefore, spring is nothing to be happy about for Xuan Huong; on the contrary, it is a sad sign for a love that has faded and faded. No one understands why her love affair is so unfinished and difficult, but one thing is certain: Xuan Huong is very sad and very miserable. The sadder she was, the more she longed for happiness. But the more you desire, the more desperate you become because no one can race against time. Xuan Huong is the same, life goes on like that with successive springs. The poet is not excited about spring like Xuan Dieu once exclaimed:
(Hurry – Xuan Dieu)
Both Xuan Dieu and Xuan Huong long for a perfect love, but Xuan Huong's love is a couple's love, a love that requires the other person's response to become complete. As for Xuan Dieu, his love is the love of nature, the love of life, he wants to enjoy his love at any time, he is not dependent on the other person like Xuan Huong. Therefore, Xuan Huong continuously fell into a sad and humiliated mood when she did not achieve what she wanted.
Thus, the poem shows Xuan Huong's mood and attitude: both sad and angry at fate, trying to rise up but still falling into tragedy. The poem shows the desire to live, the desire for happiness and the unique talent of the "Queen of Nom Poetry" in the art of using words and building images.
|
Tâm sự của quyển sách giáo khoa Toán 6 khi chủ nhân của nó rấtyêu môn Văn nhưng rất ngại học Toán
Gợi ý
Thế là mình có đủ bộ sách giáo khoa. Tôi sung sướng reo lên khi được chị Hiền Anh con ông bác tôi đưa cho quyển Toán 6 vừa rách bìa vừa quăn mép. Chị đã học lớp 8 rồi nên bộ sách lớp 6 không cần nữa. Ba hôm trước đây, chị đưa cho tôi đủ cả ba bộ sách còn khá đẹp, chỉ thiếu sách Toán 6. Tôi hỏi sách Toán 6 đâu, chị đỏ mặt rồi thú nhận: Không biết chị quẳng nó ở đâu, cái môn toán ngán ngẩm ấy. Chị hứa sẽ tìm cho tôi sau.
Tôi cầm sách Toán 6, vuốt cho những trang sách phăng phiu, đóng lại bìa, và dùng giấy báo bọc lại cẩn thận. Bây giờ sách Toán 6 cũng “oách” như những cuốn sách khác. Buổi tối ấy tôi học xong, xếp sách vở đi ngủ. Trước khi ngủ, tôi còn cầm cuốn sách Toán xem thử lại đề của một bài toán nào đó để tìm ra lời giải. Tôi vốn là học sinh khá của lớp và rất mê môn Toán…
– Chào cậu, Mình rất mừng được gặp lại cầu. Trước đây, chị Hiền Anh của cậu chỉ yêu môn Văn thôi nên mình bị lạnh nhạt và vẫn bị bỏ rơi. Mình ra đời trong một nhà máy in rất lớn. Mình vẫn thường tự hào về bộ cánh tuyệt đẹp của mình. Quả thật bìa cứng cứ y như mình diện quần áo bò. Mặt mũi mình sáng sủa, ngời lên sự thông minh. Bên trong mình chứa đầy những kiến thức quan trọng của Toán học. Những định lí cứ y như là những câu thần chú. Ai học thuộc, nắm vững thì dễ dàng mở cửa bí mật đi vào lâu đài. Thế nhưng ngay buổi học đầu tiên chị Hiền Anh đã bí rì. Vốn kém Toán nên chị ấy ngồi cắn bút. Mồ hôi vã ra. Mình thương nhưng không có cách nào giúp, một hồi sau chị ra gấp mình lại và giận dỗi ném đánh “phạch” xuống bàn:
Mình kêu lên:
– Phải kiên trì chứ! Muốn giải được được bài này thì phải ôn lại kiến thức cũ đã. Kiến thức cũ không nắm được làm gì chả thấy khó. Chẳng biết vì quá tức giận hay vì mình nói nhỏ mà chị ấy chẳng nghe thấy.
Từ đấy là mối quan hệ cứ xấu đi mãi. Mỗi khi không làm được bài, mỗi khi điểm kém là mình bị chị ấy đay nghiến, nguyền rủa. Những lúc ấy mình thật tủi thân. Chẳng bao giờ mình được chị ấy nâng niu, chiều chuộng. Hễ giở mình ra là mặt chị ấy khó đăm đăm. Khi thì ném xuống bàn, khi thì quăng trong ngăn tủ, khi bị đẩy xuống gầm giường. Mỗi khi cô chủ và các bạn của cô ăn quà là mình lại biến thành cái mũ tạm thời che đầu. Công việc chính của mình là giúp cô chủ học thì cô ấy lại lãng quên, chểnh mảng.
Mình biết rằng cô chủ thích học Văn và không thích Toán một tí nào. Nhưng mình quan trọng đâu có kém môn Văn. Không thích học thì cũng phải yêu quý mình một tí chứ, phải học đều các môn mới hy vọng giỏi được. Kết quả sự ngược đãi mình là cuối năm cô ta phải thi lại môn Toán và suýt tí nữa phải ở lại lớp 6. Tuy rằng cô chủ không yêu thương gì mình, nhưng mình cũng không oán hận hay căm ghét cô ấy. Cô ấy chỉ đáng trách vì đã không học Toán ở lớp dưới cho cẩn thận, lại không có quyết tâm cao, nên mới ra nông nỗi phải thi lại. May mà sau lần thi ấy, cô chủ đã hiểu ra thì phải, cho nên lớp 7 cô ta học Toán khá hơn.
– Vì mình biết cậu là người tốt, người yêu thích môn Toán và ngay từ đầu, cậu đã tỏ ra yêu quý mình. Mình sẽ hết sức giúp đỡ cậu học môn Toán, nhưng cũng muốn nhắc cậu là trong khi yêu quý mình thì đừng quên các môn khác. Hình như cậu chỉ say mê Toán và đối xử với các môn khác chưa thật nhiệt tình, đúng không?
Tôi gật đầu thừa nhận. Quả tình tôi không thích môn Sử, môn Văn. Nói chung là tôi “cưng” các môn tự nhiên hơn.
Tôi ôm sách Toán vào lòng mà không biết nói gì thêm. Tôi thầm hứa sẽ làm theo lời khuyên của sách Toán 6 để không một quyển sách nào phải tâm sự những lời buồn như thế nữa.
|
The story of the 6th grade Math textbook when its owner loves Literature but is afraid to learn Math
Suggest
So I have a full set of textbooks. I shouted with joy when my uncle's daughter, Hien Anh, gave me a Math 6 book that had a torn cover and curled edges. I'm already in 8th grade, so I don't need the 6th grade textbooks anymore. Three days ago, she gave me all three sets of books in pretty good condition, only missing the Math 6 book. I asked where the Math 6 book was, she blushed and confessed: I don't know where she threw it, math is boring. That's it. She promised to find me later.
I took the Math 6 book, smoothed the pages, closed the cover, and carefully wrapped it in newspaper. Now Math 6 books are as "cool" as other books. That evening I finished studying, put my books away and went to bed. Before going to sleep, I even picked up the Math book and re-read the problem of a certain problem to find the solution. I was a good student in the class and really loved Math...
– Hello, I'm very happy to see you again. Previously, your sister Hien Anh only loved Literature, so I was cold and still abandoned. I was born in a very large printing factory. I'm always proud of my beautiful outfit. It's true that the cardboard looks like I'm wearing jeans. My face is bright, shining with intelligence. Inside I am filled with important knowledge of Mathematics. Theorems are like magic words. Anyone who memorizes and masters it will easily open the secret door to enter the castle. But in the first lesson, Ms. Hien Anh was confused. Being poor at Math, she sat and bit her pen. Sweat broke out. I felt sorry for her but had no way to help. After a while, she came out, folded me up and angrily threw a "thump" on the table:
I cried out:
– Must be patient! If you want to solve this problem, you must review old knowledge first. If you don't have old knowledge, you won't find it difficult to do anything. I don't know if it was because I was too angry or because I spoke softly but she didn't hear.
From then on, the relationship continued to deteriorate. Every time I couldn't do an assignment, every time I got a bad score, I was scolded and cursed by her. At those times I felt so sorry for myself. I have never been cherished and pampered by her. Whenever she shows herself off, her face is hard to stare at. Sometimes it's thrown on the table, sometimes it's thrown in the closet, sometimes it's pushed under the bed. Every time the owner and her friends eat gifts, I turn into a temporary hat to cover my head. My main job is to help my boss study, but she forgets and neglects.
I know that the boss likes to study Literature and doesn't like Math at all. But I'm not bad at Literature. If you don't like studying, you still have to love yourself a little. You have to study all subjects regularly to hope to be good at it. As a result of her mistreatment, she had to retake the Math exam at the end of the year and almost had to stay in 6th grade. Even though my boss didn't love me, I didn't resent or hate her. She is only to blame for not studying Math carefully in the lower grades and not having high determination, so she ended up having to retake the exam. Fortunately, after that exam, the teacher understood, so in 7th grade she studied Math better.
– Because I know you are a good person, someone who loves Math and from the beginning, you showed your love for me. I will do my best to help you study Math, but I also want to remind you that while you love me, don't forget other subjects. It seems like you're just passionate about Math and not very enthusiastic about other subjects, right?
I nodded in acknowledgement. Actually, I don't like History or Literature. In general, I "favor" natural subjects more.
I held the Math book in my arms without knowing what else to say. I silently promised to follow the advice of the Math 6 book so that no other book would have to confide in such sad words.
|
Tâm sự một con chó bị lạc chủ
Tiếng người hú, tiếng tù và thúc giục, tiếng sủa ăng ắng của lũ bạn tôi làm náo động cả góc rừng. Không lẫn vào đầu được là tiếng sủa “gầu gân” dư âm và vang dội của tôi, một con chó săn lão luyện. Một tiếng súng chút chùa đã kết thúc cuộc đời một chủ dê núi.
Không, chú tạ chỉ khuỵu xuống một lát rồi ngồi dậy, lấy hết sức bình sinh chạy bán sống bán chết. Như bị xúc phạm, tôi lao lên như một mũi tên, xông thẳng đến phía con mồi. Ngang qua suối cạn, con mồi vấp ngã gục xuống, tôi lao đến hồi tiếp hai cú vào gáy. Dê núi tắt thở. Mọi người lục tục chạy đến, vui mừng khiêng chiến lợi phẩm về. Ông chủ vỗ nhẹ vào hai má của tôi, khen rối rít: Tốt lắm, Giỏi lắm!
Cuộc đi săn tiếp tục. Tôi lại chạy trước, mũi khịt khịt đánh hơi liên tục, hi vọng lập thêm chiến công. Đây rồi! Có mùi gì hàng hắc cùng tiếng Sột Soẹt khe khẽ Một bóng đen vụt qua. Tôi mê mải lao theo…
Bỗng một quả rừng rơi xuống trúng lưng làm tôi giật mình. Con mồi chạy đâu mất. Mà tiếng người cũng chỉ thoảng trong gió. Tôi dừng lại nhìn quanh..
Sao mà im ắng quá vậy? Trời bắt đầu tối sẫm lại. Tôi vội vàng chạy theo lối cũ trở về.
Nhưng dường như càng chạy càng không thấy lối ra. Mỗi gốc cây ngọn Cỏ quanh tôi xa lạ như chưa gặp bao giờ. Cây cối rậm rịt, bóng tối như bưng lấy mất, như bịt chặt tai. Tôi mệt mỏi rã rời tìm một hốc cây có nhiều lá khô năm cho đỡ mệt. Chỉ mong sao ngủ quên đi cho đến khi trời sáng. Nhưng bóng tối, cảnh lạ làm tôi không sao chợp mắt được. Cơn đói cồn cào làm tôi nhớ bát cơm cùng tí xương và chút nước canh mà ông chủ thường đem đến cho tôi sau bữa cơm chiều của cả nhà. Họ nhà chó chúng tôi vốn dũng cảm nhưng xung quanh yên ắng quá khiến tôi thèm hơi ẩm từ bàn tay người. Ông chủ tôi quý tôi lắm. Ông rất ít nói. Khi nào vui vẻ, hài lòng, ông thường vuốt vuốt bộ lông mượt của tôi, vỗ vỗ vào má tôi và khen: Giỏi lăm! Tốt lắm. Còn tôi ngước nhìn ông, mắt sáng long lanh như thầm cảm ơn và đuôi thì ngoáy tít mừng rỡ.
Chạy suốt ngày, giờ đây tôi thấy mệt. Nhớ có lần mải chạy theo mồi, bàn chân trước của tôi vấp vào đá tóe máu. Ông chủ đã kiếm và bịt vào vết thương rồi băng bó cho tôi. Suốt những ngày tôi đau chân, ông chủ xích tôi nằm yên bên bậc Cầu thang, không cho chạy nhảy. Sáng sáng, ông tháo xích dắt tôi đi một Vòng quanh xóm. Nhờ thế mà chân tôi mau lành.
|
Confessing a dog that lost its owner
The sounds of people howling, the urging of horns, and the loud barking of my friends disturbed the whole corner of the forest. Unmistakable in my head was the echoing and resounding bark of me, an experienced hunting dog. A gunshot ended the life of a mountain goat owner.
No, he just knelt down for a moment and then sat up, using all his strength to run for his life. As if offended, I shot up like an arrow, rushing straight towards my prey. Crossing the dry stream, the prey tripped and fell down, I rushed forward with two more blows to the back of the neck. The mountain goat stopped breathing. Everyone rushed over, happily carrying back the spoils of war. The boss patted my cheeks and praised me: Very good, very good!
The hunt continues. I ran ahead again, sniffing continuously, hoping to score more victories. Here it is! There was a strong smell and a soft rustling sound. A dark shadow passed by. I was engrossed in following…
Suddenly a forest fruit fell and hit my back, startling me. The prey ran away. But human voices are only faint in the wind. I stopped and looked around..
Why is it so quiet? The sky started to get darker. I quickly ran back the same way.
But it seems like the more I run, the more I can't see the way out. Every tree and blade of grass around me is strange as if I had never seen it before. The trees are dense, the darkness seems to take away, as if it covers my ears. I was exhausted and found a hollow tree with many dry leaves to relieve my fatigue. I just hope I can sleep until morning. But the darkness and strange scenes made it impossible for me to sleep. My hunger made me miss the bowl of rice with some bones and some broth that my boss often brought me after the family's dinner. We dogs are naturally brave, but the surroundings are so quiet that I crave the moisture from human hands. My boss loves me very much. He spoke very little. When he is happy and satisfied, he often strokes my silky fur, pats my cheek and compliments me: Good job! Very good. As for me, I looked up at him, my eyes sparkling as if silently thanking me and my tail wagging happily.
Running all day, now I feel tired. I remember one time when I was busy running after prey, my front foot tripped on a rock and splattered blood. The boss searched and covered the wound and bandaged me. During the days when my feet hurt, my boss chained me to lie still on the stairs, not allowing me to run or jump. Every morning, he took me off the chain and took me for a walk around the neighborhood. Thanks to that, my leg healed quickly.
|
Tâm trạng của em sau khi để xảy ra một chuyện có lỗi với bạn
Hướng dẫn
Hướng dẫn làm bài
a.Mở đầu:
-Chuyện đã xảy ra từ lâu nhưng mỗi lần nghĩ lại mình thấy rất xấu hổ.
-Muốn kể lại cho các bạn nghe để lòng nhẹ nhõm.
b.Phần nội dung:
-Giờ kiểm tra Sinh mình không làm được bài, nhìn sang thấy bạn đang chăm chú viết liền hỏi. Bạn không trả lời.
-Mình loay hoay định giơ vở thì cô giáo nhắc nên không làm được.
-Cuối giờ, thu bài vì ngồi ở đầu bàn nên khi thu bài của bạn lại giả vờ để quên không nộp cho cô.
-Giờ ra chơi mình tuồn bài đó vào ngăn bàn của bạn.
-Vào tiết học mới, bạn thấy bài của mình chưa nộp để dưới ngăn bàn thì hoảng sợ tưởng là quên.
-Bạn đi tìm gặp cô xin nộp, có không tin là bạn quên mà cho là bạn có tình nộp sau để bổ sung cho đầy đủ.
-Cô, phê bình bạn.
-Mãi về sau, bạn vẫn không biết vì sao bài kiểm tra của mình lại ở ngăn bàn. Bạn vẫn rất tốt, không hề nghi ngờ gì mình cả.
c.Kết luận
-Bạn đã chuyển trường theo gia đình.
-Khi chia tay mình không dám nói. Mình nghĩ nhiều về điều đó và cảm thấy xấu hổ, ân hận.
Tham khảo bài viết hay của bạn Lê Mỹ Ái 9ATrường THCS Phan Châu Trinh- Quảng Nam
Năm học lớp 6, lớp 7, tôi thi học sinh giỏi môn Toán toàn huyện, đều giành đuợc giải khuyến khích. Nhiều bạn chế giễu tôi là đạt được “giải khúc khích!".
Lên lớp 8, bố mẹ tôi chuyển nhà lên thị xã. Hai chị em tôi đều chuyển đến trường mới: trường Trung học cơ sở Phạm Ngũ Lão. So với các bạn học trong lớp thì tôi chỉ vào loại học khá môn toán, còn môn Ngữ văn, môn Tiếng Anh, tôi gồng mình lên mà chỉ được điểm trung bình. Tôi sinh ra tự ti, thậm chí có lúc tỏ ra hèn nhát. Giờ học Tiếng Việt, cô giáo lên giảng bài rất hay, nhưng tôi không dám giơ tay phát biểu. Sinh hoạt tổ học tập, sinh hoạt lớp, tôi ngồi im như thóc trong bồ. Các bài kiểm tra toán, tôi chỉ được 7, 8 điểm; cô Thanh vẫn phê là “trình bày rối” chưa khoa học. Thậm chí, có lần tôi còn làm trò cười cho cả lớp. Tôi gọi cây đàn ghi ta (Lục huyền cầm) là cây đàn “cai – nha" khi làm bài văn thuyết minh. Giờ ra chơi, tôi ít ra sân đá cầu, nhảy dây cùng các bạn, v.v…
Tôi trở nên vụng về khi bước vào phòng chức năng học vẽ, học đàn, học hát. Buổi học hôm ấy, khi các bạn kéo ra sân chơi, tôi ở lại một mình trong phòng chức năng. Không biết tôi hí hoáy thế nào đó mà làm đứt dây đàn vĩ cầm. Sự cố xảy ra, tôi vô cùng lo sợ. Tôi dặn mình: “Chẳng ai biết mình gây ra. Cứ im lặng và tỉnh bơ…". Buổi tập hát tiếp tục. Cái Diệu kêu lên: ''Đàn đứt dây rồi!” Cô Liên và cô Chi hỏi: “ Ai làm đứt dây đàn?" Nhưng tất cả đều nhìn nhau im lặng! Cô Liên và cô Chi đều tỏ ý không vui. Sau sự cố ấy, thầy chủ nhiệm lớp 8A, hạ mức hạnh kiểm của cái Diệu (nhóm trưởng) cái Hoàn (nhóm phó) trong đội ca vũ xuống một bậc, từ loại tốt xuống loại khá. Năm học sắp kết thúc rồi. Diệu và Hoàn đều học giỏi, đàn ngọt, hát hay, được các thầy cô giáo và bạn học quý mến.
Chuyện ấy làm tôi day dứt trong lòng mãi. Nhiều đêm tôi trằn trọc và tự trách mình sao hèn nhát thế? Tại sao không dũng cảm tự nhận lỗi để Diệu và Hoàn mắc oan? Nhưng có lúc tôi lại nghĩ: "Mọi chuyện rồi sẽ trôi qua. Nhắc lại làm chi cho mệt…"
Lòng tự trọng đã nâng đỡ tâm hồn tôi. Tôi viết một bức thư dài gửi thầy chủ nhiệm nói rõ sự việc, xin nhận kỉ luật: đề nghị thầy không hạ mức hạnh kiểm của hai bạn Diệu, Hoàn…
Thầy Cảnh gặp riêng tôi. Thầy nói về lòng tự trọng, sự hèn nhát và lòng dũng cảm. Thầy an ủi, động viên tôi. Lúc đầu, tôi cứ ngỡ các bạn sẽ khinh ghét tôi, xa lánh tôi. Nhưng thật không ngờ, các bạn lại yêu mến, quý trọng tôi hơn trước. Tôi thấy tâm hồn mình thanh thản. Cuối năm học lớp 8, thi kiểm tra, tôi được 5 điểm 10, xếp loại giỏi văn hoá, loại tốt hạnh kiểm.
Nhớ lại kỉ niệm thời non dại ấy, bài học ngụ ngôn về chuyện “Đóng đinh lên cột và nhổ đinh” mỗi lần mắc một khuyết điểm và mỗi lần sửa chữa được một lỗi lầm… làm tôi cứ nao nao lòng.
|
My mood after something wrong happened to you
Instruct
Instructions for homework
a.Introduction:
-It happened a long time ago but every time I think about it I feel very embarrassed.
-I want to tell you about it to ease your mind.
b.Content:
- During Sinh's test, I couldn't do the test. I looked over and saw my friend writing intently, so I asked. You do not answer.
-I struggled to raise my notebook but the teacher reminded me so I couldn't do it.
-At the end of class, collect your cards because you're sitting at the head of the table, so when you collect your cards, you pretend to forget to give them to her.
-At break time, I'll sneak that card into your desk drawer.
-In the new class, you see that your assignment has not been submitted under your desk and you panic, thinking you forgot it.
-You go to see her and ask to submit it. Some people don't believe that you forgot but think that you had the intention to submit it later to make it complete.
-Miss, criticize you.
-Even later, you still don't know why your test was in your desk drawer. You're still very good, don't doubt yourself at all.
c. Conclusion
-You changed schools with your family.
-When we broke up, I didn't dare say anything. I think a lot about that and feel ashamed and regretful.
Refer to your good article Le My Ai 9A Phan Chau Trinh Secondary School - Quang Nam
In 6th and 7th grade, I competed in the district's best math student competition and won consolation prizes. Many people mocked me for winning the "giggle award!".
When I was in 8th grade, my parents moved to town. My two sisters and I both moved to a new school: Pham Ngu Lao Secondary School. Compared to my classmates, I only had good grades in math, and in Literature and English, I struggled but only got an average score. I was born with low self-esteem, and sometimes even appeared cowardly. During Vietnamese class, the teacher lectured very well, but I didn't dare raise my hand to speak. During study group activities and class activities, I sat as still as rice in a bag. On math tests, I only got 7 or 8 points; Ms. Thanh still criticizes that the "puppet presentation" is not scientific. One time I even made fun of the whole class. I call the guitar (Luc Huyen Cam) the "cai - nha" guitar when writing an expository essay. During recess, I rarely go to the yard to play shuttlecock, jump rope with my friends, etc.
I became clumsy when I entered the function room to learn how to draw, play the piano, and learn to sing. During class that day, when my friends went to the playground, I stayed alone in the function room. I don't know how I neighed and broke the violin string. When the incident happened, I was extremely scared. I told myself: “No one knows what I did. Just be quiet and calm..." The singing practice continued. Cai Dieu exclaimed: "The string on the guitar is broken!" Ms. Lien and Ms. Chi asked: "Who broke the strings?" But they all looked at each other silently! Ms. Lien and Ms. Chi both expressed dissatisfaction. After that incident, the homeroom teacher of class 8A lowered the conduct level of Dieu (leader) and Hoan (deputy) in the singing and dancing team down one level, from good to good. The school year is about to end. Dieu and Hoan both study well, play well, sing well, and are loved by teachers and classmates.
That story torments me forever. Many nights I tossed and turned and blamed myself for being so cowardly? Why don't Dieu and Hoan have the courage to admit their mistakes? But sometimes I think: "Everything will pass. Why bother repeating it..."
Self-esteem has supported my soul. I wrote a long letter to the homeroom teacher clearly stating the situation, asking for disciplinary action: asking him not to lower the conduct level of Dieu and Hoan...
Teacher Canh met me privately. He talked about self-respect, cowardice and courage. He comforted and encouraged me. At first, I thought you would despise me and stay away from me. But unexpectedly, you guys love and respect me more than before. I feel my soul at peace. At the end of the 8th grade year, on the test, I got 5 points out of 10, classified as good in culture and good in conduct.
Recalling those childhood memories, the parable of "nailing the nail to the post and pulling it out" every time I made a mistake and every time I corrected a mistake... made me feel uneasy.
|
Tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiểu tàn nơi phố huyện
Hướng dẫn
Những chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiểu tàn
Mở bài:
Trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 20, Thạch Lam thực sự đã thực hiện một cuộc hành trình đơn độc trong thế giới văn chương. Khác với các nhà văn trong nhóm Tự lục văn đoàn, nồng nhiệt và mạnh mẽ đổi mới, Thạch Lam âm thầm trở về với tâm hồn hồn hậu của làng quê và những xức cảm tinh vi, nhỏ bé. Ông trân trọng từng cảm xúc nảy nở và cố gắng diễn đạt nó bằng tất cả sức mạnh của ngôn ngữ. Bởi thế, cái thế giới vốn không ai để ý đến đã được Thạch Lam khám phá một cách trọn vẹn, tinh tế và tài hoa. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một thành công đặc sắc của lối văn chương ấy.
Thân bài:
Thạch Lam đã rất chú tâm khi miêu tả tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối. Ngoài việc mở ra bức tranh thiên nhiên, còn đi sâu vào tái hiện bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo. Qua bức tranh đó, ngòi bút nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam mới có dịp phát huy đầy đủ nhất.
Khác với các nhà văn khác, Thạch Lam không hướng ngòi bút vào cái hiện thực khắc nghirtj đương thời. Có lẽ, ông đã cảm thấy nó quá đủ làm con người đau khổ. Ông cũng không lảng tránh hiện thực ấy mà phản ánh mặt bề sâu của nó: tìm kiếm những rung động tinh tế còn sót lại trong tâm hồn đầy khổ nhục của con người.
Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn ngang những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam Cao, Ngô Tất Tố… Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua những chi tiết bình thường, giản dị như trên nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm hồn người đọc. Chính số phận quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người tàn, bức tranh của ngày tàn đã như thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của Liên, gây cho Liên một nỗi buồn man mác.
Thạch Lam đi sâu vào khai thác bức tranh tâm trạng nhân vật trước hoàn cảnh. Nhìn bề ngoài, nó tĩnh lặng như không có gì nhưng kì thực đang vận động mạnh mẽ ở bên trong. Và bước cuối cùng đạt đến sự chuyển hóa và thăng hoa mãnh liệt.
Mở đầu tác phẩm là bức tranh bầu trời chiều muôn thuở của làng quê Việt Nam. Buổi chiều trôi như những tiếng chuông đồng hồ điểm từng tiếng chuông thảng thốt: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran từ ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Liên như cảm nhận được sự trôi hảy của thời gian và ánh sáng chiều tàn buông trên không gian phố huyện. Bởi cô đã sống với nơi đây bằng tất cả trái tim mình.
Cái cảm giác buồn man mác: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi của cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi của đất, của quê hương này” thực sự được thăng hoa từ một tâm hồn đầy tinh tế.
Đi liền với hình ảnh chiều tàn, chợ tàn là hình ảnh những kiếp người tàn như là linh hồn, là đỉnh cao cảnh quan bức tranh chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo. Trong khung cảnh chiều tàn, phố huyện tiêu điều sau phiên chợ vãn người, cuộc sống sinh hoạt vất vả, đơn điệu của những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng thương biết bao.
Chợ vãn, chiều buông là một thời gian buồn thảm của một ngày. Nhưng với Liên không thế. Cô bé ấy không nghĩ nhiều về sự tàn lụi. Liên chỉ lặng lẽ sống với buổi chiều phố huyện bằng cả tâm hồn mình; lặng lẽ ngắm nhìn cuộc mưu sinh của lũ trẻ con nhà nghèo bằng cả trái tim trắc ẩn. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của người bán hàng để lại”.
Dường như gánh nặng cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn nhiên, tinh nghịch vốn có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ, tàn tạ nơi phố huyện. Những kiếp đời hắt hiu, nhỏ bé và cô độc đến đáng thương không khỏi khiến Liên thấy chạnh lòng lo lắng vẩn vơ.
Rồi đến gia đình chị Tý, một gia đình nhỏ bé lẩn chìm trong cuộc đơi. Những chén trà bán được bồi đắp cho niềm vui. Sự chắt chiu vụn vặt làm nên cuộc sống mẹ con chị. Tuy khó khăn vất vả nhưng cũng có nơi để đi về và làm những công việc đều đặn và quen thuộc.
