vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Văn hóa Gò Mun! Văn hoá Gò Mun lấy tên địa danh đầu tiên phát hiện được là Gò Mun- xã Tứ Xã- huyện Lâm Thao – tỉnh Phú Thọ . Văn hoá Gò Mun có niên đại cách ngày nay 2500-3000 năm, là nền văn hóa hậu kỳ thời đại đồng thau và tiền Đông Sơn (sơ kỳ đồ sắt). Phân bố ở miền Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trùng với địa bàn phân bố của văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Phùng Nguyên . Đó là các địa điểm Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm…thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh , Hà Tây, Hà Nội. Trên địa bàn Phú Thọ có 14 địa điểm di tích văn hoá Gò Mun như các di chỉ: Gò Mun, Gò Chiền, Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới… phân bố trong các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng…. Sự thống nhất và tương đồng về các mặt như cảnh quan nơi cư trú, phạm vi địa tầng , các di tích và di vật… đều phản ánh một cộng đồng cư dân tồn tại thực sự trong không gian và thời gian ở lưu vực sông Hồng. Điều đó trái với một số nhận định trước đây cho rằng văn hoá Gò Mun chỉ như một “bản lề”, một “khâu chuyển tiếp” hay một điểm “giao thời”, “đệm” cho văn hoá Phùng Nguyên – Đông Sơn. Các hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ Gò Mun: Tại di chỉ khảo cổ Gò Mun tiêu biểu nhất cho văn hóa Gò Mun, qua 4 lần khai quật vào các năm 1961, 1965, 1969, 1971 các nhà khảo cổ học đã thu được hàng vạn hiện vật bao gồm: đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm với đủ loại các loại hình khác nhau. Hiện vật đá: qua 4 lần khai quật đã thu được 231 tiêu bản trong đó đáng chú ý là các loại hiện vật như rìu, đục, bàn mài, chì lưới, vòng tay, khuyên tai, khánh…; Hiện vật đồng với tổng số 340 hiện vật là các loại hình như rìu, liềm, đục, mũi tên, mũi lao, giáo, lưỡi câu…; hiện vật gốm thời kì này có dọi se sợi, nồi, vò, mảnh gốm, chân chạc… Hiện vật văn hóa Gò Mun khá đa dạng về loại hình và chất liệu như: hiện vật công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu, tác phẩm nghệ thuật; được làm từ chất liệu đồng, gốm, đá…Trong số đó các công cụ và vũ khí bằng đồng chiếm số lượng chủ yếu. Giai đoạn này, các nhà nghiên cứu khảo cổ học đã tìm thấy các loại mũi tên, mũi giáo, rìu lưỡi xéo, kim, dùi đục, lưỡi câu… qua đó cho chúng ta biết được người Gò Mun không chỉ có các công cụ phục vụ sản xuất mà còn có công cụ phục vụ chiến đấu, săn bắn. Giai đoạn Gò Mun lần đầu tiên xuất hiện mũi tên được làm bằng đồng thau, đa dạng về loại hình và giàu có về số lượng. Thông quá đó cũng cho chúng ta thấy sự khéo léo của cư dân người Việt cổ trong kỹ thuật chế tác kim khí và cũng là tiền đề cho truyền thống nghệ thuật quân sự (sử dụng cung nỏ trong chiến đấu) mà các giai đoạn sau tiếp thu trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nghề luyện kim đồng thau phát triển trong văn hóa Gò Mun: Hơn thế nữa ở giai đoạn này còn ghi nhận sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau so với các giai đoạn trước. Đồ đồng trong văn hóa Gò Mun khá phong phú, gồm nhiều loại hình khác nhau. Nguyên liệu chủ yếu là đồng và thiếc trong thành phần hợp kim. Ngoài ra còn có một số tạp chất khác. Do kỹ thuật luyện đồng của người Gò Mun chưa cao, chưa phân huỷ được những chất có tác dụng ăn mòn và ôxy hóa nên nhiều hiện vật bị hỏng, gỉ và thường mềm hơn so với hiện vật đồng của văn hóa Đông Sơn. Cách chế tác đồ đồng chủ yếu là đúc bằng khuôn hai mang đối với hiện vật có kích cỡ lớn, cấu tạo phức tạp, nhiều chi tiết như: rìu, giáo, lao, mũi tên, tượng, nhạc… và sử dụng kỹ thuật gia công nguội, giũa đối với hiện vật nhỏ, đơn giản như: lưỡi câu, lao mũi nhọn nhỏ, kéo thành sợi. Những sản phẩm bằng đồng của người Gò Mun do chính bàn tay, khối óc của họ tạo ra. Điều đó đã được minh chứng bằng sự có mặt của những khuôn đúc bằng đá, bằng đất nung, nồi nấu, bát rót và lò luyện tìm thấy trong tầng văn hóa với nơi họ cư trú mà họ để lại. Sự đa dạng về loại hình đồ đồng là yếu tố quan trọng phân biệt văn hóa Gò Mun và văn hóa Đồng Đậu: Trong giai đoạn văn hóa Gò Mun loại hình công cụ đồng đã bắt đầu đa dạng hóa. Nhiều loại hình mới xuất hiện và chức năng được xác định rõ ràng. Chính việc ổn định kiểu dáng đã dẫn đến việc sử dụng chuyên hóa chức năng công cụ, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và chiến đấu. Song dù sao người Gò Mun vẫn chưa thể đạt tới trình độ điêu luyện về kỹ thuật, đa dạng phong phú về loại hình và nhất là về nghệ thuật trang trí, như trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn . Hầu hết những công cụ và vũ khí bằng đồng của người Gò Mun: rìu, liềm, giáo, mũi tên, lao, búa… đều có họng, chuôi, hoặc khâu để lắp cán. Đây là những c«ng côcơ bản nhất đóng vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất, săn bắt và bảo vệ cuộc sống của cư dân Gò Mun thời bấy giờ. Thông qua những hiện vật như lưỡi hái bằng đồng thau phát hiện ở nhiều nơi nói lên sự phát triển và hoàn thiện của nghề trồng lúa nước. Lưỡi hái cong, có gỗ tra cán cho thấy bước tiến bộ hơn trong nghệ thuật chế tác so với các giai đoạn trước. Cư dân Gò Mun không chỉ dùng đồng để chế tác công cụ sản xuất, vũ khí mà người Gò Mun còn sáng tạo ra đồ trang sức làm bằng đồng thau như vòng tay làm từ dây đồng. Bên cạnh hiện vật đồng thau, giai đoạn văn hóa Gò Mun cũng được ghi nhận sự phát triển mang tính tiếp nối của các hiện vật đồ gốm. Hoa văn trang trí trên đồ gốm trong văn hóa Gò Mun: Hoa văn trang trí trên đồ gốm Gò Mun rất phong phú và đa dạng. Người Gò Mun đã dùng đồ gốm để thể hiện tư duy thẩm mỹ của mình. Vị trí trang trí hoa văn trên đồ gốm dùng để đựng hoặc đun nấu của người Gò Mun chủ yếu ở mặt miệng, trong lòng, ngoài cổ, vai, thân hoặc ngoài chân đế. Hoa văn gốm Gò Mun chủ yếu là văn thừng, văn nan chiếu, in ô vuông, chải được tạo nên do những bàn dập, bàn chải trong quá trình tạo xương gốm. Ngoài ra còn có hoa văn khắc vạch, in ấn, đắp nổi được trang trí sau khi kết thúc khâu tạo hình, cần cho đồ gốm có thẩm mỹ. Cả hai loại hoa văn này được người Gò Mun kết hợp một cách hài hòa trên một số đồ gốm cơ bản. Người thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đó có từ giai đoạn Đồng Đậu. Miệng gốm bẻ loe ra nằm ngang, rộng bản. Nếu như gốm Phùng Nguyên được nung ở nhiệt độ thấp khoảng 6000C và có lẫn nhiều tạp chất hữu cơ nên có gốm thường nhẹ, dễ thấm nước và bở hơn thì đến giai đoạn này, gốm được nung ở nhiệt độ cao, tỉ lệ ôxít silic cao và được nung ở nhiệt độ từ 8000C đến 9000C vì thế mà gốm có độ cứng hơn, có những mảnh gốm như mảnh sành, ít thấm nước và màu gốm cũng thay đổi cơ bản, màu gốm chuyển sang màu xám tro, xám mốc chứ không tươi đỏ như thời kì trước. Loại hình gốm trong văn hóa Gò Mun rất phong phú: Sự đa dạng về loại hình đồ gốm bao gồm cả đồ dùng cho sản xuất và đồ đựng như: nồi, vò, âu, bát, bi, dọi xe chỉ, chì lưới cho thấy bước phát triển lớn trong đời sống sinh hoạt của cư dân Gò Mun.Qua đó phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người Gò Mun giúp ta khắc được họa bức tranh toàn cảnh về sự tụ cư thời đó. Đó là sự quần cư trong các xóm làng của các gia đình người Việt cổ, tiêu biểu như các làng Tứ Xã, Thanh Đình, …, là sự hình thành tổ chức sản xuất theo hộ gia đình là chính…và sau này trải qua hàng ngàn năm đã hình thành nên văn hóa làng xã độc đáo ở Việt Nam. Như vậy có thể thấy rằng: giai đoạn này xã hội người Việt đã có những bước chuyển biến sâu sắc và rõ rệt. Người Gò Mun sinh sống bằng nghề trồng lúa nước là chính, người dân sống chủ yếu bằng sản phẩm của mình làm ra chứ không phải khai thác trong tự nhiên như trước kia nữa; bên cạnh đó còn chăn nuôi và săn bắt đánh cá. Chính vì có bước tiến bộ trong kĩ năng canh tác cũng như tổ chức cuộc sống mà người dân Gò Mun ngày càng dư giả, góp phần thúc đẩy sự ra đời nhà nước sơ khai đầu tiên của người Việt. Với các giá trị quan trọng về khoa học và lịch sử, năm 2008, di chỉ Gò Mun – xã Tứ xã- huyện Lâm Thao đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Hiện nay tại bảo tàng Hùng Vương đang lưu giữ và trưng bày một số hiện vật thuộc văn hóa Gò Mun như đồ đồng, gốm, đá thuộc loại hình công cụ sản xuất, vũ khí như: rìu có vai, rìu tứ giác, rìu tứ diện, bàn mài được làm từ chất liệu đá; một số mũi lao, mũi giáo làm từ chất liệu đồng; chân chạc gốm… tuy số lượng hiện vật còn hạn chế so với các giai đoạn lịch sử khác nhưng qua đó đã giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể và sinh động hơn về một thời kì có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình dựng nước của dân tộc. Đó cũng chính thời kỳ tạo cơ sở chủ yếu cho nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ.
Văn hóa Gò Mun! Văn hoá Gò Mun lấy tên địa danh đầu tiên phát hiện được là Gò Mun- xã Tứ Xã- huyện Lâm Thao – tỉnh Phú Thọ . Văn hoá Gò Mun có niên đại cách ngày nay 2500-3000 năm, là nền văn hóa hậu kỳ thời đại đồng thau và tiền Đông Sơn (sơ kỳ đồ sắt). Phân bố ở miền Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trùng với địa bàn phân bố của văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Phùng Nguyên . Đó là các địa điểm Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm…thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh , Hà Tây, Hà Nội. Trên địa bàn Phú Thọ có 14 địa điểm di tích văn hoá Gò Mun như các di chỉ: Gò Mun, Gò Chiền, Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới… phân bố trong các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng…. Sự thống nhất và tương đồng về các mặt như cảnh quan nơi cư trú, phạm vi địa tầng , các di tích và di vật… đều phản ánh một cộng đồng cư dân tồn tại thực sự trong không gian và thời gian ở lưu vực sông Hồng. Điều đó trái với một số nhận định trước đây cho rằng văn hoá Gò Mun chỉ như một “bản lề”, một “khâu chuyển tiếp” hay một điểm “giao thời”, “đệm” cho văn hoá Phùng Nguyên – Đông Sơn. Các hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ Gò Mun: Tại di chỉ khảo cổ Gò Mun tiêu biểu nhất cho văn hóa Gò Mun, qua 4 lần khai quật vào các năm 1961, 1965, 1969, 1971 các nhà khảo cổ học đã thu được hàng vạn hiện vật bao gồm: đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm với đủ loại các loại hình khác nhau. Hiện vật đá: qua 4 lần khai quật đã thu được 231 tiêu bản trong đó đáng chú ý là các loại hiện vật như rìu, đục, bàn mài, chì lưới, vòng tay, khuyên tai, khánh…; Hiện vật đồng với tổng số 340 hiện vật là các loại hình như rìu, liềm, đục, mũi tên, mũi lao, giáo, lưỡi câu…; hiện vật gốm thời kì này có dọi se sợi, nồi, vò, mảnh gốm, chân chạc… Hiện vật văn hóa Gò Mun khá đa dạng về loại hình và chất liệu như: hiện vật công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu, tác phẩm nghệ thuật; được làm từ chất liệu đồng, gốm, đá…Trong số đó các công cụ và vũ khí bằng đồng chiếm số lượng chủ yếu. Giai đoạn này, các nhà nghiên cứu khảo cổ học đã tìm thấy các loại mũi tên, mũi giáo, rìu lưỡi xéo, kim, dùi đục, lưỡi câu… qua đó cho chúng ta biết được người Gò Mun không chỉ có các công cụ phục vụ sản xuất mà còn có công cụ phục vụ chiến đấu, săn bắn. Giai đoạn Gò Mun lần đầu tiên xuất hiện mũi tên được làm bằng đồng thau, đa dạng về loại hình và giàu có về số lượng. Thông quá đó cũng cho chúng ta thấy sự khéo léo của cư dân người Việt cổ trong kỹ thuật chế tác kim khí và cũng là tiền đề cho truyền thống nghệ thuật quân sự (sử dụng cung nỏ trong chiến đấu) mà các giai đoạn sau tiếp thu trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nghề luyện kim đồng thau phát triển trong văn hóa Gò Mun: Hơn thế nữa ở giai đoạn này còn ghi nhận sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau so với các giai đoạn trước. Đồ đồng trong văn hóa Gò Mun khá phong phú, gồm nhiều loại hình khác nhau. Nguyên liệu chủ yếu là đồng và thiếc trong thành phần hợp kim. Ngoài ra còn có một số tạp chất khác. Do kỹ thuật luyện đồng của người Gò Mun chưa cao, chưa phân huỷ được những chất có tác dụng ăn mòn và ôxy hóa nên nhiều hiện vật bị hỏng, gỉ và thường mềm hơn so với hiện vật đồng của văn hóa Đông Sơn. Cách chế tác đồ đồng chủ yếu là đúc bằng khuôn hai mang đối với hiện vật có kích cỡ lớn, cấu tạo phức tạp, nhiều chi tiết như: rìu, giáo, lao, mũi tên, tượng, nhạc… và sử dụng kỹ thuật gia công nguội, giũa đối với hiện vật nhỏ, đơn giản như: lưỡi câu, lao mũi nhọn nhỏ, kéo thành sợi. Những sản phẩm bằng đồng của người Gò Mun do chính bàn tay, khối óc của họ tạo ra. Điều đó đã được minh chứng bằng sự có mặt của những khuôn đúc bằng đá, bằng đất nung, nồi nấu, bát rót và lò luyện tìm thấy trong tầng văn hóa với nơi họ cư trú mà họ để lại. Sự đa dạng về loại hình đồ đồng là yếu tố quan trọng phân biệt văn hóa Gò Mun và văn hóa Đồng Đậu: Trong giai đoạn văn hóa Gò Mun loại hình công cụ đồng đã bắt đầu đa dạng hóa. Nhiều loại hình mới xuất hiện và chức năng được xác định rõ ràng. Chính việc ổn định kiểu dáng đã dẫn đến việc sử dụng chuyên hóa chức năng công cụ, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và chiến đấu. Song dù sao người Gò Mun vẫn chưa thể đạt tới trình độ điêu luyện về kỹ thuật, đa dạng phong phú về loại hình và nhất là về nghệ thuật trang trí, như trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn . Hầu hết những công cụ và vũ khí bằng đồng của người Gò Mun: rìu, liềm, giáo, mũi tên, lao, búa… đều có họng, chuôi, hoặc khâu để lắp cán. Đây là những c«ng côcơ bản nhất đóng vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất, săn bắt và bảo vệ cuộc sống của cư dân Gò Mun thời bấy giờ. Thông qua những hiện vật như lưỡi hái bằng đồng thau phát hiện ở nhiều nơi nói lên sự phát triển và hoàn thiện của nghề trồng lúa nước. Lưỡi hái cong, có gỗ tra cán cho thấy bước tiến bộ hơn trong nghệ thuật chế tác so với các giai đoạn trước. Cư dân Gò Mun không chỉ dùng đồng để chế tác công cụ sản xuất, vũ khí mà người Gò Mun còn sáng tạo ra đồ trang sức làm bằng đồng thau như vòng tay làm từ dây đồng. Bên cạnh hiện vật đồng thau, giai đoạn văn hóa Gò Mun cũng được ghi nhận sự phát triển mang tính tiếp nối của các hiện vật đồ gốm. Hoa văn trang trí trên đồ gốm trong văn hóa Gò Mun: Hoa văn trang trí trên đồ gốm Gò Mun rất phong phú và đa dạng. Người Gò Mun đã dùng đồ gốm để thể hiện tư duy thẩm mỹ của mình. Vị trí trang trí hoa văn trên đồ gốm dùng để đựng hoặc đun nấu của người Gò Mun chủ yếu ở mặt miệng, trong lòng, ngoài cổ, vai, thân hoặc ngoài chân đế. Hoa văn gốm Gò Mun chủ yếu là văn thừng, văn nan chiếu, in ô vuông, chải được tạo nên do những bàn dập, bàn chải trong quá trình tạo xương gốm. Ngoài ra còn có hoa văn khắc vạch, in ấn, đắp nổi được trang trí sau khi kết thúc khâu tạo hình, cần cho đồ gốm có thẩm mỹ. Cả hai loại hoa văn này được người Gò Mun kết hợp một cách hài hòa trên một số đồ gốm cơ bản. Người thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đó có từ giai đoạn Đồng Đậu. Miệng gốm bẻ loe ra nằm ngang, rộng bản. Nếu như gốm Phùng Nguyên được nung ở nhiệt độ thấp khoảng 6000C và có lẫn nhiều tạp chất hữu cơ nên có gốm thường nhẹ, dễ thấm nước và bở hơn thì đến giai đoạn này, gốm được nung ở nhiệt độ cao, tỉ lệ ôxít silic cao và được nung ở nhiệt độ từ 8000C đến 9000C vì thế mà gốm có độ cứng hơn, có những mảnh gốm như mảnh sành, ít thấm nước và màu gốm cũng thay đổi cơ bản, màu gốm chuyển sang màu xám tro, xám mốc chứ không tươi đỏ như thời kì trước. Loại hình gốm trong văn hóa Gò Mun rất phong phú: Sự đa dạng về loại hình đồ gốm bao gồm cả đồ dùng cho sản xuất và đồ đựng như: nồi, vò, âu, bát, bi, dọi xe chỉ, chì lưới cho thấy bước phát triển lớn trong đời sống sinh hoạt của cư dân Gò Mun.Qua đó phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người Gò Mun giúp ta khắc được họa bức tranh toàn cảnh về sự tụ cư thời đó. Đó là sự quần cư trong các xóm làng của các gia đình người Việt cổ, tiêu biểu như các làng Tứ Xã, Thanh Đình, …, là sự hình thành tổ chức sản xuất theo hộ gia đình là chính…và sau này trải qua hàng ngàn năm đã hình thành nên văn hóa làng xã độc đáo ở Việt Nam. Như vậy có thể thấy rằng: giai đoạn này xã hội người Việt đã có những bước chuyển biến sâu sắc và rõ rệt. Người Gò Mun sinh sống bằng nghề trồng lúa nước là chính, người dân sống chủ yếu bằng sản phẩm của mình làm ra chứ không phải khai thác trong tự nhiên như trước kia nữa; bên cạnh đó còn chăn nuôi và săn bắt đánh cá. Chính vì có bước tiến bộ trong kĩ năng canh tác cũng như tổ chức cuộc sống mà người dân Gò Mun ngày càng dư giả, góp phần thúc đẩy sự ra đời nhà nước sơ khai đầu tiên của người Việt. Với các giá trị quan trọng về khoa học và lịch sử, năm 2008, di chỉ Gò Mun – xã Tứ xã- huyện Lâm Thao đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Hiện nay tại bảo tàng Hùng Vương đang lưu giữ và trưng bày một số hiện vật thuộc văn hóa Gò Mun như đồ đồng, gốm, đá thuộc loại hình công cụ sản xuất, vũ khí như: rìu có vai, rìu tứ giác, rìu tứ diện, bàn mài được làm từ chất liệu đá; một số mũi lao, mũi giáo làm từ chất liệu đồng; chân chạc gốm… tuy số lượng hiện vật còn hạn chế so với các giai đoạn lịch sử khác nhưng qua đó đã giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể và sinh động hơn về một thời kì có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình dựng nước của dân tộc. Đó cũng chính thời kỳ tạo cơ sở chủ yếu cho nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ.
60 năm đường Hồ Chí Minh trên biển – kỳ tích của lịch sử Việt Nam Sáng 19.10, nhân kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23.10.1961 – 23.10.2021), Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo T.Ư và TP. Hải Phòng tổ chức hội thảo khoa học “Đường Hồ Chí Minh trên biển – Kỳ tích lịch sử và bài học đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”. 60 năm trước, để đáp ứng được yêu cầu vận chuyển vũ khí, hàng hóa chi viện cho chiến trường Nam bộ và Nam Trung bộ, ngày 23.10.1961, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Đoàn 759 làm nhiệm vụ vận chuyển chiến lược trên biển chi viện chiến trường. Bến tàu K15 tại Q.Đồ Sơn, TP.Hải Phòng Bến tàu K15 – Nơi xuất phát của những con tàu không số Bến tàu K15 nằm dưới chân ngọn núi cuối cùng của bán đảo Đồ Sơn (TP.Hải Phòng) là nơi khuất gió, kín đáo, ba chiều là núi, chỉ có một hướng duy nhất ra biển. Trên bến có một cầu tàu hình chữ T, dài 60 m, rộng 6 m, tải trọng 10 tấn, kết cấu cọc bằng bê tông, ghép khung dầm. Hiện nay, di tích còn lại của bến tàu K15 là những trụ bê tông cầu cảng, một số nền móng kho hàng, bể nước… Năm 2003, bến tàu K15 được công nhận là di tích lịch sử cấp TP, năm 2008 được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Theo PGS-TS Nguyễn Danh Tiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, bắt đầu từ những con tàu gỗ đánh cá nhỏ, đến đầu năm 1964, quân ta đã có trên 20 tàu trọng tải từ 50 – 150 tấn. “Sau gần 4 năm (11.1962 – 2.1965), vượt qua khó khăn gian khổ, với lòng quả cảm và tinh thần “vì miền Nam ruột thịt”, “tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, cán bộ, chiến sĩ trên những “con tàu không số” đã tổ chức được 89 chuyến tàu, vận chuyển được 4.920 tấn hàng hóa, vũ khí. Trong đó, riêng Cà Mau nhận được 47 chuyến, Bến Tre 19 chuyến, Trà Vinh 13 chuyến, còn lại là Khu 7 và Khu 5”, PGS-TS Nguyên Danh Tiên cho biết. Trong số 168 “con tàu không số” đã xuất bến từ năm 1966 – 1972, 8 con tàu đã phải phá hủy, 117 cán bộ, chiến sĩ hy sinh trên biển. Những đóng góp của các bộ, chiến sĩ và những con tàu của đường Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần phát triển thế và lực của cách mạng miền Nam, cùng với quân và dân ta ở miền Nam đánh bại các kế hoạch chiến tranh của kẻ thù. Mãi mãi là niềm tự hào Tại hội thảo, các đại biểu đã có những tham luận làm sâu sắc hơn về tầm nhìn chiến lược, chủ trương đúng đắn và sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của T.Ư Đảng, Quân ủy T.Ư cũng như sự chỉ đạo, chỉ huy, điều hành nhạy bén, sáng tạo của Bộ Quốc phòng, Quân chủng Hải quân trong việc mở đường Hồ Chí Minh trên biển. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Huy Vịnh phát biểu trong hội thảo Theo thượng tướng Lê Huy Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, việc mở đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sự sáng tạo của Bộ Chính trị mà trực tiếp là Quân ủy T.Ư và Bộ Tổng tư lệnh, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến đường vận tải chiến lược trên biển chi viện cho chiến trường miền Nam. “Đường Hồ Chí Minh trên biển là một phát kiến trong đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó thực sự là một kỳ tích trong điều kiện con người, phương tiện của ta, đặc biệt là phải vượt qua sự ngăn chặn, đánh phá quyết liệt của địch”, thượng tướng Lê Huy Vịnh đánh giá. Trong suốt 14 năm thực hiện nhiệm vụ chi viện chiến trường bằng đường biển, dù có lúc gián đoạn do địch ngăn chặn quyết liệt, nhưng thông qua đường Hồ Chí Minh trên biển, hàng nghìn lượt tàu vào Nam, ra Bắc; vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, khí tài, hàng hóa, thuốc chữa bệnh, đưa đón hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ… Các đại biểu dự hội thảo đều khẳng định đường Hồ Chí Minh trên biển là một thành công lớn, bước phát triển mới của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, là sự kết hợp hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần để tạo nên sức mạnh to lớn và bền vững. Những chiến công và bài học kinh nghiệm của đường Hồ Chí Minh trên biển mãi mãi là niềm tự hào của quân và dân ta nói chung, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng, nhất định sẽ trường tồn và phát huy tác dụng to lớn trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Ông Trần Lưu Quang, Bí thư Thành ủy Hải Phòng, khẳng định hội thảo khoa học cấp Bộ Quốc phòng nhân kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển là một cơ hội quý để ôn lại truyền thống hào hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, truyền thống TP cảng “Trung dũng – Quyết thắng”, truyền thống kiên cường, dũng cảm, không ngại gian khổ, hy sinh của cán bộ, chiến sĩ trên những “con tàu không số” năm xưa. Những truyền thống tốt đẹp đó sẽ tiếp thêm sức mạnh cho quân và dân cả nước hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Trung tướng Trịnh Văn Quyết, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, cho rằng kết quả của hội thảo một lần nữa góp phần làm sâu sắc tầm vóc, ý nghĩa, rút ra những bài học lịch sử từ kỳ tích của đường Hồ Chí Minh trên biển, qua đó, nâng cao niềm tự hào, tự tôn dân tộc, củng cố niềm tin và quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vào sự nghiệp đổi mới đất nước, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, góp phần thiết thực trong giáo dục truyền thống cách mạng cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Lê Tân
60 years of the Ho Chi Minh Trail at sea - a miracle of Vietnamese history On the morning of October 19, on the occasion of the 60th anniversary of the opening of the Ho Chi Minh Trail at Sea (October 23, 1961 - October 23, 2021), the Ministry of National Defense coordinated with the Central Propaganda Department and the City. Hai Phong organized a scientific conference "Ho Chi Minh Road at sea - A miracle history and lessons for the cause of building and protecting the Fatherland". 60 years ago, to meet the requirements of transporting weapons and goods to support the Southern and South Central battlefields, on October 23, 1961, the General Command decided to establish Group 759 to carry out the task of transporting war. strategy at sea to support the battlefield. Pier K15 in Do Son District, Hai Phong City Pier K15 - The departure place of ships without numbers K15 pier is located at the foot of the last mountain of Do Son peninsula (Hai Phong city), a place sheltered from the wind, discreet, three-dimensionally mountainous, with only one direction to the sea. On the wharf there is a T-shaped wharf, 60 m long, 6 m wide, 10 ton load, concrete pile structure, beam frame. Currently, the remaining relics of the K15 pier are concrete wharf pillars, some warehouse foundations, water tanks... In 2003, the K15 pier was recognized as a city-level historical relic, and in 2008 it was recognized as a city-level historical site. recognized as a national historical site. According to Associate Professor-Dr. Nguyen Danh Tien, Director of the Institute of Party History, Ho Chi Minh National Academy of Politics, starting with small wooden fishing boats, by early 1964, our army had over 20 tonnage ships. from 50 - 150 tons. "After nearly 4 years (November 1962 - February 1965), overcoming difficulties and hardships, with courage and the spirit of "for the South", "all for the cause of liberating the South and unifying the country", Officers and soldiers on "unnumbered ships" organized 89 trains, transporting 4,920 tons of goods and weapons. Of these, Ca Mau alone received 47 trips, Ben Tre 19 trips, Tra Vinh 13 trips, and the rest were Zone 7 and Zone 5," Associate Professor-Dr. Nguyen Danh Tien said. Of the 168 "unnumbered ships" that sailed from 1966 to 1972, 8 ships had to be destroyed, and 117 officers and soldiers died at sea. The contributions of the ministries, soldiers and ships of the Ho Chi Minh Trail at sea have contributed to developing the position and power of the Southern revolution, together with our army and people in the South to defeat war plans. of the enemy. Forever a pride At the conference, delegates had presentations that deepened the strategic vision, correct policies and skillful and wise leadership of the Party Central Committee and the Central Military Commission as well as the guidance The sensitive and creative leadership, command, and management of the Ministry of National Defense and the Navy in opening the Ho Chi Minh Trail at sea. Deputy Minister of National Defense Le Huy Vinh spoke at the conference According to Senior Lieutenant General Le Huy Vinh, Deputy Minister of National Defense, the opening of the Ho Chi Minh Highway at sea demonstrates the creativity of the Politburo, directly the Central Military Commission and the General Command, marking a historic milestone. important, opening up a new development step of the strategic maritime transport route to support the Southern battlefield. “The Ho Chi Minh Road at sea is an innovation in the leadership guidelines and policies of our Party, headed by President Ho Chi Minh. It was truly a miracle given the conditions of our people and means, especially having to overcome the enemy's fierce blocking and attacks," commented Senior Lieutenant General Le Huy Vinh. During 14 years of carrying out the mission of supporting the battlefield by sea, although there were times when interrupted due to fierce enemy blocking, through the Ho Chi Minh sea route, thousands of ships went to the South and to the North; transporting tens of thousands of tons of weapons, ammunition, goods, medicines, transporting tens of thousands of officers and soldiers... The delegates attending the conference all affirmed that the Ho Chi Minh Trail at Sea was a great success, a new development step of Vietnamese military art in the Ho Chi Minh era, an organic combination of material values. and spirit to create great and lasting strength. The victories and lessons learned of the Ho Chi Minh Trail at sea will forever be the pride of our army and people in general, and generations of officers and soldiers of the Vietnam People's Navy in particular. preserve and promote great effects in the cause of building and protecting the Fatherland. Mr. Tran Luu Quang, Secretary of Hai Phong City Party Committee, affirmed seminar The Ministry of National Defense-level scientific event on the occasion of the 60th anniversary of the opening of the Ho Chi Minh Highway at Sea is a valuable opportunity to review the heroic traditions of the heroic Vietnam People's Army, the port city tradition of "Central Courage - Decision". victory", the tradition of resilience, courage, not afraid of hardships and sacrifices of officers and soldiers on the "numberless ships" of the past. Those good traditions will empower the army and people of the country to successfully complete their tasks in the new revolutionary period. Lieutenant General Trinh Van Quyet, Deputy Director of the General Department of Politics of the Vietnam People's Army, said that the results of the conference once again contributed to deepening the scope and significance, drawing historical lessons from the period. The legacy of the Ho Chi Minh Trail at sea, thereby enhancing national pride and self-respect, strengthening the faith and political determination of the entire Party, people and army in the cause of national innovation, Successfully implementing the Resolution of the 13th Party Congress, making practical contributions to educating the people, especially the young generation, in revolutionary traditions. Le Tan
Di tích Thành Nhà Hồ Ngày 27 tháng 6 năm 2011, tại Kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản Thế giới ở Paris, Cộng hòa Pháp, Ủy ban Di sản Thế giới đã chính thức quyết định đưa Di tích Thành Nhà Hồ ( Thanh Hóa ) vào Danh mục Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới. Với tư cách là quốc gia thành viên Công ước UNESCO 1972 về việc Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên của thế giới, đoàn Việt Nam tham dự kỳ họp này có đại diện của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao, UBND tỉnh Thanh Hóa cùng một số tỉnh/thành phố có Di sản Thế giới ở Việt Nam. Là kinh đô của nhà Hồ, Thành được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, còn được gọi là Tây Đô để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long – Hà Nội ). Sau khi xây thành, Hồ Quý Ly đã dời đô từ Thăng Long về Tây Đô. 4 bên mặt thành được bao quanh bằng tường đá với tổng khối lượng đá xây thành khoảng 20.000m3 và gần 100.000m3 đất được đào đắp. Ngay từ đợt công nhận đầu tiên các di tích có giá trị cao, đặc biệt quan trọng của đất nước vào năm 1962, Di tích Thành Nhà Hồ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia. Kể từ đó tới nay, đã có thêm 02 di tích nữa thuộc khu vực này được công nhận cấp quốc gia, là: Đàn Nam Giao và La Thành. Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ bao gồm 3 di tích nói trên cùng với di tích hào thành, các di tích khảo cổ dưới lòng đất, các làng cổ, các di tích chùa đền, hang động, toàn bộ cảnh quan núi non, sông nước liên quan tới Thành Nhà Hồ. Để trở thành Di sản văn hóa Thế giới, Thành Nhà Hồ được đánh giá có giá trị nổi bật toàn cầu trên 3 cột trụ chính là: 1- Về Tiêu chí giá trị nổi bật toàn cầu: Thành Nhà Hồ đạt 2 tiêu chí sau: Tiêu chí ii: Khu di sản Thành Nhà Hồ là biểu hiện rõ rệt những sự giao thoa trao đổi quan trọng các giá trị nhân văn giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á vào cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV. Nơi mở đầu cho việc tiếp thu các tư tưởng tích cực của Nho Giáo thực hành (Trung Quốc) nở rộ từ thời Lê Sơ kéo dài đến đầu thế kỷ XX. Những tư tưởng ấy kết hợp với các đặc điểm của văn hóa Việt Nam và khu vực được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nhằm đưa đất nước đạt tới các thành tựu mới văn minh hơn, tích cực hơn, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người dân, đáp ứng các yêu cầu đổi mới cấp bách của Việt Nam. Tất cả được thể hiện nổi trội và duy nhất ở Thành Nhà Hồ trên các phương diện thiết kế cảnh quan đô thị, kiến trúc thành đá, kỹ thuật xây dựng đá lớn và các ảnh hưởng tác động lẫn nhau nhiều chiều của khu di sản tới kỹ thuật xây dựng thành quách sau đó ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Tiêu chí iv: Khu di sản vừa là ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc Hoàng thành biểu tượng cho quyền lực Hoàng gia tiêu biểu ở phương Đông, vừa là một pháo đài quân sự bề thế, chắc chắn, uy nghiêm. Thành Nhà Hồ là biểu hiện tiêu biểu của sự kết hợp hài hòa giữa các công trình xây dựng và cảnh quan thiên nhiên, tiêu biểu cho sự vận dụng quan niệm xây dựng theo phong thủy và cảnh quan văn hóa tại khu vực di sản. Kỹ thuật xây dựng đá lớn độc đáo, duy nhất của Việt Nam được thấy ở đây, đã được kết hợp một cách sáng tạo, tài tình với truyền thống kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng ở Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á, với một hệ thống thao tác kỹ thuật thủ công liên hoàn như khai thác đá, gia công đá, vận chuyển các khối đá nặng từ 10 tấn đến 26 tấn, xử lý móng nền đá, nâng các khối đá lớn lên độ cao trên 10m, vừa đảm bảo được công năng kiến trúc vừa đáp ứng yêu cầu mỹ thuật cần thiết của một đô thành. Kỹ thuật xây dựng thành công các bức tường thành bằng đá lớn đã phát huy ảnh hưởng của nó tới kỹ thuật xây dựng nhiều tòa thành sau đó ở khu vực, nhưng kỳ vĩ nhất, đặc sắc nhất chỉ có Thành Nhà Hồ vốn được xem như một hiện tượng đột khởi “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử xây dựng kiến trúc thành quách Việt Nam và khu vực. 2- Về tính toàn vẹn và tính xác thực: Khu di sản đã đáp ứng những yêu cầu cơ bản về tính toàn vẹn, tính xác thực được nêu trong Hướng dẫn thực hiện Công ước UNESCO 1972 về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên Thế giới. 3- Về công tác quản lý: Ngày 21/9/2010, ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã có Quyết định số 3341/QĐ-UBND thành lập Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ với chức năng quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản Thành Nhà Hồ. Trước đó, ngày 08/02/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa cũng đã ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích Thành Nhà Hồ và các di tích phụ cận. Những văn bản này cùng với Luật di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở quan trọng để bảo vệ, quản lý tốt di tích Thành Nhà Hồ. Tuy nhiên, để bảo tồn bền vững Di sản Thành Nhà Hồ, chúng ta còn phải tích cực hơn nữa nhằm đưa ra các giải pháp phù hợp trong công tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ sự toàn vẹn và tính xác thực của Di sản theo quy định của Công ước UNESCO 1972. Trên cơ sở đề nghị của Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Thành Nhà Hồ đã được Chính phủ cho phép chuẩn bị hồ sơ kể từ tháng 01 năm 2006. Từ đó tới nay, với sự quyết tâm của các cấp chính quyền cùng nhân dân tỉnh Thanh Hóa, các Bộ, ngành và các nhà khoa học của Việt Nam, Thành Nhà Hồ đã chính thức được vinh danh trên toàn thế giới, thể hiện những bước đi vững chắc của chúng ta trong công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị đối với di tích đặc biệt quan trọng này.
Ho Dynasty Citadel Relics On June 27, 2011, at the 35th Session of the World Heritage Committee in Paris, France, the World Heritage Committee officially decided to include the Ho Dynasty Citadel Relics ( Thanh Hoa ) on the World Cultural and Natural Heritage List. As a member country of the 1972 UNESCO Convention on the Protection of the World's Cultural and Natural Heritage, the Vietnamese delegation attending this meeting includes representatives from the Ministry of Culture, Sports and Tourism, the Ministry of Culture, Sports and Tourism. Diplomacy, Provincial People's Committee Thanh Hoa along with a number of provinces/cities with World Heritage Sites in Vietnam. As the capital of the Ho Dynasty, the Citadel was built by Ho Quy Ly in 1397, also known as Tay Do to distinguish it from Dong Do (Thang Long - Hanoi ). After building the citadel, Ho Quy Ly moved the capital from Thang Long to Tay Do. The four sides of the citadel are surrounded by stone walls with a total volume of about 20,000m3 of stone and nearly 100,000m3 of excavated soil. Right from the first recognition of the country's highly valuable and especially important relics in 1962, the Ho Dynasty Citadel Relics were recognized by the Ministry of Culture, Sports and Tourism. Tourism Ranked as a national monument. Since then, there have been two more relics in this area recognized at the national level: Nam Giao Dan and La Thanh. The World Cultural Heritage of the Ho Dynasty Citadel includes the three above-mentioned relics along with the citadel moat relics, underground archaeological relics, ancient villages, pagoda relics, caves, and the entire mountain landscape. Mountains and rivers are related to the Ho Dynasty Citadel. To become a World Cultural Heritage, the Ho Dynasty Citadel is assessed to have outstanding global value on three main pillars: 1- Regarding outstanding global value criteria: Ho Dynasty Citadel meets the following 2 criteria: Criterion ii: The Ho Dynasty Citadel heritage site is a clear manifestation of the important interactions and exchanges of human values ​​between Vietnam and countries in East Asia and Southeast Asia in the late 14th and early 19th centuries. 15th century. The opening place for the absorption of positive ideas of practical Confucianism (China) flourished from the Early Le Dynasty until the early twentieth century. These ideas combined with the characteristics of Vietnamese and regional culture are creatively applied to Vietnam's specific circumstances to bring the country to new, more civilized and positive achievements. , bringing more benefits to people, meeting Vietnam's urgent innovation requirements. All are shown prominently and uniquely in the Ho Dynasty Citadel in terms of urban landscape design, stone architecture, large stone construction techniques and the multidimensional interactions of the heritage site. to later citadel construction techniques in East Asia and Southeast Asia. Criterion iv: The heritage site is both an outstanding example of a type of Imperial Citadel architecture that symbolizes royal power typical of the East, as well as a majestic, sturdy, and majestic military fortress. The Ho Dynasty Citadel is a typical expression of the harmonious combination between construction works and natural landscape, representing the application of the concept of construction according to feng shui and cultural landscape in the heritage area. The unique large stone construction technique, unique to Vietnam seen here, has been creatively and skillfully combined with the technical and artistic traditions of construction in Vietnam, East Asia and Southeast Asia. , with a system of continuous manual technical operations such as quarrying, stone processing, transporting stone blocks weighing from 10 tons to 26 tons, handling stone foundations, lifting large stone blocks to heights above 10m, both ensuring architectural function and meeting the necessary aesthetic requirements of a city. The technique of successfully building large stone walls has exerted its influence on the construction techniques of many subsequent citadels in the area, but the most magnificent and unique is the Ho Dynasty Citadel, which is considered as a sudden "unprecedented" phenomenon in the history of building architectural citadels in Vietnam and the region. 2- Regarding integrity and authenticity: The heritage site has met the basic requirements for integrity and authenticity stated in the Guidelines for the Implementation of the 1972 UNESCO Convention on the Protection of the World Cultural and Natural Heritage. 3- Regarding management: On September 21, 2010, the People's Committee of Thanh Hoa province issued Decision Không. 3341/QD-UBND to establish the Ho Dynasty Citadel Heritage Conservation Center with the function of managing, protecting and promoting heritage values. Citadel of the Ho Dynasty. Previously, on February 8, 2007, the People's Committee of Thanh Hoa province also issued Regulations on management, protection and promotion of the value of Ho Dynasty Citadel relics and surrounding relics. These documents, along with the Cultural Heritage Law and implementation guidance documents, are an important basis for protecting and managing the Ho Dynasty Citadel relics well. However, to sustainably preserve the Ho Dynasty Citadel Heritage, we must be even more proactive in providing appropriate solutions in the management, protection, and preservation of the integrity and authenticity of the Heritage Site. according to the provisions of the 1972 UNESCO Convention. Based on the request of the Ministry of Culture and Information (now the Ministry of Culture, Sports and Tourism), the Ho Dynasty Citadel has been allowed by the Government to prepare documents since January 2006. From then until now , with the determination of the authorities at all levels and the people of Thanh Hoa province, ministries, branches and scientists of Vietnam, the Ho Dynasty Citadel was officially honored worldwide, demonstrating steady steps forward. our commitment to preserving and promoting the value of this particularly important relic.
Về Tây Ninh ghé thăm tháp cổ Bình Thạnh hơn 1000 năm tuổi Đền tháp Bình Thạnh ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII-IX, thuộc văn hóa Óc Eo, là ngôi tháp duy nhất vẫn còn giữ được gần như vẹn nguyên kiến trúc đặc biệt. Không chỉ ở các tỉnh miền Trung như Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận mới có tháp chàm mà ở Đông Nam Bộ cũng có một ngôi tháp cổ lâu đời gắn liền với văn hóa Óc Eo, đó chính là tháp cổ Bình Thạnh ở huyện Trảng Bàng , tỉnh Tây Ninh . Tháp cổ Bình Thạnh – đặc trưng của nền văn hóa Óc Eo là một trong số những ngôi tháp hiếm hoi còn sót lại ở Đông Nam Bộ. Tháp được đặt tên là Tháp cổ Bình Thạnh, bởi công trình này nằm phía hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông tại ấp Bình Phú, xã Bình Thạnh, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Tháp Bình Thạnh được phát hiện chính thức cùng Tháp Chóp Mạt-Tây Ninh đầu thế kỷ XX qua tài liệu báo cáo khảo cổ học Tây Ninh của thư viện nghiên cứu khảo cổ Đông Dương. Đền tháp Bình Thạnh được xác định ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII-IX, thuộc văn hóa Óc Eo. Trải qua hơn một nghìn năm tuổi, biết bao sự đổi dời của thời thế, tháp cổ Bình Thạnh vẫn giữ được gần như vẹn nguyên kiến trúc đặc biệt của mình, là một phần quan trọng trong di sản văn hóa của dân tộc. Nằm trên khu đất cao và khá bằng phẳng, khu tháp cổ ẩn mình bên dưới những hàng cây xanh sum suê bóng mát, mang đến một khung cảnh vô cùng thơ mộng, hoang sơ, bí ẩn, nhưng cũng không kém phần thanh tịnh và trang nghiêm. Tháp cổ Bình Thạnh có giá trị lịch sử lớn lao và vô cùng quý giá đối với di sản kiến trúc của dân tộc, vì đây chính là ngôi tháp duy nhất vẫn còn giữ được tường đá gần như nguyên vẹn kể từ khi được phát hiện. [Chùa Bút Tháp – Ngôi chùa độc đáo lưu giữ bốn bảo vật quốc gia] Kỹ thuật xây dựng của đền tháp Bình Thạnh khá tương đồng với các đền tháp Chăm ở miền Trung, sử dụng vật liệu gạch nung xếp chồng lên nhau một cách khéo léo và cực khít, mà không hề dùng đến chất liệu kết dính. Tuy nhiên điều đáng tiếc là kỹ thuật xây dựng này cho đến nay đã bị thất truyền, nhiều nhà khoa học, khảo cổ học cố gắng tìm kiếm, xong vẫn chưa có câu trả lời. Tổng thể nhìn từ phía sau hông tháp cổ Bình Thạnh. (Ảnh: Thanh Tân/TTXVN) Tổng thể kiến trúc tháp cổ Bình Thạnh bao gồm ba tháp chính, tuy nhiên chỉ còn lại một tháp là còn được nguyên vẹn hình hài do được trùng tu vào năm 1998, còn hai tháp còn lại thì chỉ còn là dấu tích. Ngôi tháp cổ có chiều cao 10 mét, được xây dựng trên nền đất hình vuông, mỗi cạnh dài 5 mét quay về đúng bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Cửa chính của tháp quay về hướng Đông, nhô hẳn ra ngoài, rộng 1 mét, cao 2 mét. Phía trên cửa chính là một phiến đá hình chữ nhật rộng 2 mét, cao 0,8 mét được chạm khắc hình hoa cúc cách điệu vô cùng tinh xảo, các vách của cửa chính cũng được chạm khắc hình phù điêu nổi. Khách tham quan tìm hiểu về quá trình hình thành tháp cổ Bình Thạnh Ngoài ra các cửa Tây, Nam, Bắc đều có cửa giả, được đắp nổi hoa văn vô cùng tinh tế, công phu. Quan sát kỹ các vách tường của tháp có thể thấy các viên gạch được xếp chồng lên nhau vô cùng khít, mà chẳng cần dùng đến chất kết dính nào, đây chính là sự kỹ thuật xây dựng vô cùng tài hoa của người Chămpa cổ. Theo thời gian, rêu phong cổ kính nhuốm đầy trên các bức tường của tháp cổ, mang đến cho du khách cảm giác hoài niệm. Sự tinh tế, khéo léo của những người thợ xây dựng còn được thể hiện qua các bức hoa văn, phù điêu được chạm khắc thành hình thần linh, hoa lá, chim muông… cực kỳ tinh xảo, trau chuốt, và đặc biệt là mang tính biểu tượng cao. Các môtíp trang trí được xây lặp lại ở các phần thu nhỏ dần lên đỉnh tháp, tạo cho toàn bộ ngôi tháp có nhiều góc, cạnh, cộng thêm vào các bức phù điêu được đắp nổi quanh ngôi tháp nên đã tạo cho toàn bộ công trình tháp là một kiến trúc vững chắc và công phu. Tháp Bình Thạnh được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ) công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa năm 1993. Năm 1995, đình Bình Thạnh cũng đã được xây dựng bên cạnh tháp cổ. Nhà nước và tỉnh Tây Ninh nhiều lần tu sửa tháp cổ để gìn giữ lại một trong những di sản văn hóa của dân tộc. Không chỉ mang giá trị lịch sử , kiến trúc, mà di tích tháp cổ Bình Thạnh còn ẩn chứa nhiều giá trị đặc biệt về đời sống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của người xưa. Kỹ thuật xây dựng, điêu khắc tài tình đã phản ảnh sự phát triển đỉnh cao của văn hóa Óc Eo . Các nhà sử học, văn hóa học, khảo cổ học không ngừng tìm tòi, nghiên cứu để khám phá nhiều hơn nữa các giá trị đặc sắc của khu di tích cổ này. Chính vì kỹ thuật điêu khắc trên mà tháp Bình Thạnh đã trở thành một trong những điểm du lịch ấn tượng ở Tây Ninh, thu hút đông đảo du khách ghé thăm để hiểu hơn về văn hóa Óc Eo – một phần làm nên giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc ngày nay./.
Return to Tay Ninh to visit Binh Thanh ancient tower more than 1000 years old Binh Thanh Temple Tower was born around the 8th - 9th centuries, belonging to the Oc Eo culture, and is the only tower that still retains its special architecture almost intact. Not only in the Central provinces such as Khanh Hoa, Binh Thuan, and Ninh Thuan are there Cham towers, but in the Southeast there is also a long-standing ancient tower associated with Cham towers. culture Oc Eo, that is the Binh Thanh ancient tower in the district Trang Bang , conscious Tay Ninh . Binh Thanh ancient tower - characteristic of Oc Eo culture is one of the rare remaining towers in the Southeast. The tower is named Binh Thanh Ancient Tower, because this project is located on the right bank of Vam Co Dong River in Binh Phu hamlet, Binh Thanh commune, Trang Bang district, Tay Ninh province. Binh Thanh Tower was officially discovered along with Chop Mat Tower - Tay Ninh in the early 20th century through the Tay Ninh archaeological report document of the Indochina archaeological research library. Binh Thanh tower temple was determined to be born around the 8th-9th centuries, belonging to the Oc Eo culture. After more than a thousand years of age and countless changes of the times, Binh Thanh ancient tower still retains almost intact its special architecture, being an important part of the nation's cultural heritage. Located on high and quite flat land, the ancient tower is hidden beneath rows of lush green trees, providing an extremely poetic, wild, mysterious, but equally pure and peaceful scene. solemn. Binh Thanh ancient tower has great historical value and is extremely precious to the nation's architectural heritage, because this is the only tower that has still kept its stone walls almost intact since its discovery. [But Thap Pagoda – A unique pagoda that preserves four national treasures] The construction techniques of Binh Thanh temples and towers are quite similar to Cham temples and towers in the Central region, using fired bricks stacked skillfully and extremely tightly, without using adhesive materials. However, the unfortunate thing is that this construction technique has been lost so far. Many scientists and archaeologists have tried to find it, but still have no answer. Overall view from the back side of Binh Thanh ancient tower. (Photo: Thanh Tan/TTXVN) The overall architecture of Binh Thanh ancient tower includes three main towers, however only one tower remains intact due to restoration in 1998, while the remaining two towers are only vestiges. The ancient tower is 10 meters high, built on a square foundation, with each side 5 meters long facing the four directions east, west, south, and north. The main door of the tower faces East, protruding completely, 1 meter wide, 2 meters high. Above the main door is a rectangular stone slab 2 meters wide and 0.8 meters high carved with extremely sophisticated stylized chrysanthemums. The walls of the main door are also carved with embossed reliefs. Visitors learn about the process of forming Binh Thanh ancient tower In addition, the West, South, and North doors all have fake doors, embossed with extremely delicate and elaborate patterns. Looking closely at the walls of the tower, you can see that the bricks are stacked extremely tightly, without using any adhesive. This is the extremely talented construction technique of the ancient Champa people. Over time, ancient moss covered the walls of the ancient tower, bringing... traveler feeling of nostalgia. The sophistication and ingenuity of the builders is also shown through the patterns and reliefs carved into the images of gods, flowers, birds, etc., which are extremely sophisticated, elaborate, and especially beautiful. highly symbolic. The decorative motifs are repeated in gradually shrinking parts to the top of the tower, giving the entire tower many corners and edges. In addition to the reliefs embossed around the tower, the entire structure is The tower is a solid and elaborate structure. Binh Thanh Tower was built by the Ministry of Culture and Information (now the Ministry of Culture, Sports and Tourism). Tourism ) recognized as a Cultural and Historical Relic in 1993. In 1995, Binh Thanh communal house was also built next to the ancient tower. The State and Tay Ninh province have repeatedly repaired the ancient tower to preserve one of the nation's cultural heritages. Not just value history , architecture, but the relics of Binh Thanh ancient tower also contain many special values ​​​​about the cultural life, religion, and beliefs of the ancients. Ingenious construction and sculpture techniques reflect the pinnacle of development Oc Eo culture . Historians, cultural scientists, and archaeologists are constantly exploring and researching to further discover the unique values ​​of this ancient relic. Because sculpture technique On top of that, Binh Thanh Tower has become one of the impressive tourist destinations in Tay Ninh, attracting a large number of tourists to visit to better understand Oc Eo culture - a part of the cultural and historical value of the people. today's race./.
