vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Thuyết trình tập truyện ngắn Cánh đồng bất tân-Nguyễn Ngọc Tư Hướng dẫn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, một sự lưu đày của con người Cánh đồng bất tận là tên một tập truyện ngắn phát hành năm 2005 của Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời cũng là tên một truyện trong tập truyện ngắn đó được đăng báo lần đầu cùng năm. Tính đến nay, tập truyện đã được phát hành dưới dạng sách in và sách nói. Một vài truyện ngắn trong tuyển tập đã được chuyển thể thành phim và kịch. Cả truyện vừa “Cánh đồng bất tận” và tập truyện ngắn cùng tên đã được dư luận phản hồi tích cực. Tập truyện đã trở thành một hiện tượng xuất bản của văn học Việt Nam với 108.000 bản được tiêu thụ tính đến năm 2010, nhất là sau khi bộ phim dựa trên truyện vừa cùng tên được ra mắt cùng năm.Cùng trong năm 2005, truyện vừa “Cánh đồng bất tận” được đứng đầu trong một cuộc bình chọn truyện ngắn đặc sắc trên báo Văn nghệ. Vào năm 2006, tập truyện đoạt Giải thưởng “Hội Nhà văn Việt Nam” dành cho tác phẩm xuất sắc. Năm 2007, tác phẩm được dịch ra tiếng Hàn và được nhà xuất bản Asia tại Seoul phát hành. Năm 2008, tập truyện được dịch qua tiếng Thuỵ Điển với tên “Fält utan slut”. Trước hết, nói về tác giả Nguyễn Ngọc Tư. Nguyễn Ngọc Tư (sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) là một nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam, được biết đến nhiều nhất bởi tập truyện gây tranh cãi mang tên “Cánh đồng bất tận”. Tập truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư, mỗi lần đọc là thêm những cảm xúc mới. Đó là nỗi đau, là sự ám ảnh về cảnh nghèo của những người con Đồng bằng sông Cửu Long lam lũ, là sự thương xót cho tình cảnh éo le, kiếp sống lang bạt, hay sự cảm phục trước tình người sâu đậm, niềm tin vào tình yêu của con người. Mỗi câu chuyện là mỗi số phận, mỗi hoàn cảnh éo le khác nhau: người bị phụ tình, kẻ bị ruồng bỏ.. nhưng trong đó đều chan chứa tình người, chan chứa niềm tin vào cuộc sống, vào con người. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của người dân Nam Bộ, đặc biệt là Nương và Điền. Hai chị em cùng bố trên chiếc thuyền nay đây mai đó và quá khứ về một người mẹ mà khi nghĩ về là xen lẫn cả niềm vui và nỗi buồn. Nương không được phép nhắc đến mẹ trước mặt bố dù trong lòng nhiều lúc lòng Nương cồn cào da diết nhớ!Khi vợ bỏ đi ông đốt nhà dẫn hai con lưu lạc khắp nơi không dừng chân ở đâu quá lâu và hai đứa nhỏ không được biết đến cái gọi là “Nhà”. Vì quá thương vợ,yêu vợ nên nỗi hận trong ông càng lớn khi vợ ra… Tác phẩm viết về những con người chân chất của miền Tây. Họ tuy là những người nông dân nghèo, tay lấm chân bùn nhưng họ luôn giàu tình cảm. Mỗi người mỗi cảnh nhưng họ có một điểm chung, luôn dành cho những người thân yêu của họ những điều tốt đẹp nhất, còn phần mình thì chịu nhiều nỗi buồn. Đọc tác phẩm mà thấy buồn rười rượi. Không phải là một tập truyện như những tác phẩm khác. “Cánh đồng vất tận” gồm nhiều câu chuyện nhỏ góp nhặt nên. Dù vậy, câu chuyện nào cũng mang một nỗi buồn man mác. Không hiểu tại vì sao tác giả lại viết ra những câu chuyện buồn đến thế? Tuy vậy, tác phẩm vẫn rất hay, nó khắc họa rõ nét đời sống thường ngày của người dân miền sông nước, khắc họa rõ bản tính thật thà của họ. Những con người luôn lênh đênh trên chiếc ghe của mình, cứ chông chênh, chồng chềnh, rày đây mai đó, không biết đến khi nào thì mới có thể tìm được một bến bờ cho mình. Một tác phẩm đúng chất của Nguyễn Ngọc Tư. Giọng văn mộc mạc nhưng thấm đẫm tình người. Nó tái hiện lại một vùng quê đầy lam lũ, tình cha dành cho con thắm thiết đến cảm động. “Cải ơi!” tiếng người cha gọi con về nghe thật xót xa. Có thể hành động có phần hơi “lúa” của người cha trong truyện ấy làm ta bật cười, nhưng đằng sau những tràng cười do lại là một bài học đầy ý nghĩa về tình gia đình cao cả. Qua cuộc sống lam lũ ầy, họ có buồn phiền, nhưng họ không hề chán nản, một nghị lực sống phi thường thật đáng để ta học hỏi. Đấy là những tình cảm, những bài học thâm thúy mà tôi nhận được từ một “Cánh đồng bất tận” khác, cánh đồng “tình người” trong chất văn Nguyễn Ngọc Tư.
Presentation of the short story collection The Unnew Field - Nguyen Ngoc Tu Instruct Nguyen Ngoc Tu's endless fields, a human exile Endless Field is the name of a collection of short stories released in 2005 by Nguyen Ngoc Tu, and is also the name of a story in that collection of short stories first published in the same year. To date, the story collection has been released in print and audiobook form. Several short stories in the collection have been adapted into films and plays. Both the story "The Endless Field" and the short story collection of the same name have received positive public feedback. The story collection has become a publishing phenomenon of Vietnamese literature with 108,000 copies sold as of 2010, especially after the film based on the story of the same name was released in the same year. Also in 2005, the story "Endless Field" recently ranked first in a poll of outstanding short stories in Van Nghe newspaper. In 2006, the story collection won the "Vietnam Writers Association" Award for excellent work. In 2007, the work was translated into Korean and published by Asia Publishing House in Seoul. In 2008, the story collection was translated into Swedish with the name "Fält utan slut". First of all, let's talk about author Nguyen Ngoc Tu. Nguyen Ngoc Tu (born in 1976 in Tan Duyet commune, Dam Doi district, Ca Mau province) is a young female writer of the Vietnam Writers Association, best known for her controversial collection of stories called "The Field of Uncertainty". end". The story collection "Endless Field" by Nguyen Ngoc Tu, every time I read it, I get new emotions. It is the pain, the obsession with the poverty of the people of the Mekong Delta, the pity for the difficult situation, the wandering life, or the admiration for the deep human love, the joy of life. believe in human love. Each story is a different fate, each difficult situation: people being betrayed, people being abandoned... but they are all filled with human love, filled with faith in life, in people. The story revolves around the lives of Southern people, especially Nuong and Dien. Two sisters and their father on a boat traveling here and there and the past of a mother that when thought about is mixed with both joy and sadness. She was not allowed to mention her mother in front of her father, even though there were times when her heart ached with pain! When his wife left, he burned down the house and led his two children to wander everywhere, not stopping anywhere for too long and the two children were not allowed to live. know the thing called "Home". Because he loved his wife so much, his hatred grew even greater when she left... The work is written about the honest people of the West. Even though they are poor farmers, their hands and feet are dirty, but they are always rich in affection. Each person has a different situation, but they have one thing in common: they always give their loved ones the best things, while they themselves suffer a lot of sadness. Reading the work makes me feel sad. Not a collection of stories like other works. "The Endless Field" includes many small stories collected together. However, every story carries a profound sadness. I don't understand why the author wrote such sad stories? However, the work is still very good, it clearly depicts the daily life of people in the river region, clearly portraying their honest nature. People are always floating on their boats, unsteady, drifting here and there, not knowing when they will be able to find a shore for themselves. A true work of Nguyen Ngoc Tu. The tone is simple but imbued with human love. It recreates a countryside filled with floods and floods, with a father's love for his child so passionate and touching. “Cai!” The sound of a father calling his son home is truly heartbreaking. Maybe the father's somewhat "rugged" actions in that story make us laugh, but behind the laughter is a meaningful lesson about noble family love. Through this difficult life, they are sad, but they are not depressed, an extraordinary life force that is worth learning from. These are the feelings and profound lessons that I received from another "Endless Field", the field of "human love" in Nguyen Ngoc Tu's writing.
Thuyết trình về một quyển sách yêu thích. Anh có thích nước Mỹ không-Tân Di Ổ Hướng dẫn Anh có thích nước Mỹ không – Tân Di Ổ “Có lẽ tuổi xuân của mỗi cô gái đều đã từng gặp Trần Hiếu Chính của mình, sau đó mới tìm thấy Lâm Tĩnh; nhưng mỗi người đàn ông đều đã một thời là Trần Hiếu Chính, khi họ đã trưởng thành chín chắn, họ sẽ biến thành Lâm Tĩnh.” ————– “Anh Có Thích Nước Mỹ Không” là một tác phẩm chất chứa những nỗi buồn len lỏi trong từng câu chữ. Câu chuyện xoay quanh đề tài về tuổi thanh xuân, những hồi ức buồn, nghẹn ngào và tiếc nuối của Trịnh Vy, Trần Hiếu Chính, Lâm Tĩnh, Khai Dương, Nguyễn Nguyễn, Lão Trương,…Mỗi người trong số họ đều có những nỗi niềm, những luyến tiếc, xót xa riêng của bản thân mình. Song, những hoài niệm ấy đều gợi cho ta một cảm xúc bâng khuâng khó tả, một nỗi buồn man mác xuyên qua cả không gian và thời gian. Trịnh Vy, 18 tuổi, có làn da trắng, đôi má hồng bầu bình tự nhận mình là Ngọc diện Tiểu Phi Long, một cô gái vô tư, cuộc sống dường như không có gì khiến cô phải buồn. Trịnh Vy quyết định thi vào Học viện Kiến trúc của thành phố G vì một lời hẹn ước với Lâm Tịnh – chàng trai sống cùng khu nhà tập thể với cô và hơn cô 5 tuổi. Với riêng cá nhân tôi, tôi thích Trịnh Vi, một nàng Ngọc diện Tiểu Phi Long đầy nhiệt huyết và có một lòng can đảm đáng ngưỡng mộ. Tôi thích cách Trịnh Vi “dòm ngó” Lâm Tĩnh lúc thơ ngây, vì có lẽ ai cũng từng có một “Lâm Tĩnh thời trẻ” giống như thế, để nhìn ngắm, để mơ ước, để hy vọng và huyễn hoặc mình. Nàng khờ dại, lãng mạn, nhưng cũng thẳng thắn vô cùng. Trịnh Vi dần được trui rèn để rời bỏ từng góc của tuổi xuân, để xét đoán hơn cho cuộc sống của mình một cách tỉnh táo. Thì quả vậy, cuộc sống người con gái nào cuối cùng cũng muốn tìm cho mình một bàn tay rộng có thể nép vào, một trái tim cùng nhịp, “không phải là không có tình yêu”, cái câu này mới chua chát làm sao… một ai đó bằng tình thương so sánh với thời mãnh liệt, sao mà so đây? Mà phàm ở đời cái gì nhạt nhạt thì tồn tại lâu hơn, cuồng nhiệt quá lại tuột trôi qua kẽ tay như sóng nước. Có một câu rất hay trong truyện tôi nghĩ để dành cho Trịnh Vi là xác đáng, “khi chúng ta còn trẻ, làm sao chúng ta tin rằng, sẽ có định mệnh khiến chúng ta không đạt được những điều mình mong muốn…” Từ khi còn rất nhỏ cô đã nói trước mặt mọi người là sẽ lấy Lâm Tịnh. 17 năm cô mải miết theo anh trên mọi con đường anh đi, đến cuối cùng cô tưởng như mình đã được ở gần anh sẽ không phải xa cách. Thật không ngờ, chuyện của người lớn – chuyện mẹ cô và cha anh đã từng yêu nhau đã khiến cho hai bên gia đình tan vỡ. Lâm Tịnh đã chọn con đường ra đi, sang Mĩ bỏ cô ở lại với bao câu hỏi ngổn ngang. Song, trong thời gian này, cô lại gặp Trần Hiếu Chính_người đã khiến tuổi thanh xuân của Ngọc diện Tiểu Phi Long ta không chỉ đơn thuần là vô tư và can đảm trước những gian nan, thử thách trong cuộc sống mà còn làm thay đổi rất nhiều bước ngoặc trong cuộc đời của Trịnh Vy. Từ đầu tới cuối tôi không thấy anh xứng với những gì Trịnh Vi dành cho, dù tình yêu sinh viên của hai người đẹp như một giấc mơ, dù sự day dứt của anh có ở trong quyết định của anh, nhưng anh luôn đặt lòng tự trọng tối cao của mình lên trên trái tim đang khóc, thì anh dệt nên muôn vết sẹo trong lòng cô gái anh yêu. Anh không biết rằng trái tim đó dù còn yêu, nhưng sẽ rạn vỡ, và người con gái kia ôm nỗi tủi thân đến một bến bờ khác… Nhưng nếu suy xét theo một phương diện khác ta có thể thấy rằng,Cuộc sống cũng bất công với Trần Hiếu Chính quá nhiều. Mặc dù Tân Di Ổ không miêu tả tuổi thơ của Trần Hiếu Chính nhưng ai dám khẳng định anh có một tuổi thơ, bình lặng và êm đềm. Xưa vẫn vậy nay cũng thế cái câu hỏi “bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?” vẫn là câu hỏi khó, làm người ta trằn trọc, băn khoăn, làm người ta nuối tiếc, dạy dứt. Một bên là người mình yêu thương hết mực, một bên là người có ơn sinh thành, dưỡng dục biết chọn bên nào? Trần Hiếu Chính đã chọn bên hiếu, nhưng ai dám nói Trần Hiếu Chính không nghĩ đến Trịnh Vy, đã bao lần Trần Hiếu Chính cầm tay Trịnh Vy và tự hỏi chính mình “có thể làm cho bàn tay ấy mãi mềm mại như ngày hôm nay” anh cũng đã nói với cô “Anh không thể yêu em với hai bàn tay trắng” như thế là đúng hay sai là nên hay không nên? Thời nay đã khác thời xưa quá nhiều, có mấy ai có thể yêu nhau nếu như những yêu cầu cơ bản của bản thân mình còn chưa đáp ứng đủ? Cũng chỉ vì cái lẽ đó mà một cuộc tình dang dở, cũng có lẽ vì nó dang dở nên nó đẹp “giống như một ca khúc, dừng giữa khoảnh khắc du dương nhất, có lẽ lại là điều tốt…”. Tôi đã từng đặt ra một câu hỏi rằng tại sao Trịnh Vy đã tuyệt tình như vậy rồi mà Trần Hiếu Chính vẫn không chịu buông tay? Có phải là vì anh vẫn đang tiếc nuối cho mối tình đối với Trịnh Vy cũng như là tiếc nuối cho chính bản thân mình… Trần Hiếu Chính đã cố gắng xây dựng một tương lai đầy hoàn hảo mà theo anh là không có sự sai lệch. Vì chính anh đã nói với Trịnh Vy rằng “ Anh không thể lấy em với hai bàn tay trắng”. Nhưng anh đâu biết rằng cái mà anh cho là không sai lệch, nó đã sai lệch ngay từ phút đầu tiên. Những năm tháng ở Đại Học, anh trắng tay nhưng anh có Trịnh Vy. Giờ đây, anh đã công thành danh toại nhưng anh đã đánh mất đi Trịnh Vy, người mà anh từng cho rằng quan trọng nhất cuộc đời anh. Anh yêu Trịnh Vy nhưng anh lại không biết cách xây dựng tình yêu của mình. Mất Trịnh Vy, anh không cam tâm và luôn muốn hoàn hảo trở lại như lúc trước. Trần Hiếu Chính đã rất ích kỉ. Sự ích kỉ của anh đã đánh mất đi thứ quý giá nhất trong cuộc đời anh. Trong cuộc tình này, Trịnh Vy không sai, Trần Hiếu Chính cũng không sai, Lâm Tĩnh lại càng không. Nếu thử đặt chúng ta vào trường hợp ba mình yêu mẹ của người yêu mình thì thật sự chúng ta có chịu nổi hay không? Cũng như tôi đã nói ở trên, có người cho rằng Lâm Tĩnh quá tàn nhẫn với Thi Khiết, cho rằng Lâm Tĩnh quá vô tình. Nhưng chúng ta có dám chắc rằng khi đứng ở vị trí của Lâm Tĩnh, ra không làm như thế không? Phải chăng thanh xuân của Nguyễn Nguyễn là thanh xuân trọn vẹn nhất trong “Anh Có Thích Nước Mỹ Không”? Tôi không thể trách tại sao Tân Di Ổ lại giết đi cô gái hồn nhiên, trong sáng và luôn chân thành với tình yêu bất diệt của mình. Bởi vì tôi biết rằng cái chết của Nguyễn Nguyễn là cách duy nhất khiến cho người đọc cảm nhận được sự khao khát yêu và được yêu của Nguyễn Nguyễn. Ta cảm nhận được cái chết của Nguyễn Nguyễn không phải là dấu chấm cho cuộc đời cô mà đó còn là cách cô bảo vệ tình yêu chân chính của cuộc đời mình. Thanh Xuân của Nguyễn Nguyễn không đơn thuần chỉ là một kết thúc mà nó có thể là cả linh hồn của quyển sách này. Mọi việc xảy ra đều có kí lẽ của riêng nó. Ngoài việc tập chấp nhận ta còn phải đối đầu và tìm cách vượt qua nó. Dù đúng hay sai thì mọi chuyện vẫn sẽ qua đi, thời gian rồi cũng sẽ xóa nhòa tất cả và mọi người sớm muộn cũng sẽ phải đổi thay. Có lẽ chỉ cần giữ chút hồi ức trong lòng để đôi khi nghĩ lại và mỉm cười thì có lẽ đã là hạnh phúc, đâu cần phải tham làm đòi hỏi quá nhiều. “Tình yêu là ngọn lửa khiến con người phải liều mình, cho dù là người thông minh hay ngốc nghếch, đã yêu rồi, đều biến thành con thiêu thân. Ai cũng biết xông vào lửa sẽ biến thành tro bụi, nhưng biết làm thế nào, trăm năm sau, cho dù đã từng bốc cháy hay không, chúng ta đều biến thành cát bụi.”
Thuyết trình về một quyển sách yêu thích. Anh có thích nước Mỹ không-Tân Di Ổ Hướng dẫn Anh có thích nước Mỹ không – Tân Di Ổ “Có lẽ tuổi xuân của mỗi cô gái đều đã từng gặp Trần Hiếu Chính của mình, sau đó mới tìm thấy Lâm Tĩnh; nhưng mỗi người đàn ông đều đã một thời là Trần Hiếu Chính, khi họ đã trưởng thành chín chắn, họ sẽ biến thành Lâm Tĩnh.” ————– “Anh Có Thích Nước Mỹ Không” là một tác phẩm chất chứa những nỗi buồn len lỏi trong từng câu chữ. Câu chuyện xoay quanh đề tài về tuổi thanh xuân, những hồi ức buồn, nghẹn ngào và tiếc nuối của Trịnh Vy, Trần Hiếu Chính, Lâm Tĩnh, Khai Dương, Nguyễn Nguyễn, Lão Trương,…Mỗi người trong số họ đều có những nỗi niềm, những luyến tiếc, xót xa riêng của bản thân mình. Song, những hoài niệm ấy đều gợi cho ta một cảm xúc bâng khuâng khó tả, một nỗi buồn man mác xuyên qua cả không gian và thời gian. Trịnh Vy, 18 tuổi, có làn da trắng, đôi má hồng bầu bình tự nhận mình là Ngọc diện Tiểu Phi Long, một cô gái vô tư, cuộc sống dường như không có gì khiến cô phải buồn. Trịnh Vy quyết định thi vào Học viện Kiến trúc của thành phố G vì một lời hẹn ước với Lâm Tịnh – chàng trai sống cùng khu nhà tập thể với cô và hơn cô 5 tuổi. Với riêng cá nhân tôi, tôi thích Trịnh Vi, một nàng Ngọc diện Tiểu Phi Long đầy nhiệt huyết và có một lòng can đảm đáng ngưỡng mộ. Tôi thích cách Trịnh Vi “dòm ngó” Lâm Tĩnh lúc thơ ngây, vì có lẽ ai cũng từng có một “Lâm Tĩnh thời trẻ” giống như thế, để nhìn ngắm, để mơ ước, để hy vọng và huyễn hoặc mình. Nàng khờ dại, lãng mạn, nhưng cũng thẳng thắn vô cùng. Trịnh Vi dần được trui rèn để rời bỏ từng góc của tuổi xuân, để xét đoán hơn cho cuộc sống của mình một cách tỉnh táo. Thì quả vậy, cuộc sống người con gái nào cuối cùng cũng muốn tìm cho mình một bàn tay rộng có thể nép vào, một trái tim cùng nhịp, “không phải là không có tình yêu”, cái câu này mới chua chát làm sao… một ai đó bằng tình thương so sánh với thời mãnh liệt, sao mà so đây? Mà phàm ở đời cái gì nhạt nhạt thì tồn tại lâu hơn, cuồng nhiệt quá lại tuột trôi qua kẽ tay như sóng nước. Có một câu rất hay trong truyện tôi nghĩ để dành cho Trịnh Vi là xác đáng, “khi chúng ta còn trẻ, làm sao chúng ta tin rằng, sẽ có định mệnh khiến chúng ta không đạt được những điều mình mong muốn…” Từ khi còn rất nhỏ cô đã nói trước mặt mọi người là sẽ lấy Lâm Tịnh. 17 năm cô mải miết theo anh trên mọi con đường anh đi, đến cuối cùng cô tưởng như mình đã được ở gần anh sẽ không phải xa cách. Thật không ngờ, chuyện của người lớn – chuyện mẹ cô và cha anh đã từng yêu nhau đã khiến cho hai bên gia đình tan vỡ. Lâm Tịnh đã chọn con đường ra đi, sang Mĩ bỏ cô ở lại với bao câu hỏi ngổn ngang. Song, trong thời gian này, cô lại gặp Trần Hiếu Chính_người đã khiến tuổi thanh xuân của Ngọc diện Tiểu Phi Long ta không chỉ đơn thuần là vô tư và can đảm trước những gian nan, thử thách trong cuộc sống mà còn làm thay đổi rất nhiều bước ngoặc trong cuộc đời của Trịnh Vy. Từ đầu tới cuối tôi không thấy anh xứng với những gì Trịnh Vi dành cho, dù tình yêu sinh viên của hai người đẹp như một giấc mơ, dù sự day dứt của anh có ở trong quyết định của anh, nhưng anh luôn đặt lòng tự trọng tối cao của mình lên trên trái tim đang khóc, thì anh dệt nên muôn vết sẹo trong lòng cô gái anh yêu. Anh không biết rằng trái tim đó dù còn yêu, nhưng sẽ rạn vỡ, và người con gái kia ôm nỗi tủi thân đến một bến bờ khác… Nhưng nếu suy xét theo một phương diện khác ta có thể thấy rằng,Cuộc sống cũng bất công với Trần Hiếu Chính quá nhiều. Mặc dù Tân Di Ổ không miêu tả tuổi thơ của Trần Hiếu Chính nhưng ai dám khẳng định anh có một tuổi thơ, bình lặng và êm đềm. Xưa vẫn vậy nay cũng thế cái câu hỏi “bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?” vẫn là câu hỏi khó, làm người ta trằn trọc, băn khoăn, làm người ta nuối tiếc, dạy dứt. Một bên là người mình yêu thương hết mực, một bên là người có ơn sinh thành, dưỡng dục biết chọn bên nào? Trần Hiếu Chính đã chọn bên hiếu, nhưng ai dám nói Trần Hiếu Chính không nghĩ đến Trịnh Vy, đã bao lần Trần Hiếu Chính cầm tay Trịnh Vy và tự hỏi chính mình “có thể làm cho bàn tay ấy mãi mềm mại như ngày hôm nay” anh cũng đã nói với cô “Anh không thể yêu em với hai bàn tay trắng” như thế là đúng hay sai là nên hay không nên? Thời nay đã khác thời xưa quá nhiều, có mấy ai có thể yêu nhau nếu như những yêu cầu cơ bản của bản thân mình còn chưa đáp ứng đủ? Cũng chỉ vì cái lẽ đó mà một cuộc tình dang dở, cũng có lẽ vì nó dang dở nên nó đẹp “giống như một ca khúc, dừng giữa khoảnh khắc du dương nhất, có lẽ lại là điều tốt…”. Tôi đã từng đặt ra một câu hỏi rằng tại sao Trịnh Vy đã tuyệt tình như vậy rồi mà Trần Hiếu Chính vẫn không chịu buông tay? Có phải là vì anh vẫn đang tiếc nuối cho mối tình đối với Trịnh Vy cũng như là tiếc nuối cho chính bản thân mình… Trần Hiếu Chính đã cố gắng xây dựng một tương lai đầy hoàn hảo mà theo anh là không có sự sai lệch. Vì chính anh đã nói với Trịnh Vy rằng “ Anh không thể lấy em với hai bàn tay trắng”. Nhưng anh đâu biết rằng cái mà anh cho là không sai lệch, nó đã sai lệch ngay từ phút đầu tiên. Những năm tháng ở Đại Học, anh trắng tay nhưng anh có Trịnh Vy. Giờ đây, anh đã công thành danh toại nhưng anh đã đánh mất đi Trịnh Vy, người mà anh từng cho rằng quan trọng nhất cuộc đời anh. Anh yêu Trịnh Vy nhưng anh lại không biết cách xây dựng tình yêu của mình. Mất Trịnh Vy, anh không cam tâm và luôn muốn hoàn hảo trở lại như lúc trước. Trần Hiếu Chính đã rất ích kỉ. Sự ích kỉ của anh đã đánh mất đi thứ quý giá nhất trong cuộc đời anh. Trong cuộc tình này, Trịnh Vy không sai, Trần Hiếu Chính cũng không sai, Lâm Tĩnh lại càng không. Nếu thử đặt chúng ta vào trường hợp ba mình yêu mẹ của người yêu mình thì thật sự chúng ta có chịu nổi hay không? Cũng như tôi đã nói ở trên, có người cho rằng Lâm Tĩnh quá tàn nhẫn với Thi Khiết, cho rằng Lâm Tĩnh quá vô tình. Nhưng chúng ta có dám chắc rằng khi đứng ở vị trí của Lâm Tĩnh, ra không làm như thế không? Phải chăng thanh xuân của Nguyễn Nguyễn là thanh xuân trọn vẹn nhất trong “Anh Có Thích Nước Mỹ Không”? Tôi không thể trách tại sao Tân Di Ổ lại giết đi cô gái hồn nhiên, trong sáng và luôn chân thành với tình yêu bất diệt của mình. Bởi vì tôi biết rằng cái chết của Nguyễn Nguyễn là cách duy nhất khiến cho người đọc cảm nhận được sự khao khát yêu và được yêu của Nguyễn Nguyễn. Ta cảm nhận được cái chết của Nguyễn Nguyễn không phải là dấu chấm cho cuộc đời cô mà đó còn là cách cô bảo vệ tình yêu chân chính của cuộc đời mình. Thanh Xuân của Nguyễn Nguyễn không đơn thuần chỉ là một kết thúc mà nó có thể là cả linh hồn của quyển sách này. Mọi việc xảy ra đều có kí lẽ của riêng nó. Ngoài việc tập chấp nhận ta còn phải đối đầu và tìm cách vượt qua nó. Dù đúng hay sai thì mọi chuyện vẫn sẽ qua đi, thời gian rồi cũng sẽ xóa nhòa tất cả và mọi người sớm muộn cũng sẽ phải đổi thay. Có lẽ chỉ cần giữ chút hồi ức trong lòng để đôi khi nghĩ lại và mỉm cười thì có lẽ đã là hạnh phúc, đâu cần phải tham làm đòi hỏi quá nhiều. “Tình yêu là ngọn lửa khiến con người phải liều mình, cho dù là người thông minh hay ngốc nghếch, đã yêu rồi, đều biến thành con thiêu thân. Ai cũng biết xông vào lửa sẽ biến thành tro bụi, nhưng biết làm thế nào, trăm năm sau, cho dù đã từng bốc cháy hay không, chúng ta đều biến thành cát bụi.”
Đề bài: Thuật lại buổi cắm trại lớp em đã tổ chức Bài làm Dự tính đã lâu, nhưng mãi đến lễ 30 tháng 4, kỉ niệm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng vừa qua, lớp em mới có dịp cắm trại tại công viên thị xã. Hôm ấy, vì quá nôn nao nên mới năm giờ, các bạn đã đến trường, sớm hơn giờ hẹn. Các thứ như: cây, cọc, vải che lều, thức ăn, nước uống… đều mang theo đầy đủ như được phân công. Sau khi điểm danh, dặn đò vài điều cần thiết, cả đoàn đi bộ lên đường. Địa điểm cũng không xa lắm. Thuật lại buổi cắm trại lớp em đã tổ chức Đến nơi, chúng em chọn ngay một khoảnh đất trống thật mát dưới tàng cây me to để dựng trại. Các bạn trai năng nổ cắm cọc, các bạn gái quét dọn. Nhờ thế chẳng bao lâu, một căn lều, tuy đơn giản mà xinh xắn, đã hiện ra. Lúc sinh hoạt là nhộn nhịp nhất. Tiếng hò hát vang vang cùng tiếng nhịp vỗ tay. Hoà vào đó là tiếng đệm đàn của thầy em. Ngồi giữa vòng tròn, em thấy thầy gần gũi và thân mật quá. Bạn Thống, thường ngày học giỏi, hôm nay lại hát hay nên mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Xen vào đó là những trò chơi: giành khăn, mèo bắt chuột, bịt mắt bắt dê… thật hào hứng. Nhiều lúc, tiếng reo náo nhiệt cả một vùng, làm cho mây người lớn, mấy em nhỏ đi qua đó cũng dừng lại đứng nhìn mà vui lây. Trưa hôm ấy, sau khi tổ chức ăn uống, người thì ra ngồi gốc cây hóng mát, đọc sách, người thì đi dạo. Đến chiều sinh hoạt tiếp và khoảng ba giờ, lúc mặt trời hơi chếch về tây, thầy trò mới nhổ trại ra về. Lần đầu tiên dự buổi cắm trại thật là lí thú. Tình thấy trò, tình bè bạn dường như gắn bó hơn. Cả lớp cứ nhắc mãi chuyện cắm trại vừa qua.
Topic: Describe the camp your class organized Assignment It was planned for a long time, but it was not until April 30, the anniversary of the complete liberation of the South, that my class had the opportunity to camp at the town park. That day, because we were so hungover, we arrived at school at five o'clock, earlier than the scheduled time. Things such as trees, stakes, tent covers, food, water... are all brought along as assigned. After taking roll call and telling the boat a few necessary things, the whole group set off on foot. The location is not too far. Describe the camp your class organized Upon arriving, we immediately chose a cool, empty plot of land under a big tamarind tree to set up camp. The boys were active in planting stakes, the girls were cleaning. Thanks to that, before long, a simple but beautiful tent appeared. Activity is the busiest time. Singing and singing echoed with the sound of clapping hands. Mixed in with it is the accompaniment of my teacher. Sitting in the middle of the circle, I felt that the teacher was so close and intimate. Thong, who usually studies well, sang well today, so everyone applauded him warmly. Interspersed with these are games: grab a towel, cat catch mouse, blindfolded catch goat... it's so exciting. Many times, the bustling sound of the whole area made the adults and children passing by stop and watch with joy. That afternoon, after organizing a meal, some people sat under a tree to enjoy the shade, read books, and others went for a walk. In the afternoon, the activities continued and around three o'clock, when the sun tilted slightly to the west, the teachers and students broke camp and left. Going camping for the first time was really exciting. Friendship and friendship seem to be closer. The whole class kept talking about the recent camping trip.
Đề bài; Thuật lại buổi triển lãm Vở sạch chữ đẹp của nhà trường Bài làm Sáng chủ nhật vừa qua, thầy giáo chúng em đến xem phòng triển lãm “Vở sạch chữ đẹp’’ của nhà trường. Từ xa nhìn lại, mái trường thân yêu như một vườn cây xanh tốt. Đến gần, phòng triển lãm là ba gian nhà xinh xắn, mái ngói đỏ tươi. Bên hàng cây xanh biếc, cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió như chào đón chúng em trong nắng sớm. Những bức tường xây đang phơi mình dưới nắng trông thật đẹp. Những cánh cửa sơn xanh bóng hôm nay mở ra đón phụ huynh và các vị đại biểu đến xem. Tấm bảng đỏ mang dòng chữ vàng đậm nét: “Triển lãm vở sạch chữ đẹp” căng trước cửa phòng trông vừa đẹp vừa nghiêm trang. Thuật lại buổi triển lãm Vở sạch chữ đẹp của nhà trường Cửa phòng hôm nay như hẹp lại vì đông nghẹt người ra vào. Chúng em đi theo hướng mũi tên dưới sự hướng dẫn của thầy giáo. Bước vào phòng đầu, cách trang hoàng lộng lẫy đã lôi cuốn ngay sự chú ý của em. Trên tường cao, tấm ảnh Bác Hồ lồng trong khung kính trang trọng. Mắt Bác sáng ngời như ân cần nhắc nhở chúng em học giỏi, đoàn kết thương yêu nhau. Dưới khung ảnh, năm điều Bác dạy viết trên một tấm bìa màu vàng. Tiếp đó là nhiều khung kính bằng khen, giấy khen và cờ luân lưu khen tặng các thành tích của nhà trường. Điều đáng chú ý ở đây là các dây hoa trang trí đều do các bạn học sinh tự làm với sự lựa chọn màu sắc và bàn tay khéo léo của mình. Xung quanh chân tường là những chiếc bàn kê ngay ngắn phủ những tấm vải hoa, hàng trăm quyển vở được trưng bày. Quyển nào cũng sạch, cũng đẹp. Cô giáo Liên tay cầm que bọc giấy xanh đỏ, niềm nở giới thiệu. – Đây là những quyển vớ của học sinh lớp một. Em nghểnh cao hơn, cố len vào để trông cho rõ nhưng quyển sách, quyển vờ dùng lâu ngày mà không quăn mép: sờn gáy. Nâng niu quyển vở trên tay, em lật di lật lại những trang chữ viết nắn nót, nét thanh, nét đậm trông mềm như tơ. Em ngắm mãi không chán mắt những dòng chữ màu xanh tím đều đặn trên nền những trang giãy trắng mà nghĩ đến tinh thần chăm chỉ của các bạn: Bàn tay siêng năng Nở hoa trên giấy Từng hàng giăng giăng (Thơ Huy Cận trong tập Hai bàn tay em) Tiếp đó là sách vở của các bạn khối ba và bốn. Những quyển vở này trình bày sáng sủa hơn. Em nâng quyển chính tả của bạn Giang, quyển vở rất dày mà không có một giọt mực. Em thích nhất quyển bài tập toán có những điểm mười nở rộ như những bông hoa tươi thắm. Nổi bật nhất là sách vở cừa bạn Thu Hương – bạn là học sinh ưu tú, ba năm liền bạn đạt danh hiệu cháu ngoan Bác Hồ. Sách vở của bạn được trưng bày chiếm đến hai bàn. Bác Lê, mẹ bạn Thu Hương hôm nay cũng đến xem triển lãm. Em nâng quyển vở của bạn Thu Hương lên cho bác xem những điểm mười tươi rói. Gương mặt bác ánh lên niềm vui dào dạt. Bác ngắm mãi như không muốn rời những quyển vở của đứa con thân yêu đã được các thầy, các cô hết lòng dạy bảo. Sau hai giờ tham quan phòng triển lãm, chúng em ra về. Mặt trời đã lên cao, nắng mới trải vàng trên đồng lúa mênh mông. Lòng em rạo rực, em nhìn các bạn, ai cũng dễ mến hơn, hàng cây đẹp hơn, lúa đồng xanh hơn. Lòng em vui phai phới Qua trang giấy hôm nay Qua tửng dòng chữ đẹp Tổ quốc lớn từng ngày Em thấy như các thầy, các cô, các bạn đang trông chờ ở em những thành tích tốt hơn, đẹp hơn góp phần cho những cuộc triển lãm ở nhà trường.
Topic; Narrating the school's exhibition of clean and beautiful notebooks Assignment Last Sunday morning, our teachers went to see the school's "Clean and beautiful notebooks" exhibition room. Looking back from afar, the beloved school roof looks like a lush green garden. Up close, the exhibition room has three lovely houses with bright red tile roofs. Next to the rows of green trees, red flags with yellow stars fluttered in the wind as if welcoming us in the early morning sunlight. The masonry walls basking in the sunlight look beautiful. The glossy green painted doors opened today to welcome parents and delegates to see. A red sign with bold gold letters: "Exhibition of clean notebooks with beautiful letters" stretched in front of the room door looks both beautiful and solemn. Narrating the school's exhibition of clean and beautiful notebooks The door to the room today seemed narrow because it was crowded with people coming in and out. We followed the direction of the arrow under the teacher's guidance. Entering the first room, the splendid decoration immediately attracted my attention. High on the wall, a photo of Uncle Ho is placed in a solemn glass frame. Uncle Ho's eyes shined as if he kindly reminded us to study well, unite and love each other. Below the photo frame, the five things Uncle Ho taught were written on a yellow card. Next are many glass frames of certificates of merit, certificates of merit and circulating flags praising the school's achievements. What is worth noting here is that the decorative flower strings were all made by the students themselves with their color choices and skillful hands. Around the base of the wall are neatly arranged tables covered with floral cloths, hundreds of notebooks on display. Every book is clean and beautiful. Teacher Lien held a stick wrapped in red and green paper and warmly introduced herself. – These are socks for first graders. I leaned higher, trying to squeeze in to see clearly, but the book, the book pretended to be used for a long time without curling the edges: the spine was frayed. Caressing the notebook in her hand, she turned over and over the pages of neat handwriting, with clean and bold lines that looked as soft as silk. I couldn't get tired of looking at the steady blue and purple letters on the white pages and thinking about your hardworking spirit: Diligent hands Bloom on paper Each line is strung up (Huy Can's poem in the book My Two Hands) Next are the books for third and fourth graders. These notebooks present more clearly. I lifted Giang's spelling book. The notebook was very thick without a drop of ink. My favorite math exercise book has the ten points blooming like fresh flowers. The most outstanding are Thu Huong's books - you are an excellent student, for three consecutive years you have been awarded the title of Uncle Ho's good nephew. Your books are displayed taking up two tables. Uncle Le, Thu Huong's mother also came to see the exhibition today. I lifted up Thu Huong's notebook to show him the bright ten points. His face shone with abundant joy. He looked forever as if he did not want to leave the notebooks of his beloved child who had been wholeheartedly taught by the teachers. After two hours visiting the exhibition room, we left. The sun has risen, the new sunlight spreads gold on the vast rice fields. My heart is excited, I look at my friends, everyone is nicer, the trees are more beautiful, the rice fields are greener. My heart is filled with joy Through today's page Through every line of beautiful letters The country grows bigger every day I feel like my teachers, classmates, and friends are expecting better and more beautiful achievements from me to contribute to school exhibitions.
Đề bài: Thuật lại buổi tổng kết năm học tổ chức tại trường em Bài làm Buổi lễ tổng kết cuối năm học vừa qua của trường em tuy đơn giản nhưng không kém phần long trọng. Hôm ấy nhằm một ngày đẹp trời, không khí mát dịu. Các bạn học sinh đều ăn mặc tươm tất hơn ngày thường. Ngay giữa sân lễ, một tấm phông đỏ treo cao, nổi bật lên với dòng chữ to màu trắng “Lễ tổng kết năm học”. Kế bên là một chiếc bàn dài trải thảm hoa, trên ấy, chất đầy những gói phần thưởng được bọc bằng giấy kiếng bóng lộn. Chúng em cứ đi qua đi lại ngắm nhìn mà lòng nôn nao khó tả. Thuật lại buổi tổng kết năm học tổ chức tại trường em Chẳng bao lâu, quan khách đến dự đã đông đủ. Họ ngồi chật cả dãy bàn phía trước. Tiếng nói chuyện, tiếng cười huyên náo. Buổi lễ được bắt đầu bằng phút chào cờ thật trang nghiêm. Xong, thầy hiệu trường mới đọc diễn văn tổng kết năm học. Giọng thầy từ tốn, ấm rõ điểm lại từng mặt hoạt động của nhà trường. Chúng em im lặng lắng nghe mà lòng thầm cảm phục, biết ơn công lao của thấy cô đã không quản bao khó nhọc vì chúng em. Thầy hiệu trưởng còn thân mật khích lệ những bạn học giỏi, động viên các bạn khác phải cố gắng nhiều hơn nữa. Bài diễn văn kết thúc giữa tràng pháo tay giòn giã. Tiếp theo là bài phát biểu của khách tham dự. Nhưng xúc động nhất là bài phát biểu của bạn Thu Hương. Bạn ấy đại diện cho học sinh lớp cuối cấp lên bày tỏ những suy nghĩ, những tình cảm của mình về thầy cô, về mái trường thân yêu sắp sửa phải rời xa. Lúc phát thưởng thật vui nhộn. Bạn nào hạng nhất được gọi lên trước. Mỗi lẫn như thế là một lần tiếng vỗ tay vang dậy. Các bạn nhận thưởng tuy hơi rụt rè, nhưng người nào trên gương mặt cũng lộ nét hân hoan, tràn đầy sung sướng. Mấy bạn học sinh phía dưới cứ đứng chồm lên để nhìn cho rõ hơn. Xen vào giữa là các tiết mục văn nghệ hào hứng. Những bài hát về tuổi học trò được dịp cất lên. Đặc biệt tiết mục biểu diễn dàn organ của một em lớp Một đã làm cho ai nấy đều khen ngợi. Cuối cùng, thầy hiệu trưởng lên tuyên bố bế mạc và cúi đầu chào tất cả mọi người. Buổi lễ tổng kết năm học đã kết thúc. Những bàn tay vẫy giã từ nhau, những ánh mắt nhìn nhau đầy lưu luyến. Xung quanh dần vắng lặng. Đâu đây, thoảng tiếng ve kêu. Riêng em, một mình còn đếm bước giữa sân trường đầy xác phượng đỏ.
Topic: Narrate the school year review held at your school Assignment My school's closing ceremony at the end of the last school year was simple but no less solemn. It was a beautiful day, the air was cool. The students were all dressed more neatly than usual. Right in the middle of the ceremony yard, a red backdrop hangs high, prominently displaying the words "End of school year ceremony" in large white letters. Next to it was a long table covered with flower carpets, on it were piled high with reward packages wrapped in shiny cellophane. We kept walking back and forth looking at it with an indescribable feeling of excitement. Recount the school year review held at your school Before long, the guests attending were full. They filled the front row of tables. The sound of talking and laughter. The ceremony began with a solemn flag salute. Once finished, the school principal gave a speech summarizing the school year. The teacher's voice was gentle and clear, reviewing each aspect of the school's activities. We listened silently, silently admiring and grateful for her efforts, seeing that she had spared no effort for us. The principal also cordially encouraged good students and encouraged other students to try harder. The speech ended amid thunderous applause. Next is the speech of the attending guests. But the most touching speech was Thu Huong's speech. She represents the senior class and expressed her thoughts and feelings about her teachers and her beloved school that she is about to leave. The time of giving out prizes was fun. Those who are ranked first will be called up first. Every time that happened, applause rang out. Although the people receiving the awards were a bit timid, their faces all showed joy and happiness. The students below kept standing up to see more clearly. In between are exciting musical performances. Songs about school age were given the opportunity to sing. In particular, the organ performance of a first grade student drew praise from everyone. Finally, the principal announced the closing ceremony and bowed to everyone. The school year closing ceremony has ended. Hands waved goodbye to each other, eyes looked at each other with longing. The surrounding gradually became quiet. Somewhere, occasionally the sound of cicadas chirping. As for me, I was alone, counting my steps in the middle of a schoolyard full of red phoenix corpses.
Đề bài: Thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng 5 tháng giêng Bài làm Nguyễn Huệ là một người anh hùng rất tài giỏi, ông có tài điều binh khiển tướng. Nguyễn Huệ từng chỉ huy nhiều cuộc chiến lớn và đã giành thắng lợi, trong đó có cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Thanh, ông đã góp phần đem lại những mốc son vàng chói lại cho lịch sử Việt Nam. Trong đó phải kể đến chiến công thần tốc đại phá quân Thanh. Lê Chiêu Thống vốn là một tên vua ươn hèn, do lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên hắn cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho quân Thanh xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Văn Tuyết vào Nam cấp báo cho Bắc Bình Vương, Lê Chiêu Thống thì nhận sắc phong của vua Thanh là Nam Quốc Vương, còn Sở và Lân rút lui về Tam Điệp. Điều này có nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc vào đến Thăng Long, đây quả là một biến cố lớn. Trước sự việc đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh cứu nguy cho đất nước. Mấy hôm trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung vào tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Huệ lên ngôi rất uy nghi đường bệ, nghi lễ vô cùng trang nghiêm. Đây là một con người có dung mạo vô cùng đặc biệt. Trong cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: ông là người tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối nên không một ai dám nhìn vào mắt Nguyền Huệ. Ta có thể thấy ở vị vua này toát lên vẻ mặt cương nghị, oai phong, lẫm liệt. Vua Quang Trung sai lính là Hám Hổ Hầu tuyển quân ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chẳng mấy chốc đã được một vạn quân tinh nhuệ. Sau đó, vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trận, những hàng quân thẳng tắp, gươm giáo nhất loạt bên mình, lá cờ tung bay phấp phới đã khí thế sẵn sàng luôn chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ đất nước. Trước khi xuất quân, vua Quang Trung cưỡi voi thân chinh ra doanh trại yên ủi quân lính bằng phủ dụ của mình. Giọng nói của ông sang sảng giữa bốn bề núi rừng thanh vắng, đầy hào khí, tuyên bố với ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết chiến quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Lời vua Quang Trung nói vừa như ân cần khuyên bảo, vừa như răn dạy khiến cho quân sĩ rất cảm phục. Vì vậy họ đồng thanh mà nói rằng: xin vâng lệnh không dám hai lòng. Ngay hôm sau, Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các hàng quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đến núi Tam Điệp, ông gặp Sở và Lân. Vua Quang Trung phân tích rõ công tội của họ. Không những không chém mà còn tha tội chết cho họ. Quang Trung đã thể hiện sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng và quán lệnh nghiêm minh quân thua chém tướng khiến cho mọi người nhất là Sở và Lân đều vô cùng cảm động và biết ơn ông. Ngoài ra ông còn nói rõ sẽ cho quân sĩ hiểu rằng quân Thanh là đội quân lớn mạnh gấp mười lần đội quân mình, nếu chúng thua trận này ắt thấy thẹn mà báo thù như vậy việc binh đao không bao giờ dứt, lúc đó dân chúng sẽ lâm vào cảnh lầm than. Điều này đã thể hiện rõ vua Quang Trung còn rất biết lo xa, lo lắng cho vận mệnh dân chúng. Đêm 30 tháng chạp, ông cho mở tiệc khao quân, bữa tiệc Tết trước khi ra trận tuy làm không to, không khí không có tiếng đàn, ca hát nhưng quân sĩ ai ai cũng thấy lòng phơi phới niềm vui và niềm tin quyết thắng vào trận chiến hôm sau. Vua Quang Trung dõng dạc tuyên bố với một vài tướng sĩ của mình trước ngày thắng trận đã cho thấy ông là người có khả năng tiên đoán trước tình hình, có tầm nhìn xa trông rộng. Vào tối 30 Tết lập tức lên đường ra Bắc. Để giữ sức cho quân sĩ, ông liền nghĩ ra cách lấy cáng làm võng cứ hai người khiêng một người nằm ngủ luân phiên nhau đi suốt, đêm ngày, mau chóng thần tốc, tiến thẳng ra Bắc. Khi quân sĩ của vua Quang Trung ra đến sông Gián, nghĩa binh trân thủ ở đó tan vỡ chạy trước lúc đến sân Thanh Quyết, quân Thanh ở đó trông thấy cũng chạy nốt. Vua Qung Trung liền thúc quân đuổi theo, đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết không để tên nào về báo tin. Lại nói Quang Trung đi rất nhiều ngày đêm, quần áo sộc sệch bám đầy bại đường, da den sạm đi vì nắng và gió. Có lúc quân sĩ còn lên cơn sốt nửa đường do không quen với khí hậu phía Bắc và do cái lạnh căm căm của ngày Tết. Nhưng ông vẫn đủ minh mẫn để chỉ huy cả đội quan tiến đánh. Việc tấn công của quân ta là hoàn toàn bí mật tiến về đồn Hà Hồi – Ngọc Hồi. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), sau khi đi suốt 3 đêm 23 ngàv, nghĩa quân đã tới làng Hà Hồi. Từ nửa đêm mồng 3 tháng giêng vua Quang Trung lặng lẽ cho bao vây khắp làng, ông đã rất thông minh khi dùng kế nghi binh: bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời xin hàng. Toàn bộ vũ khí và lương thực đều bị quân Nam lấy hết. Chính vì vậy nên việc hạ đồn Hà Hồi rất nhanh gọn. Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép ba tấm làm một bức, lấy rơm đắp nước phủ quanh ngoài. Mờ sáng ngày mồng 5, đoàn quân đã tiến sát đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào, nhân có gió Bắc bọn chúng liền dùng ống phun lửa, khói lửa mù trời. Nhưng bỗng trời trở gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Sự việc đó lại càng chứng tỏ việc làm của nghĩa quân Quang Trung là rất chính nghĩa đến trời đất cũng ủng hộ. Quân Thanh chống không nổi. Bỏ chạy tán loạn giẫm đạp, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân ta thừa thế xông lên chém giết, máu chảy thành suối,! quân Thanh đại bại. Giữa chưa hôm ấy Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi vào thành. Vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân ăn mừng, hôm ấy là ngày mồng 5 tháng giêng. Như vậy dự đoán của Quang Trung quả không sai. Quân sĩ hết sức vui mừng cho chiến thắng oanh liệt này. Qua đây ta càng cảm thấy khâm phục trước chiến công thần tốc của vua Quang Trung. Nó mang lại một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Tuy Đại Việt chỉ là một nước nhỏ nhưng dân tộc ta lại có một sức mạnh vô cùng ghê gớm, sức mạnh này có thể đánh bại bất kỳ một nước lớn nào dám sang xâm lược. Hằng năm, Việt Nam ta thường tổ chức lễ hội Đống Đa cũng là đế tưởng nhớ đến người anh hùng áo vải Quang Trung cùng toàn bộ quân sĩ đã dũng cảm chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
Topic: Narrating King Quang Trung's speedy victory in destroying the Qing army from the evening of the 30th of Tet to the 5th of the first lunar month Assignment Nguyen Hue is a very talented hero, he has the talent to command soldiers and generals. Nguyen Hue commanded many major wars and won victories, including the uprising against Qing invaders. He contributed to bringing golden milestones to Vietnamese history. Among them is the lightning-fast victory that destroyed the Qing army. Le Chieu Thong was originally a cowardly king. Because he was worried about his empty throne, he asked for help from the Qing Dynasty, opening the way for the Qing army to invade our country. On November 24, Van Tuyet went to the South to report to Bac Binh Vuong, Le Chieu Thong received the title of Nam Quoc Vuong from King Thanh, and So and Lan retreated to Tam Diep. This means that our country lost all land from the northern gate to Thang Long, this was a major event. Before that incident, King Nguyen Hue of Bac Binh intended to launch an attack to the North to destroy the Qing army to save the country. A few days before leaving the army, Nguyen Hue ascended the throne, changing the 11th year of the Thai Duc reign of Tay Son King Nguyen Nhac to the first year of the Quang Trung reign in the twelfth month of Mau Than (1788). Nguyen Hue ascended the throne very majestically and the ceremony was extremely solemn. This is a person with a very special appearance. In the book Vietnamese Dynasties, it is written: he was a man with curly hair, rough skin, a voice as clear as a bell, and eyes as bright as lightning that could see everything clearly in the dark, so no one dared to look into Nguyen Hue's eyes. We can see that this king exudes a resolute, majestic, and fierce appearance. King Quang Trung sent his soldier, Ham Ho Marquis, to recruit troops in Nghe An, taking one person for every three positions, and soon there were 10,000 elite troops. After that, the king opened a large military parade at the barracks, with straight rows of soldiers, swords and spears at their sides, flags fluttering, always ready to fight to protect the country. Before leaving the army, King Quang Trung rode an elephant to the barracks to comfort the soldiers with his edict. His voice was resounding amidst the quiet mountains and forests, full of pride, declaring to the three troops, affirming the righteous army's faith and will to fight and win. King Quang Trung's words were both a kind advice and a teaching, making the soldiers very impressed. So they said in unison: Please obey and do not dare to be double-minded. The next day, Quang Trung ordered an advance. The troops all marched strictly in formation. Arriving at Tam Diep mountain, he met So and Lan. King Quang Trung clearly analyzed their crimes. Not only did he not cut them, but he also spared them the crime of death. Quang Trung showed his understanding, altruism, and strict command of the defeated army to kill the generals, making everyone, especially So and Lan, extremely touched and grateful to him. In addition, he also made it clear that he would let the soldiers understand that the Qing army is an army ten times stronger than their army. If they lose this battle, they will feel ashamed and take revenge. Thus, the fighting will never end. At that time, the people will they will fall into misery. This clearly shows that King Quang Trung still knows how to look ahead and worry about the fate of the people. On the night of December 30, he held a welcoming party for the troops. Although the Tet party before going to battle was not loud and there was no music or singing in the air, everyone in the army felt joy and confidence in victory. into the next battle. King Quang Trung loudly declared to a few of his generals before the victory day, showing that he was a person with the ability to predict the situation and have farsightedness. On the evening of the 30th of Tet, we immediately set out for the North. To preserve the soldiers' strength, he immediately devised a way to use stretchers to make hammocks, with two people carrying and one person sleeping, taking turns walking all day, night and day, quickly and at lightning speed, straight to the North. When King Quang Trung's soldiers reached the Gian River, the insurgents defending there broke up and ran before reaching Thanh Quyet yard. The Qing army there also ran when they saw them. King Quang Trung immediately urged his troops to chase him. When he reached Phu Xuyen district, he captured them all alive without leaving anyone to report back. It was said that Quang Trung walked many days and nights, his clothes were disheveled and covered with sweat, his skin was darkened by the sun and wind. There were times when soldiers even had a fever halfway through their journey due to being unfamiliar with the northern climate and due to the bitter cold of Tet. But he was still lucid enough to command the entire army to attack. Our army's attack was completely secret towards Ha Hoi - Ngoc Hoi station. At midnight on the 3rd day of the first lunar month, the year of the Rooster (1789), after traveling for 3 nights and 23 days, the insurgents arrived at Ha Hoi village. From midnight on the 3rd of the first lunar month, King Quang Trung quietly surrounded the whole village. He was very smart when using a diversionary tactic: using loudspeakers to call out, the soldiers' voices alternately responded, it sounded like there were more than a few soldiers. ten thousand people. When I found out in the station, everyone was devastated and asked to surrender. All weapons and food were taken by the Southern army. That's why the Ha Hoi post was taken down very quickly. King Quang Trung ordered to take sixty boards, put three of them together to make one painting, and cover the outside with straw and water. Early in the morning of the 5th, the army approached Ngoc Hoi post. The Qing army opened fire but did not hit anyone. Because of the North wind, they used fire hoses, the smoke and fire filled the sky. But suddenly the weather turned south and the Qing army self-harmed. That incident further proved that the work of Quang Trung's insurgent army was so righteous that even heaven and earth supported it. The Qing army could not resist. They ran away, trampled, trampled on each other and died. The infamous Thai governor Nghi Dong hanged himself. Our army rushed forward to kill, blood flowed into streams! The Qing army was defeated. In the middle of that day, Quang Trung marched to Thang Long and entered the citadel. King Quang Trung held a party for his troops to celebrate, that day was the 5th day of the first lunar month. So Quang Trung's prediction was not wrong. The soldiers were extremely happy for this glorious victory. Through this, we feel even more impressed by the speedy victory of King Quang Trung. It brings an extremely great meaning. Although Dai Viet is only a small country, our people have an extremely formidable strength, this strength can defeat any large country that dares to invade. Every year, Vietnam often organizes the Dong Da festival to commemorate the hero Quang Trung and all the soldiers who bravely fought against foreign invaders to protect the Fatherland.
Đề bài: Em hãy thuật lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mồng năm tháng Giêng. Em hãy viết đoạn văn thuật lại chiến thắng Ngọc Hồi trong bài viết trên. Bài làm Nhà Tây Sơn gồm ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kỳ đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam những năm 30 cuối thế kỉ XVIII, Lê Chiêu Thống rất lo sợ cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã cầu cứu quân thanh, mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Văn Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quân Thanh xâm lược; Lê Chiêu Thống nhận sắc phong cua vua nhà Thanh là Nam Quốc Vương; Ngô Văn Sở cho quân rút lui về Tam Điệp, nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc đến Thăng Long. Nghe được tin cấp báo, Bắc Bình Vương giận lắm. Biết là biến cố lớn, ông quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh. Nguyễn Huệ quyết định lên làm vua, lấy niên hiệu là Quang Trung và mở cuộc tấn công ra bắc. Nguyên Huệ lên ngôi hoàng đế ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân 1788. Theo sử sách ghi lại trích trong "Các triều đại Việt Nam", Nguyễn Huệ là một vị tướng tài: "Đây là người có dung mạo đặc biệt, tóc xoăn da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, đôi mắt sáng nhu chớp, có thể nhìn thấy mọi vật trong đêm tối. vẻ mặt của ông như toát lên một ý chí, một cái đẹp oai phong, lẫm liệt”. Bấy giờ ở Phú Xuân, vua Quang Trung cho kén lính, ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Rồi nhà vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở Vĩnh Doanh (Nghệ An). Đến Thanh Hoá ông vẫn tiếp tục tuyển thêm binh lính và làm lễ tuyên thệ. Trong lời dụ với các tướng sĩ, Quang Trung lẫm liệt và thể hiện rõ quyết tâm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của đất nước. Với ý chí hiên ngang, bất khuất, với ánh mắt căm thù giặc, Quang Trung đã tuyên bố: Đánh cho để dai tóc, Đánh cho để đen răng, Đánh cho nó chích luân bát phán, Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, Đánh cho sử tư Nam quốc anh hùng chí hữu cha. Sau đó Quang Trung cũng động viên tướng sĩ của mình có lòng quyết tâm bằng giọng nói sang sảng, đầy hào khí, khẳng định niềm tin vào ý chí quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Ra đến Tam Điệp, Quang Trung đã phân rõ công tội của Sở và Lân qua lời nói rất hào khí "Binh pháp dạy rằng: "Quân thua chém tướng" tội của các ngươi tuy đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các người đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, nên việc tuỳ cơ ứng biến là không có tài" và ông khen ngợi kế sách tạm rút quân để bảo toàn lực lượng của Ngô Thì Nhậm và các tướng. Vua Quang Trung bèn sai mở tiệc để khao quân rồi bảo kín với các tướng sĩ: "Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mớ tiệc ăn mừng. Sau đó ông chia ra làm 5 đạo quân. Đạo chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, thẳng hướng Thuỷ Long. Đạo thứ hai và thứ ba đánh vào tây nam Thăng Long và yếm trợ cho đạo chủ lực. Đạo thứ tư tiến ra phía Hải Dương. Đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang – Bắc Giang, chặn đường rút lui của quân địch. Khi tiến thẳng đến thành Thăng Long, để giữ sức cho quân lính chiến đấu, ông sai dùng cáng làm võng. Hai người khiêng một người nằm ngủ và cứ thế luân phiên nhau đi suốt ngày đêm. Đến đêm 30 Tết âm lịch, quân ta vượt sông Gián Khẩu, tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch ở đồn tiền tiêu, khí thế của quân ta càng lớn. Sau những ngày Quang Trung hành quân thần tốc, quân giặc tan vỡ tháo chạy nhưng không thoát, nên không báo được tin về. Việc tiến quân của quân ta rất bí mật. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng, năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung tới làng Hà Hồi và lặng lẽ vây kín làng. Quân giặc bị bất ngờ, hoảng sợ, hạ khí giới xin đầu hàng, lương thực và khí giới đều bị quân ta lấy hết. Mờ sáng ngày mùng năm, quân ta tiến sát đồn Ngọc Hồi. Đây là đồn quan trọng nhất của địch. Đồn lũy được xây dựng kiên cố, xung quanh đều cắm chòng sắt và chôn địa lôi. Vua Quang Trung thấy thế, truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính khoẻ mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt đao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ "nhất". Khi tiến sát đến gần, Quang Trung truyền lệnh cho quân sĩ đồng loạt xông tới, quân Thanh nổ súng nhưng không trúng bèn phun khói lửa nhưng không ngờ gió đổi hướng, quân Thanh tự làm hại mình, thế gọi là "gậy ông đập lưng ông". Được lệnh, đội quân khiêng ván vừa che vừa xông lên, khi đã chạm nhau thì quãng ván xuống; dùng đao ngắn chém bừa, những quân si đằng sau cũng nhất tề xông lên. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại. Cùng lúc đó, đạo quân thứ hai và thứ ba tấn công vào đồn Đống Đa, được nhân dân địa phương ủng hộ, quân ta giáp chiến, đốt lứa thiêu cháy doanh trại. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống khiếp sợ, thắt cô tự tử. Quân Thanh tháo chạy về phía đông trông thấy đạo quân thứ tư càng khiếp sợ, bèn tìm lối tắt nhưng bị đạo quân thứ năm chặn đường. Hết hồn vía, quân Thanh bèn trốn xuống làng Quỳnh Đô, bị voi quân ta giày đạp, chết hàng loạt. Tôn Sĩ Nghị nghe tin cấp báo thì bàng hoàng mất vía, thật là "tướng từ trên trời rơi xuống, quân chui dưới đất lên". Sợ mất mật, Tôn Sĩ Nghị vội vã bỏ trốn. Quân sĩ nghe tin thì hoảng hốt tranh nhau qua cầu, xô đẩy nhau rơi xuống nước mà chết. Khi cầu gãy, quân lính rơi xuống sông làm nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn, về phần vua Lê, đang mải mê yến tiệc, nghe tin liền chạy trốn. Trời nhá nhem tối thì đến kịp chỗ của Tôn Sĩ Nghị. Trưa mùng năm Tết Kỉ Dậu, Quang Trung cùng đoàn quân tiến thẳng vào Thăng Long giữa muôn ngàn tiếng reo hò của nhân dân.
Topic: Tell me about King Quang Trung's speedy victory in destroying the Qing army from the evening of the 30th of Tet to the fifth day of the first lunar month. Please write a paragraph recounting Ngoc Hoi's victory in the above article. Assignment The Tay Son family includes three brothers Nguyen Hue, Nguyen Nhac, and Nguyen Lu. Each person claimed to be king of a region. Nguyen Hue is known as King of Bac Binh. During the turbulent period of Vietnamese feudal society in the late 30s of the 18th century, Le Chieu Thong was very afraid for his empty throne, so he asked for help from the Qing army, paving the way for the Qing army and Ton Si. Nghi sent troops into Thang Long to invade our country. On November 24, Tran Van Tuyet ran into Phu Xuan citadel to report to the King of Bac Binh about the Qing army's invasion; Le Chieu Thong received the title of King of the Qing Dynasty as King of the South; Ngo Van So ordered his troops to retreat to Tam Diep, meaning our country lost all land from the northern gate to Thang Long. Hearing the urgent news, Bac Binh Vuong was very angry. Knowing it was a big incident, he decided to launch an attack in the North to destroy the Qing army. Nguyen Hue decided to become king, took the reign name Quang Trung and launched an attack to the north. Nguyen Hue ascended the throne on December 25, Mau Than year 1788. According to historical records quoted in "Vietnamese Dynasties", Nguyen Hue was a talented general: "This is a man with a special appearance, curly hair His skin was rough, his voice was as clear as a bell, his eyes were bright and flashing, he could see everything in the dark, his face seemed to exude a will, a majesty and beauty. At that time, in Phu Xuan, King Quang Trung selected soldiers. In Nghe An, for every three positions, he took one person, and in a short time, he had more than ten thousand elite soldiers. Then the king opened a large military parade in Vinh Doanh (Nghe An). When he arrived in Thanh Hoa, he continued to recruit more soldiers and take the oath of office. In his words to the generals, Quang Trung strongly and clearly expressed his determination to fight foreign invaders and protect the country's independence. With a proud and indomitable will, and eyes full of hatred for the enemy, Quang Trung declared: Brush until the hair is strong, Reviews for to stain teeth, Beat it until it hits the eight wheel of judgment, Hit it until it's armor is broken, Fight for the history of the Southern nation as a heroic hero. After that, Quang Trung also encouraged his generals to have determination with a loud and enthusiastic voice, affirming his belief in the righteous army's will to win. Arriving at Tam Diep, Quang Trung clearly distinguished the crimes of So and Lan through his very heroic words: "The Art of War teaches: "The defeated army beheads the general." Although your crime deserves to die ten thousand times over. But I think you guys "All of them are brave martial artists, they only know how to fight when they meet the enemy, so improvising is incompetent" and he praised Ngo Thi Nham and his generals' plan to temporarily withdraw troops to preserve their forces. King Quang Trung then ordered a banquet to greet the troops and secretly told his generals: "You and I, let's temporarily fix the Tet worship ceremony first. On the evening of the 30th of Tet, immediately set out and wait until the 7th day of the new year to enter. Thang Long city held a celebration party. Then he divided into 5 armies. The main force was directly commanded by Quang Trung, heading straight towards Thuy Long. The second and third attacks attacked the southwest of Thang Long and supported the main force. The fourth group headed towards Hai Duong. The fifth column advanced to Lang Giang - Bac Giang, blocking the enemy's retreat. When heading straight to Thang Long citadel, to preserve the strength of his soldiers to fight, he ordered stretchers to be used as hammocks. Two people carry one sleeping person and keep taking turns day and night. On the night of the 30th day of the Lunar New Year, our army crossed the Gian Khau River, completely destroying all enemy troops at the forward post, our army's morale was even greater. After the days of Quang Trung's rapid march, the enemy army was broken and fled but could not escape, so they could not report back. Our army's advance is very secret. At midnight on January 3, the year of the Rooster, King Quang Trung arrived at Ha Hoi village and quietly surrounded the village. The enemy troops were surprised and frightened. They lowered their weapons and surrendered. All their food and weapons were taken by our troops. Early in the morning of the fifth day, our troops approached Ngoc Hoi post. This is the enemy's most important post. The fortress was built solidly, surrounded by iron bars and buried mines. King Quang Trung saw that and ordered to take sixty boards, put three of them together to make one painting, and cover the outside with straw and water, for a total of twenty paintings. Then pick up a strong soldier, every ten people carry one, with short swords strapped to their backs, twenty others carry weapons behind them, forming a "first" formation. When getting close, Quang Trung ordered his soldiers to rush forward simultaneously. The Qing army opened fire but did not hit, so they sprayed fire and smoke but unexpectedly the wind changed direction, the Qing army harmed themselves, that is called "the stick you hit". your back". Given the order, the army carrying the planks rushed forward while covering each other. When they touched each other, they lowered the planks; Using short swords to slash haphazardly, the soldiers behind also rushed forward. The Qing army could not resist, fled in disarray, trampled on each other and died, their bodies lying all over the field, blood flowing into streams. The Qing army was defeated. At the same time, the second and third armies attacked Dong Da station, supported by the local people, our troops fought, set fire to the barracks. The enemy general Sam Nghi Dong was frightened and forced her to commit suicide. The Qing army fled to the east. Seeing the fourth army, they were even more frightened, so they looked for a shortcut but were blocked by the fifth army. Distraught, the Qing army fled to Quynh Do village, where they were trampled by elephants and died en masse. When Ton Si Nghi heard the emergency news, he was shocked and lost his mind. It was truly "a general falling from the sky and an army crawling up from the ground". Afraid of losing his secrets, Ton Si Nghi hastily fled. When the soldiers heard the news, they panicked and scrambled to cross the bridge, pushing each other and falling into the water to die. When the bridge broke, soldiers fell into the river, causing the Nhi Ha river to become clogged. King Le, who was engrossed in a banquet, heard the news and immediately fled. It was dusk when we arrived at Ton Si Nghi's place. At noon on the first day of the Year of the Rooster, Quang Trung and his army marched straight into Thang Long amid thousands of cheers from the people.
Đề bài: Thuật lại chuyện em phạm lỗi với cha mẹ và sự ăn năn hối hận của mình Bài làm Năm ngoái, nhà trường tổ chức tham quan bến Nhà Rồng và Thảo Cầm Viên. Mỗi học sinh phải đóng hai ngàn đồng cho chuyến tham quan đó. Nghe chuyện, mẹ em không ngần ngại đưa cho em tiền để sáng vào lớp đóng cho lớp trưởng. Tối hôm đó, tiếng loa vang lén từ bãi đất trống gần nhà làm em bồn chồn Người ta tổ chức hội chợ với nhiều trò vui. Tiếng ca, tiếng nhạc cứ mãi thúc giục khiến em vào xin phép cha mẹ. Em định bụng đến khu hội chợ một lát rồi về. Đến nơi, quả thật là vui, ở đây có các trò chơi, từ thảy vòng, chọi lon đến trò xổ số lô tô. Hấp dẫn nhất là trò quay vòng số. Một vòng quay, mười hai con số liên tiếp thi nhau chớp tắt. Dễ trúng quá, trò chơi này quyến rũ khiến em mua một con số hai trăm đồng. Trật rồi, em ngần ngừ và mua con số khác. Lại trật nữa. Em mua số hết nhẵn hai ngàn đồng mẹ vừa cho. Thuật lại chuyện em phạm lỗi với cha mẹ Thấy em về với về mặt buồn hiu, mẹ em hỏi: – Có việc gì vậy con? Trên đường về, em đã rắp tâm nói dối nên em giả đò mếu máo khóc. – Con đánh rơi hai ngàn đồng rồi. Thôi, vậy con không đi tham quan nữa đâu. Mẹ em thở dài, ngần ngừ một lúc rồi móc túi áo lấy ra những tờ giấy bạc nhàu nát. Mẹ nói: – Lâu lâu mới có dịp đi xa, con lấy tiền này mai đóng cho nhà trường. Tối hôm đó, ngồi học bài, em thấp thỏm chờ mẹ về. Thường lúc, giờ này mẹ đã về. Chắc bữa nay bán ế nên mẹ về trễ. Mãi đến mười giờ đêm, mẹ em mới về. Gánh chè còn lưng lưng phân nửa. Nhìn vẻ mặt buồn buồn của mẹ. Em không sao cầm được nước mắt. Lòng dấy lên nỗi hối hận, em chạy đến ôm chầm lấy mẹ và nức nở kể hết sự thật. Nghe xong, mẹ vuốt đầu em, mẹ nói: – Con biết hối lỗi như vậy là tốt rồi. Mẹ còn xoay xở được. Con cứ giữ lấy tiền này cho mẹ vui. Từ đó, mỗi lần nghe loa hội chợ là mỗi lần lòng em lại dây lên niềm hối hận. Em cương quyết từ nay không làm mẹ buồn và giấu mẹ bất cứ điều gì!
Topic: Narrate the story of your mistake with your parents and your remorse Assignment Last year, the school organized a visit to Nha Rong Wharf and the Zoo. Each student must pay two thousand dong for that tour. Hearing the story, my mother did not hesitate to give me money to go to class to pay for the class president. That evening, the sound of speakers secretly echoing from an empty lot near my house made me restless. People held a fair with many fun games. The singing and music kept urging me to ask my parents for permission. I plan to go to the fairground for a while and then return. Once there, it's really fun. There are games here, from ring toss, cans fighting to bingo. The most attractive is the number spinning game. One spin, twelve consecutive numbers flash and flash. It's so easy to win, this game is so seductive that I bought a number of two hundred dong. I messed up, I hesitated and bought another number. Dislocated again. I bought all the two thousand dong my mother just gave me. Tell the story about your mistake with your parents Seeing her return with a sad face, her mother asked: – What's the matter, child? On the way home, I was determined to lie so I pretended to cry. – I lost two thousand dong. Well, then I won't go sightseeing anymore. Her mother sighed, hesitated for a moment, then reached into her pocket and took out crumpled bills. Mom said: – Once in a while I have the opportunity to go away, I will take this money and pay it to the school tomorrow. That night, while studying, I anxiously waited for my mother to return. Usually, my mother is home by now. Maybe today's sales are low so mom comes home late. It wasn't until ten o'clock at night that my mother returned. The tea bag is still half full. Look at my mother's sad face. I can't hold back my tears. Feeling regretful, she ran to hug her mother and sobbed and told the truth. After listening, my mother stroked my head and said: – I know it's good to apologize like that. Mom can still manage. Just keep this money to make mom happy. From then on, every time I heard the speakers at the fair, my heart filled with regret. I am determined from now on not to make my mother sad or hide anything from her!
Đề bài: Thuật lại cuộc tranh luận giữa hai học sinh về việc học tập môn Quốc sử Bài làm Sáng hôm thứ bảy vừa rồi, tôi đang rửa mặt bên hè nhà đế sửa soạn đi học. Bỗng nghe tiếng hỏi của em tôi, lại nghe có tiếng đáp. Tôi không ngoảnh mặt ra, nhưng cũng nhận biết đó là tiếng anh Quang, người bạn thân với tôi. Tôi vội lau tay, thay áo rồi chạy ra, cùng nhau chào hỏi mừng rỡ. Liền đó, tôi cũng sửa soạn sách vở cùng anh đi đến trường học. Ra đi được một đoạn đường, bạn tôi chợt hỏi, câu hỏi thường nghe trong đám học trò chúng tôi trước giờ vào lớp: – Hôm nay có bài Quốc sử anh đã thuộc chưa? – Câu hỏi đó, nếu ở một người khác hỏi thì tôi chỉ trả lời một tiếng cho qua là “thuộc” hay là “không” mà thôi, nhưng đối với anh Quang, tôi trả lời có khác. Vỗ vai bạn ra chiều yêu mến tôi nói: – Anh ơi! Sử là môn học rất cần cho học trò chúng ta thì không học là làm sao? Nếu ta không thuộc sử tức là chúng ta không biết đất nước mở mang thế nào, nòi giống ta sinh trưởng làm sao. Làm người dân một nước mà không biết lịch sử nước mình là người vong tổ, ai còn kể là giống gì nữa! Thuật lại cuộc tranh luận giữa hai học sinh về việc học tập môn Quốc sử Bạn tôi lại nói: – Tôi cũng biết thế và tôi có học lắm, nhưng sừ là môn học khó nhớ lắm; thường tôi học mãi mà không thuộc và nhớ bao nhiêu, là tại làm sao thế? – Ô hay! Đời nào lại có học mà không nhớ! Không thuộc! ở đời có việc gì là khó đâu. Nếu người ta định chí cho cứng mạnh, thì dẫu có việc khó mà cũng hoá ra dễ vậy. Bấy giờ gió mát buổi sớm mai thổi nhẹ, hai bên đường lác đác vài cái lá vàng rơi, bạn tôi vừa đi vừa cúi xuống ra dáng ngẫm nghĩ lắm. Một chốc rồi cười lớn ra vẻ đắc ý và nói với tôi rằng: “Lời anh vừa nói, tôi cho là phải và hay lắm, chứ từ trước mỗi khi tôi học thấy khó rồi thôi, thành thử không hiểu gì cả. Từ nay tôi sẽ nghe lời anh mà bền chí học kĩ cho thuộc cho nhớ mới thôi”. Rồi đó, tôi kể qua các sự tích hay trong lịch sử nước nhà cho bạn nghe. Trong khi nói, có đoạn thì tôi với bạn cùng vui có đoạn thì tôi với bạn cùng buồn… Được một lát đến cửa trường, hai người chúng tôi bèn dứt câu chuyện mà bước vào. Bây giờ có khi tôi ngồi nghĩ buổi hôm ấy thì lòng lấy làm vui thích lắm vi đã khuyên được một việc phải cho người bạn hiền.
Topic: Narrating the debate between two students about studying National History Assignment Last Saturday morning, I was washing my face on the sidewalk of my house to prepare for school. Suddenly I heard my brother's question, then I heard a reply. I didn't look away, but I also recognized that it was Mr. Quang's voice, my close friend. I quickly wiped my hands, changed my clothes, then ran out and greeted each other happily. Immediately, I prepared my books and went to school with him. After leaving for a while, my friend suddenly asked, a question we often hear among our students before class: – Today there is a National History lesson that you have memorized yet? – That question, if asked by someone else, I would just answer with a simple "yes" or "no", but for Mr. Quang, my answer is different. Patting your shoulder to show affection, I said: - Hey bro! History is a very necessary subject for our students, so why don't we study it? If we do not know history, it means we do not know how the country developed and how our race grew. Being a citizen of a country without knowing the history of your country is a person who has lost his ancestors, who can tell what else he is! Recount the debate between two students about studying National History My friend said again: – I know that too and I study a lot, but math is a very difficult subject to remember; I often study forever but don't memorize or remember much, why? – Oh great! How can you study but not remember! Not remember! Nothing in life is difficult. If a person's determination is strong, even if something is difficult, it will turn out to be easy. At that time, the cool morning wind blew gently, a few scattered yellow leaves fell on both sides of the road, my friend bent down as he walked, looking like he was thinking a lot. After a while, he laughed out loud and said to me: "What you just said is right and very good, but every time I've studied before, it's been difficult, so I don't understand anything. From now on, I will listen to your words and persevere in studying thoroughly to memorize them." Then, I will tell you about some interesting stories in our country's history. While speaking, there are parts where you and I are happy, there are parts where you and I are both sad... After a while arriving at the school door, the two of us stopped talking and walked in. Now, sometimes when I sit and think about that day, I feel very happy because I was able to advise a good friend about something.
Đề bài: Thuật lại một buổi dạo chơi thú vị mà em nhớ nhất Bài làm Vào một buổi sáng thứ năm, khi ông mặt trời thức dậy, những hạt sương đêm còn đọng lại trên cành cây, ngọn cỏ, em đã cùng mẹ đi chợ để chuẩn bị bữa trưa cho gia đình. Trên đường đi, những cành cây xanh khẽ lay động như thì thầm trò chuyện cùng em. ông mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu khắp vạn vật. Trên cành cao, những chú chim hót véo von chào mừng một ngày mới. Em tung tăng cầm tay mẹ đi trên con đường quen thuộc. Em say sưa ngắm cảnh nên không biết mình đã đến chợ từ lúc nào. Vừa đến đầu chợ, quang cành ồn ào náo nhiệt đập vào mắt em. Các bà hàng rong ngồi dưới đất thính thoảng cất những tiếng rao mời dài giọng. Tả một buổi dạo chơi thú vị mà em nhớ nhất Đầu tiên, em đến các quầy sách báo. những quyển sách, những tờ báo được bày trí trông thật đẹp mắt. Các cô bán hàng đang tươi cười mời mọc khách. Kế đó là quầy dép. Những đôi dép đủ loại, đủ màu được treo thành một hàng dài. Đến tí nữa là những quầy bán vải, trăm nghìn thứ vải được phơi bày chung quanh sạp.Ánh nắng rọi vào những xấp vải kim tuyến khiến cho chúng thật lộng lẫy. Ánh nắng ban mai như những nàng tiên áo hồng nhảy múa trên vai áo những người đi chợ. Đến những tủ phô bày đồ trang sức, những chiếc kẹp có đính bông voan sặc sỡ đủ màu và những đôi bông tai trông thật đẹp mắt. Bên cạnh đó là hàng trái cây, những loại trái cây như: cam, nhãn, bom, nho được trưng bày trên sạp. Người qua kẻ lại tấp nập, người hỏi mua vật này, kẻ hỏi mua vật kia. Tiếng của họ tạo nên một âm thanh ồn ào, nhộn nhịp. Phía dưới là hàng cau rải, những bó cải xanh tươi cùng những quả ớt chín đỏ, mẹ em dừng lại ở hàng rau của một bà cụ già và hỏi mua một bó hành, vài trái ớt, ít trái dưa leo. Xong mẹ trả tiền và cảm ơn cụ. Sau đó, mẹ dẫn em đến hàng tôm cá và thịt. Mẹ đến mua một “gam” thịt và một con cá lóc. Mẹ đến một hàng khác để mua một trái bí về nấu canh vì cả nhà ai cũng thích canh bí nấu với cá lóc. Khi mua xong, mẹ và em đi về, sắp ra khỏi chợ, em thấy một hàng bán hoa đủ màu, đủ hương đang khoe sắc rực rỡ. Vài chú bướm tung tăng bay lượn trên những đoá hoa cẩm chướng làm em say mê ngắm mãi. Những người khách hàng đứng lựa hoa ai cũng tấm tắc khen hoa đẹp. Nào là những đoá huệ trắng muốt và cẩm chướng hồng hồng đến những bông hoa loa kèn đủ màu sắc. Ra khỏi chợ, nhưng em vẫn nghe văng vẳng bên tai tiếng rao hàng. Đã trưa, nắng vàng óng, em lại ra về trên con đường quen thuộc. Những ngọn gió lướt nhẹ làm em thật thoải mái. Em cầm tay mẹ tung tăng… Buổi dạo chợ thật lí thú. Nó giúp em thoải mái tinh thần sau những giờ học căng thẳng…
Topic: Narrate an interesting walk that you remember the most Assignment On a Thursday morning, when the sun woke up and the night dew remained on the tree branches and blades of grass, I went with my mother to the market to prepare lunch for the family. On the way, the green tree branches gently moved as if whispering to me. The sun is like a red copper pot shining over all things. On the high branches, birds sing to welcome a new day. I happily held my mother's hand and walked on the familiar path. I was so absorbed in admiring the scenery that I didn't know when I arrived at the market. As soon as I arrived at the beginning of the market, the noisy and bustling branches caught my eyes. The street vendors sitting on the ground occasionally let out long, loud calls. Describe an interesting walk that you remember the most First, I went to the bookstores. Books and newspapers are displayed beautifully. The salesgirls are smiling and inviting customers. Next is the shoe counter. Slippers of all kinds and colors are hung in a long row. A little closer are the stalls selling fabrics, hundreds of thousands of fabrics are displayed around the stalls. The sunlight shines on the stacks of brocade fabrics, making them look gorgeous. The morning sunlight is like pink-shirted fairies dancing on the shoulders of people going to the market. Go to the cabinets displaying jewelry, clips with colorful chiffon flowers and beautiful earrings. Next to that are fruit products, fruits such as oranges, longans, grapes, and grapes displayed on the stalls. People were busy passing by, some people asked to buy this thing, some people asked to buy that thing. Their voices create a noisy, bustling sound. Below were rows of areca trees, bunches of fresh green cabbage and ripe red peppers. My mother stopped at an old lady's vegetable row and asked to buy a bunch of onions, a few peppers, and a few cucumbers. Then my mother paid and thanked him. After that, my mother took me to the shrimp, fish and meat store. Mom came to buy a "gram" of meat and a snakehead fish. Mom went to another store to buy a pumpkin to make soup because everyone in the family liked pumpkin soup cooked with snakehead fish. After buying, my mother and I went home. About to leave the market, I saw a stall selling flowers of all colors and scents, blooming brilliantly. A few butterflies fluttered around the carnations, making me fascinated to watch them forever. The customers who stood to choose flowers all praised the beautiful flowers. From pure white lilies and pink carnations to colorful lilies. When I left the market, I still heard the sound of selling goods in my ears. It was noon, the sun was golden, and I left on the familiar road. The gentle breeze makes me feel comfortable. I held my mother's hand and ran around... The market walk was very interesting. It helps me relax my mind after stressful classes...
Đề bài: Thuật lại một chuyến đi thăm quan mà em nhớ nhất Bài làm Hè vừa qua, trong chuyến ra thăm xứ Huế em đã được theo ba cùng đoàn tham quan đến khu lăng mộ triều Nguyễn. Lần đầu tiên trong đời, em tận mắt thấy cảnh núi non trùng điệp trải dài đẹp như tranh vẽ, đến tận những rặng Trường Sơn xa mờ tít tắp. Trước mặt em, lúc ấy, bóng dáng núi Ngự Bình hiện ra sừng sững. Ba em chỉ phía sau kia là cột cờ trước lầu Ngọ Môn. Ba bảo gọi tên là núi Ngự Bình vì núi như bức bình phong của kinh thành. Thuật lại một chuyến đi thăm quan mà em nhớ nhất Xe cứ từ từ lên dốc, lăn bánh giữa những rặng thông xanh mướt. Mọi người trố mắt nhìn. Khu lăng mộ triều Nguyễn đây rồi. Phong cảnh nơi này thật đẹp. Trên đỉnh dốc nhìn xuống, một nhánh nhỏ sông Hương xanh ngắt trôi lững lờ. Trước hết, đoàn ghé Khiêm Lăng với đồi lớn đồi con bao quanh làm thành một bức tường vây bọc đầy bóng thông xanh. Tiếng gió thông vi vu, bất tận tạo nên một không gian tĩnh lặng thâm nghiêm cho nơi an nghỉ của vua Tự Đức. Bước lên thềm cao, em cùng đoàn vào cổng lăng. Dọc hai bên sân rộng lót đá là hai hàng tượng trăm quan văn võ bằng đá bất chấp thời gian vẫn nín lặng đứng chầu. Qua sân là vào điện chính. Đó là một ngôi nhà nguy nga, dài rộng bên trong bày đủ các thứ bàn, giường, ghế sập gụ, tủ trà giát vàng khảm ngọc của vua dùng ngày trước. Sau đó là khu mộ nằm trong một vòng tường thành cao ngất có hai cánh cửa đóng nặng nề. Rẽ sang phải là một dòng suối chảy ra từ lòng đá. Đẹp và thơ mộng nhất là nhà thuỷ tạ nằm trên hồ sen đầy hoa nở. Người thuyết minh cho biết khu lăng mộ đã xây dựng mất rất nhiều năm, tốn biết bao công sức và tiền của của nhân dân. Chính chốn này là nguồn gốc phát khởi hai câu ca dao: Vạn niên là vạn niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu dân. Đến đây, em mới thấy được khối óc và bàn tay tài hoa của những người lao động Việt Nam, thấy dược sự bóc lột tàn nhẫn của vua quan phong kiến và nỗi đau bất tận của dân lành thời ấy!
Topic: Narrate a sightseeing trip that you remember the most Assignment Last summer, during a trip to Hue, I followed my father and the group to visit the Nguyen Dynasty tombs. For the first time in my life, I saw with my own eyes the picturesque mountain landscape stretching all the way to the distant Truong Son ranges. In front of me, at that time, the silhouette of Ngu Binh mountain appeared majestically. My father pointed behind me to the flagpole in front of the Ngo Mon building. Dad said it was called Ngu Binh Mountain because the mountain was like a screen of the capital. Narrate a sightseeing trip that you remember most The car slowly went uphill, rolling between the green pine trees. Everyone stared. Here is the Nguyen Dynasty tomb area. The scenery here is beautiful. Looking down at the top of the slope, a small branch of the green Perfume River floats lazily. First, the group stopped at Khiem Lang, surrounded by large hills and small hills, forming a wall full of green pine trees. The endless, gentle sound of the wind creates a solemn, quiet space for King Tu Duc's resting place. Stepping onto the high steps, I and the group entered the mausoleum gate. Along both sides of the large stone-lined courtyard are two rows of stone statues of hundreds of civil and military mandarins, regardless of time, still standing silently in adoration. Through the yard you enter the main hall. It is a magnificent, long and spacious house filled with all kinds of tables, beds, mahogany chairs, and gold-plated tea chests inlaid with pearls that the king used in the past. Next is the tomb located within a towering wall with two heavily closed doors. Turning to the right is a stream flowing from the rock bed. The most beautiful and poetic is the water house located on a lotus pond full of blooming flowers. The narrator said that the mausoleum took many years to build, costing a lot of effort and money from the people. This place is the origin of two folk songs: What is a thousand years? The citadel was built with soldiers' bones and trenches dug with people's blood. Coming here, I can see the talented minds and hands of Vietnamese workers, see the cruel exploitation of feudal kings and officials and the endless pain of good people at that time!
Đề bài: Thuật lại một kỉ niệm cũ đã làm cho em hối hận Bài làm Hàng năm cứ đến dịp bãi trường em được về quê ông ngoại nghỉ mát. Em được ông ngoại em yêu lắm. Mỗi ngày em chỉ ôn lại bài vở vào buổi sáng, còn buổi chiều em được đi chơi ngắm cảnh và hưởng gió đồng quê. Thú giải trí em ưa nhất là cái thú đi bắn chim bằng ná cao su. Thật là vừa gián dị lại vừa rẻ tiền. Một buổi chiều em đang lang thang quanh bụi tre trong làng, bỗng có tiếng chim hót ríu rít trên cao làm em ngửng đầu lên. Em thấy một đàn chim chào mào đang chuyền từ cành nọ qua cành kia. Em đặt viên sỏi (sạn) vào ná cao su và sửa soạn để sẵn sàng bắn. Em tự nhiên hồi hộp lạ thường hi vọng sẽ bắn được chim. Em cúi lom khom, em len lỏi qua bụi rậm, cố tiến sát tới gần nơi chim đang đậu. Em chỉ muốn giương ná bắn ngay. Nhưng xa quá mà khốn nỗi nếu thấy động chúng sẽ bay xa hết. Em lại kiên nhẫn dò từng bước để đến gần chúng hơn. Không may em dẫm phải một cành khô kêu răng rắc. Thấy động, con thì bay xa, con thì chuyền lên cành cao nhớn nhác. Em tưởng chúng bay đi hết. Nhưng may quá còn một con đậu cành thấp vừa tầm, đang ngơ ngác nhìn tứ phía và kêu chiêm chiếp. Em đoán ngay là một con chim non lạc đàn. Thuật lại một kỉ niệm cũ đã làm cho em hối hận Ná cao su đã sẵn sảng, em chọn chỗ thuận tiện để được nhìn thấy ngực con chim đang phơi ra, không một lá cây nào che chở. Em nín thở dang tay kéo căng đôi dây cao su nhắm rất cẩn thận rồi một tiếng “phạch" ngắn phát ra. Đôi dày cao su co lại mạnh bổn về phía trước ném theo viên sỏi lẻn cao. Trong nháy mắt chim xoà hai cánh quay cuồng rơi xuống đất. Em cảm thấy kiêu hãnh như kẻ thắng trận, chiếm đoạt đươc một con vật đã từng bay nhảy khắp nơi. Nhưng sự kiêu hãnh của em khòng được bao lâu khi em ngắm kĩ con chim em vừa hạ được. Khốn nạn thay cho nó, nó đã chết đâu ; nó còn thở mạnh, nó bị thương ngất đi, nhưng chỉ một vài phút sau đã tỉnh. Thoạt tiên nó giẫy giụa, nhưng sau chắc vì biết số phận nó, hoặc vì vết thương làm cho nó quá đau đớn ; nó nằm im trong lòng bàn tay em. Em nhìn kĩ thấy mắt nó ướt. em tưởng chừng như nó đang khóc. Tự nhiên một tình thương đến tràn ngập lòng em. Lúc đó chim mẹ và mấy con chim con vẫn chuyền cành quanh đây kêu những tiếng thảm thiết. Em tường chừng như chúng cũng hết sức đau khổ, chúng cũng đang tìm đứa con lạc lõng. Em cảm thấy em ác nghiệt quá, chỉ vì để giải trí mà nỡ giết hại một con chim yếu đuối. Em hối hận vó cùng. Em thả con chim khốn nạn vào bụi tre. Nó bay chập choạng trông rất đáng thương. Vận dụng hết tàn lực nó cố hết sức bay chuyền tìm mẹ nó, không biết nó có còn gặp được mẹ nó hay không? Một lát sau, con chim đã khuất vào bụi tre, em mới trở về nghĩ thương xót cho con chim khốn nạn đêm nay sẽ lạc mẹ, hay sẽ chết vì vết thương do chính em gây ra. Em cảm thấy hối hận và từ hôm đó không bắn chim nữa.
Topic: Recount an old memory that made you regret Assignment Every year, when the school holidays come around, I go back to my grandfather's hometown for a vacation. I am loved very much by my grandfather. Every day I only review my lessons in the morning, and in the afternoon I get to go sightseeing and enjoy the countryside breeze. My favorite pastime is shooting birds with a slingshot. It's both simple and cheap. One afternoon I was wandering around the bamboo bushes in the village, when suddenly the sound of birds chirping above made me raise my head. I saw a flock of crested birds flying from branch to branch. I put the pebble (grit) into the slingshot and prepare it to shoot. I was suddenly incredibly nervous, hoping to shoot the bird. I bent down and crept through the bushes, trying to get closer to where the bird was sitting. I just want to raise my slingshot and shoot right away. But it's so far away that if we see a movement, they'll all fly away. I patiently followed each step to get closer to them. Unfortunately, I stepped on a dry branch and made a cracking sound. Seeing the movement, I flew far away, I jumped onto a tall branch. I thought they all flew away. But fortunately, there was still one perched on a low branch, looking bewildered in all directions and chirping. I immediately guessed it was a lost baby bird. Retelling an old memory that made you regret The slingshot was ready, I chose a convenient place to see the bird's chest exposed, without any leaves to protect it. She held her breath and stretched out her arms to stretch the rubber bands, aiming very carefully, then a short "thump" sound came out. The rubber bands contracted strongly and jumped forward, throwing high pebbles along. In the blink of an eye, the bird spread its wings. I reeled and fell to the ground. I felt proud like a winner, possessing an animal that had once flown everywhere. But my pride did not last long when I looked closely at the bird I had just killed. Woe to him, he was not dead; he was still breathing heavily, he was injured and fainted, but after a few minutes he woke up, but then it was probably because he knew his fate, or because of his wound makes it so painful; it lies still in the palm of your hand. I looked closely and saw his eyes were wet. I thought it was crying. Suddenly a love came to fill my heart. At that time, the mother bird and her baby birds were still swinging around here, making pitiful sounds. I think they are also very sad, they are also looking for their lost child. I feel like I'm so cruel, just for entertainment, I would kill a weak bird. I regret it immensely. I released the damn bird into the bamboo bush. It flew around looking very pitiful. Using all his remaining strength, he tried his best to fly around looking for his mother, not knowing if he would still be able to see his mother or not? A moment later, the bird disappeared into the bamboo bush. I returned and thought sorry for the poor bird that would lose its mother tonight, or die from the wound I caused. I felt regretful and from that day on I stopped shooting birds.
Đề bài: Thuật lại một lần theo mẹ đi chợ mua sắm áo quần và dụng cụ học tập Bài làm Còn không đầy một tuần lễ nữa là đến ngày khai trường. Sáng nay, má sửa soạn đi chợ, bảo em xách giỏ theo tập mua thức ăn, tiện thể mua sắm quần áo và dụng cụ học tập để chuẩn bị vào năm học mới. Em mừng thầm trong bụng, vôi đi thay quần áo theo má liền. Chì mới nghe tiếng “chợ” mà đã nghe bên tai muôn tiếng nói ồn ào. Chợ thị xã của em không lớn lắm. Mặt sau, nó tiếp giáp với sông. Mặt trước, nó tiếp giáp với con đường chính, xe cộ nhộn nhịp, người qua kẻ lại tấp nập. Thuật lại một lần theo mẹ đi chợ mua sắm áo quần và dụng cụ học tập Lúc bấy giờ, nắng đã lên cao. Người đi chợ ngày mỗi đông dần. Trông ra mặt đường là các quầy hàng bày biện đủ thứ, từ các đồ trang sức quý bằng vàng, bạc đến những chiếc áo đi mưa, những chiếc cặp sách các loại, những bộ quần áo may sẵn đủ các màu sắc. Nhiều món được treo lủng lẳng trên cao, đập thẳng vào mắt người mua. Cả các bà bán hàng rong cũng rao hàng inh ỏi dội thẳng tai người. Hai má con đi vào nhà lồng chợ. Mới nhìn vào đã thấy ngợp mắt, từng dãy quần áo may sẵn đã được trưng bày rực rỡ. Từng xấp hàng vải lụa đủ màu được xếp ngay ngắn cố thu hút kẻ lại người qua. Kẻ mua người bán chen chúc nhau. Tiếng khen chê, lời mặc cả lao xao. Hai má con len lỏi đến chỗ người quen mới dừng lại. Vừa thoáng thấy bà chủ quầy hàng đã mừng rỡ chào đón. Bà vừa cười vừa trả lời khách hàng, tay lại xếp xếp gói gói hàng trao cho khách. Hơn mười phút, má mới chọn xong cho em một chiếc áo sơ mi trắng, một chiếc quần xanh xinh xắn. Bộ đồ “vía” dành cho ngày khai trường của em đây! Sau đó, hai má con em đi tiếp xuống mua thức ăn rồi mới trở ra ghé vào một hiệu sách, ở đây người mua chen chúc. Thấy sách là em cứ sà ngay vào như lân thấy pháo vậy. Ôi chao! Đủ các loại sách, bìa nhiều màu sắc rực rỡ, hình ảnh sống động cứ đập vào mắt em. Cô bán hàng vui vẻ giúp má em chọn mua cho em một chiếc cặp sách đẹp và đủ các loại dụng cụ học tập cần thiết khác. Má em trả tiền xong, phải thúc giục mấy lần em mới chịu rời hiệu sách ra về. Thế là em đã có đủ các thứ “lễ bộ” cho ngày đầu năm học mới. Cứ nghĩ đến hồi trống trường vào ngày khai giảng vang vọng mà lòng em nôn nao, rộn ràng khôn tả.
Topic: Recount a time when I went to the market with my mother to buy clothes and school supplies Assignment Less than a week left until the first day of school. This morning, my mother prepared to go to the market and asked me to carry a basket with me to buy food and buy clothes and school supplies to prepare for the new school year. I was secretly happy, so I immediately went to change clothes with my mother. Only when I heard the sound of "market" did I hear countless noisy voices in my ears. My town market is not very big. On the back, it borders the river. In front, it is adjacent to the main road, bustling with traffic and bustling passersby. Tell me about a time when I followed my mother to the market to buy clothes and school supplies At that time, the sun was already high. The number of people going to the market is increasing day by day. Overlooking the street are stalls displaying everything from precious gold and silver jewelry to raincoats, schoolbags of all kinds, and ready-made clothes of all colors. Many items are dangled high above, catching the buyer's eye. Even the street vendors preached their wares so loudly that they could reach people's ears. My mother and I went into the market house. Just looking at it was overwhelming, rows and rows of ready-made clothes were brilliantly displayed. Rows of colorful silk fabrics are neatly arranged to attract passersby. Buyers and sellers crowded together. Voices of praise and criticism, words of haggling. My mother and I crept to the place where the acquaintance stopped. As soon as I caught a glimpse of the stall owner, she happily greeted me. She smiled while answering the customer, then folded the package and handed it to the customer. After more than ten minutes, my mother chose a white shirt and a pair of cute blue pants for me. Here is my "weird" outfit for the first day of school! After that, my mother and I went down to buy food and then came back to visit a bookstore, where buyers were crowded. When I see a book, I immediately rush into it like a unicorn seeing a firecracker. Oh my! All kinds of books, brightly colored covers, and vivid images kept catching my eyes. The saleswoman happily helped my mother choose to buy me a beautiful school bag and all kinds of other necessary school supplies. After my mother paid, I had to urge her several times before I left the bookstore. So I have all the "ceremonies" for the first day of the new school year. Just thinking about the sound of the school's drums resounding on the first day of school makes my heart anxious and indescribably excited.
Đề bài: Thuật lại một việc làm tốt mà em đã chứng kiến tại nơi em ở Bài làm Trong thành phố này, có nhiều việc tốt xảy ra hằng ngày. Một việc tốt em vừa được chứng kiến chỉ nhỏ bé thôi nhưng đối với em ý nghĩa lại rất to lớn. Việc tốt đó càng lớn khi người làm là một người tàn tật. Chủ nhật vừa qua, em cùng bà nội ra bến xe buýt, đi Phú Lâm. Xe dừng, người lên kẻ xuống chen lấn, xô đẩy nhau. Trong xe đông nghẹt người, hai bà cháu không tìm ra một ghế trống đành phải đứng. Trước mặt em, một số thanh nièn khoẻ mạnh, mặc quần áo kiểu này kiểu nọ, nói cười huyên thuyên. Em cảm thấy khó chịu. Bà nội em đã bảy mươi tám tuổi, họ có nhìn thấy không nhỉ? Xe bắt đầu chạy, em giữ lấy tay bà. Khi xe thắng lại, hai bà cháu,như muốn té ngửa. Bỗng có tiếng trong trẻo vang lèn phía sau: – Thưa cụ, cháu mời cụ ngồi xuống ghế của cháu. Thuật lại một việc làm tốt mà em đã chứng kiến tại nơi em ở Bà em và em cùng quay lại. Em reo lên. – A! Chị Hoa. Em định ấn bà em ngồi xuống ghế. Chợt em dừng tay. Em nhìn xuống chân chị. Như hiểu ý, chị nói: – Dù sao cháu cũng là thanh niên. Cụ cứ ngồi cho khoẻ kẻo lúc thắng xe lỡ bị té… Chị Hoa với một chân bị tàn tật đứng lên. Bà em cảm động ngồi xuống trong khi chị run run vịn tay vào hàng ghế… Những thanh niên đang cười đùa chợt đỏ mặt. Có người lén đứng lên, len ra gần phía cửa. Bà em kéo chị Hoa ngồi xuống. Với cử chỉ âu yếm, bà quạt cho chị. Luồng gió mát như lan rộng khắp lòng xe… Chị Nguyễn Kim Hoa, cô gái hiền lành tàn tật của khu phố em làm cho em mến phục. Chị khiêm tốn trong cách ăn mặc nhưng chị mới thật là người lịch sự, văn minh. Ôi! Đẹp làm sao những con người đáng quý.
Topic: Narrate a good deed you witnessed where you live Assignment In this city, many good things happen every day. The good deed I just witnessed is only small, but for me the meaning is very great. That good deed is even greater when the person doing it is a disabled person. Last Sunday, my grandmother and I went to the bus station to go to Phu Lam. The car stopped, people getting on and off were jostling and pushing each other. The car was packed with people, so the couple couldn't find an empty seat and had to stand. In front of me, a number of healthy young men, wearing this and that style of clothing, chatted and laughed. I feel uncomfortable. My grandmother is seventy-eight years old, can they see it? The car started running, I held her hand. When the car stopped, the two of them felt like they were about to fall over. Suddenly a clear voice echoed from behind: – Sir, I invite you to sit in my chair. Recount a good deed you witnessed where you live My grandmother and I went back together. I shouted. – Ah! Ms. Hoa. I intend to force my grandmother to sit on the chair. Suddenly I stopped. I looked down at her feet. As if understanding, she said: – Anyway, I'm still a young man. Please sit carefully so you don't accidentally fall when you brake... Ms. Hoa with one disabled leg stood up. My grandmother was moved and sat down while her sister trembled as she held onto the row of chairs... The young men who were laughing suddenly blushed. Someone secretly stood up and crept closer to the door. My grandmother pulled Hoa to sit down. With a loving gesture, she fanned her sister. The cool breeze seemed to spread throughout the car... Ms. Nguyen Kim Hoa, a gentle disabled girl in my neighborhood, made me admire her. She is modest in the way she dresses, but she is truly a polite and civilized person. Oh! How beautiful these precious people are.
Đề bài: Thuật lại một việc tốt mà em đã làm hay đã chứng kiến ở trường Bài làm Hôm qua. em đã làm được một việc thầy hiệu trưởng rất hài lòng. Vào giờ chơi, em và bạn Minh cặp kè nhau đi dạo trước hành lang các lớp. Chợt, chúng em thấy bốn năm em nhỏ lớp một đang tụm lại làm gì đó chẳng biết. Nhìn ra thì hai em đang chăm chú vẽ hình bông hoa lên tường phòng học. Các em đứng ngoài cũng phụ hoạ theo. Em lấy phấn xanh, em lấy phấn vàng tô thêm vào ra chiều thích thú lắm. Thấy các em vui vẻ như thế, em cũng hơi đắn đo, nhưng rồi, em phải đến vỗ vai một đứa mà nói rằng: – Tại sao các em vẽ lên tường? Làm dơ tường hết. Thuật lại một việc tốt mà em đã làm hay đã chứng kiến ở trường Bạn Minh khuyên: – Mấy em bôi đi, kẻo chút nữa cô rầy đấy! Các em nghe vậy, lật đật lấy bông phấn lau túi bụi mà có sạch đâu. Em mới lấy giẻ nhúng nước lau phụ. Đang lúc ấy thì thầy hiệu trưởng đủng đỉnh đi lại. Nghe em kể hết sự việc, thầy nói: “Các con thật xứng đáng là đàn anh của mấy em nhỏ”. Được khen, hai đứa em nhìn nhau mà lòng lâng lâng sung sướng.
Topic: Narrate a good deed you did or witnessed at school Assignment Yesterday. I did something that the principal was very pleased with. At playtime, Minh and I walked together in front of the classroom hallways. Suddenly, we saw four or five first graders huddled together doing something we didn't know. Looking out, the two children were attentively drawing flower images on the classroom wall. The children standing outside also joined in. I took green chalk, I took yellow chalk and added it to make it very interesting. Seeing the children so happy, I was a bit hesitant, but then I had to go pat one of them on the shoulder and say: – Why do you draw on the wall? Makes the wall dirty. Recount a good deed you did or witnessed at school Minh advises: – You guys put it on, otherwise I'll scold you later! When the children heard that, they hurriedly used cotton to wipe the dust but it was not clean. I just took a rag and dipped it in water to clean it. At that moment, the principal was walking around. Listening to her tell the whole story, the teacher said: "You guys really deserve to be the seniors of the younger kids." Being praised, the two younger siblings looked at each other with joy.
Đề bài: Thuật lại những điều nghe thấy trong đêm không ngủ của em Bài làm Đồng hồ thong thả gõ chín tiếng, xếp vội quyển sách toán lại, tôi đứng dậy với tay tắt cày đèn để đi ngủ vì ngày mai còn phải đi học sớm. Đêm càng khuya, gió càng thổi mạnh, tôi kéo chăn đắp lên mình, nhắm mắt lại cố dỗ giấc ngủ. Vừa chợp mắt thì hình ảnh bài toán đố cứ hiện lên trước mắt tôi, khiến tôi không tài nào ngủ được. Nằm gác tay lên trán, tôi để ý lắng tai nghe những tiếng động trong nhà. Tiếng đồng hồ vẫn gõ tích tắc đều đều, tiếng muỗi kêu vo ve, xen lẫn tiếng tặc lưỡi cùa mấy chú thằn lằn đang ẩn mình dưới kẹt tủ. Tiếng mèo kêu ngao ngao trên nóc nhà, tiếng chuột rúc rích trong tủ quần áo. Chung quanh tôi toàn là bóng tối. Thuật lại những điều nghe thấy trong đêm không ngủ của em Ngoài đường, tiếng rao của chị bán chè ngân dài trong đêm vắng. Tiếng gõ mõ lốc cốc của các chú chệt, xen lẫn tiếng guốc kéo lốp bốp của những người đi đường làm cho tôi đỡ cảm thấy cô độc một phần trong đêm lạnh. Bên ngoài, tiếng côn trùng vẫn nỉ non như những tiếng kêu cùa các oan hồn đang chơi vơi ngoài sương gió. Tiếng ru con của bà mẹ hoà lẫn tiếng võng đưa kẽo kẹt làm cho tôi cảm thấy lòng rung động trong tình mẫu tứ thiêng liêng cao quý. Xa xa tiếng chó sủa vang lên rồi tắt hẳn trong đêm dài vô tận. Dù không ngủ được, nhưng tôi cũng được sống sung sướng đầy đủ trong nệm ấm chăn êm. Trong lúc ấy có bao nhiêu tâm hồn đau khổ của những kẻ nghèo khó phải làm một nghề tồi tàn trong thiên hạ, và còn có những người cô độc đói khổ lang thang trên vạn nẻo đường và tôi bồi hồi thương cảm cho kiếp người lẻ loi cô độc.