Cùng với số phận của chị Tý là số phận của bác phở Siêu với gánh hàng phở leo lét ánh lửa. Đó là thứ hàng dù ngon nhưng “là một thứ quà xa xỉ” với người dân phố huyện nhưng vẫn không mấy được hào hứng đón nhận.
Cả phố huyện giờ chỉ thu nhỏ vào cái ngọn đèn con leo lắt ấy, còn xung quanh, bóng tối làm chủ tất cả “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Tất cả mấy đốm sáng, hột sáng thưa thớt tù mù. Những hột sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể làm cho đêm sáng ra, mà trái lại càng khiến cho đêm tối thêm mịt mùng dày đặc.
Đi vào những số phận nhỏ bé, những cuộc đời thường của người dân trên phố huyện, Thạch Lam đã nhóm lên ở đó chất thơ của đời thường, chất thơ của lòng trắc ẩn, của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo. Tất cả những nghịch cảnh ấy trải dài trước mắt Liên bao ngày. Nó cứ lặp đi lặp lại một cách quen thuộc và buồn chán. Và mỗi ngày một buồn hơn.
Thế nhưng, Liên đã kịp thanh lọc tất cả qua tầm hồn đầy rung cảm và mơ mộng của mình. Phố huyện dẫu nghèo nhưng dưới mắt Liên vẫn rất đẹp, vẫn nên thơ. Bởi cô đã dành cho nó một tình yêu máu thịt. Cái mùi âm ẩm của đất đai, của cát bụi vãn gieo lại ở Liên ấn tượng sâu đậm về mùi riêng của đất, của quê hương. Bởi nó là tình yêu thương, sự gắn bó, là chốn đi về của tâm hồn cô.
Khi màn đêm dần buông trên phố huyện, ánh mắt của Liên vẫn âm thầm dõi theo cuộc mưu sinh của những con người nhỏ bé trong đêm tối đầy cảm thông và chia sẻ. Nỗi thương ấy vừa dáng quý, đáng thương và thật đáng trân trọng. Bởi cô cũng chẳng khác gì họ, đang vật lộn với cuộc đời đầy vất vả, cơ cực, mỏi mòn, tù động và trống vắng những niềm vui.
Liên bâng khuâng nhớ về “Hà Nội nhiều đèn quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”. Nhưng giờ đây, ánh sáng ấy chỉ là bóng mờ kí ức trong đêm. Cô lặng lẽ lắng tâm hồn mình quay ngược thời gian trở về với phố thị phồn hoa, rực rỡ để cố tìm lại những kỉ niệm xa xam vời vợi.
Hà Nội có đầy đủ âm thanh, sắc màu. Hà Nội có cuộc sống vui vẻ, nhộn nhịp. Hà Nội có những thứ sa sỉ mà ở cái phố huyện nghèo này không có. Liên và An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại khi ở Hà Nội “chị được hưởng những thứ quà ngon lạ như thế… được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”.
Liên cùng những người bán hàng rong xung quang gắng đợi đoàn tàu qua phố huyện. Một sự chờ đợi đầy chán chường bởi họ biết sẽ không có gì mới khi đoàn tàu chạy qua. Bóng tối sẽ trở về với bóng tối. Cuộc đời vẫn lầm lụi, hiu hắt và buồn thương. Thế nhưng, trong khoảnh khắc bừng sáng hiếm hoi ấy, họ đã kịp gửi tâm hồn mình theo những ước mơ xa xôi về một cuộc sống nhiều cung bậc, nhiều thanh âm và ánh sáng.
Liên khát khao khắc khoải, háo hức chờ mong một sự đổi thay, khao khát một cái gì khác thường khuấy động cái không khí đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh, tù túng, lụi tắt dần trong đêm tối. Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn chị Tý và ánh lửa bác Siêu leo lắt giữa cái đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện. Liên hân hoan, ngây ngất ngắm nhìn chuyến tàu đó.
Chuyến tàu đi qua. Miền quê lặng lẽ lại đi vào cái tĩnh mịch vốn có. Nó lại trầm tư như chưa từng có gì xảy đến. “Sao trên trời vẫn lấp lánh, cả phố huyện bây giờ mới thật là hết náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn ma”.
Có lẽ, bây giờ chỉ còn mình Liên thao thức với một tâm hồn mang nặng nỗi niềm u uẩn. Tâm hồn cô nán lại lay lắt cùng ánh đèn dầu của chị Tý. ánh đèn nhỏ nhoi, mông lung, vô định trong tâm hồn thơ dại của Liên. Ánh sáng cùng tâm hồn cô bây vụt vào bóng tối khi đoàn tàu vội qua, để chìm vào giấc ngủ yên tĩnh. một giấc ngủ yên tĩnh như đêm phố huyện tịch mịch và đầy bóng tối. Nó làm động lại trong ta biết bao suy nghĩ về thân phận con người trong một thời kì buồn thảm của lịch sử dân tộc. Nỗi bận bụi vô hạn mà nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận khi đọc hai đứa trẻ có lẽ cũng bắt nguồn từ chính những suy nghĩ về thân phận con người ấy chăng.
Kết bài:
Người ta vẫn sẽ tìm đọc Hai đứa trẻ để sống trọn vẹn một mảnh hồn của làng quê đất Việt. Quan trọng hơn, ta vẫn đọc Hai đứa trẻ để thêm trân quý cuộc sống xung quanh; để biết rằng cuộc sống có thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn tươi đẹp, vẫn nên thơ, vẫn mãi là một miền thương nhớ trong tâm tưởng. Bởi đơn giàn, đó chính là tình quê hương chan chứa không bao giờ nguôi cạn.
|
Tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiểu tàn nơi phố huyện
Hướng dẫn
Những chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiểu tàn
Mở bài:
Trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 20, Thạch Lam thực sự đã thực hiện một cuộc hành trình đơn độc trong thế giới văn chương. Khác với các nhà văn trong nhóm Tự lục văn đoàn, nồng nhiệt và mạnh mẽ đổi mới, Thạch Lam âm thầm trở về với tâm hồn hồn hậu của làng quê và những xức cảm tinh vi, nhỏ bé. Ông trân trọng từng cảm xúc nảy nở và cố gắng diễn đạt nó bằng tất cả sức mạnh của ngôn ngữ. Bởi thế, cái thế giới vốn không ai để ý đến đã được Thạch Lam khám phá một cách trọn vẹn, tinh tế và tài hoa. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một thành công đặc sắc của lối văn chương ấy.
Thân bài:
Thạch Lam đã rất chú tâm khi miêu tả tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối. Ngoài việc mở ra bức tranh thiên nhiên, còn đi sâu vào tái hiện bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo. Qua bức tranh đó, ngòi bút nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam mới có dịp phát huy đầy đủ nhất.
Khác với các nhà văn khác, Thạch Lam không hướng ngòi bút vào cái hiện thực khắc nghirtj đương thời. Có lẽ, ông đã cảm thấy nó quá đủ làm con người đau khổ. Ông cũng không lảng tránh hiện thực ấy mà phản ánh mặt bề sâu của nó: tìm kiếm những rung động tinh tế còn sót lại trong tâm hồn đầy khổ nhục của con người.
Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn ngang những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam Cao, Ngô Tất Tố… Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua những chi tiết bình thường, giản dị như trên nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm hồn người đọc. Chính số phận quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người tàn, bức tranh của ngày tàn đã như thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của Liên, gây cho Liên một nỗi buồn man mác.
Thạch Lam đi sâu vào khai thác bức tranh tâm trạng nhân vật trước hoàn cảnh. Nhìn bề ngoài, nó tĩnh lặng như không có gì nhưng kì thực đang vận động mạnh mẽ ở bên trong. Và bước cuối cùng đạt đến sự chuyển hóa và thăng hoa mãnh liệt.
Mở đầu tác phẩm là bức tranh bầu trời chiều muôn thuở của làng quê Việt Nam. Buổi chiều trôi như những tiếng chuông đồng hồ điểm từng tiếng chuông thảng thốt: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran từ ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Liên như cảm nhận được sự trôi hảy của thời gian và ánh sáng chiều tàn buông trên không gian phố huyện. Bởi cô đã sống với nơi đây bằng tất cả trái tim mình.
Cái cảm giác buồn man mác: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi của cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi của đất, của quê hương này” thực sự được thăng hoa từ một tâm hồn đầy tinh tế.
Đi liền với hình ảnh chiều tàn, chợ tàn là hình ảnh những kiếp người tàn như là linh hồn, là đỉnh cao cảnh quan bức tranh chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo. Trong khung cảnh chiều tàn, phố huyện tiêu điều sau phiên chợ vãn người, cuộc sống sinh hoạt vất vả, đơn điệu của những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng thương biết bao.
Chợ vãn, chiều buông là một thời gian buồn thảm của một ngày. Nhưng với Liên không thế. Cô bé ấy không nghĩ nhiều về sự tàn lụi. Liên chỉ lặng lẽ sống với buổi chiều phố huyện bằng cả tâm hồn mình; lặng lẽ ngắm nhìn cuộc mưu sinh của lũ trẻ con nhà nghèo bằng cả trái tim trắc ẩn. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của người bán hàng để lại”.
Dường như gánh nặng cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn nhiên, tinh nghịch vốn có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ, tàn tạ nơi phố huyện. Những kiếp đời hắt hiu, nhỏ bé và cô độc đến đáng thương không khỏi khiến Liên thấy chạnh lòng lo lắng vẩn vơ.
Rồi đến gia đình chị Tý, một gia đình nhỏ bé lẩn chìm trong cuộc đơi. Những chén trà bán được bồi đắp cho niềm vui. Sự chắt chiu vụn vặt làm nên cuộc sống mẹ con chị. Tuy khó khăn vất vả nhưng cũng có nơi để đi về và làm những công việc đều đặn và quen thuộc.
Cùng với số phận của chị Tý là số phận của bác phở Siêu với gánh hàng phở leo lét ánh lửa. Đó là thứ hàng dù ngon nhưng “là một thứ quà xa xỉ” với người dân phố huyện nhưng vẫn không mấy được hào hứng đón nhận.
Cả phố huyện giờ chỉ thu nhỏ vào cái ngọn đèn con leo lắt ấy, còn xung quanh, bóng tối làm chủ tất cả “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Tất cả mấy đốm sáng, hột sáng thưa thớt tù mù. Những hột sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể làm cho đêm sáng ra, mà trái lại càng khiến cho đêm tối thêm mịt mùng dày đặc.
Đi vào những số phận nhỏ bé, những cuộc đời thường của người dân trên phố huyện, Thạch Lam đã nhóm lên ở đó chất thơ của đời thường, chất thơ của lòng trắc ẩn, của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo. Tất cả những nghịch cảnh ấy trải dài trước mắt Liên bao ngày. Nó cứ lặp đi lặp lại một cách quen thuộc và buồn chán. Và mỗi ngày một buồn hơn.
Thế nhưng, Liên đã kịp thanh lọc tất cả qua tầm hồn đầy rung cảm và mơ mộng của mình. Phố huyện dẫu nghèo nhưng dưới mắt Liên vẫn rất đẹp, vẫn nên thơ. Bởi cô đã dành cho nó một tình yêu máu thịt. Cái mùi âm ẩm của đất đai, của cát bụi vãn gieo lại ở Liên ấn tượng sâu đậm về mùi riêng của đất, của quê hương. Bởi nó là tình yêu thương, sự gắn bó, là chốn đi về của tâm hồn cô.
Khi màn đêm dần buông trên phố huyện, ánh mắt của Liên vẫn âm thầm dõi theo cuộc mưu sinh của những con người nhỏ bé trong đêm tối đầy cảm thông và chia sẻ. Nỗi thương ấy vừa dáng quý, đáng thương và thật đáng trân trọng. Bởi cô cũng chẳng khác gì họ, đang vật lộn với cuộc đời đầy vất vả, cơ cực, mỏi mòn, tù động và trống vắng những niềm vui.
Liên bâng khuâng nhớ về “Hà Nội nhiều đèn quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”. Nhưng giờ đây, ánh sáng ấy chỉ là bóng mờ kí ức trong đêm. Cô lặng lẽ lắng tâm hồn mình quay ngược thời gian trở về với phố thị phồn hoa, rực rỡ để cố tìm lại những kỉ niệm xa xam vời vợi.
Hà Nội có đầy đủ âm thanh, sắc màu. Hà Nội có cuộc sống vui vẻ, nhộn nhịp. Hà Nội có những thứ sa sỉ mà ở cái phố huyện nghèo này không có. Liên và An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại khi ở Hà Nội “chị được hưởng những thứ quà ngon lạ như thế… được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”.
Liên cùng những người bán hàng rong xung quang gắng đợi đoàn tàu qua phố huyện. Một sự chờ đợi đầy chán chường bởi họ biết sẽ không có gì mới khi đoàn tàu chạy qua. Bóng tối sẽ trở về với bóng tối. Cuộc đời vẫn lầm lụi, hiu hắt và buồn thương. Thế nhưng, trong khoảnh khắc bừng sáng hiếm hoi ấy, họ đã kịp gửi tâm hồn mình theo những ước mơ xa xôi về một cuộc sống nhiều cung bậc, nhiều thanh âm và ánh sáng.
Liên khát khao khắc khoải, háo hức chờ mong một sự đổi thay, khao khát một cái gì khác thường khuấy động cái không khí đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh, tù túng, lụi tắt dần trong đêm tối. Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn chị Tý và ánh lửa bác Siêu leo lắt giữa cái đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện. Liên hân hoan, ngây ngất ngắm nhìn chuyến tàu đó.
Chuyến tàu đi qua. Miền quê lặng lẽ lại đi vào cái tĩnh mịch vốn có. Nó lại trầm tư như chưa từng có gì xảy đến. “Sao trên trời vẫn lấp lánh, cả phố huyện bây giờ mới thật là hết náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn ma”.
Có lẽ, bây giờ chỉ còn mình Liên thao thức với một tâm hồn mang nặng nỗi niềm u uẩn. Tâm hồn cô nán lại lay lắt cùng ánh đèn dầu của chị Tý. ánh đèn nhỏ nhoi, mông lung, vô định trong tâm hồn thơ dại của Liên. Ánh sáng cùng tâm hồn cô bây vụt vào bóng tối khi đoàn tàu vội qua, để chìm vào giấc ngủ yên tĩnh. một giấc ngủ yên tĩnh như đêm phố huyện tịch mịch và đầy bóng tối. Nó làm động lại trong ta biết bao suy nghĩ về thân phận con người trong một thời kì buồn thảm của lịch sử dân tộc. Nỗi bận bụi vô hạn mà nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận khi đọc hai đứa trẻ có lẽ cũng bắt nguồn từ chính những suy nghĩ về thân phận con người ấy chăng.
Kết bài:
Người ta vẫn sẽ tìm đọc Hai đứa trẻ để sống trọn vẹn một mảnh hồn của làng quê đất Việt. Quan trọng hơn, ta vẫn đọc Hai đứa trẻ để thêm trân quý cuộc sống xung quanh; để biết rằng cuộc sống có thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn tươi đẹp, vẫn nên thơ, vẫn mãi là một miền thương nhớ trong tâm tưởng. Bởi đơn giàn, đó chính là tình quê hương chan chứa không bao giờ nguôi cạn.
|
Đề bài: Tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Khi con tu hú của nhà thơ Tố Hữu
Bài làm
Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ ông ngập tràn những hình ảnh làng mạn cách mạng. Tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Khi con tu hú của ông tiêu biểu cho phong cách ấy.
Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ). Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điếm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.
Có thể tóm tắt nội dung bài thơ như sau: Khỉ con tu hú gọi bầy (cũng là khi mùa hè đang đến), người tù cách mạng càng thấy ngột ngạt, cô đơn trong phòng giam chật hẹp, càng khát khao được sống cuộc sống tự do bay bổng ở ngoài kia.
Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi nó là tín hiệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim "gọi bầy", tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng "lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần". Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đẩy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh "Đôi con diều sáo lộn nhào từng không". Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.
Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải "hạt bắp vàng mà là "bắp rây vàng hạt" nắng là "nắng đào" màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì "càng rộng càng cao" tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ "ngân" mà còn "dậy" lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hoà điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cánh diều sáo cũng không chịu lững lờ" hay "vi vu" mà "lộn nhào từng không”. Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.
Sở dĩ có hiện tượng đó là bởi tác giả đã không trực tiếp quan sát và miêu tả cảnh vật. Nhà thơ đang bị giam trong tù. Những bức tường kín mít vây xung quanh làm sao cho phép nhà thơ nhìn ngắm hay lắng nghe… Tất cả đều được tái hiện từ trí tưởng tượng, trí nhớ và hơn thế nữa là tình yêu, lòng khát khao mãnh liệt được tháo cũi sổ lồng. Trong cảnh tù đày, màu ngô lúa hay màu nắng, màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế nên những màu sắc, âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh, huyền ảo, rực rỡ hẳn lên. Đoạn thơ này thể hiện tình yêu sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc sống, đôi với quê hương.
Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giơi bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.
Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau, ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù cố cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù dầy.
Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sàu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.
|
Topic: The mood of a revolutionary soldier in the poem When I Howl by poet To Huu
Assignment
To Huu is a poet of communist ideals, his poetry is filled with images of revolutionary villages. The revolutionary soldier's mood in his poem When the Children Howl represents that style.
The title of the article is just a phrase indicating time (still incomplete). The title of the poem is a hint that both refers to a moment of awakening of nature and creation, as well as to the desire for human activity.
The poem's content can be summarized as follows: The little monkey howls at the flock (also when summer is coming), the revolutionary prisoner feels more stuffy and lonely in the cramped cell, and the more he longs to live a better life. Live freely and fly out there.
The reason why the howling sound has a strong impact on the poet's soul is because it is a signal that the bright summer days are approaching. It is also a symbol of free flight.
When you howl and call the herd
The rice is slowly ripening, the fruit is gradually sweetening.
Not the sound of a solitary bird, but the sound of a bird "calling to the flock", the sound of a bird announcing good news. Listening to howling birds call each other, we know that "the rice is ripening, the fruit is gradually sweetening". But not only that. The sound of birds evokes a world filled with sounds, colors, and images:
The shady garden is filled with the sound of cicadas
Corn sifted with yellow kernels pushed into the sunny peach yard
The blue sky is wider and higher
A pair of starling kites somersaulted without...
Those are the colors and sounds of everyday life. The yellow color of corn and the pink color of sunlight stand out on the blue background of heaven and earth, mixed with the sound of cicadas and are also embellished with the image "A pair of starling kites tumbling through the air". The space is full of life, moving and proliferating every day.
Reading the verses carefully, we suddenly discover many other strange things. Events are not depicted in their normal state, they are highlighted, pushed to the highest possible level. Not "golden corn kernels but "golden sifted corn kernels" the sun is "peach sunshine" the most gorgeous colors, the blue sky is "the wider the higher" the view keeps expanding further. The sound of cicadas is not only " but also "wake up", the two adjectives describing the sound combined together make the cicadas' unusually bustling sound. As if to harmonize with those sounds and images, the fluted kite also refused to stay still. "Ignoring" or "vi vu" but "tumbling around in nothing". The kites seemed to be excited and happy in that space of splendid colors and bustling sounds.
The reason for that phenomenon is because the author did not directly observe and describe the scene. The poet is being held in prison. The tight surrounding walls do not allow the poet to look or listen... All are recreated from imagination, memory and moreover, love, the strong desire to escape the window. cage. In prison, the color of corn and rice, the color of sunshine, the color of the blue sky suddenly becomes incredibly precious, so the very ordinary colors and sounds suddenly become sparkling, fanciful, and brilliant. . This poem shows the poet's deep love for life and his homeland.
The more beautiful the dream, the more bitter and cruel the reality.
I hear summer rising in my heart
But my feet want to smash the room, oh summer!
How sad, I'm just dying of frustration
The howling bird outside keeps calling!
It seems that the connection between these two verses is not very tight and the four verses are not continuous. When looking outward, the poet describes the scene, but when looking inward, he describes the mood. In fact, this is an extremely skillful and delicate connection. That connection is the sound of howling birds. The earnest call of birds evokes a vast and extremely lively world. But the more spacious and brilliant that world is, the more it makes the prisoner (who has been separated from that world) feel suffocated and longing.
Although the howling sounds of birds at the beginning and end of the poem both symbolize the passionate call of freedom and the seductive life out there for the prisoner, the prisoner's mood when hearing the howling sound is very different. In the first verse, the sound of howling evokes the image of a colorful life, thereby evoking the desire for a free life. However, at the end, the sound of that bird made the prisoner feel frustrated and miserable because he could not escape from prison.
The poem is good in its close, simple yet richly evocative poetic images, in the art of using flexible and natural six-eight verse form and also in its passionate, thoughtful emotions, expressing the source of life. communist ferment.
|
Tâm trạng nhân vật “tôi” trong truyện “Tôi đi học” – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
Tôi đi học của tác giả Thanh Tịnh là một truyện ngắn thể hiện một cách xúc động tâm trạng hồi hộp, cảm giác bỡ ngỡ của nhân vật tôi trong lần đầu tiên được đến trường.
Đó là “một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh”, chú bé mặc “chiếc áo vải dù đen dài”, chú cảm thấy trang trọng và đứng đắn. Lòng chú tưng bừng rộn rã khi được mẹ hiền âu yếm nắm tay dẫn đi trên con đường làng quen thuộc dài và hẹp. Chú xúc động vô cùng, cảm thấy bỡ ngỡ và lạ lùng như con đường ấy chú chưa từng đặt chân đến. Mọi cảnh vật xung quanh thay đổi theo tâm trạng chú bé vì chính lòng tôi có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học.
Chú bâng khuâng tự hào khi thấy mình đã lớn khôn, không còn lêu lổng đi thả diều, ra đồng nô đùa như thằng Sơn, thằng Quý nữa. Chú thèm cảnh mấy cậu học trò bằng tuổi mình áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao cho nhau sách vở. Chỉ cầm hai quyển vở mới, dù tay ghì thật chặt mà chú vẫn cảm thấy nặng, một quyển vở rơi khỏi đôi tay bỡ ngỡ. Nhìn thấy mấy cậu ôm sách vở mới lại còn kèm cả bút thước nữa, chú ngây thơ nghĩ chắc chỉ có người thạo mới cầm nổi bút thước. Ý nghĩ ấy của cậu bé đã thoáng qua trong tâm trí một cách nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.
Chú bé cũng như nhiều cậu học trò khác, bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nửa và đi từng bước nhẹ. Tất cả đều như con chim non đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ.
Chú cảm thấy lòng mình vô cùng hồi hộp khi hồi trống trường vang lên, cảm thấy mình bơ vơ, vụng về, lúng túng. Các học trò khác cũng vì hồi hộp mà run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp. Lúc nghe ông Đốc học đọc tên từng người, chú bé xúc động, hồi hộp đến độ quả tim như ngừng đập, giật mình lúng túng, chú quên cả mẹ đứng sau mình. Nghe ông Đốc học dặn dò, không em nào dám trả lời; trước cái nhìn của mọi người, chú bé cũng như các học trò khác thêm lúng túng. Nhiều học trò mới ôm mặt khóc, chú bé cũng dúi đầu vào lòng mẹ mà nức nở theo. Mặc dù lúc ấy được bàn tay quen nhẹ của mẹ hiền vuốt mái tóc cho, nhưng chú vẫn cảm thấy cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết khi xếp hàng đi vào lớp: “Trong thời thơ ấu, tôi chưa lần nào thấy xa mẹ tôi như lần này”.
Thanh Tịnh đã rất khéo léo khi diễn tả những kỉ niệm của buổi đầu tiên đến lớp của nhân vật tôi, qua đó diễn tả tâm trạng và cảm giác bỡ ngỡ khi lần đầu tiên được cắp sách đến trường. Cảm giác của nhân vật diễn biến theo trình tự thời gian và không gian, lúc đầu là buổi sớm mai mẹ dắt đi trên con đường làng, sau đó là lúc đứng giữa sân trường, một hồi trống vang lên, nghe ông Đốc học đọc tên và dặn dò, cuối cùng là khi thầy giáo trẻ đưa vào lớp.
Kỉ niệm của ngày tựu trường đầu tiên rất sâu sắc và đẹp đẽ, chính vì thế hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường đầu tiên.
|
The mood of the character "I" in the story "I go to school" - Topics and sample essays 8
Instruct
Assignment
I Go to School by author Thanh Tinh is a short story that emotionally expresses the nervousness and feeling of surprise my character feels when going to school for the first time.
It was "a morning full of autumn dew and cold wind", the boy wore "a long black parachute coat", he felt solemn and dignified. His heart was filled with joy as his gentle mother lovingly held his hand and led him along the familiar long and narrow village road. He was extremely moved, feeling confused and strange as if he had never been on that road before. Everything around changed according to the boy's mood because my own heart had a big change: today I go to school.
He felt wistfully proud when he saw that he had grown up and was no longer wandering around flying kites or playing in the fields like Son and Quy. He craved the sight of students the same age as him wearing neat clothes, jokingly calling each other's names or exchanging books. Only holding two new notebooks, even though he held them tightly, he still felt heavy. One notebook fell from his surprised hands. Seeing the boys carrying new books and pencils and rulers, he naively thought that only skilled people could hold pens and rulers. That thought of the boy passed through his mind as gently as a cloud passing over a mountain.
The boy, like many other students, stood awkwardly next to his relatives, only daring to look half way and walk slowly. Everyone is like a young bird standing on the edge of the nest, looking at the vast sky and wanting to fly, but still hesitant and afraid.
He felt extremely nervous when the school drum sounded, feeling helpless, clumsy, and confused. The other students were also nervous and trembling along with the bustling pace of the classes. When he heard Mr. Doc read each person's name, the little boy was so emotional and nervous that his heart stopped beating, he was startled and confused, he forgot his mother was standing behind him. Listening to Mr. Doc's instructions, no one dared to answer; Under everyone's gaze, the boy as well as the other students became more confused. Many new students covered their faces and cried, the little boy also buried his head in his mother's arms and sobbed along. Even though at that time his mother's gentle, familiar hand stroked his hair, he still felt more lonely and lonely than ever when lining up to go to class: "In my childhood, I never once saw far away from home." my mother like this time."
Thanh Tinh was very skillful in describing the memories of my character's first day of class, thereby expressing the mood and feeling of surprise when going to school for the first time. The character's feelings evolve in the order of time and space, first in the morning when his mother takes him for a walk on the village road, then when he stands in the middle of the school yard, a drum sounds, listening to Mr. Doc learn to read. names and instructions, finally when the young teacher brought them into class.
The memories of the first day of school are very profound and beautiful, that's why every year at the end of autumn, when many leaves fall on the street and there are silver clouds in the sky, my heart is filled with fond memories. of the first back-to-school session.
|
Tê – lê – mác kể lại cảnh người cha của mình là Uy-lít – xơ trở về
Hướng dẫn
Tê – lê – mác kể lại cảnh người cha của mình là Uy-lít – xơ trở về
Bài làm
Tê-lê-mác là tên của tôi, tôi là con trai của vị anh hùng Uy-lít-xơ. Người cha vĩ đại của tôi,sau khi hạ được thành Tơ-roa đã phải trái qua hai mươi năm lênh đênh trên biển cả, không biết đương đầu với bao nhiêu thử thách mới trở được về quê hương I-tác. Chỉ có điều cha tôi giấu mình trong bộ dnajg của một kẻ ăn mày rách rưới. để thử xem người vợ hiền yêu dấu – chính là mẹ tôi có nhận ra cha không.