Vóc dáng di sản qua nghiên cứu khai quật khảo cổ học Óc Eo – Ba Thê, Nền Chùa Những cuộc khai quật thuộc đề án Nghiên cứu di tích Óc Eo – Ba Thê, Nền Chùa (Văn hóa Óc Eo Nam bộ) đã diễn ra từ tháng 8.2017 đến nay, kết quả khai quật di tích Óc Eo – Ba Thê, Nền Chùa vừa được công bố cho thấy tầm vóc của di sản này. Theo TS. Nguyễn Gia Đối, Quyền Viện trưởng Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho biết: Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật, nghiên cứu khảo cổ học tại các địa điểm: chùa Linh Sơn, Linh Sơn Bắc, gò Óc Eo , gò Giồng Trôm và gò Giồng Cát. Từ 5 địa điểm nghiên cứu trên đã có khoảng trên 50 di tích được phát hiện. Nhóm các di tích giai đoạn từ thế kỷ 1 – 4 được phát hiện ở các địa điểm: chùa Linh Sơn, Linh Sơn Bắc, gò Giồng Trôm và gò Giồng Cát. Trong đó, tại Linh Sơn Bắc, các nhà khảo cổ phát hiện kết cấu kiến trúc bao xung quanh bằng gạch chữ nhật vỉa nghiêng. Phủ trực tiếp lên di tích là lớp ngói ảnh hưởng của Ấn Độ. Cách dấu tích này khoảng 3 m về phía đông bắc đã phát hiện 1 phù điêu bằng đá granit chạm khắc hình tượng phật đang ngồi, tay chắp trước ngực. Phía dưới có 3 chữ Sankrit. Phù điêu cao gần 1 m, rộng từ 0,65 – 0,74 m, dày 0,3 m. Có khả năng bức phù điêu này được đặt trong một đền thờ. Đây là một kiến trúc có quy mô không lớn nhưng được xây dựng quy chỉnh. Khai quật cũng làm phát lộ các di tích giai đoạn từ thế kỷ 5 – 7. Chẳng hạn, đã phát hiện một kiến trúc và một tấm bia bằng đá sa thạch chạm khắc chữ ở cả hai mặt. TS Phạm Văn Triệu (Viện Khảo cổ) cho biết bia được tạo dáng hình cánh sen, đỉnh bia tạc hoa văn bông sen nở cao 64 cm, dày 8 cm. Mặt trước bia chạm khắc chữ Sankrit, mặt sau chữ Khmer cổ. Nội dung bia đề cập đến việc vua Jayavarman I (nửa đầu thế kỷ 7) đề ra nguyên tắc quyên góp xây dựng tu viện Phật giáo (Vihara) tên là Candana. Các nhà khảo cổ cho rằng bước đầu có thể thấy kiến trúc và bia liên quan đến tu viện Phật giáo xây dựng dưới triều Jayavarman I. Ngoài các phát hiện di vật tìm được ở trên, các nhà khảo cổ cũng thu về nhiều di vật khác, trong đó, các hiện vật tiêu biểu là nhóm di vật ngói Ấn Độ, gương đồng thời Đông Hán và nhẫn vàng có hình bò thần Nandin. Nhóm di vật ngói Ấn Độ là nhóm ngói phẳng lợp thân mái dạng hình chữ nhật, mặt ngói phẳng. Mặt ngói có các rãnh lõm để thoát nước, phần đuôi ngói có thể được tạo lỗ tròn để buộc dây hoặc đóng đinh, phần mũi ngói được cắt bằng. Mặt dưới được tạo một rãnh ở sát một cạnh dọc của viên ngói nhằm khớp nối với một viên ngói khác khi lợp trên mái. Gương đồng thời Đông Hán có mặt soi tạo nhẵn bóng hơi cong. Mặt bên được trang trí hoa văn chạm nổi, ở chính giữa là một núm tròn nổi khá cao có lỗ xuyên ngang. Từ núm tròn này ra phía ngoài của gương có 4 khoảng hoa văn. Gương cũng có chữ “Nhật nhật thiên vương”. Nhẫn kim loại màu vàng được đúc nguyên khối, phía trên là hình ảnh bò thần Nandin (vật thiêng để cưỡi của thần Shiva) được tạo hình theo phong cách tả thực tai, mắt, sừng, móng, chùm lông ở đuôi. Hai bên thành nhẫn phía sau và phía trước của bò Nandin được trang trí hoa văn cánh hoa sen hay hình lá cây trông như hình chiếc đinh ba. Nhận diện vóc dáng di sản thế giới Theo TS. Nguyễn Gia Đối, qua khai quật có thể bước đầu nhận diện về giao lưu văn hóa, nhiều yếu tố thuộc văn hóa Ấn Độ đã hội nhập tạo nên bản sắc văn hóa Óc Eo. Chẳng hạn, ngói có ảnh hưởng từ Ấn Độ, địa điểm xây dựng tuân thủ theo giáo lý lấy hướng đông làm chủ đạo. Những thần linh như đức Phật, thần Visnu được thờ phụng đã cho thấy mối quan hệ với văn hóa Ấn Độ là hằng số thường xuyên trong lịch sử. Đây cũng chính là bản sắc của văn hóa Óc Eo. Còn theo TS. Nguyễn Khánh Trung Kiên, Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ, lại phân tích các nghiên cứu hạt thực vật còn để lại trong tầng văn hóa các hố khai quật. Nghiên cứu bước đầu cho thấy cư dân cổ Óc Eo đã trồng lúa, bầu bí, đậu, cà na. Các loại thực vật trong khu cư trú không đa dạng, chủ yếu là cây ăn quả, tìm thấy rất ít cây hoang dại. Ghi nhận này bước đầu gợi mở khả năng liên quan đến tính chất làng mạc hay đô thị đã được người cổ Óc Eo “quy hoạch” với các không gian trồng cây có chủ đích. Qua đó, TS. Nguyễn Khánh Trung Kiên cho rằng: “Các nghiên cứu cho thấy bức tranh khu di tích Óc Eo – Ba Thê rõ nét hơn với tính chất của một đô thị cổ được vận hành bằng kinh tế nông nghiệp với sản vật lúa, gạo, bầu bí, cây họ đậu và cả thương nghiệp”. PGS.TS. Bùi Chí Hoàng, Ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia, đề nghị cần quy hoạch núi Ba Thê là một phần trong không gian di sản Óc Eo – Ba Thê. Đây là ngọn núi thiêng trong không gian văn hóa của đô thị cổ Óc Eo. Dự án khảo cổ học cũng cho thấy việc các di tích gắn với núi Ba Thê này. PGS.TS. Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ, cho biết qua khai quật cũng đã thấy những thông tin nổi bật để làm hồ sơ di sản trình UNESCO. Chẳng hạn, tiêu chí chứa đựng một minh chứng duy nhất hoặc ít nhất cũng hết sức khác biệt về một truyền thống văn hóa hay một nền văn minh hiện vẫn tồn tại hoặc đã diệt vong. Theo PGS.TS. Tống Trung Tín, nhiều di tích và di vật tìm thấy tại khu di sản Óc Eo – Ba Thê đã minh chứng nền văn minh đặc sắc đạt trình độ rất cao của và Đông Nam Á trong khoảng thế kỷ 1 – 7. Trước khi các kết quả nghiên cứu được công bố, Phó thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam chỉ đạo, căn cứ kết quả của đề án nghiên cứu khảo cổ học này để Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch hướng dẫn UBND tỉnh An Giang lập hồ sơ đề cử di sản thế giới. Trong đó cần lưu ý về tiêu chí, tính toàn vẹn, tính xác thực và yêu cầu về bảo vệ, quản lý đối với quần thể di tích này. Ban Biên tập (tổng hợp)
The shape of the heritage through archaeological excavation research of Oc Eo - Ba The, Pagoda Foundation Excavations under the project Research on Oc Eo - Ba The relics, Pagoda Foundation (Southern Oc Eo Culture) have taken place from August 2017 to present, the results of excavation of Oc Eo - Ba The relics, Pagoda Foundation just announced shows the stature of this heritage. According to Dr. Nguyen Gia Doi, Acting Director of the Institute of Archeology under the Academy of Social Sciences Vietnam said: The Institute of Archeology has conducted excavations and archaeological research at the following locations: Linh Son Pagoda, Linh Son Bac, Mound Oc Eo , Giong Trom mound and Giong Cat mound. From the above 5 research locations, about 50 relics have been discovered. The group of relics from the 1st to 4th centuries was discovered in the following locations: Linh Son pagoda, Linh Son Bac, Giong Trom mound and Giong Cat mound. Among them, at Linh Son Bac, archaeologists discovered an architectural structure surrounded by rectangular bricks with inclined seams. Apply directly relics is a layer of Indian influence. About 3 m northeast of this vestige, a granite relief was discovered carved with a sitting Buddha image, hands clasped in front of his chest. Below are 3 Sanskrit words. The relief is nearly 1 m high, 0.65 - 0.74 m wide, and 0.3 m thick. It is likely that this relief was placed in a temple. This is a yes architecture scale Not big but built properly. Excavation also revealed relics from the 5th - 7th centuries. For example, an architecture and a sandstone stele with engraved words on both sides were discovered. Dr. Pham Van Trieu (Institute of Archeology) said that the stele is shaped like a lotus petal, the top of the stele is carved with a blooming lotus pattern, 64 cm high and 8 cm thick. The front of the stele is engraved with Sanskrit letters, the back with ancient Khmer letters. The content of the stele mentions that King Jayavarman I (first half of the 7th century) proposed the principle of donating money to build a monastery. Buddhism (Vihara) name is Candana. Archaeologists believe that initially we can see architecture and steles related to the Buddhist monastery built during the reign of Jayavarman I. In addition to the relics found above, archaeologists also recovered many other relics, of which typical artifacts are Indian tile relics, Eastern Han mirrors and gold rings shaped like cows. God Nandin. The Indian tile relic group is a group of flat tiles with rectangular roofs and flat tile surfaces. The tile surface has concave grooves for drainage, the tail of the tile can have round holes for tying rope or nailing, and the tip of the tile can be cut flat. The bottom surface is made with a groove close to one vertical edge of the tile to connect with another tile when roofing. Eastern Han mirrors have a smooth, slightly curved surface. The side is decorated with an embossed pattern, in the middle is a fairly high embossed round knob with a horizontal hole. From this round knob to the outside of the mirror there are 4 pattern spaces. The mirror also has the words "Heaven of the Sun". The yellow metal ring is cast in one piece, above is the image of the sacred bull Nandin (the sacred riding object of the god Shiva) shaped in a realistic style of ears, eyes, horns, hooves, and tail plume. The two sides of the ring, the back and front of the Nandin cow, are decorated with lotus petal or leaf patterns that look like a trident. Identify the world heritage body According to Dr. Nguyen Gia Doi, through excavations, we can initially identify cultural exchanges, many elements of Indian culture have integrated to create Oc Eo cultural identity. For example, the tiles are influenced by India, and the construction site follows the teachings of taking the east direction as the dominant direction. The worship of gods such as Buddha and Visnu shows that the relationship with Indian culture is a constant in history. This is also the identity of Oc Eo culture. According to Dr. Nguyen Khanh Trung Kien, Institute of Social Sciences of the Southern Region, analyzed research on plant seeds left in the cultural layer of excavation pits. Initial research shows that Oc Eo ancient residents grew rice, gourds, beans, and cannabis. The types of plants in the residential area are not diverse, mainly fruit trees, with very few wild plants found. This record initially suggests the possibility that the village or urban nature was "planned" by the ancient Oc Eo people with spaces for intentionally planting trees. Through that, Dr. Nguyen Khanh Trung Kien said: "Research shows that the picture of Oc Eo - Ba The relic site is clearer with the nature of an ancient urban area operated by agricultural economy with products of rice, rice, gourds, etc. squash, legumes, and even commerce." Associate Professor, PhD. Bui Chi Hoang, member of the National Heritage Council, suggested that Ba The mountain should be planned as part of the Oc Eo - Ba The heritage space. This is a sacred mountain in the cultural space of Oc Eo ancient town. The archaeological project also showed that the relics are associated with this Ba The mountain. Associate Professor, PhD. Tong Trung Tin, Chairman of the Archaeological Association, said that through excavations, outstanding information has been found to prepare a heritage dossier for submission to UNESCO. For example, the criterion contains a unique or at least highly distinct demonstration of a cultural tradition or civilization that is still alive or extinct. According to Associate Professor, PhD. Tong Trung Tin, many relics and relics found at the Oc Eo - Ba The heritage site have demonstrated the unique civilization of very high levels in Southeast Asia between the 1st and 7th centuries. Before the research results were announced, Deputy Prime Minister Vu Duc Dam directed, based on the results of this archaeological research project, the Ministry of Culture - Sports - Tourism to guide the Provincial People's Committee. An Giang Prepare a dossier for world heritage nomination. It is necessary to pay attention to the criteria, integrity, authenticity and protection and management requirements for this relic complex. Editorial board (synthetic)
Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp Vị anh hùng dân tộc – Đại tướng đầu tiên của nước Việt Nam đã ra đi nhưng những chiến công lịch sử , những công lao vĩ đại của ông vẫn mãi đọng lại trong ký ức của người Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 – 25/8/2021), hãy cùng điểm lại những dấu ấn về thân thế, sự nghiệp của Người. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh Võ Giáp, bí danh là Văn, sinh ngày 25/8/1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy , tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho nghèo, giàu lòng yêu nước. Từ năm 1925 đến 1926, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào học sinh ở Huế , năm 1927 tham gia Đảng Tân Việt cách mạng (một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam); năm 1930, bị địch bắt và kết án 2 năm tù. Sau khi ra tù, đồng chí tiếp tục hoạt động tuyên truyền, gây dựng cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh; năm 1936, hoạt động trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội ; là biên tập viên báo của Đảng như: “Tiếng nói của chúng ta”, “Tiến lên”, “Tập hợp”, “Thời báo”, “Tin tức”…; tham gia phong trào Đông Dương đại hội; được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp (đứng hàng thứ 2 từ trên xuống, từ trái qua, người thứ 4) cùng một số sinh viên trường Luật ở Hà Nội năm 1937. Ảnh tư liệu BTLSQG Tháng 6/1940, đồng chí Võ Nguyên Giáp được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử sang Trung Quốc gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đầu năm 1941, đồng chí về nước, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao – Bắc – Lạng; năm 1942, phụ trách Ban xung phong Nam tiến, tuyên truyền giác ngộ Nhân dân, tổ chức con đường quần chúng từ Cao Bằng về Thái Nguyên. Tháng 12/1944, đồng chí được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân – Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam . Tháng 4/1945, tại Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, đồng chí được cử vào Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Từ tháng 5/1945, đồng chí là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; tháng 6/1945, được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng Việt Bắc. Tháng 8/1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương cử vào Ban Chấp hành Trung ương và là Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, đồng chí được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam; là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc hội lập tháng 11-1946. Trong ảnh Đ.c Võ Nguyên Giáp đứng hàng thứ 2, vị trí thứ 2 từ phải sang. Ảnh tư liệu BTLSQG Tháng 1/1946, đồng chí được bầu là đại biểu Quốc hội khóa I; tháng 3/1946, là Chủ tịch Quân sự ủy viên Hội, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10/1946, đồng chí là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam (Đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng từ 10/1946 – 8/1947; 8/1948 – 12/1979). Tháng 1/1948, đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, đồng chí là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tháng 9/1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương. Từ tháng 1/1980, đồng chí là Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ). Đồng chí liên tục được bầu làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII. Đồng chí từ trần vào lúc 18 giờ 9 phút ngày 04/10/2013 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108; hưởng thọ 103 tuổi. Do công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế. HQVN (Tổng hợp)
The life and career of General Vo Nguyen Giap The national hero - the first General of Vietnam - has passed away but still has many victories history , his great achievements still remain in the memories of Vietnamese people. On the occasion of the 110th birthday anniversary of General Vo Nguyen Giap (August 25, 1911 - August 25, 2021), let's review the highlights of his life and career. General Vo Nguyen Giap, whose birth name was Vo Giap, alias Van, was born on August 25, 1911 in An Xa village, Loc Thuy commune, district Lishui , conscious Quang Binh in a poor, patriotic Confucian family. From 1925 to 1926, Vo Nguyen Giap participated in the student housing movement Hue , in 1927 joined the revolutionary Tan Viet Party (a predecessor organization of the Indochina Communist Party, now the Communist Party of Vietnam); In 1930, he was captured by the enemy and sentenced to 2 years in prison. After being released from prison, he continued propaganda activities and built a revolutionary base among young people and students; In 1936, he became active in the Party's semi-legal democratic movement Hanoi ; is the editor of the Party's newspapers such as: "Our Voice", "Forward", "Gathering", "Times", "News"...; participating in the Indochina Congress movement; was elected Chairman of the Tonkin Press Committee. Comrade Vo Nguyen Giap (2nd row from top, 4th person from left) with some Law School students in Hanoi in 1937. Documentary photo of National Archives In June 1940, comrade Vo Nguyen Giap was admitted to the Indochina Communist Party and sent to China to meet Leader Nguyen Ai Quoc. In early 1941, he returned home and participated in the preparation of an armed uprising at the Cao - Bac - Lang base; In 1942, he was in charge of the Southern Advancement Campaign Committee, propagating and enlightening the people, and organizing the mass road from Cao Bang to Thai Nguyen. In December 1944, he was assigned by Leader Nguyen Ai Quoc to establish the Vietnam Liberation Army Propaganda Team - the first main army of the People's Army. Vietnam . In April 1945, at the Tonkin Revolutionary Military Conference, he was appointed to the Tonkin Revolutionary Military Committee. From May 1945, he was the Commander of the new revolutionary armed forces, unified into the Vietnam Liberation Army; In June 1945, Leader Nguyen Ai Quoc assigned the task of establishing the Provisional Command Committee of the Viet Bac Liberation Zone. In August 1945, comrade Vo Nguyen Giap was appointed by the National Conference of the Indochina Communist Party to the Central Executive Committee and was a Standing Member of the Party Central Committee, participating in the National Uprising Committee. At the Tan Trao National Congress, he was elected to the National Committee for the Liberation of Vietnam; was Minister of Home Affairs in the Provisional Government of the Democratic Republic of Vietnam (now the Socialist Republic of Vietnam) and was added to the Standing Committee of the Party Central Committee. The Government of the Democratic Republic of Vietnam was established by the National Assembly in November 1946. In the photo, Colonel Vo Nguyen Giap is in the second row, second from the right. File photo of National Archives In January 1946, he was elected as a delegate to the 1st National Assembly; March 1946, was Chairman of the Military Association, Member of the Coalition Government; When establishing the Central Military Commission, he was appointed Secretary of the Central Military Commission. In October 1946, he was Minister of National Defense, authorized by President Ho Chi Minh to be the General Commander of the People's Army and Vietnam Militia (He was Minister of National Defense since October 1946). – August 1947; August 1948 – December 1979). In January 1948, comrade Vo Nguyen Giap was awarded the military rank of General, Commander-in-Chief of the Vietnam People's Army. In February 1951, at the Second National Congress of the Party, he was elected a member of the Central Executive Committee and elected by the Central Executive Committee to the Politburo. From September 1955 to December 1979, he was Deputy Prime Minister and Minister of National Defense. In September 1960, at the Third National Congress of the Party, he was re-elected to the Central Executive Committee and elected by the Central Executive Committee to the Politburo. In December 1976, at the Fourth National Congress of the Party, he was re-elected to the Central Executive Committee and elected by the Central Executive Committee to the Politburo. At the 5th and 6th National Congress of the Party, he was re-elected to the Central Executive Committee. Since January 1980, he has been the permanent Deputy Prime Minister; from April 1981 to December 1986, was Vice Chairman of the Council of Ministers (now Deputy Prime Minister). He was continuously elected as a National Assembly Delegate from term I to term VII. Comrade passed away at 6:09 p.m. on October 4, 2013 at Central Military Hospital 108; 103 years old. Due to his great contributions to the revolutionary cause of the Party and the nation, and great prestige at home and abroad, General Vo Nguyen Giap was awarded the Gold Star Medal, Ho Chi Minh Medal, and Medal of Honor by the Party and State. 70-year Party badge and many other noble orders and medals from Vietnam and internationally. HQVN (Summary)
Triệu Việt Vương với sự nghiệp dựng nước và giữ nước Triệu Quang Phục, người huyện Chu Diên ( Khoái Châu , Hưng Yên ), ông sinh giờ Dần, ngày 6 tháng Giêng năm Giáp Thìn (524). Cha ông là Thái phó Triệu Túc, bà mẹ tên là Nguyễn Thị Hựu. Triệu Quang Phục (sau này xưng vương lấy hiệu là Triệu Việt Vương) đã trị vì nước Vạn Xuân từ năm 548 đến năm 571. Năm 541, Triệu Quang Phục tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế (Lý Bí) được trao chức Tả tướng quân. Tháng 5 năm 545, quân Lương do Dương Phiêu và Trần Bá Tiên chỉ huy lại sang đánh Vạn Xuân. Lý Nam Đế thua trận, lui vào động Khuất Lạo. Trước khi mất, Lý Nam Đế trao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục. Nhận sự ủy thác, Triệu Quang Phục đem quân về xây dựng căn cứ ở đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Sự kiện này trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại. Nhưng quân của Bá Tiên rất đông, Quang Phục liệu thế không chống nổi bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch. Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được. Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc, không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết”. Giáo sư Sử học Lê Văn Lan nghiên cứu bài vị của Vua Triệu Việt Vương tại Đền hóa Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên). Ảnh: HỮU TÍNH Có được căn cứ địa hiểm trở, Triệu Quang Phục đã sử dụng lối du kích, ngày ngày ông đều cùng quân sĩ luyện tập. Ban ngày tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đêm đến dùng thuyền độc mộc đem quân tập kích bất ngờ vào các doanh trại và các cuộc hành binh của quân Lương. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Quang Phục thuộc đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày tuyệt không để lộ khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh, nhưng không đánh được. Người trong nước gọi là Dạ Trạch vương”. Lối đánh này mang lại hiệu quả cao, làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch, làm cho uy thế của Triệu Quang Phục ngày càng lừng lẫy , người dân tôn ông là Dạ Trạch vương. Triệu Quang Phục xưng vương lấy hiệu là Triệu Việt Vương, tiếp tục cùng bách tính Vạn Xuân dựng nước và giữ nước. Nhân cơ hội nhà Lương suy yếu, Triệu Việt Vương mở một loạt cuộc tấn công vào quân Lương và thu về toàn thắng. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Vua tung quân ra đánh. Sàn chống cự, thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Nước ta được yên. Vua vào thành Long Biên ở. Như thế chỉ trong vòng 8 năm (542-550), Lý Bí, Triệu Quang Phục đã hai lần đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nước. Nhà nước Vạn Xuân trải qua những năm tháng gian nan nhất, tưởng như bị tiêu diệt hoàn toàn, lại được độc lập và có điều kiện tiếp tục dựng xây”. Năm 557, Lý Phật Tử, người họ hàng của Lý Nam Đế, từ động Dã Năng kéo quân về gây chiến với Triệu Việt Vương. Sau nhiều lần đánh nhau bất phân thắng bại, hai bên giảng hòa, chia nhau đất đai, lấy bãi Quần Thần (vùng Thượng Cát, Hạ Cát, thuộc Từ Liêm, Hà Nội) làm địa giới. Lý Phật Tử chủ động xin kết hôn mối thông gia với Triệu Quang Phục. Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “Vua nghĩ rằng Phật Tử là người họ của Lý Nam Đế, không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới ở bãi Quần Thần cho ở phía Tây của nước, [Phật Tử] dời đến thành Ô Diên (xã ấy có đền thờ thần Bát Lang, tức là đền thờ Nhã Lang vậy)”. Triệu Quang Phục đã gả con gái là Cảo Nương cho Nhã Lang là con trai của Lý Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu với nhau. Năm 571, Lý Phật Tử bất ngờ tiến quân đánh úp. Quân Triệu Việt Vương thua chạy về phía cửa sông Đáy, cùng đường ông phải tự tử tại cửa biển Đại Nha (khu vực Độc Bộ, Nghĩa Hưng, Nam Định). Người đời sau lập nhiều đền thờ ông. Hiện nay, trong đền Hóa Dạ Trạch ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, ngoài thờ Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân, còn phối thờ Triệu Quang Phục. Tại xã An Vĩ, huyện Khoái Châu có một đền thờ riêng Dạ Trạch vương và các vị tướng phù giúp ông đánh giặc. Đây là ngôi đền duy nhất ở tỉnh Hưng Yên thờ vua Triệu và đang được nâng cấp. Hằng năm, ngày 12-8 âm lịch-ngày Triệu Quang Phục tế cờ ra trận đánh giặc, người dân lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ tới vị thành hoàng của làng. Lịch sử đã lùi xa, những gì còn lại về thân thế của Triệu Việt Vương đáng để hậu thế kính ngưỡng và cảm phục vị anh hùng dân tộc. MINH ĐẠO
Trieu Viet Vuong with his career of building and defending the country Trieu Quang Phuc, from Chu Dien district ( Khoai Chau , hung Yen ), he was born at the hour of the Tiger, on January 6, the year Giap Thin (524). His father was Viceroy Trieu Tuc, and his mother's name was Nguyen Thi Huu. Trieu Quang Phuc (later proclaimed king and took the title Trieu Viet Vuong) ruled Van Xuan from 548 to 571. In 541, Trieu Quang Phuc participated in the uprising of Ly Nam De (Ly Bi) and was awarded the position of General of the Left. In May 545, the Liang army led by Duong Phieu and Tran Ba ​​Tien again attacked Van Xuan. Ly Nam De lost the battle and retreated to Khuat Lao cave. Before his death, Ly Nam De handed over military power to Trieu Quang Phuc. Receiving the mandate, Trieu Quang Phuc brought troops to build a base in Da Trach lagoon (Man Tro beach, Khoai Chau district, Hung Yen province). Event In the Complete Annals of Dai Viet, it is recorded: "Trieu Quang Phuc held out against Tran Ba ​​Tien, without deciding victory or defeat. But Ba Tien's army was very large, Quang Phuc could not resist, so he retreated to defend Da Trach lagoon. This lagoon is in Chu Dien district, the circumference is unknown for many miles, it is overgrown with trees, covered with bushes, in the middle there is high ground that can be lived in, all four sides are muddy, it is difficult for people and horses to walk, only using boats. A small dugout uses a pole to glide across the grass and water to reach it. But if you don't know the way, you will get lost, not knowing where you are. If you fall into the water, you will be bitten by a poisonous snake and die." Professor of History Le Van Lan studies the tablet of King Trieu Viet Vuong at Da Trach Hoa Temple (Khái Chau, Hung Yen). Photo: HUU TINH Having a rugged base, Trieu Quang Phuc used a guerrilla style, training with his soldiers every day. During the day, all the fire and smoke were extinguished, it was as quiet as if there was no one there. At night, dugout boats were used to launch surprise raids on the barracks and military operations of the Luong army. Complete History of Dai Viet wrote: "Quang Phuc, along the way, brought more than 20,000 people to camp on the ground in the lagoon. During the day, he absolutely did not reveal fire or smoke or human traces. At night, he used dugout boats to lead the troops." went out to attack the Ba Tien army's camp, killed and captured many people, and took food to plan for a long-term resistance. Ba Tien tried to attack, but could not hit. People in the country call him Da Trach Vuong. This fighting style is highly effective, changing the relationship of forces between us and the enemy, making Trieu Quang Phuc's prestige increasingly stronger. illustrious , people respected him as King Da Trach. Trieu Quang Phuc proclaimed himself king and took the title Trieu Viet Vuong, continuing with the people of Van Xuan to build and defend the country. Taking the opportunity of the Liang dynasty to weaken, King Trieu Viet launched a series of attacks on the Liang army and achieved complete victory. The complete history of Dai Viet records: “The king sent his army out to fight. The floor resisted, lost and died. The Liang army broke up and fled to the North. Our country is at peace. The king entered Long Bien citadel to live. Thus, in just 8 years (542-550), Ly Bi and Trieu Quang Phuc twice drove foreign invaders out of the country and regained autonomy throughout the country. The Van Xuan State went through the most difficult years, seemingly being completely destroyed, but was independent and had the conditions to continue building. In 557, Ly Phat Tu, a relative of Ly Nam De, pulled troops from Da Nang cave to wage war against King Trieu Viet. After many inconclusive fights, the two sides reconciled, divided the land, using Quan Than beach (Thuong Cat and Ha Cat areas, Tu Liem, Hanoi) as the boundary. Ly Phat Tu proactively asked for a marriage with Trieu Quang Phuc. Complete History of Dai Viet recorded: "The king thought that the Buddhists were Ly Nam De's relatives. He could not bear to refuse, so he divided the territory at Quan Than beach to the west of the country, and [the Buddhists] moved to the city. O Dien (that commune has a temple worshiping the god Bat Lang, that is, the temple of Nha Lang)". Trieu Quang Phuc married his daughter Cao Nuong to Nha Lang, Ly Phat Tu's son, to show their filial love for each other. In 571, Ly Phat Tu suddenly advanced and attacked. Trieu Viet Vuong's army lost and fled towards Day River estuary. Along the way, he had to commit suicide at Dai Nha estuary (Doc Bo area, Nghia Hung, Nam Dinh). Later generations built many temples to worship him. Currently, in Hoa Da Trach temple in Khoai Chau district, Hung Yen province, in addition to worshiping Chu Dong Tu and his two wives, they also worship Trieu Quang Phuc. In An Vi commune, Khoai Chau district, there is a separate temple to worship King Da Trach and the generals who helped him fight the enemy. This is the only temple in Hung Yen province worshiping King Trieu and is being upgraded. Every year, on the 12th day of the 8th lunar month - the day Trieu Quang Phuc sacrifices the flag to fight the enemy, people organize a festival to commemorate the village's tutelary god. History has receded, what remains of Trieu Viet Vuong's background is worthy of posterity's respect and admiration for the national hero. MINH DAO
Di tích lịch sử Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế Di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế nằm trên địa bàn 4 huyện liền kề nhau: Yên Thế , Tân Yên , Việt Yên , Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang . Khởi nghĩa nông dân Yên Thế là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Đề Nắm là một trong những tướng lĩnh đầu tiên lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa. Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) xuất hiện với vai trò là thủ lĩnh tiếp theo đã đưa cuộc khởi nghĩa lên tầm và quy mô lớn, người mà chính giới Pháp cũng phải thừa nhận, “Mỗi thế kỷ chỉ xuất hiện một lần mà thôi”. Di tích liên quan đến cuộc Khởi nghĩa được phân bố trên một địa bàn rộng lớn, bao gồm những công trình kiến trúc cổ có liên quan đến hoạt động của nghĩa quân (đình, chùa, đền, miếu có niên đại khởi dựng vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX) cùng các địa điểm, đồn lũy liên hoàn của nghĩa quân, tiêu biểu là: 08 ngôi đình, 07 chùa, 06 đền, 03 đồn, 01 điếm, 01 nghè, 01 động và 05 địa điểm. Trong đó, có 23 điểm di tích đã được xếp hạng di tích quốc gia, phản ánh sinh động quá trình xây dựng lực lượng, tổ chức chiến đấu của nghĩa quân từ những ngày đầu tiên, tới những ngày cuối cùng. 1. Đình Dĩnh Thép : là nơi diễn ra Hội nghị ghi dấu thời điểm củng cố lại tổ chức của Nghĩa quân năm 1888, sau những thất bại ban đầu. Đây cũng là nơi Hoàng Hoa Thám qua lại những năm tháng cuối đời. 2. Chùa Lèo : là địa điểm liên lạc và làm nơi đón khách của nghĩa quân. Thời kỳ hoà hoãn lần thứ hai (1897 – 1909), chùa Lèo giữ vai trò là vị trí tiền tiêu, quan sát các bước xâm nhập của thực dân Pháp vào đồn Phồn Xương; được Đề Thám tu bổ và trở thành trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của nghĩa quân cùng nhân dân địa phương. 3. Đền Thề : là nơi tổ chức hội thề của nghĩa quân. Lễ Cầu may rằm tháng Giêng chính là dịp Đề Thám thăm viếng các thân nhân, tử sĩ của nghĩa quân. 4. Đồn Hố Chuối: là căn cứ lớn, nơi phòng thủ kiên cố, tập trung nhiều nghĩa quân và có vai trò quan trọng nhất cuộc khởi nghĩa; là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt giữa nghĩa quân và quân Pháp. 5. Chùa Thông : ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn với cuộc khởi nghĩa; là nơi ký Hiệp ước điều đình giữa nghĩa quân và thực dân Pháp. Lễ hội chùa được tổ chức hàng năm vào ngày 15-16/3 (Dương lịch). 6. Đồn Phồn Xương ( đồi Gồ, đồi Cụ) : xây dựng năm 1896. Phía sau Đồn là doanh trại, chiến lũy của nghĩa quân. Đề Thám đã cho xây dựng một bát quái trận với nhiều đồn lũy thông nhau; là nơi trấn giữ con đường độc đạo vào căn cứ; là đại bản doanh, nơi giao dịch của nghĩa quân với khách. 7. Đồn Hom : xây dựng năm 1891; có 4 đồn được xây dựng trên 4 ngọn núi hiểm trở trong dãy núi Cai Kinh bao bọc khu Đồng Khách. Đồn Hom là căn cứ an toàn của cuộc khởi nghĩa. Tại đây đã diễn ra hai trận chiến đấu nổi tiếng vào tháng 3/1892 và tháng 2/1909, đặc biệt là chiến thắng của nghĩa quân ngày 25/3/1892. 8. Động Thiên Thai : là một trong “Thất diệu đồn điền” do Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (1875 – 1929) lập ra. Thất diệu đồn điền được bố trí tựa như 7 ngôi sao sáng của chòm sao Bắc Đẩu, gồm bảy khu (hay bảy trại): nhất, nhì, ba, tư, năm, sáu và khu Động Thiên Thai. 9. Đền Cầu Khoai (đền Cô) : là căn cứ được xây dựng năm 1524; thờ 2 người con gái của Đàm Thuận Huy (vị quan thanh liêm, chính trực thời Lê Thánh Tông, người có nhiều công lao với nhân dân vùng đương thời) là: bà Đàm Thị Dung Hoa và bà Đàm Thị Quế Hoa. Lễ hội Đền được tổ chức vào ngày 23 tháng Giêng. 10. Đình Đông : là nơi Hoàng Hoa Thám đã cùng hơn 400 binh sỹ làm lễ tế cờ xuất trận; được xây dựng từ thời Hậu Lê; thờ Trương Hống, Trương Hát; còn giữ được nhiều tài liệu, hiện vật cổ, quý giá như: các bức hoành phi, đại tự, câu đối, hương án, bài vị, hòm đựng sắc và một số đồ thờ bằng gỗ khác. 11. Chùa Kem (Sùng Nham tự) : là nơi Đề Thám cùng nghĩa quân đã về đóng quân và đắp luỹ, làm tường thành, làm nhà, luyện tập quân sự. Dấu tích còn lưu lại là: tường luỹ, nền nhà quan, giếng quan, trạm gác, cột cờ. Chùa còn là nơi để chiêu binh đánh Tây, cất dấu lương thực, vũ khí và hội họp. 12. Khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám (gồm có đình, đền, chùa, điếm, cố trạch và phần mộ người thân của Hoàng Hoa Thám) gồm: Đình làng Trũng thờ Thánh Cao Sơn và Quý Minh Đại vương. Sau khi Đề Thám mất, nhân dân địa phương đã thờ Ông ở trong đình cùng với Thành Hoàng làng. Đình nay chỉ còn lại nền móng. Chùa làng Trũng xưa được xây dựng ở phía sau đình. Sau khi Hoàng Hoa Thám mất, đình Trũng bị hư hỏng, nhân dân địa phương đã đưa Ông vào phối thờ trong chùa. Đền thờ Hoàng Hoa Thám: là nơi thờ phụng, tưởng niệm Đề Thám. Điếm làng Trũng: Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế thất bại, Đại Trận và Đề Thám mất, nhân dân làng Trũng đã thờ hai ông ở đây. Nhân dân địa phương đã đúc tượng chân dung hai vị để thờ. Nơi ở của danh nhân Hoàng Hoa Thám thời niên thiếu: là nơi Đề Thám sống thuở nhỏ và lui về trong giai đoạn khởi nghĩa; có tấm bia lưu danh. Khu phần mộ thân tộc của Hoàng Hoa Thám được xây dựng phía trước chùa, cạnh đền. 13. Cụm di tích Cầu Vồng (đình, chùa, đền, nghè Vồng): được xây dựng từ thời Hậu Lê, tu sửa nhiều lần vào thời Nguyễn và sau này. Nghĩa quân tế cờ tại đây trong mỗi lần xuất quân. 14. Đình, chùa Hả : được xây dựng từ thời Hậu Lê. Đình Hả (đình Phúc Thọ) thờ Thành hoàng làng Cao Sơn – Quý Minh và Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm). Ngày 16/3/1884, Đề Nắm đã làm lễ tế cờ, chính thức phát động cuộc khởi nghĩa; lễ hội tưởng nhớ Ông được tổ chức vào ngày 15, 16 tháng Giêng. 15. Đình Dương Lâm : là một ngôi đình cổ, được xây dựng từ thời Hậu Lê; thờ Thánh Cao và ba vị Quận công: Dương Đình Bột, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Cúc; là nơi tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng của nghĩa quân. 16. Đình Cao Thượng : thế kỷ XVII; thờ Cao Sơn – Quý Minh. Đề Thám đã cho lập căn cứ ở trên núi Yên Ngựa (khu vực đình Cao Thượng) và thường tổ chức hội họp, lui tới đình. Hội được mở từ 12 – 14 tháng Giêng. 17. Đình Nội (Tiên đình): thờ Cao Sơn – Quý Minh, là ngôi đình to đẹp nổi tiếng, được xây dựng vào đời vua Lê Hiển Tông. Đề Thám xoay đình về hướng Đông Nam, xây thêm 2 tả vu, hữu vu và nghi môn. 18. Đình làng Chuông : được dựng thời Hậu Lê; còn lưu giữ được nhiều sắc phong và đồ thờ quý như: Kiệu bát cống, chấp kích, bát bửu, tàn lọng,…Tại đây, Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, tổ chức những trận đánh lớn. 19. Chùa Phố (Nam Thiên tự): thực dân Pháp sử dụng khu đất này làm chợ, khu nhà kho của Sécnay (chủ bút báo Tương lai xứ Bắc Kỳ), khu nhà của đốc tờ Zina và làm bãi tập. Chùa Phố là cơ sở cách mạng của Đảng ta trong thời kỳ 1943 -1945. 20. Đền Gốc Khế : là nơi thờ Mẫu và Đại vương Trần Quốc Tuấn; nơi hoạt động của nhiều tướng lĩnh của nghĩa quân như: Đề Công (Tạ Văn Công), Đề Nguyên (Tạ Văn Nguyên), Đề Cần (Tạ Văn Cần), Thống Ngò (Tạ Văn Khấu), Quản Khối (Giáp Văn Khối),… 21. Đền thờ Cả Trọng (đền Gốc Dẻ): là ngôi đền đầu tiên thờ Cả Trọng – con trai cả của Đề Thám và cũng là một vị chỉ huy tài giỏi của nghĩa quân. 22. Ao Chấn Ký : là nơi thực dân Pháp thả tro cốt đầu Hoàng Hoa Thám và hai thủ hạ thân tín của ông. 23. Nghĩa địa Pháp, đồi Phủ : nơi chôn cất những lính Pháp, Việt (theo Pháp) chết trận khi giao chiến với nghĩa quân Yên Thế. Đồi Phủ là địa điểm tập kết của quân Pháp cho các cuộc hành binh; là nơi hai lần chứng kiến nhiều sự kiện liên quan đến hai cuộc hoà hoãn giữa thực dân Pháp và Đề Thám. Tại những khu di tích này, ngoài những hiện vật liên quan tới sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng vốn có của di tích, còn có nhiều hiện vật liên quan tới cuộc khởi nghĩa (405 hiện vật liên quan trực tiếp tới cuộc khởi nghĩa và hàng trăm hiện vật khác tại các di tích). Nhiều hiện vật trong số này hiện được bảo quản, trưng bày tại nhà truyền thống về cuộc khởi nghĩa tại Khu Phồn Xương, để góp phần vào công tác giáo dục truyền thống. Với những giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012).
Di tích lịch sử Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế Di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế nằm trên địa bàn 4 huyện liền kề nhau: Yên Thế , Tân Yên , Việt Yên , Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang . Khởi nghĩa nông dân Yên Thế là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Đề Nắm là một trong những tướng lĩnh đầu tiên lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa. Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) xuất hiện với vai trò là thủ lĩnh tiếp theo đã đưa cuộc khởi nghĩa lên tầm và quy mô lớn, người mà chính giới Pháp cũng phải thừa nhận, “Mỗi thế kỷ chỉ xuất hiện một lần mà thôi”. Di tích liên quan đến cuộc Khởi nghĩa được phân bố trên một địa bàn rộng lớn, bao gồm những công trình kiến trúc cổ có liên quan đến hoạt động của nghĩa quân (đình, chùa, đền, miếu có niên đại khởi dựng vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX) cùng các địa điểm, đồn lũy liên hoàn của nghĩa quân, tiêu biểu là: 08 ngôi đình, 07 chùa, 06 đền, 03 đồn, 01 điếm, 01 nghè, 01 động và 05 địa điểm. Trong đó, có 23 điểm di tích đã được xếp hạng di tích quốc gia, phản ánh sinh động quá trình xây dựng lực lượng, tổ chức chiến đấu của nghĩa quân từ những ngày đầu tiên, tới những ngày cuối cùng. 1. Đình Dĩnh Thép : là nơi diễn ra Hội nghị ghi dấu thời điểm củng cố lại tổ chức của Nghĩa quân năm 1888, sau những thất bại ban đầu. Đây cũng là nơi Hoàng Hoa Thám qua lại những năm tháng cuối đời. 2. Chùa Lèo : là địa điểm liên lạc và làm nơi đón khách của nghĩa quân. Thời kỳ hoà hoãn lần thứ hai (1897 – 1909), chùa Lèo giữ vai trò là vị trí tiền tiêu, quan sát các bước xâm nhập của thực dân Pháp vào đồn Phồn Xương; được Đề Thám tu bổ và trở thành trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của nghĩa quân cùng nhân dân địa phương. 3. Đền Thề : là nơi tổ chức hội thề của nghĩa quân. Lễ Cầu may rằm tháng Giêng chính là dịp Đề Thám thăm viếng các thân nhân, tử sĩ của nghĩa quân. 4. Đồn Hố Chuối: là căn cứ lớn, nơi phòng thủ kiên cố, tập trung nhiều nghĩa quân và có vai trò quan trọng nhất cuộc khởi nghĩa; là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt giữa nghĩa quân và quân Pháp. 5. Chùa Thông : ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn với cuộc khởi nghĩa; là nơi ký Hiệp ước điều đình giữa nghĩa quân và thực dân Pháp. Lễ hội chùa được tổ chức hàng năm vào ngày 15-16/3 (Dương lịch). 6. Đồn Phồn Xương ( đồi Gồ, đồi Cụ) : xây dựng năm 1896. Phía sau Đồn là doanh trại, chiến lũy của nghĩa quân. Đề Thám đã cho xây dựng một bát quái trận với nhiều đồn lũy thông nhau; là nơi trấn giữ con đường độc đạo vào căn cứ; là đại bản doanh, nơi giao dịch của nghĩa quân với khách. 7. Đồn Hom : xây dựng năm 1891; có 4 đồn được xây dựng trên 4 ngọn núi hiểm trở trong dãy núi Cai Kinh bao bọc khu Đồng Khách. Đồn Hom là căn cứ an toàn của cuộc khởi nghĩa. Tại đây đã diễn ra hai trận chiến đấu nổi tiếng vào tháng 3/1892 và tháng 2/1909, đặc biệt là chiến thắng của nghĩa quân ngày 25/3/1892. 8. Động Thiên Thai : là một trong “Thất diệu đồn điền” do Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (1875 – 1929) lập ra. Thất diệu đồn điền được bố trí tựa như 7 ngôi sao sáng của chòm sao Bắc Đẩu, gồm bảy khu (hay bảy trại): nhất, nhì, ba, tư, năm, sáu và khu Động Thiên Thai. 9. Đền Cầu Khoai (đền Cô) : là căn cứ được xây dựng năm 1524; thờ 2 người con gái của Đàm Thuận Huy (vị quan thanh liêm, chính trực thời Lê Thánh Tông, người có nhiều công lao với nhân dân vùng đương thời) là: bà Đàm Thị Dung Hoa và bà Đàm Thị Quế Hoa. Lễ hội Đền được tổ chức vào ngày 23 tháng Giêng. 10. Đình Đông : là nơi Hoàng Hoa Thám đã cùng hơn 400 binh sỹ làm lễ tế cờ xuất trận; được xây dựng từ thời Hậu Lê; thờ Trương Hống, Trương Hát; còn giữ được nhiều tài liệu, hiện vật cổ, quý giá như: các bức hoành phi, đại tự, câu đối, hương án, bài vị, hòm đựng sắc và một số đồ thờ bằng gỗ khác. 11. Chùa Kem (Sùng Nham tự) : là nơi Đề Thám cùng nghĩa quân đã về đóng quân và đắp luỹ, làm tường thành, làm nhà, luyện tập quân sự. Dấu tích còn lưu lại là: tường luỹ, nền nhà quan, giếng quan, trạm gác, cột cờ. Chùa còn là nơi để chiêu binh đánh Tây, cất dấu lương thực, vũ khí và hội họp. 12. Khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám (gồm có đình, đền, chùa, điếm, cố trạch và phần mộ người thân của Hoàng Hoa Thám) gồm: Đình làng Trũng thờ Thánh Cao Sơn và Quý Minh Đại vương. Sau khi Đề Thám mất, nhân dân địa phương đã thờ Ông ở trong đình cùng với Thành Hoàng làng. Đình nay chỉ còn lại nền móng. Chùa làng Trũng xưa được xây dựng ở phía sau đình. Sau khi Hoàng Hoa Thám mất, đình Trũng bị hư hỏng, nhân dân địa phương đã đưa Ông vào phối thờ trong chùa. Đền thờ Hoàng Hoa Thám: là nơi thờ phụng, tưởng niệm Đề Thám. Điếm làng Trũng: Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế thất bại, Đại Trận và Đề Thám mất, nhân dân làng Trũng đã thờ hai ông ở đây. Nhân dân địa phương đã đúc tượng chân dung hai vị để thờ. Nơi ở của danh nhân Hoàng Hoa Thám thời niên thiếu: là nơi Đề Thám sống thuở nhỏ và lui về trong giai đoạn khởi nghĩa; có tấm bia lưu danh. Khu phần mộ thân tộc của Hoàng Hoa Thám được xây dựng phía trước chùa, cạnh đền. 13. Cụm di tích Cầu Vồng (đình, chùa, đền, nghè Vồng): được xây dựng từ thời Hậu Lê, tu sửa nhiều lần vào thời Nguyễn và sau này. Nghĩa quân tế cờ tại đây trong mỗi lần xuất quân. 14. Đình, chùa Hả : được xây dựng từ thời Hậu Lê. Đình Hả (đình Phúc Thọ) thờ Thành hoàng làng Cao Sơn – Quý Minh và Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm). Ngày 16/3/1884, Đề Nắm đã làm lễ tế cờ, chính thức phát động cuộc khởi nghĩa; lễ hội tưởng nhớ Ông được tổ chức vào ngày 15, 16 tháng Giêng. 15. Đình Dương Lâm : là một ngôi đình cổ, được xây dựng từ thời Hậu Lê; thờ Thánh Cao và ba vị Quận công: Dương Đình Bột, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Cúc; là nơi tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng của nghĩa quân. 16. Đình Cao Thượng : thế kỷ XVII; thờ Cao Sơn – Quý Minh. Đề Thám đã cho lập căn cứ ở trên núi Yên Ngựa (khu vực đình Cao Thượng) và thường tổ chức hội họp, lui tới đình. Hội được mở từ 12 – 14 tháng Giêng. 17. Đình Nội (Tiên đình): thờ Cao Sơn – Quý Minh, là ngôi đình to đẹp nổi tiếng, được xây dựng vào đời vua Lê Hiển Tông. Đề Thám xoay đình về hướng Đông Nam, xây thêm 2 tả vu, hữu vu và nghi môn. 18. Đình làng Chuông : được dựng thời Hậu Lê; còn lưu giữ được nhiều sắc phong và đồ thờ quý như: Kiệu bát cống, chấp kích, bát bửu, tàn lọng,…Tại đây, Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, tổ chức những trận đánh lớn. 19. Chùa Phố (Nam Thiên tự): thực dân Pháp sử dụng khu đất này làm chợ, khu nhà kho của Sécnay (chủ bút báo Tương lai xứ Bắc Kỳ), khu nhà của đốc tờ Zina và làm bãi tập. Chùa Phố là cơ sở cách mạng của Đảng ta trong thời kỳ 1943 -1945. 20. Đền Gốc Khế : là nơi thờ Mẫu và Đại vương Trần Quốc Tuấn; nơi hoạt động của nhiều tướng lĩnh của nghĩa quân như: Đề Công (Tạ Văn Công), Đề Nguyên (Tạ Văn Nguyên), Đề Cần (Tạ Văn Cần), Thống Ngò (Tạ Văn Khấu), Quản Khối (Giáp Văn Khối),… 21. Đền thờ Cả Trọng (đền Gốc Dẻ): là ngôi đền đầu tiên thờ Cả Trọng – con trai cả của Đề Thám và cũng là một vị chỉ huy tài giỏi của nghĩa quân. 22. Ao Chấn Ký : là nơi thực dân Pháp thả tro cốt đầu Hoàng Hoa Thám và hai thủ hạ thân tín của ông. 23. Nghĩa địa Pháp, đồi Phủ : nơi chôn cất những lính Pháp, Việt (theo Pháp) chết trận khi giao chiến với nghĩa quân Yên Thế. Đồi Phủ là địa điểm tập kết của quân Pháp cho các cuộc hành binh; là nơi hai lần chứng kiến nhiều sự kiện liên quan đến hai cuộc hoà hoãn giữa thực dân Pháp và Đề Thám. Tại những khu di tích này, ngoài những hiện vật liên quan tới sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng vốn có của di tích, còn có nhiều hiện vật liên quan tới cuộc khởi nghĩa (405 hiện vật liên quan trực tiếp tới cuộc khởi nghĩa và hàng trăm hiện vật khác tại các di tích). Nhiều hiện vật trong số này hiện được bảo quản, trưng bày tại nhà truyền thống về cuộc khởi nghĩa tại Khu Phồn Xương, để góp phần vào công tác giáo dục truyền thống. Với những giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012).
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng: Thức tỉnh tinh thần dân tộc Khởi nghĩa Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu vào năm 40 (Canh Tý), đã đánh đuổi được lực lượng cai trị nhà Đông Hán ra khỏi Giao Chỉ. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử người dân Việt đứng lên vì nền độc lập cũng như niềm tự hào của mình. T ứ c n ướ c v ỡ b ờ Từ khi nhà Triệu tiêu diệt An Dương Vương và thiết lập quyền cai trị trên lãnh thổ Âu Lạc cũ, chế độ thống trị dừng lại ở cấp quận với đại diện là 2 viên quan sứ ở 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Đến khi nhà Tây Hán diệt nhà Triệu (111 trước Công nguyên), cấp độ thống trị vẫn ở cấp quận; chế độ các Lạc hầu, Lạc tướng của người Việt với quyền thế tập trên lãnh thổ Âu Lạc cũ được các chính quyền phương Bắc chấp nhận cho duy trì, nhưng ngày càng suy yếu. Từ khi nhà Đông Hán thành lập, Hán Quang Vũ Đế tuy chưa dẹp xong các lực lượng cát cứ phương Bắc nhưng vẫn quan tâm tới miền Nam. Tích Quang, Nhâm Diên làm Thái thú Giao Chỉ và Thái thú Cửu Chân của nhà Hán, ra sức thực hiện chính sách đồng hóa, thay đổi tập tục từ hôn nhân đến y phục, lễ nghĩa của người Việt bắt theo người Hán, dẫn đến xúc phạm nặng nề tới phong tục cũ nhiều đời của người Việt. Từ khi Tô Định sang làm Thái thú Giao Chỉ năm 34, ách thống trị của nhà Đông Hán càng nặng nề hơn với người Việt. Tô Định tàn bạo và tham lam, tăng cường phục dịch và thuế khóa đối với người Việt để cống nạp cho triều đình nhà Hán nhiều hơn, thúc ép các Lạc tướng nhiều hơn. Sự đụng chạm lớn về văn hóa , tín ngưỡng và kinh tế khiến mâu thuẫn giữa người Việt – không chỉ nhân dân mà cả các Lạc tướng – với chế độ thống trị của nhà Hán ngày càng gay gắt. Vì vậy các Lạc tướng đã đoàn kết nhau lại để chống đối. Trong số các Lạc tướng có ý chống lại sự thống trị của nhà Hán, nổi lên nhà Trưng Trắc ở Mê Linh, Phong Châu và nhà Thi Sách ở Chu Diên. Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, hai nhà đồng lòng tập hợp lực lượng chống lại sự cai trị của nhà Hán và đã tập hợp được sự ủng hộ của khá nhiều thủ lĩnh địa phương khác. Trước khí thế chống đối của các thủ lĩnh người Việt, Tô Định đã giết Thi Sách để hy vọng dập tắt sớm ý định chống đối. Thù chồng bị giết càng khiến Trưng Trắc hành động gấp rút trong việc khởi binh chống nhà Hán. Tuy nhiên, có những sử liệu cho thông tin khác về Thi Sách. Ngoài việc ông tên là Thi (chứ không phải Thi Sách), “Thủy kinh chú” cho biết ông cùng Trưng Trắc khởi nghĩa thắng lợi và 3 năm sau mới tử trận cùng vợ; sách “Thiên Nam ngữ lục” cho rằng Thi Sách có tham gia khởi nghĩa với Trưng Trắc và tử trận trước khi khởi nghĩa thắng lợi và sử gia Đào Duy Anh đồng tình với thuyết này. Các sử gia khẳng định khởi nghĩa vẫn nổ ra dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng dù chồng Trưng Trắc không bị giết. Do đó nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khởi nghĩa không phải là cái chết của Thi Sách mà là chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc của nhà Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời. Lê Văn Siêu trong sách “Việt Nam văn minh sử” thậm chí còn cho rằng, việc Thi Sách tên thật là gì, có bị giết hay không trong sự kiện Hai Bà khởi nghĩa không phải là một chi tiết quan trọng. Thời của các nữ tướng Vai trò lãnh đạo nòng cốt là các Lạc hầu, Lạc tướng dòng dõi Hùng Vương, có uy tín với nhân dân và ít nhiều được chính quyền đô hộ phương Bắc vì nể. Ngoài 3 đại diện tiêu biểu là Trưng Trắc, Trưng Nhị và Thi Sách, các sử gia khẳng định còn có nhiều thủ lĩnh địa phương khác có nguồn gốc Lạc tướng. Một nhân vật được xem là đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ trước khởi nghĩa là bà Man Thiện – mẹ của Trưng Trắc và Trưng Nhị. Bà được xem là cháu chắt bên ngoại của Hùng Vương, góa chồng sớm, nuôi dạy hai con gái nghề trồng dâu nuôi tằm và võ nghệ. Bà Man Thiện có vai trò tổ chức lực lượng, giao thiệp với các quan lang các vùng xung quanh ủng hộ con khởi nghĩa. Điều đáng chú ý là phần lớn các tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa là phụ nữ được các thần tích, truyền thuyết ghi lại: Trưng Trắc, Trưng Nhị, Man Thiện, Diệu Tiên, Bát Nàn, Đào Kỳ, Lê Hoa, Lê Chân, Phương Dung, Trinh Thục, Thánh Thiên, Thiện Hoa, Nàng Tía, Xuân Hương, Ả Di, Ả Tắc, Ả Lã, Nàng Đô… Số tướng lĩnh nam chiếm số lượng ít hơn: Đỗ Năng Tế, Hùng Nguyên (chồng Trưng Nhị), ông Đống, ông Cai, ông Nà, Đồng Bảng, Đô Chính, Đô Dương… Các tướng lĩnh này đều có quan hệ huyết thống bên nội hay ngoại, hoặc là bè bạn của nhau. Theo ý kiến của các sử gia, dù được đời sau gán cho những “mỹ tự” và được đặt “họ” (tên họ), mà vào những năm đầu Công nguyên người Việt chưa có “họ”, nhưng tất cả cho thấy kết cấu quan hệ huyết tộc, vị trí, vai trò của người phụ nữ, người mẹ, người vợ còn rất lớn không chỉ trong gia đình mà cả trong mọi mặt của hoạt động xã hội Việt Nam khi đó. Điều đó được xem là tàn dư của chế độ mẫu quyền còn phổ biến thời Hai Bà Trưng ở Việt Nam. Lên ngôi Vua bà Tháng 9 năm 39, Trưng Trắc và Trưng Nhị tập hợp các tướng lĩnh cùng nhau làm Hội thề ở cửa sông Hát (huyện Phúc Thọ , Hà Nội ) thuộc huyện Mê Linh thời đó. “Thiên Nam ngữ lục” ghi lời thề của Trưng Trắc như sau: “Một xin rửa sạch nước thù/ Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng /Ba kêu oan ức lòng chồng/ Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Quân Hai Bà trước tiên tấn công Đô úy trị quận Giao Chỉ ở Mê Linh. Chiếm được nơi đây, Hai Bà Trưng tiến đánh huyện Tây Vu, chiếm thành Cổ Loa. Trên đà thắng lợi, từ Cổ Loa, Hai Bà Trưng mang quân vượt sông Hoàng, sông Đuống đánh trị sở Giao Chỉ ở Luy Lâu bên bờ sông Dâu (lãng Lũng Khê, Thuận Thành , Bắc Ninh). Quân khởi nghĩa tấn công quá nhanh khiến Tô Định không kịp trở tay. Trước thế mạnh của quân Hai Bà, các viên quan cầm đầu không dám chống cự, bỏ chạy về phương Bắc. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định hoảng hốt cũng tháo chạy. Để thoát thân, Tô Định phải cạo tóc, cạo râu, trà trộn vào loạn quân, vứt bỏ ấn tín mà chạy. Tương truyền người Việt đương thời vẫn có tục lệ phổ biến là cạo tóc, nên Tô Định bắt chước làm như vậy cho khỏi bị phát hiện trên đường trốn chạy. Cuối cùng, Tô Định thoát về quận Nam Hải, bị Mã Viện dâng sớ lên Hán Quang Vũ Đế hạch tội “thấy tiền thì giương mắt lên, thấy giặc thì cụp mắt xuống”. Vua Hán hạ ngục trị tội Tô Định. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng được nhân dân khắp nơi hưởng ứng. Sau khi Luy Lâu bị hạ, các thành khác nhanh chóng tan vỡ và quy phục. Cuộc khởi nghĩa lan rộng vào Cửu Chân, Nhật Nam, sang Uất Lâm, Hợp Phố… Khởi nghĩa thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, xưng vương. Thần phả cho biết Trưng Nhị được phong làm Phó vương. Giương cao ngọn cờ tự hào dân tộc Dưới sự lãnh đạo của hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị, nhiều lực lượng chống ách đô hộ của nhà Đông Hán đã kết hợp làm một, trở thành một phong trào khởi nghĩa rộng lớn của người Việt, đánh đổ sự cai trị của nhà Hán trên toàn bộ lãnh thổ Âu Lạc và Nam Việt cũ. Điều này được các sử gia đánh giá là một sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc Việt, một sự tái nhận thức quan trọng về quyền sống theo cách riêng của người Việt. Cuộc khởi nghĩa phản ánh ý thức dân tộc đã khá rõ rệt của Lạc tướng và Lạc dân trong các bộ lạc hợp thành nước Âu Lạc cũ. Ý thức về độc lập chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt trên con đường hình thành qua hơn 200 năm mất nước – khoảng thời gian mà các triều đại phong kiến phương Bắc ráo riết thực hiện đồng hóa nhằm biến Âu Lạc vĩnh viễn là quận huyện của Trung Quốc – vẫn tồn tại và phát triển trong lòng người Việt. Đây là cuộc khởi nghĩa chống sự cai trị của Trung Quốc đầu tiên của người Việt trong 1.000 năm Bắc thuộc. Các Lạc tướng cùng hậu duệ của họ là đại biểu của phong trào này. Hai Bà Trưng đã dựa vào nhân dân khôi phục lại sự nghiệp cũ của Vua Hùng. Cuộc khởi nghĩa là sự phủ nhận hiên ngang cường quyền của các triều đại phương Bắc coi các dân tộc xung quanh là “Man Di”, thuộc quốc buộc phải phục tùng “thiên triều”, “thiên tử”, phủ nhận tư tưởng “tôn quân, đại thống nhất”. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng do phụ nữ đứng đầu, trong thế giới tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của đế chế Hán cổ đại, được xem là sự đối chọi quyết liệt về văn hóa, nếp sống, nếp tư duy của đôi bên Nam – Bắc, Việt – Hán.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng: Thức tỉnh tinh thần dân tộc Khởi nghĩa Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu vào năm 40 (Canh Tý), đã đánh đuổi được lực lượng cai trị nhà Đông Hán ra khỏi Giao Chỉ. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử người dân Việt đứng lên vì nền độc lập cũng như niềm tự hào của mình. T ứ c n ướ c v ỡ b ờ Từ khi nhà Triệu tiêu diệt An Dương Vương và thiết lập quyền cai trị trên lãnh thổ Âu Lạc cũ, chế độ thống trị dừng lại ở cấp quận với đại diện là 2 viên quan sứ ở 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Đến khi nhà Tây Hán diệt nhà Triệu (111 trước Công nguyên), cấp độ thống trị vẫn ở cấp quận; chế độ các Lạc hầu, Lạc tướng của người Việt với quyền thế tập trên lãnh thổ Âu Lạc cũ được các chính quyền phương Bắc chấp nhận cho duy trì, nhưng ngày càng suy yếu. Từ khi nhà Đông Hán thành lập, Hán Quang Vũ Đế tuy chưa dẹp xong các lực lượng cát cứ phương Bắc nhưng vẫn quan tâm tới miền Nam. Tích Quang, Nhâm Diên làm Thái thú Giao Chỉ và Thái thú Cửu Chân của nhà Hán, ra sức thực hiện chính sách đồng hóa, thay đổi tập tục từ hôn nhân đến y phục, lễ nghĩa của người Việt bắt theo người Hán, dẫn đến xúc phạm nặng nề tới phong tục cũ nhiều đời của người Việt. Từ khi Tô Định sang làm Thái thú Giao Chỉ năm 34, ách thống trị của nhà Đông Hán càng nặng nề hơn với người Việt. Tô Định tàn bạo và tham lam, tăng cường phục dịch và thuế khóa đối với người Việt để cống nạp cho triều đình nhà Hán nhiều hơn, thúc ép các Lạc tướng nhiều hơn. Sự đụng chạm lớn về văn hóa , tín ngưỡng và kinh tế khiến mâu thuẫn giữa người Việt – không chỉ nhân dân mà cả các Lạc tướng – với chế độ thống trị của nhà Hán ngày càng gay gắt. Vì vậy các Lạc tướng đã đoàn kết nhau lại để chống đối. Trong số các Lạc tướng có ý chống lại sự thống trị của nhà Hán, nổi lên nhà Trưng Trắc ở Mê Linh, Phong Châu và nhà Thi Sách ở Chu Diên. Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, hai nhà đồng lòng tập hợp lực lượng chống lại sự cai trị của nhà Hán và đã tập hợp được sự ủng hộ của khá nhiều thủ lĩnh địa phương khác. Trước khí thế chống đối của các thủ lĩnh người Việt, Tô Định đã giết Thi Sách để hy vọng dập tắt sớm ý định chống đối. Thù chồng bị giết càng khiến Trưng Trắc hành động gấp rút trong việc khởi binh chống nhà Hán. Tuy nhiên, có những sử liệu cho thông tin khác về Thi Sách. Ngoài việc ông tên là Thi (chứ không phải Thi Sách), “Thủy kinh chú” cho biết ông cùng Trưng Trắc khởi nghĩa thắng lợi và 3 năm sau mới tử trận cùng vợ; sách “Thiên Nam ngữ lục” cho rằng Thi Sách có tham gia khởi nghĩa với Trưng Trắc và tử trận trước khi khởi nghĩa thắng lợi và sử gia Đào Duy Anh đồng tình với thuyết này. Các sử gia khẳng định khởi nghĩa vẫn nổ ra dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng dù chồng Trưng Trắc không bị giết. Do đó nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khởi nghĩa không phải là cái chết của Thi Sách mà là chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc của nhà Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời. Lê Văn Siêu trong sách “Việt Nam văn minh sử” thậm chí còn cho rằng, việc Thi Sách tên thật là gì, có bị giết hay không trong sự kiện Hai Bà khởi nghĩa không phải là một chi tiết quan trọng. Thời của các nữ tướng Vai trò lãnh đạo nòng cốt là các Lạc hầu, Lạc tướng dòng dõi Hùng Vương, có uy tín với nhân dân và ít nhiều được chính quyền đô hộ phương Bắc vì nể. Ngoài 3 đại diện tiêu biểu là Trưng Trắc, Trưng Nhị và Thi Sách, các sử gia khẳng định còn có nhiều thủ lĩnh địa phương khác có nguồn gốc Lạc tướng. Một nhân vật được xem là đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ trước khởi nghĩa là bà Man Thiện – mẹ của Trưng Trắc và Trưng Nhị. Bà được xem là cháu chắt bên ngoại của Hùng Vương, góa chồng sớm, nuôi dạy hai con gái nghề trồng dâu nuôi tằm và võ nghệ. Bà Man Thiện có vai trò tổ chức lực lượng, giao thiệp với các quan lang các vùng xung quanh ủng hộ con khởi nghĩa. Điều đáng chú ý là phần lớn các tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa là phụ nữ được các thần tích, truyền thuyết ghi lại: Trưng Trắc, Trưng Nhị, Man Thiện, Diệu Tiên, Bát Nàn, Đào Kỳ, Lê Hoa, Lê Chân, Phương Dung, Trinh Thục, Thánh Thiên, Thiện Hoa, Nàng Tía, Xuân Hương, Ả Di, Ả Tắc, Ả Lã, Nàng Đô… Số tướng lĩnh nam chiếm số lượng ít hơn: Đỗ Năng Tế, Hùng Nguyên (chồng Trưng Nhị), ông Đống, ông Cai, ông Nà, Đồng Bảng, Đô Chính, Đô Dương… Các tướng lĩnh này đều có quan hệ huyết thống bên nội hay ngoại, hoặc là bè bạn của nhau. Theo ý kiến của các sử gia, dù được đời sau gán cho những “mỹ tự” và được đặt “họ” (tên họ), mà vào những năm đầu Công nguyên người Việt chưa có “họ”, nhưng tất cả cho thấy kết cấu quan hệ huyết tộc, vị trí, vai trò của người phụ nữ, người mẹ, người vợ còn rất lớn không chỉ trong gia đình mà cả trong mọi mặt của hoạt động xã hội Việt Nam khi đó. Điều đó được xem là tàn dư của chế độ mẫu quyền còn phổ biến thời Hai Bà Trưng ở Việt Nam. Lên ngôi Vua bà Tháng 9 năm 39, Trưng Trắc và Trưng Nhị tập hợp các tướng lĩnh cùng nhau làm Hội thề ở cửa sông Hát (huyện Phúc Thọ , Hà Nội ) thuộc huyện Mê Linh thời đó. “Thiên Nam ngữ lục” ghi lời thề của Trưng Trắc như sau: “Một xin rửa sạch nước thù/ Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng /Ba kêu oan ức lòng chồng/ Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Quân Hai Bà trước tiên tấn công Đô úy trị quận Giao Chỉ ở Mê Linh. Chiếm được nơi đây, Hai Bà Trưng tiến đánh huyện Tây Vu, chiếm thành Cổ Loa. Trên đà thắng lợi, từ Cổ Loa, Hai Bà Trưng mang quân vượt sông Hoàng, sông Đuống đánh trị sở Giao Chỉ ở Luy Lâu bên bờ sông Dâu (lãng Lũng Khê, Thuận Thành , Bắc Ninh). Quân khởi nghĩa tấn công quá nhanh khiến Tô Định không kịp trở tay. Trước thế mạnh của quân Hai Bà, các viên quan cầm đầu không dám chống cự, bỏ chạy về phương Bắc. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định hoảng hốt cũng tháo chạy. Để thoát thân, Tô Định phải cạo tóc, cạo râu, trà trộn vào loạn quân, vứt bỏ ấn tín mà chạy. Tương truyền người Việt đương thời vẫn có tục lệ phổ biến là cạo tóc, nên Tô Định bắt chước làm như vậy cho khỏi bị phát hiện trên đường trốn chạy. Cuối cùng, Tô Định thoát về quận Nam Hải, bị Mã Viện dâng sớ lên Hán Quang Vũ Đế hạch tội “thấy tiền thì giương mắt lên, thấy giặc thì cụp mắt xuống”. Vua Hán hạ ngục trị tội Tô Định. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng được nhân dân khắp nơi hưởng ứng. Sau khi Luy Lâu bị hạ, các thành khác nhanh chóng tan vỡ và quy phục. Cuộc khởi nghĩa lan rộng vào Cửu Chân, Nhật Nam, sang Uất Lâm, Hợp Phố… Khởi nghĩa thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, xưng vương. Thần phả cho biết Trưng Nhị được phong làm Phó vương. Giương cao ngọn cờ tự hào dân tộc Dưới sự lãnh đạo của hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị, nhiều lực lượng chống ách đô hộ của nhà Đông Hán đã kết hợp làm một, trở thành một phong trào khởi nghĩa rộng lớn của người Việt, đánh đổ sự cai trị của nhà Hán trên toàn bộ lãnh thổ Âu Lạc và Nam Việt cũ. Điều này được các sử gia đánh giá là một sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc Việt, một sự tái nhận thức quan trọng về quyền sống theo cách riêng của người Việt. Cuộc khởi nghĩa phản ánh ý thức dân tộc đã khá rõ rệt của Lạc tướng và Lạc dân trong các bộ lạc hợp thành nước Âu Lạc cũ. Ý thức về độc lập chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt trên con đường hình thành qua hơn 200 năm mất nước – khoảng thời gian mà các triều đại phong kiến phương Bắc ráo riết thực hiện đồng hóa nhằm biến Âu Lạc vĩnh viễn là quận huyện của Trung Quốc – vẫn tồn tại và phát triển trong lòng người Việt. Đây là cuộc khởi nghĩa chống sự cai trị của Trung Quốc đầu tiên của người Việt trong 1.000 năm Bắc thuộc. Các Lạc tướng cùng hậu duệ của họ là đại biểu của phong trào này. Hai Bà Trưng đã dựa vào nhân dân khôi phục lại sự nghiệp cũ của Vua Hùng. Cuộc khởi nghĩa là sự phủ nhận hiên ngang cường quyền của các triều đại phương Bắc coi các dân tộc xung quanh là “Man Di”, thuộc quốc buộc phải phục tùng “thiên triều”, “thiên tử”, phủ nhận tư tưởng “tôn quân, đại thống nhất”. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng do phụ nữ đứng đầu, trong thế giới tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của đế chế Hán cổ đại, được xem là sự đối chọi quyết liệt về văn hóa, nếp sống, nếp tư duy của đôi bên Nam – Bắc, Việt – Hán.