Topic: Narrate what you heard during your sleepless night Assignment The clock leisurely struck nine, I quickly put the math book back together, I stood up and turned off the light to go to sleep because I had to go to school early tomorrow. The later the night became, the stronger the wind blew, I pulled the blanket over me, closed my eyes and tried to sleep. As soon as I fell asleep, the image of the math problem kept appearing before my eyes, making it impossible for me to sleep. Lying with my hands on my forehead, I listened attentively to the noises in the house. The sound of the clock still ticking steadily, the sound of mosquitoes buzzing, mixed with the clicking of tongues from the lizards hiding under the cabinet. The sound of cats meowing on the roof, the sound of mice squeaking in the closet. All around me is darkness. Narrate what you heard during your sleepless night On the street, the voice of the tea seller rang out in the empty night. The sound of the monks' wooden drums, mixed with the clacking clogs of the passers-by, made me feel a little less alone in the cold night. Outside, the sounds of insects still whispered like the cries of unjust souls hanging out in the wind and fog. The mother's lullaby mixed with the creaking sound of the hammock made me feel moved by the noble, sacred love of motherhood. In the distance, the sound of a dog barking rang out and then died out in the endless night. Even though I couldn't sleep, I still lived happily in a warm mattress and soft blanket. At that time, there were so many suffering souls of poor people who had to work a miserable job in the world, and there were also lonely, hungry people wandering on thousands of roads and I felt sorry for the lonely lives of people. loneliness.
Thuật lại ý kiến của các bạn trong nhóm về bảo vệ môi trường Hướng dẫn Thuật lại ý kiến của các bạn trong nhóm về bảo vệ môi trường Bài làm 1 Sau khi thảo luận, cả nhóm nhất trí về những việc cần làm để bảo vệ môi trường như sau: hãy coi lớp học, nhà trường như chính ngôi nhà của mình; phải đôn đốc, nhắc nhở nhau làm nhiệm vụ trực nhật; có ý thức quét dọn phòng học, sân trường sạch sẽ, đổ rác đúng nơi quy định; đi đường không được vứt rác bừa bãi, bạ đâu vứt đó mà phải bỏ vào thùng rác công cộng; đến chơi ở công viên, vườn hoa không được ngắt lá bẻ cành, phải có ý thức bảo vệ cây xanh; không được xả nước bẩn xuống ao hồ, sông ngòi… Đó là những việc cần làm mà nhóm tôi đưa ra, tôi xin trình bày mấy ý ngắn gọn như vậy. Bài làm 2 Nhóm tôi, sau khi thảo luận những việc cần làm để bảo vệ môi trường đã đi đến thống nhất những nội dung sau: không vứt rác bừa bãi; không đổ nước bẩn xuống ao hồ, sông ngòi phải có ý thức bảo vệ cây xanh nơi vườn hoa công viên; thực hiện tốt nội quy nơi công cộng; nhà cửa đường sá luôn quét dọn sạch sẽ, ăn ở ngăn nắp gọn gàng; thực hiện tốt công việc trực nhật hàng ngày và luôn luôn xây dựng cho mình ý thức bảo vệ môi trường. Tổ chúng tôi sau khi đã thảo luận sôi nổi về những việc cần làm để bảo vệ môi trường đều thống nhất nội dung sau: bảo vệ nguồn nước, bảo vệ cây xanh và luôn làm sạch đẹp khu vực công cộng cũng như nhà cửa của mình cụ thể là: không xả nước bẩn xuống sông rạch ao hồ làm ô nhiễm nguồn nước; không ngắt hoa bẻ cành làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây xanh, không vứt rác bừa bãi nhất là ở các khu vực đường sá, lớp học, sân trường; luôn quét dọn vệ sinh sạch sẽ nhà cửa, đường làng… làm cho môi trường luôn xanh, sạch, đẹp.
Narrate your group's opinions about environmental protection Instruct Narrate your group's opinions about environmental protection Exercise 1 After discussion, the whole group agreed on what to do to protect the environment as follows: consider the classroom and school as your own home; must urge and remind each other to do their duty on duty; Be conscious of keeping classrooms and school grounds clean and dumping trash in the right place; Don't throw trash on the road, you can't just throw it there, you have to put it in the public trash can; When visiting parks and flower gardens, you are not allowed to pick leaves or branches. You must be conscious of protecting trees; Do not discharge dirty water into ponds, lakes, rivers... Those are the things that need to be done that my group proposed, I would like to present a few brief ideas like that. Exercise 2 My group, after discussing what to do to protect the environment, came to an agreement on the following: do not throw trash indiscriminately; Do not pour dirty water into ponds, lakes or rivers. Be conscious of protecting trees in parks and gardens; Implement well the rules in public places; Houses and roads are always swept clean, living areas are neat and tidy; Perform your daily duty well and always build your awareness of environmental protection. After heated discussions about what to do to protect the environment, our team agreed on the following: protect water sources, protect trees and always clean and beautify public areas as well as our homes. Specifically: do not discharge dirty water into rivers, canals, ponds and lakes to pollute water sources; Do not cut flowers and branches to affect the growth of trees, do not throw trash indiscriminately, especially in road areas, classrooms, and school grounds; Always clean the house, village roads... making the environment always green, clean and beautiful.
Thói học đòi kệch cỡm (Về trích đoạn Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – trích Trưởng giả học làm sang của Mô-li-e) – Bình giảng Ngữ Văn 8 Hướng dẫn Thói học đòi kệch cỡm Đây là trích đoạn trong vở hài kịch nổi tiếng của Mô-li-e, Trưởng giả học làm sang (lớp 5, hồi II). Nói đến kịch phải nói đến xung đội kịch. Nhưng đi vào hài kịch thì cái mà người xem chú ý nhất lại là nghệ thuật gây cười. Trong những tình huống nhất định, nhân vật chính của hài kịch xuất hiện đem đến cho người xem những nụ cười sảng khoái. Đạt đến mức ấy, vở kịch đã thành công. 1. Cảnh thứ nhất: ông Giuốc-đanh và bác phó may Đối thoại đầu tiên của hai nhân vật xung quanh chuyện bít tất với đôi giày. Ở đây, ông Giuốc-đanh là người có lí, bởi cả hai thứ ông ta đều đi chật. Còn vì sao ông tá phải “khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được” (đối với tất) hay nó “làm tôi đau chân ghê gớm” (đối với đôi giày) chẳng qua là ở thói láu cá ăn bớt tiền của bác phó may (số nhỏ thì thường ít tiền hơn số đo lớn hơn), cũng như ở đoạn sau: may một bộ lễ phục cho khách mà bác ta cố tình gạn đủ một cái áo cho mình. Biết tỏng những mẹo vặt ấy, ông Giuốc-đanh dồn bác ta vào thế chân tường. Ăn vụng bị bắt quả tang, bác phó may là người đuối lí. Người xem hoàn toàn đồng cảm với ông Giuốc-đanh vì lúc này trí óc ông còn tỉnh táo. Vì tỉnh táo nên lí luận sắc sảo. Chẳng hạn khi bác phó may chống chế về đôi tất không xỏ vừa chân “Rồi nó dãn ra thì lại rộng quá ấy chứ”, ông Giuốc-đanh đốp vào mặt bác ngay “Phải, nếu tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật”. Còn với đôi giày đi chật, bác phó may không chịu, cho đó chỉ là tưởng tượng (“Ngài cứ tưởng tượng ra thế”), ông Giuốc-đanh có lẽ phải của ông: “Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ!” Cái đúng ở ông Giuốc-đanh có được là nhờ vào thực tế, lấy thực tế (là đôi chân của mình) làm thước đo, vì vậy mà phân biệt được phải trái rạch ròi. Khi không còn chỗ dựa ấy, hoặc lấy tưởng tượng làm chỗ dựa cho mình, ví như hình mẫu một nhà quý tộc trong cách ăn mặc ra sao, ông ta khôns còn sáng suốt nữa. Bị mù quáng và mê hoặc, ông Giuốc-đanh chỉ còn là một thứ hình nộm, một thứ con rối do người khác điều khiển giật dây. Nghệ thuật gây cười bắt đầu từ đó. Câu giới thiệu về bộ lễ phục vừa may xong của bác phó may đối với ông Giuốc-đanh như một phép thử, thử xem ông ta đã mê muội đến đâu: “Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ lễ phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác…“. Nhưng, sự khoác lác của bác phó may không hoàn toàn làm cho ông Giuốc-đanh bị hoa mắt. Ông ta lại có lí luận của ông ta: “Thế này là thế nào? Bác may hoa ngược mất rồi!” Lần này, ông ta vẫn có lí vì người thợ may nào chẳng phân biệt được cái điều sơ đẳng ấy. Nhưng cái lí của ông ta (Giuốc-đanh) chỉ có đến như thế, rồi thôi. Câu chống chế của bác phó may làm cho lão nửa tin nửa ngờ: “Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả”. Câu thứ nhất, lão chắc không tin, nhưng đến câu thứ hai thì lão đã có phần tin, vì tin mà lão chì cần hỏi lại bác phó may tinh khôn bằn? một giọng của kẻ đáng thương đuối lí: “Những người quý phái mặc áo hoa ngược ư?“. Với người xem, luận điệu của bác phó may rõ ràng là lừa bịp (lễ phục không may màu đen, lại còn may hoa ngược), còn với ông Giuốc-đanh, ông thay đổi rất nhanh như người vồ được của. Vồ được của rồi, ông hí hửng, ông ôm giữ khư khư. Lại một phép thử nữa xem cá cắn câu đến mức độ nào khi bác phó may nói rằng hoa ngược có thể đổi thành hoa xuôi (?) thì ông Giuốc-đanh chối đây đẩy: “Khôn?, không” và lảng sang chuyện khác: “Bác cho rằng tôi mặc áo này có vừa vặn không?”. Sự đắc ý của ông Giuốc-đanh đã lên đến tột độ khi có được bộ lễ phục đúng mốt quý tộc: Điều đó làm cho lão lờ đi những chuyện vặt vãnh, râu ria. Bộ tóc giả và lông đính mũ, lão chỉ hỏi lấy lệ, qua loa, cũng như biết bác phó may ăn bớt vải một cách tham lam, trắng trợn (dám mặc áo bằng vải của mình trước mặt mình), lão cũng chỉ phàn nàn đôi chút mà thôi (“Đành là đẹp, nhưng đáng lẽ đừng gạn vào áo của tôi mới phải“). Xung đột kịch, diễn biến kịch không căng thẳng (như bi kịch chẳng hạn) nhưng qua nhân vật hài (ông Giuốc-đanh), tác giả đã giúp ta hình dung: thói học đòi, bắt chước đã biến đổi con người sâu sắc biết chừng nào. Sự sáng suốt bỗng trở lên mù quáng. Đúng mà hoá thành sai và neược lại. Rối tinh lên và lộn tùng phèo không còn biết đâu là chân lí nữa. 2. Cảnh thứ hai: ông Giuốc-đanh và những tay thợ phụ Nếu ở cảnh thứ nhất, sự lừa bịp đã thành công vì cái sự học đòi biến con người (ông Giuốc-đanh) thành một thứ mồi ngon của nó thì ở cảnh thứ hai, sự tâng bốc đã tháng lợi vì những danh tiếng hão huyền mà con người thường ước mơ, khao khát. Đầu tiên, nghe chú thợ phụ xin tiền uống rượu, ông Giuốc-đanh giật mình, giật mình không phải vì sợ (sợ mất tiền, cái sợ cố hữu của những người giàu keo kiệt) mà vì sung sướng, mở mày mở mặt: lần đầu tiên, ông ta được gọi là ông lớn. Một cách gọi chưa quen nên chưa dám tin không biết mình có phải nghe nhầm hay không? Ông ta phải hỏi lại cho chắc chắn. Khi biết đích xác là như thế qua lời nhắc lại của chú thợ phụ, nhất là khi tin vào lập luận của chính ông ta (“Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là ông lém”), sự trả giá của ông Giuốc-đanh thật là hào phóng (“Đây, ta thưởng về tiếng ông lán đây này!”). Thói láu cá ranh ma – thực chất là từ lòng tham của tay thợ phụ có cái mũi rất tinh. Nó đánh hơi được con mồi béo bở: kẻ thích tâng bốc có cả một túi tiền. Túi tiền ấy giúp cho chú thợ phụ tinh khôn leo thang từng nấc một, biết kiềm chế, cứ từ từ, không đi đâu mà vội. Hãy cứ để cho người có túi tiền kia có thời gian tận hưởng niềm vui. Vì cứ có niềm vui của lão là tiền sẽ được xì ra. Lão không tiếc tiền vì lão cần danh vọng hơn, dù sự tôn vinh ẩy có là giả tạo đi chăng nữa. Cứ thế, danh vọng hão nhưng tiền lại là có thật. Những chú thợ phụ chỉ cần có thế, cứ tha hồ đem đến cho lão những niềm vui. Song, nhân vật chính ở cảnh này không phải là các chú thợ phụ, dù họ có đến bốn năm người và dù họ có mưu ma chước’ quỷ đến đâu, Nhân vật ông Giuốc-đanh mới là đối tượng mồi chài của họ, là nạn nhân mà cứ tưởng mình là ông lớn, mới là nhân vật trung tâm. Nhân vật ấy hiện trên sân khấu như cứ bằng xương thịt hẳn hoi vì ông ta là một người có tính cách: lòng hám danh kể cả cái danh nếu chỉ cần tỉnh táo một chút thôi sẽ biết là giả dối. Lão Giuốc-đanh còn tỉnh táo làm sao được trước vòng hào quang đường mật? Hệ thống đại từ nhân xưng: ông lớn, cụ lớn, đức ông thường dùng với những nhà quý tộc đã được lạm phát ở đây, với người xem nó dùng để lừa người, lừa những Kẻ trưởng giả như ông Giuốc- đanh ngu dốt hám danh. Ấy là còn chưa kể đến trình tự từ thấp đến cao của nó. Dù có là quý tộc hẳn hoi đi nữa thì làm sao có sự thăng cấp liên tục và chỉ trong phút chốc thế kia? Thế mà ông Giuốc-đanh có lần nào không vui, lần nào cũng như mở cờ trong bụng, và không lần nào giống lần nào. Hai lần trước ông ta say, say trước những từ ngữ đại ngôn hoa mĩ. Niềm vui của nhân vật lớn bé tuy có khác nhau, nhưng là niềm vui trọn vẹn, ông ta thoả mãn và có thể ngủ yên trong vòng tay của giấc mơ hạnh phúc tràn đầy. Nhưng đến lần thứ ba, ông ta có phần hồi tỉnh. Tóm lại, tình huống kịch và diễn biến kịch dù chi qua hai cảnh diễn nhưng rất sinh động, luôn luôn phát triển. Từ đó mà nhân vật kịch được khắc hoạ tài tình. Nổi bật lên một tính cách rất đáng bị phê phán: thói học đòi làm sang của hạne người trưởne eiả. Tính cách ấy biến con người thành một thứ trò hể mà chính con ngựời – hề kia không tự biết. Dĩ nhiên, nhân vật của Mô-li-e chỉ là sản phẩm của một thời (thế kỉ XVII), của một nền văn chương (văn chương Pháp). Nhưng là một hình tượng nghệ thuật được xây dựng rất thành công như thế, cho đến ngày hôm nay, nó vẫn là một cảnh báo. Con người,sẽ không còn là con người nếu bị nhiễm độc về tinh thần. Sự biến chất, sự thoái hoá sệ diễn ra như một thứ nguy cơ không thể nào tránh được.
Thói học đòi kệch cỡm (Về trích đoạn Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – trích Trưởng giả học làm sang của Mô-li-e) – Bình giảng Ngữ Văn 8 Hướng dẫn Thói học đòi kệch cỡm Đây là trích đoạn trong vở hài kịch nổi tiếng của Mô-li-e, Trưởng giả học làm sang (lớp 5, hồi II). Nói đến kịch phải nói đến xung đội kịch. Nhưng đi vào hài kịch thì cái mà người xem chú ý nhất lại là nghệ thuật gây cười. Trong những tình huống nhất định, nhân vật chính của hài kịch xuất hiện đem đến cho người xem những nụ cười sảng khoái. Đạt đến mức ấy, vở kịch đã thành công. 1. Cảnh thứ nhất: ông Giuốc-đanh và bác phó may Đối thoại đầu tiên của hai nhân vật xung quanh chuyện bít tất với đôi giày. Ở đây, ông Giuốc-đanh là người có lí, bởi cả hai thứ ông ta đều đi chật. Còn vì sao ông tá phải “khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được” (đối với tất) hay nó “làm tôi đau chân ghê gớm” (đối với đôi giày) chẳng qua là ở thói láu cá ăn bớt tiền của bác phó may (số nhỏ thì thường ít tiền hơn số đo lớn hơn), cũng như ở đoạn sau: may một bộ lễ phục cho khách mà bác ta cố tình gạn đủ một cái áo cho mình. Biết tỏng những mẹo vặt ấy, ông Giuốc-đanh dồn bác ta vào thế chân tường. Ăn vụng bị bắt quả tang, bác phó may là người đuối lí. Người xem hoàn toàn đồng cảm với ông Giuốc-đanh vì lúc này trí óc ông còn tỉnh táo. Vì tỉnh táo nên lí luận sắc sảo. Chẳng hạn khi bác phó may chống chế về đôi tất không xỏ vừa chân “Rồi nó dãn ra thì lại rộng quá ấy chứ”, ông Giuốc-đanh đốp vào mặt bác ngay “Phải, nếu tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật”. Còn với đôi giày đi chật, bác phó may không chịu, cho đó chỉ là tưởng tượng (“Ngài cứ tưởng tượng ra thế”), ông Giuốc-đanh có lẽ phải của ông: “Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ!” Cái đúng ở ông Giuốc-đanh có được là nhờ vào thực tế, lấy thực tế (là đôi chân của mình) làm thước đo, vì vậy mà phân biệt được phải trái rạch ròi. Khi không còn chỗ dựa ấy, hoặc lấy tưởng tượng làm chỗ dựa cho mình, ví như hình mẫu một nhà quý tộc trong cách ăn mặc ra sao, ông ta khôns còn sáng suốt nữa. Bị mù quáng và mê hoặc, ông Giuốc-đanh chỉ còn là một thứ hình nộm, một thứ con rối do người khác điều khiển giật dây. Nghệ thuật gây cười bắt đầu từ đó. Câu giới thiệu về bộ lễ phục vừa may xong của bác phó may đối với ông Giuốc-đanh như một phép thử, thử xem ông ta đã mê muội đến đâu: “Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ lễ phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác…“. Nhưng, sự khoác lác của bác phó may không hoàn toàn làm cho ông Giuốc-đanh bị hoa mắt. Ông ta lại có lí luận của ông ta: “Thế này là thế nào? Bác may hoa ngược mất rồi!” Lần này, ông ta vẫn có lí vì người thợ may nào chẳng phân biệt được cái điều sơ đẳng ấy. Nhưng cái lí của ông ta (Giuốc-đanh) chỉ có đến như thế, rồi thôi. Câu chống chế của bác phó may làm cho lão nửa tin nửa ngờ: “Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả”. Câu thứ nhất, lão chắc không tin, nhưng đến câu thứ hai thì lão đã có phần tin, vì tin mà lão chì cần hỏi lại bác phó may tinh khôn bằn? một giọng của kẻ đáng thương đuối lí: “Những người quý phái mặc áo hoa ngược ư?“. Với người xem, luận điệu của bác phó may rõ ràng là lừa bịp (lễ phục không may màu đen, lại còn may hoa ngược), còn với ông Giuốc-đanh, ông thay đổi rất nhanh như người vồ được của. Vồ được của rồi, ông hí hửng, ông ôm giữ khư khư. Lại một phép thử nữa xem cá cắn câu đến mức độ nào khi bác phó may nói rằng hoa ngược có thể đổi thành hoa xuôi (?) thì ông Giuốc-đanh chối đây đẩy: “Khôn?, không” và lảng sang chuyện khác: “Bác cho rằng tôi mặc áo này có vừa vặn không?”. Sự đắc ý của ông Giuốc-đanh đã lên đến tột độ khi có được bộ lễ phục đúng mốt quý tộc: Điều đó làm cho lão lờ đi những chuyện vặt vãnh, râu ria. Bộ tóc giả và lông đính mũ, lão chỉ hỏi lấy lệ, qua loa, cũng như biết bác phó may ăn bớt vải một cách tham lam, trắng trợn (dám mặc áo bằng vải của mình trước mặt mình), lão cũng chỉ phàn nàn đôi chút mà thôi (“Đành là đẹp, nhưng đáng lẽ đừng gạn vào áo của tôi mới phải“). Xung đột kịch, diễn biến kịch không căng thẳng (như bi kịch chẳng hạn) nhưng qua nhân vật hài (ông Giuốc-đanh), tác giả đã giúp ta hình dung: thói học đòi, bắt chước đã biến đổi con người sâu sắc biết chừng nào. Sự sáng suốt bỗng trở lên mù quáng. Đúng mà hoá thành sai và neược lại. Rối tinh lên và lộn tùng phèo không còn biết đâu là chân lí nữa. 2. Cảnh thứ hai: ông Giuốc-đanh và những tay thợ phụ Nếu ở cảnh thứ nhất, sự lừa bịp đã thành công vì cái sự học đòi biến con người (ông Giuốc-đanh) thành một thứ mồi ngon của nó thì ở cảnh thứ hai, sự tâng bốc đã tháng lợi vì những danh tiếng hão huyền mà con người thường ước mơ, khao khát. Đầu tiên, nghe chú thợ phụ xin tiền uống rượu, ông Giuốc-đanh giật mình, giật mình không phải vì sợ (sợ mất tiền, cái sợ cố hữu của những người giàu keo kiệt) mà vì sung sướng, mở mày mở mặt: lần đầu tiên, ông ta được gọi là ông lớn. Một cách gọi chưa quen nên chưa dám tin không biết mình có phải nghe nhầm hay không? Ông ta phải hỏi lại cho chắc chắn. Khi biết đích xác là như thế qua lời nhắc lại của chú thợ phụ, nhất là khi tin vào lập luận của chính ông ta (“Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là ông lém”), sự trả giá của ông Giuốc-đanh thật là hào phóng (“Đây, ta thưởng về tiếng ông lán đây này!”). Thói láu cá ranh ma – thực chất là từ lòng tham của tay thợ phụ có cái mũi rất tinh. Nó đánh hơi được con mồi béo bở: kẻ thích tâng bốc có cả một túi tiền. Túi tiền ấy giúp cho chú thợ phụ tinh khôn leo thang từng nấc một, biết kiềm chế, cứ từ từ, không đi đâu mà vội. Hãy cứ để cho người có túi tiền kia có thời gian tận hưởng niềm vui. Vì cứ có niềm vui của lão là tiền sẽ được xì ra. Lão không tiếc tiền vì lão cần danh vọng hơn, dù sự tôn vinh ẩy có là giả tạo đi chăng nữa. Cứ thế, danh vọng hão nhưng tiền lại là có thật. Những chú thợ phụ chỉ cần có thế, cứ tha hồ đem đến cho lão những niềm vui. Song, nhân vật chính ở cảnh này không phải là các chú thợ phụ, dù họ có đến bốn năm người và dù họ có mưu ma chước’ quỷ đến đâu, Nhân vật ông Giuốc-đanh mới là đối tượng mồi chài của họ, là nạn nhân mà cứ tưởng mình là ông lớn, mới là nhân vật trung tâm. Nhân vật ấy hiện trên sân khấu như cứ bằng xương thịt hẳn hoi vì ông ta là một người có tính cách: lòng hám danh kể cả cái danh nếu chỉ cần tỉnh táo một chút thôi sẽ biết là giả dối. Lão Giuốc-đanh còn tỉnh táo làm sao được trước vòng hào quang đường mật? Hệ thống đại từ nhân xưng: ông lớn, cụ lớn, đức ông thường dùng với những nhà quý tộc đã được lạm phát ở đây, với người xem nó dùng để lừa người, lừa những Kẻ trưởng giả như ông Giuốc- đanh ngu dốt hám danh. Ấy là còn chưa kể đến trình tự từ thấp đến cao của nó. Dù có là quý tộc hẳn hoi đi nữa thì làm sao có sự thăng cấp liên tục và chỉ trong phút chốc thế kia? Thế mà ông Giuốc-đanh có lần nào không vui, lần nào cũng như mở cờ trong bụng, và không lần nào giống lần nào. Hai lần trước ông ta say, say trước những từ ngữ đại ngôn hoa mĩ. Niềm vui của nhân vật lớn bé tuy có khác nhau, nhưng là niềm vui trọn vẹn, ông ta thoả mãn và có thể ngủ yên trong vòng tay của giấc mơ hạnh phúc tràn đầy. Nhưng đến lần thứ ba, ông ta có phần hồi tỉnh. Tóm lại, tình huống kịch và diễn biến kịch dù chi qua hai cảnh diễn nhưng rất sinh động, luôn luôn phát triển. Từ đó mà nhân vật kịch được khắc hoạ tài tình. Nổi bật lên một tính cách rất đáng bị phê phán: thói học đòi làm sang của hạne người trưởne eiả. Tính cách ấy biến con người thành một thứ trò hể mà chính con ngựời – hề kia không tự biết. Dĩ nhiên, nhân vật của Mô-li-e chỉ là sản phẩm của một thời (thế kỉ XVII), của một nền văn chương (văn chương Pháp). Nhưng là một hình tượng nghệ thuật được xây dựng rất thành công như thế, cho đến ngày hôm nay, nó vẫn là một cảnh báo. Con người,sẽ không còn là con người nếu bị nhiễm độc về tinh thần. Sự biến chất, sự thoái hoá sệ diễn ra như một thứ nguy cơ không thể nào tránh được.
Thất bại là mẹ của thành công Hướng dẫn Thành công đơn giản là dũng cảm vượt qua thất bại! Mở bài: Đôi khi ta suy nghĩ tại sao thất bại lại có thể là mẹ của thành công được. Điều này có vẻ nghịch lí quá. Nhưng cuộc sống là vậy. Nghịch lí của vấn đề chính là động lực để nó phát triển hơn. Hãy suy nghĩ, nếu không có bóng tối sao ta có thể nhận ra chúng ta đang đứng trong ánh sáng. Ví như nếu không có đàn sói rượt đuổi, bắt giết thì đàn hưu cũng sớm bị tiêu diệt bởi chính những hệ lụy phát sinh do sự thiếu vận động của nó. Hãy nhìn nhận vấn đề ở hai mặt của nó để từ đó tìm ra mục tiêu của hành động, hình thành nghị lực sống vươn đến thành công. Thân bài: Thất bại là gì? Thất bại là không được mục tiêu mong muốn hoặc dự định. Và có thể được xem là trái ngược với thành công. Các thất bại thường để lại các hậu quả không mong muốn, có thể gây thiệt hại về vật chất và tinh thần ở nhiều mức độ khác nhau. Tuy nhiên, thất bại được ví như là “mẹ” của thành công và được xem là một trong những bước tiền đề, đặt nền tảng tiến tới thành công. Thành công là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau về thành công trong cuộc sống. Điều này cũng dễ hiểu vì mỗi người có mục tiêu sống khác nhau và mức độ yêu cầu để có thể coi là thành công cũng không hề giống nhau. Về cơ bản, thành công có nghĩa là đạt được điều mình mong muốn trong công việc hoặc cuộc sống. Đó có thể là một giá trị về tinh thần hoặc vật chất. Vì sao thất bại là người “mẹ” vĩ đại của thành công? Trong cuộc đời ai cũng có lần thất bại, công việc càng khó khăn thì khả năng thất bại càng nhiều. Mỗi thất bại sẽ đem đến cho ta một bài học, một kinh nghiệm,.. giúp ta tiến gần tới thành công. Thành công sau những thất bại thường có giá trị chắc chắn, vững bền, mang lại cảm giác hạnh phúc thực sự. Không ai muốn mình bị thất bại trong cuộc sống này. Bởi sau một thất bại, con người sẽ phải trả giá nặng nề. Thế nhưng, sau khi mỗi lần thất bại, ta sẽ tích cực tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những sai sót của ta. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm quý báu, giúp ta tránh phạm những sai lầm đó nữa và ngày càng tiến tới bước đường thành công hơn. Không ai mà không có thất bại trước khi đạt đến vinh quang. Những người thành công trở nên vĩ đại là những người đã từng nhiều lần thất bại trong sự nghiệp của mình. Thomat Edison đã hơn nghìn lần thất bại để sáng tạo ra bóng đèn. Bandac đã vò nát biết bao trang giấy để viết được những cuốn tiểu thuyết bất hủ. Bill Gate đã nhiều lần khánh kiệt trước khi trở thành tỉ phú. Staven Job đã thất nghiệp, bị đuổi việc trước khi sáng tạo ra Apple huyền thoại. Không có thất bại thì không có thành công. Thất bại có vai trò củng cố cho ta niềm tin chiến thắng và nhận ra giá trị đích thực của cuôc sống. Không đơn giản là sống thành công mà còn phải biết sống đẹp bằng tất cả niềm đau thương và hạnh phúc. Chính những lần thất bại chúng ta mới nhận ra rằng dám thất bại thì mới đạt đến thành công. Không phải thất bại nào cũng mang tới thành công. Yếu tố quan trọng vẫn là nghị lực và trí tuệ của con người. Trên thực tế có người thành công dễ dàng nhưng ko phải là số nhiều Phải làm gì để vượt qua thất bại vươn đến thành công trong cuộc sống: Thomas Edison khẳng định: “Thành công là do 1% cảm hứng, 99% mồ hôi”. Bất cứ một thành công nào cũng đều xuất phát từ sự lao động miệt mài. Nghĩa là phải sống có lí tưởng, có hoài bão, có ước mơ lớn lao hướng đến một tương lai tươi sáng. Luôn rèn luyện và nâng cao bản lĩnh sống. Phải xác định mục tiêu sống lành mạnh, tiến bộ và giàu tính nhân văn. Phải hành động mãnh liệt, kiên trì, đối mặt và chiến thắng nghịch cảnh để vươn lên. Thành quả tốt đẹp luôn nằm ở phía cuối cùng của sự cố gắng. Phải có tình yêu cuộc sống mãnh liệt, yêu thương con người và quyết tâm xây dựng một thế giới công bằng, tiến bộ, văn minh. Luôn ý thức kỉ luật bản thân. Rèn luyện nhân cách nhân phẩm tốt đẹp trở thành người mẫu mực trong xã hội. Sống có mục đích, có ước mơ, hoài bão giúp ta thêm kiên cường đối diện thử thách, hướng đến thành công. Luôn kiên trì học tập, kiên trì làm việc. Sẵn sàng vấp ngã và dũng cảm đứng dậy là bí quyết của người thành công. Tri thức là sức mạnh, ai có tri thức người đó có sức mạnh. Lê-nin đã từng khẳng định điều ấy như một chân lí. E.Hubbard cũng đã nói: “không biết bao nhiêu lần con người buông tay từ bỏ khi mà chỉ một chút nỗ lực, một chút kiên trì nữa thôi là nah ta đạt đến thành công”. Chúng ta cũng khó nhận ra sự thành công đích thực trong cuộc sống này. Có lúc nó được giấu kín trong sâu thẳm, hay trong vỏ bọc đơn sơ không giá trị gì. Và phải nhìn nhận rằng thành công không phải là tấy cả. Thất bại không có nghĩa là chấm hết. Quan trọng là còn có lòng quả cảm để tiếp tục đi hết con đường như U.Churchill chỉ dẫn. Cuộc sống luôn rất công bằng với những ai luôn biết phấn đấu. Điều bất công ta thường thấy trong xã hội hãy xem là những “tai nạn”, những “rủi ro” mà trên bước đường đời ta vấp phải. Dù có thất bại nặng nề, dù có bị phủ nhận hay lãng quên thì hãy can đảm đứng lên bằng tất cả nghị lực của mình. Bằng sức mạnh của trí tuệ và lòng quả cảm vươn lên thì nhất định bạn sẽ gặt hái thành công. Edison đã hơn 1000 lần thất bại khi sáng tạo ra bóng đèn. Bandac cũng đã thất bại trước khi trở thành nhà văn vĩ đại. Đầu hàng số phận chẳng khác nào một hành động tự sát. Hãy kiên trì, hãy tin tưởng, hãy dũng cảm tiến tới bởi kết quả ngọt ngào luôn nằm ở cuối con đường. “Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”. Câu nói của Lỗ Tấn tiếp cho ta thêm sức mạnh để vượt lên, để hành động, để thành công. Đừng bao giờ sợ thất bại. Bởi vì sai lầm chính là động lực thúc đẩy ta hướng đến chân lí, hướng đến chân thiện mỹ. Một người mà luôn sợ thất bại, lúc nào cũng muốn mình sống một cuộc đời mà không có một sai lầm nào cả thì bạn là một người ảo tưởng, hoặc là hèn nhát không bao giờ dám đối mặt với cuộc sống. Nếu lúc nào ta cũng lo âu là mình sẽ luôn gặp thất bại thì ta chẳng bao giờ tự lập được cả. Hãy dũng cảm đứng dạy khi vấp ngã: Hãy nhớ rằng trả giá cho những sai lầm là cách để mỗi chúng ta trưởng thành hơn. Một người mà không chịu được mất mát thì sẽ chẳng được gì to lớn. Hãy nhớ rằng con đường đời trong cuộc sống không phải lúc nào cũng phải trải đầy hoa hồng. Nếu trong những việc nhỏ nhặt như thế mà chúng ta còn làm không xong thì làm sao mà ta có thể đương đầu với những gian nan khi ta lớn lên. Đừng bao giờ bi quan, buông xuôi tất cả. Bởi vì chính trong những lúc nguy nan, những lúc khó khăn nguy nan nhất, nếu ta vẫn bình tĩnh và có ý chí, ta có thể lật ngược lại vấn đề. Ta cần phải tự tin, lạc quan, có nghị lực để vượt qua những trở ngại, khó khăn thử thách để đạt đến thành công. Một điều quan trọng nữa là ta phải dũng cảm, trung thực nhìn nhận ra thất bại và vượt qua nó. Hãy xem thất bại như một động lực lớn giúp ta thành công. Những người khôn ngoan sẽ là người biết rút ra được kinh nghiệm và biết tìm con đường để tiến lên. Rèn luyện ý chí, không nản lòng trước thất bại. Hãy xem thất bại là thử thách đối với giá trị con người. Thế nhưng, cũng không nên lấy câu này chỉ để tự an ủi trong mỗi thất bại. Phải biết biến thất bại thành mẹ của thành công Kết bài: Thất bại là mẹ của thành công – đó là một chân lí đúng đắn. Thế nhưng, nếu có quá nhiềuthất bại sẽ không thể dẫn đến thành công. Nhân gian có câu: “Đừng để đến chín lần đứt tay mới lành nghề” nhằm nhắc nhở chúng ta phải biết rút kinh nghiệm mà mau chóng vươn đến thành công vậy. Bạn đang tìm kiếm vấn đề này: Bàn luận về lý tưởng sống của thanh niên ngày nay
Thất bại là mẹ của thành công Hướng dẫn Thành công đơn giản là dũng cảm vượt qua thất bại! Mở bài: Đôi khi ta suy nghĩ tại sao thất bại lại có thể là mẹ của thành công được. Điều này có vẻ nghịch lí quá. Nhưng cuộc sống là vậy. Nghịch lí của vấn đề chính là động lực để nó phát triển hơn. Hãy suy nghĩ, nếu không có bóng tối sao ta có thể nhận ra chúng ta đang đứng trong ánh sáng. Ví như nếu không có đàn sói rượt đuổi, bắt giết thì đàn hưu cũng sớm bị tiêu diệt bởi chính những hệ lụy phát sinh do sự thiếu vận động của nó. Hãy nhìn nhận vấn đề ở hai mặt của nó để từ đó tìm ra mục tiêu của hành động, hình thành nghị lực sống vươn đến thành công. Thân bài: Thất bại là gì? Thất bại là không được mục tiêu mong muốn hoặc dự định. Và có thể được xem là trái ngược với thành công. Các thất bại thường để lại các hậu quả không mong muốn, có thể gây thiệt hại về vật chất và tinh thần ở nhiều mức độ khác nhau. Tuy nhiên, thất bại được ví như là “mẹ” của thành công và được xem là một trong những bước tiền đề, đặt nền tảng tiến tới thành công. Thành công là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau về thành công trong cuộc sống. Điều này cũng dễ hiểu vì mỗi người có mục tiêu sống khác nhau và mức độ yêu cầu để có thể coi là thành công cũng không hề giống nhau. Về cơ bản, thành công có nghĩa là đạt được điều mình mong muốn trong công việc hoặc cuộc sống. Đó có thể là một giá trị về tinh thần hoặc vật chất. Vì sao thất bại là người “mẹ” vĩ đại của thành công? Trong cuộc đời ai cũng có lần thất bại, công việc càng khó khăn thì khả năng thất bại càng nhiều. Mỗi thất bại sẽ đem đến cho ta một bài học, một kinh nghiệm,.. giúp ta tiến gần tới thành công. Thành công sau những thất bại thường có giá trị chắc chắn, vững bền, mang lại cảm giác hạnh phúc thực sự. Không ai muốn mình bị thất bại trong cuộc sống này. Bởi sau một thất bại, con người sẽ phải trả giá nặng nề. Thế nhưng, sau khi mỗi lần thất bại, ta sẽ tích cực tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những sai sót của ta. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm quý báu, giúp ta tránh phạm những sai lầm đó nữa và ngày càng tiến tới bước đường thành công hơn. Không ai mà không có thất bại trước khi đạt đến vinh quang. Những người thành công trở nên vĩ đại là những người đã từng nhiều lần thất bại trong sự nghiệp của mình. Thomat Edison đã hơn nghìn lần thất bại để sáng tạo ra bóng đèn. Bandac đã vò nát biết bao trang giấy để viết được những cuốn tiểu thuyết bất hủ. Bill Gate đã nhiều lần khánh kiệt trước khi trở thành tỉ phú. Staven Job đã thất nghiệp, bị đuổi việc trước khi sáng tạo ra Apple huyền thoại. Không có thất bại thì không có thành công. Thất bại có vai trò củng cố cho ta niềm tin chiến thắng và nhận ra giá trị đích thực của cuôc sống. Không đơn giản là sống thành công mà còn phải biết sống đẹp bằng tất cả niềm đau thương và hạnh phúc. Chính những lần thất bại chúng ta mới nhận ra rằng dám thất bại thì mới đạt đến thành công. Không phải thất bại nào cũng mang tới thành công. Yếu tố quan trọng vẫn là nghị lực và trí tuệ của con người. Trên thực tế có người thành công dễ dàng nhưng ko phải là số nhiều Phải làm gì để vượt qua thất bại vươn đến thành công trong cuộc sống: Thomas Edison khẳng định: “Thành công là do 1% cảm hứng, 99% mồ hôi”. Bất cứ một thành công nào cũng đều xuất phát từ sự lao động miệt mài. Nghĩa là phải sống có lí tưởng, có hoài bão, có ước mơ lớn lao hướng đến một tương lai tươi sáng. Luôn rèn luyện và nâng cao bản lĩnh sống. Phải xác định mục tiêu sống lành mạnh, tiến bộ và giàu tính nhân văn. Phải hành động mãnh liệt, kiên trì, đối mặt và chiến thắng nghịch cảnh để vươn lên. Thành quả tốt đẹp luôn nằm ở phía cuối cùng của sự cố gắng. Phải có tình yêu cuộc sống mãnh liệt, yêu thương con người và quyết tâm xây dựng một thế giới công bằng, tiến bộ, văn minh. Luôn ý thức kỉ luật bản thân. Rèn luyện nhân cách nhân phẩm tốt đẹp trở thành người mẫu mực trong xã hội. Sống có mục đích, có ước mơ, hoài bão giúp ta thêm kiên cường đối diện thử thách, hướng đến thành công. Luôn kiên trì học tập, kiên trì làm việc. Sẵn sàng vấp ngã và dũng cảm đứng dậy là bí quyết của người thành công. Tri thức là sức mạnh, ai có tri thức người đó có sức mạnh. Lê-nin đã từng khẳng định điều ấy như một chân lí. E.Hubbard cũng đã nói: “không biết bao nhiêu lần con người buông tay từ bỏ khi mà chỉ một chút nỗ lực, một chút kiên trì nữa thôi là nah ta đạt đến thành công”. Chúng ta cũng khó nhận ra sự thành công đích thực trong cuộc sống này. Có lúc nó được giấu kín trong sâu thẳm, hay trong vỏ bọc đơn sơ không giá trị gì. Và phải nhìn nhận rằng thành công không phải là tấy cả. Thất bại không có nghĩa là chấm hết. Quan trọng là còn có lòng quả cảm để tiếp tục đi hết con đường như U.Churchill chỉ dẫn. Cuộc sống luôn rất công bằng với những ai luôn biết phấn đấu. Điều bất công ta thường thấy trong xã hội hãy xem là những “tai nạn”, những “rủi ro” mà trên bước đường đời ta vấp phải. Dù có thất bại nặng nề, dù có bị phủ nhận hay lãng quên thì hãy can đảm đứng lên bằng tất cả nghị lực của mình. Bằng sức mạnh của trí tuệ và lòng quả cảm vươn lên thì nhất định bạn sẽ gặt hái thành công. Edison đã hơn 1000 lần thất bại khi sáng tạo ra bóng đèn. Bandac cũng đã thất bại trước khi trở thành nhà văn vĩ đại. Đầu hàng số phận chẳng khác nào một hành động tự sát. Hãy kiên trì, hãy tin tưởng, hãy dũng cảm tiến tới bởi kết quả ngọt ngào luôn nằm ở cuối con đường. “Trên bước đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”. Câu nói của Lỗ Tấn tiếp cho ta thêm sức mạnh để vượt lên, để hành động, để thành công. Đừng bao giờ sợ thất bại. Bởi vì sai lầm chính là động lực thúc đẩy ta hướng đến chân lí, hướng đến chân thiện mỹ. Một người mà luôn sợ thất bại, lúc nào cũng muốn mình sống một cuộc đời mà không có một sai lầm nào cả thì bạn là một người ảo tưởng, hoặc là hèn nhát không bao giờ dám đối mặt với cuộc sống. Nếu lúc nào ta cũng lo âu là mình sẽ luôn gặp thất bại thì ta chẳng bao giờ tự lập được cả. Hãy dũng cảm đứng dạy khi vấp ngã: Hãy nhớ rằng trả giá cho những sai lầm là cách để mỗi chúng ta trưởng thành hơn. Một người mà không chịu được mất mát thì sẽ chẳng được gì to lớn. Hãy nhớ rằng con đường đời trong cuộc sống không phải lúc nào cũng phải trải đầy hoa hồng. Nếu trong những việc nhỏ nhặt như thế mà chúng ta còn làm không xong thì làm sao mà ta có thể đương đầu với những gian nan khi ta lớn lên. Đừng bao giờ bi quan, buông xuôi tất cả. Bởi vì chính trong những lúc nguy nan, những lúc khó khăn nguy nan nhất, nếu ta vẫn bình tĩnh và có ý chí, ta có thể lật ngược lại vấn đề. Ta cần phải tự tin, lạc quan, có nghị lực để vượt qua những trở ngại, khó khăn thử thách để đạt đến thành công. Một điều quan trọng nữa là ta phải dũng cảm, trung thực nhìn nhận ra thất bại và vượt qua nó. Hãy xem thất bại như một động lực lớn giúp ta thành công. Những người khôn ngoan sẽ là người biết rút ra được kinh nghiệm và biết tìm con đường để tiến lên. Rèn luyện ý chí, không nản lòng trước thất bại. Hãy xem thất bại là thử thách đối với giá trị con người. Thế nhưng, cũng không nên lấy câu này chỉ để tự an ủi trong mỗi thất bại. Phải biết biến thất bại thành mẹ của thành công Kết bài: Thất bại là mẹ của thành công – đó là một chân lí đúng đắn. Thế nhưng, nếu có quá nhiềuthất bại sẽ không thể dẫn đến thành công. Nhân gian có câu: “Đừng để đến chín lần đứt tay mới lành nghề” nhằm nhắc nhở chúng ta phải biết rút kinh nghiệm mà mau chóng vươn đến thành công vậy. Bạn đang tìm kiếm vấn đề này: Bàn luận về lý tưởng sống của thanh niên ngày nay
Thầy giáo Ha – men (văn bản Buổi học cuối cùng An-phông-xơ Đô-đê) trong buổi học cuối cùng có gì khác. Hãy tả lại thầy giáo Ha men trong buổi học ấy Trong buổi học cuối cùng, hình ảnh thầy Ha-men (văn bản Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê) hiện lên thật khác với những ngày thường. Thầy mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục điểm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. Đó là bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng. Mái tóc đã lốm đốm hoa râm của thầy được chải gọn gàng. Thầy đi đôi giày đen rất hợp với sự trang trọng của bộ lễ phục. Thầy chuẩn bị bài học rất chu đáo. Giáo án được viết bằng thứ mực đắt tiền; những dòng chữ nghiêng nghiêng, rõ ràng, nắn nót, kẻ tiêu đề cẩn thận nổi bật trên nền giấy trắng tinh. Thầy giảng bài bằng giọng nói dịu dàng; lời nhắc nhở của thầy cũng hết sức nhã nhặn, trong suốt buổi học người không giận dữ quát mắng học sinh một lời nào. Ngay cả với cậu bé đến muộn Phrăng, thầy cũng chỉ nhẹ nhàng mời vào lớp. Tất cả học sinh trong lớp đều thấy rằng: Chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng bài như vậy. Trong bài giảng của mình, thầy luôn ca ngợi tiếng Pháp – tiếng nói dân tộc – và tự phe bình mình cũng như mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Mỗi lúc thầy nói đến những điều đó, giọng thầy như nghẹn lại, lạc đi và gương mặt hằn lên những nếp nhăn đau đớn. Thầy còn nhấn mạnh rằng, chính tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa trong chốn lao tù, giúp mỗi người tù vượt tù “vượt ngục tinh thần”, nuôi dưỡng lòng yêu nước. Những thay đổi của thầy Ha-men trong buổi học cuối cùng đã khẳng định một điều chắc chắn: Thầy là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu nước sâu sắc.
Teacher Ha-men (text Alphonse Dode's Last Lesson) is different in the last lesson. Describe teacher Ha Men in that lesson During the last lesson, the image of teacher Hamen (text The Last Lesson by Alphonse Dode) appeared very different from normal days. The teacher wore a green robe decorated with finely folded lotus leaves and a round hat made of embroidered black silk. It is a formal outfit only used on special days when there are inspections or rewards. The teacher's gray hair was neatly combed. The teacher wore black shoes that matched the formality of his formal attire. The teacher prepared the lesson very carefully. Lesson plans are written in expensive ink; The lines of italic, clear, neat, carefully drawn titles stand out on the pure white paper background. The teacher lectures in a gentle voice; The teacher's reminders were also very polite. During the lesson, he did not angrily yell at the students. Even for the late boy Phran, the teacher just gently invited him into class. All students in the class saw that: Never before had the teacher taught a lesson so patiently. In his lectures, he always praised French - the national language - and criticized himself and everyone else for sometimes neglecting learning and teaching French. Every time he said those things, his voice seemed choked and lost and his face showed wrinkles of pain. He also emphasized that French is the weapon, the key in prison, helping each prisoner escape "spiritually", nurturing patriotism. Teacher Ha-men's changes in the last lesson confirmed one thing for sure: He is a person who loves teaching, loves his mother tongue, and is deeply patriotic.
Thử thách của thế hệ chúng ta là tạo ra một thế giới, nơi mà mọi người đều có mục đích của mình (Mark Zuckerberg) Hướng dẫn Thử thách của thế hệ chúng ta là tạo ra một thế giới, nơi mà mọi người đều có mục đích của mình William Arthur Ward đã từng nói: “Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến những nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Những mục đích của ngày hôm nay có thể biến những thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai”. Mục đích sống mạnh mẽ luôn là yếu tố chủ chốt giúp ta đạt lấy mọi giá trị ở tương lai. Bởi thế, Mark Zuckerberg, ông chủ trang mạng Facebook cũng cho rằng: “Thử thách của thế hệ chúng ta là tạo ra một thế giới, nơi mà mọi người đều có mục đích của mình”. Thật tồi tệ nếu chúng ta sống mà không hề có một mục đích nào. Chúng ta ẽ không biết mình sống vì ai, vì cái gì và sống để làm gì? Cuộc sống sẽ rất nhàm chán và sự tồn tại của chúng ta sẽ là vô nghĩa. Mục đích là cảm giác giúp chúng ta nhận thức rõ ràng về sự tồn tại của bản thân, là một phần của thứ gì đó lớn hơn bản thân, chúng ta được cần đến, chúng ta có thứ gì đó tốt đẹp hơn phía trước để làm. Mục đích là thứ tạo ra hạnh phúc thực sự của đời người. Trong phát biểu của Mark Zuckerberg đã vạch rõ cho chúng ta điều đó. Ông cho rằng “thử thách của thế hệ chúng ta là tạo ra một thế giới mới”. Đó phải là một thế giới của chúng ta, do chúng ta làm chủ. Thế giới ấy thực sự đưa lại cho chúng ta những mục đích sống mạnh mẽ và tạo ra cho chúng ta những nguồn sống dạt dào nhất. Mục đích là cái chủ đích nhắm tới ở tương lai cho một nỗ lực. Mục đích đề ra những gì ta muốn đạt tới và thường là dài hạn, và có thể không có giới hạn thời gian, có tác động lớn và lâu dài lên đời sống, sự phát triễn của một cá nhân hay tập thể. Mục đích thường không được đo lường, hoặc khó đo lường được vì nó mang tính trừu tượng. Mục đích chính là thành tựu mà con người hướng đến ở tương lai thông qua hệ thống các nguyên tắc trong hành động. Nó chính là điểm đến quy hướng tầm nhìn và hi vọng của con người. Xác định được mục đích, con người mới có thể lập kế hoạch, vạch rõ một con đường từ điểm xuất phát ở hiện tại, đi đến thành tựu ở tương lai.
The challenge of our generation is to create a world where everyone has a purpose (Mark Zuckerberg) Instruct The challenge of our generation is to create a world where everyone has a purpose William Arthur Ward once said: “Today's patience can turn yesterday's frustrations into tomorrow's discoveries. Today's goals can turn yesterday's failures into tomorrow's determination." A strong life purpose is always the key factor to help us achieve all values ​​in the future. Therefore, Mark Zuckerberg, owner of Facebook, also said: "The challenge of our generation is to create a world where everyone has their own purpose." It would be terrible if we lived without any purpose. We will not know who we live for, what we live for and what we live for? Life will be very boring and our existence will be meaningless. Purpose is a feeling that gives us a clear sense of our existence, that we are part of something bigger than ourselves, that we are needed, that we have something better ahead of us to live for. do. Purpose is what creates true happiness in human life. Mark Zuckerberg's statement clearly showed us that. He said that "the challenge of our generation is to create a new world". It must be our world, owned by us. That world truly gives us strong life purposes and creates for us the most abundant sources of life. A goal is something intended to be aimed at in the future for an endeavor. Purpose sets out what we want to achieve and is often long-term, and may have no time limit, having a large and lasting impact on the life and development of an individual or group. Purpose is often not measured, or difficult to measure because it is abstract. The main goal is the achievement that people aim for in the future through a system of principles in action. It is the destination that guides people's vision and hopes. Determining the purpose, people can plan and clearly outline a path from the present starting point to future achievements.
Thử tưởng tượng em đang được ngồi trên thuyền giữa dòng sông La tấp nập đông vui. Hãy tả lại cảnh tượng đó Gợi ý Em hãy đọc đoạn thơ dưới đây, trích từ bài thơ Bè xuôi sông La: “… Bè ta xuôi sông La Dẻ cau cùng táu mật Muồng đen và trai đất Lát chun rồi lát hoa Sông La ơi sông La Trong veo như ánh mắt Bờ tre xanh im mát Mươn mướt đôi hàng mi Bè đi chiều thầm thì Gỗ lượn đàn thong thơ Như bầy trâu lim dim Đằm mình trong êm ả Sóng long lanh vẩy cá Chim hót trên bờ đê…” Thử tưởng tượng em đang được ngồi trên thuyền giữa dòng sông La tấp nập đông vui ấy. Hãy tả lại cảnh tượng đó. Bài làm “…Sông La ơi sông La Trong veo như ánh mắt Bờ tre xanh im mát Mươn mướt đôi hàng mi…” Những hình ảnh thơ “trong veo” trong bài thơ “Bè xuôi sông La” của nhà thơ Vũ Duy Thông cứ hiện lên một cách mê say trong tâm trí em. Thế rồi hôm ấy, em nằm mơ được ngồi “bè xuôi sông La”. Em đang ngồi trên một chiếc bè mảng trôi giữa dòng sông La lịch sử. Xung quanh em, tấp nập thuyền bè xuôi ngược. Những chiếc bè lớn được ghép từ nhiều phiến gỗ, trên đó chở biết bao loại gỗ quý: táu mật, muồng đen, trai đất, lát chun, lát hoa,… Bao nhiêu loài gỗ bấy lâu em chỉ đọc trong sách bâỵ giờ được nhìn tận mắt, thật thú vị. Các súc gỗ đều được pha từ các thân cây cô thụ nên khá lớn, thịt gỗ rất rắn, mỗi loài lại mang một màu đặc trưng: màu vàng ươm, màu trắng sữa, riêng gỗ lim thì đen bóng khiến ta ngỡ là đồng đen. Các thuyền lớn thì chở nhiều loại lâm sản khác của rừng: những buồng cau lớn, những loại thảo dược như thảo quả, đinh hương,… Điều thú vị nhất là giữa dòng chảy hơi dốc của sông La còn xuất hiện nhiều thân gỗ được thả trôi. Bác lái bè giải thích rằng đó là những thân gỗ được hạ từ mé thượng nguồn của dòng sông rồi được thả trôi về phía hạ nguồn. Mỗi thân gỗ lại có kí hiệu riêng của chủ nên không lo bị lạc. Quả thực, quan sát kĩ em thấy trên mỗi thân gỗ đều được khắc những tên riêng. Chiếc bè cứ êm đềm trôi đi, biết bao bè gỗ, thuyền cau đã trôi qua trước mắt em. Gương mặt những người lái bè, lái thuyền ai cũng hăm hở, tươi tắn; Họ đều tay đẩy mái chèo khua nước, thỉnh thoảng lại dừng tay lái khẽ lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt, Giữa dòng sông La này, muốn nói chuyện phải hét lên thật to để thắng được khoảng cách và tiếng rì rào của nước. Bởi thế, thỉnh thoảng lại bất chợt vang lên tiếng hú chào nhau của các bác lái. Tiếng cười giòn giã sau đó theo mặt nước mà lan ra khắp không gian. Càng đi, càng thấy trong không khí có một mùi hương gì ngọt mát, đó phải chăng là hương cây, hương nước sông La? Ngồi bè trôi trên sông La còn có một cảm giác thú vị nữa là được ngắm dòng nước trong veo cùng những hàng cây rợp bóng hai bên bờ. Nước sông La chẳng những mát lành mà còn vô cùng trong trẻo. Ngồi trên bè, khẽ nghiêng mình xuống, em có thể thấy gương mặt mình in rất rõ trên mặt nước. Trên bờ sông, hai rặng tre mươn mướt bốn mùa, có lẽ đã mấy chục năm nay tre nghiêng nghiêng soi bóng xuống dòng sông. Thỉnh thoảng, dưới khóm tre lại có chú trâu nằm nhởn nhơ nhai lại cỏ. Các chú binh thản nhìn thuyền bè qua lại trên sông như một cảnh tượng quen thuộc. Sông La như ánh mắt trẻ thơ trong vắt mà những hàng tre là những hàng mi cong vút đáng yêu…
Imagine you are sitting on a boat in the middle of the bustling La River. Please describe that scene Suggest Please read the poem below, excerpted from the poem "Raft down the La River": “… Our raft went down the La River Areca chestnuts and honeydew Black mosquito and land clam Slice rubber and then slice flowers La River, La River Clear as eyes Cool green bamboo banks Smooth your eyelashes The afternoon raft whispered Wooden fluted thong poetry Like a herd of buffaloes half asleep Immerse yourself in tranquility Glittering waves of fish scales Birds sing on the dike..." Imagine you are sitting on a boat in the middle of the bustling La River. Please describe that scene. Assignment “…La River oh La River Clear as eyes Cool green bamboo banks Fluff your eyelashes..." The "clear" poetic images in the poem "Raft down the La River" by poet Vu Duy Thong keep appearing enchantingly in my mind. Then that day, I dreamed of sitting on a "raft down the La River". I am sitting on a raft floating in the middle of the historic La River. Around me, there are bustling boats going up and down. Large rafts are assembled from many wooden slabs, carrying many types of precious wood on them: honeycomb, black cassis, mussel, rubber slices, flower slices, etc. I have only read about so many species of wood in books for a long time now. Seeing it with my own eyes, it's really interesting. The logs are all made from single tree trunks, so they are quite large, the wood flesh is very solid, each species has a characteristic color: bright yellow, milky white, ironwood in particular is shiny black, making us think it is black copper. . Large boats carry many other types of forest products: large areca chambers, herbs such as cardamom, cloves, etc. The most interesting thing is that in the slightly sloping flow of the La River, there are also many wood trunks that can be harvested. float. The raft driver explained that these were wooden trunks lowered from the upstream side of the river and then floated downstream. Each wooden trunk has its own symbol, so you don't have to worry about getting lost. Indeed, when I looked closely, I saw that each wooden trunk had its own name engraved on it. The raft continued to drift peacefully, countless wooden rafts and areca boats passed before my eyes. The faces of the rafters and boatmen were all eager and bright; They both pushed the oars and splashed the water, occasionally stopping the steering wheel to gently wipe the drops of sweat from their faces. In the middle of this La river, if they wanted to talk, they had to shout loudly to overcome the distance and the murmur of the river. water. Therefore, from time to time, the drivers' howls of greeting to each other suddenly rang out. Crisp laughter then followed the water surface and spread throughout the space. The more I walked, the more I felt a sweet and cool scent in the air. Could it be the scent of trees or the scent of La River water? Sitting on a raft floating on the La River has another interesting feeling: watching the clear water and the shady trees on both sides. The water of La River is not only cool but also extremely clear. Sitting on the raft, slightly leaning down, I could see my face clearly printed on the water. On the riverbank, two bamboo groves are lush throughout the seasons. Perhaps for decades, the bamboo has been tilted, reflecting on the river. Occasionally, under a bamboo grove, there is a buffalo lying around, chewing grass. The monks calmly looked at the boats going back and forth on the river like a familiar scene. La River is like the clear eyes of a child, while the bamboo rows are lovely curled eyelashes...
Thực trạng sử dụng rượu bia hiện nay – Ngữ Văn 12 Hướng dẫn Thực trạng sử dụng rượu bia hiện nay Đề bài “Người chết đuối trong li cốc đông hơn người chết đuối dưới sông”. (Ch. Cenhier) Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Viết bài văn (khoảng 600 chữ) nêu quan điểm của bản thân về thực trạng sử dụng bia rượu ở Việt Nam hiện nay. Hướng dẫn làm bài Đề bài yêu cầu thí sinh giải thích câu nói của Ch. Cenhier, từ đó bàn luận, mở rộng vấn đề về thực trạng, tác hại của việc lạm dụng bia rượu, những hệ quả và biện pháp khắc phục tình trạng lạm dụng bia rượu ở Việt Nam. Cần trả lời được các câu hỏi sau: Câu “Người chết đuối trong li cốc đông hơn người chết đuối dưới sông” của Ch. Cenhier ý muốn nói gì? Tại sao người chết đuối trong li cốc đông hơn người chết đuối dưới sông? Sử dụng rượu bia quá độ có ảnh hưởng như thế nào đến sức khoẻ, ý chí, tư duy, sự nghiệp của con người? Thực trạng sử dụng bia rượu ở Việt Nam và hệ quả của nó? Làm thế nào để khắc phục tình trạng lạm dụng bia rượu hiện nay? Bài viết có thể triển khai các ý chính sau: – Sử dụng rượu bia là một thói quen của nhiều người ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sử dụng rượu bia với mức độ hợp lí có thể đem lại cho con người cảm giác khoan khoái, lưu thông huyết mạch, là phương thuốc kết hợp để chữa trị một số bệnh tật… Song rượu bia là chất kích thích, gây nghiện, người sử dụng rất dễ bị lệ thuộc dẫn đến tình trạng lạm dụng, nghiện ngập. Lạm dụng rượu bia có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân, cộng đồng và xã hội. Câu nói “Người chết đuối trong li cốc đông hơn người chết đuối dưới sông” của Ch. Cenhier không chỉ là một cách nói ấn tượng về tác hại của bia rượu mà còn gợi ý cho chúng ta nhìn thẳng vào thực trạng lạm dụng bia rượu ở Việt Nam hiện nay. – Rượu bia là chất kích thích mạnh, được ví ngang hàng với hê-rô-in về mặt độc hại và lệ thuộc. Rượu bia là chất chứa cồn (etanol), khi vào cơ thể, etanol được thực quản, dạ dày, tá tràng hấp thu một phần nhỏ giúp cải thiện tình trạng tiêu hoá; phần lớn còn lại xuyên qua ruột non và lan toả đến tất cả bộ phận trong cơ thể. Rượu là nguyên nhân chính gây viêm gan, xơ gan và ung thư gan. Rượu gây ra các rối loạn chức năng liên quan đến hệ tiêu hoá, tim mạch, sinh dục và các bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, đái tháo đường. Rượu gây thiếu hụt dưỡng chất, trong đó có sự thiếu hụt vitamin B là nguyên nhân gây bệnh ở não, suy tim. Rượu gây nên hội chứng nhiễm độc bào thai, tăng nguy cơ dị tật và tác hại nhiều nhất đến não bộ thai nhi. Rượu bia là tác nhân gây ra các bệnh tâm thần như: tổn thương dây thần kinh ngoại biên, tâm thần phân liệt, tăng lo âu, sầu uất, trầm cảm dẫn đến gia tăng các ý tưởng tự sát,… – Đáng buồn thay, uống rượu bia dường như đã trở thành một phần “văn hoá” của người Việt, là “điểm nhấn” để thể hiện bản lĩnh đàn ông, là biểu hiện để chứng tỏ sự chân thành và hoà đồng, nhiệt tình, vẫn còn nhiều người quan niệm “nam vô tửu như kì vô phong”, tức đàn ông không uống bia rượu sẽ không thể hiện được phong độ nam nhi của mình. Ở Việt Nam hiện nay, hầu hết tại các đám cưới hỏi, ma chay, lễ tết, những cuộc họp mặt, liên hoan đều phải có bia rượu để “tăng không khí”. Thậm chí, bạn bè gặp nhau cũng phải ra quán bia làm vài chầu hoặc mở chai rượu thù tiếp nhau. Rượu bia vào tận cơ quan công sở, không thiếu những người đến nơi làm việc mặt đỏ phừng phừng, hơi men nồng nặc. Nhiều người đàn ông Việt Nam hết giờ làm chưa chịu về nhà ngay mà còn rẽ vào quán bia tụ tập, nhậu nhẹt, mặc cho gia đình mỏi cổ đợi cơm. Chính vì thế mà các quán rượu, quán bia mọc lên như nấm, người kéo nhau đến đông như hội. + Cần phải xây dựng một môi trường văn hoá, xã hội lành mạnh; phải nói không với tình trạng sử dụng bia rượu phổ biến tràn lan khắp mọi gia đình, cơ quan, đoàn thể, địa phương như hiện nay. + Cần tuyên truyền sâu rộng tác hại của việc lạm dụng rượu bia đối vói sức khoẻ, công việc và tương lai của con người, cộng đồng, dân tộc. + Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần yêu cầu cán bộ, công nhân, viên chức, đoàn viên không uống rượu, bia trong giờ làm việc. + Cần ban hành quy định yêu cầu khi quảng cáo rượu bia phải gắn kèm nội dung cảnh báo tác hại của việc lạm dụng rượu bia. + Nhà trường, gia đình và xã hội cần quan tâm phòng ngừa, ngăn chặn việc sử dụng rượu bia đối vớ trẻ em dưới mười tám tuổi…
Current status of alcohol use - Literature 12 Instruct Current status of alcohol use Topic "There are more people drowning in glasses than people drowning in rivers." (Ch. Cenhier) How do you understand the above opinion? Write an essay (about 600 words) stating your opinion on the current situation of alcohol use in Vietnam. Instructions for homework The test requires candidates to explain the statement of Ch. Cenhier, from there discusses and expands the issue of the current situation and harmful effects of alcohol abuse, the consequences and measures to overcome alcohol abuse in Vietnam. Need to answer the following questions: The sentence "There are more people drowning in cups than people drowning in rivers" by Ch. What does Cenhier mean? Why are there more people drowning in cups than people drowning in rivers? How does excessive alcohol use affect people's health, will, thinking, and career? Current status of alcohol use in Vietnam and its consequences? How to overcome the current situation of alcohol abuse? The article can develop the following main ideas: – Using alcohol is a habit of many people in many countries around the world, including Vietnam. Using alcohol at a reasonable level can give people a feeling of pleasure, improve blood circulation, and is a combined remedy to treat a number of diseases... But alcohol is a stimulant and addictive. Users can easily become dependent, leading to abuse and addiction. Alcohol abuse can cause many serious consequences for individuals, communities and society. The saying "There are more people drowning in cups than people drowning in rivers" by Ch. Cenhier is not only an impressive way to talk about the harmful effects of alcohol, but also suggests that we look directly at the current situation of alcohol abuse in Vietnam. – Alcohol is a strong stimulant, compared to heroin in terms of toxicity and dependence. Alcohol contains alcohol (ethanol). When entering the body, ethanol is absorbed by the esophagus, stomach, and duodenum to help improve digestion; Most of the remainder passes through the small intestine and spreads to all parts of the body. Alcohol is the main cause of hepatitis, cirrhosis and liver cancer. Alcohol causes functional disorders related to the digestive system, cardiovascular system, genitals, chronic obstructive pulmonary disease, and diabetes. Alcohol causes nutrient deficiencies, including vitamin B deficiency, which causes brain disease and heart failure. Alcohol causes fetal toxicity syndrome, increases the risk of birth defects and is most harmful to the fetal brain. Alcohol is a factor that causes mental illnesses such as peripheral nerve damage, schizophrenia, increased anxiety, melancholy, depression leading to increased suicidal ideas, etc. – Sadly, drinking alcohol seems to have become a part of the "culture" of Vietnamese people, a "highlight" to demonstrate manhood, an expression to demonstrate sincerity, sociability, and enthusiasm. In love, there are still many people who believe that "a man who doesn't drink alcohol is like a man without style", meaning that a man who doesn't drink alcohol will not be able to show off his masculinity. In Vietnam today, most weddings, funerals, holidays, meetings, and parties must have alcohol to "boost the atmosphere". Even when friends meet, they have to go to the beer bar for a few drinks or open a bottle of wine one after another. Alcohol enters the office, there is no shortage of people coming to work with red faces and a strong sense of alcohol. Many Vietnamese men do not immediately go home after work, but instead go to beer bars to gather and drink, leaving their families tired of waiting for food. That's why pubs and beer bars spring up like mushrooms, and people flock together like festivals. + It is necessary to build a healthy cultural and social environment; We must say no to the current widespread use of alcohol in every family, agency, organization, and locality. + It is necessary to widely propagate the harmful effects of alcohol abuse on the health, work and future of people, communities and nations. + Agencies, organizations, and businesses need to request officials, workers, public employees, and union members not to drink alcohol or beer during working hours. + It is necessary to issue regulations requiring alcohol advertising to include content warning about the harmful effects of alcohol abuse. + Schools, families and society need to pay attention to preventing and stopping the use of alcohol for children under eighteen years old...
Đề bài: Tinh Thần Lạc Quan Của Bác Trong Bài Tức Cảnh Pác Bó BÀI LÀM Nhắc đến Bác Hồ là nhắc đến người lãnh đạo thiên tài của Cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Nhưng nhắc đến Bác, còn là nhắc đến một lối sống thanh bạch, khiêm nhường, suốt đời chỉ chăm lo đến sự nghiệp cách mạng của đất nước. Điều đó được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”: “Sáng ra bờ suối tối vào hang Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng Cuộc đời cách mạng thật là sang”. Sau bao nhiêu năm bôn ba tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Là một nhân vật lịch sử lỗi lạc của dân tộc, là nhà thơ, nhà danh nhân văn hóa. Cuộc đời thơ ca của Bác luôn song hành với cuộc đời chính trị. Trong những năm gian khổ ở cuộc kháng chiến trống Pháp, làm việc trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn, ở hang Pác Pó, bàn làm việc chông chênh bên suối Lê – Nin. Bác đã viết những bài thơ ngấm vào máu thịt của người dân Việt Nam. Bài thơ Tức cảnh Pác Pó đã diễn tả được phong thái ung dung,tinh thần lạc quan yêu đời, “thú lâm tuyền” khoáng đạt, tươi sáng của Bác. Bài thơ đã đồng hành cùng thời gian, vượt qua hành trình hơn 70 mùa xuân. Giờ đây bài thơ như một chứng tích lịch sử của cách mạng Việt Nam. Qua đó, còn cho chúng ta thấy phong thái ung dung tự tại, tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sỹ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh về những năm tháng hoạt động bí mật, đầy gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Nơi thâm sơn cùng cốc ấy, Người ở – ăn – làm việc như thế nào? “Sáng ra bờ suối tối vào hang”, câu thơ cho biết không gian sống của Bác là không gian núi rừng hoang sơ, dân dã: suối, hang. Không phải là tòa biệt thự đồ sộ, không phải là giường ấm, đệm êm dù Bác đang là một yếu nhân của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, gian lao của đất nước, Người sẵn sàng sẻ chia thiếu thốn. Câu thơ có sự đối xứng nhịp nhàng: “sáng” – “tối”, “suối” – “hang”, “ra” – “vào”. Không gian và thời gian khép lại câu thơ đầy bóng tối: “tối”, “vào”, “hang”. Điều đó đã nhấn mạnh những gian khổ trong điều kiện ở của Bác. Chẳng nhừng vậy, điều kiện ăn uống của Bác cũng rất hạn chế: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” là cháo ngô, loại thức ăn đạm bạc thường ngày của đồng bào dân tộc Việt Bắc. “Rau măng” cũng vậy. Nhà thơ Phạm Tiến Duật từng viết “Hết rau rồi em có lấy măng không?”, nghĩa là măng còn đạm bạc hơn cả rau rừng (vốn đã bị coi là đạm bạc rồi!). Nhưng dẫu thiếu thôn, gian khổ đến vậy, Người “vẫn sẵn sàng” cho công việc cách mạng, phục vụ cho lợi ích của nước, của dân. “Cuộc đời cách mạng thật là sang!” “Cuộc đời cách mạng” chính là cuộc sống với cái ở, cái ăn và sự làm việc như ba câu thơ trên. Bác dùng từ “thật là” mượn của khẩu ngữ rất tự nhiên, nó thể hiện sự cảm thán của người viết. Và chữ kết lại bài thơ thật bất ngờ: “thật là sang!”. Chữ “sang” mang ý nghĩa là sang trọng, đầy đủ. Chữ “sang” làm bật lên tiếng cười vui vẻ, niềm lạc quan trước cuộc sống gian khổ, thiếu thốn. Chính tinh thần ấy đã trở thành động lực để Bác cùng những người đồng chí vượt qua sự ngặt nghèo của đời sống và tình thế cách mạng để làm việc và chiến đấu. Chỉ một chữ mà khắc họa chân dung tinh thần của một con người. Chữ “sang” xứng đáng là “nhãn tự” của bài thơ tứ tuyệt “Tức cảnh Pắc Bó”. Cùng với “Vọng nguyệt”, “Nguyên tiêu”, “Cảnh khuya”…,“Tức cảnh Pác Bó” xứng đáng là một trong những bức chân dung tinh thần xinh xắn của con người vĩ đại Hồ Chí Minh.
Topic: Uncle's Optimistic Spirit in the Pac Bo Story ASSIGNMENT Mentioning Uncle Ho means mentioning the genius leader of the Vietnamese Revolution, a world cultural celebrity. But mentioning Uncle Ho is also mentioning a pure, humble lifestyle, all his life only caring for the revolutionary cause of the country. That is clearly shown in the poem "Pac Bo scene": “Go out to the stream in the morning and enter the cave in the evening Cement sheath vegetable porridge is ready The unsteady stone table translates the Party's history Life truly is revolutionary to". After many years of searching for a way to save the country, President Ho Chi Minh secretly returned to the country to directly lead the Vietnamese revolution. He is a prominent historical figure of the nation, a poet, and a cultural celebrity. Uncle Ho's poetic life always went hand in hand with his political life. During the arduous years in the French resistance war, working in extremely poor conditions, in Pac Po cave, the desk was unsteady next to the Le-Nin stream. He wrote poems that penetrated the flesh and blood of the Vietnamese people. The poem "The Scene of Pac Po" describes Uncle Ho's leisurely demeanor, optimistic spirit of love for life, and his open-minded, bright "wild beast". The poem has accompanied time, overcoming the journey of more than 70 springs. Now the poem is like a historical testimony of the Vietnamese revolution. Thereby, it also shows us the carefree demeanor and revolutionary optimism of the great communist soldier Ho Chi Minh about his years of secret and arduous activities for the cause of fighting for liberation. national liberation. In that deep mountain and valley, how do people live - eat - work? "In the morning, go to the stream bank and at night, enter the cave", the poem says that Uncle Ho's living space is the wild, rustic mountain and forest space: stream, cave. Not a massive mansion, not a warm bed or soft mattress even though Uncle Ho was a key figure in the national liberation revolution. In the harsh and difficult circumstances of the country, he was willing to share the need. The verse has rhythmic symmetry: "morning" - "dark", "stream" - "cave", "out" - "in". Space and time close the verse full of darkness: “dark”, “in”, “cave”. That emphasized the hardships in Uncle Ho's living conditions. Not only that, Uncle Ho's eating conditions are also very limited: "Bamboo shoot porridge is still ready." “Shell porridge” is corn porridge, a frugal daily food of the Viet Bac ethnic people. The same goes for "bamboo shoots". Poet Pham Tien Duat once wrote "If you run out of vegetables, will you take bamboo shoots?", meaning that bamboo shoots are more frugal than wild vegetables (which are already considered frugal!). But despite the lack of villages and such hardships, he was "still ready" for revolutionary work, serving the interests of the country and the people. "Life truly is revolutionary to!" "Revolutionary life" is life with housing, food and work like the three verses above. He uses the word "really" borrowed from spoken language very naturally, it shows the writer's admiration. And the poem's concluding words are surprising: "What a luxury!". The word "luxury" means luxury and completeness. The word "sang" evokes joyful laughter and optimism in the face of hardship and deprivation. It was that spirit that became the driving force for Uncle Ho and his comrades to overcome the hardships of life and revolutionary situations to work and fight. Just one word portrays the spiritual portrait of a person. The word "sang" deserves to be the "label" of the quatrain poem "Pac Bo Instant Scene". Along with "Vong Nguyet", "Nguyen Tieu", "Night Scene"..., "Pac Bo Scene" deserves to be one of the beautiful spiritual portraits of the great man Ho Chi Minh.
Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương Hướng dẫn Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương là cái tên được nhắc nhiều khi người ta nhắc tới người phụ nữ dám dùng văn chương của mình để viết về những câu chuyện những mảnh ghép của cuộc sống. Đăc biệt bà là người mà nhắc tới nhiều người phụ nữ bất hạnh và lên tướng đòi quyền bình đẳng cho những người phụ nữ đó. Nay ta lại thấy Xuân HƯơng xuất hiện với một đề tài vô cùng lí thú độc đáo nhưng cũng hết sức ý nghĩa thâm thúy: Tinh thần phục Hưng. Nhắc tới phục hung người ta nghĩ ngay tới phong trào phục hung ở phương tây vốn vô cùng nỏi tiếng và để lại nhiều thành quả cho tới nagyf nay. Nó không những được thể hiện những thay đổi độc đáo trong tư duy và tư tưởng của văn học mà còn là những nét mới đỉnh cao là góp phần trong sự thành công của hội họa. Chính nói tới sự đổi mới và có những nét khác biệt chấm phá đó mà chúng ta nhắc tới Hồ Xuân Hương vơi tính chất phục hung trong thơ văn của bà. Bà chúa thơ NÔm không ngần ngại là một người phụ nữ mà dám bày tỏ những nét trần tục trong thơ văn của mình. Nó vừa mang vẻ đẹp trần tục nhưng cũng khiến người ta mỗ khi đọc lên không kém phần bối rối. những vẫn thơ của bà viết ra mặc nhiên người ta có sức tưởng tượng vô cùng phong phú và ám chỉ những thứ không còn thanh cảnh nữa mà rất trần tục đời thường có khi lại còn rất gây bối rối cho những độc giả khắt khe. Những tư tưởng đề cao bản năng và tự nhiên của con người thường được nhắc tới nhiều nhất khi mà HỒ Xuân Hương viết về người phụ nữ: “lược trúc chải cài trên mái tóc Yếm đào trễ xuống dưới nương long Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm Một lạch đào nguyên suối chửa thông” Những câu thơ chỉ muốn tôn lên vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ trong khi ngủ với hình ảnh bầu ngực và những hình ảnh vô cùng duyên dáng gợi cảm. Hay những hình ảnh và câu thơ táo bạo hơn như: “Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa ………… Chành ra ba góc da còn thiếu Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa” Tinh thần phục hung của Hồ Xuân Hương thể hiện trong bài thơ của mình cũng rất rõ rang, hình ảnh dù có khiến người đọc liên tưởng tới đâu thì bài thơ cũng với mục đích vẽ ra những hình ảnh đường nét của một người phụ nữ. “trai du gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Hai hàng chân ngọc duỗi song song cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không” Nghệ thuật cũng môt phần nào nhắc tới thể hiện tinh thần phuc hung trong thơ Hồ Xuân HƯơng và cách nói lái nói lõm là một trong những điểm nhấn nhá về nghệ thuật của bà. Những nghệ thuật ấy khiến cho người đọc khi đọc lên lại có những liên tưởng độc lạ về bài thơ. Có thể nói về cả nội dung lẫn nghệ thuật Hồ Xuân Hương đã đem tới một cách nhìn mới lạ trong thơ văn cũng như trong nghệ thuật. Cho nên quả thực nhắc tới tinh thần phục hung trong thơ bà là không hề sai. Nguồn: Bài văn hay
The spirit of renaissance in Ho Xuan Huong's poetry Instruct The spirit of renaissance in Ho Xuan Huong's poetry Ho Xuan Huong is a name that is mentioned a lot when people mention the woman who dared to use her literature to write stories and pieces of life. In particular, she is the one who mentioned many unfortunate women and raised her voice to demand equal rights for those women. Now we see Xuan Huong appear again with an extremely interesting and unique topic but also very profound and meaningful: The spirit of Renaissance. When talking about Restoration, people immediately think of the Restoration movement in the West, which is extremely famous and has left many achievements to this day. It not only represents unique changes in the thinking and ideology of literature but also new features that contribute to the success of painting. It is about innovation and those distinct differences that we refer to Ho Xuan Huong with the restorative nature in her poetry. The Queen of Nom poetry did not hesitate to be a woman and dared to express worldly features in her poetry. It has an earthy beauty but also makes people feel confused when reading it. The poems she wrote imply that people have an extremely rich imagination and imply things that are no longer elegant but very mundane and sometimes even very confusing to strict readers. Ideas that promote human instinct and nature are most often mentioned when HO Xuan Huong writes about women: “Bamboo comb placed on the hair The peach bib hangs down below the dragon The scent of Bong Dao hills is still lingering A creek dug into the entire stream and filled with water." The verses just want to highlight the natural beauty of a woman while sleeping with images of breasts and extremely graceful and sexy images. Or bolder images and verses like: “No matter how many holes you thread, it will fit ………… Cut out the three missing skin corners Close both sides and still have leftover meat." Ho Xuan Huong's spirit of restoration expressed in his poem is also very clear. No matter how much the image reminds the reader, the poem's purpose is to draw the image of a woman. . "Young men bend their knees and bend their knees The girl bends her back and tilts her head up Two parallel rows stretching pearl pins The pile is pulled out and the hole is left empty." Art also partly refers to the expression of the spirit of Phuc Hung in Ho Xuan Huong's poetry and her concise way of speaking is one of the highlights of her art. These arts make the reader have unique associations about the poem when reading it. It can be said that in terms of both content and art, Ho Xuan Huong has brought a new perspective in poetry as well as in art. Therefore, it is not wrong to mention the spirit of overcoming evil in her poetry. Source: Good article
Tiêu chí và cấu trúc của văn bản văn học Hướng dẫn I. Tiêu chí của văn bản văn học Ngày nay, đa số nhận diện một văn bản văn học theo các tiêu chí sau: 1. Văn bản văn học là những văn bản đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và khám phá thế giới tình cảm và tư tưởng, thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Khái niệm về văn bản văn học là một vấn đề phức tạp, tuỳ thuộc vào quan niệm của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử để xác định. 2. Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao( trau chuốt, biểu cảm, hàm sức và đa nghĩa) 3. Văn bản văn học được xây dựng theo một phương thức riêng (thuộc về một thể loại nhất định và theo những qui ước, cách thức của thể loại đó). – Kịch: có hồi, có cảnh, có lời đối thoại, độc thoại … – Thơ: có vần, có điệu, luật, có câu thơ, có khổ thơ … – Truyện: có nhân vật, có sự việc, sự kiện, chi tiết, kết cấu cốt truyện, các loại lời văn … Ranh giới giữa văn bản văn học và những văn bản phi văn học không phải lúc nào cũng rõ ràng, cố định Ví dụ: + Có văn bản không phân biệt giữa văn sử (Sử kí Tư Mã Thiên) hay giữa triết văn (Nam Hoa kinh của Trang Tử) + Có những văn bản văn học là những sự kiện có ý nghĩa lịch sử xã hội (Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi) -Nội dung 2: Cấu trúc của văn bản văn học II. Cấu trúc của văn bản nghị luận 1. Tầng ngôn từ – từ ngữ âm đến ngữ nghĩa: – Đọc văn bản ta phải hiểu đúng (rõ) ngữ nghĩa và ngữ âm của các ngôn từ.(tức là hiểu các nghĩa: nghĩa tường minh→nghĩa hàm ẩn; từ nghĩa đen đến nghĩa bóng của từ ngữ, là hiểu các âm thanh gợi ra khi đọc, khi phát âm) Ví dụ 2: Từ ngôi sao nghĩa là “tỏa sáng”, chúng ta có ngôi sao điện ảnh, ngôi sao ca nhạc…với hàm nghĩa khen ngợi, ngưỡng mộ. Ví dụ 3: Mùa xuân: cây cối đâm chồi nảy lộc, tiết trời ấm áp ôn hòa, là mùa đẹp nhất trong năm => tuổi xuân: là tuổi đẹp nhất của con người, tràn đầy sức sống, nhiệt huyết,… – Tầng ngôn từ là bước thứ nhất cần phải vượt qua để đi vào chiều sâu của văn bản. 2. Tầng hình tượng: – Dùng ngôn từ nghệ thuật để xây dựng hình tượng – Hình tượng trong văn bản được sáng tạo nhờ các chi tiết, cốt truyện, nhân vật, hoàn cảnh, tâm trạng mà có sự khác nhau. Hình tượng văn học có thể là: hình ảnh thiên nhiên, sự vật, con người. – Ví dụ: SGK – VD: Hình ảnh thiên nhiên: sen, tùng, cúc, trúc, mai… + Sự vật: xe ô tô: Bài thơ về tiểu đội xe không kính… + Con người: anh thanh niên trong Lặng lẽ sa pa; cô gái thanh niên xung phong trong Những ngôi sao xa xôi; chị Dậu trong Tắt đèn… 3. Tầng hàm nghĩa: – Trong TPVH: Từ tầng ngôn từ đến tầng hình tượng, dần dần tìm ra tầng hàm nghĩa (ý nghĩa ẩn kín, ý nghĩa tiềm tàng) của văn bản. – Hàm nghĩa: + Điều nhà văn muốn tâm sự, những thể nghiệm về cuộc sống, những quan niệm về đạo đức xã hội, những hoài bão … + Để đi sâu vào hàm nghĩa của VBVH cần đi qua các lớp: đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng chủ đạo … – Ví dụ: SGK – VD: “Sen” trong bài ca dao, “Tùng” của Nguyễn Trãi, ngoài ca ngợi vẻ đẹp của sen trong đầm, của cây Tùng chống lại mùa đông gió tuyết còn nhằm một mục đích kín đáo hơn: ca ngợi chí khí giữ vững sự trong sạch của con người trong mọi hoàn cảnh (Sen). Còn “Tùng”: ca ngợi bản chất cao quý của cây Tùng cũng chính là phẩm chất cao quý của nhà Nho quân tử→niềm tự hào, tự tin trước cuộc đời. Miễn là có tài cao, có ý chí nhất định sẽ được trọng dụng để góp sức cho đất nước, cho cuộc đời => tâm sự đau đáu ủa Ức Trai → tầng hàm nghĩa – VBVH chỉ là hệ thống kí hiệu chưa tác động đến con người và xã hội. – TPVH thể hiện mối quan hệ giữa độc giả với TP, giữa độc giả với nhà văn. Người đọc hiểu TP thì lúc đó mới tác động đến con người và xã hội * Ghi nhớ: SGK tr 121 IV. Luyện tập Bài tập 1 SGK: * Văn bản “Nơi dựa”: SGK * Tìm hiểu: a. Bài thơ văn xuôi (có ý thơ, ngôn từ có nhịp điệu). Bài có 2 đoạn có cấu trúc tương tự nhau, gần như đối xứng với nhau: – Câu đầu đoạn là câu hỏi của nhà thơ về 1 hiện tượng nhìn thấy trên đường – Các câu tiếp diễn tả 2 nh n vật: nét mặt, đôi mắt, cử chỉ, cái miệng… – Câu kết của mỗi đoạn vừa là câu hỏi vừa là nỗi băn khoăn, suy nghĩ về nơi dựa – Các nhân vật được trình bày cốt làm nổi bật tính tương phản. b. Hàm nghĩa những hình tượng: người đàn bà – em bé; người chiến sĩ – bà cụ già: – Thông thường người yếu đuối tìm “nơi dựa” ở người vững mạnh. Ở đây ngược lại. – Nơi dựa ở đây là tinh thần: nơi con người tìm thấy niềm vui và ý nghĩa của cuộc sống → phẩm giá nhân văn của con người, giúp con người vượt qua những trở ngại. Bài tập 2 SGK: * Văn bản “Thời gian”: SGK a. Hàm nghĩa của các câu: – Câu 3, 4: Thời gian qua đi, những kỉ niệm của đời người cũng rơi vào quên lãng, vô tăm tích. Như vậy cuộc đời và những kỉ niệm đều tàn tạ, đều bị thời gian xoá nhoà. – Câu 5,6: sức sống mãnh liệt, tồn tại với thời gian của VHNT. NT đạt đến độ tuyệt vời sẽ tươi xanh mãi mãi, bất chấp thời gian. – Câu kết: đôi mắt người yêu – kỉ niệm tình yêu như giếng nước không cạn, gợi lên những điều trong mát ngọt lành. b. Ý nghĩa của bài thơ: Thời gian xóa nhòa tất cả, thời gian tàn phá cuộc đời con người. Duy chỉ có VHNT và kỉ niệm về tình yêu là có sức sống lâu dài. Bài tập 3 SGK: * Văn bản “Mình và ta”: SGK * Tìm hiểu: a. Chế Lan Viên dùng thơ để nói lên quan niệm của mình về VHNT: – Câu thơ 1,2 nói mối quan hệ thân thiết giữa bạn đọc (mình) và người viết (ta). Chỗ sâu thẳm trong tâm hồn người đọc cũng là chỗ sâu thẳm tâm hồn mà người viết tìm đến để khai thác, diễn tả. – Vì mối quan hệ tương thông đó mà người viết mới có thể tiêu biểu cho tâm hồn dân tộc, có thể sáng tác những tráng ca về đất nước b. Câu 3,4: Chế Lan Viên nói lên quá trình từ văn bản của nhà văn đến TPVH trong tâm trí người đọc. Viết không phải là nói hết, cạn lời, cạn ý. Nhà văn cần dành cho người đọc cơ hội tái tạo lại, tưởng tượng thêm, suy nghĩ rộng hơn thế giới NT được nói đến trong văn bản.
Criteria and structure of literary texts Instruct I. Criteria of literary texts Today, most people identify a literary text according to the following criteria: 1. Literary texts are texts that deeply reflect objective reality and explore the world of emotions and ideas, satisfying human aesthetic needs. The concept of literary text is a complex issue, depending on the concept of each country in each historical period to determine. 2. Literary texts are built with artistic words, have images, and are highly aesthetic (elaborate, expressive, powerful and multi-meaning). 3. Literary texts are constructed in a particular way (belonging to a certain genre and following the conventions and methods of that genre). – Drama: has acts, scenes, dialogue, monologues... – Poetry: has rhyme, rhythm, rules, verses, stanzas... – Story: has characters, incidents, events, details, plot structure, types of text... The boundary between literary texts and non-literary texts is not always clear or fixed For example: + There are texts that do not distinguish between historical texts (Si Ma Qian's Historical Records) or between philosophical texts (Zhuangzi's Nanhua Sutra) + There are literary texts that are events of social and historical significance (Edict to Move the Capital by Ly Cong Uan, Hich Tuong Si by Tran Quoc Tuan, Binh Ngo Dai Dai Cau by Nguyen Trai) -Content 2: Structure of literary text II. Structure of argumentative text 1. Verbal layer – from phonetics to semantics: – Reading the text, we must correctly (clearly) understand the semantics and phonetics of the words. (ie understand the meanings: explicit meaning → implicit meaning; from the literal meaning to the figurative meaning of words, is to understand the sounds sounds evoked when reading or pronouncing) Example 2: The word star means "to shine", we have movie stars, music stars... with the meaning of praise and admiration. Example 3: Spring: trees sprout, the weather is warm and mild, is the most beautiful season of the year => spring: is the most beautiful age of humans, full of vitality, enthusiasm,... – The verbal level is the first step that needs to be overcome to go into the depth of the text. 2. Image layer: – Use artistic language to build images – Images in text are created thanks to different details, plots, characters, situations, and moods. Literary images can be: images of nature, things, people. – Example: Textbook – Example: Natural images: lotus, pine, chrysanthemum, bamboo, apricot… + Thing: car: Poem about a squad of cars without windows... + Person: young man in Quiet Sapa; the young volunteer girl in Distant Stars; Ms. Dau in Turn Off the Lights… 3. Meaning layer: – In literary works: From the verbal layer to the image layer, gradually find the connotative layer (hidden meaning, potential meaning) of the text. – Meaning: + What the writer wants to confide in, life experiences, concepts of social ethics, ambitions... + To go deeper into the meaning of cultural literature, you need to go through the layers: themes, topics, ideas, main inspirations... – Example: Textbook – For example: "Lotus" in the folk song, "Tung" by Nguyen Trai, in addition to praising the beauty of the lotus in the lagoon and the Tung tree against the winter wind and snow, also has a more discreet purpose: praising the spirit. maintain human purity in all circumstances (Sen). As for "Tung": praising the noble nature of the Tung tree is also the noble qualities of a Confucian gentleman→pride and confidence in life. As long as you have great talent and will, you will definitely be used to contribute to the country and to life => Uc Trai's painful thoughts → layers of meaning – Cultural heritage is just a symbol system that has not yet impacted people and society. – Literary literature shows the relationship between readers and writers, between readers and writers. Readers who understand the city will then have an impact on people and society * Remember: Textbook page 121 IV. Practice Exercise 1 Textbook: * Text "Relying place": Textbook * Learn about: a. Prose poem (with poetic ideas and rhythmic language). The article has two paragraphs with similar structures, almost symmetrical: – The first sentence of the paragraph is the poet's question about a phenomenon seen on the road – The next sentences describe two characters: facial expressions, eyes, gestures, mouth... – The ending sentence of each paragraph is both a question and a concern, a thought about where to rely – The characters are presented to highlight contrast. b. Meaning of images: woman - baby; soldier - old woman: – Usually weak people find "support" in strong people. Here it's the opposite. – The place to rely here is the spirit: where people find joy and meaning in life → human dignity, helping people overcome obstacles. Exercise 2 Textbook: * Text "Time": Textbook a. Meaning of the sentences: – Sentences 3, 4: As time passes, the memories of life also fall into oblivion, without a trace. Thus life and memories are withered, erased by time. – Sentences 5,6: strong vitality, existing over time of traditional culture. Plants that reach greatness will stay green forever, regardless of time. – Conclusion: lover's eyes – memories of love are like a well of water that never runs dry, evoking cool and sweet things. b. Meaning of the poem: Time erases everything, time destroys human life. Only culture and memories of love have lasting vitality. Exercise 3 Textbook: * Text "I and I": Textbook * Learn about: a. Che Lan Vien uses poetry to express his concept of contemporary culture: – Verses 1 and 2 talk about the close relationship between the reader (me) and the writer (me). The deep place in the reader's soul is also the deep place in the soul that the writer seeks to exploit and describe. – Because of that mutual relationship, the writer can represent the national soul and compose epic songs about the country. b. Sentences 3,4: Che Lan Vien talks about the process from the writer's text to the literary text in the reader's mind. Writing is not about saying everything, running out of words, running out of ideas. Writers need to give readers the opportunity to recreate, imagine more, and think more broadly about the NT world mentioned in the text.
Tiếng báo động…nghĩ đến mà kinh! (Về bài Ôn dịch, thuốc lá của Nguyễn Khắc Viện) – Bình giảng Ngữ Văn 8 Hướng dẫn Tiếng báo động…nghĩ đến mà kinh Qua bài Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000, các nhà khoa học đã cảnh báo chúng ta một nguy cơ ô nhiễm môi trường là nạn sử dụng bao bì ni lông một cách bừa bãi. Song còn biết bao nhiêu tệ nạn nữa cần cảnh báo, thậm chí cần báo động. Một trong những tệ nạn ấy là “nghiện thuốc lá”. Đọc bài Ôn dịch, thuốc lá của bác sĩ – nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện – chúng ta được cảnh báo thêm về một vấn đề thiết yếu với đời sống mỗi người. Đây là một văn bản thuyết minh, kết hợp những lập luận khoa học rất sáng tỏ và chặt chẽ. Từ nhan đề của văn bản đến bố cục, các dẫn chứng, các lời giải thích, lập luận, nhất là hai cụm từ (một ở phần mở đầu, một ở phần kết thúc), tác giả đã vừa chỉ rõ những nguy hại ghê gớm vừa bày tỏ sự kinh hãi, lời lên án gay gắt với tệ nghiện thuốc lá. Lấy ra hai cụm từ đặc sắc của bài văn, chúng ta có thể coi đây là những tiếng báo động khẩn thiết về nạn nghiện thuốc lá mà mỗi lần nghĩ đến ai cũng phải rùng mình, kinh sợ: Ôn dịch, thuốc lá, tiếng báo động… nghĩ đến mà kinh! Tiếng báo động đáng kinh sợ ấy thể hiện ngay từ cái tiêu đề của bài viết. Tác giả dùng từ “thuốc lá” là nói tắt của “tệ nghiện thuốc lá”. Đặt “thuốc lá” sau từ “ôn dịch” là muốn so sánh tệ nghiện thuốc lá như một thứ bệnh có đặc điểm là dễ lây lan như “dịch tả”, “dịch cúm”,… Nhưng không viết “dịch thuốc lá” mà viết “Ôn dịch.. “, một từ thường dùng làm tiếng chửi rủa, hơn nữa lại đặt dấu phẩy giữa “ôn dịch” và “thuốc lá” như một biện pháp tu từ, người viết đã biểu lộ tình cảm vừa căm tức vừa ghê rợn. Ta có thể hiểu thâm ý của người viết thế này chăng: “Thuốc lá! Mày là đồ ôn dịch, đáng ghét, cần tiêu diệt”. Và tiếp theo, ngay ở phần mở bài (từ câu đầu đến “… còn nặng hơn cả AIDS”), tiếng báo động đã trực tiếp vang lên. Từ tin mừng loài người hầu như đã diệt trừ được dịch hạch, dịch tả, người viết nói tới đại dịch AIDS, rồi gióng lên hồi còi dài bằng một câu văn trĩu nặng nỗi lo: “… nhiều nhà bác học sau mấy chục năm và hơn năm vạn công trình nghiên cứu đã lớn tiếng báo động: Ôn dịch, thuốc lá đang đe doạ sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS”. Đúng là một hồi còi báo động làm kinh sợ người đọc, người nghe. Bởi vì, tác giả đã đặt ôn dịch thuốc lá ngang tầm với AIDS, đã sử dụng con số hơn năm vạn công trình nghiên cứu sau mấy chục năm của các nhà bác học để nhấn mạnh tính xác đáng, tầm quan trọng của thông tin. Tuy là văn bản khoa học, văn thuyết minh, nhưng cách dùng từ, đặt câu của tác giả khá tinh tế, phần nào bộc lộ được cảm xúc người viết và truyền tới người đọc. 1. Trước hết, thuốc lá gặm nhấm cơ thể, sức lực người hút, người nghiện. Tác giả chỉ rõ: “Khói thuốc lá chứa nhiều chất độc, thấm vào cơ thể”. Bằng lời giảng của một nhà khoa học, một bác sĩ tài giỏi, tác giả giải thích, phân tích cụ thể tác hại của khói thuốc lá đối với các bộ phận trong cơ thể người hút, người nghiện. Sau mỗi lời giảng giải là một sơ kết, nhấn mạnh những hậu quả thuốc lá gieo vào con người. Nào là “gây ho hen và sau nhiều năm gây viêm phế quản”, nào là “sức khoẻ người nghiện thuốc ngày càng sút kém”. Lại nữa, hỏi bệnh viện K, bác sĩ viện trưởng thông báo: “trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá”, đến Viện tim mạch, cũng được nghe Viện trưởng cho biết: “chất ni-cô-tin của thuốc lá làm các động mạch co thắt lại, gây những bệnh nghiêm trọng như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim,… có thấy nhũng người 40 – 50 tuổi đã chết đột xuất vì nhồi máu cơ tim… có thấy những khối u ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê gớm của thuốc lá…”. Trong một câu ngắn có tính khoa học lạnh lùng, tác giả đã dùng liền hai từ biểu cảm ghê tởm, ghê gớm khiến người đọc, đọc lên không khỏi rùng mình. Đấy là tiếng báo động cấp 1. 2. Tiếp sau là tiếng bấo động cấp 2: thuốc lá gặm nhấm cơ thể, sức khoẻ những người xung quanh. Để báo động điều này, tác giả sử dụng cách lập luận, tranh luận đơn giản mà thuyết phục. Dẫn lí sự của người nghiện: “Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi”, tác giả “đấu lại” luôn: “Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu độc những người ở gần anh… Hút thuốc thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc. Điều này hàng nghìn công trình nghiên cứu đã chứng minh…”. Như thế là rõ, người nghiện thuốc, hút thuốc không chỉ tự đầu độc mình mà còn đầu độc những người xung quanh. Những người xung quanh-đó là ai? Đó là vợ, con, những người làm việc cùng phòng, những người tiếp xúc với người nghiên. Họ hít phải khói thuốc, bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, cũng ung thư,… Và “Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác”. Những từ ngữ đầu độc, tội nghiệp thay, một tội ác,… xen kẽ trong đoạn văn vừa nhấn mạnh mức độ nguy hại của thuốc lá vừa bày tỏ thái độ nghiêm khắc phê phán những người nghiện thuốc lá. Tri thức khoa.học, kết hợp phương pháp lập luận và ngôn ngữ biểu cảm khiến cho đoạn văn sinh động, có sức thuyết phục cao. 3. Cao thêm một bậc nữa là thuốc lá gặm nhấm tâm hồn và lối sống của con người, nhất là thế hộ trẻ. Bố và anh, chú và bác hút thuốc không chỉ đầu độc thể lực mà còn nêu gương xấu cho con cháu. Tác giả nói như thế, rồi dẫn chứng số tiền thanh thiếu niên Âu Mĩ, thanh thiếu niên Việt Nam mua bao thuốc và nhấn mạnh: “đã hút là phải hút thuốc sang. Chỉ có một cách là trộm cắp… Từ điếu thuốc sang cốc bia rồi đến ma tuý, con đường phạm pháp đã mở đầu với điếu thuốc. Người lớn hút thuốc… chính là đã đẩy con em vào con đường phạm pháp”, ở đây, tác giả tập trung phê phán người lớn để đệm thêm cho tiếng báo động về tệ nạn nghiện thuốc lá. Song thế hệ trẻ, những học sinh THCS và THPT chúng ta cũng cần lắng nghe để giữ mình, đừng nên đổ lỗi hoàn toàn cho người lớn. Bởi vì, những người lớn nghiện hút nêu gương xấu trước mặt trẻ em, nếu trẻ em ý thức được cái xấu ấy, không đua đòi học theo thì thuốc lá không dễ gì hoành hành, tác yêu tác quái. Có thể nói, tiếng còi báo động của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện về nạn nghiện thuốc lá, tác hại và cách gây hại của thuốc lá mõi lúc một gióng cao thêm, vang xa hơn và thấm sâu vào trong lòng tất cả mọi lớp người. Tóm lại, giống như ôn dịch, nạn nghiện thuốc lá rất dễ lây lan và gây những tổn thất to lớn cho sức khoẻ và tính mạng con người. Song nạn nghiện thuốc lá còn nguy hiểm hơn cả ôn dịch. Nó gặm nhấm sức khoẻ con người nên không dễ nhận biết, nó gây tác hại nhiều mặt đối với cuộc sống gia đình và xã hội, mọi người hãy tìm cách chống lại nó, ngăn chặn nó. Muốn thế, ta cần có quyết tâm lớn, tự giác cao và nhiều biện pháp triệt để hơn cả việc phòng chống ôn dịch.
Tiếng báo động…nghĩ đến mà kinh! (Về bài Ôn dịch, thuốc lá của Nguyễn Khắc Viện) – Bình giảng Ngữ Văn 8 Hướng dẫn Tiếng báo động…nghĩ đến mà kinh Qua bài Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000, các nhà khoa học đã cảnh báo chúng ta một nguy cơ ô nhiễm môi trường là nạn sử dụng bao bì ni lông một cách bừa bãi. Song còn biết bao nhiêu tệ nạn nữa cần cảnh báo, thậm chí cần báo động. Một trong những tệ nạn ấy là “nghiện thuốc lá”. Đọc bài Ôn dịch, thuốc lá của bác sĩ – nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện – chúng ta được cảnh báo thêm về một vấn đề thiết yếu với đời sống mỗi người. Đây là một văn bản thuyết minh, kết hợp những lập luận khoa học rất sáng tỏ và chặt chẽ. Từ nhan đề của văn bản đến bố cục, các dẫn chứng, các lời giải thích, lập luận, nhất là hai cụm từ (một ở phần mở đầu, một ở phần kết thúc), tác giả đã vừa chỉ rõ những nguy hại ghê gớm vừa bày tỏ sự kinh hãi, lời lên án gay gắt với tệ nghiện thuốc lá. Lấy ra hai cụm từ đặc sắc của bài văn, chúng ta có thể coi đây là những tiếng báo động khẩn thiết về nạn nghiện thuốc lá mà mỗi lần nghĩ đến ai cũng phải rùng mình, kinh sợ: Ôn dịch, thuốc lá, tiếng báo động… nghĩ đến mà kinh! Tiếng báo động đáng kinh sợ ấy thể hiện ngay từ cái tiêu đề của bài viết. Tác giả dùng từ “thuốc lá” là nói tắt của “tệ nghiện thuốc lá”. Đặt “thuốc lá” sau từ “ôn dịch” là muốn so sánh tệ nghiện thuốc lá như một thứ bệnh có đặc điểm là dễ lây lan như “dịch tả”, “dịch cúm”,… Nhưng không viết “dịch thuốc lá” mà viết “Ôn dịch.. “, một từ thường dùng làm tiếng chửi rủa, hơn nữa lại đặt dấu phẩy giữa “ôn dịch” và “thuốc lá” như một biện pháp tu từ, người viết đã biểu lộ tình cảm vừa căm tức vừa ghê rợn. Ta có thể hiểu thâm ý của người viết thế này chăng: “Thuốc lá! Mày là đồ ôn dịch, đáng ghét, cần tiêu diệt”. Và tiếp theo, ngay ở phần mở bài (từ câu đầu đến “… còn nặng hơn cả AIDS”), tiếng báo động đã trực tiếp vang lên. Từ tin mừng loài người hầu như đã diệt trừ được dịch hạch, dịch tả, người viết nói tới đại dịch AIDS, rồi gióng lên hồi còi dài bằng một câu văn trĩu nặng nỗi lo: “… nhiều nhà bác học sau mấy chục năm và hơn năm vạn công trình nghiên cứu đã lớn tiếng báo động: Ôn dịch, thuốc lá đang đe doạ sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS”. Đúng là một hồi còi báo động làm kinh sợ người đọc, người nghe. Bởi vì, tác giả đã đặt ôn dịch thuốc lá ngang tầm với AIDS, đã sử dụng con số hơn năm vạn công trình nghiên cứu sau mấy chục năm của các nhà bác học để nhấn mạnh tính xác đáng, tầm quan trọng của thông tin. Tuy là văn bản khoa học, văn thuyết minh, nhưng cách dùng từ, đặt câu của tác giả khá tinh tế, phần nào bộc lộ được cảm xúc người viết và truyền tới người đọc. 1. Trước hết, thuốc lá gặm nhấm cơ thể, sức lực người hút, người nghiện. Tác giả chỉ rõ: “Khói thuốc lá chứa nhiều chất độc, thấm vào cơ thể”. Bằng lời giảng của một nhà khoa học, một bác sĩ tài giỏi, tác giả giải thích, phân tích cụ thể tác hại của khói thuốc lá đối với các bộ phận trong cơ thể người hút, người nghiện. Sau mỗi lời giảng giải là một sơ kết, nhấn mạnh những hậu quả thuốc lá gieo vào con người. Nào là “gây ho hen và sau nhiều năm gây viêm phế quản”, nào là “sức khoẻ người nghiện thuốc ngày càng sút kém”. Lại nữa, hỏi bệnh viện K, bác sĩ viện trưởng thông báo: “trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá”, đến Viện tim mạch, cũng được nghe Viện trưởng cho biết: “chất ni-cô-tin của thuốc lá làm các động mạch co thắt lại, gây những bệnh nghiêm trọng như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim,… có thấy nhũng người 40 – 50 tuổi đã chết đột xuất vì nhồi máu cơ tim… có thấy những khối u ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê gớm của thuốc lá…”. Trong một câu ngắn có tính khoa học lạnh lùng, tác giả đã dùng liền hai từ biểu cảm ghê tởm, ghê gớm khiến người đọc, đọc lên không khỏi rùng mình. Đấy là tiếng báo động cấp 1. 2. Tiếp sau là tiếng bấo động cấp 2: thuốc lá gặm nhấm cơ thể, sức khoẻ những người xung quanh. Để báo động điều này, tác giả sử dụng cách lập luận, tranh luận đơn giản mà thuyết phục. Dẫn lí sự của người nghiện: “Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi”, tác giả “đấu lại” luôn: “Hút thuốc là quyền của anh, nhưng anh không có quyền đầu độc những người ở gần anh… Hút thuốc thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc. Điều này hàng nghìn công trình nghiên cứu đã chứng minh…”. Như thế là rõ, người nghiện thuốc, hút thuốc không chỉ tự đầu độc mình mà còn đầu độc những người xung quanh. Những người xung quanh-đó là ai? Đó là vợ, con, những người làm việc cùng phòng, những người tiếp xúc với người nghiên. Họ hít phải khói thuốc, bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, cũng ung thư,… Và “Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác”. Những từ ngữ đầu độc, tội nghiệp thay, một tội ác,… xen kẽ trong đoạn văn vừa nhấn mạnh mức độ nguy hại của thuốc lá vừa bày tỏ thái độ nghiêm khắc phê phán những người nghiện thuốc lá. Tri thức khoa.học, kết hợp phương pháp lập luận và ngôn ngữ biểu cảm khiến cho đoạn văn sinh động, có sức thuyết phục cao. 3. Cao thêm một bậc nữa là thuốc lá gặm nhấm tâm hồn và lối sống của con người, nhất là thế hộ trẻ. Bố và anh, chú và bác hút thuốc không chỉ đầu độc thể lực mà còn nêu gương xấu cho con cháu. Tác giả nói như thế, rồi dẫn chứng số tiền thanh thiếu niên Âu Mĩ, thanh thiếu niên Việt Nam mua bao thuốc và nhấn mạnh: “đã hút là phải hút thuốc sang. Chỉ có một cách là trộm cắp… Từ điếu thuốc sang cốc bia rồi đến ma tuý, con đường phạm pháp đã mở đầu với điếu thuốc. Người lớn hút thuốc… chính là đã đẩy con em vào con đường phạm pháp”, ở đây, tác giả tập trung phê phán người lớn để đệm thêm cho tiếng báo động về tệ nạn nghiện thuốc lá. Song thế hệ trẻ, những học sinh THCS và THPT chúng ta cũng cần lắng nghe để giữ mình, đừng nên đổ lỗi hoàn toàn cho người lớn. Bởi vì, những người lớn nghiện hút nêu gương xấu trước mặt trẻ em, nếu trẻ em ý thức được cái xấu ấy, không đua đòi học theo thì thuốc lá không dễ gì hoành hành, tác yêu tác quái. Có thể nói, tiếng còi báo động của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện về nạn nghiện thuốc lá, tác hại và cách gây hại của thuốc lá mõi lúc một gióng cao thêm, vang xa hơn và thấm sâu vào trong lòng tất cả mọi lớp người. Tóm lại, giống như ôn dịch, nạn nghiện thuốc lá rất dễ lây lan và gây những tổn thất to lớn cho sức khoẻ và tính mạng con người. Song nạn nghiện thuốc lá còn nguy hiểm hơn cả ôn dịch. Nó gặm nhấm sức khoẻ con người nên không dễ nhận biết, nó gây tác hại nhiều mặt đối với cuộc sống gia đình và xã hội, mọi người hãy tìm cách chống lại nó, ngăn chặn nó. Muốn thế, ta cần có quyết tâm lớn, tự giác cao và nhiều biện pháp triệt để hơn cả việc phòng chống ôn dịch.