Thuyền của vua xứ Phê-a-ki đưa cha tôi về khi mẹ tôi phải đối phó với 108 gã đàn ông quyền quý trong vùng tranh nhau đến cầu hôn. Chúng xảo quyệt, hung hãn, quấy rối suốt ngày này qua tháng khác để rắp tâm ép buộc mẹ tôi và chiếm đoạt tài sản của gia đình tôi. Mẹ tôi phải tìm mọi cách chối từ, mẹ tôi đưa ra cách nếu ai giương cung, bắn xuyên qua mười hai cái vòng rìu thì bà sẽ lấy kẻ đó. Tất cả bọn cầu hôn đều thất bại chỉ trù cha tôi. Tôi dần nhận ra cha vì thân hình lực lưỡng cánh tay giương cung cơ bắp nổi cuồn cuộn, ánh mắt cháy rừng rực như ngọn lửa mặt trời. Tôi chạy đến bên cha kể cho cha nghe mọi chuyện và cùng cha trừng trị bọn cầu hôn cũng như những gia nhăn phản bội. Lúc rửa chân cho cha, nhũ mẫu ơ-ri-clê đã nhận ra người qua vết sẹo ở chân và mặc dù bị cha ngăn lại, nhũ mẫu vẫn đem chuyện kể cho mẹ tôi nghe. Thật khác với những gi tôi tưởng tượng, mẹ tôi không tin.
Mặc kệ cho tôi,đứa con yêu quý của bà trách mắng nhưng mẹ tôi vẫn nói những lòi yêu thương ngọt ngào. Người nói với tôi để bóng gió với cha rằng họ có những dấu hiệu riêng để nhận ra nhau. Cha tôi nhẫn nại mỉm cười và nói với tôi những lời có cánh. Tôi chỉ biết đáp lại: “Cha thân yêu, việc này xin để tùy cha định liệu, vì xưa nay cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp”.
Sau đó, cha bảo mọi người đi tắm rồi mặc quần áo đẹp, nhảy múa ca hát để mọi người lầm tưởng rằng nhà có đám cưới và dặn tất cả hãy giữ kín mọi chuyện cho đến khi hai cha con tôi về đến trang trại của ông nội, sắp đặt xong cha cũng đi tắm. Ông bước ra đẹp như một vị thần. Người trở về chỗ cũ, đối diện với mẹ và nói: Khốn khổ! Hẳn là các thần tiên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết… vì một người khác chắc không có gan ngồi xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở”. Người quay sang nói với nhũ mẫu Ơ-ric-lê: “Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình”. Mẹ tôi vẫn rất thận trọng đáp lời cha tôi và nói với nhũ mẫu: “Ơ-ric-lê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường”.
Gặp lại chồng mình sau hơn hai mươi năm mòn mỏi chờ đợi, mẹ tôi sung sướng vô cùng! Mẹ nhìn ngắm cha không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của mẹ cứ ôm cổ cha không muốn rời.Cảnh tượng ấy khiến trái tim tôi – đứa con trai duy nhất của hai người, cứ thổn thức mãi không nguôi vì xúc động vì hạnh phúc. Từ đây tôi sẽ luôn được sống trong sự thương yêu che chở của mẹ, của cha.
|
Te - le - mac recounts the scene of his father Uy-lit - nun returning
Instruct
Te - le - mac recounts the scene of his father Uy-lit - nun returning
Assignment
Telemac is my name, I am the son of the hero Uyghur. My great father, after conquering the city of Troy, had to spend twenty years at sea, not knowing how many challenges he had to face before returning to his hometown of Itachi. Only my father hid himself in the clothes of a ragged beggar. to see if my beloved wife - my mother - recognizes my father.
The boat of the king of Peaki brought my father home when my mother had to deal with 108 noble men in the area competing to propose marriage. They were cunning, aggressive, and harassed day after month to try to coerce my mother and usurp my family's property. My mother had to find every way to refuse. My mother suggested that if anyone drew a bow and shot through twelve ax rings, she would marry that person. All the suitors failed except my father. I gradually recognized my father because of his muscular body, his arms holding a bow, his muscles bulging, and his eyes burning like the fire of the sun. I ran to my father and told him everything and together with my father punished the suitors as well as the betrayers. While washing my father's feet, the nurse recognized him through the scar on his leg and even though my father stopped him, the nurse still told the story to my mother. It was so different from what I imagined, my mother didn't believe it.
Even though I, her beloved child, scolded me, my mother still spoke sweet words of love. The person who told me hinted to his father that they had their own signs to recognize each other. My father patiently smiled and told me kind words. I could only reply: "Dear father, please leave this matter to your discretion, because you have always been a famous and wise man, unmatched by any mortal."
After that, my father told everyone to take a bath, put on nice clothes, dance and sing so that everyone would mistakenly think there was a wedding at home and told everyone to keep everything a secret until my father and I returned to our farm. Grandpa, after finishing the arrangements, I'm going to take a shower. He came out as beautiful as a god. He returned to his original place, faced his mother and said: Miserable! Surely the Olympians had given her a heart harder than anyone else's... because another person probably wouldn't have had the guts to sit so far away from her husband, when her husband had been away for twenty years, spending After all the hardships, I have now returned to my country." He turned to his nurse Euricle and said, "Please give me a bed so I can sleep alone." My mother still very cautiously responded to my father and said to the nurse: “Ericle! Please carry the sturdy bed out of the room with solid walls that Uylis built with his own hands, then use sheep skins, blankets, and beautiful fabrics to spread on the bed.
Seeing her husband again after more than twenty years of waiting, my mother was extremely happy! Mother never got tired of looking at father and her white arms kept hugging father's neck, not wanting to let go. That scene made my heart - the only son of the two of them, sob endlessly with emotion because happy. From now on, I will always live in the love and protection of my mother and father.
|
Đề bài: Tê-lê-mác kể lại cành người cha của mình là Uy-lít-xơ trở về
Bài làm
Sau hơn hai mươi năm trời ròng rã xa quê hương, phải chịu bao nhiêu gian nan, thử thách, giờ thì cha tôi đã trở về nhà. Chỉ có điều là cha giấu mình trong bộ dạng của một kẻ ăn mày rách rưới. Cha làm như vậy để thử xem người vợ hiền yêu dấu của mình có nhận ra mình hay không.
Trong thời gian dài, cha tôi vắng nhà, mẹ tôi phải thường xuyên đối phó với 108 gã đàn ông quyền quý trong vùng tranh nhau đến cầu hôn. Chúng xảo quyệt, hung hãn, quấy rối suốt ngày này qua tháng khác để rắp tâm ép buộc mẹ tôi và chiếm đoạt tài sản của gia đình tôi. Pê-nê-lốp – Người đàn bà thông minh xinh đẹp là mẹ cùa tôi, luôn phải nghĩ ra trăm phương ngàn kế để kéo dài thời gian, hy vọng cha tôi sẽ trở về.
Vì nói là có biết một số điều về Uy-lít-xơ nên gã hành khất – tức là cha tôi đã lọt vào trong ngôi nhà của mình. Ông được mẹ tôi cho phép ở lại để kể cho mẹ tôi nghe những điều về người chồng yêu quý mà mẹ đang mong mỏi đợi chờ. Hôm sau, mẹ tôi tổ chức một cuộc thi bắn cung và ra điều kiện nếu ai giương được cây cung của Uy-lít-xơ thì sẽ lấy làm chồng. Hàng trăm kẻ quý tộc không kẻ nào nâng nổi. Gã hành khuất xin tham dự và đã thắng. Tôi nhận ra cha. Với cây cung trong tay, cha tôi đã đánh đuổi tiêu diệt những kẻ cầu hôn quấy nhiễu và lũ đầy tớ phản chủ. Bà nhũ mẫu Ơ-ri-lê lên gác báo tin là Uy-lít-xư đã trở về nhưng mẹ tôi không tin và bảo rằng bà chớ vội vui mừng vì có lẽ ugười đánh tan lũ cầu hôn láo xược là một vị thần nào đó. Còn Uy-lít-xơ thì không còn hy vọng trở về vì chàng đã chết.
Nhũ mẫu vẫn một mực khẳng định là cha tôi đang ở dưới nhà và giục mẹ tôi hãy mau xuống đón mừng. Bà còn nói rõ dấu hiệu khó quên là cái sẹo ở chân cha tôi, dấu vết của một lần ông đi săn bị nanh trắng của con lợn nòi húc vào. Mẹ tôi vẫn chưa tin, quay sang bảo nhủ mẫu hãy cùng xuống nhà để xem xác chết của bọn cầu hôn và kẻ giết chúng.
Xuống đến nơi, mẹ tôi bước qua ngưỡng cửa bằng đá rồi đến ngồi trước mặt cha tôi, trong khi ông tựa lưng vào cái cột, mắt nhìn xuống đất, hồi hộp xem người vợ cao quý sẽ nói gì khi nhận ra mình. Mẹ tôi vẫn ngồi lặng thinh, vẻ mặt sửng sốt, lúc thì đăm đăm nhìn chồng, lúc lại như là không nhận ra người chồng yêu quý trong bộ quần áo rách mướp của kẻ ăn mày.
Không nén nổi tức giận, tôi buột miệng trách sao mẹ lại tàn nhẫn như thế. Mẹ không hỏi han, cũng chẳng đến bên cha vồn vã trò chuyện. Tôi thầm nghĩ chắc trên thế gian chẳng có người vợ nào sắt đá đến nỗi chồng đi xa biền biệt hai mươi năm, trải qua biết bao gian lao, bây giờ mới trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng đến vậy.
Mẹ tôi không giận mà dịu dàng đáp: Tê-lê-mác con ơi, lòng mẹ kinh ngạc quá chừng! Mẹ không sao nói được một lời, mẹ không thể hỏi han, không thể nhìn thẳng mặt người. Nếu quả thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ cũng đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ củng sẽ nhận được ra nhau một cách dễ dàng, vì cha mẹ có những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết.
Nghe mẹ tôi nói vậy, cha tôi nhẫn nại mỉm cười và nói với tôi: Tê-lê-mác con! Đừng la rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thể nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy. Hiện giờ cha còn bẩn thỉu, áo quần rách rưới nên mẹ con khinh cha chưa nói: “Đích thị là chàng rồi. Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xém nên xử trí tình huống thế nào cho ổn thỏa nhất. Nếu có ai giết chết một người trong xứ sở, chỉ một người thôi và dù kẻ bị giết chẳng có ai báo thù cho nữa, thì người ấy củng phải rời bỏ cha mẹ, đất nước, trốn đi. Huống hồ chúng ta đây, chúng ta đã hạ cả thành lũy bảo vệ đô thị này, giết các chàng trai của những gia đinh quyền quý nhất. Tình huống ấy cha khuyên con nên suy nghĩ.
Tôi kính cẩn thưa rằng mọi việc xin cha cứ định liệu, vì xưa nay, cha vốn là người sáng sụốt. Tôi cũng hứa sẽ hết lòng phù tá cha tôi.
Sau đó, cha bảo mọi người đi tắm rồi mặc quần áo đẹp, nhảy múa ca hát để mọi người lầm tưởng rằng nhà có đám cưới và dặn tất cả hãy giữ kín mọi chuyện cho đến khi hai cha con tôi về đến trang trại của ông nội, sắp đặt xong cha cũng đi tắm.
Lát sau, từ trong phòng tắm bước ra, trông cha uy nghi, đẹp đẽ như một vị thần. Trở về chỗ cũ, cha nói với mẹ rằng: Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sất đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở! Rồi cha tôi bảo nhũ mẫu hãy kê cho ông một chiếc giường để ông ngủ một mình như bấy lâu nay vì trái tim trong ngực vợ ông được làm bằng sắt.
Mẹ tôi thận trọng đáp: Khốn khổ! Tôi không có ý coi thường, coi khinh ngài, cũng không ngạc nhiên đến rối trí đâu! Tôi biết rất rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, ơ- ric-lê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường.
Mẹ tôi nói vậy là để thử cha tôi. Quả nhiên cha tôi bỗng giật mình hỏi ngay, nàng ơi. Nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ, ai đã xê dich giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này. Rồi cha tôi kể chi tiết, tỉ mỉ về đặc điểm của chiếc giường. Bí mật này ngoài cha mẹ của tôi ra chỉ có một thị tì của mẹ tôi biết được.
Nghe vậy, mẹ tôi bủn rủn cả chân tay vì cha tôi đã tả đúng mười mươi sự thật. Mẹ liền chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ và hôn trán người chồng yêu quý mà nói rằng:
Uy-lit-xơ Xin chàng chớ giận thiếp, vì xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan. Ôi! Thần linh đã dành cho hai ta một số phận xiết bao cay đắng vì người ghen ghét ta, không muốn cho ta dược sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà thiếp không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác… Giờ đây chàng đã đưa ra những chứng cớ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp và Ác-tô-rít, một người thị tì của cha thiếp cho khi thiếp về đây và sau đó giữ cửa gian phòng vách tường kiên cổ của chúng ta. Vì vậy, chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi.
Giọng nói chân thành của mẹ tôi khiến cha tôi rất cảm động. Cha ôm lấy người vợ xiết bao yêu thương, người bạn đời chung thủy của mình mà khóc.
Gặp lại chồng mình sau hơn hai mươi năm mòn mỏi chờ đợi, mẹ tôi sung sướng vô cùng! Mẹ nhìn ngắm cha không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của mẹ cứ ôm cổ cha không muốn rời.Cảnh tượng ấy khiến trái tim tôi – đứa con trai duy nhất của hai người, cứ thổn thức mãi không nguôi vì xúc động vì hạnh phúc. Từ đây tôi sẽ luôn được sống trong sự thương yêu che chở của mẹ, của cha.
|
Đề bài: Tê-lê-mác kể lại cành người cha của mình là Uy-lít-xơ trở về
Bài làm
Sau hơn hai mươi năm trời ròng rã xa quê hương, phải chịu bao nhiêu gian nan, thử thách, giờ thì cha tôi đã trở về nhà. Chỉ có điều là cha giấu mình trong bộ dạng của một kẻ ăn mày rách rưới. Cha làm như vậy để thử xem người vợ hiền yêu dấu của mình có nhận ra mình hay không.
Trong thời gian dài, cha tôi vắng nhà, mẹ tôi phải thường xuyên đối phó với 108 gã đàn ông quyền quý trong vùng tranh nhau đến cầu hôn. Chúng xảo quyệt, hung hãn, quấy rối suốt ngày này qua tháng khác để rắp tâm ép buộc mẹ tôi và chiếm đoạt tài sản của gia đình tôi. Pê-nê-lốp – Người đàn bà thông minh xinh đẹp là mẹ cùa tôi, luôn phải nghĩ ra trăm phương ngàn kế để kéo dài thời gian, hy vọng cha tôi sẽ trở về.
Vì nói là có biết một số điều về Uy-lít-xơ nên gã hành khất – tức là cha tôi đã lọt vào trong ngôi nhà của mình. Ông được mẹ tôi cho phép ở lại để kể cho mẹ tôi nghe những điều về người chồng yêu quý mà mẹ đang mong mỏi đợi chờ. Hôm sau, mẹ tôi tổ chức một cuộc thi bắn cung và ra điều kiện nếu ai giương được cây cung của Uy-lít-xơ thì sẽ lấy làm chồng. Hàng trăm kẻ quý tộc không kẻ nào nâng nổi. Gã hành khuất xin tham dự và đã thắng. Tôi nhận ra cha. Với cây cung trong tay, cha tôi đã đánh đuổi tiêu diệt những kẻ cầu hôn quấy nhiễu và lũ đầy tớ phản chủ. Bà nhũ mẫu Ơ-ri-lê lên gác báo tin là Uy-lít-xư đã trở về nhưng mẹ tôi không tin và bảo rằng bà chớ vội vui mừng vì có lẽ ugười đánh tan lũ cầu hôn láo xược là một vị thần nào đó. Còn Uy-lít-xơ thì không còn hy vọng trở về vì chàng đã chết.
Nhũ mẫu vẫn một mực khẳng định là cha tôi đang ở dưới nhà và giục mẹ tôi hãy mau xuống đón mừng. Bà còn nói rõ dấu hiệu khó quên là cái sẹo ở chân cha tôi, dấu vết của một lần ông đi săn bị nanh trắng của con lợn nòi húc vào. Mẹ tôi vẫn chưa tin, quay sang bảo nhủ mẫu hãy cùng xuống nhà để xem xác chết của bọn cầu hôn và kẻ giết chúng.
Xuống đến nơi, mẹ tôi bước qua ngưỡng cửa bằng đá rồi đến ngồi trước mặt cha tôi, trong khi ông tựa lưng vào cái cột, mắt nhìn xuống đất, hồi hộp xem người vợ cao quý sẽ nói gì khi nhận ra mình. Mẹ tôi vẫn ngồi lặng thinh, vẻ mặt sửng sốt, lúc thì đăm đăm nhìn chồng, lúc lại như là không nhận ra người chồng yêu quý trong bộ quần áo rách mướp của kẻ ăn mày.
Không nén nổi tức giận, tôi buột miệng trách sao mẹ lại tàn nhẫn như thế. Mẹ không hỏi han, cũng chẳng đến bên cha vồn vã trò chuyện. Tôi thầm nghĩ chắc trên thế gian chẳng có người vợ nào sắt đá đến nỗi chồng đi xa biền biệt hai mươi năm, trải qua biết bao gian lao, bây giờ mới trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chồng đến vậy.
Mẹ tôi không giận mà dịu dàng đáp: Tê-lê-mác con ơi, lòng mẹ kinh ngạc quá chừng! Mẹ không sao nói được một lời, mẹ không thể hỏi han, không thể nhìn thẳng mặt người. Nếu quả thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ cũng đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ củng sẽ nhận được ra nhau một cách dễ dàng, vì cha mẹ có những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết.
Nghe mẹ tôi nói vậy, cha tôi nhẫn nại mỉm cười và nói với tôi: Tê-lê-mác con! Đừng la rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thể nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy. Hiện giờ cha còn bẩn thỉu, áo quần rách rưới nên mẹ con khinh cha chưa nói: “Đích thị là chàng rồi. Nhưng về phần cha con ta, ta hãy bàn xém nên xử trí tình huống thế nào cho ổn thỏa nhất. Nếu có ai giết chết một người trong xứ sở, chỉ một người thôi và dù kẻ bị giết chẳng có ai báo thù cho nữa, thì người ấy củng phải rời bỏ cha mẹ, đất nước, trốn đi. Huống hồ chúng ta đây, chúng ta đã hạ cả thành lũy bảo vệ đô thị này, giết các chàng trai của những gia đinh quyền quý nhất. Tình huống ấy cha khuyên con nên suy nghĩ.
Tôi kính cẩn thưa rằng mọi việc xin cha cứ định liệu, vì xưa nay, cha vốn là người sáng sụốt. Tôi cũng hứa sẽ hết lòng phù tá cha tôi.
Sau đó, cha bảo mọi người đi tắm rồi mặc quần áo đẹp, nhảy múa ca hát để mọi người lầm tưởng rằng nhà có đám cưới và dặn tất cả hãy giữ kín mọi chuyện cho đến khi hai cha con tôi về đến trang trại của ông nội, sắp đặt xong cha cũng đi tắm.
Lát sau, từ trong phòng tắm bước ra, trông cha uy nghi, đẹp đẽ như một vị thần. Trở về chỗ cũ, cha nói với mẹ rằng: Khốn khổ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sất đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở! Rồi cha tôi bảo nhũ mẫu hãy kê cho ông một chiếc giường để ông ngủ một mình như bấy lâu nay vì trái tim trong ngực vợ ông được làm bằng sắt.
Mẹ tôi thận trọng đáp: Khốn khổ! Tôi không có ý coi thường, coi khinh ngài, cũng không ngạc nhiên đến rối trí đâu! Tôi biết rất rõ ngài như thế nào khi ngài từ giã I-tác ra đi trên chiếc thuyền có mái chèo dài. Vậy thì, ơ- ric-lê! Già hãy khiêng chiếc giường chắc chắn ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố do chính tay Uy-lít-xơ xây nên, rồi lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường.
Mẹ tôi nói vậy là để thử cha tôi. Quả nhiên cha tôi bỗng giật mình hỏi ngay, nàng ơi. Nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ, ai đã xê dich giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này. Rồi cha tôi kể chi tiết, tỉ mỉ về đặc điểm của chiếc giường. Bí mật này ngoài cha mẹ của tôi ra chỉ có một thị tì của mẹ tôi biết được.
Nghe vậy, mẹ tôi bủn rủn cả chân tay vì cha tôi đã tả đúng mười mươi sự thật. Mẹ liền chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ và hôn trán người chồng yêu quý mà nói rằng:
Uy-lit-xơ Xin chàng chớ giận thiếp, vì xưa nay chàng vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan. Ôi! Thần linh đã dành cho hai ta một số phận xiết bao cay đắng vì người ghen ghét ta, không muốn cho ta dược sống vui vẻ bên nhau, cùng nhau hưởng hạnh phúc của tuổi thanh xuân và cùng nhau đi đến tuổi già đầu bạc. Vậy giờ đây, xin chàng chớ giận thiếp, cũng đừng trách thiếp về nỗi gặp chàng mà thiếp không âu yếm chàng ngay. Thiếp luôn luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác… Giờ đây chàng đã đưa ra những chứng cớ rành rành, tả lại cái giường không ai biết rõ, ngoài chàng với thiếp và Ác-tô-rít, một người thị tì của cha thiếp cho khi thiếp về đây và sau đó giữ cửa gian phòng vách tường kiên cổ của chúng ta. Vì vậy, chàng đã thuyết phục được thiếp và thiếp phải tin chàng, tuy lòng thiếp rất đa nghi.
Giọng nói chân thành của mẹ tôi khiến cha tôi rất cảm động. Cha ôm lấy người vợ xiết bao yêu thương, người bạn đời chung thủy của mình mà khóc.
Gặp lại chồng mình sau hơn hai mươi năm mòn mỏi chờ đợi, mẹ tôi sung sướng vô cùng! Mẹ nhìn ngắm cha không chán mắt và hai cánh tay trắng muốt của mẹ cứ ôm cổ cha không muốn rời.Cảnh tượng ấy khiến trái tim tôi – đứa con trai duy nhất của hai người, cứ thổn thức mãi không nguôi vì xúc động vì hạnh phúc. Từ đây tôi sẽ luôn được sống trong sự thương yêu che chở của mẹ, của cha.
|
Tìm hiểu bài thơ Bánh trôi nước để nhận xét về ngôn ngữ và cá tính của Hồ Xuân Hương
Hướng dẫn
Trước hết, Bánh trôi nước của Hồ Xuân hương có thể coi là một bài ca về thân phận con người – cụ thể là người phụ nữ: Đẹp (cả về hình thức lẫn phẩm chất tâm hồn) nhưng cuộc đời lại nổi trôi, phiêu dạt “Bảy nổi ba chìm”. Chủ đề tác phẩm được tác giả giải quyết khá thấu đáo trong một hệ thống ngôn ngữ đầy cá tính:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Phân tích bài thơ này, chúng ta có thể bỏ qua việc phân tích nghĩa hiển ngôn để đi trực tiếp vào lớp nghĩa hàm ngôn, lớp nghĩa quan trọng hơn của tác phẩm (mặc dù nghĩa hàm ngôn chỉ có được trên cơ sở nghĩa hiển ngôn).
“Thân em”- nghe phảng phất như ca dao cổ “Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Mở đầu bài thơ là chuyện thân phận, tác giả sử dụng lối xưng hô khá nền nã “em” nên câu thơ có cái thiết tha của tiếng hát than thân trong ca dao xưa. Nhưng Hồ Xuân Hương không sử dụng ca dao xưa để ví von so sánh – tức là vẫn phải qua một tầng hình tượng để diễn tả trực diện vẻ đẹp của người con gái. Bà tả trực tiếp, tả chính xác nét đẹp khỏe, nhờ thế sự vật được nói đến trong bài thơ khỏe và đẹp như chính người thiếu nữ vậy. Thành thử, mượn lời ca dao nhưng không phải là một lời than ủy mị mà chính là một lời khẳng định. Tức là qua ngôn ngữ, cá tính, phong cách Xuân Hương dần dần bộc lộ: một cái “tôi” vừa tha thiết vừa ngạo nghễ, vừa đằm thắm lại vừa kiêu bạc. Câu thơ tiếp theo là một lời kể khổ, nói đúng hơn là trình bày một hoàn cảnh:
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.
Vâng, Xuân Hương lại mượn lời dân gian, sử dụng ngôn ngữ dân gian. “Bảy nổi ba chìm” – nhưng cũng như ở câu thơ trên, được biến thái đi, được thổi cái hồn Xuân Hương vào nên thành ngữ dân gian được Xuân Hươnghóa đã mang một nghĩa mới: mới về mặt phong cách: “Bảy nổi ba chìm với nước non” (nghe trong lời thơ có cái gì đó như là sự cao ngạo: “Với nước non”). Đành rằng đây là tả bánh trôi, và tả rất đúng, rất thật chiếc bánh trôi – nhưng sẽ thiếu nếu chúng ta chỉ tiếp cận bài thơ ở tầng nghĩa ấy. Đó chỉ là cái mã của bài thơ mà chìa khóa để giải mã chính là từ mở đầu “Thân em” và từ kết thúc “Tấm lòng son” trong bài. Quay trở lại lời bộc bạch về thân phận: người con gái kia không có quyền làm chủ thân phận mình “Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Ca dao chỉ nói thế, Xuân Hương kết thúc bằng sự khẳng định nhân cách, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Chữ “mà” là bản lề khép mở hai thế đối lập: một bên là cuộc đời bạc bẽo,một bên là phẩm chất tuyệt vời. Đối lập trong một mạch nguồn thống nhất: cuộc đời bạc bẽo, thế nhưng không làm nhạt nhòa nổi tấm lòng son. Và một lần nữa, Xuân Hương lại đi ngược chu trình thông thường (chu trình thông thường: lời khẳng định cái đẹp – lời than cho sốphận như một loạt câu ca dao mở đầu bằng “Thân em”):vẻ đẹp thể xác bị va đập trong cuộc đời bạc bẽo đã không những không nhạt phai mà còn là nơi neo giữ vẻ đẹp tâm hồn. Hoàn cảnh bất bình đẳng trong xã hội cũ không những không bóp nghẹt nổi tâm hồn con người, xóa nhòa đi nhân cách con người. Trái lại, nó chỉ là yếu tố thử thách “Ngọc càng mài càng sáng”. Không như dân gian than thân trách phận – cái nổi bật trong bài thơ của Xuân Hương là lời khẳng định phẩm giá con người: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”, còn hoàn cảnh kia chỉ là một thứ “thuốc thử”.
Phân tích ý nghĩa tượng trưng trong bài thơ Bánh trôi nước của nhà thơ Hồ Xuân Hương.
Gợi ý viết bài
Bài thơ Bánh trôi nước của nữ sĩ Hồ Xuân Hương vừa có tính chất tả thực, vừa có ý nghĩa tượng trưng. Bài thơ không dừng lại ở việc miêu tả chiếc bánh trôi nước, mà còn mang một ý nghĩa sâu xa khác. Đối tượng mà ý nghĩa tượng trưng nhắm đến chính là người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Hồ Xuân Hương muôn mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước để nói lên thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng hai từ thân em. Đây là từ ngữ xuất hiện nhiều trong ca dao, dân ca nói về thân phận của người phụ nữ thời đó. Câu thơ trong bài thơ cho ta cảm giác như một câu ca dao:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Trắng và tròn là hình ảnh của chiếc bánh trôi nước, đồng thời là biểu trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ, đó là vẻ đẹp của hình thức bên ngoài.
Tuy nhiên người phụ nữ đẹp trong xã hội thường có số phận hẩm hiu, cuộc đời không được hạnh phúc như mong muốn:
Bảy nổi ha chìm với nước non
Cuộc đời của người phụ nữ cũng ba chìm bảy nổi như chiếc bánh kia khi đưa vào nước sôi. Thân phận lênh đênh của họ bắt nguồn từ quan niệm trọng nam khinh nữ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó trong xã hội phong kiến. Họ không có quyền quyết định sốphận của mình mà phải trông chờ vào số phận đưa đẩy. Nếu may mắn gặp được người chồng biết lễ nghĩa, biết thương yêu thì họ sẽ bớt lênh đênh hơn và có được cuộc sống hạnh phúc; bằng ngược lại, thì cuộc đời của họ cũng như chiếc bánh kia cứ bềnh bồng trôi dạt theo cuộc đời trong nỗi đau khổ cùng cực. Số phận của họ phụ thuộc hoàn toàn vào kẻ khác cũng giống như chiếc bánh kia phụ thuộc hoàn toàn vào bàn tay người nặn bánh:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Tuy bàn tay nhào nặn của xã hội, của cha mẹ có nặn người phụ nữ thành hình thế nào thì họ vẫn luôn luôn giữ được vẻ đẹp của mình. Đù bất cứ hoàn cảnh nào thì họ vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp, giữ được tấm lòng son của mình. Nếu như hai câu thơ đầu ca ngợi vẻ đẹp bề ngoài của người phụ nữ thì hai câu thơ sau làm toát lên phẩm chất cao quý bên trong của họ. Đó chính là giá trị của bài thơ Bánh trôi nước. Son sắt, thủy chung, yêu thương chồng con, đó chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ không chỉ ngày xưa và ngày nay vẫn thế.