Khởi nghĩa Lam Sơn Sự kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc Cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu từ ngày 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (7-2-1418) và kéo dài 10 năm, kết thúc thắng lợi bằng Hội thề Đông Quan ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (10-12-1427), đem lại độc lập cho dân tộc. Thắng lợi của 10 năm kháng chiến chống quân Minh khẳng định ý chí, quyết tâm, sức mạnh và truyền thống toàn dân đánh giặc của quân dân Đại Việt được bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, khối đoàn kết dân tộc và trí tuệ sáng tạo gắn liền với cội nguồn sâu xa của nền văn hiến dân tộc Việt Nam. Trong suốt tiến trình cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân đã “lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hưng phế”, “vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức”, biết đặt thượng sách giữ nước ở trong lòng dân, lấy “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”… mà khơi dậy và phát huy toàn dân đứng lên giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trên khắp mọi miền đất nước, các đội nghĩa quân Lam Sơn phối hợp với nhân dân địa phương dựng nên thế trận làng-nước cùng đánh giặc. Trải 10 năm chiến đấu gian khổ (1418-1427), cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn từ miền núi Lam Sơn ( Thanh Hóa ) buổi đầu đã phát triển rộng ra phạm vi toàn quốc. Từ lực lượng ban đầu (năm 1418) chỉ có khoảng 2.000 người, đến năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn đã có đến 350.000 quân, bao gồm các vệ bộ binh, các đội tượng binh, thủy binh và kỵ binh. Sự phát triển vượt bậc về cả phạm vi, quy mô hoạt động lẫn tổ chức và lực lượng không chỉ thể hiện tình yêu nước, căm thù giặc cao độ của nhân dân mà còn phản ánh truyền thống đoàn kết một lòng cứu nước của cộng đồng cư dân Đại Việt. Nhờ đó, cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, từng bước đánh bại các đội quân, đồn lũy, tiến tới đánh sụp cả hệ thống chính quyền đô hộ, đánh bại các cuộc tiếp viện của triều Minh, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường, buộc quân Minh phải tiến hành Hội thề Đông Quan ( Hà Nội ), giành lại nền độc lập tự chủ. Từ những mất mát, đau thương của một dân tộc liên tục phải đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập, những nhà lãnh đạo, chỉ huy cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn cũng như các cuộc kháng chiến khác đã khơi dậy và trở thành biểu tượng trung tâm phát huy tinh thần tự lực tự cường, ý chí bất khuất, trí thông minh, sáng tạo của quân dân cả nước trong cuộc kháng chiến chính nghĩa bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, tự do của nhân dân. Công cuộc chống xâm lăng trong hành trình giữ nước đã nâng “mưu giỏi” và “đánh giỏi” của nhân dân thành nghệ thuật quân sự dân tộc độc đáo. Nhận rõ sức mạnh to lớn của nhân dân trong hành trình dựng nước và giữ nước, Đảng ta đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam phát huy cao độ truyền thống toàn dân đánh giặc, vận động và tổ chức nhân dân nhất tề tự giác vùng lên “mang sức ta mà giải phóng cho ta”, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ, đánh thắng thù trong giặc ngoài, lập nên nhiều thắng lợi vẻ vang, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Từ bài học kinh nghiệm của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc, Đảng ta đã vận dụng để lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện thắng lợi mục tiêu “củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội” (1). Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, trước hết là tập trung quán triệt và nâng cao hơn nữa nhận thức và hành động thực tiễn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về mục tiêu, nội dung, yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong tình hình mới. Cần tuyên truyền, phổ biến để mỗi người dân, cán bộ, chiến sĩ nắm chắc mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh hiện nay là phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Cần hiểu nội dung bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, cần tập trung xây dựng vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách để phát huy mạnh mẽ vai trò, nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong việc quyết định và giải quyết những vấn đề lớn của đất nước. Nêu cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, tự lực tự cường. Lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng và tôn trọng những điểm mới không trái với lợi ích chung quốc gia-dân tộc nhằm tập hợp, đoàn kết, phát huy trí tuệ, sức mạnh của mọi người dân Việt Nam để xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực hiện nay, cần tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trên cơ sở luật pháp quốc tế, dựa vào sức mạnh của cộng đồng quốc tế và sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. Đồng thời, cần vận dụng và phát huy sáng tạo bài học không ngừng bồi dưỡng, nâng cao sức dân; nắm chắc và thực hiện đúng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân dân là gốc rễ sự trường tồn của đất nước và chế độ. Ra sức phát triển việc sản xuất và thực hành tiết kiệm để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Chú trọng giữ gìn sức dân, tiết kiệm sức dân, giảm yêu cầu đóng góp của nhân dân mà tăng đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân, không gây phiền hà, tốn kém cho nhân dân. Đặc biệt, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thật sự là người đày tớ trung thành, yêu quý của nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và làm mọi công việc vì lợi ích của nhân dân, giải quyết thấu đáo, trọn vẹn mọi bức xúc của nhân dân… Tập trung xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức trên cơ sở xây dựng về chính trị để làm nòng cốt cho vũ trang toàn dân. Đặc biệt, cần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng về con đường, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN; thường xuyên định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ cả về thời cơ và thách thức trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế của đất nước ta; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhất là những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch để xây dựng niềm tin vững chắc, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng của Đảng. Chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, tinh thần trách nhiệm đoàn kết quân-dân cho cán bộ, chiến sĩ; kết hợp chặt chẽ giáo dục, rèn luyện về đạo đức, lối sống với chống chủ nghĩa cá nhân. Nâng cao chất lượng công tác huấn luyện và khả năng sẵn sàng chiến đấu của LLVT… Cần tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với LLVT nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành phải coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo về quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Xây dựng và tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về quân sự và quốc phòng; xây dựng các tổ chức đảng trong LLVT nhân dân và trong các tổ chức quân sự, quốc phòng của Nhà nước vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Nâng cao hiệu lực công tác Đảng, công tác chính trị trong LLVT nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới. Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách đối với dân quân, tự vệ, quân đội và công an, chính sách hậu phương quân đội… Tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc nói chung, của Khởi nghĩa Lam Sơn nói riêng vào thời kỳ mới là cách để chúng ta biến các giá trị lịch sử dân tộc trở thành động lực, sức mạnh nội sinh trong mỗi con người, hội tụ và nhân lên thành sức mạnh vô địch của toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Thiếu tướng, TS NGUYỄN HOÀNG NHIÊN, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam —————— (1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.148
Khởi nghĩa Lam Sơn Sự kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc Cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu từ ngày 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (7-2-1418) và kéo dài 10 năm, kết thúc thắng lợi bằng Hội thề Đông Quan ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (10-12-1427), đem lại độc lập cho dân tộc. Thắng lợi của 10 năm kháng chiến chống quân Minh khẳng định ý chí, quyết tâm, sức mạnh và truyền thống toàn dân đánh giặc của quân dân Đại Việt được bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, khối đoàn kết dân tộc và trí tuệ sáng tạo gắn liền với cội nguồn sâu xa của nền văn hiến dân tộc Việt Nam. Trong suốt tiến trình cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi và bộ chỉ huy nghĩa quân đã “lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hưng phế”, “vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức”, biết đặt thượng sách giữ nước ở trong lòng dân, lấy “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”… mà khơi dậy và phát huy toàn dân đứng lên giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trên khắp mọi miền đất nước, các đội nghĩa quân Lam Sơn phối hợp với nhân dân địa phương dựng nên thế trận làng-nước cùng đánh giặc. Trải 10 năm chiến đấu gian khổ (1418-1427), cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn từ miền núi Lam Sơn ( Thanh Hóa ) buổi đầu đã phát triển rộng ra phạm vi toàn quốc. Từ lực lượng ban đầu (năm 1418) chỉ có khoảng 2.000 người, đến năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn đã có đến 350.000 quân, bao gồm các vệ bộ binh, các đội tượng binh, thủy binh và kỵ binh. Sự phát triển vượt bậc về cả phạm vi, quy mô hoạt động lẫn tổ chức và lực lượng không chỉ thể hiện tình yêu nước, căm thù giặc cao độ của nhân dân mà còn phản ánh truyền thống đoàn kết một lòng cứu nước của cộng đồng cư dân Đại Việt. Nhờ đó, cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, từng bước đánh bại các đội quân, đồn lũy, tiến tới đánh sụp cả hệ thống chính quyền đô hộ, đánh bại các cuộc tiếp viện của triều Minh, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường, buộc quân Minh phải tiến hành Hội thề Đông Quan ( Hà Nội ), giành lại nền độc lập tự chủ. Từ những mất mát, đau thương của một dân tộc liên tục phải đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập, những nhà lãnh đạo, chỉ huy cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn cũng như các cuộc kháng chiến khác đã khơi dậy và trở thành biểu tượng trung tâm phát huy tinh thần tự lực tự cường, ý chí bất khuất, trí thông minh, sáng tạo của quân dân cả nước trong cuộc kháng chiến chính nghĩa bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, tự do của nhân dân. Công cuộc chống xâm lăng trong hành trình giữ nước đã nâng “mưu giỏi” và “đánh giỏi” của nhân dân thành nghệ thuật quân sự dân tộc độc đáo. Nhận rõ sức mạnh to lớn của nhân dân trong hành trình dựng nước và giữ nước, Đảng ta đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam phát huy cao độ truyền thống toàn dân đánh giặc, vận động và tổ chức nhân dân nhất tề tự giác vùng lên “mang sức ta mà giải phóng cho ta”, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ, đánh thắng thù trong giặc ngoài, lập nên nhiều thắng lợi vẻ vang, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Từ bài học kinh nghiệm của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc, Đảng ta đã vận dụng để lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện thắng lợi mục tiêu “củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội” (1). Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, trước hết là tập trung quán triệt và nâng cao hơn nữa nhận thức và hành động thực tiễn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về mục tiêu, nội dung, yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong tình hình mới. Cần tuyên truyền, phổ biến để mỗi người dân, cán bộ, chiến sĩ nắm chắc mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh hiện nay là phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Cần hiểu nội dung bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, cần tập trung xây dựng vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách để phát huy mạnh mẽ vai trò, nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong việc quyết định và giải quyết những vấn đề lớn của đất nước. Nêu cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, tự lực tự cường. Lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng và tôn trọng những điểm mới không trái với lợi ích chung quốc gia-dân tộc nhằm tập hợp, đoàn kết, phát huy trí tuệ, sức mạnh của mọi người dân Việt Nam để xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực hiện nay, cần tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trên cơ sở luật pháp quốc tế, dựa vào sức mạnh của cộng đồng quốc tế và sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. Đồng thời, cần vận dụng và phát huy sáng tạo bài học không ngừng bồi dưỡng, nâng cao sức dân; nắm chắc và thực hiện đúng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân dân là gốc rễ sự trường tồn của đất nước và chế độ. Ra sức phát triển việc sản xuất và thực hành tiết kiệm để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Chú trọng giữ gìn sức dân, tiết kiệm sức dân, giảm yêu cầu đóng góp của nhân dân mà tăng đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân, không gây phiền hà, tốn kém cho nhân dân. Đặc biệt, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thật sự là người đày tớ trung thành, yêu quý của nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và làm mọi công việc vì lợi ích của nhân dân, giải quyết thấu đáo, trọn vẹn mọi bức xúc của nhân dân… Tập trung xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức trên cơ sở xây dựng về chính trị để làm nòng cốt cho vũ trang toàn dân. Đặc biệt, cần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng về con đường, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN; thường xuyên định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ cả về thời cơ và thách thức trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế của đất nước ta; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhất là những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch để xây dựng niềm tin vững chắc, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng của Đảng. Chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng, tinh thần trách nhiệm đoàn kết quân-dân cho cán bộ, chiến sĩ; kết hợp chặt chẽ giáo dục, rèn luyện về đạo đức, lối sống với chống chủ nghĩa cá nhân. Nâng cao chất lượng công tác huấn luyện và khả năng sẵn sàng chiến đấu của LLVT… Cần tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với LLVT nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành phải coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo về quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Xây dựng và tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về quân sự và quốc phòng; xây dựng các tổ chức đảng trong LLVT nhân dân và trong các tổ chức quân sự, quốc phòng của Nhà nước vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Nâng cao hiệu lực công tác Đảng, công tác chính trị trong LLVT nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới. Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách đối với dân quân, tự vệ, quân đội và công an, chính sách hậu phương quân đội… Tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống toàn dân đánh giặc trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc nói chung, của Khởi nghĩa Lam Sơn nói riêng vào thời kỳ mới là cách để chúng ta biến các giá trị lịch sử dân tộc trở thành động lực, sức mạnh nội sinh trong mỗi con người, hội tụ và nhân lên thành sức mạnh vô địch của toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Thiếu tướng, TS NGUYỄN HOÀNG NHIÊN, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam —————— (1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.148
Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội Kỳ họp lần thứ 34 của Ủy ban Di sản Thế giới họp tại Braxin ngày 31/7/2010 đã công nhận Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là Di sản văn hóa thế giới với tiêu chí (ii): minh chứng cho sự giao lưu giữa các ảnh hưởng đến chủ yếu từ Trung Quốc ở phía Bắc và Vương quốc Champa ở phía Nam, tiêu chí (iii): minh chứng cho truyền thống văn hóa lâu dài của người dân Việt được thành lập ở đồng bằng sông Hồng, đó là một trung tâm quyền lực liên tục từ TK 7 cho đến tận ngày nay, và tiêu chí (vi): liên quan trực tiếp tới nhiều sự kiện văn hóa – lịch sử quan trọng. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, với diện tích vùng lõi của di sản là 18,395ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Hai khu vực thuộc vùng lõi di sản là một hệ thống nhất nằm trong Cấm thành Thăng Long và cũng chính là trung tâm của Hoàng thành Thăng Long. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là bộ phận quan trọng nhất của Kinh thành Thăng Long – Kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18. Thăng Long – Hà Nội là nơi giao thoa các giá trị văn hóa của Đông Á với Đông Nam Á trong một quá trình lịch sử rất lâu dài. Sự giao thoa đó được thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày 1000 năm. Tổng quan mô hình đô thị, kiểu dáng kiến trúc và nghệ thuật của Thăng Long – Hà Nội mang giá trị độc đáo và tiêu biểu cho sự phát triển liên tục của một trung tâm quyền lực chính trị kiểu Châu Á. Rất nhiều sự kiện mang tầm vóc quốc tế, bao gồm sự phát triển của các nhà nước độc lập, các hình mẫu nhà nước kiểu Châu Á, ảnh hưởng của văn hóa phương Đông, phương Tây, của chủ nghĩa thực dân và các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ II đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm và còn có thể nhìn thấy được trong không gian chung của khu di sản. Nhiều nét văn hóa và mỹ thuật độc đáo được hình thành tại Thăng Long và chính những giá trị đó đã làm cho khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long nổi lên như một trong những di sản văn hóa lớn nhất của dân tộc Việt Nam và mang tầm vóc quốc tế. Nhiều dấu tích nền móng cung điện, lầu gác và nhiều loại hình di vật độc đáo của Hoàng cung qua các thời kỳ lịch sử được các nhà khảo cổ học tìm thấy dưới lòng đất thuộc khu vực trung tâm Hoàng thành Thăng Long đã phản ánh sinh động về lịch sử phát triển lâu dài của Kinh đô Thăng Long. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng, nhưng đến nay vẫn còn thấy được cả di tích trên mặt đất, dưới lòng đất, di tích lịch sử cách mạng, di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ thuật,… tạo thành hệ thống các di tích được đánh giá là quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của nước ta. Khu di tích thành cổ Hà Nội: có diện tích rộng 13,865ha, hiện tại, trong khu vực trung tâm còn lại 5 điểm di tích nổi trên mặt đất phân bố theo trục Bắc – Nam, còn gọi là “Trục chính tâm”, “Trục ngự đạo”, gồm có: Kỳ Đài, Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn. Ngoài ra còn có hệ thống tường bao và kiến trúc cổng hành cung thời Nguyễn, di tích nhà và hầm D67, các công trình kiến trúc Pháp… – Kỳ đài: được xây dựng năm 1805 cùng thời gian nhà Nguyễn xây dựng toà thành kiểu Vauban, được xây trên nền cũ của Tam Môn, cổng phía ngoài của Cấm thành thời Lê. Kỳ Đài là một trong một những kiến trúc còn sót lại nguyên vẹn từ thời Nguyễn. – Nền điện Kính Thiên: xây dựng thời Lê sơ (1428) trên nền điện Càn Nguyên (sau đổi tên là điện Thiên An) thời Lý, Trần. Địa điểm này vốn là vị trí của núi Nùng (Long Đỗ – Rốn Rồng), được coi là tâm điểm của Cấm thành và Hoàng thành, nơi chung đúc khí thiêng của non sông đất nước theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền, mà di tích hiện còn là nền điện với bậc thềm và lan can đá chạm rồng thế kỷ 15. – Đoan Môn: cổng phía Nam, là lối đi chính để vào bên trong Cấm thành, nơi có điện Kính Thiên và các cung điện khác của vua. Từ thời Lý đã xây cổng ở đây, nhưng cổng Đoan Môn hiện còn là do nhà Lê sơ xây dựng (thế kỷ 15) và được sửa sang, tu bổ dưới thời Nguyễn (thế kỷ 19). Giữa Đoan Môn và điện Kính Thiên là khu Long Trì – một không gian mang ý nghĩa chính trị, văn hoá tâm linh rất quan trọng của Cấm thành, là nơi cử hành các nghi lễ chính trị và tôn giáo thiêng liêng, như sự kiện mở hội Nhân Vương, mở hội đèn Quảng Chiếu (năm 1136), duyệt Cấm quân (năm 1351), quốc nhân hội thề (năm 1128)… – Bắc môn: là cổng thành phía Bắc, một trong 5 cổng thành duy nhất còn lại của Thành Hà Nội thời Nguyễn, xây dựng năm 1805. Bắc Môn được xây bằng gạch với cổng vòm bằng đá. Năm 1999, các nhà khảo cổ đã phát hiện các phần còn lại của một bức tường xây bằng đá và gạch vồ, nền móng dày 1,2m và dấu tích của một kiến trúc khác thời Lê tại độ sâu từ 1,66m đến 2,20m. – Hậu lâu: còn gọi là Tĩnh Bắc Lâu, Lầu Công chúa, Pagode des Dames, hay tòa Hậu Điện. Công trình này được xây dựng vào thời Nguyễn (1821), là nơi nghỉ ngơi của các cung tần mỹ nữ trong đoàn tùy tùng của nhà vua khi tuần du từ Huế ra Bắc thành. Công trình này đã bị phá huỷ vào khoảng cuối thế kỷ 19. Phần kiến trúc hiện còn là công trình do người Pháp xây dựng lại. Khu di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm ở phía Tây điện Kính Thiên và là một phần cấu thành của Cấm Thành từ thời Lý cho đến cuối thời Lê Trung Hưng. Cấm thành là trung tâm đầu não của các vương triều, nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng bậc nhất của đất nước, trung tâm làm việc và nơi ở của Vua và Hoàng gia qua các triều đại Lý – Trần – Lê. Khu di tích này rộng 4,530 ha, được khai quật từ tháng 12/2002, phân định làm 4 khu, đặt tên là A, B, C, D. Tại đây đã phát hiện rất nhiều dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc gỗ có quy mô bề thế và nhiều loại hình di vật có giá trị, bao gồm vật liệu trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ, đồ kim loại, đồ gỗ, di cốt động vật… có niên đại từ thế kỷ 7 – 9 đến thế kỷ 19, với hàng trăm kiểu mẫu khác nhau. Tại di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu đã tìm thấy những dấu tích cung điện quan trọng. Trải qua 10 thế kỷ với nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến thiên lịch sử và trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng các dấu tích kiến trúc, các loại hình di vật của cung điện xưa vẫn còn được bảo tồn tương đối tốt trong lòng đất. Trong khu di tích còn tìm thấy nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản,… phản ánh quan hệ giao lưu văn hoá giữa Thăng Long với thế giới. Đây là lần đầu tiên ở Hà Nội cũng như lần đầu tiên trong lịch sử khảo cổ học Việt Nam tìm thấy những dấu tích nền móng một quần thể kiến trúc cao cấp, đặc biệt đó là dấu tích kiến trúc của Kinh đô Thăng Long. Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long được ghi vào Danh mục Di sản Thế giới là một sự kiện có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với Việt Nam, thể hiện những bước đi vững chắc của chúng ta trong công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị đối với di tích đặc biệt quan trọng này.
Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội Kỳ họp lần thứ 34 của Ủy ban Di sản Thế giới họp tại Braxin ngày 31/7/2010 đã công nhận Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là Di sản văn hóa thế giới với tiêu chí (ii): minh chứng cho sự giao lưu giữa các ảnh hưởng đến chủ yếu từ Trung Quốc ở phía Bắc và Vương quốc Champa ở phía Nam, tiêu chí (iii): minh chứng cho truyền thống văn hóa lâu dài của người dân Việt được thành lập ở đồng bằng sông Hồng, đó là một trung tâm quyền lực liên tục từ TK 7 cho đến tận ngày nay, và tiêu chí (vi): liên quan trực tiếp tới nhiều sự kiện văn hóa – lịch sử quan trọng. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, với diện tích vùng lõi của di sản là 18,395ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Hai khu vực thuộc vùng lõi di sản là một hệ thống nhất nằm trong Cấm thành Thăng Long và cũng chính là trung tâm của Hoàng thành Thăng Long. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là bộ phận quan trọng nhất của Kinh thành Thăng Long – Kinh đô của quốc gia Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18. Thăng Long – Hà Nội là nơi giao thoa các giá trị văn hóa của Đông Á với Đông Nam Á trong một quá trình lịch sử rất lâu dài. Sự giao thoa đó được thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày 1000 năm. Tổng quan mô hình đô thị, kiểu dáng kiến trúc và nghệ thuật của Thăng Long – Hà Nội mang giá trị độc đáo và tiêu biểu cho sự phát triển liên tục của một trung tâm quyền lực chính trị kiểu Châu Á. Rất nhiều sự kiện mang tầm vóc quốc tế, bao gồm sự phát triển của các nhà nước độc lập, các hình mẫu nhà nước kiểu Châu Á, ảnh hưởng của văn hóa phương Đông, phương Tây, của chủ nghĩa thực dân và các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ II đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm và còn có thể nhìn thấy được trong không gian chung của khu di sản. Nhiều nét văn hóa và mỹ thuật độc đáo được hình thành tại Thăng Long và chính những giá trị đó đã làm cho khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long nổi lên như một trong những di sản văn hóa lớn nhất của dân tộc Việt Nam và mang tầm vóc quốc tế. Nhiều dấu tích nền móng cung điện, lầu gác và nhiều loại hình di vật độc đáo của Hoàng cung qua các thời kỳ lịch sử được các nhà khảo cổ học tìm thấy dưới lòng đất thuộc khu vực trung tâm Hoàng thành Thăng Long đã phản ánh sinh động về lịch sử phát triển lâu dài của Kinh đô Thăng Long. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng, nhưng đến nay vẫn còn thấy được cả di tích trên mặt đất, dưới lòng đất, di tích lịch sử cách mạng, di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ thuật,… tạo thành hệ thống các di tích được đánh giá là quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của nước ta. Khu di tích thành cổ Hà Nội: có diện tích rộng 13,865ha, hiện tại, trong khu vực trung tâm còn lại 5 điểm di tích nổi trên mặt đất phân bố theo trục Bắc – Nam, còn gọi là “Trục chính tâm”, “Trục ngự đạo”, gồm có: Kỳ Đài, Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn. Ngoài ra còn có hệ thống tường bao và kiến trúc cổng hành cung thời Nguyễn, di tích nhà và hầm D67, các công trình kiến trúc Pháp… – Kỳ đài: được xây dựng năm 1805 cùng thời gian nhà Nguyễn xây dựng toà thành kiểu Vauban, được xây trên nền cũ của Tam Môn, cổng phía ngoài của Cấm thành thời Lê. Kỳ Đài là một trong một những kiến trúc còn sót lại nguyên vẹn từ thời Nguyễn. – Nền điện Kính Thiên: xây dựng thời Lê sơ (1428) trên nền điện Càn Nguyên (sau đổi tên là điện Thiên An) thời Lý, Trần. Địa điểm này vốn là vị trí của núi Nùng (Long Đỗ – Rốn Rồng), được coi là tâm điểm của Cấm thành và Hoàng thành, nơi chung đúc khí thiêng của non sông đất nước theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền, mà di tích hiện còn là nền điện với bậc thềm và lan can đá chạm rồng thế kỷ 15. – Đoan Môn: cổng phía Nam, là lối đi chính để vào bên trong Cấm thành, nơi có điện Kính Thiên và các cung điện khác của vua. Từ thời Lý đã xây cổng ở đây, nhưng cổng Đoan Môn hiện còn là do nhà Lê sơ xây dựng (thế kỷ 15) và được sửa sang, tu bổ dưới thời Nguyễn (thế kỷ 19). Giữa Đoan Môn và điện Kính Thiên là khu Long Trì – một không gian mang ý nghĩa chính trị, văn hoá tâm linh rất quan trọng của Cấm thành, là nơi cử hành các nghi lễ chính trị và tôn giáo thiêng liêng, như sự kiện mở hội Nhân Vương, mở hội đèn Quảng Chiếu (năm 1136), duyệt Cấm quân (năm 1351), quốc nhân hội thề (năm 1128)… – Bắc môn: là cổng thành phía Bắc, một trong 5 cổng thành duy nhất còn lại của Thành Hà Nội thời Nguyễn, xây dựng năm 1805. Bắc Môn được xây bằng gạch với cổng vòm bằng đá. Năm 1999, các nhà khảo cổ đã phát hiện các phần còn lại của một bức tường xây bằng đá và gạch vồ, nền móng dày 1,2m và dấu tích của một kiến trúc khác thời Lê tại độ sâu từ 1,66m đến 2,20m. – Hậu lâu: còn gọi là Tĩnh Bắc Lâu, Lầu Công chúa, Pagode des Dames, hay tòa Hậu Điện. Công trình này được xây dựng vào thời Nguyễn (1821), là nơi nghỉ ngơi của các cung tần mỹ nữ trong đoàn tùy tùng của nhà vua khi tuần du từ Huế ra Bắc thành. Công trình này đã bị phá huỷ vào khoảng cuối thế kỷ 19. Phần kiến trúc hiện còn là công trình do người Pháp xây dựng lại. Khu di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm ở phía Tây điện Kính Thiên và là một phần cấu thành của Cấm Thành từ thời Lý cho đến cuối thời Lê Trung Hưng. Cấm thành là trung tâm đầu não của các vương triều, nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng bậc nhất của đất nước, trung tâm làm việc và nơi ở của Vua và Hoàng gia qua các triều đại Lý – Trần – Lê. Khu di tích này rộng 4,530 ha, được khai quật từ tháng 12/2002, phân định làm 4 khu, đặt tên là A, B, C, D. Tại đây đã phát hiện rất nhiều dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc gỗ có quy mô bề thế và nhiều loại hình di vật có giá trị, bao gồm vật liệu trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ, đồ kim loại, đồ gỗ, di cốt động vật… có niên đại từ thế kỷ 7 – 9 đến thế kỷ 19, với hàng trăm kiểu mẫu khác nhau. Tại di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu đã tìm thấy những dấu tích cung điện quan trọng. Trải qua 10 thế kỷ với nhiều cuộc chiến tranh, nhiều biến thiên lịch sử và trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng các dấu tích kiến trúc, các loại hình di vật của cung điện xưa vẫn còn được bảo tồn tương đối tốt trong lòng đất. Trong khu di tích còn tìm thấy nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản,… phản ánh quan hệ giao lưu văn hoá giữa Thăng Long với thế giới. Đây là lần đầu tiên ở Hà Nội cũng như lần đầu tiên trong lịch sử khảo cổ học Việt Nam tìm thấy những dấu tích nền móng một quần thể kiến trúc cao cấp, đặc biệt đó là dấu tích kiến trúc của Kinh đô Thăng Long. Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long được ghi vào Danh mục Di sản Thế giới là một sự kiện có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với Việt Nam, thể hiện những bước đi vững chắc của chúng ta trong công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị đối với di tích đặc biệt quan trọng này.
Chu Văn An – người thầy chuẩn mực muôn đời của Việt Nam Mở trường dân lập, dạy học cho nhân dân cả nước Ở thời Chu Văn An, trường học còn rất hiếm. Cả nước chỉ có một trường quốc lập là Quốc Tử Giám ở kinh đô dành cho con vua, con quan, sau mở rộng cho những người tài trong nhân dân theo học. Tư Thiện Đường, Toát Trai Đường ở Thiên Trường ( Nam Định ) chỉ dành cho con em tôn thất nhà Trần. Trường Yên Tử ( Quảng Ninh ) hay Hương Sơn (Hà Tây cũ) dành riêng cho nhà chùa. Bởi trường lớp quá ít, con em nhân dân phần lớn thất học, Chu Văn An đã mở trường Huỳnh Cung tại quê nhà (Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội ngày nay) để dạy học. “Trường có lớp, thư viện…. Học trò đến học ở trường Huỳnh Cung khá đông, đến 3.000”, tác giả Trần Lê Sáng viết trong cuốn Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp – ba bậc thầy của giáo dục Việt Nam . Thời kỳ dạy học ở Huỳnh Cung, Chu Văn An chuyên truyền đạt kinh điển Nho giáo, mục đích cao nhất của ông không ngoài “giáo kính, giáo trung, giáo văn”, nghĩa là dạy sự cung kính, trung hậu và văn nhã. Học trò ở trường Huỳnh Cung cũng chịu ảnh hưởng của thầy Chu rất lớn. Trong khoa thi năm 1314, hai học trò của ông đỗ Thái học sinh, tương đương học vị tiến sĩ. Việc này gây tiếng vang lớn trong giới sĩ tử đương thời. Thầy giáo Chu Văn An và trường Huỳnh Cung được cả nước biết đến. Trường Huỳnh Cung trở thành mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của nền giáo dục Việt Nam. Kể từ đây, bên cạnh trường quốc lập, các trường dân lập phát triển, đông đảo con em nhân dân có nơi học tập, sự nghiệp giáo dục nước nhà mở rộng hơn trước. Trở thành Hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám Sau khi danh tiếng của Chu Văn An và trường Huỳnh Cung được cả nước biết tới, ông được vua Trần Minh Tông mời ra làm Tư nghiệp (hiệu trưởng) trường Quốc Tử Giám, trông coi việc học cho cả nước. Dù được phong chức Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, những năm đầu, Chu Văn An chỉ có trách nhiệm chính là kèm cặp thái tử Trần Vượng, đào tạo vua mới cho nước nhà. Sau khi Trần Vượng (tức vua Trần Hiến Tông) lên ngôi năm 1329, Chu Văn An mới thực sự chuyên tâm vào công việc ở trường Quốc Tử Giám. Ông cho mở mang trường, viết Tứ thư thuyết ước , tóm tắt bốn bộ sách lớn là Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học và Trung dung , làm giáo trình dạy học. Kể từ thời Chu Văn An trở về sau, Quốc Tử Giám mỗi ngày được củng cố, mở rộng. Thời gian làm hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám đem đến cho Chu Văn An nhiều vinh quang mới, nhưng cũng khiến ông gặp đầy sóng gió. Vua Hiến Tông, học trò của ông ở ngôi được hai năm thì qua đời, công lao hơn mười năm đào tạo khó nhọc và hy vọng củng cố nhà Trần của thầy trò tiêu tan. Lúc này, vua Trần Dụ Tông lên thay, triều chính đất nước rối ren. Vua ham mê tửu sắc, nóng nảy, nông cạn. Trong triều, quyền gian liên kết hoành hành, bên ngoài giặc giã dấy lên cướp bóc. Thấy chính sự bê bối, nhà giáo Chu Văn An phẫn nộ. Ông đã viết Thất trảm sớ , đòi chém 7 kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Dù bị vua Dụ Tông phớt lờ, tấu sớ của hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám gây chấn động dư luận bởi theo quy chế lúc bấy giờ, chỉ quan Ngự sử mới được quyền can gián vua. Rời kinh thành về Chí Linh dạy học tới cuối đời Theo Đại Việt sử ký toàn thư , sau khi dâng Thất trảm sớ nhưng không được vua trả lời, Chu Văn An rời kinh thành về vùng đất Chí Linh (Hải Dương) mở trường tiếp tục dạy học. Dù là nơi thâm sâu cùng cốc, số học trò đến với thầy Chu vẫn đông. Lúc này, Chu Văn An lấy hiệu là Tiều Ẩn, chỉ lấy việc dạy học, làm thơ cho vui. Từ khi Chu Văn An về, Chí Linh dấy lên phong trào học tập, nhiều người học giỏi nổi tiếng. Đặc biệt, ở đời nhà Mạc, huyện này có bà Nguyễn Thị Duệ thi đỗ tiến sĩ, là nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của Việt Nam thời phong kiến. Ngoài ra còn có Nguyễn Phong, mới 14 tuổi đã cùng cha thi đỗ kỳ thi Hương, 26 tuổi đỗ tiến sĩ. Những ngày dạy học ở Chí Linh, Chu Văn An còn trồng cây thuốc, nghiên cứu y học, giúp người dân chữa bệnh. Dù ở xa, nhiều học trò cũ đã làm quan vẫn về thăm ông. Đại Việt sử ký viết khi học trò về thăm, ai làm điều gì chưa đúng phép, ông vẫn nghiêm khắc dạy bảo. Điều này khiến học trò càng thêm kính mến. Tượng thầy giáo Chu Văn An trong khuôn viên trường THPT Chu Văn An (Hà Nội). Ảnh: Quỳnh Trang Cuối đời, Chu Văn An sống thanh thản trong cảnh nghèo, vui với lớp học, văn chương. Triều đình nhiều lần mời về nhưng ông nhất định từ chối. Thế nhưng lòng ông vẫn hướng về nhà Trần. Sau khi vua Trần Nghệ Tông dẹp yên loạn Dương Nhật Lễ, lấy lại được ngôi vua, Chu Văn An dù tuổi cao vẫn về triều chúc mừng. Việc làm đó của ông khiến nhân dân và sĩ phu đương thời quý trọng. Trở lại Chí Linh, Chu Văn An lúc bấy giờ gần 80 tuổi, ốm nặng. Tháng 11/1370, ông trút hơi thở cuối cùng. Sau khi mất, triều đình đã đưa Chu Văn An vào thờ ở Văn Miếu, xem ông ngang hàng với những bậc thánh hiền ngày xưa. “Suốt cuộc đời mình, Chu Văn An không lúc nào sao nhãng sự nghiệp giáo dục… Điểm nổi bật trong công lao đóng góp của ông là việc sáng lập nên trường học trong nhân dân; việc học và dạy có kết quả lớn. Trường Huỳnh Cung đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch trình phát triển sâu rộng của nền giáo dục nước ta”, tác giả Trần Lê Sáng khẳng định. Năm 2018, Việt Nam đã xây dựng hồ sơ khoa học về danh nhân Chu Văn An để đề nghị UNESCO phối hợp tổ chức kỷ niệm 650 năm ngày mất của ông vào năm 2020. Phó chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia Đặng Văn Bài khẳng định Chu Văn An có ảnh hưởng lớn tới nền giáo dục Việt Nam. Tư tưởng nổi bật của ông là tự học, tự lập, học tập suốt đời và là tấm gương tôn sư trọng đạo. Để tưởng nhớ Chu Văn An, nhiều đường phố, trường học khắp cả nước được đặt theo tên ông. Gần đây nhất, trường Bưởi – Chu Văn An vừa kỷ niệm 110 năm thành lập. Giữa khoảng sân của ngôi trường cổ kính, tượng đài Chu Văn An đứng sừng sững như biểu tượng nhắc nhở thầy trò phải phấn đấu học tập. Vào những dịp như năm học mới hay ngày 20/11, nhiều thầy cô, học sinh, cựu học sinh tới trường Chu Văn An để thắp nén hương tưởng nhớ ông. Dương Tâm
Chu Van An - Vietnam's eternal teacher Open private schools, teach people across the country During Chu Van An's time, schools were still very rare. There is only one national school in the whole country, Quoc Tu Giam in the capital, for children of kings and mandarins. Later, it was expanded to allow talented people among the people to study. Tu Thien Duong, Toat Trai Duong in Thien Truong ( Nam Dinh ) is only for children of the Tran dynasty's royal family. Yen Tu School ( Quang Ninh ) or Huong Son (old Ha Tay) reserved for pagodas. Because there were too few schools and most of the people's children were illiterate, Chu Van An opened Huynh Cung school in his hometown (present-day Thanh Liet, Thanh Tri, Hanoi) to teach. “The school has classrooms, a library…. There are quite a large number of students coming to study at Huynh Cung school, up to 3,000," author Tran Le Sang wrote in the book Chu Van An, Nguyen Binh Khiem, Nguyen Thiep - three masters of Vietnamese education . During the teaching period at Huynh Cung, Chu Van An Specialized in conveying Confucian classics, his highest goal was not to "teach reverence, teach integrity, teach literature", which means teaching respect, loyalty and civility. Students at Huynh Cung school are also greatly influenced by Mr. Chu. In the 1314 exam, two of his students passed the Thai student exam, equivalent to a doctorate. This caused great resonance among contemporary scholars. Teacher Chu Van An and Huynh Cung school are known nationwide. Huynh Cung School became an important milestone in the history of development of Vietnamese education. From now on, besides national schools, private schools developed, many people's children had places to study, and the country's education career expanded more than before. Became Principal of Quoc Tu Giam School After the reputation of Chu Van An and Huynh Cung school became known throughout the country, he was invited by King Tran Minh Tong to become Tu Nghiep (principal) of Quoc Tu Giam school, overseeing learning for the whole country. Although he was ordained as a Tutor at Quoc Tu Giam School, in the early years, Chu Van An's main responsibility was to tutor Crown Prince Tran Vuong and train a new king for the country. After Tran Vuong (King Tran Hien Tong) ascended the throne in 1329, Chu Van An really focused on his work at Quoc Tu Giam school. He opened schools and wrote Four books of wishful thinking , summarizing four major book series are Analects, Mencius, University and Neutral , making teaching textbooks. From the time of Chu Van An onwards, Quoc Tu Giam was strengthened and expanded every day. His time as principal of Quoc Tu Giam school brought Chu Van An many new glories, but also caused him many difficulties. King Hien Tong, his student had been on the throne for two years, then passed away, his efforts of more than ten years of hard training and his hopes of consolidating the Tran Dynasty were gone. At this time, King Tran Du Tong took over, causing chaos in the country's government. The king indulged in alcohol, was hot-tempered, and shallow. Inside the court, traitors and tyrants raged, and outside, enemies rose up to plunder. Seeing the scandal, teacher Chu Van An was indignant. He wrote Seven beheadings , demanded that seven flatterers be beheaded, all of whom were powerful people loved by the king. Although ignored by King Du Tong, the principal's statement of Quoc Tu Giam school shocked public opinion because according to the regulations at that time, only the royal court official had the right to remonstrate with the king. Left the capital and returned to Chi Linh to teach for the rest of his life According to Complete history of Dai Viet , after offering Seven beheadings But without the king's answer, Chu Van An left the capital to go to Chi Linh (Hai Duong) to open a school to continue teaching. Even though it is a remote place, the number of students coming to Master Chu is still large. At this time, Chu Van An took the name Tieu An, only teaching and writing poetry for fun. Since Chu Van An returned, Chi Linh has sparked a learning movement, with many famous good learners. In particular, during the Mac Dynasty, this district had Ms. Nguyen Thi Due pass the doctoral exam, the first and only female doctorate in feudal Vietnam. There is also Nguyen Phong, who at 14 years old passed the Huong exam with his father, and at 26 years old passed his doctorate. During his teaching days in Chi Linh, Chu Van An also grew medicinal plants, researched medicine, and helped people treat diseases. Even though he was far away, many of his former students who had become mandarins still came to visit him. History of Dai Viet He wrote that when his students came to visit, if anyone did something improper, he still strictly taught them. This makes students respect him even more. Statue of teacher Chu Van An on the campus of Chu Van An High School (Hanoi). Photo: Quynh Trang At the end of his life, Chu Van An lived peacefully in poverty, happy with class and literature. The court invited him back many times but he definitely refused. But his heart still turned to the Tran family. After King Tran Nghe Tong quelled Duong Nhat Le's rebellion and regained the throne, Chu Van An, despite his old age, still returned to the court to congratulate him. His work earned the respect of the people and scholars of his time. Returning to Chi Linh, Chu Van An was then nearly 80 years old and seriously ill. In November 1370, he breathed his last. After his death, the court brought Chu Van An to worship at the Temple of Literature, considering him equal to the saints of the past. “Throughout his life, Chu Van An never neglected the cause of education... The highlight of his contributions was the founding of schools among the people; Learning and teaching have great results. Huynh Cung School marks an important milestone in the extensive development schedule of our country's education system," author Tran Le Sang affirmed. In 2018, Vietnam built a scientific profile on famous person Chu Van An to request UNESCO to coordinate in celebrating the 650th anniversary of his death in 2020. Vice Chairman of the National Cultural Heritage Council Dang Van Bai affirmed that Chu Van An had a great influence on Vietnamese education. His outstanding ideology is self-study, independence, lifelong learning and an example of respecting his teacher. To commemorate Chu Van An, many streets and schools across the country are named after him. Most recently, Buoi - Chu Van An school just celebrated its 110th anniversary of establishment. In the middle of the courtyard of the ancient school, the Chu Van An monument stands tall as a symbol reminding teachers and students to strive to study. On occasions such as the new school year or November 20, many teachers, students, and alumni come to Chu Van An school to light incense sticks to commemorate him. Duong Tam
Tuyên ngôn Độc lập Ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam Bản Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội , Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Bản Tuyên ngôn đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Trải qua 75 năm, Tuyên ngôn Độc lập vẫn mang tính thời sự sâu sắc cả trên bình diện trong nước và quốc tế. Quyền con người gắn liền với quyền dân tộc Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc. Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791. Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc. “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (1). Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Nghiên cứu về Tuyên ngôn Độc lập, giáo sư Singô Sibata (Nhật Bản) cho rằng “cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình” (2). Bởi vậy, có thể nói Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập” Quyền độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những giá trị cơ bản nhất của nhân quyền. Nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam, những quyền đó bị tước bỏ và chà đạp. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.” “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân trong những bể máu… Về kinh tế, chúng bóc lột công nhân, nông dân đến tận xương tủy… Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu… Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho nhân dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng…” (3). Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến và đế quốc, giành lại độc lập, tự do và quyền con người. Như vậy, nhân quyền ở Việt Nam không phải là giá trị do ai ban phát mà là kết quả của cuộc đấu tranh trường kỳ của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh đó đã làm cho “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” (4). Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” (5); đồng thời nhấn mạnh, “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam” (6). Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Những dấu mốc đáng nhớ Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (7). Với hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc bén, lời lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục gói gọn trong hơn 1.000 chữ, Tuyên ngôn Độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, đặt cơ sở cho việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với mục tiêu Độc lập-Tự do-Hạnh phúc; soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mãi trường tồn với thời gian 75 năm đã trôi qua, nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đặc biệt, những giá trị về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng trong Tuyên ngôn Độc lập là những giá trị bất hủ. Từ đó đến nay, nhân dân Việt Nam đã không ngừng phấn đấu cho quyền con người và đạt được nhiều kết quả tích cực, rất quan trọng. Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và luật. Với những thành tựu về việc bảo đảm quyền con người (cả trên lĩnh vực đối nội và đối ngoại), Việt Nam được bầu làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016). Đông đảo nhân dân tập trung tại vườn hoa Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945. (Nguồn: Tư liệu TTXVN) Kể từ ngày bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời đến nay, vị thế đất nước đã có nhiều đổi thay, lời thề lịch sử “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” luôn rọi sáng mọi trái tim, khối óc của người Việt Nam yêu nước trên mọi vùng, miền của Tổ quốc và định cư ở nước ngoài. Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của toàn dân tộc, giúp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong đấu tranh thống nhất đất nước, phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, sau gần 35 năm tiến hành đổi mới, nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên; tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực; Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam dần được cải thiện, hiện đang thuộc nhóm trung bình cao và đứng thứ 118/189 quốc gia (năm 2019); mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên… Cùng với đó, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia trên thế giới; gia nhập và tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ… Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tinh thần bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam, không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập, tự do như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện./. Minh Duyên (TTXVN/Vietnam+) (1), (3), (4), (5), (6), (7): trích Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011sđd, tập 4, tr. 1,2,3 (2): Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 96.
Tuyên ngôn Độc lập Ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam Bản Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội , Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Bản Tuyên ngôn đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Trải qua 75 năm, Tuyên ngôn Độc lập vẫn mang tính thời sự sâu sắc cả trên bình diện trong nước và quốc tế. Quyền con người gắn liền với quyền dân tộc Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc. Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791. Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc. “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (1). Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Nghiên cứu về Tuyên ngôn Độc lập, giáo sư Singô Sibata (Nhật Bản) cho rằng “cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình” (2). Bởi vậy, có thể nói Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập” Quyền độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những giá trị cơ bản nhất của nhân quyền. Nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam, những quyền đó bị tước bỏ và chà đạp. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.” “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân trong những bể máu… Về kinh tế, chúng bóc lột công nhân, nông dân đến tận xương tủy… Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu… Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho nhân dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng…” (3). Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến và đế quốc, giành lại độc lập, tự do và quyền con người. Như vậy, nhân quyền ở Việt Nam không phải là giá trị do ai ban phát mà là kết quả của cuộc đấu tranh trường kỳ của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh đó đã làm cho “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa” (4). Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” (5); đồng thời nhấn mạnh, “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam” (6). Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Những dấu mốc đáng nhớ Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (7). Với hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc bén, lời lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục gói gọn trong hơn 1.000 chữ, Tuyên ngôn Độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, đặt cơ sở cho việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với mục tiêu Độc lập-Tự do-Hạnh phúc; soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mãi trường tồn với thời gian 75 năm đã trôi qua, nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đặc biệt, những giá trị về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng trong Tuyên ngôn Độc lập là những giá trị bất hủ. Từ đó đến nay, nhân dân Việt Nam đã không ngừng phấn đấu cho quyền con người và đạt được nhiều kết quả tích cực, rất quan trọng. Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và luật. Với những thành tựu về việc bảo đảm quyền con người (cả trên lĩnh vực đối nội và đối ngoại), Việt Nam được bầu làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016). Đông đảo nhân dân tập trung tại vườn hoa Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945. (Nguồn: Tư liệu TTXVN) Kể từ ngày bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời đến nay, vị thế đất nước đã có nhiều đổi thay, lời thề lịch sử “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” luôn rọi sáng mọi trái tim, khối óc của người Việt Nam yêu nước trên mọi vùng, miền của Tổ quốc và định cư ở nước ngoài. Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của toàn dân tộc, giúp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong đấu tranh thống nhất đất nước, phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, sau gần 35 năm tiến hành đổi mới, nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên; tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực; Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam dần được cải thiện, hiện đang thuộc nhóm trung bình cao và đứng thứ 118/189 quốc gia (năm 2019); mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên… Cùng với đó, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia trên thế giới; gia nhập và tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ… Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tinh thần bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam, không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập, tự do như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện./. Minh Duyên (TTXVN/Vietnam+) (1), (3), (4), (5), (6), (7): trích Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011sđd, tập 4, tr. 1,2,3 (2): Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 96.