Tiếng gà trưa – Tiếng gọi về tuổi thơ – Bình giảng văn 7 Hướng dẫn Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là nhà thơ nữ xuất sắc nhất của nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh thường hướng về những hình ảnh, những sự việc bình dị, gần gũi trong đời sống thường nhật trong gia đình, tình yêu, tình mẹ con, bà cháu,… Bài thơ Tiếng gà trưa là một bài thơ như thế. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh cả nước chống đế quốc Mĩ xâm lược. Như nhiều tác phẩm đương thời, thơ Xuân Quỳnh hướng vào chủ đề bao trùm của cả nền văn học bấy giờ là lòng yêu quê hương, đất nước và cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn dân, trước hết là của những người cầm súng. Do đó, tuy bài thơ có nhiều kỉ niệm riêng của bản thân nhà thơ, nhưng hình tượng nhân vật trữ tình lại là người chiến sĩ đang trên đường hành quân, ra tiền tuyến. Cái tôi riêng của người nghệ sĩ và cải ta chung của cả thế hệ, cả dân tộc hoà hợp tự nhiên, hồn nhiên, toả ra những cảm hứng vừa thân thương, gần gũi vừa cao cả thiêng liêng, lay động lòng người. Đây là tác phẩm viết theo thể thơ tự do, trừ cụm từ Tiếng gà trưa ba tiếng, còn lại, mỗi câu thơ gồm năm âm tiết, nối nhau, mở đầu và kết thúc theo ý tưởng và cảm xúc của nhà thơ. Ta có thể coi bài Tiếng gà trưa là thơ ngũ ngôn, một thể thơ gốc Việt Nam, bắt nguồn từ thể hát dặm Nghệ Tĩnh và vè dân gian. Bài thơ, vì thế, có giọng điệu kể chuyện tâm tình, nhẹ nhàng, thủ thỉ, tự sự, miêu tả và biểu cảm xen nhau. Trong bài thơ, cụm từ ba âm tiết Tiếng gà trưa điệp lại bốn lần ở đầu mỗi khổ thơ. Mỗi lần cất lên, câu thơ ấy gợi một hình ảnh, hoặc sự việc trong kỉ niệm tuổi thơ của chính tác giả và của nhân vật trữ tình – người chiến sĩ đang hành quân. Điệp ngũ Tiếng gà trưa như dòng nhạc chủ âm vừa kết nối các đoạn thơ vừa điểm nhịp cho từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Dựa vào mạch cảm xúc và điệp ngữ ấy, chúng ta có thể hiểu và suy ngẫm vê bài thơ theo ba đoạn: Tiếng gà cất lên trên đường hành quân – đoạn một (khổ một, bảy câu đầu) ; Tiếng gà gọi về tuổi thơ – đoạn hai (khổ hai, ba, bốn, năm, sáu – hai mươi sáu câu tiếp theo) ; Tiếng gà giục giã tinh thần chiến đấu – đoạn ba (hai khổ thơ cuối). Sau tiếng gà nhảy ổ ở hiện tại, sang đoạn hai, tiếng gà gọi về những kỉ niệm tuổi thơ. Ba khổ thơ, hai mươi sáu câu nối nhau cùng với Tiếng gà trưa điệp lại những ngày thơ bé với biết bao kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương. Qua thơ, chúng ta được cùng người chiến sĩ ấy sống những ngày tháng thật là dịu êm trong tình yêu thương của người bà, và… câu chuyện về những con gà cũng rất đáng yêu. Nào là hình hài màu sắc của mấy chị “Gà mái mơ, khắp mình hoa đốm trắng”, “Gà mái vàng, lông óng như màu nắng”. Nào là chuyện nhìn gà đẻ, bị bà mắng yêu. Nào là hình ảnh bà soi trứng, theo dõi quá trình gà ấp với bàn tay khum khum, với tấm lòng chắt chiu, nâng đỡ từng sự sống nhỏ nhoi trong từng quả trứng. Rồi chuyện bà: Mong trời đừng sương muối Để cuối năm bán gà Cháu được quần áo mới Ôi cái quần chéo go Ống rộng dài quét đất Cái áọ cánh trúc bâu Đi qua nghe sột soạt… Càng về cuối, kỉ niệm tuổi thơ càng da diết cảm động. Qua những dòng thơ êm nhẹ, thánh thót như những nốt nhạc trong veo, hình ảnh người bà Việt Nam hiện lên đẹp như một bà tiên vậy. Bà dành tất cả sức lực và tình thương yêu cho đứa cháu nhỏ. Bà đã tần tảo, chắt chiu chăm sóc, nâng đỡ từng quả trứng, từng chú gà con, như chắt chiu, nâng đỡ những ước mơ hạnh phúc đon sơ, nhỏ bé của đứa cháu yêu. Hình ảnh đứa cháu được mặc bộ quần áo mới do công lao nuôi gà của bà ban tặng, hồn nhiên, ngây thơ làm sao. Chỉ là “cái quần chéo go”, “cái áo cánh chúc bâu” (những loại vải rẻ tiền, mà ngày nay ít người dùng) nhưng đứa cháu – chắc là một cô gái – đã vô cùng cảm động, sung sướng. Đấy đâu chỉ là bộ quần áo dài rộng, cựa quậy một tí là bật ra tiếng sột soạt, mà là biết bao hạnh phúc, biết bao tấm lòng bà đã dành cho cháu. Hình ảnh và tâm trạng người thiếu niên – những chiến sĩ chống Mĩ thuở ấu thơ – được khắc hoạ chân thực, mang bản chất nông dàn, bản sắc Việt Nam, thật là đáng trân trọng. Đó là những con người giản dị, được lớn lên trong tình thương yêu, nâng đỡ của quê hương, của những người ruột thịt. Được hưởng hạnh phúc ấy, họ thực sự cảm động và mãi nhớ ơn quê hương, ông bà, cha mẹ. Riêng với nữ sĩ Xuân Quỳnh, có lẽ mối tình sâu nặng và ân nghĩa nhất là tình bà cháu. Nếu không nhớ thương, biết ơn bà, làm sao mà viết được những câu thơ, ghi lại được những kỉ niệm đẹp như thế. Thơ với đời, hiện tại và quá khứ cứ đan xen, gắn bó hài hoà, tự nhiên, hồn nhiên, trong veo như nắng trưa và gió mát ngày hè vậy. Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu TỔ quốc Vì xóm làng thân thụ ộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác Ổ trứng hồng tuổi thơ. Từ những kỉ niệm tuổi thơ thấm đẫm tình bà cháu, cảm húng thơ mở rộng hướng tới tình yêụ đất nước, nhắc nhở, giục giã những chiến sĩ – trong đó có nhà thơ Xuân Quỳnh – hãy chắc tay súng tiến lên chống kẻ thù xâm lược bảo vệ gia đình, làng xóm quê hương và nền Độc lập, Tự do của Tổ quốc. Tóm lại, bài thơ Tiếng gà trưa viết về một loại âm thanh quen thuộc, bình dị trên quê hương, đất nước ta, nhưng đã thể hiện những suy nghĩ rất sâu sắc, những cảm xúc thật cao đẹp của nữ sĩ Xuân Quỳnh. “Tiếng gà trưa” đã gọi về những kỉ niệm của tuổi thơ thơ mộng và tình bà cháu đậm đà thắm thiết. Những tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc thêm tình yêu nước và nhắc nhở chúng ta tinh thần, trách nhiệm đối với đất nước. Bài thơ viết theo thể thơ năm tiếng có cách diễn đạt chân thành, tự nhiên vừa miêu tả biểu cảm, vừa tự sự biểu cảm bằng nhiều hình ảnh, ngôn ngữ bình dị, lay động lòng người. Xem lại bài bình giảng Đêm rằm tháng riêng, niềm vui tỏa sáng
The sound of the chicken at noon - The call of childhood - Literature commentary 7 Instruct Xuan Quynh (1942 - 1988) is the most outstanding female poet of modern Vietnamese poetry. Xuan Quynh's poetry often focuses on images and simple, close events in daily family life, love, mother-child love, grandmother-grandchild love, etc. The poem The Sound of Chickens at Lunch is such a poem. The poem was born in the context of the whole country resisting the American imperialist invasion. Like many contemporary works, Xuan Quynh's poetry focuses on the overarching theme of the entire literature at that time: love for the homeland and country and encouraging the fighting spirit of the entire people, first of all those who hold guns. . Therefore, although the poem has many personal memories of the poet himself, the image of the lyrical character is a soldier on the march to the front line. The artist's personal ego and the collective self of the whole generation and the whole nation are in natural and innocent harmony, radiating inspirations that are both dear, close and sacred, touching people's hearts. This is a work written in free verse, except for the phrase "Chicken's sound at noon", the rest, each verse consists of five syllables, connected to each other, opening and ending according to the poet's ideas and feelings. We can consider the song Chicken Lunch as a pentagram poem, a poetic form of Vietnamese origin, originating from the Nghe Tinh singing form and folk rhymes. The poem, therefore, has an emotional, gentle, cooing, narrative, descriptive and expressive tone. In the poem, the three-syllable phrase Chicken at Lunch repeats four times at the beginning of each stanza. Each time it is sung, that verse evokes an image or incident in the author's own childhood memories and of the lyrical character - the soldier on the march. The pentameter The Noon Chicken Sounds is like a tonal music that both connects the verses and sets the rhythm for each emotional level of the lyrical character. Based on that emotional flow and alliteration, we can understand and reflect on the poem in three paragraphs: The sound of a rooster on the march - paragraph one (stanza one, first seven lines); The sound of a chicken calling back to childhood - paragraph two (stanzas two, three, four, five, six - the next twenty-six verses); The sound of chickens stirs up the fighting spirit – stanza three (last two stanzas). After the sound of the chicken jumping into the nest in the present, in the second part, the sound of the chicken calls back to childhood memories. Three stanzas, twenty-six sentences connected together with the Noon Chicken Sound recall childhood days with so many beautiful and dear memories. Through poetry, we can live with that soldier very gentle days in the love of his grandmother, and... the story about the chickens is also very lovely. What are the colors of the girls: "A dreamy hen, with white flowers all over her body", "Yellow hen, with feathers as shiny as the sun". What about watching the chickens lay eggs and being scolded by my grandmother? This is the image of her examining eggs, monitoring the incubation process of chickens with cupped hands, with a thoughtful heart, supporting every little life in each egg. Then her story: I hope there is no frost To sell chickens at the end of the year I got new clothes Oh those skinny pants Long wide tube sweeps the ground The bamboo winged ao dai As I passed by, I heard rustling… Towards the end, childhood memories become more and more touching. Through lines of poetry that are gentle and sweet like clear musical notes, the image of a Vietnamese grandmother appears as beautiful as a fairy. She devoted all her energy and love to her little grandchild. She diligently and diligently cared for and supported each egg and each chick, like a great-grandchild, supporting her beloved grandchild's simple, small dreams of happiness. The image of the grandchild wearing new clothes given by her efforts in raising chickens is so innocent and innocent. It was just "tight pants" and "a blouse" (cheap fabrics that few people use these days), but the grandchild - probably a girl - was extremely touched and happy. It's not just the long, loose clothes that make a rustling sound when you move a little, but how much happiness and how much heart she has for her grandchild. The images and moods of the teenagers - childhood anti-American soldiers - are realistically portrayed, capturing the nature of the farm, the Vietnamese identity, truly worthy of respect. These are simple people, raised in the love and support of their homeland and relatives. Enjoying that happiness, they are truly touched and forever grateful to their homeland, grandparents, and parents. As for female artist Xuan Quynh, perhaps the deepest and most grateful love is the love between grandmother and grandchild. If I didn't remember and be grateful to her, how could I write poems and record such beautiful memories? Poetry and life, present and past are intertwined, harmoniously linked, natural, innocent, and clear like the noon sun and cool breeze on a summer day. I fight today Because of love for the Fatherland Because the village is a relative Grandma, it's also because of you Because of the clucking sound of chickens The pink nest of childhood. From childhood memories imbued with the love between grandparents and grandchildren, the poem's feelings expand towards love for the country, reminding and urging soldiers - including poet Xuan Quynh - to be sure of their guns and advance against the enemy. invade to protect the family, the village, the homeland and the Independence and Freedom of the Fatherland. In short, the poem The Sound of Chicken at Lunch is written about a familiar, simple sound in our homeland, but it expresses the very deep thoughts and noble emotions of female artist Xuan Quynh. “The sound of chicken at noon” brings back memories of poetic childhood and the rich and passionate love between grandmother and grandchild. The feelings of family and homeland have deepened our patriotism and reminded us of our spirit and responsibility towards the country. The poem is written in five-hour verse with a sincere and natural expression that both describes emotions and narrates expressions using many images and simple language that touches people's hearts. Review the commentary On the full moon night of the month, joy shines
Tiếng gọi của tự do (Về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu) – Bình giảng Ngữ Văn 8 Hướng dẫn Tiếng gọi của tự do Tự do, vốn là khao khát của con người, từ xưa đến nay vốn thế. Nó tha thiết và thiêng liêng. Tuy nhiên, quan niệm về tự do thì mỗi thời một khác. Cái khác ấy ở bài thơ Khi con tu hú là khao khát của một thế hệ mới – thế hệ những chàng trai vừa bước chân vào con đường tranh đấu để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, của một thời đại mới – thời đại mở ra từ Cách mạng tháng Mười năm 1917 (“Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi” – Hi vọng). Tiếng gọi ấy lại vang vọng vào thơ, thơ của một thời Thơ mới (1932 – 1945) lại là cái khác thứ hai, lần này là về nghệ thuật. Khi con tu hú là điểm gặp gỡ giữa hai yếu tố nội dung và hình thức nói trên. Nó là đại diện cho nền thơ ca cách mạng những năm ba mươi của thế kỉ trước. Vậy nên hiểu bài thơ như thế nào? Trả lời câu hỏi: nếu viết một câu văn xuôi mở đầu bàng cụm từ “Khi con tu hú” để tóm tắt nội dung bài thơ, có thể có hai cách viết: – Khi chim tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng giam chật chội, càng thèm khát cháy bỏng một cuộc sống tự do tưng bừng ở bên ngoài. Tên bài thơ đã gợi mở mạch cảm xúc của bài thơ. – Khi chim tu hú gọi bầy, người tù cách mạng – chủ thể trữ tình, với một tâm hồn trẻ trung vốn gắn bó với phong trào, với đồng chí, bè bạn giữa cuộc đời đấu tranh cao rộng nay bị giam cầm cháy lên một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ ấy hướng về tự do. Nó trở thành một niềm khao khát. Giữa hai cách diễn đạt này, nên chăng chọn cách thứ hai? Bởi nó trình bày đúng hơn, khách quan hơn mạch cảm xúc, nền cảm xúc của bài thơ, nghĩa là cơ sở tinh thần của những khao khát tự do ấy. Trên định hướng đúng này, ta đi vào phân tích bài thơ. Bài thơ có mười câu, đã dành sáu câu cho đoạn thứ nhất: Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn rậm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàn g hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không… Đây là cảnh mùa hè tiêu biểu ở các làng quê. Nhưng bức tranh hiện thực ấy được mở ra bằno hai lớp: lắng nghe và hồi tưởng, hiện tại và quá khứ, cái đang tới và cái đã qua. Cái hôm nay – cái bây giờ mà nhà thơ đang nghe là tiếng chim tu hú, một sự lắng nghe bất chợt sau một thời gian bị xiểng xích trong tù (“Khi con tu hú sọi bầy”). Cái cảm giác đột nhiên ấy – sở dĩ là đột nhiên, vì nó xuất hiện trong một khối cảnh không gian đặc biệt: hiếm khi có âm thanh cuộc sống vọng vào. Cảm giác này phải chăng giống với tâm trạng của tác giả Nhật kí trong tù khi. nghe tiếng sáo (“Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu“). Nó lạ lẫm và khơi gợi vô cùng. Tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến. Nhưng nó đến như thế nào thì tác giả không nhìn thấy. Vốn sống, sự gắn bó với mọi làng quê đã được huy động để thay vào. Lấp đầy cái khoảng trống bị vây bọc bởi bốn bức tường xà lim lạnh lẽo là sự tưởng tượng của nhà thơ mà người đọc không cảm thấy có một chút gì khiên cưỡng, gò ép. Mạch thơ vẫn hết sức tự nhiên như không có một sự lắp ghép cố tình nào. Hãy đọc lại: Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần. Hai câu thơ, và rồi bốn câu tiếp như một tác động dây chuyền: cứ tiếng chim xuất hiện là mùa màng, cây trái đến theo. Sự hô – ứng ấy bao đời vẫn thế bởi đó là quy luật của tự nhiên. Tiếng chim gọi bầy mà cũng là tiếng chim gọi mùa chính là vì thế. Nó lập tức xôn xao. Nó va đụng vào lòng người nao nức lắm. Cần chú ý hai trạng thái chín của lúa và ngọt của cây: đang chín, ngọt dần. Nếu thay vào đã chín, ngọt rồi, câu thơ sẽ khác, sẽ ở vào thế tĩnh, đông cứng lại ngay. Còn ở đây tả chim mà như nó đang bay, tả hoa mà như nó chớm nở, nó mỉm cười thì ấy là cái động của thơ, của hoạ. Cái động ấy ở đây là do tài của nhà thơ, nhưng cũng là do tình của nhà thơ thân mến nó. Nghe một tiếng chim kêu mà thấy mạch sống của cây, của lúa sinh sôi, đang rạo rực thân cành thì chỉ có thể ở những con người yêu thương cuộc đời, yêu thương sự sống đến mức thắt lòng. Từ đó mà tưởng tượng nảy sinh. Ấy là chưa nói đến ưu thế uyển chuyển, nhịp nhàng, giàu khả năng diễn đạt tâm tình của thơ lục bát. Thơ lục bát vừa có hình thức cố định lại vô cùng biến hoá. Chẳng hạn trong bốn câu thơ đầu, nếu lấy tiêu chí giác quan mà nhìn vào kết cấu thì ta thấy mỗi cặp câu 6/8 có đủ cả thính giác và thị giác, từng đôi một, tạo cảm giác âm thanh giục giã mùa màng bước vào ngày hội: Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào. Nếu bốn câu thơ đầu là bốn câu thơ đẹp, nó nói được cái ríu rít của mùa hè, của cây trái xum xuê thì hai câu sau tưởng như không ăn nhập gì với không khí ấy bởi nó nói đến những con diều sáo, một sắc trời xanh. Nguyễn Trãi xưa vì mừng thấy dân khắp nơi “giàu đủ” mà nghĩ đến cây đàn của vua Thuấn. Cây đàn với bát cơm, tấm áo trên một phương diện nào đó là khá xa nhau, nhưng thực thì chúng lại rất gần nhau, ở cảnh thanh bình, hạnh phúc. Vậy thì hai câu “Trời xanh càng rộng càng cao – Đôi con diều sáo lộn nhào từng không” phải chăng là những âm thanh vút cao lên từ một giai điệu bè trầm là bốn câu trước đó. Bài thơ có thể chia làm hai đoạn. Đoạn một gần như tả cảnh (nói gần như vì đó là một bức tranh gián tiếp) còn đoạn hai bộc lộ tâm tình, ít ra là trên những dấu hiệu hình thức của lời thơ: Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! Ngột làm sao, chết uất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu! Trong phần phân tích đoạn một, chúng ta có nêu một hiện tượng: quy luật dây chuyền, cảnh này gọi cảnh khác. Trên cấp độ lớn hơn, xét cả kết cấu bài thơ thì đoạn hai chính là do tác động dây chuyền của đoạn một. Dấu hiệu của tác động dây chuyền này là từ hè (“Ta nghe hè dậy bên lòng”). Không có cái mùa hè tốt tươi, bay lượn ấy thì có lẽ cái phòng giam vẫn cứ chỉ là phòng giam, một thứ phòng giam không tạo ra phản cảm. Bởi biết đâu người chiến sĩ sẽ phải chung sống với nó suốt đời? Ta mới hiểu tác động dây chuyền, sự đánh thức một tiềm năng cảm nghĩ ở nhà thơ mạnh mẽ đến chừng nào. Đạp tan phòng là mạnh mẽ, còn hè ôi như một tiếng kêu thương cảm xót xa. Cấu trúc của câu tám này về tiết tấu cũng khá đặc biệt. Thông thường nó được phổ vào hai vế tương đương 4/4. Còn ở đây là 6/2. Nhịp 6 ấy cứ như một uất hận xung thiên, còn nhịp 2, sau khi sức mạnh tưởng chừng lớn lao không gì ngăn cản được đụng phải bức tường hiện hữu khô khan và lạnh lẽo, nó trở nên một tiếng kêu thương, một tiếng thở dài cay đắng. Ấy là cuộc đụng đầu giữa ý chí chủ quan và hoàn cảnh khách quan của người thua cuộc. Nhưng thua cuộc chỉ là nhất thời, tạm thời. Cuộc vật lộn trong tâm trí của nhà thơ vẫn còn tiếp diễn. Không những dai dẳng, cường độ của nó không giảm đi mà còn tăng lên. Biết làm thế nào chiến thắng được hoàn cảnh, chiến thắng được bản thân khi lực lượng giao tranh không hề ngang sức. Nhịp thơ 3/3 ở câu “Ngột làm sao, chết uất thôi” diễn tả sự giằng co. Nhưng nó lại nghiêng về phía chủ thể người tù. Chính vì vậy ý thơ đã được nâng cấp nhưng vẫn bế tắc. Thế là, tiếng gọi của tự do thì vẫn tự do lên tiếng một cách vô tư, còn con người khao khát nó vẫn bị mất tự do, vẫn đang bị cầm tù. Cặp thơ lục bát song đôi cuối cùng mới như một niềm khắc khoải, bởi xung đột tinh thần ở nhà thơ đã đạt đến mức cao trào. Một cái gì đó sẽ phải xảy ra nhằm giải thoát một hoàn cảnh không thể dung hoà giữa nhà thơ với cảnh đời tù ngục. Tiếng chim tu hú, tiếng gọi của tự do âm áp làm sao, mà cũng nóng bỏng làm sao. Nó đang cháy lên một nỗi niềm khao khát. Từ tiếng gọi mùa đến tiếng kêu thúc giục con người hành động, bài thơ vận hành theo hướng đi từ bóng tối tù ngục đến ánh sáng của tự do.
Tiếng gọi của tự do (Về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu) – Bình giảng Ngữ Văn 8 Hướng dẫn Tiếng gọi của tự do Tự do, vốn là khao khát của con người, từ xưa đến nay vốn thế. Nó tha thiết và thiêng liêng. Tuy nhiên, quan niệm về tự do thì mỗi thời một khác. Cái khác ấy ở bài thơ Khi con tu hú là khao khát của một thế hệ mới – thế hệ những chàng trai vừa bước chân vào con đường tranh đấu để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, của một thời đại mới – thời đại mở ra từ Cách mạng tháng Mười năm 1917 (“Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi” – Hi vọng). Tiếng gọi ấy lại vang vọng vào thơ, thơ của một thời Thơ mới (1932 – 1945) lại là cái khác thứ hai, lần này là về nghệ thuật. Khi con tu hú là điểm gặp gỡ giữa hai yếu tố nội dung và hình thức nói trên. Nó là đại diện cho nền thơ ca cách mạng những năm ba mươi của thế kỉ trước. Vậy nên hiểu bài thơ như thế nào? Trả lời câu hỏi: nếu viết một câu văn xuôi mở đầu bàng cụm từ “Khi con tu hú” để tóm tắt nội dung bài thơ, có thể có hai cách viết: – Khi chim tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng giam chật chội, càng thèm khát cháy bỏng một cuộc sống tự do tưng bừng ở bên ngoài. Tên bài thơ đã gợi mở mạch cảm xúc của bài thơ. – Khi chim tu hú gọi bầy, người tù cách mạng – chủ thể trữ tình, với một tâm hồn trẻ trung vốn gắn bó với phong trào, với đồng chí, bè bạn giữa cuộc đời đấu tranh cao rộng nay bị giam cầm cháy lên một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ ấy hướng về tự do. Nó trở thành một niềm khao khát. Giữa hai cách diễn đạt này, nên chăng chọn cách thứ hai? Bởi nó trình bày đúng hơn, khách quan hơn mạch cảm xúc, nền cảm xúc của bài thơ, nghĩa là cơ sở tinh thần của những khao khát tự do ấy. Trên định hướng đúng này, ta đi vào phân tích bài thơ. Bài thơ có mười câu, đã dành sáu câu cho đoạn thứ nhất: Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn rậm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàn g hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không… Đây là cảnh mùa hè tiêu biểu ở các làng quê. Nhưng bức tranh hiện thực ấy được mở ra bằno hai lớp: lắng nghe và hồi tưởng, hiện tại và quá khứ, cái đang tới và cái đã qua. Cái hôm nay – cái bây giờ mà nhà thơ đang nghe là tiếng chim tu hú, một sự lắng nghe bất chợt sau một thời gian bị xiểng xích trong tù (“Khi con tu hú sọi bầy”). Cái cảm giác đột nhiên ấy – sở dĩ là đột nhiên, vì nó xuất hiện trong một khối cảnh không gian đặc biệt: hiếm khi có âm thanh cuộc sống vọng vào. Cảm giác này phải chăng giống với tâm trạng của tác giả Nhật kí trong tù khi. nghe tiếng sáo (“Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu“). Nó lạ lẫm và khơi gợi vô cùng. Tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến. Nhưng nó đến như thế nào thì tác giả không nhìn thấy. Vốn sống, sự gắn bó với mọi làng quê đã được huy động để thay vào. Lấp đầy cái khoảng trống bị vây bọc bởi bốn bức tường xà lim lạnh lẽo là sự tưởng tượng của nhà thơ mà người đọc không cảm thấy có một chút gì khiên cưỡng, gò ép. Mạch thơ vẫn hết sức tự nhiên như không có một sự lắp ghép cố tình nào. Hãy đọc lại: Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần. Hai câu thơ, và rồi bốn câu tiếp như một tác động dây chuyền: cứ tiếng chim xuất hiện là mùa màng, cây trái đến theo. Sự hô – ứng ấy bao đời vẫn thế bởi đó là quy luật của tự nhiên. Tiếng chim gọi bầy mà cũng là tiếng chim gọi mùa chính là vì thế. Nó lập tức xôn xao. Nó va đụng vào lòng người nao nức lắm. Cần chú ý hai trạng thái chín của lúa và ngọt của cây: đang chín, ngọt dần. Nếu thay vào đã chín, ngọt rồi, câu thơ sẽ khác, sẽ ở vào thế tĩnh, đông cứng lại ngay. Còn ở đây tả chim mà như nó đang bay, tả hoa mà như nó chớm nở, nó mỉm cười thì ấy là cái động của thơ, của hoạ. Cái động ấy ở đây là do tài của nhà thơ, nhưng cũng là do tình của nhà thơ thân mến nó. Nghe một tiếng chim kêu mà thấy mạch sống của cây, của lúa sinh sôi, đang rạo rực thân cành thì chỉ có thể ở những con người yêu thương cuộc đời, yêu thương sự sống đến mức thắt lòng. Từ đó mà tưởng tượng nảy sinh. Ấy là chưa nói đến ưu thế uyển chuyển, nhịp nhàng, giàu khả năng diễn đạt tâm tình của thơ lục bát. Thơ lục bát vừa có hình thức cố định lại vô cùng biến hoá. Chẳng hạn trong bốn câu thơ đầu, nếu lấy tiêu chí giác quan mà nhìn vào kết cấu thì ta thấy mỗi cặp câu 6/8 có đủ cả thính giác và thị giác, từng đôi một, tạo cảm giác âm thanh giục giã mùa màng bước vào ngày hội: Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào. Nếu bốn câu thơ đầu là bốn câu thơ đẹp, nó nói được cái ríu rít của mùa hè, của cây trái xum xuê thì hai câu sau tưởng như không ăn nhập gì với không khí ấy bởi nó nói đến những con diều sáo, một sắc trời xanh. Nguyễn Trãi xưa vì mừng thấy dân khắp nơi “giàu đủ” mà nghĩ đến cây đàn của vua Thuấn. Cây đàn với bát cơm, tấm áo trên một phương diện nào đó là khá xa nhau, nhưng thực thì chúng lại rất gần nhau, ở cảnh thanh bình, hạnh phúc. Vậy thì hai câu “Trời xanh càng rộng càng cao – Đôi con diều sáo lộn nhào từng không” phải chăng là những âm thanh vút cao lên từ một giai điệu bè trầm là bốn câu trước đó. Bài thơ có thể chia làm hai đoạn. Đoạn một gần như tả cảnh (nói gần như vì đó là một bức tranh gián tiếp) còn đoạn hai bộc lộ tâm tình, ít ra là trên những dấu hiệu hình thức của lời thơ: Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! Ngột làm sao, chết uất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu! Trong phần phân tích đoạn một, chúng ta có nêu một hiện tượng: quy luật dây chuyền, cảnh này gọi cảnh khác. Trên cấp độ lớn hơn, xét cả kết cấu bài thơ thì đoạn hai chính là do tác động dây chuyền của đoạn một. Dấu hiệu của tác động dây chuyền này là từ hè (“Ta nghe hè dậy bên lòng”). Không có cái mùa hè tốt tươi, bay lượn ấy thì có lẽ cái phòng giam vẫn cứ chỉ là phòng giam, một thứ phòng giam không tạo ra phản cảm. Bởi biết đâu người chiến sĩ sẽ phải chung sống với nó suốt đời? Ta mới hiểu tác động dây chuyền, sự đánh thức một tiềm năng cảm nghĩ ở nhà thơ mạnh mẽ đến chừng nào. Đạp tan phòng là mạnh mẽ, còn hè ôi như một tiếng kêu thương cảm xót xa. Cấu trúc của câu tám này về tiết tấu cũng khá đặc biệt. Thông thường nó được phổ vào hai vế tương đương 4/4. Còn ở đây là 6/2. Nhịp 6 ấy cứ như một uất hận xung thiên, còn nhịp 2, sau khi sức mạnh tưởng chừng lớn lao không gì ngăn cản được đụng phải bức tường hiện hữu khô khan và lạnh lẽo, nó trở nên một tiếng kêu thương, một tiếng thở dài cay đắng. Ấy là cuộc đụng đầu giữa ý chí chủ quan và hoàn cảnh khách quan của người thua cuộc. Nhưng thua cuộc chỉ là nhất thời, tạm thời. Cuộc vật lộn trong tâm trí của nhà thơ vẫn còn tiếp diễn. Không những dai dẳng, cường độ của nó không giảm đi mà còn tăng lên. Biết làm thế nào chiến thắng được hoàn cảnh, chiến thắng được bản thân khi lực lượng giao tranh không hề ngang sức. Nhịp thơ 3/3 ở câu “Ngột làm sao, chết uất thôi” diễn tả sự giằng co. Nhưng nó lại nghiêng về phía chủ thể người tù. Chính vì vậy ý thơ đã được nâng cấp nhưng vẫn bế tắc. Thế là, tiếng gọi của tự do thì vẫn tự do lên tiếng một cách vô tư, còn con người khao khát nó vẫn bị mất tự do, vẫn đang bị cầm tù. Cặp thơ lục bát song đôi cuối cùng mới như một niềm khắc khoải, bởi xung đột tinh thần ở nhà thơ đã đạt đến mức cao trào. Một cái gì đó sẽ phải xảy ra nhằm giải thoát một hoàn cảnh không thể dung hoà giữa nhà thơ với cảnh đời tù ngục. Tiếng chim tu hú, tiếng gọi của tự do âm áp làm sao, mà cũng nóng bỏng làm sao. Nó đang cháy lên một nỗi niềm khao khát. Từ tiếng gọi mùa đến tiếng kêu thúc giục con người hành động, bài thơ vận hành theo hướng đi từ bóng tối tù ngục đến ánh sáng của tự do.
Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh Ký Hướng dẫn Tiếng khóc của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh Ký Bài làm Có thể nói Nguyễn Du là nhà thơ của những mảnh đời tài hoa nhưng bất hạnh, nhất là với những người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng phận hẩm duyên hiu. Một lần vô tình đọc được những tâm tư uất hận trong số ít những bài thơ còn xót lại của nàng Tiểu Thanh –cô gái Trung Quốc tài hoa nhưng bất hạnh – trái tim ông rung lên vì đồng cảm, vì xót xa. Tiểu Thanh ra đi khi tuổi đời chỉ mới mười tám. Trước đó, nàng sống trong cảnh lẻ loi, hiu quạnh vì phải làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý và bị vợ cả ghen tuông bắt ra ở riêng bên Tây Hồ. Vì quá đau khổ mà nàng sin bệnh rồi chết. Những tháng ngày cô đơn, nàng chôn mình trong những vần thơ phẫn uất nhưng rồi chúng cũng bị đốt đi vì người vợ cả quá ích kỷ, hẹp hòi, cũng may còn xót lại một số bài. Cho đến khi Nguyễn Du bắt gặp những vần thơ ấy, nước mắt ông tuôn rơi, ông khóc cho nàng, và rồi khóc cho những người bất hạnh giống nàng. Cuối cùng, ông khóc cho chính bản thân mình – một đời thơ cũng lẻ loi và đơn côi bên những tập thơ buồn. Những tiếng khóc ấy, ông gửi gắm hết vào bài thơ “Độc tiểu Thanh Ký” với những từ ngữ ai oán, xót xa. Nguyễn Du đã khóc, khóc bằng những nước mắt chân thành chảy ra từ trái tim nhân hậu của ông, và từ đầu ngòi bút tuôn trào những vần thơ đầy não nề, đau đớn: “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư, Độc điếu song tiền nhất chi thư.” Dịch thơ: “Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn” Cảnh đẹp Tây Hồ lãng mạn là thế, tình tứ là thế, nhưng thật đáng buồn là càng đẹp bao nhiêu lại càng làm cho lòng người đớn đau bấy nhiêu. Bởi đó không phải là nơi cho người con gái đang độ xuân thì đuổi bướm bắt hoa mỗi ngày, mà lại là nơi giam cầm tuổi thanh xuân của nàng. Thời gian như đang gặm nhấm trái tim nàng. Ngoài kia, vườn hoa đang đua nhau khoe sắc, nhưng trong lòng nàng mọi thứ đang dần khép lại với cảnh sống cô liêu đơn chiếc một mình. Ở cái tuổi mười tám, lẽ ra trong cô đang trào dâng sức sống, đang tràn trề hi vọng và những lý tưởng sống tốt đẹp. Vì dù gì cô cũng là người có tài có sắc, lại thành thạo nghệ thuật thi ca. Nhưng sự thật phũ phàng và quá bẽ bàng khi người con gái ấy đã chết ở chính nơi đẹp nhất, lãng mạn nhất. Khiến cho Nguyễn Du giờ đây đang “Thổn thức bên song mảnh giấy tàn”. Người ta vẫn nói, đàn ông rất ít khi khóc. Nhưng nếu một khi đã khóc thì nỗi đau ấy phải đau đớn lắm, nghiệt ngã lắm. Hơn nữa, đây lại là Nguyễn Du, là một đại thi hào dân tộc, cay đắng cuộc đời đâu phải ông chưa từng trải qua. Vì thế, những giọt nước mắt của ông lại càng hiếm hoi hơn. Vậy mà, đứng trước “mảnh giấy tàn” lưu giữ chút tâm tư còn lại của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khóc, khóc với những giọt nước mắt chân thành từ tận trái tim. “Chi phấn hữu thần liên từ hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư” Dịch thơ: “Son phấn có thần chôn vẫn hận, Văn chương không mệnh đốt còn vương” Tiếng khóc của Nguyễn Du mỗi lúc một nỉ non hơn, xót xa hơn khi nỗi uất ức của nàng Tiểu Thanh sau khi chết rồi vẫn không được buông tha. Những tập thơ của nàng là tâm tư, là tình cảm của nàng, mực giấy có tội tình chi đâu mà người ta cũng lỡ đốt không tiếc thương. Cuộc sống của Tiểu Thanh ở nơi ấy chỉ có son phấn, có thơ làm bạn trong những tháng cô đơn, hiu quạnh. Vậy mà chết đi rồi cũng không thể nguôi ngoai. Niềm đồng cảm của Nguyễn Du càng ngày càng sâu sắc hơn, da diết hơn. Điều đó cho thấy, ông không những thương cảm số phận của người con gái bất hạnh, mà còn rất trân trọng những giá trị nghệ thuật của thơ ca, của văn học. Thế nên, tiếng khóc của đại thi hào dân tộc còn hướng đến những con người khác đồng cảnh ngộ như Tiểu Thanh. Đó là Đỗ Phủ, là Khuất Nguyên. Tuy họ không phải sống cảnh chung chồng, cảnh bị ghen tuông như Tiểu Thanh nhưng cũng đều chịu chung số phận cô quạnh, lẻ loi. Đến lúc chết cũng chỉ có một mình. Lặng lẽ dâng hiến cho đời, rồi lại lặng lẽ ra đi. “Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kỳ oan ngã tự cư” Dịch thơ: “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang.” Nỗi hận ở đây không chỉ mình Tiểu Thanh có, mà có từ rất xa xưa rồi, từ thời “cổ kim”, nó như một quy luật tự nhiên dành cho những người tài vậy. Ông hỏi trời nhưng trời không thấu. Còn bản thân ông bất lực không thể làm gì thay đổi số phận được. Xót xa, ngậm ngùi, những giọt nước trên mắt ông lại nặng trĩu tuôn rơi. Khóc Tiểu Thanh, và rồi ông khóc cho chính bản thân mình: “Bất tri tam bách, dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” Dịch thơ: “Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng?” Nguyễn Du bất chợt nhận thấy sự cô đơn của mình trong thực tại. Ông thấy mình cũng lẻ loi, hiu quạnh. Ông chỉ biết hướng lòng mình về quá khứ mà không thể nào chạm tay vào đó được. Ở nơi ấy có Tiểu Thanh, có Đỗ Phủ, có Khất Nguyên…, những con người cùng chung số phận hẩm hiu. Nhưng thưa Nguyễn Du, thưa đại thi hào dân tộc Việt Nam, các thế hệ học sinh hôm nay vẫn luôn nhớ đến ông, như một người thầy của thế hệ trước. Những bài thơ, những tư tưởng của ông vẫn còn lưu mãi trong sử sách cho hàng nghìn thế hệ sau noi theo. Vì vậy, tiếng khóc của ông sẽ không còn phải ai oán, não nề nữa. Vì mọi người vẫn luôn nhớ tới ông. Nguồn: Tài liệu trực tuyến
Nguyen Du's cry in the poem Doc Tieu Thanh Ky Instruct Nguyen Du's cry in the poem Doc Tieu Thanh Ky Assignment It can be said that Nguyen Du is a poet of talented but unhappy lives, especially of talented and beautiful girls with sad fates. Once accidentally reading the resentful thoughts in the few remaining poems of Tieu Thanh - a talented but unhappy Chinese girl - his heart shook with sympathy and sadness. Tieu Thanh passed away when she was only eighteen years old. Before that, she lived in a lonely and lonely situation because she had to be a concubine for a noble family and was forced by her jealous first wife to live alone by Tay Ho. Because she was so miserable, she got sick and died. During her lonely days, she buried herself in angry poems, but then they were burned because her first wife was too selfish and narrow-minded. Fortunately, a few poems remained. Until Nguyen Du encountered those poems, tears fell from his eyes, he cried for her, and then cried for unfortunate people like her. In the end, he cried for himself - a lonely and lonely poetic life filled with sad poetry books. He put all of those cries into the poem "Doc Tieu Thanh Ky" with plaintive and pitiful words. Nguyen Du cried, cried with sincere tears flowing from his kind heart, and from the tip of his pen flowed poems full of sorrow and pain: “The flowers of the West Lake fade away into ruins, One book, two books, one book." Poetry translation: "West Lake's beautiful scenery has turned into a deserted mound, Sobbing next to the broken piece of paper" The beautiful scenery of Tay Ho is so romantic and romantic, but sadly, the more beautiful it is, the more it makes people's hearts hurt. Because it is not a place for a girl in her youth to chase butterflies and catch flowers every day, but a place where her youth is imprisoned. Time seems to be gnawing at her heart. Outside, the flower garden is blooming, but in her heart everything is gradually closing in on her lonely life. At the age of eighteen, she should be overflowing with vitality, full of hope and good living ideals. Because after all, she is a talented and beautiful person, and is proficient in the art of poetry. But the harsh and humiliating truth is that that girl died in the most beautiful, most romantic place. Causing Nguyen Du to now be "sobbing next to the broken piece of paper". People still say that men rarely cry. But if you cry once, the pain must be very painful and cruel. Moreover, this is Nguyen Du, a great national poet, it is not like he has never experienced bitterness in life. Therefore, his tears became even rarer. Yet, standing in front of the "dead piece of paper" that kept Tieu Thanh's remaining thoughts, Nguyen Du cried, cried with sincere tears from the bottom of his heart. “The godly pollen is connected from behind, Literature has no fate or residue." Poetry translation: “Powder has the power to bury hatred, Literature that is not destined to be burned still lingers" Nguyen Du's cries became more and more tender and more painful as Tieu Thanh's resentment after her death was still not let go. Her poetry books are her thoughts, her feelings, the ink and paper have no sin, people will accidentally burn them without pity. Tieu Thanh's life in that place consisted only of makeup and poetry to be her friend during the lonely and desolate months. Yet even after death, I cannot be relieved. Nguyen Du's sympathy grew deeper and more intense. This shows that he not only sympathized with the fate of the unfortunate girl, but also highly appreciated the artistic values ​​of poetry and literature. Therefore, the cry of the great national poet also directed towards other people in the same situation as Tieu Thanh. That's Du Phu, that's Khuc Nguyen. Although they did not have to live together and be jealous like Tieu Thanh, they all suffered the same fate of loneliness and isolation. When I die, I'm alone. Quietly dedicate yourself to life, then quietly leave. “Ancient and present hate the troubles of the past, "Fate of fate, injustice, self-reflection" Poetry translation: “Ancient times of anger and wisdom ask, The sentence of exile is brought upon oneself." The hatred here is not only Tieu Thanh has, but has existed since a very long time ago, from "ancient" times, it is like a natural law for talented people. He asked heaven but heaven did not understand. And he himself was powerless to do anything to change his fate. Feeling sad and sad, tears fell heavily from his eyes. Crying for Tieu Thanh, and then he cried for himself: “Not knowing the three hundred years, after many years, People in the world are waiting for To Nhu?” Poetry translation: “I don't know three hundred years from now, Who in the world cries for To Nhu? Nguyen Du suddenly realized his loneliness in reality. He found himself alone and lonely. He only knows how to direct his heart to the past but cannot touch it. In that place, there is Tieu Thanh, there is Do Phu, there is Khac Nguyen..., people with the same sad fate. But Mr. Nguyen Du, the great poet of the Vietnamese nation, today's generations of students still remember you as a teacher of the previous generation. His poems and thoughts are still preserved in history books for thousands of generations to follow. Therefore, his cries will no longer be sad or sorrowful. Because people still remember him. Source: Online documents
Tiếng Việt giàu và đẹp – một phát hiện khoa học lí thú – Bình giảng văn 7 Hướng dẫn Chúng ta là người Việt Nam, hằng ngày dùng tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của toàn dàn – tiếng Việt – để suy nghĩ, nói năng, giao tiếp. Nhưng đã mấy ai biết tiếng nói Việt Nam có những đặc điểm, những giá trị gì và sức sống của nó ra sao. Trong thơ và âm nhạc đã có vài ba người ca ngợi vẻ đẹp, nét độc đáo của tiếng Việt. Song muốn hiểu sâu để cảm nhận một cách thích thú vẻ đẹp, sự độc đáo của tiếng nói dân tộc Việt Nam, ta hãy đi tìm các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn chương. Một trong những người ấy là Giáo sư Đặng Thai Mai, tác giả bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt. Bài nghị luận ấy ngắn gọn mà sâu sắc đã giải thích và chứng minh một cách thuyết phục nét đặc trưng cơ bản của tiếng nói Việt Nam chúng ta: “giàu và đẹp”. Bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt (tên bài do người soạn sách đặt) là đoạn trích ở phần đầu của bài nghiên cứu Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, in lần đầu năm 1967, được bổ sung và đưa vào Tuyển tập Đặng Thai Mai. Tuy là đoạn trích, song văn bản mà chúng ta được đọc vẫn có cấu tạo khá trọn vẹn như một áng văn nghị luận thể văn chúng minh. Chúng ta có thể đọc văn bản ấy theo ba đoạn: Mở bài (từ “Người Việt Nam ngày nay…” đến “… các thời kì lịch sử”): Nhận định tiếng Việt là thứ tiếng nói đẹp và hay, giải thích ngắn gọn nhận định ấy. Đây là phần nêu vấn đề trong bài nghị luận. Thân bài (“Tiếng Việt, trong cấu tạo,..” đến ”…. kĩ thuật, văn nghệ, v.v.”): chứng minh cái đẹp và sự giàu có (cái hay) của tiếng Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Kết bài (câu văn còn lại): Nhấn mạnh, khẳng định cái đẹp, cái hay của tiếng Việt chính là sức sống của tiếng Việt, cũng có ý nghĩa biểu hiện sức sống của dân tộc. Vì là bài nghị luận nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ, nên tác giả dùng lí lẽ và dẫn chứng thuộc phạm vi ngôn ngữ và thực tiễn, chứ không đưa ra nhũng ví dụ cụ thể về những ngữ liệu văn chương hay tiếng nói trong đời sống hằng ngày. Do đó, khi tìm hiểu áng văn này, chúng ta cần kết họp việc suy ngẫm về các lí lẽ, các dẫn chứng của tác giả với những liên tưởng vốn liếng văn chương, tiếng nói hằng ngày để chia sẻ và thấu hiểu tư tưởng, tình cảm tác giả. Nhưng xuống phần hai, tác giả lại trình bày luận điểm và minh hoạ bằng các dẫn chứng khá rành mạch, sáng tỏ và chặt chẽ. Luận điểm thứ nhất: tác giả khẳng định và chứng minh Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó,… của một thứ tiếng khá đẹp. Nét đẹp ấỵ được minh hoạ bằng các dẫn chúng về giàu chất nhạc (trong ngữ âm, tiếng Việt có hai thanh bằng, bốn thanh trắc, thanh điệu phong phú. Trong cú pháp, tiếng Việt cân đối, nhịp nhàng, về từ vựng, tiếng Việt dồi dào vốn từ về cả ba mặt thơ, nhạc, hoạ). Do đó, nhà nghiên cứu khẳng định: “tác dụng của đặc tính này đối với văn học là rất quan trọng”. Để hỗ trợ cho các dẫn chứng về khoa học, tác giả bổ sung thêm dẫn, chúng thực tế. Ông kể: nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta nhận xét rằng tiếng Việt là thứ tiếng giàu chất nhạc. Rồi ông dẫn ý kiến một giáo sĩ nói: “tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ””. Xen kẽ các dẫn chứng, tác giả dùng phép so sánh “ Chú bé loắt cho ắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh – Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng… Nhạc tính của tiếng Việt đã tấu lên những âm sắc, những thanh điệu, cú pháp đẹp đẽ, uyển chuyển, sinh động biết bao trong đoạn thơ ấy của nhà thơ Tố Hữu. Và chúng ta nhớ tới bao nhiêu câu tục ngữ, bài ca dao, cả những câu nói bình thường hằng ngày ta nghe từ tiếng nói của mẹ cha, ông bà, của thầy, cô và bè bạn. Làm sao minh hoạ cho hết được tính nhạc, cái đẹp của tiếng Việt Nam chúng ta. Hãy trở lại với bài văn của Đặng Thai Mai. Sau khi chứng minh chất nhạc – vẻ đẹp – nhà nghiên cứu khẳng định tiếp: tiếng Việt là thứ tiếng huy. Rồi ông minh hoạ bằng vài nét khái quát: tiếng Việt có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ, về hình thức diễn đạt, ngữ pháp đang dần dần uyển chuyển hơn, chính xác hơn, không ngừng đặt ra những từ mới, cách nói mới, đồng thời Việt hoá những từ và cách nói của các dân tộc anh em và các dân tộc láng giềng… Dồn dập những dẫn chứng, vừa mang tính khoa học vừa đẫm chất thực tế. Điều đó giúp chúng ta vừa nâng cao hiểu biết về lí thuyết vừa thúc đẩy chúng ta liên hệ thực tế, để cảm thông, chia sẻ với tác giả niềm say mê trong khám phá khoa học và tình yêu tiếng mẹ đẻ Việt Nam. Ngoài Tố Hữu, qua các câu tục ngữ, các bài ca dao, chúng ta còn được học biết bao tác phẩm văn chương của cha ông xưa từ Trần Quang Khải, đến Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,… những tác phẩm của Bác Hồ, của các nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, các nhà thơ Minh Huệ, Xuân Quỳnh,… trong thời đại ngày nay. Nhờ sự giàu và đẹp của tiếng Việt mà các văn nghệ sĩ sáng tạo ra biết bao áng văn chương tuyệt tác và cũng nhờ sự sáng tạo và tình yêu tiếng nói Việt Nam của các tác giả mà tiếng Việt càng ngày càng giàu, càng đẹp hơn, sức sống càng ngày càng dồi dào hơn. Về nội dung, tác giả đã có một phát hiện khoa học lí thú về vẻ đẹp tiếng nói Việt Nam. Về nghệ thuật, bài văn cũng đạt tới trình độ đáng khâm phục, đáng học tập: kết hợp giải thích với chứng minh, bình luận nhẹ nhàng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng khá toàn diện, bao quát, viết câu linh hoạt, dùng câu rút gọn (ở phần đầu), phối hợp với câu mở rộng (ở phần hai)… Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ là: bằng những lí lẽ, chứng cứ chặt chẽ và toàn diện, bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt đã chứng minh tiêng nói Việt Nam giàu có vù dẹp đẽ ở nhiều phương diện: ngữ ủm, từ vựng, ngữ pháp. Tiếng Việt, với những phẩm chất bền vững và khả năng súng tạo trong quá trìnli phát triển lâu dùi của nó, lù một biểu tượng hùng hồn-của sức sống dân tộc… Xem lại bài bình giảng Áng văn tỏa sáng một chân lí
Vietnamese language is rich and beautiful - an interesting scientific discovery - Literature Commentary 7 Instruct We are Vietnamese people, every day we use our mother tongue, the language of the entire group - Vietnamese - to think, speak, and communicate. But few people know what characteristics, values ​​and vitality the Vietnamese language has. In poetry and music, several people have praised the beauty and uniqueness of the Vietnamese language. But if we want to deeply understand and enjoy the beauty and uniqueness of the Vietnamese national language, let's go find language and literature researchers. One of those people is Professor Dang Thai Mai, author of the article The Rich and Beautiful of Vietnamese. That brief but profound essay explained and convincingly demonstrated the basic characteristics of our Vietnamese language: "rich and beautiful". The article The richness and beauty of the Vietnamese language (the name of the article was given by the author of the book) is an excerpt from the first part of the Vietnamese research article, an eloquent expression of national vitality, first printed in 1967, supplemented and updated. included in Dang Thai Mai Collection. Although it is an excerpt, the text we read still has a fairly complete structure like a discussion essay in the form of civilized literature. We can read that text in three paragraphs: Introduction (from "Vietnamese people today..." to "... historical periods"): Comment that Vietnamese is a beautiful and beautiful language, briefly explain that statement. This is the part that raises the issue in the discussion. Body of the article ("Vietnamese, in structure,.." to "... techniques, arts, etc."): demonstrates the beauty and richness (goodness) of Vietnamese in terms of phonetics and words. vocabulary, syntax. Conclusion (remaining sentence): Emphasizing and affirming that the beauty and beauty of the Vietnamese language is the vitality of the Vietnamese language, and also has the meaning of expressing the vitality of the nation. Because it is a scientific research essay on language, the author uses arguments and evidence within the scope of language and practice, rather than giving specific examples of literary materials or voices in the language. daily life. Therefore, when studying this piece of literature, we need to combine reflection on the author's arguments and evidence with literary associations and everyday voices to share and understand ideas. , author's feelings. But in part two, the author presents his thesis and illustrates it with evidence quite clearly, clearly and rigorously. The first argument: the author affirms and proves that Vietnamese, in its structure,... is a quite beautiful language. This beauty is illustrated by references to rich musical qualities (in phonetics, Vietnamese has two flat tones, four flat tones, and rich tones. In syntax, Vietnamese is balanced, rhythmic, and in vocabulary. , Vietnamese has a rich vocabulary in all three aspects of poetry, music, and painting). Therefore, the researcher affirmed: "the effect of this feature on literature is very important." To support the scientific evidence, the author adds more citations, which are factual. He said: Many foreigners who visit our country comment that Vietnamese is a language rich in music. Then he quoted the opinion of a clergyman who said: "Vietnamese is a 'beautiful' language and 'very clear in speech, very flexible in sentences, very delicious in proverbs'". Interspersed with evidence, the author uses the comparison " The little boy is so worried Beautiful bag The legs are nimble The welcoming head – The backpack is worn crookedly Mouth whistled loudly Like a warbler Dancing on the golden road… The musicality of the Vietnamese language brings out the beautiful, flexible, and lively timbres, tones, and syntax in that poem by poet To Huu. And we remember how many proverbs, folk songs, and even normal everyday sayings we hear from the voices of our parents, grandparents, teachers, and friends. How to illustrate the musicality and beauty of our Vietnamese language? Let's return to Dang Thai Mai's essay. After proving the musical quality - beauty - the researcher continued to confirm: Vietnamese is a powerful language. Then he illustrated with a few generalizations: Vietnamese has a rich ability in terms of word structure, in terms of expression, the grammar is gradually becoming more flexible and more precise, constantly creating new words, new ways of speaking, and at the same time Vietnameseizing the words and ways of speaking of our brother and neighboring peoples... Loads of evidence, both scientific and full of reality. That helps us both improve our theoretical understanding and motivate us to make practical connections, to sympathize and share with the author his passion for scientific discovery and love of the Vietnamese mother tongue. Besides To Huu, through proverbs and folk songs, we also learn many literary works of our ancestors from Tran Quang Khai, to Nguyen Trai, Ho Xuan Huong, Nguyen Khuyen,... works of Uncle Ho, writers Thach Lam, Vu Bang, poets Minh Hue, Xuan Quynh,... in this day and age. Thanks to the richness and beauty of the Vietnamese language, writers and artists create countless literary masterpieces, and thanks to the authors' creativity and love of the Vietnamese language, the Vietnamese language becomes increasingly richer and more beautiful. more and more vitality becomes more and more abundant. Regarding content, the author has made an interesting scientific discovery about the beauty of the Vietnamese language. Regarding art, the essay also reaches an admirable level, worth learning: combining explanation with proof, gentle commentary, tight arguments, quite comprehensive and comprehensive evidence, writing flexible sentences. , use shortened sentences (in the first part), combined with expanded sentences (in the second part)... In short, what we need to remember is: with rigorous and comprehensive arguments and evidence, the article The Richness and Beauty of Vietnamese has proven that the Vietnamese language is extremely rich and beautiful in many aspects: , vocabulary, grammar. The Vietnamese language, with its enduring qualities and abilities created during its long development, is an eloquent symbol of national vitality... Review the commentary Ang Van shines a truth
Tiếng Việt lớp 3: Ôn tập thi cuối kì 1 Hướng dẫn Tuần 18: Ôn tập cuối kì 1 1. Viết giấy mời cô hoặc thầy Hiệu trưởng dự liên hoan của lớp chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11: (Gợi ý: – Yêu cầu điền đúng vào tờ giấy in sẵn giấy mời cô hoặc thầy Hiệu trưởng dự liên hoan của lớp chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Cấu tạo và cách thức điền có những điểm giống những loại đơn đã học nhưng cũng có những điểm khác biệt. Vì vậy, bài tập này giúp các em thực hành viết giấy mời đúng nghi thức. Em phải điền vào giấy mời những lời lẽ trân trọng và ngắn gọn để thể hiện sự trang trọng trong giao tiếp. – Nội dung gồm các mục: + Nơi hoặc người nhận. + Người mời, nơi mời và người hoặc nơi được mời. + Mời đến dự buổi lễ gì? + Thời gian dự: Ghi rõ từ mấy giờ đến mấy giờ, ngày tháng năm nào? + Địa điểm: Ghi rõ ràng, cụ thể ở đâu. + Mong muốn của người gửi giấy mời (Sự hiện diện của ……………………….. là niềm vinh dự của ……………………………….. Hoặc: Rất hân hạnh được đón tiếp…!) + Ngày, tháng, năm viết giấy mời. + Kí tên( cần ghi rõ chức vụ nếu có) ) 2. Tham khảo GIẤY MỜI Kính gửi: Thầy Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thành Công. Lớp 3B trân trọng kính mời Thầy tới dự: BUỔI LIÊN HOAN CHÀO MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20 – 11. Vào hồi: 8 giờ, ngày 19 – 11 – 2012. Tại phòng học lớp 3B. Chúng em rất hân hạnh được đón tiếp Thầy! Hà Nội, ngày 17 tháng 11 năm 2012 Thay mặt lớp Lớp trưởng Thanh Hải Nguyễn Thanh Hải (Gợi ý: – Em vẫn phải dựa vào đơn xin cấp thẻ đọc sách lần đầu nhưng yêu cầu của bài là viết đơn xin cấp lại thẻ đọc sách do em làm mất thẻ. Vì vậy, em phải nêu được lí do xin cấp lại thẻ. Ngoài ra, cần ghi thêm nguyện vọng được mượn sách trong thời gian chưa được cấp thẻ và thông báo về số thẻ cũ của em để người khác không thể sử dụng.) 4. Tham khảo CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ……….., ngày …. tháng……….. năm 201…. ĐƠN XIN CẤP LẠI THẺ ĐỌC SÁCH Kính gửi: Thư viện Trường Tiểu học Thành Công Em tên là: Nguyễn Thanh Lâm Sinh ngày: 19 – 8 – 2005 Nam (nữ): Nam Nơi ở: Số 57, Giảng Võ, Hà Nội Học sinh lớp: 3B, Trường Tiểu học Thành Công Em làm đơn này xin đề nghị Thư viện cấp lại cho em thẻ đọc sách năm 2011 vì em đã trót làm mất thẻ. Em cũng xin thông báo số thẻ cũ của em là………………..để nếu có người dùng nó thì thư viện thu hồi giúp em. Trong thời gian chưa được cấp thẻ mới, em xin Thư viện tiếp tục cho em mượn sách. Được cấp lại thẻ đọc sách, em xin hứa sẽ giữ gìn cẩn thận và thực hiện đúng mọi quy định của Thư viện. Em xin trân trọng cảm ơn. Người làm đơn Thanh Lâm Nguyễn Thanh Lâm (Gợi ý: – Em đã được luyện tập cách viết một bức thư nên cần viết đúng hình thức một bức thư (đọc lại bài Thư gửi bà, Sách giáo khoa Tiếng Việt 3, tập một, trang 81). ở thư này không yêu cầu cụ thể phải viết thư làm gì mà chỉ là để thăm hỏi thông thường một người thân hoặc một người mà em quý mến. Em xác định xem em chọn viết thư cho ai? (Người thân có thể là bố, mẹ, ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị, em,… Người em quý mến có thể là thầy, cô giáo cũ hoặc bạn cũ,…). Em muốn hỏi thăm người đó về điều gì? (Nội dung chính của bức thư là hỏi thăm sức khỏe, công việc, cuộc sống, việc học hành,… của người thân.) – Em có thể viết thư cho một người bạn ở tỉnh khác để chia vui với bạn vì nghe tin bạn vừa đoạt giải thưởng nào đó.) 6. Bài tham khảo: Thái Bình, ngày 18 tháng 11 năm 2012 Bác Dung kính mến! Đã lâu cháu chưa được gặp bác, cháu nhớ bác lắm. Dạo này, bác có khoẻ không ạ? Bác có còn bị đau chân mỗi khi trở trời không bác? Sắp sang mùa lạnh rồi, bác cố giữ ấm để chân không lạnh, sẽ đỡ đau bác nhé. Cây mít nhà mình năm nay có sai quả không ạ? Anh Nam vẫn học giỏi chứ ạ? Cháu năm nay đã học đến lớp ba rồi. Từ đẩu năm học đến giờ cháu đã được mấy điểm mười rồi đấy bác ạ. Cháu sẽ cố gắng học giỏi hơn nữa để thi đua với anh Nam. Khi nào anh ấy rỗi, bác bảo anh viết thư cho cháu nhé. Cháu rất mong có dịp được về quê thăm bác và họ hàng. Cháu nhớ bác nhiều. Cháu của bác Phạm Việt Phương 7. Viết một đoạn văn ngắn (từ 7 đến 10 câu) kể về việc học tập của em trong học kì I: (Gợi ý: – Yêu cầu của bài là em viết một đoạn văn (chứ không phải viết thành bài văn) kể về việc học tập của em ỏ học kì I. Em có thể kể theo trình tự thời gian của học kì, cũng có thể kể về quá trình học một môn nào đó em học nổi trội hơn hoặc còn yếu hơn các môn khác,… Em cũng có thể kể về những ưu, nhược điểm của em trong học kì vừa qua. Điều cần lưu ý là em nên kể đúng sự thực để có hướng phấn đấu và quyết tâm cho thời gian tới,) 8. Bài tham khảo: Năm nay em học lớp ba. Từ đầu học kì, do yêu thích môn Toán nên em thường giành điểm 9, 10. Nhưng môn Tiếng Việt thì thật khó đối với em. Em cố gắng làm thật đầy đủ các bài tập chính tả, luyện từ và câu, luyện tập làm văn cô giao về nhà. ở nhà, có bài nào không hiểu, em thường nhờ mẹ giảng thêm. Cuối học kì, em đã đạt điểm khá trong kì thi. Em phấn đấu học kì II sẽ chăm chỉ hơn, sẽ luyện những bài khó hơn nữa để đạt điểm cao trong kì thi cuối năm.
Vietnamese grade 3: Review for final exam 1 Instruct Week 18: Final review of term 1 1. Write an invitation to the teacher or Principal to attend the class party to celebrate Vietnamese Teachers' Day November 20: (Suggest: – Please fill out the pre-printed paper inviting the teacher or Principal to attend the class party to celebrate Vietnamese Teachers' Day November 20. The structure and filling method are similar to the forms we have learned, but there are also differences. Therefore, this exercise helps students practice writing invitations properly. You must fill out the invitation with respectful and concise words to show formality in communication. – Content includes the following items: + Place or recipient. + Inviting person, inviting place and invited person or place. + What ceremony are you invited to? + Attendance time: Specify from what time to what time, what day, month and year? + Location: Write clearly and specifically where. + The wishes of the person sending the invitation (The presence of ……………………….. is the honor of ……………………………….. Or: It is a pleasure to welcome next…!) + Date, month, year write the invitation. + Signature (need to clearly state position if any)) 2. Reference APPOINTMENT To: Principal of Thanh Cong Primary School. Class 3B respectfully invites you to attend: THE WELCOME CONCERT FOR VIETNAMESE TEACHERS' DAY November 20. At: 8 o'clock, November 19, 2012. In classroom 3B. We are very pleased to welcome you! Hanoi, November 17, 2012 On behalf of the class Class monitor Thanh Hai Nguyen Thanh Hai (Suggest: – I still have to rely on the application for a reading card for the first time, but the requirement of the article is to write an application to reissue a reading card because I lost it. Therefore, you must state the reason for applying for a card reissue. In addition, you need to write down your wish to borrow books while the card has not been issued and inform about your old card number so that others cannot use it.) 4. Reference SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM Independence – Freedom – Happiness ……….., day …. month……….. year 201…. APPLICATION FOR REISSUANCE OF BOOK READING CARD To: Thanh Cong Primary School Library My name is: Nguyen Thanh Lam Date of birth: August 19, 2005 Male (female): Male Location: Không. 57, Giang Vo, Hanoi Student of class: 3B, Thanh Cong Primary School I am making this application to ask the Library to reissue me my 2011 reading card because I accidentally lost it. I would also like to inform you that my old card number is………………..so that if someone uses it, the library can retrieve it for me. While I have not been issued a new card, I asked the Library to continue lending me books. Having been re-issued my reading card, I promise to keep it carefully and comply with all regulations of the Library. I would like to sincerely thank you. Applicant Thanh Lam Nguyen Thanh Lam (Suggest: – You have been practicing how to write a letter, so you need to write the letter in the correct form (reread the article Letter to Grandma, Vietnamese Textbook 3, volume one, page 81). In this letter, there is no specific request to write a letter, but it is just to normally visit a relative or someone you love. How do you determine who you choose to write to? (Relatives can be father, mother, grandfather, grandmother, aunt, uncle, brother, sister, etc. The person you love can be a teacher, old teacher or old friend, etc.). What do you want to ask that person about? (The main content of the letter is to ask about the relative's health, work, life, education, etc.) – You can write a letter to a friend in another province to share your joy because you heard that you have just won an award.) 6. Reference article: Thai Binh, November 18, 2012 Dear Uncle Dung! It's been a long time since I've seen you, I miss you so much. Are you well these days? Do you still have leg pain every time you turn over? The cold season is coming, try to keep your feet warm so your feet don't get cold, it will ease the pain. Is my jackfruit tree bearing fruit this year? Is Mr. Nam still studying well? This year I have completed third grade. Since the beginning of the school year until now, I've gotten a few ten points. I will try to study better to emulate Nam. When he is free, please tell me to write to you. I really hope to have the opportunity to return home to visit my uncle and relatives. I miss you so much. Uncle Pham Viet Phuong's nephew 7. Write a short paragraph (from 7 to 10 sentences) about your studies in the first semester: (Suggest: – The requirement of the article is that you write a paragraph (not an essay) about your studies in the first semester. You can tell in chronological order of the semester, you can also tell about During the process of studying a certain subject, you excel or are weaker than other subjects, etc. You can also talk about your strengths and weaknesses in the past semester. The thing to note is that you should tell the truth to have direction and determination for the future.) 8. Reference article: This year I am in third grade. Since the beginning of the semester, because I love Math, I often get 9 or 10 points. But Vietnamese is really difficult for me. I try to do all the spelling exercises, practice words and sentences, and practice writing the essay the teacher assigns at home. At home, if I don't understand a lesson, I often ask my mother to explain it further. At the end of the semester, I got a good score on the exam. I strive to work harder in the second semester and practice more difficult exercises to get high scores in the year-end exam.
Tiếng Việt Ôn Tập Cuối Học Kì 1 Lớp 5 Hướng dẫn Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý:Ôn luyện lại các bài tập đọc, học thuộc lòng. Nắm tên bài, tác giả, thế loại, nội dung, cách đọc và học thuộc các bài học thuộc lòng. Câu 2: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Giữ lấy màu xanh. Nội dung cần trình bày: tên bài, tác giả, thế loại, nội dung chính. Gợi ý: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Giữ lấy màu xanh, như sau: Tên bài Tác giả Nội dung chính Thể loại Chuyện một khu vườn nhỏ Vân Long Miêu tả vẻ đẹp của khu vườn và tình yêu thiên nhiên của hai ông cháu. Văn Tiếng vọng Nguyễn Quang Thiều Diễn tả tâm trạng day dứt cua tác giả trước cái chết đáng thương của một con chim nhỏ. Thơ Mùa thảo quả Ma Văn Kháng Miêu tả vẻ đẹp của rừng tháo quả chín. Văn Hành trình của bầy ong Nguyễn Đức Mậu Kể, tả cuộc hành trình đi tìm mật ngọt của bầy ong. Thơ Người gác rừng tí hon Nguyễn Thị Cẩm Châu Bạn nhỏ là một người yêu rừng, thông minh, dũng cảm bảo vệ rừng. Văn Trồng rừng ngập mặn Phan Nguyên Hồng Biện pháp quan trọng để bảo vệ đê điều, cải tạo môi trường và góp phần tăng thu nhập là tăng cường trồng rừng ngập mặn. Văn Câu 3: Giả sử em là bạn của nhân vật bạn nhỏ (truyện Người gác rừng tí hon), em hãy nên nhận xét về bạn nhỏ và tìm dẫn chứng minh họa cho nhận xét của em. Gợi ý: Hãy nêu những nhận xét về bạn nhỏ và tìm dẫn chứng minh họa về những nhận xét của em qua bài Người gác rừng tí hon như sau: -Bạn nhỏ là một người có tình yêu đối với rừng. (“Tình yêu rừng của ba đã sớm truyền sang em.” “Thay ba đi tuần rừng”). -Có tinh thần cảnh giác. (“Phát hiện những dấu chân người lớn hằn trên đất, em thắc mắc: “..”. -Bạn nhỏ là một người rất thông minh, dũng cảm, nhanh nhẹn, linh hoạt bảo vệ rừng. Thấy lạ, em lần theo dấu chân. “Em chạy theo đường tắt về quán bà Hai, xin bà cho gọi điện thoại” báo cho công an. “Em chộp lấy dây thừng lao ra, buộc căng hai đầu dây vào hai chạc cây để chặn xe”. “Em dồn hết sức xô ngã gã”. TIẾT 2 Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc học thuộc lòng trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người nắm tên bài, tác giả, thể loại, nội dung chính làm cơ sở trả lời câu hỏi (2). Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người như sau: Tên bài Tác giả Nội dung chính Thể loại Chuỗi ngọc lam Phun-tơn uốc-xlê Tình cảm của người em đối với chị mình và tấm lòng của con người coi tình cảm cao hơn giá trị tiền bạc. Văn Hạt gạo làng ta Trần Đăng Khoa Hạt gạo được làm ra từ mồ hôi nước mắt của người lao động. Hạt gạo là hạt vàng. Thơ Buôn Chư Lênh đón cô giáo Hà Đình Cẩn Tình cảm yêu thương, quý trọng của người dân Tây Nguyên đôi với cô giáo và cái chữ. Văn Về ngồi nhà đang xây Đồng Xuân Lan Hình ảnh đẹp đẽ, sống động của ngôi nhà đang xây, qua đó tác giả ca ngợi cuộc sống mới trên đất nước ta. Thơ Thầy thuốc như me hiền Trần Phương Hạnh Ca ngợi Hải Thượng Lãn Ông – một thầy thuốc nhân từ, đức độ, không màng danh lợi. Văn Thầy cúng đi bệnh viện Nguyễn Lăng Lên án những cách suy nghĩ cách làm lạc hậu mê tín dị đoan nhằm làm cho mọi người hiểu: cúng bái không phải là cách chữa lành bệnh cho con người. Văn Câu 3: Trong bài thơ em đã học ở chủ diêm Vì hạnh phúc con người, em thích những câu thơ nào nhất? Hãy trình bày cái hay của những câu thơ đó đề các bạn hiểu và tán thưởng sự lựa chọn của em. Gợi ý:Trong hai bài thơ em đã học ở chủ điểm Vì hạnh phúc con người, em thích những câu thơ sau: – Ví dụ các câu: Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy (Hạt gạo làng ta) Ý nói: Hạt gạo chứa đựng bao khó khăn vất vả của con người. Cụ thể là hình ảnh của người mẹ. Mẹ phải chịu đựng biết bao gian khổ “một nắng hai sương” trên đồng ruộng mới làm ra hạt gạo. – Ví dụ những câu: Ngôi nhà như trẻ nhỏ Lớn lên với trời xanh… (Về ngôi nhà đang xây) Ý nói: Niềm vui hi vọng trước cuộc sống mới. TIẾT 3 Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý: Đọc lại những bài tập đọc đã học, nắm tên bài, tác giả, nội dung chính. Câu 2: Điền những từ ngữ em biết vào bảng sau: Sinh quyển (Môi trường động thực vật) Thủy quyển (Môi trường nước) Khí quyển (Môi trường không khí) Các sự vật trong môi trường con người, thú vật (trâu, bò, gà, vịt, hươu, nai,…); cây cối (cây trên rừng, cây trồng…) sông, suối, ao hồ, biển cả… bầu trời vũ trụ, mây không khí, ánh sáng… Những hành động bảo vệ môi trường Trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, trồng rừng ngập mặn, chống săn bắn thú rừng, chim chóc. Giữ sạch nguồn nước, xây dựng các nhà máy nước sạch… Lọc khói công nghiệp xử lí rác thải, chống ô nhiễm bầu không khí… TIẾT 4 Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc, học thuộc lòng. Nắm nội dung bài. Câu 2: Nghe – viết bài Chợ Ta-sken (SGK TV5 tập 1 trang 174). Gợi ý:Nhờ bạn hoặc người thân đọc bài Chợ Ta-sken, em viết. Sau đó tự kiểm tra sửa chữa những lỗi mắc phải, viết lại cho đúng. TIẾT 5 Tham khảo bài làm tại đây: Hãy viết thư gửi một người thân đang ở xa kể lại kếtquả học tập rèn luyện của em trong học kì I. TIẾT 6 Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc, học thuộc lòng đã học. Nắm tên bài, tác giả, nội dung, thể loại. Câu 2: Đọc và trả lời câu hỏi bài Chiều biên giới. a)Tìm trong bài thơ một từ đồng nghĩa với từ biên cương. b)Trong khổ thơ 1, các từ đầu và ngọn được dùng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyền? c)Có những đại từ xưng hô nào được dùng trong bài thơ? d)Viết một câu miêu tả hình ảnh mà câu thơ Lúa lượn bậc thang mây gợi ra cho em. Gợi ý: Đọc và trả lời các câu hỏi bài Chiều biên giới như sau: a)Từ đồng nghĩa với từ biên cương có trong bài là từ biên giới. b)Trong khổ thơ 1: từ đầu và từ ngọn được dùng với nghĩa chuyển. c)Những đại từ xưng hô được dùng trong bài thơ là: em và ta. d)Câu văn miêu tả hình ảnh mà câu thơ Lúa lượn bậc thang mây gợi ra cho em, như sau: “Những thửa ruộng bậc thang chạy từ chân đồi lên đến sườn đồi được lợp bỏi một màu xanh mướt thấp thoáng trong màn sương mỏng, trông mới đẹp làm sao! TIẾT 7: BÀI LUYỆN TẬP A- Đọc thầm văn bản đã cho (trang 177 SGK TV5 tập 1) B- Dựa vào nội dung bài đọc, chọn câu trả lời đúng như sau: 1-Chọn ý (c): Quê hương. (X) 2-Chọn ý (a): Nước sông đầy ắp. (X) 3-Chọn ý (e): Màu áo của những người thân trong gia đình. (X) 5-Chọn ý (b): Lá buồm căng phồng như ngực người khổng lồ. (X) 6-Chọn ý (b): Vì những cánh buồm gắn bó với con người từ bao đời nay. (X) 7-Chọn ý (a) Một từ. Đó là từ khổng lồ 8-Chọn ý (a) Một cặp từ. Đó là cặp: ngược >< xuôi 9-Chọn ý (c) Đó là hai từ đồng âm. 10-Chọn ý (c) Ba quan hệ từ. Đó là: còn, thì, cứ. TIỂT 8: BÀI LUYỆN TẬP Đề: Em hãy tả một người thân đang làm việc (đang nấu cơm, đọc bảo, khâu vá, làm vườn, xây nhà hay học bài..). (Tả một cô bán hàng) Sáng nay, em cùng Hoa đến cửa hàng văn phòng phẩm trên đường Nguyễn Tri Phương để mua một số dụng cụ học tập. Tại đây, chúng em gặp một cô mậu dịch viên thật dễ mến và dễ thương. Tên cô là Nguyễn Thị Phương. Cửa hàng nằm phía bên phải hướng ra bùng binh nơi giao nhau của nhiều con đường nên lúc nào cũng nhộn nhịp đông vui. Ở quầy hàng dụng cụ học sinh nào là bút, thước, com pa, cặp sách… không thiếu một thứ gì. Tất cả được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp. Cô Phương còn rất trẻ, có lẽ cũng chỉ độ mười tám đôi mươi như chị Hai em. Cô có dáng người thon thả, cân đối. Chiếc áo dài màu hồng nhạt bó sát lấy cơ thể tạo cho cô một vẻ đẹp rực rỡ kiêu sa. Nói một cách công bằng, cô đẹp không kém gì những diễn viên điện ảnh Hàn Quốc. Mái tóc đen như gỗ mun xõa quá vai rất hợp với khuôn mặt trái xoan của cô. Đặc biệt cô có đôi môi đỏ thắm luôn tươi cười để lộ hàì-Ti răng nhỏ, đều trắng muốt. Tay cô thoăn thoắt lấy hàng đưa cho khách, miệng không quên nói những lời cám ơn dịu ngọt. Khách hàng mỗi lúc một đông. Người hỏi mua chiếc cặp, người hỏi mua tập vở, com pa, chì, thước… Có một ông khách mua một cây bút Hero cầm lên xem rồi xin đổi lại Hồng Hà. Thấy không vừa ý, ông lại xin đổi bút Kim tinh, cô vẫn vui vẻ chiều ý khách mà không hề tỏ thái độ bực bội gì. Em và Hoa mua hai cái hộp bút rất đẹp. Cô trả tiền thừa xong, không quên dặn dò chúng em đếm kĩ trước lúc cất vào cặp. Qua cách bán hàng và thái độ đốĩ xử với khách, em thấy mến và phục cô quá. Nếu như sau này làm mậu dịch viên, em sẽ cố gắng làm được như cô Phương.
Tiếng Việt Ôn Tập Cuối Học Kì 1 Lớp 5 Hướng dẫn Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý:Ôn luyện lại các bài tập đọc, học thuộc lòng. Nắm tên bài, tác giả, thế loại, nội dung, cách đọc và học thuộc các bài học thuộc lòng. Câu 2: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Giữ lấy màu xanh. Nội dung cần trình bày: tên bài, tác giả, thế loại, nội dung chính. Gợi ý: Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Giữ lấy màu xanh, như sau: Tên bài Tác giả Nội dung chính Thể loại Chuyện một khu vườn nhỏ Vân Long Miêu tả vẻ đẹp của khu vườn và tình yêu thiên nhiên của hai ông cháu. Văn Tiếng vọng Nguyễn Quang Thiều Diễn tả tâm trạng day dứt cua tác giả trước cái chết đáng thương của một con chim nhỏ. Thơ Mùa thảo quả Ma Văn Kháng Miêu tả vẻ đẹp của rừng tháo quả chín. Văn Hành trình của bầy ong Nguyễn Đức Mậu Kể, tả cuộc hành trình đi tìm mật ngọt của bầy ong. Thơ Người gác rừng tí hon Nguyễn Thị Cẩm Châu Bạn nhỏ là một người yêu rừng, thông minh, dũng cảm bảo vệ rừng. Văn Trồng rừng ngập mặn Phan Nguyên Hồng Biện pháp quan trọng để bảo vệ đê điều, cải tạo môi trường và góp phần tăng thu nhập là tăng cường trồng rừng ngập mặn. Văn Câu 3: Giả sử em là bạn của nhân vật bạn nhỏ (truyện Người gác rừng tí hon), em hãy nên nhận xét về bạn nhỏ và tìm dẫn chứng minh họa cho nhận xét của em. Gợi ý: Hãy nêu những nhận xét về bạn nhỏ và tìm dẫn chứng minh họa về những nhận xét của em qua bài Người gác rừng tí hon như sau: -Bạn nhỏ là một người có tình yêu đối với rừng. (“Tình yêu rừng của ba đã sớm truyền sang em.” “Thay ba đi tuần rừng”). -Có tinh thần cảnh giác. (“Phát hiện những dấu chân người lớn hằn trên đất, em thắc mắc: “..”. -Bạn nhỏ là một người rất thông minh, dũng cảm, nhanh nhẹn, linh hoạt bảo vệ rừng. Thấy lạ, em lần theo dấu chân. “Em chạy theo đường tắt về quán bà Hai, xin bà cho gọi điện thoại” báo cho công an. “Em chộp lấy dây thừng lao ra, buộc căng hai đầu dây vào hai chạc cây để chặn xe”. “Em dồn hết sức xô ngã gã”. TIẾT 2 Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc học thuộc lòng trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người nắm tên bài, tác giả, thể loại, nội dung chính làm cơ sở trả lời câu hỏi (2). Lập bảng thống kê các bài tập đọc trong chủ điểm Vì hạnh phúc con người như sau: Tên bài Tác giả Nội dung chính Thể loại Chuỗi ngọc lam Phun-tơn uốc-xlê Tình cảm của người em đối với chị mình và tấm lòng của con người coi tình cảm cao hơn giá trị tiền bạc. Văn Hạt gạo làng ta Trần Đăng Khoa Hạt gạo được làm ra từ mồ hôi nước mắt của người lao động. Hạt gạo là hạt vàng. Thơ Buôn Chư Lênh đón cô giáo Hà Đình Cẩn Tình cảm yêu thương, quý trọng của người dân Tây Nguyên đôi với cô giáo và cái chữ. Văn Về ngồi nhà đang xây Đồng Xuân Lan Hình ảnh đẹp đẽ, sống động của ngôi nhà đang xây, qua đó tác giả ca ngợi cuộc sống mới trên đất nước ta. Thơ Thầy thuốc như me hiền Trần Phương Hạnh Ca ngợi Hải Thượng Lãn Ông – một thầy thuốc nhân từ, đức độ, không màng danh lợi. Văn Thầy cúng đi bệnh viện Nguyễn Lăng Lên án những cách suy nghĩ cách làm lạc hậu mê tín dị đoan nhằm làm cho mọi người hiểu: cúng bái không phải là cách chữa lành bệnh cho con người. Văn Câu 3: Trong bài thơ em đã học ở chủ diêm Vì hạnh phúc con người, em thích những câu thơ nào nhất? Hãy trình bày cái hay của những câu thơ đó đề các bạn hiểu và tán thưởng sự lựa chọn của em. Gợi ý:Trong hai bài thơ em đã học ở chủ điểm Vì hạnh phúc con người, em thích những câu thơ sau: – Ví dụ các câu: Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy (Hạt gạo làng ta) Ý nói: Hạt gạo chứa đựng bao khó khăn vất vả của con người. Cụ thể là hình ảnh của người mẹ. Mẹ phải chịu đựng biết bao gian khổ “một nắng hai sương” trên đồng ruộng mới làm ra hạt gạo. – Ví dụ những câu: Ngôi nhà như trẻ nhỏ Lớn lên với trời xanh… (Về ngôi nhà đang xây) Ý nói: Niềm vui hi vọng trước cuộc sống mới. TIẾT 3 Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý: Đọc lại những bài tập đọc đã học, nắm tên bài, tác giả, nội dung chính. Câu 2: Điền những từ ngữ em biết vào bảng sau: Sinh quyển (Môi trường động thực vật) Thủy quyển (Môi trường nước) Khí quyển (Môi trường không khí) Các sự vật trong môi trường con người, thú vật (trâu, bò, gà, vịt, hươu, nai,…); cây cối (cây trên rừng, cây trồng…) sông, suối, ao hồ, biển cả… bầu trời vũ trụ, mây không khí, ánh sáng… Những hành động bảo vệ môi trường Trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, trồng rừng ngập mặn, chống săn bắn thú rừng, chim chóc. Giữ sạch nguồn nước, xây dựng các nhà máy nước sạch… Lọc khói công nghiệp xử lí rác thải, chống ô nhiễm bầu không khí… TIẾT 4 Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc, học thuộc lòng. Nắm nội dung bài. Câu 2: Nghe – viết bài Chợ Ta-sken (SGK TV5 tập 1 trang 174). Gợi ý:Nhờ bạn hoặc người thân đọc bài Chợ Ta-sken, em viết. Sau đó tự kiểm tra sửa chữa những lỗi mắc phải, viết lại cho đúng. TIẾT 5 Tham khảo bài làm tại đây: Hãy viết thư gửi một người thân đang ở xa kể lại kếtquả học tập rèn luyện của em trong học kì I. TIẾT 6 Câu 1: Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng. Gợi ý:Đọc lại các bài tập đọc, học thuộc lòng đã học. Nắm tên bài, tác giả, nội dung, thể loại. Câu 2: Đọc và trả lời câu hỏi bài Chiều biên giới. a)Tìm trong bài thơ một từ đồng nghĩa với từ biên cương. b)Trong khổ thơ 1, các từ đầu và ngọn được dùng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyền? c)Có những đại từ xưng hô nào được dùng trong bài thơ? d)Viết một câu miêu tả hình ảnh mà câu thơ Lúa lượn bậc thang mây gợi ra cho em. Gợi ý: Đọc và trả lời các câu hỏi bài Chiều biên giới như sau: a)Từ đồng nghĩa với từ biên cương có trong bài là từ biên giới. b)Trong khổ thơ 1: từ đầu và từ ngọn được dùng với nghĩa chuyển. c)Những đại từ xưng hô được dùng trong bài thơ là: em và ta. d)Câu văn miêu tả hình ảnh mà câu thơ Lúa lượn bậc thang mây gợi ra cho em, như sau: “Những thửa ruộng bậc thang chạy từ chân đồi lên đến sườn đồi được lợp bỏi một màu xanh mướt thấp thoáng trong màn sương mỏng, trông mới đẹp làm sao! TIẾT 7: BÀI LUYỆN TẬP A- Đọc thầm văn bản đã cho (trang 177 SGK TV5 tập 1) B- Dựa vào nội dung bài đọc, chọn câu trả lời đúng như sau: 1-Chọn ý (c): Quê hương. (X) 2-Chọn ý (a): Nước sông đầy ắp. (X) 3-Chọn ý (e): Màu áo của những người thân trong gia đình. (X) 5-Chọn ý (b): Lá buồm căng phồng như ngực người khổng lồ. (X) 6-Chọn ý (b): Vì những cánh buồm gắn bó với con người từ bao đời nay. (X) 7-Chọn ý (a) Một từ. Đó là từ khổng lồ 8-Chọn ý (a) Một cặp từ. Đó là cặp: ngược >< xuôi 9-Chọn ý (c) Đó là hai từ đồng âm. 10-Chọn ý (c) Ba quan hệ từ. Đó là: còn, thì, cứ. TIỂT 8: BÀI LUYỆN TẬP Đề: Em hãy tả một người thân đang làm việc (đang nấu cơm, đọc bảo, khâu vá, làm vườn, xây nhà hay học bài..). (Tả một cô bán hàng) Sáng nay, em cùng Hoa đến cửa hàng văn phòng phẩm trên đường Nguyễn Tri Phương để mua một số dụng cụ học tập. Tại đây, chúng em gặp một cô mậu dịch viên thật dễ mến và dễ thương. Tên cô là Nguyễn Thị Phương. Cửa hàng nằm phía bên phải hướng ra bùng binh nơi giao nhau của nhiều con đường nên lúc nào cũng nhộn nhịp đông vui. Ở quầy hàng dụng cụ học sinh nào là bút, thước, com pa, cặp sách… không thiếu một thứ gì. Tất cả được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp. Cô Phương còn rất trẻ, có lẽ cũng chỉ độ mười tám đôi mươi như chị Hai em. Cô có dáng người thon thả, cân đối. Chiếc áo dài màu hồng nhạt bó sát lấy cơ thể tạo cho cô một vẻ đẹp rực rỡ kiêu sa. Nói một cách công bằng, cô đẹp không kém gì những diễn viên điện ảnh Hàn Quốc. Mái tóc đen như gỗ mun xõa quá vai rất hợp với khuôn mặt trái xoan của cô. Đặc biệt cô có đôi môi đỏ thắm luôn tươi cười để lộ hàì-Ti răng nhỏ, đều trắng muốt. Tay cô thoăn thoắt lấy hàng đưa cho khách, miệng không quên nói những lời cám ơn dịu ngọt. Khách hàng mỗi lúc một đông. Người hỏi mua chiếc cặp, người hỏi mua tập vở, com pa, chì, thước… Có một ông khách mua một cây bút Hero cầm lên xem rồi xin đổi lại Hồng Hà. Thấy không vừa ý, ông lại xin đổi bút Kim tinh, cô vẫn vui vẻ chiều ý khách mà không hề tỏ thái độ bực bội gì. Em và Hoa mua hai cái hộp bút rất đẹp. Cô trả tiền thừa xong, không quên dặn dò chúng em đếm kĩ trước lúc cất vào cặp. Qua cách bán hàng và thái độ đốĩ xử với khách, em thấy mến và phục cô quá. Nếu như sau này làm mậu dịch viên, em sẽ cố gắng làm được như cô Phương.
Tiếng đàn hóa giải và niêu cơm nhân nghĩa – Truyện cổ tích Thạch Sanh Ngữ Văn 6 Hướng dẫn Tiếng đàn hóa giải và niêu cơm nhân nghĩa Truyện cổ tích Thạch Sanh bắt nguồn từ một cốt truyện dân gian phổ biến trên thế giới ngợi ca người dũng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng, cứu người bị hại. Khi “nhập cư” vào mảnh đất trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, truyện cổ tích ấy nảy cành, thêm lá, nở hoa, kết trái, mở rộng thêm nội dung, ý nghĩa. Chàng dũng sĩ ấy có quê quán cụ thể: tỉnh miền núi Cao Bằng, mang tên cụ thể: Thạch Sanh với ý nghĩa “người con được sinh ra từ đá”. Chàng lại có nguồn gốc sâu xa: vốn là thái tử con Ngọc Hoàng Thượng đế… Do đó, câu chuyện về dũng sĩ Thạch Sanh, không chỉ ca ngợi công lao diệt loài vật ác trên núi, trên trời mà còn diệt cả ác quỷ dưới nước, đấu tranh vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa, chống ngoại xâm, bảo vệ non sông Tổ quốc, vẻ đẹp tài năng, đạo đức của Thạch Sanh đậm đà bản chất Việt Nam. Những chiến công của Thạch Sanh thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, yêu hoà bình của nhân dân ta. Những giá trị nội dung ấy của tác phẩm được thể hiện bằng nhiều tình huống, chi tiết và hình ảnh thần kì độc đáo như: sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh, cung tên vàng, cày đàn thần và niêu cơm thần. Thêm nữa, cùng với văn bản kể miệng bằng văn xuôi, cổ tích Thạch Sanh còn được sáng tác bằng một truyện thơ Nôm, theo thể lục bát ra đời khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm toát ra bao nhiêu ý nghĩa nội dung, hiển hiện bao nhiêu hình ảnh nghệ thuật độc đáo. Nổi bật nhất trong truyện kể văn xuôi cũng như trong truyện thơ Nôm Thạch Sanh là hình ảnh cây đàn, tiếng đàn thần và niêu cơm thần. Có thể nói đó là “tiếng đàn hoá giải”, đó là “niêu cơm nhân nghĩa”. 1.Trước hết, chúng ta hãy lắng nghe và suy nghĩ về tiếng đàn của Thạch Sanh. Chẳng rõ, sau khi nhận cây đàn kỉ niệm của vua Thuỷ Tề, trở lại dương thế, tiếp tục sống cuộc đời lam lũ, Thạch Sanh đã luyện được phép màu kì diệu nào mà khi tiếng đàn cất lên ở trong ngục, nó nỉ non, thánh thót, nhiều cung, nhiều nghĩa đến thế. Truyện văn xuôi chỉ kể ngắn gọn: “Thạch Sanh ngồi trong ngục tối, đem đàn của vua Thuỷ Tề cho ra gảy”. Còn truyện thơ thì miêu tả tiếng đàn ấy rất cụ thể: Đàn kêu: Ai chém chằn tinh Cho mày vinh hiển dự mình quyền sang? Đàn kêu: Ai chém xà vương Đem nàng công chúa triều đường vê đây? Đàn kêu: Hỡi Lí Thông mày Cớ sao phụ nghĩa lại rày vong ân? Đàn kêu: Sao ở bất nhân Biết ăn quả lại quên ân người trồng? Nhân danh công lí, tiếng đàn ấy đã thay lời nạn nhân oan uổng nói to lên, vang lên tất cả sự thật, bênh vực người có công, tố cáo kẻ gian xảo, cướp công, gây tội ác, bất nghĩa, bất nhân. Âm thanh, nhịp phách của tiếng đàn rắn rỏi, mạnh mẽ, dứt khoát,… như tiếng vị quan toà phân xử rạch ròi như lưỡi rìu, mũi tên chàng dũng sĩ nhằm giữa mặt kẻ quyển cao chức lớn, nhưng chúng là thủ phạm gieo đau khổ cho người dân lương thiện. Tiếng đàn của Thạch Sanh vang lên giữa thanh thiên bạch nhật, nói rõ tất cả mọi lẽ đời ân oán, nghĩa tình, vọng từ ngục tối, vọng khấp kinh thành, vọng tới cung vua. Nghe tiếng đàn, nàng công chúa bấy lâu im tiếng, nay “bỗng cười nói vui vẻ”. Thạch Sanh được gặp nhà vua. Tiếng đàn ấy đã hoá giải mọi bi kịch của cuộc đời chàng Thạch Sanh dũng sĩ – nghệ sĩ. Tên Lí Thông độc ác bị trừng phạt. Công lao, tài đức của Thạch Sanh được đền đáp. Tiếng đàn có phép thần thông kì diệu, hay đó chính là khát vọng công lí, khát vọng nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc ta? Trong các truyện cổ tích khác, niềm khát vọng đó thường được biểu hiện bằng hình tượng Tiên, Bụt, hoặc những biến hoá huyền ảo, hoang đường. Ở truyện Thạch Sanh, tác giả dân gian sử dụng “tiếng đàn” biết nói, nói thấu tình, đạt lí để đấu tranh cho lẽ phải, giành lấy hạnh phúc. Hình tượng “tiếng đàn” vừa gần gũi vừa độc đáo và đậm chất nghệ sĩ. 2. Niêu cơm nhân nghĩa Chiến thắng của tiếng đàn Thạch Sanh mới chỉ ở chặng đầu. Quân chư hầu mười tám nước bằng lòng lui binh. Các hoàng tử cởi giáp xin hàng. Nhưng đội ngũ vẫn trùng trùng điệp điệp trước kinh thành. Làm thế nào đây? Phải cấp lương thực để cho chúng no bụng, vui vẻ về nước chứ. Lúc bấy giờ nhà vua lo lắng. Cả triều đình lo lắng, nghĩ kế, bày mưu. Thạch Sanh chẳng nghĩ nhiều, chàng sai dọn một bữa cơm thết đãi kẻ bại trận. Bữa cơm… chỉ vẻn vẹn có “một niêu cơm tí xíu” khiến lũ giặc “bĩu môi”, như chế giễu, như hỏi han, chất vấn. Thạch Sanh “đố họ ăn hết và hứa sẽ trọng thưởng”. Một câu đố – một bài toán, lại xuất hiện “bài toán” trong tác phẩm. Đơn giản quá, dễ dàng quá, cái “bài toán niêu cơm”. Vậy mà, hàng vạn quân của mười tám nước chư hầu không giải được bài toán ấy. Chúng đành phải “cúi đầu lạy tạ vợ chồng Thạch Sanh rồi kéo nhau về nước”. Chao ôi! Niêu cơm của Thạch Sanh, cái vật dụng đất nung nhỏ bé, bình thường mà sao có sức chứa lớn lao phi thường như vậy. Thật lạ lùng và thú vị! Tôi chợt nhớ thành ngữ xưa “nước lọ, cơm niêu” cha ông ta dùng để thở than về cuộc sống thiếu thốn, đói nghèo từng đày đoạ bao kiếp người lao động. Không biết, khi mời khách, nhất là khách nước ngoài, các nhà hàng có kể cho họ nghe về cái “niêu cơm” Thạch Sanh huyền thoại – sản phẩm thần kì của mảnh đất trí tuệ và tâm hồn dân tộc ta? Những hình tượng thẩm mĩ độc đáo một khi bắt nguồn từ cuộc sống, nhất là cuộc sống đẫm mồ hôi và nước mắt của người lao động, qua sự sáng tạo tài tình của người nghệ sĩ thì nó sẽ trẻ mãi không già, sẽ trường tồn và trở đi trở lại với chúng ta trong cuộc sống, cũng như trong lòng người. So với những truyện cổ tích quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam như Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Cây khế, Trầu cau, Sợ Dừa,… cổ tích Thạch Sanh có nội dung, kết cấu, số phận, tính cách nhân vật phong phú, đa dạng hơn nhiều. Nhân vật Thạch Sanh trong truyện vừa mang những nét đặc trứng của các nhân vật dũng sĩ trong anh hùng ca thời thị tộc – bộ lạc, vừa có những nét tính cách và số phận tiêu biểu cho loại nhân vật trong cổ tích thần kì ra đời trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì thế, Thạch Sanh vừa là biểu tượng cho con người lương thiện, nêu cao điều thiện, để đấu tranh diệt trừ cái ác vừa là người anh hùng tài năng, trí dũng vẹn toàn chiến đấu chống ngoại xâm, giữ yên bờ cõi. Đỉnh cao của phẩm chất nhân nghĩa, anh hùng trong Thạch Sanh phải chăng là tiếng đàn và niêu cơm? Kéo tấm màn huyền thoại, hoang đường, sương khói kì ảo của trí tưởng tượng dân gian, chúng ta nhìn thấy được những chứng tích lịch sử, lắng nghe được những tiếng nói của cha ông về khát Vọng hoà bình, no ấm tự ngàn đời nay vọng lại. Tiếng đàn Thạch Sanh hay chính là văn hoá, văn học nghệ thuật Việt Nam có khả năng hoá giải mọi bi kịch? Niêu cơm Thạch Sanh, hay chính là hạt thóc, nồi cơm, của cải vật chất trên mảnh đất Việt Nam đã từng nuôi lớn dân tộc, đã từng chiến thắng ngoại xâm và sẽ mãi mãi đem lại ấm no, hạnh phúc cho mỗi gia đình, cho mọi người Việt Nam chúng ta? Ôi, tiếng đàn kì diệu, niêu cơm nhỏ bé mà có sức chứa vô hạn, vô biên, đáng yêu, đáng nhớ làm sao!
Tiếng đàn hóa giải và niêu cơm nhân nghĩa – Truyện cổ tích Thạch Sanh Ngữ Văn 6 Hướng dẫn Tiếng đàn hóa giải và niêu cơm nhân nghĩa Truyện cổ tích Thạch Sanh bắt nguồn từ một cốt truyện dân gian phổ biến trên thế giới ngợi ca người dũng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng, cứu người bị hại. Khi “nhập cư” vào mảnh đất trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, truyện cổ tích ấy nảy cành, thêm lá, nở hoa, kết trái, mở rộng thêm nội dung, ý nghĩa. Chàng dũng sĩ ấy có quê quán cụ thể: tỉnh miền núi Cao Bằng, mang tên cụ thể: Thạch Sanh với ý nghĩa “người con được sinh ra từ đá”. Chàng lại có nguồn gốc sâu xa: vốn là thái tử con Ngọc Hoàng Thượng đế… Do đó, câu chuyện về dũng sĩ Thạch Sanh, không chỉ ca ngợi công lao diệt loài vật ác trên núi, trên trời mà còn diệt cả ác quỷ dưới nước, đấu tranh vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa, chống ngoại xâm, bảo vệ non sông Tổ quốc, vẻ đẹp tài năng, đạo đức của Thạch Sanh đậm đà bản chất Việt Nam. Những chiến công của Thạch Sanh thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, yêu hoà bình của nhân dân ta. Những giá trị nội dung ấy của tác phẩm được thể hiện bằng nhiều tình huống, chi tiết và hình ảnh thần kì độc đáo như: sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh, cung tên vàng, cày đàn thần và niêu cơm thần. Thêm nữa, cùng với văn bản kể miệng bằng văn xuôi, cổ tích Thạch Sanh còn được sáng tác bằng một truyện thơ Nôm, theo thể lục bát ra đời khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm toát ra bao nhiêu ý nghĩa nội dung, hiển hiện bao nhiêu hình ảnh nghệ thuật độc đáo. Nổi bật nhất trong truyện kể văn xuôi cũng như trong truyện thơ Nôm Thạch Sanh là hình ảnh cây đàn, tiếng đàn thần và niêu cơm thần. Có thể nói đó là “tiếng đàn hoá giải”, đó là “niêu cơm nhân nghĩa”. 1.Trước hết, chúng ta hãy lắng nghe và suy nghĩ về tiếng đàn của Thạch Sanh. Chẳng rõ, sau khi nhận cây đàn kỉ niệm của vua Thuỷ Tề, trở lại dương thế, tiếp tục sống cuộc đời lam lũ, Thạch Sanh đã luyện được phép màu kì diệu nào mà khi tiếng đàn cất lên ở trong ngục, nó nỉ non, thánh thót, nhiều cung, nhiều nghĩa đến thế. Truyện văn xuôi chỉ kể ngắn gọn: “Thạch Sanh ngồi trong ngục tối, đem đàn của vua Thuỷ Tề cho ra gảy”. Còn truyện thơ thì miêu tả tiếng đàn ấy rất cụ thể: Đàn kêu: Ai chém chằn tinh Cho mày vinh hiển dự mình quyền sang? Đàn kêu: Ai chém xà vương Đem nàng công chúa triều đường vê đây? Đàn kêu: Hỡi Lí Thông mày Cớ sao phụ nghĩa lại rày vong ân? Đàn kêu: Sao ở bất nhân Biết ăn quả lại quên ân người trồng? Nhân danh công lí, tiếng đàn ấy đã thay lời nạn nhân oan uổng nói to lên, vang lên tất cả sự thật, bênh vực người có công, tố cáo kẻ gian xảo, cướp công, gây tội ác, bất nghĩa, bất nhân. Âm thanh, nhịp phách của tiếng đàn rắn rỏi, mạnh mẽ, dứt khoát,… như tiếng vị quan toà phân xử rạch ròi như lưỡi rìu, mũi tên chàng dũng sĩ nhằm giữa mặt kẻ quyển cao chức lớn, nhưng chúng là thủ phạm gieo đau khổ cho người dân lương thiện. Tiếng đàn của Thạch Sanh vang lên giữa thanh thiên bạch nhật, nói rõ tất cả mọi lẽ đời ân oán, nghĩa tình, vọng từ ngục tối, vọng khấp kinh thành, vọng tới cung vua. Nghe tiếng đàn, nàng công chúa bấy lâu im tiếng, nay “bỗng cười nói vui vẻ”. Thạch Sanh được gặp nhà vua. Tiếng đàn ấy đã hoá giải mọi bi kịch của cuộc đời chàng Thạch Sanh dũng sĩ – nghệ sĩ. Tên Lí Thông độc ác bị trừng phạt. Công lao, tài đức của Thạch Sanh được đền đáp. Tiếng đàn có phép thần thông kì diệu, hay đó chính là khát vọng công lí, khát vọng nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc ta? Trong các truyện cổ tích khác, niềm khát vọng đó thường được biểu hiện bằng hình tượng Tiên, Bụt, hoặc những biến hoá huyền ảo, hoang đường. Ở truyện Thạch Sanh, tác giả dân gian sử dụng “tiếng đàn” biết nói, nói thấu tình, đạt lí để đấu tranh cho lẽ phải, giành lấy hạnh phúc. Hình tượng “tiếng đàn” vừa gần gũi vừa độc đáo và đậm chất nghệ sĩ. 2. Niêu cơm nhân nghĩa Chiến thắng của tiếng đàn Thạch Sanh mới chỉ ở chặng đầu. Quân chư hầu mười tám nước bằng lòng lui binh. Các hoàng tử cởi giáp xin hàng. Nhưng đội ngũ vẫn trùng trùng điệp điệp trước kinh thành. Làm thế nào đây? Phải cấp lương thực để cho chúng no bụng, vui vẻ về nước chứ. Lúc bấy giờ nhà vua lo lắng. Cả triều đình lo lắng, nghĩ kế, bày mưu. Thạch Sanh chẳng nghĩ nhiều, chàng sai dọn một bữa cơm thết đãi kẻ bại trận. Bữa cơm… chỉ vẻn vẹn có “một niêu cơm tí xíu” khiến lũ giặc “bĩu môi”, như chế giễu, như hỏi han, chất vấn. Thạch Sanh “đố họ ăn hết và hứa sẽ trọng thưởng”. Một câu đố – một bài toán, lại xuất hiện “bài toán” trong tác phẩm. Đơn giản quá, dễ dàng quá, cái “bài toán niêu cơm”. Vậy mà, hàng vạn quân của mười tám nước chư hầu không giải được bài toán ấy. Chúng đành phải “cúi đầu lạy tạ vợ chồng Thạch Sanh rồi kéo nhau về nước”. Chao ôi! Niêu cơm của Thạch Sanh, cái vật dụng đất nung nhỏ bé, bình thường mà sao có sức chứa lớn lao phi thường như vậy. Thật lạ lùng và thú vị! Tôi chợt nhớ thành ngữ xưa “nước lọ, cơm niêu” cha ông ta dùng để thở than về cuộc sống thiếu thốn, đói nghèo từng đày đoạ bao kiếp người lao động. Không biết, khi mời khách, nhất là khách nước ngoài, các nhà hàng có kể cho họ nghe về cái “niêu cơm” Thạch Sanh huyền thoại – sản phẩm thần kì của mảnh đất trí tuệ và tâm hồn dân tộc ta? Những hình tượng thẩm mĩ độc đáo một khi bắt nguồn từ cuộc sống, nhất là cuộc sống đẫm mồ hôi và nước mắt của người lao động, qua sự sáng tạo tài tình của người nghệ sĩ thì nó sẽ trẻ mãi không già, sẽ trường tồn và trở đi trở lại với chúng ta trong cuộc sống, cũng như trong lòng người. So với những truyện cổ tích quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam như Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Cây khế, Trầu cau, Sợ Dừa,… cổ tích Thạch Sanh có nội dung, kết cấu, số phận, tính cách nhân vật phong phú, đa dạng hơn nhiều. Nhân vật Thạch Sanh trong truyện vừa mang những nét đặc trứng của các nhân vật dũng sĩ trong anh hùng ca thời thị tộc – bộ lạc, vừa có những nét tính cách và số phận tiêu biểu cho loại nhân vật trong cổ tích thần kì ra đời trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì thế, Thạch Sanh vừa là biểu tượng cho con người lương thiện, nêu cao điều thiện, để đấu tranh diệt trừ cái ác vừa là người anh hùng tài năng, trí dũng vẹn toàn chiến đấu chống ngoại xâm, giữ yên bờ cõi. Đỉnh cao của phẩm chất nhân nghĩa, anh hùng trong Thạch Sanh phải chăng là tiếng đàn và niêu cơm? Kéo tấm màn huyền thoại, hoang đường, sương khói kì ảo của trí tưởng tượng dân gian, chúng ta nhìn thấy được những chứng tích lịch sử, lắng nghe được những tiếng nói của cha ông về khát Vọng hoà bình, no ấm tự ngàn đời nay vọng lại. Tiếng đàn Thạch Sanh hay chính là văn hoá, văn học nghệ thuật Việt Nam có khả năng hoá giải mọi bi kịch? Niêu cơm Thạch Sanh, hay chính là hạt thóc, nồi cơm, của cải vật chất trên mảnh đất Việt Nam đã từng nuôi lớn dân tộc, đã từng chiến thắng ngoại xâm và sẽ mãi mãi đem lại ấm no, hạnh phúc cho mỗi gia đình, cho mọi người Việt Nam chúng ta? Ôi, tiếng đàn kì diệu, niêu cơm nhỏ bé mà có sức chứa vô hạn, vô biên, đáng yêu, đáng nhớ làm sao!