Phân tích bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Bài làm
HồXuân Hương là con một nhà nho ở Nghệ An. Bà sống nhiều năm ở Thăng Long. Có học, có tài thơ văn, có mối quan hệ với nhiều danh sĩ, trong đó có Nguyễn Du. Cuộc đời riêng của bà nhiều bi kịch. Bà là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Bà để lại khoảng 50 bài thơ chữ Nôm và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí. Thơ của bà sắc sảo, trào phúng thì sắc nhọn, trữ tình thì tê tái, xót đau, có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bà được ca ngợi là “Bà Chúa thơ Nôm”.
Bánh trôi nướclà bài thơ nổi tiếng của bà:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bài thơ Bánh trôi nước là bài thơ đa nghĩa.
Tác giả tả thực cái bánh trôi nước, làm bằng bột nếp, nhân bằng đường phèn (lòng son), dạng bánh “tròn”, sắc bánh “trắng”, được luộc trong nồi nước sôi “bảy nổi ba chìm”. Nữ sĩ viết về một món ăn dân tộc với tất cả lòng yêu mến, tự hào về bản sắc nềnvăn hóa Việt Nam. Bài thơ giàu tính nhân dân.
Bài thư còn mang hàm nghĩa độc đáo.
Câu 1 có 2 tiểu đối: “Thân em vừa trắng” // “lại vừa tròn”, gợi tả chất bánh ngon lành, tinh khiết, chiếc bánh xinh xắn, dân dã, bình dị, đáng yêu, hàm ẩn sự duyên dáng, trinh trắng, vẻ đẹp xinh xắn của người thiếu nữ Việt Nam. Hai tiếng “Thân em” không chỉ nhân hóa chiếc bánh trôi nước, thể hiện một cách nói đậm đà màu sắc dân gian (thân em như hạt mưa sa…, thân em như tấm lụa đào..) mà còn ngợi ca đức tính khiêm nhường, kín đáo, duyên dáng của người con gái làng quê.
Hai câu 2, 3, ngôn ngữ tương phản: “rắn” với “nát”, nghĩa đen là bánh ngon hay bánh không ngon; nghĩa bóng là hạnh phúc hay bất hạnh, đềutuỳ thuộc vào “tay kẻ nặn”, vào người cha, người chồng… vào lễ giáo phong kiến, vào số phận. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được vận dụng tài tình nhằm gợi tả sốphận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Hai câu 3, 4 cấu trúc: “mặc dù… mà… vẫn…” nhằm khẳng định một tấm lòng.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
“Vẫn giữ” biểu thị một thái độ kiên trinh, bền vững. “Tấm lòng son” tượng trưng cho phẩm chất sắt son, thuỷ chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách Xuân Hương. Bài thơ nói về bánh trôi nước, một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa, giàu bản sắc Xuân Hương. Bài thơ biểu lộ niềm cảm thông và tự hào đối với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, nó có giá trị nhân bản sâu sắc.
LUYỆN TẬP
Để 1. Nét đẹp trong nhân cách của người phụ nữ được Hồ Xuân Hương thể hiện như thế nào trong bài thơ Bánh trôi nước.
Để 2. Giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ Bánh trôi nước.
Đề 3. ThơHồ Xuân Hươnglà tiếng nói của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua một số bài thơ của Hồ Xuân Hương, em hãy chứng minh nhận định trên.
Đề 4. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Nguồn:
|
Tìm hiểu bài thơ Bánh trôi nước để nhận xét về ngôn ngữ và cá tính của Hồ Xuân Hương
Hướng dẫn
Trước hết, Bánh trôi nước của Hồ Xuân hương có thể coi là một bài ca về thân phận con người – cụ thể là người phụ nữ: Đẹp (cả về hình thức lẫn phẩm chất tâm hồn) nhưng cuộc đời lại nổi trôi, phiêu dạt “Bảy nổi ba chìm”. Chủ đề tác phẩm được tác giả giải quyết khá thấu đáo trong một hệ thống ngôn ngữ đầy cá tính:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Phân tích bài thơ này, chúng ta có thể bỏ qua việc phân tích nghĩa hiển ngôn để đi trực tiếp vào lớp nghĩa hàm ngôn, lớp nghĩa quan trọng hơn của tác phẩm (mặc dù nghĩa hàm ngôn chỉ có được trên cơ sở nghĩa hiển ngôn).
“Thân em”- nghe phảng phất như ca dao cổ “Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Mở đầu bài thơ là chuyện thân phận, tác giả sử dụng lối xưng hô khá nền nã “em” nên câu thơ có cái thiết tha của tiếng hát than thân trong ca dao xưa. Nhưng Hồ Xuân Hương không sử dụng ca dao xưa để ví von so sánh – tức là vẫn phải qua một tầng hình tượng để diễn tả trực diện vẻ đẹp của người con gái. Bà tả trực tiếp, tả chính xác nét đẹp khỏe, nhờ thế sự vật được nói đến trong bài thơ khỏe và đẹp như chính người thiếu nữ vậy. Thành thử, mượn lời ca dao nhưng không phải là một lời than ủy mị mà chính là một lời khẳng định. Tức là qua ngôn ngữ, cá tính, phong cách Xuân Hương dần dần bộc lộ: một cái “tôi” vừa tha thiết vừa ngạo nghễ, vừa đằm thắm lại vừa kiêu bạc. Câu thơ tiếp theo là một lời kể khổ, nói đúng hơn là trình bày một hoàn cảnh:
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.
Vâng, Xuân Hương lại mượn lời dân gian, sử dụng ngôn ngữ dân gian. “Bảy nổi ba chìm” – nhưng cũng như ở câu thơ trên, được biến thái đi, được thổi cái hồn Xuân Hương vào nên thành ngữ dân gian được Xuân Hươnghóa đã mang một nghĩa mới: mới về mặt phong cách: “Bảy nổi ba chìm với nước non” (nghe trong lời thơ có cái gì đó như là sự cao ngạo: “Với nước non”). Đành rằng đây là tả bánh trôi, và tả rất đúng, rất thật chiếc bánh trôi – nhưng sẽ thiếu nếu chúng ta chỉ tiếp cận bài thơ ở tầng nghĩa ấy. Đó chỉ là cái mã của bài thơ mà chìa khóa để giải mã chính là từ mở đầu “Thân em” và từ kết thúc “Tấm lòng son” trong bài. Quay trở lại lời bộc bạch về thân phận: người con gái kia không có quyền làm chủ thân phận mình “Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Ca dao chỉ nói thế, Xuân Hương kết thúc bằng sự khẳng định nhân cách, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Chữ “mà” là bản lề khép mở hai thế đối lập: một bên là cuộc đời bạc bẽo,một bên là phẩm chất tuyệt vời. Đối lập trong một mạch nguồn thống nhất: cuộc đời bạc bẽo, thế nhưng không làm nhạt nhòa nổi tấm lòng son. Và một lần nữa, Xuân Hương lại đi ngược chu trình thông thường (chu trình thông thường: lời khẳng định cái đẹp – lời than cho sốphận như một loạt câu ca dao mở đầu bằng “Thân em”):vẻ đẹp thể xác bị va đập trong cuộc đời bạc bẽo đã không những không nhạt phai mà còn là nơi neo giữ vẻ đẹp tâm hồn. Hoàn cảnh bất bình đẳng trong xã hội cũ không những không bóp nghẹt nổi tâm hồn con người, xóa nhòa đi nhân cách con người. Trái lại, nó chỉ là yếu tố thử thách “Ngọc càng mài càng sáng”. Không như dân gian than thân trách phận – cái nổi bật trong bài thơ của Xuân Hương là lời khẳng định phẩm giá con người: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”, còn hoàn cảnh kia chỉ là một thứ “thuốc thử”.
Phân tích ý nghĩa tượng trưng trong bài thơ Bánh trôi nước của nhà thơ Hồ Xuân Hương.
Gợi ý viết bài
Bài thơ Bánh trôi nước của nữ sĩ Hồ Xuân Hương vừa có tính chất tả thực, vừa có ý nghĩa tượng trưng. Bài thơ không dừng lại ở việc miêu tả chiếc bánh trôi nước, mà còn mang một ý nghĩa sâu xa khác. Đối tượng mà ý nghĩa tượng trưng nhắm đến chính là người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Hồ Xuân Hương muôn mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước để nói lên thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Mở đầu bài thơ, tác giả sử dụng hai từ thân em. Đây là từ ngữ xuất hiện nhiều trong ca dao, dân ca nói về thân phận của người phụ nữ thời đó. Câu thơ trong bài thơ cho ta cảm giác như một câu ca dao:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Trắng và tròn là hình ảnh của chiếc bánh trôi nước, đồng thời là biểu trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ, đó là vẻ đẹp của hình thức bên ngoài.
Tuy nhiên người phụ nữ đẹp trong xã hội thường có số phận hẩm hiu, cuộc đời không được hạnh phúc như mong muốn:
Bảy nổi ha chìm với nước non
Cuộc đời của người phụ nữ cũng ba chìm bảy nổi như chiếc bánh kia khi đưa vào nước sôi. Thân phận lênh đênh của họ bắt nguồn từ quan niệm trọng nam khinh nữ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó trong xã hội phong kiến. Họ không có quyền quyết định sốphận của mình mà phải trông chờ vào số phận đưa đẩy. Nếu may mắn gặp được người chồng biết lễ nghĩa, biết thương yêu thì họ sẽ bớt lênh đênh hơn và có được cuộc sống hạnh phúc; bằng ngược lại, thì cuộc đời của họ cũng như chiếc bánh kia cứ bềnh bồng trôi dạt theo cuộc đời trong nỗi đau khổ cùng cực. Số phận của họ phụ thuộc hoàn toàn vào kẻ khác cũng giống như chiếc bánh kia phụ thuộc hoàn toàn vào bàn tay người nặn bánh:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Tuy bàn tay nhào nặn của xã hội, của cha mẹ có nặn người phụ nữ thành hình thế nào thì họ vẫn luôn luôn giữ được vẻ đẹp của mình. Đù bất cứ hoàn cảnh nào thì họ vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp, giữ được tấm lòng son của mình. Nếu như hai câu thơ đầu ca ngợi vẻ đẹp bề ngoài của người phụ nữ thì hai câu thơ sau làm toát lên phẩm chất cao quý bên trong của họ. Đó chính là giá trị của bài thơ Bánh trôi nước. Son sắt, thủy chung, yêu thương chồng con, đó chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ không chỉ ngày xưa và ngày nay vẫn thế.
Phân tích bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Bài làm
HồXuân Hương là con một nhà nho ở Nghệ An. Bà sống nhiều năm ở Thăng Long. Có học, có tài thơ văn, có mối quan hệ với nhiều danh sĩ, trong đó có Nguyễn Du. Cuộc đời riêng của bà nhiều bi kịch. Bà là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Bà để lại khoảng 50 bài thơ chữ Nôm và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí. Thơ của bà sắc sảo, trào phúng thì sắc nhọn, trữ tình thì tê tái, xót đau, có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bà được ca ngợi là “Bà Chúa thơ Nôm”.
Bánh trôi nướclà bài thơ nổi tiếng của bà:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bài thơ Bánh trôi nước là bài thơ đa nghĩa.
Tác giả tả thực cái bánh trôi nước, làm bằng bột nếp, nhân bằng đường phèn (lòng son), dạng bánh “tròn”, sắc bánh “trắng”, được luộc trong nồi nước sôi “bảy nổi ba chìm”. Nữ sĩ viết về một món ăn dân tộc với tất cả lòng yêu mến, tự hào về bản sắc nềnvăn hóa Việt Nam. Bài thơ giàu tính nhân dân.
Bài thư còn mang hàm nghĩa độc đáo.
Câu 1 có 2 tiểu đối: “Thân em vừa trắng” // “lại vừa tròn”, gợi tả chất bánh ngon lành, tinh khiết, chiếc bánh xinh xắn, dân dã, bình dị, đáng yêu, hàm ẩn sự duyên dáng, trinh trắng, vẻ đẹp xinh xắn của người thiếu nữ Việt Nam. Hai tiếng “Thân em” không chỉ nhân hóa chiếc bánh trôi nước, thể hiện một cách nói đậm đà màu sắc dân gian (thân em như hạt mưa sa…, thân em như tấm lụa đào..) mà còn ngợi ca đức tính khiêm nhường, kín đáo, duyên dáng của người con gái làng quê.
Hai câu 2, 3, ngôn ngữ tương phản: “rắn” với “nát”, nghĩa đen là bánh ngon hay bánh không ngon; nghĩa bóng là hạnh phúc hay bất hạnh, đềutuỳ thuộc vào “tay kẻ nặn”, vào người cha, người chồng… vào lễ giáo phong kiến, vào số phận. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được vận dụng tài tình nhằm gợi tả sốphận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Hai câu 3, 4 cấu trúc: “mặc dù… mà… vẫn…” nhằm khẳng định một tấm lòng.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
“Vẫn giữ” biểu thị một thái độ kiên trinh, bền vững. “Tấm lòng son” tượng trưng cho phẩm chất sắt son, thuỷ chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách Xuân Hương. Bài thơ nói về bánh trôi nước, một món ăn dân tộc bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân gian. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nghĩa, giàu bản sắc Xuân Hương. Bài thơ biểu lộ niềm cảm thông và tự hào đối với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, nó có giá trị nhân bản sâu sắc.
LUYỆN TẬP
Để 1. Nét đẹp trong nhân cách của người phụ nữ được Hồ Xuân Hương thể hiện như thế nào trong bài thơ Bánh trôi nước.
Để 2. Giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ Bánh trôi nước.
Đề 3. ThơHồ Xuân Hươnglà tiếng nói của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua một số bài thơ của Hồ Xuân Hương, em hãy chứng minh nhận định trên.
Đề 4. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Nguồn:
|
Tìm hiểu tâm hồn Tế Hanh qua bài Quê hương – Đề và văn mẫu 8
Hướng dẫn
Bài làm
Trong dàn hợp xướng thời Thơ mới, có lẽ cây đàn Tế Hanh đã góp vào những đường thơ vừa khỏe khoắn, trong trẻo, vừa không kém phần nồng đượm, có một âm hưởng đằm thắm riêng. Bài “Quê hương” trong tập thơ ra mắt của Tế Hanh – tập thơ đã được giải thưởng Tự lực văn đoàn, hầu như đã đúc kết được khá đầy đủ những đặc điểm ấy. Nó rất trong, mà vẫn đượm. Nó cho ta biết được gì về tâm hồn chàng trai mười tám tuổi đối với quê hương hồi đó.
Trước hết, ta dễ dàng nhận ra ở Tế Hanh một bản chất chắc thực gắn bó với mặt đất cần lao của cuộc đời khác với những hồn thơ giàu chất mộng mơ của những Lưu Trọng Lư, Huy Cận, hay đầy những huyền ảo lung linh của Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên. Cái làng “vốn làm nghề chài lưới… cách biển nửa ngày sông” của ông được nhắc đến với đôi mắt xác định rõ ràng, không chút tô vẽ. Tuy nhiên, tác giả chỉ lưu ý đến những sắc tươi, sắc mạnh trong bức tranh quê hương. Bức tranh ấy được dựng lại trên nền cảnh “trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”, với những chi tiết rắn rỏi, đầy yếu tố tích cực.
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”.
Rắn rỏi, nhưng không quá cục mịch, thô sơ. Tác giả còn có một tâm hồn bay bổng, không thiếu những khát vọng cao xa, được tượng hình trong cánh buồm căng đón gió – một hình ảnh thực hòa với mộng, dây diều sát đất nhưng cánh diều đồng thời vẫn bay liệng vi vút tít trời cao, mang phong cách đặc trưng của Tế Hanh:
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
Cánh buồm – hồn quê này gợi ta nhớ đến toa tàu – số phận, một hình tượng xuất sắc khác của Tế Hanh, cùng quyện lẫn thực sự, hài hòa vật thể với tâm tư như vậy:
“Bánh nghiến lăn lãn quá nặng nề
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ
Lòng của người đi réo kể về”.
Tâm hồn nhạy cảm ấy còn có chiều sâu ân tình, bề dày gắn bó của nó, mang đậm ý vị đằm thắm, sắc thái đôn hậu cũng rất Tế Hanh: từ thân thể người dân chài ngâm nước, ướp nắng biển khơi “nồng thở vị xa xăm” cho đến con thuyền mỏi mệt lặng nằm trên bến.
“Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”.
Câu thơ hàm chứa một ý vị đậm đà nhưng rất khó cảm nhận. Chất tình nghĩa đậm đà trong tâm hồn nhà thơ cứ ngấm mãi vào lòng ta, như chất muối mặn ăn mãi vào vỏ thuyền với bao kỉ niệm buồn vui, bao cung bậc bổng trầm dọc đường đời đã nhuyễn vào trong ta thành máu thịt…
Kết thúc bài thơ, Tế Hanh lại trở về với cái “mùi nồng nặn” rất thực. Nhưng đó là cái thực tinh túy, đã được nhân lên trong tâm tình, đã đọng lại thành kỉ niệm, đã bay cao thành ước mơ. Một lần nữa, ta nhận ra chiếc dây diều thơ ca của Tế Hanh bám chắc vào mặt đất của thực tại như thế nào. Một lần nữa, ta vui mừng được giao tiếp với một hồn thơ khỏe lành, trong sáng. Nó không hề làm nặng đầu ta với những bóng dáng siêu hình, những vô thức u minh, nhưng nó vẫn chắp cánh mộng mơ, bồi đắp khát vọng cho ta có đà “rướn thân” lên “thâu góp gió” đời, “phăng mái chèo … vượt trường giang” cuộc sống.
|
Learn about Te Hanh's soul through the lesson Homeland - Topics and sample essays for grade 8
Instruct
Assignment
In the choir of the New Poetry period, perhaps the Te Hanh instrument contributed to poetic lines that were both strong, clear, and equally passionate, with a unique, loving sound. The poem "Homeland" in Te Hanh's debut poetry collection - a poetry collection that won the Tu Luc Van Doan Award - almost completely summarizes those characteristics. It's very clear, but still watery. What does it tell us about the eighteen-year-old boy's soul towards his homeland at that time?
First of all, we can easily recognize in Te Hanh a solid and real nature attached to the hard-working ground of life, different from the poetic souls rich in dreaminess of Luu Trong Lu, Huy Can, or full of magical fantasies. The spirit of Han Mac Tu and Che Lan Vien. His village "which is a fishing village... half a day's river from the sea" is mentioned with clearly defined eyes, without any embellishment. However, the author only pays attention to the bright and strong colors in the picture of his homeland. That painting was recreated on the background of "clear sky, light wind, rosy morning", with solid details, full of positive elements.
“The boat is as light and energetic as a handsome horse
Phang oars, strong beyond the stretch".
Solid, but not too clumsy or rudimentary. The author also has a soaring soul, not lacking in high aspirations, symbolized in the sail stretching to catch the wind - a real image that blends with a dream, the kite string is close to the ground but the kite is still soaring at the same time. high in the sky, with Te Hanh's signature style:
Stretching out its vast white body to gather the wind."
This sail - the soul of the countryside reminds us of the train carriage - fate, another excellent image of Te Hanh, truly interwoven, harmonizing objects with thoughts like so:
“The rolling cake is too heavy
The smoke seemed to choke the pain
Every once in a while, the siren can be heard wailing
The heart of the person who walks tells about it.
That sensitive soul also has a depth of affection, a depth of attachment, a deep sense of tenderness, and a kind demeanor that is also very Te Hanh: from the body of a fisherman soaked in water, marinated in the "warm" sea sun. smelling far away" until the tired boat lay quietly on the wharf.
"Listen to salts penetrating the skin".
The poem contains a rich meaning but is very difficult to feel. The rich sense of gratitude in the poet's soul keeps seeping into our hearts, like salty salt that forever eats into the hull of a boat with many happy and sad memories, many highs and lows along the path of life that have been melted into us into flesh and blood...
At the end of the poem, Te Hanh returns to the very real "strong smell". But that is the quintessential truth, which has been multiplied in emotions, has remained as memories, and has soared into dreams. Once again, we realize how firmly Te Hanh's poetic kite string clings to the ground of reality. Once again, I am happy to communicate with a healthy, pure soul. It never weighs our heads down with metaphysical shadows or dark unconsciousness, but it still gives wings to dreams and nourishes our aspirations so that we have the momentum to "stretch ourselves" to "collect the wind" of life, "to fly." oar...crossing the long river" of life.
|
Tìm hiểu và phân tích văn học Ngôn hoài của Lộ Không Thiền Sư
Hướng dẫn
Tìm hiểu và phân tích văn học Ngôn hoài của Lộ Không Thiền Sư
Nền văn học Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XVIII phong trào văn học cũng như các tác phẩm chữ Hán giữ một trai trò quan trọng trong phát triển rực rỡ của nền văn học nước nhà. NHững tác phẩm văn học mà phần lớn là các vần thơ thiền cổ, kệ. Bên cạnh các bài thơ bài thơ như Hoa Mai và các tác phẩm khác của Trần Thánh Tông, Nguyễn Trãi Ngôn Hoài của nhà sư Lộ Không Thiền Sư là một trong số bài thơ nổi bật đó. Bài thơ là tiếng nói tâm hồn thể hiện tình yêu đời chan chứa hòa với tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương tạo vật của nhà thơ Thiền Sư.
“Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư”
(Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê nào chán suốt ngày vui)
Mở đầu bài thơ chính là niềm vui sướng khi được đứng trước cảnh núi rừng đồng ruộng là cảnh quê nhà chan chứa và chân chất mà giản dị.
Tình yêu thiên nhiên yêu cuộc sống hồn hậu được tác giả thể hiện qua cách ví von và cách chọn khung cảnh đó chính là kiểu đất long xà đẹp- thích hợp để xây nhà chính vì thế mà nhà thơ vui lắm. Nhắc tới long xà hai con vật là biểu tượng của thần linh mang tới những điềm tốt che chở che cho ngôi nhà. Nhà thơ đang cảm thấy rất vui ông chia sẻ niềm vui ấy cho mọi người biết được.
Hai từ dã tình ở đây chính là tình quê hương thân thiết đó là mối tình giản dị bình dị nhưng lại vui vẻ đáng yêu và hồn hậu nồng nhiệt. Tình yêu quê hương luôn là một thứ tình cảm thiêng liêng luôn luôn cháy bỏng trong trái tim mỗi người không thể khác đi. Nó như luôn thường trực khiến con người ta nhớ nhung mỗi khi nghĩ về.
“Hữu thì trực thướng cô phong đính,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. ”
(Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời)
Có thể nói hai câu thơ tiếp thep là những gì tác giả muốn thể hiện một khí phách và sự chan hòa của nhà thơ giữa thiên nhiên cao rộng, trèo thẳng lên đỉnh núi cao rồi kêu lên một tiếng thật to và dài trấn động cả bầu trời, vũ trụ
Cách của tác giả thể hiện cảm xúc của mình đó chính là hét lên cho thỏa nỗi lòng cho trời đất nghe thấy niềm vui sướng và hạnh phúc của mình.Nhà thơ ngắm nhìn những ngôi nhà, những cảnh đẹp thiên nhiên và con người quê hương mình mà tháy trong lòng mình vui phơi phới. Tâm trạng của nhà thơ cũng mang cái cao vời vợi phơi phới như chính ngọn núi mà nhà thơ đang đứng. hạnh phúc của tác giả như dâng lên tột độ, tất cả cứ cuồn cuộn và hồ hởi.
Nguồn: Bài văn hay
|
Learn and analyze Zen Master Lu Kong's Yan Huai literature
Instruct
Learn and analyze Zen Master Lu Kong's Yan Huai literature
Vietnamese literature from the 10th to the 18th century, literary movements as well as Chinese works played an important role in the brilliant development of the country's literature. Literary works are mostly ancient Zen poems and verses. Besides poems such as Hoa Mai and other works by Tran Thanh Tong, Nguyen Trai Ngon Hoai by monk Lo Khong Thien Su is one of those outstanding poems. The poem is the voice of the soul expressing the Zen poet's love for life mixed with his love for nature and his homeland and creation.
“Trac Dac Long and Snake Earth is invincible,
"Love is shared forever without any residue"
(The type of land where dragons and snakes choose a place
What country love is boring all day long?
The beginning of the poem is the joy of standing in front of the mountains, forests and fields, a scene of home filled with simplicity and sincerity.
The author's love for nature, love for a gentle life, is expressed through similes and the way he chooses the scene, which is the beautiful long snake land - suitable for building a house, which is why the poet is so happy. Mentioning the dragon and snake, the two animals are symbols of the gods, bringing good omens to protect the house. The poet is feeling very happy and shares that joy with everyone.
The two words of wild love here are the intimate love of the homeland, which is a simple, simple love, but happy, lovely, and warm-hearted. Love for the homeland is always a sacred feeling that always burns in everyone's heart and cannot be different. It seems to always be there, making people miss it every time they think about it.
“If you are, you are directly facing the lonely wind,
Truong Kieu is cool and cool. ”
(Sometimes the mountain top climbs straight up
A cry echoed through the sky)
It can be said that the next two verses are what the author wants to express the poet's spirit and harmony in the midst of vast nature, climbing straight to the top of a high mountain and then letting out a loud and long cry that touches everyone. sky, universe
The author's way of expressing his feelings is to scream his heart out so that heaven and earth can hear his joy and happiness. The poet looks at the houses, the natural beauty and the people of the countryside. I smell my scent and feel joy in my heart. The poet's mood is as lofty as the mountain on which the poet is standing. The author's happiness seemed to rise to the extreme, everything was flowing and exhilarating.
Source: Good article
|
Tìm những nét giống nhau về nội dung và hình thức nghệ thuật của hai bài Ngắm trăng và Tức cảnh Pắc Bó (Hồ Chí Minh)
Hướng dẫn
-Hoàn cảnh sáng tác hai bài thơ: tuy là hai hoàn cảnh riêng nhưng đều có điểm giống nhau đó là những hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, thử thách tinh thần con người.
+ Tức cảnh Pác Bó sáng tác khi Người sống và làm việc trong hang Pác Bó, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, điều kiện sinh hoạt gian khổ, thiếu thốn.
+ Ngắm trăng (vọng nguyệt) được viết trong tù, gian khổ.
-Nội dung: hai bài thơ thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung và tình cảm với thiên nhiên của người chiến sĩ – thi sĩ Hồ Chí Minh.
+ Tức cảnh Pác Bó thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ thể hiện ở niềm vui, sự thích thú trong cuộc sông đầy gian khổ ở núi rừng: ngủ trong hang tối, ăn cháo bẹ rau măng, bàn làm ưiệc là tảng đá chông chênh. Người chiến sĩ không những cảm thấy dồi dào, giàu có về mặt vật chất mà còn cảm thấy sự cao quý, đáng kính trọng bởi cuộc đời làm cách mạng lấy lí tưởng cứu nước làm lẽ sông, không hề bị khó khăn, gian khổ làm cho khuất phục. Người chiến sĩ trong bài thơ là một nhà thơ luôn tìm thấy sự hài hòa với tự nhiên, thư thái với thiên nhiên đặc biệt là luôn vững tinh thần lạc quan, tin tưởng ở sự nghiệp cách mạng gian khổ nhưng sẽ giành thắng lợi.
+ Ngắm trăng (vọng nguyệt): đằng sau những vần thơ là một tinh thần thép, sự tự do nội tại, phong thái ung dung vượt lên trên mọi hoàn cảnh. Bài thơ là một cuộc ngắm trăng rất đặc biệt của Bác Hồ: ngắm trăng trong tù. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó, tình yêu thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh được bộc lộ rõ. Người ung dung thưởng thức trăng với một tâm hồn rất nghệ sĩ — sự giao hòa đặc biệt giữa người tù thi sĩ với vầng trăng. Bài thơ cho thấy một cuộc vượt ngục với một sức mạnh tinh thần to lớn của người tù — người chiến sĩ — người thi sĩ.