Ðại danh y Lê Hữu Trác, tấm gương sáng về y đức, y thuật Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (trong ảnh) sinh năm Giáp Thìn – 1724 (cũng có tài liệu ghi chép ông sinh năm Canh Tý, 1720) tại làng Liêu Xá, huyện Ðường Hào, Phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ , tỉnh Hưng Yên ). Tuy nhiên, cuộc đời ông chủ yếu lại gắn bó với quê mẹ thôn Bàu Thượng, xã Tình Diệm, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn , Hà Tĩnh . Ông là con thứ bảy (bố là Lê Hữu Mưu, mẹ là bà Bùi Thị Thường) nên thường được gọi là cậu Chiêu Bảy. Dòng tộc ông từng nổi tiếng với truyền thống khoa bảng: Ông nội, bác, chú, anh và em họ đều đỗ tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh ông đỗ Ðệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư. Sinh ra trong một cự tộc, được theo cha học tập ở kinh kỳ, Lê Hữu Trác sớm nổi tiếng tinh anh, thông thạo cả nho, y, lý, số… Nhưng thời đại ông là một trong những thời kỳ rối ren nhất trong lịch sử dân tộc, chiến tranh liên miên, triều chính khủng hoảng, Vua Lê – Chúa Trịnh chèn ép nhau, rồi cát cứ, giao tranh Ðằng trong – Ðằng ngoài, dân tình đói khổ, phiêu tán… Tư chất thông minh, truyền thống gia đình và hoàn cảnh xô đẩy của cuộc đời đã giúp ông sớm nhận thức được bản chất xã hội; vì vậy, khác với nhiều sĩ tử cùng thời, ông đã kiên quyết khước từ con đường cử nghiệp để ẩn về quê mẹ, vừa trông nom gia đình, vừa đọc sách, làm thơ, chữa bệnh cứu người như lời ông tâm sự: ‘Sá chi vinh nhục việc đời/ Ðem thân đạo nghĩa vào nơi lâm tuyền’. Hơn 40 năm ẩn cư, mặc dù tự nhận mình là ‘Lãn Ông’ – ông già lười, nhưng thật sự đó là những năm tháng lao động, làm việc cần cù nhất, tâm huyết nhất và cũng đầy sức sáng tạo của Hải Thượng (tên hiệu lấy theo nguyên quán của ông là phủ Thượng Hồng, Hải Dương; Thượng cũng còn có nghĩa là thôn Bàu Thượng, quê mẹ ở Hương Sơn). Cùng với chữa bệnh cứu người, ông đã miệt mài đọc sách, nghiên cứu về y thuật, y lý, tìm kiếm, khảo cứu, điều chế các loài dược liệu trong vùng, tổng hợp, sáng tạo ra nhiều bài thuốc dân gian, nhiều cách chữa bệnh đơn giản, hiệu quả. Ngày 12 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782), Chúa Trịnh triệu ông ra kinh đô chữa bệnh. Gắng xong bổn phận, ông lại cáo xin về quê ngoại để tiếp tục sự nghiệp trị bệnh cứu người; bổ sung bộ ‘Y tông tâm lĩnh’, viết thêm tác phẩm ‘Thượng kinh ký sự’… Ông thanh thản ra đi đúng vào ngày Rằm tháng Giêng năm Tân Hợi – 1791. Tương truyền, trước lúc lâm chung, ông dặn con cháu thả một cánh diều ông thường chơi và buộc ở góc nhà, diều rơi ở đâu thì táng ông ở đấy. Có lẽ vì vậy nên núi Minh Tự nơi có ngôi mộ ông ở xã Sơn Trung, Hương Sơn từ lâu nay được nhân dân trong vùng gọi là núi Cánh Diều. Cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông như một viên ngọc quý, càng mài càng thấy sáng. Trước hết, đó là một đại danh y với học vấn uyên thâm, am tường thiên văn, địa lý, hiểu sâu sắc thời vận, không ngại gian khổ, cần cù, độc lập, sáng tạo trong nghiên cứu y học. Suốt cả cuộc đời làm thuốc, ông đã có công sưu tầm, phát hiện và bổ sung 300 vị thuốc nam, thu thập tổng hợp 2.854 phương thuốc hay của các bậc tiền bối lưu truyền trong dân gian. Sau hơn 40 năm miệt mài nghiên cứu và tận tụy chữa bệnh cứu người, ông đã để lại cho nền y học Việt Nam một di sản quý giá, đặc biệt là bộ sách ‘Y tông tâm lĩnh’ được khắc in vào năm 1885, gồm 28 tập, 66 quyển. Trong tác phẩm đồ sộ này, Hải Thượng đã đúc kết tinh hoa y học cổ truyền Phương Ðông và y học cổ truyền Việt Nam, thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của bản thân, xây dựng thành hệ thống toàn bộ Lý, Pháp, Phương, Dược của nền y học nước nhà. Những trước tác mà đại danh y để lại chính là bộ giáo khoa kinh điển mẫu mực, góp phần đào tạo, bồi dưỡng về y đức, y đạo, y thuật cho các thầy thuốc đời sau. Chín điều ‘Y huấn cách ngôn’ chính là khuôn phép, nguyên tắc của người hành nghề y dược; tám chữ: Nhân ái, sáng suốt, đức độ, hiểu biết, rộng lượng, thành thực, khiêm tốn và cần cù mãi là kim chỉ nam về y đức cho những người thầy thuốc chân chính. Cùng với thời gian, những lời di huấn đó ngày càng tỏa sáng trong tâm hồn các thế hệ thầy thuốc: ‘Ðạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi kể công’. Lê Hữu Trác còn là một nhà văn xuất sắc. Tác phẩm ‘Thượng kinh ký sự’ ghi chép lại những sự kiện, những điều mắt thấy tai nghe khi ông lên kinh đô chữa bệnh cho nhà chúa; nhưng thông qua tác phẩm có thể thấy rõ tính cách của ông, một con người coi thường danh lợi, một nghệ sĩ giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật. Tác phẩm đã độc chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Hoặc trong sách ‘Âm dương y án’ chỉ ghi lại một số câu chuyện chữa bệnh nhưng lại có giá trị nhân văn sâu sắc. Người đương thời đã nhận xét: ‘Tiên sinh là bậc tuổi cao, đức dày, có tài làm thuốc của Hiên Viên, Kỳ Bá; có tài làm thơ của Lý Bạch, Ðỗ Phủ; lại có cái chí nhàn dật, cái tình phong nhã của một bậc cao sĩ. Bao nhiêu nhân văn, tài tử muốn xin theo hầu’. Từ cuộc đời và sự nghiệp của mình, Hải Thượng Lãn Ông còn để lại cho hậu thế những giá trị lớn về tư tưởng. Ðó là quan điểm về cuộc sống, quyết tâm vứt bỏ ‘cái chí bon chen trong trường danh lợi’ để theo đuổi chí hướng ‘Nghề y thiết thực lợi ích cho mình, giúp đỡ mọi người’. Về nghề nghiệp, với ông ‘nghề thuốc là một nghề thanh cao, là một nghề có lòng nhân ái’. Về trước tác và truyền thụ, ông muốn ‘thâu tóm toàn bộ hàng trăm cuốn sách, đúc thành một pho để tiện xem, tiện đọc’ và xem đây như là một yêu cầu của thời bấy giờ. Vì vậy, sách của ông viết xong đến đâu là có người chép tay truyền nhau. Về kế thừa và học tập, ông nêu cao tinh thần khổ học, học phải có chọn lọc, có sáng tạo, có phương pháp và với tinh thần suy nghĩ độc lập cao. Khó có người làm thuốc nào như ông không hề giấu ‘dốt’, dám trình bày lại những trường hợp bệnh chữa không khỏi, người bệnh đã chết để người sau rút kinh nghiệm: ‘Nhưng thói thường cứu được một người thì hoa chân múa tay biểu dương cho mọi người cùng biết, còn lỡ thất bại thì giấu đi, thường người ta hay giấu những thói xấu của mình mà không đem sự thực nói với người khác… Trong việc chữa bệnh, tôi từng ứng biến để đối phó với bệnh tình, chuyển nặng ra nhẹ, cứu chết lấy sống được bao nhiêu trường hợp mà vẫn có những chứng phải bó tay đợi chết cũng không phải là ít. Tôi không tự thẹn với trình độ thấp kém trong việc cứu người cho nên ngoài những ‘Dương án’ lại chép thêm một tập kể lại những lời khó nói ra được, gọi là ‘Âm án’. Mong những bậc trí thức có chí làm thuốc sau này, khi thấy những chỗ hay của tôi chưa đáng bắt chước, nhưng thấy chỗ dở của tôi cần phải lấy làm gương, không nên quá yêu tôi mà bảo chỉ chữa được bệnh mà không chữa được mệnh’…. Về phong cách đối nhân xử thế, ông luôn khiêm tốn, không hề tự cao, tự đại, luôn tranh thủ sự đồng tình của người khác để cầu học hoặc thu kết quả trong việc làm. Ðối với người bệnh, theo ông phải biết ‘quên mình cứu chữa người ta’. Cùng với các trước tác để lại, chính cuộc đời 70 mùa xuân của Hải Thượng Lãn Ông, với 44 năm sống, làm thuốc, chữa bệnh cứu người trên quê mẹ Hương Sơn, Hà Tĩnh, với tài cao, đức rộng, cốt cách thanh tao, Lê Hữu Trác đã trở thành một danh nhân văn hóa, một thiên tài kiệt xuất của nền y học cổ truyền Việt Nam… Ðể tôn vinh và khắc ghi công lao to lớn của ông, trong nhiều thập kỷ qua, cùng với hậu duệ của dòng họ Lê Hữu ở quê cha và quê mẹ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế cùng chính quyền, nhân dân các địa phương đã dành nhiều công sức gìn giữ, tôn tạo và phát huy những giá trị di sản đại danh y để lại. Dự án tu bổ, tôn tạo quần thể di tích Hải Thượng Lãn Ông tại Hương Sơn, Hà Tĩnh do Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác làm chủ đầu tư đã được triển khai, đến nay nhiều hạng mục đã hoàn thành và phát huy hiệu quả. Tỉnh cũng đang phối hợp với một số tổ chức văn hóa, khoa học nghiên cứu xây dựng Ðề án phát triển bền vững khu vực này trên cơ sở kết hợp các tiềm năng, lợi thế về di sản văn hóa – tâm linh với du lịch sinh thái, dịch vụ y tế, chăn nuôi, trồng và chế dược liệu… Tại xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên, các di tích liên quan đến dòng họ Lê Hữu cũng đã xếp hạng quốc gia và được đầu tư tôn tạo. Vào dịp kỷ niệm 220 năm Ngày mất của ông, UBND tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Bộ Y tế, Hội Ðông y Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động tưởng niệm có ý nghĩa, trong đó có Lễ kỷ niệm, trao giải thưởng y học dân tộc Hải Thượng Lãn Ông lần thứ nhất. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh phối hợp với Viện Bỏng quốc gia tổ chức trưng bày trọn bộ ‘Y tông tâm lĩnh’ mới được phục chế, xây dựng chương trình nghệ thuật ‘Nghĩa tình đất mẹ’ với nhiều ca khúc, tiết mục mới về cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông…
Ðại danh y Lê Hữu Trác, tấm gương sáng về y đức, y thuật Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (trong ảnh) sinh năm Giáp Thìn – 1724 (cũng có tài liệu ghi chép ông sinh năm Canh Tý, 1720) tại làng Liêu Xá, huyện Ðường Hào, Phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ , tỉnh Hưng Yên ). Tuy nhiên, cuộc đời ông chủ yếu lại gắn bó với quê mẹ thôn Bàu Thượng, xã Tình Diệm, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn , Hà Tĩnh . Ông là con thứ bảy (bố là Lê Hữu Mưu, mẹ là bà Bùi Thị Thường) nên thường được gọi là cậu Chiêu Bảy. Dòng tộc ông từng nổi tiếng với truyền thống khoa bảng: Ông nội, bác, chú, anh và em họ đều đỗ tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh ông đỗ Ðệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư. Sinh ra trong một cự tộc, được theo cha học tập ở kinh kỳ, Lê Hữu Trác sớm nổi tiếng tinh anh, thông thạo cả nho, y, lý, số… Nhưng thời đại ông là một trong những thời kỳ rối ren nhất trong lịch sử dân tộc, chiến tranh liên miên, triều chính khủng hoảng, Vua Lê – Chúa Trịnh chèn ép nhau, rồi cát cứ, giao tranh Ðằng trong – Ðằng ngoài, dân tình đói khổ, phiêu tán… Tư chất thông minh, truyền thống gia đình và hoàn cảnh xô đẩy của cuộc đời đã giúp ông sớm nhận thức được bản chất xã hội; vì vậy, khác với nhiều sĩ tử cùng thời, ông đã kiên quyết khước từ con đường cử nghiệp để ẩn về quê mẹ, vừa trông nom gia đình, vừa đọc sách, làm thơ, chữa bệnh cứu người như lời ông tâm sự: ‘Sá chi vinh nhục việc đời/ Ðem thân đạo nghĩa vào nơi lâm tuyền’. Hơn 40 năm ẩn cư, mặc dù tự nhận mình là ‘Lãn Ông’ – ông già lười, nhưng thật sự đó là những năm tháng lao động, làm việc cần cù nhất, tâm huyết nhất và cũng đầy sức sáng tạo của Hải Thượng (tên hiệu lấy theo nguyên quán của ông là phủ Thượng Hồng, Hải Dương; Thượng cũng còn có nghĩa là thôn Bàu Thượng, quê mẹ ở Hương Sơn). Cùng với chữa bệnh cứu người, ông đã miệt mài đọc sách, nghiên cứu về y thuật, y lý, tìm kiếm, khảo cứu, điều chế các loài dược liệu trong vùng, tổng hợp, sáng tạo ra nhiều bài thuốc dân gian, nhiều cách chữa bệnh đơn giản, hiệu quả. Ngày 12 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782), Chúa Trịnh triệu ông ra kinh đô chữa bệnh. Gắng xong bổn phận, ông lại cáo xin về quê ngoại để tiếp tục sự nghiệp trị bệnh cứu người; bổ sung bộ ‘Y tông tâm lĩnh’, viết thêm tác phẩm ‘Thượng kinh ký sự’… Ông thanh thản ra đi đúng vào ngày Rằm tháng Giêng năm Tân Hợi – 1791. Tương truyền, trước lúc lâm chung, ông dặn con cháu thả một cánh diều ông thường chơi và buộc ở góc nhà, diều rơi ở đâu thì táng ông ở đấy. Có lẽ vì vậy nên núi Minh Tự nơi có ngôi mộ ông ở xã Sơn Trung, Hương Sơn từ lâu nay được nhân dân trong vùng gọi là núi Cánh Diều. Cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông như một viên ngọc quý, càng mài càng thấy sáng. Trước hết, đó là một đại danh y với học vấn uyên thâm, am tường thiên văn, địa lý, hiểu sâu sắc thời vận, không ngại gian khổ, cần cù, độc lập, sáng tạo trong nghiên cứu y học. Suốt cả cuộc đời làm thuốc, ông đã có công sưu tầm, phát hiện và bổ sung 300 vị thuốc nam, thu thập tổng hợp 2.854 phương thuốc hay của các bậc tiền bối lưu truyền trong dân gian. Sau hơn 40 năm miệt mài nghiên cứu và tận tụy chữa bệnh cứu người, ông đã để lại cho nền y học Việt Nam một di sản quý giá, đặc biệt là bộ sách ‘Y tông tâm lĩnh’ được khắc in vào năm 1885, gồm 28 tập, 66 quyển. Trong tác phẩm đồ sộ này, Hải Thượng đã đúc kết tinh hoa y học cổ truyền Phương Ðông và y học cổ truyền Việt Nam, thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của bản thân, xây dựng thành hệ thống toàn bộ Lý, Pháp, Phương, Dược của nền y học nước nhà. Những trước tác mà đại danh y để lại chính là bộ giáo khoa kinh điển mẫu mực, góp phần đào tạo, bồi dưỡng về y đức, y đạo, y thuật cho các thầy thuốc đời sau. Chín điều ‘Y huấn cách ngôn’ chính là khuôn phép, nguyên tắc của người hành nghề y dược; tám chữ: Nhân ái, sáng suốt, đức độ, hiểu biết, rộng lượng, thành thực, khiêm tốn và cần cù mãi là kim chỉ nam về y đức cho những người thầy thuốc chân chính. Cùng với thời gian, những lời di huấn đó ngày càng tỏa sáng trong tâm hồn các thế hệ thầy thuốc: ‘Ðạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi kể công’. Lê Hữu Trác còn là một nhà văn xuất sắc. Tác phẩm ‘Thượng kinh ký sự’ ghi chép lại những sự kiện, những điều mắt thấy tai nghe khi ông lên kinh đô chữa bệnh cho nhà chúa; nhưng thông qua tác phẩm có thể thấy rõ tính cách của ông, một con người coi thường danh lợi, một nghệ sĩ giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật. Tác phẩm đã độc chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Hoặc trong sách ‘Âm dương y án’ chỉ ghi lại một số câu chuyện chữa bệnh nhưng lại có giá trị nhân văn sâu sắc. Người đương thời đã nhận xét: ‘Tiên sinh là bậc tuổi cao, đức dày, có tài làm thuốc của Hiên Viên, Kỳ Bá; có tài làm thơ của Lý Bạch, Ðỗ Phủ; lại có cái chí nhàn dật, cái tình phong nhã của một bậc cao sĩ. Bao nhiêu nhân văn, tài tử muốn xin theo hầu’. Từ cuộc đời và sự nghiệp của mình, Hải Thượng Lãn Ông còn để lại cho hậu thế những giá trị lớn về tư tưởng. Ðó là quan điểm về cuộc sống, quyết tâm vứt bỏ ‘cái chí bon chen trong trường danh lợi’ để theo đuổi chí hướng ‘Nghề y thiết thực lợi ích cho mình, giúp đỡ mọi người’. Về nghề nghiệp, với ông ‘nghề thuốc là một nghề thanh cao, là một nghề có lòng nhân ái’. Về trước tác và truyền thụ, ông muốn ‘thâu tóm toàn bộ hàng trăm cuốn sách, đúc thành một pho để tiện xem, tiện đọc’ và xem đây như là một yêu cầu của thời bấy giờ. Vì vậy, sách của ông viết xong đến đâu là có người chép tay truyền nhau. Về kế thừa và học tập, ông nêu cao tinh thần khổ học, học phải có chọn lọc, có sáng tạo, có phương pháp và với tinh thần suy nghĩ độc lập cao. Khó có người làm thuốc nào như ông không hề giấu ‘dốt’, dám trình bày lại những trường hợp bệnh chữa không khỏi, người bệnh đã chết để người sau rút kinh nghiệm: ‘Nhưng thói thường cứu được một người thì hoa chân múa tay biểu dương cho mọi người cùng biết, còn lỡ thất bại thì giấu đi, thường người ta hay giấu những thói xấu của mình mà không đem sự thực nói với người khác… Trong việc chữa bệnh, tôi từng ứng biến để đối phó với bệnh tình, chuyển nặng ra nhẹ, cứu chết lấy sống được bao nhiêu trường hợp mà vẫn có những chứng phải bó tay đợi chết cũng không phải là ít. Tôi không tự thẹn với trình độ thấp kém trong việc cứu người cho nên ngoài những ‘Dương án’ lại chép thêm một tập kể lại những lời khó nói ra được, gọi là ‘Âm án’. Mong những bậc trí thức có chí làm thuốc sau này, khi thấy những chỗ hay của tôi chưa đáng bắt chước, nhưng thấy chỗ dở của tôi cần phải lấy làm gương, không nên quá yêu tôi mà bảo chỉ chữa được bệnh mà không chữa được mệnh’…. Về phong cách đối nhân xử thế, ông luôn khiêm tốn, không hề tự cao, tự đại, luôn tranh thủ sự đồng tình của người khác để cầu học hoặc thu kết quả trong việc làm. Ðối với người bệnh, theo ông phải biết ‘quên mình cứu chữa người ta’. Cùng với các trước tác để lại, chính cuộc đời 70 mùa xuân của Hải Thượng Lãn Ông, với 44 năm sống, làm thuốc, chữa bệnh cứu người trên quê mẹ Hương Sơn, Hà Tĩnh, với tài cao, đức rộng, cốt cách thanh tao, Lê Hữu Trác đã trở thành một danh nhân văn hóa, một thiên tài kiệt xuất của nền y học cổ truyền Việt Nam… Ðể tôn vinh và khắc ghi công lao to lớn của ông, trong nhiều thập kỷ qua, cùng với hậu duệ của dòng họ Lê Hữu ở quê cha và quê mẹ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế cùng chính quyền, nhân dân các địa phương đã dành nhiều công sức gìn giữ, tôn tạo và phát huy những giá trị di sản đại danh y để lại. Dự án tu bổ, tôn tạo quần thể di tích Hải Thượng Lãn Ông tại Hương Sơn, Hà Tĩnh do Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác làm chủ đầu tư đã được triển khai, đến nay nhiều hạng mục đã hoàn thành và phát huy hiệu quả. Tỉnh cũng đang phối hợp với một số tổ chức văn hóa, khoa học nghiên cứu xây dựng Ðề án phát triển bền vững khu vực này trên cơ sở kết hợp các tiềm năng, lợi thế về di sản văn hóa – tâm linh với du lịch sinh thái, dịch vụ y tế, chăn nuôi, trồng và chế dược liệu… Tại xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên, các di tích liên quan đến dòng họ Lê Hữu cũng đã xếp hạng quốc gia và được đầu tư tôn tạo. Vào dịp kỷ niệm 220 năm Ngày mất của ông, UBND tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Bộ Y tế, Hội Ðông y Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động tưởng niệm có ý nghĩa, trong đó có Lễ kỷ niệm, trao giải thưởng y học dân tộc Hải Thượng Lãn Ông lần thứ nhất. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh phối hợp với Viện Bỏng quốc gia tổ chức trưng bày trọn bộ ‘Y tông tâm lĩnh’ mới được phục chế, xây dựng chương trình nghệ thuật ‘Nghĩa tình đất mẹ’ với nhiều ca khúc, tiết mục mới về cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông…
Danh y Lê Hữu Trác: Cuộc đời, sự nghiệp, thành tựu của một Đại danh y Danh y Lê Hữu Trác, còn được biết tới với biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông, được mệnh danh là vị Đại danh y trong bầu trời y học Việt Nam. Những thành tựu của ông đã góp phần cho sự phát triển của nền y học Việt Nam. Dù trải qua hàng trăm năm vẫn vẹn nguyên giá trị và tính ứng dụng. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp và thành tựu của vị Đại danh y này Danh y Lê Hữu Trác (1720 – 1791) là người con sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hưng Yên , huyện Yên Mỹ ). Ông sinh nhằm ngày 12 tháng 11 năm 1720 (tức năm Canh Ngọ). Theo nhiều tài liệu cổ ghi chép lại, ông có tên gọi khác là Lê Hữu Huân (theo “Hải Dương phong vật chí”) nhưng đến nay, người đời vẫn quen thuộc gọi ông với cái tên Hải Thượng Lãn Ông. Nhiều người cho rằng, đại danh Hải Thượng Lãn Ông (có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng) là do sự kết hợp giữa hai chữ cái đầu tiên của tên tỉnh và tên phủ (Tỉnh Hải Dương, Phủ Thượng Hồng). Cũng có tài liệu cho rằng, chữ “lười” ám chỉ sự chán ghét công danh, không màng mưu lợi, quyền chức của vị danh y này. Tượng đài của Danh y tại Hoa viên Nghĩa trang Chánh Phú Hoà Danh y Lê Hữu Trác là người con út trong gia đình có 7 anh em. Chính vì vậy, người trong gia đình thường gọi ông là Cậu Chiêu Bảy. Gia đình ông vốn nổi tiếng bởi truyền thống đỗ đạt khoa bảng, rất nhiều người làm quan to trong triều đình. Trong đó cả 6 người anh của ông đều thi đỗ khoa cử, tiến sĩ. Cha của ông là Lê Hữu Mưu, thuở trẻ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, được nhà vua phong chức Ngự sử, tước Bá. Chú là Lê Hữu Kiều cũng là Đại triều thần của nhà Lê. Ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã bộc lộ tài năng thiên bẩm trong việc học hành, tinh thông sách sử nên được cha cho lên Kinh kỳ theo học. Tại đây ông nổi tiếng với trí tuệ hơn người thi đậu liền Tam trường. Ông còn cùng các bạn học lập hội “Thi xã” bên Hồ Tây để hằng ngày đối thơ, xướng họa. Tính cách ông hào sảng, thích giao du nên không chỉ được bạn đồng niên mà cả chúa Trịnh cũng hết lòng yêu quý. Tuy nhiên, không lâu sau đó vào năm ông 19 tuổi, cha ông mất (năm 1739) nên phải về nhà chịu tang, vừa lo kế nghiệp gia đình vừa lo hậu sự cho cha. Một năm sau đó (tức 1740), giữa thời buổi loạn lạc, Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn tranh giành quyền lực, muôn dân lầm than, bạo loạn xảy ra khắp nơi ông đã quyết định gác lại sách vở, luyện tập võ thuật và binh thư, xung phong vào quân ngũ. Chỉ ít lâu sau, ông nhanh chóng nhận ra đây không phải là lẽ sống mà mình theo đuổi nên dù đã được đề bạt nhiều lần, ông kiên quyết từ chối. Cho tới năm 1746, sau khi người anh cả mất tại quê mẹ là huyện Hương Sơn, Nghệ An (nay là Hà Tĩnh) ông đã viện cớ xin rời khỏi quân ngũ về chăm mẹ già và các cháu nhỏ mồ côi. Bước ngoặt của cuộc đời danh y Lê Hữu Trác xảy đến khi ông mắc trận ốm nặng. Dù đã được người nhà săn sóc và đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng đến 2, 3 năm vẫn không có tiến triển. Sau đó có người mách, ông nhờ người đưa tới nơi của thầy thuốc tên Trần Độc ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương (nay là xã Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An). Trần Độc vốn thi đỗ cử nhân, xong từ chối vinh hoa chốn quan trường để về quê chữa bệnh. Tiếng lành đồn xa nên ông được rất nhiều người trong vùng tín nhiệm. Trong suốt 1 năm chữa bệnh tại đây, Lê Hữu Trác thường hay nghiên cứu sách y học “Phùng thị cẩm nang” của Trung Hoa. Với trí thông minh và khả năng hiểu sâu sắc vấn đề, ông nhanh chóng nắm bắt được chân lý trong sách và nhen nhóm đam mê học về y thuật. Trần Độc nhận thấy sự tinh thông và quyết tâm của ông, nên bày tỏ mong muốn truyền nghề. Ở tuổi 30, danh y Lê Hữu Trác trở lại quê mẹ ở Hương Sơn, khước từ lời mời của chúa Trịnh quyết ở lại đây chuyên tâm chữa bệnh cứu người, lấy tên Hải Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên tại đây neo người bầu bạn, lại không có nhiều thầy giỏi để ông học hỏi, Lê Hữu Trác quyết định lên kinh đô học tập, mong tìm kiếm thêm kiến thức y học mênh mông. Sau khoảng thời gian học tập, ông trở lại quê mẹ để chữa bệnh cứu người. Với tài năng học rộng, chẩn bệnh giỏi, bốc thuốc hay, lại không màng tới tiền tài danh lợi, ông đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người dân. Có người bệnh nhiều năm không khỏi ông cũng chữa được. Chỉ qua một thập kỷ miệt mài cống hiến, tên tuổi của ông nhanh chóng vang danh khắp vùng Hương Sơn và đến tận kinh thành. Không dừng lại ở đó, Hải Thượng Lãn Ông còn mở thêm Hội y nhằm quy tụ các danh y từ khắp nơi đến để bầu bạn, tâm sự và chia sẻ kiến thức, học hỏi lẫn nhau. Ông cũng mở các lớp dạy y, đào tạo thế hệ thầy thuốc trẻ. Các lớp học của ông thu hút rất đông học viên tới theo học. Là một người thầy thuốc đồng thời cũng là một người thầy giáo, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác luôn căn dặn với học trò như với chính mình về nhân cách của người thầy thuốc chân chính. Trước hết, ông đề cao tính y đức, sau là tuân thủ 8 chữ “Nhân – Minh – Đức – Trí – Lượng – Thành – Khiêm – Cần” (nhân ái – sáng suốt – đức độ – tốt bụng – chân thành – khiêm tốn – cần cù). Bên cạnh đó, đặc biệt tránh lười nhác, keo kiệt, vụ lợi, dối trá, ngu si, bất nhân, sân si, thất đức. Năm 1782, khi đã 62 tuổi, ông nhận lệnh Chúa Trịnh hồi kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Vốn được lòng Trịnh Sâm, ông bị không ít ngự y trong thành ghen ghét. Hải Thượng Lãn Ông vốn không hề nảy sinh thù ghét, chỉ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và mau chóng thoát khỏi chốn kinh thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Cán ốm yếu dai dẳng. Ông đành miễn cưỡng lên chữa bệnh. Dù đã được chữa khỏi nhưng do tuổi cao sức yếu, chỉ ít lâu sau Trịnh Sâm băng hà, con trai là Trịnh Cán lên kế vị. Nhân lúc triều đình đang có người tiến cử thái y mới, Hải Thượng Lãn Ông viện cớ tuổi già thoái lui về quê. Trong suốt những năm làm thầy thuốc và đào tạo học trò, Danh y Lê Hữu Trác vẫn luôn mong muốn truyền lại y lý cho thế hệ sau thông qua những cuốn sách. Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn, ghi chép và chắt lọc lại những chân lý ông đã lĩnh hội được từ các đại danh y đời trước và mất gần 10 năm (1760 – 1770) để hoàn thành. Đây là cuốn sách chứa đựng những gì tinh túy nhất trong sự nghiệp của người thầy thuốc vĩ đại này và là tài sản vô giá của nền y học Việt Nam. Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn suốt hàng chục năm Toàn bộ cuốn sách bao gồm 28 tập, 66 quyển về các chuyên ngành nội khoa, sản khoa, phụ khoa, da liễu, nhãn khoa. Đồng thời ông còn phê phán và chỉ ra những điểm không phù hợp khi áp dụng trong điều trị cho người Việt Nam. Trong gần 20 năm sau đó, ông vẫn tiếp tục biên soạn và cho ra đời nhiều tập sách quý giá nữa như “Y hải cầu nguyên” (1782), “Thượng kinh ký sự” (1783) trong đó phê phán nhiều thói quen xa hoa, những điều “mắt thấy tai nghe” khi ông lên kinh khám bệnh cho Thái tử, “Vận khí bí điển” (1786). Hải Thượng Lãn Ông qua đời hưởng thọ 71 tuổi vào ngày 15 tháng 1 âm năm 1791. Để tưởng nhớ và tri ân công lao của ông, cứ vào ngày này hằng năm, người dân và người làm nghề y lại cùng nhau tề tựu tại Nhà tưởng niệm Đại danh y ở Liêu Xá dâng hương. Dâng hương tưởng niệm danh y Lê Hữu Trác Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác chính là người thầy vĩ đại truyền cảm hứng không nhỏ tới các thế hệ trong tương lai. Đồng thời để lại kho tàng y học vô giá, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của y học nước nhà. Mong rằng qua bài viết trên đây, bạn đọc đã có thêm những hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của vị Thánh Y này.
Danh y Lê Hữu Trác: Cuộc đời, sự nghiệp, thành tựu của một Đại danh y Danh y Lê Hữu Trác, còn được biết tới với biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông, được mệnh danh là vị Đại danh y trong bầu trời y học Việt Nam. Những thành tựu của ông đã góp phần cho sự phát triển của nền y học Việt Nam. Dù trải qua hàng trăm năm vẫn vẹn nguyên giá trị và tính ứng dụng. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp và thành tựu của vị Đại danh y này Danh y Lê Hữu Trác (1720 – 1791) là người con sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hưng Yên , huyện Yên Mỹ ). Ông sinh nhằm ngày 12 tháng 11 năm 1720 (tức năm Canh Ngọ). Theo nhiều tài liệu cổ ghi chép lại, ông có tên gọi khác là Lê Hữu Huân (theo “Hải Dương phong vật chí”) nhưng đến nay, người đời vẫn quen thuộc gọi ông với cái tên Hải Thượng Lãn Ông. Nhiều người cho rằng, đại danh Hải Thượng Lãn Ông (có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng) là do sự kết hợp giữa hai chữ cái đầu tiên của tên tỉnh và tên phủ (Tỉnh Hải Dương, Phủ Thượng Hồng). Cũng có tài liệu cho rằng, chữ “lười” ám chỉ sự chán ghét công danh, không màng mưu lợi, quyền chức của vị danh y này. Tượng đài của Danh y tại Hoa viên Nghĩa trang Chánh Phú Hoà Danh y Lê Hữu Trác là người con út trong gia đình có 7 anh em. Chính vì vậy, người trong gia đình thường gọi ông là Cậu Chiêu Bảy. Gia đình ông vốn nổi tiếng bởi truyền thống đỗ đạt khoa bảng, rất nhiều người làm quan to trong triều đình. Trong đó cả 6 người anh của ông đều thi đỗ khoa cử, tiến sĩ. Cha của ông là Lê Hữu Mưu, thuở trẻ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, được nhà vua phong chức Ngự sử, tước Bá. Chú là Lê Hữu Kiều cũng là Đại triều thần của nhà Lê. Ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã bộc lộ tài năng thiên bẩm trong việc học hành, tinh thông sách sử nên được cha cho lên Kinh kỳ theo học. Tại đây ông nổi tiếng với trí tuệ hơn người thi đậu liền Tam trường. Ông còn cùng các bạn học lập hội “Thi xã” bên Hồ Tây để hằng ngày đối thơ, xướng họa. Tính cách ông hào sảng, thích giao du nên không chỉ được bạn đồng niên mà cả chúa Trịnh cũng hết lòng yêu quý. Tuy nhiên, không lâu sau đó vào năm ông 19 tuổi, cha ông mất (năm 1739) nên phải về nhà chịu tang, vừa lo kế nghiệp gia đình vừa lo hậu sự cho cha. Một năm sau đó (tức 1740), giữa thời buổi loạn lạc, Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn tranh giành quyền lực, muôn dân lầm than, bạo loạn xảy ra khắp nơi ông đã quyết định gác lại sách vở, luyện tập võ thuật và binh thư, xung phong vào quân ngũ. Chỉ ít lâu sau, ông nhanh chóng nhận ra đây không phải là lẽ sống mà mình theo đuổi nên dù đã được đề bạt nhiều lần, ông kiên quyết từ chối. Cho tới năm 1746, sau khi người anh cả mất tại quê mẹ là huyện Hương Sơn, Nghệ An (nay là Hà Tĩnh) ông đã viện cớ xin rời khỏi quân ngũ về chăm mẹ già và các cháu nhỏ mồ côi. Bước ngoặt của cuộc đời danh y Lê Hữu Trác xảy đến khi ông mắc trận ốm nặng. Dù đã được người nhà săn sóc và đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng đến 2, 3 năm vẫn không có tiến triển. Sau đó có người mách, ông nhờ người đưa tới nơi của thầy thuốc tên Trần Độc ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương (nay là xã Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An). Trần Độc vốn thi đỗ cử nhân, xong từ chối vinh hoa chốn quan trường để về quê chữa bệnh. Tiếng lành đồn xa nên ông được rất nhiều người trong vùng tín nhiệm. Trong suốt 1 năm chữa bệnh tại đây, Lê Hữu Trác thường hay nghiên cứu sách y học “Phùng thị cẩm nang” của Trung Hoa. Với trí thông minh và khả năng hiểu sâu sắc vấn đề, ông nhanh chóng nắm bắt được chân lý trong sách và nhen nhóm đam mê học về y thuật. Trần Độc nhận thấy sự tinh thông và quyết tâm của ông, nên bày tỏ mong muốn truyền nghề. Ở tuổi 30, danh y Lê Hữu Trác trở lại quê mẹ ở Hương Sơn, khước từ lời mời của chúa Trịnh quyết ở lại đây chuyên tâm chữa bệnh cứu người, lấy tên Hải Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên tại đây neo người bầu bạn, lại không có nhiều thầy giỏi để ông học hỏi, Lê Hữu Trác quyết định lên kinh đô học tập, mong tìm kiếm thêm kiến thức y học mênh mông. Sau khoảng thời gian học tập, ông trở lại quê mẹ để chữa bệnh cứu người. Với tài năng học rộng, chẩn bệnh giỏi, bốc thuốc hay, lại không màng tới tiền tài danh lợi, ông đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người dân. Có người bệnh nhiều năm không khỏi ông cũng chữa được. Chỉ qua một thập kỷ miệt mài cống hiến, tên tuổi của ông nhanh chóng vang danh khắp vùng Hương Sơn và đến tận kinh thành. Không dừng lại ở đó, Hải Thượng Lãn Ông còn mở thêm Hội y nhằm quy tụ các danh y từ khắp nơi đến để bầu bạn, tâm sự và chia sẻ kiến thức, học hỏi lẫn nhau. Ông cũng mở các lớp dạy y, đào tạo thế hệ thầy thuốc trẻ. Các lớp học của ông thu hút rất đông học viên tới theo học. Là một người thầy thuốc đồng thời cũng là một người thầy giáo, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác luôn căn dặn với học trò như với chính mình về nhân cách của người thầy thuốc chân chính. Trước hết, ông đề cao tính y đức, sau là tuân thủ 8 chữ “Nhân – Minh – Đức – Trí – Lượng – Thành – Khiêm – Cần” (nhân ái – sáng suốt – đức độ – tốt bụng – chân thành – khiêm tốn – cần cù). Bên cạnh đó, đặc biệt tránh lười nhác, keo kiệt, vụ lợi, dối trá, ngu si, bất nhân, sân si, thất đức. Năm 1782, khi đã 62 tuổi, ông nhận lệnh Chúa Trịnh hồi kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Vốn được lòng Trịnh Sâm, ông bị không ít ngự y trong thành ghen ghét. Hải Thượng Lãn Ông vốn không hề nảy sinh thù ghét, chỉ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và mau chóng thoát khỏi chốn kinh thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Cán ốm yếu dai dẳng. Ông đành miễn cưỡng lên chữa bệnh. Dù đã được chữa khỏi nhưng do tuổi cao sức yếu, chỉ ít lâu sau Trịnh Sâm băng hà, con trai là Trịnh Cán lên kế vị. Nhân lúc triều đình đang có người tiến cử thái y mới, Hải Thượng Lãn Ông viện cớ tuổi già thoái lui về quê. Trong suốt những năm làm thầy thuốc và đào tạo học trò, Danh y Lê Hữu Trác vẫn luôn mong muốn truyền lại y lý cho thế hệ sau thông qua những cuốn sách. Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn, ghi chép và chắt lọc lại những chân lý ông đã lĩnh hội được từ các đại danh y đời trước và mất gần 10 năm (1760 – 1770) để hoàn thành. Đây là cuốn sách chứa đựng những gì tinh túy nhất trong sự nghiệp của người thầy thuốc vĩ đại này và là tài sản vô giá của nền y học Việt Nam. Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn suốt hàng chục năm Toàn bộ cuốn sách bao gồm 28 tập, 66 quyển về các chuyên ngành nội khoa, sản khoa, phụ khoa, da liễu, nhãn khoa. Đồng thời ông còn phê phán và chỉ ra những điểm không phù hợp khi áp dụng trong điều trị cho người Việt Nam. Trong gần 20 năm sau đó, ông vẫn tiếp tục biên soạn và cho ra đời nhiều tập sách quý giá nữa như “Y hải cầu nguyên” (1782), “Thượng kinh ký sự” (1783) trong đó phê phán nhiều thói quen xa hoa, những điều “mắt thấy tai nghe” khi ông lên kinh khám bệnh cho Thái tử, “Vận khí bí điển” (1786). Hải Thượng Lãn Ông qua đời hưởng thọ 71 tuổi vào ngày 15 tháng 1 âm năm 1791. Để tưởng nhớ và tri ân công lao của ông, cứ vào ngày này hằng năm, người dân và người làm nghề y lại cùng nhau tề tựu tại Nhà tưởng niệm Đại danh y ở Liêu Xá dâng hương. Dâng hương tưởng niệm danh y Lê Hữu Trác Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác chính là người thầy vĩ đại truyền cảm hứng không nhỏ tới các thế hệ trong tương lai. Đồng thời để lại kho tàng y học vô giá, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của y học nước nhà. Mong rằng qua bài viết trên đây, bạn đọc đã có thêm những hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của vị Thánh Y này.
Không vì phát triển mà quên lãng di tích khảo cổ học TS NGUYỄN ANH THƯ Sức ép của phát triển đang đè nặng trên các di sản khảo cổ học. Nhiều di sản này dù đã xếp hạng nhưng chưa được quan tâm, bị xâm phạm, không phát huy được các giá trị, thậm chí bị xóa sổ trước khi kịp nghiên cứu, đánh giá. Kho báu mong manh và tình trạng xuống cấp phổ biến Tài nguyên di sản khảo cổ học của Việt Nam đa dạng về thể loại, giàu có về số lượng, mang nhiều tiềm năng để phát huy giá trị. Việt Nam có nhiều di sản khảo cổ học đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới như: Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long ( Hà Nội ); khu di tích Thành Nhà Hồ ( Thanh Hóa ); Thánh địa Mỹ Sơn ( Quảng Nam )… Nhờ công sức miệt mài của nhiều thế hệ các nhà khảo cổ học Việt Nam, kho tàng di sản này ngày càng phong phú hơn. Đến nay, đã có tới hàng trăm di tích khảo cổ học, hàng trăm triệu di vật là những hiện vật gốc chứng minh quá trình phát triển liên tục của những cư dân bản địa qua các giai đoạn lịch sử của người Việt Nam. Nhiều tàu đắm được phát hiện, khai quật trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam: Cù Lao Chàm (Hội An, Quảng Nam); Hòn Cau (Côn Đảo, Bà Rịa-Vũng Tàu); Hòn Dầm ( Phú Quốc, Kiên Giang); ở Quảng Ngãi, Bình Thuận, Cà Mau… đã cho phác thảo về các tuyến đường giao thương quốc tế qua vùng biển Việt Nam. Di sản khảo cổ học là một nguồn văn hóa mong manh và không tái sinh được. Khi một di tích khảo cổ được khai quật cũng đồng nghĩa nó sẽ bị phá hủy. Trong quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ (có thể coi là) rất nhanh như hiện nay, di sản khảo cổ học đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Sự bất cập khi thực thi Luật Di sản văn hóa, sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong quản lý, nghiên cứu và bảo tồn. Ở nhiều địa phương, di sản khảo cổ học chưa được quan tâm. Việc sử dụng quỹ đất trong xây dựng các công trình, dù được quy định chặt chẽ trong Luật Di sản văn hóa để giảm thiểu việc hủy hoại nguồn tài nguyên di sản khảo cổ học nhưng việc tuân thủ và thực thi không đồng bộ. Trường hợp Di chỉ Vườn Chuối (Hoài Đức, Hà Nội) bị xâm hại nặng nề do nạn đào trộm cổ vật và nguy cơ bị xóa sổ bởi các dự án làm đường và xây khu đô thị là ví dụ điển hình. Ngay cả những di sản khảo cổ học nổi tiếng, có giá trị đặc biệt quan trọng, được xếp hạng cấp quốc gia cũng đối mặt với tình trạng bị xuống cấp. Điển hình như Di tích khảo cổ học Đồng Đậu (Vĩnh Phúc). Đây được coi là khu di tích khảo cổ học quan trọng của quốc gia, nhưng do việc quản lý theo kiểu “cha chung không ai khóc” mà khu đất nằm trong quy hoạch xây dựng khu di tích rộng 4,2ha đã bị một số người dân tự ý lấn chiếm, trồng cây, ảnh hưởng lớn đến các điểm khai quật. Di tích khảo cổ học cấp quốc gia Đông Sơn (Thanh Hóa) sau khi khai quật đã được giữ lại làm khu trưng bày ngoài trời, có mái che để phục vụ nhu cầu tham quan, nghiên cứu, học tập. Tuy nhiên, việc bảo quản ngày càng bộc lộ nhiều bất cập vì khi được khai quật phát lộ, sự thay đổi môi trường, nhiệt độ, độ ẩm, tác động của mưa nắng, nấm mốc đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự bền vững của di tích, di vật, địa tầng… khiến di tích xuống cấp nhanh chóng. Đừng để di sản khảo cổ bị lãng quên Để bảo quản được một di sản khảo cổ học cần nguồn kinh phí thường xuyên của địa phương trong khi nguồn thu trực tiếp từ di sản khảo cổ học lại hầu như không có. Đây là một trong những nguyên nhân khiến di sản khảo cổ học bị coi là kém hấp dẫn hơn so với các loại hình di sản văn hóa khác. Các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, các di sản văn hóa phi vật thể… đều có nguồn thu thường xuyên hàng năm từ các hoạt động du lịch. Trong khi đó, do đặc thù của loại hình di sản khảo cổ học rất dễ bị ảnh hưởng bởi các tác nhân bên ngoài: Môi trường, khí hậu, thời tiết, con người… nên việc bảo tồn và phát huy giá trị của loại hình di sản này cần đầu tư về vật chất và nhân lực lớn gấp nhiều lần so với các loại hình di sản vật thể khác. Điều này, dẫn đến việc nhiều địa phương đã chọn phương án phát triển và “hy sinh” di sản khảo cổ học. Câu hỏi làm sao để vừa bảo vệ được di sản khảo cổ học mà không cản trở tới sự phát triển chung của kinh tế-xã hội luôn chờ được giải đáp. Phần lớn di tích khảo cổ học sau khi được khai quật, nghiên cứu thì toàn bộ di vật được chuyển về các bảo tàng để giải phóng mặt bằng, trả lại cho các dự án xây dựng. Nếu có được địa phương xếp hạng di tích và giữ lại bảo tồn sau khi được thám sát khai quật và nghiên cứu thì qua thời gian, các di sản khảo cổ học cũng bị xuống cấp, xâm phạm và dần chìm vào quên lãng. Như trường hợp Di tích tháp Chăm Phong Lệ (Đà Nẵng). Di tích đền tháp được đánh giá có quy mô lớn nhất miền Trung với niên đại gần 1.000 năm tuổi, có thể góp phần tìm hiểu về hệ thống di tích đền tháp Champa, tuy nhiên, sau gần 10 năm kể từ khi phát hiện, di tích này vẫn chưa được xếp hạng, các hố thám sát đã bị sụt lún nghiêm trọng, hiện vật bị phong hóa nằm vương vãi trên mặt đất… Trái ngược với trường hợp Di tích tháp Chăm Phong, sau khi phát hiện hệ thống bãi cọc trên cánh đồng Cao Quỳ (Thủy Nguyên, Hải Phòng), chính quyền, cơ quan quản lý các cấp, các ngành khẩn trương vào cuộc khiến Di tích bãi cọc Cao Quỳ ngay sau khi xuất lộ đã được khai quật nghiên cứu trên diện rộng. Các biện pháp bảo vệ đã nhanh chóng tiến hành; hoàn thiện Dự án tuyến đường vào và khu bảo tồn nhằm phát huy giá trị của di sản khảo cổ học đặc biệt này. Đây được là tín hiệu đáng mừng về ý thức bảo tồn, phát huy giá trị di sản khảo cổ học trong tương lai. TS NGUYỄN ANH THƯ
Do not forget archaeological relics because of development Dr. NGUYEN ANH THU The pressure of development is weighing heavily on archaeological heritage. Although many of these heritage sites have been ranked, they have not received attention, have been violated, have not been able to promote their values, and have even been wiped out before being researched and evaluated. The treasure is fragile and deterioration is common Vietnam's archaeological heritage resources are diverse in type, rich in quantity, and have much potential to promote value. Vietnam has many archaeological heritages that have been recognized by UNESCO as World Cultural Heritage such as: Central relic site of Thang Long Imperial Citadel ( Hanoi ); Ho Dynasty Citadel relic site ( Thanh Hoa ); My Son Sanctuary ( Quang Nam )… Thanks to the diligent efforts of many generations of Vietnamese archaeologists, this treasure trove of heritage is becoming richer and richer. Up to now, there have been hundreds of archaeological relics and hundreds of millions of relics that are original artifacts proving the continuous development process of indigenous people through the stages of Vietnamese history. Many shipwrecks were discovered and excavated in waters under Vietnamese sovereignty: Cu Lao Cham (Hoi An, Quang Nam); Hon Cau (Con Dao, Ba Ria-Vung Tau); Hon Dam ( Phu Quoc, Kien Giang); in Quang Ngai, Binh Thuan, Ca Mau... outlined international trade routes through Vietnamese waters. Archaeological heritage is a fragile and non-renewable cultural resource. When an archaeological site is excavated, it also means it will be destroyed. In the process of urbanization taking place at a (can be considered) very fast speed like today, archaeological heritage is facing many challenges: Inadequacies in implementing the Cultural Heritage Law, Lack of uniformity and consistency in management, research and conservation. In many localities, archaeological heritage has not been paid attention. Although the use of land funds in construction works is strictly regulated in the Cultural Heritage Law to minimize the destruction of archaeological heritage resources, compliance and enforcement are not consistent. The case of Vuon Chuoi Relic (Hoai Duc, Hanoi) which has been seriously damaged due to antiquities theft and the risk of being wiped out by road and urban area construction projects is a typical example. Even famous archaeological heritages with particularly important values ​​and ranked at the national level also face deterioration. A typical example is Dong Dau archaeological site (Vinh Phuc). This is considered an important archaeological relic site of the country, but due to the management style of "the common father, no one cries", the land in the planning to build a 4.2 hectare relic area has been destroyed by some people. People arbitrarily encroached and planted trees, greatly affecting excavation sites. After excavation, Dong Son national archaeological relic (Thanh Hoa) was retained as an outdoor, covered display area to serve the needs of sightseeing, research, and study. However, preservation is increasingly revealing many shortcomings because when excavated, changes in the environment, temperature, humidity, impact of rain and sun, and mold have seriously affected sustainability. of relics, relics, stratigraphy... causing the relics to degrade quickly. Don't let archaeological heritage be forgotten To preserve an archaeological heritage, regular local funding is needed, while direct revenue from archaeological heritage is almost non-existent. This is one of the reasons why archaeological heritage is considered less attractive than other types of cultural heritage. Historical relics, scenic spots, intangible cultural heritages... all have regular annual revenue from tourism activities. Meanwhile, due to the characteristics of this type of archaeological heritage, it is easily affected by external factors: environment, climate, weather, people..., so preserving and promoting the value of this type of archaeological heritage is very important. This type of heritage requires investment in material and human resources many times greater than other types of tangible heritage. This has led to many localities choosing to develop and "sacrifice" archaeological heritage. The question of how to protect archaeological heritage without hindering general socio-economic development is always waiting to be answered. After most archaeological relics are excavated and researched, all relics are transferred to museums for site clearance and returned for construction projects. If a locality classifies the site as a relic and retains it for conservation after being excavated and researched, over time, the archaeological heritage will also be degraded, violated and gradually sink into oblivion. Like the case of Phong Le Cham Tower Relics (Da Nang). The temple and tower relics are considered to have the largest scale in the Central region with a date of nearly 1,000 years old. They can contribute to understanding the Champa temple and tower relic system. However, after nearly 10 years since their discovery, This relic has not yet been ranked, the exploration holes have seriously subsided, weathered artifacts are scattered on the ground... In contrast to the case of the Cham Phong Tower Relics, after discovering the pile yard system on Cao Quy field (Thuy Nguyen, Hai Phong), the government, management agencies at all levels, and branches urgently intervened to prevent the site from being restored. The area of ​​Cao Quy pile yard was excavated and studied on a large scale immediately after its exposure. Protective measures moved quickly; Complete the access road and conservation area project to promote the value of this special archaeological heritage. This is a good sign about the awareness of preserving and promoting the value of archaeological heritage in the future. Dr. NGUYEN ANH THU
Bí ẩn chiếc mũ trên tượng Kim Cương thời Lý Chùa Long Đọi Sơn (xã Đọi Sơn, H. Duy Tiên , tỉnh Hà Nam ) hiện nay còn lưu giữ 6 bức tượng Kim Cương thời Lý, được các nhà nghiên cứu đánh giá là những tác phẩm nổi tiếng về nghệ thuật điêu khắc đá của Việt Nam. Chùa Long Đọi Sơn tọa lạc trên đỉnh núi Long Đọi thuộc xã Đọi Sơn, H.Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Theo các tài liệu nghiên cứu, chùa được xây dựng vào đầu triều Lý, do vua Lý Thánh Tông và vương phi Ỷ Lan chủ trì xây dựng năm 1054. Hiện nay chùa còn lưu giữ 6 bức tượng Kim Cương thời Lý nằm trong hệ tượng bát bộ Kim Cương, tức là tám đại hộ pháp canh giữ nơi cửa thiền. Bộ tượng được các nhà nghiên cứu đánh giá là những tác phẩm nổi tiếng về nghệ thuật điêu khắc đá của Việt Nam. Về trang phục, qua xem xét cho thấy các tượng đều được thể hiện có điểm chung là mặc giáp trụ giống nhau và đã được phân tích qua nhiều bài nghiên cứu đăng trên tạp chí Văn hóa Phật giáo, trong đó tượng được mô tả là thân mặc kim giáp, đầu đội kim khôi (một loại mũ của võ tướng)… Thế nhưng lại chưa có một lời giải thích nào về mũ, hoặc đặt vấn đề tại sao với một tượng Kim Cương hộ pháp mặc giáp phục với những mặt hổ phù mà đầu không đội mũ Đầu hổ hoặc mũ trụ cho phù hợp, mà lại đội chiếc mũ trông thật là hiền, lại còn trang trí cả hoa nữa? Tôi cho rằng chính vấn đề “khác thường” này đã phần nào nói lên một số vấn đề trong bối cảnh văn hóa và lịch sử thời bấy giờ. Ảnh: chụp từ cuốn Angkor cities and temples Trên một bức tượng còn khá nguyên vẹn (ảnh 1), lướt qua phần giáp phục cho thấy có hai mặt hổ phù rất to ở hai bên vai, phần ngực, bụng và đùi trang trí rất nhiều hoa mà có lẽ là loài cúc. Về mũ, gồm 2 phần: vòm mũ để đội vô đầu và chỏm mũ để chứa búi tóc. Phần vòm mũ được trùm xuống ngang với cằm cho thấy yếu tố che chắn bảo vệ (ảnh 2). Còn chỏm mũ, điều thú vị ở đây là có hình bán cầu trông như một búp hoa, và dưới chân nó là những cánh hoa đã nở phủ trên vòm mũ, rõ nét nhất là hai cánh cuốn xoáy đối xứng phủ xuống tới trán tượng. Đặc biệt và ấn tượng nhất là những hoa văn tiếp nối các cánh hoa ở trên vòm mũ, chúng được thể hiện trông như những lọn dây hoa rủ dài xuống hai bên mũ rất đối xứng. Có lẽ đây chính là điểm nhấn và cũng là dấu hiệu cho biết về một loại mũ hoa mà nghệ nhân xưa thể hiện, bởi nó đã tạo nên hiệu ứng khi nhìn toàn cảnh của mũ sẽ cho thấy là một hoa cúc đại đóa, với phần chỏm mũ là khối cánh hoa bao quanh phần nhụy, phần vòm mũ là những cánh hoa đã nở và rủ xuống. Còn hai hoa ở hai bên mũ cho cho thấy thể hiện ở dạng bán khai và có lẽ cũng thuộc loài cúc, nhưng điều đáng nói là chúng nằm ở vùng tai, mà lại được thể hiện hơi vểnh ra. Điều này có thể giải thích đó là để che đi phần lỗ nghe đồng thời cũng là hình thức trang trí, bởi theo nguyên tắc thì mũ trùm kín đầu phải có lỗ thông thoáng ở hai bên tai để nghe. Như vậy phải chăng chính ở điểm này đã chỉ ra rằng, loại mũ này từng được trang bị cho những chiến binh ở triều Lý. Cuối cùng vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao lại là mũ hoa, trong khi Kim Cương là thần bảo vệ Phật pháp thường được thể hiện mặc giáp phục như của võ tướng, và mũ thường là loại đầu hổ với mặt hổ nhe răng dữ tợn mang tính răn đe hù họa như thường thấy các tượng Kim Cương của Trung Hoa, nhưng ở đây các nghệ nhân triều Lý lại chọn một loại mũ phải nói là hoàn toàn đối lập. Để giải thích về điều này, xét trong bối cảnh văn hóa cùng thời với nước láng giềng là Champa, đó là những chiếc mũ hoa của chiến binh thuộc quân đội của họ, được thể hiện trong những bức tranh chạm khắc diễn tả về những trận đánh giữa Champa và Khmer ở đền Angkor (thế kỷ 12) của Campuchia hiện nay (ảnh 3). Mũ cho thấy phía trên là một hình hoa sen, thân mũ là vòm hình dẻ quạt có hai lớp nối tiếp phủ trùm xuống hết gáy tượng, trông cũng khá giống với những mảng lá sen, và ở phía trước có một miếng che cằm. Nhìn chung phần thân mũ hoàn toàn mang tính che chắn bảo vệ và đây cũng có thể gọi là mũ hoa sen. Qua đối chiếu so sánh giữa mũ trên tượng Kim Cương thời Lý và mũ của chiến binh Champa nêu trên cho thấy, điều thú vị là một bên thì lấy hoa cúc làm chủ đạo, còn bên kia thì lại là hoa sen. Mặc dầu là vậy, nhưng rõ ràng ở đây đã nói lên loại mũ hoa rất được thịnh hành thời bấy giờ và đã có sự ảnh hưởng qua lại giữa vương triều Lý và Champa. Nhân đây, tôi cũng gửi lời cảm ơn bạn Hiếu Trần đã cung cấp những bức ảnh tư liệu thật chất lượng.
The mystery of the hat on the Diamond statue of the Ly Dynasty Long Doi Son Pagoda (Doi Son commune, District 1). Duy Tien , conscious Ha Nam ) currently retains 6 Ly Dynasty Diamond statues, which researchers consider to be famous works of Vietnamese stone sculpture art. Long Doi Son Pagoda is located on the top of Long Doi mountain in Doi Son commune, Duy Tien district, Ha Nam province, and is recognized as a special national monument. According to research documents, the pagoda was built at the beginning of the Ly Dynasty, presided over by King Ly Thanh Tong and Queen Y Lan in 1054. Currently, the pagoda still retains 6 Ly Dynasty Diamond statues in the statue system. The eight sets of Vajra, that is, the eight great dharma protectors guarding the meditation door. The set of statues is considered by researchers to be famous works of Vietnamese stone sculpture art. Regarding the costumes, examination shows that the statues are all shown to have in common that they are wearing the same armor and have been analyzed through many research articles published in the Journal of Buddhist Culture, in which the statues are described as The body is wearing golden armor, the head is wearing a golden helmet (a type of martial arts helmet)... However, there has not been any explanation about the helmet, or the question of why a Vajra protector statue wears armor with different faces. The tiger's head is not wearing a suitable Tiger Head hat or helmet, but it is wearing a hat that looks so gentle, and is even decorated with flowers? I think that this "unusual" issue partly speaks to some problems in the cultural and historical context of that time. Photo: taken from the book Angkor cities and temples On a statue that is still quite intact (photo 1), a glance at the armor shows two very large tiger faces on both shoulders, the chest, abdomen and thighs are decorated with many flowers that are probably chrysanthemums. Regarding the hat, it consists of 2 parts: the dome of the hat to put on the head and the crown of the hat to hold the bun. The dome of the hat is pulled down to the level of the chin, showing an element of protection (photo 2). As for the crown of the hat, the interesting thing here is that it has a hemispherical shape that looks like a flower bud, and at its feet are blooming flower petals covering the dome of the hat, the most obvious being the two symmetrical swirling petals covering the statue's forehead. . The most special and impressive are the patterns that continue the flower petals on the dome of the hat, they are shown to look like strands of flower wire hanging down both sides of the hat very symmetrically. Perhaps this is the highlight and also a sign of a type of flower hat that ancient artists presented, because it created the effect that when looking at the whole view of the hat, it will show that it is a chrysanthemum, with The tip of the cap is the mass of petals surrounding the pistil, the dome of the cap is the petals that have bloomed and drooped down. The two flowers on both sides of the hat show that they are in semi-open form and probably also belong to the chrysanthemum species, but what is worth mentioning is that they are located in the ear area, and are shown slightly protruding. This can be explained as covering the hearing hole and also as a form of decoration, because in principle, a hood that covers the head must have ventilation holes on both sides of the ears for hearing. So perhaps at this point it is shown that this type of helmet was once equipped for warriors in the Ly Dynasty. Finally, the question that arises here is why is it a flower hat, when Vajra is the guardian of Buddhism and is often shown wearing armor like that of a martial general, and the hat is usually a tiger head with a tiger face. Fierce teeth serve as a deterrent and scare, as is often seen in Chinese Diamond statues, but here the Ly Dynasty artists chose a type of hat that must be said to be completely opposite. To explain this, considering the cultural context of the same time as neighboring Champa, it is the flowered hats of the warriors of their army, shown in carved paintings depicting the Battle between Champa and Khmer at Angkor temple (12th century) in present-day Cambodia (photo 3). The hat shows that the top is a lotus flower, the body of the hat is a fan-shaped dome with two consecutive layers covering the entire neck of the statue, looking quite similar to the lotus leaf patches, and in the front there is a chin cover. In general, the body of the hat is completely protective and can also be called a lotus hat. Through the comparison between the hat on the Diamond statue of the Ly Dynasty and the hat of the Champa warrior mentioned above, it is interesting that one side uses chrysanthemum as the main theme, while the other side uses lotus flower. Even so, it is clear that the flower hat was very popular at that time and there was mutual influence between the Ly and Champa dynasties. By the way, I would also like to thank Hieu Tran for providing quality documentary photos.