Trong buổi học tuần trước. em thấy buổi học nào có kết quả hơn cả? Em hãy kể lại buổi học ấy. Bài làm Cô kiểm lại bài: “Qua Thậm Thinh", các bạn đều thuộc bài, nhất là bạn Khánh Ngân, thường ngày đọc“ ê a mà hôm nay cũng đạt điểm cao. Cô rất vui, ghi điểm vào sổ rồi gấp lại Cô ghi tựa bài mới: "Yết Kiêu". và giảng bài Giọng của cô khi trầm khi bổng nghe rất hấp dẫn. Chúng em nghe say sưa và có lúc tưởng mình đang ở vào thời đại của Yết Kiêu. Em cảm thấy khâm phục Yết Kiêu. Yết Kiêu như một con giao long vùng vẫy trên sóng nước. Đục thuyền làm cho giặc Nguyên sợ hãi không còn mộng xâm lăng. Giảng bài xong, cô đặt câu hỏi rồi gọi các bạn trả lời. Các bạn rất háo hức giơ tay. Những ánh mắt đảm dám nhìn cô như muốn cô gọi mình trả lời Cô gọi vài bạn đọc bài. Các bạn đọc rất hay, rất diễn cảm và trả lời các câu hởi đầy đủ. Cô bước lên bục giảng, viết một số bài toán cho chúng em làm. Cô gọi các bạn Thảo Nguyên, Hải Bằng, Kim Ngân và Thu Hằng lên bảng sửa bài về nhà. Các bạn này thường xuyên làm toán sai, hôm nay cũng đạt điểm mười. Chúng em mở tập ra sữa. Chà! Bài hôm nay khó quá! Toàn là số thập phân. Nhiều tiếng xì xào tỏ ra bối rối. Cô bảo chúng em yên lặng. Cô lại bước lên bục giảng, chúng em chăm chú lắng nghe. Dưới sự chỉ dẫn của cô, những con số thập phân kia không còn đáng ghét nữa. Tiếp đó, chúng em làm bài tập. Cơn gió mát rượi nghiêng mình qua cửa sổ nhìn chúng em làm bài. Bài gần xong thì giờ ra chơi cũng đã đến Hai chục phút thoải mái trôi qua rất mau, chúng em vào học tiết ba Cô phát vỡ toán cho chúng em, em sung sướng vô cùng khi có điểm mươi đỏ chói trong vở. Sang tiết thứ ba là môn khoa học với bài mới là "Nhiệt kê' Cô gọi ba bạn trả bài cũ, bạn nào cũng đạt điểm cao. Cô cho ví dụ mô tả nhiệt kế như: nhiệt kế đo thời gian, nhiệt kế đo thân nhiệt, mỗi loại đều rất công dụng Cô đặt câu hỏi khoa học, bạn nào cũng trả lời đúng, đầy đủ. Sang tiết thứ tư là môn đạo đức. Câu chuyện thật vui và ngộ nghĩnh. Cô dạy chúng em cách nói chuyện với người lớn tuổi. Em thấy mình nhiều lúc chưa tỏ lòng tôn kính đúng mức đối với người già. Em cần phải nhường bước đi, phải nói năng lễ phép với các cụ. Bởi vì chính những con người ấy đã đóng góp nhiều cho xã hội. Cuối buổi học, cô khen chúng em chuẩn bị tốt ở nhà nên học hành sôi nổi và nghiêm túc Khi tiếng trống báo hiệu giờ chào cờ, chúng em xếp hàng để tham dự buổi lễ chào cờ đầu tuần. Buổi học ngày thứ hai thật đáng nhớ. Em nghĩ rằng tất cả các buổi học trong tuần đầu như vậy thì không lo gì về kết quả ở kì thi sắp tới.
During class last week. Which lesson do you find most effective? Tell me about that lesson. Assignment She checked the lesson: "Qua Tham Thinh", everyone knew the lesson, especially Khanh Ngan, who usually recited "hea but today also got a high score." She was very happy, wrote down the score in the book and then closed it. new song title: "Yet Kieu" and her lecture. Her voice, sometimes deep and sometimes low, sounded very attractive. We listened passionately and sometimes thought we were in Yet Kieu's era Yet Kieu was like a dragon struggling on the waves, making the Nguyen enemy afraid of invasion. After the lecture, she asked questions and called on everyone to answer. You all eagerly raised your hands. The daring eyes looked at her as if wanting her to call her to answer. She called a few people to read the article. You read very well, were very expressive and answered all questions fully. She stepped up to the podium and wrote some math problems for us to do. She called Thao Nguyen, Hai Bang, Kim Ngan and Thu Hang to the board to correct their homework. These students often make math mistakes, and today they also scored ten points. We opened the notebook and brought out the milk. Rub! Today's lesson is so difficult! All are decimals. Many whispers expressed confusion. She told us to be quiet. She stepped up to the podium again, we listened attentively. Under her guidance, those decimal numbers are no longer obnoxious. Next, we did the exercises. The cool breeze leaned through the window and watched us do our homework. The lesson was almost finished and it was time for recess. Twenty comfortable minutes passed quickly. We entered third period. She broke the math for us. I was extremely happy to have a bright red score of ten in my notebook. The third period was a science subject with a new lesson called "Thermography". She called three students to return the old lesson, and all of them got high scores. She gave examples to describe thermometers such as: thermometer to measure time, thermometer to measure time. Body temperature, each type is very useful. She asked scientific questions, everyone answered correctly and completely. In the fourth lesson, the story was fun and funny. She taught us how to talk I feel like I sometimes don't show proper respect to the elderly. I need to step aside and speak politely to them because they have contributed a lot At the end of the lesson, she praised us for preparing well at home so we studied enthusiastically and seriously. When the drum signaled the flag-raising time, we lined up to attend the flag-raising ceremony at the beginning of the week. The second day's class was memorable. I think that with all the classes in the first week like that, I don't have to worry about the results in the upcoming exam.
Trong buổi học đầu xuân, các bạn kể những niềm vui ngày Tết và bỗng nhiên nghe Bảng Đen tâm sự. Em hãy kể lại câu chuyện đó Gợi ý DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG A. MỞ BÀI Hoàn cảnh xảy ra sự việc: + Thời gian: Sau Tết, buổi sớm mai lạnh. + Không gian: ở một ngôi trường vừa thức dậy. B. THÂN BÀI D. Mọi người trong lớp đang kể chuyện vui ngày tết. E. Bảng đen cũng lên tiếng ngỏ lời tâm sự. F. Bảng kể lại những công ích của mình cho các bạn học sinh và tủi thân thấy mình bị hành hạ. + Bảng bị rạch chằng chịt bởi những vết dao sắc. + Bảng không được treo chắc chắn nên bị rớt và bị gãy góc. + Bảng bị banh đá vào mặt nên bị mất một mảng sơn. G. Bảnh đen khuyên nhủ chân tình: + Yêu cầu treo mình chắc chắn. + Yêu cầu phải biết tôn trọng mình, phải bảo vệ mình để nó giúp ích cho các bạn học sinh. + Mong các bạn nhỏ học hành tốt để không phụ lòng thầy cô và của nó. + Nhắc nhở những học sinh còn quậy phá và ngủ gật. + Chúc tết đầu năm. C. KẾT BÀI + Trống đánh vào lớp. + Bạn Mai thay lớp cảm ơn Bảng Đen. + Cô giáo vào lớp, buổi học bắt đầu. BÀI LÀM Sau Tết, những buổi sớm mai thường se lạnh. Ngôi trường cấp một nhỏ nhắn còn ẩn hiện trong màn sương mỏng lửng lơ. Tuy mùa đông đã cởi chiếc áo xanh của mình để đón rước nàng xuân, thế mà ngôi trường vẫn còn như ngủ rất kỹ trong khí trời có gió heo may… Rồi ông mặt trời ló dạng. Nắng rải vàng sân trường, nắng như những lớp bụi óng len lỏi vào trong lớp học. Nắng rực rỡ và chiếu sáng các khuôn mặt đầy sức xuân của lớp tôi. Ngôi trường đã thức dậy. Tụ tập tại lớp là các bạn nhỏ lớp 1A chúng tôi. Ai cũng hăng hái kể chuyện ngày xuân trong dịp nghỉ Tết vừa qua. Bé Mai với bím tóc mềm hoe hoe vàng, ngúng nguẩy đôi bướm trên đầu trông thật dễ thương. Bạn ấy khoe: “Năm nay, mẹ tôi đưa tôi xuống thuyền, dắt tôi về với ngoại nè, ở quê ngoại lạ lắm nghe, có dừa nước, có cây bần mà quả của nó chắc là ăn ngon lắm!” Nam là một cậu bé lí lắc nhất lớp tôi cướp lời: “Tớ cũng về quê nội của tớ chứ bộ. Ở đó cũng có bần, tớ đã ăn nó rồi, chát ơi là chát, đâu ngon lành gì! Nghe nói ăn nhiều là chết vì ngộ độc đấy!…”. “Ai vậy kìa…” – Mai lúng túng. “Chẳng lẽ bảng lại nói được sao” – Nam im thin thít rồi nghi ngờ hỏi. “Đúng đấy, chính tôi là Bảng Đen đang nói với các bạn đấy! Các bạn có cho tôi được nói đôi lời đầu năm mới không?”. Mai chau mày: “Nhưng mà Bảng ơi, “tâm sự” là cái gì, tôi không hiểu!”. Ừ nhỉ, sao lại không nói chuyện như tụi mình mà lại “tâm sự”? “tâm sự” nghĩa là bạn định bày trò chơi cho chúng tôi phải không hở Bảng? – Nam cũng thắc mắc như Mai. Không đâu, tâm sự nghĩa là chúng mình trò chuyện thân mật với nhau đấy mà! À, vậy thì Bảng cứ nói chuyện với chúng tôi đi. Đầu năm nghe Bảng nói chuyện chắc cũng thú vị lắm đây! Nam lên tiếng. Bảng Đen chậm rãi tiếp lời: “Chắc có lẽ từ khi bước vào lớp học này, cho đến hôm nay, đã bao lần các bạn theo bàn tay cô giáo nhìn thấy những chữ viết và những con số. Nhưng đã có bạn nào nghĩ và chú ý đến tôi chưa? Tôi không tự khoe mình đâu nhưng cũng thật là tủi thân khi thấy mình làm việc có ích cho mọi người mà lại bị mọi người hất hủi và hành hạ. Bạn hãy nhìn lên mặt bên phải của tôi thì rõ. Bạn có thấy những vết dao rạch chằng chịt với việc khắc những chữ a, b, c xiêu xọ không thể xóa được trên mặt tôi đấy không? Và phía bên trái, bạn không thấy một mảng sơn của tôi đã bị bong ra do một quả banh các bạn đá trong lớp đập vào đó sao? Bạn hãy nhìn góc dưới của tôi đi, nó bị vênh ra và gãy mép, đó là do các bạn treo tôi trên hai sợi dây thép nhỏ xíu cho nên một lần các bạn níu lấy tôi để quét mạng nhện và tôi rớt xuống mới ra cơ sự đó… Bảng ơi, bạn trách chúng tôi nhiều quá đấy, đầu năm như vậy là chúng tôi không hên tí nào. Sao bạn không trách người nào đã kẻ trên mặt bạn cơ man là những ô vuông? Nam trách Bảng. Bảng giải thích: Ồ, vậy là bạn đã nghĩ sai cho người ta rồi. Nếu không có những ô vuông đó thì các bạn khó lòng mà tập viết cho đúng dòng, đúng ô ở trong tập. Nó cần thiết hơn là bạn tưởng… Đấy, có những đường rạch nó cần thiết và có những đường rạch nó nguy hại như thế đó. Nam cúi đầu xấu hổ. Hình như thủ phạm của những chữ cái được khắc vào Bảng là do chính bạn ấy thiếu suy nghĩ mà có. Bảng Đen bỗng chuyển lời nhỏ nhẹ: – Các bạn ơi, tôi nói để các bạn biết những sai lầm của mình mà sửa, chứ tôi đâu có trách móc nặng lời đâu. Tôi hy vọng là tôi sẽ được buộc chặt hơn, chứ cứ đứng thế này tôi e sợ một ngày nào mình lại bị đổ đánh rầm như dạo nọ… Các bạn ạ, lớp học này đón các bận từ trường mẫu giáo lên đây đầu tiên chính là tôi. Và cũng chính tôi giúp các bạn tròn miệng tập nói chữ wO” lần đầu tiên. Các bạn còn nhớ cái ngày cô giáo viết nắn nót trong ô vuông chữ “O” khá to và sau đó cả cô trò cùng đọc. Rồi cô bảo các bạn theo đúng mẫu trên mặt tôi mà viết vào trong tập. Từ đó đến nay, bao nhiêu bài học đã qua đi, bao nhiêu lần mặt tôi được viết và được bôi xóa. Tôi hy vọng các bạn sè không phụ lòng cô giáo và nếu bạn nào còn biết cảm ơn tôi thì ráng mà học hành cho giỏi. Tôi cũng khuyên các bạn đừng có nghịch phá, đừng nói chuyện riêng và đừng ngủ gục ở trong lớp. Ở trên tường này mỗi lúc nhìn thấy vậy, tôi buồn quá và hôm nay mới có dịp được tâm sự với các bạn đấy! Một năm mới nữa đã đến. Các bạn thêm một tuổi thì tôi chúc các bạn cũng thêm nhiều kiến thức và thêm nhiều việc tốt… Cô giáo đi vào lớp, chúng tôi nghiêm trang đứng dậy chào. Buổi học đầu năm bắt đầu…
During the first spring class, the students talked about the joys of Tet and suddenly heard Blackboard's confession. Let me tell that story again Suggest OUTLINE OF IDEAS A. OPEN LESSON Circumstances of the incident: + Time: After Tet, the morning is cold. + Space: in a school that just woke up. B. BODY OF THE ARTICLE D. Everyone in the class is telling funny stories about Tet. E. The blackboard also spoke up to confide. F. The board recounted his public service to the students and felt sorry for himself when he saw that he was being tortured. + The board was riddled with sharp knife cuts. + The board was not hung securely so it fell and broke the corner. + The board was kicked in the face by a ball, so a piece of paint was lost. G. Black gives sincere advice: + Ask to hang yourself securely. + Requires you to respect yourself and protect yourself so that it can help the students. + Hope the children study well so as not to disappoint their teachers and children. + Remind students who are still disruptive and falling asleep. + Happy New Year. C. CONCLUSION + The drum beats in the classroom. + Mai thanked the Blackboard on behalf of the class. + The teacher enters the classroom and the lesson begins. ASSIGNMENT After Tet, the mornings are often chilly. The small primary school is still hidden in the thin mist. Although winter has taken off its blue shirt to welcome spring, the school still seems to be sleeping soundly in the windy air... Then the sun appeared. The sun spreads gold across the schoolyard, the sun is like layers of shiny dust creeping into the classroom. The sun was bright and illuminated the youthful faces of my class. The school has woken up. Gathering in the classroom are our class 1A children. Everyone enthusiastically told stories about spring days during the recent Tet holiday. Baby Mai with her soft blonde pigtails, wiggling a pair of butterflies on her head, looks so cute. She boasted: "This year, my mother took me on the boat and took me back to my grandmother. It's very strange in my grandmother's hometown. There are water coconuts and cork trees whose fruit must be delicious!" Nam was the smartest boy in the class and I interrupted: "I'm also going back to my paternal hometown." There's also cork there, I've eaten it, it's acrid, it's not delicious! I heard that if you eat too much you will die of poisoning!...". “Who is that…” – Mai was confused. "Could it be that the board can speak?" - Nam remained silent and then asked doubtfully. “That's right, I'm Blackboard talking to you! Can you please let me say a few words at the beginning of the new year? Mai frowned: "But Bang, what is "confiding"? I don't understand!". Yeah, why don't we talk like we do and "confide"? “confide” means you intend to show us a game, right Bang? – Nam also wondered like Mai. No, confiding means we talk intimately to each other! Ah, then Bang just talk to us. Hearing Board talk at the beginning of the year must be very interesting! Nam spoke up. Blackboard slowly continued: "Perhaps since entering this classroom, until today, how many times have you followed the teacher's hand and seen the letters and numbers? But has anyone thought and paid attention to me? I'm not boasting about myself, but I feel really sorry to see that I'm doing useful things for everyone but being rejected and abused by everyone. Please look at my right face to see clearly. Do you see the intricate knife cuts and indelible carvings of the letters a, b, and c on my face? And on the left, don't you see a piece of my paint that was peeled off because a ball my friends kicked in class hit it? Look at my bottom corner, it's warped and the edges are broken, that's because you hung me on two tiny steel wires, so one time you grabbed me to sweep away the spider web and I fell down. That incident… Bang, you blame us too much, we are not lucky at the beginning of the year like this. Why don't you blame the person who drew so many squares on your face? Nam blamed Bang. Explanation panel: Oh, so you gave that person the wrong idea. Without those squares, it would be difficult for you to practice writing on the right lines and in the right boxes in your notebook. It is more necessary than you think... See, there are lines that are necessary and there are lines that are dangerous like that. Nam bowed his head in shame. It seems that the culprit of the letters engraved on the Board was his own thoughtlessness. Blackboard suddenly spoke softly: – Guys, I'm telling you so you can know your mistakes and correct them, but I'm not blaming you harshly. I hope that I will be tied tighter, but if I keep standing like this, I'm afraid that one day I will fall and crash like I did... Everyone, this class welcomes the first students from kindergarten to come here. is me. And it's also me who helps you practice saying the word "wO" for the first time. Do you still remember the day when the teacher wrote neatly in a rather large "O" square and then all the students read it together. Then she told you to follow the pattern on my face and write it in your notebook. Since then, so many lessons have passed, so many times my face has been written and erased. I hope you won't disappoint your teacher and if you still know how to thank me, try your best to study well. I also advise you not to be disruptive, not to talk in private and not to fall asleep in class. Every time I see this on this wall, I feel so sad and today I have the opportunity to confide in you! Another new year has come. As you become one year older, I wish you more knowledge and more good deeds... The teacher entered the classroom and we solemnly stood up to greet her. The first class of the year begins…
Trong bài Ngắm trăng có một thế giới trăng đầy lãng mạn – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Bài thơ Ngắm trăng nằm trước chùm thơ “Trung thu” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1942, đó là bài số 21 trong “Nhật kí trong tù” của Bác. Bài thơ viết về cảnh ngắm trăng nhưng không phải ngắm trăng một cách bình thường mà nhìn ánh trăng từ trong ngục. Từ tư thế ngắm trăng ấy đã toát lên một vẻ đẹp thanh cao trong tâm hồn Bác, một phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng trước cảnh đẹp thiên nhiên. Mở đầu bài thơ là cảnh ngộ của nhà thơ: Trong tù không rượu củng không hoa. Bị giam cầm trong nhà lao của bọn Tưởng Giới Thạch, sự thiếu thốn trăm bề là điều tất nhiên. Điều này không nói ra thì có lẽ chúng ta cũng hình dung được. Nhưng sự thiếu thốn ấy không ngăn nổi tâm hồn thơ của Bác, không làm cho Bác buồn lòng: Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Ánh trăng, rượu, hoa là những thứ đi liền với tâm hồn thi sĩ. Rất nhiều bài thơ lấy cảm hứng từ những thú vui này. Đối với Bác, chung quanh chỉ có ánh trăng soi từ bên ngoài qua song sắt. Trước cảnh đẹp nhưng lại thiếu rượu và hoa, điều này đã làm mất đi một phần thi hứng của nhà thơ. Hai câu thơ đầu chưa đề cập đến ánh trăng nhưng đọc lên như đã hiện hữu một ánh trăng. Ánh trăng đó chính là ánh sáng trong tâm hồn Bác, soi vào một đêm tối tăm của đất nước. Hai Câu thơ sau ánh trăng mới thật sự xuất hiện và bao trùm không gian chôn ngục thất, ánh trăng trở thành “nhân vật” chính của đêm nay. Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. Điểm nhấn của bài thơ chính là ở hai câu thơ cuối. Không chỉ có một hình ảnh mà là hai hình ảnh hòa quyện vào nhau. Sự hòa quyện đến mức đồng điệu và tưởng chừng như chỉ có một. Trong các câu thơ chữ Hán thường có hai hình ảnh gắn liền với nhau, chẳng hạn như nhân – nguyệt hoặc nguyệt – thi gia. Trong bài thơ của Bác Hồ cũng thế. Câu thứ ba Bác vẫn còn xưng Người, nhưng câu cuối đã thành nhà thơ. Câu thơ mang ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc. Từ trong ngục tối, nơi chỉ có bốn bức tường giam, không có bất kì thú vui nào, người tù nhìn ánh trăng soi từ cửa sổ. Đó là hình ảnh rất bình thường nhưng đối với Bác nó trở thành một niềm vui, một dịp may hiếm có. Từ “ngắm” thể hiện vẻ say sưa và một sự thưởng thức, thưởng thức cái đẹp, cái tao nhã của thiên nhiên. Không chỉ diễn ra một chiều ngắm. Ánh trăng đã được nhân hóa để nhòm lại nhà thơ. Vầng trăng bây giờ không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã có tâm hồn, một tâm hồn đồng điệu với tâm hồn Bác. Bác và trăng lặng lẽ nhìn nhau, cảm thông, chia sẻ với mối tình tri âm, tri kỉ. Hai câu thơ đối nhau, ngôn ngữ và hình ảnh cân xứng, hài hòa. Trăng và nhà thơ dù bị song sắt ngục tù chia cách nhưng vẫn rất gần gũi và ân tình. Đọc hai câu thơ chúng ta thấy ánh trăng như tràn ngập, như bừng sáng cả không gian bao la; khung cảnh không còn là ngục thất mà là một thế giới bao la với ánh trăng chiếu sáng và tâm hồn thi sĩ bay bổng. Có thể nói đây là hai câu thơ hay nhất và đẹp nhất về ánh trăng trong thơ Bác. Tư thế ngắm trăng của Hồ Chí Minh đã thể hiện tình yêu thiên nhiên yêu cái đẹp của Bác, đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan của Người dù ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất. Chúng ta còn bắt gặp nhiều bài thơ khác thể hiện được ý chí, nghị lực và tinh thần lạc quan của Bác nhưng đây là bài thơ để lại nhiều ấn tượng nhất. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên, vừa biểu lộ một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại, vừa thể hiện khát vọng tự do. Nó là hình ảnh tượng trưng cho một tâm thế sẵn sàng. Như Bác đã nói: “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Tags:Văn 8
In the article Watching the Moon, there is a romantic moon world - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment The poem Watching the Moon is located before the series of poems "Mid-Autumn Festival" by Ho Chi Minh. The poem was written in the fall of 1942, it is poem number 21 in Uncle Ho's "Prison Diary". The poem is about looking at the moon, but not looking at the moon normally, but looking at the moonlight from prison. From that posture of gazing at the moon, a noble beauty exuded in Uncle Ho's soul, a leisurely and carefree demeanor of a revolutionary soldier in front of natural beauty. The poem begins with the poet's plight: In prison there is no wine or flowers. Imprisoned in Chiang Kai-shek's prison, deprivation was inevitable. If this is not said, perhaps we can imagine it. But that lack could not stop Uncle Ho's poetic soul, nor did it make him sad: The beautiful scene tonight is hard to ignore. Moonlight, wine, and flowers are things associated with the poet's soul. Many poems are inspired by these pleasures. For Uncle Ho, there was only moonlight shining from outside through the iron bars. Seeing the beautiful scenery but lacking wine and flowers, this took away part of the poet's poetic inspiration. The first two verses do not mention moonlight, but read as if moonlight already exists. That moonlight is the light in Uncle Ho's soul, shining into a dark night of the country. After two verses, the moonlight truly appears and covers the prison space. The moonlight becomes the main "character" of this night. Moon peeked poet watching the door. The highlight of the poem is in the last two verses. There is not just one image but two images blended together. The harmony is so harmonious that it seems like there is only one. In Chinese poems, there are often two images associated with each other, such as human - moon or lunar - poet. The same is true in Uncle Ho's poem. In the third sentence, Uncle Ho still calls himself a man, but in the last sentence he has become a poet. The poem has a unique aesthetic meaning. From inside the dungeon, where there were only four prison walls, without any pleasures, the prisoner looked at the moonlight shining from the window. It was a very ordinary image, but for Uncle Ho it became a joy and a rare opportunity. The word "watching" expresses rapture and an enjoyment of the beauty and elegance of nature. It's not just one-way viewing. The moonlight has been personified to look back at the poet. The moon is no longer an inanimate object but has a soul, a soul in tune with Uncle Ho's soul. Uncle and the moon quietly looked at each other, sympathized, and shared the love of a soulmate. The two verses are opposite each other, the language and images are symmetrical and harmonious. Even though the moon and the poet were separated by prison bars, they were still very close and affectionate. Reading the two verses, we see the moonlight overflowing, as if illuminating the vast space; The scene is no longer a prison but a vast world with shining moonlight and a soaring poet's soul. It can be said that these are the two best and most beautiful verses about moonlight in Uncle Ho's poetry. Ho Chi Minh's moon-watching posture demonstrated Uncle Ho's love for nature and beauty, and also demonstrated his optimistic spirit even in the most difficult circumstances. We also come across many other poems that express Uncle Ho's will, energy and optimism, but this is the poem that leaves the most impression. The poem both expresses love for nature, a noble soul, a leisurely style, and a desire for freedom. It is an image that symbolizes a ready mind. As Uncle Ho said: "The body is inside the cell - The spirit is outside the cell." Tags: Literature 8
Trong bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh có một thế giới trăng đầy lãng mạn. Hãy làm rõ nhận định trên Hướng dẫn Bài thơ Ngắm trăng nằm trước chùm thơ “Trung thu” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1942, đó là bài số 21 trong “Nhật kí trong tù” của Bác. Bài thơ viết về cảnh ngấm trăng nhưng không phải ngắm trăng một cách bình thường mà nhìn ánh trăng từ trong ngục. Từ tư thế ngắm trăng ấy đã toát lên một vẻ đẹp thanh cao trong tâm hồn Bác, một phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng trước cảnh đẹp thiên nhiên. Mở đầu bài thơ là cảnh ngộ của nhà thơ: Trong tù không rượu củng không hoa. Bị giam cầm trong nhà lao của bọn Tưởng Giới Thạch, sự thiếu thốn trăm bề là điều tất nhiên. Điều này không nói ra thì có lẽ chúng ta cũng hình dung được. Nhưng sự thiếu thốn ấy không ngăn nổi tâm hồn thơ của Bác, không làm cho Bác buồn lòng: Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Ánh trăng, rượu, hoa là những thứ đi liền với tâm hồn thi sĩ. Rất nhiều bài thơ lấy cảm hứng từ những thú vui này. Đối với Bác, chung quanh chỉ có ánh trăng soi từ bên ngoài qua song sắt. Trướccảnh đẹp nhưng lại thiếu rượu và hoa, điều này đã làm mất đi một phần thi hứng của nhà thơ. Hai câu thơ đầu chưa đề cập đến ánh trăng nhưng đọc lên như đã hiện hữu một ánh trăng. Ánh trăng đó chính là ánh sáng trong tâm hồn Bác, soi vào một đêm tối tăm của đất nước. Hai câu thơ sau ánh trăng mới thật sự xuất hiện và bao trùm không gian chốn ngục thất, ánh trăng trở thành “nhân vật” chính của đêm nay: Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. Điểm nhấn của bài thơ chính là ở hai câu thơ cuối. Không chỉ có một hình ảnh mà là hai hình ảnh hòa quyện vào nhau. Sự hòa quyện đến mức đồng điệu và tưởng chừng như chỉ có một. Trong các câu thơ chữ Hán thường có hai hình ảnh gắn liền với nhau, chẳng hạn như nhân – nguyệt hoặc nguyệt – thi gia. Trong bài thơ của Bác Hồ cũng thế. Câu thứ ba Bác vẫn còn xưng Người nhưng câu cuối đã thành nhà thơ. Câu thơ mang ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc. Từ trong ngục tối, nơi chỉ có bốn bức tường giam, không có bất kì thú vui nào, người tù nhìn ánh trăng soi từ cửa sổ. Đó là hình ảnh rất bình thường nhưng đối với Bác nó trở thành một niềm vui, một dịp may hiếm có. Từ “ngắm” thể hiện vẻ say sưa và một sự thưởng thức, thưởng thức cái đẹp, cái tao nhã của thiên nhiên. Không chỉ diễn ra một chiều ngắm. Ánh trăng đã được nhân hóa để nhòm lại nhà thơ. Vầng trăng bây giờ không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã có tâm hồn, một tâm hồn đồng điệu với tâm hồn Bác. Bác và trăng lặng lẽ nhìn nhau, cảm thông, chia sẻ với mối tình tri âm, tri kỉ. Hai câu thơ đối nhau, ngôn ngữ và hình ảnh cân xứng, hài hòa. Trăng và nhà thơ dù bị song sắt ngục tù chia cách nhưng vẫn rất gần gũi và ân tình. Đọc hai câu thơ chúng ta thấy ánh trăng như tràn ngập, như bừng sáng cả không gian bao la; khung cảnh không còn là ngục thất mà là một thế giới bao la với ánh trăng chiếu sang và tâm hồn thi sĩ bay bổng. Có thể nói đây là hai câu thơ hay nhất và đẹp nhất vềánh trăng trong thơ Bác. Tư thế ngắm trăng của Hồ Chí Minh đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp của Bác, đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan của Người dù ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất. Chúng ta còn bắt gặp nhiều bài thơ khác thể hiện được ý chí, nghị lực và tinh thần lạc quan của Bácnhưng đây là bài thơ để lại nhiều ấn tượng nhất. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên, vừa biểu lộ một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại, vừa thể hiện khát vọng tự do. Nó là hình ảnh tượng trưng cho một tâm thế sẵn sàng.Như Bác đã nói: “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. LUYỆN TẬP Đề 1. Giới thiệu về tập thơ Nhật kỷ trong tù của Hồ Chí Minh. Đề 2. Tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh thể hiện như thế nào quabài thơ Ngắm trăng? Đề 3. Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đề 4. Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng trong Nhật kí trong tù của Bác Hồ.
In Ho Chi Minh's poem Watching the Moon, there is a romantic moon world. Please clarify the above statement Instruct The poem Watching the Moon is located before the series of poems "Mid-Autumn Festival" by Ho Chi Minh. The poem was written in the fall of 1942, it is poem number 21 in Uncle Ho's "Prison Diary". The poem is about the scene of soaking in the moon, but not looking at the moon normally, but looking at the moonlight from prison. From that posture of gazing at the moon, a noble beauty exuded in Uncle Ho's soul, a leisurely and carefree demeanor of a revolutionary soldier in front of natural beauty. The poem begins with the poet's plight: In prison there is no wine or flowers. Imprisoned in Chiang Kai-shek's prison, deprivation was inevitable. If this is not said, perhaps we can imagine it. But that lack could not stop Uncle Ho's poetic soul, nor did it make him sad: The beautiful scene tonight is hard to ignore. Moonlight, wine, and flowers are things associated with the poet's soul. Many poems are inspired by these pleasures. For Uncle Ho, there was only moonlight shining from outside through the iron bars. Despite the beautiful scenery but lacking wine and flowers, this took away part of the poet's poetic inspiration. The first two verses do not mention moonlight, but read as if moonlight already exists. That moonlight is the light in Uncle Ho's soul, shining into a dark night of the country. In the two verses after the moonlight truly appears and covers the prison space, the moonlight becomes the main "character" of tonight: Moon peeked poet watching the door. The highlight of the poem is in the last two verses. There is not just one image but two images blended together. The harmony is so harmonious that it seems like there is only one. In Chinese poems, there are often two images associated with each other, such as human - moon or lunar - poet. The same is true in Uncle Ho's poem. In the third sentence, Uncle Ho still calls himself a man, but in the last sentence, he has become a poet. The poem has a unique aesthetic meaning. From inside the dungeon, where there were only four prison walls, without any pleasures, the prisoner looked at the moonlight shining from the window. It was a very ordinary image, but for Uncle Ho it became a joy and a rare opportunity. The word "watching" expresses rapture and an enjoyment of the beauty and elegance of nature. It's not just one-way viewing. The moonlight has been personified to look back at the poet. The moon is no longer an inanimate object but has a soul, a soul in tune with Uncle Ho's soul. Uncle and the moon quietly looked at each other, sympathized, and shared the love of a soulmate. The two verses are opposite each other, the language and images are symmetrical and harmonious. Even though the moon and the poet were separated by prison bars, they were still very close and affectionate. Reading the two verses, we see the moonlight overflowing, as if illuminating the vast space; The scene is no longer a prison but a vast world with moonlight shining and the poet's soul soaring. It can be said that these are the two best and most beautiful verses about moonlight in Uncle Ho's poetry. Ho Chi Minh's moon-watching posture demonstrated Uncle Ho's love of nature and beauty, and also demonstrated his optimistic spirit even in the most difficult circumstances. We also come across many other poems that express Uncle Ho's will, energy and optimism, but this is the poem that leaves the most impression. The poem both expresses love for nature, a noble soul, a leisurely style, and a desire for freedom. It is an image that symbolizes a ready mind. As Uncle Ho said: "The body is inside the prison - The spirit is outside the prison." PRACTICE Topic 1. Introduction to Ho Chi Minh's poetry collection Nhat Ky in Prison. Topic 2. How is Ho Chi Minh's optimistic spirit expressed through the poem Watching the Moon? Topic 3. Analyze the poem Watching the Moon by President Ho Chi Minh. Topic 4. Feelings about the poem Watching the Moon in Uncle Ho's Prison Diary.
Trong bài “Bàn về phép học”, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp rất chú ý đến phương pháp học “theo điều học mà làm” – Văn nghị luận – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Bàn về phép học Đề bài: Trong bài “Bàn về phép học”, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp rất chú ý đến phương pháp học “theo điều học mà làm”. Hãy viết một bài văn nghị luận để giải đáp những điều trên. Bài làm Từ xưa tới nay, mối tương quan chặt chẽ giữa học và làm đã được nhiều người quan tâm, bình luận. Học quan trọng hơn làm, hay làm quan trọng hơn học? La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã nêu ra một phương pháp học “theo điều học mà làm” dựa trên cơ sở phép dạy học của Chu Tử. Vậy phương pháp học này có vai trò như thế nào trong xã hội? Vậy học là gì? Hành là gì? Học là hoạt động tiếp thu những tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở trường, qua sự truyền thụ của thầy cô, học ở bạn bè, tự học qua sách vở và trong thực tế đời sống. Học để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết. Học không phải chỉ để bố mẹ vui lòng và thầy cô không quở trách. Học trước hết là để cho chính mình: học để hiểu biết, học để làm, học để hoà nhập với cộng đồng, học để có chất lượng sống cao; học cho mình và cho xã hội, góp phần hữu ích vào sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc. Tóm lại: học để lập thân và lập nghiệp. Còn hành là quá trình vận dụng những kiến thức đã học vào những công việc hằng ngày. Học sinh làm toán cần có một nền tảng kiến thức vững chãi về những công thức, phép tính để hoàn thành tốt bài làm. Kĩ sư được đào tạo chính quy đã biết áp dụng các phương pháp làm việc vào trong công việc, giúp ích cho đất nước, con người. Đó là hành. Mục đích cuối cùng của học sinh là phục vụ cho cuộc sống của mình, của gia đình và xã hội. Nếu không, học được lí thuyết dù nhiều đến đâu, khó đến đâu mà không đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học đó chỉ tốn công sức, thời gian và tiền bạc. Ngược lại làm mà khống học thì làm không trôi chảy. Các công việc không cần nhiều đến trí tuệ là những công việc đơn giản, thường làm theo thói quen. Còn những công việc phức tạp thì bắt buộc người làm phải được đào tạo chính quy và trong suốt quá trình làm việc cần học tập không ngừng. Có như vậy, mới đáp ứng được nhu cầu xã hội. Vì vậy, phương pháp “theo điều học mà làm” giúp cho con người tiết kiệm được thời gian tìm tòi, học tập, giúp họ có kiểm chứng rõ ràng, phát triển được tư duy sáng tạo, việc học được nâng cao và sau khi làm có thể rút được kinh nghiệm. Trong thực tế hiện nay, mối quan hệ giữa học và làm cũng được nói tới nhiều. Hiện nay, đạo là vốn học vấn mà loài người đã tích lũy qua hàng ngàn năm trên mọi vấn đề nhằm đem tới văn minh, văn hoá. Trong thời đại kinh tế hội nhập, khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, việc học và hành càng được đặt ra một cách nghiêm túc và có chiều sâu hơn. Những trí thức lớn không chỉ có lòng yêu nước mà còn có chuyên môn biết kết hợp với trái tim giàu nhiệt huyết để cống hiến cho đời. Kĩ sư Trần Đại Nghĩa đã chế tạo ra loại súng thần công có sức công phá lớn đối với quân địch. Bác sĩ Tôn Thất Tùng đã áp dụng vốn hiểu biết của mình để chữa bệnh cho quân dân ta trong các cuộc kháng chiến trường kì. Những hoạ sĩ như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng; những nhà văn như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu ; nhạc sĩ như Văn Cao, Lưu Hữu Phước đều đã ghi danh mình vào lịch sử phát triển văn hoá của đất nước ta. Học và làm có ý nghĩa lớn để xác định cái giá trị thật hay giả của người trí thức. Những tên quan gian thần đã học theo lối học hình thức hòng cầu danh lợi, vì vậy nước mất, nhà tan. Những kẻ có bằng giả, có chứng chỉ giả nhằm thăng quan tiến chức, vơ vết công sức của nhân dân khiến hiện nay, đã có rất nhiều vụ tham nhũng của các quan chức trong bộ máy Nhà nước, làm thay đổi bộ mặt xã hội. Chúng ta còn nhớ vụ án Lã Thị Kim Oanh, những vụ việc chia chác hoa hồng của bác sĩ trên đơn thuốc của bệnh nhân,… Chúng ta cần phải coi lại cái thực của những kẻ trí thức ấy. Những người có tri thức chân chính thì không bao giờ làm như vậy đối với xã hội. Không xa xôi đâu cả, trong nhà trường cũng có lối học hình thức. Hiện nay, có những trường muốn được thành tích đã báo cáo sai với Bộ Giáo dục và Đào tạo về chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh. Thật đáng buồn cho những học sinh chỉ lo quậy phá, đua đòi, không đủ trình độ học vấn đề thi thố với đời. Vậy chúng ta phải làm gì để phát huy bài học quý giá đó? Cái quan trọng là luôn luôn cần cù, chịu khó, chăm chỉ và có niềm tin. Chúng ta cần noi theo những tấm gương đi trước để tự xem lại mình mà cố gắng, quyết tâm hơn, luôn luôn tìm tòi, học hỏi người xung quanh để tích lũy hiểu biết của mình. Đó là một phương châm đúng đắn trong cuộc đời. Câu tục ngữ của dân gian quả đúng là một bài học quý giá, một phương châm đúng đắn, sâu sắc. Và chúng ta cần phải phát huy bài học đó, tự hào vì đó là một phẩm chất quý giá trong mỗi con người. Trần Thu Hà (Trường THCS Quan Hoa) >> Xem thêm Một vấn đề xã hội mà em quan tâm tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · Bàn về phép học
In the article "Discussion on learning", La Son Phu Tu Nguyen Thiep pays much attention to the learning method "following what you learn" - Essay - Good essay for grade 8 Instruct Discussing etiquette Topic: In the article "Discussion on learning", La Son Phu Tu Nguyen Thiep pays much attention to the learning method "follow what you learn". Write an argumentative essay to answer the above. Assignment From ancient times until now, the close correlation between learning and working has received many people's attention and comments. Is learning more important than doing, or is doing more important than studying? La Son Phu Tu Nguyen Thiep proposed a method of learning "doing what you learn" based on Chu Tu's teaching method. So what role does this learning method play in society? So what is learning? What are onions? Learning is the activity of absorbing human knowledge that has been summarized over thousands of years of history. We can learn at school, through teachers, from friends, through books and in real life. Study to enrich knowledge and improve understanding. Studying isn't just so your parents will be happy and your teachers won't scold you. Learning is first and foremost for yourself: learning to understand, learning to do, learning to integrate into the community, learning to have a high quality of life; Study for yourself and for society, making a useful contribution to the common cause of the country and the nation. In short: learn to establish yourself and start a career. Practicing is the process of applying learned knowledge to daily tasks. Math students need to have a solid foundation of knowledge of formulas and calculations to complete their assignments well. Engineers who are formally trained know how to apply working methods to their work, helping the country and people. That's onion. The ultimate goal of students is to serve their lives, that of their families and society. Otherwise, no matter how much or how difficult the theory is, if you don't apply it in practice, learning will only be a waste of effort, time and money. On the contrary, if you work without studying, you will not do it fluently. Jobs that do not require much intelligence are simple jobs, often done out of habit. For complex jobs, workers must be formally trained and need to continuously study throughout the work process. Only then can social needs be met. Therefore, the "follow what you learn" method helps people save time researching and studying, helps them have clear verification, develop creative thinking, improve learning and then When doing, you can gain experience. In today's reality, the relationship between learning and working is also talked about a lot. Nowadays, religion is the knowledge that mankind has accumulated over thousands of years on all issues to bring civilization and culture. In the era of economic integration, science and technology are developing rapidly, learning and practicing are taken more seriously and in more depth. Great intellectuals not only have patriotism but also have the expertise to combine with a passionate heart to contribute to life. Engineer Tran Dai Nghia created a cannon with great destructive power against the enemy. Doctor Ton That Tung applied his knowledge to treat our soldiers and people during the long resistance wars. Painters like To Ngoc Van and Nguyen Sang; writers like Nguyen Tuan and Xuan Dieu; Musicians like Van Cao and Luu Huu Phuoc have all made their names in the history of cultural development of our country. Learning and doing have great significance in determining the true or false value of an intellectual. The dishonest mandarins followed a formalistic style of learning in order to gain fame and fortune, so the country was lost and the family was destroyed. Those who have fake degrees and fake certificates to gain promotion and take advantage of the people's efforts have caused many corruption cases among officials in the State apparatus, changing the face of society. festival. We still remember the La Thi Kim Oanh case, the cases of doctors' commission sharing on patients' prescriptions, etc. We need to review the reality of those intellectuals. People with true knowledge never do that to society. Not far away, in schools there is also a formal learning style. Currently, there are schools that want to achieve results and falsely report to the Ministry of Education and Training about the quality of students' learning and training. It's sad for students who only worry about causing trouble and competing, and are not qualified to learn and compete in life. So what must we do to promote that valuable lesson? The important thing is to always be diligent, hard-working, diligent and have faith. We need to follow our predecessors' examples to review ourselves, try harder, be more determined, always explore and learn from those around us to accumulate our own knowledge. That is a correct motto in life. The folk proverb is truly a valuable lesson, a correct and profound motto. And we need to promote that lesson and be proud because it is a valuable quality in every person. Tran Thu Ha (Quan Hoa Secondary School) >> See more A social issue that I care about here. Tags: Good essay for grade 8 · Discussing grammar
Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã tố cáo tội ác nào của Pháp Hướng dẫn Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã tố cáo tội ác nào của Pháp Bài Làm Trong bản” Tuyên ngôn độc lập” Bác đã vạch trần tội ác của Pháp đối với nhân dân Việt Nam trong 80 năm qua. Vạch trần bộ mặt xảo trá của thực dân Pháp, chúng kể công khai hóa nước ta bằng những dẫn chứng chính xác và xát thực về kinh tế và chính trị. Về mặt chính trị, chúng không cho nhân dân ta một chút tự do nào. Chúng thi hành đạo luật dã man, chúng đặt ba chế độ khác nhau ở ba vùng miền nước ta cản trở việc thống nhất đất nước. Chúng thẳng tay chém giết nhân dân ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu. Chúng ràng buộc dư luận. Chúng thi hành chính sách ngu dân. Về mặt kinh tế chúng bóc lột nhân dân ta đến xương tủy, khiến nhân dân ta nghèo khó. Chúng cướp ruộng đất của dân, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý làm cho nhân dân ta khổ cực, khó khăn. Cách lập luận của Hồ Chí Minh trong “ Tuyên ngôn độc lập” chặt chẽ, sát thực. Dẫn chứng tiêu biểu, thực tế. Từ đó vạch trần bộ mặt xảo trá của thực dân Pháp, kể công khai hóa nước ta.
What crimes did France denounce in the Declaration of Independence? Instruct What crimes did France denounce in the Declaration of Independence? Assignment In the "Declaration of Independence" Uncle Ho exposed France's crimes against the Vietnamese people over the past 80 years. Exposing the treacherous face of the French colonialists, they made our country public with accurate and realistic economic and political evidence. Politically, they do not give our people any freedom. They enforced barbaric laws, they placed three different regimes in three regions of our country, hindering the unification of the country. They brutally killed our people. They bathed our uprisings in a sea of ​​blood. They bind public opinion. They implement a policy of ignorance. Economically, they exploit our people to the core, making our people poor. They stole people's land, mines, and raw materials. They set hundreds of unreasonable taxes that make our people miserable and difficult. Ho Chi Minh's argument in the "Declaration of Independence" is strict and realistic. Typical, practical evidence. From there, we exposed the treacherous face of the French colonialists and made our country public.
Trong các bài thơ của Bác Hồ mà em đã học, em thích nhất bài thơ nào? Hãy phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc bài thơ đó. Hướng dẫn Hồ Chủ tịch không những là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt Nam mà còn là một thi sĩ nổi tiếng. Đọc bài thơ Cảnh khuya em càng thấy rõ hơn tâm hồn thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ trong Bác. Em thấy say mê cảnh đẹp hùng vĩ, nên thơ của núi rừng Việt Bắc – cái nôi của cách mạng. Em cũng rất khâm phục, kính yêu lòng yêu nước vĩ đại của Bác. Tiếng suối trong như tiếng hát xa – Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Bức tranh thiên nhiên đẹp của rừng Việt Bắc thể hiện ở ngay hai câu thơ đầu: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên thơ mộng hơn; tươi đẹp hơn nhờ biện pháp so sánh tài tình và độc đáo: Tiếng suối trong như tiếng hát xa.. Âm thanh mới trong trẻo, du dương, ngân nga làm sao. Âm “a” ở câu cuối gợi nên cung bậc của tiếng suối, tiếng suối đều đặn, miên man, mang lại cho tâm hồn em một âm hưởng thiết tha, ngọt ngào mà sâu lắng. Nghệ thuật so sánh còn tạo ra một vẻ đẹp mới cho hình ảnh thơ: Bác biến dòng suối thành một con người có tâm hồn, có tình cảm, biến tiếng suối thành tiếng hát, một âm thanh rất trong trẻo, trẻ trung. Tiếng suối như có hồn của người nghệ sĩ. Bác đứng dưới rừng Việt Bắc thưởng thức tiếng, suối, thưởng thức cảnh thiên nhiên của núi rừng khi đã về khuya. Phải rất say mê, chan hòa với thiên nhiên, hòa hợp, thân thiết với thiên nhiên Bác mới nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên như thế. Thiên nhiên tạo ra vẻ đẹp trong tâm hồn Bác. Đọc đến đây, dẫu không phải là một người nghệ sĩ, không thân thiết với thiên nhiên như Bác, em cũng cảm thấy lòng mình rung động mãnh liệt. Em thấy vô cùng sung sướng, xúc động và em như thấy con suối hiện ra trước mắt mình thật lung linh, huyền ảo. Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Trăng tròn vành vạnh tỏa ánh sáng xuống trần gian. Những lùm cây rậm rạp được trăng chiếu xuống trông như những sợi kim tuyến lấp lánh trang điểm trên mái tóc bồng bềnh của nàng thiếu nữ. Trăng soi qua kẽ lá, chiếu xuống đất tạo thành muôn vàn những đốm trắng nhỏ li ti trên mặt đất lấm tấm như hoa gấm. Trăng, cây cổ thụ, bóng hoa tuy ở ba tầng bậc khác nhau nhưng chúng không cách biệt mà gắn bó, đan xen vào nhau, lồng vào nhau, tôn thêm vẻ đẹp cho nhau. Chúng cũng sống động lên nhờ từ “lồng”. Trước mắt em là một bức tranh tươi đẹp, các nét cảnh hòa quỵện, đan xen khiến cho bức tranh càng lung linh, huyền ảo hơn. Bức tranh đó làm em say mê, ngây ngất. Cảnh rừng Việt Bắc rất phong phú nhưng Bác chỉ khắc họa một vài nét: ánh trăng, tiếng suối. Tuy nhiên em vẫn hình dung thấy một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Người. Phải chăng Bác thao thức, chưa ngủ vì cảnh thiên nhiên quá đẹp? Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ. Nghệ thuật so sánh này gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Cảnh rừng Việt Bắc như một bức tranh – “như vẽ”, một bức tranh tươi đẹp nhưng cũng hết sức hoàn hảo, có trăng, có suối, có bóng hoa, có cây cổ thụ. Hai lần tác giả dùng biện pháp so sánh trong bài nhưng mỗi lần so sánh mang đến một vẻ đẹp tươi khác nhau. Nhờ đó cảnh rừng Việt Bắc hiện ra cụ thể hơn. Bác muôn vàn kính yêu của chúng ta quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu nước sâu sắc. Bác không những yêu thiên nhiên mà Bác còn lo lắng cho nước nhà, lo cho giang sơn tươi đẹp: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Cảm xúc khâm phục Bác càng dâng lên trong em. Câu thơ đã lí giải toàn bộ nguyên do vì sao Bác không ngủ: vì lo cho nước nhà. Có lẽ đã bao đêm Bác thao thức không ngủ như thế này vì Bác lo cho dân, cho nước. Rồi đêm nay, giữa núi rừng Việt Bắc, bất chợt gặp khung cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, lòng Bác tràn trề cảm xúc và đã bật ra những vần thơ chứ không phải Bác ngắm cảnh để làm thơ. Điều ấy càng khiến em xúc động. Em càng kính yêu, khâm phục vô bờ đối với tâm hồn, trái tim vĩ đại của Bác. Đọc Cảnh khuya em vừa say mê với cảnh, vừa khâm phục phẩm chất và tâm hồn của Bác. Đọc bài thơ em bắt gặp tâm hồn của người thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ. Tâm hồn ấy, tấm lòng ấy kết hợp hài hòa trong con người Bác làm nên cái vĩ đại của Bác. Bác không bao giờ xao nhãng việc nước, xao nhãng việc quân dù chỉ trong một chút thư giãn với thiên nhiên hay một thoáng mơ màng sau một ngày làm việc vất vả. Từ đó em càng thấy kính trọng, tôn kính Người. Bài làm của học sinh Lê Thị Thu Trang Viết một bài cảm nhận ngắn về bài thơ Cảnh khuya của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài làm Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa. Hai câu thơ như vẽ bức tranh thủy mặc: Có cây, có hoa, có trăng và xa xa có suối (Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa). Cảnh vật hiện ra trong vòm cây cổ thụ giữa đêm khuya, tỏa bóng xuống thảm hoa trong một đêm trăng đẹp. Hai câu thơ tuyệt tác, tạo cho người đọc một tâm hồn thơ đầy xúc cảm: Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Bài thơ được viết vào năm 1947, sau lời kêu gọi nhân dân tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Theo lời Bác, toàn dân rút vào nơi rừng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo căn cứ, thành lập cơ sở cho cuộc kháng chiến lâu dài với một hậu phương vững chắc và an toàn cho cuộc cách mạng. Trong một đêm nào đó, Bác Hồ thong thả dạo chơi quanh vùng, thưởng thức cảnh đẹp của đêm trăng, Bác làm bài thơ tả cảnh với tâm tư lo lắng nỗi nước nhà đang bước vào cuộc kháng chiến chống xâm lược của toàn dân. Hai câu thứ ba và bốn nói lên xúc cảm thiêng liêng của hồn nước chỉ gói gọn trong câu thơ lặp lại “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Cả bài thơ bốn câu tả cảm xúc của Bác trước cảnh đẹp thiên nhiên dưới trăng khuya. Người chưa thể ngủ vì còn trăm thứ phải lo. Vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đâu có thể yên tâm mà ngắm cảnh. Cùng với hồn thơ lâng lâng còn xúc cảm. Với nỗi lo việc nước, việc dân. Bao nhiêu việc đã khiến Người chưa ngủ. Và hồn nước thiêng liêng giờ đây đã đến với Người khi tạm lắng hồn thơ để lo việc nước. LUYỆN TẬP Đề 1. Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đề 2. Vẻ đẹp nhân cách và tấm lòng vì dân, vì nước của Bác Hồ thể hiện như thế nào qua bài thơ Cảnh khuya. Đề 3. Thiên nhiên trong bài thơ Cảnh khuya của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Among the poems of Uncle Ho that you have studied, which poem do you like the most? Please express your feelings when reading that poem. Instruct President Ho is not only a great leader and father of the Vietnamese nation but also a famous poet. Reading the poem Late Night Scene, I see more clearly the poet's soul and the soldier's heart in Uncle Ho. I feel passionate about the majestic, poetic beauty of the mountains and forests of Viet Bac - the cradle of the revolution. I also admire and respect Uncle Ho's great patriotism. The sound of the stream is as clear as a distant song - Moon cage, ancient tree, shadow of flower cage The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet Not sleep, worrying that country. The beautiful natural picture of Viet Bac forest is shown in the first two verses: The sound of the stream is as clear as singing in the distance. Moon cages, trees, shadows of flower cages. The natural scenery of Viet Bac's mountains and forests suddenly becomes more poetic; more beautiful thanks to ingenious and unique comparison methods: The sound of the stream is as clear as singing in the distance.. The sound is so clear, melodious, and humming. The sound "a" in the last sentence evokes the tone of the sound of a stream. The sound of the stream is steady and endless, bringing a passionate, sweet and deep sound to my soul. The art of comparison also creates a new beauty for poetic images: He turns the stream into a person with soul and feelings, turns the sound of the stream into singing, a very clear and youthful sound. The sound of the stream seems to have the artist's soul. He stood under the Viet Bac forest, enjoying the sound, the stream, and the natural scenery of the mountains and forests late at night. He must be very passionate, in harmony with nature, in harmony and close to nature to see the beauty of nature like that. Nature creates beauty in Uncle Ho's soul. Reading this, even though I am not an artist or not as close to nature as Uncle Ho, I still feel strongly moved. I felt extremely happy and touched and I felt like I saw the stream appearing before my eyes, so shimmering and magical. Moon cage, ancient tree, shadow of flower cage. The full moon radiates light to the world. The dense groves of trees shined down by the moon looked like glittering strands of glitter adorning the young girl's flowing hair. The moon shines through the leaves, shining on the ground, creating countless tiny white spots on the ground like brocade flowers. The moon, ancient trees, and flower shadows are on three different levels, but they are not separate but attached, intertwined, interlocking, enhancing each other's beauty. They also come alive thanks to the word “cage”. Before my eyes is a beautiful picture, the sceneries blend and intertwine, making the picture even more sparkling and magical. That picture made me fascinated and ecstatic. The landscape of the Viet Bac forest is very rich, but Uncle Ho only depicts a few features: moonlight, stream sound. However, I still imagine a beautiful picture of nature in His delicate, sensitive soul. Is it because the natural scenery is so beautiful that Uncle is awake and unable to sleep? The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet. This art of comparison makes a strong impression on readers. The landscape of Viet Bac forest is like a painting - "as painted", a beautiful but also extremely perfect picture, with the moon, streams, flower shadows, and ancient trees. Twice the author uses comparison in the article, but each comparison brings a different fresh beauty. Thanks to that, the scene of Viet Bac forest appears more specifically. Our beloved uncle is truly a person with a soul that loves nature and deeply patriots. Not only did he love nature, but he also worried about his country and the beautiful mountains: Not sleep, worrying that country. The feeling of admiration for Uncle rose even more within me. The poem explains the entire reason why Uncle Ho did not sleep: because he was worried about his country. Perhaps there have been many nights where Uncle Ho stayed awake without sleep like this because he was worried about the people and the country. Then tonight, in the middle of the mountains and forests of Viet Bac, suddenly encountering an extremely beautiful natural scenery, Uncle Ho's heart was filled with emotions and he burst out with poems, not because he was admiring the scenery to write poetry. That made me even more emotional. I respect and admire Uncle Ho more and more for his great soul and heart. Reading Late Night Scene, I was both fascinated with the scene and admired Uncle Ho's qualities and soul. Reading the poem, I see the soul of the poet and the heart of the soldier. That soul, that heart harmoniously combined within Uncle Ho created his greatness. He never neglected his country's affairs or his military affairs, even for just a moment of relaxation in nature or a moment of daydreaming after a hard day's work. From then on, I respected and respected Him even more. Student Le Thi Thu Trang's work Write a short review about the poem Late Night Scene by President Ho Chi Minh. Assignment The sound of the stream is as clear as singing in the distance. The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages. The two verses are like painting a watercolor painting: There are trees, there are flowers, there is the moon and in the distance there is a stream (The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages). The scene appears in the canopy of an ancient tree in the middle of the night, shining on the flower bed on a beautiful moonlit night. Two masterpieces of poetry, giving the reader an emotional poetic soul: The late night scene is as if painted, people have not slept yet, have not slept because they are worried about their country. The poem was written in 1947, after a call for people to join the resistance war against the French colonialists. According to Uncle Ho, the entire people withdrew to the mountains, forests, and remote areas to create bases and establish a basis for a long-term resistance war with a solid and safe rear for the revolution. One night, Uncle Ho leisurely strolled around the area, enjoying the beautiful scenery of the moonlit night. He wrote a poem describing the scene with I was worried that the country was entering a resistance war against invasion by the entire people. The third and fourth verses express the sacred emotions of the country's soul, encapsulated in the repeated verse "Not sleeping because of worries about the country". The entire four-line poem describes Uncle Ho's feelings before the beautiful natural scenery under the late moonlight. People can't sleep because there are hundreds of things to worry about. The first President of the Democratic Republic of Vietnam could not rest assured and admire the scenery. Along with the poetic spirit, there is also emotion. With worries about the country and the people. Many things have kept Him from sleeping. And the sacred spirit of the country has now come to Him when he temporarily quieted his soul to take care of the affairs of the country. PRACTICE Topic 1. Analysis of the poem Late Night Scene by President Ho Chi Minh. Topic 2. How is Uncle Ho's beauty of personality and heart for the people and country shown through the poem Late Night Scene. Topic 3. Nature in the poem Late Night Scene by President Ho Chi Minh.
Trong các môn thể thao, em thích nhất môn nào? Hãy nêu lên lợi ích của môn thể thao đó và suy nghĩ của bạn thân em. Hướng dẫn Chơi thể thao là biện pháp vừa tốt cho sức khỏe lại vừa có tính giải trí cao. Trong các môn thể thao bổ ích, em thích nhất là môn bóng đá, một bộ môn giữ vị trí “vua” trong các môn thể thao. Bóng đá là niềm đam mê, là sự phấn khích của rất nhiều người cả nam và nữ. Nhắc đến bóng đá, mọi người cảm thấy hào hứng, sôi nổi hẳn lên. Bóng đá có nhiều điều lí thú, lôi cuốn mọi người. Đây là môn thể thao dạy ta nhiều bài học về rèn luyện thân thể lẫn rèn luyện nhân cách đạo đức. Về mặt thể lực thì bóng đá giúp cho cơ thể phát triển toàn diện. Khi chạy, đó là sự hoạt động không chỉ của đôi chân mà là của toàn bộ cơ thể, khiến cho những bắp thịt trở nên cứng cáp, dẻo dai, mà các cơ quan khác trong người cũng hoạt động nhiều hơn, tim khỏe ra vì vận chuyển nhiều máu, phối lớn thêm vì hít thở nhiều không khí, các cơ quan bài tiết, tiêu hóa, hệ thần kinh cũng nhờ đó mà hoạt đông. Những người chơi môn thể thao bóng đá không chỉ cần có thể lực tốt mà phải có trí tuệ hơn người. Mỗi một quả bóng được đá đi là kết quả của một suy tính hết sức linh hoạt đến mức đã thành phản xạ. Mỗi một bàn thắng trong trận đấu, đó là thắng lợi tổng hợp của chiến lược, chiến thuật, kĩ thuật, thủ thuật… hết sức khôn khéo tinh vi. Với một cầu thủ, khi quả bóng đến chân là lúc đòi hỏi sự phán đoán thông minh, kịp thời về đồng đội, về đối thủ, về không gian và cả mọi điều kiện của sân bãi, của trận đấu. Bóng đá là môn thể thao đang đi bỗng chạy, đang chạy bỗng đột ngột đứng lại, mắt nhìn bên phải nhưng tung chân bên trái, lách phía trước, luồn phía sau, chọc khe và đánh đầu… mỗi động tác đều diễn ra chỉ trong một nháy mắt. Bóng đã là sự phối hợp của sức khỏe, sự nhanh nhẹn, sức bền bỉ, lòng dũng cảm, trí thông minh, óc linh hoạt. Để trận bóng đá diễn ra tốt, những người chơi phải có tinh thần đồng đội gắn kết chặt chẽ. Không cầu thủ nào tài giỏi có thể một mình mang quả bóng từ sân nhà đưa vào lưới của đối phương. Trong trận đấu bóng, muốn thắng đối phương trước hết là phải đoàn kết, không một cầu thủ nào vì muốn được nổi tiếng mà giữ bóng mãi trong chân, không tạo điều kiện cho đồng đội mình tung bóng. Ai cũng hiểu rằng một đường bóng làm bàn hết sức đẹp là kết quả cuối cùng của bao nhiêu đường bóng phối hợp. Mỗi cầu thủ đều hiểu rằng chỉ có sự phối hợp ăn ý, thông minh giữa đồng đội với mình mới có thể tạo nên bàn thắng cho trận đấu. Trong bóng đá người chơi cần phải bình tĩnh, vừng vàng, dũng cảm, bóng đá quả là một môn thể thao đầy thú vị. Bóng đá có thể thu hút được số đông người hâm mộ. Xem những trận đấu bóng quốc tế, những cuộc tranh giải ở các nước với nhau, ta thấy không phải chỉ có cầu thủ trên sân cỏ mới quyết đấu mà cả dân tộc cùng ra sân đấu, lớp lớp cổ động viên hò hét- cùng vui, cùng khóc với chiến thắng hay thất bại cùng đội bóng yêu thích của mình. Em rất ham mê bóng đá, những trận đấu trong các cuộc tranh cúp lớn em có thể thức trắng đêm để xem. Hầu như em không bỏ sót trận đấu quan trọng nào. Xem hoài không chán, càng xem càng thú vị và bản thân em cũng rút ra được nhiều điều bổ ích. Trong lớp học em cũng là cầu thủ của đội bóng, tuy không phải là người đá giỏi nhưng cũng có lần ghi được bàn thắng và nhiều lần kiến tạo bàn thắng cho đồng đội mình. Quả thật không có giây phút nào sung sướng bằng lúc sút bóng vào khung thành đối phương được bạn bè hoan nghênh nhiệt liệt.
Among sports, which one do you like the most? Please state the benefits of that sport and your best friend's thoughts. Instruct Playing sports is both good for health and highly entertaining. Among useful sports, I like football the most, a sport that holds the "king" position among sports. Football is the passion and excitement of many people, both men and women. When it comes to football, everyone feels excited and excited. Football has many interesting things that attract everyone. This is a sport that teaches us many lessons about physical training and moral character training. In terms of physical fitness, football helps the body develop comprehensively. When running, it is an activity not only of the legs but of the entire body, making the muscles become strong and supple, but also other organs in the body are more active, and the heart becomes stronger. Because it transports more blood, the lungs get bigger because it breathes more air, the excretory, digestive organs, and nervous system also function thanks to that. People who play soccer not only need to have good physical strength but also have to have superior intelligence. Every kicked ball is the result of extremely flexible thinking that has become a reflex. Every goal in the match is a combined victory of strategy, tactics, techniques, tricks... extremely clever and sophisticated. For a player, when the ball arrives at his feet, it requires intelligent and timely judgment about teammates, opponents, space and all conditions of the field and the match. Football is a sport that suddenly runs while running, suddenly stops while running, looks to the right but throws the left foot, sneaks forward, sneaks behind, pokes the ball and heads... each movement takes place in just one moment. in a blink of an eye. Ball is a combination of health, agility, endurance, courage, intelligence, and flexibility. For a soccer match to go well, the players must have a strong team spirit. No talented player can alone carry the ball from home into the opponent's net. In a soccer match, if you want to win against your opponent, you must first be united. No player, because they want to be famous, keeps the ball at their feet forever, not creating conditions for their teammates to throw the ball. Everyone understands that a beautiful goal is the final result of many coordinated passes. Each player understands that only good and intelligent coordination between his teammates can create a goal in the match. In soccer, players need to be calm, calm, and brave. Soccer is truly an exciting sport. Football can attract a large number of fans. Watching international football matches and competitions in different countries, we see that it's not just the players on the field who compete, but the entire nation on the field, with fans shouting together. Have fun, cry with victory or defeat with your favorite team. I am very passionate about football, I can stay up all night to watch matches in major cup competitions. I almost never miss any important match. I never get tired of watching it, the more I watch it, the more interesting it becomes and I also learn many useful things. In class, I am also a player on the football team. Although I am not a good kicker, I have scored goals and assisted many times for my teammates. There is truly no happier moment than when you kick the ball into the opponent's goal and are warmly applauded by your friends.
Trong Cổng trường mở ra của Lí Lan, tại sao người mẹ nằm trằn trọc mãi không ngủ được? Hướng dẫn Đêm trước ngày khai trường, người mẹ nằm trằn trọc, thao thức, không ngủ được, suy nghĩ miên man. Tinh thần không tập trung được vào việc gì cả, lên giường và trằn trọc lo lắng. Còn đứa con thì thanh thản, nhẹ nhàng, vô tư đi vào giấc ngủ. Giấc ngủ dễ dàng đến với cậu trên gương mặt thanh thoát, đôi môi hé mở thỉnh thoảng chúm lại. Người mẹ lo lắng cho con nên đã không ngủ được vì đây là lần đầu tiên con đến trường để bước vào lớp Một. Đây là ngày rất quan trọng đối với cuộc đời của mỗi con người. “Mẹ không tập trung được vào việc gì cả; mẹ lên giường và trằn trọc; mẹ không lo lắng nhưng vẫn không ngủ được”. Trong đem, người mẹ nhớ về ngày khai trường đầu tiên năm xưa của mình: “Cái ấn tượng khắc sâu mãi trong lòng một con người; mẹ còn nhớ sự nôn nao, hồi hộp khi cùng bà ngoại đi tới gần ngôi trường và nỗi chơi vơi, hốt hoảng khi cổng trường đóng lại. Ấn tượng của mẹ về buổi tựu trường đầu tiên thật sâu đậm”. Người mẹ nghĩ đến ngày khai trường đầu tiên ở Nhật “Ngày khai … của toàn xã hội” với sự quan tâm của mọi người đến trường; đến việc giáo dục thế hệ trẻ cho tương lai.
In Li Lan's Open School Gate, why does the mother lie awake and unable to sleep? Instruct The night before the first day of school, the mother lay awake, unable to sleep, thinking endlessly. Mentally unable to concentrate on anything, going to bed and tossing and turning worrying. As for the child, he peacefully, gently, and carelessly went to sleep. Sleep came easily to him on his peaceful face, his lips parted and occasionally pursed. The mother was worried about her child so she couldn't sleep because this was the first time her child went to school to enter first grade. This is a very important day in every person's life. “Mom can't concentrate on anything; Mom went to bed and tossed and turned; I'm not worried, but I still can't sleep." In her memory, the mother remembered her first school day in the past: "The impression is forever engraved in a person's heart; My mother still remembers the excitement and nervousness when walking with her grandmother near the school and the relief and panic when the school gate closed. My mother's impression of the first back-to-school day was profound." The mother thought of the first school opening day in Japan as "The opening day... of the entire society" with the interest of everyone going to school; to educating the young generation for the future.
Trong Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng viết: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Hãy chứng tỏ điều đó qua các nhân vật trong đoạn trích. Hướng dẫn Trong Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng viết: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Hãy chứng tỏ điều đó qua các nhân vật trong đoạn trích. Bài làm Một gia đình sống hạnh phúc là khi, ông bà cha mẹ, con cháu được đông đủ quây quần sum họp bên nhau. Nếu lỡ có vắng bóng đi thành viên nào thì cả nhà sẽ đau đớn, xót thương. Ấy vậy mà ở đời vẫn nhiều chuyện bất ngờ, sự ra đi của cụ tổ lại là niềm hạnh phúc, vui sướng, của con cháu cả dòng tộc. Đó là “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại“nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…! Trong tác phẩm cua mình Vũ Trọng Phụng đã làm rõ nét sự tàn nhẫn và sự dối trá của những con người vô nhân tính, mất đi hết bản chất của con người. Vũ Trọng Phụng được tôn vinh là “ông vua phóng sự đất bắc”. Số đỏ được đánh giá là kiệt tác văn chương có một không hai trong nền văn học hiên đại. Tác phẩm thể hiện tiếng cười căm hờn mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến tư sản, cái xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là khốn nạn”, “chó đểu”. Nghệ thuật trào phúng của tác phẩm đã diễn tả những cái bất thường, kỳ dị chứa đựng trong nó mâu thuẫn trào phúng, rồi cường điệu, phóng to những cái bất thường, kỳ dị ấy lên để gây cười. Thành ngữ dân gian thường nói “buồn như cha chết”, thế mà trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng cụ tổ chết mà con cháu lại vui như nhà có đám cưới. Thật chua xót, thật đắng cay và thật thối nát điều đó như thể hiện sự mục giũa về nhân cách con người khi sống trong chế độ cai quản của thực dân. Nếu chỉ đọc nhan đề của tác phẩm ta sẽ thấy nực cười làm gì có gia đình nào có tang gia mà lại hạnh phúc, nhưng khi đã bắt đầu đọc vào tác phẩm ta mới thấm không những họ hạnh phúc mà họ còn sung sướng. Tuy rằng cái chết của cụ tổ có gây mất mát “một chút” về người, nhưng đem lại nhiều lợi lộc về của cải, vật chất và danh tiếng lẫy lừng cho dòng tộc, không những thế còn cho cả xã hội. Từ đây ta cũng thấy được cái đạo đức của con người bị xuống cấp một cách trầm trọng, người ta dường như quên mất tình nghĩa, chỉ nhớ đến tiền bạc và danh vọng. Hạnh phúc đi liền với tang gia và tang gia tạo nên hạnh phúc. Đoạn trích đã làm nổi bật hai mặt trái ngược này bằng một trường phúng dụ gây cười rất tự nhiên, hợp lí. Cái hay ở chỗ không chỉ nguyên cụ cố Hồng vui sướng mà còn rất nhiều người khác chia vui cùng. Chúng ta không thể không nhắc đến ông Phan mọc sừng. Ông cảm thấy “tự hào” và “bất ngờ” vì cái sừng hươu của mình có giá trị to lớn đến như vậy. Ông cảm thấy nó có giá trị vì hai vợ chồng ông được chia thêm hẳn vài nghìn bạc, vài nghìn bạc ấy nó đáng giá hơn nhân cách của con người, cũng đáng giá hơn tính mạng của một con người. Dù gì thì cái chết của cụ tổ cũng đã mang lại lợi lộc và niềm hạnh phúc vô bồ bến cho ông Phán, và ông phải thầm cảm ơn Xuân vì đã ngoại tình với vợ mình, để giờ đây ông mới có giá trị như vậy. TRong không khí “vui nhộn” của đám ma thằng bồi tiềm đã đếm được một nghìn tám trăm bảy hai câu gắt “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” của cụ cố Hồng. Trong cái đám tang của cụ tổ người ta không tính toán về tình cảm khi đã mất đi một người yêu thương, mà người ta lo tính toán về tiền bạc, người ta thấy ánh hào quang của đồng tiền càng ngày càng có giá trị to lớn hơn. Tiếng khóc ” Hứt, hứt, hứt” của ông Phán dường như càng làm cho cái đám ma ấy nó vui nhộn hơn. Đây chính là nét độc đáo của ngòi bút Vũ Trọng Phụng. Ông đã khéo léo sắp đặt tình tiết một cách logic chặt chẽ, khiến cho sợi dây liên tưởng như phán mọc sừng khóc chỉ là muốn cùng cụ Hồng thể hiện nỗi đau một cách thảm thiết nhất Sao mà cùng sống chúng với nhau dưới một mái nhà, mà họ có thể giả dối, xấu xa và đê hèn đến thế. Họ đến với đám ma là để trưng bày trang phục sáng tạo của mình cho mọi người “chiêm ngưỡng”. Cậu Tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà cậu mãi không được dùng đến. Ông Văn Minh, ông cháu đích tôn “chí hiếu” của “người chết” thì chỉ nóng lòng “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi”. Ông sung sướng, vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mình mà “cái chúc thư” chia của kia sẽ có hiệu lực thật sự “chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”. Bà Văn Minh thì sốt ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen — là “những sáng tạo mốt mới nhất”. Dường như đây là một tuần lễ thời trang được mọi người chuẩn bị săn sàng từ rất lâu, công phu và cầu kì. Còn cô Tuyết trong trắng thì hạnh phúc phơi bày những bộ đồ tân thời hở nửa vú để thiên hạ nhìn vào thấy được sự ngây thơ trong trắng của mình. Niềm “hạnh phúc” ấy không chỉ lan tỏa trong nhà, mà còn được chia sẻ với mọi người trong đám tang. Ông cảnh sát Min Đơ, Min Toa cũng nhờ cái “chết thật” của cụ tổ mà được thơm lây: họ “sung sướng cực điểm”, “vì được có đám thuê”, “đã trông nom rất hết lòng”. Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”. Các “giai thanh gái lịch” Hà thành, nhờ có đám tang mà được “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau,…”; các quý ông “tai to mặt lớn” thì được dịp phô diễn râu ria đủ kiểu trên cằm trên mép, khoe huân chương, huy chương đủ hạng trên ngực, trên mình. Qủa thật là hiếm gặp cái đám ma nào lại đem nhiều hạnh phúc đến cho mọi người như vậy. Kè tây, kèn ta đủ cả, trang phục hợp mốt thời trang, thợ chúp ảnh đông đủ, dường như đây là một vở kịch hoàn hảo mà tất cả mọi người ai cũng làm rất tốt những vai diễn của mình. Câu chuyện là một mũi dao nhọn đâm thẳng vào sự thối nát mục rũa, vô nhân tính của con người trong xã hội. Đằng sau những câu chữ vui đùa, phóng đại, là sự vạch trần sự tàn nhẫn, dối trá vô nhân đạo, đám tang của cụ cố tổ là hành trình xuống mộ của toàn xã hội thực dân phong kiến. Bởi sự dối trá, tàn nhẫn của nó đã đến hồi bộc lộ trắng trợn, vui vẻ ầm ĩ thế kia thì ai để cho nó tồn tại, làm trò hề mãi được. Nguồn: Bài văn hay
In The Happiness of a Mourning Family, Vu Trong Phung wrote: That death made many people very happy. Let's demonstrate that through the characters in the excerpt. Instruct In The Happiness of a Mourning Family, Vu Trong Phung wrote: That death made many people very happy. Let's demonstrate that through the characters in the excerpt. Assignment A family lives happily when, grandparents, parents, children and grandchildren are gathered together. If any member is absent, the whole family will feel pain and grief. Yet in life there are still many unexpected things, the passing of an ancestor is a source of happiness and joy for the entire clan. That is, the "funeral family" in the novel Red Number by Vu Trong Phung is truly "happy", "many people are very happy", and "everyone is happy"...! In his work, Vu Trong Phung has clearly shown the cruelty and lies of inhumane people who have lost all human nature. Vu Trong Phung is honored as "the king of northern reportage". The Red Number is considered a unique literary masterpiece in modern literature. The work shows laughter and intense hatred for the bourgeois-feudal colonial society, the society that Vu Trong Phung calls wretched and "scumbag". The satirical art of the work describes unusual and strange things that contain satirical contradictions, then exaggerates and magnifies those unusual and strange things to cause laughter. The popular idiom often says "sad like a dead father", but in Vu Trong Phung's novel the ancestor dies but the children and grandchildren are as happy as a family having a wedding. So bitter, so bitter and so corrupt, it seems to show the rotting of human personality when living under colonial rule. If we just read the title of the work, we will find it ironic that any family with a bereavement can be happy, but once we start reading the work, we will realize that not only are they happy, but they are also happy. Although the death of the great-grandfather caused "a little" loss of life, it brought many benefits in terms of wealth, material and illustrious reputation to the family, not only that, but also to the whole society. From here we can also see that human morality has seriously degraded, people seem to forget gratitude, only remembering money and fame. Happiness comes with family mourning and family mourning creates happiness. The excerpt highlights these two opposing sides with a very natural and reasonable allegory that makes people laugh. The beauty is that not only was Hong's great-grandfather happy, but also many other people shared the joy. We cannot help but mention the cuckolded Mr. Phan. He felt "proud" and "surprised" because his deer horn had such great value. He felt it was valuable because he and his wife were given a few thousand more silver, those few thousand silver were worth more than a person's personality, and also more valuable than a person's life. In any case, the death of his great-grandfather brought immense profit and happiness to Mr. Phan, and he had to secretly thank Xuan for having an affair with his wife, so that now he has such value. . In the "fun" atmosphere of the funeral, the potential waiter counted one thousand eight hundred seventy-two harsh sentences: "I know, it's so painful, keep talking!" of great-grandfather Hong. At the funeral of an ancestor, people do not consider emotions when they have lost a loved one, but they worry about money, they see that the halo of money becomes more and more valuable. bigger. Mr. Phan's cry of "Whoop, whoop, whoop" seemed to make the funeral even more fun. This is the unique feature of Vu Trong Phung's pen. He cleverly arranged the plot in a logical and strict way, making it seem like the cuckold judge was crying because he just wanted to express his pain in the most pitiful way with Mr. Hong. How could they be so deceitful, evil and despicable living together under the same roof? They come to funerals to display their creative costumes for everyone to "admire". Tu Tan was crazy because he had cameras ready but he never used them. Mr. Van Minh, the "filial" grandson of the "dead man", was only eager to "invite a lawyer to witness his grandfather's death". He was happy, because thanks to his grandfather's "real death", the "will" dividing the property would be truly effective "and no longer just an unrealistic theory". Mrs. Van Minh was impatient because she could never wear modern hemp clothes and a white hat with black trim - "the latest fashion creations". It seems that this is a fashion week that everyone has prepared for a long time, meticulously and meticulously. As for the innocent Tuyet, she happily exposes her modern clothes that reveal half of her breasts so that people can see her innocence. That "happiness" not only spreads in the house, but is also shared with everyone at the funeral. The police officers Min Do and Min Toa were also inspired by their grandfather's "real death": they were "extremely happy", "because they were hired", and "took care of them very wholeheartedly". Master Tang Phu was "happy and proud to sit on a cart, because he was sure that among the people watching in the streets, there would be someone who would realize that he had overthrown the Buddhist Association... ”. The "gentlemen" of Hanoi, thanks to the funeral, were able to "love each other, laugh with each other, comment on each other, disparage each other, be jealous of each other, date each other,..."; Gentlemen with "big ears and big faces" have the opportunity to show off all kinds of beards and beards on their chins and lips, and show off medals and medals of all kinds on their chests and bodies. It is truly rare to see a funeral that brings so much happiness to everyone. All the bells and trumpets, fashionable costumes, and many photographers, it seems like this is a perfect play in which everyone plays their roles very well. The story is a sharp knife piercing straight into the rottenness and inhumanity of people in society. Behind the playful and exaggerated words is the exposure of cruelty and inhumane lies. The great-grandfather's funeral is the journey to the grave of the entire feudal colonial society. Because its lies and cruelty have reached the point of being exposed so blatantly and happily, who can let it exist and act like a farce forever? Source: Good article
Trong một lần trả lời phỏng vấn, nghệ sĩ Thành Lộc phát biểu: “Mỗi người đều có quyền lựa chọn cách sống của mình miễn là hạnh phúc” Suy nghĩ của anh chị về phát biểu trên. Bài làm Oprah Winfey đã từng nói thế này: “Tôi đã luôn biết rằng mình là một ngôi sao lớn chờ thời”. Bạn biết không, khi đọc câu này, tim tôi đã đập chậm lại một nhịp vì tôi đã luôn nghĩ về mình như thế. Không hẳn là tôi cho mình là một ngôi sao lớn, nhưng tôi luôn tin rằng bản thân mình đặc biệt và mỗi chúng ta đều là những cá thể vô cùng đặc biệt theo những cách khác nhau. Điều quan trọng khiến chúng ta trở nên khác biệt, trở nên đặc biệt hơn bởi chúng ta lựa chọn những cách sống không giống nhau. Tôi đồng ý với phát biểu của nghệ sĩ Thành Lộc, khi ông cho rằng: “Mỗi người đều có quyền lựa chọn cách sống của mình miễn là hạnh phúc.” “Cách sống” chính là cách mà chúng ta nhìn cuộc sống, là thái độ của ta đối với cuộc đời, với mọi người và với chính bản thân ta. Còn “hạnh phúc” là một trạng thái thỏa mãn, sung sướng khi mình đạt được một điều gì đó. Hạnh phúc là một khái niệm trừu tượng không thể nắm bắt được, chỉ cảm nhận được thông qua trái tim. “Mỗi người đều có quyền lựa chọn cách sống của mình miễn là hạnh phúc”, phát biểu của nghệ sĩ Thành Lộc đã nêu lên một quan điểm tiến bộ: mỗi người trên thế giới này đều có quyền lựa chọn con đường đi riêng của bản thân mình, miễn là bản thân thấy đúng đắn, thấy hạnh phúc khi mình lựa chọn như vậy. Phát biểu của nghệ sĩ Thành Lộc là đúng đắn, sâu sắc và tiến bộ. Tiến bộ bởi lẽ, trong xã hội này vẫn nhiều người cho rằng nên đi những con đường bằng phằng bởi đã có những người đi trước rồi, như vậy chắc chắn sẽ tìm được thành công và hạnh phúc. Nhưng thế nào là hạnh phúc? Mỗi người sẽ có những định nghĩa khác nhau về hạnh phúc. Liệu có hạnh phúc chăng nếu mỗi ngày bạn thức dậy, nhìn thấy một đống công việc ngổn ngang, chán ngắt, không phù hợp với bản thân? Hạnh phúc chăng nểu mỗi ngày bạn đến công ty làm một công việc mà không với sự đam mê? Hạnh phúc chăng khi nhìn thấy ước mơ khi còn trẻ đang bị hủy hoại bởi nỗi lo về cơm, áo, gạo, tiền,… Tôi tin rằng, điều đó là không hạnh phúc. Những người trẻ thường muốn chọn con đường bản thân thấy thích. Họ muốn đi du lịch bụi, muốn khám phá thế giới nhưng cha mẹ lại muốn con mình ở nhà. Người trẻ muốn làm một công việc họ thích, làm theo đam mê nhưng cha mẹ lại muốn họ làm một công việc ổn định, đảm bảo cuộc sống. Muốn thay đổi bản thân nhưng lại sợ bạn bè chê cười. Cha mẹ lúc nào chẳng muốn con cái mình an toàn, ổn định. Nhưng cha mẹ chỉ là cha mẹ thôi, làm sao sống thay mình được. Bạn bè dù thân thiết mấy, sao hiểu ta bằng chính ta. Nên thực tế là hãy chọn điều mà bạn thấy thích. Bạn hối tiếc vì không nắm bắt lấy một cơ hội nào đó, chẳng ai phải mất ngủ. Bạn phải trải qua những ngày tháng nhạt nhẽo với công việc bạn căm ghét, người ta chẳng bận lòng. Bạn có chết mòn nơi xó tường với những ước mơ dang dở, đó không phải việc của họ. Suy cho cùng, quyết định là ở bạn. Muốn làm gì hay không là tùy bạn. Nên hãy làm những điều bạn thích, hãy đi theo tiếng nói trái tim. Hãy sống theo cách bạn cho là mình nên sống. Quyết định là ở bạn nên trách nhiệm cũng là của bạn. Nên thành công có được là của bạn. Thất bại cũng là do bạn vì không ai quyết định được cuộc đời bạn thay cho bạn nên cũng không ai gánh thay hậu quả. Lựa chọn điều mình muốn và chịu trách nhiệm cho điều mình làm. Hãy sống theo cách bạn muốn miễn là được hạnh phúc. Đáng lên án cho những kẻ chọn lối sống ích kỉ, không vì người khác. Ai cũng chọn sống buông thả, không quan trọng việc học thì đất nước sẽ không thể phát triển. Ai cũng chọn cách sống dửng dưng, vô cảm, thì thế giới sẽ đi về đâu. Đáng lên án cho những kẻ như vậy. Tác giả cuốn sách “Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu” đã viết: “Ai cũng mãn nguyện và hạnh phúc với chính mình thì thế giới này đã tốt hơn nhiều”. Là một học sinh, bản thân em cần lựa chọn cách sống đúng đắn để không chỉ bản thân thấy hạnh phúc mà có thể góp phần nhỏ bé giúp cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Vân Trang – CTV Văn học của
In an interview, artist Thanh Loc said: "Everyone has the right to choose their own way of life as long as they are happy." What are your thoughts on the above statement? Assignment Oprah Winfey once said: “I always knew I was a big star waiting for my time.” You know, when I read this sentence, my heart slowed down a beat because I had always thought of myself like that. It's not that I consider myself a big star, but I always believe that I am special and that each of us is extremely special individuals in different ways. The important thing is that we become different, more special because we choose different ways of living. I agree with the statement of artist Thanh Loc, when he said: "Everyone has the right to choose their own way of life as long as they are happy." “Way of life” is the way we look at life, our attitude towards life, towards people and towards ourselves. "Happiness" is a state of satisfaction and joy when you achieve something. Happiness is an abstract concept that cannot be grasped and can only be felt through the heart. "Each person has the right to choose their own way of life as long as they are happy," artist Thanh Loc's statement raised a progressive point of view: every person in this world has the right to choose their own path. myself, as long as I feel right and happy when I make that choice. Artist Thanh Loc's statement is correct, profound and progressive. Progress because, in this society, many people still believe that you should walk on smooth roads because there have been people who have gone before, so you will definitely find success and happiness. But what is happiness? Each person will have different definitions of happiness. Would you be happy if every day you woke up and saw a pile of messy, boring, unsuitable work? Is it happiness if every day you go to work to do a job without passion? Is it happy to see your youthful dreams being destroyed by worries about food, clothes, rice, money, etc. I believe that is not happy. Young people often want to choose a path they like. They want to go backpacking, want to explore the world, but parents want their children to stay at home. Young people want to do a job they like, follow their passion, but their parents want them to work a stable job, ensuring a good life. I want to change myself but I'm afraid my friends will laugh at me. Parents always want their children to be safe and stable. But parents are just parents, how can they live for me? No matter how close friends are, how can they understand us better than ourselves? So in fact, choose something that you enjoy. You regret not taking a certain opportunity, no one has to lose sleep. You have to go through boring days at a job you hate, people don't care. Whether you languish in a corner with unfinished dreams is none of their business. Ultimately, the decision is up to you. It's up to you what you want to do or not. So do what you like, follow your heart. Live the way you think you should live. The decision is yours so the responsibility is also yours. So success is yours. Failure is also your fault because no one can decide your life for you, so no one can bear the consequences. Choose what you want and take responsibility for what you do. Live the way you want as long as you are happy. Those who choose to live selfishly and not for others should be condemned. Everyone chooses to live a carefree life, regardless of education, the country will not be able to develop. If everyone chooses to live indifferently and emotionlessly, then where will the world go? Such people should be condemned. The author of the book "How much is youth worth" wrote: "If everyone was satisfied and happy with themselves, this world would be much better." As a student, you need to choose the right way to live so that you not only feel happy but can make a small contribution to making life better. Van Trang – Literary Collaborator of
Trong nhà em có ba phương tiện giao thông xe đạp, xe máy và ô tô. Chúng cãi nhau, so bì hơn thua kịch liệt Gợi ý Một đêm, đang mơ màng ngủ bỗng tôi nghe thấy tiếng động từ phía nhà xe. Tiếng động mỗi lúc một lớn dần. Tò mò không hiểu chuyện gì đang xảy ra, tôi lặng lẽ bước xuống giường. Đứng ngoài cửa, tôi ngạc nhiên khi thấy ba anh xe đạp, xe máy, ô tô đang cãi nhau, so bì hơn thua rất kịch liệt. Khu nhà nhỏ bé phía sau là nơi cư trú của mấy chiếc xe nhà tôi, xe máy cũ của bố, xe đạp đi học của tôi. Đã mấy năm nay chúng luôn sống với nhau rất hoà thuận. Niềm vui hay nỗi buồn đều chia sẻ và giúp đỡ nhau. Nhưng từ khi chiếc ô tô mới về ở chung thì giữa các xe xuất hiện mâu thuẫn. Chúng ngấm ngầm chê bai nhau, so bì thiệt hơn qua từng việc nhỏ. Tôi biết điều đó nhưng không nghĩ rằng chúng lại cãi nhau kịch liệt đến vậy. Dường như bao nhiêu khó chịu trong lòng được chúng bộc bạch hết. Đêm nay, tôi mới tận mắt chứng kiến chúng cãi nhau. Ba xe, xe nào cũng cho ý kiến của mình đúng, đang cố tranh luận phản bác ý kiến nhau. Đầu tiên là chiếc ô tô: “Các anh làm sao so bì được với tôi. Tôi hiện đại nhất, đẹp nhất và có nhiều tác dụng nhất. Tôi có đầy đủ tiện nghi trong người như một căn nhà di động, nào ti vi, đài phát thanh, máy điều hoà… Gia đình ông chủ lại có bốn người, đi đâu chơi mà dùng tôi thì tiện lợi quá rồi. Các anh liệu có làm được như thế không?”, ô tô nói với giọng đầy kiêu hãnh, tự hào. Nghe vậy, xe máy liền lên tiếng: Dù anh có hiện đại đến đâu thì cũng không thể tiện lợi bằng tôi được. Tôi tuy không sang trọng như anh nhưng tôi chạy rất nhanh, những chỗ đông người hay ùn tắc anh chịu chết nhưng tôi vẫn có thể vượt qua dễ dàng. Anh cồng kềnh đi đâu cũng chiếm nhiều diện tích. Còn tôi, khiêm tốn và giản dị nên được mọi người sử dụng nhiều hơn. Mà bây giờ họ hàng nhà tôi được sản xuất ngày càng đa dạng, chất lượng cũng tốt hơn với nhiều kiểu dáng, màu sắc, không thua kém gì anh đâu nhé. Quan trọng, tôi đã gắn bó với ông chủ nhà suốt bao năm nay. Trải qua bao vất vả của những ngày nắng gắt, mưa giông tôi đều tận tình phục vụ ông chủ. Từ ngày chưa có anh, gia đình nhà chủ đều rất quí tôi, coi tôi là số một. Đã nhiều năm rồi nên tôi mới cũ đi và xấu xí như thế này đây. Chắc ông chủ không còn yêu tôi nữa…”. Nói đến đây, xe máy bật khóc nức nở. Có lẽ nó đang xúc động lắm khi nhớ về một thời đã xa. Không biết lúc này ô tô suy nghĩ gì. Im lặng một lát, cuối cùng, chiếc xe đạp cũ của tôi mới nhỏ nhẹ lên tiếng: “Các anh ai cũng cho mình đúng, mình tiện lợi nhất, tốt nhất nhưng không ai biết rằng trong chúng ta xe đạp tôi là người có mặt sớm nhất. Từ lâu lắm rồi, tôi được con người sáng tạo ra thay thế cho nhiều phưong tiện khác. Lúc đó, ai có một chiếc xe đạp để đi thì thật hạnh phúc. Tôi gọn nhẹ nhất, đi lại dễ dàng, còn giúp con người tập thể dục khi sử dụng tôi nữa. Mà các anh ai cũng cần phải có “thức ăn” mới chịu chạy, nếu không thì đành đứng xó. Còn tôi, chẳng cần xăng dầu vẫn bon bon. Tôi cũng là người gắn bó lâu nhất với gia đình chủ, từ ngày họ còn khó khăn. Tôi cùng ông chủ đi làm, cùng ông đưa đón cậu chủ mỗi ngày, cùng bà chủ đi chợ hay đi đâu xa…. Cứ thế đã bao năm rồi…”. Mỗi xe, xe nào cũng đưa ra nhũng lí lẽ rất thuyết phục. Nhưng cả ba xe không ai chịu ai vẫn khăng khăng cho rằng mình tốt nhất, được gia đình chủ yêu nhất và xứng đáng là người được sử dụng nhều nhất. Chúng mải mê cãi cọ mà không biết tôi đứng nghe từ bao giờ. Tôi bước vào khi chúng vẫn còn tranh luận. Nhìn thấy tôi, chúng ngạc nhiên, sửng sốt. Nhìn một lượt nhũng chiếc xe trong gia đình, tôi thấy những điều chúng nói đều có lí. Những chiếc xe này đã giúp gia đình tôi thật nhiều. Không chỉ vậy, chúng còn gắn bó cùng gia đình tôi với bao kỉ niệm từ thuở còn khó khăn. Tôi lại gần từng chiếc xe, vỗ về và âu yếm chúng. Chúng nằm yên ngoan ngoãn dõi theo tôi. “Các bạn xe ạ. Tôi đã nghe hết những điều các bạn nói. Ai cũng có ý kiến của mình và đều đúng cả. Các anh đều có ích với gia đình tôi. Thử hỏi, nếu thiếu các bạn thì không chỉ gia đình tôi mà bao nhiêu gia đình khác sẽ thế nào. Vì thế, các anh hãy bình tĩnh lại và lắng nghe nhau nói xem sao. Các anh sẽ hiểu nhau và thông cảm với nhau hơn đây. Từ nay, gia đình tôi sẽ sử dụng đều tất cả các anh. Khi có dịp đi đâu xa, cả nhà tôi nhờ anh ô tô nhé. Còn anh xe máy, anh vẫn ngày ngày giúp bố đến cơ quan, anh xe đạp giúp tôi đến trường. Như thế ai cũng có việc riêng vậy vẫn phát huy được những chức năng của mình. Các anh hãy nhớ, không ai là người thừa cả và cũng không ai hơn thua ai vì mỗi người đều có sức mạnh riêng của mình… Những chiếc xe im lặng gật gù vẻ tán đồng. Chúng nhìn nhau thân thiện như để giảng hoà…
In my house there are three means of transportation: bicycles, motorbikes and cars. They quarreled and compared each other fiercely Suggest One night, while I was sleeping, I suddenly heard a noise from the garage. The noise grew louder each time. Curious as to what was going on, I quietly got out of bed. Standing outside the door, I was surprised to see three guys on bicycles, motorbikes, and cars arguing fiercely. The small house behind is where my family's cars, my father's old motorbike, and my school bicycle reside. For several years now they have lived together in harmony. Happiness or sadness are shared and helped each other. But since the new car came to live together, there have been conflicts between the cars. They secretly criticize each other, comparing each other over each little thing. I knew that but I didn't think they would argue so fiercely. It seemed like they were expressing all the discomfort in their hearts. Tonight, I witnessed them arguing with my own eyes. Three cars, each of which has its own opinion correct, are trying to argue and refute each other's opinions. First is the car: “You guys can't compare with me. I am the most modern, most beautiful and most effective. I have all the amenities like a mobile home, TV, radio, air conditioner... The boss's family has four people, so it's very convenient to use me wherever I go. Can you do that?", the car said with a proud, proud voice. Hearing that, the motorbike immediately spoke up: No matter how modern you are, you can't be as convenient as me. Although I'm not as luxurious as you, I run very fast. In crowded places or traffic jams, you'll die but I can still pass easily. He's bulky and takes up a lot of space wherever he goes. As for me, being humble and simple, people use me more. But now my family's production is increasingly diverse, the quality is also better with many designs and colors, not inferior to yours. Importantly, I have been with my landlord for many years. Through all the hardships of hot sunny days and stormy days, I wholeheartedly served my boss. From the time I didn't have him, my host family loved me very much and considered me number one. It's been many years so I'm old and ugly like this. Maybe the boss doesn't love me anymore...". Speaking of this, the motorbike burst into tears. Perhaps it is very emotional when remembering a time long gone. I don't know what the car is thinking right now. Silence for a moment, finally, my old bicycle spoke softly: "You all think I'm right, I'm the most convenient, the best, but no one knows that among us, I'm the one with the best bike." earliest face. A long time ago, I was created by humans to replace many other means. At that time, anyone who had a bicycle to ride was very happy. I am the most compact, easy to move around, and also help people exercise when using me. But you all need to have "food" to run, otherwise you will have to stand alone. As for me, I still have fun without needing gasoline. I am also the person who has been with the owner's family the longest, since their difficult days. I go to work with my boss, pick up my boss every day, go to the market with my boss or go somewhere far away... It's been like that for so many years..." Each car and every car offers very convincing arguments. But of all three cars, no one still insists that they are the best, most loved by the owner's family and deserve to be used the most. They were so engrossed in arguing that they didn't know how long I had been listening. I walked in while they were still arguing. Seeing me, they were surprised and shocked. Looking at the cars in the family, I see that what they say makes sense. These cars have helped my family a lot. Not only that, they are also attached to my family with many memories from difficult times. I approached each car, patted and caressed them. They lay quietly and obediently watched me. “Car friends. I've heard everything you said. Everyone has their own opinion and they are all right. You are all helpful to my family. Just ask, without you, what would happen to not only my family but also many other families? So, please calm down and listen to each other. You will understand each other and sympathize with each other better. From now on, my family will use all of you equally. When I have a chance to go somewhere far, my whole family will ask for your car. As for the motorbike guy, he still helps my dad get to work every day, and the bike guy helps me get to school. That way everyone has their own work and can still promote their functions. Remember, no one is redundant and no one is better than anyone else because everyone has their own strength... The cars silently nodded in agreement. They looked at each other friendlyly as if to reconcile...
Trong truyện Chuyện người con gái Nam xương, nhân vật Vũ Nương trong mỗi hoàn cảnh khác nhau đã thể hiện những đức tính khác nhau. Dựa vào câu chuyện, em hãy làm rõ nhận định trẽn? Hướng dẫn Trong truyện, nhân vật Vũ Nương được tác giả đặt vào những hoàn cảnh khác nhau, trong mỗi hoàn cảnh đó, Vũ Nương lại bộc lộ một đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. A. Nương lúc sinh thời là người con gái có tư dung tốt đẹp, thuỳ mị nết na; khi nên bề gia thất thì luôn giữ gìn khuôn phép, không để xảy ra cảnh vợ chồng bất hòa. B. Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương tiễn chồng bằng chén rượu đầy. Nàng thể hiện niềm yêu thương, nhớ nhung người chồng cũng như sựlolắng cho những gian nan của chồng khi trên đường ra lính. Những lời lẽ của nàng khiến cho mọi người phải cảm động. C. Chồng đi đánh giặc phương xa, Vũ Nương một mực chung thuỷ để mong ngày chồng về. Đồng thời, nàng còn thể hiện mình là một người dâu thảo: tận tụy chăm sóc mẹ chồng, khi mẹ chồng mất thì nàng chôn cất hết sức chu đáo. D. Trước tình cảnh bị nghi oan khi chồng trở về, nàng tìm cách giải thích để chồng hiểu lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó… chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã làm mọi cách để có thể giữ vững hạnh phúc gia đình, giữ lại tình nghĩa vợ chồng. Nhưng Trương Sinh vẫn một mực không tin lời nàng. Nàng dùng những lời lẽ hết sức tha thiết: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng… đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Khi bày tỏ hết nỗi lòng nhưng Trương Sinh vẫn một mực không hiểu, nàng quyết định quyên sinh để giữ trọn khí tiết. Lời khấn trước thần linh đã thể hiện được lòng chung thuỷ của nàng: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng… và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Cái chết của nàng đã được thần linh chứng giám và nàng sống tại thuỷ cung.
In the story The Story of a Nam Xuong Girl, the character Vu Nuong in different situations shows different virtues. Based on the story, please clarify the above statement? Instruct In the story, the character Vu Nuong is placed by the author in different situations. In each situation, Vu Nuong reveals a good quality of Vietnamese women. A. When she was alive, she was a girl with a good personality, graceful and modest; When starting a family, always maintain discipline and avoid marital discord. B. When Truong Sinh went to the army, Vu Nuong sent her husband off with a full cup of wine. She expressed her love and nostalgia for her husband as well as her concern for his hardships while on the way to the army. Her words touched everyone. C. Her husband went to fight the enemy in a distant land, Vu Nuong remained faithful and looked forward to the day her husband would return. At the same time, she also showed herself to be a dutiful daughter-in-law: devotedly taking care of her mother-in-law. When her mother-in-law died, she buried her very carefully. D. Faced with the situation of being unjustly suspected when her husband returned, she tried to explain to him so that he could understand her feelings: "I am a difficult person... please don't always doubt me." She did everything she could to maintain family happiness and maintain the relationship between husband and wife. But Truong Sinh still did not believe her words. She used very earnest words: "The reason I rely on you... I can't go to Vong Phu mountain again." When she expressed all her feelings, but Truong Sinh still did not understand, she decided to commit suicide to preserve her dignity. Her vow before the gods demonstrated her loyalty: "If I am dignified, keep my chastity, be chaste, keep my heart... and I will endure everyone's slander." Her death was witnessed by the gods and she lived in the aquarium.
Trong truyện ngụ ngôn Treo biển em có suy nghĩ gì về lời góp ý của những người qua đường. Em rút ra bài học gì từ câu chuyện này Gợi ý Tiếng cười trong câu chuyện Treo hiển bất chợt vỡ òa khi người đọc đọc đến chi tiết người chủ cửa hàng cất nốt chữ “Cá”. Vậy thực chất những lời góp ý về nội dung tấm biển là gì? Trước hết, ta cần thấy rằng, nội dung tấm biển nhà hàng đã treo ban đầu “ở đây có bán cá tươi” bao gồm bốn yếu tố cơ bản: “Ở đây” – chỉ địa điểm bán hàng; “có bán” – chỉ hoạt động kinh doanh của nhà hàng; “cá” – chỉ mặt hàng đang kinh doanh; “tươi” – chỉ chất lượng, chủng loại mặt hàng, phân biệt với chủng loại khác (cá khô chẳng hạn). Như vậy, tuy nội dung tấm biển hơi dài nhưng khá đầy đủ và hoàn toàn có thể sử dụng được! Nhưng rồi cũng lần lượt có bốn người góp ý về tấm biển. Người thứ nhất bình phẩm chữ “tươi”. Nhà này xưa nav quen bán cá ươn. Ý kiến này không thỏa đáng bởi như trên đã phân tích, chữ tươi ở đây ngoài ý nghĩa chỉ phẩm chất (tươi) còn có ý nghĩa chỉ chủng loại (không phải cá khô). Hơn thế, chữ “tươi” còn nhằm khẳng định chất lượng của mặt hàng (không phải ươn) nên làm tăng sức hấp dẫn của mặt hàng là cá. Bởi thế, chữ tươi là cần thiết. Người thứ ba thì bàn về hai chữ “có bán”. Có ý kiến cho rằng ý kiến này đúng một nửa (để chữ bán, bỏ chữ có). Chữ bán đúng là rất cần thiết, nó chỉ tính chất kinh doanh (bán chứ không mua). Không có chữ bán, e rằng khách hàng không biết nơi này bán cá (mời khách hãy đến mua) hay là mua cá (mang cá đến để bán). Tuy nhiên, cũng như hai chữ “ở đây”, chữ có cũng không thừa. Nó có ý nghĩa khẳng định, nhấn mạnh hoạt động kinh doanh của nhà hàng. Nếu bỏ chữ có, tấm biển vẫn đủ ý nhưng sức tác động trong quảng cáo sẽ nhẹ đi rất nhiều. Ta hãy thử đọc lên và so sánh ở đây bán cá và ở đây có bán cá. Người cuối cùng bàn về chữ.“cá”. Ý kiến này vô lí nhất. Ai bán bất cứ mặt hàng gì, bằng cách này hay cách khác, cũng đều phải quảng cáo cho mặt hàng của mình. Không quảng cáo, ai biết nhà hàng có bán không mà đến mua, dù cá vẫn cứ bày ra đây. Rất có thể đây cũng là cách chơi khăm của người láng giếng. Thấy anh hàng xóm ai bảo cũng nghe, không cần suy xét phải trái, anh ta bèn đưa ra lời góp ý phi lí nhất trong số các lời góp ý của mọi người. Thế mà anh chủ cửa hàng vẫn cứ nghe theo. Treo hiển thuộc loại truyện cười nhằm phê phán những cái xấu, cái đáng cười ngay trong quần chúng nhân dân. Truyện cho ta bài học bổ ích: khi làm việc gì cũng phải suy nghĩ trước sau. Cũng có thể lắng nghe góp ý của người khác nhưng phải cẩn trọng suy xét đúng sai, phải có chủ kiến khi làm việc kẻo phí công vô ích mà lại mang tiếng “Đẽo cày giữa đường”, bị thiên hạ cười chê mà vẫn không mang lại kết quả việc làm như mong muốn.