+ Hình thức nghệ thuật: hai bài thơ sử dụng thành công thể thơ tứ tuyệt, bút pháp giản dị, tự nhiên mà hàm súc.
+ Tức cảnh Pác Bó: bốn câu thơ tứ tuyệt của bài thơ tự nhiên, bình dị thể hiện một giọng điệu vui đùa, hóm hỉnh. Giọng điệu, từ ngữ, hình ảnh thơ và cách nói của Người toát lên một niềm vui thích, sảng khoái cao độ trong tinh thần của nhân vật trữ tình.
+ Ngắm trăng (vọng nguyệt): bài thơ tứ tuyệt giản dị thể hiện vẻ đẹp của một tâm hồn, nhân cách lớn. Bài thơ vừa có màu sắc cổ điển (đề tài: vọng nguyệt và những thi liệu cổ: rượu, hoa, trăng; cấu trúc đăng đối, hình ảnh chủ thể trữ tình: ung dung, giao cảm đặc biệt với thiên nhiên), vừa mang tinh thần thời đại (hồn thơ lạc quan, thể hiện tinh thần thép),…
|
Find similarities in the content and artistic form of the two songs Watching the Moon and Scenes of Pac Bo (Ho Chi Minh)
Instruct
-The circumstances of composing the two poems: although they are two separate situations, they both have similarities: they are difficult, arduous situations, challenging the human spirit.
+ That is the scene Pac Bo composed when he lived and worked in Pac Bo cave, in an extremely difficult situation, with arduous and poor living conditions.
+ Watching the moon (watching the moon) was written in prison and in hardship.
-Content: two poems express the optimistic spirit, leisurely style and affection for nature of the soldier - poet Ho Chi Minh.
+ The Pac Bo scene shows the optimistic spirit and leisurely demeanor of a revolutionary soldier. The poem is expressed in joy and enjoyment in the arduous life in the mountains and forests: sleeping in a dark cave, eating porridge with bamboo shoots, the working table is an unsteady rock. The soldier not only feels abundant and rich in material terms, but also feels noble and respectable because his life as a revolutionary takes the ideal of saving the country as his life, without any difficulties or hardships. subdue. The soldier in the poem is a poet who always finds harmony with nature, relaxes with nature, especially always maintains an optimistic spirit, believes in the arduous but victorious revolutionary cause.
+ Watching the moon (moon watch): behind the poems is a spirit of steel, inner freedom, and a leisurely demeanor that overcomes all circumstances. The poem is a very special moon viewing of Uncle Ho: moon viewing in prison. In that special situation, Ho Chi Minh's love of nature and spiritual beauty were clearly revealed. The leisurely person enjoys the moon with a very artistic soul - a special harmony between the poet prisoner and the moon. The poem shows a prison escape with great spiritual strength of the prisoner - the soldier - the poet.
+ Artistic form: two poems successfully use quatrains, simple, natural yet concise writing style.
+ Pac Bo scene: four quatrains of a natural, simple poem expressing a playful, humorous tone. His tone, words, poetic images and way of speaking exude a high level of joy and pleasure in the spirit of the lyrical character.
+ Watching the moon (watching the moon): a simple quatrain expressing the beauty of a great soul and personality. The poem has both classical colors (theme: moonlight and ancient poetic materials: wine, flowers, moon; symmetrical structure, lyrical subject image: leisurely, special communion with nature), It also carries the spirit of the times (optimistic poetry, showing a spirit of steel),...
|
Đề bài: Tình Mẫu Tử Trong Đoạn Trích Trong Lòng Mẹ Của Nguyên Hồng
Bài làm
Nhà văn Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5/11/1918 tại thành phố Nam Định. Ông sinh trưởng trong một gia đình nghèo, mồ côi cha từ nhỏ, rồi theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống trong các xóm thợ nghèo. Hơn 20 năm cuối đời ông đã về ở xóm Cầu Đen, xã Quang Tiến, Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Nguyên Hồng là nhà văn thành danh khá sớm và suốt đời ông chỉ kiên trì với một quan niệm văn chương là phải đứng về phía những người lao động bình thường, nhưng đầy rủi ro và bất hạnh, mà văn giới thường gọi đấy là những con người nhỏ bé, dưới đáy xã hội. Một trong những đối tượng xuất hiện nhiều trong văn ông đó là phụ nữ và trẻ em. Viết về tình cảm thiêng liêng này, văn bản Trong lòng mẹ, một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Hồng, được mệnh danh là “bài ca bất hủ về tình mẫu tử”.
Truyện viết về một người đàn bà dũng cảm đối mặt với xã hội phong kiến thối nát với những lời đàm tiếu, sỉ nhục chỉ để được gặp và ở bên con mình. Một đứa trẻ mồ côi cha, xa mẹ và luôn phải sống trong cái cảnh lẻ loi, cô đơn giữa gia đình nhà nội cay nghiệt, độc ác. Qua hai nhân vật này, nhà văn Nguyên Hồng đã thể hiện vô cùng xúc động tình mẫu tử.
Tình mẫu tử thiêng liêng trong tác phẩm Trong lòng mẹ được xuất phát từ hai phía, đó là tình cảm của con dành cho mẹ và ngược lại là những yêu thương, quan tâm, chăm sóc của mẹ dành cho con. Thế nhưng, với tác phẩm này, nhà văn đặc biệt muốn nhấn mạnh tình cảm chân thành, ấm áp của một đứa trẻ dành cho người mẹ tội nghiệp của nó.
Nhà văn Nguyên Hồng đã từng trải qua một tuổi thơ đầy cay đắng và tủi nhục nên điều đó đã ám ảnh vào nhân vật chính: chú bé Hồng trong đoạn trích Trong lòng mẹ. Xã hội phong kiến xưa đã đày đoạ hai mẹ cọn chú bé, đẩy hai người vào tình cảnh trớ trêu: mẹ phải bỏ con mà đi tha phương cầu thực, để rồi chú bẹ trở thành tiêu điểm của những lời dị nghị, chê trách, mỉa mai, đay nghiến của mọi người. Điều khiến chú bé tiếp tục sống và chịu đựng chính là hình ảnh người mẹ hiền từ, cái tình mẫu tử thiêng liêng mà chú khao khát có được. Chú bé Hồng muốn tiếp tục sống để bảo vệ mẹ khỏi những người đố kị và ghen ghét của cái xã hội phong kiến thối nát đầy hủ tục.
Trong đoạn đối thoại với bà cô, Hồng hiện lên là một chú bé dễ xúc động, mau nước mắt và giàu tình cảm. Trong lòng chú, hình ảnh người mẹ đáng thương và tình thương mẹ luôn thường trực. Khi bà cô hỏi “Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ mày không?”. Thoạt tiên, cậu toan trả lời có vì muốn được gặp lại mẹ, vì nghĩ đến tình cảnh đáng thương của mình. Nhưng chợt nhận ra những ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười “rất kịch” của bà cô, nhận ra những ý nghĩ thâm độc, nham hiểm của “cô tôi”: “gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi…”. Thế nên cậu đã cười và từ chối vì “đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến”. Qua đây, chứng tỏ, dù bà cô hay họ hàng độc ác có gieo rắc vào đầu cậu bé ngây thơ, non nớt những ý nghĩ xấu về mẹ cậu đi chăng nữa, thì trong lòng Hồng, hình ảnh mẹ luôn luôn đẹp đẽ.
Tiếp tục câu chuyện đà đưa của mình, bà cô tiếp tục với một giọng ngọt ngào, cười cợt, xúc phạm mẹ Hồng: “Mợ mày phát tài lắm”, “Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa và thăm em bé chứ”. Thấy mẹ bị xúc phạm, Hồng không thể kìm nén nổi tủi cực đang dâng lên trong lòng và trào ra nơi khóe mắt. Nước mắt của chú “ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và ở cổ”. Hồng rơi vào trạng thái vừa uất nghẹn vừa căm phẫn khiến chú phải “cười dài trong tiếng khóc”. Cậu biết rằng, khi ngân dài hai chữ em bé, là bà cô độc ác đang cố tình gieo rắc vào lòng cậu bé hình ảnh của một người phụ nữ góa chồng nhưng có con với người khác. Nỗi đau dường như càng cố nén thì lại càng dâng trào lên mãnh liệt, biến thành lòng căm ghét cao độ: “Giá những cổ tục đầy đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát”. Từ lòng căm tức, cậu đã muốn hành động, muốn đứng lên đập tan mọi cổ tục của cái xã hội phong kiến thối nát đang đầy đọa mẹ cô, khiến mẹ phải tha hương cầu thực, khiến mẹ con cậu phải xa nhau. Điều này, cho chúng ta thấy, Hồng rất muốn bảo vệ mẹ khỏi những thị phi của xã hội. Mặc dù là một đứa trẻ, nhưng quả thật, cậu là một cậu bé tinh tế, thông minh và rất hiểu chuyện.
Hồng đau đớn và tủi cực biết bao nhiêu trong cuộc đối thoại với bà cô thì lại sung sướng và hạnh phúc bấy nhiêu khi gặp lại người mẹ tội nghiệp của mình.
Một chiều tan học về, cậu thấy có bóng người ngồi trên xe kéo. Một cảm giác rất lạ rằng đó chính là mẹ, cậu chạy với theo và gọi: “Mợ ơi! Mợ ơi!”. Hình ảnh so sánh “khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc” làm ta nhận thấy được sự yêu thương mãnh liệt của chú bé sau những ngày tháng tủi cực vừa qua. cảnh hai mẹ con đoàn tụ thật xúc động. Đối với Hồng, chú thấy mẹ đẹp lạ thường, phải chăng do lâu ngày xa cách mà cảm giác vui mừng đoàn tụ khiến em nhìn mẹ mình yêu thương hơn, đẹp đẽ hơn. Hơi quần áo, hơi thở và đặc biệt là hơi ấm từ lòng mẹ làm Hồng thấy hạnh phúc và sung sướng biết bao, như quên hết tất cả rắp tâm bẩn thỉu của người cô.
Tình mẫu tử thì dường như ai cũng có nhưng trong hoàn cảnh của bé Hồng ở đoạn trích Trong lòng mẹ, ta mới thấy nó thật đáng trân trọng và quý giá biết bao. Sẽ là chưa muộn cho cả bạn và tôi ngay bây giờ sà vào lòng người mẹ yêu quý để cũng như bé Hồng, cảm thấy được tình yêu thương rạo rực khắp người và làm tất cả để bảo vệ tình cảm thiêng liêng đó.
|
Topic: Mother's Love in the Excerpt from Mother's Heart by Nguyen Hong
Assignment
Writer Nguyen Hong's real name is Nguyen Nguyen Hong, born on November 5, 1918 in Nam Dinh city. He grew up in a poor family, lost his father at a young age, then followed his mother to Hai Phong to make a living in poor worker's villages. For the last 20 years of his life, he lived in Cau Den village, Quang Tien commune, Tan Yen, Bac Giang province. Nguyen Hong is a writer who became famous quite early and throughout his life he only persevered with a literary concept of having to stand on the side of ordinary workers, but full of risks and misfortunes, which the literary world often calls the poor. small people, at the bottom of society. One of the subjects that appears a lot in his writing is women and children. Writing about this sacred sentiment, the text In the Mother's Womb, one of Nguyen Hong's typical works, is known as "an immortal song about motherly love".
The story is about a brave woman who faces a corrupt feudal society with gossip and insults just to be able to see and be with her child. A child without a father, far from his mother, and always having to live in isolation and loneliness among his harsh and cruel paternal family. Through these two characters, writer Nguyen Hong expressed extremely touching motherly love.
The sacred motherly love in the work In the Mother's Heart comes from two sides: the child's feelings for the mother and vice versa, the mother's love, concern, and care for the child. However, with this work, the writer especially wants to emphasize the sincere, warm feelings of a child for his poor mother.
Writer Nguyen Hong experienced a childhood full of bitterness and humiliation, so that haunted the main character: little Hong in the excerpt In his mother's womb. The ancient feudal society had exiled the mother and child, forcing them into an ironic situation: the mother had to leave her child and go to another country to seek food, and then the boy became the focus of criticism and criticism. , sarcasm, and criticism from everyone. What made the boy continue to live and endure was the image of his gentle mother, the sacred motherly love that he longed to have. Little Hong wants to continue living to protect his mother from the envious and jealous people of the corrupt feudal society full of customs.
In the conversation with his aunt, Hong appears to be an emotional, tearful and emotional boy. In his heart, the image of his poor mother and her love are always present. When the aunt asked “Hong! Do you want to go to Thanh Hoa to play with your mother? At first, he tried to answer yes because he wanted to see his mother again and because he thought of his pitiful situation. But suddenly I realized the cruel thoughts in my aunt's voice and on her face when she smiled "very theatrically", realized the cruel and sinister thoughts of "my aunt": "planting in my mind Doubt made me despise and abandon my mother...". So he laughed and refused because "there is no way my mother's love and respect would be violated by dirty thoughts." This proves that, no matter how evil an aunt or relative puts bad thoughts about his mother in the innocent and immature boy's head, in Hong's heart, the image of her mother is always beautiful.
Continuing her story, the aunt continued with a sweet, laughing voice, insulting Hong's mother: "Your aunt is very talented", "Why don't you come in and force her to sew, shop, and visit the baby?" ”. Seeing her mother being insulted, Hong could not suppress the sadness rising in her heart and welling up in the corners of her eyes. His tears "dropped down the sides of his mouth and then mixed profusely on his chin and neck". Hong fell into a state of both choking and indignation, causing him to "laugh for a long time while crying". He knew that, by repeating the word baby, the evil aunt was deliberately planting in the boy's heart the image of a widowed woman having a child with someone else. The more I tried to suppress the pain, the more intensely it surged up, turning into extreme hatred: "If only the ancient customs that tormented my mother were an object like a stone or a piece of glass, or a piece of wood, I would Grab it, bite it, chew it, grind it until it's broken." Out of anger, he wanted to take action, wanted to stand up and smash all the old customs of the corrupt feudal society that was tormenting her mother, forcing her to go abroad to seek food, causing him and his mother to be separated. This shows us that Hong really wants to protect her mother from the scandals of society. Although he is a child, he is indeed a delicate, intelligent and very understanding boy.
As much as Hong was in pain and sadness during the conversation with her aunt, she was even more happy and excited when she met her poor mother again.
One afternoon, coming home from school, he saw a figure sitting on a rickshaw. A very strange feeling that it was his mother, he ran after him and called: "Auntie!" Auntie!”. The comparative image "no different from the illusion of a transparent stream of water flowing in the shade that appeared before the nearly broken eyes of a pedestrian collapsed in the desert" makes us realize the intense love of little boy after the past miserable days. The scene where mother and daughter reunite is so touching. For Hong, he finds his mother incredibly beautiful. Maybe it's because of the long separation, but the feeling of joy and reunion makes her look at her mother more lovingly and more beautifully. The smell of clothes, breath and especially the warmth from her mother's womb made Hong feel so happy and joyful, as if she had forgotten all about her aunt's dirty mind.
Motherly love seems to be shared by everyone, but in the situation of baby Hong in the excerpt In the mother's womb, we see how precious and precious it is. It is not too late for both you and I to rush into the arms of our beloved mother right now so that, like little Hong, we can feel the love burning all over our bodies and do everything to protect that sacred affection.
|
Tình người cao hơn của cải – Bình giảng văn 7
Hướng dẫn
Tình bạn là một trong số đề tài có truyền thống lâu đời trong lịch sử văn học Việt Nam. Bạn đến chơi nhà là một bài thơ thuộc loại hay nhất trong đề tài tình bạn và cũng thuộc loại hay nhất trong thơ Nguyễn Khuyến nói riêng, thơ Nôm Đường luật nói chung.
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cá, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Cũng giống như Bà Huyện Thanh Quan viết Qua Đèo Ngang, Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ Bạn đến chơi nhà theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với sự phối hợp thanh điệu, vần điệu, bố cục, đối xứng, số tiếng, số câu rất hài hoà. Đây cũng là bài thơ viết bằng chữ Nôm, dùng từ ngũ thuần Việt giản dị, dân dã mà rất đỗi trong sáng, thanh cao. Trong và thanh hơn cả là một tấm lòng chân thành đối với bạn. Nhà thơ như muốn nói với bạn và với tất cả chúng ta rằng: Tình bạn, tình người cao hơn của cải.
Câu thơ mở đầu như một tiếng reo vui:
Đã bấy lảu nay, bác tới nhà
Cụm từ bấy lâu nay chứng tỏ người bạn của nhà thơ từ lâu rồi chưa đến thăm nhà thơ. Và cũng chứng tỏ việc hôm nay bác tới nhà thật là quý báu, rất đáng mừng, đáng vui, đáng… mở tiệc đãi bạn để thoả lòng mong nhớ, thoả tình nghĩa cố nhân. Lời thơ tự nhiên, như lời nói thường mà vẫn toát lên tình cảm mừng vui chân thành của một người bạn.
Do đó, đến câu kết của bài thơ, âm điệu và ngôn từ bỗng thay đổi, thân mật và ngọt ngào:
Bác đến chơi đây, ta với ta!
Bao nhiêu nghèo thiếu, bao nhiêu lúng túng, ngượng ngùng bỗng tan đi hết, để cho tình bạn, tình người thăng hoa. Mọi của cải vật chất đều không còn ý nghĩa gì nữa. “Bác đến chơi đây, ta với ta” là đủ, là điều mà tôi cần nhất, tôi khái khao, trông chờ nhất. Cụm từ ta với ta trong bài thơ này của Nguyễn Khuyến gợi nhớ đến cụm từ ta với ta trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, về ngôn ngữ, hai cụm từ đó hoàn toàn giống nhau. Nhưng về ý nghĩa thì chúng rất khác nhau. Đại từ ta trong thơ Thanh Quan dùng để nói chính nhà thơ, nói về một “cái tôi” riêng lẻ thầm kín buồn lặng, cô đơn. Hai chữ ta nhưng chỉ là một nghĩa. Còn ta trong thơ Nguyễn Khuyến là nói về hai người, nhà thơ và bạn. Nói về hai người bằng một âm của một đại từ nhân xưng như thế, cụ Yên Đổ đã ca ngợi một tình bạn gắn bó, thân mật tưởng không thể tách rời, chia đôi. Thêm nữa, cụm từ ta với ta gắn với mấy tiếng trước Bác đến chơi đây và đặt sau những dòng thơ kể sự thiếu thốn vật chất bỗng như một tiếng cười xoà bật lên, thật là vui vẻ. Rõ ràng, tình, bạn, tình người là quý nhất, cao hơn của cải, vật chất. Kết cấu thơ và cách dùng từ, chơi chữ của nhà thơ đất Hà Nam thật tài hoa.
Xem lại bình giảng bài Một vùng non nước hùng vĩ, hoang sơ
|
Human love is higher than wealth - Literature commentary 7
Instruct
Friendship is one of the topics with a long tradition in the history of Vietnamese literature. You come to visit is a poem that is one of the best on the topic of friendship and also one of the best in Nguyen Khuyen's poetry in particular and Nom Duong Luat poetry in general.
It's been a long time since you came home,
When children are away, the market is far away.
Deep pond with fish water, clever fishing,
Large garden fence sparse, hard chase chickens.
Cabbage has just sprouted, eggplant has just buds,
Newly elected cord, melon or flowers.
At the beginning of the game of receiving guests, there was no betel,
I'm here to play, you and me.
Just like Ba Huyen Thanh Quan wrote Qua Deo Ngang, Nguyen Khuyen composed the poem You come to visit in the seven-word, eight-syllable form of Tang Lu with the combination of tones, rhymes, composition, symmetry, number of sounds, and numbers. Very harmonious sentences. This is also a poem written in Nom, using simple and rustic Vietnamese five-word words but very pure and noble. The clearest and clearest thing is a sincere heart towards you. The poet seems to want to say to you and to all of us: Friendship and human love are higher than wealth.
The poem opens like a shout of joy:
It's been a while since you came home
This long-standing phrase shows that the poet's friend has not visited the poet for a long time. And it also proves that your coming to my house today is truly precious, very worthy of celebration, worthy of joy, worthy of... holding a party for you to satisfy your longing and gratitude for your old friends. The lyrics are natural, like normal speech, but still exude the sincere joy and feelings of a friend.
Therefore, at the end of the poem, the tone and words suddenly change, becoming intimate and sweet:
I'm here to play, you and me!
All the poverty, all the confusion and shyness suddenly disappeared, allowing friendship and human love to flourish. All material possessions no longer have any meaning. "Come here to visit, me and you" is enough, it's what I need the most, I long for, look forward to the most. The phrase I and I in this poem by Nguyen Khuyen is reminiscent of the phrase I and I in the poem Qua Deo Ngang by Ba Huyen Thanh Quan. In terms of language, those two phrases are completely similar. But in meaning they are very different. The pronoun ta in Thanh Quan's poetry is used to refer to the poet himself, talking about an individual "self" that is secretly sad and lonely. The two words ta have only one meaning. As for me in Nguyen Khuyen's poetry, it is about two people, the poet and his friend. Speaking about the two people with the same pronoun, Mr. Yen Do praised a close, intimate friendship that seemed inseparable or indivisible. In addition, the phrase me and me associated with a few hours ago when Uncle came here to visit and placed after the lines of poetry about the lack of material things suddenly burst out like a burst of laughter, so happy. Obviously, love, friendship, and human love are the most precious, higher than wealth and material things. The poetic structure and way of using words and wordplay of the Ha Nam poet are very talented.
Review the lecture commentary A majestic, wild mountainous area
|
Tình phụ tử cao đẹp trong bài thơ Nói Với Con
Hướng dẫn
Tình phụ tử cao đẹp trong bài thơ Nói Với Con
BÀI LÀM
Tình phụ tử là một tình cảm vô cùng thiêng liêng cao đẹp. Đó là đề tài lớn trong thi ca nhạc họa. Rất nhiều bài thơ ca dao tục ngữ nói về tình phụ tử góp vào đề tài ấy Y Phương có bài ” Nói với Con”. Bài thơ chứa đựng tình phụ tử thiêng liêng sâu sắc, muốn gửi gắm cho con những lời khuyên chân thành và bổ ích.
Bài thơ là lời Người cha miến núi nói với con. Lời đầu tiên cha nói với con là lời gợi nhắc về cõi nguồn sinh dưỡng thiêng liêng. Từng bước đi, tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ, nâng niu chăm chút, mừng vui đón nhận. Hình ảnh thơ ở đây thật cụ thể gợi cảm mà giàu tính khái quát cụ thể.
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười””
Những câu thơ tiếp theo gởi về cội nguồn rộng lớn đã nuôi dưỡng con đó là quê hương
” Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”
“Người đồng mình” cách nói thật ấm áp giản dị chỉ người vùng mình, miền mình những người sống chung miền đất quê hương cùng dân tộc. Những câu thơ mở đầu bằng “người đồng mình” rất đặc sắc chính những người đồng mình tạo nên chiều sâu văn hóa, lối sống. Con người nơi đây yêu lao động, yêu cái đẹp. Biết làm đẹp cho cuộc sống, còn rừng núi quê hương thì thật thơ mộng nghĩa tình, cả con đường cũng vậy. Thiên nhiên đã ban tặng cho con người cái đẹp, chở che, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn lối sống. Cách nói giản dị mộc mạc mà gợi liên tưởng sâu xa.
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
Người cha đã truyền cho con niềm tự hào và vẻ đẹp và sức mạnh của truyền thống quê hương, phẩm chất con người của cha anh, dân tộc. Điều cha tâm tình với con vượt lên tình cảm gia đình trở lên thành lời trao gửi thiêng liêng giữa các thế hệ.
Nghệ thuật của bài thơ cũng vô cùng đặc sắc, thể thơ tự do gần với lời ru. Lời thơ chân thành mộc mạc giản dị. Tóm lại bài thơ đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật.
Bài thơ “Nói với Con” của Y Phương tràn đầy tình phụ tử nhất là tình cha dành cho đứa con bé bỏng của mình bằng cả tấm lòng cao cả, sâu lắng công ơn của người cha trong bài: ” Nói với Con” cũng giống như những câu ca dao xưa: “Công cha như núi ngất trời – Nghĩa mẹ như nước ở ngoài Biển Đông”
|
A father's love is beautiful in the poem "Speak to Your Child".
Instruct
A father's love is beautiful in the poem "Speak to Your Child".
ASSIGNMENT
Fatherly love is an extremely sacred and beautiful feeling. That is a big topic in poetry, music, and art. Many poems, folk songs and proverbs talk about fatherhood and fatherhood, contributing to that topic. Y Phuong has the song "Speaking to Children". The poem contains deep spiritual fatherly love, wanting to give you sincere and useful advice.
The poem is what a mountain father said to his son. The first words my father spoke to me were a reminder of the spiritual source of nourishment. Every step, voice, and laugh of the child is cherished, cared for, and happily received by the parents. The poetic images here are very specific and sexy but rich in specific generalizations.
“Right foot steps towards dad
Left foot steps towards mother
One step to touch the voice
Two steps to laughter””
The next verses send back to the vast source that has nurtured me, my homeland
"The person I love so much, my child
Weaving with spokes
The walls of the house sing songs
The forest gives flowers
The path for the hearts"
“Friendly people” is a very warm and simple way of speaking, referring to people from our region, people living in the same homeland and people. The verses that begin with "comrades" are very unique. It is the people who create the depth of culture and lifestyle. People here love work and love beauty. Know how to beautify life, and the mountains and forests of your homeland are so romantic and romantic, and so are the roads. Nature has bestowed beauty on humans, protects them, and nurtures them both spiritually and lifestyle. The way of speaking is simple but deeply evocative.
“My child, although the skin is rough
Let's go
Never be small
Listen to me”
The father instilled in his children the pride and beauty and strength of the traditions of his homeland, the human qualities of his father, the nation. What a father confides in his child transcends family feelings and becomes a sacred message between generations.
The poem's art is also extremely unique, the free verse form is close to a lullaby. The poem is sincere and simple. In short, the poem is unique in both content and art.
Y Phuong's poem "Speak to the Son" is full of fatherly love, especially the love a father has for his little child with all the noble heart and deep gratitude of the father in the poem: "Speak to the Son" also like the old folk songs: "A father's merit is like a sky-high mountain - A mother's kindness is like the water in the East Sea"
|
Tình thương là hạnh phúc của con người. Hãy trình bày suy nghĩ về nhận định trên
Hướng dẫn
Hạnh phúc chỉ có thể được tạo ra bởi tình yêu thương lẫn nhau
Mở bài:
Đức Phật, bậc đạo sư vĩ đại, đã lấy tình thương làm nguyên lí của đạo. Chúa Giesu, vị thánh của người Do Thái, cũng lấy tình thương làm nguồn cội của mọi hành động. Kể cả Khổng Tử, bậc vạn thế sư biểu, cũng lấy tình thương làm tuyên chỉ trong thiên sách đức trị xã hội.
Các vị vì tình yêu thương con người mà đã không quản ngại gian khổ, hiểm nguy để tìm ra chân lí sống đẹp cho loài người. Bởi các vị biết rằng vượt lên trên tất cả, chỉ có tình thương yêu mới tạo nên hạnh phúc ở con người. Tình thương là hạnh phúc của con người.
Thân bài:
Tình yêu thương là gì? Hạnh phúc là gì?
Tình thương là lòng yêu thương, sự gắn bó, đoàn kết, chia sẻ của con người với con người hoặc với các đối tượng khác (thiên nhiên, cây cỏ, loài vật, quê hương, đất nước…). Tình thương đích thực chỉ xuất phát từ tâm hồn chân thật và không vụ lợi.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người. Nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Có thể hiểu hạnh phúc là trạng thái hoàn toàn mãn nguyện trong tâm hồn về mọi phương diện trong cuộc sống.
Vì sao tình thương là hạnh phúc của con người?
Sống biết yêu thương là lối sống đẹp, đúng đắn. Sống đẹp đem lại hạnh phúc cho con người. Tình thương làm cho mối quan hệ của con người tốt đẹp hơn. Cuôc sống sẽ trở nên thân thiện, ấm áp, vui vẻ, hạnh phúc hơn. Đó cũng là cơ sở đầu tiên khẳng định nhân cách con người.
Tình thương không phân biệt màu da, ngôn ngữ, khoảng cách giàu nghèo. Tình yêu thương cingx không có giới hạn nào. Nó làm cho mọi người xích lại gần nhau hơn. Nó kết nối con người lại với nhau.