Cần đầu tư cho khảo cổ học dưới nước Việt Nam là một trong các quốc gia giàu tiềm năng về di sản văn hóa dưới nước, nhưng đang đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở lĩnh vực này. Khảo cổ học dưới nước vẫn còn “non trẻ” và cần sự đầu tư cả về nguồn nhân lực và phương tiện, thiết bị phục vụ nghiên cứu. Những năm qua, ngành khảo cổ học có nhiều phát hiện mới được ghi nhận, đóng góp vào sự nghiệp phục dựng, soi sáng lịch sử , giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Tại hội nghị thông báo những phát hiện mới về khảo cổ học lần thứ 54, ban tổ chức đã nhận được 360 tham luận, gồm: 95 bài về khảo cổ học Tiền sử, 206 bài khảo cổ học lịch sử, 43 bài khảo cổ học Champa – Óc Eo, năm bài về các hoạt động chung của các cơ quan nghiên cứu, 11 bài khảo cổ học dưới nước. Từ số liệu trên, có thể thấy, số lượng di chỉ, di sản văn hóa dưới nước còn hạn chế. Bởi những cuộc điều tra, khảo sát khảo cổ học dưới nước còn rất ít, mặc dù dưới nước có thể tồn tại hàng nghìn di tích. Quay trở lại những năm 90 của thế kỷ trước, lần đầu tiên các nhà khảo cổ học đã khai quật và phát hiện con tàu dài 32,71 m, rộng 9 m cùng hàng nghìn hiện vật khác nhau tại vùng biển Vũng Tàu. Tại vùng biển Bình Châu (Quảng Ninh) đã phát hiện dấu vết của một chiếc thuyền gỗ ở độ sâu 9,2 m và thu được nhiều đồ gốm men Trung Quốc từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 19 – 20… Tuy nhiên, phần lớn những con tàu cổ bị đắm đều do ngư dân địa phương phát hiện và công ty tư nhân trục vớt cho nên tình trạng lấy cắp cổ vật ở các địa phương đã và đang diễn ra một cách phức tạp. PGS, TS Trình Năng Chung (Viện Khảo cổ học Việt Nam – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho biết, các nước trong khu vực đã đầu tư lớn cho lĩnh vực khảo cổ học dưới nước, trong khi đó, ở nước ta, cơ sở vật chất và thiết bị hiện nay còn khiêm tốn, kể cả việc triển khai các hoạt động khảo sát, nghiên cứu còn khó khăn. Khảo cổ học dưới nước đòi hỏi nguồn kinh phí lớn cho cơ sở hạ tầng, thiết bị; kinh phí hoạt động hằng năm, bảo quản di tích, di vật và chi phí đào tạo con người. Do không có đội ngũ, không có cơ quan chuyên môn về khảo cổ học dưới nước, nên hầu hết công trình khai quật từ trước tới nay đều là sự kết hợp với các công ty ở trong hoặc ngoài nước. Mặt khác, vấn nạn trục vớt trái phép các di vật, làm ảnh hưởng xấu đến các di tích đã và đang xảy ra ở nhiều nơi, thậm chí có những đối tượng tiến công cả lực lượng bảo vệ. Di vật cổ từ các tàu đắm được mua bán, trao đổi trôi nổi trên thị trường, không có liên hệ gì với các di tích nơi chúng được lấy lên. Ngay một số cuộc khai quật tàu đắm, để có kinh phí khai quật, một số lượng đáng kể di vật đã được mang đi bán đấu giá trên thị trường quốc tế. Ðây là những mất mát lớn cho nghiên cứu khoa học và cũng là sự tiếc nuối cho mỗi người Việt Nam đối với việc mất đi những mảng lịch sử của dân tộc. Theo các nhà khảo cổ học, đã đến lúc Nhà nước cũng như cơ quan chức năng cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho khảo cổ học dưới nước; đầu tư trang thiết bị cần thiết để hoạt động có hệ thống, bài bản. Trên cơ sở đó tiến hành điều tra, khảo sát, lập bản đồ trữ lượng về di tích khảo cổ học dưới nước trên phạm vi toàn quốc. Quan tâm công tác giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức cho người dân tại các vùng biển có tàu cổ đắm về giá trị của di sản văn hóa dưới nước, gắn với việc bảo tồn, khai thác du lịch nhằm giúp họ cải thiện đời sống. Ðồng thời có chế tài xử phạt nghiêm minh nhằm ngăn chặn tình trạng trục vớt trái phép các di tích, di vật dưới nước; nạn trộm cắp, buôn bán cổ vật đang diễn ra tại một số địa phương… TS Trần Thị Thu Nhung, Trường đại học Văn hóa Hà Nội nhận định: Khảo cổ học dưới nước đòi hỏi đầu tư hơn nữa về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, nhất là nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn còn phải biết vẽ hải đồ, dòng chảy trên biển, bơi lặn thám hiểm dưới nước. Khảo cổ học dưới nước cần có sự hợp tác, liên kết với các cơ quan nghiên cứu, đơn vị kỹ thuật trong và ngoài nước. Cần có nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế, hợp tác nghiên cứu theo hình thức các đề tài, dự án, nghị định thư với các nước khác nhằm làm sáng tỏ các vấn đề về học thuật. Mặt khác, coi trọng sự phối hợp các đơn vị có thế mạnh về tàu thuyền, thiết bị dưới nước để tổ chức các cuộc điều tra, khám phá và trục vớt các di sản văn hóa dưới nước. Tại các trường đại học, cao đẳng, ngành khảo cổ cần xây dựng chương trình, nội dung giảng dạy về khảo cổ học dưới nước cho sinh viên. Muốn tạo đà và duy trì cho sự phát triển của chuyên ngành khảo cổ học dưới nước, cần nhanh chóng đào tạo đội ngũ các nhà khảo cổ học dưới nước trẻ, làm việc tại cơ quan nghiên cứu chuyên sâu, hoạt động bằng ngân sách nhà nước với mục đích khoa học, phi thương mại. Cùng với đó, thành lập Viện Nghiên cứu di sản về biển, viện nghiên cứu này là một cơ chế tổ chức phức hợp, ngoài trung tâm khảo cổ học dưới nước, bảo tàng, còn có những trung tâm nghiên cứu về thương mại bằng tàu thuyền, trung tâm bảo quản, lưu trữ… Từ đó ngành khảo cổ học sẽ phát triển đúng với tiềm năng vốn có nhằm đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dưới nước tại các vùng sông, biển trên lãnh thổ nước ta.
Investment in underwater archeology is needed Vietnam is one of the countries with rich potential for underwater cultural heritage, but is facing many difficulties and obstacles in researching, preserving and promoting the value of cultural heritage in this field. . Underwater archeology is still "young" and needs investment in both human resources and facilities and equipment for research. In recent years, the archaeological industry has recorded many new discoveries, contributing to the cause of restoration and illumination history , preserving and promoting the value of national cultural heritage. At the 54th conference announcing new discoveries in archeology, the organizing committee received 360 papers, including: 95 papers on prehistoric archeology, 206 papers on historical archeology, 43 papers on archeology. Champa - Oc Eo study, five articles on common activities of research agencies, 11 articles on underwater archeology. From the above data, it can be seen that the number of underwater sites and cultural heritages is still limited. Because underwater archaeological surveys and surveys are very few, even though thousands of relics can exist underwater. Back in the 90s of the last century, archaeologists for the first time excavated and discovered a ship 32.71 m long, 9 m wide and thousands of different artifacts in the waters of Vung Tau. In the waters of Binh Chau (Quang Ninh), traces of a wooden boat were discovered at a depth of 9.2 m and many Chinese glazed ceramics from the 12th to the 19th - 20th centuries were recovered... However, most Most of the sunken ancient ships were discovered by local fishermen and salvaged by private companies, so the theft of antiques in localities has been taking place in a complicated way. Associate Professor, Dr. Trinh Nang Chung (Vietnam Institute of Archeology - Vietnam Academy of Social Sciences) said that countries in the region have invested heavily in the field of underwater archeology, meanwhile, in In our country, current facilities and equipment are still modest, including the implementation of survey and research activities which are still difficult. Underwater archeology requires large funds for infrastructure and equipment; Annual operating costs, preservation of monuments and relics and human training costs. Because there is no team or specialized agency in underwater archeology, most excavation projects up to now have been in collaboration with domestic or foreign companies. On the other hand, the problem of illegally salvaging relics, causing negative impacts on relics, has been happening in many places, with some even attacking the security forces. Ancient relics from shipwrecks are traded and exchanged freely on the market, without any connection to the relics where they were taken. Even in some shipwreck excavations, in order to fund the excavation, a significant number of relics were auctioned on the international market. These are great losses for scientific research and are also a regret for every Vietnamese person over the loss of pieces of the nation's history. According to archaeologists, it is time for the State as well as authorities to have a plan to train human resources for underwater archeology; Invest in necessary equipment to operate systematically and methodically. On that basis, conduct investigations, surveys, and map reserves of underwater archaeological relics nationwide. Pay attention to media education and raise awareness for people in sea areas with ancient shipwrecks about the value of underwater cultural heritage, associated with conservation and exploitation of tourism to help them improve their lives. life. At the same time, there are strict sanctions to prevent the illegal salvage of underwater relics and relics; Theft and trafficking of antiques is taking place in some localities... Dr. Tran Thi Thu Nhung, Hanoi University of Culture, commented: Underwater archeology requires further investment in infrastructure, equipment, especially human resources, in addition to professional knowledge, it also requires know how to draw nautical charts, ocean currents, swim and explore underwater. Underwater archeology requires cooperation and association with research agencies and technical units at home and abroad. There should be many international conferences, seminars, and research cooperation in the form of topics, projects, and protocols with other countries to clarify academic issues. On the other hand, attach importance to the coordination of units with strengths in boats and underwater equipment to organize investigations, discoveries and salvage of underwater cultural heritage. At universities and colleges, the archeology industry needs to develop programs and teaching content on underwater archeology for students. To create momentum and maintain the development of underwater archeology, it is necessary to quickly train a team of young underwater archaeologists working at specialized research agencies operating on a budget. government for scientific, non-commercial purposes. Along with that, the Institute of Marine Heritage Research was established. This research institute is a complex organizational mechanism, in addition to the underwater archeology center and museum, there are also marine trade research centers. ships, preservation and storage centers... From then on, the archeology industry will develop according to its inherent potential to promote the management, conservation and promotion of underwater cultural heritage values ​​in these areas. river and sea areas in our country's territory.
Những điều chưa biết về cuộc đời danh nhân Nguyễn Đình Chiểu Ngưỡng mộ danh tiếng cố trụ trì Viên Ngộ, trên đường chạy giặc từ thành Gia Định về Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã tìm đến chùa Tôn Thạnh làm nơi viết văn và họp bàn quốc sự cùng lãnh tụ các nghĩa quân chống giặc. Tại đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Chốn khai sinh hùng ca Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong gia đình quan lại. Cha ông, Nguyễn Đình Huy theo Tả quân Lê Văn Duyệt và làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn Gia Định Thành. Thế nhưng, cuộc đời ông sớm chịu nhiều thăng trầm, mất mát. Lớn lên trong gia đình nho học, Nguyễn Đình Chiểu sớm biểu hiện những phẩm chất của một anh tài. Theo đó, 21 tuổi, ông thi đỗ tú tài ở trường thi Gia Định. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu nhưng được tin mẹ mất, Nguyễn Đình Chiểu đau đớn bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang. Trên đường, thương khóc mẹ, vất vả và thời tiết thất thường, nên đến Quảng Nam, Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Ông được một thầy thuốc thuộc dòng dõi ngự y tận tình chữa trị. Tuy nhiên, bệnh quá nặng, Nguyễn Đình Chiểu thoát cửa tử nhưng mất đi đôi mắt. Tuy nhiên, vốn là một người ham học hỏi, trong thời gian chữa bệnh, dù không thấy ánh sáng mặt trời, Nguyễn Đình Chiểu vẫn tận tụy học hỏi nghề y. Cuối cùng, ông cũng học được cách cứu mình, cứu người. Lâm cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút… Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851 mới mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Được biết, sau lễ cưới của anh giáo mù Nguyễn Đình Chiểu với cô Lê Thị Điền, con gái rượu của một gia đình giàu có nhất Thanh Ba, tiếng tăm về chàng rể mù có tài văn thơ, có tấm lòng quảng đại, phong thái uy nghi sớm làm người dân ngưỡng mộ. Đặc biệt, sau những tác phẩm để đời như Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu nêu cao nghĩa khí của bậc quân tử, tấm lòng trung quân ái quốc, Nguyễn Đình Chiểu nhanh chóng được các lãnh tụ nghĩa quân tin tưởng tìm gặp, trao đổi việc kháng giặc cứu nước. Vì vậy, từ rất sớm, dù mù lòa, ông đã có mối liên hệ với các phong trào nghĩa quân. Biết được những hiểm nguy mình phải đương đầu, để tránh hậu họa cho gia đình ông Lê Tăng Quýnh cũng như che mắt giặc Pháp cùng bọn tay sai, Nguyễn Đình Chiểu tìm đến gần chùa Tôn Thạnh sinh sống. Tại đây, ban ngày ông vào chùa bốc thuốc, mở trường học, viết thơ văn và gặp gỡ, cố vấn cho nghĩa quân. Theo những ghi nhận trong tài liệu “Sưu tập Nguyễn Đình Chiểu” của tác giả Châu Anh Phụng thì tại chùa Tôn Thạnh, Nguyễn Đình Chiểu giữ vai trò là một cố vấn trong bộ tham mưu kháng Pháp của Trương Công Định. Khẳng định thêm sự việc trên, Hòa thượng Thích Tắc Ngộ, trụ trì chùa Tôn Thạnh cho biết: “Các sư đời trước truyền lại rằng, ông Nguyễn Đình Chiểu ở chùa này 3 năm, từ năm 1859 đến năm 1861. Khi về chùa, ông nhuận sắc nhiều tác phẩm của mình và đóng thành cuốn. Thường ngày, tại chùa, ông viết sách, làm thơ rồi dạy học và bốc thuốc cho người dân mà không lấy tiền. Ngoài ra, ông còn gặp gỡ bàn bạc việc cứu nước với các nghĩa quân. Cũng chính nơi đây, kiệt tác văn học Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời. “Đêm 16/12/1861, nghĩa quân tụ họp tại chùa Tôn Thạnh họp bàn và quyết định kéo quân tập kích vào đồn Pháp ở Cần Giuộc. Tuy dũng mãnh, quyết liệt, quả cảm và thu được một số thắng lợi nhất định, nhưng vì trang bị thô sơ, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, nghĩa quân dần bị đánh lui và bị chết rất nhiều. Cảm kích trước sự hy sinh anh dũng của những nghĩa quân vốn là những người nông dân chân lấm tay bùn, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác bài văn tế trên”, Đại đức Thích Tắc Nhàn, chùa Tôn Thạnh cho biết thêm. Bản sao Hán Nôm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đi tìm “dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ” Về nguồn gốc của những nghĩa binh được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi trong tác phẩm văn tế, các bậc lão niên giàu hiểu biết tại xã Mỹ Đức, Mỹ Lộc thuộc huyện Cần Giuộc, Long An , cho biết: Sau khi không thể kháng cự lại quân Pháp, Hộ đốc thành Gia Định Võ Duy Ninh cho quân lui về vùng Cần Giuộc. Tại đây, ông cũng không cản được bước chân man rợ của giặc ngoại xâm nên đã tuẫn tiết. Sau cái chết của Võ Duy Ninh, quân lực tiêu tán, giặc Pháp tràn ra cướp bóc, giết chóc. Trước cảnh nước mất nhà tan, người anh hùng Trương Công Định đứng lên tụ nghĩa, lãnh đạo nghĩa binh chống giặc và phong ông Bùi Quang Diệu làm đốc binh và chọn chùa làm nơi chỉ huy, bàn bạc quốc sự. Tại đây, nghĩa quân đã gặp gia đình Nguyễn Đình Chiểu và được người chí sĩ hết lòng phò tá. Các bậc lão nhân khẳng định trong công cuộc chống giặc không chỉ mỗi cụ Đồ Chiểu góp công và còn có cả người vợ hiền của ông là bà Lê Thị Điền. Được biết, khi Pháp dồn binh tấn công Cần Giuộc, trên đất liền chúng đóng đồn và đóng tàu chiến dưới sông. Các cụ khẳng định: Bà Lê Thị Điền là người đã nảy ra sáng kiến hạn chế kỵ binh của giặc để quân ta chiếm lợi thế trong chiến đấu giáp lá cà. Theo đó, bà tìm hái trái mù u đợi khi kỵ binh giặc vào làng, bà đem mù u ra đổ đầy đường. Giặc lao tới, đạp phải mù u ngã nhào, nghĩa quân lợi dụng lúc ấy mà ùa ra đánh. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa binh không thể đẩy lùi giặc ngoại xâm. Ngày 16/12/1861, Bùi Quang Diệu quyết định dốc sức, dẫn binh công đồn giặc tại Cần Giuộc và thất trận trong bi tráng. Ghi nhận sự việc trên, các tài liệu lịch sử có ghi: Mặc dù thất trận nhưng nghĩa quân cũng tiêu diệt được một lượng lớn lính Mã Tà, Ma Ní, đâm bị thương tên Giám đốc quân sự người Pháp tên Dumont (tên này cũng bỏ mạng không lâu sau đó). Nhưng những thiệt hại cụ thể của nghĩa quân không hề được ghi nhận một cách chính xác, hệ thống trong các tài liệu lịch sử. Cho đến hiện nay, danh tính các nghĩa quân hi sinh vẫn nằm trong vòng bí ẩn, số lượng các nghĩa sĩ thiệt mạng cũng chỉ là những con số chưa được thống nhất. Theo đó, trong tác phẩm của mình, nhà văn hóa, ngôn ngữ Huỳnh Tịnh Của cho rằng trong trận đánh oai hùng trên có 25 nghĩa binh hy sinh. Tuy nhiên, những tài liệu được tuần phủ Gia Định ghi chép thì nghĩa quân có 27 người thiệt mạng. Cùng quan điểm trên, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng cũng khẳng định có 27 nghĩa binh hy sinh. Ngoài ra bà còn cho biết, bà đã cất công tìm kiếm danh tính, nơi chôn cất tập thể các nghĩa binh năm xưa trong một thời gian rất dài. Theo đó, bà Châu Anh Phụng khẳng định: Có 27 nghĩa sĩ hy sinh. Cũng theo lời bà Châu Anh Phụng, hiện nay, việc xác định lại danh tính, tuổi tác của những người anh hùng được cụ Đồ Chiểu ca ngợi trong bản hùng ca trên là điều rất khó. Theo đó, người dân nơi đây truyền rằng trong số nghĩa binh hy sinh một phần lớn là người dân Mỹ Lộc, do đó họ đã lập đền thờ chung. Thông tin cùng chúng tôi xung quanh việc định danh nghĩa sĩ Cần Giuộc, các lão nhân tại khu vực đình Mỹ Lộc cho biết: Các cụ xưa kể lại rằng, sau khi thất trận, người ta cũng có lập danh sách các nghĩa binh nhưng thời gian quá lâu, trải qua chiến tranh, loạn lạc có lẽ danh sách đã thất lạc hoặc bị phá hủy từ lâu. Khẳng định lại vấn đề trên, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng cho biết: Qua quá trình tìm hiểu về cụ Đồ Chiểu, về văn tế cũng như những nghĩa sĩ, tôi chỉ biết chính xác khu vực chôn cất những người đã hy sinh. Thi hài nghĩa quân công đồn được nhân dân mang về mai táng trọng thể tại nghĩa trang khu vực. Tuy nhiên, sau khi Pháp chiếm khu vực này, do việc mở rộng đường, đắp đồn, chúng đã đào nghĩa trang lên. Lâu ngày, nơi yên nghỉ của những anh hùng áo vải trở thành một cái ao rất sâu. Đến nay, ao đã được lấp để xây nhà mất rồi”. Nói thêm về cuộc đời cụ Đồ Chiểu sau khi viết đại kiệt tác văn tế, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng cho biết: “Sau khi nghĩa quân thất trận, ông Đồ mù lòa lại theo vợ con xuống Ba Tri, Bến Tre sinh sống. Dù ở đâu, ông cũng vẫn là người có nhân cách cao đẹp, lấy văn chương là vũ khí chống giặc với tư tưởng: Văn dĩ tải đạo. Tuy nhiên, sẽ là vô cùng thiếu sót nếu nói đến cuộc đời vĩ đại của người chí sĩ trên mà không đề cập tới những đóng góp thầm lặng của bà Lê Thị Điền, người vợ hiền của Nguyễn Đình Chiểu. Hà Nguyễn – Ngọc Lài
Những điều chưa biết về cuộc đời danh nhân Nguyễn Đình Chiểu Ngưỡng mộ danh tiếng cố trụ trì Viên Ngộ, trên đường chạy giặc từ thành Gia Định về Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã tìm đến chùa Tôn Thạnh làm nơi viết văn và họp bàn quốc sự cùng lãnh tụ các nghĩa quân chống giặc. Tại đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Chốn khai sinh hùng ca Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong gia đình quan lại. Cha ông, Nguyễn Đình Huy theo Tả quân Lê Văn Duyệt và làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn Gia Định Thành. Thế nhưng, cuộc đời ông sớm chịu nhiều thăng trầm, mất mát. Lớn lên trong gia đình nho học, Nguyễn Đình Chiểu sớm biểu hiện những phẩm chất của một anh tài. Theo đó, 21 tuổi, ông thi đỗ tú tài ở trường thi Gia Định. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu nhưng được tin mẹ mất, Nguyễn Đình Chiểu đau đớn bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang. Trên đường, thương khóc mẹ, vất vả và thời tiết thất thường, nên đến Quảng Nam, Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Ông được một thầy thuốc thuộc dòng dõi ngự y tận tình chữa trị. Tuy nhiên, bệnh quá nặng, Nguyễn Đình Chiểu thoát cửa tử nhưng mất đi đôi mắt. Tuy nhiên, vốn là một người ham học hỏi, trong thời gian chữa bệnh, dù không thấy ánh sáng mặt trời, Nguyễn Đình Chiểu vẫn tận tụy học hỏi nghề y. Cuối cùng, ông cũng học được cách cứu mình, cứu người. Lâm cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút… Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851 mới mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Được biết, sau lễ cưới của anh giáo mù Nguyễn Đình Chiểu với cô Lê Thị Điền, con gái rượu của một gia đình giàu có nhất Thanh Ba, tiếng tăm về chàng rể mù có tài văn thơ, có tấm lòng quảng đại, phong thái uy nghi sớm làm người dân ngưỡng mộ. Đặc biệt, sau những tác phẩm để đời như Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu nêu cao nghĩa khí của bậc quân tử, tấm lòng trung quân ái quốc, Nguyễn Đình Chiểu nhanh chóng được các lãnh tụ nghĩa quân tin tưởng tìm gặp, trao đổi việc kháng giặc cứu nước. Vì vậy, từ rất sớm, dù mù lòa, ông đã có mối liên hệ với các phong trào nghĩa quân. Biết được những hiểm nguy mình phải đương đầu, để tránh hậu họa cho gia đình ông Lê Tăng Quýnh cũng như che mắt giặc Pháp cùng bọn tay sai, Nguyễn Đình Chiểu tìm đến gần chùa Tôn Thạnh sinh sống. Tại đây, ban ngày ông vào chùa bốc thuốc, mở trường học, viết thơ văn và gặp gỡ, cố vấn cho nghĩa quân. Theo những ghi nhận trong tài liệu “Sưu tập Nguyễn Đình Chiểu” của tác giả Châu Anh Phụng thì tại chùa Tôn Thạnh, Nguyễn Đình Chiểu giữ vai trò là một cố vấn trong bộ tham mưu kháng Pháp của Trương Công Định. Khẳng định thêm sự việc trên, Hòa thượng Thích Tắc Ngộ, trụ trì chùa Tôn Thạnh cho biết: “Các sư đời trước truyền lại rằng, ông Nguyễn Đình Chiểu ở chùa này 3 năm, từ năm 1859 đến năm 1861. Khi về chùa, ông nhuận sắc nhiều tác phẩm của mình và đóng thành cuốn. Thường ngày, tại chùa, ông viết sách, làm thơ rồi dạy học và bốc thuốc cho người dân mà không lấy tiền. Ngoài ra, ông còn gặp gỡ bàn bạc việc cứu nước với các nghĩa quân. Cũng chính nơi đây, kiệt tác văn học Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời. “Đêm 16/12/1861, nghĩa quân tụ họp tại chùa Tôn Thạnh họp bàn và quyết định kéo quân tập kích vào đồn Pháp ở Cần Giuộc. Tuy dũng mãnh, quyết liệt, quả cảm và thu được một số thắng lợi nhất định, nhưng vì trang bị thô sơ, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, nghĩa quân dần bị đánh lui và bị chết rất nhiều. Cảm kích trước sự hy sinh anh dũng của những nghĩa quân vốn là những người nông dân chân lấm tay bùn, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác bài văn tế trên”, Đại đức Thích Tắc Nhàn, chùa Tôn Thạnh cho biết thêm. Bản sao Hán Nôm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đi tìm “dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ” Về nguồn gốc của những nghĩa binh được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi trong tác phẩm văn tế, các bậc lão niên giàu hiểu biết tại xã Mỹ Đức, Mỹ Lộc thuộc huyện Cần Giuộc, Long An , cho biết: Sau khi không thể kháng cự lại quân Pháp, Hộ đốc thành Gia Định Võ Duy Ninh cho quân lui về vùng Cần Giuộc. Tại đây, ông cũng không cản được bước chân man rợ của giặc ngoại xâm nên đã tuẫn tiết. Sau cái chết của Võ Duy Ninh, quân lực tiêu tán, giặc Pháp tràn ra cướp bóc, giết chóc. Trước cảnh nước mất nhà tan, người anh hùng Trương Công Định đứng lên tụ nghĩa, lãnh đạo nghĩa binh chống giặc và phong ông Bùi Quang Diệu làm đốc binh và chọn chùa làm nơi chỉ huy, bàn bạc quốc sự. Tại đây, nghĩa quân đã gặp gia đình Nguyễn Đình Chiểu và được người chí sĩ hết lòng phò tá. Các bậc lão nhân khẳng định trong công cuộc chống giặc không chỉ mỗi cụ Đồ Chiểu góp công và còn có cả người vợ hiền của ông là bà Lê Thị Điền. Được biết, khi Pháp dồn binh tấn công Cần Giuộc, trên đất liền chúng đóng đồn và đóng tàu chiến dưới sông. Các cụ khẳng định: Bà Lê Thị Điền là người đã nảy ra sáng kiến hạn chế kỵ binh của giặc để quân ta chiếm lợi thế trong chiến đấu giáp lá cà. Theo đó, bà tìm hái trái mù u đợi khi kỵ binh giặc vào làng, bà đem mù u ra đổ đầy đường. Giặc lao tới, đạp phải mù u ngã nhào, nghĩa quân lợi dụng lúc ấy mà ùa ra đánh. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa binh không thể đẩy lùi giặc ngoại xâm. Ngày 16/12/1861, Bùi Quang Diệu quyết định dốc sức, dẫn binh công đồn giặc tại Cần Giuộc và thất trận trong bi tráng. Ghi nhận sự việc trên, các tài liệu lịch sử có ghi: Mặc dù thất trận nhưng nghĩa quân cũng tiêu diệt được một lượng lớn lính Mã Tà, Ma Ní, đâm bị thương tên Giám đốc quân sự người Pháp tên Dumont (tên này cũng bỏ mạng không lâu sau đó). Nhưng những thiệt hại cụ thể của nghĩa quân không hề được ghi nhận một cách chính xác, hệ thống trong các tài liệu lịch sử. Cho đến hiện nay, danh tính các nghĩa quân hi sinh vẫn nằm trong vòng bí ẩn, số lượng các nghĩa sĩ thiệt mạng cũng chỉ là những con số chưa được thống nhất. Theo đó, trong tác phẩm của mình, nhà văn hóa, ngôn ngữ Huỳnh Tịnh Của cho rằng trong trận đánh oai hùng trên có 25 nghĩa binh hy sinh. Tuy nhiên, những tài liệu được tuần phủ Gia Định ghi chép thì nghĩa quân có 27 người thiệt mạng. Cùng quan điểm trên, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng cũng khẳng định có 27 nghĩa binh hy sinh. Ngoài ra bà còn cho biết, bà đã cất công tìm kiếm danh tính, nơi chôn cất tập thể các nghĩa binh năm xưa trong một thời gian rất dài. Theo đó, bà Châu Anh Phụng khẳng định: Có 27 nghĩa sĩ hy sinh. Cũng theo lời bà Châu Anh Phụng, hiện nay, việc xác định lại danh tính, tuổi tác của những người anh hùng được cụ Đồ Chiểu ca ngợi trong bản hùng ca trên là điều rất khó. Theo đó, người dân nơi đây truyền rằng trong số nghĩa binh hy sinh một phần lớn là người dân Mỹ Lộc, do đó họ đã lập đền thờ chung. Thông tin cùng chúng tôi xung quanh việc định danh nghĩa sĩ Cần Giuộc, các lão nhân tại khu vực đình Mỹ Lộc cho biết: Các cụ xưa kể lại rằng, sau khi thất trận, người ta cũng có lập danh sách các nghĩa binh nhưng thời gian quá lâu, trải qua chiến tranh, loạn lạc có lẽ danh sách đã thất lạc hoặc bị phá hủy từ lâu. Khẳng định lại vấn đề trên, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng cho biết: Qua quá trình tìm hiểu về cụ Đồ Chiểu, về văn tế cũng như những nghĩa sĩ, tôi chỉ biết chính xác khu vực chôn cất những người đã hy sinh. Thi hài nghĩa quân công đồn được nhân dân mang về mai táng trọng thể tại nghĩa trang khu vực. Tuy nhiên, sau khi Pháp chiếm khu vực này, do việc mở rộng đường, đắp đồn, chúng đã đào nghĩa trang lên. Lâu ngày, nơi yên nghỉ của những anh hùng áo vải trở thành một cái ao rất sâu. Đến nay, ao đã được lấp để xây nhà mất rồi”. Nói thêm về cuộc đời cụ Đồ Chiểu sau khi viết đại kiệt tác văn tế, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng cho biết: “Sau khi nghĩa quân thất trận, ông Đồ mù lòa lại theo vợ con xuống Ba Tri, Bến Tre sinh sống. Dù ở đâu, ông cũng vẫn là người có nhân cách cao đẹp, lấy văn chương là vũ khí chống giặc với tư tưởng: Văn dĩ tải đạo. Tuy nhiên, sẽ là vô cùng thiếu sót nếu nói đến cuộc đời vĩ đại của người chí sĩ trên mà không đề cập tới những đóng góp thầm lặng của bà Lê Thị Điền, người vợ hiền của Nguyễn Đình Chiểu. Hà Nguyễn – Ngọc Lài
Khai quật tại ngôi điện đặc biệt có 13 đời vua Nguyễn đăng quang: Nhiều xuất lộ bất ngờ Nhiều kết cấu, vật liệu công trình cổ xưa đã xuất lộ tại các vị trí khảo cổ thuộc điện Thái Hòa, Hoàng Thành Huế – nơi đăng quang và đặt ngai vàng của 13 đời vua triều Nguyễn. Ngày 10/6, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô (BTDTCĐ) Huế cho biết, công tác khai quật khảo cổ học bước đầu đã được triển khai tại điện Thái Hòa – Hoàng thành Huế, sau khi nhận được sự cho phép từ Bộ VH-TT&DL. Điện Thái Hòa, Hoàng thành Huế – nơi đăng quang và đặt ngai vàng của 13 vị vua triều Nguyễn. Ảnh: TTBTDTCĐ Huế Công tác khai quật khảo cổ triển khai tại điện Thái Hòa bắt đầu từ ngày 5/6 và kéo dài đến 20/6, thực hiện trên diện tích 66m2 tại hai chái Đông và Tây của ngôi điện. Công tác này do bà Lê Thị An Hòa, Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học thuộc Trung tâm BTDTCĐ Huế, chủ trì. Đến ngày 10/6, bước đầu công tác khảo cổ đã thu được những kết quả đáng chú ý. Thực hiện công tác khảo sát trong thời gian tổ chức khai quật, khảo cổ. Ảnh: TTBTDTCĐ Huế Ở chái Tây điện Thái Hòa đã xuất lộ thềm móng bậc cấp, bó vỉa sát móng, hệ thống đá ong bó vỉa sát móng nền và dọc theo bậc cấp chái Tây, lớp gạch Bát Tràng trên lớp đá ong bó vỉa sát nền móng dọc theo bậc cấp. Bên trong chái Tây cũng xuất lộ chân móng góc phía Tây Bắc của điện Thái Hòa. Ở chái Đông của điện Thái Hòa xuất lộ một phần bó vỉa sát chân móng ở bậc cấp phía Nam, hệ thống đá ong bó sát thềm bậc cấp mặt Bắc, đá ong bó sát chân móng chái Đông, bậc cấp lên xuống của điện Thái Hòa. Ông Võ Lê Nhật – Giám đốc Trung tâm BTDTCĐ Huế , cho biết, đợt khảo cổ này có ý nghĩa quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu và bổ sung hồ sơ dự án “Bảo tồn, tu bổ tổng thể di tích điện Thái Hòa”. Trước đó, như tin đã đưa, Bộ VH-TT&DL vừa có Quyết định số 1743/QĐ-BVHTTDL đồng ý cho phép tiến hành khai quật khảo cổ tại địa điểm di tích điện Thái Hòa – Đại nội Huế nhằm củng cố hồ sơ, góp phần hoàn chỉnh phương án bảo tồn, trùng tu tổng thể di tích này. Theo yêu cầu từ Bộ VH-TT&DL, trong thời gian tiến hành khai quật khảo cổ, Trung tâm BTDTCĐ Huế chú ý bảo vệ địa tầng của di tích; tuyên truyền cho nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hóa ở địa phương; không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản Văn hóa. Những hiện vật thu được trong quá trình khai quật phải được tạm lưu giữ tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế để bảo quản, tránh gây hư hỏng, thất lạc hiện vật. Trung tâm có trách nhiệm báo cáo Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó… Trước đó, vào tháng 1/2020, Trung tâm BTDTCĐ Huế đã tổ chức lấy ý kiến các chuyên gia, nhà nghiên cứu về phương án trùng tu, bảo tồn di tích điện Thái Hòa, sau khi công trình đặc biệt này bị mưa bão tàn phá nghiêm trọng hồi tháng 10/2020. Việc trùng tu, tu bổ điện Thái Hòa sẽ giữ nguyên hiện trạng vốn có của công trình. Theo các tài liệu lịch sử, khoa học, điện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong Hoàng cung triều Nguyễn. Đây là nơi diễn ra các đại lễ và các cuộc họp đại triều với sự tham gia của nhà vua, hoàng thân, quốc thích và các đại thần. Công trình xây dựng vào tháng 2/1805 và hoàn thành vào tháng 10/1805. Trải qua nhiều lần được trùng tu, do yếu tố thời gian và ảnh hưởng nghiêm trọng của thời tiết, đặc biệt là đợt mưa bão dồn dập cuối năm 2020 vừa qua, di tích đặc biệt điện Thái Hòa xuống cấp nghiêm trọng. Do đó, việc đầu tư trùng tu, tôn tạo công trình là hết sức cấp thiết.
Excavation at the special palace where 13 Nguyen kings were crowned: Many unexpected revelations Many ancient construction structures and materials have been revealed at archaeological sites of Thai Hoa Palace and Hue Imperial Citadel - the coronation and throne place of 13 kings of the Nguyen Dynasty. On June 10, Hue Monuments Conservation Center (BTDTCD) said that initial archaeological excavation work has been carried out at Thai Hoa Palace - Hue Imperial Citadel, after receiving permission from Ministry of Culture, Sports and Tourism. Thai Hoa Palace, Hue Imperial Citadel - the coronation and throne place of 13 Nguyen Dynasty kings. Photo: Hue Community Center Archaeological excavation work at Thai Hoa Palace began on June 5 and lasted until June 20, carried out on an area of ​​66 square meters in the East and West wings of the palace. This work is chaired by Ms. Le Thi An Hoa, Head of Scientific Research Department of Hue Community Conservation Center. By June 10, initial archaeological work had achieved remarkable results. Carry out survey work during excavation and archeology. Photo: Hue Community Center In the west wing of Thai Hoa Palace, a step foundation has been revealed, with curbs close to the foundation, a laterite system with curbs close to the foundation and along the steps of the west wing, a layer of Bat Trang bricks on a laterite layer next to the vertical foundation. by level. Inside the west wing, the foundation of the northwest corner of Thai Hoa Palace is also revealed. In the East wing of Thai Hoa Palace, a part of the pavement close to the foot of the foundation on the southern steps is exposed, the laterite system is close to the steps on the North side, laterite is close to the foot of the foot of the East wing's foundation, up and down the steps of the Thai Palace. Draw. Mr. Vo Le Nhat - Director of Community Protection Center Hue , said that this archaeological round is important for the research and supplementation of the project file "Overall conservation and restoration of Thai Hoa Palace relics". Previously, as reported, the Ministry of Culture, Sports and Tourism has just issued Decision Không. 1743/QD-BVHTTDL agreeing to allow archaeological excavations at the Thai Hoa Palace - Hue Citadel relic site to consolidate records, contributing to completing the overall conservation and restoration plan for this monument. At the request of the Ministry of Culture, Sports and Tourism, during the archaeological excavation, the Hue Community Conservation Center paid attention to protecting the stratigraphy of the monument; Propagate to people about protecting local cultural heritage; Do not announce official conclusions without agreement from the governing agency and the Department of Cultural Heritage. Artifacts collected during the excavation process must be temporarily kept at the Hue Museum of Royal Antiquities to preserve and avoid damage or loss of artifacts. The Center is responsible for reporting to the Minister of Culture, Sports and Tourism on plans to protect and promote the value of those artifacts... Previously, in January 2020, the Hue Community Conservation Center organized a consultation with experts and researchers on the plan to restore and preserve Thai Hoa relics, after this special project was hit by a storm. Serious destruction in October 2020. The restoration and renovation of Thai Hoa Palace will maintain the original status of the project. According to historical and scientific documents, Thai Hoa Palace is the most important architectural work in the Royal Palace of the Nguyen Dynasty. This is where great ceremonies and royal meetings take place with the participation of the king, princes, nationals and ministers. Construction began in February 1805 and was completed in October 1805. Having undergone many restorations, due to time factors and the severe influence of weather, especially the heavy storms at the end of 2020, the special relic of Thai Hoa Palace has seriously degraded. Therefore, investing in restoration and embellishment of works is extremely urgent.
Nguyễn Đình Chiểu: Một biểu tượng văn hóa dân tộc Đối với người Nam bộ nói riêng và người Việt Nam nói chung, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một nhà thơ nổi tiếng mà còn là một tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức, tiêu biểu cho văn hóa của đất nước Việt Nam. Các cơ quan chức năng, các nhà văn hóa đang hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO đưa vào danh sách tổ chức kỷ niệm vào năm 2022 nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (1/7/1822 – 1/7/2022). Chiếc bát cơm của Nguyễn Đình Chiểu được thờ tại gia đình ông (Ảnh: Tư liệu) Thà đui mà giữ đạo nhà Trở lại Cần Giuộc , Long An , nơi trong thời gian chống Pháp, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu sống và sáng tác, viết nên tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, tôi gặp nhiều người dân vẫn đam mê sưu tầm tác phẩm, sự tích về nghĩa sĩ Cần Giuộc và về Nguyễn Đình Chiểu. Rất nhiều người có thể đọc làu làu Lục Vân Tiên. Anh Mai Bình Phục, người dân ở cạnh chùa Pháp Tánh kể: “Tôi yêu thích thơ văn cụ đồ Chiểu, thích bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” nên nhiều năm đi tìm danh tính, các vị chỉ huy và sự tích cuộc chiến đấu tại Cần Giuộc quê tôi. Chính nhờ tác phẩm của cụ Nguyễn Đình Chiểu mà người đời sẽ không quên những nghĩa sĩ đã ngã xuống vì non sông đất nước”. Cuộc đấu tranh mà cụ Đồ Chiểu tích cực cổ vũ, đó không chỉ là cuộc đấu tranh bảo vệ lãnh thổ Việt Nam mà còn là cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa Việt Nam trước sự xâm lăng của súng đạn và văn hóa ngoại bang. Nguyễn Đình Chiểu viết rằng: “Thà đui mà giữ đạo nhà/ Còn hơn có mắt ông cha không thờ/ Dầu đui mà khỏi danh nhơ/ Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình/ Dầu đui mà đặng trọn mình/Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu”. Cuộc đấu tranh chống Pháp, theo cụ đồ Chiểu, đó là cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa, bảo vệ truyền thống, bảo vệ bản sắc của một dân tộc phương Đông trước kẻ xâm lược phương Tây. Anh Mai Bình Phục nguyên là giảng viên đại học, anh rất tâm đắc những câu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: “Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Anh Phục nói rằng: “Cả đời cụ đồ Chiểu đau đáu với việc bảo vệ văn hóa dân tộc Việt Nam”. Nguyễn Đình Chiểu tục gọi là cụ Đồ Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ). Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy tự Dương Minh Phủ quê ở Thừa Thiên vào Gia Định khoảng năm 1822. Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu để đời có truyện thơ Nôm: Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu, Ngư tiều y thuật vấn đáp. Các tác phẩm thơ lẻ, văn tế: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn điếu Trương Định, Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong… “Uy tín lớn lao về đạo đức của đồ Chiểu (mà ông đúng là một nhà giáo có rất nhiều học trò), thái độ bất hợp tác của ông đối với bọn thực dân, đã khiến cho nhà thơ trở thành một sức mạnh lớn lao, mặc dù ông không có binh tướng trong tay. Về thực chất, Nguyễn Đình Chiểu là linh hồn của phong trào chống Pháp, là người cổ vũ phong trào đó. Văn thơ của ông đã tìm được con đường đi thẳng vào trái tim nhân dân”. (N.Niculin, nhà nghiên cứu văn học Liên Xô). Tài, chữ đức vẹn toàn Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng, một người ở Cần Giuộc đã dành cả cuộc đời sưu tầm về Nguyễn Đình Chiểu. Chính cô là người đã dựng tấm bia tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu gần chùa Tôn Thạnh vào năm 1973. Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng nói với phóng viên: “Nhiều học giả, dịch giả Pháp và các nước gặp tôi, họ đều nhận định Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa có tầm vóc nhân loại”. Theo PGS.TS.Đoàn Lê Giang: “Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Pháp, bắt đầu từ bản của G.Aubaret (1864), sau đó có bản dịch của Abel des Michels (1883), E.Bajot (1886), Nghiêm Liễn (1927), Dương Quảng Hàm (1944), Lê Trọng Bổng (1997)… có ít nhất 6 bản tiếng Pháp. Năm 1985, Lục Vân Tiên còn được dịch ra tiếng Nhật với bản dịch của Giáo sư Takeuchi Yonosuke. Năm 2016, Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Anh với bản dịch của ÉricRosencrantz. Với 3 thứ tiếng và 8 bản dịch, Lục Vân Tiên là tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra ngoại ngữ nhiều thứ ba sau Truyện Kiều (21 thứ tiếng, hơn 70 bản dịch), Nhật ký trong tù (khoảng 16 thứ tiếng, 20 bản dịch)…” Tác giả bài viết và nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng (trái) tại Long An, 5/2021 Ảnh: Mai Thị Bé Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng trên nền nhà cũ của Nguyễn Đình Chiểu tại Cần Giuộc, Long An (Ảnh tư liệu của Châu Anh Phụng) “Không chỉ sách văn chương, mà cuốn “Ngư tiều vấn đáp y thuật” nói việc chữa bệnh của cụ Đồ Chiểu cũng là một trong những cuốn sách được giới y học quan tâm. Người ta tìm kiếm, sưu tầm, học hỏi ông với tư cách một vị danh y lớn của dân tộc” – Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng nói. Nguyễn Đình Chiểu viết: Thấy người đau giống mình đau/ Phương nào cứu đặng mau mau trị lành/ Đứa ăn mày cũng trời sinh/ Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không”. Những ngày ngụ trong chùa Tôn Thạnh, dù việc chống Pháp rất gian nan nhưng cụ Đồ Chiểu vẫn thường ngày bốc thuốc cứu dân, chữa bệnh cho dân miễn phí. GS.TS. Bùi Quang Thanh nhận định “Cụ Đồ Chiểu là người thầy trong lòng người dân Nam Bộ, với biểu tượng về ý chí, nhân cách và tình cảm nhân văn đối với quần chúng nhân dân. Cụ hoàn toàn xứng đáng là một biểu tượng văn hóa nhân văn của dân tộc và xa hơn”. Nỗ lực “đưa” Nguyễn Ðình Chiểu ra thế giới Theo nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng: “Người nước ngoài biết tới Nguyễn Đình Chiểu phần nhiều dựa vào văn thơ của ông, song cụ đồ Chiểu rất xứng đáng được tôn vinh với tư cách một nhà văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam”. Năm 2020, Nhà xuất bản Thế Giới đã in tác phẩm tiếng Anh, giới thiệu cuộc đời sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu do GS.TS Nguyễn Chí Bền viết. GS.TS. Nguyễn Chí Bền nhận định: “Có thể nói, lịch sử văn chương nhân loại ít có trường hợp nào như Nguyễn Đình Chiểu, một ngôi sao có ánh sáng khác thường – nhà thơ mù lòa mà tác phẩm mang tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ; một tâm hồn trong sáng, đau đáu vì vận nước”. Cuối năm 2020, Tỉnh ủy Bến Tre đã tổ chức Hội thảo khoa học về Hồ sơ trình UNESCO đưa vào danh sách tổ chức kỷ niệm vào năm 2022 nhân kỷ niệm 200 năm Ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (1-7-1822 – 1-7-2022). Tất cả các đại biểu, các nhà khoa học và người dân đều đồng tình việc đề nghị tổ chức UNESCO tôn vinh cụ đồ Chiểu là một nhà văn hóa thế giới. Hiện hồ sơ gửi tổ chức UNESCO đang được hoàn thành. Chia tay tôi, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng đưa ra một bức thư ngỏ viết tay gửi cho các nhà quản lý văn hóa. Nội dung bức thư có đoạn: “ Năm 2022 tới đây là năm nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tròn 200 tuổi (1822-2022). Nhân dịp này UNESCO đưa ra xem xét hồ sơ về cụ để tặng danh hiệu Danh nhân văn hóa cho cụ. Tôi hy vọng, nhà thơ lớn của đất Nam Bộ này được phong tặng để đứng vào hàng ngũ Danh nhân văn hóa Thế giới như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh trước đây”. Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng nói: “Tôi năm nay 81 tuổi, già yếu lắm rồi. Rất nhiều người nghiên cứu, hâm mộ cụ là bạn bè của tôi đều đã qua đời hoặc rất yếu. Chúng tôi chỉ mong được sống và chứng kiến cái ngày cụ đồ Chiểu được thế giới vinh danh là một nhà văn hóa vĩ đại”.
Nguyễn Đình Chiểu: Một biểu tượng văn hóa dân tộc Đối với người Nam bộ nói riêng và người Việt Nam nói chung, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một nhà thơ nổi tiếng mà còn là một tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức, tiêu biểu cho văn hóa của đất nước Việt Nam. Các cơ quan chức năng, các nhà văn hóa đang hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO đưa vào danh sách tổ chức kỷ niệm vào năm 2022 nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (1/7/1822 – 1/7/2022). Chiếc bát cơm của Nguyễn Đình Chiểu được thờ tại gia đình ông (Ảnh: Tư liệu) Thà đui mà giữ đạo nhà Trở lại Cần Giuộc , Long An , nơi trong thời gian chống Pháp, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu sống và sáng tác, viết nên tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, tôi gặp nhiều người dân vẫn đam mê sưu tầm tác phẩm, sự tích về nghĩa sĩ Cần Giuộc và về Nguyễn Đình Chiểu. Rất nhiều người có thể đọc làu làu Lục Vân Tiên. Anh Mai Bình Phục, người dân ở cạnh chùa Pháp Tánh kể: “Tôi yêu thích thơ văn cụ đồ Chiểu, thích bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” nên nhiều năm đi tìm danh tính, các vị chỉ huy và sự tích cuộc chiến đấu tại Cần Giuộc quê tôi. Chính nhờ tác phẩm của cụ Nguyễn Đình Chiểu mà người đời sẽ không quên những nghĩa sĩ đã ngã xuống vì non sông đất nước”. Cuộc đấu tranh mà cụ Đồ Chiểu tích cực cổ vũ, đó không chỉ là cuộc đấu tranh bảo vệ lãnh thổ Việt Nam mà còn là cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa Việt Nam trước sự xâm lăng của súng đạn và văn hóa ngoại bang. Nguyễn Đình Chiểu viết rằng: “Thà đui mà giữ đạo nhà/ Còn hơn có mắt ông cha không thờ/ Dầu đui mà khỏi danh nhơ/ Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình/ Dầu đui mà đặng trọn mình/Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu”. Cuộc đấu tranh chống Pháp, theo cụ đồ Chiểu, đó là cuộc đấu tranh bảo vệ văn hóa, bảo vệ truyền thống, bảo vệ bản sắc của một dân tộc phương Đông trước kẻ xâm lược phương Tây. Anh Mai Bình Phục nguyên là giảng viên đại học, anh rất tâm đắc những câu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: “Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Anh Phục nói rằng: “Cả đời cụ đồ Chiểu đau đáu với việc bảo vệ văn hóa dân tộc Việt Nam”. Nguyễn Đình Chiểu tục gọi là cụ Đồ Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ). Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy tự Dương Minh Phủ quê ở Thừa Thiên vào Gia Định khoảng năm 1822. Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu để đời có truyện thơ Nôm: Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu, Ngư tiều y thuật vấn đáp. Các tác phẩm thơ lẻ, văn tế: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn điếu Trương Định, Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong… “Uy tín lớn lao về đạo đức của đồ Chiểu (mà ông đúng là một nhà giáo có rất nhiều học trò), thái độ bất hợp tác của ông đối với bọn thực dân, đã khiến cho nhà thơ trở thành một sức mạnh lớn lao, mặc dù ông không có binh tướng trong tay. Về thực chất, Nguyễn Đình Chiểu là linh hồn của phong trào chống Pháp, là người cổ vũ phong trào đó. Văn thơ của ông đã tìm được con đường đi thẳng vào trái tim nhân dân”. (N.Niculin, nhà nghiên cứu văn học Liên Xô). Tài, chữ đức vẹn toàn Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng, một người ở Cần Giuộc đã dành cả cuộc đời sưu tầm về Nguyễn Đình Chiểu. Chính cô là người đã dựng tấm bia tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu gần chùa Tôn Thạnh vào năm 1973. Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng nói với phóng viên: “Nhiều học giả, dịch giả Pháp và các nước gặp tôi, họ đều nhận định Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa có tầm vóc nhân loại”. Theo PGS.TS.Đoàn Lê Giang: “Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Pháp, bắt đầu từ bản của G.Aubaret (1864), sau đó có bản dịch của Abel des Michels (1883), E.Bajot (1886), Nghiêm Liễn (1927), Dương Quảng Hàm (1944), Lê Trọng Bổng (1997)… có ít nhất 6 bản tiếng Pháp. Năm 1985, Lục Vân Tiên còn được dịch ra tiếng Nhật với bản dịch của Giáo sư Takeuchi Yonosuke. Năm 2016, Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Anh với bản dịch của ÉricRosencrantz. Với 3 thứ tiếng và 8 bản dịch, Lục Vân Tiên là tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra ngoại ngữ nhiều thứ ba sau Truyện Kiều (21 thứ tiếng, hơn 70 bản dịch), Nhật ký trong tù (khoảng 16 thứ tiếng, 20 bản dịch)…” Tác giả bài viết và nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng (trái) tại Long An, 5/2021 Ảnh: Mai Thị Bé Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng trên nền nhà cũ của Nguyễn Đình Chiểu tại Cần Giuộc, Long An (Ảnh tư liệu của Châu Anh Phụng) “Không chỉ sách văn chương, mà cuốn “Ngư tiều vấn đáp y thuật” nói việc chữa bệnh của cụ Đồ Chiểu cũng là một trong những cuốn sách được giới y học quan tâm. Người ta tìm kiếm, sưu tầm, học hỏi ông với tư cách một vị danh y lớn của dân tộc” – Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng nói. Nguyễn Đình Chiểu viết: Thấy người đau giống mình đau/ Phương nào cứu đặng mau mau trị lành/ Đứa ăn mày cũng trời sinh/ Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không”. Những ngày ngụ trong chùa Tôn Thạnh, dù việc chống Pháp rất gian nan nhưng cụ Đồ Chiểu vẫn thường ngày bốc thuốc cứu dân, chữa bệnh cho dân miễn phí. GS.TS. Bùi Quang Thanh nhận định “Cụ Đồ Chiểu là người thầy trong lòng người dân Nam Bộ, với biểu tượng về ý chí, nhân cách và tình cảm nhân văn đối với quần chúng nhân dân. Cụ hoàn toàn xứng đáng là một biểu tượng văn hóa nhân văn của dân tộc và xa hơn”. Nỗ lực “đưa” Nguyễn Ðình Chiểu ra thế giới Theo nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng: “Người nước ngoài biết tới Nguyễn Đình Chiểu phần nhiều dựa vào văn thơ của ông, song cụ đồ Chiểu rất xứng đáng được tôn vinh với tư cách một nhà văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam”. Năm 2020, Nhà xuất bản Thế Giới đã in tác phẩm tiếng Anh, giới thiệu cuộc đời sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu do GS.TS Nguyễn Chí Bền viết. GS.TS. Nguyễn Chí Bền nhận định: “Có thể nói, lịch sử văn chương nhân loại ít có trường hợp nào như Nguyễn Đình Chiểu, một ngôi sao có ánh sáng khác thường – nhà thơ mù lòa mà tác phẩm mang tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ; một tâm hồn trong sáng, đau đáu vì vận nước”. Cuối năm 2020, Tỉnh ủy Bến Tre đã tổ chức Hội thảo khoa học về Hồ sơ trình UNESCO đưa vào danh sách tổ chức kỷ niệm vào năm 2022 nhân kỷ niệm 200 năm Ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu (1-7-1822 – 1-7-2022). Tất cả các đại biểu, các nhà khoa học và người dân đều đồng tình việc đề nghị tổ chức UNESCO tôn vinh cụ đồ Chiểu là một nhà văn hóa thế giới. Hiện hồ sơ gửi tổ chức UNESCO đang được hoàn thành. Chia tay tôi, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng đưa ra một bức thư ngỏ viết tay gửi cho các nhà quản lý văn hóa. Nội dung bức thư có đoạn: “ Năm 2022 tới đây là năm nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tròn 200 tuổi (1822-2022). Nhân dịp này UNESCO đưa ra xem xét hồ sơ về cụ để tặng danh hiệu Danh nhân văn hóa cho cụ. Tôi hy vọng, nhà thơ lớn của đất Nam Bộ này được phong tặng để đứng vào hàng ngũ Danh nhân văn hóa Thế giới như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh trước đây”. Nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng nói: “Tôi năm nay 81 tuổi, già yếu lắm rồi. Rất nhiều người nghiên cứu, hâm mộ cụ là bạn bè của tôi đều đã qua đời hoặc rất yếu. Chúng tôi chỉ mong được sống và chứng kiến cái ngày cụ đồ Chiểu được thế giới vinh danh là một nhà văn hóa vĩ đại”.
Nguyễn Trãi, ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam Giáo sư sử học VĂN TÂM Dưới triều Lê, cả lúc vinh hoa tột đỉnh làm quan tới chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư hay khi lui về ở ẩn, tấm lòng trung với nước, với dân vẫn luôn ngời sáng. Bị bọn gian thần hãm hại, phải chịu họa “tru di tam tộc”, mãi đến năm 1464 ông mới được vua Lê Thánh Tông minh oan. Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Dư địa chí, Quốc âm thi tập, v.v và đặc biệt bài Bình Ngô đại cáo được người đời sau ca ngợi là áng “thiên cổ hùng văn”. Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu Ức Trai, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh (Húy danh là Nguyễn Ứng Long. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế. Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù. Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi: – Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao? Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc. Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách “hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”. Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh. Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau. Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: “Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”. Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân: – Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Do luôn luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi” (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi). Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam. Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”.