In the fable of Hanging the Sign, what do you think about the comments of passersby? What lesson do you learn from this story? Suggest The laughter in the story Hanging suddenly burst out when the reader read the detail of the shop owner finishing the word "Fish". So what are the actual comments on the content of the sign? First of all, we need to see that the content of the original restaurant sign "fresh fish is sold here" includes four basic elements: "Here" - indicates the sales location; “for sale” – refers to the restaurant's business activities; “fish” – refers to the item being traded; “Fresh” – indicates the quality and type of product, distinguishing it from other types (dried fish, for example). Thus, although the content of the sign is a bit long, it is quite complete and completely usable! But then four people in turn commented on the sign. The first person commented on the word "fresh". This house used to sell spoiled fish. This opinion is unsatisfactory because as analyzed above, the word fresh here, in addition to the meaning of quality (fresh), also has the meaning of species (not dried fish). Furthermore, the word "fresh" also serves to confirm the quality of the item (not rotten), thus increasing the appeal of the fish item. Therefore, fresh words are necessary. The third person discussed the words "for sale". There is an opinion that this opinion is half correct (leave the word sell, omit the word yes). The word "sell" is very necessary, it refers to the nature of business (selling, not buying). There is no word for sale, I'm afraid customers don't know if this place sells fish (please come and buy) or buy fish (bring fish to sell). However, like the two words "here", the word "yes" is not redundant. It has an affirmative meaning, emphasizing the restaurant's business activities. If the word yes is removed, the sign will still have enough meaning but the impact in advertising will be much lighter. Let's try reading up and compare here selling fish and here selling fish. The last person discussed the word "fish". This opinion is the most absurd. Anyone who sells any product, in one way or another, must advertise their product. Without advertising, who knows if the restaurant sells it or not but comes to buy it, even though the fish is still displayed here. Most likely this is also a prank by the neighbor. Seeing that the neighbor listened to everything he said, without needing to consider right or wrong, he gave the most unreasonable suggestion among everyone's suggestions. Yet the store owner still listened. Hanging on display is a type of joke intended to criticize the bad and laughable things right among the masses. The story gives us a useful lesson: when doing anything, we must think before and after. You can also listen to other people's opinions, but you must be careful to consider right and wrong, you must have an opinion when working, lest you waste your effort in vain and become known as "Plowing the plow in the middle of the road", being laughed at by people but still not doing anything. bring desired employment results.
Đề bài: Trong vai cô bé bán diêm kể lại truyện ngắn cùng tên của An-đéc-xen. Bài làm Đêm nay là đêm giao thừa. Vậy mà tôi – Một cô bé mồ côi mẹ, bà đã mất phải ở vời người cha vũ phu vẫn dò dẫm trong đêm đi bán diêm. Tôi không dám trở về nhà vì sợ cha đánh. Bởi trong túi tôi không có một đồng xu. Không ai bố thí cho tôi một đồng cũng không ai mua giúp một bao diêm. Trước kia khi bà và mẹ tôi còn sống tôi đã được ở trong căn nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh, được đón tết nô-en và giao thừa. Nhưng từ khi bà và mẹ mất đi căn nhà xinh xắn đã bị bán đi tài sản tiêu tán. Cha con tôi phải chuyển đến căn gác áp mái. Dù đã nhét rẻ rách vào các lỗ thủng mà gió vẫn lùa vào như ngoài trời giá rét khủng khiếp lắm. Giờ đây mọi nhà trong phố đã đèn đuốc sáng choang mùi ngỗng quay sực nức. Còn bên ngoài trời tối đen như mực gió tuyết thét gào, vậy mà tôi đầu trần, chân đất quần áo phong phanh rách dưới dò dẫm tìm đến một xố tường ngồi thu lại cho đỡ rét bụng đói cồn cào. Ôi đói và rét quá! Tôi đánh liều quẹt một que diêm. Ánh lửa xanh lam cháy đến vui mắt. Tuyệt quá! Hơi nóng tỏa ra dịu dàng kì lạ thay từ ánh lửa một lò sưởi hiện ra với những hình nổi bằng đồng bóng loáng. Giá rét thế này được sưởi thì thích biết bao! Khi nhưng tôi tôi vừa duỗi chân ra que diêm vụt tắt lò sưởi biến mất. Trước mặt tôi chỉ có bức tường dày đen đặc gió tuyết. Tiếc thật! Tôi vội quẹt que diêm thứ hai. Chà! Một bàn ăn thịnh soạn hiện ra cùng với ánh lửa xanh lam đẹp mắt. Ngỗng quay còn nhảy ra khỏi đưa mang cả dao ăn Phuốc sét tiền về phía tôi. Con ngỗng này mới ngộ nghĩnh làm sao! Tôi chưa kịp với tay đến chú ngỗng thì diêm tắt ngỗng cũng biến mất. Bụng tôi lại réo lên ồ ồ. Không thể cầm lòng tôi vội quẹt que diêm thứ ba. Lần này thật tuyệt diệu khi cây thông nô-en hiện ra. Cây thông thật là to lớn trang trí lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến lấp lánh hơn hẳn cây thông ở hiệu buôn. Chắc là cây thông này có chứa những món quà quí giá lắm đây. Nhưng diêm tắt cây thông cũng biến mất. Những ngọn nến bay lên trời thành những vì sao xa. Những vì sao gợi cho tôi nhớ đến bà. Bởi khi bà còn sống bà thường nói có một vì sao đổi ngôi là một linh hồn về chầu thượng đế. Tôi liền quẹt que diêm thứ tư bà hiền hậu hiện ra. Nhưng tôi biết khi diêm tắt bà cũng sẽ biến mất như lò sưởi, ngỗng quay, cây thông. Vì thế tôi quẹt tất cả số diêm còn lại để nĩu giữ bà và hai bà cháu tôi cùng bay lên trời chầu thượng đế. Ôi! Thật hạnh phúc khi có bà ở bên. Tôi chẳng còn biết đến đói rét sự thờ ơ của mọi người xung quanh nửa. Và tôi cũng không phải lo sợ trước những trận đòn roi của cha. Nhưng tôi cũng luôn luôn khao khát mong mỏi xã hội của đất nước Đan Mạch nói riêng và cả nhân loại nói chung sẽ ngày càng tốt đẹp hơn. Mọi người chung tay xây dựng lối sống nhân ái yêu thương quan tâm đến những mảnh đời bất hạnh, đặc biệt đối với trẻ em lang thang cơ nhỡ.
Topic: Playing the role of a little match seller, retelling the short story of the same name by Andersen. Assignment Tonight is New Year's Eve. Yet I - A little girl who lost her mother, her grandmother passed away, and had to live with her abusive father who still fumbled around at night selling matches. I didn't dare return home because I was afraid my father would beat me. Because I don't have a penny in my pocket. No one gave me a penny in alms nor did anyone buy me a box of matches. In the past, when my grandmother and mother were still alive, I lived in a lovely house surrounded by ivy and celebrated Christmas and New Year's Eve. But since my grandmother and mother lost their beautiful house, their assets have been sold. My father and I had to move into the attic. Even though I stuffed rags into the holes, the wind still blew in like it was terribly cold outside. Now every house in the street has bright lights and the smell of roasted goose. Outside, it was pitch black and the wind and snow howled, but I was bareheaded, barefoot, and my clothes were torn and torn, groping to find a corner of the wall to sit down to relieve the cold and hunger. Oh, so hungry and cold! I took a risk and struck a match. The blue fire burned brightly. So great! The heat radiated strangely and gently from the firelight, a fireplace appeared with shiny copper embossments. How nice it is to be warm when it's cold like this! As soon as I stretched out my legs, the match went out and the fireplace disappeared. In front of me there was only a thick black wall filled with wind and snow. That's a pity! I quickly struck the second match. Rub! A sumptuous dining table appeared with beautiful blue firelight. The roasted goose even jumped out and brought the Phuoc Tien knife to me. How funny is this goose! Before I could reach the goose, the goose's match also disappeared. My stomach growled again. Unable to hold back, I quickly lit the third match. This time it was wonderful when the Christmas tree appeared. The pine tree is really huge, ornately decorated with thousands of sparkling candles, much more sparkling than the pine tree at the store. Surely this pine tree contains very precious gifts. But the match that extinguished the pine tree also disappeared. The candles flew into the sky and became distant stars. The stars remind me of her. Because when she was alive, she often said that there was a star that changed its position, a soul returning to worship God. I immediately lit the fourth match and the kind lady appeared. But I know that when the match goes out she will disappear like the fireplace, the roast goose, and the pine tree. So I lit all the remaining matches to hold her and my two grandchildren together in the sky to worship God. Oh! So happy to have her by my side. I no longer know hunger, cold, or the indifference of people around me. And I don't have to be afraid of my father's beatings. But I also always yearn for the society of Denmark in particular and humanity in general to become better and better. Everyone joins hands to build a compassionate and loving lifestyle that cares for unfortunate lives, especially for homeless and homeless children.
Đề bài: Trong vai Giôn xi hãy kể lại chuyện Chiếc lá cuối cùng của Ô-hen-ri Bài làm Mùa đông! Gã viêm phổi lang thang thọc bàn tay lạnh buốt vào các khu nhà tồi tàn và tôi – Giôn-xi, một họa sĩ nghèo đã trở thành một trong số nạn nhân đầu tiên của gã. Nghèo túng, bệnh nạn khiến tôi tuyệt vọng tâm thế dành hết cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình. Tôi xùng Xiu – một đồng nghiệp, thuê trọ trên một căn gác gần công viên Oa-sinh-tơn, tầng dưới cụ Bơ-men đã già 60 tuổi hay ngồi làm mẫu cho chúng tôi vẽ tranh ở tầng dưới. Giờ đây thời tiết mùa đông rất khắc nghiệt. Mưa phũ phàng và gió vùi dập kéo dài triền miên không dứt. Gió bấc ào ào động vào cửa sổ mưa bồm bộp quất nước. Cây thường xuân bám trên bức tường gạch nhà bên đối diện với cửa sổ căn phòng của tôi đang trút lá. Tôi đợi khi nào chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì tôi cũng hà đời. Chị Xiu thường xuyên động viên an ủi chăm sóc tôi. Nhưng tôi chẳng để ý. Lúc này tôi thấy tâm hồn mình thật cô đơn, mọi sợi dây giàng buộc với bạn bè với cuộc sống cứ lới rộng dần từng sợi một. Trời vừa hửng sáng tôi đã thều thào nhờ chị Xiu kéo tấm mành mảnh lên. Ôi kìa! Vẫn còn một chiếc lá duy nhất đơn độc dũng cảm treo bám vào tường cuống lá xanh sẫm nhưng hình như rìa răng cưa đã úa vàng trắc chắn nó sẽ rụng nhanh. Tôi bèn nhờ chị Xiu lấy cho chút rượu chút sữa kê lại chiếc gối để ngồi lên lấp gương coi gương mặt của mình. Tôi tâm sự với chị: ” Muốn chết là một tội! Một ngày nào đó em sẽ về vịnh Na-Plơ”. Sự sống dần hồi sinh trong tôi. Nhờ thuốc men của bác sĩ, sự tận tình chăm sóc của Xiu và nghị lực lòng ham sống của tôi, cuộc sống lại mỉm cười với tôi. Buổi chiều chị Xiu ôm lấy tôi và cả chiếc gối kể cho tôi nghe ” Cụ Bơ-men đã chết rồi em ạ, em có thấy chiếc lá chẳng bao giờ rung rinh bởi đó là kiệt tác của cụ bơ-men cụ đã vẽ nó vào các đêm chiếc lá cuối cùng rụng xuống”. Trời ơi! Cụ Bơ-men đã chết rồi sao. Chết vì sự ngốc nghếch ý nghĩa kì quặc của tôi ư. Tôi choáng váng ân hận day dứt. Một người sống cô độc như cụ Bơ men khao khát vẽ kiệt tác mà chưa bao giờ thực hiện được. Giờ đây chỉ vì muốn cứu tôi mà cụ đã hi sinh tính mạng của mình phải rồi đó chính là kiệt tác của cụ bởi nó được vẽ trong hoàn cảnh đặc biệt đêm tối mưa phủ phàng gió vùi dập nó giống thật đến mức tôi và chị Xiu không nhận ra đó là một bức vẽ. Nó cứu sống tính mạng của tôi nhưng lại cướp đi tính mạng người tạo ra nó. Nó là sản phẩm kết tinh của tài năng trái tim yêu thương vô hạn đức hi sinh và lòng vị tha. Nó còn khẳng định sức mạnh của nghệ thuật chân chính hướng tới phục vụ cuộc sống của con người.
Topic: As Jonah, tell the story of Ohenri's Last Leaf Assignment Winter! The wandering pneumonia man thrust his cold hands into the shabby housing areas and I - Jonah, a poor artist, became one of his first victims. Poverty and illness made me desperate and determined to dedicate myself to my mysterious, far away trip. I and Xiu - a colleague, rented an apartment in an attic near Washington Park. Below, Mr. Be-men, a 60-year-old old man, often sat as a model for us to paint. Now the winter weather is very harsh. The merciless rain and battering wind continued endlessly. The north wind rushed against the window and the rain lashed with water. The ivy hanging on the brick wall next door across from my room's window is shedding its leaves. I wait until the last leaf falls and then I will die. Ms. Xiu often encouraged and comforted me and took care of me. But I didn't pay attention. At this moment, I feel like my soul is so lonely, all the ties between friends and life are gradually widening one by one. As soon as it was dawn, I whispered to Ms. Xiu to pull up the thin curtain. Oh look! There is still a single leaf bravely hanging on the wall with a dark green stem, but it seems like the jagged edge has turned yellow, so it will fall off quickly. I asked Ms. Xiu to get me some wine and milk to prop up a pillow so I could sit on it and look at my face in the mirror. I confided to her: "Wanting to die is a crime! One day I will return to Naples Bay." Life gradually revived in me. Thanks to the doctor's medicine, Xiu's dedicated care and my will to live, life smiled at me again. In the afternoon, Ms. Xiu hugged me and the pillow and told me, "Mr. Bo-men is dead, do you see that the leaf never shakes because it is Mr. Bo-men's masterpiece, he drew it?" On nights the last leaf falls.” Oh my God! Is Mr. Be-men dead? Die because of my strange sense of stupidity. I was stunned and regretful. A lonely person like Mr. Bo Men longs to paint a masterpiece but has never been able to do so. Now, just because he wanted to save me, he sacrificed his life, right? That is his masterpiece because it was painted in a special situation on a dark, rainy, windy night. It is so realistic that my sister and I Xiu didn't realize it was a drawing. It saved my life but took the life of its creator. It is the crystallized product of a heart's talent, infinite love, sacrifice and altruism. It also affirms the power of true art to serve people's lives.
Trong vai Lang Liêu em hãy kể lại truyện Bánh Chưng, bánh Giầy Gợi ý Ta tên là Liêu. Là con trai nhà vua nhưng ta không giống các anh em khác, quanh năm thức khuya dậy sớm trồng ngô khoai, cấy lúa. Trong nhà ta chỉ ngô lúa là nhiều. Một hôm, vua cha gọi chúng ta lại, phán rằng: – Cha biết mình gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một người trong số các con. Các con hãy làm cỗ để cúng tổ tiên. Ai làm được món ăn quý vừa ý ta thì sẽ được chọn. Nghe vua cha phán truyền như thế, các hoàng tử anh em của ta thi nhau cho người đi khắp nơi tìm kiếm thức ăn quý, nào là sơn hào hải vị, nem công, chả phượng để mong được làm vua. Ta không có điều kiện làm việc ấy mà cũng không muốn thế vì ta nghĩ món ăn dâng cúng Tiên vương phải do tay mình làm ra. Ta băn khoăn, lo lắng bao ngày. Ta nhiều lúa gạo, đậu đỗ, ngô khoai, nhưng những thức đó thì tầm thường quá, biết làm thế nào? Một đêm, ta mơ thấy thần tiên mách bảo: “Hãy lấy gạo làm bánh mà tế lễ”. Càng ngâm ta thấy lời thần thật đúng, các thứ của ngon vật lạ kia ăn mãi rồi cũng chán, còn lúa gạo thì dùng được mãi. Ta bèn chọn lấy thứ gạo nếp trắng ngon nhất, ngâm kĩ, làm bánh hình vuông gói trong lá dong. Nhân bánh bằng thịt lợn, đậu xanh. Ta lại làm thêm một thứ bánh hình tròn bằng cách giã mịn cơm nếp đã đổ thật dẻo. Những thứ bánh ấy thật thơm ngon, ta sung sướng dâng cúng Tiên vương. Ngày lễ Tiên vương, các anh em ta dâng lên bao nhiêu của ngon vật lạ nhưng vua cha chỉ lướt qua. Đến mâm cúng của ta, Người dừng lại rất lâu. Ta tâu bày những lời thần mách bảo. Sau khi cùng triều thần ăn thử, Người rất vừa lòng và phán rằng, bánh hình vuông tượng trưng cho đất, cỏ cây cỏ muông thú, đặt tên là bánh chưng, bánh hình tròn tượng trưng cho trời, đặt tên là bánh giầy. Vua cha trang trọng tuyên bố ta được giải nhất và được truyền ngôi. Ta vô cùng sung sướng và cảm động. Từ đó, ta luôn chăm lo cho việc trồng cấy, chăn nuôi của nhân dân để nhà nhà đều được no ấm.
As Lang Lieu, tell the story of Banh Chung and Banh Giay Suggest My name is Lieu. As the king's son, I am not like the other brothers, who stay up late and get up early all year round to plant corn and potatoes and transplant rice. In our house, only corn and rice are abundant. One day, our father called us together and said: – Father knows that he is close to earth and far from heaven. I want to pass the throne to one of you. Please make a feast to worship your ancestors. Whoever can make a precious dish that pleases me will be chosen. Hearing what the king said, our princes and brothers competed to send people everywhere to look for precious foods, such as seafood, spring rolls, and phoenix spring rolls, hoping to become king. I don't have the conditions to do that and I also don't want to because I think the food offered to the Immortal King must be made by my own hands. I wondered and worried for many days. We have plenty of rice, beans, corn and potatoes, but those foods are so ordinary, what can we do? One night, I dreamed that an angel told me: "Use rice to make cakes and sacrifice." The more I meditate, the more I see that the god's words are true. You will get tired of eating all those strange and delicious things, but rice can be used forever. I chose the best white sticky rice, soaked it thoroughly, and made square cakes wrapped in dong leaves. The cake is filled with pork and green beans. We make another round cake by pounding the poured sticky rice until smooth. Those cakes are so delicious, I happily offer them to the Immortal King. On the First King's Day, our brothers offered many delicious gifts, but our father only passed by. When he came to my offering tray, he stopped for a long time. I tell you what God tells me. After trying it with his courtiers, he was very satisfied and said that the square cake symbolizes the earth, grass, plants, animals, and animals, and named it banh chung, and the round cake symbolizes the sky, and named it banh giay. The king solemnly announced that I won the first prize and was given the throne. I am extremely happy and touched. Since then, we have always taken care of the people's farming and animal husbandry so that everyone in the family can be prosperous.
Đề bài: Trong vai Lang Liêu, kể lại chuyện Bánh chưng, bánh giầy Bài làm Buổi tối hôm ấy, trăng sáng vằng vặc in rõ từng cành lá xuống sân gạch. Tôi ngồi lặng yên nghe mẹ đọc truyện Bánh chưng, bánh dày. Giọng của mẹ thật ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh chàng Lang Liêu hiền lành chân chất cứ hiện lên rõ nét trong trí tưởng tưởng của tôi. Trăng sáng quá! Gió lại hiu hiu thổi, tôi cảm thấy lòng mình thật nhẹ nhàng trong trẻo, bước chân tôi nhẹ tênh theo câu chuyện về chiếc bánh mẹ vừa kể. Bước chân tôi lang thang trên những cánh đồng ngạt ngào hương lúa, xa xa những triền khoai lang xanh rờn, bỗng tôi thấy một anh nông dân đang cặm cụi nhặt từng ngọn cỏ trên ruộng lúa. Nhìn gương mặt anh có nét gì đó quen quen, tôi bước lại gần hơn: – A! Chào anh Lang Liêu! Sao anh lại ở đây? Tôi reo lên thích thú khi nhận ra đó chính là Lang Liêu, chàng trai hiền lành trong câu chuyện Bánh chưng, bánh dày. Nghe thấy giọng nói lảnh lót của tôi anh nông dân ngừng tay làm, nhìn tôi mỉm cười, nói: – Chào em gái! Lẽ ra anh phải hỏi em điều đó chứ! Tôi chợt hiểu và giới thiệu: – Em quên mất, em là Lan, năm nay em học lớp 6, ngày mai lớp em có tiết văn học về Bánh chưng, bánh dày thế mà hôm nay em lại được gặp anh, thật là vui quá! Nghe nhắc đến chuyện bánh chưng, bánh dầy anh nông dân có vẻ trầm ngâm, tôi thì vô cùng sung sướng vì đây là một cơ hội hiếm có để được nghe chính chàng Lang Liêu kể cho nghe về cuộc đời của mình. Đoán được suy nghĩ của tôi anh mỉm cười và nói: – Em có muốn anh kể cho em nghe về cuộc thi tài kén vua của phụ vương anh không? Tôi thích thú: – Có ạ! Anh hãy kể cho em nghe đi. Lang Liêu đưa đôi mắt nhìn ra xa, anh bắt đầu kể, giọng như trầm xuống. – Ta sinh ra trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, mẹ ta chẳng được vua yêu chiều như những vương phi khác nên khi sinh ra chỉ có mẹ con quấn quýt bên nhau, chẳng bao lâu bà mất sớm, để lại ta một mình côi cút. Thế là cũng từ đó ta chăm chỉ với ruộng đồng, khoai lúa. Cuộc sống cứ ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc ta đã thành chàng trai trưởng thành, mạnh khoẻ. Ngày ngày, ta vui với công việc đồng áng của mình, chẳng dám màng đến công danh, bổng lộc của triều đình. Một hôm, đang lúi húi vun mấy khóm khoai trước nhà bỗng ta nhận được lệnh vua vời vào trầu. – Thế anh có lo lắng không? Tôi sốt sắng hỏi. Lang Liêu chậm giãi trả lời: – Ta cũng cảm thấy hơi lo lắng vì lâu rồi không vào triều, biết đâu phụ vương giận hoặc đau yếu. Bởi vậy, sau khi nhận được lệnh, ta vội vã thay quần áo vào chầu phụ vương. Trên đường đến đấy, ta đã nghe nói vua cha nay cảm thấy già yếu nên muốn tìm một người nối ngôi, chỉ cần người đó có tài chứ không nhất thiết là con trưởng hay con thứ. Khi ta đến nơi, tất cả mọi người đã đến đông đủ và tất nhiên có cả các anh của ta. Trên ngai vàng, vua cha đã có vẻ già yếu hơn trước nhiều. Sau khi tuyên bố lí do của buổi triệu tập, Ngài nói: – Tới ngày lễ tiên Vương, ai làm vừa lòng ta thì ta sẽ truyền cho người ấy ngôi báu để tiếp tục trị vì đất nước. Nghe đến đây tôi lại buột miệng hỏi: – Chắc anh lo lắng lắm khi nhận được tin này bởi anh rất nghèo, đâu có những thứ quý giá dâng lên vua cha. Lang Liêu nhìn tôi gật đầu, chàng tiếp: – Sau khi nghe lời vua cha phán truyền, các anh của ta có vẻ rất vui mừng vì trong tay họ có biết bao ngọc ngà châu báu, họ muốn gì mà chẳng có, còn ta nhìn khắp nhà chỉ thấy toàn lúa, sắn, khoai, không có thứ gì là giá trị cả, biết lấy gì để dâng lên Tiên Vương. Thực ra ta cũng không có ý tranh giành ngôi báu nhưng ta cũng muốn làm đẹp lòng phụ vương. Suốt mấy ngày sau đó, ta mất ăn mất ngủ vì nghĩ đến món quà sẽ dâng lên phụ vương. Lòng ta ngổn ngang trăm mối, nếu đi mua đồ quý như các anh của ta thì ta không có tiền còn nếu dâng lên chỉ khoai và sắn thì chắc chắn phụ vương sẽ buồn lòng vì những thứ tầm thường đó. Một đêm, sau một hồi trằn trọc suy nghĩ ta liền ngủ thiếp, trong giấc ngủ, ta thấy một vị thần hiện lên mách rằng: hãy lấy chính những sản phẩm mà mình làm ra để dâng lên Tiên Vương. Ta sung sướng và chợt tỉnh giấc. Ngay sáng hôm đó, ta bắt tay vào làm bánh như lời thần báo mộng. Ta tìm một thứ gạo nếp ngon nhất đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong xanh gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ. Và loại bánh thứ hai ta nghĩ cần phải thay đổi nên ta đem gạo đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Bánh hình vuông biểu tượng cho trời, bánh hình vuông biểu tượng cho đất. Đến ngày lễ Tiên Vương, ta đem hai loại bánh đó vào cung. Nhìn chồng bánh bằng lúa gạo của ta, không ít người xem thường bởi nó vô cùng bình thường so với những món sơn hào hải vị, nem công chả phượng của các lang. Ta cũng chẳng hi vọng điều gì cả mà chỉ mong đẹp lòng tổ tiên bằng chính tấm lòng thành của mình. Tất cả các lễ vật được bày ra trước mặt đức vua, ai ai cũng hồi hộp hi vọng vua cha chọn lễ vật của mình. Đức vua đi đi lại lại trước món lễ vật của các lang. Gương mặt đăm chiêu có lẽ người đang băn khoăn giữa các món mà các lang dâng lên. Vua cha nhìn mọi thứ với thái độ điềm tĩnh, người xem xét từng món ăn, nhấp nháp sơ qua, gương mặt vẫn không biểu thị một thái độ gì, có lẽ người vẫn chưa ưng ý một món ăn nào cả. Các anh của ta, nhiều người đã tỏ ra thất vọng khi thấy vua cha lướt qua món ăn của mình rất nhanh. Hai loại bánh của ta được đặt ở sau cùng, khi đứng bên mâm bánh của ta, người dừng hẳn bước chân, đôi mắt chăm chú nhìn, có lẽ người thấy ngạc nhiên vì thực ra mâm bánh của ta trông khác hẳn các món sơn hào hải vị khác. Sau khi nhìn ngắm, người liền cầm từng chiếc bánh lên tỏ vẻ thích thú, bỗng người cất tiếng hỏi: – Chiếc bánh này làm bằng gì hả Lang Liêu? Ta bẩm: – Thưa phụ vương! Hai loại bánh này được làm bằng gạo, đây là những sản phẩm do chính bàn tay con làm nên. ánh mắt cha nhìn ta trìu mến, điều mà lâu nay ta ít thấy. Và sau khi nghe ta giới thiệu cách làm cũng như ý nghĩa của từng loại bánh, vua cha vô cùng kinh ngạc. Đức vua liền cắt ra cho tất cả mọi người cùng ăn, ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua cha nói: – Trong tất cả các món lễ vật dâng lên Tiên Vương hôm nay, ta ưng ý nhất là món bánh của Lang Liêu, nó vừa mang ý nghĩa là biểu tượng của đất trời, của sự no đủ, đoàn kết vừa thể hiện được tấm lòng hiếu thảo của một người con có hiếu. Do vậy, ta quyết định chọn Lang Liêu là người thừa kế ngôi vị. Tôi thích thú nghe câu chuyện Lang Liêu vừa kể và cảm thấy vô cùng khâm phục, kính trọng anh. Nhưng tôi ngạc nhiên vì thấy vua Lang Liêu chẳng khác gì anh nông dân cả. Đọc được suy nghĩ của tôi Lang Liêu cười lớn và nói: – Hôm nay ta vi hành về nơi thôn quê để dạy dân cách cấy cày, chăm sóc lúa, khoai. Nói xong Lang Liêu liền tạm biệt tôi để đi ra phía ngoài xa kia, ở đó bà con nông dân đang đợi anh. Vừa nói anh vừa bước đi rất nhanh, tôi liền gọi với theo: – Anh Lang Liêu! Anh Lang Liêu! Cho em đi cùng với! Vừa lúc đó tôi tỉnh giấc thấy mẹ đang ngồi bên cạnh, mẹ hỏi: – Con vừa ngủ mơ đúng không? Mẹ thấy con ú ớ gọi ai đó. Tôi dụi mắt tỉnh giấc, hoá ra tất cả chỉ là một giấc mơ. Một giấc mơ thật đẹp. Thấy tôi vẫn ngồi mủm mỉm cười, mẹ liền bảo: – Con dậy vào nhà ngủ đi để mai còn kịp đi học. Vậy là giờ đây tôi hiểu vì sao cứ đến tết mẹ tôi lại gói bánh chưng. Chiếc bánh chưng thật có ý nghĩa.
Đề bài: Trong vai Lang Liêu, kể lại chuyện Bánh chưng, bánh giầy Bài làm Buổi tối hôm ấy, trăng sáng vằng vặc in rõ từng cành lá xuống sân gạch. Tôi ngồi lặng yên nghe mẹ đọc truyện Bánh chưng, bánh dày. Giọng của mẹ thật ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh chàng Lang Liêu hiền lành chân chất cứ hiện lên rõ nét trong trí tưởng tưởng của tôi. Trăng sáng quá! Gió lại hiu hiu thổi, tôi cảm thấy lòng mình thật nhẹ nhàng trong trẻo, bước chân tôi nhẹ tênh theo câu chuyện về chiếc bánh mẹ vừa kể. Bước chân tôi lang thang trên những cánh đồng ngạt ngào hương lúa, xa xa những triền khoai lang xanh rờn, bỗng tôi thấy một anh nông dân đang cặm cụi nhặt từng ngọn cỏ trên ruộng lúa. Nhìn gương mặt anh có nét gì đó quen quen, tôi bước lại gần hơn: – A! Chào anh Lang Liêu! Sao anh lại ở đây? Tôi reo lên thích thú khi nhận ra đó chính là Lang Liêu, chàng trai hiền lành trong câu chuyện Bánh chưng, bánh dày. Nghe thấy giọng nói lảnh lót của tôi anh nông dân ngừng tay làm, nhìn tôi mỉm cười, nói: – Chào em gái! Lẽ ra anh phải hỏi em điều đó chứ! Tôi chợt hiểu và giới thiệu: – Em quên mất, em là Lan, năm nay em học lớp 6, ngày mai lớp em có tiết văn học về Bánh chưng, bánh dày thế mà hôm nay em lại được gặp anh, thật là vui quá! Nghe nhắc đến chuyện bánh chưng, bánh dầy anh nông dân có vẻ trầm ngâm, tôi thì vô cùng sung sướng vì đây là một cơ hội hiếm có để được nghe chính chàng Lang Liêu kể cho nghe về cuộc đời của mình. Đoán được suy nghĩ của tôi anh mỉm cười và nói: – Em có muốn anh kể cho em nghe về cuộc thi tài kén vua của phụ vương anh không? Tôi thích thú: – Có ạ! Anh hãy kể cho em nghe đi. Lang Liêu đưa đôi mắt nhìn ra xa, anh bắt đầu kể, giọng như trầm xuống. – Ta sinh ra trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, mẹ ta chẳng được vua yêu chiều như những vương phi khác nên khi sinh ra chỉ có mẹ con quấn quýt bên nhau, chẳng bao lâu bà mất sớm, để lại ta một mình côi cút. Thế là cũng từ đó ta chăm chỉ với ruộng đồng, khoai lúa. Cuộc sống cứ ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy chốc ta đã thành chàng trai trưởng thành, mạnh khoẻ. Ngày ngày, ta vui với công việc đồng áng của mình, chẳng dám màng đến công danh, bổng lộc của triều đình. Một hôm, đang lúi húi vun mấy khóm khoai trước nhà bỗng ta nhận được lệnh vua vời vào trầu. – Thế anh có lo lắng không? Tôi sốt sắng hỏi. Lang Liêu chậm giãi trả lời: – Ta cũng cảm thấy hơi lo lắng vì lâu rồi không vào triều, biết đâu phụ vương giận hoặc đau yếu. Bởi vậy, sau khi nhận được lệnh, ta vội vã thay quần áo vào chầu phụ vương. Trên đường đến đấy, ta đã nghe nói vua cha nay cảm thấy già yếu nên muốn tìm một người nối ngôi, chỉ cần người đó có tài chứ không nhất thiết là con trưởng hay con thứ. Khi ta đến nơi, tất cả mọi người đã đến đông đủ và tất nhiên có cả các anh của ta. Trên ngai vàng, vua cha đã có vẻ già yếu hơn trước nhiều. Sau khi tuyên bố lí do của buổi triệu tập, Ngài nói: – Tới ngày lễ tiên Vương, ai làm vừa lòng ta thì ta sẽ truyền cho người ấy ngôi báu để tiếp tục trị vì đất nước. Nghe đến đây tôi lại buột miệng hỏi: – Chắc anh lo lắng lắm khi nhận được tin này bởi anh rất nghèo, đâu có những thứ quý giá dâng lên vua cha. Lang Liêu nhìn tôi gật đầu, chàng tiếp: – Sau khi nghe lời vua cha phán truyền, các anh của ta có vẻ rất vui mừng vì trong tay họ có biết bao ngọc ngà châu báu, họ muốn gì mà chẳng có, còn ta nhìn khắp nhà chỉ thấy toàn lúa, sắn, khoai, không có thứ gì là giá trị cả, biết lấy gì để dâng lên Tiên Vương. Thực ra ta cũng không có ý tranh giành ngôi báu nhưng ta cũng muốn làm đẹp lòng phụ vương. Suốt mấy ngày sau đó, ta mất ăn mất ngủ vì nghĩ đến món quà sẽ dâng lên phụ vương. Lòng ta ngổn ngang trăm mối, nếu đi mua đồ quý như các anh của ta thì ta không có tiền còn nếu dâng lên chỉ khoai và sắn thì chắc chắn phụ vương sẽ buồn lòng vì những thứ tầm thường đó. Một đêm, sau một hồi trằn trọc suy nghĩ ta liền ngủ thiếp, trong giấc ngủ, ta thấy một vị thần hiện lên mách rằng: hãy lấy chính những sản phẩm mà mình làm ra để dâng lên Tiên Vương. Ta sung sướng và chợt tỉnh giấc. Ngay sáng hôm đó, ta bắt tay vào làm bánh như lời thần báo mộng. Ta tìm một thứ gạo nếp ngon nhất đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong xanh gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ. Và loại bánh thứ hai ta nghĩ cần phải thay đổi nên ta đem gạo đồ lên, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Bánh hình vuông biểu tượng cho trời, bánh hình vuông biểu tượng cho đất. Đến ngày lễ Tiên Vương, ta đem hai loại bánh đó vào cung. Nhìn chồng bánh bằng lúa gạo của ta, không ít người xem thường bởi nó vô cùng bình thường so với những món sơn hào hải vị, nem công chả phượng của các lang. Ta cũng chẳng hi vọng điều gì cả mà chỉ mong đẹp lòng tổ tiên bằng chính tấm lòng thành của mình. Tất cả các lễ vật được bày ra trước mặt đức vua, ai ai cũng hồi hộp hi vọng vua cha chọn lễ vật của mình. Đức vua đi đi lại lại trước món lễ vật của các lang. Gương mặt đăm chiêu có lẽ người đang băn khoăn giữa các món mà các lang dâng lên. Vua cha nhìn mọi thứ với thái độ điềm tĩnh, người xem xét từng món ăn, nhấp nháp sơ qua, gương mặt vẫn không biểu thị một thái độ gì, có lẽ người vẫn chưa ưng ý một món ăn nào cả. Các anh của ta, nhiều người đã tỏ ra thất vọng khi thấy vua cha lướt qua món ăn của mình rất nhanh. Hai loại bánh của ta được đặt ở sau cùng, khi đứng bên mâm bánh của ta, người dừng hẳn bước chân, đôi mắt chăm chú nhìn, có lẽ người thấy ngạc nhiên vì thực ra mâm bánh của ta trông khác hẳn các món sơn hào hải vị khác. Sau khi nhìn ngắm, người liền cầm từng chiếc bánh lên tỏ vẻ thích thú, bỗng người cất tiếng hỏi: – Chiếc bánh này làm bằng gì hả Lang Liêu? Ta bẩm: – Thưa phụ vương! Hai loại bánh này được làm bằng gạo, đây là những sản phẩm do chính bàn tay con làm nên. ánh mắt cha nhìn ta trìu mến, điều mà lâu nay ta ít thấy. Và sau khi nghe ta giới thiệu cách làm cũng như ý nghĩa của từng loại bánh, vua cha vô cùng kinh ngạc. Đức vua liền cắt ra cho tất cả mọi người cùng ăn, ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua cha nói: – Trong tất cả các món lễ vật dâng lên Tiên Vương hôm nay, ta ưng ý nhất là món bánh của Lang Liêu, nó vừa mang ý nghĩa là biểu tượng của đất trời, của sự no đủ, đoàn kết vừa thể hiện được tấm lòng hiếu thảo của một người con có hiếu. Do vậy, ta quyết định chọn Lang Liêu là người thừa kế ngôi vị. Tôi thích thú nghe câu chuyện Lang Liêu vừa kể và cảm thấy vô cùng khâm phục, kính trọng anh. Nhưng tôi ngạc nhiên vì thấy vua Lang Liêu chẳng khác gì anh nông dân cả. Đọc được suy nghĩ của tôi Lang Liêu cười lớn và nói: – Hôm nay ta vi hành về nơi thôn quê để dạy dân cách cấy cày, chăm sóc lúa, khoai. Nói xong Lang Liêu liền tạm biệt tôi để đi ra phía ngoài xa kia, ở đó bà con nông dân đang đợi anh. Vừa nói anh vừa bước đi rất nhanh, tôi liền gọi với theo: – Anh Lang Liêu! Anh Lang Liêu! Cho em đi cùng với! Vừa lúc đó tôi tỉnh giấc thấy mẹ đang ngồi bên cạnh, mẹ hỏi: – Con vừa ngủ mơ đúng không? Mẹ thấy con ú ớ gọi ai đó. Tôi dụi mắt tỉnh giấc, hoá ra tất cả chỉ là một giấc mơ. Một giấc mơ thật đẹp. Thấy tôi vẫn ngồi mủm mỉm cười, mẹ liền bảo: – Con dậy vào nhà ngủ đi để mai còn kịp đi học. Vậy là giờ đây tôi hiểu vì sao cứ đến tết mẹ tôi lại gói bánh chưng. Chiếc bánh chưng thật có ý nghĩa.
Trong vai Lạc Long Quân kể lại truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên Gợi ý Ta là Lạc Long Quân, vốn thuộc nòi Rồng, con trai của Thần Long Nữ. Gia tộc ta định cư hàng ngàn năm nay tại vùng đất Lạc Việt phì nhiêu. Sinh ra, ta đã mang mình rồng, có sức khoẻ vô địch và biết rất nhiều phép lạ. Họ hàng nhà rồng của ta vốn quen sống dưới nước nên chỉ thỉnh thoảng mới lên trên mặt đất. Mỗi khi lên cạn, ta thường dùng phép thần thông của mình để diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh – những loài yêu quái bấy lâu làm hại dân lành. Thương đời sống của nhân dân còn cực khổ, ta bèn dạy họ trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở. Xong việc, ta lại về thuỷ cung báo hiếu với Thần Long Nữ – mẫu hậu của mình. Chỉ khi có việc cần ta mới hiện lên. Vào một ngày đẹp trời, trong khi đang đi thăm thú dân tình, ta gặp một người con gái xinh đẹp tuyệt trần đang dạo bước gần cung điện Long Trang. Hỏi ra mới biết nàng tên gọi Âu Cơ, thuộc dòng họ Thần Nông sinh sống ở vùng núi cao phương Bắc. Nghe tiếng vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng tìm đến thăm. Sau nhiều lần trò chuyện, ta và nàng đem lòng thương mến nhau rồi chúng ta kết duyên vợ chng, cùng nhau chung sống trên cạn ở cung điện Long Trang. Ta hạnh phúc vô cùng khi ít lâu sau Âu Cơ mang thai. Sau chín tháng mười ngày, thật kì lạ, nàng sinh ra một bọc trăm trứng. Kì lạ hơn nữa, trăm trứng nở ra một trăm chú bé con bụ bẫm, trắng trẻo, hồng hào. Trông chúng mới đáng yêu làm sao. Bởi ta là giống Rồng, vợ ta – nàng Âu Cơ lại là giống Tiên nên những đứa con của chúng ta sinh ra không cần bú mớm mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi ngô và đứa con nào cũng có sức khỏe như ta. Từ khi có đàn con khoẻ mạnh, xinh đẹp, cuộc sống của vợ- chồng ta ngày càng hạnh phúc và vui vẻ. Cung điện lúc nào cũng rộn rã tiếng cười nói, nô đùa của bọn trẻ. Thế nhưng không hiểu sao trong lòng ta luôn cảm thấy một nỗi trống trải không yên. Đó là nỗi niềm nhớ sông, nhớ nước, nhớ quê hương…da diết. Nỗi nhớ cứ ngày một trào dâng trong lòng ta. Cuối cùng, không thể sống mãi trong nỗi nhớ nhung được nữa, ta đành từ biệt người vợ yêu và đàn con để trở về thủy cung. Thật tội nghiệp! Âu Cơ phải ở lại một mình nuôi con, tháng ngày chờ đợi mong ta quay về. Ta biết nàng buồn tủi cho phận mình lắm! Nhưng ta cũng không thể sống mãi trên cạn được. Ta vốn nòi Rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng Tiên ở chốn non cao. Kẻ ở cạn, người ở nước, tính tình tập quán khác nhau khó mà ăn ở cùng nhau lâu dài được. Cuối cùng, sau bao ngày trăn trở nghĩ suy, ta quyết định nói hết tâm ý của ta cho nàng. Hiểu được suy nghĩ và những khó khăn của ta, Âu Cơ đồng ý đưa năm mươi con lên núi. Năm mươi người con còn lại theo ta xuống biển. Tuy xa cách nhưng khi có việc vẫn giúp đỡ lẫn nhau, không bao giờ quên lời hẹn ước. Dù sống xa sông cách núi nhưng con cháu của ta luôn tự nhắc nhở nhau biết mình đều là con Rồng, cháu Tiên, phải thương yêu, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn, làm cho nước nhà ngày càng thêm phồn vinh, hùng cường.
Playing the role of Lac Long Quan, he narrates the legend of the Dragon and the Fairy's grandson Suggest I am Lac Long Quan, originally from the Dragon race, son of the Dragon Goddess. Our family has settled for thousands of years in the fertile land of Lac Viet. Born, I had the body of a dragon, had invincible health and knew many miracles. Our dragon relatives are used to living underwater, so they only occasionally come to the surface. Every time I land, I often use my magical powers to eliminate Ngu Tinh, Ho Tinh, and Moc Tinh - monsters that have long harmed innocent people. Feeling sorry for the people's miserable lives, we taught them how to grow crops, raise livestock, and how to live. After finishing work, I returned to the aquarium to show my filial piety to Than Long Nu - my mother. Only when something is needed do we show up. On a beautiful day, while visiting people, I met a stunningly beautiful girl walking near Long Trang palace. When asked, we found out that her name was Au Co, of the Than Nong family living in the high mountains of the North. Hearing that Lac land had many fragrant flowers and strange grasses, she came to visit. After many conversations, she and I fell in love with each other and then we got married and lived together on land at Long Trang palace. I was extremely happy when shortly after Au Co became pregnant. After nine months and ten days, strangely, she gave birth to a sac of a hundred eggs. Even more strangely, one hundred eggs hatched and gave birth to one hundred plump, white, and rosy babies. They look so adorable. Because I am a Dragon, my wife Au Co is a Fairy, so our children are born without needing to be breastfed but grow up on their own, with handsome faces and all of our children are as healthy as us. . Since having healthy, beautiful children, our lives have become increasingly happier and more joyful. The palace is always bustling with the laughter and playing of children. But for some reason, I always feel an emptiness and restlessness in my heart. That is the feeling of missing the river, missing the water, missing the homeland...so deeply. Nostalgia keeps rising in our hearts. Finally, unable to live in nostalgia anymore, I had to say goodbye to my beloved wife and children and return to the aquarium. So poor! Au Co had to stay behind to raise her children alone, waiting for months and days for me to return. I know you are very sad for your fate! But we cannot live on land forever. I am of the Dragon race in the deep waters, you are of the Fairy race in the high mountains. People living on land and people living in water have different personalities and habits, making it difficult to live together for a long time. Finally, after many days of thinking and thinking, I decided to tell her all my thoughts. Understanding my thoughts and difficulties, Au Co agreed to take fifty children up the mountain. The remaining fifty children followed me into the sea. Even though they are far apart, they still help each other when things come up, never forgetting their promises. Even though we live far from rivers and mountains, our children and grandchildren always remind each other that they are all Dragons and Fairies, and must love and help each other in times of difficulty, making our country more and more prosperous and heroic. strong.
Trong vai Mã Lương trong truyện Cây bút thần, hãy kể lại một việc làm có ích của mình Hướng dẫn Trong vai Mã Lương trong truyện Cây bút thần, hãy kể lại một việc làm có ích của mình lớp 6 Trong vai Mã Lương trong truyện Cây bút thần, hãy kể lại một việc làm có ích của mình được VnDoc sưu tầm, tổng hợp giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hoàn thiện cách làm bài văn kể chuyện lớp 6. Mời các em cùng tham khảo chi tiết. Bài tham khảo 1 Tôi bắt đầu một cuộc sống phiêu du nay đây mai đó kể từ khi rời bỏ xóm làng, rời bỏ những kẻ tham lam, tàn ác. Ngày ngày tôi cùng chú ngựa thân yêu rong ruổi đến những vùng núi xa, bởi tôi biết rằng ở đó cuộc sống của họ còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Một hôm, trời đã bắt đầu về chiều, tôi quyết định dừng chân nghỉ ở một ngôi làng nhỏ nằm sát ven rừng. Khung cảnh làng mạc xung quanh có vẻ tiêu điều, xơ xác. Cây cối chẳng mấy xanh tốt, đồng ruộng khô cằn, có những mảnh ruộng đã chết cháy chỉ còn lơ thơ vài ngọn cỏ. Trên đường đi tôi gặp một cụ già nét mặt đăm chiêu lo lắng, đến gần cụ, tôi chào: – Cháu chào cụ ạ. Cụ ơi ở đây có ngôi nhà nào có thể ở trọ qua đêm được không ạ? Cụ già nhìn tôi, đáp: – Trước đây thì cũng có đấy nhưng mấy năm nay hạn hán kéo dài, cuộc sống đói khổ nhiều người chẳng còn làm ăn được nữa, và nhiều người đã bỏ làng đi tìm nơi khác. Nói xong cụ già giơ tay chỉ ra mấy cánh đồng trước mặt, nói tiếp: – Đấy cả nhà tôi trông vào ruộng lúa này mà nay chỉ còn trơ vài ngọn cỏ, chẳng biết từ nay nhà tôi lấy gì mà ăn nữa. Nói đoạn ông hỏi tôi: – Thế cậu từ đâu đến mà lại lạc vào xứ này, có lẽ đã lâu lắm rồi chẳng còn ai dám đến làng ta chơi nữa. Thôi cậu hãy vào nhà ta nghỉ tạm một đêm, mai hãy đi tiếp. Tôi theo lão nông về nhà, ngôi nhà nhỏ của lão nằm nép bên chân núi, nhìn từ xa chẳng khác gì mộ túp lều. Nhìn gia cảnh nghèo nàn của lão tôi vô cùng ái ngại, tôi nói với lão: – Cháu có thể giúp làng ông có nước để tưới cho cây khỏi chết khô. Tôi liền đưa bút vẽ mấy nét một con sông đã hiện ra trước mắt nước trong veo và muốn cho dân làng có cái ăn tôi lại chấm mấy cái thế là hàng đàn cá tung tăng bơi lội. Bà con vô cùng mừng rỡ, họ gọi nhau đi bắt cá và ai nấy còn thức gì có thể ăn được đều đem đến nấu chung để cả làng liên hoan một bữa no say. Đêm đó tôi tâm sự với ông lão về cuộc sống trước đây của tôi, ông lão tỏ ra vô cùng thương xót và cảm thông, lão nói: – Nhà ta cũng chẳng giàu có gì nhưng cháu hãy ở đây làm con nuôi của ta, hai cha con ta chịu khó làm lụng cũng có thể đủ sống. Dù rất quý ông lão nhưng tôi vẫn không thể ở lại, vì tôi hiểu rằng còn có rất nhiều hoàn cảnh khó khăn, họ sẽ cần đến cây bút thần của tôi. Sáng hôm sau, từ biệt ông lão tôi lại rong ruổi trên đường, mong cứu giúp được nhiều hơn những con người nghèo khổ. Bài tham khảo 2 Tôi là Mã Lương, khi tôi vừa lên mười thì bố mẹ tôi mất, để lại tôi một mình trong cuộc đời đầy cô quạnh này. Tôi ngày ngày đi kiếm củi để bán lấy tiền, lên núi gánh nước, tuy tuổi còn nhỏ nhưng những công việc nặng nhọc của người lớn tôi đều đã từng làm qua. Tuy khổ cực nhưng tôi luôn nhận được sự giúp đỡ từ bà con hàng xóm, điều đó làm tôi vô cùng hạnh phúc. Tôi tuy nghèo nhưng lại có một mong ước vô cùng da diết, đó là được đi học, được cầm bút vẽ lên những vật mà tôi nhìn thấy hàng ngày. Nhưng ngay cả miếng ăn còn thiếu thốn thì việc đi học là vô cùng xa xỉ. Nhưng trong một lần nằm mộng, tôi đã gặp một ông lão đầu tóc bạc phơ, ông cho tôi một cây bút. Tôi vui mừng tỉnh dậy thì phát hiện trong tay đang cầm cây bút ở trong mộng. Từ khi có cây bút thần, cuộc sống của tôi đã hoàn toàn thay đổi, tôi có thể rất hay giúp đỡ những người nghèo khó, đồng thời có thể thẳng tay mà trừng trị kẻ ác. Ngày nào tôi cũng lên núi kiếm củi, bán cho những gia đình địa chủ để lấy phí sinh hoạt cho cuộc sống hàng ngày. Đồng thời tôi ra bờ suối để lấy nước, đây cũng là khoảng thời gian tôi yêu thích nhất, vì đây là khoảng thời gian tôi rảnh rỗi nhất trong ngày. Tôi có thể thỏa sức nô đùa cùng bạn bè cùng trang lứa, cũng có khi tôi rón rén đến một lớp học gần đó để xem thầy giáo dạy học. Đây cũng là lúc tôi được sống hết mình với niềm đam mê của mình, đó chính là vẽ. Vì nhà nghèo, không có tiền mua bút nên tôi dùng những cành củi khô mà vạch từng đường lên phiến đá. Tôi mô phỏng lại hình dạng của những con vật, những khung cảnh xung quanh mà tôi từng nhìn thấy. Các bạn ai cũng tấm tắc khen ngợi những hình vẽ mà tôi vẽ ra, khen chúng rất giống thật. Còn người lớn mỗi khi đi ngang qua thì vỗ vai tôi khen “Mã Lương vẽ thật có hồn”. Nhận được những lời khen làm tôi vui lắm, tôi vẽ mọi nơi có thể, căn nhà nhỏ của tôi cũng tràn ngập những hình vẽ mà tôi dùng than củi để vẽ. Tôi vẽ nhiều đến mức bốn bức tường xung quanh chật kín những hình mà không thể vẽ tiếp được nữa. Đêm hôm ấy, khi đã chìm vào giấc ngủ, tôi mơ thấy mình đang ngồi trên phiến đá và vẽ vời những thứ mình thích thì bỗng ở đâu hiện lên một ông lão đầu tóc bạc phơ, khuôn mặt hiền từ. Ông lại gần xoa đầu tôi và sau đó tặng tôi một cây bút, tôi vui lắm, nhận bút rồi rối rít cảm ơn ông lão. Nhưng chỉ trong chốc lát, ông lão đã biến đâu mất không chút dấu vết. Đến đó, tôi chợt bừng tỉnh nhưng kì lạ thay tay tôi đang cầm một cây bút, cây bút này giống hệt với trong giấc mơ. Lúc này tôi mới biết người mình gặp trong mơ là Tiên ông. Lập tức tôi mang cây bút ra vẽ thử, nhưng kì lạ hơn nữa, tôi vẽ ra con cá thì con cá bỗng quẫy đuôi mà quẫy xuống nước, tôi vẽ chim thì chim vỗ cánh bay lên trời. Tôi vui mừng lắm vì như vậy tôi không chỉ thỏa sức vẽ mà còn có thể giúp đỡ cho bà con cô bác nghèo trong xóm. Hắn ta nảy ý định giết chết tôi để cướp bút thần, nhưng tôi không để hắn đạt được âm mưu của mình. Khi người của tên địa chủ nọ kéo đến thì tôi đã thoát khỏi nhà giam với một cây thang, sau đó tôi vẽ ra ngựa để chạy trốn. Nhưng thật không ngờ, lại có đám người khác chặn trước ngựa của tôi, thì ra lần này là người của nhà vua. Đây là ông vua chỉ biết ăn chơi xa đọa mà không chăm lo cho đời sống của người dân, vì vậy mà ông ta yêu cầu tôi vẽ rồng thì tôi vẽ ra rắn rết, côn trùng. Ông ta yêu cầu tôi vẽ một con thuyền tôi vẽ một con thuyền giữa biển khơi. Ông ta cùng hoàng hậu, công chúa và tham quan bước lên, tôi vẽ những gợn sóng nhỏ, gió nhẹ nhưng thích thú với điều kì lạ, vị hôn quân kia liên tục yêu cầu tôi cho gió thổi mạnh lên để gió thổi căng buồn, tôi vẽ thành cơn bão tố, lật đổ nhấn chìm cả đám người xấu xa. Đây là kết cục tất yếu dành cho những kẻ tham lam, độc ác. Sau khi chôn vùi lũ người ham vật chất mà bất chấp luân lí, tôi đã biến mất cùng cây bút thần, không có ai trong nhân gian có thể nhìn thấy tôi nữa.
Trong vai Mã Lương trong truyện Cây bút thần, hãy kể lại một việc làm có ích của mình Hướng dẫn Trong vai Mã Lương trong truyện Cây bút thần, hãy kể lại một việc làm có ích của mình lớp 6 Trong vai Mã Lương trong truyện Cây bút thần, hãy kể lại một việc làm có ích của mình được VnDoc sưu tầm, tổng hợp giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hoàn thiện cách làm bài văn kể chuyện lớp 6. Mời các em cùng tham khảo chi tiết. Bài tham khảo 1 Tôi bắt đầu một cuộc sống phiêu du nay đây mai đó kể từ khi rời bỏ xóm làng, rời bỏ những kẻ tham lam, tàn ác. Ngày ngày tôi cùng chú ngựa thân yêu rong ruổi đến những vùng núi xa, bởi tôi biết rằng ở đó cuộc sống của họ còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Một hôm, trời đã bắt đầu về chiều, tôi quyết định dừng chân nghỉ ở một ngôi làng nhỏ nằm sát ven rừng. Khung cảnh làng mạc xung quanh có vẻ tiêu điều, xơ xác. Cây cối chẳng mấy xanh tốt, đồng ruộng khô cằn, có những mảnh ruộng đã chết cháy chỉ còn lơ thơ vài ngọn cỏ. Trên đường đi tôi gặp một cụ già nét mặt đăm chiêu lo lắng, đến gần cụ, tôi chào: – Cháu chào cụ ạ. Cụ ơi ở đây có ngôi nhà nào có thể ở trọ qua đêm được không ạ? Cụ già nhìn tôi, đáp: – Trước đây thì cũng có đấy nhưng mấy năm nay hạn hán kéo dài, cuộc sống đói khổ nhiều người chẳng còn làm ăn được nữa, và nhiều người đã bỏ làng đi tìm nơi khác. Nói xong cụ già giơ tay chỉ ra mấy cánh đồng trước mặt, nói tiếp: – Đấy cả nhà tôi trông vào ruộng lúa này mà nay chỉ còn trơ vài ngọn cỏ, chẳng biết từ nay nhà tôi lấy gì mà ăn nữa. Nói đoạn ông hỏi tôi: – Thế cậu từ đâu đến mà lại lạc vào xứ này, có lẽ đã lâu lắm rồi chẳng còn ai dám đến làng ta chơi nữa. Thôi cậu hãy vào nhà ta nghỉ tạm một đêm, mai hãy đi tiếp. Tôi theo lão nông về nhà, ngôi nhà nhỏ của lão nằm nép bên chân núi, nhìn từ xa chẳng khác gì mộ túp lều. Nhìn gia cảnh nghèo nàn của lão tôi vô cùng ái ngại, tôi nói với lão: – Cháu có thể giúp làng ông có nước để tưới cho cây khỏi chết khô. Tôi liền đưa bút vẽ mấy nét một con sông đã hiện ra trước mắt nước trong veo và muốn cho dân làng có cái ăn tôi lại chấm mấy cái thế là hàng đàn cá tung tăng bơi lội. Bà con vô cùng mừng rỡ, họ gọi nhau đi bắt cá và ai nấy còn thức gì có thể ăn được đều đem đến nấu chung để cả làng liên hoan một bữa no say. Đêm đó tôi tâm sự với ông lão về cuộc sống trước đây của tôi, ông lão tỏ ra vô cùng thương xót và cảm thông, lão nói: – Nhà ta cũng chẳng giàu có gì nhưng cháu hãy ở đây làm con nuôi của ta, hai cha con ta chịu khó làm lụng cũng có thể đủ sống. Dù rất quý ông lão nhưng tôi vẫn không thể ở lại, vì tôi hiểu rằng còn có rất nhiều hoàn cảnh khó khăn, họ sẽ cần đến cây bút thần của tôi. Sáng hôm sau, từ biệt ông lão tôi lại rong ruổi trên đường, mong cứu giúp được nhiều hơn những con người nghèo khổ. Bài tham khảo 2 Tôi là Mã Lương, khi tôi vừa lên mười thì bố mẹ tôi mất, để lại tôi một mình trong cuộc đời đầy cô quạnh này. Tôi ngày ngày đi kiếm củi để bán lấy tiền, lên núi gánh nước, tuy tuổi còn nhỏ nhưng những công việc nặng nhọc của người lớn tôi đều đã từng làm qua. Tuy khổ cực nhưng tôi luôn nhận được sự giúp đỡ từ bà con hàng xóm, điều đó làm tôi vô cùng hạnh phúc. Tôi tuy nghèo nhưng lại có một mong ước vô cùng da diết, đó là được đi học, được cầm bút vẽ lên những vật mà tôi nhìn thấy hàng ngày. Nhưng ngay cả miếng ăn còn thiếu thốn thì việc đi học là vô cùng xa xỉ. Nhưng trong một lần nằm mộng, tôi đã gặp một ông lão đầu tóc bạc phơ, ông cho tôi một cây bút. Tôi vui mừng tỉnh dậy thì phát hiện trong tay đang cầm cây bút ở trong mộng. Từ khi có cây bút thần, cuộc sống của tôi đã hoàn toàn thay đổi, tôi có thể rất hay giúp đỡ những người nghèo khó, đồng thời có thể thẳng tay mà trừng trị kẻ ác. Ngày nào tôi cũng lên núi kiếm củi, bán cho những gia đình địa chủ để lấy phí sinh hoạt cho cuộc sống hàng ngày. Đồng thời tôi ra bờ suối để lấy nước, đây cũng là khoảng thời gian tôi yêu thích nhất, vì đây là khoảng thời gian tôi rảnh rỗi nhất trong ngày. Tôi có thể thỏa sức nô đùa cùng bạn bè cùng trang lứa, cũng có khi tôi rón rén đến một lớp học gần đó để xem thầy giáo dạy học. Đây cũng là lúc tôi được sống hết mình với niềm đam mê của mình, đó chính là vẽ. Vì nhà nghèo, không có tiền mua bút nên tôi dùng những cành củi khô mà vạch từng đường lên phiến đá. Tôi mô phỏng lại hình dạng của những con vật, những khung cảnh xung quanh mà tôi từng nhìn thấy. Các bạn ai cũng tấm tắc khen ngợi những hình vẽ mà tôi vẽ ra, khen chúng rất giống thật. Còn người lớn mỗi khi đi ngang qua thì vỗ vai tôi khen “Mã Lương vẽ thật có hồn”. Nhận được những lời khen làm tôi vui lắm, tôi vẽ mọi nơi có thể, căn nhà nhỏ của tôi cũng tràn ngập những hình vẽ mà tôi dùng than củi để vẽ. Tôi vẽ nhiều đến mức bốn bức tường xung quanh chật kín những hình mà không thể vẽ tiếp được nữa. Đêm hôm ấy, khi đã chìm vào giấc ngủ, tôi mơ thấy mình đang ngồi trên phiến đá và vẽ vời những thứ mình thích thì bỗng ở đâu hiện lên một ông lão đầu tóc bạc phơ, khuôn mặt hiền từ. Ông lại gần xoa đầu tôi và sau đó tặng tôi một cây bút, tôi vui lắm, nhận bút rồi rối rít cảm ơn ông lão. Nhưng chỉ trong chốc lát, ông lão đã biến đâu mất không chút dấu vết. Đến đó, tôi chợt bừng tỉnh nhưng kì lạ thay tay tôi đang cầm một cây bút, cây bút này giống hệt với trong giấc mơ. Lúc này tôi mới biết người mình gặp trong mơ là Tiên ông. Lập tức tôi mang cây bút ra vẽ thử, nhưng kì lạ hơn nữa, tôi vẽ ra con cá thì con cá bỗng quẫy đuôi mà quẫy xuống nước, tôi vẽ chim thì chim vỗ cánh bay lên trời. Tôi vui mừng lắm vì như vậy tôi không chỉ thỏa sức vẽ mà còn có thể giúp đỡ cho bà con cô bác nghèo trong xóm. Hắn ta nảy ý định giết chết tôi để cướp bút thần, nhưng tôi không để hắn đạt được âm mưu của mình. Khi người của tên địa chủ nọ kéo đến thì tôi đã thoát khỏi nhà giam với một cây thang, sau đó tôi vẽ ra ngựa để chạy trốn. Nhưng thật không ngờ, lại có đám người khác chặn trước ngựa của tôi, thì ra lần này là người của nhà vua. Đây là ông vua chỉ biết ăn chơi xa đọa mà không chăm lo cho đời sống của người dân, vì vậy mà ông ta yêu cầu tôi vẽ rồng thì tôi vẽ ra rắn rết, côn trùng. Ông ta yêu cầu tôi vẽ một con thuyền tôi vẽ một con thuyền giữa biển khơi. Ông ta cùng hoàng hậu, công chúa và tham quan bước lên, tôi vẽ những gợn sóng nhỏ, gió nhẹ nhưng thích thú với điều kì lạ, vị hôn quân kia liên tục yêu cầu tôi cho gió thổi mạnh lên để gió thổi căng buồn, tôi vẽ thành cơn bão tố, lật đổ nhấn chìm cả đám người xấu xa. Đây là kết cục tất yếu dành cho những kẻ tham lam, độc ác. Sau khi chôn vùi lũ người ham vật chất mà bất chấp luân lí, tôi đã biến mất cùng cây bút thần, không có ai trong nhân gian có thể nhìn thấy tôi nữa.
Trong vai mụ vợ hãy kể lại chuyện Ông lão đánh cá và con cá vàng Gợi ý Cứ nghĩ lại hồi ấy, tôi lại thấy hối hận biết bao nhiêu. Giá như lúc đó, tôi không quá tham lam, không có ảo tưởng điên rồ để bây giờ lại trở về con số không, làm mất lòng tin của chồng mình thì tốt biết bao! Và chắc hẳn bây giờ các cháu đã biết tôi là ai, tôi chính là mụ vợ thật đáng ghét trong truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng. Hồi ấy, vợ chồng sống rất an bình. Tôi ở nhà may vá lưới và làm những công việc nhà, tôi còn nuôi được một con lợn mập mạp. Ông lão nhà tôi thì đi đánh cá, hôm có, hôm không. Tuy hai vợ chồng tôi già lại sống cảnh nghèo túng trong một túp lều lụp xụp trên bờ biển nhưng cuộc sống của chúng lôi vẫn êm ấm. Cho đến một ngày… Tôi đang loay hoay trước cái máng lợn vừa bị mẻ một miếng lớn thì ông lão đi đánh cá về. Ông ấy vui vẻ kể cho tôi nghe về chuyện con cá vàng biết nói, nó hứa đáp ứng mọi yêu cầu nhưng ông lão không cần gì cả. Lúc đầu, tôi không tin, nghĩ ông ấy đùa, nhưng thấy thế, tôi tin là thật. Một cơn giận bùng lên, trong đầu tôi có ý nghĩ: “Nếu có con cá vàng ấy nói thật thì sao lão ngốc nghếch đến mức không xin gì cả? Tôi vội nói với lão chồng: – Ông thật quá ngu ngốc! Ông nhìn xem nhà cửa chúng ta thế nào, cả cái máng cho lợn ăn cũng tả tơi. Ông hãy ra biển xin ngay con cá vàng một cái máng lợn ăn mới đi! Rồi khi ánh sáng biết mất… Trời! Trước mắt tôi, cái máng lợn mới toanh chẳng sứt mẻ gì cả hiện ra. Chồng tôi chạy về đến túp lều và vô cùng thích thú khi thấy cái máng mới. Tôi nhìn quanh và tự hỏi: “Có con cá có phép thuật như vậy tại sao mình phải sống trong một túp lều tồi tàn rách nát này cơ chứ??’. Tôi nói với chồng: – Ừ! Thì đã có máng lợn mới rồi. Nhưng ông có thấy chúng ta đang sống trong một cái lều rách nát không? Hãy đi mau ra biển và xin con cá một ngôi nhà mới. Nhanh lên! Thế là chồng tôi lại chạy ra biển. Tôi trông theo cái bóng khuất dần của chồng và mong chờ. Quả nhiên, chỉ một lát sau, tôi bàng hoàng khi thấy mình không còn ngồi trong lúp lều tối tăm nữa mà là một ngôi nhà khang trang với đầy đủ tiện nghi và sáng sủa. Tôi sung sướng ngắm mái nhà sơn đỏ với ống khói nhô cao. Tôi quả thật chưa bao giờ dám nghĩ mình có được ngôi nhà đẹp vậy. Nhưng niềm vui chẳng kéo dài. Chỉ vài ngày là tôi cáu kỉnh vì ý nghĩ: “Thế khi đã có nhà mới rồi, mình vẫn phải làm những công việc nhà ư? Không! Không thể như thế! Tôi muốn có người hầu kẻ hạ”. Thế là tôi đanh mặt lại và nghiêm giọng nói với ông lão: – Tại sao tôi lại lấy ông cơ chứ? Ông chỉ là một gã đàn ông ngu ngốc. Tôi không muốn làm một mụ nông dân quèn nữa, tôi muốn trở thành nhất phẩm phu nhân. Ông hãy đi mau ra biển và xin con cá. Nhanh lên! Chồng tôi kêu lên: – Bà có điên không vậy? Đã có nhà mới rồi thế mà còn muốn là nhất phẩm phu nhân ư? Lúc đầu, ông ta lên giọng thế, nhưng tôi chỉ dọa nạt một hồi là ông phải đi. Trong chốc lát, tôi choáng váng khi thấy mình đang ở trong một tòa nhà tráng lệ. Trên người tôi, một bộ váy áo mềm mại, lấp lánh, nhìn quanh những cô gái đang quỳ dưới chân tôi. Một cô gần tôi nhất nói: “Thưa nhất phẩm phu nhân! Phu nhân còn cần gì nữa không ạ?” Thì ra điều tôi mong muốn đã thành hiện thực. Thế là từ bây giờ tôi có thể chơi bời thoải mái rồi! Tôi đứng trên thềm cao, sai phái gia nhân việc này việc nọ. Tôi thấy mình thật cao quý. Bỗng tôi nhìn thấy chồng tôi, cái vẻ mặt nhếch nhác, quần áo tồi tàn đen phát ghét. Tôi đuổi ông ta xuống chăm sóc cho ngựa. Vui vẻ được mấy hôm, rồi tôi lại nghĩ: “Dù làm nhất phẩm phu nhân đi nữa thì vẫn phải cúi mình trước những ông hoàng bà chúa! Mình phải làm nữ hoàng cho cả thiên hạ quỳ xuống dưới chân!”. Thế là tôi cho gọi ông chồng đến và bắt ông ta phải đi xin con cá vàng cho tôi làm nữ hoàng. Ông lão giãy lên nói: – Thôi tôi xin mụ. Mụ ăn chẳng biết đường ăn nói chẳng biết đường nói mà đòi làm nữ hoàng ư? – Mày dám cãi một bà nhất phẩm phu nhân à? Có đi không hay là ta sai người lôi đi? Nhìn ông lão lủi thủi đi, tôi hả hê lắm. Thế là chỉ trong giây phút tôi đã trở thành nữ hoàng, điều mà tôi nằm mơ cũng không được. Đầu đội vương miện, tôi uể oải nhấm nháp những món ăn của phương xa mà thị nữ dâng lên. Ông lão đã trở về, nhìn tôi cười: – Tâu nữ hoàng, bây giờ nữ hoàng đã vừa lòng rồi chứ ạ? Tôi không thèm trả lời, ra lệnh đuổi lão đi. Nhưng chỉ vài hôm, tôi chán làm nữ hoàng, liền sai người đi tìm ông chồng, bắt ông ta đòi con cá vàng cho tôi làm vua của biển cả. Ông ấy không dám nói một lời, lủi thủi đi. Tôi mơ màng nghĩ đến cảnh mình làm Long Vương ngự trên mặt biển, con cá vàng hầu hạ bên người tôi và làm theo mọi ý muốn của tôi. Chợt đầu óc tôi quay cuồng, lâu đài biến mất, kẻ hầu người hạ, vàng bạc cũng tan, tất cả trở về như cũ, tôi là một bà lão nghèo nàn, mặc cái váy vá ngồi trước cái máng..lợn sứt mẻ trước túp lều lụp xụp. Dù bây giờ, ông chồng tôi đã tha thứ cho tôi nhưng không bao giờ tôi lại tha thứ cho mình. Đây chính là một bài- học thật xứng đáng đối với tôi. Mong rằng đừng ai phạm sai lầm như tôi. Xin chào tạm biệt các bạn.
As the wife, tell the story of the old fisherman and the goldfish Suggest Whenever I think back to that time, I feel so much regret. If only I hadn't been so greedy at that time, didn't have crazy delusions and now I'm back to nothing, losing my husband's trust, how nice it would be! And surely now you all know who I am, I am the hateful wife in the story The Old Fisherman and the Goldfish. At that time, the couple lived very peacefully. I stay at home sewing nets and doing housework, and I also raise a fat pig. My old man goes fishing, some days he does, some days he doesn't. Although my husband and I are old and live in poverty in a shabby hut on the beach, our lives are still peaceful. Until one day… I was struggling in front of the pig trough that had just had a big chip on it when the old man came back from fishing. He happily told me about the talking goldfish, which promised to meet all requests but the old man didn't need anything. At first, I didn't believe him, thinking he was joking, but seeing that, I believed it was true. Anger flared up, and I had the thought: "If that goldfish was telling the truth, why would he be so stupid as to not ask for anything?" I quickly told my husband: – You are so stupid! He looked at our house, even the pig feeding trough was in tatters. Go to the sea and ask the goldfish for a new pig trough! Then when the light disappeared... Oh God! Before my eyes, a brand new pig trough appeared without any dents. My husband ran back to the hut and was extremely excited to see the new trough. I looked around and asked myself: “If there is such a magical fish, why do I have to live in this shabby, tattered hut??’. I told my husband: - YES! There is a new pig trough now. But do you see we are living in a tattered tent? Go quickly to the sea and ask the fish for a new home. Hurry up! So my husband ran to the beach again. I watched my husband's fading shadow and waited. Sure enough, just a moment later, I was shocked to see that I was no longer sitting in a dark hut but in a spacious house with full amenities and light. I happily looked at the red-painted roof with its high chimney. I really never thought I would have such a beautiful house. But the joy didn't last. Just a few days later I was irritated by the thought: "So when I have a new house, do I still have to do the housework?" Are not! That's not possible! I want to have servants and servants." So I stiffened my face and said seriously to the old man: – Why did I marry you? He's just a stupid man. I don't want to be a humble farmer anymore, I want to become a first-class lady. Go quickly to the sea and ask for a fish. Hurry up! My husband exclaimed: – Are you crazy? You already have a new house, but you still want to be a first-class wife? At first, he raised his voice like that, but I only threatened him for a while and he had to leave. For a moment, I was stunned to find myself in a magnificent building. On my body, a soft, sparkling dress, looking around at the girls kneeling at my feet. One of the girls closest to me said: “First class lady! Is there anything else you need, ma'am?" It turns out what I wanted came true. So from now on I can play freely! I stood on the high step, ordering servants to do this and that. I feel so noble. Suddenly I saw my husband, his face disheveled, his clothes black and disgusting. I sent him down to take care of the horse. I was happy for a few days, then I thought: "Even if I become a first-class lady, I still have to bow down to princes and princesses!" I must be the queen for the whole world to kneel at my feet! So I called my husband and forced him to ask for a goldfish to let me be his queen. The old man raised his voice and said: – Please, I beg you. She doesn't know how to eat or speak and doesn't know how to speak, yet she wants to be queen? – Do you dare to argue with a first class lady? Are you going or should I send someone to drag you away? Looking at the old man walking away, I was very happy. So in just a moment I became a queen, something I couldn't even dream of. Wearing a crown, I lazily sipped the dishes from far away that the maid offered me. The old man returned, looked at me and smiled: – Your Majesty, are you satisfied now? I didn't bother to answer and ordered him to go away. But within a few days, I was tired of being queen, so I sent someone to find my husband and make him ask for the goldfish so that I could become king of the sea. He didn't dare say a word and just walked away. I dreamily thought of myself as the Dragon King sitting on the sea, the goldfish serving me and following my every wish. Suddenly my mind was spinning, the castle disappeared, the servants, the gold and silver melted away, everything returned to the way it was, I was a poor old woman, wearing a patched dress sitting in front of a mangled pig trough. in front of the shanty hut. Even though my husband has forgiven me now, I will never forgive myself. This is a truly worthy lesson for me. Hopefully no one makes the same mistake as me. Hello everyone.
Trong vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa Hướng dẫn Trong vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa Bài làm ” Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương Da dẻ dù khô đi tấm lòng không hẹp lại. Giàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãi Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm” Đó là những vần thơ của tôi – Người cháu dành cho bà nội nội kính yêu của mình giờ đây đang du học ở ucraina xa xôi tôi vẫn không thể nguôi quên bếp lửa ấm áp tình bà. Là người Việt Nam không ai không biết đến bếp lửa được nhen lên bằng những nhiên liệu bình thường củi, rơm, rạ,… Bếp lửa tỏa sáng chờn vờn bốc cao bập bùng mỗi sớm mai gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tảo tần giàu tình yêu thương giàu đức hi sinh. Bà tôi cũng vậy bà khéo léo chi chút kiên nhẫn nhóm lửa gửi vào đó bao tình yêu thương cháu con. Nhớ về bếp lửa tôi lại bồi hồi nhớ bà thương bà trải bao mưa nắng của bà. Bếp lửa không chỉ gợi nhắc tình bà mà còn gợi bao kỉ niệm tuổi thơ đó là kỉ niệm nạn đói 1945 ám ảnh day dứt cái đói hoành hành khủng khiếp gia đình tôi cũng như bao gia đình Việt Nam khác long đong mỏi mệt vì miếng ăn. Bố đi đánh xe ngựa gầy gò khô rạc mà cái đói vẫn bám riếc không tha nếu không có bếp lửa ấm áp của bà có lẽ tôi không qua được nạn đói thật khủng khiếp biết bao giờ đây nghĩ lại sống mũi vẫn cay khé quá khứ như đồng hiện ở hiện tại xóa nhòa hoàn cảnh mấy chục năm. Kỉ niệm thứ ba cũng có sức ám ảnh lớn trong tâm hồn tôi là nạn giặc càn tàn phá xóm làng ngọn lửa hung tàn bốc lên ngùn ngụt thiêu rụi nhà cửa tài sản trong mất mát đau thương bà cùng tôi và xóm làng lầm lụi trở về. Tôi cũng sớm trưởng thành lớn khôn biết đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh cảm động nhất là lời dặn của bà: ” Mày có viết thư cho bố kể này kể nọ cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố yên tâm công tác”. Bà tôi là thế đấy bà không chỉ lam lũ tảo tần giàu tình yêu thương mà còn giàu đức hi sinh bà gánh vác mọi lo toan gian khó về mình để con yên tâm công tác. Phải chăng bà tôi là hậu phương vững chắc giúp cho tiền tuyến đánh giặc. Đẩy nhanh cuộc kháng chiến đến ngày thắng lợi. Bà xứng đáng với tám chữ vàng bác Hồ trao tặng ” Anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang” Bà vừa mang nét đẹp truyền thống vừa mang nét đẹp hiện đại của người phụ nữ thời kì mới. Giờ đây tôi đã lớn khôn trưởng thành đến với những chân trời rộng mở nơi đây có bếp điện, bếp gas… Có ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả nhưng trong tiềm thức câu hỏi luôn hiện hữu trong tôi sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa. Có lẽ bếp lửa – Tình bà sẽ luôn tỏa sáng nâng đỡ nhiều con người xa xứ như tôi suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phả chăng yêu bếp lửa yêu bà là tình cảm cội nguồn tình gia đình và rộng ra là tình yêu quê hương đất nước?
Playing the role of the nephew, retelling the story of the Fire Stove Instruct Playing the role of the nephew, retelling the story of the Fire Stove Assignment ” The older the eyes become, the more deeply they are filled with love Even though the skin is dry, the heart is not narrower. Rich in patience, she still hopes forever Just every day the snake says less and less.” Those are my poems - A grandchild dedicated to his beloved grandmother, who is now studying abroad in far away Ukraine. I still cannot forget the warm fire of her love. As a Vietnamese, no one knows that the fire is lit with ordinary fuels such as wood, straw, straw, etc. The fire that glows and flickers high every morning is associated with the image of Vietnamese women. Alga frequency is rich in love, rich in sacrifice. My grandmother was the same, she cleverly used a little patience to light the fire and sent in a lot of love for her children and grandchildren. Thinking about the fire makes me miss my grandmother who loved her through all her rain and sunshine. The stove not only reminds of grandmother's love but also evokes many childhood memories, the memory of the 1945 famine, the haunting and tormenting hunger that was so terrible that my family as well as many other Vietnamese families were long and tired of eating food. eat. My father drove a horse and cart, he was skinny and dry, but the hunger still lingered. If it weren't for my grandmother's warm fire, I probably wouldn't have been able to survive the famine. How terrible it is. Thinking back on my nose, I still feel a sting in the past. It's like appearing in the present, erasing the situation of decades. The third memory that also has a great haunting power in my soul is the enemy ravaging the village, the ferocious fire rising up, burning down houses and property in the painful loss of my grandmother and I and the village. about. I soon grew up and learned how to help her rebuild the thatched hut. The most touching thing was her advice: "If you write to dad about this or that, just tell him that the house is still peaceful so that dad can feel secure in his work." . My grandmother is like that. She not only works hard, is rich in love, but is also rich in the virtue of sacrifice. She takes on all the worries and hardships for herself so that her children can work with peace of mind. Is it true that my grandmother is a strong rear base helping the front line fight the enemy? Accelerate the resistance war to the day of victory. She is worthy of the eight golden words awarded by Uncle Ho "Indomitable, loyal and courageous hero". She has both traditional beauty and the modern beauty of a woman of the new era. Now I have grown up and come to the open horizons where there are electric stoves, gas stoves... There are the smoke of a hundred ships, the fire of a hundred houses, the joy of a hundred directions, but in my subconscious the question always exists in my mind. Will you light the fire tomorrow? Perhaps the stove - Grandmother's love will always shine and support many expatriate people like me throughout the long journey of life. Is it true that loving the stove and loving grandmother is the origin of love for family and, by extension, love for the homeland? Country flavor?
Trong vai Sứ giả hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng Gợi ý Trong cuộc đời có những chuyện thật kì lạ. Ta may mắn được chứng kiến câu chuyện về Phù Đổng Thiên Vương. Hôm nay ta sẽ kể cho các cháu nghe chuyện ngày xưa chàng đã đánh đuổi giặc Ân như thế nào. Nghe tin giặc Ân sắp sang xâm lược, triều đình vô cùng lo lắng. Nhà vua cử ta đi khắp nơi kêu gọi người tài đánh đuổi quân thù. Khi ta đến kêu loa ở vùng làng Gióng thì có bà cụ ngập ngừng gọi ta vào nhà. Ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy trong nhà chỉ có chú bé chừng ba tuổi, trông rất khôi ngô. Chú bé cất giọng nói: – Ngươi về bẩm với nhà vua, rèn cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một chiếc nón bằng sắt, ta sẽ đánh tan quân giặc này. Ta choáng váng trước những lời nói ấy. Cậu bé này thì đánh sao nổi giặc? Nhưng thấy thái độ nghiêm túc của cậu bé, ta ngạc nhiên vô cùng. Chào hai mẹ con bà cụ ra về, ta lân la hỏi thăm hàng xóm bà con kể rằng, và được họ cho biết. Hai ông bà vốn nghèo khó, lại hiếm muộn đường con cái nhưng sống rất lương thiện, phúc hậu. Một hôm, bà lão ra thăm đồng, thấy một vết chân rất to ben ướm thử chân vào. Thế rồi có mang. Hai ông bà mừng lắm. Nhưng một năm sau, bà cụ mới sinh, lúc đó ông lão đã mất. Kì lạ thay, đứa bé đẹp đẽ đáng yêu nhưng không nói không cười, đặt đâu nằm đấy. Năm nay nó đã ba tuổi mà mọi sự vẫn không thay đổi. Giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước vô cùng nguy ngập. Ta tuân mệnh vua mang đến các thứ cậu bé yêu cầu. Ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy trước mắt mình không phải là một cậu bé mà là chàng thanh niên khỏe mạnh. Chàng vươn vai hóa thành tráng sĩ, mình cao hơn trượng. Tráng sĩ đội nón sắt, cầm gậy sắt, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt vươn cổ hí lén một tiếng, lửa phun rừng rực đốt cháy trụi cả một bụi tre đầu ngõ. – Lạy mẹ, con đi! Chàng nói rồi ra roi, Ngựa tung bờm phi thẳng đến chỗ quân giặc. Khắp nơi nhân dân nô nức cầm dao, gậy theo sau. Ngựa phi đến đâu, tre hai bên đường vàng sém đến đấy (sau này được gọi là tre đằng ngà), vết chân ngựa in xuống đất thành một dãy ao hồ (bây giờ vẫn còn ở làng Phù Đổng). Trông thấy ta từ xa, quân giặc vội quay đầu, vứt giáo tháo chạy. Nhưng chúng chạy đâu cho thoát? Ngựa phun lửa đốt chúng cháy trụi từng mảng, roi sắt vung lên một lần thì đã có cả chục thằng bị hất tung lên trời. Giặc tan, tráng sĩ một mình một ngựa lên núi. Lên đến đỉnh, chàng cởi áo giáp vắt trên ngọn cây cao, rồi cùng ngựa sắt từ từ cất mình bay vào không trung. Nhà vua về thăm làng Gióng, được dân làng kể: từ sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa may xong đã chật, bà con phải góp cơm gạo nuôi cậu. Giặc đến, cậu vươn vai hóa thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt, đánh tan giặc rồi về trời. Nhà vua phong chàng là Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ ngay tại quê nhà, hàng năm mở hội rất to. Năm nào ta cũng đến hội để tỏ lòng ngưỡng mộ chàng, người anh hùng của nhân dân.
As the Messenger, tell the story of Saint Giong Suggest In life there are strange things. We were fortunate to witness the story of Phu Dong Thien Vuong. Today I will tell you the story of how he fought off the An enemy in the past. Hearing that the An enemy was about to invade, the court was extremely worried. The king sent me everywhere to call for talented people to expel the enemy. When I went to call the loudspeaker in Giong village, an old lady hesitantly called me into her house. I was extremely surprised to see that there was only a little boy about three years old in the house, looking very handsome. The boy raised his voice and said: - You go back and report to the king, forge me an iron horse, an iron whip and an iron hat, I will defeat this enemy army. I was stunned by those words. How can this boy fight against the enemy? But seeing the boy's serious attitude, I was extremely surprised. Saying goodbye to the old mother and her child as they left, I asked the neighbors what they had to say, and they told me. The couple was poor and had no children, but they lived a very honest and kind life. One day, the old woman went to visit the field, saw a very large footprint and tried to put her foot in it. Then there was pregnancy. The two of them were very happy. But a year later, the old woman gave birth, and at that time the old man passed away. Strangely enough, the baby was beautiful and adorable, but he didn't speak or smile, just lying there. This year he is three years old and everything still hasn't changed. The enemy has reached the foot of Trau Mountain, the country is extremely dangerous. I obeyed the king's orders and brought everything the boy requested. I was extremely surprised to see that before my eyes was not a boy but a healthy young man. He stretched his arms and turned into a warrior, taller than a staff. The soldier put on an iron helmet, held an iron stick, and jumped on the horse's back. The iron horse stretched its neck and neighed secretly, and the fire erupted, burning down a bamboo bush at the end of the alley. – Mom, I'm leaving! He spoke and then used the whip. The horse unleashed its mane and galloped straight towards the enemy. Everywhere people eagerly followed with knives and sticks. Wherever the horse galloped, the bamboo on both sides of the road scorched yellow (later called ivory bamboo), the horse's footprints were printed on the ground to form a series of ponds and lakes (still in Phu Dong village today). Seeing us from afar, the enemy soldiers quickly turned around, dropped their spears and fled. But where do they run to escape? The horse breathed fire and burned them to pieces. When the iron whip was swung once, dozens of them were thrown into the sky. When the enemy was defeated, the soldier went up the mountain alone and on his horse. Reaching the top, he took off his armor and hung it on the top of a tall tree, then slowly took off with his iron horse and flew into the air. The king visited Giong village and was told by the villagers: since meeting the messenger, the boy grew up as fast as he could. No matter how much food he ate, he was not satisfied. The clothes he had just sewn were already tight, so his relatives had to contribute rice to feed him. When the enemy came, he stretched his arms and transformed into a majestic soldier, defeated the enemy and returned to heaven. The king named him Phu Dong Thien Vuong, established a temple in his hometown, and held a huge festival every year. Every year we come to the festival to pay our respects to him, the people's hero.
Đề bài: Trong vai Thánh Gióng, hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng Bài làm Các cháu có biết ta là ai không? Ta chính là Thánh Gióng, người năm xưa đã một mình đánh thắng lũ giặc Ân hung ác. Bây giờ ta sẽ kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ nhé! Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quân xâm lược đang nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Muốn được sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lão nông hiếm muộn đường con cái. Một ngày đẹp trời ta thấy bà lão phúc hậu vào rừng, ta liền hoá thành một vết chân to và bà lão đã tò mò ướm thử vậy là ta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đã vô cùng mừng rỡ khi chờ mãi, sau mười hai tháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sóc yêu thương ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn như những đứa trẻ khác ấy vậy mà mãi đến tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cười, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rất thương nhưng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đã trao cho nên ta vẫn phải im lặng. Thế rồi giặc Ân đến xâm lược nước ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ. Nhìn khuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đã đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Một hôm, đang nằm trên giường nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm người giỏi cứu nước, thấy mẹ đang ngồi buồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ: – Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện. Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòi gặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ: – Mẹ đừng lo lắng gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây! Nửa tin nửa ngờ nhưng mẹ ta vẫn vội vã ra mới sứ giả vào. Sứ giả bước vào căn nhà nhỏ tuềnh toàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ở trên giường, sứ giả có vẻ không tin tưởng lắm nhưng khi nghe ta nói: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Nghe những lời nói đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thường, sứ giả vội vã trở về tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ ta cần. Ai ai cũng phấn khởi khi thấy vua đã tìm được người tài. Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vươn vai mấy cái đã thành người lớn. Ta bảo mẹ nấu cho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bưng lên ta ăn một loáng đã hết nhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta ăn vào bao nhiêu thì lớn như thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn ba nhiêu cũng chưa no trong khi gạo thì đã hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vui lòng giúp mẹ ta vì biết ta là người sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi người đến nhà ta nườm nượp, người có gạo góp gạo, người có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi người còn đến giúp mẹ ta thổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai cũng khấp khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh chóng đi giết giặc, cứu nước. Một ngày, dân làng nhận được tin giặc đã kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại được một phen khiếp sợ, trẻ con kêu khóc, người lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọi người nhìn ta như cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta cần đến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vươn vai một cái đã biến thành một tráng sĩ cao lớn phi thường, thế nên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi người lại tức tốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử chiếc ấy và ta chỉ khẽ bẻ đã gẫy, mãi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng, ta liền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ hôm đó bà con ra tiễn ta rất đông mọi người nhìn ta đầy tin tưởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến thắng và ta còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt tự hào, yêu thương của cha mẹ ta. Từ biệt bà con xóm giềng, cha mẹ những người đã yêu thương, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để không phụ công của bà con dân làng, cha mẹ. Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửa rừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dưới roi sắt của ta và ngọn lửa của con chiến mã. Cả bãi chiến trường đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên như vũ bão thì cây roi sắt trong tay ta gẫy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vào lũ giặc. Lũ giặc lại được một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan tác khắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vã thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về nước. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rã. Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sướng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đã hoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhưng lời Ngọc Hoàng dặn dò khi hoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nước, dân làng một lần cuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người và ngựa lẳng lặng bay về trời. Ta ra đi nhưng trong lòng đầy tiếc nuối vì không được sống cùng những người dân hiền lành tốt bụng. Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc. Sau đó, vua đã phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương. Ta cảm thấy rất vui khi được nhận danh hiệu đó, bởi ta đã đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là điều quý giá nhất đối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánh thắng quân giặc.
Topic: As Saint Giong, retell the story of Saint Giong Assignment Do you guys know who I am? I am Thanh Giong, the person who single-handedly defeated the cruel An invaders in the past. Now I will tell you about my life at that time! Children! I was originally an envoy sent by the Jade Emperor to help the villagers expel the invaders who were threatening to invade our country. Wanting to live with the people, the Jade Emperor ordered me to reincarnate into a family of old farmers with no children. One fine day, I saw a kind old woman entering the forest. I immediately turned into a big footprint and the old woman was curious and tried it, so I reincarnated into the old woman. Needless to say, they were extremely happy after waiting for twelve months for me to be born. My grandparents were even happier when they saw that I was so handsome and handsome. My two grandparents took care of me and loved me with all their heart. Every day they wished me to grow up like other children, but until I was three years old I still couldn't smile, talk, or walk. The elders were very sad. Seeing this, I felt very sorry for them, but because of the mission that the Jade Emperor had given me, I still had to stay silent. Then the An invaders came to invade our country. They came in large numbers and were so strong that everyone was afraid. Looking at the worried faces of the villagers and parents, I knew it was time for me to help them. One day, while lying in bed, I heard a messenger passing by asking for someone good at saving the country. Seeing my mother sitting sad and worried, I immediately spoke to her: - Mommy! Mom, don't be sad anymore, please go and invite the messenger to come here so I can talk. Hearing me speak, my mother was extremely surprised and happy, and my mother was even more surprised when I asked to meet the messenger because it was not a joke. Reading my mother's worries, I quickly reassured her: – Mom, don't worry about anything, just come out and invite the messenger in here! Half believing, half doubting, my mother still hurried out before the messenger entered. The messenger entered my parents' small, shabby house. He was extremely surprised to see me still just a boy lying in bed. The messenger did not seem very confident, but when he heard me say: " Go back and tell the king to buy me an iron horse, an iron whip and an iron armor, I will destroy these enemies." Hearing my assertive words, the messenger understood that I was not an ordinary child. The messenger hurriedly returned to tell the king and the king was also happy to send good workers from everywhere to urgently make what I needed. . Everyone was excited to see that the king had found a talented person. As for me, when the messenger left, I immediately stood up and stretched a few times, becoming an adult. I asked my mother to cook a pot of rice for me to eat so I could prepare to go fight the enemy. As soon as the tray of rice was brought up, I ate it and it was all gone without feeling full. Mom went to cook another pot until the house had nothing left to eat. The more you eat, the bigger it gets, so much so that you have to change your clothes constantly. My mother saw that I was not full no matter how much I ate and the rice was all gone, so she immediately ran to ask the neighbors. Everyone was happy to help my mother because they knew I was the one who would fight the enemy and save the villagers. Everyone came to our house in droves, those with rice contributed rice, those with vegetables, tomatoes contributed vegetables, in short, everyone contributed whatever they had. Everyone also came to help my mother cook rice for me to eat. The more I ate, the bigger and bigger I became. In those days, everyone in our village was excited and happy because they expected us to quickly kill the enemy and save the country. One day, the villagers received news that the enemy had come to the foot of Trau Mountain. Our village was once again terrified, children cried, adults were worried, old people were pensive, everyone was scared. Everyone looked at me as if asking for help. I understood their mood very well and at that moment the messenger brought what I needed. At this moment, I stood up, stretched and transformed into an exceptionally tall and strong man, so all the things the messenger had just brought no longer fit me. Seeing that, everyone immediately went to find a craftsman to forge iron horses and iron armor for me. Whichever one they made, they let me try it and I only gently bent it and it broke. Only later did I have something that fit my strength. ta. Everything was prepared, I immediately put on iron armor, held an iron whip, jumped on the horse, majestically. I remember that day, many people came out to see me off, everyone looked at me with confidence, wishes for victory rang out everywhere, and I even saw tears of pride and love from my parents. Saying goodbye to the neighbors and parents who have loved and raised me, I silently promise to fight with all my heart so as not to disappoint the villagers and parents. After parting, we rushed straight into battle alone. Wherever the horse went, it spewed blazing fire, making the enemy extremely terrified. They collapsed and disintegrated under my iron whip and the fire of my war horse. The entire battlefield was full of enemy corpses. Just as the battle situation was raging, the iron whip in my hand broke, I immediately pulled up the bamboo clumps around me and threw them continuously at the enemy. The enemy was once again frightened, fell into chaos and soon fled everywhere. The lucky survivors quickly escaped and ran into the deep canyon, trying to find a way to return to the country. The village is clear of enemies. The joyful cheers of the villagers rang out loudly. Seeing hundreds of happy families makes me extremely happy, so the mission the Jade Emperor gave me has been completed. Suddenly I remember my elderly parents and I also want to visit but the Jade Emperor told me to return to heaven when the mission is completed. makes me dare not disobey orders. Looking at the country and the villagers one last time, I spurred my horse and galloped to the top of the mountain, took off my iron armor, and then both man and horse quietly flew back to the sky. I left but my heart was full of regret because I could not live with the gentle and kind people. Even so, I am satisfied because from now on everyone can live in peace and happiness. After that, the king appointed me Phu Dong Thien Vuong. I feel very happy to receive that title, because I have brought peace and happiness to everyone. That is the most precious thing to me, it is more precious than the jewels that the king promised to give me after defeating the enemy.
Trong vai Thủy Tinh hãy kể lại chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh Gợi ý Chào các bạn trẻ! Ta là Thuỷ Tinh, một người đã không biết bao nhiêu lần đánh nhau với Sơn Tinh để cướp Mỵ Nương, nhưng không hiểu lại sao lần nào ta cũng thua. Nguyên do cũng vì hôm ấy, ta nghe bọn thuỷ binh bàn tán xôn xao rằng: Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mỵ Nương, người dẹp như hoa, tính nết hiền dịu, ngài thương yêu con gái hết mực, muốn kén cho con một người chổng xứng đáng. Không đợi chờ gì nữa, ta liền đến xin cầu hôn nàng. Nào ngờ khi vừa đến thì gặp một người cùng chung mục đích. Anh ta mặc bộ áo giáp, bước đi rất mạnh mẽ. Cúi xuống lạy vua Hùng rồi anh la bắt đầu trổ tài: vẫy tay về phía đông; bỗng dưng phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Mọi người đồn rằng, anh ta tên là Sơn Tinh, là chúa tể của vùng non cao. Anh chàng giỏi giang đấy, nhưng so sao được với ta, chúa miền nước thẳm. Ta vuốt nhẹ bộ quần áo được tết bằng những chiếc vẩy cá to và cứng đang mặc rồi xin đựợc trổ tài. Ta vung tay, cất tiếng gọí oang oang. Bỗng đâu một luồng gió mạnh nổi lên, rồi mây đen ùn ùn kéo đến, mưa trút xuống ào ào. Nhìn xung quanh thấy nhà vua và triều thần, ai nấy đều khiếp sợ, ta vui lắm. Trổ lài xong, ta cũng lạy lạ vua Hùng. Ngài băn khoăn không biết chọn ai, từ chối ai, bèn phán: Chúng ta tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, ngài nghĩ ngợi một lúc rồi bảo: – Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ phải đủ một đôi. Thật tức, những thứ đó sẵn có ở chỗ Sơn Tinh, ta tìm kiếm thì khó khăn lắm. Nhưng một người tài giỏi như ta, không có gì là không làm được. Nào ngờ hôm sau, mới lờ mờ sáng, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến rước Mỵ Nương về núi. Ta đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo đánh Sơn Tinh. Vừa đuổi theo, ta vừa hét; “Sơn Tinh, trả Mỵ Nương cho ta!” Trận đánh giữa hai chúng ta diễn ra thật ác liệt. Ta hô mưa, gọi gió, làm thành giông bão rung chuyển cả đất trời. Nước ngập nhà cửa, ruộng đồng, tưởng như thành Phong Châu đang nổi lềnh bềnh trên biển nước. Ta đinh ninh chắc hẳn mình giành lại được Mỵ Nương nên rất đắc chí. Nhưng không, dù gió thét ào ào, mưa trút như thác, Sơn Tinh vẫn đứng vững vàng, nét mặt bình thản bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi ngăn chặn dòng nước lũ. Hắn và ta đánh nhau ròng rã mấy tháng trời. Cuối cùng, ta đuối sức, đành rút quân về.,
As Thuy Tinh, tell the story of Son Tinh and Thuy Tinh Suggest Hello young people! I am Thuy Tinh, a person who has fought with Son Tinh countless times to rob My Nuong, but somehow I lost every time. The reason is also because that day, I heard the sailors gossiping: The eighteenth King Hung had a daughter named My Nuong, who was as beautiful as a flower, with a gentle personality. He loved her very much. , wants to choose a worthy husband for her child. Without waiting any longer, I immediately came to propose to her. Who would have thought that when he arrived, he would meet someone with the same goal. He wore armor and walked very strongly. Bowing down to bow to King Hung, he then began to show off his talents: waving his hands to the east; Suddenly there was a storm in the east; waving to the west, mountains and hills rose to the west. People say that his name is Son Tinh, the lord of the highlands. He's a talented guy, but he can't compare to me, the lord of the deep water. I gently stroked the clothes I was wearing, plaited with large, hard fish scales, and asked to show off my skills. I waved my hand and called out loudly. Suddenly, a strong wind arose, then dark clouds gathered and rain poured down. Looking around and seeing the king and his court, everyone was terrified, I was very happy. After flowering jasmine, I also bowed to King Hung. He wondered who to choose and who to refuse, so he said: We asked what we needed to buy as a bride gift. He thought for a moment and then said: - One hundred rounds of sticky rice, one hundred rounds of banh chung, a nine-tusked elephant, a nine-spur chicken, and a nine-haired horse, each must have a pair. Unfortunately, those things are available at Son Tinh. It's very difficult to find them. But for a talented person like me, there's nothing he can't do. Who would have thought that the next day, at dawn, Son Tinh brought all the gifts to take My Nuong back to the mountain. I arrived later, couldn't get a wife, so I got angry and led my army to chase Son Tinh. While chasing, I shouted; “Son Tinh, give me back My Nuong!” The battle between the two of us was fierce. I call for rain, call for wind, creating a storm that shakes heaven and earth. Water flooded houses and fields, making it seem like Phong Chau city was floating on the sea. I was sure I could win back My Nuong, so I was very pleased. But no, even though the wind was howling and the rain was pouring down like a waterfall, Son Tinh still stood steadfast, his face calmly lifting each hill, moving each mountain range to block the flood water. He and I fought for months. Finally, we were exhausted and had to withdraw our troops.
Trong vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Hướng dẫn Trong vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Bài làm Gia đình! hai tiếng thiêng liêng ấy chất chứa bao cảm xúc. Đó là tổ ấm đầu đời của mỗi người là nơi ta tìm thấy hạnh phúc niềm vui trong cuộc sống cũng là nơi ta nằm xuống trước khi trở về với đất mẹ. Thế mà Trương Sinh tôi đã không biết chân trọng gia đình tự tay hủy hoại nó khiến vợ tôi – Vũ Nương phải tìm đến cái chết. Ôi sự thật đắng cay vấp ngã không thể nào sửa chữa được.! Tôi vốn là con nhà khá giả trong làng còn Vũ Nương là con nhà nghèo khó. Nàng nổi tiếng vừa xinh đẹp vừa thùy mị nết na tôi liền xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ nàng rất mực khéo léo giữ gìn tổ ấm nên vợ chồng không từng xảy ra chuyện thất hòa. Chao ôi hạnh phúc mới ngọt ngào làm sao! Nhưng hạnh phúc chưa trọn vẹn thì binh biến nổ ra giặc chiếm xâm lấn bờ cõi nước ta. Do ít học nên tôi bị bắt đi lính vào loại đầu khiến tôi phải xa mẹ già, vợ trẻ bụng đang mang thai. Chiến tranh thật tàn khốc! Buổi tiễn đưa mẹ tôi ân cần dặn dò bản thân tôi phải biết giữ mình làm trọng thấy khó nên lui lường sức mà tiến…Lòng mẹ khiến tôi cảm động ngậm ngùi xót xa. Vũ Nương cũng rót chén rượu đầy đằm thắm ân tình: Nàng thấy trước những khó khăn nơi biên ải những hiểm nguy tôi phải đối mặt bày tỏ nỗi nhớ nhung yêu thương gắn bó. Nàng cũng chỉ mong tôi bình yên trở về những lời nói chân thành của nàng khiến ai chứng kiến cũng ứa hai hàng lệ. Thời gian thấm thoắt thoi đưa ba năm cách biệt ở nơi chiến trường tôi đã nếm trải đủ mùi gian khổ hi sinh chết chóc. Song may thay bao mũi tên hòn đạn tôi đều tránh được. Cuối cùng giặc chiêm cũng chịu đầu hàng. Được trở về chốn cũ nhà xưa lòng tôi mừng mừng tủi tủi.Ở nhà Vũ Nương đến cứ đã sinh con trai – bé Đản. Nhưng vui buồn lẫn lộn được tin mẹ mất tôi đau khổ vô cùng chẳng thể làm tròn bổn phận người con. Hàng xóm kẻ rằng mẹ vì nhớ tôi mà ốm mất, Vũ Nương đã hết sức thuốc thang tận tình chăm sóc lễ bái thần phật lo ma, chay chu tất. Ôi người vợ đảm đang hiếu thảo đã thay tôi làm tròn bổn phận khiến tôi hết sức cảm phục! Ngậm ngùi buồn tủi tôi bế con ra thăm mộ mẹ nhưng bé Đản cứ quấy khóc không nhận tôi là cha tôi dỗ dành thì bé nói: ” Ô hay!… thin thít” Trời đất như quay cuồng sập đổ dưới chân tôi. Trời ơi! Vợ tôi lại hư hỏng đến thế sao? Bé Đản kể đêm nào người đàn ông ấy cũng đến mẹ Đản đi cũng đi mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. À! Thì ra đôi gian phu dâm phụ hành động rất lén lút quấn quýt bên nhau nhưng lại không muốn sự có mặt của con tôi suốt thời gian tôi đi vắng vợ tôi đã phản bội tôi, không thể ghìm nổi sự giận dữ vừa về đến nhà tôi đã la um lên cho hả giận, vợ tôi phân trần cách biệt ba năm giữ gìn một tiết không hề biết đến ngõ liễu tường hoa nhưng chẳng lời nào có thể lọt tai tôi. Sự giận dữ, lừa ghen càng lúc càng bùng phát tôi đã mắc nhiếc không tiếc lời và đánh đuổi nàng ra khỏi nhà mặc cho hàng xóm bênh vực can ngăn. Từ ngày nàng mất cảnh nhà hiu quạnh, một đêm ngồi buồn bế con bên ngọn đèn, bỗng bé Đản bảo tôi ” Cha Đản lại đến kia kìa” và chỉ vào bóng trên vách. Trời ơi! Sự thật như thế này sao? Người đàn ông vẫn đến mỗi đêm với vợ tôi là cái bóng này ư thật cay đắng xót xa! Thì ra nàng đã dỗ con bằng cách chỏ bóng mà bảo là cha Đản tôi đã quá hồ đồ, đa nghi, hay ghen đẩy vợ vào chỗ chết, giá như tôi bình tĩnh suy xét noi cho nàng biết chuyện kia do ai nói ra thì nàng đã có cơ hội thanh minh. Tôi biết làm sao bây giờ? Tất cả chót đã qua rồi giờ chỉ còn lại sự ân hận muộn màng. Câu chuyện đau lòng của tôi là thế đấy cả giận mất khôn – Câu nói của người xưa sao mà chí lí. Kể lại câu chuyện này tôi mong người đời hãy cảnh tỉnh, hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin tưởng tôn trọng lẫn nhau. Ghen bóng ghen gió sẽ bóp nghẹt hạnh phúc gia đình dẫn đến đổ vỡ. Thật buồn thay!
In the role of Truong Sinh, he narrates the story of a girl from Nam Xuong Instruct In the role of Truong Sinh, he narrates the story of a girl from Nam Xuong Assignment Family! Those two sacred words contain so many emotions. It is the first home of each person's life, the place where we find happiness and joy in life, and the place where we lie down before returning to the motherland. However, I, Truong Sinh, did not know how to truly value my family and personally destroyed it, causing my wife - Vu Nuong to seek death. Oh, the bitter truth of stumbling and falling cannot be repaired! I was originally from a well-off family in the village and Vu Nuong was from a poor family. She was famous for being both beautiful and modest, so I immediately asked my mother to bring me a hundred taels of wedding gold to be my wife. She was very skillful in maintaining the home so there was never any disagreement between husband and wife. Oh how sweet happiness is! But happiness was not yet complete when a mutiny broke out and the invaders invaded our country's borders. Due to my lack of education, I was forced to join the army, forcing me to be away from my old mother and young, pregnant wife. War is cruel! At the send-off, my mother kindly advised me to take care of myself and found it difficult, so I retreated to measure my strength and advanced... My mother's heart touched me with sadness and sadness. Vu Nuong also poured a cup of wine full of love and affection: She foresaw the difficulties on the border and the dangers I had to face, expressing her longing, love, and attachment. She also just wanted me to return safely. Her sincere words made everyone who witnessed them shed tears. Time flies, three years apart on the battlefield, I have experienced all the hardships, sacrifices and deaths. But fortunately, I was able to avoid all the arrows and bullets. Finally, the enemy surrendered. Being able to return to my old home made me feel happy and sad. At home, Vu Nuong gave birth to a son - baby Dan. But when I heard the news of my mother's death, I was extremely miserable and unable to fulfill my duties as a child. Neighbors said that my mother was sick because she missed me. Vu Nuong tried her best to take care of her, worship the gods, pray for ghosts, and take care of everything. Oh my dutiful wife who has fulfilled her duty for me, making me deeply admire! Feeling sad, I carried my child to visit his mother's grave, but little Dan kept crying and refused to acknowledge me as my father to comfort him. He said: "Oh good!... so thin" Heaven and earth seemed to be spinning and collapsing under my feet. Oh my God! Why is my wife so spoiled? Little Dan said that every night that man came to Dan's mother and went, Dan's mother also sat but never carried Dan. Ah! It turned out that the couple acted very secretly and loved each other, but they did not want my child to be present during the time I was away. My wife had betrayed me. She could not contain her anger as soon as she got home. I shouted out loud to vent my anger, my wife explained the three-year gap between keeping a secret and not knowing about Willow Wall Flower Lane, but nothing could reach my ears. Anger and jealousy flared up more and more, so I scolded her mercilessly and chased her out of the house despite the neighbors defending her and stopping her. Since the day she left the lonely house, one night she sat sadly holding her child by the lamp, when suddenly little Dan told me, "Father Dan is coming again" and pointed to the shadow on the wall. Oh my God! Is this the truth? The man who still comes every night to my wife is this shadow, so bitter and painful! It turned out that she had coaxed her son by hinting that my father Dan was too confused, suspicious, or jealous and pushed his wife to death. If only I had calmly considered and told her who said that story. She had a chance to explain herself. What should I do now? It's all over now, only late regret remains. My heartbreaking story is like that, I lost my wits in anger - How true is the saying of the ancients. Retelling this story, I hope people will be alert, happiness is only built on the basis of trust and mutual respect. Jealousy and jealousy will suffocate family happiness and lead to breakdown. How sad!