Sống biết yêu thương và nên chia sẻ, đồng cảm với hoàn cảnh của người khác. Đây cũng là xu thế sống hòa nhập, hợp tác của thời đại. Những hoạt động vì tình thương luôn được đồng tình và ủng hộ như Chương trình vì người nghèo, Ngôi nhà mơ ước, Viết tiếp ước mơ của Thúy, Mái ấm tình thương, Xây dựng nhà tình nghĩa, Học bổng vì ngày mai…
Tại một khu phố diễn ra một phiên tòa xét xử đặc biệt. Bị cáo là một người phụ nữ gần 60 tuổi. Bà ấy bị kết tội vì đã ăn cắp một chiếc bánh mì nướng. Vị thẩm phán là ngài thị trưởng Fiorello Laguardia. Ngài thị trưởng bằng sự thấu hiểu và tấm lòng thương người đã xử bà lão vô tội. Sau phút sửng sốt vì cách xử kì lạ của vị thị trưởng, mọi người nhận rá ý nghĩa của nó. Họ đã rất đồng tình với cách ứng xử đầy bao dung và vị tha ấy.
Ông còn kêu gọi mọi người có mặt trong phiên tòa hôm ấy cùng góp tiền ủng hộ bà vượt qua nghịch cảnh đói khổ. Chính ông đã thức tỉnh sự lãnh đạm, vô tình của mọi người. Không chỉ những người có mặt tại phiên tòa mà là cả nhân dân nước Mỹ không. Những con người vì khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế mà đánh mất đi tình người.
Tình thương là động lực thúc đẩy ta hoàn thành công việc tốt hơn, có hiệu quả cao hơn. Nó cũng là cội nguồn của sức sáng tạo để con người làm nên sự nghiệp lớn. Nhờ tình thương, mọi người sẽ giúp nhau, đoàn kết tạo nên sức mạnh vật chất. Con người biết động viên nhau tạo nên sức mạnh tinh thần để vượt qua gian khố thử thách. Nhờ có tình thương, sự trợ giúp mà những tai họa do con người hay thiên nhiên gây ra mau được khắc phục. Những con người bất hạnh được sống vui hơn. Những con người có ước mơ, hoài bão lớn nhưng không có điều kiện đã được thực hiện.
Tình thương có thế xoa dịu được nỗi đau con người. Nó xóa tan lòng hận thù và cảm hóa được những con người lầm lỗi. Sống vì tình thương sẽ nhận được sự nể trọng của mọi người.
Sống vì tình thương ta cần phải làm gì?
Thương yêu vốn là thiên tính vốn có của con người. Nhưng ta phải luyện tập rất nhiều mới có thể có được. Bằng tấm lòng bao dung chuyển hóa sự ích kỷ hẹp hòi thì tình thương mới chân thật được. Bởi thế, ngay từ lúc mới sinh ra, con người luôn được quan tâm, bồi dưỡng và phát triển tình thương trong tâm thể mình.
Sống có tình thương trước hết là phải biết sống chân thật. Tấm lòng thành thật thể hiện mong muốn được gắn kết mình với mọi người, với thế giới xung quanh. Tất cả tình yêu thương cùng hướng về hạnh phúc đích thực. Chỉ có sự chân thật mới làm nảy sinh niềm tin tưởng lẫn nhau. Và chỉ có tình thương con người mới làm bùng phát khát vọng cống hiến sức mình của mỗi các nhân vì lợi ích của cộng đồng. Không có tấm lòng thì kẻ giàu có chỉ là một tên ăn mày đê tiện
Sống vì tình thương là phải biết hướng đến cộng đồng và lợi ích của người khác. Sống vì người khác chứ không phải bản thân mình. Bởi mỗi giá trị ta đem tới cho người khác phải hoàn toàn vì quyền lợi của họ. Không được xen ké quyền lợi của ta vào, dù chỉ cần họ thấy được tấm lòng của mình. Muốn người khác thấy được tấm lòng của ta, thì cũng không ngoài mục đích khiến họ thương yêu thêm hoặc đánh giá cao về ta mà thôi. Dù biết rằng trái tim ta chưa quảng đại để có thể thương họ mà không cần thương lại, nhưng cũng đừng vì thế mà ta cứ phải kèm theo điều kiện trong mỗi lần hiến tặng. Đó không còn là tình thương nữa.
Tự nhìn lại trong thời gian qua bản thân đã sống như thế nào trong quan hệ với mọi người khác để sống đẹp hơn nữa. Coi ý kiến trên là phương châm sống của bản thân. Biết nói những lời yêu thương, luôn nở nụ cười thân thiện với mọi người, sẵn sàng dang tay giúp đỡ người khác.
Phê phán lối sống thiếu tình thương:
Lối sống thiếu tình thương, ích kỉ, vô cảm trước đồng loại sẽ bị mọi người xem thường. Họ sẽ xa lánh, dẫn đến sống cô đơn, dễ bi quan, thiếu sức mạnh tinh thần để vươn lên trong cuộc sống. Nhiều người sống vô cảm, cuộc sống sẽ lạnh lùng, thiếu thân thiện. Chất lượng sống sẽ giảm sút. Truyền thống đạo đức của dân tộc sẽ bị bào mòn.
Phê phán những kẻ lợi dụng tình thương để thực hiện ý đồ đen tối, để tự đánh bóng bản thân mình. Tình yêu thương là tình cảm cao quý đáng được trân trọng. Những kẻ lợi dụng niềm tin, lòng yêu thương của con người thật đáng chê trách. Và những ai xúc phạm vài tình yêu thương con người sẽ không được nhận tình yêu thương từ người khác.
Kết bài:
Trong bất kì thời đại nào, hay xã hội nào lòng yêu thương luôn luôn cần thiết. Nó giúp con người được gắn kết với nhau một cách bền vững. Tình yêu thương giúp ta được hạnh phúc và tìm được giá trị sống đích thực trong cuộc sống này. Sống thiếu đi tình thương chẳng khác nào ta tự tách mình ra khỏi cuộc sống. Tự ta cô lập mình trong một thế giới khô cằn. Sẽ không bao giờ ta tìm thấy được hạnh phúc đích thực của riêng mình. Tình thườn là hạnh phúc của con người
Có thể bạn đang tìm kiếm điều này:
Văn học và tình thương: Cái cốt lõi của văn học là lòng nhân ái” (Rasul Gamzatop).
|
Tình thương là hạnh phúc của con người. Hãy trình bày suy nghĩ về nhận định trên
Hướng dẫn
Hạnh phúc chỉ có thể được tạo ra bởi tình yêu thương lẫn nhau
Mở bài:
Đức Phật, bậc đạo sư vĩ đại, đã lấy tình thương làm nguyên lí của đạo. Chúa Giesu, vị thánh của người Do Thái, cũng lấy tình thương làm nguồn cội của mọi hành động. Kể cả Khổng Tử, bậc vạn thế sư biểu, cũng lấy tình thương làm tuyên chỉ trong thiên sách đức trị xã hội.
Các vị vì tình yêu thương con người mà đã không quản ngại gian khổ, hiểm nguy để tìm ra chân lí sống đẹp cho loài người. Bởi các vị biết rằng vượt lên trên tất cả, chỉ có tình thương yêu mới tạo nên hạnh phúc ở con người. Tình thương là hạnh phúc của con người.
Thân bài:
Tình yêu thương là gì? Hạnh phúc là gì?
Tình thương là lòng yêu thương, sự gắn bó, đoàn kết, chia sẻ của con người với con người hoặc với các đối tượng khác (thiên nhiên, cây cỏ, loài vật, quê hương, đất nước…). Tình thương đích thực chỉ xuất phát từ tâm hồn chân thật và không vụ lợi.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người. Nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Có thể hiểu hạnh phúc là trạng thái hoàn toàn mãn nguyện trong tâm hồn về mọi phương diện trong cuộc sống.
Vì sao tình thương là hạnh phúc của con người?
Sống biết yêu thương là lối sống đẹp, đúng đắn. Sống đẹp đem lại hạnh phúc cho con người. Tình thương làm cho mối quan hệ của con người tốt đẹp hơn. Cuôc sống sẽ trở nên thân thiện, ấm áp, vui vẻ, hạnh phúc hơn. Đó cũng là cơ sở đầu tiên khẳng định nhân cách con người.
Tình thương không phân biệt màu da, ngôn ngữ, khoảng cách giàu nghèo. Tình yêu thương cingx không có giới hạn nào. Nó làm cho mọi người xích lại gần nhau hơn. Nó kết nối con người lại với nhau.
Sống biết yêu thương và nên chia sẻ, đồng cảm với hoàn cảnh của người khác. Đây cũng là xu thế sống hòa nhập, hợp tác của thời đại. Những hoạt động vì tình thương luôn được đồng tình và ủng hộ như Chương trình vì người nghèo, Ngôi nhà mơ ước, Viết tiếp ước mơ của Thúy, Mái ấm tình thương, Xây dựng nhà tình nghĩa, Học bổng vì ngày mai…
Tại một khu phố diễn ra một phiên tòa xét xử đặc biệt. Bị cáo là một người phụ nữ gần 60 tuổi. Bà ấy bị kết tội vì đã ăn cắp một chiếc bánh mì nướng. Vị thẩm phán là ngài thị trưởng Fiorello Laguardia. Ngài thị trưởng bằng sự thấu hiểu và tấm lòng thương người đã xử bà lão vô tội. Sau phút sửng sốt vì cách xử kì lạ của vị thị trưởng, mọi người nhận rá ý nghĩa của nó. Họ đã rất đồng tình với cách ứng xử đầy bao dung và vị tha ấy.
Ông còn kêu gọi mọi người có mặt trong phiên tòa hôm ấy cùng góp tiền ủng hộ bà vượt qua nghịch cảnh đói khổ. Chính ông đã thức tỉnh sự lãnh đạm, vô tình của mọi người. Không chỉ những người có mặt tại phiên tòa mà là cả nhân dân nước Mỹ không. Những con người vì khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế mà đánh mất đi tình người.
Tình thương là động lực thúc đẩy ta hoàn thành công việc tốt hơn, có hiệu quả cao hơn. Nó cũng là cội nguồn của sức sáng tạo để con người làm nên sự nghiệp lớn. Nhờ tình thương, mọi người sẽ giúp nhau, đoàn kết tạo nên sức mạnh vật chất. Con người biết động viên nhau tạo nên sức mạnh tinh thần để vượt qua gian khố thử thách. Nhờ có tình thương, sự trợ giúp mà những tai họa do con người hay thiên nhiên gây ra mau được khắc phục. Những con người bất hạnh được sống vui hơn. Những con người có ước mơ, hoài bão lớn nhưng không có điều kiện đã được thực hiện.
Tình thương có thế xoa dịu được nỗi đau con người. Nó xóa tan lòng hận thù và cảm hóa được những con người lầm lỗi. Sống vì tình thương sẽ nhận được sự nể trọng của mọi người.
Sống vì tình thương ta cần phải làm gì?
Thương yêu vốn là thiên tính vốn có của con người. Nhưng ta phải luyện tập rất nhiều mới có thể có được. Bằng tấm lòng bao dung chuyển hóa sự ích kỷ hẹp hòi thì tình thương mới chân thật được. Bởi thế, ngay từ lúc mới sinh ra, con người luôn được quan tâm, bồi dưỡng và phát triển tình thương trong tâm thể mình.
Sống có tình thương trước hết là phải biết sống chân thật. Tấm lòng thành thật thể hiện mong muốn được gắn kết mình với mọi người, với thế giới xung quanh. Tất cả tình yêu thương cùng hướng về hạnh phúc đích thực. Chỉ có sự chân thật mới làm nảy sinh niềm tin tưởng lẫn nhau. Và chỉ có tình thương con người mới làm bùng phát khát vọng cống hiến sức mình của mỗi các nhân vì lợi ích của cộng đồng. Không có tấm lòng thì kẻ giàu có chỉ là một tên ăn mày đê tiện
Sống vì tình thương là phải biết hướng đến cộng đồng và lợi ích của người khác. Sống vì người khác chứ không phải bản thân mình. Bởi mỗi giá trị ta đem tới cho người khác phải hoàn toàn vì quyền lợi của họ. Không được xen ké quyền lợi của ta vào, dù chỉ cần họ thấy được tấm lòng của mình. Muốn người khác thấy được tấm lòng của ta, thì cũng không ngoài mục đích khiến họ thương yêu thêm hoặc đánh giá cao về ta mà thôi. Dù biết rằng trái tim ta chưa quảng đại để có thể thương họ mà không cần thương lại, nhưng cũng đừng vì thế mà ta cứ phải kèm theo điều kiện trong mỗi lần hiến tặng. Đó không còn là tình thương nữa.
Tự nhìn lại trong thời gian qua bản thân đã sống như thế nào trong quan hệ với mọi người khác để sống đẹp hơn nữa. Coi ý kiến trên là phương châm sống của bản thân. Biết nói những lời yêu thương, luôn nở nụ cười thân thiện với mọi người, sẵn sàng dang tay giúp đỡ người khác.
Phê phán lối sống thiếu tình thương:
Lối sống thiếu tình thương, ích kỉ, vô cảm trước đồng loại sẽ bị mọi người xem thường. Họ sẽ xa lánh, dẫn đến sống cô đơn, dễ bi quan, thiếu sức mạnh tinh thần để vươn lên trong cuộc sống. Nhiều người sống vô cảm, cuộc sống sẽ lạnh lùng, thiếu thân thiện. Chất lượng sống sẽ giảm sút. Truyền thống đạo đức của dân tộc sẽ bị bào mòn.
Phê phán những kẻ lợi dụng tình thương để thực hiện ý đồ đen tối, để tự đánh bóng bản thân mình. Tình yêu thương là tình cảm cao quý đáng được trân trọng. Những kẻ lợi dụng niềm tin, lòng yêu thương của con người thật đáng chê trách. Và những ai xúc phạm vài tình yêu thương con người sẽ không được nhận tình yêu thương từ người khác.
Kết bài:
Trong bất kì thời đại nào, hay xã hội nào lòng yêu thương luôn luôn cần thiết. Nó giúp con người được gắn kết với nhau một cách bền vững. Tình yêu thương giúp ta được hạnh phúc và tìm được giá trị sống đích thực trong cuộc sống này. Sống thiếu đi tình thương chẳng khác nào ta tự tách mình ra khỏi cuộc sống. Tự ta cô lập mình trong một thế giới khô cằn. Sẽ không bao giờ ta tìm thấy được hạnh phúc đích thực của riêng mình. Tình thườn là hạnh phúc của con người
Có thể bạn đang tìm kiếm điều này:
Văn học và tình thương: Cái cốt lõi của văn học là lòng nhân ái” (Rasul Gamzatop).
|
Tình yêu càng thuần túy càng hạnh phúc
Hướng dẫn
Tình yêu càng thuần túy càng hạnh phúc
Bài làm
Giống như hạt sương trong lành mát dịu, tình yêu cũng mỏng manh và đẹp tới lạ kì. Những người chưa bao giờ nếm trải mùi vị của tình yêu luôn cảm thấy muốn đắm mình vào đó, ngược lại cũng có những người vì tình yêu mà bản thân bị tổn thương một cách sâu sắc. COn người là thế luôn luôn có khiếm khuyết và sai lầm, cho dù yêu thương hay là gì đi chăng nữa, luôn nghĩ một cách máy móc phức tạp. Vậy tình yêu là gì, khiến cho con người ta nhạy cảm tới vậy, tình yêu thì hãy xin giữ trọn chữ yêu, thuần khiết không gợn đục của lòng ích kỉ suy tính, có như thế mới mang tới cho bản thân những xúc cảm không thể nào ngọt ngào hơn được nữa.
Trên đời này, thời gian là hữu hạn chỉ có tình yêu thương mới là vô hạn. COn người luôn nghĩ ngược lại tình yêu là hữu hạn nên cho cũng ít đi, cũng ích kỉ hơn buồn phiền hơn, làm cho con người yêu thương ta cũng nên du mộng mà chán chường với đày ải nhân gian. Thời gian là trăm năm, dài chỉ có đầu gang tấc, một chốc đã hết gần nửa cuộc đời, ấy vậy mà tơi cuối đời đôi khi con người ta lại rung động lần nữa. Chúng ta có quyền lựa chọn những người mang tới cho mình hạnh phúc, không muốn người mang đến cho mình sóng gió bất hạnh, vậy mà mỗi người một việc ta gặp lại giống như định mệnh. Nhưng đừng bao giờ đổ mặc và phó thác cho số phận.
Chúng ta, vẫn như may mắn gặp nhiều người giống như mặt trời mỗi sáng lại mọc và tối thì lặn, con người tìm với nhau theo một chữ duyên. Có những người đi ngang đơi ta, chỉ gặp được 1 phút,có người lại ở bên ta một giờ, có người lại một năm nhưng có người lại cả đời. Biết bao nhiêu sóng gió gian truân ta mới biết như thế nào là gặp đúng người là chọn đúng người. CHúng ta không có quyền bắt người khác phải phục tùng mình tới như thế nào chỉ có cách làm cho người đó yêu mình tới như thế nào.
Tình cảm là thứ nên thuần khiết, không chút vụ lợi hay vị kỉ mà suy đoán. Chưa có một cuộc tình hay một cuộc hôn nhân nào đẹp theo kiểu về nhà rồi bén duyên. Cảm giác hạnh phúc thực sự được mang đến khi con người rung động và thực sự mong muốn vui đắp cho cuộc đời của mình của cả hai người. Công lý không thuộc về kẻ mạnh mà công lý thuộc về những người biết nắm giữ chìa khóa cảm xúc của mình. Chính vì vậy người ta mới có câu tình yêu càng thuần túy con người mới càng cảm nhận được hạnh phúc.
Nguồn: Tài liệu trực tuyến
|
The purer the love, the happier it is
Instruct
The purer the love, the happier it is
Assignment
Like fresh, cool dew, love is also fragile and strangely beautiful. People who have never experienced the taste of love always feel like immersing themselves in it, on the contrary, there are also people who are deeply hurt because of love. Humans are like that and always have flaws and mistakes, no matter love or anything else, always think in a complicated, mechanical way. So what is love, what makes people so sensitive? Love, please keep the word love, pure without the turbidity of selfish thinking, only then will it bring you emotions. Couldn't be any sweeter.
In this world, time is limited, only love is infinite. People always think on the contrary that love is limited, so we give less, we are more selfish and sad, making the person we love become dreamy and bored with exile in the human world. Time is a hundred years, only an inch long, almost half of a life is over in an instant, yet at the end of life sometimes people are moved again. We have the right to choose people who bring us happiness, we don't want people who bring us trouble and unhappiness, yet each person we meet is like fate. But never give up and leave it to fate.
We are still lucky enough to meet many people, just like the sun rises every morning and sets every evening, people find each other according to a word of fate. Some people pass by and only meet us for 1 minute, some stay with us for an hour, some stay with us for a year, but some stay with us for a lifetime. Through many ups and downs, we know how to meet the right person and choose the right person. We have no right to force others to obey us, we only have the right to make that person love us.
Love is something that should be pure, without any self-interest or selfish speculation. There has never been a love affair or a marriage as beautiful as coming home and falling in love. The feeling of true happiness is brought when people are moved and truly want to make their lives happy. Justice does not belong to the strong, but justice belongs to those who know how to hold the key to their emotions. That's why people say that the purer the love, the more happiness people will feel.
Source: Online documents
|
Tình yêu quê hương đất nước của Ông Hai trong truyện ngắn Làng
Hướng dẫn
Tình yêu quê hương đất nước của Ông Hai trong truyện ngắn Làng
Bài làm
Nhà văn Nam Cao, tác giả của cuốn” Đời Thừa” từng trăn trở” Văn chương không cần những người thơ khéo tay làm theo vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khỏi những nguồn chưa ai khỏi và nói những gì chưa ai có” Nếu lấy nhận định ấy làm thước đo thi tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân hoàn toàn xứng đáng là một tác phẩm văn chương chân chính với hình tượng nhân vật ông nông dân thời kỳ kháng chiến chống pháp hoàn toàn mới lạ. Đọc Làng, chúng ta ấn tượng bởi tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật ông Hai.
Làng là truyện ngắn của Kim Lân, một cái tên không hề xa lạ trong làng văn học Việt Nam thời kỳ đầu. Trích đoạn nói riêng và tác phẩm nói chung được viết năm 1948 trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Đoạn trích ca ngợi tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân qua hai tình huống chính:khi ông hai nghe tin làng theo giặc và khi ông hai nghe tin cải chính. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm được thể hiện rõ ràng qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Qua đoạn trích, tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật ông hai được bộc lộ rõ ràng, gây âm vang trong lòng người đọc.
Trước hết, tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật ông hai được thể hiện trước khi ông nghe tin dữ. Ông Hai là người nông dân ở làng chợ dầu. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh nên phải tản cư đi nơi khác. Trong lòng ông rất muốn ở lại làng chiến đấu cùng anh em du kích nhưng vì hoàn cảnh neo người, lại được an ủi “ Tản cư cũng là kháng chiến nên ông đành lên vùng đất thắng để tản cư. Ở đó ông hai không lúc nào không nhớ về làng. Ông khoe về làng với bác thứ đến mức nhàn tai cốt chỉ để vơi đi nỗi nhớ làng. Ông khoe về kháng chiến của làng, buổi tập quân sự, sự sầm uất của làng… Trong lời kể hiện hữu tình yêu làng. Là nét tâm lý thường gặp ông hai không chỉ thế, ông còn hay ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức, độc lỏm bao nhiêu tin thắng trận “ Lòng ông lão cứ múa cả lên, Vui quá!” Đây chính là nét mới của người nông dân sau cách mạng được phản ánh trong văn học, bày tỏ tình yêu nước yêu làng của ông.
Khi về đến nhà, tình cảm ấy được nổi bật. Ông khóc thương lũ con là người làng Việt gian. Những câu nói của mấy người tản cư vẫn vang vẳng trọng ông “ Cái giống việt gina bán nước phải cho mỗi đứa một nhất, ông chửi rửa:” Chúng may ăn miếng cơm, miếng cháo gì vào mồm mà để làm giống việt igna bán nước đã nhục nhã thế này. Ngơ ngơ, ông liền điểm từng người những vẫn kiên quyết. Không có lửa làm sao có khói “ Câu hỏi tu từ, độc thoại nọi tâm nhấn mạnh tâm trạng nặng nề, tủi khổ của ông Hai.
Khi nói chuyện với vợ tình cảm ấy tiếp tục hòa quyện, đấu tranh. Cuộc hội thoại đặb biệt chỉ có ba lượt trao và hai lượt trả. Ông hai trửa lời gì, gắt lên, biết rồi. nhấn mạnh tâm trạng nặng nề, không muốn nói chuyện của ông. Ông Hai sợ mụ chủ nhà nghe thấy. Tiếng gì thế? “ Tiếng mụ chủ” “ Mụ làm cái gì mà ồn ào thế? “ Bao câu hỏi tu từ nhán mạnh tâm lý hỗn loạn của ông Hai nghệ thuật độc thoại nội tâm được vận dụng triệt để.
Chính tình yêu nước chiến thắng và hòa quyện cùng tình yêu làng được thăng hoa, nở hoa nơi trang giấy khi bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi. Khi bà hai ra chợ gặp mụ chủ. Mụ có ý đuổi khéo gia đình ông đi vì người làng không chứa việt gian. Ông Hai từ lo lắng, tửi hổ chuyển sang sợ hãi, thoảng thốt. Ông lo cho gia đình mình rồi sẽ ở đâu, lấy gì làm kế sênh nhai, còn bao nhiêu người làng nữa.Câu hỏi tu từ như những cơn sóng lòng dồn tới tấp kết ngữ độc thoại nổi bật cuộc đời đấu tranh nội tâm. Rồi ông chợt nghĩ “ Hay là quay về làng” Bảo ý nghĩ đen tối chợi hiện ra. Ông gặt phắt đi” Làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù” Đây chính là câu nói bầy tỏ rõ quan điểm của ông hai” Tình yêu nước chiến thắng, thiêng liêng bao trùm bao tình cảm khác. Bắt buộc tình yêu phải hi sinh cho nhỏ. Đây chính là câu nói của I Ri a E ren bua “ Tình yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu tổ quốc” Câu nói chính là kết itnhf của hai tình cảm đó.
Hơn nữa, tình yêu làng, đất nước trong lúc trò chuyện với cụ Húc cũng thể hiện phần nào. Lời đối thoại như độc thoại, ông nói với ông như tự giặc bầy lòng mình vì cụ húc ngay thơ giãi bày làng con ở đâu, nhà con ở làng chợ dầu”… Chính những câu nói ngây thơ của cu út đã nắm chặt lấy trái tim của ông Hai. Ông muốn con ghi nhơ rõ nguồn gốc của mình: Làng chợ dầu nhưng hiện tại nó không xứng đáng với tình cảm của ông Hai.Khiến tim người đọc đau nhói. Những câu đối thoại, của nhân vật. Qua tình huống đó đã bộc lộ tình yêu làng, yêu nước của ông Hai.
Có thể nói, để làm nổi bật tình yêu quê hương đất nước của nhân vật ông hai. Kim Lâm đã đạt thành công trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Về nghệ thuật, đoạn trích kết hợp nhiều nhiều phương thức biểu đạt, tự sự, miêu tả…. Và tình huống truyện bất ngờ, gay cấn thử thách nhân vật. Ngoài ra, ngôi kể thứ ba giúp cho mạnh văn linh hoạt, bao quát nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm và ngôn ngữ đối thoại. Gấp lại trang truyện Làng tác phẩm neo đậu trong lòng ta những vang âm về tình yêu quê hương đất nước. ta thây được ngòi bút tiến bộ của nhà văn kim liên phát hiện ra những nét mới của người nông dân lấy cảm hứng đó mà từ ngữ nở hoa nơi trang giấy.
|
Mr. Hai's love for his homeland in the short story Village
Instruct
Mr. Hai's love for his homeland in the short story Village
Assignment
Writer Nam Cao, author of the book "Doi Thua" once wondered: "Literature does not need skillful poets who follow certain models given to them. Literature can only accommodate those who know how to dig deep, explore, get rid of sources that no one has heard of and say things that no one else has.” If we take that statement as a measure, the work The Village by writer Kim Lan absolutely deserves the title. A genuine literary work with a completely new image of a farmer during the anti-French resistance period. Reading The Village, we are impressed by the love of the homeland and country of the character Mr. Hai.
The Village is a short story by Kim Lan, a name not unfamiliar in the early Vietnamese literary scene. The excerpt in particular and the work in general were written in 1948 during the early period of the resistance war against the French. The excerpt praises the love for the village, patriotism and the resistance spirit of farmers through two main situations: when the second grandfather heard that the village had joined the enemy and when the second grandfather heard the news of rectification. The thematic ideology of the work is clearly expressed through the image of Mr. Hai, the central character of the work. Through the excerpt, the second character's love for his homeland and country is clearly revealed, resonating in the hearts of readers.
First of all, the second character's love for his homeland and country is shown before he hears the bad news. Mr. Hai is a farmer in the oil market village. But because of the war situation, they had to evacuate to other places. In his heart, he really wanted to stay in the village to fight with the guerrillas, but because of the situation, he was comforted, "Evacuation is also a resistance war, so he had to go to the victorious land to evacuate. There, my grandfather never missed the village. He bragged about the village to his uncle to the point of being leisurely just to ease his nostalgia for the village. He bragged about the village's resistance, military training, the bustle of the village... In the story, love for the village exists. Not only that, this is a common psychological trait of the second man. Not only that, he also often goes to the information room to listen for news, overhearing many news of victory in battles: "The old man's heart kept jumping, So happy!" This is the new feature of the farmer after the revolution reflected in literature, expressing his love for his country and his village.
When I got home, that feeling was highlighted. He cried for his children, who were Vietnamese villagers. The words of the evacuees still resonated with him: "The viet gina seeds sold in the country must be given to each person alone," he cursed: "We are lucky to eat a piece of rice or porridge in our mouths to make the viet gina seeds sold." The country has been humiliated like this. Bewildered, he immediately pointed at each person but remained determined. There is no smoke without fire." The rhetorical question and inner monologue emphasize Mr. Hai's heavy and miserable mood.