Nguyen Trai, Khue star of Vietnamese culture History professor VAN TAM During the Le Dynasty, even when he was at the peak of glory as a mandarin, holding the position of Chief Minister of the Third Army, or when he retired to live in seclusion, his loyalty to the country and the people was always bright. Being harmed by traitors and having to suffer the disaster of "ruling away from the three clans", it was not until 1464 that he was vindicated by King Le Thanh Tong. Nguyen Trai left behind many famous works such as Du Dia Chi, Quoc Am Thi Tap, etc. and especially the poem Binh Ngo Dai Cao, which was praised by later generations as an "epic poem". Nguyen Trai (1380-1442), alias Uc Trai, was born in Thang Long in the family of his grandfather, Great Tutor Tran Nguyen Dan. His father is Nguyen Phi Khanh (pseudonym Nguyen Ung Long. His mother is Tran Thi Thai, daughter of Tran Nguyen Dan. When Nguyen Trai was 5 years old, his mother passed away. Not long after that, Tran Nguyen Dan also passed away. He returned to live with his father in his paternal hometown in Nhi Khe village. In 1400, to save the feudal regime, which was in serious crisis, Ho Quy Ly overthrew the Tran Dynasty and continued to implement reforms such as the policy of limiting slavery, limiting land, reorganizing education, examinations and medicine. international. Also in 1400, after ascending the throne, Ho Quy Ly opened the exam department. Nguyen Trai took the exam and passed the Thai student (PhD) exam when he was 20 years old. Ho Quy Ly appointed him to hold the position of Chief Attorney of the Imperial Palace. His father, Nguyen Phi Khanh, passed the exam in 1374 and was appointed by Ho Quy Ly to hold the position of Agent Khanh Thi Lang of the Central Secretary Court and the Academy of Private Scholars of Quoc Tu Giam. In 1406, Minh Thanh To ordered Truong Phu to bring troops to invade Vietnam. The Ho Dynasty sent troops to resist, but were defeated. Ho Quy Ly's father and son and a number of courtiers, including Nguyen Phi Khanh, were arrested and sent back to China. Hearing the news of his father's arrest, Nguyen Trai and his younger brother, Nguyen Phi Hung, cried and followed them up to the gate of Nam Quan with the intention of going to the other side of the border to serve their elderly father while imprisoned. Taking advantage of the quiet moment, Nguyen Phi Khanh told Nguyen Trai: – You are an educated and talented person, so you should find a way to wash away the country's humiliation and avenge your father. That is great filial piety. Is it true that you have to follow your father and cry like a woman to be filial? Nguyen Trai Listening to his father's words, he returned to find a way to fight the enemy and save the country. Returning to Thang Long, he was captured by the Ming army. Ming Dynasty Minister Hoang Phuc knew that Nguyen Trai was a talented character and sought to seduce him, but he was determined not to join the enemy. After a period of house arrest in Dong Quan (ie Thang Long), Nguyen Trai overcame the enemy siege and entered Thanh Hoa following Le Loi. He met the leader of the Lam Son insurgent army in Loi Giang. He gave Le Loi the strategy to expel the Ming army, which Vietnamese history books call the Binh Ngo book. In the article titled "Mau Trai Di Tap", Ngo The Vinh said: "Binh Ngo's first great strategy did not talk about attacking the citadel, but cleverly talked about attacking people's hearts." Le Loi praised Nguyen Trai's strategy as correct. And he used this strategy to defeat the Ming army. From here, he often kept Nguyen Trai close to him to discuss plans to attack the Ming army. At the end of 1426, Le Loi established headquarters at Bo De wharf (Gia Lam). Here, he built a hut as high as the Bao Thien tower in Dong Quan. Le Loi sat on the first floor of the hut, Nguyen Trai sat on the second floor. The two characters always exchange opinions with each other. During the resistance war, Nguyen Trai advocated relying on the people to defeat the enemy and save the country. When the resistance war was victorious, he also saw that he had to take care of the people to build the country. In the form of gratitude for being appointed to the position of Chief Inspector of the Three Military Advisers, he wrote: "Only what my ancestors wanted: to pay attention to the people, I take care of what the people have to take care of first." In 1437, when King Le Thai Tong appointed him to perform a musical ceremony, he also told the king what he had to do first, which was to feed the people: - I dare to hope that Your Majesty will love and care for all people so that the villages and hamlets will be deserted, without a single sound of anger or resentment. That means preserving the original music. Because he always "worries first about what people have to worry about, and rejoices after the joy of people", Nguyen Trai always lives a simple, frugal and honest life. His house in Dong Kinh (Thang Long) is just a thatched hut (one-room tent in the corner of the Southern Citadel). When he was in charge of military and civil affairs in the Northeast islands, his house in Con Son "had four sides empty, only books were rich" (poetry of Nguyen Mong Tuan, friend of Nguyen Trai). His poem "Binh Ngo Dai Cao" is an "epic epic". It is an immortal epic of the nation. Nguyen Trai's military loyalty books are letters written by him in dealing with the Ming army. These letters are specific documents proving that Le Loi and Nguyen Trai's very skillful diplomatic approach to manipulating the enemy caused the Lam Son army to defeat many cities without losing blood. Nguyen Trai's Quoc Am Thi Tap is the oldest work in Vietnamese that we still have. This work is very important for the study of the history of Vietnamese literature and the history of Vietnamese language. In 1442, his entire family was murdered (tru di three clans), making contemporaries extremely sad. In 1464, King Le Thanh Tong issued a decree exonerating Nguyen Trai, posthumously awarding him a title and asking for his remaining descendants. Nguyen Trai is a great figure in Vietnamese history. He is a national hero, a great thinker, poet, and cultural figure of our country. His soul and career will forever be a bright star as Le Thanh Tong posthumously awarded him "Bul Trai with a bright heart Khue Tao".
Về quan điểm sử học của Nguyễn Trãi Trong di sản văn hóa của Nguyễn Trãi, những giá trị về sử học chiếm một vị trí đáng kể, bởi vì sử học là một bộ phận không tách rời của kho tàng văn hóa cá nhân và nhân loại. Nguyễn Trãi là một anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn. Trong di sản văn hóa của ông, những giá trị về sử học chiếm một vị trí đáng kể, bởi vì sử học là một bộ phận không tách rời của kho tàng văn hóa cá nhân và nhân loại. Chúng tôi chưa khẳng định Nguyễn Trãi là nhà sử học. Song, cũng như bao nhiêu nhà yêu nước trước, đồng thời và sau ông, Nguyễn Trãi đã sử dụng sử học như một công cụ đấu tranh cho công cuộc dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận rằng, những người yêu nước chân chính đều là người yêu thích nghiên cứu, tự hào về lịch sử dân tộc mình. Nguyễn Trãi là một dẫn chứng, Hồ Chí Minh càng làm sáng tỏ hơn luận cứ này. Do đó, tìm hiểu những quan điểm sử học của Nguyễn Trãi không phải là khiên cưỡng, mà để bổ sung cho việc hiểu biết chưa đầy đủ về ông trong lĩnh vực này. Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn làm nên chiến thắng trong việc đấu tranh giành độc lập, giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ nhà Minh. Ông chứng kiến những sự kiện lịch sử của thời kỳ ấy, ghi chép lại không chỉ để lại cho đời sau mà chủ yếu dùng làm một vũ khí đánh địch, một phương tiện giáo dục nhân dân có hiệu quả. Ở Nguyễn Trãi, lịch sử chính là cuộc sống – cuộc sống đang diễn ra. Trong một chừng mực nhất định, chúng ta có thể xem Nguyễn Trãi là một người nghiên cứu lịch sử hiện đại. Ông đã trình bày những sự kiện vừa diễn ra. Đang nhảy múa trước mắt một cách khách quan đúng đắn. Trong “Bình Ngô đại cáo” (1428), một tác phẩm văn học chính luận của Nguyễn Trãi – viết sau khi cuộc kháng chiến chống Minh vừa kết thúc thắng lợi, nhân danh Lê Thái Tổ, ông tuyên cáo cho cả nước biết chiến công vĩ đại trong việc khôi phục nền độc lập dân tộc. Ngoài ý nghĩa một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, sau bài đánh Tống của Lý Thường Kiệt, giá trị khoa học của tác phẩm ở chỗ là trình bày đúng, gọn, rõ hiện thực lịch sử về cuộc kháng chiến chống Minh. Hơn thế nữa, đây không phải là một bản biên niên sử đơn thuần, mà còn phân tích trình bày một cách hoàn hảo nhất những tư tưởng dân tộc, dân chủ của nhân dân được thể hiện trong chiến đấu, kế thừa và phát huy những tư tưởng truyền thống của cha ông từ thời xưa, đặc biệt từ Lý – Trần. Với bút pháp sắc bén có sức khơi động lòng người, Nguyễn Trãi đã trình bày một bức tranh liên hoàn về hình ảnh những sự kiện liên tiếp xảy ra, luôn luôn biến hóa, thay đổi rất cụ thể, chân thực của một giai đoạn lịch sử rất đáng tự hào này. Tập “Quân trung từ mệnh” ngoài giá trị văn học , còn là tập tư liệu lịch sử quý về mối bang giao giữa nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh xâm lược, phản ánh thế lực, tính chất của hai bên trong cuộc chiến tranh. Sau “Bình Ngô đại cáo” là “Lam Sơn thực lục”, ra đời khoảng 1431. Đó là một tác phẩm sử học, văn học, ghi chép về gốc tích Lê Lợi và cuộc kháng chiến chống quân Minh (1418-1427). Nguyễn Trãi để lại cho những người làm công tác sử học ngày nay một bài học vô cùng quý giá: khi dấn thân vào sự nghiệp đấu tranh yêu nước mới có thể phản ánh trung thực hiện thực lịch sử, mới đạt được sự thống nhất giữa hoạt động yêu nước với hiện thực lịch sử. Lịch sử bao giờ cũng là lịch sử của quần chúng nhân dân. Ông ý thức về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử được phát triển dần trong quá trình nhận thức lịch sử của con người. Trong cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Hán của Hai Bà Trưng (năm 40), ý thức về sự đoàn kết của những “Người trong một nước phải thương nhau cùng” mới hình thành. Trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077), Lý Thường Kiệt chỉ khẳng định “Sông núi nước Nam vua Nam ở”, mà chưa nói đến vai trò người dân. Trần Hưng Đạo trong “Hịch tướng sĩ” kêu gọi binh sĩ chiến đấu trước hết cho quyền lợi của phong kiến, vì khi mà “Thái ấp của ta không còn (…) bổng lộc của các ngươi cũng về tay kẻ khác”. Đến Nguyễn Trãi, sức mạnh của nhân dân mới được khẳng định. “Chở thuyền, lật thuyền cũng là dân” (Trong bài thơ “Đóng cửa biển”). Nếu có trời thì trời cũng không phải tự ý làm mọi việc, vì trời phải qua bàn tay con người mới thực hiện được ý muốn tạo dựng hay phế bỏ một triều đại. Nguyễn Trãi chỉ rõ, “dù lòng trời đã chán ghét” như “chán ghét nhà Trần”, “chán ghét nhà Hồ” cũng phải mượn tay con người “lật đổ vương triều”. Ông tìm thấy mọi sự suy vong, thành đạt đều bắt đầu từ lòng dân: “… Họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận”, nên không chống được xâm lược; còn nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng vì nhận thức được “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và biết “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, đem chí nhân để thay cường bạo”. Nhận thức sức mạnh của dân, Nguyễn Trãi xây dựng được một “quan điểm nhân dân” rất vững chắc: mọi việc phải do dân, của dân và vì dân. Đây là nội dung tư tưởng “thân dân” truyền thống của dân tộc ta, được kế thừa ở thời đại Hồ Chí Minh. Với quan điểm nhân dân, Nguyễn Trãi xét đoán đúng mọi việc. Khi so sánh tương quan lực lượng giữa nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh, trong thư gửi Phương Chính, ông đã vạch rõ “sáu điều phải thua” của giặc, trong đó, yếu tố lòng dân là quan trọng nhất. Phía địch thì “luôn động can qua, liên tiếp đánh dẹp, người sống không việc, nhao nhao thất vọng”, còn phía nghĩa quân thì “trên dưới một lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc”… Khi mà các sử gia phong kiến khẳng định lịch sử là lịch sử của vua chúa, quan lại, người dân không có vai trò gì, thì với quan điểm “lấy dân làm gốc”, với tư tưởng “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, Nguyễn Trãi đã làm sống lại những chiến công lẫy lừng của nhân dân trong chiến đấu. Đó là một nội dung của chủ nghĩa nhân văn. Nguyễn Trãi không chỉ nói về sự đau khổ, tủi nhục, mà cả tinh thần quật khởi, chí khí anh hùng của nhân dân. Nói đến kẻ thù, chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Trãi không chỉ tố cáo tội ác của giặc “Thần người đều căm giận, trời đất chẳng dung tha” mà còn nói đến lòng nhân đạo của nghĩa quân “uy thần chẳng giết hại, lấy khoan hồng thể bụng hiếu sinh”. Quan niệm “thiện”, “ác” của Nguyễn Trãi trong nghiên cứu lịch sử thật rõ ràng, nó làm nổi bật tư cách, phẩm chất của một anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn. Nguyễn Trãi không lấy nghiên cứu lịch sử làm mục đích, càng không phải là nhà sử học theo nghĩa nghề nghiệp, song khi nghiên cứu lịch sử để phục vụ chính trị, khi xem xét “những vấn đề hiện đại – những vấn đề thời sự” – ông đã có những đóng góp lớn về mặt quan điểm sử học, mà ngày nay chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc, học tập nghiêm túc. Nổi bật lên là sự vững vàng của nhà nghiên cứu. Khi xác định được lý tưởng vì dân, vì nước, tính khách quan trong xem xét các sự kiện đang diễn ra – đối tượng của nghiên cứu “lịch sử hiện đại”. Nhân cách tỏa sáng của Nguyễn Trãi là lòng yêu nước, chủ nghĩa nhân văn cao cả trong sáng, sự trung thực, trình độ uyên bác, nguyện vọng đóng góp cho tiến bộ xã hội, cho độc lập dân tộc, hạnh phúc nhân dân. Đó chính là những phẩm chất của một nền sử học tiên tiến. VÕ XUÂN ĐÀN
Về quan điểm sử học của Nguyễn Trãi Trong di sản văn hóa của Nguyễn Trãi, những giá trị về sử học chiếm một vị trí đáng kể, bởi vì sử học là một bộ phận không tách rời của kho tàng văn hóa cá nhân và nhân loại. Nguyễn Trãi là một anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn. Trong di sản văn hóa của ông, những giá trị về sử học chiếm một vị trí đáng kể, bởi vì sử học là một bộ phận không tách rời của kho tàng văn hóa cá nhân và nhân loại. Chúng tôi chưa khẳng định Nguyễn Trãi là nhà sử học. Song, cũng như bao nhiêu nhà yêu nước trước, đồng thời và sau ông, Nguyễn Trãi đã sử dụng sử học như một công cụ đấu tranh cho công cuộc dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận rằng, những người yêu nước chân chính đều là người yêu thích nghiên cứu, tự hào về lịch sử dân tộc mình. Nguyễn Trãi là một dẫn chứng, Hồ Chí Minh càng làm sáng tỏ hơn luận cứ này. Do đó, tìm hiểu những quan điểm sử học của Nguyễn Trãi không phải là khiên cưỡng, mà để bổ sung cho việc hiểu biết chưa đầy đủ về ông trong lĩnh vực này. Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn làm nên chiến thắng trong việc đấu tranh giành độc lập, giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ nhà Minh. Ông chứng kiến những sự kiện lịch sử của thời kỳ ấy, ghi chép lại không chỉ để lại cho đời sau mà chủ yếu dùng làm một vũ khí đánh địch, một phương tiện giáo dục nhân dân có hiệu quả. Ở Nguyễn Trãi, lịch sử chính là cuộc sống – cuộc sống đang diễn ra. Trong một chừng mực nhất định, chúng ta có thể xem Nguyễn Trãi là một người nghiên cứu lịch sử hiện đại. Ông đã trình bày những sự kiện vừa diễn ra. Đang nhảy múa trước mắt một cách khách quan đúng đắn. Trong “Bình Ngô đại cáo” (1428), một tác phẩm văn học chính luận của Nguyễn Trãi – viết sau khi cuộc kháng chiến chống Minh vừa kết thúc thắng lợi, nhân danh Lê Thái Tổ, ông tuyên cáo cho cả nước biết chiến công vĩ đại trong việc khôi phục nền độc lập dân tộc. Ngoài ý nghĩa một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, sau bài đánh Tống của Lý Thường Kiệt, giá trị khoa học của tác phẩm ở chỗ là trình bày đúng, gọn, rõ hiện thực lịch sử về cuộc kháng chiến chống Minh. Hơn thế nữa, đây không phải là một bản biên niên sử đơn thuần, mà còn phân tích trình bày một cách hoàn hảo nhất những tư tưởng dân tộc, dân chủ của nhân dân được thể hiện trong chiến đấu, kế thừa và phát huy những tư tưởng truyền thống của cha ông từ thời xưa, đặc biệt từ Lý – Trần. Với bút pháp sắc bén có sức khơi động lòng người, Nguyễn Trãi đã trình bày một bức tranh liên hoàn về hình ảnh những sự kiện liên tiếp xảy ra, luôn luôn biến hóa, thay đổi rất cụ thể, chân thực của một giai đoạn lịch sử rất đáng tự hào này. Tập “Quân trung từ mệnh” ngoài giá trị văn học , còn là tập tư liệu lịch sử quý về mối bang giao giữa nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh xâm lược, phản ánh thế lực, tính chất của hai bên trong cuộc chiến tranh. Sau “Bình Ngô đại cáo” là “Lam Sơn thực lục”, ra đời khoảng 1431. Đó là một tác phẩm sử học, văn học, ghi chép về gốc tích Lê Lợi và cuộc kháng chiến chống quân Minh (1418-1427). Nguyễn Trãi để lại cho những người làm công tác sử học ngày nay một bài học vô cùng quý giá: khi dấn thân vào sự nghiệp đấu tranh yêu nước mới có thể phản ánh trung thực hiện thực lịch sử, mới đạt được sự thống nhất giữa hoạt động yêu nước với hiện thực lịch sử. Lịch sử bao giờ cũng là lịch sử của quần chúng nhân dân. Ông ý thức về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử được phát triển dần trong quá trình nhận thức lịch sử của con người. Trong cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Hán của Hai Bà Trưng (năm 40), ý thức về sự đoàn kết của những “Người trong một nước phải thương nhau cùng” mới hình thành. Trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077), Lý Thường Kiệt chỉ khẳng định “Sông núi nước Nam vua Nam ở”, mà chưa nói đến vai trò người dân. Trần Hưng Đạo trong “Hịch tướng sĩ” kêu gọi binh sĩ chiến đấu trước hết cho quyền lợi của phong kiến, vì khi mà “Thái ấp của ta không còn (…) bổng lộc của các ngươi cũng về tay kẻ khác”. Đến Nguyễn Trãi, sức mạnh của nhân dân mới được khẳng định. “Chở thuyền, lật thuyền cũng là dân” (Trong bài thơ “Đóng cửa biển”). Nếu có trời thì trời cũng không phải tự ý làm mọi việc, vì trời phải qua bàn tay con người mới thực hiện được ý muốn tạo dựng hay phế bỏ một triều đại. Nguyễn Trãi chỉ rõ, “dù lòng trời đã chán ghét” như “chán ghét nhà Trần”, “chán ghét nhà Hồ” cũng phải mượn tay con người “lật đổ vương triều”. Ông tìm thấy mọi sự suy vong, thành đạt đều bắt đầu từ lòng dân: “… Họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận”, nên không chống được xâm lược; còn nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng vì nhận thức được “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và biết “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, đem chí nhân để thay cường bạo”. Nhận thức sức mạnh của dân, Nguyễn Trãi xây dựng được một “quan điểm nhân dân” rất vững chắc: mọi việc phải do dân, của dân và vì dân. Đây là nội dung tư tưởng “thân dân” truyền thống của dân tộc ta, được kế thừa ở thời đại Hồ Chí Minh. Với quan điểm nhân dân, Nguyễn Trãi xét đoán đúng mọi việc. Khi so sánh tương quan lực lượng giữa nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh, trong thư gửi Phương Chính, ông đã vạch rõ “sáu điều phải thua” của giặc, trong đó, yếu tố lòng dân là quan trọng nhất. Phía địch thì “luôn động can qua, liên tiếp đánh dẹp, người sống không việc, nhao nhao thất vọng”, còn phía nghĩa quân thì “trên dưới một lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc”… Khi mà các sử gia phong kiến khẳng định lịch sử là lịch sử của vua chúa, quan lại, người dân không có vai trò gì, thì với quan điểm “lấy dân làm gốc”, với tư tưởng “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, Nguyễn Trãi đã làm sống lại những chiến công lẫy lừng của nhân dân trong chiến đấu. Đó là một nội dung của chủ nghĩa nhân văn. Nguyễn Trãi không chỉ nói về sự đau khổ, tủi nhục, mà cả tinh thần quật khởi, chí khí anh hùng của nhân dân. Nói đến kẻ thù, chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Trãi không chỉ tố cáo tội ác của giặc “Thần người đều căm giận, trời đất chẳng dung tha” mà còn nói đến lòng nhân đạo của nghĩa quân “uy thần chẳng giết hại, lấy khoan hồng thể bụng hiếu sinh”. Quan niệm “thiện”, “ác” của Nguyễn Trãi trong nghiên cứu lịch sử thật rõ ràng, nó làm nổi bật tư cách, phẩm chất của một anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn. Nguyễn Trãi không lấy nghiên cứu lịch sử làm mục đích, càng không phải là nhà sử học theo nghĩa nghề nghiệp, song khi nghiên cứu lịch sử để phục vụ chính trị, khi xem xét “những vấn đề hiện đại – những vấn đề thời sự” – ông đã có những đóng góp lớn về mặt quan điểm sử học, mà ngày nay chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc, học tập nghiêm túc. Nổi bật lên là sự vững vàng của nhà nghiên cứu. Khi xác định được lý tưởng vì dân, vì nước, tính khách quan trong xem xét các sự kiện đang diễn ra – đối tượng của nghiên cứu “lịch sử hiện đại”. Nhân cách tỏa sáng của Nguyễn Trãi là lòng yêu nước, chủ nghĩa nhân văn cao cả trong sáng, sự trung thực, trình độ uyên bác, nguyện vọng đóng góp cho tiến bộ xã hội, cho độc lập dân tộc, hạnh phúc nhân dân. Đó chính là những phẩm chất của một nền sử học tiên tiến. VÕ XUÂN ĐÀN
Thư gửi Nguyễn Ái Quốc của Phan Châu Trinh Thực trạng dân tình thế thái bên nhà, bọn mình biết rõ, bấy lâu nay, bọn mình ở bên này có đăng báo chương, hô hào các hạng người Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp người An Nam đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng mà kết quả chẳng được là bao, cái khát vọng tự do, bình đẳng, bác ái mà ông Mạnh Đức Tư Cưu, ông Lư Thoa [2] khởi xướng chẳng nhỏ được giọt nào trên cái đất An Nam mình. Xem thế thì ngẫm ngay được rằng: một chủng tộc muốn như chủng tộc văn minh chỉ có tự lập tự cường. Nhưng khốn nỗi ở nước An Nam ta từ ngày quan quân nước Pháp đem binh thuyền đến mà chinh phục mãi tới ngày nay, sĩ khí dân tình khởi sự chống lại chính phủ bảo hộ tiếp diễn liên miên hết cuộc này đến cuộc khác, rốt cuộc đâu hoàn đó, chẳng nhúc nhích được chút nào. Ngày nay, việc khởi sự lần hồi giảm đi bởi cái dã tâm của hạng người dạ thú, của kẻ đầu trâu mặt ngựa, bởi thiếu người hướng đạo. Bấy lâu nay tôi cùng anh và anh Phan [3] đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi; còn tôi thì lại không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội của anh và cả cái phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng người hủ nho hủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói đọ gì với anh Phan. Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế; tôi nói thế chẳng hề đem ví anh là kẻ tử mã lục thạch [4], thực tình từ trước tới nay tôi chẳng khinh thị anh mà tôi còn phục anh nữa là khác. Tôi thực tình có sao nói nấy, không ton hót anh chút nào. Mấy cái việc nói qua trên kia để bọn mình ôn cố một chút, còn lần này tôi phải viết cái thơ này cho anh là tôi có cái hi vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự. Phàm thử muốn thức tỉnh quốc dân đồng bào đánh đổ cường quyền áp chế, thì từ xưa đến nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh: anh lấy cái lẽ nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính phủ cường quyền nên sự hấp thu lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” [5]. Cứ như cái phương pháp ấy thì anh viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần và nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi. Bởi vì quốc dân đồng bào mấy ai biết chữ Tây, chữ Quốc ngữ cầm tờ báo mà đọc nổi. Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghĩa, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân đồng bào, thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông, gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài năng của anh khác gì công dã tràng. Bởi cái lẽ đó mà tôi khuyên anh thu xếp mà về, đem cái tài năng của mình khích động nhân tâm, hô hào đồng bào ba kỳ đồng tâm hiệp lực, để mà đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Tôi biết anh hấp thu được cái chủ nghĩa của ông Mã Khắc Tư, ông Lý Ninh [6] nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn cho anh rõ. Ông Mã vốn sinh trường trên đất Đức Ý Chí, ông bị chánh phủ tầm nã vì cái tội cách mệnh, đành lánh nạn sang nước Anh Cát Lợi. Ông ta học cái hay, cái tốt ở trên đất nước người, sau lại về Đức Ý Chí mà làm việc và lại còn nói cách mệnh dân quyền của cả thế gian là cái rốn chính ở ngay trên đất Đức Ý Chí, nên ông về đó mà làm việc. Ông Lý cũng bị cái chánh phủ cường quyền Nga la tư truy nã, ông phải lánh nạn sang xứ Phất La Tây [7], Đức Ý Chí và Lang Sa, rồi ông lại trở về nước hô hào dân thợ, dân cày, lính tráng kết đoàn mới làm nổi cách mệnh mà dân Âu Mỹ đều bàng hoàng. Lại còn cái điều ngộ bất trắc sa cơ, đương nhiên là sự phòng xa thì ắt lợi hơn thiển cận; song le từ xưa đến nay, biết bao nhân nhân chí sĩ nước mình hoặc khởi sự hay ôn hòa đương đầu với cường quyền áp chế, mấy ai khỏi vòng lao lung tù tội, đày ải chém giết. Ông Đề Thám bị bêu đầu giữa chợ, ông Phan Đình Phùng bị đào mả ném xương xuống sông, ông Hàm Nghi, Duy Tân, Thủ khoa Huân bị đày biệt xứ và nhiều không kể xiết bị đầu rơi máu chảy. Ngại vì sa cơ thì e rằng bỏ mất cái tài của mình, cơ hội chảy qua như dòng nước. Bởi thế cái phương pháp quy sào giác thế [8] mà anh làm được thì may mắn cho quốc dân đồng bào ta biết dường nào. Giả như không làm được như thế thì tài năng của anh ắt là mai một. Anh cứ xem ông Phan Sào Nam hồi trước chẳng nghe lời tôi, mang người mang của đến đất Phù Tang, cầu cứu nghĩa cử đồng văn đồng củng, chạy đông chạy tây, dĩ ngoại đột nội, rốt cuộc chỉ làm được mấy lần khởi sự. Vả lại cái chủ trương của ông Phan mới xem qua thì hay lắm, song ngẫm kĩ lưỡng thì chẳng khác gì cái phương pháp họ Lê cầu Thanh đánh Tây Sơn, họ Nguyễn cầu viện Lang Sa đánh Tây Sơn. Cổ lai thế sự còn rành rành ra đó, ấy thế mà ông Phan cứ tôn thờ cái bài vị đồng văn đồng chủng. Thảng như phương pháp của ông Phan mà thành công thì quốc dân đồng bào chung quy vẫn nguyên cái lưng con ngựa, chỉ thay người cưỡi mà thôi. Hồi đó ông mới mưu đồ quốc sự, tôi có nói với ông ông hãy ở nhà cùng với nhân nhân chí sĩ ba kỳ mà thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền, đông tay sao mà chẳng vỗ nên tiếng? Ấy thế mà ông Phan chẳng thèm nghe mà mãi cho tới nay ông vẫn còn cho cái phương pháp của ông là hay. Tôi biết anh chẳng tán đồng cái phương pháp của ông Phan, vả lại tôi cũng còn tin răng không sớm thì chầy anh cũng lấy cái phương pháp khẩu xướng đối nhân, dụng nội triệt ngoại [9] cùng với sĩ phu dân chúng ba kỳ mà mưu đồ đại sự. Từ xưa tới nay tôi cứ cho cái phương pháp của tôi có nhiều sự hay hơn nhiều cái dở, vì rằng nước mình trên có chánh phủ bảo hộ trông, dưới là một bầy tham quan lại nhũng, học thức trong đám dân chúng kém cỏi, thì còn gì tốt lành bằng cái tôi dựa vào lý thuyết nhân quyền để cổ động sĩ khí dân tình, tôi thực hành cái phương pháp ấy thì tôi làm cái lối khẩu thuyết vô bằng mà hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực, kết đoàn hợp xã, dân tình thức tỉnh, kháng thuế cự sưu, tố giác tham quan lại nhũng, lại bất hợp tác từ cái này đến cái nọ, đến chừng đông tay vỗ nên tiếng mà đoạt lại lợi quyền. Cái lối khẩu thuyết vô bằng [10], mình có thể phơi bày hết điều hơn lẽ thiệt, ngộ mà có ai phản nghịch tố giác, cũng chẳng có chứng cớ minh bạch mà làm tù làm tội nặng mình được. Đương nhiên cái lối đó khó bề kéo dài, họ ắt vin cớ này, cớ nọ để mà làm tội làm tình; thế nhưng cái lúc đó vị tất không có người tiếp tục cái lối của mình hay sao? Cứ như cái hồi cự sưu, có anh Châu Thơ Đồng [11] há chẳng dùng lối ấy mà hô hào dân chúng cho đến khi không còn nói ra tiếng rồi chết, ấy là sự thật đã qua. Anh Nguyễn, tôi tường tâm với anh đã rõ nguồn cơn. Bây giờ, thân tôi tựa cá chậu chim lồng. Vả lại, cây già thì gió dễ lay, người già thì trí lẫn, cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong mà hơi tàn cũng gào cho hả dạ, may ra có tỉnh giấc hôn mê. Còn anh như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông, nhưng mà anh chẳng nghe lời tôi anh cứ quanh quẩn bên này thì làm sao tài năng anh thi thố được. Bởi vậy tôi thành tâm khuyên anh, mong mỏi anh thay đổi cái phương pháp cũ kỹ đi để mà mưu đồ đại sự.
Thư gửi Nguyễn Ái Quốc của Phan Châu Trinh Thực trạng dân tình thế thái bên nhà, bọn mình biết rõ, bấy lâu nay, bọn mình ở bên này có đăng báo chương, hô hào các hạng người Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp người An Nam đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng mà kết quả chẳng được là bao, cái khát vọng tự do, bình đẳng, bác ái mà ông Mạnh Đức Tư Cưu, ông Lư Thoa [2] khởi xướng chẳng nhỏ được giọt nào trên cái đất An Nam mình. Xem thế thì ngẫm ngay được rằng: một chủng tộc muốn như chủng tộc văn minh chỉ có tự lập tự cường. Nhưng khốn nỗi ở nước An Nam ta từ ngày quan quân nước Pháp đem binh thuyền đến mà chinh phục mãi tới ngày nay, sĩ khí dân tình khởi sự chống lại chính phủ bảo hộ tiếp diễn liên miên hết cuộc này đến cuộc khác, rốt cuộc đâu hoàn đó, chẳng nhúc nhích được chút nào. Ngày nay, việc khởi sự lần hồi giảm đi bởi cái dã tâm của hạng người dạ thú, của kẻ đầu trâu mặt ngựa, bởi thiếu người hướng đạo. Bấy lâu nay tôi cùng anh và anh Phan [3] đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi; còn tôi thì lại không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội của anh và cả cái phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng người hủ nho hủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói đọ gì với anh Phan. Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế; tôi nói thế chẳng hề đem ví anh là kẻ tử mã lục thạch [4], thực tình từ trước tới nay tôi chẳng khinh thị anh mà tôi còn phục anh nữa là khác. Tôi thực tình có sao nói nấy, không ton hót anh chút nào. Mấy cái việc nói qua trên kia để bọn mình ôn cố một chút, còn lần này tôi phải viết cái thơ này cho anh là tôi có cái hi vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự. Phàm thử muốn thức tỉnh quốc dân đồng bào đánh đổ cường quyền áp chế, thì từ xưa đến nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh: anh lấy cái lẽ nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính phủ cường quyền nên sự hấp thu lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” [5]. Cứ như cái phương pháp ấy thì anh viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần và nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi. Bởi vì quốc dân đồng bào mấy ai biết chữ Tây, chữ Quốc ngữ cầm tờ báo mà đọc nổi. Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghĩa, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân đồng bào, thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông, gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài năng của anh khác gì công dã tràng. Bởi cái lẽ đó mà tôi khuyên anh thu xếp mà về, đem cái tài năng của mình khích động nhân tâm, hô hào đồng bào ba kỳ đồng tâm hiệp lực, để mà đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Tôi biết anh hấp thu được cái chủ nghĩa của ông Mã Khắc Tư, ông Lý Ninh [6] nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn cho anh rõ. Ông Mã vốn sinh trường trên đất Đức Ý Chí, ông bị chánh phủ tầm nã vì cái tội cách mệnh, đành lánh nạn sang nước Anh Cát Lợi. Ông ta học cái hay, cái tốt ở trên đất nước người, sau lại về Đức Ý Chí mà làm việc và lại còn nói cách mệnh dân quyền của cả thế gian là cái rốn chính ở ngay trên đất Đức Ý Chí, nên ông về đó mà làm việc. Ông Lý cũng bị cái chánh phủ cường quyền Nga la tư truy nã, ông phải lánh nạn sang xứ Phất La Tây [7], Đức Ý Chí và Lang Sa, rồi ông lại trở về nước hô hào dân thợ, dân cày, lính tráng kết đoàn mới làm nổi cách mệnh mà dân Âu Mỹ đều bàng hoàng. Lại còn cái điều ngộ bất trắc sa cơ, đương nhiên là sự phòng xa thì ắt lợi hơn thiển cận; song le từ xưa đến nay, biết bao nhân nhân chí sĩ nước mình hoặc khởi sự hay ôn hòa đương đầu với cường quyền áp chế, mấy ai khỏi vòng lao lung tù tội, đày ải chém giết. Ông Đề Thám bị bêu đầu giữa chợ, ông Phan Đình Phùng bị đào mả ném xương xuống sông, ông Hàm Nghi, Duy Tân, Thủ khoa Huân bị đày biệt xứ và nhiều không kể xiết bị đầu rơi máu chảy. Ngại vì sa cơ thì e rằng bỏ mất cái tài của mình, cơ hội chảy qua như dòng nước. Bởi thế cái phương pháp quy sào giác thế [8] mà anh làm được thì may mắn cho quốc dân đồng bào ta biết dường nào. Giả như không làm được như thế thì tài năng của anh ắt là mai một. Anh cứ xem ông Phan Sào Nam hồi trước chẳng nghe lời tôi, mang người mang của đến đất Phù Tang, cầu cứu nghĩa cử đồng văn đồng củng, chạy đông chạy tây, dĩ ngoại đột nội, rốt cuộc chỉ làm được mấy lần khởi sự. Vả lại cái chủ trương của ông Phan mới xem qua thì hay lắm, song ngẫm kĩ lưỡng thì chẳng khác gì cái phương pháp họ Lê cầu Thanh đánh Tây Sơn, họ Nguyễn cầu viện Lang Sa đánh Tây Sơn. Cổ lai thế sự còn rành rành ra đó, ấy thế mà ông Phan cứ tôn thờ cái bài vị đồng văn đồng chủng. Thảng như phương pháp của ông Phan mà thành công thì quốc dân đồng bào chung quy vẫn nguyên cái lưng con ngựa, chỉ thay người cưỡi mà thôi. Hồi đó ông mới mưu đồ quốc sự, tôi có nói với ông ông hãy ở nhà cùng với nhân nhân chí sĩ ba kỳ mà thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền, đông tay sao mà chẳng vỗ nên tiếng? Ấy thế mà ông Phan chẳng thèm nghe mà mãi cho tới nay ông vẫn còn cho cái phương pháp của ông là hay. Tôi biết anh chẳng tán đồng cái phương pháp của ông Phan, vả lại tôi cũng còn tin răng không sớm thì chầy anh cũng lấy cái phương pháp khẩu xướng đối nhân, dụng nội triệt ngoại [9] cùng với sĩ phu dân chúng ba kỳ mà mưu đồ đại sự. Từ xưa tới nay tôi cứ cho cái phương pháp của tôi có nhiều sự hay hơn nhiều cái dở, vì rằng nước mình trên có chánh phủ bảo hộ trông, dưới là một bầy tham quan lại nhũng, học thức trong đám dân chúng kém cỏi, thì còn gì tốt lành bằng cái tôi dựa vào lý thuyết nhân quyền để cổ động sĩ khí dân tình, tôi thực hành cái phương pháp ấy thì tôi làm cái lối khẩu thuyết vô bằng mà hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực, kết đoàn hợp xã, dân tình thức tỉnh, kháng thuế cự sưu, tố giác tham quan lại nhũng, lại bất hợp tác từ cái này đến cái nọ, đến chừng đông tay vỗ nên tiếng mà đoạt lại lợi quyền. Cái lối khẩu thuyết vô bằng [10], mình có thể phơi bày hết điều hơn lẽ thiệt, ngộ mà có ai phản nghịch tố giác, cũng chẳng có chứng cớ minh bạch mà làm tù làm tội nặng mình được. Đương nhiên cái lối đó khó bề kéo dài, họ ắt vin cớ này, cớ nọ để mà làm tội làm tình; thế nhưng cái lúc đó vị tất không có người tiếp tục cái lối của mình hay sao? Cứ như cái hồi cự sưu, có anh Châu Thơ Đồng [11] há chẳng dùng lối ấy mà hô hào dân chúng cho đến khi không còn nói ra tiếng rồi chết, ấy là sự thật đã qua. Anh Nguyễn, tôi tường tâm với anh đã rõ nguồn cơn. Bây giờ, thân tôi tựa cá chậu chim lồng. Vả lại, cây già thì gió dễ lay, người già thì trí lẫn, cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong mà hơi tàn cũng gào cho hả dạ, may ra có tỉnh giấc hôn mê. Còn anh như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông, nhưng mà anh chẳng nghe lời tôi anh cứ quanh quẩn bên này thì làm sao tài năng anh thi thố được. Bởi vậy tôi thành tâm khuyên anh, mong mỏi anh thay đổi cái phương pháp cũ kỹ đi để mà mưu đồ đại sự.
Nguyễn Lộ Trạch với vấn đề canh tân đất nước cuối thế kỷ XIX Nguyễn Lộ Trạch còn có tên gọi khác là Nguyễn Lộc Trạch. Ông sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 (có tài liệu ghi năm 1852), mất năm 1898, tên tự là Hà Nhân, hiệu Kỳ Am, biệt hiệu Quỳ Ưu (còn có các biệt hiệu khác như Hồ Thiên cư sĩ , Bàn cơ điếu đồ …). Quê gốc là làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là xã Điền Môn – Phong Điền – Thừa Thiên Huế ) nhưng Nguyễn Lộ Trạch được sinh tại Cam Lộ ( Quảng Trị ). Theo Nguyễn Huệ Chi ( Từ điển văn học , nhà xuất bản Thế giới, 2004) thì tổ tiên Nguyễn Lộ Trạch trước ở vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh ngày nay, theo Nguyễn Hoàng vào khai phá Thuận Hóa (thế kỷ XVI). Ông thuộc dòng dõi “danh gia thế phiệt” – cha là Tiến sĩ Nguyễn Thanh Oai (thời vua Thiệu Trị), từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như Tổng đốc Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên), quyền Thượng thư bộ Hình… Khác với giới sỹ phu đương thời, Nguyễn Lộ Trạch không tham dự các kì thi mà chỉ chú tâm vào tính ứng dụng của khoa học. Do tính cách phóng khoáng, thích ngao du thiên hạ, kết bạn với những văn thân sĩ phu, người cùng chí hướng nên thiên hạ gọi ông là “cậu ấm tàng tàng”. Nguyễn Lộ Trạch lập gia đình năm 20 tuổi, làm con rể quan phụ chính Trần Tiễn Thành – người trực tiếp đọc và lưu giữ nhiều bản điều trần của nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ. Sớm tiếp cận tân thư Trung Quốc cùng những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ nên Nguyễn Lộ Trạch chịu tác động rất mạnh bởi tư tưởng canh tân cuối thế kỷ XIX. Chính vì vậy mà năm Tự Đức thứ 30 (năm 1877), nhân sự kiện triều đình Huế tổ chức và ra đề thi: Sứ Pháp vào chầu, hòa hiếu hợp lễ ở kỳ thi Hội, Nguyễn Lộ Trạch đã dâng Thời vụ sách I (thượng) , vạch trần bộ mặt giả nhân nghĩa, vờ nghị hòa của người Pháp, đồng thời đề ra chủ trương “gấp lo tự lực tự cường”. Bản Thời vụ sách đã gây tiếng vang lớn. 5 năm sau, Cơ mật viện Huế có ý định cử Nguyễn Lộ Trạch sang Hương Cảng (Hồng Kông) nhưng sự việc không thành. Cũng thời gian này, Nguyễn Lộ Trạch đã gửi thư cho Trần Tiễn Thành, có ý nhờ nhạc phụ nhắc nhở triều đình “phải biết tự cường, tự trị, đồng thời phải biết mật giao với các cường quốc thù địch của Pháp như Anh, Đức… để làm thế chân vạc kiềm chế Pháp”. Tuy nhiên, người đứng đầu triều Nguyễn đã phê là ngôn hà quá cao (lời nói cao, đại ngôn). Tháng tư năm 1882, nhân sự kiện thực dân Pháp đánh thành Hà Nội (lần thứ hai), Nguyễn Lộ Trạch tiếp tục dâng bản Thời vụ sách II (hạ) , gấp rút đề ra những kế hoạch giữ nước. Trong đó có nội dung rất đáng chú ý như sau: – Tụ binh làm đồn điền để đủ lương ăn. Việc cần thiết như việc tài chính, không thể lấy chữ “bần lý” ( lý luận của kẻ nghèo – TG) mà bỏ qua, ngồi chịu cái nạn cùng khốn, túng thiếu. – Huấn luyện đồn binh: muốn có quân đội cho hùng cường, trước phải làm cho dân giàu, mà dân giàu không ra ngoài hai điều cần thiết là “nuôi” và “dạy” mà thôi! – Học trường kỵ của nước ngoài để chế ngự: Nguyễn Lộ Trạch “xin chọn con em đại thần cùng bọn Cử nhân, Tú tài hoặc đã ra làm quan, hoặc chưa ra làm quan, chọn người nào có tư chất anh tuấn, cấp hậu lương, hướng cho ra nước ngoài học tập, định trình hạn cho nghiêm và định tưởng thưởng cho hậu thì tự nhiên người ta vui lòng học tập trong vài năm sẽ có thành tài… – Rộng đường ngoại giao ra nước ngoài để giúp vào mặt thanh viện. – Xứ Thanh được Nguyễn Lộ Trạch nhìn nhận như một vùng đất địa – chính trị đặc biệt, hiểm yếu, có thể xây dựng thành kinh đô thứ hai, cùng với Huế tạo thành thế ỷ dốc ( ứng cứu lẫn nhau – TG), góp phần “bền vững gốc nước”. Dựng “Bắc kinh” (tức kinh đô phía Bắc) xong hãy bàn đến chuyện “ sửa trong dẹp ngoài ” * . Song, giống như Thời vụ sách (thượng) , bản Thời vụ sách (hạ) cũng không được triều đình quan tâm. Dẫu vậy, Nguyễn Lộ Trạch vẫn kiên định với đường lối canh tân. Tháng Giêng năm 1884, Nguyễn Lộ Trạch viết bức “ Thư đứng tên cùng Phạm Phú Đường gửi Phụ chính đại thần ” (Dữ Phạm Phú Đường thướng Phụ chính đại thần), nhắc lại những luận điểm trong kế sách chống ngoại xâm Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghị chạy ra Quảng Trị, ban chiếu Cần vương rồi bị bắt (1888); phong trào Cần vương vấp phải sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp. Nguyễn Lộ Trạch đành ẩn cư song “vẫn không thôi khắc khoải về thời cuộc”. Đề nghị canh tân cuối cùng của Nguyễn Lộ Trạch có lẽ là bài viết “ Thiên hạ đại thế luận ” (Bàn luận về những việc lớn trong thiên hạ). Bài luận của ông được viết vào năm 1892, dưới triều vua Thành Thái. Mặc dù không tham gia kỳ thi Hội năm này nhưng trước đề thi “Đại thế hoàn cầu”, Nguyễn Lộ Trạch đã viết bài luận bàn thế nước của các quốc gia Á Đông trước nguy cơ xâm lược của phương Tây. Ông đã chỉ rõ rằng dã tâm của phương Tây đã có từ lâu, không vì triều đình sợ sệt, cầu hòa mà thực dân Pháp dừng lại, cũng không vì nhà Nguyễn chống lại mà Pháp dấy binh nhiều hơn. Đứng trước thực tế đó, triều đình chỉ còn cách: Từ bỏ tệ quan liêu, thói chuộng hư danh, sửa sang chính trị, giáo dục. Bài luận của Nguyễn Lộ Trạch được đông đảo sĩ phu cả nước có tư tưởng đổi mới đón nhận và khen ngợi. Những năm tháng cuối đời, Nguyễn Lộ Trạch gần như dành trọn thời gian cho việc ngao du, kết bạn. Ông đã vào Phan Thiết (nơi tập trung nhiều sỹ phu Nam Trung bộ) và dự định xuất dương nhưng chưa kịp thực hiện thì lâm trọng bệnh rồi qua đời tại Bình Định năm 1898 (có tài liệu ghi năm mất của Nguyễn Lộ Trạch là 1895), hưởng dương 45 tuổi. Phần mộ Nguyễn Lộ Trạch tại làng Kế Môn – Điền Môn – Phong Điền – Thừa Thiên Huế ( ảnh: Hiện di cốt Nguyễn Lộ Trạch đã được cải táng, đưa về nghĩa trang làng Kế Môn (xã Điền Môn – Phong Điền – Thừa Thiên Huế). Mộ Nguyễn Lộ Trạch không được xây dựng cầu kỳ (đường kính 3m, thành mộ cao 0,4m, dày 0,2m) và được công nhận là Di tích quốc gia theo quyết định số 52/2001/QÐBVHTT ngày 28 tháng 12 năm 2001. Mộ Nguyễn Lộ Trạch được công nhận Di tích quốc gia ngày 28 tháng 12 năm 2001 theo quyết định số 52/2001/QÐBVHTT (ảnh: Thông qua những kiến nghị của Nguyễn Lộ Trạch, có thể nhận thấy trong bối cảnh xã hội Việt Nam khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt, dưới tác động của trào lưu đổi mới của một số nước châu Á, trước nguy cơ mất nước hiển hiện về tay thực dân Pháp, nửa cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã xuất hiện một dòng tư tưởng đổi mới với nhiều gương mặt xuất sắc như Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Tư Giản, Trần Đình Túc… Họ là những “trí thức mới”, sớm tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật phương Tây, từ đó đề nghị hàng loạt hành động đổi mới đất nước lên triều đình trung ương Huế. Cũng như những người cùng chí hướng, quan điểm của Nguyễn Lộ Trạch mang hơi hướng Tư bản chủ nghĩa, tấn công trực diện vào nền văn minh nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu của quốc gia, vạch ra những suy nghĩ, hướng đi mới. Tuy nhiên, đa phần các đề nghị của Nguyễn Lộ Trạch đều bị vua Tự Đức phủ nhận vì nguyên nhân mà chủ yếu xuất phát từ sự bảo thủ, giáo điều của vua quan nhà Nguyễn trong trường tư tưởng phong kiến… Bởi vậy, dù nhận được sự đánh giá cao của các nhà khoa học hậu thế song chủ trương canh tân đất nước đa phần chỉ nằm “trên giấy” và không được áp dụng rộng rãi trên thực tế. Đây thực sự là điều đáng tiếc cho Nguyễn Lộ Trạch và nhà Nguyễn, nhất là khi con đường cứu nước mà triều đình Huế đi theo đã không thể bảo vệ độc lập quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Chú thích : * Lược ghi theo Di cảo cụ Mính – Viên (1996), Một bậc tiên thời nhân vật đồng thời với Nguyễn Trường Tộ ít ai biết – Nguyễn Lộ Trạch , Bà Nguyễn Thị Nghiên tại Nhà Anh Minh xuất bản, từ trang 28 đến 45. PHẠM HOÀNG MẠNH HÀ TRƯƠNG THỊ HẢI Tài liệu tham khảo: 1.Nguyễn Huệ Chi (2004), Tự điển Văn học (bộ mới), NXB Thế Giới, 2004. 2.Đoàn Lê Giang (1987), “Thiên hạ đại thế luận” của Nguyễn Trường Tộ, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 5+6. 3.Trương Thị Hải (2014), Tìm hiểu dòng canh tân đất nước nửa cuối thế kỷ XIX, Luận văn Thạc sỹ Sử học, Đại học Quốc gia Hà Nội. 4.Hải Ngọc Thái Nhân Hòa (2005), Xu hướng canh tân, phong trào duy tân, sự nghiệp đổi mới (từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 5.Đinh Xuân Lâm (1999), Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế. 6.Nguyễn Thị Nghiên (1996), Một bậc tiên thời nhân vật đồng thời với Nguyễn Trường Tộ ít ai biết – Nguyễn Lộ Trạch, Di cảo cụ Mính – Viên, Nxb Anh Minh. 7.Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 8.Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NxbTổng hợp TP. Hồ Chí Minh. 9.Viện Triết học, Tự Đức ngự chế thi tập. Tư liệu Viện Triết học, kí hiệu 44-AH.
Nguyễn Lộ Trạch với vấn đề canh tân đất nước cuối thế kỷ XIX Nguyễn Lộ Trạch còn có tên gọi khác là Nguyễn Lộc Trạch. Ông sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 (có tài liệu ghi năm 1852), mất năm 1898, tên tự là Hà Nhân, hiệu Kỳ Am, biệt hiệu Quỳ Ưu (còn có các biệt hiệu khác như Hồ Thiên cư sĩ , Bàn cơ điếu đồ …). Quê gốc là làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là xã Điền Môn – Phong Điền – Thừa Thiên Huế ) nhưng Nguyễn Lộ Trạch được sinh tại Cam Lộ ( Quảng Trị ). Theo Nguyễn Huệ Chi ( Từ điển văn học , nhà xuất bản Thế giới, 2004) thì tổ tiên Nguyễn Lộ Trạch trước ở vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh ngày nay, theo Nguyễn Hoàng vào khai phá Thuận Hóa (thế kỷ XVI). Ông thuộc dòng dõi “danh gia thế phiệt” – cha là Tiến sĩ Nguyễn Thanh Oai (thời vua Thiệu Trị), từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như Tổng đốc Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên), quyền Thượng thư bộ Hình… Khác với giới sỹ phu đương thời, Nguyễn Lộ Trạch không tham dự các kì thi mà chỉ chú tâm vào tính ứng dụng của khoa học. Do tính cách phóng khoáng, thích ngao du thiên hạ, kết bạn với những văn thân sĩ phu, người cùng chí hướng nên thiên hạ gọi ông là “cậu ấm tàng tàng”. Nguyễn Lộ Trạch lập gia đình năm 20 tuổi, làm con rể quan phụ chính Trần Tiễn Thành – người trực tiếp đọc và lưu giữ nhiều bản điều trần của nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ. Sớm tiếp cận tân thư Trung Quốc cùng những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ nên Nguyễn Lộ Trạch chịu tác động rất mạnh bởi tư tưởng canh tân cuối thế kỷ XIX. Chính vì vậy mà năm Tự Đức thứ 30 (năm 1877), nhân sự kiện triều đình Huế tổ chức và ra đề thi: Sứ Pháp vào chầu, hòa hiếu hợp lễ ở kỳ thi Hội, Nguyễn Lộ Trạch đã dâng Thời vụ sách I (thượng) , vạch trần bộ mặt giả nhân nghĩa, vờ nghị hòa của người Pháp, đồng thời đề ra chủ trương “gấp lo tự lực tự cường”. Bản Thời vụ sách đã gây tiếng vang lớn. 5 năm sau, Cơ mật viện Huế có ý định cử Nguyễn Lộ Trạch sang Hương Cảng (Hồng Kông) nhưng sự việc không thành. Cũng thời gian này, Nguyễn Lộ Trạch đã gửi thư cho Trần Tiễn Thành, có ý nhờ nhạc phụ nhắc nhở triều đình “phải biết tự cường, tự trị, đồng thời phải biết mật giao với các cường quốc thù địch của Pháp như Anh, Đức… để làm thế chân vạc kiềm chế Pháp”. Tuy nhiên, người đứng đầu triều Nguyễn đã phê là ngôn hà quá cao (lời nói cao, đại ngôn). Tháng tư năm 1882, nhân sự kiện thực dân Pháp đánh thành Hà Nội (lần thứ hai), Nguyễn Lộ Trạch tiếp tục dâng bản Thời vụ sách II (hạ) , gấp rút đề ra những kế hoạch giữ nước. Trong đó có nội dung rất đáng chú ý như sau: – Tụ binh làm đồn điền để đủ lương ăn. Việc cần thiết như việc tài chính, không thể lấy chữ “bần lý” ( lý luận của kẻ nghèo – TG) mà bỏ qua, ngồi chịu cái nạn cùng khốn, túng thiếu. – Huấn luyện đồn binh: muốn có quân đội cho hùng cường, trước phải làm cho dân giàu, mà dân giàu không ra ngoài hai điều cần thiết là “nuôi” và “dạy” mà thôi! – Học trường kỵ của nước ngoài để chế ngự: Nguyễn Lộ Trạch “xin chọn con em đại thần cùng bọn Cử nhân, Tú tài hoặc đã ra làm quan, hoặc chưa ra làm quan, chọn người nào có tư chất anh tuấn, cấp hậu lương, hướng cho ra nước ngoài học tập, định trình hạn cho nghiêm và định tưởng thưởng cho hậu thì tự nhiên người ta vui lòng học tập trong vài năm sẽ có thành tài… – Rộng đường ngoại giao ra nước ngoài để giúp vào mặt thanh viện. – Xứ Thanh được Nguyễn Lộ Trạch nhìn nhận như một vùng đất địa – chính trị đặc biệt, hiểm yếu, có thể xây dựng thành kinh đô thứ hai, cùng với Huế tạo thành thế ỷ dốc ( ứng cứu lẫn nhau – TG), góp phần “bền vững gốc nước”. Dựng “Bắc kinh” (tức kinh đô phía Bắc) xong hãy bàn đến chuyện “ sửa trong dẹp ngoài ” * . Song, giống như Thời vụ sách (thượng) , bản Thời vụ sách (hạ) cũng không được triều đình quan tâm. Dẫu vậy, Nguyễn Lộ Trạch vẫn kiên định với đường lối canh tân. Tháng Giêng năm 1884, Nguyễn Lộ Trạch viết bức “ Thư đứng tên cùng Phạm Phú Đường gửi Phụ chính đại thần ” (Dữ Phạm Phú Đường thướng Phụ chính đại thần), nhắc lại những luận điểm trong kế sách chống ngoại xâm Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghị chạy ra Quảng Trị, ban chiếu Cần vương rồi bị bắt (1888); phong trào Cần vương vấp phải sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp. Nguyễn Lộ Trạch đành ẩn cư song “vẫn không thôi khắc khoải về thời cuộc”. Đề nghị canh tân cuối cùng của Nguyễn Lộ Trạch có lẽ là bài viết “ Thiên hạ đại thế luận ” (Bàn luận về những việc lớn trong thiên hạ). Bài luận của ông được viết vào năm 1892, dưới triều vua Thành Thái. Mặc dù không tham gia kỳ thi Hội năm này nhưng trước đề thi “Đại thế hoàn cầu”, Nguyễn Lộ Trạch đã viết bài luận bàn thế nước của các quốc gia Á Đông trước nguy cơ xâm lược của phương Tây. Ông đã chỉ rõ rằng dã tâm của phương Tây đã có từ lâu, không vì triều đình sợ sệt, cầu hòa mà thực dân Pháp dừng lại, cũng không vì nhà Nguyễn chống lại mà Pháp dấy binh nhiều hơn. Đứng trước thực tế đó, triều đình chỉ còn cách: Từ bỏ tệ quan liêu, thói chuộng hư danh, sửa sang chính trị, giáo dục. Bài luận của Nguyễn Lộ Trạch được đông đảo sĩ phu cả nước có tư tưởng đổi mới đón nhận và khen ngợi. Những năm tháng cuối đời, Nguyễn Lộ Trạch gần như dành trọn thời gian cho việc ngao du, kết bạn. Ông đã vào Phan Thiết (nơi tập trung nhiều sỹ phu Nam Trung bộ) và dự định xuất dương nhưng chưa kịp thực hiện thì lâm trọng bệnh rồi qua đời tại Bình Định năm 1898 (có tài liệu ghi năm mất của Nguyễn Lộ Trạch là 1895), hưởng dương 45 tuổi. Phần mộ Nguyễn Lộ Trạch tại làng Kế Môn – Điền Môn – Phong Điền – Thừa Thiên Huế ( ảnh: Hiện di cốt Nguyễn Lộ Trạch đã được cải táng, đưa về nghĩa trang làng Kế Môn (xã Điền Môn – Phong Điền – Thừa Thiên Huế). Mộ Nguyễn Lộ Trạch không được xây dựng cầu kỳ (đường kính 3m, thành mộ cao 0,4m, dày 0,2m) và được công nhận là Di tích quốc gia theo quyết định số 52/2001/QÐBVHTT ngày 28 tháng 12 năm 2001. Mộ Nguyễn Lộ Trạch được công nhận Di tích quốc gia ngày 28 tháng 12 năm 2001 theo quyết định số 52/2001/QÐBVHTT (ảnh: Thông qua những kiến nghị của Nguyễn Lộ Trạch, có thể nhận thấy trong bối cảnh xã hội Việt Nam khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt, dưới tác động của trào lưu đổi mới của một số nước châu Á, trước nguy cơ mất nước hiển hiện về tay thực dân Pháp, nửa cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã xuất hiện một dòng tư tưởng đổi mới với nhiều gương mặt xuất sắc như Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Tư Giản, Trần Đình Túc… Họ là những “trí thức mới”, sớm tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật phương Tây, từ đó đề nghị hàng loạt hành động đổi mới đất nước lên triều đình trung ương Huế. Cũng như những người cùng chí hướng, quan điểm của Nguyễn Lộ Trạch mang hơi hướng Tư bản chủ nghĩa, tấn công trực diện vào nền văn minh nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu của quốc gia, vạch ra những suy nghĩ, hướng đi mới. Tuy nhiên, đa phần các đề nghị của Nguyễn Lộ Trạch đều bị vua Tự Đức phủ nhận vì nguyên nhân mà chủ yếu xuất phát từ sự bảo thủ, giáo điều của vua quan nhà Nguyễn trong trường tư tưởng phong kiến… Bởi vậy, dù nhận được sự đánh giá cao của các nhà khoa học hậu thế song chủ trương canh tân đất nước đa phần chỉ nằm “trên giấy” và không được áp dụng rộng rãi trên thực tế. Đây thực sự là điều đáng tiếc cho Nguyễn Lộ Trạch và nhà Nguyễn, nhất là khi con đường cứu nước mà triều đình Huế đi theo đã không thể bảo vệ độc lập quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Chú thích : * Lược ghi theo Di cảo cụ Mính – Viên (1996), Một bậc tiên thời nhân vật đồng thời với Nguyễn Trường Tộ ít ai biết – Nguyễn Lộ Trạch , Bà Nguyễn Thị Nghiên tại Nhà Anh Minh xuất bản, từ trang 28 đến 45. PHẠM HOÀNG MẠNH HÀ TRƯƠNG THỊ HẢI Tài liệu tham khảo: 1.Nguyễn Huệ Chi (2004), Tự điển Văn học (bộ mới), NXB Thế Giới, 2004. 2.Đoàn Lê Giang (1987), “Thiên hạ đại thế luận” của Nguyễn Trường Tộ, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 5+6. 3.Trương Thị Hải (2014), Tìm hiểu dòng canh tân đất nước nửa cuối thế kỷ XIX, Luận văn Thạc sỹ Sử học, Đại học Quốc gia Hà Nội. 4.Hải Ngọc Thái Nhân Hòa (2005), Xu hướng canh tân, phong trào duy tân, sự nghiệp đổi mới (từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 5.Đinh Xuân Lâm (1999), Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế. 6.Nguyễn Thị Nghiên (1996), Một bậc tiên thời nhân vật đồng thời với Nguyễn Trường Tộ ít ai biết – Nguyễn Lộ Trạch, Di cảo cụ Mính – Viên, Nxb Anh Minh. 7.Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 8.Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NxbTổng hợp TP. Hồ Chí Minh. 9.Viện Triết học, Tự Đức ngự chế thi tập. Tư liệu Viện Triết học, kí hiệu 44-AH.