Đề bài: Trong vai Xiu kể lại chuyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của Ô hen ri Bài làm Là một họa sĩ tôi – Xiu thường đi rất nhiều nơi để tìm cảm hứng sáng tác đang phác họa bức tranh bỗng một chiếc lá rơi vèo đậu trên giá vẽ khiến tôi bồi hồi xúc động nhớ lại chuyện Chiếc lá cuối cùng xảy ra cách đây mấy năm về trước. Ngày ấy tôi còn rất trẻ cùng người bạn Giôn xi…Tôi cùng cụ Bơ-men sang buồng bên sợ sệt nhìn cây thường xuân chẳng nói thành lời nhưng trong tâm trí tôi rối bời bao cảm xúc. Chiếc lá cuối cùng đêm nay sẽ dụng thooii. Giôn xi sẽ ra đi ư? Tôi sẽ mất đi một người bạn, một người em tri kỉ, đau lòng quá! Tôi phải làm gì đây để giành giật em từ tay thần chết? Nhuốt nước mắt vào trong tôi chỉ biết chăm sóc động viên an ủi Giôn xi để em nghĩ lại. Khi tôi vừa chợp mắt được một tiếng đồng hồ choàng tỉnh dậy đã thấy Giôn xi thức giấc tự bao giờ, em thẫn thờ nhìn về phía cửa sổ thều thào ra lệnh bắt tôi phải kéo mành lên khuôn mặt em hốc hác nước da xanh như tàu lá chẳng còn sức sống. Tôi nói gì dường như em cũng chẳng nghe thấy chẳng để ý đến tôi nữa. Miễn cưỡng tôi đành chậm chạp lê bước về phía cửa sổ vừa kéo mành vừa cầu chúa trời phù hộ ” Hãy thương xót cứu giúp chúng con đừng để chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Đừng khiến con mất Giôn xi”. Ô kìa! Lạ chưa chiếc lá cuối cùng vẫn còn đã phải chăng lời cầu khuẩn của tôi đã thấu chúa trời. Thật là tuyệt! Chiếc lá dũng cảm treo bám vào cành chống chọi với thời tiết khắc nghiệt. Tôi quay lại nhìn Giôn xi em cũng đang trân trân nhìn chiếc lá có lẽ trong lòng em đang có nhiều chuyển biến về nhận thức tình cảm. Khuôn mặt Giôn Xi giần tươi tỉnh lại, em nói với tôi,…Tôi sung sướng quá ôm choàng lấy em hạnh phúc thật bất ngờ. Khi bác sĩ đến khám bệnh cho Giôn xi Tôi kiếm cỡ lẻn ra ngoài đôi bàn tay run lên vì sợ hãi, phải nghe những tin không lành khi bác sĩ cầm lấy tay tôi. Nhưng không ngờ tin đến thật vui, những kì vọng… Nhưng tôi choáng váng nghe tin cụ Bơ-men chết vì sưng phổi. Tôi ôm lấy Giôn xi và kể cho em bí mật về chiếc lá…Hai chị em tôi khóc nức lên, hằng ngày cụ sống âm thầm là thế mà ai biết được ẩn chứa bên trong lại là một trái tim lồng nàn yêu thương, 40 năm mơ uốc về kiệt tác mà cụ chưa thực hiện được giờ đây cụ có biết mình đã hoàn thành kiệt tác không . Giờ đây cụ Bơ men đã yên nghỉ ở một thế giới khác cả tôi và Giôn xi đã trưởng thành trong nghề để xứng đáng với sự hi sinh của cụ Bơ men. Chúng tôi quyết định đi nhiều nơi đem nghệ thuật chân chính phục vụ cuộc sống con người. Cảm ơn cụ! Cảm ơn tấm lòng vĩ đại, đức hi sinh cao cả của cụ! Đã cho chúng tôi bài học nhân văn sâu sắc.
Topic: In the role of Xiu, he narrates the short story "The Last Leaf" by O Hen Ri Assignment As an artist, I - Xiu often travel to many places to find creative inspiration. While sketching a painting, suddenly a leaf fell and landed on the easel, making me emotionally recall the story of The Last Leaf that happened a while ago. a few years ago. At that time, I was very young with my friend Jonah... I and Mr. Bemen went to the next room and looked at the ivy tree in fear without saying a word, but in my mind I was confused with many emotions. The last leaf will be used tonight. Will Jonah leave? I will lose a friend, a soulmate, it's so heartbreaking! What must I do to snatch you from the hands of death? Holding back my tears, I could only care for and comfort Jonah so he could think again. When I had just fallen asleep for an hour, I woke up and saw Jonah waking up. He absent-mindedly looked towards the window and whispered orders for me to close the blinds on his haggard face with pale skin. The leaves no longer have any vitality. Whatever I said, it seemed like she didn't hear me and didn't pay attention to me anymore. Reluctantly, I slowly trudged towards the window, pulled the blinds and prayed to God to help us: "Please have mercy and help us so that the last leaf does not fall. Don't make me lose Jonah." Oh look! It's strange that the last leaf is still there, maybe my prayers have reached God. It's great! The brave leaf hangs on the branch to withstand the harsh weather. I turned back to look at Joni, who was also staring at the leaf. Perhaps there were many changes in her emotional perception in her heart. Jon Xi's face brightened up, she told me,...I was so happy that I hugged her, it was such a surprising happiness. When the doctor came to examine Jonah, I tried to sneak out with my hands shaking from fear, having to hear bad news when the doctor held my hand. But I didn't expect the news to be so happy, the expectations... But I was stunned to hear that Mr. Bemen died of pneumonia. I hugged John Xi and told him the secret about the leaf... My two sisters cried, every day he lived silently like that but who knew that hidden inside was a heart full of love, 40 Years of dreaming about a masterpiece that you have not been able to accomplish, do you now know that you have completed the masterpiece? Now, Mr. Bo Men has rested in peace in another world, and Jon Xi and I have grown up in our profession to be worthy of Mr. Bo Men's sacrifice. We decided to go to many places to bring true art to serve people's lives. Thank you! Thank you for your great heart and noble sacrifice! Gave us profound humanistic lessons.
Trong vai Âu Cơ hãy kể lại truyện Con Rồng, cháu Tiên Gợi ý Ngày xửa ngày xưa… Cái “ngày xửa ngày xưa” ấy, cách nay khoảng bốn nghìn năm có lẻ. Thuở ấy Trái Đất còn hoang sơ lắm. Trên bờ muông thú chạy tung tăng, chim chóc líu lo ca hát. Dưới nước cá từng đàn bơi lội nhởn nhơ. Ta tên là Âu Cơ, con gái út Thần Nông – vị thần được giao đảm nhiệm công việc trồng cấy trên thiên đình và coi sóc việc nhà nông dưới trần gian. Được cha mẹ cưng chiều, ta thường cùng các chị em tiên nữ xuống trần gian du ngoạn ngắm cảnh đó đây. Một lần, đang tung tăng bên bờ suối mát, ta bất chợt trông thấy một trang tuấn kiệt. Trông chàng thật khôi ngô, tuấn tú với chiếc vòng ngọc trai lấp loá, răng trắng như ngà voi, thân hình dẻo dai như cá mập đang bơi lội. Giọng chàng âm vang như tiếng chuông, đôi mắt thăm thẳm như sóng nước biển khơi. Khỏi cần nói là đã bối rối như thế nào. Ta định trốn vào sau lưng mấy cô bạn nhưng chàng đã trông thấy, liền tiến đến bắt chuyện. Tên chàng là Lạc Long Quân, con trai Thần Long Nữ, chủ nhân của biển khơi. Hôm sau chàng lại đến, không quên mang theo rất nhiều trai ngọc để làm quà. Mấy nàng tiên thoáng cái đã biến đâu mất, để ta ở lại một mình. Muốn chạy trốn mà sao chân bước không nổi… Chẳng bao lâu ta có mang. Chàng mừng lắm. Chẳng ngờ khi sinh ra lại chỉ thấy một cái bọc, trong bọc có trăm trứng. Một hôm, chúng ta ra ngoài, khi về gần đến nhà bỗng nghe tiếng trẻ nô đùa, cười nói ầm ĩ. Đến nơi thì chao ôi cả một đàn đúng một trăm đứa trẻ đang chạy nhảy và cười đùa. Bọc trăm trứng của ta đã nở thành trăm con. Có một đứa đã vui, bây giờ niềm vui được nhân lên đúng một trăm lần. Những đứa trẻ lớn nhanh vùn vụt. Thoáng cái, chúng đã thành những chàng trai dũng mãnh. Cuộc sống tưởng như hạnh phúc trọn vẹn của ta bắt đầu có nỗi buồn, đó là chồng ta nhớ biển đến bần thần, rồi chàng về lại thủy cung; để ta ở lại với bầy con, ngày đên trông ngóng. Ta nhắn chàng đến hỏi: – Tại sao chàng không ở lại cùng thiếp nuôi dạy các con? Chàng nói hai chúng ta, kẻ giống Rồng, người dòng Tiên tập quán khác nhau, không thể chung sống lâu dài. Nay chàng đưa năm mươi con xuống biển, ta đưa năm mươi con lên rừng. Kẻ miền ngược, người miền xuôi nhưng khi có việc phải giúp đỡ nhau. Ta nghe cũng thấy phải. Cuộc chia tay đầy lưu luyến và bịn rịn. Ta nhìn theo cha con chàng đi tận phía xa, lòng tràn ngập yêu thương. Lại nói về những đứa em. Sau khi chia tay cha mẹ, chúng toả đi khắp nơi, lập thành các bộ tộc, dần dần nói những thứ tiếng khác nhau, phong tục, thói quen cũng khác. Dù không mấy khi gặp được nhau nhưng tất cả vẫn luôn nhớ đều là anh em một nhà. Mỗi khi quân giặc bên ngoài kéo đến xâm lược, chúng lại bảo nhau chung sức lại đánh đuổi kẻ thù. Bởi thế nên trên đất nước Việt Nam ngày nay có tới trên năm mươi dân tộc nhưng tất cả đều là anh em một nhà, đều là con cháu của ta.
As Au Co, retell the story of the Dragon and the Fairy Suggest Once upon a time… That "once upon a time", about four thousand years ago. At that time, the Earth was still very wild. On the shore, animals ran wild and birds chirped and sang. Under the water, fish swim in groups. My name is Au Co, the youngest daughter of Than Nong - the god assigned to take care of farming in heaven and take care of farming on earth. Being pampered by my parents, I often went down to earth with my fairies to visit sightseeing here and there. One day, while running around on the banks of a cool stream, I suddenly saw a handsome man. He looks so handsome and handsome with a sparkling pearl necklace, teeth as white as ivory, and a body as supple as a swimming shark. His voice resonated like a bell, his eyes were as deep as ocean waves. Needless to say, I was confused. I was about to hide behind my girlfriends, but he saw me and immediately came over to start a conversation. His name is Lac Long Quan, son of Than Long Nu, master of the sea. The next day he came again, not forgetting to bring a lot of pearls as gifts. The fairies suddenly disappeared, leaving me alone. I want to run away but I can't walk... Soon I got pregnant. He was very happy. I didn't expect that when I was born, I would only see one sac, with hundreds of eggs in it. One day, we went out, and when we got close to home, we suddenly heard the sounds of children playing, laughing and talking loudly. When we arrived, there was a herd of exactly one hundred children running and laughing. My bag of a hundred eggs has hatched into a hundred children. One child was happy, now the joy is multiplied a hundred times. Children grow up quickly. In an instant, they became brave boys. My life that seemed to be completely happy began to have sadness, that is, my husband missed the sea to the point of despair, then he returned to the aquarium; Let me stay with my children, waiting day and night. I sent him a message to ask: – Why don't you stay with me to raise the children? He said that the two of us, the Dragon-like and the Fairy-like, have different customs and cannot live together for a long time. Now you take fifty children to the sea, I will take fifty children to the forest. People from the uplands and people from the lowlands, but when things come up, we have to help each other. I heard it and it seems right. The farewell was full of nostalgia and regret. I watched his father and son walk into the distance, my heart filled with love. Let's talk about the younger siblings. After separating from their parents, they spread out everywhere, forming tribes, gradually speaking different languages, and with different customs and habits. Even though we don't see each other often, we all always remember that we are all brothers. Every time foreign enemies came to invade, they told each other to join forces to expel the enemy. That's why in Vietnam today there are over fifty ethnic groups, but they are all brothers and sisters, all our descendants.
Đề bài: Cảm nghĩ của em khi đọc truyện Con hổ có nghĩa Bài làm Truyện trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX là loại truyện văn xuôi chữ hán, có cách viết không giống với truyện hiện đại ngày nay. Truyện nhiều khi gần với kể, với sử và thường mang tính giáo huấn. Tuy vậy cũng có loại truyện hư câu, tưởng tượng nghệ thuật, các nhà văn mượn hình ảnh của loài vật để nói về con người, đạo đức nhân sinh… Truyện con hổ có nghĩa là một thí dụ điển hình. Ngay sau khi bà trần cứu được hổ cái qua cơn hoạn nạn mà tưởng chừng không thể vượt qua. Hổ cái được mẹ tròn con vuông, gia đình nhà hổ vô cùng hạnh phúc và sung sướng mừng rỡ đùa giỡn với con. Cảm động trước ơn cứu mạng của bà Trần, Hổ đực quỳ xuống bên cạnh một gốc cây, lấy tay đào lên một cục bạc, tặng ngay cho bà Trần giúp bà sống qua năm mất mùa đói kém. Hành động trả ơn của hổ đực để lại trong em bao ấn tượng sâu sắc. Việc trả ơn diễn ra tức thì, không đắn đo suy nghĩ, mà số bạc đâu có ít những “hơn mười lạng bạc”. Hình ảnh hổ đực được khắc họa sinh động, ấn tượng qua thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, nhờ đó chúng ta thấy rằng con hổ đực mang trong mình những hành động, suy nghĩ như một con người. Trong gia đình, nó hết lòng với vợ con lúc bụng mang dạ chửa, luôn biết quan tâm, chăm sóc yêu thương hổ cái lúc sắp sinh con…, hổ đực vui mừng, sung sướng đến tột độ khi được làm cha, lưu luyến cảm động nghẹn ngào khi chia tayân nhân cứu mạng vợ mình. Hổ đực nhận thức được rằng nó sẽ chẳng bao giờ thấy vợ và con trên cõi đời này nữa nếu như không có bà đỡ Trần. Nó hiểu rằng hạnh phúc hôm nay với gia đình nó là do bà đỡ Trần đem lại. Từ những suy nghĩ mang đậm chất nhân văn, chất Con người như vậy giúp hổ đực hành động thật cao đẹp và cảm động nhường nào – ân nghĩa vẹn tròn. Hành động trả ơn được diễn ra tự nhiên như một bản năng, một thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức. Nó như hiểu vô đạo lí ở đời rằng ơn ai một chút chẳng quên, chịu ơn cứu mạng thì phải Khắc cốt ghi xương. Trong đôi mắt hổ đực, bàn tay của bà Trần như đôi bàn tay tiên tri, nhẹ nhàng cứu vợ nó qua cơn vật lộn với tử thần. Và trong tâm khảm hổ đực ơn cứu mạng này phải ghi lòng tạc dạ và đền đáp ân sinh. Khi tiễn bà Trần – vị ân nhân đáng kính ra về, hổ vẫn cúi dầu vẫy đuôi, khi bà Trần đã rời xa nó vẫn Gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Tiếng gầm của hổ đực phải chăng cảm phục đến nghẹn ngào mà không cất được nên lời? Hay chính là lời chào tiễn biệt vị ân nhân, mà cả đời mang ơn cứu mạng. Trong đôi mắt hổ đực hình ảnh bà Trần như một vị tiên, và chính trong đôi mắt ấy hiện lên lòng biết ơn vô hạn với người đã cứu sống vợ con mình. Và để rồi hổ đực, hổ cái ngày ngày bên con và cũng ngày ngày nhớ đến bà Trần, dẫu rằng đã hậu tạ chút bạc. Nó hiểu rằng chút bạc ấy không thể so sánh, mua bán ơn cứu mạng. Cả gia đình nó, cha truyền cho con ghi nhớ đời đời. Cũng là lối sông có nhân nghĩa nhưng cách báo đáp ân nghĩa của hổ trán trắng lại khác. Nó được cứu sống sau lần hóc xương. Và nó cũng hiểu rằng, nó sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy thiên nhiên cuộc sống, chốn rừng thiêng kia nếu như không có bác tiều. Vị ân nhân ấy như một vị thánh xuất hiện trước mặt nó, ân cần, hết lòng giúp nó trước khi nó từ giã cuộc sống. Nó cũng san xẻ miếng ngon cho ân nhân của mình. Nhưng cảm động hơn khi biết rằng vị ân nhân đã chết, nó đau xót vô chừng bởi nó không thế làm gì giúp bác được. Nén chặt đau thương, tình cảm dâng trào, hổ trán trắng đã đến đưa tang bác tiều. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhẩy nhót… Từ xa, nhìn thấy hổ dụi dầu vào quan tài gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Và đâu phải chỉ ngày bác mất, mà từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều hổ lại đưa Dê hoặc Lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều. Thật cảm động và đáng khâm phục biết bao trước hành động của hổ trán trắng. Nhớ ơn cứu mạng, trong tâm khảm hồ trán trắng, hình ảnh vị ân nhân đã cứu sống mình không bao giờ phai nhạt. Lúc sống hổ quan tâm, chăm sóc, có miếng ngon đều mang biếu bác tiều, và khi qua đời nó vẫn giữ trong lòng biết ơn như ngày nào, dân gian có câu Sông tết chết giỗ, tỏ lòng biết ơn, ngày giỗ lần nào hổ trán trắng đều có lễ vật cúng, tê ân nhân ân nghĩa ấy được kết tụ trong hai tiếng ngầm của nó; một tiếng ngầm Đền ơn khi đem nai đến cho ân nhân khi còn sống, mà một tiếng gầm đau thương khi ân nhân sang thế giới bên kia. Trong những tiếng gầm ấy hằn lên niềm tiếc thương vô hạn với người đã cứu mình. Đồng thời nó cũng khẳng định với cuộc đời và chính bản thân nó phải ghi lòng tạc dạ với lời hứa, với ân nhân cứu mạng cả khi sống cũng như đã khuất. Chúng ta thấy rằng trên thực tế có những con hổ có nghĩa nhưng hẳn không thế cao đẹp như con hổ trong truyện. Mục đích của các nhà nho phong kiến dựng lên câu chuyện này nhằm mục đích giáo huấn, răn dạy con người, hay nói theo cách khác là mượn chuyện hổ nói chuyện người. Quan niệm nho giáo phong kiến ngày xưa luôn đề cao lối sống nhân nghĩa, vì vậy các tác giả xây dựng hai con hổ trong câu chuyện là tiêu biểu cho suy nghĩ, hành động của người đền ơn đáp nghĩa. Nhưng từ xưa đến nay trong tiềm thức nhân dân ta hổ là loài hung tợn nhất vậy sao lại có nghĩa và ân tình đến thế. Con hổ đực và hổ trán trắng đã được tác giả thổi vào suy nghĩ và hành động của con người, và nó hành động như con người. Loài vật dữ tợn như vậy mà trong lòng ẩn chứa bao tình cảm con người, ân nghĩa vẹn tròn, có tình có nghĩa. Vậy con người thì sao. Câu chuyện mượn hình ảnh hai con hổ trả ơn đáp nghĩa để răn dạy con người phải sống có nghĩa. Khi người khác gặp hoạn nạn phải sẵn lòng giúp đỡ không nề hà, nguy hiểm. Bà đỡ Trần và bác tiều phu có sợ hổ ăn thịt không? Họ sợ chứ, nhưng nhờ lòng yêu thương của một con người, tình cảm con người họ vượt qua sợ hãi cứu hai con hổ thoát chết. Và khi mang ơn, chịu ơn phải biết nhớ ơn và tìm cách trả ơn. Sự trả ơn phải xuất phát từ sự ngưỡng mộ, khâm phục và lòng biết ơn chân thành, từ suy nghĩ và hành động, từ sự nhận thức về đạo lí, cuộc sống ở đời. Người làm ơn không so đo tính toán, giúp đỡ kẻ khác gặp hoạn nạn là bổn phận, trách nhiệm, đồng thời kẻ chịu ơn phải khắc cốt ghi xương, ở đây ta nhận thấy điều đáng quý, đáng khâm phục của hình ảnh hai người làm việc nghĩa là bác Tiều và bà Trần là: Họ không hề đòi hỏi gì sau khi cứu hổ mẹ và hổ trán trắng. Và dường như họ sinh ra là để làm việc thiện. Và cũng rất tự nhiên, hai con hổ trả ơn, đáp nghĩa như một thói quen, bản năng có sẵn. Câu chuyện hết sức sâu sắc, nó không chỉ dừng lại ở góc độ một con vật, một giai đoạn lịch sử mà nó mang yếu tố thời đại. Bất kì một xã hội nào mà con người sông với nhau nhân nghĩa, yêu thương đều phải ca ngợi, và có như vậy xã hội mới tốt đẹp. Từ xưa cho đến nay dân tộc ta luôn có truyền thống đẹp “sống có ân nghĩa”. Đặc biệt qua câu chuyện này chúng ta càng hiểu thêm rằng “ân nghĩa” là sợi dây nối kết con người gần nhau hơn, giúp họ vượt qua rào cản của tiền bạc, công danh, giúp họ quên đi sự sòng phẳng mua bán bằng tiền. Câu chuyện mang tính triết lí sâu sắc, mang một lối sống đáng khâm phục, cảm động xiết bao. Đã bao câu chuyện, đã bao lần con người nói đến “có nghĩa”. Cái nghĩa chính là cái gốc làm nên giá trị đích thực trong nhân cách sống của con người. Và hơn thế cái nghĩa trong mỗi người phải luôn tự tu dưỡng, hoàn chỉnh. Đó cũng chính là đạo đức sống. Câu chuyện khuyên dạy chúng ta hãy sống tốt đẹp hơn, yêu thương nhau hơn. Đồng thời câu chuyện đề cao lối sống ân nghĩa vẹn tròn sau trước. Các tác giả viết câu chuyện này cũng thầm gửi tới cho chúng ta một thông điệp: Mọi người hãy biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, sống nhân nghĩa với nhau sống đúng với đạo lý làm người để nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Câu chuyện có giá trị nhân văn sâu sắc, có giá trị thời đại to lớn. Khi học xong câu chuyện, em như lớn lên trước đạo lý trong cuộc sống, chịu ơn thì phải trả ơn, ơn nghĩa ấy trả đến bao giờ cũng không hết, và phải lấy đó làm phương châm sống, lẽ sống. Em thầm mơ ước xã hội này, thế giới này, ai ai cũng hiểu và làm được như vậy.
Đề bài: Cảm nghĩ của em khi đọc truyện Con hổ có nghĩa Bài làm Truyện trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX là loại truyện văn xuôi chữ hán, có cách viết không giống với truyện hiện đại ngày nay. Truyện nhiều khi gần với kể, với sử và thường mang tính giáo huấn. Tuy vậy cũng có loại truyện hư câu, tưởng tượng nghệ thuật, các nhà văn mượn hình ảnh của loài vật để nói về con người, đạo đức nhân sinh… Truyện con hổ có nghĩa là một thí dụ điển hình. Ngay sau khi bà trần cứu được hổ cái qua cơn hoạn nạn mà tưởng chừng không thể vượt qua. Hổ cái được mẹ tròn con vuông, gia đình nhà hổ vô cùng hạnh phúc và sung sướng mừng rỡ đùa giỡn với con. Cảm động trước ơn cứu mạng của bà Trần, Hổ đực quỳ xuống bên cạnh một gốc cây, lấy tay đào lên một cục bạc, tặng ngay cho bà Trần giúp bà sống qua năm mất mùa đói kém. Hành động trả ơn của hổ đực để lại trong em bao ấn tượng sâu sắc. Việc trả ơn diễn ra tức thì, không đắn đo suy nghĩ, mà số bạc đâu có ít những “hơn mười lạng bạc”. Hình ảnh hổ đực được khắc họa sinh động, ấn tượng qua thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, nhờ đó chúng ta thấy rằng con hổ đực mang trong mình những hành động, suy nghĩ như một con người. Trong gia đình, nó hết lòng với vợ con lúc bụng mang dạ chửa, luôn biết quan tâm, chăm sóc yêu thương hổ cái lúc sắp sinh con…, hổ đực vui mừng, sung sướng đến tột độ khi được làm cha, lưu luyến cảm động nghẹn ngào khi chia tayân nhân cứu mạng vợ mình. Hổ đực nhận thức được rằng nó sẽ chẳng bao giờ thấy vợ và con trên cõi đời này nữa nếu như không có bà đỡ Trần. Nó hiểu rằng hạnh phúc hôm nay với gia đình nó là do bà đỡ Trần đem lại. Từ những suy nghĩ mang đậm chất nhân văn, chất Con người như vậy giúp hổ đực hành động thật cao đẹp và cảm động nhường nào – ân nghĩa vẹn tròn. Hành động trả ơn được diễn ra tự nhiên như một bản năng, một thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức. Nó như hiểu vô đạo lí ở đời rằng ơn ai một chút chẳng quên, chịu ơn cứu mạng thì phải Khắc cốt ghi xương. Trong đôi mắt hổ đực, bàn tay của bà Trần như đôi bàn tay tiên tri, nhẹ nhàng cứu vợ nó qua cơn vật lộn với tử thần. Và trong tâm khảm hổ đực ơn cứu mạng này phải ghi lòng tạc dạ và đền đáp ân sinh. Khi tiễn bà Trần – vị ân nhân đáng kính ra về, hổ vẫn cúi dầu vẫy đuôi, khi bà Trần đã rời xa nó vẫn Gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Tiếng gầm của hổ đực phải chăng cảm phục đến nghẹn ngào mà không cất được nên lời? Hay chính là lời chào tiễn biệt vị ân nhân, mà cả đời mang ơn cứu mạng. Trong đôi mắt hổ đực hình ảnh bà Trần như một vị tiên, và chính trong đôi mắt ấy hiện lên lòng biết ơn vô hạn với người đã cứu sống vợ con mình. Và để rồi hổ đực, hổ cái ngày ngày bên con và cũng ngày ngày nhớ đến bà Trần, dẫu rằng đã hậu tạ chút bạc. Nó hiểu rằng chút bạc ấy không thể so sánh, mua bán ơn cứu mạng. Cả gia đình nó, cha truyền cho con ghi nhớ đời đời. Cũng là lối sông có nhân nghĩa nhưng cách báo đáp ân nghĩa của hổ trán trắng lại khác. Nó được cứu sống sau lần hóc xương. Và nó cũng hiểu rằng, nó sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy thiên nhiên cuộc sống, chốn rừng thiêng kia nếu như không có bác tiều. Vị ân nhân ấy như một vị thánh xuất hiện trước mặt nó, ân cần, hết lòng giúp nó trước khi nó từ giã cuộc sống. Nó cũng san xẻ miếng ngon cho ân nhân của mình. Nhưng cảm động hơn khi biết rằng vị ân nhân đã chết, nó đau xót vô chừng bởi nó không thế làm gì giúp bác được. Nén chặt đau thương, tình cảm dâng trào, hổ trán trắng đã đến đưa tang bác tiều. Khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đến trước mộ nhẩy nhót… Từ xa, nhìn thấy hổ dụi dầu vào quan tài gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi. Và đâu phải chỉ ngày bác mất, mà từ đó về sau, mỗi dịp ngày giỗ bác tiều hổ lại đưa Dê hoặc Lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác tiều. Thật cảm động và đáng khâm phục biết bao trước hành động của hổ trán trắng. Nhớ ơn cứu mạng, trong tâm khảm hồ trán trắng, hình ảnh vị ân nhân đã cứu sống mình không bao giờ phai nhạt. Lúc sống hổ quan tâm, chăm sóc, có miếng ngon đều mang biếu bác tiều, và khi qua đời nó vẫn giữ trong lòng biết ơn như ngày nào, dân gian có câu Sông tết chết giỗ, tỏ lòng biết ơn, ngày giỗ lần nào hổ trán trắng đều có lễ vật cúng, tê ân nhân ân nghĩa ấy được kết tụ trong hai tiếng ngầm của nó; một tiếng ngầm Đền ơn khi đem nai đến cho ân nhân khi còn sống, mà một tiếng gầm đau thương khi ân nhân sang thế giới bên kia. Trong những tiếng gầm ấy hằn lên niềm tiếc thương vô hạn với người đã cứu mình. Đồng thời nó cũng khẳng định với cuộc đời và chính bản thân nó phải ghi lòng tạc dạ với lời hứa, với ân nhân cứu mạng cả khi sống cũng như đã khuất. Chúng ta thấy rằng trên thực tế có những con hổ có nghĩa nhưng hẳn không thế cao đẹp như con hổ trong truyện. Mục đích của các nhà nho phong kiến dựng lên câu chuyện này nhằm mục đích giáo huấn, răn dạy con người, hay nói theo cách khác là mượn chuyện hổ nói chuyện người. Quan niệm nho giáo phong kiến ngày xưa luôn đề cao lối sống nhân nghĩa, vì vậy các tác giả xây dựng hai con hổ trong câu chuyện là tiêu biểu cho suy nghĩ, hành động của người đền ơn đáp nghĩa. Nhưng từ xưa đến nay trong tiềm thức nhân dân ta hổ là loài hung tợn nhất vậy sao lại có nghĩa và ân tình đến thế. Con hổ đực và hổ trán trắng đã được tác giả thổi vào suy nghĩ và hành động của con người, và nó hành động như con người. Loài vật dữ tợn như vậy mà trong lòng ẩn chứa bao tình cảm con người, ân nghĩa vẹn tròn, có tình có nghĩa. Vậy con người thì sao. Câu chuyện mượn hình ảnh hai con hổ trả ơn đáp nghĩa để răn dạy con người phải sống có nghĩa. Khi người khác gặp hoạn nạn phải sẵn lòng giúp đỡ không nề hà, nguy hiểm. Bà đỡ Trần và bác tiều phu có sợ hổ ăn thịt không? Họ sợ chứ, nhưng nhờ lòng yêu thương của một con người, tình cảm con người họ vượt qua sợ hãi cứu hai con hổ thoát chết. Và khi mang ơn, chịu ơn phải biết nhớ ơn và tìm cách trả ơn. Sự trả ơn phải xuất phát từ sự ngưỡng mộ, khâm phục và lòng biết ơn chân thành, từ suy nghĩ và hành động, từ sự nhận thức về đạo lí, cuộc sống ở đời. Người làm ơn không so đo tính toán, giúp đỡ kẻ khác gặp hoạn nạn là bổn phận, trách nhiệm, đồng thời kẻ chịu ơn phải khắc cốt ghi xương, ở đây ta nhận thấy điều đáng quý, đáng khâm phục của hình ảnh hai người làm việc nghĩa là bác Tiều và bà Trần là: Họ không hề đòi hỏi gì sau khi cứu hổ mẹ và hổ trán trắng. Và dường như họ sinh ra là để làm việc thiện. Và cũng rất tự nhiên, hai con hổ trả ơn, đáp nghĩa như một thói quen, bản năng có sẵn. Câu chuyện hết sức sâu sắc, nó không chỉ dừng lại ở góc độ một con vật, một giai đoạn lịch sử mà nó mang yếu tố thời đại. Bất kì một xã hội nào mà con người sông với nhau nhân nghĩa, yêu thương đều phải ca ngợi, và có như vậy xã hội mới tốt đẹp. Từ xưa cho đến nay dân tộc ta luôn có truyền thống đẹp “sống có ân nghĩa”. Đặc biệt qua câu chuyện này chúng ta càng hiểu thêm rằng “ân nghĩa” là sợi dây nối kết con người gần nhau hơn, giúp họ vượt qua rào cản của tiền bạc, công danh, giúp họ quên đi sự sòng phẳng mua bán bằng tiền. Câu chuyện mang tính triết lí sâu sắc, mang một lối sống đáng khâm phục, cảm động xiết bao. Đã bao câu chuyện, đã bao lần con người nói đến “có nghĩa”. Cái nghĩa chính là cái gốc làm nên giá trị đích thực trong nhân cách sống của con người. Và hơn thế cái nghĩa trong mỗi người phải luôn tự tu dưỡng, hoàn chỉnh. Đó cũng chính là đạo đức sống. Câu chuyện khuyên dạy chúng ta hãy sống tốt đẹp hơn, yêu thương nhau hơn. Đồng thời câu chuyện đề cao lối sống ân nghĩa vẹn tròn sau trước. Các tác giả viết câu chuyện này cũng thầm gửi tới cho chúng ta một thông điệp: Mọi người hãy biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, sống nhân nghĩa với nhau sống đúng với đạo lý làm người để nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Câu chuyện có giá trị nhân văn sâu sắc, có giá trị thời đại to lớn. Khi học xong câu chuyện, em như lớn lên trước đạo lý trong cuộc sống, chịu ơn thì phải trả ơn, ơn nghĩa ấy trả đến bao giờ cũng không hết, và phải lấy đó làm phương châm sống, lẽ sống. Em thầm mơ ước xã hội này, thế giới này, ai ai cũng hiểu và làm được như vậy.
Đề bài: Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp, những khát vọng tự do, hạnh phúc và công bằng xã hội Bài làm "Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp, những khát vọng tự do, hạnh phúc công bằng xã hội”. Nhận định này được soi sáng trong rất nhiều tác phẩm như. Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Trầu cau, Sọ dừa, Thạch Sanh…. Đọc truyện cổ tích, ta bắt gặp những giấc mơ đẹp của người bình dân xưa. Song có khi nào ta tự hỏi tại sao họ phải mơ ước không? Con người ta mơ khi hiện thực không đáp ứng được sự mong mỏi, cho nên phải hướng về một thế giới khác, tươi đẹp hơn, đúng như mong muốn của mình. Người xưa cũng vậy, cuộc sống của họ là một bể khổ tưởng như khó lòng thoát ra khỏi được. Một cuộc sống luôn bị thiên tai, áp bức chiến tranh…Một cuộc sống bị đè nén bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ phải làm việc cực nhọc ngày qua ngày, năm qua năm nhưng luôn phải chịu đói khổ cực nhọc như anh nông dân nghèo Thạch Sanh… Họ luôn bị khinh thường, rẻ rúng, bị tước đoạt quyền được yêu thương, quyền làm người như cô Tấm, Sọ Dừa…Vì thế mà họ phải mơ. Mơ cũng là một cách phủ nhận, phản kháng thực tại để hướng về chân, thiện, mỹ, hướng về thế giới khác đẹp đẽ, ở họ có được sự bình đẳng trong cuộc sống, trong hôn nhân, được sống tự do, nhân nghĩa… Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp Khát vọng công bằng trong xã hội, một khát vọng thường trực mà ta luôn gặp trong truyện cổ tích. Dễ dàng thấy nhân vật chính nằm trong chuyện là những con người riêng, những người dị tạng xấu xí, những kẻ làm thuê, những người nghèo khó…Họ bị ngược đãi. Cô Tấm bị dì ghẻ hắt hủi, bắt làm việc tối ngày, anh nông dân bị phú ông lừa bóc lột sức lao động một cách thậm tệ. Sọ Dừa bị mọi người con thường, không được coi như con người…Họ bị đối xử bất công vậy đó! Nhưng họ có thể làm gì được nay khi chỉ là thân phận thấp cổ bé họng, thân phận con sâu cái kiến? Bởi thế họ luôn mong ước có những thế lực siêu nhiên như thần, Phật, bụt, tiên để giúp đỡ họ, làm cho họ đổi đời. Nhưng thế lực này tất nhiên không xuất hiện để thuyết minh cho một tôn giáo nào mà họ chính là đại diện cho cái thiện, cho lẽ phải, cho khát vọng của người dân về sự công bằng. Sự công bằng ở đây tức là sự chiến thắng của cái thiện trước những thế lực đen tối, độc ác. Chính vì thế, trong truyện ta mới bắt gặp những kết thúc có hậu. Thạch Sanh nghèo lấy được công chúa, cô Tấm đáng thương trở thành hoàng hậu, Chử Đồng Tử – chàng trai nghèo đánh cá – kết duyên với công chúa con vua. Rõ ràng ở đây là khát vọng phản kháng của họ. Cố nhiên chỉ là mơ ước. Không chỉ dừng lại ở đó, người xưa còn ao ước được tự do hôn nhân, tự mình quyết định lấy hạnh phúc của đời mình. Ước mơ này là chính đáng, bởi xã hội phong kiến đã trói buộc con người đặt biệt là người phụ nữ trong các luật lệ hà khắc như ” cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, nam nữ thụ thụ bất thân, tam tòng tứ đức. Vì thế mà tự do hôn nhân có thể coi như mơ ước rất thường trực quan trọng đối với người xưa. Đó là sự giải phóng về tinh thần với họ. Nói về vấn đề này. Chử Đồng Tử hay cụ thể hơn là cuộc hôn nhân Chử Đồng Tử – Tiên Dung là một minh chứng hùng hồn. Nếu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người con gái lý tưởng phải là. Êm đềm nước rủ màn che. Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Con trai lý tưởng phải là: Phong thư tài mạo tót vời. Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa. Cuộc hôn nhân đẹp phải là giữa kẻ quốc sắc với kẻ thiên tài, gắn liền với đàn, thơ, lầu sách. Thì cách đó rất lâu, nhân dân đã có quan niệm tiến bộ: hôn nhân đẹp là giữa hai con người mang trong mình phẩm chất chứ không cần bất cứ điều kiện gì khác. Thế cho nên, Đồng Tử, Tiên Dung mới lấy nhau. Hai con người, một hiếu thảo, một tự do, phóng khoáng. Hai con người một chỉ là chàng trai đánh cá cực nghèo ở dưới đáy cùng của xã hội với một là công chúa lá ngọc cành vàng sống vương giả nơi đỉnh cao của giàu sang. Họ đã vượt qua bức tường giai cấp dày đặc ngăn cách, đã bỏ qua ràng buộc, mọi luật lệ hà khắc. Họ đã đến với nhau bằng sự cảm thông về cuộc đời nhau, bằng tiếng gọi trái tim, tiếng nói của tình yêu nguyên thủy sơ khai. Và hơn thế nữa. Tiên Dung lại là người đề nghị cưới Đồng Tử. Điều đó vừa cho thấy sự táo bạo ở nàng, vừa khẳng định vai trò của người phụ nữ trong hôn nhân. Tư tưởng này thật tiến bộ, nó vượt xa quan niệm đạo đức lạc hậu của phong kiến. Nếu như mãi đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ta mới gặp một nàng Kiều ” xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến với người yêu, thì cách đó bao nhiêu thế kỷ – cha ông ta đã tưởng tượng ra một Tiên Dung còn táo bạo hơn thế. Tại sao vậy? Theo em đây là một vấn đề rất con người. Một vấn đề mà từ ngày xưa, thậm chí là đến thế kỷ XX vẫn tồn tại nóng bỏng, khiến cho bao nhà thơ, nhà văn phải nhiều lần lên tiếng. Và như chúng ta đã biết, người Việt Nam xưa và nay đều sống rất đậm tình, nặng nghĩa, chung thủy sắt son. Bởi thế mà họ còn gửi gắm niềm tin mong mỏi của mình được chung sống hạnh phúc nhân nghĩa,vẹn toàn trước sau với mọi người trong truyện cổ tích. Trầu cau là một trong những câu chuyện rất tiêu biểu làm sáng rõ ước mơ này. Trầu cau kết thúc bằng cái chết vĩnh viễn của ba nhân vật chính. Người em, người anh và người vợ. Cái chết của họ là một bài học luôn nhắc nhở mọi người phải sống bằng chính mình, phải biết yêu thương, độ lượng, tránh sự nghi kị, ghen tuông vu vơ. Bởi tất cả đều có thể phải trả giá rất đất. Một gia đình đang sống yên vui, hòa thuận là thế mà chỉ vì một phút nhận nhầm của người vợ, ôm chầm lấy người em mà khiến người anh sinh ra ghét bỏ, hắt hủi em. Người vợ không có lỗi, chỉ vì quá nhớ thương, mong mỏi gặp chồng nên sinh ra nhầm lẫn. Người anh mới có lỗi, đã ghen tuông vu vơ, hiểm nhầm vợ và em… Cuối cùng, họ chết đi, hóa thành tảng đá, dây trầu, cây cau đứng bên nhau. Và khi ăn lá trầu với quả cau và một tí vôi thì làm môi đỏ miệng thơm. Điều đó nói lên rằng nếu vợ chồng yêu thương nhau thông cảm cho nhau. Anh em hòa thuận đoàn kết thì gia đình sẽ êm ấm. Không chỉ mong muốn được sống hết mình mà người xưa còn muốn được sống tự do, phóng khoáng, lánh đục tìm trong giữa thiên nhiên, đất trời. Việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung sau khi lấy nhau đã ở lại trong nhân dân để tìm kế sinh nhai chứng tỏ rằng họ muốn sống gần gũi với mọi người, muốn tự lao động bằng sức mạnh để tạo lập cuộc sống. Họ sống thanh cao không ham tiền tài, không màng danh lợi. Vì thế khi Đồng Tử gặp nhà sư Phật Quang thì cũng không còn nghĩ gì đến chuyện buôn bán, đến làm giàu mà quyết chí học đạo tu tiên. Phải chăng họ muốn thoát tục, muốn tìm về, muốn hướng tới cái đẹp thanh cao như cõi tiên, cõi bồng lai. Đặc biệt, với chi tiết chỉ trong một đêm mà nơi Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời thì khát vọng của họ đã được đẩy lên đỉnh cao. Họ muốn sống với cả vũ trụ bao la, với cả đất trời vĩnh cửu, họ không hề có sự trốn đời, bế tắc vì họ hoàn toàn có thể chống lại quân triều đình với thành cao, hào sâu và hàng trăm quân lính…Quả thật, tâm hồn của người xưa đã vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội. Khép lại những câu truyện cổ tích thần kỳ, ta lại trở về hiện thực đương thời với biết bao chuyển động như nó vốn có. Song, âm hưởng của những câu chuyện xa xưa sẽ còn vang mãi trong ta, dấu ấn của nó sẽ đậm nét mãi trong tiềm thức và tâm tưởng của mọi người, Bởi đến với cổ tích là ta tìm đến với những giá trị nhân bản, với những triết lý sống lành mạnh chính đáng của người Việt Nam. Biết ơn những tác giả dân gian xưa đã tạo nên những câu chuyện cổ tích để giúp chúng ta hiểu hơn người xưa đã sống, muốn sống như thế nào và ngày nay còn học ở đó những gì.
Đề bài: Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp, những khát vọng tự do, hạnh phúc và công bằng xã hội Bài làm "Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp, những khát vọng tự do, hạnh phúc công bằng xã hội”. Nhận định này được soi sáng trong rất nhiều tác phẩm như. Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Trầu cau, Sọ dừa, Thạch Sanh…. Đọc truyện cổ tích, ta bắt gặp những giấc mơ đẹp của người bình dân xưa. Song có khi nào ta tự hỏi tại sao họ phải mơ ước không? Con người ta mơ khi hiện thực không đáp ứng được sự mong mỏi, cho nên phải hướng về một thế giới khác, tươi đẹp hơn, đúng như mong muốn của mình. Người xưa cũng vậy, cuộc sống của họ là một bể khổ tưởng như khó lòng thoát ra khỏi được. Một cuộc sống luôn bị thiên tai, áp bức chiến tranh…Một cuộc sống bị đè nén bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ phải làm việc cực nhọc ngày qua ngày, năm qua năm nhưng luôn phải chịu đói khổ cực nhọc như anh nông dân nghèo Thạch Sanh… Họ luôn bị khinh thường, rẻ rúng, bị tước đoạt quyền được yêu thương, quyền làm người như cô Tấm, Sọ Dừa…Vì thế mà họ phải mơ. Mơ cũng là một cách phủ nhận, phản kháng thực tại để hướng về chân, thiện, mỹ, hướng về thế giới khác đẹp đẽ, ở họ có được sự bình đẳng trong cuộc sống, trong hôn nhân, được sống tự do, nhân nghĩa… Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp Khát vọng công bằng trong xã hội, một khát vọng thường trực mà ta luôn gặp trong truyện cổ tích. Dễ dàng thấy nhân vật chính nằm trong chuyện là những con người riêng, những người dị tạng xấu xí, những kẻ làm thuê, những người nghèo khó…Họ bị ngược đãi. Cô Tấm bị dì ghẻ hắt hủi, bắt làm việc tối ngày, anh nông dân bị phú ông lừa bóc lột sức lao động một cách thậm tệ. Sọ Dừa bị mọi người con thường, không được coi như con người…Họ bị đối xử bất công vậy đó! Nhưng họ có thể làm gì được nay khi chỉ là thân phận thấp cổ bé họng, thân phận con sâu cái kiến? Bởi thế họ luôn mong ước có những thế lực siêu nhiên như thần, Phật, bụt, tiên để giúp đỡ họ, làm cho họ đổi đời. Nhưng thế lực này tất nhiên không xuất hiện để thuyết minh cho một tôn giáo nào mà họ chính là đại diện cho cái thiện, cho lẽ phải, cho khát vọng của người dân về sự công bằng. Sự công bằng ở đây tức là sự chiến thắng của cái thiện trước những thế lực đen tối, độc ác. Chính vì thế, trong truyện ta mới bắt gặp những kết thúc có hậu. Thạch Sanh nghèo lấy được công chúa, cô Tấm đáng thương trở thành hoàng hậu, Chử Đồng Tử – chàng trai nghèo đánh cá – kết duyên với công chúa con vua. Rõ ràng ở đây là khát vọng phản kháng của họ. Cố nhiên chỉ là mơ ước. Không chỉ dừng lại ở đó, người xưa còn ao ước được tự do hôn nhân, tự mình quyết định lấy hạnh phúc của đời mình. Ước mơ này là chính đáng, bởi xã hội phong kiến đã trói buộc con người đặt biệt là người phụ nữ trong các luật lệ hà khắc như ” cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, nam nữ thụ thụ bất thân, tam tòng tứ đức. Vì thế mà tự do hôn nhân có thể coi như mơ ước rất thường trực quan trọng đối với người xưa. Đó là sự giải phóng về tinh thần với họ. Nói về vấn đề này. Chử Đồng Tử hay cụ thể hơn là cuộc hôn nhân Chử Đồng Tử – Tiên Dung là một minh chứng hùng hồn. Nếu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người con gái lý tưởng phải là. Êm đềm nước rủ màn che. Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Con trai lý tưởng phải là: Phong thư tài mạo tót vời. Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa. Cuộc hôn nhân đẹp phải là giữa kẻ quốc sắc với kẻ thiên tài, gắn liền với đàn, thơ, lầu sách. Thì cách đó rất lâu, nhân dân đã có quan niệm tiến bộ: hôn nhân đẹp là giữa hai con người mang trong mình phẩm chất chứ không cần bất cứ điều kiện gì khác. Thế cho nên, Đồng Tử, Tiên Dung mới lấy nhau. Hai con người, một hiếu thảo, một tự do, phóng khoáng. Hai con người một chỉ là chàng trai đánh cá cực nghèo ở dưới đáy cùng của xã hội với một là công chúa lá ngọc cành vàng sống vương giả nơi đỉnh cao của giàu sang. Họ đã vượt qua bức tường giai cấp dày đặc ngăn cách, đã bỏ qua ràng buộc, mọi luật lệ hà khắc. Họ đã đến với nhau bằng sự cảm thông về cuộc đời nhau, bằng tiếng gọi trái tim, tiếng nói của tình yêu nguyên thủy sơ khai. Và hơn thế nữa. Tiên Dung lại là người đề nghị cưới Đồng Tử. Điều đó vừa cho thấy sự táo bạo ở nàng, vừa khẳng định vai trò của người phụ nữ trong hôn nhân. Tư tưởng này thật tiến bộ, nó vượt xa quan niệm đạo đức lạc hậu của phong kiến. Nếu như mãi đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ta mới gặp một nàng Kiều ” xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến với người yêu, thì cách đó bao nhiêu thế kỷ – cha ông ta đã tưởng tượng ra một Tiên Dung còn táo bạo hơn thế. Tại sao vậy? Theo em đây là một vấn đề rất con người. Một vấn đề mà từ ngày xưa, thậm chí là đến thế kỷ XX vẫn tồn tại nóng bỏng, khiến cho bao nhà thơ, nhà văn phải nhiều lần lên tiếng. Và như chúng ta đã biết, người Việt Nam xưa và nay đều sống rất đậm tình, nặng nghĩa, chung thủy sắt son. Bởi thế mà họ còn gửi gắm niềm tin mong mỏi của mình được chung sống hạnh phúc nhân nghĩa,vẹn toàn trước sau với mọi người trong truyện cổ tích. Trầu cau là một trong những câu chuyện rất tiêu biểu làm sáng rõ ước mơ này. Trầu cau kết thúc bằng cái chết vĩnh viễn của ba nhân vật chính. Người em, người anh và người vợ. Cái chết của họ là một bài học luôn nhắc nhở mọi người phải sống bằng chính mình, phải biết yêu thương, độ lượng, tránh sự nghi kị, ghen tuông vu vơ. Bởi tất cả đều có thể phải trả giá rất đất. Một gia đình đang sống yên vui, hòa thuận là thế mà chỉ vì một phút nhận nhầm của người vợ, ôm chầm lấy người em mà khiến người anh sinh ra ghét bỏ, hắt hủi em. Người vợ không có lỗi, chỉ vì quá nhớ thương, mong mỏi gặp chồng nên sinh ra nhầm lẫn. Người anh mới có lỗi, đã ghen tuông vu vơ, hiểm nhầm vợ và em… Cuối cùng, họ chết đi, hóa thành tảng đá, dây trầu, cây cau đứng bên nhau. Và khi ăn lá trầu với quả cau và một tí vôi thì làm môi đỏ miệng thơm. Điều đó nói lên rằng nếu vợ chồng yêu thương nhau thông cảm cho nhau. Anh em hòa thuận đoàn kết thì gia đình sẽ êm ấm. Không chỉ mong muốn được sống hết mình mà người xưa còn muốn được sống tự do, phóng khoáng, lánh đục tìm trong giữa thiên nhiên, đất trời. Việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung sau khi lấy nhau đã ở lại trong nhân dân để tìm kế sinh nhai chứng tỏ rằng họ muốn sống gần gũi với mọi người, muốn tự lao động bằng sức mạnh để tạo lập cuộc sống. Họ sống thanh cao không ham tiền tài, không màng danh lợi. Vì thế khi Đồng Tử gặp nhà sư Phật Quang thì cũng không còn nghĩ gì đến chuyện buôn bán, đến làm giàu mà quyết chí học đạo tu tiên. Phải chăng họ muốn thoát tục, muốn tìm về, muốn hướng tới cái đẹp thanh cao như cõi tiên, cõi bồng lai. Đặc biệt, với chi tiết chỉ trong một đêm mà nơi Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời thì khát vọng của họ đã được đẩy lên đỉnh cao. Họ muốn sống với cả vũ trụ bao la, với cả đất trời vĩnh cửu, họ không hề có sự trốn đời, bế tắc vì họ hoàn toàn có thể chống lại quân triều đình với thành cao, hào sâu và hàng trăm quân lính…Quả thật, tâm hồn của người xưa đã vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội. Khép lại những câu truyện cổ tích thần kỳ, ta lại trở về hiện thực đương thời với biết bao chuyển động như nó vốn có. Song, âm hưởng của những câu chuyện xa xưa sẽ còn vang mãi trong ta, dấu ấn của nó sẽ đậm nét mãi trong tiềm thức và tâm tưởng của mọi người, Bởi đến với cổ tích là ta tìm đến với những giá trị nhân bản, với những triết lý sống lành mạnh chính đáng của người Việt Nam. Biết ơn những tác giả dân gian xưa đã tạo nên những câu chuyện cổ tích để giúp chúng ta hiểu hơn người xưa đã sống, muốn sống như thế nào và ngày nay còn học ở đó những gì.
Đề: Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp em hiểu gì về tình cảnh của người nông dân trước cách mạng? Gợi ý: Mở bài: Nói đến Nam Cao là phải nói đến Lão Hạc. Tác phẩm này được coi là một truyện ngắn hiện thực xuất sắc trong trào lưu hiện thực phê phán của thời kì 1930 – 1945. Truyện không những tố khổ người nông dân trước tai trời ách đất, trước xã hội suy tàn mà đáng chú ý hơn cả là đã nêu bật được hình ảnh một lão nông đáng kính với phẩm chất của một con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực yêu thương con, để lại trong lòng người đọc niềm xót xa, cảm thông và mến phục. Thân bài: I. Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp ta hiểu về tình cảnh thống khổ của người nông dân trước cách mạng. 1. Lão Hạc. *Nỗi khổ về vật chất Cả đời thắt lưng buộc bụng lão cũng chỉ có nổi trong tay một mảnh vườn và một con chó. Sự sống lay lắt cầm chừng bằng số tiền ít ỏi do bòn vườn và làm thuê. Nhưng thiên tai, tật bệnh chẳng để lão yên ổn. Bao nhiêu tiền dành dụm được, sau một trận ốm đã hết sạch sành sanh, lão đã phải kiếm ăn như một con vật. Nam Cao đã dũng cảm nhìn thẳng vào nỗi khổ về vật chất của người nông dân mà phản ánh. * Nỗi khổ về tinh thần. Đó là nỗi đau của người chồng mất vợ, người cha mất con. Những ngày tháng xa con, lão sống trong nỗi lo âu, phiền muộn vì thương nhớ con vì chưa làm tròn bổn phận của người cha. Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời lão phải sống trong cô độc. Không người thân thích, lão phải kết bạn chia sẻ cùng cậu vàng 2. Con trai lão Hạc. Vì nghèo đói, không có được hạnh phúc bình dị như mình mong muốn khiến anh phẫn chí, bỏ làng đi đồn điền cao su với một giấc mộng viển vông có bạc trăm mới về. Nghèo đói đã đẩy anh vào tấn bi kịch không có lối thoát. Không chỉ giúp ta hiểu được nỗi đau trực tiếp của người nông dân, truyện còn giúp ta hiểu được căn nguyên sâu xa nỗi đau của họ. Đó chính là sự nghèo đói và những hủ tục phong kiến lạc hậu II. Truyện ngắn Lão Hạc giúp ta hiểu được vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người nông dân. 1. Lòng nhân hậu. Con đi xa, bao tình cảm chất chứa trong lòng lão dành cả cho cậu vàng. Lão coi nó như con, cưu mang, chăm chút như một đứa cháu nội bé bỏng côi cút: lão bắt rận, tắm, cho nó ăn bằng bát như nhà giàu, âu yếm, trò chuyện gọi nó là cậu vàng, rồi lão mắng yêu, cưng nựng. Có thể nói tình cảm của lão dành cho nó như tình cảm của người cha đối với người con. Nhưng tình thế đường cùng, buộc lão phải bán cậu vàng. Bán chó là một chuyện thường tình thế mà với lão lại là cả một quá trình đắn đo do dự. Lão coi đó là một sự lừa gạt, một tội tình không thể tha thứ. Lão đã đau đớn, đã khóc, đã xưng tội với ông giáo mong được dịu bớt nỗi đau dằng xé trong tâm can. 2. Tình yêu thương sâu nặng. Vợ mất, lão ở vậy nuôi con, bao nhiêu tình thương lão đều dành cho con trai lão. Trước tình cảnh và nỗi đau của con, lão luôn là người thấu hiểu tìm cách chia sẻ, tìm lời lẽ an ủi giảng giải cho con hiểu dằn lòng tìm đám khác. Thương con lão càng đau đớn xót xa khi nhận ra sự thực phũ phàng: Sẽ mất con vĩnh viễn “Thẻ của nó …chứ đâu có còn là con tôi ”. Những ngày sống xa con, lão không nguôi nỗi nhớ thương, niềm mong mỏi tin con từ cuối phương trời. Mặc dù anh con trai đi biền biệt năm sáu năm trời, nhưng mọi kỷ niệm về con vẫn luôn thường trực ở trong lão. Trong câu chuyện với ông giáo, lão không quên nhắc tới đứa con trai của mình Lão sống vì con, chết cũng vì con: Bao nhiêu tiền bòn được lão đều dành dụm cho con. Đói khát, cơ cực song lão vẫn giữ mảnh vườn đến cùng cho con trai để lo cho tương lai của con. Hoàn cảnh cùng cực, buộc lão phải đứng trước sự lựa chọn nghiệt ngã: Nếu sống, lão sẽ lỗi đạo làm cha. Còn muốn trọn đạo làm cha thi phải chết. Và lão đã quyên sinh không phải lão không quý mạng sống, mà vì danh dự làm người, danh dự làm cha. Sự hy sinh của lão quá âm thầm, lớn lao. Đối với ông giáo người mà Lão Hạc tin tưởng quý trọng, cũng luôn giữ ý để khỏi bị coi thường. Dù đói khát cơ cực, nhưng lão dứt khoát từ chối sự giúp đỡ của ông giáo, rồi ông cố xa dần vì không muốn mang tiếng lợi dụng lòng tốt của người khác. Trước khi tìm đến cái chết, lão đã toan tính sắp đặt cho mình chu đáo. Lão chỉ có thể yên lòng nhắm mắt khi đã gửi ông giáo giữ trọn mảnh vườn, và tiền làm ma. Con người hiền hậu ấy, cũng là con người giàu lòng tự trọng. Họ thà chết chứ quyết không làm bậy. Trong xã hội đầy rẫy nhơ nhuốc thì tự ý thức cao về nhân phẩm như lão Hạc quả là điều đáng trọng. III. Truyện giúp ta hiểu sự tha hoá biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội đương thời: Binh Tư vì miếng ăn mà sinh ra làm liều bản chất lưu manh đã chiến thắng nhân cách trong sạch của con người. Vợ ông giáo vì nghèo đói cùng quấn mà sinh ra ích kỷ nhỏ nhen, tàn nhẫn, vô cảm trước nỗi đau của người khác. Kết bài: – Có thể nói Lão Hạc là điển hình về cuộc đời và số phận của người nông dân trong xã hội cũ. Lão là người nghèo khổ bị đẩy vào bước đường cùng, bị ức hiếp bị chà đạp vùi dập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới bàn tay của XHPK. Hoàn cảnh của lão phải bán chó thâm chí phải tự kết liễu đời mình vì quá túng quẫn cơ cực. Dù trong hoàn cảnh nào lão vẫn ánh lên phẩm chất cao đẹp của người nông đân hiền lành lương thiện giàu tình yêu thương và giàu lòng tự trọng.
Topic: What does the short story Lao Hac by Nam Cao help you understand about the situation of farmers before the revolution? Suggest: Opening: When talking about Nam Cao, we have to talk about Lao Hac. This work is considered an excellent realistic short story in the critical realism movement of the period 1930 - 1945. The story not only denounces the suffering of farmers in the face of natural disasters and the decline of society, but is also noteworthy. Above all, it highlights the image of a respectable old farmer with the qualities of a kind person, rich in self-esteem and great love for his children, leaving the reader with a sense of pity, sympathy and admiration. . Body of the article: I. Nam Cao's short story Lao Hac helps us understand the miserable situation of farmers before the revolution. 1. Old Hac. *Material suffering All his life, he had only had a garden and a dog. Life is precarious with the small amount of money earned from farming and working as a hired laborer. But natural disasters and illness did not leave him in peace. With all the money he had saved, after an illness he ran out of food, so he had to earn a living like an animal. Nam Cao courageously looked straight at the material suffering of farmers and reflected. * Mental suffering. That is the pain of a husband losing his wife, a father losing his child. During the days he was away from his son, he lived in anxiety and depression because he missed him because he had not fulfilled his duties as a father. There's nothing more painful than when, in old age, he has to live in solitude. Having no relatives, he had to make friends to share with his uncle 2. Old Hac's son. Because of poverty, not having the simple happiness he wanted made him frustrated, leaving the village to go to the rubber plantation with an unrealistic dream of returning home with a hundred dollars. Poverty pushed him into tragedy with no way out. Not only does it help us understand the direct pain of farmers, the story also helps us understand the deep root of their pain. That is poverty and backward feudal customs II. The short story Lao Hac helps us understand the beauty of the noble soul of the farmer. 1. Kindness. When I went away, I felt so much love in my heart, even for my son. He treated it like a child, cared for it, and cared for it like a little orphaned grandchild: he caught lice, bathed it, fed it from a bowl like a rich man, cuddled it, talked to it, called it golden boy, and then he scolded it. love, cherish. It can be said that his feelings for him are like the feelings of a father towards his son. But the situation was a dead end, forcing him to sell his gold. Selling a dog is a common thing, but for him it is a process of hesitation. He considered it a deception, an unforgivable crime. He was in pain, cried, and confessed to the teacher hoping to ease the pain in his heart. 2. Deep love. His wife died, he stayed home to raise his children, all the love he had for his son. Faced with my child's situation and pain, he was always the one who understood and sought to share, to find words of comfort and explanation so that I could understand how to restrain myself and find another group. Loving his child was even more painful when he realized the harsh truth: He would lose his child forever: "His card... is not my child anymore." During the days he lived away from his son, he couldn't help but miss him and hope to believe in him from the ends of the earth. Even though his son has been away for five or six years, all memories of him are always with him. In the conversation with the teacher, he did not forget to mention his son He lives for his children, he dies for his children: Whatever money he collects, he saves for his children. Hungry, thirsty, and destitute, he still kept the garden until the end for his son to take care of his future. Extreme circumstances forced him to face a grim choice: If he lived, he would betray his fatherhood. If you want to be a father, you have to die. And he committed suicide not because he did not value life, but because of his honor as a human being, his honor as a father. His sacrifice was so silent and great. As for the teacher, whom Lao Hac trusted and valued, he also always took care not to be underestimated. Even though he was hungry, thirsty and destitute, he resolutely refused his teacher's help, and then he gradually distanced himself because he did not want to be known for taking advantage of others' kindness. Before dying, he had planned to make good arrangements for himself. He could only close his eyes in peace when he sent the teacher to keep the entire garden, and the money as a ghost. That gentle person is also a person rich in self-esteem. They would rather die than do anything wrong. In a society full of filth, having a high sense of dignity like old Hac is truly an important thing. III. The story helps us understand the alienation and degeneration of a part of the peasantry in contemporary society: Binh Tu was born to risk his scoundrel nature for the sake of food, which overcame his pure human personality. Because of poverty, the teacher's wife was selfish, petty, cruel, and insensitive to the pain of others. End: – It can be said that Lao Hac is a typical example of the life and fate of farmers in the old society. He was a poor man who was pushed into a dead end, bullied and trampled directly or indirectly at the hands of Socialist Republic of Vietnam. In his situation, he had to sell his dog and even end his life because he was so destitute. No matter the circumstances, he still reflects the noble qualities of a gentle, honest farmer, rich in love and self-esteem.
Truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng Ngữ Văn 6 Hướng dẫn Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng Trong cuộc sống, ai cũng cần có một nghề để lao động, kiếm sống và để phục vụ, hỗ trợ cho mọi người. Làm nghề nào cũng phải có đạo đức. Nhưng có hai nghề đòi hỏi đạo đức cao nhất là nghề dạy học và làm thuốc. Đạo đức của người thầy thuốc gọi là y đức. Trong lịch sử nước ta từng sáng lên những danh y nổi tiếng nêu cao y đức. Đó là Tuệ Tĩnh, Lê Hữu Trác,… Đọc truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng của Hồ Nguyên Trừng (trong tập Nam ông mộng lục) chúng ta được biết thêm một danh y nữa: cụ Phạm Bân, mang chức Thái y lệnh dưới triều đại nhà Trần. Qua lời kể ngắn gọn theo cách ghi chép chuyện thật, việc thật, có lựa chọn những tình huống gay cấn, tác giả giới thiệu và tôn vinh một tấm gương thầy thuốc chân chính vừa giỏi nghề vừa giàu lòng nhân hậu, quyết tâm cứu người bệnh trọng mà không sợ quyền uy. Câu chuyện gồm ba đoạn, mỗi đoạn toát ra những vẻ đẹp của vị Thái y lệnh và một số người có liên quan. 1. Đoạn một: Từ đầu đến… “được người đương thời trọng vọng”: giới thiệu khái quát họ tên, chức vụ và y đức của vị Thái y lệnh. Điều khiến người đọc truyện có ấn tượng nhất là tấm lòng nhân đạo bao la, tình yêu nghề nghiệp, sống hết mình với nghề của người thầy thuốc. Ngài đã dốc hết của cải trong nhà mua thuốc và thóc gạo để vừa chữa bệnh vừa cứu đói cho bệnh nhân. Trước bệnh nhân, ngài không nề hà bất cứ việc gì. Máu mủ bẩn thỉu ư, bệnh dịch truyền nhiễm ư, người đói kém, kẻ khốn cùng ư,… ai đến với ngài, ngài đều “chữa tới khi khoẻ mạnh”. Ngài tự bỏ tiền dựng thêm nhà, ngày nay gọi là bệnh viện cho người bệnh. Hàng ngàn người gặp tai họa đã được ngài cứu sống… Tác giả chỉ nhẹ nhàng tóm tắt những việc làm, cách cư xử và kết quả công việc của đức Thái y lệnh mà hình ảnh một thầy thuốc chân chính, yêu nghề, thương yêu con người đã hiện lên rõ nét. Không một lời bình luận, nhận xét trực tiếp cất lên, nhưng người viết vẫn ngầm bày tỏ tấm lòng kính trọng, tôn vinh đối với vị Thái y lệnh họ Phạm. Còn chúng ta ngày nay, sau khi đọc câu cuối đoạn “Ngài được người đương thời trọng vọng” cũng muốn nghiêng mình bái phục vị danh y ấy. a)Sự việc thứ nhất: Có một người bệnh đang nguy kịch, một người đàn bà “máu chảy như xối, mặt mày xanh lét”, cần lương y đến cấp cứu. Nghe lời báo tin và lời mời của người nhà bệnh nhân, vị lương y vội đi ngay. Đó là một hành động đúng đắn của người thầy thuốc có trách nhiệm. b) Sự việc thứ hai: Vừa ra tới cửa, lương y gặp sứ giả nhà vua báo tin: Vua triệu vào cung khám bệnh cho một quý nhân – người quyền quý đang bị sốt. Thế là tình huống gay cấn xảy ra. Một bên là người đàn bà đang nguy kịch, bên kia là một quý nhân đang ốm. Cả hai đều cần tới thầy thuốc. Nhưng sự nặng nhẹ thì khác nhau, sự giàu nghèo khác nhau, chức tước, địa vị khác nhau và… bổng lộc cũng khác nhau. Dân gian có câu: “Nhà nghèo sổ ruột không bằng công chúa đứt tay”. Nếu là một thầy thuốc bình thường trước tình huống này chắc sẽ lưỡng lự. Nhưng vị Thái y lệnh không chút băn khoăn, quyết định cứu người đàn bà thường dân trước, sau đó mới đến vương phủ. Đối. với ngài, ai mắc bệnh nặng hơn thì cần cứu trước, còn mọi điều kiện khác đều không đáng quan tâm. Thái độ và sự lựa chọn ấy thật đúng đắn, nhiều thầy thuốc chân chính thường xử sự như thế. Song… c) Sự việc thứ ba: Vị quan Trung sứ – người của triều đình đến triệu Thái y vào cung lại tỏ ý trách ngài: “Phận làm tôi, sao được như vậy? Ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu tính mạng mình chăng?”. Tình huống gay cấn tăng lên. Lời viên quan đặt trước vị lương y một sự lựa chọn mới. Nếu ngài đi chữa bệnh cho người dân trước thì sẽ phạm vào tội coi thường tính mệnh quý nhân, chống lại lệnh của vua, rất có thể bị trị tội, nhẹ thì bị phạt đòn, cầm tù, nặng có thể… rơi đầu. Hai mạng người đã được đặt lên bàn cân: mạng người dân và mạng người thầy thuốc. Hai công việc đòi hỏi vị lương y chọn một: cứu sự sống của người bệnh hay giữ lấy sự sống của bản thân mình? Viên Trung sứ không giảng giải, thuyết phục mà dùng hai câu hỏi liên tiếp như muốn dùng quyền uy ép buộc vị lương y theo mình về phủ, ép người thầy thuốc chân chính bỏ dân thường để chữa bệnh cho quý nhân, bỏ mạng sống đang mong manh của người bệnh để giữ lấy mạng sống của mình. Song ngài Thái y lệnh đã khảng khái đáp: “Người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông cậy vào chúa thượng… Tội tôi xin chịu”. Thế là ngài đã dứt khoát chọn việc chữa bệnh, chứ không tìm cách bảo vệ chức tước, địa vị, tính mạng mình. Ngài quyết định cứu mạng cho bệnh nhân mà không sợ quyền uy, không quan tâm sự sống của mình. Lời ngài vừa cứng cỏi, hiên ngang “Tội tôi xin chịu” vừa khôn khéo, dịu dàng “Tính mệnh của tiểu thần còn trông cậy vào chúa thượng”. Ngài quả là người thầy thuốc chân chính thương dân nghèo, nêu cao y đức, cũng là một bề tôi biết kính trọng và tin tưởng ở nhà vua. 3. Đoạn ba: Kết thúc câu chuyện, tác giả tóm tắt danh vọng, bổng lộc mà con cháu ngài Thái y lệnh đã thừa kế và phát huy y đức của ngài. Cách viết tương tự đoạn một, tạo nên một kết cấu hài hoà, cân đối. Đồng thời, cái kết thúc ấy cũng toát ra một triết lí nhẹ nhàng, thấm thía. Cha mẹ gieo nhân nào, thì con cháu được gặt quả ấy. Ngài Thái y lệnh đã sống và làm nhiều việc nhân đức, xả thân cứu người mà không sợ quyền uy, được nhân dân yêu quý, nhớ ơn, được vua quan nể trọng. Con cháu ngài, nhờ đó mà noi gương y đức, gặt hái được nhiều phúc lộc ở đời. Tính giáo huấn của câu chuyện từ mở đầu, đến kết thúc như vậy là trọn vẹn, thể hiện rõ nét đặc điểm nổi bật của loại truyện trung đại. Với hình thức ghi chép chuyện thật, trong đó biết xoáy vào một vài tình huống gay cấn để tính cách nhân vật được bộc lộ rõ nét, truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng ca ngợi phẩm chất cao quý của vị Thái y lệnh họ Phạm, đời Trần: không chỉ có tài chữa bệnh mà quan trọng hơn là có lòng thương yêu và quyết tâm cứu sống người bệnh tới mức không sợ quyền uy, không sợ mang vạ vào thân. Đọc truyện này, liên hệ với câu chuyện về danh y Tuệ Tĩnh, tham khảo thêm mấy câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu: Phương nào cứu đặng, mau mau tự lành. Đứa ăn mày cũng trời sinh, Bệnh còn cứu đặng, thuốc dành cho không. và lời thề của danh y Hi-pô-cơ-rát: “Tôi không lấy tiền thù lao quá đáng và sẽ chăm sóc miễn phí cho người nghèo”, chúng ta hiểu rằng trên đời này có rất nhiều thầy thuốc nêu cao y đức. Tổ tiên là như vậy. Con cháu ngày nay chắc chắn sẽ noi gương. Y đức của các bác sĩ, y tá, dược sĩ của chúng ta… đáng kính trọng, đáng tin tưởng xiết bao!
Truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng Ngữ Văn 6 Hướng dẫn Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng Trong cuộc sống, ai cũng cần có một nghề để lao động, kiếm sống và để phục vụ, hỗ trợ cho mọi người. Làm nghề nào cũng phải có đạo đức. Nhưng có hai nghề đòi hỏi đạo đức cao nhất là nghề dạy học và làm thuốc. Đạo đức của người thầy thuốc gọi là y đức. Trong lịch sử nước ta từng sáng lên những danh y nổi tiếng nêu cao y đức. Đó là Tuệ Tĩnh, Lê Hữu Trác,… Đọc truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng của Hồ Nguyên Trừng (trong tập Nam ông mộng lục) chúng ta được biết thêm một danh y nữa: cụ Phạm Bân, mang chức Thái y lệnh dưới triều đại nhà Trần. Qua lời kể ngắn gọn theo cách ghi chép chuyện thật, việc thật, có lựa chọn những tình huống gay cấn, tác giả giới thiệu và tôn vinh một tấm gương thầy thuốc chân chính vừa giỏi nghề vừa giàu lòng nhân hậu, quyết tâm cứu người bệnh trọng mà không sợ quyền uy. Câu chuyện gồm ba đoạn, mỗi đoạn toát ra những vẻ đẹp của vị Thái y lệnh và một số người có liên quan. 1. Đoạn một: Từ đầu đến… “được người đương thời trọng vọng”: giới thiệu khái quát họ tên, chức vụ và y đức của vị Thái y lệnh. Điều khiến người đọc truyện có ấn tượng nhất là tấm lòng nhân đạo bao la, tình yêu nghề nghiệp, sống hết mình với nghề của người thầy thuốc. Ngài đã dốc hết của cải trong nhà mua thuốc và thóc gạo để vừa chữa bệnh vừa cứu đói cho bệnh nhân. Trước bệnh nhân, ngài không nề hà bất cứ việc gì. Máu mủ bẩn thỉu ư, bệnh dịch truyền nhiễm ư, người đói kém, kẻ khốn cùng ư,… ai đến với ngài, ngài đều “chữa tới khi khoẻ mạnh”. Ngài tự bỏ tiền dựng thêm nhà, ngày nay gọi là bệnh viện cho người bệnh. Hàng ngàn người gặp tai họa đã được ngài cứu sống… Tác giả chỉ nhẹ nhàng tóm tắt những việc làm, cách cư xử và kết quả công việc của đức Thái y lệnh mà hình ảnh một thầy thuốc chân chính, yêu nghề, thương yêu con người đã hiện lên rõ nét. Không một lời bình luận, nhận xét trực tiếp cất lên, nhưng người viết vẫn ngầm bày tỏ tấm lòng kính trọng, tôn vinh đối với vị Thái y lệnh họ Phạm. Còn chúng ta ngày nay, sau khi đọc câu cuối đoạn “Ngài được người đương thời trọng vọng” cũng muốn nghiêng mình bái phục vị danh y ấy. a)Sự việc thứ nhất: Có một người bệnh đang nguy kịch, một người đàn bà “máu chảy như xối, mặt mày xanh lét”, cần lương y đến cấp cứu. Nghe lời báo tin và lời mời của người nhà bệnh nhân, vị lương y vội đi ngay. Đó là một hành động đúng đắn của người thầy thuốc có trách nhiệm. b) Sự việc thứ hai: Vừa ra tới cửa, lương y gặp sứ giả nhà vua báo tin: Vua triệu vào cung khám bệnh cho một quý nhân – người quyền quý đang bị sốt. Thế là tình huống gay cấn xảy ra. Một bên là người đàn bà đang nguy kịch, bên kia là một quý nhân đang ốm. Cả hai đều cần tới thầy thuốc. Nhưng sự nặng nhẹ thì khác nhau, sự giàu nghèo khác nhau, chức tước, địa vị khác nhau và… bổng lộc cũng khác nhau. Dân gian có câu: “Nhà nghèo sổ ruột không bằng công chúa đứt tay”. Nếu là một thầy thuốc bình thường trước tình huống này chắc sẽ lưỡng lự. Nhưng vị Thái y lệnh không chút băn khoăn, quyết định cứu người đàn bà thường dân trước, sau đó mới đến vương phủ. Đối. với ngài, ai mắc bệnh nặng hơn thì cần cứu trước, còn mọi điều kiện khác đều không đáng quan tâm. Thái độ và sự lựa chọn ấy thật đúng đắn, nhiều thầy thuốc chân chính thường xử sự như thế. Song… c) Sự việc thứ ba: Vị quan Trung sứ – người của triều đình đến triệu Thái y vào cung lại tỏ ý trách ngài: “Phận làm tôi, sao được như vậy? Ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu tính mạng mình chăng?”. Tình huống gay cấn tăng lên. Lời viên quan đặt trước vị lương y một sự lựa chọn mới. Nếu ngài đi chữa bệnh cho người dân trước thì sẽ phạm vào tội coi thường tính mệnh quý nhân, chống lại lệnh của vua, rất có thể bị trị tội, nhẹ thì bị phạt đòn, cầm tù, nặng có thể… rơi đầu. Hai mạng người đã được đặt lên bàn cân: mạng người dân và mạng người thầy thuốc. Hai công việc đòi hỏi vị lương y chọn một: cứu sự sống của người bệnh hay giữ lấy sự sống của bản thân mình? Viên Trung sứ không giảng giải, thuyết phục mà dùng hai câu hỏi liên tiếp như muốn dùng quyền uy ép buộc vị lương y theo mình về phủ, ép người thầy thuốc chân chính bỏ dân thường để chữa bệnh cho quý nhân, bỏ mạng sống đang mong manh của người bệnh để giữ lấy mạng sống của mình. Song ngài Thái y lệnh đã khảng khái đáp: “Người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông cậy vào chúa thượng… Tội tôi xin chịu”. Thế là ngài đã dứt khoát chọn việc chữa bệnh, chứ không tìm cách bảo vệ chức tước, địa vị, tính mạng mình. Ngài quyết định cứu mạng cho bệnh nhân mà không sợ quyền uy, không quan tâm sự sống của mình. Lời ngài vừa cứng cỏi, hiên ngang “Tội tôi xin chịu” vừa khôn khéo, dịu dàng “Tính mệnh của tiểu thần còn trông cậy vào chúa thượng”. Ngài quả là người thầy thuốc chân chính thương dân nghèo, nêu cao y đức, cũng là một bề tôi biết kính trọng và tin tưởng ở nhà vua. 3. Đoạn ba: Kết thúc câu chuyện, tác giả tóm tắt danh vọng, bổng lộc mà con cháu ngài Thái y lệnh đã thừa kế và phát huy y đức của ngài. Cách viết tương tự đoạn một, tạo nên một kết cấu hài hoà, cân đối. Đồng thời, cái kết thúc ấy cũng toát ra một triết lí nhẹ nhàng, thấm thía. Cha mẹ gieo nhân nào, thì con cháu được gặt quả ấy. Ngài Thái y lệnh đã sống và làm nhiều việc nhân đức, xả thân cứu người mà không sợ quyền uy, được nhân dân yêu quý, nhớ ơn, được vua quan nể trọng. Con cháu ngài, nhờ đó mà noi gương y đức, gặt hái được nhiều phúc lộc ở đời. Tính giáo huấn của câu chuyện từ mở đầu, đến kết thúc như vậy là trọn vẹn, thể hiện rõ nét đặc điểm nổi bật của loại truyện trung đại. Với hình thức ghi chép chuyện thật, trong đó biết xoáy vào một vài tình huống gay cấn để tính cách nhân vật được bộc lộ rõ nét, truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng ca ngợi phẩm chất cao quý của vị Thái y lệnh họ Phạm, đời Trần: không chỉ có tài chữa bệnh mà quan trọng hơn là có lòng thương yêu và quyết tâm cứu sống người bệnh tới mức không sợ quyền uy, không sợ mang vạ vào thân. Đọc truyện này, liên hệ với câu chuyện về danh y Tuệ Tĩnh, tham khảo thêm mấy câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu: Phương nào cứu đặng, mau mau tự lành. Đứa ăn mày cũng trời sinh, Bệnh còn cứu đặng, thuốc dành cho không. và lời thề của danh y Hi-pô-cơ-rát: “Tôi không lấy tiền thù lao quá đáng và sẽ chăm sóc miễn phí cho người nghèo”, chúng ta hiểu rằng trên đời này có rất nhiều thầy thuốc nêu cao y đức. Tổ tiên là như vậy. Con cháu ngày nay chắc chắn sẽ noi gương. Y đức của các bác sĩ, y tá, dược sĩ của chúng ta… đáng kính trọng, đáng tin tưởng xiết bao!
Truyện “Tôi đi học” của Thanh Tịnh là những trang văn xuôi đầy chất thơ. Nêu cảm nhận của em về chất thơ ấy? Hướng dẫn Truyện “Tôi đi học” của Thanh Tịnh là những trang văn xuôi đầy chất thơ. Nêu cảm nhận của em về chất thơ ấy? Bài làm Với nhà văn Thanh Tịnh, những tác phẩm của ông được xét là hay thì đều có chất thơ và những bài thơ hay thì dường như đều có cốt truyện. Tiêu biểu cho chất thơ của Thanh Tịnh là truyện ngắn “ Tôi đi học”. Đây là một tập truyện rất hay và đầy chất thơ ca. Có thể hiểu nôm na về chất thơ rằng, đó là một nét đẹp tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của truyện ngắn Tôi đi học. Chất thơ trong Tôi đi học được biểu hiện một cách rõ nét, đậm đà qua những cảnh vât, tâm trạng, tình tiết vô cùng dạt dào và tràn đầy cảm xúc. Chất thơ được thể hiện ở chỗ truyện ngắn không có cốt truyện mà chỉ là dòng chảy cảm xúc, là những tâm tư tình cảm của một tâm hồn trẻ dại trong buổi khai trường đầu tiên với những cảm xúc ngọt ngào, man mác buồn nhưng cũng rộn rã tưng bừng khi được sắp sách tới trường. Chất thơ toát lên từ những cảnh vật tưởng chừng như thân thuộc, giản đơn nhất. Đó là cảnh một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã đi quen, lại lắm lần nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Chất thơ còn thể hiện ở cảnh mấy cậu học trò nhỏ quần áo tươm tất, nhí nhánh gọi tên nhau, trao sách vở cho nhau xem. Cảnh sắc của con đường tựu trường của tuổi thơ trở nên rất thơ mộng và trong trẻo. Đó là vào thời điểm cuối thu, là ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc. Chất thơ còn tỏa ra từ giọng nói ân cần, cắp mắt hiền lạ của ông đốc, rồi hình ảnh thầy giáo lớp Năm đón học trò với gương mặt tươi cười cũng trở nên đậm chất thơ. Trong truyện, Thanh Tịnh đã bốn lần nhắc đến bàn tay mẹ: “mẹ tôi ân cần nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng; bàn tay mẹ cầm thước bút cho con lúc đứng xếp hàng, đứa con cảm thấy có một bàn tay dịu dàng của mẹ đẩy con tới trước như khích lệ. Hơn thế nữa, khi đứa con bé bỏng ngơ ngác thì bỗng chốc “ một bàn tay quen nhẹ miết mái tóc” của con. Qua đó có thể thấy, hình ảnh bàn tay mẹ được tác giả miêu tả thật tinh tế, giàu cảm xúc, làm bật lên tình yêu, sự quan tâm vô bờ bến của mẹ dành cho con. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, chất thơ của “ Tôi đi học” còn được thể hiện qua những hình ảnh so sánh đầy thi vị qua hai câu đầu của truyện. Không chỉ vậy, hình thức thể hiện, trình bày văn bản cũng thể hiện được chất thơ của “ Tôi đi học”. Không chỉ vậy, chất thơ của bài văn còn thể hiện ở chỗ, gợi cho người đọc sự đồng cảm. Chắc hẳn ai ai trong chúng ta, khi đọc bài văn sẽ thấy hình ảnh của mình ở trong đó, nhớ về những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi ấu thơ, của những ngày đầu tiên được cắp sách tới trường với bạn bè, thầy cô.
Thanh Tinh's story "I go to school" is full of poetic prose. What are your feelings about that poetry? Instruct Thanh Tinh's story "I go to school" is full of poetic prose. What are your feelings about that poetry? Assignment For writer Thanh Tinh, his works that are considered good all have poetry and good poems seem to have a plot. Typical of Thanh Tinh's poetry is the short story "I go to school". This is a very good and poetic collection of stories. It can be roughly understood that poetry is a beauty that creates the ideological and artistic value of the short story I go to school. The poetry in I Go to School is expressed clearly and boldly through extremely rich and emotional scenes, moods, and details. Poetry is shown in the fact that the short story does not have a plot but is just a flow of emotions, the emotional thoughts of a young soul in the first school day with sweet, sad, yet sad emotions. I was also excited when I was able to send books to school. Poetry emerges from the seemingly most familiar and simple scenes. It was a morning full of autumn dew and cold wind, my mother lovingly held my hand and led me down a long and narrow village road. I have walked this road many times, but this time it suddenly felt strange. The poetry is also shown in the scene of young students wearing neat clothes, playfully calling each other's names, and giving each other books to look at. The scenery of the back-to-school path of childhood becomes very poetic and clear. It was late autumn, there was a lot of rain on the street and there were silvery clouds in the air. Poetry also radiates from the governor's kind voice and strange eyes, and the image of the fifth grade teacher welcoming students with a smiling face also becomes poetic. In the story, Thanh Tinh mentioned her mother's hand four times: "My mother gently held my hand and led me down the village road; The mother's hand holds the ruler and pencil for the child while standing in line. The child feels the mother's gentle hand pushing him forward as encouragement. Furthermore, when the little child was bewildered, suddenly "a familiar hand gently stroked the child's hair". From there, it can be seen that the image of a mother's hand described by the author is delicate and rich in emotion, highlighting the mother's boundless love and care for her child. With a gentle tone, the poetry of "I go to school" is also expressed through poetic comparative images in the first two sentences of the story. Not only that, the form of expression and presentation of the text also shows the poetry of "I go to school". Not only that, the poetic quality of the essay is also reflected in the fact that it evokes the reader's sympathy. Surely all of us, when reading the text, will see our own image in it, remembering the beautiful memories of childhood, of the first days of going to school with friends and teachers. .
Trách nhiệm của học sinh trong cộng đồng Hướng dẫn Trách nhiệm của học sinh trong cộng đồng I. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Đề bài yêu cầu các em tự chọn nội dung cuộc họp (có thể là: vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ của công, tôn trọng luật đi đường v.v…).. Dựa vào cách thức tổ chức cuộc họp tổ mà em đã tiến hành làm bài ở tuần trước để giải quyết yêu cầu của đề bài này. Trình tự cuộc họp tổ tiến hành tương tự như đề bài trước đây, chỉ khác về mặt nội dung. Vì vậy, em chỉ cần tìm và suy nghĩ về những nội dung mà cả tổ quan tâm để cuộc họp diễn ra được sôi nổi. II. NHỮNG BÀI VĂN THAM KHẢO Bài làm 1 a) Lí do và mục đích cuộc họp: Thưa các bạn! Hôm nay, tổ ta họp về việc bảo vệ cây xanh ở khu vực trường và xung quanh lớp học của ta, góp phần cùng cả lớp và toàn trường thực hiện tốt phong trào “xanh trường đẹp lớp”. b) Tình hình bảo vệ cây xanh ở trường ta, lớp ta hiện nay: Qua cuộc họp lớp cuối tuần vừa qua, các bạn đã nghe cô chủ nhiệm nói rất nhiều về việc bảo vệ cây xanh ở khu vực trường hiện nay. Nhiều cây xanh đã bị xâm hại, nhất là những cây còn nhỏ luôn bị ai đó trảy lá, bẻ cành, làm cho chúng không lớn được. Nhà trường yêu cầu học sinh các lớp phải có ý thức bảo vệ cây xanh trong khung trường. Riêng cây xanh quanh khu vực lớp nào thì lớp đó phải chịu trách nhiệm bảo vệ. Vì vậy, theo ý kiến của cô chủ nhiệm, lớp ta có 12 cây xanh xung quanh lớp, chia đều cho 4 tổ. Mỗi tổ 3 cây. Tổ ta có 3 cây ở phía trước lớp. Tôi đề nghị các bạn thảo luận bàn biện pháp bảo vệ những cây đó. c) Biện pháp thực hiện: Sau khi thảo luận, các ý kiến đều thống nhất cách thức bảo vệ các cây xanh như saụ: – Các cây còn nhỏ cần phải có hàng rào che chắn. – Phải thường xuyên tưới nước cho cây. – Tổ có 12 người chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm chịu trách nhiệm chăm sóc bảo vệ 1 cây. – Tổ trưởng chịu trách nhiệm phân công cụ thể các cá nhân vào trong từng nhóm và định ra ngày cụ thể làm rào che chắn cho cả 3 cây. Bài làm 2 a) Lí do và mục đích cuộc họp: Thưa các bạn! Cuộc họp mặt của tổ ta hôm nay là bàn về việc ‘Thực hiện tốt luật đi đường” mà nhà trường đã phát động tuần qua, góp phần giảm bớt tình hình tai nạn giao thông trên đường bộ. b) Tình hình thực hiện luật giao thông ở trường ta, lớp ta hiện nay; Theo yêu cầu của cô chủ nhiệm trong buổi họp lớp cuối tuần vừa rồi, nhằm hưởng ứng phong trào “Thực hiện nghiêm chỉnh luật giao thông” mà nhà trường phát động. Trong thời gian vừa qua, theo thông tin của cô chủ nhiệm cho biết tin toàn trường ta xảy ra 3 vụ tai nạn giao thông, làm bị thương 3 bạn phải đưa đi cấp cứu. Vì vậy, cuộc họp này chúng ta trao đổi thảo luận, để mỗi cá nhân chúng ta khi đi đường luôn luôn có ý thức thực hiện tốt luật giao thông. c) Yêu cầu đối với mỗi cá nhân: – Học thuộc một số quy định về đi đường mà luật giao thông đã đề ra. – Học và nắm được những bảng hiệu thường gặp trên những con đường đi lại. – Không được đá bóng, chơi cầu lông, đùa giỡn… trên những con đường đi lại – Khi qua đường phải nhìn trước nhìn sau hoặc đi đến chỗ quy định cho phép người đi bộ băng qua đường mới được đi qua. – Luôn luôn phải có ý thức đi bên phải đường và phần đường dành cho người đi bộ. – Tuyệt đối không được quàng vai, bá cổ đi hàng hai, hàng ba trên đường.. d) Kết luận: Để thực hiện tốt luật đi đường, góp phần giảm bớt tai nạn giao thông đường bộ, rất mong các bạn thực hiện tốt những điều mà chúng ta đã thảo luận, trao đổi ở cuộc họp này.
Responsibilities of students in the community Instruct Responsibilities of students in the community I. ASSIGNMENT INSTRUCTIONS The topic requires students to choose the content of the meeting (it could be: environmental protection issues, public protection, respect for road rules, etc.). Depending on how the group meeting is organized, you did the homework last week to solve the requirements of this topic. The order of the group meeting is similar to the previous topic, only the content is different. Therefore, I just need to find and think about the content that the whole team is interested in so that the meeting can be exciting. II. REFERENCE ARTICLES Exercise 1 a) Reason and purpose of the meeting: Dear friends! Today, our team held a meeting about protecting trees in the school area and around our classrooms, contributing to the whole class and the whole school in successfully implementing the movement "green school, beautiful classroom". b) The current situation of protecting trees in our school and class: Through the class meeting last weekend, you heard the homeroom teacher talk a lot about protecting trees in the school area today. Many trees have been damaged, especially young trees, where someone always removes leaves and branches, making them unable to grow. The school requires students of all classes to be conscious of protecting trees within the school. As for the trees surrounding any class's area, that class must be responsible for protecting. Therefore, according to the homeroom teacher's opinion, our class has 12 trees around the class, divided equally among 4 groups. Each group has 3 trees. Our team has 3 trees in front of the classroom. I suggest you discuss measures to protect those trees. c) Implementation measures: After discussion, all opinions agreed on how to protect trees as follows: - Young trees need to have protective fences. – Must regularly water the plants. – The team has 12 people divided into 3 groups, each group is responsible for taking care of 1 tree. – The team leader is responsible for assigning specific individuals to each group and setting a specific day to build fences to protect all 3 trees. Exercise 2 a) Reason and purpose of the meeting: Dear friends! Our team's meeting today is to discuss 'Implementing good road rules' that the school launched last week, contributing to reducing traffic accidents on the road. b) The current situation of implementing traffic laws in our school and class; At the request of the homeroom teacher at the class meeting last weekend, in response to the movement "Strictly implement traffic laws" launched by the school. Recently, according to information from the homeroom teacher, our school had 3 traffic accidents, injuring 3 students and having to be taken to the emergency room. Therefore, at this meeting we discuss, so that each of us when on the road is always aware of good traffic laws. c) Requirements for each individual: - Memorize some road regulations set out by traffic laws. – Learn and understand common signs on commuting roads. - Do not play soccer, play badminton, play around... on roads. - When crossing the street, you must look ahead and look back or go to the designated place allowing pedestrians to cross the street to pass. – Always be conscious of walking on the right side of the road and pedestrian walkway. – Absolutely do not hang on your shoulders or hold your neck while walking in the second or third row on the road. d) Conclusion: In order to comply well with the road rules and contribute to reducing road traffic accidents, we hope you will follow them. good things that we discussed and exchanged at this meeting.
Trên đường thành công không có vết chân của kẻ lười biếng Hướng dẫn Trên đường thành công không có vết chân của kẻ lười biếng Người lười biếng là người lười suy nghĩ, học tập, lười lao động và làm việc. Mà thành công là mục đích, là kết quả mà người ta phải đổ mồ hôi, công sức, thời gian, trí tuệ, gian nan, vất vả, thậm chí phải nếm trải những thất bại mới có được. Vì vậy, Lỗ Tấn đã rút ra chân lý của sự thành công ” Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng“. Con đường dẫn đến thành công là con đường chông gai, đầy khó khăn, thử thách chứ không trải bằng hoa hồng. Là cả quá trình học tập, lao động, nghiên cứu sáng tạo không ngừng, đòi hỏi con người phải cần cù, miệt mài và chịu khó và có ý chí quyết tâm cao mới thành. Không có một thành công nào mà không đổi bằng mồ hôi, công sức. Người nông dân làm ra hạt gạo phải một nắng hai sương “Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” Một công trình khoa học, sáng chế ra đời là cả một quá trình nghiên cứu, lao động miệt mài của người kỹ sư. Để trở thành một giáo viên, nhà văn, bác sĩ giỏi được mọi người kính trọng, ngưỡng mộ phải đổi bằng tâm huyết cuộc đời…Vậy có thành công nào lại thuộc về người lười biếng? Có người lười biếng nào lại vươn được tới thành công? Cần khẳng định: Bất cứ sự thành công nào cũng cần sự cần cù, chăm chỉ, kiên trì, chịu khó. Lười biếng, ỷ lại, ngại khó ngại khổ sẽ chẳng bao giờ làm được việc gì có ý nghĩa. Hãy xây dựng ước mơ, hoài bão và nhân cách của mình bằng sức lao động, sự cần cù chăm chỉ để trở thành người tài đức trong cuộc sống. “Trong xã hội ta, không có nghề nào là thấp kém, chỉ có những kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ”(Hồ Chí MInh).
On the road to success there are no footprints of lazy people Instruct On the road to success there are no footprints of lazy people Lazy people are people who are lazy to think, study, work and work. Success is the goal, the result that people have to spend sweat, effort, time, intelligence, hardship, hardship, and even experience failure to achieve. Therefore, Lu Xun drew the truth of success: "On the path to success there are no footprints of lazy people". The path to success is thorny, full of difficulties and challenges, not paved with roses. It is a continuous process of learning, working, researching and creating, requiring people to be diligent, diligent, hard-working and have high determination to succeed. There is no success without sweat and effort. Farmers must produce rice grains in one sun and two dew “Hey, bring a bowl full of rice A flexible aromatic bitter seeds want to share" The birth of a scientific project or invention is a process of research and hard work of an engineer. To become a good teacher, writer, or doctor that everyone respects and admires, you must exchange it with your life's dedication... So is there any success that belongs to lazy people? Can any lazy person achieve success? It should be affirmed: Any success requires diligence, diligence, perseverance, and hard work. Lazy, dependent, afraid of difficulties and suffering will never be able to do anything meaningful. Build your dreams, ambitions and personality with hard work and diligence to become a virtuous person in life. "In our society, there is no inferior profession, only lazy and dependent people are shameful" (Ho Chi Minh).
Trình bày cảm nghĩ về bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn Hướng dẫn “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng, kiếm nguồn tươi sáng, ta nguyện đồng lòng điểm tô non sông”. Cứ mỗi lần nghe bài hát này, lòng em chợt rạo rực lạ thường. Em thèm muốn được sống lại những ngày lịch sử rực rỡ cờ hoa, hòa mình vào nhịp điệu khẩn trương của cuộc tổng khởi nghĩa mùa thu. Và cứ mỗi lần được nghe bài hát, em lại nhớ đến khí thế hào hùng không kém trong bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Bên cạnh lời văn hùng hồn, bài hịch còn toát lên tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của vị tướng tài ba đời Trần. Ngay từ đầu đoạn, ta đã cảm thấy có sự chẳng lành “Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan”. Quả vậy, giặc Nguyên Mông xâm lược đất nước, ngang nhiên giày xéo mảnh đất thiêng liêng, gây ra nhiều tội ác ngất trời. Mảnh đất từ bao đời nay vẫn nuôi sống chở che cho người Việt Nam, nay rên xiết dưới gót sất của quân thù, thử hỏi mỗi người dân Việt, trong dạ ai lại không đau xót? Nhìn cảnh ấy, lòng tác giả dấy lên một nỗi căm hận đối với bọn ngoại bang, chúng là bọn “cú diều” mà lại “sỉ mắng triều đình”, chúng hèn hạ thấp kém như “thân dê chó” mà đòi “bắt nạt tể phụ”. Hình ảnh ẩn dụ được ông sử dụng như một cái tát vào mặt bọn xâm lăng, vạch trần bộ mặt dối trá của chúng. Thật hả hê khi dưới ngòi bút của mình, Trần Quốc Tuấn bộc lộ rõ ràng lòng căm ghét, khinh rẻ bọn giặc lang sói ấy. Từ nỗi xót xa trước cảnh đất nước li tan, lòng ông dâng lên cuồn cuộn sự căm thù, như muôn vỡ tung lồng ngực để hét to lên tiếng “đánh”, để “xả” thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Được như thế, thì “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Một lần nữa, bằng cách dùng các điển tích, ông đã thể hiện lòng yêu nước, yêu quê hương của mình làm cho chắc chắn bất kì một ai khi đọc những lời lẽ ấy, hẳn không thể nào quay mặt làm ngơ. Bài hịch đã bộc lộ lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuấn. Say mê đọc những lời hịch lúc thì thiết tha lúc thì mạnh mẽ, em cảm thấy mình cũng có những trạng thái căm ghét, khinh khi bọn giặc và đau đớn, xót xa trước cảnh nước mất nhà tan. Rõ ràng bài hịch đã cuốn hút em, đưa em trở lại những ngày lịch sử oai hùng thuở trước. Từ thời Trần Quốc Tuấn đến nay, thời gian quả là rấtdài, song mỗi lần đọc bài hịch, em lại cảm thấy đâu đây không khí hào hùng, sôi động của các trận chiến oanh liệt khiến lòng em dấy lên niềm tự hào, vinh dự về trang sử vàng chói lọi: Ba lần đại thắng quân Nguyên mà em tin chắc rằng, bài “Hịch tướng sĩ” cũng đã góp phần không nhỏ. Bài hát vẫn vang vang thúc giục. Lòng rộn bao niềm vui, tự hào về Tổ quốc Việt Nam tươi đẹp, em thấy rõ hơn bao giờ hết nhiệm vụ của chính mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mai sau. Em sẽ cốgắng thực hiện bằng được những ước mơ của mình để khi lật lại những trang sử đẹp ấy, em sẽ không phải xấu hổ với những người anh hùng thuở trước.
Express your thoughts on the article "Hich Tuong Si" by Tran Quoc Tuan Instruct "Come on, brothers, let's go up the road together, looking for a bright source, we vow to unite and beautify the mountains and rivers." Every time I hear this song, my heart suddenly feels strangely excited. I long to relive those historical days filled with colorful flags and flowers, immersing myself in the urgent rhythm of the autumn general uprising. And every time I hear the song, I remember the equally heroic spirit in the song "Hich Tuong Si" by Tran Quoc Tuan. Besides the eloquent lyrics, the poem also exudes the profound love for the homeland and country of the talented general of the Tran Dynasty. Right from the beginning of the passage, I felt something was wrong: "You and I were born in chaotic times, growing up and facing difficult times." Indeed, the Mongol invaders invaded the country, blatantly trampled on the sacred land, and committed many sky-high crimes. The land that has for many generations provided food and shelter for the Vietnamese people, now groans under the enemy's heel. Let's ask each Vietnamese person, who does not feel pain in their hearts? Looking at that scene, the author's heart aroused a hatred for the foreigners, they were "owls" and yet they "blasphemed the court", they were as vile and lowly as "the bodies of goats and dogs" and demanded to "arrest them". bully the slave". The metaphor he used was like a slap in the face of the invaders, exposing their lies. It is gratifying that under his pen, Tran Quoc Tuan clearly expressed his hatred and contempt for those wolf and wolf invaders. From the sadness at the scene of the country's separation, his heart surged with hatred, as if he wanted to burst his chest to scream loudly "fight", to "flush" the flesh and skin, swallow the liver and drink the enemy's blood. . If that is the case, then "even if these hundred bodies are exposed to the grass, or these thousand bodies are wrapped in horse skin, I will still be satisfied." Once again, by using historical stories, he showed his patriotism and love for his homeland, making it certain that anyone reading those words would not be able to turn a blind eye. The poem revealed Tran Quoc Tuan's passionate patriotism. Passionately reading the sometimes passionate, sometimes strong words, I felt that I also had feelings of hatred, contempt for the enemy and pain and sadness at the loss of my country and home. Clearly, the song attracted me, bringing me back to the heroic historical days of the past. From the time of Tran Quoc Tuan until now, the time has been very long, but every time I read the poem, I feel somewhere the heroic and exciting atmosphere of glorious battles, making my heart arouse pride and honor. contemplating a brilliant golden page of history: Three great victories over the Yuan army, which I firmly believe, the song "Hich Tuong Si" also contributed significantly. The song still resonates and urges. My heart is filled with joy and pride in the beautiful Vietnamese Fatherland. I see more clearly than ever my own mission in the future career of building and protecting the Fatherland. I will try to fulfill my dreams so that when I turn back those beautiful pages of history, I will not be ashamed of the heroes of the past.
Trình bày cảm nghĩ về bài Hịch tướng sĩ – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng, kiếm nguồn tươi sáng, ta nguyện đồng lòng điểm tô non sông”. Cứ mỗi lần nghe bài hát này, lòng em chợt rạo rực lạ thường. Em thèm muốn được sống lại những ngày lịch sử rực rỡ cờ hoa, hòa mình vào nhịp điệu khẩn trương của cuộc tổng khởi nghĩa mùa thu. Và cứ mỗi lần được nghe bài hát, em lại nhớ đến khí thế hào hùng không kém trong bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Bên cạnh lời văn hùng hồn, bài hịch còn toát lên tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của vị tướng tài ba đời Trần. Ngay từ đầu đoạn, ta đã cảm thấy có sự chẳng lành “Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan”. Quả vậy, giặc Nguyên Mông xâm lược đất nước, ngang nhiên giày xéo mảnh đất thiêng liêng, gây ra nhiều tội ác ngất trời. Mảnh đất từ bao đời nay vẫn nuôi sống chở che cho người Việt Nam, nay rên xiết dưới gót sắt của quân thù, thử hỏi mỗi người dân Việt, trong dạ ai lại không đau xót? Nhìn cảnh ấy, lòng tác giả dấy iên một nỗi căm hận đối với bọn ngoại bang, chúng là bọn “cú diều” mà lại “sỉ mắng triều đình”, chúng hèn hạ thấp kém như “thân dê chó” mà đòi “bắt nạt tể phụ”. Hình ảnh ẩn dụ được ông sử dụng như một cái tát vào mặt bọn xâm lăng, vạch trần bộ mặt dối trá của chúng. Thật hả hê khi dưới ngòi bút của mình, Trần Quốc Tuấn bộc lộ rõ ràng lòng căm ghét, khinh rẻ bọn giặc lang sói ấy. Từ nỗi xót xa trước cảnh đất nước li tan, lòng ông dâng lên cuồn cuộn sự căm thù, như muốn vỡ tung lồng ngực để hét to lên tiếng “đánh”, để “xả” thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Được như thế, thì “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Một lần nữa, bằng cách dùng các điển tích, ông đã thể hiện lòng yêu nước, yêu quê hương của mình làm cho chắc chắn bất kì một ai khi đọc những lời lẽ ấy, hẳn không thể nào quay mặt làm ngơ. Bài hịch đã bộc lộ lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuấn. Say mê đọc những lời hịch lúc thì thiết tha lúc thì mạnh mẽ, em cảm thấy mình cũng có những trạng thái căm ghét, khinh khi bọn giặc và đau đớn, xót xa trước cảnh nước mất nhà tan. Rõ ràng bài hịch đã cuốn hút em, đưa em trở lại những ngày lịch sử oai hùng thuở trước. Từ thời Trần Quốc Tuấn đến nay, thời gian quả là rất dài, song mỗi lần đọc bài hịch, em lại cảm thấy đâu đây không khí hào hùng, sôi động của các trận chiến oanh liệt khiến lòng em dấy lên niềm tự hào, vinh dự về trang sử vàng chói lọi: Ba lần đại thắng quân Nguyên mà em tin chắc rằng, bài “Hịch tướng sĩ” cũng đã góp phần không nhỏ. Bài hát vẫn vang vang thúc giục. Lòng rộn bao niềm vui, tự hào về Tổ quốc Việt Nam tươi đẹp, em thấy rõ hơn bao giờ hết nhiệm vụ của chính mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mai sau. Em sẽ cố gắng thực hiện bằng được những ước mơ của mình để khi lật lại những trang sử đẹp ấy, em sẽ không phải xấu hổ với những người anh hùng thuở trước. Tags:Văn 8
Present your thoughts about the article "Hich Tuong Si" - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment "Come on, brothers, let's go up the road together, looking for a bright source, we vow to unite and beautify the mountains and rivers." Every time I hear this song, my heart suddenly feels strangely excited. I long to relive those historical days filled with colorful flags and flowers, immersing myself in the urgent rhythm of the autumn general uprising. And every time I hear the song, I remember the equally heroic spirit in the song "Hich Tuong Si" by Tran Quoc Tuan. Besides the eloquent lyrics, the poem also exudes the profound love for the homeland and country of the talented general of the Tran Dynasty. Right from the beginning of the passage, I felt something was wrong: "You and I were born in chaotic times, growing up and facing difficult times." Indeed, the Mongol invaders invaded the country, blatantly trampled on the sacred land, and committed many sky-high crimes. The land that for many generations has been feeding and protecting the Vietnamese people, now groans under the iron heel of the enemy. Let's ask each Vietnamese person, who does not feel pain in their hearts? Looking at that scene, the author's heart was filled with hatred for the foreigners, they were "owls" and yet they "blasphemed the court", they were as vile and lowly as "the bodies of goats and dogs" and demanded to "arrest them". bully the slave". The metaphor he used was like a slap in the face of the invaders, exposing their lies. It is gratifying that under his pen, Tran Quoc Tuan clearly expressed his hatred and contempt for those wolf and wolf invaders. From the sadness at the scene of the country's separation, his heart surged with hatred, as if he wanted to burst his chest to scream loudly "fight", to "flush" the flesh and skin, swallow the liver and drink the enemy's blood. . If that is the case, then "even if these hundred bodies are exposed to the grass, or these thousand bodies are wrapped in horse skin, I will still be satisfied." Once again, by using historical stories, he showed his patriotism and love for his homeland, making it certain that anyone reading those words would not be able to turn a blind eye. The poem revealed Tran Quoc Tuan's passionate patriotism. Passionately reading the sometimes passionate, sometimes strong words, I felt that I also had feelings of hatred, contempt for the enemy and pain and sadness at the loss of my country and home. Clearly, the song attracted me, bringing me back to the heroic historical days of the past. From the time of Tran Quoc Tuan until now, the time has been very long, but every time I read the poem, I feel somewhere the heroic and exciting atmosphere of glorious battles, making my heart swell with pride. the honor of a brilliant golden page of history: three great victories over the Yuan army, which I firmly believe, the song "Hich Tuong Si" also contributed significantly. The song still resonates and urges. My heart is filled with joy and pride in the beautiful Vietnamese Fatherland. I see more clearly than ever my own mission in the future career of building and protecting the Fatherland. I will try to fulfill my dreams so that when I turn back those beautiful pages of history, I will not be ashamed of the heroes of the past. Tags: Literature 8
Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Sang Thu Hướng dẫn Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Sang Thu Bài làm Sang thu là bức thông điệp lúc giao mùa khi mùa thu sen lấn dần mùa hạ. Khoảnh khắc ấy được diễn tả bằng sự dung cảm, tinh tế sâu sắc về sự biến đổi không gian thiên nhiên lúc sang thu. Bài thơ Sang Thu được Hữu Thỉnh sáng tác vào cuối năm 1977 được diễn tả khoảnh khắc giao mùa đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động một cách giao hòa và đồng điệu. Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về Mùa thu đến với nhà thơ khá đột ngột bất ngờ, dường như không hẹn trước mà bỗng nhận hòa. Một buổi sáng chớm vào thu cảm nhận đầu tiên trong tâm hồn thi sĩ không phải bắt đầu từ trời xanh, mây trắng, hoa cúc vàng. Bắt đầu từ hương ổi, hương ổi thơm là cảm giác rất thực khi tác giả lần đầu thu hòa bình trong không gian yên tĩnh của súng bom, trận mạc. Hương ổi phả vào gió chứ không phải gió bay đưa hương ổi, bởi vì gió se, gió mùa thu rất nhẹ rất khé mới chớm thu mà đã thầy lành lạnh, những dấu hiệu mang đặc trưng mùa thu đã hiện diện cảm nhận rất tinh tế, chính xác rồi sao tác giả lại viết ” Hình như hương ổi đã về”. Phải chăng thu về đột ngột bất ngờ hay trong chữ hình như còn chứa nỗi niềm sang thu đời người. Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Cảm nhận thu sang từ một khu vườn không gian hẹp, thiên nhiên mở ra ở góc nhìn rộng lớn, nhiều tầng bậc, bức tranh thu từ những gì vô hình chuyển sang những hình ảnh cụ thể hữu hình Sông, chim, mây. Với những không gian rộng dài cao sa, một bức tranh thu cổ điển chỉ vài nét chấm phá mà bao quát cả bầu trời mặt đất. Xong bức tranh thu của Hữu Thỉnh lại rất hiện đại, cấu trúc cân đối, tự nhiên chặt chẽ tuyệt đẹp. Dòng sông không dồn dập dữ dội, mùa hạ mà êm ả dộn dàng, hững hờ trở ngược lại với dòng sông, chim lại bắt đầu vội vã có lẽ hỏi thu đã báo trước cho chúng một cuộc tránh rét. Phải là người tinh tế lắm mới nhận ra sự bắt đầu chứ không phải đang vội vã. Dù cánh chim vội vã thì không khí thu vẫn cứ bao trùm cái nắng đọng chậm rãi được diễn tả qua đám mây, thảnh thơi duyên dáng. Câu thơ đẹp mà sống động chữ vắt vừa gợi hình vừa gợi cảm. Khổ thơ mang đến vẻ đẹp mới làm trọn vẹn lên ý sang thu của cảnh vật hồn người. Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Cũng nắng, mưa, sấm như mùa hạ nhưng tất cả chỉ còn mức độ. Sấm cũng bớt bất ngờ âm ỉ trên hàng cây đứng tuổi, thiên nhiên vào thu và gần đi vào thế ổn định hay cũng là sự từng trải suy nghĩ đúng đắn khi bắt đầu sang thu chẳng còn bất ngờ, sợ hãi trao đùa trước nắng mưa, sấm xét bão bùng. Hình ảnh thơ rất đẹp, ngôn từ rất tinh tế, giọng thơ thì êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong tiết trời giao mùa để tạo nên một dấu ấn vô cùng sâu đậm trong lòng độc giả. Có lẽ, chính vì vậy mà sau khi đọc bài ” Sang Thu ” của nhà thơ Hữu Thỉnh ta lại càng thấy yêu mùa thu tha thiết hơn, nồng hậu của quê nhà.