When talking to his wife, those feelings continued to blend and fight. The special conversation only has three gives and two returns. The second man said something, he was angry, he knew. emphasized his heavy mood and unwillingness to talk. Mr. Hai was afraid the landlady would hear him. What's that sound? “Mistress's voice” “What are you doing making so much noise? " Many rhetorical questions emphasize his chaotic psychology. The two arts of internal monologue are thoroughly applied.
It is the patriotism that wins and blends with the love of the village that is sublimated and blooms on the page when the landlady shouts to chase his family away. When the second lady went to the market to meet the owner. She intended to cleverly chase his family away because the villagers did not tolerate traitors. Mr. Hai went from being worried and embarrassed to being scared and occasionally blurting out. He worries about where his family will live, how to make a living, and how many other people in the village are left. The rhetorical question is like rushing waves of emotions, ending the monologue, highlighting a life of internal struggles. Then he suddenly thought, "Let's go back to the village." A dark thought suddenly appeared. He immediately reaped the rewards: "The village truly loves us, but when the village follows the West, we have to hate it." This is a saying that clearly expresses the second man's point of view. Love requires sacrifice for the child. This is the saying of I Ri a E ren bua "Love of the village, love of the countryside becomes love of the homeland" The saying is the conclusion of those two feelings.
Furthermore, the love for the village and country while talking with Mr. Huc was also partly expressed. The dialogue was like a monologue, he spoke to him as if he was confessing his feelings because he immediately confessed where my village was, my house was in the oil market village"... It was the youngest son's innocent words that held me tightly. Mr. Hai's heart. He wants his son to clearly remember his origin: the oil market village, but currently it is not worthy of Mr. Hai's affection. It makes the reader's heart ache. Dialogues of characters. Through that situation, Mr. Hai's love for the village and his country was revealed.
It can be said to highlight the second character's love for his homeland. Kim Lam has achieved success in terms of content and art. Regarding art, the excerpt combines many methods of expression, narrative, description... And unexpected, dramatic story situations that challenge the characters. In addition, the third person narrator helps the writing be flexible, embracing the art of describing unique character psychology through the language of inner monologue and dialogue. Folding the page of the Village story, the work anchors in our hearts the echoes of love for our homeland. We can see that the progressive pen of writer Kim Lien discovered new features of the farmer. Inspired by that, words bloomed on the page.
|
Đề bài: Tình Yêu Thiên Nhiên Của Bác Trong Bài Ngắm Trăng (Vọng Nguyệt)
Bài làm
Trăng vốn là người bạn tâm tình, là nguồn cảm hứng dạt dào, bất tận của thi sĩ muôn đời. Trong thơ đông tây kim cổ đã có biết bao nhiêu bài thơ hay viết về trăng và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Một trong những tác giả viết nhiều về trăng là Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời cách mạng gian truân và vẻ vang của mình, Bác luôn coi trăng là người bạn tri ân, tri kỉ. Bài thơ Ngắm Trăng – Vọng nguyệt là một trong những bài thơ đặc sắc của Người được lấy nguồn cảm hứng từ trăng.
“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”
Thật vậy, một trong những thú vui tao nhã của giới văn nhân, tài tử xưa là uống rượu, đánh cờ, xem hoa nở, ngắm trăng bên cạnh bạn hiền. Trăng chỉ xuất hiện ban đêm, khi mọi bận rộn mưu sinh thường nhật được tạm nghỉ ngơi, con người có chút phút giây thảnh thơi cho riêng mình. Con người thường ngắm trăng lúc nhàn nhã, thảnh thơi, tâm hồn không quá lo lắng và không quá đau khổ. Vậy mà, Hồ Chí Minh lại ngắm trăng trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, có một không hai: Tháng 8 – 1942, Bác từ Pác Bó bí mật sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Khi đến thị trấn Túc Vinh thì người bị chính quyền địa phương bắt giữ, rồi bị giải tới giải lui gần 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đọa cực khổ hơn một năm trời. Trong những ngày đó Người đã viết tập thơ Nhật kí trong tù bằng thơ chữ Hán, để ghi lại những ngày gian khổ đó. Bài thơ Ngắm Trăng – Vọng nguyệt nằm trong tập Nhật kí trong tù. Bài thơ cho chúng ta biết Bác Hồ ngắm trăng, thưởng trăng trong hoàn cảnh bị tù đày gian khổ trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Trong bốn bức tường của phòng giam với những xiềng xích đớn đau, Bác Hồ vẫn ung dung ngắm trăng:
Đối thử lương tiêu nại nhược hà? “
Trăng soi vào nhà tù làm cho khung cảnh trở nên đẹp đẽ, người tù trở nên bồi hồi, xao xuyến và phân vân vì cảnh đẹp thế, trăng đẹp thế thì “biết làm thế nào”. Lẽ dĩ nhiên, cuộc sống trong tù rất khổ cực và thiếu thốn, lấy đâu ra hoa, và rượu cho thi nhân thưởng trăng. Hai từ “vô” điệp lại khẳng định được sự thiếu thốn đó. Thế nhưng, trước cảnh đêm trăng sáng đang mời chào, thưởng thức người chiến sĩ cách mạng ao ước rằng một lần có rượu và có hoa để đối đãi với trăng thật đủ đầy. Đây chính là một nỗi băn khoăn, một ước ao đầy thơ mộng của thi nhân. Bởi đây là một người tù đặc biệt, một tâm hồn thanh cao, khát khao hòa hợp với thiên nhiên trời đất. Bởi chỉ có con người với tâm hồn nghệ sĩ và một tình yêu thiên nhiên bao la, bát ngát mới có được những niềm xúc động và khát khao hết sức lãng mạn ấy. Niềm băn khoăn, trăn trở của thi nhân cũng thể hiện một bản lĩnh vững vàng của con người bất chấp gian khổ của cuộc đời sống ngục tù để giữ nguyên vẹn một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, luôn biết yêu và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc đời.
“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”
Câu thơ tuyệt hay với nghệ thuật đăng đối. Hai đầu của hai câu là người và trăng (nhân – nguyệt, nguyệt – thi gia) và giữa hai câu, giữa người và trăng là các song sắt chắn giữa thật thô bạo. Người và trăng bị chắn bởi song sắt của nhà tù. Thế nhưng không hề bị cách biệt. Mà ngược lại, giao hòa, giao cảm với nhau. Tầm mắt con người vượt qua song sắt ghê tởm để thưởng thức vẻ đẹp của tự nhiên của đất trời, của tự do. Còn trăng, ánh trăng xuyên thấu nhà tù để nhìn lại, sẻ chia với người tù. Với biện pháp nhân hóa, nhà thơ đã khắc họa ánh trăng đâu còn là một vật vô tri, vô giác mà là như gương mặt của một con người, có tâm hồn, có niềm đồng cảm. Trăng trở thành người bạn tâm giao, tri ân, tri kỷ với thi nhân. Trăng nhìn người, người nhìn trăng. Phút giây đó thật đẹp biết bao. Dường như mọi đau thương, khổ đau, khó khăn của nhà tù Tưởng Giới Thạch đã không còn nữa. Thay vào đó là những giây phút lãng mạn, thăng hoa của người tù cách mạng, của trăng. Không còn tù ngục, không còn xiềng xích, chỉ còn “trăng sáng” và “nhà thơ”: tri kỉ.
|
Topic: Uncle's Love for Nature in the Song Watching the Moon (Vong Nguyet)
Assignment
The moon is a confidant and an endless source of inspiration for poets forever. In poetry from East, West, and Ancient, there have been many beautiful poems written about the moon and left a deep impression in the hearts of readers. One of the authors who wrote a lot about the moon is Ho Chi Minh. Throughout his arduous and glorious revolutionary life, Uncle Ho always considered the moon a grateful friend and confidant. The poem Watching the Moon - Watching the Moon is one of his unique poems inspired by the moon.
“In prison there is no wine, no herons, no flowers,
What is the problem with salary?
Looking forward to watching the bright moon,
Nguyet agrees to admire the poet."
Indeed, one of the elegant pleasures of ancient writers and amateurs was drinking wine, playing chess, watching flowers bloom, and admiring the moon next to good friends. The moon only appears at night, when all the busyness of daily living is temporarily resting, people have a few moments of leisure for themselves. People often look at the moon when they are leisurely and relaxed, their souls are not too worried and not too miserable. Yet, Ho Chi Minh looked at the moon in a very special and unique situation: In August 1942, Uncle Ho secretly went to China from Pac Bo to enlist international aid for the Vietnamese revolution. . When he arrived in Tuc Vinh town, he was arrested by local authorities, then taken back and forth to nearly 30 prisons in 13 districts of Guangxi province, and was subjected to extreme hardship for more than a year. During those days, he wrote the poem Diary in Prison in Chinese, to record those arduous days. The poem Watching the Moon - Watching the Moon is in the Prison Diary collection. The poem tells us that Uncle Ho admired the moon and enjoyed the moon while being imprisoned and imprisoned in Chiang Kai-shek prison. Within the four walls of the prison cell with painful chains, Uncle Ho still leisurely looked at the moon:
What is the problem with salary? “
The moon shines into the prison, making the scene beautiful, the prisoner becomes nervous, excited and confused because the scene is so beautiful, the moon is so beautiful that he "knows what to do". Of course, life in prison is very miserable and lacking, so where do we get flowers and wine for poets to enjoy? The two words "no" together confirm that lack. However, facing the bright moonlit night that was inviting and enjoying, the revolutionary soldier wished that once there was wine and flowers to treat the full moon. This is a concern, a poetic wish of the poet. Because this is a special prisoner, a noble soul, longing for harmony with nature, heaven and earth. Because only people with an artistic soul and a boundless love for nature can have those extremely romantic emotions and desires. The poet's worries and concerns also demonstrate a steadfast human spirit despite the hardships of prison life to keep intact a sensitive, delicate soul, always knowing how to love and be moved by the beauty of nature, of life.
"The people look towards the two fronts to watch the bright moon,
Nguyet agrees to admire the poet."
Great poem with parallel art. The two ends of the two sentences are human and moon (human - moon, lunar - poet) and between the two sentences, between human and moon, are rough iron bars. Man and moon are blocked by prison bars. But there is no separation. On the contrary, harmony and sympathy with each other. Human eyes can see beyond the hideous iron bars to enjoy the beauty of nature, heaven and earth, and freedom. As for the moon, the moonlight penetrates the prison to look back and share with the prisoners. With the method of personification, the poet portrayed the moonlight as no longer an inanimate, inanimate object, but as the face of a human being, with soul and sympathy. The moon became the poet's confidant, grateful, and confidant. The moon looks at people, people look at the moon. How beautiful that moment was. It seemed that all the pain, suffering, and difficulties of Chiang Kai-shek prison were no longer there. Instead, there are romantic, sublime moments of revolutionary prisoners and the moon. No more prison, no more chains, only "bright moon" and "poet": soulmates.
|
Tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan của Bác qua 2 bài thơ ” Ngắm trăng” và ” Đi đường”
Hướng dẫn
Tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan của Bác qua 2 bài thơ ” Ngắm trăng” và ” Đi đường”
Bài làm
Đọc Nhật kí trong tù nhà thơ Hoàng Trung Thông có viết:
Con đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
Chất thép chất tình hòa quyện trong thơ Bác tạo nên nét đẹp rất giêng của người thi sĩ – Chiến sĩ cách mạng. Đặc biệt hai bài thơ ” Ngắm Trăng”, “Đi đường” trong nhật kí của bác thể hiện sâu sắc tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan của bác.
Chất thép chất tình là nội dung chủ yếu của tập thơ và biểu hiện cụ thể trong hai bài thơ này là tinh thần lạc quan và tình yêu thiên nhiên của bác.
Trước hết tình yêu thiên nhiên của bác được thể hiện xuyên suốt trong hai bài thơ.
Dù trong ngục tối bị đọa đày nhưng bác giường như quên đi thực tại của mình mà khao khát có rượu có hoa mà thưởng trăng cho trọn vẹn, đây là tình yêu thiên nhiên mãnh liệt vượt lên trên hoàn cảnh.
Trước cảnh đẹp của đêm trăng bác bối rối xốn xang không biết làm thế nào cho xứng với vẻ đẹp của trăng. Câu hỏi tu từ đã phản ánh tâm trạng rất nghệ sĩ của Bác.
“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia”
Trăng luôn luôn là người bạn tri kỉ của bác tìm đến chia sẻ bầu bạn động viên an ủi Bác. Bằng nghệ nhật đối, nhân hóa bác đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên tha thiết của mình. Sự hoán đổi vị trí Nhân – Minh Nguyệt ở câu 3 thành Nguyệt – Thi gia câu 4. Bác khẳng định không chỉ vẻ đẹp thiên nhiên cuốn hút con người mà con người cũng được nâng lên thành vẻ đẹp để chiêm ngưỡng thiên nhiên.
Bị giải hết nhà lao này đến nhà lao khác, trèo đèo, vượt suối, chân tay xiềng xích. Vậy mà người vấn ung dung tận hưởng, được chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên khi lên đến đỉnh núi cao.
” Trùng giao…
… miên gian” đó là phần thưởng tuyệt vời nhất cho người đi đường chèo hết từ lớp núi này đến lớp núi khác cả một không gian bao la bát ngát mở ra trước mắt. Tình yêu thiên nhiên là nét đẹp trong tâm hồn bác.
Hai bài thơ không chỉ bộc lộ tình yêu thiên nhiên của bác mà còn thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.
Kẻ thù chỉ có thể giam cầm thể xác của người còn tinh thần thì hoàn toàn tự do ung dung thanh thản chấn song sắt chắn giữa người tù và vầng trăng tri kỉ là hiện hữu của sự khắc nghiệt tù đầy vậy mà chỉ bằn chữ ” kháng” bác đã phá tan sự hiện hữu của ánh trăng ấy, người và trăng hoàn toàn đến với nhau. Đó là sự vượt ngục tinh thần của bác.
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn lên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
Đặc biệt hơn nữa ta thấy tinh thần này được bộc lộ sâu sắc trong bài ” Đi Đường “. Bài thơ có hai tầng đĩa từ việc đi đường Bác tin tưởng con đường ấy gian khó chồng chất:
“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại trùng san”
Các điệp ngữ nhấn mạnh sự khó khăn mà người chiến sĩ phải đối đầu đó cũng là trải nghiệm của người đi đường. Người chiến sĩ hi sinh cuộc đời cho dân cho nước nhưng bác một mực tin tưởng rằng khó khăn rồi sẽ lùi lại kết thúc nhường bước cho người chiến sĩ chạm đỉnh vinh quang thắng lợi niềm tin đúng là động lực bác vượt mọi khó khăn thử thách trước mắt tiếp tục bền bỉ trên con đường tranh đấu dân tộc.
Hai bài thơ đều viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, cô đọng hàm xúc lời ít ý nhiều. Tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan kết hợp hài hòa trong thơ bác nói chung và trong hai bài thơ nói riêng. Đó là cảm hứng chủ đạo của tập Nhật kí trong tù thể hiện vẻ đẹp tâm hồn ý chí nghị lực của bác đó cũng là biểu hiện cụ thể của chất thép chất tình chất thi sĩ và chiến sĩ.
|
Uncle Ho's love of nature and optimism through his two poems "Watching the Moon" and "Going on the Road"
Instruct
Uncle Ho's love of nature and optimism through his two poems "Watching the Moon" and "Going on the Road"
Assignment
Reading the prison diary, poet Hoang Trung Thong wrote:
I read hundreds of articles and hundreds of beautiful ideas
The light shines on her green head
Your poems are verses of steel
But still immense love.
The steel and love mixed together in Uncle Ho's poetry create the unique beauty of the poet - Revolutionary Soldier. In particular, the two poems "Watching the Moon" and "Going on the Road" in his diary deeply express his love for nature and his optimistic spirit.
Steel and love are the main content of the collection of poems and the specific expression in these two poems is his optimistic spirit and love of nature.
First of all, his love for nature is expressed throughout two poems.
Even though he was tormented in the dungeon, he seemed to forget his reality and yearned for wine and flowers to fully enjoy the moon. This is a strong love for nature that transcends circumstances.
Before the beautiful scene of the moonlit night, he was confused and confused, not knowing how to match the beauty of the moon. The rhetorical question reflected Uncle Ho's very artistic mood.
“The people look forward to seeing the bright moon
Nguyet always encourages the audience to listen to poets"
The moon is always your confidant, coming to share your companionship, encouragement and comfort. Through the art of parallelism and personification, he expressed his passionate love for nature. The exchange of positions from Nhan - Minh Nguyet in verse 3 to Nguyet - Thi Gia in verse 4. He affirms that not only does natural beauty attract people, but people are also raised to beauty to admire nature.
Being taken from one prison to another, climbing passes, crossing streams, hands and feet chained. Yet people still enjoy leisurely and admire the natural beauty when reaching the top of the high mountain.
” Coincidence…
... endless time" is the best reward for those who row from one mountain layer to another, a vast space opens up before their eyes. Love of nature is the beauty in your soul.
The two poems not only reveal his love for nature but also deeply express the optimistic spirit of a revolutionary soldier.
The enemy can only imprison a person's body, but the spirit is completely free, leisurely and serene. The iron bars between the prisoner and the moon of his soulmate are the existence of the harshness of imprisonment, but only with words. Resistance" destroyed the existence of that moonlight, man and moon completely came together. That was my spiritual escape.
“The body is in the prison
The spirit is outside the work
Want to have a great career
The spirit must be higher"
More specifically, we see this spirit expressed deeply in the song "Going on the Road". The poem has two layers of discs from traveling the road. Uncle believes that the road is fraught with difficulties:
“If you reveal your talent, you will reveal your troubles
"The genus "foreign insect"
The sayings emphasize the difficulties that soldiers must face and are also experienced by passersby. The soldier sacrifices his life for his people and country, but he firmly believes that the difficulties will eventually recede and give way to the soldier reaching the pinnacle of glory and victory. Faith is the true motivation for him to overcome all difficulties. The immediate challenge is to continue persevering on the path of national struggle.
The two poems are both written in a seven-word, four-literate form, condensed with many words and many meanings. Love for nature and optimism combine harmoniously in his poetry in general and in two poems in particular. That is the main inspiration of the Prison Diary collection, which shows the beauty of his soul, will and strength, and is also a concrete expression of the steel and character of a poet and a soldier.
|
Tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh được thể hiện như thế nào
Hướng dẫn
Tình yêu thương mãnh liệt của bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh của mình được thể hiện từ hai góc độ.
-Thứ nhất là phản ứng tâm lí của bé Hồng trước những lời gièm pha, xúc xiểm của bà cô và một vài người họ hàng khác. Câu chuyện mở đầu vào một thời điểm đặc biệt: sắp tới ngày giỗ đầu của bố Hồng, mà cho tới lúc đó, người mẹ – người không thể vắng mặt — do khốn khó, đã phải tha hương cầu thực để kiếm sống, vẫn chưa trở về và cũng chẳng có tin tức gì. Những thông tin “nghe người khác nói” qua “người ta bắn tin” được thể hiện trong điều mà nhân vật bà cô thường nhắc đi nhắc lại, trở thành nỗi ám ảnh trong tâm hồn thơ dại của bé Hồng. Nhưng chú đã sớm nhận ra những thâm ý tàn nhẫn, thâm độc của bà cô “tốt bụng”. Sự tàn nhẫn đó lộ ra trên nét mặt, trong giọng điệu và cả cái cười rất kịch của bà ta. Phản ứng lại, bé Hồng chỉ “cười dài trong tiếng khóc”. Hình thức phản ứng đó, một mặt vừa cho thấy sự xót xa, tủi nhục của chú bé, mặt khác cũng cho thấy sự căm giận của Hồng trước sự tàn nhẫn của bà cô.
Bé Hồng nhận ra “những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch” của bà cô. Bà ta “cười hỏi” chú bé không phải vì thương yêu cháu, mà “cười hỏi” theo kiểu diễn kịch. Hồng “biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi”. Cái cười hỏi theo kiểu đóng kịch ấy được gia trọng bằng “giọng vẫn ngọt”, rồi lại “vỗ vai tôi cười mà nói rằng” cũng không che giấu được cặp mắt “long lanh”, cái nhìn “chằm chặp” như muốn ăn tươi nuốt sống chú bé của bà cô tàn nhẫn. Đây là cái nhìn của “thành kiến”, của “cổ tục”, cái nhìn ác ý, xoi mói, cái nhìn miệt thị khinh bỉ cho dù bà cô của Hồng chỉ biết tình hình của mẹ Hồng qua những câu chuyện “nghe đâu”, những câu chuyện tầm phào, bâng quơ. Qua đó, sự độc ác và tàn nhẫn của bà cô được nhấn mạnh và khắc họa rõ nét: bà ta không những khinh bỉ người mẹ mà còn cô” tình châm chọc vào nỗi đau của chú bé để thỏa mãn thói quen hành hạ người khác. Cuộc đối thoại đạt tới đỉnh cao khi bà cô, qua câu chuyện được nghe từ cô Thông, đã dồn chú bé vào trạng thái đau khổ, uất ức: “cổ họng tôi đã nghẹn ứ, khóc không ra tiếng”. Nhưng bà cô vẫn không buông tha, tiếp tục bày mưu tính kế mà thực chất là ra lệnh cho bé Hồng: “Vậy mày hỏi cô Thông – tên người đàn bà họ nôi xa kia – chỗ ở của mợ mày, rồi đánh giấy cho mợ mày, bảo dù sao cũng phải về. Trước sau cũng một lần xấu, chả nhẽ bán xới mãi được sao?”. Đại từ “mày” mà bà cô dùng để nói với cháu mang trong nó sự khinh bỉ tột cùng, và mỗi lần đại từ ấy được phát ra từ cửa miệng bà ta thì kèm theo đó là một sự đay nghiến, chì chiết, như một nhát dao đâm vào trái tim đau đớn của chú bé. Đó là thành kiến của một thời gian, gắn với cách nhìn thủ cựu của những con người bị cột chặt trong vòng lễ giáo lạc hậu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Bà cô muốn sự hiện diện của mẹ bé Hồng sẽ minh chứng cho những gì bà ta nói, và nếu tất cả mọi điều xảy ra như vậy thì bà cô sẽ là người sung sướng nhất, bởi bà ta sẽ có được sự thỏa mãn trên nỗi đau của mẹ con bé Hồng.
|
How is little Hong's strong love for his unfortunate mother expressed?
Instruct
Baby Hong's intense love for her unfortunate mother is shown from two angles.
-The first is little Hong's psychological reaction to the slander and insults of her aunt and a few other relatives. The story opens at a special time: the first anniversary of Hong's father's death is approaching, and until then, the mother - who cannot be absent - due to poverty, has had to go abroad to seek food to make a living. Haven't returned yet and no news. The information "heard from others" through "people shooting the news" is shown in what the aunt character often repeats, becoming an obsession in Hong's young soul. But he soon realized the cruel and malicious intentions of his "kind" aunt. That cruelty showed on her face, in her tone and even in her dramatic laugh. In response, little Hong just "laughed while crying". That form of reaction, on the one hand, shows the boy's grief and humiliation, and on the other hand, shows Hong's anger at his aunt's cruelty.
Little Hong recognized "the cruel meanings in her aunt's voice and facial expression when she laughed dramatically". She "laughed and asked" the boy not because she loved him, but "laughed and asked" in a dramatic way. Hong "knows clearly that when mentioning my mother, my aunt only intends to sow doubts in my mind so that I despise and abandon my mother." That dramatic smile and question, enhanced by a "sweet voice", and then "patting my shoulder and smiling" could not hide the "glittering" eyes, the "staring" look as if wanting to eat something. devoured the cruel aunt's little boy alive. This is the look of "prejudice", of "old customs", a malicious look, an inquisitive look, a look of disdain and contempt even though Hong's aunt only knows Hong's mother's situation through stories she "heard somewhere". ”, trivial, carefree stories. Thereby, the cruelty and cruelty of the aunt is emphasized and clearly portrayed: she not only despises the mother but also teases the boy's pain to satisfy her habit of torturing people. other. The conversation reached its peak when the aunt, through the story she heard from Ms. Thong, forced the boy into a state of pain and resentment: "My throat was choked, I couldn't cry." But the aunt still did not give up, continuing to plot and plot, essentially ordering little Hong: "So you ask Miss Thong - the name of the woman with the last name over there - where she lives, then write the paper for her." Your aunt said she had to go home anyway. It's been bad once before, so can we sell it forever? The pronoun "you" that my aunt used to talk to me carried with it the utmost contempt, and every time that pronoun came out of her mouth, it was accompanied by a nagging, scolding, like A knife stabbed into the boy's painful heart. That is the prejudice of a time, associated with the conservative outlook of people tied to the backward rituals of a semi-feudal colonial society. The aunt wanted the presence of Hong's mother to prove what she said, and if all that happened, the aunt would be the happiest, because she would have the above satisfaction. the pain of Hong's mother and daughter.
|
Tóm tắt bài Lão Hạc Ngữ Văn 8 ngắn hay
Hướng dẫn
Đề bài: Tóm tắt bài Lão Hạc.
Bài làm:
Truyện ngắn Lão Hạc do nhà văn Nam Cao viết, phản ánh hiện thực nước ta trong khoảng thời gian trước cách mạng tháng Tám. Câu truyện kể về cuộc đời đầy khó khăn và bế tắt của một người nông dân hiền lành chân chất, tốt bụng, tự trọng và thương con mà mọi người thường gọi là Lão Hạc. Vợ Lão mất sớm, con trai Lão vì gia cảnh không đủ cho thách cưới của nhà gái mà không lấy được vợ đã bỏ đi làm đồn điền cao su nhiều năm không về. Lão sống cùng cậu Vàng, con chó mà con trai Lão mua về. Lão xem cậu Vàng như người bầu bạn và yêu thương thế nhưng sau một trận ốm nặng Lão đành đi đến quyết định bán chó. Sau khi bán chó xong Lão gửi số tiền bán được cộng với tiền dành dụm trước đó cùng với mảnh vườn cho ông Giáo một người hàng xóm của Lão. Những ngày sau đó Lão chỉ ăn khoai, hết khoai thì chế được cái gì sẽ ăn cái đó. Cuộc sống khó khăn nhưng Lão vẫn không nhận sự giúp đỡ của ông Giáo. Một ngày Lão xin Binh Tư ít bả chó nói để bẫy con chó lạc sau vườn, Binh Tư kể với ông Giáo chuyện đó. Sau khi biết tin ông Giáo rất thất vọng và về nhà được một lúc lâu thì ông Giáo lại hay Lão chết, cái chết đột ngột và đau đớn, chẳng ai hiểu chuyện gì xảy ra có lẽ chỉ ông Giáo và Binh Tư mới hiểu được.
=> Cái chết của Lão chính là tiếng nói lên án chế độ phong kiến, một xã hội đầy bất công đã đẩy người nông dân thật thà, hiền lành chất phác vào bước đường cùng đến mức phải tự vẫn, để lại cho ông Giáo cũng như người đọc là những suy ngẫm về con người và xã hội lúc bấy giờ.
Hi vọng tóm tắt bài Lão Hạc bên trên sẽ giúp các em hiểu hơn về một trong những truyện ngắn hay này.
|
A short, good summary of Lao Hac Literature 8
Instruct
Topic: Summary of Lao Hac.
Assignment:
The short story Lao Hac written by writer Nam Cao reflects the reality of our country in the period before the August Revolution. The story tells about the difficult and dead-end life of a gentle, honest, kind, self-respecting and child-loving farmer who people often call Old Hac. Lao's wife died early, Lao's son, because his family was not good enough to meet the bride's family's wedding invitation, but could not marry him, so he left to work on the rubber plantation and did not return for many years. He lives with Uncle Vang, the dog that Lao's son bought. He saw Mr. Vang as a companion and loved one, but after a serious illness, he decided to sell the dog. After selling the dog, Lao sent the money from the sale plus the money he had previously saved along with the garden to Mr. Giao, Lao's neighbor. In the following days, he only ate potatoes. If he ran out of potatoes, he would eat whatever he could cook. Life is difficult but Lao still does not accept Mr. Giao's help. One day, Lao asked Binh Tu for some dog bait to trap a stray dog in the backyard. Binh Tu told Mr. Giao about it. After hearing the news, Mr. Giao was very disappointed and after returning home for a long time, Mr. Giao learned that Lao had died, a sudden and painful death, no one understood what happened, perhaps only Mr. Giao and Binh Tu could understand. .