Phạm Phú Thứ (1821-1882), hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên, người xã Đông Bàn, huyện Diên Phước, nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn , tỉnh Quảng Nam . Ông là người bản tính thông minh, nổi tiếng học giỏi, đỗ đầu các khoa, làm quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn dưới hai đời vua Thiệu Trị và Tự Đức. Phạm Phú Thứ tính cách cương trực, dám nói thẳng quan điểm của mình, dám phê phán cả vua mà không sợ bị trù dập, thậm chí khi bị trù dập, bị giáng chức nhiều lần vẫn không nản chí, không sợ hãi, vẫn kiên trì những ý kiến của mình cho là đúng đắn. Trong dòng canh tân thế kỉ XIX, Phạm Phú Thứ được coi là những người có tư tưởng vượt trội bởi tính toàn diện khả thi, đặc biệt là những tư tưởng canh tân về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Từ khi còn chưa sang Pháp, Phạm Phú Thứ đã manh nha tư tưởng canh tân. Năm 1856 khi giữ chức Án sát Thanh Hóa, ông đã khuyến nghị vua Tự Đức tổ chức đóng tàu thuyền vận tải, phục vụ giao thương kinh tế trong nước. Một chiếc tàu đồng được hoàn tất trong thời gian ngắn, mang tên Thụy Nhạc, đánh dấu kết quả tinh thần trách nhiệm và khả năng ứng dụng khoa học của ông tại một tỉnh miền Trung Trung Bộ. Năm 1857 ông tiếp tục dâng sớ lên triều đình đề đạt một phương án mới mẻ về kinh tế và quốc phòng: sử dụng thuyền buôn tư nhân và thuê họ vận chuyển thóc gạo các tỉnh về bán ở kinh đô; dùng tàu thuyền nhà nước để chuyên chở quân lương, quân khí và nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ bờ biển. Một năm sau, khi người Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, ông đã dâng sớ thỉnh nguyện vua Tự Đức cho tất cả quan viên hiện phục tại kinh đô, nguyên quán Quảng Nam được trở về quê hương chiêu tập dũng binh chống Pháp xâm lược. Tuy nhiên dấu mốc tạo bước ngoặt canh tân của Phạm Phú Thứ phải nói đến chuyến đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha trong năm 1863 – 1864. Những điều tai nghe mắt thấy về chính trị, phong tục, tập quán của người phương Tây đã được ông ghi chép một cách cẩn thận trong cuốn “Tây hành nhật ký” (Nhật ký đi sứ phương Tây). Cùng với Tây Hành Nhật Ký còn có tập thơ “Tây Phù thi thảo” cũng được ông làm trong chuyến đi Pháp và Tây Ban Nha, mang nội dung tư tưởng tiến bộ. Năm 1874, ông được bổ nhiệm làm Tổng đốc tỉnh Hải Yên (Hải Phòng, Hải Dương và Quảng Yên) Kiêm Tổng lý thương chánh Đại thần. Hơn hai vạn dân ở Hải Dương bị đói nặng, nạn nhân của vụ vỡ đê Văn Giang mấy năm liền trước đó ở phủ Khoái Châu – Hưng Yên đang trắng tay vì ngập lụt. Trước tình hình đó, Tổng đốc Phạm Phú Thứ đã xuất 50 vạn phương thóc kho tỉnh Hưng Yên để phát chẩn và vận động người giàu dùng lúa của mình để cứu đói dân làng. Mặt khác ông tổ chức người khỏe đi khai hoang, trồng cây ngắn ngày, mở thủy lợi ở Đông Triều và Nam Sách, nhằm chống đói một cách cơ bản hơn. Đi đôi với chống đói, ông không ngừng quan tâm phục hồi sản xuất nông nghiệp, phát triển tiểu thủ công nghiệp… Bên cạnh đó, Phạm Phú Thứ còn ý thức việc truyền bá kiến thức, khoa học kỹ thuật và công nghệ của phương Tây cho nhân dân xa gần trong tỉnh. Cụ thể: ông cho khôi phục nhà xuất bản Hải Học Đường, vốn có từ đời Gia Long (1802 – 1819) và xuất bản 4 cuốn sách của phương Tây đã dịch từ tiếng Anh ra chữ Hán: Bác Vật tân biên (khoa học tự nhiên), Khai Môi yếu pháp (Phương pháp khai mỏ), Hàng hải kim châm (Kỹ thuật đi biển), Vạn quốc công pháp (Công pháp các nước). Cùng với việc xuất bản, Phạm Phú Thứ còn đề cập đến một số vấn đề khoa học công nghệ như cách đúc súng, khai thác than đá, thủy tinh và giải thích tính năng, tác dụng của chất axit sunfuric trong công nghiệp. Các sách xuất bản và sự diễn giảng của ông về khoa học phổ thông đã có tiếng vang trong dư luận xã hội đương thời. Ý thức về khoa học công nghệ của Phạm Phú Thứ là nét độc đáo, gần như cá biệt của một nhà nho yêu nước trong làng quan chức cao cấp của triều đình, đã vượt lên trên hạn chế của tình hình xã hội và thời đại của ông đang sống. Ý thức đó không tách rời với tư tưởng canh tân đất nước, mà đã góp phần tích cực cùng các nhà yêu nước đương thời, hình thành xu hướng canh tân từ nửa sau thế kỷ XIX. Sau khi triều đình Huế ký với Pháp hòa ước Nhâm Tuất 1862, nguy cơ thất bại trong cuộc chiến đấu với thực dân Pháp bảo vệ độc lập dân tộc đã khá rõ ràng. Nhận thức được tình thế của đất nước một số nhân sĩ, quan lại đã gửi lên triều đình Tự Đức những đề nghị sửa đổi các chính sách về quân sự, kinh tế, ngoại giao, tôn giáo, văn hóa… nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh về mọi mặt cho đất nước để giữ vững độc lập dân tộc. Đại biểu cho xu hướng này là Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện… Nhưng việc ứng dụng những ý thức và tư tưởng tiến bộ đó không dễ dàng trong điều kiện lịch sử nước nhà và triều đình Tự Đức đang trị vì và ở xứ sở nghèo nàn này. Những đề nghị cải cách của Phạm Phú Thứ nói riêng và các nhà cải cách thế kỷ XIX nói chung, đã thể hiện một tư duy mới nhằm đáp ứng yêu cầu lịch sử đặt ra cho dân tộc trong thời kỳ này: Canh tân đổi mới để bảo vệ chủ quyền dân tộc và phát triển. Tuy nhiên, tất cả những tư tưởng cải cách tiến bộ trong giai đoạn này cùng chung một số phận đó là đều không được thực hiện đến nơi đến chốn thậm chí còn không được đưa ra để bàn luận và bị triều đình phớt lờ. Phạm Phú Thứ mất ngày 5/2/1882, thọ 61 tuổi, ông để lại cho hậu thế ngày này một tấm gương sáng về tư tưởng, ý thức và nhân cách cao đẹp. Những ghi chép của ông trong 40 năm làm quan trở thành nguồn sử liệu đồ sộ, quý giá của các học giả nghiên cứu. Không những vậy, ý thức trong việc học hỏi cái mới, ứng dụng những tiến bộ của thời đại mà Phạm Phú Thứ đã làm cách đây hai thế kỷ, đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Thu Nhuần Tài liệu tham khảo 1: Nhiều tác giả (2002), Những vấn đề về triều đại cuối cùng ở Việt Nam, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Táp chí Xưa & Nay. 2: Thái Nhân Hòa (chủ biên) (1995), Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân, Hội Khoa học lịch sử Tp Hồ Chí Minh. 3: Nguyễn Thị Yến (2016), Tư tưởng canh tân về kinh tế hoa học kỹ thuật của Phạm Phú Thứ, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Khoa hoc Xã hội và Nhân văn.
Pham Phu Thu (1821-1882), nickname Truc Duong, nickname Gia Vien, from Dong Ban commune, Dien Phuoc district, now Dien Trung commune, district Dien Ban , conscious Quang Nam . He was a naturally intelligent person, famous for being good at studying, passing top of the faculties, and serving as a mandarin of the Nguyen court under the two reigns of King Thieu Tri and Tu Duc. Pham Phu Thu has an upright personality, dares to speak his opinion directly, dares to criticize the king without fear of being reprimanded, even when being reprimanded and demoted many times, he is still not discouraged, not afraid, still Persevere in your opinions as being correct. In the 19th century innovation, Pham Phu Thu was considered a person with outstanding ideas because of his comprehensive feasibility, especially innovative ideas about economics and science and technology. Since he had not yet come to France, Pham Phu Thu had already had the idea of ​​reform. In 1856, when he held the position of Governor of Thanh Hoa, he recommended that King Tu Duc organize the construction of transport ships to serve domestic economic trade. A bronze ship was completed in a short time, named Thuy Nhac, marking the result of his sense of responsibility and ability to apply science in a central province. In 1857, he continued to submit proposals to the court proposing a new economic and defense plan: using private merchant ships and hiring them to transport rice from the provinces to sell in the capital; Use state ships to transport food, weapons, and patrol and protect the coast. A year later, when the French opened fire to attack Da Nang, he submitted a petition to King Tu Duc to allow all officials currently serving in the capital and their hometown of Quang Nam to return to their homeland to gather brave soldiers to fight against the French invaders. comb. However, the milestone that created a turning point in Pham Phu Thu's reform must be the envoy trip to France and Spain in 1863 - 1864. Things he heard and saw about politics, customs, and practices of Western people was carefully recorded by him in the book "Western Diary" (Diary of the Western Ambassador). Along with Tay Hanh Diary, there is also a collection of poems "Tay Phu Thi Thao", which he also wrote during his trip to France and Spain, containing progressive ideological content. In 1874, he was appointed Governor of Hai Yen province (Hai Phong, Hai Duong and Quang Yen) and Chief Minister of Trade. More than twenty thousand people in Hai Duong are seriously hungry, victims of the Van Giang dyke breach several years ago in Khoai Chau district - Hung Yen are left empty-handed because of flooding. Faced with that situation, General Governor Pham Phu Thu exported 500,000 rice warehouses from Hung Yen province to distribute food and mobilize the rich to use their rice to help starving villagers. On the other hand, he organized healthy people to reclaim land, plant short-term crops, and open irrigation in Dong Trieu and Nam Sach, to fight hunger in a more basic way. Along with fighting hunger, he constantly paid attention to restoring agricultural production and developing handicrafts... Besides, Pham Phu Thu is also aware of spreading Western knowledge, science and technology to people near and far in the province. Specifically: he restored the Hai Hoc Duong publishing house, which had existed since Gia Long's reign (1802 - 1819) and published 4 Western books translated from English into Chinese: Bac Vat Tan Bien (Science). natural), Khai Moi Weak Phap (Mining method), Golden needle navigation (Seafaring techniques), Van Quoc Cong Phap (The public law of all countries). Along with publishing, Pham Phu Thu also mentioned a number of scientific and technological issues such as how to cast guns, exploit coal and glass, and explain the features and effects of sulfuric acid in industry. His published books and lectures on popular science have resonated in contemporary public opinion. Pham Phu Thu's awareness of science and technology is a unique, almost unique feature of a patriotic scholar among high-ranking court officials, overcoming the limitations of the social situation and the times. His is alive. That awareness is not separate from the idea of ​​national reform, but has actively contributed to contemporary patriots, forming the reform trend since the second half of the 19th century. After the Hue court signed the Nham Tuat peace treaty with France in 1862, the risk of failure in the fight with the French colonialists to protect national independence was quite clear. Aware of the country's situation, a number of notables and mandarins sent to the Tu Duc court proposals to amend policies on military, economics, diplomacy, religion, culture... in order to consolidate and Strengthen the country in all aspects to maintain national independence. Representatives of this trend are Nguyen Truong To, Dang Huy Tru, Pham Phu Thu, Nguyen Lo Trach, Bui Vien... But applying those progressive consciousnesses and ideas is not easy in the historical conditions of the country and The Tu Duc court is ruling in this poor country. The reform proposals of Pham Phu Thu in particular and the 19th century reformers in general, demonstrated a new way of thinking to meet the historical requirements set for the nation in this period: Renewal and innovation. to protect national sovereignty and development. However, all progressive reform ideas during this period shared the same fate: they were not fully implemented, were not even discussed and were ignored by the royal court. Pham Phu Thu died on February 5, 1882, at the age of 61. He left behind today a shining example of noble thoughts, consciousness and personality. His notes during his 40 years as a mandarin became a voluminous and valuable historical source for research scholars. Not only that, the awareness of learning new things and applying the advances of the times that Pham Phu Thu did two centuries ago is still valid today. Thu Nhuan References 1: Many authors (2002), Issues about the last dynasty in Vietnam, Hue Monuments Conservation Center, Past & Present Magazine. 2: Thai Nhan Hoa (editor) (1995), Pham Phu Thu with innovative thinking, Ho Chi Minh City Historical Science Association. 3: Nguyen Thi Yen (2016), Pham Phu Thu's innovative thoughts on economics and technology, Master's thesis in Philosophy, University of Social Sciences and Humanities.
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao: Tự hào khi UNESCO tôn vinh văn hóa Việt Việc UNESCO tôn vinh hai danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và Hồ Xuân Hương là sự ghi nhận đối với những giá trị về văn hóa, đạo đức, truyền thống học tập của Việt Nam. Trong năm 2022, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) sẽ cùng Việt Nam kỷ niệm ngày sinh/ngày mất của nữ sỹ Hồ Xuân Hương và danh nhân Nguyễn Đình Chiểu . Quyết định này được UNESCO thông qua ngày 23.11 trong khuôn khổ kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 41 của UNESCO tại Paris (Pháp). Trong niềm tự hào, ông Đặng Hoàng Giang, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam chia sẻ với phóng viên về quá trình thông qua nghị quyết và những hoạt động sắp tới để tôn vinh hai danh nhân của Việt Nam. Lan tỏa giá trị văn hóa Việt * Quá trình thực hiện hồ sơ đề nghị UNESCO cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sỹ Hồ Xuân Hương diễn ra thế nào, thưa ông? – Thứ trưởng Đặng Hoàng Giang: Từ năm 2020, Bộ Ngoại giao và Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam đã phối hợp với các sở, ngành liên quan của tỉnh Bến Tre và Nghệ An cùng với các nhà khoa học xây dựng và hoàn thiện hai hồ sơ trình UNESCO cùng kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sỹ Hồ Xuân Hương. Hai hồ sơ đã được đệ trình UNESCO vào tháng 12.2020 theo đúng quy định. Các hồ sơ đề cử cần đáp ứng các tiêu chí do UNESCO đề ra, đặc biệt là phải phù hợp với lý tưởng và sứ mệnh của tổ chức UNESCO trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học, thông tin truyền thông, góp phần thúc đẩy hòa bình, đối thoại văn hóa, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, đồng thời mỗi sự kiện, nhân vật đề cử phải có tầm ảnh hưởng rộng rãi, được biết đến cả ở bên ngoài quốc gia đề cử. Tại Hội đồng Chấp hành UNESCO lần thứ 211, danh sách các hồ sơ của các nước, trong đó hai hồ sơ của Việt Nam đã được đưa ra thảo luận và thông qua. Theo quy định, Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 (diễn ra từ ngày 9-24.11 tại Paris) đã thông qua danh sách tổng thể các danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022-2023 để UNESCO cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh/năm mất, trong đó có hồ sơ của hai danh nhân Việt Nam. Tác phẩm “Lục Vân Tiên” bản tiếng Nhật năm 1985 Xin ông cho biết nghĩa của việc được UNESCO thông qua nghị quyết cùng kỷ niệm năm sinh/năm mất hai danh nhân của Việt Nam. – UNESCO đã từng thông qua nghị quyết vinh danh và cùng kỷ niệm năm sinh/năm mất của các Danh nhân Việt Nam như kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990, 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi (1980), 250 năm ngày sinh Nguyễn Du (2015), 650 năm ngày mất của nhà giáo Chu Văn An (2019) và nay là danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và nữ sỹ Hồ Xuân Hương. Đây là sự ghi nhận của UNESCO và cộng đồng quốc tế đối với những giá trị về văn hóa, đạo đức, truyền thống học tập, tư tưởng về bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ của Việt Nam. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, tấm gương vượt lên những khó khăn của cuộc sống và theo đuổi lý tưởng học tập suốt đời của UNESCO, thơ văn của ông đậm tính nhân văn, khích lệ lòng yêu nước, ca ngợi những con người sẵn sàng làm việc nghĩa, vì lợi ích cộng đồng. Thơ Hồ Xuân Hương được dịch ra nhiều thứ tiếng. (Ảnh: PV/Vietnam+) Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, được biết đến như “Bà chúa thơ Nôm.” Với tư tưởng mới mẻ cùng lối làm thơ phá cách, ngôn ngữ bình dị và sáng tạo, các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều ý nghĩa, giá trị và sức sống lâu bền từ quá khứ đến hiện tại. Các tác phẩm thơ của bà cũng mang nhiều nội dung về bình đẳng giới, đấu tranh cho việc giải phóng phụ nữ ở Việt Nam. Đây cũng là niềm vinh dự, tự hào và niềm vui chung của tỉnh Bến Tre và tỉnh Nghệ An nói riêng cũng như của toàn thể người dân Việt Nam nói chung. Việc tổ chức các hoạt động kỷ niệm nhằm tôn vinh và ghi nhận những thành tựu của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và nữ sỹ Hồ Xuân Hương theo yêu cầu của UNESCO góp phần quảng bá hình ảnh con người và văn hóa của tỉnh Bến Tre và Nghệ An nói riêng và của Việt Nam nói chung với bạn bè quốc tế, làm phong phú đời sống tinh thần, tâm hồn con người Việt Nam, lan tỏa các giá trị về tình thương, lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng của xã hội Việt Nam. Hội nhập quốc tế sâu rộng * Vinh dự này có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh Hội nghị Văn hóa Toàn quốc vừa diễn ra ngày 24.11, thưa ông? – Quá trình xây dựng và gửi hồ sơ cũng chứng tỏ nỗ lực của Việt Nam trong hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa Toàn quốc về việc tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự là “nền tảng tinh thần,” “động lực phát triển” và “soi đường cho quốc dân đi.” * Tiếp sau đây, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, tỉnh Bến Tre, tỉnh Nghệ An và các cơ quan liên quan sẽ có những kế hoạch như thế nào để tôn vinh các danh nhân? – Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam sẽ hợp tác chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan, tỉnh Bến Tre và Nghệ An trong việc tôn vinh danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và nữ sỹ Hồ Xuân Hương. Trước mắt, chúng tôi sẽ phối hợp với tỉnh Bến Tre và tỉnh Nghệ An tổ chức một số hoạt động kỷ niệm theo như cam kết với UNESCO, cụ thể là trưng bày triển lãm con người và sự nghiệp các danh nhân, gửi trưng bày trên môi trường kỹ thuật số đến UNESCO, tổ chức hội thảo khoa học quốc tế và lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sỹ Hồ Xuân Hương. * Xin trân trọng cảm ơn ông! *** Từ Paris, đại sứ, Trưởng đại diện phái đoàn Việt Nam bên cạnh UNESCO Lê Thị Hồng Vân chia sẻ: “UNESCO và các nước thành viên đã thông qua nghị quyết cùng tôn vinh các danh nhân Việt Nam, cùng kỷ niệm 200 năm ngày sinh của danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của nữ sỹ Hồ Xuân Hương vào năm 2022. Điều này thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những giá trị của dân tộc Việt Nam về văn hóa, lịch sử, truyền thống học tập, bình đẳng giới… rất phù hợp với những giá trị mà UNESCO đang thúc đẩy; đưa đến thế giới một hình ảnh Việt Nam đổi mới, năng động, nhưng vẫn giữ được bản sắc truyền thống của dân tộc.”. MINH THU/VIETNAM+ thực hiện
Deputy Minister of Foreign Affairs: Proud that UNESCO honors Vietnamese culture UNESCO's honoring of two famous people, Nguyen Dinh Chieu and Ho Xuan Huong, is a recognition of Vietnam's cultural values, ethics, and learning traditions. In 2022, the United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO) will join Vietnam to commemorate the birth/death anniversary of female artist Ho Xuan Huong and famous people. Nguyen Dinh Chieu . This decision was passed by UNESCO on November 23 within the framework of the 41st UNESCO General Assembly session in Paris (France). With pride, Mr. Dang Hoang Giang, Deputy Minister of Foreign Affairs, Chairman of the Vietnam National Committee for UNESCO, shared with reporters about the process of passing the resolution and upcoming activities to honor two famous people of Vietnam. Vietnam. Spreading Vietnamese cultural values * The process of making a request to UNESCO to jointly honor and participate in commemorating the 200th anniversary of the birth of famous man Nguyen Dinh Chieu and the 250th anniversary of the birth and 200th anniversary of the death of the female artist Xuan Huong lake How did it go, sir? – Deputy Minister Dang Hoang Giang: Since 2020, the Ministry of Foreign Affairs and the Vietnam National Committee for UNESCO have coordinated with relevant departments and branches of Ben Tre and Nghe An provinces along with scientists to build and complete The two documents submitted to UNESCO commemorate the 200th anniversary of the birth of the famous man Nguyen Dinh Chieu and the 250th anniversary of the birth and 200th anniversary of the death of female artist Ho Xuan Huong. The two dossiers were submitted to UNESCO in December 2020 in accordance with regulations. Nomination dossiers need to meet the criteria set by UNESCO, especially in accordance with the ideals and mission of UNESCO in the fields of education, culture, science, information and communication, contribute to promoting peace, cultural dialogue, and mutual understanding between peoples. At the same time, each event and nominated person must have widespread influence and be known even outside the nominating country. . At the 211th UNESCO Executive Council, a list of dossiers from countries, including two dossiers from Vietnam, were discussed and approved. According to regulations, the 41st UNESCO General Conference (taking place from November 9-24 in Paris) has approved a comprehensive list of cultural celebrities and historical events for the 2022-2023 school year for UNESCO to jointly honor and celebrate. Participate in commemorating birth/death anniversary, including profiles of two Vietnamese celebrities. The Japanese version of "Luc Van Tien" in 1985 Please tell us what it means for UNESCO to pass a resolution commemorating the birth/death anniversary of two famous Vietnamese people. – UNESCO has passed a resolution to honor and commemorate the birth/death years of Vietnamese Famous People such as the 100th anniversary of President Ho Chi Minh's birth in 1990, the 600th anniversary of Nguyen Trai's birth (1980). , 250 years since the birth of Nguyen Du (2015), 650 years since the death of teacher Chu Van An (2019) and now famous person Nguyen Dinh Chieu and female artist Ho Xuan Huong. This is recognition by UNESCO and the international community of Vietnam's cultural values, ethics, learning traditions, and ideology of gender equality and women's liberation. Nguyen Dinh Chieu is a great cultural figure and poet of the Vietnamese people, an example of overcoming life's difficulties and pursuing UNESCO's ideal of lifelong learning. His poetry is rich in humanity and encouragement. patriotism, praising people who are willing to do good deeds for the benefit of the community. Ho Xuan Huong's poetry has been translated into many languages. (Photo: PV/Vietnam+) Ho Xuan Huong is one of Vietnam's famous poets, known as the "Queen of Nom poetry." With new ideas, unconventional poetic style, simple and creative language, her works have brought much meaning, value and lasting vitality from the past to the present. Her poetic works also contain many contents about gender equality and the fight for women's liberation in Vietnam. This is also the honor, pride and joy of Ben Tre province and Nghe An province in particular as well as of all Vietnamese people in general. The organization of commemorative activities to honor and recognize the achievements of famous man Nguyen Dinh Chieu and female artist Ho Xuan Huong at the request of UNESCO contributes to promoting the human and cultural image of Ben Tre province and Nghe An in particular and Vietnam in general with international friends, enriching the spiritual life and soul of Vietnamese people, spreading the values ​​of love, kindness, righteousness and justice. Vietnamese society. Deep international integration * What does this honor mean in the context of the National Cultural Conference that just took place on November 24, sir? – The process of building and submitting documents also demonstrates Vietnam's efforts in deep international integration, implementing the instructions of General Secretary Nguyen Phu Trong at the National Cultural Conference on continuing to build Build, preserve and develop an advanced Vietnamese culture rich in national identity, so that culture can truly be the "spiritual foundation," "driving force for development" and "light the way for the nation to go." ” * Next, what plans will the Vietnam National Committee for UNESCO, Ben Tre province, Nghe An province and related agencies have to honor famous people? – The Vietnam National Committee for UNESCO will cooperate closely with relevant ministries, branches, Ben Tre and Nghe An provinces in honoring famous man Nguyen Dinh Chieu and female artist Ho Xuan Huong. In the immediate future, we will coordinate with Ben Tre province and Nghe An province to organize a number of commemorative activities according to commitments with UNESCO, specifically displaying exhibitions of people and careers of famous people, and sending exhibits. in the digital environment to UNESCO, organize international scientific conferences and celebrate the 200th anniversary of the birth of famous man Nguyen Dinh Chieu and the 250th anniversary of the birth and 200th anniversary of the death of female artist Ho Xuan Huong. * Thank you very much! *** From Paris, Ambassador and Chief Representative of the Vietnamese Delegation to UNESCO Le Thi Hong Van shared: "UNESCO and its member countries have passed a resolution to jointly honor Vietnamese celebrities and celebrate the 200th anniversary the birth of famous man Nguyen Dinh Chieu and the 250th anniversary of the birth and 200th anniversary of the death of female artist Ho Xuan Huong in 2022. This represents the international community's recognition of the values ​​of the Vietnamese people. Southern culture, history, learning traditions, gender equality... are very consistent with the values ​​that UNESCO is promoting; bringing to the world an image of Vietnam that is innovative and dynamic, but still retains the nation's traditional identity.". MINH THU/VIETNAM+ perform
Bộ tranh 5 con Rồng qua các thời kỳ của Việt Nam Bộ tranh vẽ năm con rồng các thời kỳ của Việt Nam sau khi đã tìm hiểu các đặc trưng của hình tượng rồng trong từng thời đại lịch sử. Rồng (long – 龍) của Việt Nam cùng nằm trong phong cách tạo hình rồng được thể hiện trong kiến trúc, hội họa các quốc gia trong vùng văn hóa Đông Á. Rồng là loài vật tưởng tượng được tạo thành từ các yếu tố mạnh của nhiều loài vật khác nhau hợp thành, là biểu tượng cho sự linh thiêng, sức mạnh thần thánh và quyền lực của các bậc quân vương. Trải qua hơn một ngàn năm tự chủ, tạo hình rồng luôn là hình tượng cao quý và tiêu biểu nhất của nền mỹ thuật dân tộc. Có thể nói, trong nền mỹ thuật trung đại Việt Nam, hình tượng con rồng là công cụ nhận biết đặc trưng phong cách mỹ thuật của từng thời kỳ trong lịch sử. Cho đến ngày nay, hình tượng rồng vẫn là biểu tượng của niềm tự hào văn hóa lịch sử ngàn năm của dân tộc, tiếp tục được kế thừa, sử dụng trong mỹ thuật hiện đại. 5 con rồng biểu tượng cho 5 thời kỳ mỹ thuật của Việt Nam trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, trên nền sông núi Ninh Bình. Tạo hình rồng thời Lý là sự chuẩn mực, hoàn thiện cao về trình độ mỹ thuật, đã manh nha từ tạo hình rồng đã có trước đó thời Đinh-Tiền Lê. Những điểm đặc trưng của con rồng thời Lý là hàm răng đều, sắc nhọn và hơi hô; có ngà; lông mày kết xoắn; mũi dạng vòi, uốn khúc hình sin và cuộn trong hình tượng lá đề, mang dấu ấn Phật giáo; trên đầu sừng, ở các bức chạm thể hiện như hình ω; thân rồng nhỏ, dài và cũng uốn khúc hình sin, phình to về phần đầu và thu nhỏ về phần đuôi, trên thân mang vảy hoặc để trơn; chân rồng dài, móng vuốt dài với số móng đa dạng, phổ biến nhất là 3, ở các phù điêu lớn số móng có thể lên tới 5. Rồng thời Lý cũng như các con rồng ở các thời kỳ sau của Việt Nam miệng thường ngậm ngọc. Rồng thời Trần thời kỳ đầu vẫn là những phiên bản sao chép và kế thừa phong cách rồng thời Lý. Càng về sau, hình tượng rồng càng phát triển đa dạng, không còn thống nhất, khuôn vàng thước ngọc như rồng Lý, mà bắt đầu biến đổi nhiều hình vẻ, mỗi nơi một khác, thể hiện sự tiếp biến và giao thoa mới. Một số yếu tố khác biệt xuất hiện ở rồng thời Trần có thể kể đến như: cấu trúc thân mập mạp khỏe khoắn hơn; phần vòi ngắn lại và mập hơn, các mép hình “ngọn lửa” thưa nhỏ lại hoặc tiêu biến hẳn rất giống với con rồng Tống, Nguyên đương thời; sự xuất hiện của sừng rất phổ biến với kiểu dáng phong phú; bờm xuất hiện loại 2 dải ngắn không vắt lên hay duỗi ra sau mà vòng xuống gáy; vảy xuất hiện nhiều hơn kể cả ở một số phiên bản rồng nhỏ; móng vuốt ngắn và to hơn; xuất hiện nhiều tư thế mới. Rồng thời Lê sơ là một bước ngoặt trong tạo hình rồng Việt Nam, có thể thấy sự du nhập tạo hình con rồng Minh vào con rồng thời kỳ này. Những khác biệt của con rồng thời Lê sơ so với với các thời đại trước thể hiện rõ nhất ở việc thay thế cái vòi bằng mũi của loài thú ăn thịt (đến thời Mạc lại xuất hiện một số tạo tác mũi trở lại dạng vòi) cùng với cái đuôi cá. Mặt rồng trông dữ hơn, lông mày cùng bộ râu quai nón rậm, thân hình to khỏe cứng cáp kết hợp với mây lửa, thể hiện sức mạnh uy quyền của bậc đế vương với con rồng 5 móng chỉ dành cho hoàng đế. Thoạt nhìn con rồng Lê sơ rất giống con rồng Minh, nhưng nếu quan sát và so sánh kỹ lưỡng, có thể nhận ra nhiều khác biệt đặc trưng mà chỉ con rồng Lê sơ mới có. Rồng Lê sơ cũng như mọi con rồng Việt Nam ở các thời kỳ miệng thường ngậm châu ngọc, phần lông mày và râu quai nón có hình “dấu phẩy” đặc trưng, vây trên thân và đuôi mềm mại hơn con rồng Minh, vây được thể hiện các đường sọc dày, phần râu mép và túm lông ở khuỷu chân luôn được kéo dài bay bổng, phần bờm thường xẻ ra hai bên, xuất hiện tư thế một chân trước cầm lấy râu rất đặc trưng. Hình tượng rồng Lê sơ được kế thừa dưới thời Mạc và vẫn còn được sử dụng sang thời Lê trung hưng đến tận thế kỷ 18 dù có thay đổi ít nhiều. Có thể nói, con rồng thời Lê trung hưng là con rồng đa dạng về tạo hình nhất. Là thời kỳ nhiều biến động và cũng là lâu dài nhất trong các triều đại Việt Nam, với sự nở rộ của các kiến trúc đình, chùa mà cho đến nay vẫn để lại kho tàng nghệ thuật đồ sộ, hình tượng rồng cũng vì thế mà rất phong phú. Sự khác biệt đó phân định ở các yếu tố thời gian, vùng miền và chất liệu. Cho đến đầu thế kỷ 18, vẫn tồn tại tạo hình rồng đuôi cá mang những đặc điểm kế thừa từ con rồng Lê sơ – Mạc, song song với đó, con rồng dần được cách điệu cao, hoa văn dáng dấp cứng hơn, nổi bật là râu bờm, mây lửa đều duỗi thẳng sắc nhọn theo kiểu “đao mác” rất đặc trưng của thời đại này. Đầu rồng cũng dần biến đổi, bờm không còn bổ luống mà chia thành từng dải đều nhau, lông mày, râu cằm, lông khuỷu chân loe ra, hai sợi râu mép uốn cong lại. Sang thời Cảnh Hưng gần giữa thế kỷ 18 đã xuất hiện con rồng đuôi xoáy, thân rồng mảnh hơn, tạo hình này xuất hiện sớm nhất có lẽ là con rồng vẽ trên các sắc phong, chính là tạo hình rồng mà đến thời Nguyễn kế thừa lại. Ngoài ra, có sự khác biệt phong cách giữa các vùng Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc đặc biệt ở điêu khắc kiến trúc gỗ, đây là chất liệu mà các nghệ nhân của từng vùng thể hiện sự sáng tạo riêng của mình, không chỉ đẹp về thẩm mỹ mà còn đa dạng về tạo hình, bố cục. Khi nhắc đến rồng thời Nguyễn là người ta liên tưởng ngay đến con rồng đuôi xoáy đặc trưng. Thế nhưng như đã nói trong bài về rồng thời Lê trung hưng, vốn dĩ hình dáng rồng này đã xuất hiện sớm nhất vào nửa đầu thế kỷ 18 trong mỹ thuật Đàng Ngoài và hoàn thiện ngay từ thời Lê, bao gồm những đặc điểm có thể kể đến như mũi to, mõm ngắn, râu bờm uốn lượn từng dải liền nhau, râu thường uốn cong xoắn ốc, thân mảnh, đuôi xoáy. Nhà Nguyễn tiếp tục kế thừa hình tượng rồng này và theo thời gian xuất hiện nhiều biến thể mới. Những thay đổi như về tạo dáng, có thể thấy ở những con rồng thềm bậc, độ uốn khúc không còn đều đặn mà chỉ vồng lên 2 khúc nhỏ dần về đuôi. Trán rồng có phần lõm hơn và bợt ra sau. Ở nhiều hình ảnh ta thấy đuôi con rồng không còn xoáy nữa mà duỗi ra, hoặc vẫn xoáy nhưng các dải lông thưa thớt và rời rạc chứ không gắn liền nhau, thậm chí có những con đuôi đã cứng với những sợi lông sắc nhọn đâm tua tủa mang ảnh hưởng từ hình tượng rồng Trung Hoa giai đoạn Minh hậu kỳ trở về sau.
Set of paintings of 5 Dragons through the periods of Vietnam Set of paintings depicting five dragons from different periods of Vietnam after studying the characteristics of dragon images in each historical era. Vietnamese dragons (long – 龍) are included in the dragon-shaped style shown in the architecture and painting of countries in the East Asian cultural region. Dragon is an imaginary animal made up of strong elements of many different animals, symbolizing holiness, divine strength and power of monarchs. After more than a thousand years of autonomy, the dragon image has always been the noblest and most representative image of national fine arts. It can be said that in Vietnamese medieval art, the image of the dragon is a tool to recognize the characteristic art styles of each period in history. To this day, the dragon image is still a symbol of the nation's thousand-year cultural pride and history, continuing to be inherited and used in modern fine arts. The 5 dragons symbolize the 5 periods of Vietnamese art experienced Ly, Tran, Le, Nguyen dynasties, on the background of Ninh Binh mountains and rivers. Dragon shaping in the Ly Dynasty is a standard, highly perfected art form, originating from the dragon shaping that existed before the Dinh-Pre-Le Dynasty. The characteristic features of the Ly Dynasty dragon are even, sharp, and slightly protruding teeth; tusks; twisted eyebrows; Nose shaped like a spout, meandering sinusoidally and curled in the shape of a leaf, bearing Buddhist imprints; on the tip of the horn, in the carvings shown as picture ω; The dragon's body is small, long and meandering sinusoidally, bulging at the head and shrinking at the tail. The body has scales or is smooth; Dragon legs are long, long claws with a diverse number of claws, the most common is 3, in large reliefs the number of claws can be up to 5. Dragons of the Ly Dynasty as well as dragons in later periods of Vietnam The mouth often holds jade. Dragons of the early Tran Dynasty were still copies and inherited the style of dragons of the Ly Dynasty. Later, the dragon image developed more and more diversely, no longer unified, with a golden rule like the Ly dragon, but began to change into many shapes, each place was different, showing new evolution and interference. Some different factors appearing in dragons of the Tran Dynasty include: thicker and stronger body structure; the trunk becomes shorter and fatter, the sparse "flame" shaped edges become smaller or completely disappear, very similar to the contemporary Song and Yuan dragons; The appearance of the horns is very popular with rich designs; The mane appears in two short strips that do not cross up or stretch back, but curl down to the nape of the neck; scales appear more frequently even in some small dragon versions; shorter and larger claws; Many new positions appear. Dragons of the early Le Dynasty were a turning point in Vietnamese dragon shaping. We can see the introduction of Ming dragon shaping into dragons of this period. The differences between the dragon of the Early Le Dynasty and previous eras are most clearly shown in the replacement of the trunk with the nose of a carnivore (during the Mac Dynasty, a number of nose artifacts returned to the form of a trunk). with a fish tail. The dragon's face looks fiercer, its eyebrows and beard are bushy, its body is strong and strong combined with clouds of fire, demonstrating the power and authority of the king with the 5-clawed dragon reserved only for the emperor. At first glance, the early Le dragon is very similar to the Minh dragon, but if carefully observed and compared, you can recognize many characteristic differences that only the early Le dragon has. The early Le dragon, like all Vietnamese dragons, often held pearls in its mouth, its eyebrows and whiskers had a characteristic "comma" shape, the fins on its body and tail were softer than the Ming dragon's. shows thick stripes, the whiskers and the hair on the elbows are always stretched and flying, the mane is often split to the sides, appearing in a very characteristic position of one front leg holding the whiskers. The image of the early Le dragon was inherited during the Mac dynasty and was still used during the Renaissance of the Le dynasty until the 18th century, although somewhat changed. It can be said that the dragon of the Le Trung Hung period is the dragon with the most diverse shapes. This was the most turbulent and longest period of Vietnamese dynasties, with the flourishing of communal houses and pagodas that still leave huge artistic treasures to this day, so did the dragon image. but very rich. That difference is determined by the factors of time, region and material. Until the early 18th century, there still existed a fish-tailed dragon shape with characteristics inherited from the Le So - Mac dragon. At the same time, the dragon gradually became highly stylized, the pattern was stiffer and more prominent. The mane, beard, and fire clouds are all straight and sharp in the "sword" style that is very typical of this era. The dragon's head also gradually changed, the mane was no longer furred but divided into equal strips, the eyebrows, chin whiskers, and elbow hair flared out, and the two whiskers curved back. During the Canh Hung period, near the middle of the 18th century, a dragon with a swirly tail and a thinner dragon body appeared. This shape appeared earliest, probably as a dragon painted on royal ordinations, which was the dragon shape that was succeeded by the Nguyen dynasty. leftover. In addition, there are stylistic differences between the Son Tay, Son Nam, and Kinh Bac regions, especially in wood architectural sculpture, this is the material where artisans of each region express their own creativity, not Not only aesthetically beautiful but also diverse in shape and layout. When mentioning dragons of the Nguyen Dynasty, people immediately think of the characteristic swirl-tailed dragon. However, as mentioned in the article about dragons in the Renaissance of the Le period, this dragon shape appeared as early as the first half of the 18th century in Dang Ngoai art and was perfected right from the Le dynasty, including characteristics that have can be mentioned as a big nose, short muzzle, curly beard and mane in consecutive strips, beard often curved in a spiral, thin body, and swirly tail. The Nguyen Dynasty continued to inherit this dragon image and over time many new variations appeared. Changes in shape can be seen in terraced dragons, the meandering is no longer regular but only has 2 curves that gradually become smaller towards the tail. The dragon's forehead is more concave and falls back. In many images, we see that the dragon's tail is no longer swirling but stretched out, or it is still swirling but the hair strips are sparse and discrete rather than attached to each other. There are even stiff tails with sharp, piercing hairs. bristling with influence from the image of the Chinese dragon from the late Ming period onwards.
Thêm nhận thức về 6 chữ ‘Độc lập-Tự do-Hạnh phúc’ trong Quốc hiệu Việt Nam Tại Sắc lệnh Luật số 50 ngày 9/10/1945, lần đầu tiên 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” đứng trang trọng giữa đầu trang Sắc lệnh. Đọc văn bản Sắc lệnh số 49 ngày 12/10/1945 mới thấy rõ hơn những căn cứ: “ Xét vì bắt đầu từ ngày 2/9/1945 nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập cho toàn thể quốc dân và thế giới biết; Xét vì ngày 24/8/1945 Vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị và giao chính quyền lại cho Chính phủ dân chủ cộng hoà; Xét vì cần nêu cao một kỷ nguyên mới để đánh dấu vào lịch sử nước ta, nhưng độc lập, tự do và hạnh phúc mà chính thể dân chủ cộng hoà mang lại cho dân chúng”; Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh “Khoản I: Các công văn, công điệp, phiếu, trát, đơn từ, các báo chí, chúc tự, điếu văn, khấn vái, cúng lễ, v.v…, bắt đầu từ ngày ký Sắc lệnh này đều phải tiêu đề: Việt Nam dân chủ cộng hoà ”. Quốc hiệu là tên gọi chính thức của một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn gắn với một thể chế chính trị được lựa chọn khách quan bởi lịch sử. Tiêu ngữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” ghi dưới Quốc hiệu từ đó đến nay (từ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vẫn không thay đổi nội dung và hình thức trình bày; chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ bản chất và ý nghĩa lịch sử thiêng liêng, trọng đại. Hồ Chủ tịch gọi đó là “ba chính sách” và tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (9/11/1946), Người phát biểu: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém”. Trả lời một nhà báo nước ngoài (16/7/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tuyên bố “Chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Trong Lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11/6/1948), Người nói đến việc thực hiện “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. Ba chủ nghĩa mà nhà đại cách mạng Tôn Văn đã nêu ra”. Tuy đề cao “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Văn nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói đến “chủ nghĩa” chung chung mà Người viết cụ thể dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Người đặc biệt luôn đặt ở hàng đầu hai chữ “Độc lập” như điều kiện tiên quyết tối cần thiết để đảm bảo mọi tự do, hạnh phúc thực sự có cho bất cứ dân tộc, dân quyền hay dân sinh nào. Còn nhớ khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa kết thúc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi đến Hội nghị quốc tế ở Versseilles, Pháp (năm 1919) Bản yêu sách 8 điểm đòi tự do độc lập cho thuộc địa, trong đó rất nhấn mạnh đến dân quyền khi nêu các điểm cụ thể: “ 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. Tự do lập hội và hội họp; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”. Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp hỏi mong muốn điều gì, Nguyễn Ái Quốc trực diện đối đáp thẳng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” và năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Lenin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. “Độc lập” là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, tức là phải “tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi”; nhưng “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin”. “Độc lập” theo con đường cách mạng triệt để là “làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”, “nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do, bình đẳng giả dối”. “Độc lập” ở Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân… xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hoà và thống nhất độc lập”. “Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc ” mà phải gắn liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối thượng. Trong Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945), Hồ Chủ tịch nói rõ “ Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (10/1/1946), Người lý giải: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. “Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là nói đến người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng. “Tự do” và “Hạnh phúc” cơ bản nhất, tối thiểu nhất theo cách nói của Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; người dân từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và cống hiến… Điều đó trong chế độ dân chủ cộng hòa thì mỗi người dân được pháp luật đảm bảo điều kiện trong việc tự cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính độc lập cá nhân và phát triển toàn diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại phúc lợi xã hội cho con người trở thành quyền công dân, mỗi người dân và toàn xã hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chung. Như thế ta hiểu tại sao 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” cần có gạch nối 3 từ không thể tách biệt, như là điều kiện và mục đích của nhau vậy. Kể từ năm 1945, đó là nhiệm vụ và quyền lợi của “ tất cả đồng bào Việt Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, chủng tộc, cùng nhau đoàn kết để giữ vững nền độc lập và mưu cầu hạnh phúc tự do”. Càng tiến xa hơn trong dòng chảy lịch sử, chúng ta càng thấy rõ tầm chiến lược nhưng rất thiết thực của mục tiêu-đích đến-khát vọng của dân tộc, dân quyền và dân sinh; càng hiểu thêm bản Tuyên ngôn Độc lập được mở đầu bằng “Lời bất hủ”: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; càng hiểu thấu đời người – như Chủ tịch Hồ Chí Minh “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Và cả 8 mục tiêu chung trong Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc tháng 9/2000 (xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; đạt phổ cập giáo dục tiểu học; tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ; giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ em; tăng cường sức khỏe bà mẹ; phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; bảo đảm bền vững về môi trường; thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển) suy cho cùng cũng vẫn không ngoài 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” trong di sản Hồ Chí Minh./.
Thêm nhận thức về 6 chữ ‘Độc lập-Tự do-Hạnh phúc’ trong Quốc hiệu Việt Nam Tại Sắc lệnh Luật số 50 ngày 9/10/1945, lần đầu tiên 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” đứng trang trọng giữa đầu trang Sắc lệnh. Đọc văn bản Sắc lệnh số 49 ngày 12/10/1945 mới thấy rõ hơn những căn cứ: “ Xét vì bắt đầu từ ngày 2/9/1945 nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập cho toàn thể quốc dân và thế giới biết; Xét vì ngày 24/8/1945 Vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị và giao chính quyền lại cho Chính phủ dân chủ cộng hoà; Xét vì cần nêu cao một kỷ nguyên mới để đánh dấu vào lịch sử nước ta, nhưng độc lập, tự do và hạnh phúc mà chính thể dân chủ cộng hoà mang lại cho dân chúng”; Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh “Khoản I: Các công văn, công điệp, phiếu, trát, đơn từ, các báo chí, chúc tự, điếu văn, khấn vái, cúng lễ, v.v…, bắt đầu từ ngày ký Sắc lệnh này đều phải tiêu đề: Việt Nam dân chủ cộng hoà ”. Quốc hiệu là tên gọi chính thức của một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn gắn với một thể chế chính trị được lựa chọn khách quan bởi lịch sử. Tiêu ngữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” ghi dưới Quốc hiệu từ đó đến nay (từ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vẫn không thay đổi nội dung và hình thức trình bày; chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ bản chất và ý nghĩa lịch sử thiêng liêng, trọng đại. Hồ Chủ tịch gọi đó là “ba chính sách” và tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (9/11/1946), Người phát biểu: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém”. Trả lời một nhà báo nước ngoài (16/7/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tuyên bố “Chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Trong Lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11/6/1948), Người nói đến việc thực hiện “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. Ba chủ nghĩa mà nhà đại cách mạng Tôn Văn đã nêu ra”. Tuy đề cao “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Văn nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói đến “chủ nghĩa” chung chung mà Người viết cụ thể dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Người đặc biệt luôn đặt ở hàng đầu hai chữ “Độc lập” như điều kiện tiên quyết tối cần thiết để đảm bảo mọi tự do, hạnh phúc thực sự có cho bất cứ dân tộc, dân quyền hay dân sinh nào. Còn nhớ khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa kết thúc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi đến Hội nghị quốc tế ở Versseilles, Pháp (năm 1919) Bản yêu sách 8 điểm đòi tự do độc lập cho thuộc địa, trong đó rất nhấn mạnh đến dân quyền khi nêu các điểm cụ thể: “ 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. Tự do lập hội và hội họp; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”. Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp hỏi mong muốn điều gì, Nguyễn Ái Quốc trực diện đối đáp thẳng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” và năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Lenin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. “Độc lập” là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, tức là phải “tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi”; nhưng “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin”. “Độc lập” theo con đường cách mạng triệt để là “làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”, “nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do, bình đẳng giả dối”. “Độc lập” ở Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân… xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hoà và thống nhất độc lập”. “Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc ” mà phải gắn liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối thượng. Trong Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945), Hồ Chủ tịch nói rõ “ Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (10/1/1946), Người lý giải: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. “Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là nói đến người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng. “Tự do” và “Hạnh phúc” cơ bản nhất, tối thiểu nhất theo cách nói của Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; người dân từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và cống hiến… Điều đó trong chế độ dân chủ cộng hòa thì mỗi người dân được pháp luật đảm bảo điều kiện trong việc tự cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính độc lập cá nhân và phát triển toàn diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại phúc lợi xã hội cho con người trở thành quyền công dân, mỗi người dân và toàn xã hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chung. Như thế ta hiểu tại sao 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” cần có gạch nối 3 từ không thể tách biệt, như là điều kiện và mục đích của nhau vậy. Kể từ năm 1945, đó là nhiệm vụ và quyền lợi của “ tất cả đồng bào Việt Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, chủng tộc, cùng nhau đoàn kết để giữ vững nền độc lập và mưu cầu hạnh phúc tự do”. Càng tiến xa hơn trong dòng chảy lịch sử, chúng ta càng thấy rõ tầm chiến lược nhưng rất thiết thực của mục tiêu-đích đến-khát vọng của dân tộc, dân quyền và dân sinh; càng hiểu thêm bản Tuyên ngôn Độc lập được mở đầu bằng “Lời bất hủ”: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; càng hiểu thấu đời người – như Chủ tịch Hồ Chí Minh “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Và cả 8 mục tiêu chung trong Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc tháng 9/2000 (xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; đạt phổ cập giáo dục tiểu học; tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ; giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ em; tăng cường sức khỏe bà mẹ; phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; bảo đảm bền vững về môi trường; thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển) suy cho cùng cũng vẫn không ngoài 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” trong di sản Hồ Chí Minh./.
Thiền sư Tuệ Tĩnh Đại danh y của nền y học cổ truyền dân tộc Tuệ Tĩnh là người đặt nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam với quan điểm chữa bệnh rõ ràng, nỗ lực nâng cao sức khỏe nhân dân. Nhờ những đóng góp quan trọng đó ông được phong làm ông tổ ngành thuốc Nam. Các bộ sách Hồng Nghĩa tư giác y thư và Nam Dược thần hiệu mà thiền sư để lại không chỉ có ý nghĩa lịch sử to lớn mà có vai trò quan trọng đối với nền y học cũng như văn học dân tộc. Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, biệt hiệu là Hồng Nghĩa sinh năm 1330. Ông xuất thân trong một gia đình thuần nông thuộc làng quê nghèo ở Phủ Thượng Hồng, trấn Hải Đông (nay thuộc huyện Cẩm Giàng , tỉnh Hải Dương) . Đến năm 6 tuổi biến cố gia đình xảy đến, cậu bé Nguyễn Bá Tĩnh mồ côi cả cha lẫn mẹ nên được các nhà sư ở chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy cưu mang, nuôi ăn học. Đến năm Tân Mão 1351 khi vừa tròn 22 tuổi, ông đỗ Thái Học Sinh. Dù được vua Trần Dụ Tông mời ra làm quan nhưng Nguyễn Bá Tĩnh kiên quyết khước từ, xin quay lại con đường làm tu hành và làm thuốc. Năm Giáp Dần 1374, chàng trai trẻ tuổi Xứ Đông lại đỗ Hoàng Giáp nhưng vẫn chọn theo nghiệp nghiên cứu thuốc để trị bệnh cứu người. Nguyễn Bá Tĩnh nhiều lần từ chối ra làm quan Với sự tài giỏi và uyên bác về y học cổ truyền, năm 1385 Tuệ Tĩnh bị triều đình cống sang Trung Quốc, tại đây ông được phong là Đại y Thiền sư khi trị bệnh thành công cho vua và hoàng hậu triều Minh. Cũng kể từ đây, Nguyễn Bá Tĩnh không trở về quê hương mà tiếp tục nghiên cứu, cống hiến cho nền y học dân tộc. Ông qua đời tại Giang Nam, Trung Quốc sau đó nhưng chưa xác định được thời gian cụ thể. Thiền sư Tuệ tĩnh cho rằng, người làm y không chỉ chữa bệnh cứu người mà còn phải nghiên cứu, viết viết sách để lưu truyền những bài thuốc hữu ích đến nhân dân. Ông xây dựng một quan điểm y học độc lập, khác biệt so với những thầy thuốc cùng thời. Đây là quan điểm xuyên suốt sự nghiệp cứu người của Tuệ Tĩnh. Không chỉ chữa bệnh, tìm kiếm thêm những bài thuốc mới, vị đại danh y này còn dạy nhân dân trồng thuốc, cách chăm sóc sức khỏe và phòng tránh bệnh tật. Đây được xem là quan điểm vô cùng tiến bộ khi con người chủ động phòng tránh bệnh tật, sử dụng thế mạnh vốn có về cây thuốc Nam để tăng cường sức khỏe. Tuệ Tĩnh luôn đề cao giá trị của những vị thuốc Nam Trong suốt sự nghiệp, danh y Tuệ Tĩnh luôn đánh giá cao vai trò chữa bệnh của các vị thuốc Nam. Các bài thuốc của ông sử dụng 630 vị thuốc để chữa nhiều chứng bệnh khác nhau như: Lao lực, hỏa tích, trúng độc, hóa đàm, thanh nhiệt… Theo nhiều nhà sử học và danh y, quan điểm của Thiền Sư Tuệ Tĩnh trong chữa bệnh không chỉ thể hiện y đức của người thầy thuốc mà còn xuất phát từ chính lòng yêu nước, thương dân. Bên cạnh các bài thuốc sắc nấu, ông còn dày công nghiên cứu nhiều phương pháp mới như xoa bóp, bấm huyệt, châm cứu, hơ, xông,… kiên quyết bài trừ tư tưởng mê tín dị đoan không tin vào thuốc. Đây là quan điểm vô cùng tiến bộ so với thời đại mà ông đang sống. Trong hơn 10 thế kỷ qua, những quan điểm hành nghề của Thiền Sư Tuệ Tĩnh vẫn còn được lưu truyền. Thậm chí, nó đã trở thành kim chỉ nam cho hoạt động khám chữa bệnh, nghiên cứu các bài thuốc sau này của nhiều danh y nước Việt. Với quan điểm không chữa bệnh thụ động, thiền sư Tuệ Tĩnh đã chủ động đi sâu nghiên cứu và tìm ra các phương pháp phòng chống bệnh tật hiệu quả. Ông nhận thức được tầm quan trọng của tập luyện trong nâng cao sức khỏe, hướng dẫn người dân tránh ưu phiền để cơ thể dẻo dai. Thiền sư cho rằng nên chủ động trong phòng tránh bệnh tật Bên cạnh các bài thuốc Nam, danh y Tuệ Tĩnh còn chỉ ra phương pháp dưỡng sinh cực hiệu quả: Trước khi bị cống sang Trung Quốc, danh y Tuệ Tĩnh đã không ngừng sưu tầm các kinh nghiệm chữa bệnh, trồng cây thuốc và đào tạo học trò. Ông còn tích cực tổng hợp những bài thuốc quý của y học cổ truyền dân tộc trong các bộ sách nhằm lưu truyền cho thế hệ sau. Theo Giáo sư Phan Huy Lê, thơ văn chữ Nôm thời Trần tương đối hiếm, nếu các ghi chép là của ông thì quả thực ông còn có đóng góp lớn cho cả lịch sử và văn học. Theo các tài liệu về y dược và lịch sử ghi chép lại, vị danh y lỗi lạc Xứ Đông đã để lại hai bộ sách gồm: Hồng Nghĩa giác tư y thư ghi chép công dụng của hơn 630 vị thuốc cùng 13 phương gia giảm. Bộ sách thiên về y lý, chẩn đoán và mạch lọc chia thành 2 quyển: Vị danh y có nhiều đóng góp quan trọng cho nền y học dân tộc Hồng Nghĩa giác tư y thư được in lần đầu năm 1717 dưới thời vua Lê Dụ Tông, sau đó được tái bản vào các năm 1723 và 1725. Nam Dược Thần Hiệu gồm 11 cuốn sách đề cập tới 580 vị thuốc ở trong nước. Trong đó, quyển đầu nói về dược thành phần dược tính của 119 vị thuốc Nam, những vị thuốc này lại được chia thành 3873 bài thuốc khác nhau, chủ trị 182 chứng bệnh ở 10 khoa. 10 cuốn còn lại nói về các khoa trị bệnh tương ứng. Được in lần đầu vào năm 1972 bởi Nhà xuất bản Y học, cho đến nay Nam Dược Thần Hiệu vẫn được xem là dược điển không thể thiếu của các thầy thuốc. Nó lại càng quan trọng hơn đối với những người mới theo nghề “bốc thuốc cứu người”. Ngoài 2 tác phẩm trên, Thiền sư còn để lại nhiều tập thơ ghi chép các bài thuốc như: Đền Bia thờ danh y Tuệ Tĩnh được nhân dân xây dựng tại chùa Giám thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đền thờ ông tổ ngành thuốc Nam được trùng tu vào các năm 1936 và 2007. Đền thờ đại danh y Tuệ Tĩnh Cụm di tích đền Bia được xây dựng theo kiến trúc tiền nhất hậu đinh với 3 tòa: Trong đó, tòa Hậu cung là nơi thờ tượng Thiền Sư Tuệ Tĩnh với hình ảnh một bức tượng đồng lớn đang ngồi trên ngai, mắt sáng, râu dài, hai tay đang chắp trước ngực. Đây là hình ảnh tượng trưng cho y đức, sự nhân từ của một vị thánh y hết lòng vì nước vì dân. Bên cạnh đền Bia ở Hải Dương, nhân dân ở huyện Thủy Nguyên – Hải Phòng còn yêu quý và lập đền thờ, sắc phong là Thượng thượng đẳng phúc thần (từ năm 1972). Với những đóng góp quan trọng cho nền y học dân tộc, Tuệ Tĩnh xứng đáng được mệnh danh là ông tổ của ngành thuốc Nam. Hy vọng với những thông tin mà bài viết cung cấp, bạn đọc đã hiểu thêm về nền y học cổ truyền cũng như tiểu sử, sự nghiệp của vị lương y nổi tiếng uyên bác thời Trần.