Present your feelings about the poem Sang Thu Instruct Present your feelings about the poem Sang Thu Assignment Coming to autumn is a message at the transition of seasons when autumn gradually encroaches on summer. That moment is described with courage and profound sophistication about the transformation of natural space in autumn. The poem Sang Thu, composed by Huu Thinh at the end of 1977, describes the most beautiful moment of nature's changing seasons, it sows vibrations in people's hearts in a harmonious and harmonious way. Suddenly I noticed the scent of guava Blown into the wind The fog drifted through the alley Thu seemed to have about Autumn came to the poet quite suddenly and unexpectedly, as if without any prior appointment, but suddenly accepted peace. One early morning in autumn, the first feeling in the poet's soul did not start with the blue sky, white clouds, and yellow chrysanthemums. Starting from the scent of guava, the fragrant scent of guava is a very real feeling when the author first experienced peace in the quiet space of guns, bombs, and battles. The guava scent is blown into the wind, not the wind blowing the guava scent, because the wind is cold, the autumn wind is very light, very light, it's just the beginning of autumn but it's already cool, the characteristic signs of autumn are already present and felt very clearly. Actually, why exactly did the author write "It seems like the guava scent has returned". Is it that autumn comes suddenly and unexpectedly or does the word seem to contain the joy of autumn in life? Birds began to rush There are summer clouds Squeeze half of yourself into autumn Feeling autumn from a narrow space garden, nature opens up in a large, multi-layered perspective, the picture of autumn changes from the invisible to concrete, tangible images of rivers, birds, clouds. With wide and long spaces of tall grass, a classic autumn painting with just a few strokes covers the whole sky and earth. Huu Thinh's finished autumn painting is very modern, with a balanced structure, a beautiful natural tightness. The river was not rushing violently, but in the summer it was calm and easy, nonchalantly returning to the river, the birds began to rush again, perhaps autumn had foretold them an escape from the cold. It takes a very sophisticated person to recognize the beginning and not be in a hurry. Even though the birds are rushing, the autumn air still covers the slowly lingering sunlight expressed through the clouds, gracefully relaxing. The poem is beautiful and vivid, the words are both suggestive and sexy. The poem brings a new beauty that completes the autumnal feeling of the landscape and human soul. How much sunshine is still left? The rain has gradually subsided Thunder is also less surprising On older trees It's the same sun, rain, and thunder as summer, but it's all in moderation. Thunder is also less sudden and dull on the old trees, nature is in autumn and is almost in a stable position, or is it also the experience of thinking correctly when autumn begins, there are no more surprises, fears and jokes in front of the sun. rain, thunder and storms. The poetic images are very beautiful, the words are very delicate, the poetic voice is peaceful and the author's sad, wistful vibrations in the changing seasons create an extremely deep impression in the hearts of readers. Perhaps that's why after reading the poem "Sang Autumn" by poet Huu Thinh, we love autumn even more passionately and warmly in our homeland.
Trình bày cảm nhận của em vềhình tượng gươm thần trong truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm Hướng dẫn Đề bài: Gươm thần là một trong những “nhân vật” vô cùng quan trọng trong truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm. Hãy nêu những cảm nhận của em về “nhân vật” này. I. Dàn ý chi tiết 1. Mở bài Giới thiệu truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm” và “nhân vật” Gươm thần: trong truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm”, Gươm thần đã thể hiện được niềm tự hào của lòng yêu nước 2. Thân bài -Gươm thần là hiện thân của sự chính nghĩa, ủng hộ của nhân dân: trên Gươm thần còn khắc sâu hai chữ “Thuận Thiên” -Gươm thần mang ý nghĩa nhắc nhở về sự kiên trì, nhẫn nại: Lê Thận sau ba lần quăng lưới vất vả mới nhận được lưỡi gươm dưới nước -Gươm thần mang ý nghĩa về sự thống nhất và đoàn kết đại dân tộc: Lê Lợi sau khi phải chạy giặc vào trong rừng thì nhận được chuôi gươm -Gươm thần đã mang đến sức mạnh thần kì cho nghĩa quân: sức mạnh của gươm thần làm tăng thêm sức mạnh của nghĩa quân 3. Kết bài Ý nghĩa nhân vật Gươm thần: giúp cho chúng ta nhớ về một thời kì lịch sử oai hùng, tinh thần đoàn kết và quyết tâm chiến đấu chống giặc Minh. II. Bài tham khảo Gươm thần là một “nhân vật” đã có vai trò đặc biệt trong các truyền thuyết nổi tiếng của văn học nước nhà, Gươm thần mang những ý nghĩa tượng trưng sâu sắc và thấm thía. Trong mỗi câu truyện lại có vẻ đẹp và ý nghĩa riêng, trong truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm”, Gươm thần đã thể hiện được niềm tự hào của lòng yêu nước và yêu hòa bình của dân tộc ta. Gươm thần vốn là của Đức Long Quân, ngài đã cho nghĩa quân của Lê Lợi mượn để đánh giặc bởi ngài biết chúng ta đấu tranh vì chính nghĩa, vì bảo vệ nền độc lập và hòa bình của dân tộc, đấu tranh vì lòng yêu đất nước, trên Gươm thần còn khắc sâu hai chữ “Thuận Thiên”. Long Quân cũng chính là một nhân vật thần kì do nhân dân sáng tạo ra, khi đó Gươm thần đã trở thành hiện thân của sự đồng thuận và hết lòng ủng hộ của nhân dân đối với sự nghiệp dẹp giặc Minh của nghĩa quân Lam Sơn. Cách đưa Gươm thần đến với vị chỉ tướng Lê Lợi cũng rất đặc biệt, vị chủ tướng này không được trực tiếp nhận gươm mà lại là một anh chàng làm nghề đánh cá Lê Thận sau ba lần quăng lưới vất vả mới nhận được lưỡi gươm dưới nước. Chi tiết này ý muốn nhắc nhở chúng ta về cuộc chiến, muốn thắng lợi chắc chắn phải nhẫn nại và kiên trì chiến đấu, không được dễ dàng đầu hàng và bỏ cuộc. Rồi chi tiết Lê Lợi sau khi phải chạy giặc vào trong rừng thì nhận được chuôi gươm, đem tra với lưỡi gươm thì vừa như in, điều đó muốn chứng tỏ rằng, Gươm thần thể hiện và nhắc nhở chúng ta về tinh thần đoàn kết, sự thống nhất trong nguyện vọng và ý chí chống giặc ngoại xâm. Lưỡi gươm ở dưới nước, chuôi gươm ở trên rừng, giống như miền xuôi với miền ngược, đồng bằng với miền núi, phải hòa hợp và thống nhất đồng lòng với nhau trên toàn dân tộc. Gươm thần đến với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đã phát huy sức mạnh và sự thần kì của mình. Từ có Gươm thần trong tay, nhuệ khí của nghĩa quân ngày càng tăng cao, sức mạnh của gươm thần làm tăng thêm sức mạnh của nghĩa quân, làm cho giặc Minh kinh hồn bạt vía. Gươm thần cùng với Lê Lợi tung hoành khắp các trận địa, giết không chừa một tên giặc nào. Từ thế trận bị động và nhiều lần thua phải tháo chạy, nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thế chủ động đi tìm giặc, chiến thắng giòn rã, đuổi sạch bóng quân thù trên đất nước. Khi đất nước đã được yên ổn, thanh bình Đức Long Quân đã cho Rùa Vàng lên lấy lại gươm thần. Khi ấy chủ tướng Lê Lợi đã lên làm vua, sau khi đã dẹp tan giặc minh, lấy lại hòa bình ấm no cho nhân dân. Trong một lần Lê Lợi đi dạo bằng thuyền rồng trên hồ Tả Vọng, Rùa Vàng đã nhô lên, gươm thần bên Lê Lợi cũng theo đó mà động đậy. Rùa Vàng nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”, Vua liền rút gươm nâng về phía Rùa Vàng, Rùa Vàng ngậm lấy và lặn xuống nước. Nhìn xuống mặt nước khi ấy vẫn thấy một vật gì đó sáng long lanh. Chi tiết này cũng khẳng định rằng Gươm thần vẫn ở đó, vẫn luôn sát cánh cùng nhân dân, đó là điềm cảnh báo và đe dọa đối với kẻ thù rằng chớ có sang xâm lược. Có thể thấy, chỉ bằng một “nhân vật” đặc biệt này, truyền thuyết đã trở nên có ý nghĩa sâu sắc và thấm thía hơn, giúp cho chúng ta nhớ về một thời kì lịch sử oai hùng, tinh thần đoàn kết và quyết tâm chiến đấu chống giặc Minh của dân tộc ta.
Present your feelings about the image of the magic sword in the legend of The Legend of Sword Lake Instruct Topic: Magic Sword is one of the extremely important "characters" in the legend of The Legend of Sword Lake. Please tell me your feelings about this "character". I. Detailed outline 1. Open the lesson Introducing the legend "The Legend of Sword Lake" and the "character" Magic Sword: in the legend "The Legend of Sword Lake", Magic Sword shows the pride of patriotism 2. Body of the article -The Magic Sword is the embodiment of righteousness and support of the people: on the Magic Sword the two words "Thuan Thien" are deeply engraved. -The magic sword is a reminder of perseverance and patience: after three times of casting the net, Le Than received the sword underwater. -The magic sword carries the meaning of unity and solidarity of the great nation: After Le Loi had to flee the enemy into the forest, he received the hilt of the sword. -The magic sword brought magical power to the insurgents: the power of the magic sword increased the strength of the insurgents 3. Conclusion The meaning of the character Magic Sword: helps us remember a heroic historical period, the spirit of solidarity and determination to fight against the Ming invaders. II. Reference article The Magic Sword is a "character" that has a special role in famous legends of the country's literature. The Magic Sword has deep and profound symbolic meanings. Each story has its own beauty and meaning. In the legend "The Legend of Sword Lake", the Magic Sword represents the pride of our nation's patriotism and love of peace. The magic sword originally belonged to Duc Long Quan, he lent it to Le Loi's insurgents to fight the enemy because he knew we were fighting for justice, to protect the independence and peace of the nation, to fight for love. country, on the Divine Sword there are still two words "Thuan Thien" deeply engraved. Long Quan is also a magical character created by the people. At that time, the Magic Sword became the embodiment of the people's consensus and wholehearted support for the Lam Son insurgents' cause of suppressing the Ming invaders. . The way to bring the Magic Sword to General Le Loi was also very special. This general did not receive the sword directly, but a guy who worked as a fisherman, Le Than, only after three hard casts of the net did he receive the sword. Underwater. This detail is intended to remind us of the war. If we want to win, we must be patient and persistent in fighting, not easily surrender and give up. Then the detail that Le Loi, after having to run away from the enemy into the forest, received the hilt of the sword. When he placed it with the blade, it was just like print. That wants to prove that the Magic Sword represents and reminds us of the spirit of solidarity. , unity in aspirations and will to fight against foreign invaders. The blade of the sword is in the water, the hilt is in the forest, like the lowlands and the uplands, the plains and the mountains, must be in harmony and unity with each other throughout the nation. The magic sword came to Le Loi and the Lam Son insurgent army promoted its power and magic. Since having the Magic Sword in hand, the morale of the insurgent army increased day by day. The power of the magic sword increased the strength of the insurgent army, making the Ming enemy terrified. The magic sword along with Le Loi rampaged across the battlefields, killing not a single enemy. From a passive position and having to flee many times when they lost, the Lam Son insurgent army switched to an active position to search for the enemy, winning decisively, chasing away all enemies in the country. When the country was peaceful and peaceful, Duc Long Quan sent the Golden Turtle to retrieve the magic sword. At that time, General Le Loi became king, after defeating the enemy and restoring peace and prosperity for the people. One time Le Loi went for a walk by dragon boat on Ta Vong Lake, the Golden Turtle emerged, and the magic sword next to Le Loi also moved. The Golden Turtle said: "Your Majesty, please return the sword to Long Quan." The King immediately pulled out his sword and lifted it towards the Golden Turtle. The Golden Turtle took it in his mouth and dived into the water. Looking down at the water surface, I still saw something shiny. This detail also confirms that the Magic Sword is still there, always standing side by side with the people, which is a warning and threat to the enemy not to invade. It can be seen that, with just this one special "character", the legend has become more meaningful and poignant, helping us remember a heroic historical period, the spirit of solidarity and determination. our nation's heart to fight against the Ming enemy.
Trình bày cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của tác giả Tố Hữu. Hướng dẫn Tố Hữu viết bài thơ “Khi con tu hú” vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày bị giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế). Không gian, thời gian, tâm trạng của tác giả đã được thể hiện qua những câu thơ đặc sắc trong bài thơ. Bài thơ bắt đầu bằng tiếng chim tu hú gọi bầy vang vào ngục thất, nơi có một tù nhân đang bị giam cầm. Tiếng chim tu hú đã gợi lên trong tác giả nhiều điều về nỗi nhớ và hoài niệm. Tu hú thì gọi bầy; lúa chim thì đương chín, trái cây thì ngọt dần. Âm thanh và hương vị thể hiện một khung cảnh của làng quê thân yêu. Chữ “đương chín” và “ngọt dần” gợi tả sự trôi qua của thời gian một cách chậm chạp. Giọng thơ bồi hồi và da diết xuất phát từ không gian mênh mông: Khi con tu hú gọi bầy Lúa chim đương chín, trái cây ngọt dần. Giữa chốn ngục tù lòng sôi rạo rực, người chiến sĩ nhớ tiếng ve ngân, nhớ màu vàng của bắp, màu đào của nắng. Khung cảnh cánh đồng quê hiện lên một cách bình dị, thân thiết, yêu thương: Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào. Chỉ có những ai có khát vọng sông mới có được nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve ngân chứa đầy tâm trạng. Đó là tâm trạng ngột ngạt, tù túng nơi buồng giam; là tất cả những gì tác giả đã cảm nhận trong những ngày tháng tự do. Sau tiếng ve là màu sắc của thiên nhiên, của nắng và của bắp. Những thứ hết sức bình dị trong cuộc sống hàng ngày giờ trở thành những hình ảnh hết sức đẹp trong thơ Tô’ Hữu. Chữ “ngân” diễn tả thời gian kéo dài còn từ “đầy” diễn tả không gian có ánh nắng chan hòa và rực rỡ. Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không. Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu, nó không dừng lại ở câu thơ mà đã nên nhạc, nên họa. Ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt và giàu tính hình ảnh. Các câu thơ đã thể hiện sự trẻ trung và yêu đời, niềm khát khao và say mê cuộc sống. Có thể nói nhà thơ đang ở trong lao nhưng tâm hồn thì vẫn hướng về một không gian bao la nơi có bầu trời xanh, có nắng ấm, có tất cả những gì thuộc về cuộc sống tự do ở bên ngoài. Những câu thơ tiếp theo nhà thơ đã chuyển từ giọng điệu tha thiết sang giọng điệuuất hận sục sôi. Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! Ngột làm sao chết uất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu. Luyện tập Đề 1: Trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ Khi con tu hú. Đề 2: Những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ TốH ữu. Đề 3: Phân tích tâm trạng của Tố Hữu qua bài thơ Khi con tu hú. Đề 4: Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu. Đề 5: Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu để chứng tỏ rằng dù đang ở trong tù nhưng lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do vẫn luôn cháy bỏng trong lòng người chiến sĩ cách mạng.
Presenting your feelings about the poem When You Howl by author To Huu. Instruct To Huu wrote the poem "When I howl" in July 1939 after nearly 100 days of being detained in Thua Phu prison (Hue). Space, time, and the author's mood are expressed through unique verses in the poem. The poem begins with the sound of howling birds calling their flock into a prison, where a prisoner is being held. The sound of howling birds evoked in the author many things about nostalgia and nostalgia. Howling calls the herd; The rice is about to ripen, and the fruit is gradually sweetening. The sounds and smells present a scene of the beloved village. The words "ripening" and "gradually sweetening" describe the slow passage of time. The poetic voice is restless and poignant coming from the vast space: When you howl and call the herd The rice is ripening and the fruit is gradually sweetening. In the midst of a boiling prison, the soldier remembered the sound of cicadas, the yellow color of corn, the peach color of sunshine. The countryside scene appears in a simple, intimate, and loving way: The shady garden is filled with the sound of cicadas Yellow sifted corn fills the sunny peach yard. Only those who have a longing for the river can have that nostalgia. The poem is full of color, light and sound. The sound of cicadas is full of mood. That is the stuffy, cramped mood in the prison cell; is everything the author felt during his free days. Behind the sound of cicadas are the colors of nature, sunshine and corn. Very simple things in everyday life have now become extremely beautiful images in To' Huu's poetry. The word "silver" describes a long period of time while the word "full" describes a space with bright and radiant sunlight. The blue sky is wider and higher A pair of starling kites somersaulted into nothingness. The first six verses reveal a picture of the beloved countryside. It does not stop at the verse but becomes music and painting. The language is clear, polished and rich in images. The verses express youthfulness and love of life, desire and passion for life. It can be said that the poet is in a prison but his soul is still looking towards a vast space where there is blue sky, warm sunshine, and everything that belongs to a free life outside. In the following verses, the poet changes from an earnest tone to a seething tone of resentment. I hear summer rising in my heart But my feet want to smash the room, oh summer! How can I die of sadness? The howling bird outside kept calling. Practice Topic 1: Presenting the circumstances of the birth of the poem When you howl. Topic 2: Main features of the life and career of poet To Huu. Topic 3: Analyze To Huu's mood through the poem When you howl. Topic 4: Analyze the poem When I Howl by To Huu. Topic 5: Analyze the poem When You Howl by To Huu to show that even though he is in prison, the love for life and the desire for freedom are always burning in the hearts of revolutionary soldiers.
Trình bày cảm nhận về bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt Bài làm Trong kho tàng văn học dân tộc Việt Nam đã có rất nhiều những tác phẩm hay và đặc sắc nói về lòng yêu nước của nhân dân ta. Trong số đó phải kể đến tác phẩm “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, đây là một trogn những bài thơ tiêu biểu về lòng yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc. Bài thơ được xem như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. Ngay ở những câu thơ đầu tiên, tác giả đã đưa ra một lời khẳng định hùng hồn và đanh thép về vấn đề chủ quyền ranh giới lãnh thổ với cách lập luận rất xác đáng, không thể phản biện, chối cãi: “Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời” Bằng giọng điệu hào sảng, tác giả đã khẳng định lãnh thổ chủ quyền của chính dân tộc mình, tuy nhiên Lý Thường Kiệt không dựa trên những suy nghĩ chủ quan của riêng mình để phán xét mà ông đã dựa trên lập trường của những con người bình thường. Cái nhìn chủ quan của họ sẽ khẳng định được những chân lí hiển hiện trước mắt, những cái mà ai cũng biết, ai cũng phải thừa nhận. “Sông núi nước Nam” ý chỉ phần lãnh thổ của nước Nam, sông và núi là biểu tượng cho ranh giới ấy. Điều đó khẳng định Việt Nam là một nước có chủ quyền, có người đứng đầu, làm chủ là “vua nước Nam”. Tiếp theo, để tiếp tục chứng minh cho lời khẳng định của mình, tác giả đã chỉ ra nguồn gốc, căn nguyên của lời khẳng định ấy. “Rành rành” là sự hiển hiện rõ ràng, chắc chắn và rõ nét, thêm vào đó “định phận” là đã được định đoạt từ trước, quy định tại “sách trời”. Câu thơ mang ý nghĩa rằng, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được định đoạt ở sách trời, minh chứng được hành động đấu tranh của dân ta là chính nghĩa. Từ đây, Lý Thường Kiệt đã lên tiếng cảnh báo đầy hùng hồn về kết cục bi thảm của kẻ thù xâm lược nếu cố tình xâm phạm và chủ quyền của dân tộc này: “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” Ở hai câu thơ này, tác giả đã bộc lộ một thái độ giận dữ đối với hành động ngang ngược, trái luân thường đạo lí và lẽ trời của lũ xâm lăng. “Cớ sao” là ý hỏi đầy giận dữ, chúng đã biết hành động xâm lăng là sai trái, xâm lược vào đất nước đã có chủ quyền là ngược đạo trời nhưng chúng vẫn tỏ ra ngạo mạn, bạo tàn với dân chúng. Bên cạnh đó, câu thơ còn thể hiện thái độ không hề nhún nhường, nhân nhượng trước những hành động xâm lăng bạo tàn của lũ giặc. Đó chính là chí khí anh hùng, bản lĩnh của một người dân yêu nước. Lý Thường Kiệt đã cảnh báo trước cho lũ giặc biết rằng hậu quả chúng phải nhận lấy khi xâm lược Việt Nam “đánh tơi bời”. Câu thơ một lần nữa thể hiện niềm tin bất diệt của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực bạo tàn. Như vậy có thể thấy, bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đã trở thành một bản anh hùng ca của dân tộc, nó được vang lên đầy hào sảng, mạnh mẽ và không kém phần tự hào. Vượt ra khỏi giới hiện của những giá trị về nội dung và nghệ thuật thông thường, bài thơ đã trở thành một áng thơ văn bất hủ, một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Presenting feelings about the poem Nam Quoc Son Ha by Ly Thuong Kiet Assignment In the treasury of Vietnamese national literature, there are many good and unique works that talk about the patriotism of our people. Among them is the work "Nam Quoc Son Ha" by Ly Thuong Kiet, which is one of the typical poems about patriotism and a sense of national pride. The poem is considered our country's first declaration of independence. Right in the first verses, the author makes an eloquent and strong assertion about the issue of sovereignty and territorial boundaries with a very accurate argument that cannot be argued or denied: “The rivers and mountains of the Southern country are where the Southern king lives Your destiny is clearly in the book of heaven." In a generous tone, the author affirmed the sovereign territory of his own people. However, Ly Thuong Kiet did not base his judgment on his own subjective thoughts, but rather on the stance of the people. normal person. Their subjective view will confirm the truths that appear before their eyes, things that everyone knows and everyone must acknowledge. "Rivers and mountains of the South" refers to the territory of the South, rivers and mountains are symbols of that boundary. That affirms that Vietnam is a sovereign country, whose head and master is the "King of the South". Next, to continue to prove his assertion, the author pointed out the origin and cause of that assertion. "Obvious" is a clear, certain and clear manifestation, in addition, "fate" is predetermined, prescribed in the "book of heaven". The verse means that Vietnam's territorial sovereignty has been determined in heaven, proving that our people's struggle is just. From here, Ly Thuong Kiet spoke out an eloquent warning about the tragic outcome of the invading enemy if they intentionally violate the sovereignty of this nation: "Why does the enemy dare to invade They will be beaten to a pulp.” In these two verses, the author expressed an angry attitude towards the invaders' unruly, immoral and unethical actions. “Why” is an angry question. They know that the act of invasion is wrong, that invading a sovereign country is against the heavens, but they still show arrogance and brutality towards the people. Besides, the poem also shows an attitude of not being humble or tolerant towards the brutal invasions of the enemy. That is the heroic spirit and bravery of a patriotic people. Ly Thuong Kiet warned the invaders in advance that the consequences they would have to face when invading Vietnam would be "beating the crap out of them". The verse once again demonstrates the undying faith of our people in the struggle against brutal forces. Thus it can be seen that Ly Thuong Kiet's poem "Nam Quoc Son Ha" has become an epic poem of the nation, it is resounded with magnanimity, strength, and no less pride. Going beyond the current boundaries of conventional content and artistic values, the poem has become an immortal piece of poetry, the first declaration of independence of the Vietnamese people.
Đề bài: Trình Bày Cảm Nhận Về Bài Thơ Đi Đường Của Hồ Chí Minh. BÀI LÀM Những sáng tác của Hồ Chí Minh trong tập thơ “Nhật kí trong tù” không chỉ nói lên hiện thực mà thường gửi gắm vào đó là những bài học, triết lý của cuộc sống. Là một trong tổng số 134 bài thơ trong tập thơ “Nhật kí trong tù”, bài thơ “Đi đường” (Tẩu lộ) nêu lên bài học cuộc sống: vượt qua gian lao chồng chất sẽ tới thắng lợi vẻ vang. Hai câu thơ đầu, tác giả gợi ra những khó khăn, thử thách của việc đi đường: “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan, Trùng san chi ngoại hựu trùng san” (Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng) Nói về việc đi đường, nghĩa là con người phải bỏ ra cả thời gian và công sức. Nếu người ngoài nhìn vào có thể không biết được người trong cuộc đã gặp phải những khó khăn bất lợi gì. Nên phải người trong cuộc “mới biết”, mới thấu được những gì gập ghềnh trên đoạn đường ấy. Những khó khăn cứ thế nối tiếp nhau “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Cứ lớp nọ đến lớp kia, hình ảnh núi tượng trưng cho những thử thách mà con người gặp phải trong cuộc sống. Nó ngăn cản những bước tiến của con người, có thể làm nhụt chí, có thể làm thay đổi tất cả những lộ trình, kế hoạch mà ta lập ra từ trước. Nói từ việc đi đường, Hồ Chí Minh đã rất tinh tế để nói đến con đường đời. Đường đời của con người cũng giống như việc đi đường vậy, mỗi người có những lựa chọn con đường đi riêng, và chắc chắn trên đường đó sẽ gặp phải rất nhiều trở ngại, khó khăn. Mà không phải một trở ngại, tất yếu con người sẽ phải gặp những khó khăn chồng chất nhau. Đó thực sự mới là cuộc đời. “Trùng san đăng đáo cao phong hậu Vạn lí dư đồ cố miện gian” (Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Có ý chí và nghị lực, con người sẽ vượt qua được tất cả những khó khăn thử thách ấy. Trong đường đời gặp phải khó khăn là điều tất yếu. Nhưng lựa chọn của con người, đi tiếp hay dừng lại mới là quan trọng. Nó đòi hỏi con người có muốn cố hết sức mình để hướng đến mục tiêu ban đầu mình đã đặt ra hay không. Vượt qua tất cả, con người sẽ đạt được cái đích mà mình mong muốn. Muốn được như vậy, thì con người cần phải có bản lĩnh chiến thắng nghịch cảnh, chiến thắng bản thân. Và thành quả đạt được sẽ bù đắp lại tất cả những ý chí vượt khó mà ta đã trải qua “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Thắng lợi vẻ vang chính là phần thưởng tốt nhất cho những ai biết cố gắng, biết chọn đường đi đúng đắn, biết vượt qua thử thách của đường đời. Khi đó, niềm sung sướng khi được đứng nhìn lại những thành quả mình đã cố gắng đạt được, dâng lên niềm tự hào về bản thân. Bài thơ “Đi đường” với việc sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật, ngắn gọn mà súc tích, gửi đến người đọc triết lý sống trên đường đời. Đặc biệt, ở câu thơ thứ 2 và thứ 3, tác giả đã sử dụng biện pháp điệp vòng “trùng san”, là hình ảnh cuối câu thơ 3 lại là mở đầu cho câu thơ 3, thể hiện sự nối tiếp chồng chất của “núi cao” nhưng thực ra chính là sự chồng chất của những khó khăn trong đường đời của mỗi con người. Bài thơ từ việc đi đường đã gợi ra bài học đường đời: vượt qua gian lao chồng chất sẽ tới thắng lợi vẻ vang. Trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ, Hồ Chí Minh như cũng ngầm biểu đạt ý về chặng đường hoạt động cách mạng, sẽ còn phải gặp nhiều khó khăn, quan trọng là tâm thế của người chiến sĩ cách mạng cần phải kiên trì, giữ vững lý tưởng cách mạng, chắc chắn cách mạng sẽ đạt thành công.
Topic: Presenting Feelings About Ho Chi Minh's Poem on the Road. ASSIGNMENT Ho Chi Minh's compositions in the poetry collection "Prison Diary" not only express reality but often convey lessons and philosophies of life. As one of a total of 134 poems in the poetry collection "Prison Diary", the poem "Going on the Road" raises a life lesson: overcoming accumulated hardships will lead to glorious victory. In the first two verses, the author suggests the difficulties and challenges of traveling: “The secret road to wealth and knowledge is the secret road to trouble, What is the difference between the foreign branch and the foreign branch? " (On the road, you will know the hardships High mountains, then high mountains again) Talking about traveling means people have to spend both time and effort. If outsiders look in, they may not know what disadvantages insiders have encountered. So only insiders "know" and can understand the bumpy things on that road. Difficulties continue one after another: "High mountains and then rolling high mountains". Layer after layer, the image of mountains symbolizes the challenges that people encounter in life. It hinders human progress, can discourage people, and can change all the roadmaps and plans we made in advance. Speaking from the road, Ho Chi Minh was very sophisticated in talking about life's path. The path of human life is like traveling, each person has their own path to choose, and certainly on that path they will encounter many obstacles and difficulties. It is not an obstacle, people will inevitably have to encounter difficulties one after another. That really is life. “The highest and most beautiful place in the world Thousands of yawns and tricks" (The mountain rises to the top Capture countless mountains and rivers as far as you can see" With will and determination, people will overcome all these difficulties and challenges. Encountering difficulties in life is inevitable. But the human choice, whether to continue or stop, is important. It requires whether people want to try their best to reach the original goal they set or not. Overcoming everything, people will achieve their desired destination. To be like that, people need to have the courage to overcome adversity and overcome themselves. And the results achieved will compensate for all the will to overcome difficulties that we have gone through. Glorious victory is the best reward for those who know how to try, know how to choose the right path, and know how to overcome the challenges of life. At that time, the happiness of being able to look back at the achievements I have tried to achieve, raises my pride in myself. The poem "On the road" with its short and concise use of the seven-word poetic form, conveys to the reader the philosophy of life on the road of life. In particular, in the 2nd and 3rd verses, the author used the "coincidental" method of repetition, meaning the image at the end of verse 3 is the beginning of verse 3, showing the overlapping succession of verses. "high mountain" is actually the accumulation of difficulties in each person's life path. The poem from the journey evokes a life lesson: overcoming accumulated hardships will lead to glorious victory. In the context of composing the poem, Ho Chi Minh also implicitly expressed the idea that the path of revolutionary activities will still face many difficulties. The important thing is that the mindset of revolutionary soldiers needs to persevere and maintain. Firmly holding on to revolutionary ideals, the revolution will certainly succeed.
Trình bày cảm nhận về những thử thách và chiến công của Thạch Sanh Hướng dẫn Đề bài: Em hãy trình bày những cảm nhận của mình về những thử thách và chiến công của Thạch Sanh trong truyện cổ tích Thạch Sanh. I. Dàn ý chi tiết 1. Mở bài Giới thiệu câu chuyện: Câu chuyện thể hiện giấc mơ của con người qua những hình ảnh li kì độc đáo đó là Thạch Sanh, câu chuyện đầy cảm xúc, thể hiện rõ ràng phẩm chất, tính cách con người Việt Nam 2. Thân bài – Cảm nhận về thử thách + Những thử thách mà Thạch Sanh trải qua đều do Lý Thông hãm hại đem lại. + Thứ nhất diệt chằn tinh bị cướp công, thứ hai diệt đại bàng cứu công chúa tiếp tục bị cướp công, bị hãm hại dồn vào chỗ chết, thứ ba bị báo thù từ hồn chằn tinh, đại bàng. + Thử thách cho thấy: bản chất con người dũng cảm đương đầu với khó khăn, không ngại gian nan, chân chất thật thà, tài năng, không toan tính, những thử thách sẽ đem lại chiến công nhất định – Cảm nhận về chiến công mà Thạch Sanh có được + To lớn, không phải ai cung làm được + Những chiến công đạt được: Diệt chằn tinh, diệt đại bàng, cứu công chúa, giúp công chúa vui vẻ trở lại, giải tỏa nỗi lo cho dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược…Chiến công đạt được xuất phát từ khó khăn gặp phải + Chiến công xứng đáng với người đáng được nhận, lên án tố cáo một bộ phận trong xã hội đứng trên đôi chân người khác, ca ngợi những con người dũng cảm đối mặt với khó khăn, những người lao động thật thà, chăm chỉ 3. Kết bài Cảm nghĩ về những thử thách và chiến công của Thạch Sanh: Thấy được hai mặt của xã hội, cần ca ngợi, lên án tố cáo phù hợp những mặt sáng tối đó. II. Bài tham khảo Truyện cổ tích dân gian là những câu chuyện thể hiện ước mơ, khát vọng của con người mong muốn có được thông qua những tình tiết, hình ảnh được con người sáng tạo ra để tạo động lực trong cuộc sống, tạo ra tiếng cười đặc biệt là đem thông điệp gửi vào những câu chuyện đó. Một câu chuyện thể hiện giấc mơ của con người qua những hình ảnh li kì độc đáo đó là Thạch Sanh, câu chuyện đầy cảm xúc, thể hiện rõ ràng phẩm chất, tính cách con người Việt Nam. Theo mạch truyện những khó khăn thử thách mà Thạch Sanh trải qua đưa người đọc đi từ cảm xúc này tới cảm xúc khác, rồi những chiến công mà chàng trai đó đạt được cũng là khát vọng của con người trong hiện tại. Thử thách đầu tiên mà Thạch Sanh gặp phải đó là Lý Thông, một con người độc ác, thâm hiểm, người lấy cớ kết nghĩa anh em để đùn đẩy chính người anh em của mình vào chỗ hiểm nguy, lừa Thạch Sanh tới chỗ chằn tinh, không như dự tính của mình, bằng bàn lĩnh tài năng của mình Thạch Sanh đã tiêu diệt chằn tinh. Không chỉ dừng ở đây, sự xảo quyệt của Lý Thông còn thể hiện khi cướp đi công lao của người mang danh nghĩa anh em với mình, lập mưu để đem chằn tinh đi nộp lập công. Thạch Sanh vốn tính nhân hậu, thật thà, chất phác nên luôn tin theo những gì mà Lý Thông nói. Hai hình ảnh, hai tính cách con người đối lập hoàn toàn đã làm nổi bật lên bản chất con người đáng bị lên án tố cáo và người cần được vinh danh ca ngợi. Thử thách thứ hai mà chàng trai tiếp tục gặp phải đó là ra tay tiêu diệt đại bàng, cứu công chúa, khi đã lập được công lao thì vẫn Lý Thông, một con người luôn muốn hãm hại Thạch Sanh, lần này Lý Thông tranh giành công lao vừa muốn dồn Thạch Sanh tới chỗ chết, một con người tàn nhẫn, bất nhân. Thử thách cuối cùng đó là sự báo thú của hồn đại bàng và chằn tinh, qua những thử thách cho thấy được những con người dũng cảm biết cách đương đầu với khó khăn, không ngại gian nan khổ cực, chân chất thật thà dùng tài năng của mình cống hiến hết mình mà không toan tính, cho đi hết một cách tự nhiên mà chẳng màng đến những gì có thể nhận lại, và rồi trong cái rủi lại cái may, cũng chính vì điều đó đã dẫn tới những công lao mà Thạch Sanh lập được sau này. Chiến công mà Thạch Sanh đạt được là to lớn vô cùng, và không phải ai cũng có thể làm được, chiến công từ việc tiêu diệt cái ác, cứu công chúa khỏi tay ác thú, khiến công chúa vui tươi trở lại, chống lại quân xâm lược, giúp đất nước thoát khỏi cảnh lầm than, khiến kẻ địch nể phục con người đất Việt, tất cả những chiến công đó xuất phát từ hoàn cảnh éo le mà chàng Thạch Sanh gặp phải, bằng bản lĩnh của mình, xuất phát từ tận sâu đáy lòng của một người không ham vụ lợi, đặt lợi ích của con người, tình cảm của mình lên hàng đầu để hành động đã tạo ra những chiến công to lớn đó. Không chỉ vậy những chiến công đó xứng đáng với người được hưởng, chứ không phải ai cũng có thể dựa trên năng lực của người khác để đem đến lợi ích cho bản thân mình, lên an tố cáo một bộ phận trong xã hội không biết tự đứng trên đôi chân của mình, luôn có lòng ghen tị với tài năng của người khác, tìm cách hãm hại để cướp đi công lao, công muôn làm nhưng lại muốn hưởng, cùng với đó là hình tượng đại diện cho những con người không chịu khuất phục trước số phận vươn lên khó khăn trong mọi hoàn. Cuối cùng những chiến công mà Thạch Sanh đạt được là xứng đáng, mọi nỗ lực bỏ ra đều sẽ được bù đắp. Hình tượng nhân vật Thạch Sanh được xây dựng để đại diện cho tầng lớp lao động cần cù, những con người cần cù lao động, dũng cảm chiến đấu, dùng năng lực của bản thân để đối mặt với thử thách, bên cạnh đó là nhân vật phản diện trái lập hoàn toàn là Lý Thông, một bộ phận đáng lên án mạnh mẽ.
Presenting his feelings about Thach Sanh's challenges and victories Instruct Topic: Please present your feelings about the challenges and victories of Thach Sanh in the fairy tale Thach Sanh. I. Detailed outline 1. Open the lesson Story introduction: The story that represents people's dreams through unique thrilling images is Thach Sanh, a story full of emotions, clearly showing the qualities and personality of Vietnamese people. 2. Body of the article – Feeling about challenges + The challenges that Thach Sanh experienced were all brought about by Ly Thong's harm. + First, kill the ogre and have your credit stolen, second, kill the eagle to save the princess, who continues to have her credit stolen, framed and put to death, third, get revenge from the ogre and eagle souls. + Challenges show: human nature is brave to cope with difficulties, not afraid of hardships, honest, talented, not calculating, challenges will bring certain victories – Feeling about the victory that Thach Sanh achieved + Big, not everyone can do it + Victory achieved: Killing ogres, killing eagles, saving the princess, helping the princess become happy again, relieving the nation's worries, expelling invaders... Victory achieved came from difficulties encountered + Victory worthy of those who deserve it, condemning a part of society that stands on the feet of others, praising those who bravely face difficulties, those who work honestly and hard 3. Conclusion Feelings about Thach Sanh's challenges and victories: Seeing the two sides of society, it is necessary to appropriately praise, condemn and denounce those bright and dark sides. II. Reference article Folk fairy tales are stories that express the dreams and aspirations people wish to achieve through details and images created by people to create motivation in life and create special laughter. Especially bringing messages into those stories. A story that represents people's dreams through unique thrilling images is Thach Sanh, an emotional story that clearly shows the qualities and personality of Vietnamese people. According to the story line, the difficulties and challenges that Thach Sanh goes through take the reader from one emotion to another, and the victories that that young man achieved are also the aspirations of people in the present. The first challenge that Thach Sanh encountered was Ly Thong, a cruel and insidious person, who used the pretense of brotherhood to push his own brother into danger, tricking Thach Sanh to the end. star, not as he expected, with his talent, Thach Sanh destroyed the ogre. Not only does it stop here, Ly Thong's cunning is also shown when he steals the merits of the person who is his brother, plotting to bring the devil to pay for his merits. Thach Sanh is inherently kind, honest, and simple, so he always believes what Ly Thong says. Two completely opposite images and human personalities highlight the human nature that deserves to be condemned and the one that needs to be honored and praised. The second challenge that the young man continued to encounter was to destroy the eagle and save the princess. Once he had achieved his achievements, there was still Ly Thong, a person who always wanted to harm Thach Sanh, this time Ly Thong fought. To gain credit, he wanted to push Thach Sanh to death, a cruel and inhumane person. The final challenge is the revenge of the eagle and the ogre's soul. Through these challenges, it is shown that brave people know how to cope with difficulties, are not afraid of hardships, are honest and honest in using their talents. My ability to devote myself without calculation, to give everything naturally without caring about what I might receive in return, and then in the misfortune of being lucky, that's what led to my achievements. that Thach Sanh established later. The feat that Thach Sanh achieved is extremely great, and not everyone can do it, the feat of destroying evil, saving the princess from the hands of evil beasts, making the princess happy again, fighting against evil. invaders, helping the country escape from misery, making the enemy respect the Vietnamese people, all of those victories stemmed from the difficult circumstances that Thach Sanh encountered, with his bravery, emerging from the difficult situation that Thach Sanh encountered. coming from the bottom of the heart of a person who is not interested in self-interest, puts the interests of people and his own feelings first, and takes actions that have created those great victories. Not only that, those victories are worthy of those who enjoy them, but not everyone can rely on the abilities of others to bring benefits to themselves, denouncing a part of society that does not know. Stand on your own two feet, always be jealous of other people's talents, seek to harm them to take away the work you want to do but want to enjoy, along with that is a representative image of people Do not submit to fate and overcome difficulties in every situation. In the end, the victories that Thach Sanh achieved were worthy, all efforts will be compensated. The image of the character Thach Sanh was built to represent the industrious working class, people who work diligently, courageously fight, use their own abilities to face challenges, and besides The completely opposite villain is Ly Thong, a part that deserves strong condemnation.
Trình bày cảm nhận về tác phẩm Ông lão đánh cá và con cá vàng Hướng dẫn Ông lão đánh cá và con cá vàng là tác phẩm đặc sắc của Puskin. Dựa vào những hiểu biết của bản thân sau khi học xong tác phẩm, em hãy trình bài cảm nhận về truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng. I. Dàn ý chi tiết 1. Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm và ý nghĩa tác phẩm: “Ông lão đánh cá và con cá vàng” là tác phẩm nổi tiếng và đặc sắc của nhà văn A. Pushkin, tác phẩm phản ánh những mặt sáng mặt tối của cuộc sống, là lời giải thích cho những gì mà người sống nhân hậu hiền lành nhận được và cái giá phải trả cho lòng tham lam 2. Thân bài – Hình ảnh ông lão + Nghèo khó, thật thà, lương thiện, chăm chỉ + Tất bật với công việc đánh cá mà ông yêu thích, bắt được cá vàng, thả đi khi con cá van xin, không nhận sự đền ơn + Lương thiện, chấp nhận không có thành quả sau một ngày đi câu – Hình ảnh mụ vợ + Tham lam, độc ác, lòng tham vô đấy, hay nổi cáu, quát mắng ông lão + Không biết thân phận của mình, không trọn nghĩa một người vợ, coi người chồng như một người hầu, người đầy tớ – Những thứ mà lòng tham nhận được, hình ảnh con cá vàng trong tác phẩm + Trở lại cuộc sống nghèo khó như cũ, túp lều tranh, máng lợn, đối với ông lão là điều tốt nhất + Đối với mụ vợ phải trải qua cảm giác đau khổ: Nghèo khó trở nên giàu có rồi lại trở lại cuộc sống ban đầu, – Hình ảnh con cá vàng: biểu tượng của sự biết ơn, đền đáp 3. Kết bài Cảm nghĩ về ý nghĩa tác phẩm: Câu chuyện được xây dựng với nhiều tình tiết li kì, là ước mơ, khát vọng, để lại nhiều ý nghĩa với người đọc. II. Bài tham khảo Truyện dân gian là một kho tàng văn học khổng lồ đã ăn sâu vào trong tuổi thơ của mỗi đứa trẻ, những câu chuyện luôn mang một ý nghĩa nhất định về cuộc sống, là lời dạy của thế hệ đi trước, là bài học rút ra từ những gì đã trải qua. Cũng giống như Việt Nam, những câu chuyện cổ tích nước ngoài cũng chứa đựng ý nghĩa sâu xa nhất định, trong đó có tác phẩm “Ông lão đánh cá và con cá vàng” là tác phẩm nổi tiếng và đặc sắc của nhà văn A. Pushkin, tác phẩm phản ánh những mặt sáng mặt tối của cuộc sống, là lời giải thích cho những gì mà người sống nhân hậu hiền lành nhận được và cái giá phải trả cho lòng tham lam. Qua tác phẩm đọng lại rõ nét nhất trong lòng người đọc là hình ảnh ông lão, một con người nghèo khổ, thật thà, một con người chăm chỉ với công việc của mình, ở cái tuổi của ông đáng ra phải được nghỉ ngơi, phải được sum họp cười nói vui vẻ bên gia đình, cùng con cháu quây quần bên những câu chuyện không mở đầu cũng chẳng có kết thúc. Nhưng không, ông lão vẫn cứ tất bất với công việc của mình, công việc đem tới niềm vui cho ông, đối với những người đi câu thì việc chinh phục thiên nhiên, bắt được cá là đích đến cuối cùng mà ai cũng ao ước có được, nhưng khi ông bắt được con cá vàng, trước lời van xin của nó ông đã thả đi, vậy là đối với ông ngày hôm đó chẳng có thu hoạch gì, chẳng đạt được kết quả gì, một con người nghèo khó về vật chất nhưng về mặt tình cảm thì vô cùng giàu có. Con người có tầm lòng bao dung rộng lớn đó lại chung sống với một mụ vợ tham lam độc ác, một con người có lòng tham vô đáy, trước câu chuyện ông kể về con cá vàng, trước lời từ chối của ông lão về sự đền ơn mà con cá đem lại mụ vợ đã nổi cáu, quát mắng và bắt ông hết lần này tới lần khác làm theo ý mụ để thỏa mãn lòng tham của mình. Với thận phận một người vợ điều đầu tiên cần làm là tôn trọng chính người chồng của mình, chăm sóc cho chồng và đặc biệt là có sự bình đẳng giữa hai người, nhưng người phụ nữ này không hề hiểu điều đó, sự hiền lành của ông lão chính là nguyên nhân khiến mụ vợ coi thường, luôn quát mắng, coi ông lão như một người đầy tớ, người hầu chứ không phải là một người chồng, còn về phía ông lão dù không đồng tình về những việc làm mà vợ mình đưa ra nhưng cũng không dám làm trái, không dám đứng lên, luôn nghe theo lời vợ, đơn giản bởi ông lão quá lương thiện. Rồi việc gì đến cũng đến, qua những thứ mà con cá đền ơn cho mụ vợ thì cuối cùng đâu lại vào đó, trước mắt người vợ hiện ra là một không gian cũ, một không gian với cái máng lợn, với túp lều. Cái kết đối với người đọc là sự thỏa mãn vô cùng, một con người tham lam, nghèo khó trải qua một quãng thời gian ngắn khi được sống trong giàu sang, vinh hoa phú quý, cuối cùng lại trở lại với cuộc sống nghèo khổ như ban đầu là sự trừng trị không có gì đau đớn hơn, về phía ông lão trở lại với cuộc sống hiện tại là điều tốt nhất đối với ông. Về phía con cá vàng hiện lên như một biểu tượng của sự biết ơn, là sự đền đáp xứng đáng đối với những người thành tâm giúp đỡ, không vụ lợi, không toan tính, cuối cùng ý nghĩa mà câu chuyện đem lại thật sâu sắc, những người sống ích kỉ, luôn muốn hưởng giàu sang mà không phải lao động, lòng tham không có điểm dừng sẽ không bao giờ có được những thứ mình mong muốn, những người sống lương thiện, thật thà sẽ luôn gặp may mắn. Câu chuyện được xây dựng với nhiều tình tiết li kì, hư cấu nhằm thể hiện khát vọng, ước mơ của nhân dân, là lời dạy mà những thế hệ đi trước để lại cho các thế hệ con cháu đời sau, là bài học quý giá về cuộc sống đối với con người.
Present your feelings about the work The Old Fisherman and the Goldfish Instruct The Old Fisherman and the Goldfish is Pushkin's signature work. Based on your own understanding after finishing studying the work, please present your thoughts on the story The Old Fisherman and the Goldfish. I. Detailed outline 1. Open the lesson Introducing the author, work and meaning of the work: "The old fisherman and the goldfish" is a famous and unique work by writer A. Pushkin, the work reflects the bright and dark sides of life. , is an explanation for what people who live kindly and gently receive and the price they pay for greed 2. Body of the article – Image of an old man + Poor, honest, honest, hardworking + Busy with his favorite fishing job, catching a goldfish and letting it go when the fish begged, not accepting any return. + Be honest, accept no results after a day of fishing – Image of the wife + Greedy, cruel, greedy, often angry, yelling at the old man + Not knowing her own identity, not fulfilling her duties as a wife, considering her husband as a servant or servant – Things that greed receives, image of goldfish in the work + Returning to the old poor life, thatched hut, pig trough, was the best thing for the old man + For the wife, she had to go through a painful feeling: Becoming poor, becoming rich and then returning to her original life, – Image of goldfish: symbol of gratitude and gratitude 3. Conclusion Feelings about the meaning of the work: The story is built with many thrilling details, dreams and aspirations, leaving a lot of meaning to the reader. II. Reference article Folk tales are a huge literary treasure that is deeply ingrained in every child's childhood. The stories always carry a certain meaning about life, are teachings of previous generations, and are lessons learned. out of what you've been through. Just like Vietnam, foreign fairy tales also contain a certain profound meaning, including "The old fisherman and the goldfish" which is a famous and unique work by writer A. Pushkin, the work reflects the bright and dark sides of life, is an explanation of what kind and gentle people receive and the price they pay for greed. Through the work, the image that remains most clearly in the reader's heart is the image of an old man, a poor, honest man, a hard-working person who, at his age, should have rested. must be able to reunite and laugh happily with family, with children and grandchildren gathered around stories that have no beginning or end. But no, the old man is still busy with his job, his job brings him joy. For anglers, conquering nature and catching fish is the final destination that everyone desires. had, but when he caught the goldfish, in response to its pleas he let it go, so for him that day there was no harvest, no results achieved, a poor man. materially but emotionally it is extremely rich. That man with a large tolerance lived with a cruel, greedy wife, a person with bottomless greed, before the story he told about the goldfish, before the old man's refusal to In return for the favor the fish brought, the wife got angry, scolded him, and forced him to do what she wanted over and over again to satisfy his greed. As a wife, the first thing you need to do is respect your husband, take care of him, and especially have equality between the two of you, but this woman does not understand that, gentleness. The old man's actions were the reason why his wife looked down on him, always scolded him, and considered the old man as a servant, not a husband. As for the old man, even though he did not agree with his actions, His wife suggested it but did not dare to disobey, did not dare to stand up, always listened to his wife's words, simply because the old man was too honest. Then whatever happened happened, through the things the fish gave back to the wife, in the end it all fell into place. Before the wife's eyes appeared an old space, a space with a pig trough and a hut. The ending for the reader is extremely satisfying, a greedy, poor person spends a short period of time living in wealth, glory and wealth, and finally returns to a life of poverty. As the original punishment was nothing more painful, returning to the old man's current life was the best thing for him. As for the goldfish, it appears as a symbol of gratitude, a worthy reward for those who sincerely help, without self-interest, without calculation. In the end, the meaning that the story brings is very deep. people who live selfishly, always want to enjoy wealth without having to work, and whose greed has no end will never get what they want. People who live honestly and honestly will always be lucky. . The story is built with many thrilling and fictitious details to express the aspirations and dreams of the people, and is a teaching that previous generations left for future generations, a valuable lesson. price of life for humans.
Trình bày cảm nhận về đoạn trích Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc. Hướng dẫn “Thuế máu” là chương đầu trong 12 chương của tác phẩm “Bản án chế độ thực dân”. Chương này chia làm ba phần: Phần đầu: Chiến tranh và người bản xứ. Ởphần này tác giả đã bóc trần cái giọng lưỡi phản trắc, giả dối của bọn thực dân cáo già là “toàn quyền lớn”, “toàn quyền bé”. Để đẩy dân bản xứ vào cuộc chiến tranh, chúng vuốt ve đưa ra những lời đường mật! Từ là dân “An-nam-mít bẩn thỉu” chỉ đối xử bằng dùi cui, roi vọt nay bỗng nhiên được tôn là “những con yêu”, “những bạn hiền”! Kết quả là họ phải lìa xa gia đình và vợ con, bỏ xác trên bờ sông Mác-rơ trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ. Cuối phần này, tác giả tố cáo nỗi đau của nhân dân bản xứ bằng những hình tượng đầy ấn tượng. Đó là “kẻ cầm súng thì bỏ xác nơi chiến địa để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế”. Còn những “lính thợ” ở hậu phương thì nhiễm luồng khí độc “khạc ra từng miếng phổi! Cuối cùng trong số70 vạn người bản xứ thì có 8 vạn không bao giờ còn thấy mặt trời quê hương nữa! Phần hai: Tác giả lên án cái gọi là “chế độ tình nguyện”. Ởphần này tác giả đã phơi bày nỗi khổ của dân bản xứ bằng đủ mọi thứ thuế khóa, sưusai và bị cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện, đến nay cóthêm cái nạn “mô hình” nữa. Đây thực chất là một thứ “thuế máu”. Dân bản xứ bị săn bắt như một thứ “vật liệu biết nói”! Sự thật thì cái chế độ “lính tình nguyện” ấy là “lùa” những người khỏe mạnh, nghèo khổ vào nơi giam giữ để khỏi bỏ trốn. Cuối cùng họ phải chọn lấy một trong hai con đường: “đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra”. Có người phải tìm cách hủy hoại cả thân thể để mong thoát nạn bắt lính như tự làm cho mình đau mắt toét chảy mủ, tìm cách xát vào mắt bằng vôi sống hay mủ của lệnh lậu. Trong khi đó thì bọn “chóp bu” là toàn quyền Đông Dương lại vuốt ve: “Các bạn đã tấp nập đầu quân… các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương”. Tác giả đã lật tẩy những chiêu bài mị dân của bọn thực dân bằng cách nêu lên cảnh biểu tình chống bắt lính ở Cao Miên, và những vụ bạo động ở Sài Gòn, Biên Hòa.. Phần ba: Tác giả lên tiếng tốcáo bọn thực dân đã lật lọng nuốt lời khi người “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do” trở về thì mặc nhiên trở lại giống người bẩn thỉu. Hơn thế nữa, Bác còn phơi bày con “tim đen” của chúng trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác: – Một mặt chúng vẫn chưa dừng tay lôi kéo thêm nạn nhân vào cuộc huynh đệ thương tàn. Chúng đối xử rất tàn tệ với những ai còn tấm thân tàn trở lại quê hương! Khi bước chân xuống tàu họ bị lột hết các thứ tự mình mua sắm được. Họ được xếp như “lợn” dưới hầm tàu thiếu ánh sáng và không khí. Tồi tệ hơn nữa chúng còn đón chào họ bằng lời diễn văn đầy lật lọng, bất nhân: “Các anh đã bảo vệ tổ quốc… Bây giờ chúng tôi không cần anh nữa, cút đi”. – Mặt khác nếu là thương binh Pháp mất một phần thân thể và vợ của người tử sĩ thì được cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện để tiếp tục vung tay đầu độc gây thêm tệ nạn xã hội. Cuối cùng tác giả như nói với thương binh và quả phụ của chiến tranh rằng đó là món quà nhơ nhớp chỉ nên đá văng đi. Bằng một nghệ thuật tương phản và nhắc lại cái lưỡi của bọn thực dân, tác giả đã khái quát lên một thứ thuế nữa được đặt ra bên cạnh cái thuế thân là thuế máu. Thuế máu chỉ là một chương của Bản án chế độ thực dân Pháp nhưng vẫn đầy đủ tính chất là bài luận, vẫn có giá trị tốcáo và thức tỉnh đồng bào. Nguồn:
Present your thoughts on the excerpt Blood Tax by Nguyen Ai Quoc. Instruct "Blood Tax" is the first chapter in 12 chapters of the work "Verdict of the Colonial Regime". This chapter is divided into three parts: Part one: War and the natives. In this part, the author has exposed the treacherous and false tone of the old colonialists as "big total power" and "little total power". To push the native people into war, they caressed and offered sweet words! From being "dirty Annamites" who were only treated with clubs and whips, they are now suddenly respected as "darlings" and "good friends"! As a result, they had to leave their families, wives and children, and leave their bodies on the banks of the Mark River in the swamps of Sampanh. At the end of this section, the author denounces the pain of the indigenous people with impressive images. That is, "the gunman leaves his body on the battlefield to use his blood to water the laurel wreaths of the commanders and use his bones to carve the sticks of the marshals". As for the "worker soldiers" in the rear, they were infected with toxic gas that "spit out pieces of their lungs!" In the end, out of 700,000 indigenous people, 80,000 never saw the sun of their homeland again! Part two: The author condemns the so-called "volunteer regime". In this part, the author has exposed the suffering of the indigenous people through all kinds of taxes, extortion and being forced to buy alcohol and opium, and now there is another "model" problem. This is essentially a "blood tax". Indigenous people are hunted as "talking material"! In truth, that "volunteer soldier" regime is "driving" healthy and poor people into detention to avoid escaping. In the end, they had to choose one of two paths: "volunteer or spend money". Some people had to find ways to destroy their whole bodies in order to escape being forced into soldiers, such as giving themselves painful eyes with pus and trying to rub their eyes with quicklime or smuggled pus. Meanwhile, the "top brass" who are the governors of Indochina caressed: "You have enthusiastically joined the army... you have not hesitated to leave your homeland." The author exposed the colonialists' demagogic tricks by showing scenes of protests against conscription in Cambodia, and riots in Saigon and Bien Hoa. Part three: The author denounces the colonialists for going back on their word when the "soldier defending justice and freedom" returned and naturally became like a dirty person. Furthermore, Uncle Ho also exposed their "black heart" in a matter where the colonial government committed two crimes: – On the one hand, they have not stopped dragging more victims into the brotherhood of destruction. They treat those who still have a broken body and return to their homeland very cruelly! When they stepped off the train, they were stripped of everything they could buy on their own. They were placed like "pigs" in the ship's hold lacking light and air. Even worse, they greeted them with a speech full of flippant and inhumane: "You have defended the country... We don't need you now, go away." - On the other hand, if the French war invalid lost part of his body and the martyr's wife would be granted a license to sell opium to continue poisoning and causing more social evils. In the end, the author seemed to tell wounded soldiers and widows of war that it was a dirty gift that should only be thrown away. With an art of contrasting and recalling the tongues of the colonialists, the author has generalized another tax that is placed besides the body tax, which is the blood tax. Blood Tax is only a chapter of the French colonial regime's verdict, but it still has the full nature of an essay, and still has the value of reporting and awakening the people. Source:
Trình bày cảm nhận đoạn trích Thuế máu – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm “Thuế máu” là chương đầu trong 12 chương của tác phẩm “Bản án chế độ thực dân”. Chương này chia làm ba phần: Phần đầu: Chiến tranh và người bản xứ. Ở phần này tác giả đã bóc trần cái giọng lưỡi phản trắc, giả dối của bọn thực dân cáo già là “toàn quyền lớn”, “toàn quyền bé”. Để đẩy dân bản xứ vào cuộc chiến tranh, chúng vuốt ve đưa ra những lời đường mật! Từ là dân “An-nam-mít bẩn thỉu” chỉ đối xử bằng dùi cui, roi vọt nay bỗng nhiên được tôn là “những con yêu”, “những bạn hiền”! Kết quả là họ phải lìa xa gia đình và vợ con, bỏ xác trên bờ sông Mác-rơ trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ. Cuối phần này, tác giả tố cáo nỗi đau của nhân dân bản xứ bằng những hình tượng đầy ấn tượng. Đó là “kẻ cầm súng thì bỏ xác nơi chiến địa để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế”. Còn những “lính thợ” ở hậu phương thì nhiễm luồng khí độc “khạc ra từng miếng phổi! Cuối cùng trong số 70 vạn người bản xứ thì có 8 vạn không bao giờ còn thấy mặt trời quê hương nữa! Phần hai: Tác giả lên án cái gọi là “chế độ tình nguyện” Dân bản xứ bị săn bắt như một thứ “vật liệu biết nói”! Sự thật thì cái chế độ “lính tình nguyện” ấy là “lùa” những người khỏe mạnh, nghèo khổ vào nơi giam giữ để khỏi bỏ trốn. Cuối cùng họ phải chọn lấy một trong hai con đường: “đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra”. Có người phải tìm cách hủy hoại cả thân thể để mong thoát nạn bắt lính như tự làm cho mình đau mắt toét chảy mủ, tìm cách xát vào mắt bằng vôi sông hay mủ của lệnh lậu. Trong khi đó thì bọn “chóp bu” là toàn quyền Đông Dương lại vuốt ve: “Các bạn đã tấp nập đầu quân… các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương”. Tác giả đã lật tẩy những chiêu bài mị dân của bọn thực dân bằng cách nêu lên cảnh biểu tình chống bắt lính ở Cao Miên, và những vụ bạo động ở Sài Gòn, Biên Hòa.. Phần ba: Tác giả lên tiếng tố cáo bọn thực dân đã lật lọng nuốt lời khi người “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do” trở về thì mặc nhiên trở lại giống người bẩn thỉu. – Một mặt chúng vẫn chưa dừng tay lôi kéo thêm nạn nhân vào cuộc huynh đệ thương tàn. Chúng đối xử rất tàn tệ với những ai còn tấm thân tàn trở lại quê hương! Khi bước chân xuống tàu họ bị lột hết các thứ tự mình mua sắm được. Họ được xếp như “lợn” dưới hầm tàu thiếu ánh sáng và không khí. Tồi tệ hơn nữa chúng còn đón chào họ bằng lời diễn văn đầy lật lọng, bất nhân: “Các anh đã bảo vệ tổ quốc… Bây giờ chúng tôi không cần anh nữa, cút đi”. – Mặt khác nếu là thương binh Pháp mất một phần thân thể và vợ của người tử sĩ thì được cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện để tiếp tục vung tay đầu độc gây thêm tệ nạn xã hội. Cuối cùng tác giả như nói với thương binh và quả phụ của chiến tranh rằng đó là món quà nhơ nhớp chỉ nên đá văng đi. Bằng một nghệ thuật tương phản và nhắc lại cái lưỡi của bọn thực dân, tác giả đã khái quát lên một thứ thuế nữa được đặt ra bên cạnh cái thuế thân là thuế máu. Thuế máu chỉ là một chương của Bản án chế độ thực dân Pháp nhưng vẫn đầy đủ tính chất là bài luận, vẫn có giá trị tố cáo và thức tỉnh đồng bào.
Present your feelings about the excerpt Blood Tax – Topics and sample essay 8 Instruct Assignment "Blood Tax" is the first chapter in 12 chapters of the work "Verdict of the Colonial Regime". This chapter is divided into three parts: Part one: War and the natives. In this part, the author has exposed the treacherous and false tone of the old colonialists as "big total power" and "little total power". To push the native people into war, they caressed and offered sweet words! From being "dirty Annamites" who were only treated with clubs and whips, they are now suddenly respected as "darlings" and "good friends"! As a result, they had to leave their families, wives and children, and leave their bodies on the banks of the Mark River in the swamps of Sampanh. At the end of this section, the author denounces the pain of the indigenous people with impressive images. That is, "the gunman leaves his body on the battlefield to use his blood to water the laurel wreaths of the commanders and use his bones to carve the sticks of the marshals". As for the "worker soldiers" in the rear, they were infected with toxic gas that "spit out pieces of their lungs!" In the end, out of 700,000 indigenous people, 80,000 never saw the sun of their homeland again! Part two: The author condemns the so-called "volunteer regime" Indigenous people are hunted as "talking material"! In truth, that "volunteer soldier" regime is "driving" healthy and poor people into detention to avoid escaping. In the end, they had to choose one of two paths: "volunteer or spend money". Some people had to find ways to destroy their whole bodies in order to escape being forced into soldiers, such as giving themselves painful eyes that oozed pus, trying to rub their eyes with river lime or smuggled pus. Meanwhile, the "top brass" who are the governors of Indochina caressed: "You have enthusiastically joined the army... you have not hesitated to leave your homeland." The author exposed the colonialists' demagogic tricks by showing scenes of protests against conscription in Cambodia, and riots in Saigon and Bien Hoa. Part three: The author denounces the colonialists for going back on their word when the "soldiers defending justice and freedom" returned and naturally became like dirty people. – On the one hand, they have not stopped dragging more victims into the brotherhood of destruction. They treat those who still have a broken body and return to their homeland very cruelly! When they stepped off the train, they were stripped of everything they could buy on their own. They were placed like "pigs" in the ship's hold lacking light and air. Even worse, they greeted them with a speech full of flippant and inhumane: "You have defended the country... We don't need you now, go away." - On the other hand, if the French war invalid lost part of his body and the martyr's wife would be granted a license to sell opium to continue poisoning and causing more social evils. In the end, the author seemed to tell wounded soldiers and widows of war that it was a dirty gift that should only be thrown away. With an art of contrasting and recalling the tongues of the colonialists, the author has generalized another tax that is placed besides the body tax, which is the blood tax. Blood Tax is just a chapter of the French colonial regime's verdict, but it still has the full nature of an essay, still has the value of denouncing and awakening fellow citizens.
Trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ Tây Tiến Hướng dẫn Trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ Tây Tiến Nhà thơ Quang Dũng là một nhà thơ tài hoa, ông tinh thông nhiều lĩnh vực nghệ thuật, trong đó nổi bật nhất là những tác phẩm về thơ ca. Đọc thơ ông ta sẽ thấy rõ một cái tôi hào hoa thanh lịch, mang đậm chất trữ tình và lãng mạn. Và trong số đó, ta sẽ không thể nào không nhắc đến tác phẩm thơ Tây Tiến là tác phẩm vô cùng độc đáo và nổi tiếng của Quang Dũng. Tác giả đã dựng lên một bức tượng đài bất tử về người lính yêu nước, sẵn sàng ngã xuống hi sinh vì sự nghiệp chống giặc xâm lược của dân tộc. Hình ảnh người lính như sống mãi với thời gian, với lịch sử. Quang Dũng đã viết lên bài thơ này như tưởng nhớ lại những năm tháng hoạt động trong đội quân Tây Tiến. Cùng điểm lại hoàn cảnh sáng tác ra tác phẩm này để thấy điểm đặc biệt của nó. Sau khi cuộc cách mạng tháng tám thành công vang dội, Quang Dũng gia nhập vào bộ đội. Vào thời gian cuối mùa xuân năm 1947, lúc đó ông là một nguyên phái viên phòng quân sự Bắc Bộ và cũng là một học viên lớp quân sự ở Tông (nay thuộc Sơn Tây). Ông trở về Phùng để thăm mẹ già,vợ con để lên đường tham gia vào đội quân, Tây Tiến và giữ chức vụ Đại đội trưởng. Đội quân này được thành lập vào đầu năm 1947, đội quân có nhiệm vụ là sẽ phối hợp với bộ đội Lào để cùng nhau bảo vệ biên giới Việt- Lào, (đây là vùng núi Tây Bắc gồm từ Châu Mai, Châu Mộc đến Sầm Nứa tới miền Tây Thanh Hóa) cùng nhau chống lại, đánh lại hạm quân của Pháp đang ở Thượng Lào, quân ta ra sức giúp hỗ trợ cho những vùng khác trên đất Lào. Nhìn những người người bộ đội Tây Tiến ta sẽ thấy họ vô cùng đáng trân trọng, họ bao gồm nhiều tầng lớp từ những người lao động bằng tay chân, tri thức và chủ yếu là những tri thức, những thanh niên chỉ mới là những học sinh bước ra từ những mái trường, từ phố phường ở Hà Nội. Vì đất nước, đồng bào họ không ngại khó khăn gian khổ, với điều kiện vô cùng thiếu thốn về vật chất, có thể chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn, nhưng họ vẫn lạc quan, vui vẻ tiến sang biên giới chiến đấu cùng bảo vệ lãnh thổ. Với Đội quân Tây tiến sau khi trở về từ Lào, Tây tiến trở thành trung đoàn 52, và Quang Dũng- đại đội trưởng đã ở đó đến cuối năm 1948 sau đó ông được chuyển sang đơn vị khác. Dù xa rời đơn vị cũ, nhưng ông vẫn nhớ về những năm tháng hào hùng, anh em sát cánh bên nhau, ngồi tại Phù Lưu Chanh anh viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời, mang nhiều dấu ấn lịch sử, an hem trong và ngoài quân đội cứ truyền tay, truyền miệng cho nhau để đọc, để nhớ… Bài thơ Tây Tiến được hai lần đổi tên, lần đầu tiên có tên là “Nhớ Tây Tiến” khi được in tại nhà xuất bản Vệ quốc quân liên khu III, được phát hành vào năm 1949. Rồi đến năm 1957, Quang Dũng đưa Tây Tiến để vào tập thơ “Rừng biển quê hương”. Lúc đó ông đã bỏ chữ “Nhớ” chỉ giữ nguyên hai từ “Tây Tiến”. Chỉ với hai từ này thôi đã nói lên được chủ đạo của toàn bài thơ, luôn tiến về phía trước không. Đây chính là hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, một bản trường ca của các anh hùng, của người lính, dù gian khổ, vất vả, có hi sinh nhưng vẫn yêu đời và lạc quan luôn đoàn kết chia sẻ bên nhau.
Presenting the birth circumstances of the poem Tay Tien Instruct Presenting the birth circumstances of the poem Tay Tien Poet Quang Dung is a talented poet, he is skilled in many fields of art, the most prominent of which are works of poetry. Reading his poetry, you will clearly see a proud and elegant personality, full of lyricism and romance. And among them, we cannot help but mention the poem Tay Tien, an extremely unique and famous work of Quang Dung. The author has erected an immortal monument of a patriotic soldier, ready to sacrifice his life for the nation's cause of fighting against invaders. The image of a soldier seems to live forever with time and history. Quang Dung wrote this poem as a tribute to his years of service in the Tay Tien army. Let's review the circumstances of this work's creation to see its special features. After the August Revolution was a resounding success, Quang Dung joined the army. In the late spring of 1947, he was a former envoy to the Northern Military Department and also a military student in Tong (now part of Son Tay). He returned to Phung to visit his elderly mother, wife and children before leaving to join the army, Tay Tien and hold the position of Company Commander. This army was established in early 1947, the army's mission is to coordinate with the Lao army to jointly protect the Vietnam-Laos border (this is the Northwestern mountainous region from Chau Mai, Chau Moc to Chau Moc). Sam Nua to western Thanh Hoa) together resisted and fought against the French fleet in Upper Laos. Our troops tried to help support other areas in Laos. Looking at the Tay Tien soldiers, we will see that they are extremely respectful, they include many classes from manual workers, intellectuals and mainly intellectuals, young people are just the Students step out from the school roofs and streets in Hanoi. For the sake of their country, their people are not afraid of difficulties and hardships. With extremely poor material conditions, they may die more from malaria than from guns and bullets, but they are still optimistic and happily move to the border. Fight together to protect the territory. With the Western Advance Army after returning from Laos, the Western Advance became the 52nd regiment, and Quang Dung - the company commander - was there until the end of 1948 after which he was transferred to another unit. Even though he was far away from his old unit, he still remembered the heroic years when brothers stood side by side, sitting at Phu Luu Chanh and writing the poem Tay Tien. The poem was born, bearing many historical imprints, brothers inside and outside the army kept passing it on and off to each other to read and remember... The poem Tay Tien was renamed twice, the first time it was called "Tay Tien". Remembering Tay Tien" when printed at the National Guard Inter-Region III publishing house, was released in 1949. Then in 1957, Quang Dung included Tay Tien in his poetry collection "Homeland Forest and Sea". At that time, he removed the word "Remember" and kept only the two words "Tay Tien". Just these two words express the main theme of the entire poem, always moving forward. This is the compositional situation of the poem, an epic of heroes and soldiers who, despite hardships, hardships, and sacrifices, still love life and are optimistic, always united and sharing together.
Trình bày lập luận của Trần Quốc Tuấn khi phê phán thái độ và hành động sai trái của tướng sĩ trước cảnh Tổ quốc lâm nguy trong văn bản Hịch tướng sĩ Hướng dẫn Với âm điệu nhịp nhàng của thể văn biền ngẫu, với những biện pháp liệt kê, điệp từ, điệp ngữ trải suốt đoạn văn, với hình ảnh phong phú giàu sức biểu cảm, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện một trình tự nội dung hết sức sâu sắc. Ngay từ đầu, bằng giọng điệu hết sức nghiêm khắc, người chủ soái đã chỉ trích hàng loạt thái độ thờ ơ vổ trách nhiệm của các tướng sĩ trước những hành vi ngỗ ngược của quân thù: Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thiệt…, phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường để đãi yến nguỵ sứ mà không biết căm. Sau đó, ông nêu ra cái tầm thường, thậm chí là thấp hèn của những thú ăn chơi hưởng lạc của tướng sĩ trước lúc Tổ quốc lâm nguy: chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát… Tiếp đó, Trần Quốc Tuấn phân tích những hậu quả trước mắt và lâu dài của thái độ và lối sông đáng chê trách đó. – Hậu quả trước mắt là tướng sĩ không còn sức chiến đấu. Bằng hàng loạt hình ảnh tương phản mang sắc thái mỉa mai châm biếm nhưng giàu sức thuyết phục, tác giả đã chỉ ra ràng những thú vui chơi đó không thể nào ngăn nổi sức mạnh của quân thù: Nếu có giặc Mông Thái tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôngmua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không làm cho giặc say chết,tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Bằng những chuỗi lập luận vững chắc, tác giả cho thấy nếu đem những thú vui chơi tầm thường của tướng sĩ đối chọi với sức mạnh của quân địch thì tất yếu sẽ thất bại. Việc cần làm lúc này là hãy gạt những thú vui qua một bên, tạm quên đi những thứ tầm thường, chuyên tâm vào việc học tập binh thư, luyện tập binh pháp để sóng mái với quân thù. Tác giả không cấm tướng sĩ vui chơi nhưng vui chơi lúc này không phải lúc. Sau này khi thắng lợi, dẫu các ngươi không muốn vui vẻ, phỏng có được không? Lập luận của tác giả vừa có lí vừa có tình nên giàu sức thuyết phục.
Presenting Tran Quoc Tuan's argument when criticizing the wrong attitudes and actions of generals and soldiers in the face of the Fatherland being in danger in the text "Hich Tuong Si" Instruct With the rhythmic rhythm of the prose style, with the devices of listing, alliteration, and alliteration throughout the paragraph, with rich and expressive images, Tran Quoc Tuan has shown a complete sequence of content. profound strength. Right from the beginning, in a very stern tone, the commander criticized a series of indifferent attitudes and responsibility of the generals and soldiers in the face of the enemy's unruly actions: Now you look at your master and insult him without realizing it. worried, seeing the humiliation of the country but not knowing the truth..., having to serve the enemy without knowing the anger, listening to Thai music to entertain the puppet envoys but not knowing the anger. Then, he pointed out the triviality, even the vileness, of the soldiers' entertainment and pleasures before the Fatherland was in danger: cockfighting, gambling, enjoying the fields, being attached to their wives and children, worrying about work. rich, fond of hunting, fond of good wine, fond of singing... Next, Tran Quoc Tuan analyzed the immediate and long-term consequences of that reprehensible attitude and lifestyle. – The immediate consequence is that the generals no longer have the strength to fight. With a series of contrasting images with ironic yet convincing nuances, the author clearly shows that these pastimes cannot stop the enemy's power: If the Mongol Thai invaders invade, then A rooster's spur cannot pierce an enemy's armor, and a gambling trick cannot be used as a military tactic; Even though there are many fields and gardens, one's body is worth thousands of gold and cannot be redeemed, and one has a wife and children, what is the use of military affairs? Even though there is a lot of money, it cannot buy the enemy's head, and hunting dogs, although strong, cannot chase the enemy; A good cup of wine cannot make the enemy drunk to death, nor can good singing make the enemy deaf. With a series of solid arguments, the author shows that if you pit the ordinary pleasures of generals against the strength of the enemy, you will inevitably fail. What you need to do now is to put aside pleasures, temporarily forget about trivial things, and focus on studying military books and practicing military techniques to compete with the enemy. The author does not forbid soldiers to have fun, but this is not the right time to have fun. Later when you win, even if you don't want to be happy, is that okay? The author's argument is both reasonable and emotional, so it is convincing.
Trình bày lập luận Trần Quốc Tuấn khi phê phán thái độ và hành động sai trái của Tướng Sĩ trong Hịch tướng sĩ – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Gợi ý viết bài Với âm điệu nhịp nhàng của thể văn biền ngẫu, với những biện pháp liệt kê, điệp từ, điệp ngữ trải suốt đoạn văn, với hình ảnh phong phú giàu sức biểu cảm, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện một trình tự nội dung hết sức sâu sắc. Ngay từ đầu, bằng giọng điệu hết sức nghiêm khắc, người chủ soái đã chỉ trích hàng loạt thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của các tướng sĩ trước những hành vi ngỗ ngược của quân thù: Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn…, phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường để đãi yến nguỵ sứ mà kliông biết căm. Sau đó, ông nêu ra cái tầm thường, thậm chí là thấp hèn của những thú ăn chơi hưởng lạc của tướng sĩ trước lúc Tổ quốc lâm nguy: chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát… Tiếp đó, Trần Quốc Tuấn phân tích những hậu quả trước mắt và lâu dài của thái độ và lối sống đáng chê trách đó. – Hậu quả trước mắt là tướng sĩ không còn sức chiến đấu. Bằng hàng loạt hình ảnh tương phản mang sắc thái mỉa mai châm biếm nhưng giàu sức thuyết phục, tác giả đã chỉ ra rằng những thú vui chơi đó không thể nào ngăn nổi sức mạnh của quân thù: Nếu có giặc Mông Thái tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Bằng những chuỗi lập luận vững chắc, tác giả cho thấy nếu đem những thú vui chơi tầm thường của tướng sĩ đối chọi với sức mạnh của quân địch thì tất yếu sẽ thất bại. Việc cần làm lúc này là hãy gạt những thú vui qua một bên, tạm quên đi những thứ tầm thường, chuyên tâm vào việc học tập binh thư, luyện tập binh pháp để sống mái với quân thù. Tác giả không cấm tướng sĩ vui chơi nhưng vui chơi lúc này không phải lúc. Sau này khi thắng lợi, dẫu các ngươi không muốn vui vẻ,phỏng có được không? Lập luận của tác giả vừa có lí vừa có tình nên giàu sức thuyết phục. Tags:Văn 8
Presenting Tran Quoc Tuan's argument when criticizing General Si's wrong attitude and actions in Hich Tuong Si - Topics and sample essay 8 Instruct Suggestions for writing articles With the rhythmic rhythm of the prose style, with the devices of listing, alliteration, and alliteration throughout the paragraph, with rich and expressive images, Tran Quoc Tuan has shown a complete sequence of content. profound strength. Right from the beginning, in a very stern tone, the commander criticized a series of indifferent and irresponsible attitudes of the generals and soldiers in the face of the enemy's unruly actions: Now you look at your master and insult him without realizing it. Worrying, seeing the country humiliated but not feeling ashamed..., having to serve the enemy but not feeling angry, listening to Thai music to entertain the puppet envoys but not knowing how to feel angry. Then, he pointed out the triviality, even the vileness, of the soldiers' entertainment and pleasures before the Fatherland was in danger: cockfighting, gambling, enjoying the fields, being attached to their wives and children, worrying about work. rich, fond of hunting, fond of good wine, fond of singing... Next, Tran Quoc Tuan analyzed the immediate and long-term consequences of that reprehensible attitude and lifestyle. – The immediate consequence is that the generals no longer have the strength to fight. With a series of contrasting images with ironic yet convincing nuances, the author points out that those pastimes cannot stop the enemy's power: If the Mongol Thai invaders invade, then A rooster's spur cannot pierce an enemy's armor, and a gambling trick cannot be used as a military tactic; Even though there are many fields and gardens, one's body is worth thousands of gold and cannot be redeemed, and one has a wife and children, what is the use of military affairs? No matter how much money you have, you can't buy an enemy's head; hunting dogs, no matter how strong, can't chase away the enemy; A good cup of wine cannot make the enemy drunk to death, nor can good singing make the enemy deaf. With a series of solid arguments, the author shows that if you pit the ordinary pleasures of generals against the strength of the enemy, you will inevitably fail. What you need to do now is to put aside pleasures, temporarily forget trivial things, and focus on studying military books and practicing military techniques to live comfortably with the enemy. The author does not forbid soldiers to have fun, but this is not the right time to have fun. Later when you win, even if you don't want to be happy, is that okay? The author's argument is both reasonable and emotional, so it is convincing. Tags: Literature 8
Trình bày một số nét về tác giả, dịch giả, về nội dung và giá trị tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc. Hướng dẫn Đặng Trần Côn quê ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, ngoại thành Thăng Long. Ông sống vào nửa đầu thế kỉ XVIII. Ông đỗ Hương công (Cử nhân) từng làm quan dưới thời Lê – Trịnh. Ông để lại một số thơ văn chữ Hán; tác phẩm tiêu biểu nhất là Chinh phụ ngâm khúc gồm có 478 câu thơ chữ Hán dài, ngắn xen nhau theo thể trường đoản cú. Hiện nay có nhiều bản dịch thơ của Chinh phụ ngâm khúc. Bản dịch gồm 408 câu thơ song thất lục bát rất được phổ biến, nhiều người cho là của bà Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với ông Đặng Trần Côn. Đoàn Thị Điểm quê ở làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà là một phụ nữ nổi tiếng: “Đẹp người, đẹp nết, giỏi văn chương “, là vợ thứ của tiến sĩ Nguyễn Kiều, danh sĩ Bắc Hà thời Lê – Trịnh. Ngoài bản dịch Chinh phụ ngâm khúc, nữ sĩ còn để lại tác phẩm Truyền kì tân phả bằng chữ Hán. Có người nói rằng dịch giả của Chinh phụ ngâm khúc là của Phan Huy Ích. Phan Huy Ích (1750 – 1822) tự là Dụ Am, người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh), sau di cư ra làng Sài Sơn, phủ Quốc Oai (nay thuộc Hà Tây). Ông đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi. Ông để lại một số tác phẩm như Dụ Am văn tập, Dụ Am ngâm lục. • Nội dung: Chinh phụ ngâm khúc thể hiện nỗi thương nhớ, trông mong, đợi chờ, nỗi buồn cô đơn, vất vả, dài dằng dặc của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa, đồng thời nói lên cảnh gian truân, nguy hiểm của người chồng trên chiến địa. • Giá trị: Bản dịch Chinh phụ ngâm khúc là một kiệt tác của nền văn thơ cổ điển Việt Nam. Nó có giá trị nhân đạo sâu sắc, nói lên tình thương đối với những chinh phụ, những khách chinh phụ trong thời loạn lạc: nguy hiểm, chết chóc, lo buồn cô đơn, cảm thông với nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi, về ước mơ sum họp gia đình. Chinh phụ ngâm còn là tiếng nói lên án chiến tranh thời phong kiến. Về mặt nghệ thuật Chinh phụ ngâm khúc đạt được nhiều thành tựu rực rỡ về thể thơ song thất lục bát mà khó có tác phẩm nào sánh được. Nhạc điệu du dương, ngôn ngữ trong sáng gợi cảm, hình tượng mĩ lệ, cách diễn tả tâm trạng tinh tế, sâu sắc, các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng cực kì điêu luyện. Nhiều câu thơ, đoạn thơ đã in sâu trong tâm trí hàng triệu con người. Chẳng hạn: Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai? hay: Ôm yên, gối trống đã mòn, Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh. Bài làm Chinh phụ ngâm khúclà khúc ngâm tả nỗi buồn cô đơn, thương nhớ, chờ mong của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa. Tác giả khúc ngâm là Đặng Trần Côn, một danh sĩ tài ba, sống vào nửa đầu thế kỉ XVIII, khi đất nước ta đang đắm chìm trong cảnh loạn lạc, nội chiến lầm than và đau thương. Nguyên tác bằng chữ Hán, gồm có 478 câu thơ dài ngắn xen nhau theo thể trường đoản cú. Bản dịch thơ dài 408 câu thơ song thất lục bát, tương truyền là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với tác giả. Tiếng Việt và thể thơ song thất dưới ngòi bút sáng tạo của dịch giả Chinh phụ ngâm khúc được nâng lên một tầm vóc mới, trở thành kiệt tác trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Nghệ thuật diễn tả tâm trạng, hình tượng thơ mĩ lệ, nhạc điệu du dương, thiết tha, ngôn ngữ thơ tinh luyện, biểu cảm… là vẻ đẹp của áng thơ này. Nỗi buồn cô đơn, niềm khao khát hạnh phúc của nàng chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc mang ý nghĩa thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân, lên án chiến tranh phi nghĩa. Tinh thần nhân đạo là giá trị to lớn và sâu sắc của Chinh phụ ngâm khúc. Đoạn thơ 12 câu thơ dưới đây trích từ câu 53 đến câu 64 của khúc ngâm đã thể hiện một cách cảm động tâm trạng cô đơn và nỗi sầu chia li – của nàng chinh phụ trong những ngày đầu, sau khi tiễn chồng ra trận: “Chàng thì đi cõi xa mưa gió, ………………………………….. Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Hai vế đôi xứng song hành: “Chàng thì đi / Thiếp thì về” làm hiện lên một cảnh ngộ chia li của lứa đôi đầy bi kịch giữa thời loạn lạc. Người vợ trẻ thương chồng phải dấn thân vào “cõi xa mưa gió”, phải nếm trải bao nguy hiểm, gian lao nơi chiến địa xa xôi. Rồi nàng lại tự thương mình phải sống lẻ loi, cô đơn, một mình trong bóng tối suốt năm canh nơi “buồng cũ chiếu chăn”. Hai hình ảnh tượng trưng là “cõi xa mưa gió” và “buồng cũ chiếu chăn” đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi đau khổ của “đôi lứa yêu nhau ” khi đất nước “nổi cơn gió bụi”: “Chàng thì đi cõi xa mưa gió, Thiếp thì về buồng củ chiếu chăn Đoái trông theo đã cách ngăn Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh”. Ba chữ “đoái trông theo” gợi tả một cái nhìn đăm đắm về phía chân trời xa. Hình bóng người chồng thân yêu đâu còn nhìn thấy nữa, đã “cách ngăn”, bởi màu “biếc” của mây, cứ “tuôn” mãi ra, bởi “ngàn núi xanh” cứ trải dài trải rộng và che khuất ở phía chân trời. Chinh phụ một mình một bóng lẻ loi giữa trống vắng bao la. Nỗi buồn cô đơn như thấm vào mây núi. “Mây biếc”càng làm cho bầu trời cao hơn, mênh mông hơn. “Ngàn núi xanh” càng làm cho chân trời thêm xa xăm, cách trở. Câu thơ “tuôn màu,mày biếc, trải ngàn núi xanh” là một câu thơ có hình tượng mĩ lệ và rất hay. Tác giả đã lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng thương nhớ và cô đơn của chinh phụ một cách đặc sắc. Nỗi buồn cô đơn của nàng chinh phụ được khắc sâu, được tô đậm qua cách nói ước lệ tượng trưng ở đoạn song thất tiếp theo: “Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại, Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng”. Hàm Dương và Tiêu Tương, hai địa danh trên đất nước Trung Hoa bao la, cách xa hàng nghìn dặm, được nhắc đi nhắc lại đến ba lần ám ảnh. Trên cõi xa trường tầm tã gió mưa sương tuyết, giữa rừng gươm giáo “chàng còn ngoảnh lại”..Ở chốn “buồng cũchiếu chăn”, sớm sớm chiều chiều “thiếp hãy trông sang”. Nhưng chỉ thấy “bến”, thấy “cây”, thấy “khói” mịt mù trong tâm tưởng. Không gian địa lí bao la đã trở thành không gian nghệ thuật trống vắng. Chữ “cách” được điệp lại hai lần, kết hợp với “mấy trùng” càng làm nổi bật bi kịch chia li của lứa đôi. Và đó cũng là tâm trạng nghệ thuật: nỗi buồn cô đơn, thương nhớ của nàng chinh phụ không thể nào kể xiết. Cách nói ước lệ tượng trưng là một thủ pháp nghệ thuật của thi pháp cổ mang giá trị thẩm mĩ đặc sắc: tạo nên tính hàm súc và liên tưởng phong phú, đầy ý vị. Chinh phụ ngâm khúc có nhiều đoạn thơ mang tính ước lệ rất hay. Lúc thì gợi lên nỗi gian truân của khách chinh phụ trên chiến địa: “Nay Hàn xuống Bạch Thành đóng lại, Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua Hình khe, thế núi gần xa, Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Lúc thì tái hiện một cách rùng rợn chốn sa trường: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo, Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phụ trăng dõi dõi soi”. Bốn câu thơ cuối đoạn đã cực tả nỗi buồn của nàng chinh phụ trong sự trông ngóng, nhớ thương: “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”. Càng ngóng trông càng vô vọng cô dơn; ở hai phía chân trời, chàng và thiếp đang buồn đau: “cùng trông lại mà cũng chẳng thấy”. Ngày và đêm, thực và mộng “chẳng thấy” hình bóng thân thương của chàng, mà thiếp chỉ “thấy” màu “xanh xanh” của ngàn dâu, càng về sau càng nhạt nhòa trên cái nền bao la “ngàn dâu xanh ngắt một màu”. Màu “xanh xanh”, màu “xanh ngắt” ấy của ngàn dâu cũng là màu xanh của tâm tưởng, màu xanh của li biệt. Thiếp đang sống trong nỗi buồn nhớ thiết tha. Chẳng có ngọn gió tây, chẳng có cánh chim nhạn để thiếp gửi tình thương nhớ tới chàng đang chinh chiến trên ải xa? Câu hỏi tu từ như một tiếng thở dài ngao ngán: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Trong Chinh phụ ngâm khúc, biện pháp nghệ thuật liên hoàn – trùng điệp đã để lại dấu ấn tuyệt đẹp qua nhiều đoạn thơ tuyệt tác: “Hướng dương lòng thiếp như hoa, Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương, Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái Hoa để vàng bởi tại bóng dương Hoa vàng hoa rụng quanh tường, Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần”. Thơ là cái đẹp muôn đời của sự sống. Chinh phụ ngâm khúc là cái đẹp chứa chan tinh thần nhân đạo phản ánh một thời kì loạn lạc đau thương, để lại bao xúc động trong lòng người hơn 250 năm nay. Đoạn thơ 12 câu trên đây là một nét đẹp của khúc ngâm tuyệt tác này. Ngôn từ điêu luyện, biểu cảm, hình tượng mĩ lệ, nhạc điệu du dương, câu thơ song thất của khúc ngâm đã trở thành cổ điển. Cách nói ước lệ tượng trưng, cấu trúc song hành đối xứng, biện pháp liên hoàn -tượng trưng đã được nữ sĩ sử dụng rất tài tình. Chiến tranh loạn lạc đã để lại bao nỗi đau trong lòng người. Nỗi buồn li biệt, tình thương nhớ, cảnh ngộ cô đơn của người vợ trẻ sau khi tiễn chồng ra trận như thấm sâu vào cảnh vật từ mây trời, núi non đến cây cỏ, từ chốn phòng khuê đến ải xa nơi chiến địa. Đoạn thư thấm đượm tính nhân văn, thể hiện niềm khao khát của người chinh phụ muốn được sống trong tình yêu hạnh phúc, trong bình yên. LUYỆN TẬP Để 1. Có ý kiến cho rằng, tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc là khúc ca lên án tình trạng chiến tranh liên miên, đồng thời là tiếng nói của người phụ nữ có chồng ra trận. Qua đoạn trích Sau phút chia li, em hãy chứng minh ý kiến trên. Đề 2. Phân tích nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong đoạn trích Sau phút chia li.
Trình bày một số nét về tác giả, dịch giả, về nội dung và giá trị tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc. Hướng dẫn Đặng Trần Côn quê ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, ngoại thành Thăng Long. Ông sống vào nửa đầu thế kỉ XVIII. Ông đỗ Hương công (Cử nhân) từng làm quan dưới thời Lê – Trịnh. Ông để lại một số thơ văn chữ Hán; tác phẩm tiêu biểu nhất là Chinh phụ ngâm khúc gồm có 478 câu thơ chữ Hán dài, ngắn xen nhau theo thể trường đoản cú. Hiện nay có nhiều bản dịch thơ của Chinh phụ ngâm khúc. Bản dịch gồm 408 câu thơ song thất lục bát rất được phổ biến, nhiều người cho là của bà Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với ông Đặng Trần Côn. Đoàn Thị Điểm quê ở làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà là một phụ nữ nổi tiếng: “Đẹp người, đẹp nết, giỏi văn chương “, là vợ thứ của tiến sĩ Nguyễn Kiều, danh sĩ Bắc Hà thời Lê – Trịnh. Ngoài bản dịch Chinh phụ ngâm khúc, nữ sĩ còn để lại tác phẩm Truyền kì tân phả bằng chữ Hán. Có người nói rằng dịch giả của Chinh phụ ngâm khúc là của Phan Huy Ích. Phan Huy Ích (1750 – 1822) tự là Dụ Am, người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh), sau di cư ra làng Sài Sơn, phủ Quốc Oai (nay thuộc Hà Tây). Ông đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi. Ông để lại một số tác phẩm như Dụ Am văn tập, Dụ Am ngâm lục. • Nội dung: Chinh phụ ngâm khúc thể hiện nỗi thương nhớ, trông mong, đợi chờ, nỗi buồn cô đơn, vất vả, dài dằng dặc của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa, đồng thời nói lên cảnh gian truân, nguy hiểm của người chồng trên chiến địa. • Giá trị: Bản dịch Chinh phụ ngâm khúc là một kiệt tác của nền văn thơ cổ điển Việt Nam. Nó có giá trị nhân đạo sâu sắc, nói lên tình thương đối với những chinh phụ, những khách chinh phụ trong thời loạn lạc: nguy hiểm, chết chóc, lo buồn cô đơn, cảm thông với nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi, về ước mơ sum họp gia đình. Chinh phụ ngâm còn là tiếng nói lên án chiến tranh thời phong kiến. Về mặt nghệ thuật Chinh phụ ngâm khúc đạt được nhiều thành tựu rực rỡ về thể thơ song thất lục bát mà khó có tác phẩm nào sánh được. Nhạc điệu du dương, ngôn ngữ trong sáng gợi cảm, hình tượng mĩ lệ, cách diễn tả tâm trạng tinh tế, sâu sắc, các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng cực kì điêu luyện. Nhiều câu thơ, đoạn thơ đã in sâu trong tâm trí hàng triệu con người. Chẳng hạn: Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai? hay: Ôm yên, gối trống đã mòn, Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh. Bài làm Chinh phụ ngâm khúclà khúc ngâm tả nỗi buồn cô đơn, thương nhớ, chờ mong của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa. Tác giả khúc ngâm là Đặng Trần Côn, một danh sĩ tài ba, sống vào nửa đầu thế kỉ XVIII, khi đất nước ta đang đắm chìm trong cảnh loạn lạc, nội chiến lầm than và đau thương. Nguyên tác bằng chữ Hán, gồm có 478 câu thơ dài ngắn xen nhau theo thể trường đoản cú. Bản dịch thơ dài 408 câu thơ song thất lục bát, tương truyền là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với tác giả. Tiếng Việt và thể thơ song thất dưới ngòi bút sáng tạo của dịch giả Chinh phụ ngâm khúc được nâng lên một tầm vóc mới, trở thành kiệt tác trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Nghệ thuật diễn tả tâm trạng, hình tượng thơ mĩ lệ, nhạc điệu du dương, thiết tha, ngôn ngữ thơ tinh luyện, biểu cảm… là vẻ đẹp của áng thơ này. Nỗi buồn cô đơn, niềm khao khát hạnh phúc của nàng chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc mang ý nghĩa thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân, lên án chiến tranh phi nghĩa. Tinh thần nhân đạo là giá trị to lớn và sâu sắc của Chinh phụ ngâm khúc. Đoạn thơ 12 câu thơ dưới đây trích từ câu 53 đến câu 64 của khúc ngâm đã thể hiện một cách cảm động tâm trạng cô đơn và nỗi sầu chia li – của nàng chinh phụ trong những ngày đầu, sau khi tiễn chồng ra trận: “Chàng thì đi cõi xa mưa gió, ………………………………….. Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Hai vế đôi xứng song hành: “Chàng thì đi / Thiếp thì về” làm hiện lên một cảnh ngộ chia li của lứa đôi đầy bi kịch giữa thời loạn lạc. Người vợ trẻ thương chồng phải dấn thân vào “cõi xa mưa gió”, phải nếm trải bao nguy hiểm, gian lao nơi chiến địa xa xôi. Rồi nàng lại tự thương mình phải sống lẻ loi, cô đơn, một mình trong bóng tối suốt năm canh nơi “buồng cũ chiếu chăn”. Hai hình ảnh tượng trưng là “cõi xa mưa gió” và “buồng cũ chiếu chăn” đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi đau khổ của “đôi lứa yêu nhau ” khi đất nước “nổi cơn gió bụi”: “Chàng thì đi cõi xa mưa gió, Thiếp thì về buồng củ chiếu chăn Đoái trông theo đã cách ngăn Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh”. Ba chữ “đoái trông theo” gợi tả một cái nhìn đăm đắm về phía chân trời xa. Hình bóng người chồng thân yêu đâu còn nhìn thấy nữa, đã “cách ngăn”, bởi màu “biếc” của mây, cứ “tuôn” mãi ra, bởi “ngàn núi xanh” cứ trải dài trải rộng và che khuất ở phía chân trời. Chinh phụ một mình một bóng lẻ loi giữa trống vắng bao la. Nỗi buồn cô đơn như thấm vào mây núi. “Mây biếc”càng làm cho bầu trời cao hơn, mênh mông hơn. “Ngàn núi xanh” càng làm cho chân trời thêm xa xăm, cách trở. Câu thơ “tuôn màu,mày biếc, trải ngàn núi xanh” là một câu thơ có hình tượng mĩ lệ và rất hay. Tác giả đã lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng thương nhớ và cô đơn của chinh phụ một cách đặc sắc. Nỗi buồn cô đơn của nàng chinh phụ được khắc sâu, được tô đậm qua cách nói ước lệ tượng trưng ở đoạn song thất tiếp theo: “Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại, Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng”. Hàm Dương và Tiêu Tương, hai địa danh trên đất nước Trung Hoa bao la, cách xa hàng nghìn dặm, được nhắc đi nhắc lại đến ba lần ám ảnh. Trên cõi xa trường tầm tã gió mưa sương tuyết, giữa rừng gươm giáo “chàng còn ngoảnh lại”..Ở chốn “buồng cũchiếu chăn”, sớm sớm chiều chiều “thiếp hãy trông sang”. Nhưng chỉ thấy “bến”, thấy “cây”, thấy “khói” mịt mù trong tâm tưởng. Không gian địa lí bao la đã trở thành không gian nghệ thuật trống vắng. Chữ “cách” được điệp lại hai lần, kết hợp với “mấy trùng” càng làm nổi bật bi kịch chia li của lứa đôi. Và đó cũng là tâm trạng nghệ thuật: nỗi buồn cô đơn, thương nhớ của nàng chinh phụ không thể nào kể xiết. Cách nói ước lệ tượng trưng là một thủ pháp nghệ thuật của thi pháp cổ mang giá trị thẩm mĩ đặc sắc: tạo nên tính hàm súc và liên tưởng phong phú, đầy ý vị. Chinh phụ ngâm khúc có nhiều đoạn thơ mang tính ước lệ rất hay. Lúc thì gợi lên nỗi gian truân của khách chinh phụ trên chiến địa: “Nay Hàn xuống Bạch Thành đóng lại, Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua Hình khe, thế núi gần xa, Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Lúc thì tái hiện một cách rùng rợn chốn sa trường: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo, Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phụ trăng dõi dõi soi”. Bốn câu thơ cuối đoạn đã cực tả nỗi buồn của nàng chinh phụ trong sự trông ngóng, nhớ thương: “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”. Càng ngóng trông càng vô vọng cô dơn; ở hai phía chân trời, chàng và thiếp đang buồn đau: “cùng trông lại mà cũng chẳng thấy”. Ngày và đêm, thực và mộng “chẳng thấy” hình bóng thân thương của chàng, mà thiếp chỉ “thấy” màu “xanh xanh” của ngàn dâu, càng về sau càng nhạt nhòa trên cái nền bao la “ngàn dâu xanh ngắt một màu”. Màu “xanh xanh”, màu “xanh ngắt” ấy của ngàn dâu cũng là màu xanh của tâm tưởng, màu xanh của li biệt. Thiếp đang sống trong nỗi buồn nhớ thiết tha. Chẳng có ngọn gió tây, chẳng có cánh chim nhạn để thiếp gửi tình thương nhớ tới chàng đang chinh chiến trên ải xa? Câu hỏi tu từ như một tiếng thở dài ngao ngán: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Trong Chinh phụ ngâm khúc, biện pháp nghệ thuật liên hoàn – trùng điệp đã để lại dấu ấn tuyệt đẹp qua nhiều đoạn thơ tuyệt tác: “Hướng dương lòng thiếp như hoa, Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương, Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái Hoa để vàng bởi tại bóng dương Hoa vàng hoa rụng quanh tường, Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần”. Thơ là cái đẹp muôn đời của sự sống. Chinh phụ ngâm khúc là cái đẹp chứa chan tinh thần nhân đạo phản ánh một thời kì loạn lạc đau thương, để lại bao xúc động trong lòng người hơn 250 năm nay. Đoạn thơ 12 câu trên đây là một nét đẹp của khúc ngâm tuyệt tác này. Ngôn từ điêu luyện, biểu cảm, hình tượng mĩ lệ, nhạc điệu du dương, câu thơ song thất của khúc ngâm đã trở thành cổ điển. Cách nói ước lệ tượng trưng, cấu trúc song hành đối xứng, biện pháp liên hoàn -tượng trưng đã được nữ sĩ sử dụng rất tài tình. Chiến tranh loạn lạc đã để lại bao nỗi đau trong lòng người. Nỗi buồn li biệt, tình thương nhớ, cảnh ngộ cô đơn của người vợ trẻ sau khi tiễn chồng ra trận như thấm sâu vào cảnh vật từ mây trời, núi non đến cây cỏ, từ chốn phòng khuê đến ải xa nơi chiến địa. Đoạn thư thấm đượm tính nhân văn, thể hiện niềm khao khát của người chinh phụ muốn được sống trong tình yêu hạnh phúc, trong bình yên. LUYỆN TẬP Để 1. Có ý kiến cho rằng, tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc là khúc ca lên án tình trạng chiến tranh liên miên, đồng thời là tiếng nói của người phụ nữ có chồng ra trận. Qua đoạn trích Sau phút chia li, em hãy chứng minh ý kiến trên. Đề 2. Phân tích nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong đoạn trích Sau phút chia li.