=> Lao's death is a voice condemning the feudal regime, a society full of injustice that pushed the honest, gentle and simple farmer into a dead end to the point of committing suicide, leaving Mr. Giao in his care. as well as the reader's reflections on people and society at that time.
Hopefully the summary of The Old Hac above will help you better understand one of these great short stories.
|
Tóm tắt bài Sông nước Cà Mau
Hướng dẫn
Tóm tắt bài Sông nước Cà Mau lớp 6
VnDoc xin giới thiệu cho các bạn Văn lớp 6: Tóm tắt bài Sông nước Cà Mau hay nhất nhằm giúp các bạn chuẩn bị tốt nhất cho các bài kiểm tra, thi giữa học kì, thi học kì hay những kì thi quan trọng khác. Chúc các bạn học tập tốt và có điểm cao trong các kì thi sắp tới.
Tóm tắt bài Sông nước Cà Mau – Ngữ văn lớp 6
Bài tham khảo 1
1. Tóm tắt
Bài văn miêu tả cảnh quan thiên nhiên, sông nước vùng Cà Mau, mảnh đất tận cùng phía nam của Tổ quốc. Cảnh thiên nhiên ở đây thật rộng lớn, hoang dã và hùng vĩ, đặt biệt là những dòng sông và rừng đước. Cảnh chợ Năm Căn là hình ảnh trù phú, độc đáo, tấp nập về sinh hoạt của con người ở vùng đất ấy.
2. Cách đọc
Đoạn văn được viết chủ yếu theo lối miêu tả (tả cảnh, tả người, tả cảnh sinh hoạt). Những đoạn tả cảnh vật cần đọc chậm rãi. Hãy hình dung mình đang ngồi trên con thuyền của tác giả, chầm chậm lướt qua các kênh, rạch, những cảnh vật ở hai bên bờ sông. Đoạn tả cảnh chợ Năm Căn tấp nập, đông vui có thể đọc nhanh hơn, diễn tả không khí sôi động với những âm thanh náo nức, những màu sắc sặc sỡ ở nơi này.
Dưới ngòi bút tài tình của nhà văn Đoàn Giỏi, cả vùng Cà Mau hiện lên thật là sinh động. Cảnh vật biến hoá, màu sắc biến hoá. Những dòng sông, kênh, rạch, rừng đước và cả khu chợ Năm Căn nữa hiện lên vừa hùng vĩ, hoang sơ, vừa dạt dào sức sống, cảnh xa lạ mà vẫn gợi bao yêu mến, nhớ thương. Thiên nhiên Cà Mau bao la, hào phóng; con người Cà Mau mộc mạc, hồn hậu, dễ thương. Đọc những trang văn của Đoàn Giỏi, ta có cảm giác như đang đi giữa sông nước Cà Mau, tận hưởng hương rừng Cà Mau, đến chơi chợ Năm Căn, dừng lại, bước lên những ngôi nhà bè xem và mua một vài món quà lưu niệm. Ôi! Cái cảm giác được chu du giữa cả một miền sông nước như thế mới thú vị biết bao.
4. Kể tên một vài con sông ở quê hương em hoặc địa phương mà em đang ở, giới thiệu vắn tắt về một trong những con sông ấy.
– Tuỳ từng miền địa lí, học sinh tự kể những con sông của quê mình.
– Khi viết đoạn giới thiệu về một con sông, cần chú ý chỉ ra những nét đặc trưng riêng của con sông quê mình (cảnh vật, những sinh hoạt thường nhật trên sông,…).
Bài văn miêu tả quanh cảnh thiên nhiên, sông nước của Cà Mau – mảnh đất tận cùng của Tổ Quốc rất hũng vĩ, hoang dã và rộng lợn. Tác giả Đoàn Giỏi tả chợ Năm Căn rất tấp nập, trù phú, hết sức độc đáo và đầy sức sống cùng với các hình ảnh sinh hoạt của con người rất gần gũi, cởi mở làm bài văn sinh động, hấp dẫn và đặc sắc.
Tả em bé đang tập đi tập nói
Tóm tắt truyện Bài học đường đời đầu tiên
Ngoài đề cương ôn tập môn Ngữ văn học kì 1 lớp 6, các bạn học sinh còn có thể tham khảo các đề thi học kì 1 lớp 6 các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Địa, Sinh mà chúng tôi đã sưu tầm và chọn lọc. Với đề thi học kì 1 lớp 6 này giúp các bạn rèn luyện thêm kỹ năng giải đề và làm bài tốt hơn, Chúc các bạn ôn thi tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới
|
Summary of Ca Mau River
Instruct
Summary of Ca Mau River lesson for grade 6
VnDoc would like to introduce to you Grade 6 Literature: The best summary of Ca Mau River to help you best prepare for tests, midterm exams, semester exams or other important exams. Wishing you good studies and high scores in the upcoming exams.
Summary of the lesson Ca Mau River - Literature for grade 6
Reference article 1
1. Summary
The article describes the natural landscape and rivers of Ca Mau region, the southernmost land of the country. The natural landscape here is vast, wild and majestic, especially the rivers and mangrove forests. The scene of Nam Can market is a rich, unique, bustling image of human activities in that land.
2. How to read
The paragraph is written mainly in a descriptive style (describing scenes, describing people, describing living scenes). Scene descriptions need to be read slowly. Imagine yourself sitting on the author's boat, slowly gliding through the canals and landscapes on both sides of the river. The paragraph describing the bustling and crowded Nam Can market can be read faster, describing the vibrant atmosphere with bustling sounds and colorful colors in this place.
Under the talented pen of writer Doan Gioi, the whole Ca Mau region appears vividly. Scenery changes, colors change. Rivers, canals, canals, mangrove forests and even the Nam Can market appear both majestic, wild, full of vitality, a strange scene that still evokes so much love and nostalgia. Ca Mau's nature is vast and generous; Ca Mau people are rustic, kind, and cute. Reading the pages of Doan Gioi's writing, we feel like we are walking in the middle of Ca Mau river, enjoying the scent of Ca Mau forest, visiting Nam Can market, stopping, stepping on raft houses to see and buy a few gifts. Souvenir. Oh! How interesting is the feeling of traveling between an entire river region like that?
4. Name a few rivers in your hometown or the locality where you live, and briefly introduce one of those rivers.
– Depending on each geographical region, students tell their own stories about the rivers of their hometown.
– When writing an introduction about a river, you need to pay attention to pointing out the unique characteristics of your hometown river (scenery, daily activities on the river,...).
The article describes the natural scenery and rivers of Ca Mau - the most majestic, wild and vast land of the Fatherland. Author Doan Gioi describes Nam Can market as very busy, rich, very unique and full of vitality, along with images of people's activities that are very close and open, making the essay lively, attractive and unique. .
Describe a baby learning to walk and talk
Summary of the story The first lesson in life
In addition to the review outline for Literature, semester 1, grade 6, students can also refer to the exam questions for semester 1, grade 6 in Math, Literature, English, Physics, Geography, and Biology that we have collected. and selective. This 6th grade 1st semester exam will help you practice your problem-solving skills and do better. Wishing you good exam preparation and high results in the upcoming exam.
|
Tóm tắt bài thơ Đêm nay bác không ngủ của Minh Huệ
Hướng dẫn
Tóm tắt bài thơ Đêm nay bác không ngủ của Minh Huệ – lớp 6
Tóm tắt bài thơ Đêm nay bác không ngủ của Minh Huệ cốt truyện đơn giản. Cùng tham khảo các bài văn mẫu lớp 6 sau để biết cách tóm tắt tác phẩm Đêm nay bác không ngủ, từ đó học tốt môn Ngữ văn 6, đạt kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra. Mời các em tham khảo bài Văn mẫu dưới đây
Tóm tắt bài thơ Đêm nay bác không ngủ – Ngữ văn lớp 6
Bài tham khảo 1
Trong một đêm khuya, để chuẩn bị cho chiến dịch ngày mai, Bác Hồ ở cùng lán với bộ đội trong rừng. Bên bếp lửa, Bác không ngủ vì thương đoàn dân công giờ này còn phải chịu rét mướt khổ sở ngoài rừng sâu mưa đêm rả rích. Bác không ngủ nên Bác đi lại săn sóc giấc ngủ cho những người bộ độ để sáng hôm sau hành quân đi vào các trận đánh với quân thù.
Bài tham khảo 2
Bài thơ kể lại câu chuyện Bác Hồ và anh đội viên trong một đêm Bác không ngủ trên đường ra chiến dịch ở lán nhỏ giữa rừng khuya. Bác đi đốt lửa, dém chăn, canh giấc ngủ cho bộ đội ngủ. Anh đội viên thức dậy, thấy thế, mời Bác đi ngủ, nhưng Bác vẫn thức. Đến lần thứ ba thức dậy, anh lại nằng nặc mời Bác đi ngủ vì trời sắp sáng rồi. Bác nói cho anh đội viên biết những trăn trở của mình. Anh hiểu được tình thương mênh mông của Bác nên đã vui sướng thức luôn cùng Bác
Tóm tắt bài Sông nước Cà Mau
Tóm tắt truyện Bức tranh của em gái tôi
Tả em bé đang tập đi tập nói
Ngoài đề cương ôn tập môn Ngữ văn học kì 1 lớp 6, các em học sinh còn có thể tham khảo các đề thi học kì 1 lớp 6 các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Địa, Sinh mà chúng tôi đã sưu tầm và chọn lọc. Với đề thi học kì 1 lớp 6 này giúp các em rèn luyện thêm kỹ năng giải đề và làm bài tốt hơn, Chúc các em ôn thi tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới
|
Summary of the poem "Uncle Won't Sleep Tonight" by Minh Hue
Instruct
Summary of the poem "Uncle Won't Sleep Tonight" by Minh Hue - grade 6
Summary of the poem Uncle Won't Sleep Tonight by Ming Hui has a simple plot. Let's refer to the following 6th grade sample essays to learn how to summarize the work I won't sleep tonight, thereby studying Literature 6 well and achieving high results in tests and exams. Please refer to the sample essay below
Summary of the poem I won't sleep tonight - Literature grade 6
Reference article 1
Late one night, to prepare for tomorrow's campaign, Uncle Ho stayed in the same shack as the soldiers in the forest. By the fire, Uncle Ho did not sleep because the trade union was still suffering from cold and suffering in the deep forest in the pouring rain at night. Uncle did not sleep, so he went around to take care of the sleep of the soldiers so that the next morning they could march into battles with the enemy.
Reference article 2
The poem tells the story of Uncle Ho and his fellow soldiers during a sleepless night on the way to the campaign in a small shack in the middle of the forest late at night. He went to light a fire, set up blankets, and watched the soldiers sleep. The team member woke up, saw that, invited Uncle Ho to go to bed, but Uncle Ho was still awake. The third time he woke up, he insisted that Uncle go to bed because it was about dawn. Uncle told the team member about his concerns. He understood Uncle Ho's immense love, so he happily stayed up with him
Summary of Ca Mau River
Summary of the story My sister's painting
Describe a baby learning to walk and talk
In addition to the Literature review outline for semester 1, grade 6, students can also refer to the exam questions for semester 1, grade 6 in the subjects Math, Literature, English, Physics, Geography, and Biology that we have collected. and selective. This 6th grade 1st semester exam will help you practice your problem-solving skills and do better. Wishing you good exam preparation and high results in the upcoming exam.
|
Tóm tắt bài Tôi đi học lớp 8 ngắn hay
Hướng dẫn
Tham khảo tóm tắt bài Tôi đi học của tác giả Thanh Tịnh trong ngữ văn 8, đây là tư liệu hay và hữu ích cho giáo viên cũng như các em học sinh hiểu rõ hơn về nội dung của văn bản này.
Tóm tắt văn bản Tôi đi học
Tóm tắt bài Tôi đi học lớp 8
Dòng hồi ức cũ về ngày tựu trường của tác giả Nguyễn Thanh Tịnh đã được tài hiện qua tác phẩm “Tôi đi học”. Những kỉ niệm đẹp với không gian nên thơ của ngày cuối thu khiến tác giả như quay trở về thời học sinh. Vào buổi sớm mai của mùa thu cậu bé được mẹ ân cần đưa đến trường. Dù rằng hàng ngày cậu vẫn đi trên đường làng quen thuộc nhưng sao hôm nay cảnh vật thay đổi nhưng khác lạ. Cậu không còn đùa nghịch với các trò chơi trẻ con nữa mà thay vào đó là bộ quần áo học sinh đứng đắn hơn.
Cậu thấy trên đường học sinh cầm sách vở, thước kẻ, cây bút tung tăng. Đến trước sân trường có nhiều người đã đến, cậu bỗng thấy xa lạ và lo sợ. Họ đều ăn mặc chỉnh tề và trên khuôn mặt họ hiện lên nét rạng ngời, vui vẻ. Trong sân trường, nhiều bạn bè đồng trang lứa đều có mặt và chung tâm trạng sợ sệt, chỉ dám núp sau lưng người thân. Tiếng trống vang lên thúc giục các bạn học sinh xếp hàng vào lớp. Ông đốc gọi tên từng người, cậu bé lúc này cảm thấy tim mình như ngừng đập và cậu dường như quên sự có mặt của mẹ ở đằng sau. Khi được gọi tên, cậu giật mình và cảm nhận được bàn tay mẹ khẽ đẩy nhẹ về phía trước. Ông đốc âu yếm dang tay đón những học sinh yêu quý. Cậu cảm thấy chỗ ngồi mới, bạn bè mới không hề cảm thấy xa lạ một chút nào.
Những dòng kỉ niệm về ngày tựu trường sẽ mãi in đậm trong tâm trí của tác giả giống như thước phim quay chậm và được tái hiện rõ nét mỗi khi tác giả bắt gặp lại những hình ảnh quen thuộc đó trong cuộc sống thường nhật.
|
Summary of the article I went to school in 8th grade is short and interesting
Instruct
Refer to the summary of the article I go to school by author Thanh Tinh in literature grade 8, this is a good and useful document for teachers as well as students to better understand the content of this text.
Text summary I go to school
Lesson Summary I go to 8th grade
Author Nguyen Thanh Tinh's old memories of the first day of school were expressed through the work "I go to school". The beautiful memories of the poetic space of the last day of autumn make the author feel like he has returned to his student days. In the early morning of autumn, the boy was gently taken to school by his mother. Even though every day he still walked on the familiar village road, today the scenery was different and different. He no longer plays with childish games but instead wears more proper school clothes.
He saw students on the street holding books, rulers, and pens everywhere. When he arrived in front of the school yard, many people had arrived. He suddenly felt strange and scared. They were all dressed neatly and their faces showed radiant, happy expressions. In the school yard, many friends of the same age were present and shared the same feeling of fear, only daring to hide behind their relatives. The sound of the drums urged the students to line up to go to class. The governor called each person's name. The boy felt his heart stop beating and he seemed to forget his mother's presence behind him. When his name was called, he was startled and felt his mother's hand gently push him forward. The governor lovingly extended his arms to welcome his beloved students. He felt that his new seat and new friends did not feel strange at all.
The memories of the first day of school will forever be imprinted in the author's mind like a slow-motion movie and are clearly reproduced every time the author encounters those familiar images in everyday life.
|
Tóm tắt Bản tuyên ngôn độc lập
Hướng dẫn
Tóm tắt Bản tuyên ngôn độc lập
Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Đó là những lý lẽ mà không ai chối cãi được, và cũng là cở sở để nói về quyền con người. Ở bất kỳ bản tuyên ngôn Độc lập nào cũng đều được ghi nhận các quyền cơ bản đó, từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ đến Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp 1791.
Trả qua 80 năm bị thực dân Pháp xâm lược, chúng lợi dụng lá cờ tự do, lợi dụng cái sự bình đẳng và bác án để đến cướp và biến nhân dân ta, đất nước ta thành thuộc địa, chúng muốn cướp nước, áp bức đồng bào. Đây là một hành động trái với nhân đạo, chính nghĩa, Chúng lập ba chế độ khác nhau ở ba miền khiến cho đất nước ta không được thống nhất, ngăn cản sự đàn kết. Xây dựng nhà tù thay vì trường học, không gê rợn mùi máu tanh, sẵn sàng chém giết hết những người yêu nước của ta. Thi hành các chính sách ngu dân, sử dụng thuốc phiện, rượu để thay đổi người dân biến dân ta thành lệ thuộc, bóc lột chúng ta đến tận xương tủy. Dân ta đã nghèo nay càng nghèo nàn, thiếu thốn hơn. Bọn chúng cướp không ruộng, cướp không đất, cướp hầm mỏ, độc quyền in giấy bạc, nhập cảnh, xuất cảnh, đặt ra cho ta trăm ngàn thứ thuế, làm dân ta bần cùng từ dân cày đến dân buôn, các nhà tư sản cũng bị vùi dập. Một chế độ bóc lột giới lao động, giới công nhân diễn ra ngày càng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, lại một lũ xâm lăng đến-phát xít Nhật được bọn thực dân pháp mở cửa nước ta để cung kính cho chúng vào, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Nhật- Pháp. Từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, đồng bào ta bị chết đói hơn hai triệu người. Bọn Pháp đã bán nước ta hai lần cho Nhật trong vòng 5 năm, đến ngày 9 tháng 3, Nhật hoàn toàn tước vũ khí của thực dân Pháp. Trước đó, Việt Minh đã kêu gọi thực dân Pháp liên mình chống Nhật nhưng chúng lại khủng bố Việt Minh, đến khi thua chạy, bọn Pháp nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị của ta từ Yên Bái và Cao Bằng.
Nhưng dân ta với tám lòng nhân nghĩa vẫn giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, cứu nhiều người thoát khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và của cải của họ.Từ mùa thu năm 1940 nước ta thành thuộc địa của Nhật, nhân dân cả nước đã nổi dậy chống lại Nhật giành lại chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dân ta đánh đổ được các xiềng xích thực dân gần 100 năm, thành lập một chế độ mới chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Chính Phủ lâm thời của nước Việt Nam mới, đại diện cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát ly hoàn toàn với Pháp, xóa bỏ toàn bộ những hiệp định đã ký với Pháp
|
Summary of the Declaration of Independence
Instruct
Summary of the Declaration of Independence
People are born free and have equal rights; and must always be free and have equal rights.” Those are arguments that no one can deny, and are also the basis for talking about human rights. These basic rights are recognized in any declaration of Independence, from the 1776 American Declaration of Independence to the 1791 French Revolution's Declaration of the Rights of Man and of the Citizen.
After 80 years of being invaded by the French colonialists, they took advantage of the flag of freedom, equality and condemnation to rob and turn our people and our country into a colony. They wanted to rob the country and oppress us. picture of compatriots. This is an act contrary to humanity and justice. They set up three different regimes in three regions, making our country ununified and preventing unity. Building prisons instead of schools, without the horrible smell of blood, ready to kill all our patriots. Implementing policies of ignorance, using opium and alcohol to change people makes our people dependent, exploiting us to the core. Our people were already poor and are now even poorer and needier. They rob us without fields, rob us of land, rob mines, monopolize the printing of banknotes, enter and exit the country, impose hundreds of thousands of taxes on us, impoverishing our people from farmers to merchants and investors. property was also crushed. A regime that exploits labor and workers is increasingly cruel.
In the fall of 1940, another group of Japanese fascist invaders were opened by the French colonialists to respectfully let them in. Our people were subjected to two layers of chains: Japanese and French. From Quang Tri to Tonkin, more than two million of our people starved to death. The French sold our country twice to Japan within 5 years. By March 9, Japan completely disarmed the French colonialists. Before that, the Viet Minh called on the French colonialists to unite against the Japanese, but they terrorized the Viet Minh. When they lost, the French mercilessly killed the majority of our political prisoners from Yen Bai and Cao Bang.
But our people, with their kindness and compassion, still helped many French people escape across the border, saved many people from Japanese prison, and protected their lives and property. From the fall of 1940, our country became a Japanese colony. , the people of the whole country rose up against Japan to regain power and establish the Democratic Republic of Vietnam. Our people overthrew the colonial chains of nearly 100 years and established a new regime, the Democratic Republic.
The Provisional Government of the new Vietnam, representing the entire Vietnamese people, declares complete separation from France and abolishes all agreements signed with France.
|
Đề bài: Tóm tắt chương IX Thời thơ ấu của Go- rơ- ki
Bài làm
… Ba đứa trẻ chiều nào cũng chơi trong sân đến tối mịt. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám, cùng mặc áo cánh, quần dài màu xám, rất giống nhau, chỉ có thể phân biệt theo tẩm vóc mỗi đứa. Qua khe hở hàng rào, tôi thấy chúng chơi những trò chơi rất thú vị, vui vẻ. Hai đứa lớn săn sóc một thằng bé ngộ nghĩnh và lanh lợi. Mỗi lần trong lúc chơi, đứa em ngã, hai đứa anh lại cười vui rồi xúm vào lấy khăn tay hoặc lá ngưu bàng lau tay cho em. Thằng anh nói một cách hiền hậu: "Em lóng ngóng quá!"
Có một lần tôi “leo lên cây, huýt sáo gọi chúng”. Chúng túm lại, đưa mắt nhìn tôi và thì thầm bàn bạc gì với nhau. Chúng lại mải mê chơi, cho đến lúc có người gọi về. Chúng đi thong thả và ngoan ngoãn như những chú ngỗng.
Nhiều lần tôi trèo lên cây, hy vọng chúng nó gọi tôi xuống chơi với chúng. Ba anh em vẫn chơi với nhau. Một lần chúng chơi trò ú tim, thằng em ngồi vào gầu không, rơi xuống giếng biến mất. Tôi sững sờ nhìn thấy, vội kêu to: “Ngã xuống giếng rồi!" Tôi cùng hai thằng anh đã kéo được thằng em lên. Nó bị ướt, bàn tay rớm máu. má bị sây sát, mặt tái xanh nhưng vẫn mỉm cười. Thằng anh lớn gật đầu, chìa tay cho tôi và nói: “Cậu chạy đến nhanh lắm!” Chúng bàn với nhau là nói đứa em bị ngã vào vũng nước rồi kéo nhau vào nhà. Gần một tuần sau chúng mới xuất hiện trên sân. Chợt nhìn thấy tôi trên cây, thằng anh lớn thân mật gọi: “Xuống đây chơi với chúng tớ." Chúng tôi leo lên cái xe trượt tuyết cũ để dưới mái hiên nhà kho rồi vừa ngắm nghía nhìn nhau, vừa nói chuyên rất lâu. Tôi hỏi chúng có bị đánh không. Thằng bé nhất hỏi tôi sao lại bắt chim. Nó hỏi chim gì hót vui. Chúng cũng muốn nuôi chim nhưng lại sợ bị mèo bắt mất, nghĩ là bố chúng chẳng cho nuôi. Tôi hỏi ba anh em về mẹ chúng, biết là mẹ chúng đã chết, đang ở với dì ghẻ. Tôi nhớ lại những chuyện kể của bà tôi về mụ dì ghẻ phù thuỷ và kể lại cho chúng nghe.
Trời bắt đầu tối, bỗng một lão già với bộ ria trắng, đội chiếc mũ xù lông, vận chiếc áo nâu dài lùng thùng như một giáo sĩ xuất hiện chỉ vào tôi và hỏi: "Đứa nào đây?" Nghe thằng anh lớn trả lời, lão nắm chặt lấy vai tôi, dẫn tôi qua sân ra cổng, giơ ngón tay dọa tôi và nói: “Cấm không được đến chỗ tao!" Tôi cáu tiết: Tôi có thèm đến với lão đâu, đồ quỷ già!. Vì chuyện đó mà tôi bị ông tôi cho một trận đòn. Tôi bị ném ra sân. Vào trong chiếc xe của bác Pi-ốt: qua bác mà tôi biết tên lão già đại tá quý tộc.
Tôi với bác Pi-ốt xẩy ra bất hòa, bác đặt điều nói với bà tôi, may mà bà tôi bênh che cho tôi. Từ hồi đó. một cuộc chiến tranh âm thầm và gay gắt giữa bác Piôt và tôi. Bác ta tìm mọi cách giả như vô tình để xô đầy tôi, lấy dây cương quật tôi, thả chim của tôi ra, đem chim của tôi cho mèo vồ. Còn tôi thì tháo giày gai của bác ra, bí mật gỡ và cứa đứt những sợi gai… hoặc đổ hạt tiêu vào mũi bác, làm cho bác ta hắt hơi hàng giờ. Mỗi lần bắt gặp tôi nói chuyện với mấy đứa con lão đại tá, bác Piốt lại đi tố cáo với ông tôi.
Tôi vẫn tiếp tục chơi với ba đứa bé, mỗi ngày một trở nên thích thú. Tôi bí mật khoét một lỗ nhỏ hình bán nguyệt ở hàng rào. Tôi vẫn kể chuyện cho chúng nghe, có chỗ nào quên lại chạy về hỏi lại bà, điều đó làm cho bà tôi rất hài lòng. Có một lần tháng lớn thở dài nói: “Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà mình trước cũng rất tốt". Cả ba anh em đều rất đáng yêu. Đặc biệt thằng lớn có đôi bàn tay nhỏ, những ngón tay thon thon, người mảnh dẻ, cặp mất rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Tôi rất ưa thằng lớn và luôn luôn muốn làm cho chúng vui thích.
|
Topic: Summary of chapter IX Go-ro-ki's childhood
Assignment
… The three children played in the yard every afternoon until dark. They have round faces, gray eyes, wear gray blouses and pants, very similar, they can only be distinguished by their physique. Through the gap in the fence, I saw them playing very interesting and fun games. The two older children take care of a funny and intelligent boy. Every time while playing, the younger brother falls, the two older brothers laugh happily and gather to use handkerchiefs or burdock leaves to wipe the younger brother's hands. The older brother said kindly: "You're so clumsy!"
One time I "climbed a tree and whistled to call them". They gathered around, looked at me and whispered something to each other. They were engrossed in playing, until someone called them back. They walk leisurely and docilely like geese.
Many times I climbed the tree, hoping they would call me down to play with them. The three brothers still play together. One time they were playing hide and seek, the younger brother sat in the empty bucket, fell into the well and disappeared. I was stunned when I saw it and quickly shouted: "I fell into the well!" My two older brothers and I were able to pull my younger brother up. He was wet, his hands were bloody. His cheeks were scratched, his face was pale, but he was still smiling. The older brother nodded, gave me his hand and said: "You ran very fast!" They discussed among themselves that the younger brother had fallen into a puddle and then pulled each other into the house. Nearly a week later they appeared in the yard. Suddenly, the older brother called out to me: "Come down here and play with them." me." We climbed onto the old sled that was kept under the barn's porch and looked at each other and talked for a long time. I asked if they were beaten. The youngest boy asked me why I caught birds. He asked what bird sings happily. They also want to raise birds but are afraid that the cat will take them away, thinking their father won't let them. I asked my three brothers about their mother, knowing that their mother had died and was living with their stepmother. I remembered my grandmother's stories about the witch stepmother and told them again.
It was starting to get dark, suddenly an old man with a white mustache, a furry hat, and a long brown shirt like a clergyman appeared, pointed at me and asked: "Who is this?" Hearing my older brother's answer, he grabbed my shoulder tightly, led me across the yard to the gate, raised his finger to threaten me and said: "Don't come to my place!" I was angry: I didn't even want to come to him. You old devil! Because of that, my grandfather gave me a beating. I was thrown into Uncle Piot's car: through him I learned the name of the old noble colonel.
Uncle Piot and I had a disagreement, he told my grandmother what to do, but fortunately my grandmother defended me. Since then. A silent and fierce war between Uncle Piot and me. He tried every way to pretend to be unintentional to push me over, use the reins to whip me, release my bird, and give my bird to the cat to pounce on. As for me, I took off his thorny shoes, secretly removed and cut off the thorny threads... or poured pepper into his nose, making him sneeze for hours. Every time he caught me talking to the colonel's children, Uncle Piot would accuse my grandfather.
I continued to play with the three children, becoming more and more interested every day. I secretly cut a small semicircular hole in the fence. I still tell them stories, and if I forget anything, I run back and ask her again, which makes my grandmother very satisfied. One time, the older brother sighed and said: "Maybe all the grandmothers are very good, my first grandmother was also very good." All three brothers are very lovely. Especially the eldest son has small hands and fingers. Slim, slender, very bright, but gentle like the light of the lights in a church. I really like the older guys and always want to make them happy.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.