Trình bày những cơ hội trong vấn đề chăm sóc, bảo vệ và phát triển của trẻ em Hướng dẫn Chăm sóc, bảo vệ và phát triển của trẻ em là trách nhiệm của toàn nhân loại Bài làm Trong các quyền về trẻ em trên thế giới, không thể thiếu được một quyền quan trọng đối với trẻ em là quyền bảo vệ trẻ em, tạo những cơ hội cho trẻ em học tập, phát triển và bảo vệ trẻ em trước những nguy cơ trong cuộc sống. Trước những thách thức to lớn khiến trẻ em bị kiềm hãm, khó phát triển và cũng là nạn nhân của các cuộc khủng hoảng kinh tế, đói nghèo, bệnh tật hay thậm chí là tệ nạn xã hội… Đối với những thách thức đó, thế giới đã tạo ra những thay đổi tạo cơ hội cho trẻ em phát triển. Bằng cách là các nước trên thế giới đã liên kết với nhau đặt ra các quyền lợi dành cho trẻ em hay nói cách khác là tạo nên những phúc lợi cho quyền trẻ em. Hay tạo ra những điều kiện để trẻ em tránh khỏi những cuộc chiến tranh hay các cuộc xuy đột chính trị, hạn chế sự bóc lột, hành hạ, bạo lực hay rơi vào đường của tệ nạn xã hội. Để làm những việc đó chúng ta phải vạch ra một kế hoạch, hành động cụ thể nhằm đảm bảo cho trẻ em. Như tạo cơ hội hổ trợ kinh tế cho trẻ em nghèo để trẻ em có thể cắp sách tới trường. Xây dựng trường học, cơ sở vật chất hay thiết bị dạy học ở những nơi trẻ em nghèo khổ, không có điều kiện đi học hoặc những nơi trẻ em không biết chữ. Kêu gọi mọi người hỗ trợ, đóng góp để giúp đỡ các em nghèo, khuyết tật, bị mù chữ…Chỉ cần ta mở rộng tấm lòng, mỗi người đóng góp một ít thì có thể giúp cho trể em có hoàn cảnh khó khăn được hạnh phúc. Như các em bị chất độc màu da cam, cần có một lớp học tình thương, các trung tâm cứu trợ trẻ em bị mồ côi, khuyết tật và không có nơi nương tựa… Trẻ em sẽ là những con người trong tương lai giúp đất nước phát triển và sánh vai với các nước hiện đại khác. Nên về vấn đề tạo cơ hội để bảo vệ, chăm sóc để trẻ em phát triển đã được cộng đồng quốc tế nói chung và nước Việt Nam nói riêng, ý thức đầy đủ cụ, cụ thể, thiết thực. Để xứng đáng với việc bảo vệ, quan tâm, chăm sóc ấy, chúng ta cần phải không ngừng nỗ lực trong học tập, rèn luyện để có thể gánh vác trọng trách tương lai đất nước sau này.
Presenting opportunities in the care, protection and development of children Instruct The care, protection and development of children is the responsibility of all humanity Assignment Among children's rights in the world, an important right for children is indispensable: the right to protect children, create opportunities for children to learn, develop and protect children from risks. in life. Faced with great challenges that make children constrained, difficult to develop and also victims of economic crises, poverty, disease or even social evils... Regarding those challenges, The world has made changes that create opportunities for children to develop. By way of countries around the world have joined together to set rights for children or in other words create benefits for children's rights. Or create conditions for children to avoid wars or political conflicts, limit exploitation, abuse, violence or fall into the path of social evils. To do those things, we must outline a specific plan and actions to ensure children's safety. Like creating economic support opportunities for poor children so they can go to school. Building schools, facilities or teaching equipment in places where children are poor, do not have the conditions to go to school or where children are illiterate. Calling everyone to support and contribute to help poor, disabled, illiterate children... As long as we open our hearts, each person contributes a little, we can help children in difficult circumstances. happy. Like the children affected by Agent Orange, there needs to be a class of love, relief centers for orphaned, disabled and homeless children... Children will be the people in the future who will help the country develop and stand shoulder to shoulder with other modern countries. Therefore, the issue of creating opportunities to protect and care for children to develop has been fully, specifically and practically aware of the international community in general and Vietnam in particular. To be worthy of that protection, care, and care, we need to constantly make efforts in studying and training so that we can shoulder the responsibility of the country's future.
Trình bày những cơ sở hình thành nên tình đồng chí ở bài thơ Đồng chí của Chính Hữu Hướng dẫn Chính Hữu viết bài thơ Đồng chí năm 1947. Lúc ấy, lực lượng kháng chiến của ta mới hình thành và chiến đấu trong thời gian ngắn. Không những các chiến sĩ giải phóng phải chiến đấu trong điều kiện vô cùng thiếu thốn mà lực lượng cũng chưa lớn mạnh. Tư tưởng, mục tiêu chiến đấu và sự kiên định của nhiều chiến sĩ chưa thực sự rõ ràng. Bài thơ Đồng chí ra đời kịp thời, đúng lúc củng cố và khẳng định sự gắn kết bền chặt trong nhiệm vụ chiến đấu, chiến thắng kẻ thù của quân và dân ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Mở đầu bài thơ, tác giả đi vào giới thiệu cảnh ngộ xuất thân của những người chiến sĩ: Quê hương anh nước mặt đồng chua Làng tôi nghèo cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” đã gợi lên hình ảnh làng quê lam lũ, cực nhọc của những miền quê nghèo khó. Họ xuất thân từ những người nông dân chân lấm tay bùn, tần tảo với đồng ruộng. Chính sự đồng cảm về giai cấp đã khiến cho họ từ mọi miền đất nước: từ đồng bằng tới miền núi trung du, từ những phương trời xa lạ đã nhanh chóng trở nên thân quen. Chính tình yêu nước, ý chí chiến đấu, tiêu diệt kẻ thù giải phóng đất nước là điều kiện để họ gặp gỡ nhau nơi chiến tuyến. Từ xa hóa gần, từ lạ thành quen. Đó là một sự vận động kì diệu. Không sức mạnh nào khác tạo nên sự kì diệu ấy ngoài tình yêu tổ quốc, lí tưởng cách mạng và nhiệm vụ chiến đấu chống kẻ thù. Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí! Với cấu trúc sóng đôi của câu thơ, ta như hiểu được điều tác giả muốn nói: họ không chỉ cùng một mục đích chiến đấu “súng bên súng” mà còn sống chung lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Những người chiến sĩ ấy còn biết san sẻ cho nhau hơi ấm đồng động. “Đêm rét chung chăn” gợi cho người đọc cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào, chứ không đơn thuần kể lể cái nghèo cái rét. Cái tấm chăn mỏng ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là một kỉ niệm đẹp đối với người lính thời chinh chiến không bao giờ có thể quên được: Ôi núi thẳm rừng sâu Trung đội cũ về đâu Nơi đây chăn giá ngắt Nhớ cái rét ban đầu Thắm mối tình Việt Bắc. (Thâm Tâm – Chiều mưa đường số 5) Câu thơ “Đồng chí!” khép lại đoạn mở đầu thật lạ, thật ngắn gọn. Nó chỉ bao gồm một từ mà sấu chấm cảm gợi lên nhiều điều. Đó không chỉ là tiếng xưng hô thiêng liêng, trang nghiêm; đó còn là tiếng lòng của những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong chiến tranh vệ quốc. Tình đồng chí là kết tinh độ cao của tình người, tình bạn…. Giọng điệu sâu lắng, trữ tình, lời thơ, hình ảnh giản dị, như không hề có sự trau chuốt về ngôn ngữ, không tìm thấy ở đây những từ ngữ sáo rỗng. Ta lại bắt gặp hình ảnh người vệ quốc năm nào qua nỗi “Nhớ” của người thi sĩ Hồng Nguyên. Lũ chúng tôi Bọn người bản xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Quen nhau từ buổi “một – hai” Súng bắn chưa quen Quân sự mươi bài…
Presenting the foundations that form comradeship in the poem Comrades by Chinh Huu Instruct Huu himself wrote the poem Comrade in 1947. At that time, our resistance force had just formed and fought for a short time. Not only did the liberation soldiers have to fight in extremely poor conditions, but their forces were also not yet strong. The ideology, fighting goals and steadfastness of many soldiers are not really clear. The poem Comrade was born on time, just in time to consolidate and affirm the strong bond in the mission of fighting and defeating the enemy of our army and people in the early period of the resistance war against the French. At the beginning of the poem, the author introduces the soldiers' backgrounds: In his hometown, the water surface is sour My village is poor and plows on gravel He sometimes strangers to me From heaven and earth, we did not meet each other The idiom "salty water, sour fields" and the image of "soil plowed into gravel" evoke the image of flooded, toilsome villages in poor countryside. They come from farmers with their hands dirty and working hard in the fields. It is the class sympathy that has made them from all parts of the country: from the plains to the midland mountains, from strange places quickly become familiar. It is the patriotism and the will to fight and destroy the enemy to liberate the country that are the conditions for them to meet each other on the front lines. From far to near, from strange to familiar. It is a miraculous movement. No other power creates that miracle other than love for the country, revolutionary ideals and the duty to fight against the enemy. Gun next to gun, head next to head On cold nights, sharing a blanket becomes a soul mate Comrades! With the parallel structure of the verse, we seem to understand what the author wants to say: they not only have the same purpose of fighting "gun to gun" but also live with the same ideal of "head to head". These soldiers also know how to share warmth with each other. "Cold Night Sharing a Blanket" reminds readers of the warm feeling of camaraderie and compatriotism, rather than simply recounting poverty and cold. That thin, warm blanket of soulmate and comradeship will forever be a beautiful memory for soldiers during the war that can never be forgotten: Oh, deep mountains and deep forests Where did the old platoon go? Here, blankets are extremely expensive Remember the initial cold Deep in love with Viet Bac. (Tham Tam – Rainy afternoon on street 5) The poem "Comrade!" Closing the opening paragraph is strange and brief. It consists of just one word and the exclamation point evokes many things. It's not just a sacred, dignified address; It is also the voice of farmers wearing soldier uniforms who have just bonded together during the national defense war. Comradeship is the crystallization of human love and friendship... The tone is deep, lyrical, the lyrics and images are simple, as if there is no linguistic elaboration, there are no empty words found here. We again encounter the image of the national defender from years ago through the "Remembering" of the poet Hong Nguyen. Our group The natives We met when we were illiterate We've known each other since "one-two" sessions. The gun is not used to shooting Military ten articles…
Trình bày những nét khái quát về tác giả của tiểu thuyết Ê-min hay Về giáo dục Hướng dẫn Bài làm J. J. Ru-xô là nhà văn, nhà triết học vĩ đại của nước Pháp trong thế kỉ XVIII. Ông sinh nám 1712 tại Thụy Sĩ và mất năm 1778 tại Pháp. Ông sinh ra trong một gia đình bố làm thợ sửa đồng hồ, mãi đến năm 10 tuổi mới bắt đầu đi học và cũng chỉ được hai năm. Thời kì tuổi thơ ngọt ngào nhanh chóng trôi qua, ông bắt đầu đi học nghề thợ khắc. Trong một thời gian dài 13 năm từ năm 1728, ông phải bôn ba để kiếm sống và trải qua nhiều cay đắng tủi nhục. Thời gian đó ông có lúc làm thợ khắc, lúc làm đầy tớ trong gia đình quý tộc, lúc phải nương nhờ Đơ Van-ren, lúc vào học ở Đại chủng viện… sau đó ông đi học nhạc rồi dạy nhạc để kiếm sống. Trong gần 5 năm ở nhà Đơ Van-ren, Ru-xô đọc sách suốt ngày đêm, từ sách lịch sử, triết học, văn học, địa lí đến thiên văn học, vật lí, hóa học… Cuổì năm 1740, Ru-xô đến Pa-ri và một giai đoạn mới trong cuộc đời ông đã mở ra. Ông bắt đầu dạy nhạc và làm thư kí. Năm 1746, Ru-xô lập gia đình. Vợ của ông là một cô gái nghèo làm nghề giặt thuê tên là Tê-re-dơ. Sau này, trong cuốn hồi kí của mình, Ru-xô kể lại: Tê-re-dơ là niềm an ủi duy nhất có thực trời ban cho tôi trong cảnh cùng khổ, và chỉ riêng niềm an ủi ấy đủ giúp cho tôi chịu đựng được cuộc đời. Năm 1750, Ru-xô giành giải thưởng của Viện hàn lâm khoa học Đi-gông với tác phẩm Luận về khoa học và nghệ thuật. Năm 1752, ông viết tác phẩm Thầy bói nông thôn và để lại dấu ấn nhờ tác phẩm này. Những năm sau đó, tài năng của Ru-xô được bộc lộ và hàng loạt tác phẩm đã được ông cho ra đời. Trong đó phải kể đến như Nàng Ê-lôi-dơ mới, Khế ước xã hội, Ê-min hay về giáo dục, Những bức thư từ trên núi, Những điều bộc lộ… Những năm tháng cuối đời, Ru-xô bị thế lực Nhà thờ và bọn phản động săn đuổi nhiều lần, có lúc ông phải thay đổi họ tên để trốn tránh. Cuộc đời của Ru-xô là cuộc đời của một con người nhiều cay đắng mà vinh quang. Bài học lớn nhất của ông là bài học về tự học và kiên cường vượt qua mọi thử thách, quyết tâm theo đuổi chí hướng của mình. Tags:Văn 8
Presents general outlines of the author of the novel Emin or On Education Instruct Assignment J. J. Ruso was a great French writer and philosopher in the 18th century. He was born in 1712 in Switzerland and died in 1778 in France. He was born into a family where his father was a watchmaker. He did not start school until he was 10 years old, and that was only for two years. The sweet childhood period quickly passed, and he began to study as an engraver. For a long period of 13 years from 1728, he had to travel to make a living and experienced many bitter and humiliating experiences. During that time, he sometimes worked as an engraver, sometimes worked as a servant in a noble family, sometimes had to rely on De Van-ren, sometimes studied at the Seminary... then he studied music and taught music to make a living. During nearly 5 years at De Van-ren's house, Ruso read books day and night, from books on history, philosophy, literature, geography to astronomy, physics, chemistry... At the end of 1740, Roux arrived in Paris and a new phase in his life opened. He began teaching music and working as a secretary. In 1746, Ruso got married. His wife was a poor girl named Teresa. Later, in his memoirs, Russo recounted: Teresa was the only real consolation God gave me in my miserable situation, and that consolation alone was enough to help me endure. endure life. In 1750, Roux won the prize from the Dinggon Academy of Sciences with his work Treatise on Science and Art. In 1752, he wrote the work The Rural Fortune Teller and left his mark thanks to this work. In the years that followed, Roux's talent was revealed and a series of works were released by him. Among them must be mentioned the New Eliza, The Social Contract, Emin or about education, Letters from the mountains, Revelations... In the last years of his life, Ruso was oppressed. Church forces and reactionaries chased him many times, sometimes he had to change his name to escape. Ruso's life is the life of a bitter yet glorious person. His biggest lesson is the lesson of self-study and resilience to overcome all challenges, determined to pursue his ambition. Tags: Literature 8
Trình bày những tình cảm và suy nghĩ trước cái chết của Cô bé bán diêm – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn I.Tìm hiểu đề và cách làm bài – Nêu ra những suy nghĩ và tình cảm của bản thân đối với số phận của cô bé bán diêm; xúc động vì cảnh ngộ đáng thương, vì những ước mơ của cô bé, thấy thương cảm vì cái chết của cô, từ đó suy nghĩ đến cảnh ngộ những người nghèo khổ và việc làm của bản thân đối với những người đó. – Bài viết gắn liền được cảm xúc với cuộc đời nhân vật, từ những tình cảm cao đẹp do hình tượng nhân vật gợi ra việc làm của bản thân đối với những người nghèo khổ xung quanh. II. Một số điểm cần lưu ý 1. Truyện Cô bé bán diêm không nhiều tình tiết. Khi đọc truyện, cần chú ý đến: – Cảnh ngộ đáng thương của cô bé (cảnh ngộ gia đình, cảnh ngộ khi đi bán diêm). – Những cảnh tượng hiện ra trước mắt cô bé khi quẹt các que diêm. Cảnh tượng đó chính là ước mơ của em về một cuộc sống hạnh phúc. Ước mơ vừa có tính trẻ thơ (con ngỗng quay, cây thông Nô-en, hình ảnh bà nội…) vừa có ý nghĩa sâu sắc. – Cái chết của em bé giữa tuyết lạnh và giữa những bao diêm nhưng đôi môi vẫn đang mỉm cười. 2. Nên từ các suy nghĩ, cảm xúc xung quanh nhân vật của truyện nghĩ đến cuộc sống hôm nay, nghĩ đến việc làm đối với những người nghèo khổ hiện tại. DÀN BÀI A.Mở bài Giới thiệu truyện Cô bé bán diêm và cảm nghĩ chung của em về cảnh ngộ và cái chết của cô bé. Có thể nêu các cảm nghĩ: – Thương cảm, xót xa trước cảnh ngộ nghèo khổ, trước cái chết của cô bé. -Suy nghĩ về tình cảm giữa những lớp người, giữa những cá nhân với các số phận khác nhau trong xã hội: cần có sự thương cảm, có hành vi giúp đỡ, quan tâm đến nhau. B.Thân bài 1. Thương cảm, ái ngại trước cảnh ngộ nghèo khổ, cơ cực của cô bé và sự phẫn nộ trước thái độ thờ ơ của mọi người trong truyện. + Lược thuật ngắn gọn cái chết của em (chú ý các chi tiết quan trọng: em chết nhưng đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười, em chết giữa những bao diêm, ở xó tường, bên ngoài là tuyết phủ kín mặt đất…). + Nêu và phân tích tình cảm của em trước cái chết đó: xót xa, nghẹn ngào vì em bé đã chết. Xúc động, thương em bé có những ước mơ bình thường mà không đạt được. + Từ cái chết của em bé bán diêm nghĩ đến cuộc sống của biết bao em bé nghèo khổ, bao gia đình không đủ miếng ăn, không có quần áo mặc. Từ đó nghĩ đến trách nhiệm của mọi người đối với những người nghèo khổ khác. – Khẳng định một lần nữa tình cảm nhân hậu mà truyện gợi lên trong lòng người đọc. – Nêu rõ trách nhiệm và tình thương của mọi người đốì với số phận và cuộc đời những em bé bán diêm, bán báo, nhặt vỏ chai… thời nay. Tags:Văn 8
Presenting feelings and thoughts before the death of the Match Girl - Topics and sample essays 8 Instruct I. Learn the topic and how to do the test – State your thoughts and feelings regarding the fate of the little match girl; was moved by the pitiful plight, by the little girl's dreams, felt sympathy for her death, and then thought about the plight of the poor and his own actions towards those people. – The article is emotionally attached to the character's life, from the noble feelings evoked by the character's image to his actions for the poor people around him. II. Some points to note 1. The story The Little Match Girl doesn't have many details. When reading stories, pay attention to: – The girl's pitiful plight (family plight, plight of selling matches). – Scenes appeared before her eyes when she struck matches. That scene is my dream of a happy life. The dream is both childish (roasted goose, Christmas tree, image of grandmother...) and deeply meaningful. – The death of a baby in the cold snow and among matchboxes but his lips are still smiling. 2. So from the thoughts and feelings surrounding the characters of the story, think about life today, think about what to do for the poor people today. OUTLINE A.Open the lesson Introducing the story The Little Match Girl and my general feelings about the girl's plight and death. The following thoughts can be expressed: – Sympathy and sadness for the poor girl's plight and her death. -Think about the feelings between classes of people, between individuals with different fates in society: there needs to be sympathy, helping behavior, and caring for each other. B. Body of the article 1. Sympathy and concern for the poor and destitute situation of the little girl and indignation at the indifferent attitude of everyone in the story. + Brief summary of her death (pay attention to important details: she died but her cheeks were pink and her lips were smiling, she died among matchboxes, in a corner of the wall, outside was covered with snow on the ground …). + State and analyze your feelings before that death: sadness, choking because the baby died. Touched and felt sorry for the baby who had normal dreams but couldn't achieve them. + From the death of the little match seller, think about the lives of so many poor children, so many families who don't have enough food to eat or clothes to wear. From there, think about everyone's responsibility towards other poor people. – Reaffirming the kind feelings that the story evokes in the hearts of readers. - Clearly state everyone's responsibility and love for the fate and lives of children selling matches, selling newspapers, picking up bottles... today. Tags: Literature 8
Trình bày nội dung và đặc sắc nghệ thuật trong truyện Chân Tay Tai Mắt Miệng Hướng dẫn Chân Tay Tai Mắt Miệng là truyện ngụ ngôn dân gian đặc sắc không chỉ chứa đựng nhiều bài học nhân sinh sâu sắc mà còn có nghệ thuật xây dựng cốt truyện ấn tượng. Em hãy trình bày nội dung và đặc sắc nghệ thuật trong truyện Chân, tay, Tai, Măt, Miệng. I. Dàn ý chi tiết cho đề trình bày nội dung và đặc sắc nghệ thuật trong truyện Chân Tay Tai Mắt Miệng 1. Mở bài Giới thiệu truyện: Truyện ngụ ngôn Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng đem đến cho con người bài học sâu sắc về sự đoàn kết, mối quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng. Truyện có nhiều đặc sắc trong nghệ thuật. 2. Thân bài – Nội dung: + Câu chuyện của Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng với những mâu thuẫn, xuất phát từ cái nhìn phiến diện cho rằng lão Miệng không làm gì cũng được ăn. + Chân, Tay, Tai, Mắt nghỉ việc dẫn đến nhiều hậu quả vì suy nghĩ quá nông nổi. + Sau một tuần, họ nhận ra suy nghĩ của mình là sai và đến nhà lão Miệng. Mọi người lại vui vẻ, không ai tị ai. – Nghệ thuật: + Nghệ thuật nhân hóa đặc sắc, mượn các bộ phận trên cơ thể con người để nói chuyện con người. + Kết cấu ngắn gọn, đủ các nhân vật, những mâu thuẫn cao trào. + Giọng kể hài hước, dí dỏm 3. Kết bài Ý nghĩa của truyện: Với nghệ thuật nhân hóa, lấy các bộ phận trên cơ thể để nói về chính con người. Câu chuyện là bài học triết lí sâu sắc về sự đoàn kết, gắn bó của con người trong cộng đồng. Qua những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ dân gian cha ông ta thường gửi gắm những bài học triết lí sâu sắc. “Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng” là một câu chuyện như thế. Truyện khuyên răn con người về sự đoàn kết, về mối quan hệ khăng khít giữa cá nhân với cộng đồng. Ngoài giá trị nội dung, truyện còn có nghệ thuật độc đáo và đặc sắc. Trước hết, về mặt nội dung, “Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng” là câu chuyện của năm bộ phận trên cơ thể người. Trước kia vốn sống rất hòa thuận, bỗng dung một ngày cô Mắt khởi xướng cuộc tấy chay vì cho rằng lão Miệng chẳng phải làm gì mà vẫn ăn ngon lành, còn họ phải làm việc vất vả mà chẳng được gì. Ý kiến của cô Mắt được cậu Chân, cậu Tay, bác tai ủng hộ, họ kéo nhau đến nhà lão Miệng để nói với lão từ nay phải tự lo lấy mà ăn, xưa nay họ vất vả mà chẳng được miếng ngon lành gì. Mặc kệ lời giải thích của lão Miệng, họ cũng không để tâm, sự rạn nứt giữa họ bắt đầu. Suy nghĩ nông nổi của Chân, Tay, Tai, Mắt đã phải trả giá. Chúng bảo nhau nghỉ việc không làm gì cả. Ngày một, ngày hai rồi ngày ba, tất cả đều mệt mỏi rã rời. Mắt thì “lờ đờ”, cậu Chân, cậu Tay cũng chẳng muốn cất mình lên đê chạy nhảy như trước nữa, bác Tai thì lúc nào cũng “ù ù như xay lúa”… Cho đến ngày thứ bảy, không thể chịu được nữa mọi người lại họp bàn. Nghe lời giải thích của bác tai, ai nấy cũng thấy hợp lí gượng dậy đi đến nhà lão Miệng. Trong suốt bảy ngày mọi người nghỉ việc, lão Miệng không có cái ăn cũng rơi vào tình trạng thê thảm “nhợt nhạt cả hai môi, hai hàm thì khô như rang, không buồn nhếch mép”. Tất cả vội vàng ai vào việc nấy như trước kia. Và cuối cùng mọi người đều vui vẻ, khoan khoái, không còn mệt nhọc. Kết thúc câu chuyện là cảnh Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng lại hòa thuận như trước, không ai tị ai cả. Thành công của truyện không chỉ là ở mặt nội dung mà còn bởi những yếu tố nghệ thuật độc đáo. Truyện đã mượn các bộ phận trên cơ thể người để nói về chuyện con người. Nghệ thuật nhân hóa được tác giả dân gian sử dụng tài tình. Năm bộ phận Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng trên cơ thể con người cũng giống như là con người trong một cộng đồng. Thông qua câu chuyện của năm bộ phận ấy, ông cha ta đã gửi gắm những bài học triết lí sâu sắc cho con người. Mỗi cá nhân là một phần riêng biệt nhưng không thể tách rời khỏi cộng đồng, có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó khăng khít với cộng đồng. Sống trong tập thể phải biết mình vì mọi người, mọi người vì mình, như thế cuộc sống mới hạnh phúc. Truyện còn thành công với kết cấu ngắn gọn, với đầy đủ tình tiết, mẫu thuẫn như một màn kịch nhỏ, giọng kể hài hước, dí dỏm tạo hấp dẫn cho người đọc. Như vậy, bằng nghệ thuật nhân hóa các bộ phận trên cơ thể con người để nói về chuyện con người, truyện ngụ ngôn Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng đã đưa đến cho con người những bài học sâu sắc, thấm thía. Mỗi con người là một thành phần không thể tách rời của xã hội, phải biết đoàn kết, nương tựa nhau để có một cuộc sống tốt đẹp.
Presenting the content and artistic characteristics in the story Hands, Hands, Ears, Eyes, and Mouth Instruct Hands, Hands, Ears, Eyes, and Mouth is a unique folk fable that not only contains many profound life lessons but also has the art of building an impressive plot. Please present the content and artistic characteristics in the story Legs, Hands, Ears, Eyes, Mouth. I. Detailed outline for the topic presenting the content and artistic characteristics in the story Hands, Hands, Ears, Eyes, and Mouth 1. Open the lesson Story introduction: The fable of Feet, Hands, Ears, Eyes, Mouth gives people a profound lesson about solidarity and the relationship between individuals and the community. The story has many unique artistic features. 2. Body of the article - Content: + The story of Legs, Hands, Ears, Eyes, and Mouth is full of contradictions, stemming from the one-sided view that Mouth can eat whatever he does. + Feet, Hands, Ears, and Eyes quitting work leads to many consequences because of thinking too rashly. + After a week, they realized their thinking was wrong and went to Mr. Mouth's house. Everyone was happy again, no one was jealous of anyone. - Art: + Unique anthropomorphic art, borrowing parts of the human body to talk about people. + Short structure, enough characters, climax conflicts. + Humorous, witty narrative voice 3. Conclusion Meaning of the story: With the art of personification, taking parts of the body to talk about the person himself. The story is a profound philosophical lesson about the solidarity and attachment of people in the community. Through folk songs, proverbs, and folk tales, our ancestors often conveyed profound philosophical lessons. “Legs, Arms, Ears, Eyes, Mouth” is such a story. The story advises people about solidarity and the close relationship between individuals and the community. In addition to its content value, the story also has unique and unique art. First of all, in terms of content, "Legs, Arms, Ears, Eyes, Mouth" is the story of five parts of the human body. Before, she used to live very harmoniously, but suddenly one day Miss Mat initiated a boycott because she thought that Mr. Mouth had to do nothing but still ate well, while they had to work hard but got nothing. Ms. Mat's opinion was supported by Mr. Chan, Mr. Tay, and Mr. Tai. They all went to Mr. Mouth's house to tell him that from now on they had to take care of their own food, they had always worked hard but didn't get any good food. Regardless of Mr. Mouth's explanation, they did not pay attention, the rift between them began. The rash thinking of Feet, Hands, Ears, and Eyes has paid the price. They told each other to quit their jobs and do nothing. Day one, day two, day three, everyone was exhausted. His eyes were "sluggish", Mr. Chan and Mr. Tay didn't want to go up to the dike and run around like before, Mr. Tai was always "buzzing like a rice mill"... Until the seventh day, he couldn't stand it anymore. Everyone met again to discuss. Hearing my uncle's explanation, everyone found it reasonable to get up and go to Mr. Mouth's house. During the seven days when everyone was off work, Mr. Mou, without food, fell into a miserable state, "both lips were pale, his jaw was as dry as roasting, he didn't even bother to smile". Everyone was in a hurry to get to work like before. And in the end, everyone was happy, relaxed, and no longer tired. At the end of the story, the Legs, Hands, Ears, Eyes, and Mouth are in harmony again as before, no one is jealous of the other. The story's success is not only due to its content but also due to its unique artistic elements. The story borrowed parts of the human body to talk about human affairs. The art of personification is skillfully used by folk authors. The five parts of the human body - Legs, Hands, Ears, Eyes and Mouth - are like people in a community. Through the stories of those five parts, our ancestors conveyed profound philosophical lessons to people. Each individual is a separate but inseparable part of the community, with a close relationship and close attachment to the community. Living in a group must know that you are for everyone, everyone is for you, then life will be happy. The story is also successful with its concise structure, full of details and conflicts like a small drama, and a humorous, witty narrative voice that attracts readers. Thus, by the art of anthropomorphizing parts of the human body to talk about human affairs, the fable of Legs, Hands, Ears, Eyes, Mouth has brought to people profound and penetrating lessons. Each person is an inseparable part of society and must know how to unite and rely on each other to have a good life.
Trình bày quan niệm về nội dung của câu ngạn ngữ phương Tây: Không có nghề nào hèn cả, chỉ có những kẻ hèn mà thôi Hướng dẫn Trình bày quan niệm về nội dung của câu ngạn ngữ phương Tây: Không có nghề nào hèn cả, chỉ có những kẻ hèn mà thôi Bài làm Trong cuộc sống của chúng ta, mấy ai đạt được thành công mà không trải qua khó khăn gian khổ, cũng chẳng ai đạt được thành công mà không phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”. Sự cần cù chịu khó luôn là yếu tố chính dẫn đến thành công. Sống trong cảnh gia đình đầy đủ, xa hoa hẳn mọi điều lo lắng khổ cực, chúng ta dễ khinh thường những người lao động, hàng ngày phải lam lũ với nghề nghiệp, chúng ta lại thường sẵn có thành kiến sai lầm, phân biệt nghề cao quý với nghề ti tiện, trọng nghề trí thức, khinh nghề chân tay. Để cảnh báo thái độ đó, phương Tây có câu ngạn ngữ: “Không có nghề nào là hèn cả, chỉ có những kẻ hèn mà thôi” Khi sinh ra, bản năng sinh tồn là cái mà mỗi con vật có được.Chúng có thể đứng lên bằng chính đôi chân mình có thể chạy nhảy.Tạo hoá đã ưu ái ban cho chúng những khả năng kì diệu đó. Nhưng con người thì khác khi sinh ra tiếng khóc chào đời là tất cả những gì họ có được. Tiếng oa oa cất lên chỉ đơn giản cho mọi người biết một mầm sống mới đã ra đời. Nhưng mầm sống đó sẽ ra sao? và tương lai của nó sẽ như thế nào. Cuộc sống phía trước là của chính nó và do nó quyết định.Giống như một nhà triết học đã nói: “mỗi con vật khi sinh ra đều là tất cả những gì nó có.Chỉ có con người là ngay từ thuở lọt lòng thì chẳng là gì cả.Nó làm thế nào thì nó sẽ trở thành như thế ấy,và nó phải làm bằng tự do của chình nó Tôi chỉ có thể trở thành kẻ do chính tôi làm ra”. Thật ra có nghề nào là nghề hèn kém không? Để trả lời chúng ta đưa vài thí dụ. Đây là bác phu xe, mặt mũi đen đủi, áo quần lôi thôi, lấy chiếc xe ba bánh làm kế sinh nhai. Ta liệt bác vào hạng tầm thường và nghề bác làm vệ sinh thành phố, đến cửa từng nhà, hốt để lên xe những đống rác thối tha, đầy ruồi nhặng… có người nhìn bác bằng cặp mắt khinh rẻ. Thanh niên ngày nay không chỉ vùi đầu vào sách vở như đàn anh lớp trước. Cuộc sống hiện đại khoa học kĩ thuật tiến bộ thói quen hằng ngày không gói gọn trong bốn bức tường chỉ có học học và học. Thời gian hằng ngày dường như được mở rộng hơn với rất nhiều những hoạt động thú vị. như chiến dịch mùa hè xanh. Thanh niên được tự do vô tư đến những vùng khó khăn giúp đỡ nhân dân nghèo vùng sâu vùng xa hay những chuyến đi ngắn ngày chỉ đơn giản là chia sẻ quà bánh cho những trẻ em ở những làng trẻ mồ côi, tất cả đều xuất phát từ lòng tình nguyện và sự yêu thương giống nòi.Thanh niên ngày nay không chỉ học tập tốt lao động tốt mà còn có cả lòng nhân ái khoan dung. Những điều kiện đó chính là nền tảng cho sự thành công sau này. Sự thành công đó họ đạt được là do chính đôi tay và khối óc của họ không dựa dẫm vào bất cứ ai……”Khát vọng chính là nguồn động lực có sức mạnh vô biên, tiềm tàng bên trong mỗi con người. Động lực này được thể hiện qua những hành động liên tục và bền bỉ, để con người không bao giờ từ bỏ ước mơ, không bao giờ khuất phục hoàn cảnh.” Quả thật như cau danh ngôn con người có thề đạt được tât cả khi có khát vọng bạn chi thật sự thất bại khi ban từ bỏ khi ước mơ và cố gắng. Qua câu nói vô cùng đáng giá của nhà triết học, có lẽ đã làm thức tỉnh chúng ta, cho nên ngay từ bây giờ phải biết rèn luyện bản thân, học tập thật tốt, khắc phục chỗ hạn chế còn phải trông chờ vào người khác,để bản thân ta phát triển hơn, và hơn hết phải làm nên một con người hợp thời đại thì xã hội mới phát triển, đất nước mới giàu mạnh.Nhưng các bạn cũng hãy nhớ rằng chúng ta không hề cô độc chiến đấu với số phận mà bên cạnh đó còn có gia đình, xã hội nữa.Chính những tác động đócũng có thể tạo nên tôi của ngày mai. Câu nói của nhà triết học thật thú vị phải không các bạn? Biết bao điều ý nghĩa, vô giá được ẩn chứa trong câu nói này. Hãy tự khẳng định cái tôi của chính mình và làm nên cái tôi thật sự, thật giá trị cho xã hội này nha các bạn!!!! “Tôi chỉ có thể là kẻ do chính tôi làm ra”
Presenting the concept of the content of the Western proverb: There is no cowardly profession, there are only cowardly people Instruct Presenting the concept of the content of the Western proverb: There is no cowardly profession, there are only cowardly people Assignment In our lives, few people achieve success without going through difficulties and hardships, and no one achieves success without having to "sweat and cry". Diligence is always the main factor leading to success. Living in a family full of comfort and luxury, far from all the worries and hardships, we easily despise workers who have to work hard every day for their jobs, and we often have erroneous and discriminatory prejudices. Noble professions versus lowly professions, valuing intellectual professions and disdaining manual professions. To warn against that attitude, the West has a proverb: "There is no cowardly job, there are only cowardly people." When born, the survival instinct is what every animal has. They can stand up on their own two feet and run and jump. The Creator has graciously given them those magical abilities. But people are different when they are born, the cry of birth is all they have. The whooshing sound simply lets everyone know that a new life has been born. But what will that life become? and what its future will look like. The life ahead is its own and determined by it. Like a philosopher said: "when every animal is born, it is everything it has. Only humans, right from birth, are is nothing. Whatever it does, it will become like that, and it must be done by its own freedom. I can only become what I make myself.” Actually, is there any job that is a cowardly job? To answer, let's give a few examples. This is the driver, with an unlucky face and shabby clothes, using a three-wheeled vehicle as his livelihood. We classify you as an ordinary person and your job is to clean up the city, going door to door, scooping up piles of stinking garbage full of flies and putting them in the car... some people look at you with contemptuous eyes. Young people today don't just bury their heads in books like their seniors. Modern life, science and technology, progress and daily habits are not limited to four walls, only study, study and study. Everyday time seems to be expanded with many interesting activities. like the green summer campaign. Young people are free to freely go to difficult areas to help poor people in remote areas or take short trips to simply share gifts and cakes with children in orphan villages, all of whom show up. comes from volunteerism and love for the race. Today's youth not only study well and work well, but also have compassion and tolerance. Those conditions are the foundation for future success. The success they achieved was due to their own hands and brains, not relying on anyone..."Desire is a source of motivation with boundless power, hidden within every person. This motivation is expressed through continuous and persistent actions, so that people never give up their dreams, never surrender to circumstances." It's true, like the saying goes, people can achieve anything if they have a desire, but they truly fail when they give up their dreams and efforts. Through the extremely valuable words of the philosopher, perhaps it has awakened us, so from now on we must know how to train ourselves, study well, overcome limitations and still have to rely on others. In order for us to develop more, and above all, to become a person suitable for the times, only then will society develop and the country will be rich and strong. But please also remember that we are not alone in fighting. with fate, but also with family and society. Those same influences can also create the me of tomorrow. The philosopher's saying is interesting, isn't it? So many meaningful and priceless things are hidden in this saying. Affirm your own ego and create a truly valuable ego for this society, guys!!!! “I can only be what I made myself.”
Trình bày suy nghĩ của em khi đọc bài ca dao – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam lưu truyền qua năm tháng thời gian, lan tỏa theo hương lúa đồng nội quê hương. Ngọt ngào biết bao những vần thơ dân dã ấy đã thấm sâu vào tâm hồn thơ bé mỗi chúng ta qua điệu ru của mẹ, tiếng hát của bà. Chúng ta yêu vô cùng những bài ca dao nói về công việc nhà nông “hai sương một nắng”, ca ngợi đức tính cần cù, lòng kiên nhẫn của người dân cày quê ta. Hình ảnh người trai cày sao mà đáng yêu thế: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi, bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần. Hai câu đầu miêu tả cảnh cày đồng. Câu ca dao gợi lên trước mắt chúng ta hình ảnh người nông dân đang lội bùn, tay cầm cày, theo sau con trâu, dưới ánh nắng “ban trưa” chang chang mùa hạ. Người và con trâu phải làm việc vô cùng vất vả. Mồ hôi tuôn ra như mưa. Từ tượng thanh “thánh thót” gợi tả mồ hôi rơi xuống từng giọt… từng giọt liên tiếp, gieo vào không gian âm thanh “thánh thót”. “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” là hình ảnh so sánh thậm xưng gợi tả công việc cày đồng vất vả, cực nhọc không thể nói hết. “Mưa” : làm cho lúa xanh tươi, cũng như “mồ hôi” đổ xuống luống cày làm cho đất đai thêm màu mỡ. Nghệ thuật so sánh “mồ hôi” với “mưa” thật là sáng tạo, làm cho người đọc, người nghe thấm thía, cảm thông với bao cực nhọc của nhà nông. Thật vậy, bà con dân cày đã đổ biết bao mồ hôi, công sức vào luống cày, sá bừa, ngàỵ này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, để làm ra bông lúa, củ khoai nuôi sống xã hội. vần ca dao đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp về người nông dân trên cánh đồng quê hương. Đó là một con người khỏe mạnh dẻo dai, cần mẫn và chịu khó: Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Hai tiếng cảm thán “ai ơi!” vang lên một cách tha thiết, đã tạo nên âm điệu êm ái, ngọt ngào. Nhà thơ dân gian nhắn gửi mọi người gần xa một ý nghĩ với bao tình cảm đẹp. Mỗi khi “bưng” bát cơm đầy chúng ta ghi nhớ công ơn khó nhọc của người nông dân đã cuốc bẫm cày sâu, sản xuất ra lúa gạo cho nhân dân no ấm. Câu ca sâu lắng, thấm thìa: Ai ơi, bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần. Câu cuối bài ca dao được tạo nên bằng nghệ thuật tương phản đặc sắc. Câu tám chữ chia làm hai vế tiểu đối cân xứng: “Dẻo thơm một hạt // đắng cay muôn phần”. Tính từ “dẻo thơm” đối chọi với tính từ “đắng cay”, “một hạt” đối lập với “muôn phần”, làm nổi bật sức lao động sáng tạo của nhà nông. Câu ca dao đã nâng nhận thức và cảm xúc cho mọi người về giá trị của bông lúa, hạt gạo, bát cơm dẻo thơm mà ta được hưởng thụ hàng ngày thật đáng quý vô ngần. Cho nên, nhân dân ta mới gọi hạt gạo là “hạt vàng”, “hạt ngọc” với tất cả lòng tự hào, trân trọng. “Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no” (Nguyễn Duy). Cũng như phần lớn ca dao, dân ca, bài “Cày đồng đang buổi ban trưa..” được viết bằng thể thơ lục bát quen thuộc. Giọng thơ nhẹ nhàng thấm thía. Ngôn từ chọn lựa tinh tế, vừa giàu sức biểu hiện vừa đậm đà sắc thái biểu cảm: thánh thót, dẻo thơm, đắng cay, bát cơm đầy,… Các biện pháp tu từ: ví von so sánh, tương phản đối lập được vận dụng sáng tạo, để viết nên những vần thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu. Với đức tính cần mẫn, dẻo dai và sáng tạo, nhà nông đã làm nên những mùa vàng bát ngát, đem đến sự ấm no cho xã hội. Mọi gia đình có bát cơm dẻo thơm, đất nước có nhiều lương thực xuất khẩu là nhờ vào công sức nhà nông. Thời điểm chiến tranh, hạt gạo mang nặng tình hậu phương, ai mà quên được: “Hạt gạo làng ta – Gửi ra tiền tuyến – Gửi về phương xa – Em vui em hát – Hạt vàng làng ta” (Trần Đăng Khoa). Yêu kính và biết ơn nhà nông, mỗi một chúng ta khắc vào tâm hồn lời nhắn gọi thiết tha đã mấy ngàn năm vang lên sau luỹ tre xanh: Ai ơi, bưng bát cơm đầy Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng! Tags:Văn 8
Present your thoughts when reading folk songs - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment Folk songs are the sentimental songs of the Vietnamese countryside people, passed down through the years, spreading with the scent of rice fields in their homeland. How sweet these folk poems have penetrated deeply into each of us's childhood souls through our mother's lullaby and her singing. We love so much the folk songs that talk about farming work "two dew, one sun", praising the diligence and patience of the people plowing our countryside. The image of a plow boy is so adorable: Plowing the fields at noon Sweat is like rain from plowing fields. Hey, bring a bowl full of rice A flexible aromatic bitter seeds want to share. The first two sentences describe the scene of plowing the fields. The folk song evokes before our eyes the image of a farmer wading through mud, plow in hand, following the buffalo, under the bright "noon" sunlight of summer. People and buffaloes have to work extremely hard. Sweat poured out like rain. The onomatopoeia "holy thud" evokes the description of sweat falling drop by drop... drop by drop in a row, sowing into the space the sound of "holy thud". “Holy sweat like the rain of a plowed field” is an evocative comparison that describes the arduous work of plowing the fields, an indescribable hardship. “Rain”: makes the rice green, just as “sweat” poured into the furrows makes the land more fertile. The art of comparing "sweat" with "rain" is truly creative, making readers and listeners deeply understand and sympathize with the hardships of farmers. Indeed, the farmers have poured so much sweat and effort into the furrows and harrows, day after day, month after month, to produce rice and potatoes to feed society. The folk rhyme paints a beautiful image of a farmer in his hometown fields. He is a healthy, resilient, diligent and hard-working person: Sweat is like rain from plowing fields. Two exclamations of "who!" rang out earnestly, creating a soft, sweet melody. The folk poet sends a message to people near and far with many beautiful feelings. Every time we "carry" a bowl full of rice, we remember the hard work of the farmers who plowed deeply, producing rice for the people. The song is profound and penetrating: Hey, bring a bowl full of rice A flexible aromatic bitter seeds want to share. The last sentence of the folk song is created with a unique art of contrast. The eight-word sentence is divided into two small, symmetrical clauses: "One grain is fragrant // bitter and bitter in many ways." The adjective "fragrant" contrasts with the adjective "bitter", "one grain" contrasts with "many parts", highlighting the creative labor of farmers. The folk song has raised people's awareness and emotions about the value of rice flowers, rice grains, and fragrant bowls of rice that we enjoy every day, which are extremely precious. That's why our people call rice grains "golden grains" and "pearl grains" with all pride and respect. “Rice grains feed us all” (Nguyen Duy). Like most folk songs and folk songs, the song "Plowing the fields at noon..." is written in the familiar six-eight verse form. The poetic voice is gentle and poignant. The words are delicately chosen, both rich in expressive power and rich in expressive nuances: sacred, fragrant, bitter, full of rice bowls,... Rhetorical devices: similes, comparisons, contrasts, contrasts, etc. Use creativity to write poems rich in images and music. With diligence, resilience and creativity, farmers have created immense golden seasons, bringing prosperity to society. Every family has a bowl of fragrant sticky rice, the country has a lot of food for export thanks to the efforts of farmers. During the war, the grain of rice carried a heavy love for the home front, who could forget: "The grain of rice in our village - Sent to the front line - Sent to the far away - When you're happy, you sing - The golden grain of our village" (Tran Dang Khoa). Loving and grateful to farmers, each of us engraves in our hearts the passionate message that has been ringing for thousands of years behind the green bamboo: Hey, bring a bowl full of rice Remember the hard work of plowing early in the morning! Tags: Literature 8
Trình bày suy nghĩ của em sau khi học xong truyện Ếch ngồi đáy giếng Hướng dẫn Đề bài: Ếch ngồi đáy giếng là câu chuyện chứa đựng nhiều bài học, thông điệp về cách ứng xử cũng như thái độ sống. Em hãy trình bày suy nghĩ của em sau khi học xong truyện Ếch ngồi đáy giếng. I. Dàn ý chi tiết cho đề suy nghĩ về truyện Ếch ngồi đáy giếng 1. Mở bài Giới thiệu về câu chuyện: Tác phẩm “Ếch ngồi đáy giếng” mượn hình ảnh chú ếch, phản ảnh lối sống của chính con người trong xã hội hiện nay 2. Thân bài – Nội dung của tác phẩm qua sự đối lập giữa hình ảnh dưới đáy giếng và khi thoát khỏi đáy giếng + Khi sống dưới đáy giếng: Coi trời bằng vung, tự cho bản thân là chú tể, không sợ ai, coi thường mọi thứ xung quanh + Khi ra khỏi miệng giếng: Bất ngờ, giật mình với những điều mới lạ, tính cách không thay đổi, vẫn huênh hoan, không coi ai ra gì. –> Kết cục: Chết thảm khi bị trâu dẫm bẹp – Ý nghĩa câu chuyện đối với con người trong xã hội + Là lời cảnh tỉnh cho những ai đang có lối sống bảo thủ, lối sống thu hẹp bản thân và sửa đổi lối sống đó + Trong cuộc sống không nên coi thường người, không đánh giá qua vẻ bề ngoài, đặc biệt cần nhìn nhận vấn đề theo nhiều chiều, học cách hòa nhập vào bộ máy cuộc sống + Lời cảnh tình, báo trước kết thúc với những người không chịu thay đổi. 3. Kết bài Cảm nghĩ về câu chuyện: “Ếch ngồi đáy giếng” là câu chuyện vô cùng ý nghĩa dành cho mọi lứa tuổi, mọi thế hệ, là lời nhắn nhủ cần học tập hơn nữa trong cuộc sống của chính mình. II. Bài tham khảo cho đề suy nghĩ về truyện Ếch ngồi đáy giếng Truyện ngụ ngôn trong dân gian thường mang một ý nghĩa riêng biệt về cuộc sống, con người và xã hội, những tác phẩm đó được nhân dân đúc kết lại từ kinh nghiệm của mình thành những bài học quý giá cho những thế hệ sau qua các tình tiết hài hước, châm biếm, nói bóng nói gió trong mỗi câu chuyện. Tiêu biết là tác phẩm “Ếch ngồi đáy giếng” mượn hình ảnh chú ếch với cái nhìn chỉ bằng cái miệng giếng giữa một không gian bao la rộng lớn khuất tầm nhìn, tác phẩm đã phản ảnh lối sống của chính con người trong xã hội hiện nay. Câu chuyện được thể hiện xoay quanh những điều mà chú ếch nhìn thấy được khi sống dưới đáy giếng và khi được theo dòng nước trôi ra ngoài, phóng rộng tầm mắt bao quát sự vật xung quanh. Khi sống dưới đáy giếng, trong suy nghĩ của chú ếch thì cái mà người ta gọi là trời ở ngoài kia cũng chỉ tầm thường, chỉ nhỏ bé vẻn vẹn bằng cái vung, và trong không gian nhỏ bé đó thì chẳng có gì khiến chú ta phải lo sợ, phải rè chứng, từ đó mà ếch tự cho mình là chúa tể, có thể tự do ra oai, nghênh ngang và coi thường tất cả mọi thứ xung quanh. Để rồi một ngày, khi mưa to gió lớn, nước trong giếng tràn ra thì cũng là lúc chú ếch được tận mắt chứng kiến khung cảnh xung quanh, nó thật khác xa so với những gì ngày thường mà chú ta thấy, tất cả đều thật mới lạ, thật rộng lớn. Nhưng những điều đó không làm cho lối sống, sự suy nghĩ trong chú ếch thay đổi, vì đã sống trong một không gian chật hẹp đã làm cho suy nghĩ thiển cận ăn sâu vào bên trong chú nên tính cách huênh hoang không coi ai ra gì, tự cho mình là nhất vẫn không hề thay đổi, để rồi cuối cùng là phải nhận cái kết bi thảm. Qua một tình huống truyện ngắn gọn đã đúc rút ra rất nhiều bài học quý giá trong cuộc sống của mỗi người, là lời cảnh tỉnh cho những ai đang có lối sống bảo thủ, lối sống thu hẹp bản thân, sống chỉ biết mình không quan tâm tới những người xung quanh, cần có cái nhìn chân thực hơn về cách sống, học hỏi những điều hay lẽ phải, biết cách nhận ra lỗi lầm của bản thân để sửa đổi, để hoàn thiện hình, tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm kiến thức trong sách vở cũng như trong cuộc sống bởi những điều mà ta biết chỉ là giọt nước nhỏ bé giữa đại dương mênh mông rộng lớn. Khi ta ở một mình thì bản thân mỗi người đều là thứ hai và không ai là thứ nhất, nhưng khi ra ngoài xã hội còn có rất nhiều người giỏi hơn mình vì thế mà không nên coi thường hay đánh giá bất cứ điều gì qua vẻ bề ngoài, cần nhìn nhận vấn đề theo nhiều chiều hướng khác nhau để có cái nhìn bao quát nhất. Cuộc sống đặt ra nhiều yêu cầu đối với mỗi người, cuộc sống là một bộ máy hoạt động theo quy luật nhất định, chính vì vậy để tồn tại cần biết cách hòa nhập cuộc sống nhỏ bé của bản thân với cuộc sống to lớn mà xã hội đang vận hành. Cuối cùng qua câu chuyện là sự lên án phê phán những người đang coi thường người khác, tự cho bản thân mình giỏi hơn tất cả sẽ có một kết cục không mấy tốt đẹp, và câu chuyện cũng là một bài học cho những ai nhìn thấy bản thân mình ở trong chính chú ếch để biết đường sửa đối cách sống, cách tư duy và nhìn nhận vấn đề. “Ếch ngồi đáy giếng” là câu chuyện vô cùng ý nghĩa dành cho mọi lứa tuổi, mọi thế hệ, qua câu chuyện truyền tải đến người nghe cách sống phù hợp với những chuẩn mực của cuộc sống, đồng thời nhắn nhủ đến mọi người cần học tập nhiều hơn nữa từ những người xung quanh, trau dồi thêm nhiều kinh nghiệm, vốn sống hơn nữa cho bản thân mỗi người.
Present your thoughts after studying the story Frog at the Bottom of the Well Instruct Topic: Frog at the bottom of the well is a story that contains many lessons and messages about behavior and life attitude. Please present your thoughts after studying the story Frog at the Bottom of the Well. I. Detailed outline for thinking about the story Frog at the Bottom of the Well 1. Open the lesson Introduction to the story: The work "Frog at the bottom of the well" borrows the image of a frog, reflecting the lifestyle of people in today's society. 2. Body of the article – The content of the work is through the contrast between the image at the bottom of the well and when escaping from the bottom of the well + When living at the bottom of a well: Take the sky seriously, consider yourself the master, fear no one, look down on everything around you + When leaving the well: Surprised, startled by new things, personality unchanged, still proud, not considering anyone else. –> Outcome: Died tragically when trampled by a buffalo – The story's meaning for people in society + It is a warning to those who have a conservative lifestyle, a narrow-minded lifestyle, and to modify that lifestyle + In life, you should not look down on people, do not judge by appearance, especially need to look at problems from many dimensions, learn how to integrate into the system of life + A word of warning, foreshadowing the end for those who refuse to change. 3. Conclusion Feelings about the story: "Frog at the bottom of the well" is an extremely meaningful story for all ages and generations, and is a message to learn more in your own life. II. Reference article for thinking about the story Frog at the bottom of the well Folk fables often carry a unique meaning about life, people and society. Those works are summarized by people from their experiences into valuable lessons for future generations. Humorous details, satire, and allusions in each story. Tieu knows that the work "Frog at the bottom of the well" borrows the image of a frog with a view only the mouth of a well in a vast space hidden from view, the work reflects the lifestyle of people in society. Currently. The story revolves around what the frog sees when he lives at the bottom of the well and when he floats out with the water, widening his view of everything around him. While living at the bottom of the well, in the frog's mind, what people call heaven outside is only trivial, only as small as a pot, and in that small space, there is nothing that makes him happy. We have to be afraid, we have to be timid, from there the frog considers himself the lord, can freely act majestically, arrogantly and disregard everything around him. Then one day, when there was heavy rain and strong winds, the water in the well overflowed, and the frog witnessed the surrounding scenery with his own eyes. It was very different from what he usually saw, everything was different. So new, so vast. But those things did not change the frog's lifestyle and thinking, because living in a cramped space had ingrained short-sighted thinking deeply inside him, so his boastful personality did not take anyone seriously. Whatever, claiming to be the best remains unchanged, only to end up with a tragic end. Through a short story situation, many valuable lessons have been drawn in each person's life, and is a warning to those who have a conservative lifestyle, a narrow-minded lifestyle, living only knowing they are not good. Pay attention to the people around you, need to have a more realistic view of how to live, learn good things, know how to recognize your own mistakes to correct them, to improve your image, and accumulate more experience. Experience knowledge in books as well as in life because what we know is just a small drop of water in the vast ocean. When we are alone, everyone is second and no one is first, but when we go out in society, there are many people who are better than us, so we should not underestimate or judge anything based on our own. appearance, it is necessary to look at the problem in many different directions to have the most comprehensive view. Life places many demands on each person. Life is a machine that operates according to certain rules, so in order to survive, you need to know how to integrate your small life with the big life that society is operating. Finally, the story is a condemnation and criticism of those who look down on others and consider themselves better than everyone, which will have a bad ending, and the story is also a lesson for those who look. see yourself in the frog itself to know how to change your way of living, thinking and looking at problems. "Frog at the Bottom of the Well" is a very meaningful story for all ages and generations, through the story it conveys to listeners how to live in accordance with the standards of life, and at the same time reminds everyone. We need to learn more from the people around us, cultivate more experiences, and have more life capital for ourselves.
Trình bày suy nghĩ của em về câu nói của Bác Hồ: Không có gì quý hơn độc lập tự do. Hướng dẫn Trong khi đế quốc Mĩ dùng mọi cách thống trị nhân dân miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới và leo thang bắn phá miền Bắc, vào ngày 17­7-1966,trong lời kêu gọi chống Mĩ, cứu nước, Hồ Chủ tịch viết: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Lời kêu gọi của Bác đã động viên quân và dân ta đánh đuổi dế quốc Mĩ ra khỏi nước Việt Nam, đem lại độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, câu nói ngắn gần như một chân lí, khẳng định giá trị to lớn của độc lập, tự do của một nước, của một dân tộc. Thực tế, trong sự tồn tại và phát triển của một quốc gia, một dân tộc, nếu không có độc lập thì sẽ không có tự do. Người dân sẽ không có quyền làm chủ đất nước mình. Tuy nhiên, “độc lập, tự do” cần phải hiểu đúng với tinh thần Hồ Chủ tịch đã dạy. Độc lập, tự do phải gắn liền với con đường chủ nghĩa xã hội. Mất định hướng xã hội chủ nghĩa thì độc lập,tự do sẽ mất ý nghĩa chân chính của nó. Ta còn nhớ độc lập ở miền Nam thời Mĩ – ngụy thống trị chỉ là độc lập giả hiệu và nhân dân miền Nam thời đó làm gì có tự do. “Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu”. Điều đó cho chúng ta thấy mất độc lập, tự do là mất tất cả. Mất nước là mất nhà, là đau thương, tang tóc đối với mỗi người dân. Cho nên câu nói của Bác thực là chí tình, chí lí. Chính vì tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của độc lập, tự do mà dân tộc ta đã đứng lên làm Cách mạng tháng Tám thành công, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, nhân dân ta đã giương cao ngọn cờ “không có gì quý hơn độc lập, tự do” để chiến đấu với quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chỉ có độc lập, tự do mới có tất cả. Lời kêu gọi của Bác như một hồi kèn xung trận, thúc giục mọi người tiến lên “đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào”, đem lại đại thắng mùa xuân 1975. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là chân lí sáng ngời mà vị lãnh tụ kính yêu đã đúc kết được từ thực tế lịch sử đấu tranh của dân tộc. Chính Bác cũng hiểu hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do, nên Bác bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu nước, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Present your thoughts on Uncle Ho's saying: Nothing is more precious than independence and freedom. Instruct While the American imperialists used every means to dominate the people of the South with neo-colonialism and escalated bombardment of the North, on January 177, 1966, in his call to fight America and save the country, President Ho Chi Minh wrote: "Nothing is more precious than independence and freedom". Uncle Ho's call mobilized our army and people to expel the American empire from Vietnam, bringing independence, freedom, and unity to the Fatherland. "There is nothing more precious than independence and freedom", a short saying that is almost a truth, affirming the great value of independence and freedom of a country and a people. In fact, in the existence and development of a country and a people, if there is no independence, there will be no freedom. People will not have the right to master their country. However, "independence and freedom" must be understood in the true spirit taught by President Ho. Independence and freedom must be associated with the path of socialism. Losing socialist orientation means independence and freedom will lose their true meaning. We still remember independence in the South during the American era - puppet rule was just fake independence and the people of the South at that time had no freedom. "The king is a wooden statue, the people are the body of a buffalo." That shows us that losing independence and freedom means losing everything. Losing one's country means losing one's home, pain and mourning for every citizen. Therefore, Uncle Ho's words are truly sincere and reasonable. It is because of the great importance and significance of independence and freedom that our people rose up to make the August Revolution successful, liberating the nation from the yoke of French colonialism and Japanese fascism, and regaining independence and freedom for the Fatherland. During the resistance war against America, our people raised the flag "nothing is more precious than independence and freedom" to fight with the determination to liberate the South and unify the Fatherland. Only independence and freedom have everything. Uncle Ho's call was like a battle trumpet, urging everyone to advance "fight America out, fight puppets", bringing about a great victory in the spring of 1975. "Nothing is more precious than independence and freedom" is a shining truth that the beloved leader has drawn from the historical reality of the nation's struggle. Uncle Ho himself understood better than anyone else the value of independence and freedom, so he traveled abroad, looking for ways to save the country, bringing independence and freedom to the Fatherland.
Trình bày suy nghĩ của em về lợi ích của việc đọc sách Dàn ý tham khảo a. Mở bài: Vai trò và tác dụng to lớn của sách trong đời sống của con người. Trình bày suy nghĩ của em về lợi ích của việc đọc sách b. Thân bài: + Giải thích: Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu, lớn lao mà con người sáng tạo ra để phổ biến và lưu truyền lại những hiểu biết và kinh nghiệm về mọi lĩnh vực của cuộc sống. Sách đưa ta vào thế giới phong phú, vô tận của thiên nhiên và xã hội. Sách cung cấp cho con người những tri thức cần thiết để tồn tại và phát triển (Dẫn chứng) Sách là phương tiện giao lưu quan trọng giữa các cộng đồng dân tộc trên thế giới, giúp con người hiểu biết và sống thân ái với nhau hơn. Sách là chiếc cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của từng dân tộc và của cả nhân loại. + Bình luận: Lợi ích to lớn của sách là thật sự hiển nhiên (Cần lưu ý loại trừ sách xấu độc hại đối với con người và xã hội). Không thể có một cuộc sống tốt đẹp mà không có sách vì sách khích lệ con người, nuôi dưỡng những khát vọng cao đẹp. Đọc sách là một việc làm cần thiết và bổ ích đối với mỗi người trong suốt cuộc đời. Cần phải biết lựa chọn sách tốt để đọc nhằm nâng cao tri thức và bồi dưỡng tâm hồn. c. Kết bài: Khẳng định vai trò và tác dụng của sách đối với cuộc sống con người. Sách là người bạn tốt của mỗi chúng ta.
Present your thoughts about the benefits of reading books Reference outline a. Opening: The great role and effect of books in human life. Present your thoughts about the benefits of reading books b. Body of the article: + Explanation: Books are wonderful, magical spiritual products that people create to disseminate and pass down knowledge and experiences in all areas of life. Books take us into the rich, endless world of nature and society. Books provide people with the necessary knowledge to survive and develop (Evidence) Books are an important means of communication between ethnic communities around the world, helping people understand and live more lovingly with each other. Books are a bridge between the past, present and future of each nation and all humanity. + Comments: The great benefits of books are truly obvious (It is important to exclude bad books that are harmful to people and society). It is impossible to have a good life without books because books encourage people and nurture noble aspirations. Reading is a necessary and useful job for everyone throughout their lives. It is necessary to know how to choose good books to read to improve knowledge and nourish the soul. c. End: Affirming the role and effect of books on human life. Books are good friends of each of us.
Trình bày suy nghĩ của em về mùa xuân và tuổi trẻ qua câu nói của Bác Hồ – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Mùa đông giá rét, cây cối trơ cành sẽ qua đi, nhường bước cho mùa xuân với sức sống mãnh liệt, làm biến đổi cả đất trời. Và đến lúc mùa xuân cũng trôi qua, mùa hạ nồng nàn kéo đến… Cũng như quy luật của thiên nhiên, con người sinh ra, lớn lên và già đi, rồi một ngày kia trở về với cõi vĩnh hằng. Xuân của thiên nhiên qua đi rồi trở lại, nhưng tuổi trẻ của mỗi người chỉ có một lần. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất, khỏe nhất và tươi sáng nhất của mỗi con người, vì thế tuổi trẻ thật quý giá. Hơn nữa, tuổi trẻ còn là mùa xuân, niềm tin và hi vọng của đất nước. Chính vì vậy, trong thư gửi thanh niên và nhi đồng cả nước nhân mùa xuân năm 1946, Tết mở đầu cho một nước Việt Nam độc lập, Bác Hồ viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Câu nói ngắn gọn nhưng đẹp như một lời thơ, ca ngợi tuổi trẻ của xã hội, đất nước. Một sớm kia thức dậy, nghe tiếng chim hót trong veo, cành mận ngoài vườn lung linh hoa trắng dưới làn mưa bụi đang bay, ta chợt thốt lên: “Ôi mùa xuân!” Mùa xuân xét theo thời gian là mùa mở đầu cho một năm. Xuân về trăm hoa đua nở, khí hậu ấm áp, cây cối đâm chồi… Vì vậy mùa xuân gợi lên trong ta ý niệm về sức sống, hi vọng, niềm vui và hạnh phúc. Riêng đối với dân tộc Việt Nam, xuân còn gợi lại những chiến công oanh liệt của cha ông, khơi dậy trong lòng niềm tự hào sâu sắc. Làm sao quên được mùa xuân năm 1077, Lí Thường Kiệt đánh tan bốn vạn quân Tống xâm lược; mùa xuân năm 1428, đưa đất nước thoát khỏi sự đô hộ của giặc Minh. Chúng ta cùng hòa mình vào không khí hào hùng, tưng bừng của mùa xuân năm 1789; khi đó người anh hùng áo vải Quang Trung đại phá hơn hai mươi vạn quân Thanh. Ta hãy cùng sống lại mùa xuân năm 1975 với niềm tự hào, sung sướng; mùa xuân của độc lập tự do, mùa xuân của thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Hai mươi tuổi tim đang dào dạt máu Hai mươi tuổi hồn quay trong gió bão Gân đang săn và thớ thịt căng da Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa. Tuổi trẻ là tuổi phát triển rực rỡ nhất về thể chất, tài năng, trí tuệ… bao giờ cũng muốn vươn lên cái đẹp nhất, hay nhất, tiên tiến nhất, cao thượng nhất (Lê Duẩn). Tuổi trẻ là tuổi hăng hái, sôi nổi, giàu nhiệt tình, giàu chí tiến thủ, có thể vượt qua khó khăn gian khổ để đạt được mục đích và ước mơ. Bác kính yêu của chúng ta, từ ngày còn rất trẻ đã ôm ấp trong lòng một hoài bão và ước vọng lớn lao: tìm đường cứu nước. Chàng trai Nguyễn Tất Thành đã vượt qua biển cả, gió rét thành Pari, Luân Đôn để cuối cùng tìm được con đường cách mạng và giải phóng dân tộc Việt Nam. Học tập gương Bác, hiện nay nhiều thanh niên đang cố gắng vươn lên, bằng lòng quyết tâm và nghị lực mãnh liệt, vượt qua những khó khăn thực tại của đất nước, tự tạo cho mình một tương lai tươi sáng và góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Tuổi trẻ của mỗi người cùng góp lại sẽ tạo thành mùa xuân của xã hội. Thế hệ trẻ là sức sống, niềm hi vọng và tương lai của đất nước. Ngược dòng thời gian, ta nhớ đến tuổi trẻ quật khởi của cậu bé Thánh Gióng đã đánh tan giặc Ân từ thời vua Hùng dựng nước. Tuổi trẻ Đinh Bộ Lĩnh với cờ lau dẹp tan mười hai sứ quân, đem lại sự thống nhất đất nước. Tuổi trẻ trung dũng của Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng làm cho giặc Nguyên Mông kinh hồn bạt vía. Tuổi trẻ của “Anh Nhỏ” Kim Đồng, của ngọn đuốc sáng Lê Văn Tám, của người con gái đất đỏ Võ Thị Sáu đã làm cho giặc phải cúi đầu kính phục. Tuổi trẻ của bao anh hùng liệt sĩ đổ xương máu để tô thắm lá cờ Việt Nam… Sức mạnh thanh niên là sức mạnh của dân tộc, chính sức mạnh đó góp phần tạo nên cuộc sống mới, xã hội mới và tương lai mới cho đất nước. Ngày nay, tuổi trẻ có sự đóng góp rất lớn là lực lượng đi đầu trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội văn minh. Thanh niên hôm nay là những người rất xứng đáng với cha anh đi trước. Những người lính trẻ nơi hải đảo xa xôi đang ngày đêm canh giữ biển trời đất mẹ Việt Nam, trái tim họ vẫn ngân vang bản tình ca, dệt nên những bản nhạc tuyệt vời và chính cuộc đời họ là những bài ca mùa xuân đất nước. Chúng ta tự hào biết bao tuổi trẻ Việt Nam! Đất nước, xã hội đặt niềm tin vào thanh niên; vậy thanh niên phải làm gì để xứng đáng với niềm tin ấy? Bạn nghĩ cần phải làm gì thật to lớn ư? Không đâu, bạn hãy làm tốt những công việc bình thường, hãy cố gắng học tập và tu dưỡng đạo đức của chính mình. Trong học tập và lao động cần không ngừng sáng tạo để cống hiến nhiều nhất cho xã hội, cho đất nước. Chúng ta buồn biết bao khi tuổi trẻ đang góp sức tạo thành mùa xuân của xã hội thì có một số thanh niên tự hủy diệt mùa xuân của mình. Chúng ta cần phải nghiêm khắc phê phán những con người đã để tuổi trẻ của mình bên góc phố, lề đường, trong các quán cà phê, bữa tiệc ồn ào hay trong các thú vui vô bổ, tầm thường. Và thật tiếc, còn rất nhiều thanh niên chưa có niềm tin vào bản thân mình, chưa biết vươn lên trong cuộc sống, chưa chọn cho mình một lí tưởng để theo đuổi, phấn đấu. Chính họ đã để ngày xuân của mình khô héo, tàn lụi hay để nó trôi đi và cứ mòn mỏi dần. Tuổi xuân của họ lãng phí có nghĩa là mùa xuân của xã hội đã bớt tươi thắm, rực rỡ. Thật đáng thất vọng biết bao! Nửa thế kỉ đã trôi qua, hôm nay đọc lại, ta vẫn thấy lời Bác chân thành, sâu sắc. Bác nhắc nhở chúng ta phải biết tự rèn luyện, phấn đấu, vươn lên trong cuộc sống để có tương lai tươi sáng. Bằng tài năng, ý chí, nghị lực của bản thân, chúng ta phải biết sống có mục đích và lí tưởng cao đẹp, để tuổi trẻ của chúng ta thực sự là mùa xuân của xã hội. Tags:Văn 8
Present your thoughts about spring and youth through Uncle Ho's sayings - Topic and sample essay 8 Instruct Assignment The cold winter and bare-branched trees will pass, giving way to spring with intense vitality, transforming the whole world. And when spring passes, passionate summer comes... Just like the laws of nature, people are born, grow up and get old, then one day return to eternity. Nature's spring passes and returns, but each person's youth is only once. Youth is the most beautiful, healthiest and brightest age of every human being, so youth is precious. Furthermore, youth is also the spring, faith and hope of the country. Therefore, in a letter to young people and children across the country on the occasion of the spring of 1946, the Tet holiday that opened for an independent Vietnam, Uncle Ho wrote: "A year begins with spring. A life begins from youth. Youth is the spring of society." The saying is short but beautiful like a poem, praising the youth of society and the country. Waking up one morning, hearing the clear sound of birds singing, plum branches in the garden shimmering with white flowers under the flying dust, I suddenly exclaimed: "Oh spring!" Spring, in terms of time, is the opening season for a year. Spring comes, hundreds of flowers bloom, the climate is warm, trees sprout... Therefore, spring evokes in us the idea of ​​vitality, hope, joy and happiness. Particularly for the Vietnamese people, spring also recalls the heroic victories of our ancestors, arousing deep pride in our hearts. How can we forget that in the spring of 1077, Ly Thuong Kiet defeated forty thousand Song invaders; Spring of 1428, brought the country out of the domination of the Ming invaders. Let's immerse ourselves in the heroic and jubilant atmosphere of the spring of 1789; At that time, the cloth-clad hero Quang Trung defeated more than 200,000 Qing troops. Let's relive the spring of 1975 with pride and joy; Spring of independence and freedom, spring of unification, North and South reunited as one family. Twenty years old, my heart is full of blood Twenty years old, the soul spins in the storm The tendons are tight and the muscles are tight A passionate life promises so many flowers. Youth is the age of the most brilliant physical, talented, intellectual development... always wanting to rise to the most beautiful, the best, the most advanced, the most noble (Le Duan). Youth is an age of enthusiasm, excitement, enthusiasm, and will to progress, able to overcome difficulties and hardships to achieve goals and dreams. Our beloved uncle, from a very young age, harbored a great ambition and desire in his heart: to find a way to save the country. The young man Nguyen Tat Thanh overcame the sea and cold winds of Paris and London to finally find the path to revolution and liberate the Vietnamese people. Learning from Uncle Ho's example, many young people are now trying to rise up, with determination and strong will, to overcome the country's real difficulties, create for themselves a bright future and contribute to building build a homeland and a country. Everyone's youth together will create the spring of society. The young generation is the vitality, hope and future of the country. Going back in time, we remember the rebellious youth of the boy Thanh Giong who defeated the An invaders during the time when King Hung built the country. Young Dinh Bo Linh with his reed flag defeated twelve warlords, bringing about the unification of the country. Tran Quoc Toan's brave youth with a flag embroidered with six golden letters made the Mongol invaders terrified. The youth of "Little Brother" Kim Dong, of the bright torch Le Van Tam, of the red soil girl Vo Thi Sau made the enemy bow their heads in respect. The youth of many heroic martyrs shed their blood to adorn the Vietnamese flag... The strength of the youth is the strength of the nation, it is that strength that contributes to creating a new life, a new society and a new future for country. Today, youth has a great contribution to being the leading force in building a strong, prosperous country and a civilized society. Today's young people are very worthy of their father. Young soldiers on remote islands are guarding the sea and sky of mother Vietnam day and night, their hearts still ring with love songs, weaving wonderful music and their very lives are the songs of spring. water. How proud we are of Vietnamese youth! The country and society place their trust in young people; So what must young people do to deserve that trust? Do you think something big needs to be done? No, do your normal jobs well, try to study and cultivate your own morality. In studying and working, we need to constantly be creative to contribute the most to society and the country. How sad we are when youth are contributing to creating the spring of society, but there are some young people who destroy their own spring. We need to severely criticize people who spend their youth on street corners, sidewalks, in cafes, noisy parties or in useless, trivial pleasures. And unfortunately, there are still many young people who do not have faith in themselves, do not know how to rise up in life, and have not chosen for themselves an ideal to pursue and strive for. It was they who let their spring wither and wither, or let it slip away and gradually wither away. Their wasted youth means that society's spring is less bright and vibrant. How disappointing! Half a century has passed. Reading it again today, we still find Uncle Ho's words sincere and profound. He reminded us to train ourselves, strive, and rise in life to have a bright future. With our own talent, will, and energy, we must know how to live with purpose and noble ideals, so that our youth is truly the spring of society. Tags: Literature 8
Trình bày suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng. Tắt đèn là tác phấm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thân, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tố đã phản ảnh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kì” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chất tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết. Với số trang hạn chế, nhưng Tắt đèn đã mô tả khá đầy đủ mọi mặt của những lực lượng thông trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đấy là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ nhờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên, bòn rút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì củng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng, Ngô Tất Tố bằng ngòi bút thâm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân – tác giả của những tấm thẻ sưu. Bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng. Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa… Viết về số phận của phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tố đã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo, quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này. Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thông, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp, nết na.. Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương, trân trọng. Chị Dậu – một phụ nữ có tấm lòng vị tha, yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách để cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tay sai… cũng làm cho người đọc yêu mến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ. Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phải bán đứa con đầu, chị như cắt đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đói với “sợi dây thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tửu, thằng Dần, cái Tí. Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khỏi bỡ ngỡ trước bao mưu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phải là người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quế, nhìn bọn tai to mặt lớn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều… Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt… Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua – phải nộp một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại… tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình. Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phải điêu đứng vì số tiền nộp SƯU, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giấy bạc vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng. Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm… nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị sống ở nơi tăm tối bị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thống. Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đối lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa. Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khắc họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vật chính diện đẹp người, đẹp nết… tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn… tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biến đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh…). Nhân vật trong Tắt đèn phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ. Tags:Văn 8
Present your thoughts about the character Ms. Dau - Topic and sample essay 8 Instruct Assignment Ngo Tat To is a peasant writer and one of the typical authors of critical realist literature. He has a quite important position in the history of Vietnamese literature before the Revolution. Turning off the lights is a work with real value and profound denunciation power. Writing about the poll tax problem, focusing on the few days of tax collection, Ngo Tat To reflected contemporary rural reality in a focused and typical way. Through these few days of "collecting precepts", the pitiful situation of the farmers as well as the greedy and cruel nature of the rulers has been exposed more clearly than ever. With a limited number of pages, Turn Off the Lights quite fully describes all aspects of the ruling forces in the countryside before the Revolution. These are the tyrants who ruthlessly oppress and oppress the farmers, just thanks to the opportunity to "muddy the waters" to get "fat". They flatter their superiors and exploit the poor. These are the "buffalo-headed, horse-faced, cannibal-eating" landowners who are both ignorant and stingy and despicable, typically Nghi Que. He got rich in a very "classic" way by lending money at high interest rates and appropriating land from farmers. Always appear to be "savvy with the times", "everything reminds of the West". Although he is a member of parliament, he has the virtue of "not being literate". Those are the despicable mandarins who use their wives as a means of promotion like the governor of Tu An. Behind them, Ngo Tat To, with his profound pen, still allows readers to imagine more or less the dark image of the colonialists - the authors of the collection cards. With a sharp realistic pen, in just a few strokes, the writer has exposed their evil nature, although each has its own appearance. Ms. Dau can represent millions of Vietnamese women before the Revolution. She and her husband "didn't dare play every day" but still "didn't have enough food, not enough clothes to wear", the family "rose to the second or first rank in the same class". Then, Mr. Dau fell ill, the tax case came along with many disasters... Writing about the fate of rural women, Ngo Tat To raised the most pressing issue: food, clothing, and the right to life of people. . The image of Ms. Dau has high generalizability precisely at this point. Like many female characters in literature and media, Ms. Dau is originally a beautiful, modest woman. When faced with difficult circumstances, this character becomes a "special bright spot" (Nguyen Tuan) that makes people Read with compassion and respect. Ms. Dau - a woman with a altruistic heart, loves her husband and children dearly. The fact that she tried every way to save her husband from being shackled, she attentively took care of Mr. Dau, especially her courageous act of using her body to protect her sick husband from the aggressive attitude of her two henchmen... also made her happy. for readers to love and admire. It was her husband's love that created an unexpected, fierce strength in her. Like many other Vietnamese mothers, Ms. Dau loves and pampers her children very much. Distressed, forced to sell her first child, she felt like she was cutting every piece of her intestines, always thinking "will there ever be a day when I can bring him back?" Even when she was taken to the district to starve with "a rope tied around her arms", she still thought about Tuu, Dan, and Ti. Ms. Dau is an intelligent and sharp woman. She was illiterate and could not help but be confused by the rulers' evil schemes, but she was not a stupid person. She is no stranger to the feelings of Nghi Que and his wife. Looking at the big names in the village communal house, she understands many things... Indeed, we see that she is bullied more than she is deceived... Faced with unexpected, seemingly insurmountable difficulties - having to pay two tax rates at once, Mr. Dau is sick, the children are small... everything depends on her support. In fact, she became the support of the whole family. This is also a woman with a deep sense of dignity. She once had to suffer because of the amount of money she had to pay SUU, but she still had the courage to throw the handful of banknotes straight into the face of governor Tu An. She was raped twice and was able to escape. These are beautiful expressions of dignity and self-respect. Sharp and intelligent, with an indomitable spirit, a deep sense of dignity... the character of Ms. Dau also exudes the rustic beauty of a rural woman. She lives in a dark place and is oppressed and oppressed, but her soul is still as bright and clear as a lotus flower, "near mud but not smelling of mud". In terms of art, the work Lights Out recognizes an outstanding achievement of traditional novels. Turn Off the Lights has a clear plot, coherent and tight details, and neat writing. Like traditional novels, the characters are divided into two completely opposing lines: protagonist and antagonist. The main character often has a beautiful appearance and pure emotional thoughts. On the contrary, villains often have bad appearances, cruel behavior and evil emotional thoughts. In Turn Off the Lights, Ngo Tat To portrayed a number of personalities that are almost common attributes for a class or class. Ms. Dau is a beautiful, beautiful main character... typical of working farmers. Nghi Que is an ignorant, rude, greedy, cruel villain... representing the exploiting class. Characters in Lights Out rarely have inner conflicts and hardly change through circumstances (Ms. Dau is still a selfless, responsible, loyal, intelligent person...). The characters in Lights Out are mostly highly generalized, however, it is difficult for these characters to avoid being formulaic and schematic. Tags: Literature 8
Trình bày suy nghĩ của em về nội dung câu truyện ” Chiếc bình nứt” Hướng dẫn Trình bày suy nghĩ của em về nội dung câu truyện ” Chiếc bình nứt” Bài làm Trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta, mỗi người đều có những khuyết điểm nhưng biết nhận ra khuyết điểm của mình và những người xung quanh hãy mở rộng thêm tấm lòng nhân ái biết trân trọng, cảm thông, giúp đỡ những khuyết điểm của người khác như trong truyện ” Chiếc bình nứt”. Câu truyện chiếc bình nứt có hình ảnh chiếc bình nứt – Là ẩn dụ nói về những con người khiếm khuyết kém may mắn nhưng vẫn mong muốn làm tốt công việc như một chuyện bình thường như hình ảnh con người luôn buồn bã xấu hổ vì những khiếm khuyết của mình và đã bộc lộ với người chủ khi không làm tròn công việc. Người chủ đã trả lời bằng sự cảm thông: ” Ta đã biết khiếm khuyết của người vì vậy ta đã gieo những hạt hoa bên đường và mỗi ngày người đã tưới nước cho chúng. 2 năm qua ta đã hái hoa cho mọi người và làm đẹp cho ngôi nhà” câu truyện giản dị nhưng có ý nghĩa sâu sắc về những cách ứng xử cao đẹp, 1 người luôn chăn chở với những khuyết điểm của mình chưa làm tốt công việc khiến người khác vất vả hơn, cảm thông và tạo điều kiện cho người khác sống tốt hơn có ý nghĩa hơn. Người khiếm khuyết đã có những suy nghĩ thật đẹp. Khi biết được hạn chế của mình nhưng không bất lực, mặc cảm, buông xuôi mà người lại rất thương người khác. Đã vất cả cực nhọc vì mình đó là một tấm gương bình nước vì những hạn chế làm ông vất vả hơn mà còn có thái độ yêu thương chân trọng. Vì con người đã nghĩ những người trong hoàn cảnh như thế chắc họ cũng buồn khổ lắm và cũng cần giúp đỡ để họ vượt qua sự kém may mắn ấy để họ sống tốt và có ý nghĩa hơn. Người gánh nước trong câu truyện cũng là một tấm gương đẹp cao thượng trong cách ứng xử thể hiện lòng nhân ái. Mỗi người cần phải nỗ lực vươn lên nhất là những người có những hạn chế, cố gắng vượt qua hạn chế chính mình là điều đáng trân trọng, ngợi ca. Những người may mắn hơn cần có thái độ ứng xử tốt với họ, vì đó là người động viên là chỗ dựa tinh thần để họ có thêm sức mạnh vượt qua khó khăn, ngược lại nếu dửng dưng với người khác là ích kỉ. Vậy mỗi chúng ta cần rèn luyện và có thái độ sống tốt hơn có ý nghĩa hơn trong cuộc sống và trong thực tế cũng có rất nhiều tấm gương khuyết tật nhưng đã làm lên kì tích: Nick vujicic, Nguyễn Ngọc Kí… Và trong thực tế cũng có những tổ chức cá nhân có tấm lòng cao cả giúp đỡ hỗ trợ người khác.
Present your thoughts on the content of the story "The Cracked Vase" Instruct Present your thoughts on the content of the story "The Cracked Vase" Assignment In the lives of each of us, everyone has shortcomings, but know how to recognize your own shortcomings and those around you, expand your compassion, appreciate, sympathize, and help those shortcomings. of others as in the story "The Cracked Vase". The story of the cracked vase has the image of a cracked vase - It is a metaphor for people with disabilities who are unlucky but still want to do a good job as a normal thing like the image of people who are always sad and embarrassed because of their mistakes. his shortcomings and revealed them to his employer when he did not do his job well. The owner responded with sympathy: "I knew your shortcomings so I planted flower seeds on the side of the road and every day you watered them. For the past 2 years, I have been picking flowers for everyone and beautifying the house." A simple story but with profound meaning about noble behavior, a person who always takes care of his own shortcomings but does not do a good job. Making others work harder, being sympathetic and creating conditions for others to live better is more meaningful. People with disabilities have beautiful thoughts. When you know your limitations but are not helpless, guilty, or giving up, you still love others very much. Having worked hard for himself, that is an example of a water bottle because of the limitations that made him work harder, but he also had a sincere loving attitude. Because people think that people in such situations must be very sad and also need help to overcome their unluckiness so that they can live better and more meaningful lives. The water bearer in the story is also a beautiful and noble example in his behavior that shows kindness. Every person needs to strive to improve, especially those with limitations. Trying to overcome one's own limitations is something worthy of respect and praise. Those who are luckier need to have good attitudes towards them, because they are the ones who encourage them and give them emotional support to have more strength to overcome difficulties. On the contrary, being indifferent towards others is selfish. So each of us needs to practice and have a better attitude to have more meaning in life and in reality there are many examples of people with disabilities who have accomplished miracles: Nick vujicic, Nguyen Ngoc Ki... And in reality There are also organizations and individuals with noble hearts that help and support others.
Trình bày suy nghĩ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Trong cuộc sống hàng ngày cũng có lúc ta đã lầm lẫn khi đánh giá một sự vật, một con người, khi thì dựa vào cái hình thức hào nhoáng bên ngoài mà quên đi cái nội dung, bản chất bên trong của con người họ khi thì ngược lại. Lúc ấy ta lại nhớ đến câu tục ngữ: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Chúng ta hiểu gì về câu tục ngữ này? Phải chăng đây là kinh nghiệm sống quý báu mà ông cha ta để lại cho chúng ta suy ngẫm, học hỏi? Câu tục ngữ đã cho xuất hiện hai sự vật “gỗ” và “nước sơn”. Gỗ là chất liệu để tạo nên một vật dụng như là tủ, bàn, ghế… còn nước sơn là chất liệu để quét lên làm cho cái tủ, cái bàn thêm đẹp thêm bền. Nghĩa đen là như vậy nhưng ý nghĩa sâu xa của câu tục ngữ bao hàm một lời khuyên về cách nhìn chín chắn: hãy coi trọng cái giá trị đích thực, cái nội dung bên trong của một con người. Đừng bao giờ để cái hình thức xa hoa, hào nhoáng bên ngoài lừa dối, quyến rũ ta. Bất kì câu tục ngữ nào cũng là sự đúc kết những kinh nghiệm sông quý báu của biết bao thế hệ con người. Tổ tiên ta cũng đã trải qua bao thất vọng, vấp váp mới rút ra được chân lí “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Khi đánh giá một sự vật, ta phải coi trọng chất lượng của nó. Có khi người ta chỉ trọng đến cái lớp sơn bóng nhoáng bên ngoài của một cái tủ mà mua về rồi không dùng được vì chất gỗ bên trong là một thứ gỗ mục rữa, sâu mọt. Một sản phẩm có mẫu mã tốt, có trang trí đẹp đến bao nhiêu mà chất lượng không tốt, không bền thì cũng không hữu dụng. Chỉ có một chất gỗ tốt mới tạo nên một đồ dùng có giá trị và lâu bền. Một sản phẩm có chất lượng tốt càng được nhiều người ưa thích, càng bán đắt giá. Đó là cách đánh giá, cách nhìn chung về giá trị của một đồ vật. Trong cuộc sống, mỗi sự vật, mỗi con người không phải lúc nào cũng thống nhất trọn vẹn cả mặt nội dung lẫn hình thức. Có người bản chất xấu xa nhưng khéo lừa bịp bằng cái vỏ hào nhoáng, bảnh bao bên ngoài. Một kẻ bất tài thường đội lốt người hiểu biết. Một người độc ác thường nói lời đạo đức. Một khuôn mặt xinh đẹp nhưng chưa hẳn là đẹp hoàn toàn vì có lúc ẩn hiện dưới khuôn mặt ấy là một tâm hồn trống rỗng. Chúng ta phải thật sự tỉnh táo, thận trọng đối với những con người đó. Khi cần chọn lựa, ta hãy chọn lấy cái bản chất làm căn bản, hãy vứt bỏ cái vẻ bề ngoài đẹp đẽ, lành lặn mà bên trong mục rỗng, vô vị. Một con người có đạo đức, tài năng dẫu ăn mặc tầm thường nhưng thật sự được kính trọng nể nang. Quan hệ với con người chúng ta phải dựa trên phẩm chất đạo đức, năng lực của người đó. Chúng ta phải hiểu rằng cái chân giá trị của con người chính là đạo đức, tài năng, trí tuệ. Nhưng trong thực tế cuộc sống, chẳng lẽ chỉ xem trong cái nội dung bản chất bên trong mà lãng quên mặt hình thức? Một món hàng tốt, chất lượng tốt nếu có bao bì xinh xắn, trang trí đẹp lại càng có giá trị. Hình thức bên ngoài làm tăng thêm giá trị bên trong của món hàng. Cái tủ được làm bằng chất gỗ tốt mà lại có nước sơn bóng loáng hẳn làm ta vừa lòng và sẵn sàng mua. Một con người có học vấn, đạo đức lại ăn nói lịch sự, thanh nhã, ăn mặc gọn gàng đẹp đẽ càng làm cho ta thêm quý trọng hơn là con người tuy có đạo đức nhưng ăn nói cục cằn, thô lỗ, ăn mặc xộc xệch. Ta thực sự hiểu được cái đẹp lí tưởng của con người vốn là cả nội dung lẫn hình thức. Vậy để nhận xét, đánh giá một sự vật, một con người, ta phải dựa trên cơ sở nội dung lẫn hình thức. Nội dung và hình thức phải trọn vẹn bổ sung cho nhau để đánh giá được chính xác, đầy đủ. Chúng ta hãy coi trọng nội dung vì trước hết nó là cốt lõi tạo nên giá trị bên trong, còn hình thức góp phần tạo nên cái đẹp, cái bền cho vật dụng. Khi đánh giá ta phải coi trọng cái chất lượng của vật cũng như khi nhận xét về một con người ta phải chú ý đến thành quả công việc của họ, xem xét mối quan hệ tình cảm của họ đối với gia đình, xã hội. Đó là cách hiệu quả, cách áp dụng đúng đắn nhất phương châm xử thế mà câu tục ngữ đã khuyên dạy chúng ta. Tags:Văn 8
Presenting thoughts "Better wood than good paint - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment In everyday life, there are times when we make mistakes when evaluating an object or a person, sometimes relying on the flashy external form and forgetting the content and inner nature of that person. it's the opposite. Then we remember the proverb: "Good wood better than the paint". What do we understand about this proverb? Is this a valuable life experience that our ancestors left behind for us to ponder and learn from? The proverb gives rise to two things "wood" and "paint". Wood is the material used to create an item such as a cabinet, table, chair... and paint is the material used to make the cabinet or table more beautiful and durable. That's the literal meaning, but the profound meaning of the proverb includes advice on a mature outlook: value the true value, the inner content of a person. Never let the lavish, flashy appearance deceive or seduce you. Any proverb is a summary of valuable life experiences of many generations of people. Our ancestors also went through many disappointments and stumbles to learn the truth "Better wood than good paint". When evaluating an object, we must value its quality. Sometimes people only care about the glossy paint on the outside of a cabinet, but when they buy it they can't use it because the wood inside is rotten and wormy. A product that has a good design and no matter how beautifully decorated it is but is not of good quality or durable is not useful. Only good quality wood can create a valuable and durable utensil. The more people like a good quality product, the more expensive it is sold. It is a way of evaluating, a general view of the value of an object. In life, each thing and each person is not always completely unified in both content and form. There are people who are evil by nature but are clever at deceiving them with a flashy, dashing exterior. An incompetent person often masquerades as a knowledgeable person. A cruel person often speaks virtuous words. A beautiful face but not necessarily completely beautiful because sometimes hidden under that face is an empty soul. We must be really alert and cautious towards those people. When we need to choose, let's choose the essence as the basis, let's throw away the beautiful, healthy exterior that is hollow and tasteless on the inside. A virtuous and talented person, even though his clothes are ordinary, is truly respected. Our relationships with people must be based on that person's moral qualities and abilities. We must understand that the true value of a human being is morality, talent, and intelligence. But in real life, is it possible to only look at the intrinsic content and forget about the form? A good, good quality item is even more valuable if it has lovely packaging and beautiful decoration. The external appearance increases the internal value of the item. The cabinet is made of good quality wood and has a glossy paint that makes us satisfied and ready to buy. An educated, moral person who speaks politely, elegantly, and dresses neatly and beautifully makes us appreciate him more than a person who is moral but speaks harshly, rudely, and dresses. disheveled. We truly understand the ideal human beauty which is both content and form. So to comment and evaluate an object or a person, we must base it on both content and form. Content and form must completely complement each other for an accurate and complete assessment. We should value the content because first of all it is the core that creates the internal value, while the form contributes to the beauty and durability of the object. When evaluating, we must respect the quality of an object, just as when commenting on a person, we must pay attention to their work achievements and consider their emotional relationship with family and society. That is the most effective way, the most correct way to apply the motto that the proverb teaches us. Tags: Literature 8
Đề bài:Trình bày sự ảnh hưởng của gia đình đối với mỗi cá nhân. Có anh A và anh B sinh ra trong hai gia đình khác nhau. Cả hai đều có một người bố nghiện ngập. Sau này anh A trở thành một chàng trai luôn đi đầu trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội và bạo lực. Bài làm Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, gia đình đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Đặc biệt môi trường gia đình bao giờ cũng có tác động hai mặt tới sự hình thành nhân cách. Có người sinh ra trong môi trường gia đình không mấy tốt đẹp rồi anh ta cũng trở thành bản sao của sự không tốt đẹp ấy. Nhưng cũng có người vượt qua được hoàn cảnh để trở thành con người có ích cho xã hội. Câu chuyện kể về hai nhân vật A và B đã phần nào cho chúng ta thấy rõ điều đó. Trình bày sự ảnh hưởng của gia đình đối với mỗi cá nhân Câu chuyện về hai nhân vật A và B có chung một hoàn cảnh: cả hai đều có một người cha nghiện ngập. Tuy nhiên sau này anh A lại trở thành con người có ích cho xã hội là người tiên phong trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội và bạo lực gia đình. Còn anh B lại trở thành bản sao của người cha nghiện ngập. Vấn đề được đặt ra trong câu hỏi của nhà xã hội học là “Điều gì khiến anh lại trở nên như thế?”. Và câu trả lời của cả hai là “Có một người cha như thế nên tôi phải như thế”. Như vậy vấn đề được đặt ra ở đây là sự ảnh hưởng của gia đình đối với mỗi cá nhân con người. Gia đình là gì? Gia đình là nơi ta sinh ra, lớn lên là cái nôi nuôi dưỡng, chở che cho ta khôn lớn. Gia đình là cái nôi hạnh phúc của con người từ bao thế hệ: đùm bọc, yêu thương, giúp con người vượt qua được những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Vì thế gia đình có giá trị bền vững và vô cùng to lớn không bất cứ thứ gì trên cõi đời này sánh được, cũng như không có bất cứ vật chất cũng như tinh thần nào thay thế nổi. Mỗi con người sinh ra và lớn lên, trưởng thành đều có sự ảnh hưởng, giáo dục to lớn từ truyền thống gia đình. Và người làm cha làm mẹ trong gia đình là tấm gương mẫu mực của con cái. Nói đúng hơn là mỗi thành viên phải là tấm gương sáng cho nhau. Nếu như gia đình có người cha người mẹ luôn yêu thương, chở che và giáo dục tốt cho con cái thì đứa con lớn lên sẽ trở thành người có ích cho xã hội. Ví như nhà thơ Tố Hữu sinh trưởng trong gia đình Nho giáo, sau này Tố Hữu trở thành nhà Cách mạng, nhà thơ lớn của dân tộc. Mạnh Tử người Trung Quốc tuy mất cha từ nhỏ nhưng thường xuyên được mẹ nghiêm khắc chỉ bảo, dạy nhiều điều hay lẽ phải. Sau này Mạnh Tử trở thành triết gia lỗi lạc của Trung Hoa. Nhiều học sinh ở nông thôn, nhà nghèo khó nhưng nhìn vào sự vất vả của mẹ của cha mà họ đã cố gắng học tập thật tốt trở thành thủ khoa của các trường Đại Học. Tuy nhiên, cũng có những con người sinh ra trong gia đình có truyền thống giáo dục tốt nhưng bản thân họ lại là những kẻ tội đồ của xã hội. Ví dụ như Nguyễn Đức Nghĩa ở Hải Phòng có bố là sỹ quan quân đội, mẹ là giáo viên. Nhưng bản thân anh ta lại là kẻ giết người tàn độc (Vụ án xác chết không đầu năm 2010 tại Hà Nội). Nhiều học trò ỷ vào việc gia đình giàu có nên ăn chơi lêu lổng để rồi đánh mất cả tương lai ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bên cạnh những gia đình hạnh phúc thì còn có những gia đình chưa thật sự hoàn hảo, đây đó vẫn còn có những thành viên trong gia đình còn có những khuyết điểm nặng nề. Quả đúng như vậy, nếu gia đình có người cha người mẹ có nhiều thói xấu thì những đứa con trong gia đình chắc chắn sẽ ảnh hưởng những thói xấu của cha mẹ. Ví như câu chuyện của nhân vật B trong câu chuyện kể ở trên hoặc câu chuyện của thằng Phác trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Do sống trong hoàn cảnh có người cha luôn bạo hành mẹ nên nó cũng trở thành kẻ máu lạnh ngay từ lúc còn nhỏ. Phác dùng thắt lưng và cả dao nhọn để đánh lại cha mình. Đa số tội phạm vị thành niên đều có nguồn gốc xuất thân từ những gia đình có bố mẹ ly hôn hoặc bố mẹ làm nghề lao động tự do. Nhưng cũng cần nhận thức được điều này: gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách nhưng không phải lúc nào con người cũng phụ thuộc vào hoàn cảnh. Ở trường hợp của nhân vật A là điển hình nhất. Tuy có người cha nghiện ngập nhưng anh A vẫn vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của gia đình để trở thành con người có ích cho xã hội. Như vậy, gia đình chỉ tác động một phần đến sự hình thành nhân cách của con người chứ không phải là tất cả. Cuộc đời của mỗi con người, nhân cách của mỗi con người là phụ thuộc vào chính bản thân họ. Qua câu chuyện trên ta thấy được vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách con người là rất quan trọng. Và bao giờ gia đình cũng có tác động hai mặt đến mỗi thành viên. Mỗi con người chúng ta cần tích cực thay đổi bản thân mình để phù hợp với hoàn cảnh. Và dù trong mọi hoàn cảnh chúng ta cũng cần phải chọn cho mình một lối đi phù hợp chứ không phải gió chiều nào ngả theo chiều ấy. Cũng cần bảo vệ gia đình, lên án thói bạo hành gia đình. Vì một xã hội tốt đẹp hãy cùng nhau xây dựng gia đình lành mạnh, văn hóa.
Topic: Present the influence of family on each individual. There is Mr. A and Mr. B born in two different families. Both have an addicted father. Later, Mr. A became a young man who always took the lead in preventing social evils and violence. Assignment In each of our lives, family plays an extremely important role in forming human personality. In particular, the family environment always has a two-sided impact on personality formation. Some people are born into a family environment that is not very good and then he becomes a copy of that bad thing. But there are also people who overcome circumstances to become useful people for society. The story about two characters A and B partly shows us that clearly. Present the influence of family on each individual The story is about two characters A and B who share the same situation: both have an addicted father. However, Mr. A later became a useful person for society, a pioneer in the prevention of social evils and domestic violence. And Mr. B became a copy of his addicted father. The problem posed in the sociologist's question is "What made you become like that?". And both of their answers were, "Having a father like that means I have to be like that." Thus, the issue raised here is the influence of the family on each individual human being. What is family? Family is the place where we are born and grow up, the cradle that nurtures and protects us. Family has been the cradle of human happiness for many generations: supporting, loving, helping people overcome difficulties and obstacles in life. Therefore, family has a lasting and extremely great value that cannot be compared to anything in this world, nor can anything material or spiritual replace it. Every person born, raised, and mature has great influence and education from family traditions. And parents in the family are role models for their children. To be more precise, each member must be a shining example for each other. If a family has parents who always love, protect and educate their children well, the children will grow up to become useful people for society. For example, poet To Huu was born in a Confucian family. Later, To Huu became a revolutionary and a great poet of the nation. Although Chinese Mencius lost his father at a young age, he was often strictly advised and taught many good things by his mother. Later, Mencius became a prominent Chinese philosopher. Many students in rural areas and poor families, but looking at the hardships of their mothers and fathers, they have tried their best to study well and become valedictorians of universities. However, there are also people born into families with good educational traditions but they themselves are criminals of society. For example, Nguyen Duc Nghia in Hai Phong has a father who is a military officer and a mother who is a teacher. But he himself is a cruel murderer (Headless corpse case in 2010 in Hanoi). Many students rely on their families to be rich so they play around and lose their future while still in school. Besides happy families, there are also families that are not truly perfect, here and there there are still family members with serious shortcomings. That's right, if a family has a father and mother with many bad habits, the children in the family will definitely be influenced by the parents' bad habits. For example, the story of character B in the story above or the story of Phac in the short story "The boat in the distance" by Nguyen Minh Chau. Because he lived in a situation where his father always abused his mother, he also became cold-blooded from an early age. Phac used a belt and a sharp knife to fight back against his father. Most juvenile criminals come from families with divorced parents or parents who work as freelancers. But we also need to be aware of this: family has a great influence on personality formation, but people do not always depend on circumstances. The case of character A is the most typical. Even though his father was an addict, Mr. A still overcame his family's harsh circumstances to become a useful person for society. Thus, family only partially impacts the formation of a person's personality, not all. Each person's life, each person's personality depends on themselves. Through the above story, we can see that the role of family in forming human personality is very important. And family always has a two-sided impact on each member. Each of us needs to actively change ourselves to suit the situation. And even in every situation, we need to choose a suitable path for ourselves, not which way the wind is blowing. It is also necessary to protect the family and condemn domestic violence. For a good society, let's build healthy and cultured families together.
Trình bày thái độ của người bố đối với En-ri-cô trong truyện ngắn Mẹ tôi của nhà văn Ét-môn-đô đơ A-mi-xi. Hướng dẫn Sự vô lễ của En-ri-cô với mẹ trước mặt cô giáo làm người bốrất đau lòng, ông cảm thấy như một nhát dao đâm vào tim: “En-ri-cô của bố ạ! Sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim bốvậy!”. Từ đau lòng, người bốchuyển sang tức giận người con vô lễ, sự tức giận của bốdường như là không thể kìm nén được khi bốnhớ lại những gì mẹ đã làm cho con khi con còn nhỏ: “bố không thể nén được cơn tức giận đối với con”. Điều này trở thành lí do người bốphải phê phán nghiêm khắc con bằng một bức thư chứa chan tình cảm. Để cho conthấy được lỗi lầm của mình, người bốđã chỉ cho En-ri-cô thấy được tình yêu thương vô bờ bến và sự hi sinh cao cả của người mẹ đối với En-ri-cô: “Bốnhớ, cách đây mấy năm, mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con!”, và “Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, người mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con!”. Nêu ra những việc làm nhỏ nhất đến những sự hi sinh cao cả, người bố đã cho thấy được giá trị của người mẹ đối với đời sống của người con: “Hãy nghĩ kĩ điềunày, En-ri-cô ạ: Trong đời con có thể trải qua những ngày buồn thảm, nhưng ngày buồn thảm nhất sẽ là ngày mà con mất mẹ”. Không chỉ hôm nay và mai sau vẫn thế: “Dù có lớn khôn, khỏe mạnh thế nào đi chăng nữa, con sẽ vẫn tự thấy mình chỉ là một đứa trẻ tội nghiệp, yếu đuối và không được chở che”. Nêura những điều này, người bố mong muốn En-ri-cô thấy được giá trị của người mẹ trong cuộc sống, những điều đó là tài sản vô giá mà nếu đánh mất đi, con sẽ không bao giờ tìm lại dược. Những gì hôm nay con làm mẹ buồn thì mai sau khi nhớ lại con “sẽ không thể sống thanh thản”. Khi đó “Dù có hối hận, có cầu xin linh hồn mẹ tha thứ… tất cả cũng chỉ vô ích, Lương tâm con sẽ không một phút nào yên tĩnh. Hình ảnh dịu dàng và hiền hậu của mẹ sẽ làm tâm hồn con như bị khổ hình. En-ri-cô này! Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình thương yêu đó”. Những lời nói của bố không phải để ghét bỏ con, đe dọa con mà thể hiện một tình thương yêu thật sự đối với con, muốn làm cho con hiểu đượcnhững giá trị đích thực của cuộc sống. Một lời yêu cầu mà bốđặt ra với con thật đẹp, thật ý nghĩa, giúp thắt chặt tình cảm mẹ con, tình cảm gia đình: “Từ nay, không bao giờ con được thốt ra một lời nói nặng với mẹ. Con phải xin lỗi mẹ, không phải vì sợ bố, mà do sự thành khẩn trong lòng. Con hãy cầu xin mẹ hôn con, để cho chiếc hôn ấy xóa đi cái dấu vết vong ân bội nghĩa trên trán con”. Lời nói của người bố thật giản dị và thắm thiết, thể hiện tình, thương con của ông. Bố thương con nhưng bốkhông hề chiều con mà trái lại bố rất nghiêm khắc, một sự nghiêm khắc tích cực. Lời phê phán của bố vừa có lí, vừa có tình, vừa thể hiện tình yêu thương chân thành và trọn đạo lí: “Bố rất yêu con, En ri-cô ạ, con là niềm hi vọng thiết tha nhất của đời bố, nhưng thà rằng bố không có con, còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ”. Những lời nghiêm khắc nhưng chân thành của người bố đã giúp En-ri-cô nhanh chóng nhận ra lỗi lầm của mình đối với mẹ. En-ri-cô không những không giận bốmà trái lại, càng yêu thương bốhơn và nhận ra được những giá trị đích thực của tình mẹ con, tình chá con và tình cảm gia đình. Đề 1. Trình bày cảm nghĩ của em vềngười bốtrong văn bản Mẹ tôi (trích Những tấm lòng cao cả) của Ét-môn-đó đơ A-mi-xi. Đề 2. Em hiểu thế nào về câu nói của người bố: “Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình thương yêu đó”.
Presenting the father's attitude towards Enrique in the short story My Mother by writer Edmondo de Amixi. Instruct Enrique's disrespect to his mother in front of the teacher made his father very sad. He felt like a knife stabbing into his heart: "Daddy Enrique! Your insolence is like a knife stabbing into my heart! From heartbreak, the father turned to anger at his disrespectful son. His anger seemed uncontrollable when he remembered what his mother did for him when he was young: "I couldn't hold back my anger." for me". This became the reason the father had to severely criticize his son with a letter filled with affection. To show his son his mistake, the father showed Enrique the mother's boundless love and noble sacrifice for Enrique: "Remember, a few years ago , the mother had to stay up all night, crouching over the cradle to watch her child's gasping breaths, writhing with fear, sobbing at the thought that she might lose her child!", and "The mother was willing to give up everything." One year of happiness to avoid giving her child an hour of pain, a mother can beg to feed her child, she can sacrifice her life to save her child's life! Pointing out the smallest deeds to the noble sacrifices, the father showed the value of the mother to the child's life: "Think carefully about this, Enrique: In your life, You may experience sad days, but the saddest day will be the day you lose your mother." Not only today and tomorrow, it will still be the same: "No matter how grown up and healthy you are, you will still see yourself as just a poor, weak and unprotected child." Pointing out these things, the father wants Enrique to see the value of the mother in life, those things are priceless assets that if lost, the child will never find again. What makes me sad today, tomorrow when I remember it, I "will not be able to live in peace". At that time, "Even if I regret it, even if I ask your soul for forgiveness... it will all be in vain. My conscience will not be quiet for a moment. The gentle and gentle image of a mother will make your child's soul feel like it is being tortured. Enrique! Remember, love and respect for parents are the most sacred feelings. It is shameful and humiliating for anyone who tramples on that love." Dad's words are not to hate you or threaten you, but to show true love for you, wanting to make you understand the true values ​​of life. A request that my father made to me was so beautiful and meaningful, helping to strengthen the mother-child bond and the family bond: "From now on, you may never utter a harsh word to me. I have to apologize to my mother, not out of fear of my father, but out of sincerity in my heart. Please ask me to kiss you, so that that kiss will erase the mark of ingratitude and ingratitude on your forehead." The father's words were simple and passionate, expressing his love and affection for his children. Dad loves his child but he doesn't pamper him at all. On the contrary, he is very strict, a positive strictness. Dad's criticism was both reasonable and emotional, expressing sincere love and morality: "I love you very much, En-rico, you are the dearest hope of my life. But it's better that I don't have you than to see you be ungrateful to me." His father's strict but sincere words helped Enrique quickly realize his mistakes towards his mother. Not only was Enrique not angry with his father, but on the contrary, he loved his father even more and realized the true values ​​of mother-child love, parent-child love and family affection. Topic 1. Express your feelings about your father in the text My Mother (excerpt from Noble Hearts) by Ezmon de Amici. Topic 2. How do you understand the father's statement: "Remember, love and respect for your parents are the most sacred feelings. It is shameful and humiliating for anyone who tramples on that love."