Zen Master Tue Tinh Great physician of traditional national medicine Tue Tinh is the person who laid the foundation for Vietnamese traditional medicine with a clear view of healing and efforts to improve people's health. Thanks to those important contributions, he was awarded the title of father of the Vietnamese medicine industry. The book sets of Hong Nghia Tu Giac Tu Giac Y Thu and Nam Duoc Divine Effect that the Zen master left behind not only have great historical significance but also play an important role in medicine as well as national literature. Tue Tinh's real name is Nguyen Ba Tinh, nickname Hong Nghia, born in 1330. He came from a farming family in a poor village in Phu Thuong Hong, Hai Dong town (now part of the district). Cam Giang , conscious Hai Duong) . At the age of 6, a family incident occurred. The boy Nguyen Ba Tinh lost both parents, so he was cared for and educated by monks at Hai Trieu Pagoda and Giao Thuy Pagoda. In the year of Tan Mao 1351, when he was just 22 years old, he passed the Thai Hoc Sinh exam. Even though King Tran Du Tong invited him to become a mandarin, Nguyen Ba Tinh firmly refused and returned to his path of practice and medicine. In the Year of the Tiger, 1374, the young man Xu Dong passed the Hoang Giap exam but still chose to pursue a career in medicine research to treat diseases and save people. Nguyen Ba Tinh repeatedly refused to become an official With his talent and erudition in traditional medicine, in 1385, Tue Tinh was sent to China as tribute by the court, where he was awarded the title of Great Zen Master when he successfully treated the Ming Dynasty king and queen. From now on, Nguyen Ba Tinh did not return to his homeland but continued to research and contribute to traditional medicine. He died in Jiangnan, China later but the specific time has not been determined. Zen Master Tue Tinh believes that physicians not only cure diseases and save people, but also research and write books to pass on useful remedies to the people. He built an independent medical perspective, different from other physicians of his time. This is the viewpoint throughout Tue Tinh's life-saving career. Not only did he cure diseases and search for new remedies, this famous physician also taught people how to grow medicine, how to take care of their health and prevent diseases. This is considered an extremely progressive viewpoint when people proactively prevent diseases and use the inherent strengths of traditional medicinal plants to improve health. Tue Tinh always appreciates the value of traditional Vietnamese medicines Throughout his career, famous physician Tue Tinh always appreciated the healing role of traditional Chinese medicine. His prescriptions use 630 herbs to treat many different diseases such as: labor, fire, poisoning, phlegm, heat clearing... According to many historians and famous physicians, Zen Master Tue Tinh's views on healing not only reflect the physician's medical ethics but also stem from his patriotism and love for the people. Besides cooking decoctions, he also diligently researched many new methods such as massage, acupressure, acupuncture, steaming, inhalation, etc., resolutely eliminating the superstitious ideology of not believing in medicine. This is an extremely progressive viewpoint compared to the era in which he lived. Over the past 10 centuries, the practicing views of Zen Master Tue Tinh have still been passed down. It has even become a guideline for medical examination and treatment activities and future research of medicinal remedies by many famous Vietnamese physicians. With the view of not passively treating diseases, Zen master Tue Tinh has actively researched and found effective disease prevention methods. He is aware of the importance of exercise in improving health, guiding people to avoid worries to keep their bodies supple. Zen masters believe that we should be proactive in preventing diseases Besides traditional herbal remedies, famous physician Tue Tinh also points out extremely effective nourishing methods: Before being sent to China, famous physician Tue Tinh constantly collected experiences in treating diseases, growing medicinal plants and training students. He also actively synthesizes valuable traditional medicine recipes in books to pass on to future generations. According to Professor Phan Huy Le, Nom poetry during the Tran Dynasty is relatively rare. If the notes are his, he would indeed have made a great contribution to both history and literature. According to medical and historical documents, the famous physician from the East left behind two sets of books including: Hong Nghia Giac's medical book records the uses of more than 630 medicinal herbs with 13 recipes. The book series focuses on medicine, diagnosis and filtering circuits divided into 2 volumes: The famous physician made many important contributions to traditional medicine Hong Nghia Giac Tu Y Thu was first printed in 1717 under the reign of King Le Du Tong, then republished in 1723 and 1725. Nam Duoc Than Hieu includes 11 books mentioning 580 domestic medicines. In particular, the first book talks about the medicinal ingredients and medicinal properties of 119 Southern medicines. These medicines are divided into 3873 different remedies, treating 182 diseases in 10 departments. The remaining 10 books talk about the respective medical departments. First printed in 1972 by the Medical Publishing House, up to now Nam Duoc Than Hieu is still considered an indispensable pharmacopoeia for physicians. It is even more important for those new to the profession of "delivering medicine to save lives". In addition to the above two works, the Zen Master also left behind many poetry collections recording medicinal remedies such as: The stele temple worshiping famous physician Tue Tinh was built by the people at Giam pagoda in Cam Son commune, Cam Giang district, Hai Duong province. The temple worshiping the founder of the traditional medicine industry was restored in 1936 and 2007. The temple worships the great physician Tue Tinh The Stele Temple relic cluster was built according to the first and last architecture with 3 buildings: In particular, the Harem building is the place to worship the statue of Zen Master Tue Tinh with the image of a large bronze statue sitting on a throne, bright eyes, long beard, and hands clasped in front of his chest. This is an image that symbolizes the medical ethics and kindness of a saint who wholeheartedly serves the country and the people. Besides the Stele Temple in Hai Duong, people in Thuy Nguyen district - Hai Phong also love and set up temples, ordained as Thuong Thuong Phuc Than (since 1972). With important contributions to traditional medicine, Tue Tinh deserves to be known as the father of the Vietnamese medicine industry. Hopefully with the information provided by the article, readers will understand more about traditional medicine as well as the biography and career of the famous and learned physician of the Tran Dynasty.
Đánh thức giá trị di chỉ khảo cổ học Bài & ảnh: TUẤN SƠN 10 năm trở lại đây, tỉnh Bắc Kạn phát hiện liên tiếp các di chỉ khảo cổ học có niên đại hàng chục nghìn năm với nhiều di vật của người tiền sử trong những hang động trên núi đá vôi. Những phát hiện này đã thay đổi cách nhìn của giới khoa học về sự tồn tại của người tiền sử ở vùng đất này. Thế nhưng, sau khi phát hiện, tất cả những di chỉ này vẫn “ngủ yên”… Giá trị to lớn Từ năm 2011 đến nay, các nhà khảo cổ học của Viện Khảo cổ học Việt Nam đã liên tiếp phát hiện các di tích khảo cổ ở nhiều hang động trên núi đá vôi tại Bắc Kạn. Năm 2013, Viện phối hợp Bảo tàng Bắc Kạn khai quật di tích người tiền sử tại hang Nà Mò, thôn Nà Cà, xã Hương Nê, huyện Ngân Sơn, phát hiện hàng trăm di vật, chủ yếu là công cụ lao động. Ngoài ra còn tìm thấy đồ gốm thô dày nguyên thủy… Đặc biệt chú ý là đã phát hiện được bốn ngôi mộ ở vị trí sâu nhất của tầng văn hóa được đánh dấu bằng nhiều tảng đá xếp cạnh nhau. Các nhà khảo cổ học khẳng định hang Nà Mò là một di tích cư trú của nhiều thế hệ cư dân nguyên thủy. Trong đó, lớp cư trú sớm nhất thuộc cư dân văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn muộn có niên đại cách nay khoảng 6.500 – 7.000 năm. Lớp cư trú muộn thuộc giai đoạn hậu kỳ đá mới – sơ kỳ kim khí cách nay từ 3.500 – 4.000 năm. Mới đây nhất, tháng 7-2020, Bảo tàng phối hợp Viện khảo sát một số hang động nằm trong vùng lõi Vườn Quốc gia Ba Bể, phát hiện nhiều di vật thể hiện dấu tích, sinh hoạt của người tiền sử. Tại hang Thẳm Kít đã phát hiện 54 di vật đá gồm các loại hình công cụ: chặt thô, mũi nhọn, hình bầu dục, chày nghiền, công cụ mảnh tước, rìa lưỡi ngang… Bước đầu xác định đây là di tích cư trú của người tiền sử, thuộc giai đoạn hậu kỳ đá cũ, cách nay gần 20 nghìn năm. Phó Trưởng phòng Hành chính – Trưng bày, sưu tầm (Bảo tàng tỉnh Bắc Kạn) Hoàng Văn Hạnh cho biết, chín cuộc thám sát, khảo sát, khai quật đã phát hiện nhiều tầng di tích, di vật quan trọng, chứng minh rõ nét hơn về lịch sử phát triển người cổ ở Bắc Kạn. Trước đây, các nhà khảo cổ cho rằng văn hóa khảo cổ Bắc Sơn (được phát hiện đầu tiên ở vùng Bắc Sơn, Võ Nhai, Thái Nguyên) có giới hạn niên đại khoảng từ 7.000 – 11 nghìn năm cách ngày nay. Tuy nhiên, từ khai quật ở hang Thẳm Mò, giới chuyên môn đã chứng minh giới hạn niên đại này mở rộng từ 5.000 – 11 nghìn năm cách ngày nay. Tại hang Thẳm Hang, xã Đổng Xá, huyện Na Rì , dù mới chỉ đào thám sát 4 m2 nhưng với di vật đã phát hiện, các nhà khảo cổ ước tính được từ cách đây 10 nghìn năm, người cổ Bắc Sơn đã có mặt ở Bắc Kạn. Niên đại văn hóa ở hang Thẳm Hang đứng thứ tư trong số các niên đại văn hóa Bắc Sơn trên cả nước. Ngoài ra, những phát hiện khảo cổ mới đây tại vùng lõi Vườn quốc gia Ba Bể đã phát lộ dần về thời điểm hình thành hồ Ba Bể trên núi đá vôi. Tại động Puông, các nhà khảo cổ tìm thấy di vật vỏ ốc nước ngọt niên đại từ 8.000 – 9.000 năm cách ngày nay, chứng tỏ hồ Ba Bể được hình thành trong giai đoạn này. Giá trị của những di chỉ này rất to lớn, riêng di chỉ hang Thẳm Mò đã được công nhận là di chỉ cấp quốc gia. Khó khăn trong bảo tồn, phát huy Hàng loạt di chỉ phát lộ nhưng sau đó tất cả không được bảo tồn, phát huy, vẫn “ngủ yên” trong rừng già, không được trông coi, bảo vệ. Di chỉ hang Thẳm Mò sau khai quật, được công nhận cấp quốc gia nhưng đến nay chưa có bia ghi. Bảo tàng tỉnh Bắc Kạn mới chỉ thực hiện được đến bước thông báo tới chính quyền xã tuyên truyền, vận động nhân dân biết, bảo vệ di chỉ này. Bảo tàng tỉnh được thành lập đã sáu năm, được xác định là đơn vị sẽ trưng bày, giới thiệu, quảng bá di vật khảo cổ, tiềm năng du lịch khảo cổ thì đến nay vẫn chật vật về trụ sở, không có không gian trưng bày. Qua các cuộc thám sát, khảo cổ, Bảo tàng tỉnh hiện lưu giữ hơn 2.000 hiện vật, chỉ được xếp sơ sài trong những chiếc tủ trong phòng làm việc tại trụ sở ở nhờ Trung tâm Văn hóa tỉnh. Không có không gian trưng bày trở thành một khó khăn rất lớn. Giám đốc bảo tàng Khánh Hoàn xót xa, có những lúc anh em trong đơn vị thấy mình chỉ như một cái kho trông coi, bảo quản di vật, hiện vật. Chức năng chính là sưu tầm để trưng bày, phát huy không thực hiện được từ khi thành lập tới nay. Đến nay, Bảo tàng tỉnh đang sở hữu “ba không”, gồm: không có cán bộ chuyên ngành khảo cổ học; không có không gian, địa điểm trưng bày và không đủ kinh phí để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ khảo cổ. Từ 2011 tới nay, trung bình mỗi năm, đơn vị chỉ được cấp 30 triệu đồng thực hiện thám sát, khai quật khảo cổ. PGS, TS Trình Năng Chung (Viện Khảo cổ học Việt Nam) cho biết, các tầng văn hóa ở vùng đất Bắc Kạn rất dày, có từ thời đồ đá và liên tục phát triển cho đến ngày nay. Chúng tôi rất tiếc vì nguồn kinh phí hạn hẹp nên không thể mở rộng thám sát, khai quật nhiều di chỉ có giá trị to lớn. Về lâu dài, những di chỉ này hoàn toàn có thể gắn phát triển du lịch hiệu quả. Do đó, rất cần thay đổi về nhận thức, sự quan tâm tới bảo tồn, phát huy những di chỉ này. Bên cạnh đó, hệ thống hang động núi đá vôi ở Bắc Kạn rất nhiều, nhiều hang mới được phát hiện. Tình trạng người dân vào hang phá lấy thạch nhũ, tìm kiếm đồ cổ, khai thác vàng trái phép vẫn diễn ra. Vì vậy, nguy cơ tác động, làm mất các tầng văn hóa khảo cổ nơi đây là không nhỏ.
Awaken the value of archaeological sites Article & photo: TUAN SON In the past 10 years, the province Bac Kan Continuous discovery of archaeological sites dating back tens of thousands of years with many relics of prehistoric people in caves on limestone mountains. These discoveries have changed the scientific community's view of the existence of prehistoric people in this land. However, after discovery, all these relics still "sleep peacefully"... Great value From 2011 to present, archaeologists from the Vietnam Institute of Archeology have continuously discovered archaeological relics in many caves on limestone mountains in Bac Kan. In 2013, the Institute coordinated with Bac Kan Museum to excavate prehistoric relics at Na Mo cave, Na Ca village, Huong Ne commune, Ngan Son district, discovering hundreds of relics, mainly working tools. In addition, original thick coarse ceramics were also found... Of particular note was the discovery of four tombs in the deepest position of the cultural layer marked by many stones placed next to each other. Archaeologists confirm that Na Mo cave is a relic of residence of many generations of original inhabitants. Among them, the earliest resident class belongs to the late Hoa Binh - Bac Son culture dating back about 6,500 - 7,000 years ago. The late settlement class belongs to the late Neolithic - early Metal period from 3,500 - 4,000 years ago. Most recently, in July 2020, the Museum coordinated with the Institute to survey a number of caves located in the core area of ​​Ba Be National Park, discovering many relics showing traces and activities of prehistoric people. At Tham Kit cave, 54 stone relics were discovered, including types of tools: rough chopping, pointed tips, oval shapes, grinding pestles, stripped tools, horizontal blade edges... Initially, this was determined to be a residential relic. of prehistoric people, belonging to the late Paleolithic period, nearly 20 thousand years ago. Deputy Head of Administration - Display and Collections (Bac Kan Provincial Museum) Hoang Van Hanh said that nine explorations, surveys, and excavations have discovered many important layers of relics and relics, clearly proving More details about the history of development of ancient people in Bac Kan. Previously, archaeologists believed that the Bac Son archaeological culture (first discovered in the Bac Son, Vo Nhai, Thai Nguyen regions) had a age limit of about 7,000 - 11 thousand years ago today. However, from excavations in Tham Mo cave, experts have proven that this age limit extends from 5,000 to 11 thousand years ago. At Tham Hang cave, Dong Xa commune, district Na Ri Although only 4 square meters have been excavated, with the discovered relics, archaeologists estimate that 10 thousand years ago, ancient Bac Son people were present in Bac Kan. The cultural chronology of Tham Hang cave ranks fourth among the Bac Son cultural chronologies across the country. In addition, recent archaeological discoveries in the core area of ​​Ba Be National Park have gradually revealed the time when Ba Be Lake was formed on limestone mountains. At Puong cave, archaeologists found freshwater snail shell relics dating from 8,000 - 9,000 years ago, proving that Ba Be Lake was formed during this period. The value of these sites is very great, especially the Tham Mo cave site has been recognized as a national site. Difficulties in preserving and promoting A series of sites were discovered, but later they were not preserved or promoted, still "sleeping" in the jungle, unattended and unprotected. Tham Mo cave site, after excavation, was recognized at the national level but up to now there is no inscription. The Bac Kan Provincial Museum has only reached the step of notifying the commune government to propagate and mobilize people to know and protect this site. The Provincial Museum was established six years ago and was determined to be the unit that will display, introduce, and promote archaeological relics and archaeological tourism potential. Up to now, it is still struggling to find a headquarters and has no space. display. Through surveys and archeology, the Provincial Museum currently stores more than 2,000 artifacts, only loosely arranged in cabinets in the office at the headquarters at the Provincial Cultural Center. Not having exhibition space becomes a huge difficulty. Director of Khanh Hoan Museum lamented that there were times when the members of the unit felt like they were just a warehouse to look after and preserve relics and artifacts. The main function is to collect for display and promotion, which has not been possible since its founding until now. Up to now, the Provincial Museum has "three nos", including: no staff specialized in archeology; There is no space or location for display and insufficient funds to effectively carry out archaeological tasks. From 2011 until now, on average each year, the unit has only been granted 30 million VND to conduct archaeological surveys and excavations. Associate Professor, Dr. Trinh Nang Chung (Vietnam Institute of Archeology) said that the cultural layers in Bac Kan land are very thick, dating back to the Stone Age and continuously developing until today. We regret that due to limited funding, we cannot expand our exploration and excavate many sites of great value. In the long term, these sites can be linked to effective tourism development. Therefore, it is necessary to change awareness and attention to preserving and promoting these sites. Besides, there are many limestone cave systems in Bac Kan, many newly discovered caves. The situation of people entering caves to destroy stalactites, search for antiques, and illegally mine gold still occurs. Therefore, the risk of impact and loss of archaeological cultural layers here is not small.
Thành tựu sau một thế kỷ của ngành khảo cổ học Việt Nam Những hiện vật tiêu biểu từ thời Tiền sử đến thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 – 18) được lựa chọn giới thiệu tới công chúng với ba nội dung chính: Báu vật Khảo cổ học thời Tiền sử; Báu vật Khảo cổ học Thời đại Kim khí và Báu vật Khảo cổ học thời kỳ lịch sử. Các hiện vật trưng bày được sắp xếp theo các chủ đề từ thời tiền sử đến thời kỳ phong kiến tại Việt Nam. Báu vật khảo cổ học thời tiền sử Việt Nam tập trung giới thiệu những hiện vật điển hình của một số di tích khảo cổ học tiền sử tiêu biểu thuộc các loại hình, như công cụ lao động, đồ trang sức bằng đá, đồ gốm… được tìm thấy tại các di chỉ thuộc nhiều vùng ở Việt Nam. Báu vật khảo cổ học thời kỳ kim khí Việt Nam với ba trung tâm văn hoá lớn là văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc, văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, văn hóa Đồng Nai ở miền Nam. Văn hoá Đông Sơn là nền văn hóa thời đại kim khí, có nguồn gốc bản địa, hội tụ và phát triển trực tiếp từ các nền văn hóa tiền Đông Sơn ở 3 lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam ở miền Bắc Việt Nam. Các hiện vật được trưng bày theo chủ đề này gồm vòng tay, hạt chuỗi, khuyên tai chất liệu đá thuộc văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu; trống đồng Sao vàng – Thanh Hóa, thạp đồng, chuông đồng thuộc văn hóa Đông Sơn; rìu đồng gót vuông, qua đồng, mũi tên đồng, lưỡi cày đồng, mai, cuốc, lưỡi hái… Một góc không gian trưng bày chuyên đề “Báu vật Khảo cổ học Việt Nam”. Du khách được chiêm ngưỡng Trống Sao Vàng (Đồng) của Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay 2.500 – 2.000 năm được tìm thấy tại Thị trấn Sao Vàng, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Bảo tàng Lịch sử quốc gia sưu tầm năm2006. Quan tài tìm thấy trong mộ cổ Châu Can có chiều dài từ 1,85 đến 2,32m, đường kính trên dưới 0,5m. Thân cây gỗ ở đây được bổ dọc, nửa dày làm thân, nửa mỏng làm nắp quan tài. Bên trong quan tài, người quá cố được đặt nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, hai tay đặt song song với thân người bọc bằng những lớp vải mỏng hoặc lớp lá chẻ nhỏ đan lại một cách cẩn thận. Đáng chú ý là ngôi mộ còn có nhiều đồ tùy táng chất liệu đồng: rìu xéo, giáo, lao, gương đồng…và những đồ dùng bằng tre, gỗ, gốm, thậm chí còn có cả hiện vật làm bằng vỏ quả bầu. Du khách được chiêm ngưỡng Lưỡi cày (Đồng) thuộc Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khỏang 2.500 – 2.000 năm được tìm thấy tại Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Lưỡi cày đồng là một laọi hình công cụ sản xuất thể hiện sự phát triển ở trình độ cao trong kỹ thuật luyện kim và canh tác nông nghhiệp của cư dân Đông Sơn. Trống Phú Phương I (Đồng). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khỏang 2.500 – 2.000 năm. Phát hiện tại xã Phú Phương, Ba Vì, Hà Nội, năm 1973. Du khách còn được ngắm nhìn bản in chi tiết mặt trống bên cạnh hiện vật. Du khách ngắm nhìn qua kính lúp Linga (Vàng). Thế kỷ 8 – 9 Cát Tiên, Lâm Đồng. Văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba trung tâm văn hoá khảo cổ thời đại kim khí Việt Nam. Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa bản địa tồn tại kéo dài từ thời hậu kỳ đồ đá mới đến đầu thời đại đồ sắt (cách ngày nay khoảng 3.000 – 2.000 năm). Các hiện vật được trưng bày tại đây gồm chuỗi hạt bằng thủy tinh tìm thấy tại Sa Huỳnh, Quảng Ngãi ; mộ chum có nắp khai quật tại di chỉ Đồng Cườm, Bình Định; đèn gốm, hạt chuỗi bằng thủy tinh… Khu vực trưng bày Văn hóa Đồng Nai giới thiệu một số hiện vật như nhóm hiện vật di tích Giồng Cá Vồ năm 1994 (gồm vòng tay, khuyên tai hai đầu thú bằng đá, mã não và thủy tinh), các loại hạt chuỗi, nhẫn, lá vàng là những hiện vật bằng vàng sớm nhất ở Việt Nam, các loại đồ gốm như nồi, cà ràng (chân kiềng), nhóm hiện vật di tích Long Sơn (Bà Rịa – Vũng Tàu), nhóm hiện vật di chỉ Gò Ô Chùa ( Long An ). Trưng bày cũng giới thiệu một số trống đồng Đông Sơn phát hiện tại Phú Chánh – Bình Dương, thể hiện sự giao lưu rộng rãi giữa các trung tâm văn hóa thời đại kim khí ở Việt Nam. Phần khảo cổ học lịch sử giới thiệu đến công chúng nhiều báu vật khảo cổ học Việt Nam 10 thế kỷ đầu công nguyên cùng các nền văn hoá như: Văn hoá Chăm Pa và di sản văn hoá thế giới Mỹ Sơn với các tác phẩm điêu khác đá với thể khối lớn thuộc các phong cách Trà Kiệu – Quảng Nam, Tháp Mẫm – Bình Định như sư tử đá, Garuda, asura sinh ra từ miệng Makara, phù điêu tu sĩ, bia Ponaga…; Văn hóa Óc Eo – Phù Nam với một số nhẫn vàng, mảnh vàng trang trí vishu, mảnh vàng trang trí mặt trời… có niên đại thế kỷ 3 – thế kỷ 6. Tượng động vật (Đồng). Văn hóa Đồng Nai, cách ngày nay khoảng 2.500 năm. Khai quật tại Dốc Chùa, Tân Uyên, Bình Dương năm 1977. Tượng đúc hình con vật 4 chân, đứng trên bệ hình chữ nhật. Đầu ngẩng cao, mõm dài, miệng rộng. Mũi tên (Đồng – đá). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay 2.500 – 2.000 năm Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Việc phát hiện kho mũi tên đồng, khuôn đúc mũi tên tại Cổ Loa và những chiếc nẫy nỏ tìm thấy trong các di tích văn hóa Đông Sơn là những bằng chứng vật chất giúp làm sáng tỏ huyền thoại lịch sử về thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hàng vạn mũi tên đồng cùng hàng trăm khuôn đúc tìm thấy tại đây đã minh chứng Cổ Loa là một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế lớn của nước Âu Lạc thời An Dương Vương. Mô hình nhà (Đất nung). Thế kỷ 1 – 3 Bezacier tìm thấy ở Cầu Giấy, Hà Nội, tháng 3/1936. Mô hình nhà là đồ tùy táng được tìm thấy phổ biến trong các ngôi mộ gạch giai đoạn lịch sử 10 thế kỷ đầu công nguyên. Đây là những tư liệu quý để tìm hiểu về đời sống xã hội, kiến trúc… thời kỳ này . Bình đồng (Đồng). Thế kỷ 1 – 3 Phú Xuyên, Hà Tây. Chiếc bình có phong cách trang trí, kỹ thuật đúc mang nhiều nét của văn hóa Đông Sơn, chứng minh cho sự bảo tồn văn hóa Đông Sơn cho đến tận những thế kỷ đầu Công nguyên. Đặc biệt, trên một nửa vành miệng có khắc một hàng minh văn gồm 14 chữ Hán: Luy Lâu hồ dung nhất thạch danh viết vạn tuế đệ vị thập lục. Nghĩa là: Bình Luy Lâu, chứa được một thạch, tên gọi là “Vạn Tuế”, là đồ vật thứ 16. Một góc trưng bày các tượng đá của Champa trong không gian chuyên đề “Báu vật Khảo cổ học Việt Nam”. Tượng sư tử (Đá cát), thuộc văn hóa Champa, thế kỷ 12-13 được khai quật tại Tháp Mẫm, Bình Định. Sư tử là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, là biểu tượng của vương quyền, quý tộc và sức mạnh. Theo truyền thuyết Ấn Độ, sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu. Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ biến là tư thế đứng. Trong các đền tháp Champa, tượng sư tử thường được gắn ở chân tháp. Shiva yogi (Đá cát), thuộc văn hóa Champa, thế kỷ 12-13. (Shiva trong hình ảnh nhà tu khổ hạnh).Khai quật tại Tháp Mẫm, Bình Định năm 2011. Shiva là vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo, với nhiều hình thức biểu hiện, hoá thân. Shiva yogi là thần Shiva trong hình thức của một nhà tu hành khổ hạnh đang ngồi thiền (yoga), tay lần tràng hạt, râu tóc mọc dài. Linga (Thạch anh). Thế kỷ 8 – 9 Cát Tiên, Lâm Đồng. Linga là loại hình đồ thờ, hầu hết những loại hình này đều được làm bằng chất liệu đá sa thạch, kích thước lớn và thường được đặt trước bệ thờ trong đền hoặc ở bên ngoài, khu vực cúng lễ của người dân. Những linga phát hiện tại Cát Tiên có kích thước nhỏ, làm bằng vàng và đá thạch anh là loại hình rất hiếm gặp. Chúng là các đồ quý được mang ra để cúng tế trong các dịp lễ tại các khu đền tháp. (Từ trái qua phải) Bình tỳ bà, Tượng phụ nữ quý tộc, Ấm Phượng (Gốm Hoa lam) Thười Lê sơ, thế kỷ 15. Tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Khai quật năm 1997-2000. Phần trưng bày báu vật khảo cổ học thời kỳ phong kiến sẽ giới thiệu những hiện vật là những dấu tích thành cổ như: ngói trang trí uyên ương (Hoa Lư – Ninh Bình), gạch xây thành… Đặc biệt giới thiệu những hiện vật tìm thấy tại 2 trung tâm di sản văn hóa thế giới là thành nhà Hồ (Thanh Hóa) và Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội). Điều đặc biệt là trưng bày này đã tổ chức thành công tại Đức từ năm 2016 – 2/2018, thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng Đức, giúp người dân Đức và châu Âu hiểu biết hơn về đất nước, lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam thông qua các tài liệu, hiện vật. Bên cạnh hoạt động trưng bày, sự hợp tác Việt – Đức còn được phối hợp thực hiện trên các lĩnh vực như: nghiên cứu học thuật, khai quật khảo cổ học, bảo quản, đào tạo, xuất bản…/.
Thành tựu sau một thế kỷ của ngành khảo cổ học Việt Nam Những hiện vật tiêu biểu từ thời Tiền sử đến thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17 – 18) được lựa chọn giới thiệu tới công chúng với ba nội dung chính: Báu vật Khảo cổ học thời Tiền sử; Báu vật Khảo cổ học Thời đại Kim khí và Báu vật Khảo cổ học thời kỳ lịch sử. Các hiện vật trưng bày được sắp xếp theo các chủ đề từ thời tiền sử đến thời kỳ phong kiến tại Việt Nam. Báu vật khảo cổ học thời tiền sử Việt Nam tập trung giới thiệu những hiện vật điển hình của một số di tích khảo cổ học tiền sử tiêu biểu thuộc các loại hình, như công cụ lao động, đồ trang sức bằng đá, đồ gốm… được tìm thấy tại các di chỉ thuộc nhiều vùng ở Việt Nam. Báu vật khảo cổ học thời kỳ kim khí Việt Nam với ba trung tâm văn hoá lớn là văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc, văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, văn hóa Đồng Nai ở miền Nam. Văn hoá Đông Sơn là nền văn hóa thời đại kim khí, có nguồn gốc bản địa, hội tụ và phát triển trực tiếp từ các nền văn hóa tiền Đông Sơn ở 3 lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam ở miền Bắc Việt Nam. Các hiện vật được trưng bày theo chủ đề này gồm vòng tay, hạt chuỗi, khuyên tai chất liệu đá thuộc văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu; trống đồng Sao vàng – Thanh Hóa, thạp đồng, chuông đồng thuộc văn hóa Đông Sơn; rìu đồng gót vuông, qua đồng, mũi tên đồng, lưỡi cày đồng, mai, cuốc, lưỡi hái… Một góc không gian trưng bày chuyên đề “Báu vật Khảo cổ học Việt Nam”. Du khách được chiêm ngưỡng Trống Sao Vàng (Đồng) của Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay 2.500 – 2.000 năm được tìm thấy tại Thị trấn Sao Vàng, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Bảo tàng Lịch sử quốc gia sưu tầm năm2006. Quan tài tìm thấy trong mộ cổ Châu Can có chiều dài từ 1,85 đến 2,32m, đường kính trên dưới 0,5m. Thân cây gỗ ở đây được bổ dọc, nửa dày làm thân, nửa mỏng làm nắp quan tài. Bên trong quan tài, người quá cố được đặt nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, hai tay đặt song song với thân người bọc bằng những lớp vải mỏng hoặc lớp lá chẻ nhỏ đan lại một cách cẩn thận. Đáng chú ý là ngôi mộ còn có nhiều đồ tùy táng chất liệu đồng: rìu xéo, giáo, lao, gương đồng…và những đồ dùng bằng tre, gỗ, gốm, thậm chí còn có cả hiện vật làm bằng vỏ quả bầu. Du khách được chiêm ngưỡng Lưỡi cày (Đồng) thuộc Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khỏang 2.500 – 2.000 năm được tìm thấy tại Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Lưỡi cày đồng là một laọi hình công cụ sản xuất thể hiện sự phát triển ở trình độ cao trong kỹ thuật luyện kim và canh tác nông nghhiệp của cư dân Đông Sơn. Trống Phú Phương I (Đồng). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khỏang 2.500 – 2.000 năm. Phát hiện tại xã Phú Phương, Ba Vì, Hà Nội, năm 1973. Du khách còn được ngắm nhìn bản in chi tiết mặt trống bên cạnh hiện vật. Du khách ngắm nhìn qua kính lúp Linga (Vàng). Thế kỷ 8 – 9 Cát Tiên, Lâm Đồng. Văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba trung tâm văn hoá khảo cổ thời đại kim khí Việt Nam. Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa bản địa tồn tại kéo dài từ thời hậu kỳ đồ đá mới đến đầu thời đại đồ sắt (cách ngày nay khoảng 3.000 – 2.000 năm). Các hiện vật được trưng bày tại đây gồm chuỗi hạt bằng thủy tinh tìm thấy tại Sa Huỳnh, Quảng Ngãi ; mộ chum có nắp khai quật tại di chỉ Đồng Cườm, Bình Định; đèn gốm, hạt chuỗi bằng thủy tinh… Khu vực trưng bày Văn hóa Đồng Nai giới thiệu một số hiện vật như nhóm hiện vật di tích Giồng Cá Vồ năm 1994 (gồm vòng tay, khuyên tai hai đầu thú bằng đá, mã não và thủy tinh), các loại hạt chuỗi, nhẫn, lá vàng là những hiện vật bằng vàng sớm nhất ở Việt Nam, các loại đồ gốm như nồi, cà ràng (chân kiềng), nhóm hiện vật di tích Long Sơn (Bà Rịa – Vũng Tàu), nhóm hiện vật di chỉ Gò Ô Chùa ( Long An ). Trưng bày cũng giới thiệu một số trống đồng Đông Sơn phát hiện tại Phú Chánh – Bình Dương, thể hiện sự giao lưu rộng rãi giữa các trung tâm văn hóa thời đại kim khí ở Việt Nam. Phần khảo cổ học lịch sử giới thiệu đến công chúng nhiều báu vật khảo cổ học Việt Nam 10 thế kỷ đầu công nguyên cùng các nền văn hoá như: Văn hoá Chăm Pa và di sản văn hoá thế giới Mỹ Sơn với các tác phẩm điêu khác đá với thể khối lớn thuộc các phong cách Trà Kiệu – Quảng Nam, Tháp Mẫm – Bình Định như sư tử đá, Garuda, asura sinh ra từ miệng Makara, phù điêu tu sĩ, bia Ponaga…; Văn hóa Óc Eo – Phù Nam với một số nhẫn vàng, mảnh vàng trang trí vishu, mảnh vàng trang trí mặt trời… có niên đại thế kỷ 3 – thế kỷ 6. Tượng động vật (Đồng). Văn hóa Đồng Nai, cách ngày nay khoảng 2.500 năm. Khai quật tại Dốc Chùa, Tân Uyên, Bình Dương năm 1977. Tượng đúc hình con vật 4 chân, đứng trên bệ hình chữ nhật. Đầu ngẩng cao, mõm dài, miệng rộng. Mũi tên (Đồng – đá). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay 2.500 – 2.000 năm Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Việc phát hiện kho mũi tên đồng, khuôn đúc mũi tên tại Cổ Loa và những chiếc nẫy nỏ tìm thấy trong các di tích văn hóa Đông Sơn là những bằng chứng vật chất giúp làm sáng tỏ huyền thoại lịch sử về thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hàng vạn mũi tên đồng cùng hàng trăm khuôn đúc tìm thấy tại đây đã minh chứng Cổ Loa là một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế lớn của nước Âu Lạc thời An Dương Vương. Mô hình nhà (Đất nung). Thế kỷ 1 – 3 Bezacier tìm thấy ở Cầu Giấy, Hà Nội, tháng 3/1936. Mô hình nhà là đồ tùy táng được tìm thấy phổ biến trong các ngôi mộ gạch giai đoạn lịch sử 10 thế kỷ đầu công nguyên. Đây là những tư liệu quý để tìm hiểu về đời sống xã hội, kiến trúc… thời kỳ này . Bình đồng (Đồng). Thế kỷ 1 – 3 Phú Xuyên, Hà Tây. Chiếc bình có phong cách trang trí, kỹ thuật đúc mang nhiều nét của văn hóa Đông Sơn, chứng minh cho sự bảo tồn văn hóa Đông Sơn cho đến tận những thế kỷ đầu Công nguyên. Đặc biệt, trên một nửa vành miệng có khắc một hàng minh văn gồm 14 chữ Hán: Luy Lâu hồ dung nhất thạch danh viết vạn tuế đệ vị thập lục. Nghĩa là: Bình Luy Lâu, chứa được một thạch, tên gọi là “Vạn Tuế”, là đồ vật thứ 16. Một góc trưng bày các tượng đá của Champa trong không gian chuyên đề “Báu vật Khảo cổ học Việt Nam”. Tượng sư tử (Đá cát), thuộc văn hóa Champa, thế kỷ 12-13 được khai quật tại Tháp Mẫm, Bình Định. Sư tử là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, là biểu tượng của vương quyền, quý tộc và sức mạnh. Theo truyền thuyết Ấn Độ, sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu. Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ biến là tư thế đứng. Trong các đền tháp Champa, tượng sư tử thường được gắn ở chân tháp. Shiva yogi (Đá cát), thuộc văn hóa Champa, thế kỷ 12-13. (Shiva trong hình ảnh nhà tu khổ hạnh).Khai quật tại Tháp Mẫm, Bình Định năm 2011. Shiva là vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo, với nhiều hình thức biểu hiện, hoá thân. Shiva yogi là thần Shiva trong hình thức của một nhà tu hành khổ hạnh đang ngồi thiền (yoga), tay lần tràng hạt, râu tóc mọc dài. Linga (Thạch anh). Thế kỷ 8 – 9 Cát Tiên, Lâm Đồng. Linga là loại hình đồ thờ, hầu hết những loại hình này đều được làm bằng chất liệu đá sa thạch, kích thước lớn và thường được đặt trước bệ thờ trong đền hoặc ở bên ngoài, khu vực cúng lễ của người dân. Những linga phát hiện tại Cát Tiên có kích thước nhỏ, làm bằng vàng và đá thạch anh là loại hình rất hiếm gặp. Chúng là các đồ quý được mang ra để cúng tế trong các dịp lễ tại các khu đền tháp. (Từ trái qua phải) Bình tỳ bà, Tượng phụ nữ quý tộc, Ấm Phượng (Gốm Hoa lam) Thười Lê sơ, thế kỷ 15. Tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Khai quật năm 1997-2000. Phần trưng bày báu vật khảo cổ học thời kỳ phong kiến sẽ giới thiệu những hiện vật là những dấu tích thành cổ như: ngói trang trí uyên ương (Hoa Lư – Ninh Bình), gạch xây thành… Đặc biệt giới thiệu những hiện vật tìm thấy tại 2 trung tâm di sản văn hóa thế giới là thành nhà Hồ (Thanh Hóa) và Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội). Điều đặc biệt là trưng bày này đã tổ chức thành công tại Đức từ năm 2016 – 2/2018, thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng Đức, giúp người dân Đức và châu Âu hiểu biết hơn về đất nước, lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam thông qua các tài liệu, hiện vật. Bên cạnh hoạt động trưng bày, sự hợp tác Việt – Đức còn được phối hợp thực hiện trên các lĩnh vực như: nghiên cứu học thuật, khai quật khảo cổ học, bảo quản, đào tạo, xuất bản…/.
Hải Thượng Lãn Ông Thân thế – Sự nghiệp – Thành tựu y học Hải Thượng Lãn Ông là vị danh y nổi tiếng, là người thầy y đức của nền y học Việt Nam. Không chỉ tinh thông y thuật, Lãn Ông còn là người học cao, hiểu biết sâu rộng về văn chương, dịch lý. Cũng chính vì sự uyên bác ấy, ông được vinh danh là Danh nhân Việt Nam thế kỷ XVIII và nhận được sự kính trọng của đông đảo nhân dân. Hải thượng lãn ông tên khai sinh là Lê Hữu Trác là danh y nổi tiếng sống ở thế kỷ XVIII. Ông sinh năm 1720 trong một gia đình gồm 7 người con tại một làng quê thuần nông ở huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương nay là huyện Yên Mỹ , tỉnh Hưng Yên . Do dòng tộc vốn có truyền thống khoa bảng nên ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã sớm chăm chỉ đèn sách để kế nghiệp cha (ông Lê Hữu Mưu – Đệ tam giáp Tiến sĩ) và ông nội. Năm Kỷ Mùi 1739, khi đang giữ chức Ngự Sử tước Bá trong triều đình, cha Lê Hữu Trác qua đời. Lúc này, ông phải rời kinh thành để về quê nhà vừa chăm nom gia đình vừa đèn sách mong nối nghiệp cha, tiến thân bằng con đường quan lộ. Nổi tiếng thông minh, được theo cha học từ sớm nên Lê Hữu Trác uyên bác ở nhiều lĩnh vực. Nhưng thế kỷ XVIII là giai đoạn xã hội vô cùng rối ren khi các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Một năm sau khi cha mất, Lãn Ông nghiên cứu binh thư, võ nghệ nhằm tòng quân. Ít lâu sau, Lê Hữu Trác nhận ra chiến tranh chỉ khiến con người thêm đau khổ, ông chán nản xuất ngũ trở về Hương Sơn với lý do chăm sóc mẹ già và cháu nhỏ và học nghề thuốc. Chân dung danh y Hải Thượng Lãn Ông Trong suốt sự nghiệp chữa bệnh cứu người, Lê Hữu Trác luôn tận tụy, hết lòng vì người bệnh, không quản ngại nắng mưa. Vì vậy ông rất được nhân dân yêu quý, người đời kính trọng. Sau nhiều năm cống hiến cho ngành y, Hải Thượng Lãn Ông qua đời năm 1791 tại Hà Tĩnh ở tuổi 71. Phần mộ của ông hiện ở khe nước cạnh chân núi Minh Từ huyện Hương Sơn. Sinh ra trong giai đoạn lịch sử đầy biến động, Hải Thượng Lãn Ông thấu hiểu nỗi cơ hàn của người dân khi vừa phải chịu nạn giặc, đói rét và bệnh tật. Sau khi rời quân ngũ (1746), Lãn Ông bị ốm nặng. Mặc dù đã được người nhà đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng 2-3 năm liền không khỏi. Không lâu sau đó, ông được người mách tìm đến thầy thuốc Trần Độc để chữa trị trong suốt 1 năm. Đây cũng là khoảng thời gian mà Lê Hữu Trác bắt đầu “bén duyên” với nghề y, ông nghiên cứu nhiều tác phẩm y học của Trung Hoa và nhanh chóng nắm bắt được chân lý chữa bệnh. Nhận thấy điều này, thầy thuốc Trần Độc đã bày tỏ mong muốn truyền nghề, đem hết những hiểu biết về y học cổ truyền dạy lại cho ông. Năm Bính Tý 1756, Lê Hữu Trác đến kinh thành để tìm thầy học thêm nhưng không tìm được thầy giỏi nên đành trở về Hương Sơn. Tại đây, ông vừa học tập nghiên cứu vừa chữa bệnh cứu người. Sau 10 năm, tên tuổi của Lê Hữu Trác nổi tiếng khắp vùng Hoan Châu, khi ấy người ta gọi ông là Hải Thượng Lãn Ông – ông lười Hải Thượng. Lê Hữu Trác là người thầy y đức, Danh nhân Việt Nam thế kỷ XVIII Năm 1782, Lãn Ông được triệu vào phủ Chúa Trịnh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Trong khoảng thời gian này, ông bị không ít ngự y ghen ghét đố kỵ nhưng không hề nảy sinh thù hận, chỉ cố gắng tập trung trị bệnh cho thế tử để mau chóng rời kinh thành. Ít lâu sau đó, Chúa Trịnh qua đời, thế tử Trịnh Cán nối ngôi. Nhân lúc triều đình có người tiến cử thái y mới, Lê Hữu Trác viện cớ tuổi già lui về quê. Sau nhiều năm tận tụy cống hiến cho nền y học dân tộc, Hải Thượng Lãn Ông đã nghiên cứu rất nhiều lý luận Trung y kinh điển. Đây là tiền đề cho các phương pháp chữa bệnh của ông, đồng thời làm giàu thêm hệ thống tinh hoa lý luận của Đông y, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền y học nước nhà. Nhờ tấm lòng y đức, sự tận tụy trong chữa bệnh cứu người Lê Hữu Trác rất được nhân dân xem trọng. Ông chính là người đúc kết tất cả các tinh hoa của y học cổ truyền Việt Nam và để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay. Nổi bật nhất là bộ sách Y tông tâm lĩnh và và Thượng Kinh Ký Sự. Y tông tâm lĩnh bao gồm 28 tập và 66 quyển với đầy đủ các mặt về y học: Y lý, Y thuật, Y đức, Dược và Di dưỡng. Tác phẩm kế thừa quan điểm chữa bệnh của Thiền Sư Tuệ Tĩnh “Nam dược trị Nam nhân” với sự bổ sung hơn 300 vị thuốc Nam, thu thập hơn 2854 bài thuốc lưu truyền trong dân gian. Một trang của cuốn Hải Thượng y tông tâm lĩnh Điều này giúp hậu thế hiểu rõ hơn về con người cũng như tài năng chữa bệnh của vị danh y dân tộc thế kỷ XVIII. Cho đến nay, bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh đã được cụ Hoàng Văn Hòe (một chiến sĩ của phong trào Cần Vương) dịch, xuất bản lần đầu trước năm 1970. Ngoài ra, bộ sách cũng có hệ thống bản khắc in trên gỗ thị từ thời vua Tự Đức đang được trưng bày tại Bảo tàng Bắc Ninh. Bản in gỗ có tất cả 2209 mặt, mỗi mặt có 16 dòng và mỗi dòng có 21 chữ. Bên cạnh Y tông tâm lĩnh với các nội dung xuất sắc về y học, Lê Hữu Trác còn thể hiện tài năng văn chương xuất sắc khi viết cuốn Thượng kinh ký sự dưới dạng nhật ký. Trong Thượng kinh ký sự viết bằng chữ Hán, ông đã ghi chép lại những sự kiện tại phủ Chúa khi được mời ra kinh thành chữa bệnh. Đây được xem là tác phẩm văn học quý giá, có nhiều ý nghĩa lịch sử khi phần nào khái quát được bối cảnh, đời sống xa hoa trụy lạc tại phủ Chúa Trịnh những năm cuối thế kỷ XVIII. Hải Thượng Lãn Ông vừa chu toàn chữa bệnh, vừa dạy dỗ môn đồ, vừa viết sách. Ông cho rằng y lý là bao la, nếu không ghi chép, xếp loại sẽ rất dễ tản mạn. Do vậy, bên cạnh những tác phẩm nổi tiếng kể trên, Lê Hữu Trác còn để lại nhiều tác phẩm như: Đây đều là những tác phẩm mang nhiều ý nghĩa về mặt văn học, lịch sử. Sự ra đời của chúng góp phần làm đa dạng thêm tinh hoa văn hóa dân tộc, mang đến nguồn tri thức quý cho thế hệ sau. Để tưởng nhớ công ơn và những đóng góp của vị danh y, nhân dân đã xây dựng khu di tích Hải Thượng Lãn Ông tại làng Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Khu tưởng niệm được tôn tạo vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó được trùng tư vào các năm 1990 và 2006. Đây là quần thể di tích nơi lưu giữ những tư liệu quý về Lê Hữu Trác, bao gồm các di tích: Ngoài ra, tại Hà Tĩnh người dân cũng xây dựng khu di tích Hải Thượng Lãn Ông với thiết kế hình vòng cung độc đáo, tổng chiều dài hơn 7km. Đây là nơi lưu giữ nhiều hiện vật quý liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp khám chữa bệnh của Danh Nhân việt Nam – Lê Hữu Trác. Đền thờ Lê Hữu Trác tại Hương Sơn, Hà Tĩnh Trong suốt những năm qua, đền thờ Hải Thượng Lãn Ông đã trở thành điểm du lịch tâm linh, là nơi cầu may mắn, sức khỏe, thành công mỗi dịp đầu năm. Điều làm nên sức hấp dẫn của hai khu di tích không phải bởi cảnh quan mà nó là nơi giúp hậu thế dõi theo, học tập tấm gương y đức của Lãn Ông. Hải Thượng Lãn Ông là đại danh y của nền y học dân tộc, ông là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Tuy đã sống cách đây gần 3 thế kỷ nhưng những tư tưởng, quan điểm chữa bệnh tiến bộ của ông vẫn là kim chỉ nam cho các thầy thuốc thế hệ sau, là tấm gương sáng cho chúng ta học tập noi theo.
Hải Thượng Lãn Ông Thân thế – Sự nghiệp – Thành tựu y học Hải Thượng Lãn Ông là vị danh y nổi tiếng, là người thầy y đức của nền y học Việt Nam. Không chỉ tinh thông y thuật, Lãn Ông còn là người học cao, hiểu biết sâu rộng về văn chương, dịch lý. Cũng chính vì sự uyên bác ấy, ông được vinh danh là Danh nhân Việt Nam thế kỷ XVIII và nhận được sự kính trọng của đông đảo nhân dân. Hải thượng lãn ông tên khai sinh là Lê Hữu Trác là danh y nổi tiếng sống ở thế kỷ XVIII. Ông sinh năm 1720 trong một gia đình gồm 7 người con tại một làng quê thuần nông ở huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương nay là huyện Yên Mỹ , tỉnh Hưng Yên . Do dòng tộc vốn có truyền thống khoa bảng nên ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã sớm chăm chỉ đèn sách để kế nghiệp cha (ông Lê Hữu Mưu – Đệ tam giáp Tiến sĩ) và ông nội. Năm Kỷ Mùi 1739, khi đang giữ chức Ngự Sử tước Bá trong triều đình, cha Lê Hữu Trác qua đời. Lúc này, ông phải rời kinh thành để về quê nhà vừa chăm nom gia đình vừa đèn sách mong nối nghiệp cha, tiến thân bằng con đường quan lộ. Nổi tiếng thông minh, được theo cha học từ sớm nên Lê Hữu Trác uyên bác ở nhiều lĩnh vực. Nhưng thế kỷ XVIII là giai đoạn xã hội vô cùng rối ren khi các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Một năm sau khi cha mất, Lãn Ông nghiên cứu binh thư, võ nghệ nhằm tòng quân. Ít lâu sau, Lê Hữu Trác nhận ra chiến tranh chỉ khiến con người thêm đau khổ, ông chán nản xuất ngũ trở về Hương Sơn với lý do chăm sóc mẹ già và cháu nhỏ và học nghề thuốc. Chân dung danh y Hải Thượng Lãn Ông Trong suốt sự nghiệp chữa bệnh cứu người, Lê Hữu Trác luôn tận tụy, hết lòng vì người bệnh, không quản ngại nắng mưa. Vì vậy ông rất được nhân dân yêu quý, người đời kính trọng. Sau nhiều năm cống hiến cho ngành y, Hải Thượng Lãn Ông qua đời năm 1791 tại Hà Tĩnh ở tuổi 71. Phần mộ của ông hiện ở khe nước cạnh chân núi Minh Từ huyện Hương Sơn. Sinh ra trong giai đoạn lịch sử đầy biến động, Hải Thượng Lãn Ông thấu hiểu nỗi cơ hàn của người dân khi vừa phải chịu nạn giặc, đói rét và bệnh tật. Sau khi rời quân ngũ (1746), Lãn Ông bị ốm nặng. Mặc dù đã được người nhà đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng 2-3 năm liền không khỏi. Không lâu sau đó, ông được người mách tìm đến thầy thuốc Trần Độc để chữa trị trong suốt 1 năm. Đây cũng là khoảng thời gian mà Lê Hữu Trác bắt đầu “bén duyên” với nghề y, ông nghiên cứu nhiều tác phẩm y học của Trung Hoa và nhanh chóng nắm bắt được chân lý chữa bệnh. Nhận thấy điều này, thầy thuốc Trần Độc đã bày tỏ mong muốn truyền nghề, đem hết những hiểu biết về y học cổ truyền dạy lại cho ông. Năm Bính Tý 1756, Lê Hữu Trác đến kinh thành để tìm thầy học thêm nhưng không tìm được thầy giỏi nên đành trở về Hương Sơn. Tại đây, ông vừa học tập nghiên cứu vừa chữa bệnh cứu người. Sau 10 năm, tên tuổi của Lê Hữu Trác nổi tiếng khắp vùng Hoan Châu, khi ấy người ta gọi ông là Hải Thượng Lãn Ông – ông lười Hải Thượng. Lê Hữu Trác là người thầy y đức, Danh nhân Việt Nam thế kỷ XVIII Năm 1782, Lãn Ông được triệu vào phủ Chúa Trịnh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Trong khoảng thời gian này, ông bị không ít ngự y ghen ghét đố kỵ nhưng không hề nảy sinh thù hận, chỉ cố gắng tập trung trị bệnh cho thế tử để mau chóng rời kinh thành. Ít lâu sau đó, Chúa Trịnh qua đời, thế tử Trịnh Cán nối ngôi. Nhân lúc triều đình có người tiến cử thái y mới, Lê Hữu Trác viện cớ tuổi già lui về quê. Sau nhiều năm tận tụy cống hiến cho nền y học dân tộc, Hải Thượng Lãn Ông đã nghiên cứu rất nhiều lý luận Trung y kinh điển. Đây là tiền đề cho các phương pháp chữa bệnh của ông, đồng thời làm giàu thêm hệ thống tinh hoa lý luận của Đông y, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền y học nước nhà. Nhờ tấm lòng y đức, sự tận tụy trong chữa bệnh cứu người Lê Hữu Trác rất được nhân dân xem trọng. Ông chính là người đúc kết tất cả các tinh hoa của y học cổ truyền Việt Nam và để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay. Nổi bật nhất là bộ sách Y tông tâm lĩnh và và Thượng Kinh Ký Sự. Y tông tâm lĩnh bao gồm 28 tập và 66 quyển với đầy đủ các mặt về y học: Y lý, Y thuật, Y đức, Dược và Di dưỡng. Tác phẩm kế thừa quan điểm chữa bệnh của Thiền Sư Tuệ Tĩnh “Nam dược trị Nam nhân” với sự bổ sung hơn 300 vị thuốc Nam, thu thập hơn 2854 bài thuốc lưu truyền trong dân gian. Một trang của cuốn Hải Thượng y tông tâm lĩnh Điều này giúp hậu thế hiểu rõ hơn về con người cũng như tài năng chữa bệnh của vị danh y dân tộc thế kỷ XVIII. Cho đến nay, bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh đã được cụ Hoàng Văn Hòe (một chiến sĩ của phong trào Cần Vương) dịch, xuất bản lần đầu trước năm 1970. Ngoài ra, bộ sách cũng có hệ thống bản khắc in trên gỗ thị từ thời vua Tự Đức đang được trưng bày tại Bảo tàng Bắc Ninh. Bản in gỗ có tất cả 2209 mặt, mỗi mặt có 16 dòng và mỗi dòng có 21 chữ. Bên cạnh Y tông tâm lĩnh với các nội dung xuất sắc về y học, Lê Hữu Trác còn thể hiện tài năng văn chương xuất sắc khi viết cuốn Thượng kinh ký sự dưới dạng nhật ký. Trong Thượng kinh ký sự viết bằng chữ Hán, ông đã ghi chép lại những sự kiện tại phủ Chúa khi được mời ra kinh thành chữa bệnh. Đây được xem là tác phẩm văn học quý giá, có nhiều ý nghĩa lịch sử khi phần nào khái quát được bối cảnh, đời sống xa hoa trụy lạc tại phủ Chúa Trịnh những năm cuối thế kỷ XVIII. Hải Thượng Lãn Ông vừa chu toàn chữa bệnh, vừa dạy dỗ môn đồ, vừa viết sách. Ông cho rằng y lý là bao la, nếu không ghi chép, xếp loại sẽ rất dễ tản mạn. Do vậy, bên cạnh những tác phẩm nổi tiếng kể trên, Lê Hữu Trác còn để lại nhiều tác phẩm như: Đây đều là những tác phẩm mang nhiều ý nghĩa về mặt văn học, lịch sử. Sự ra đời của chúng góp phần làm đa dạng thêm tinh hoa văn hóa dân tộc, mang đến nguồn tri thức quý cho thế hệ sau. Để tưởng nhớ công ơn và những đóng góp của vị danh y, nhân dân đã xây dựng khu di tích Hải Thượng Lãn Ông tại làng Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Khu tưởng niệm được tôn tạo vào cuối thế kỷ XVIII, sau đó được trùng tư vào các năm 1990 và 2006. Đây là quần thể di tích nơi lưu giữ những tư liệu quý về Lê Hữu Trác, bao gồm các di tích: Ngoài ra, tại Hà Tĩnh người dân cũng xây dựng khu di tích Hải Thượng Lãn Ông với thiết kế hình vòng cung độc đáo, tổng chiều dài hơn 7km. Đây là nơi lưu giữ nhiều hiện vật quý liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp khám chữa bệnh của Danh Nhân việt Nam – Lê Hữu Trác. Đền thờ Lê Hữu Trác tại Hương Sơn, Hà Tĩnh Trong suốt những năm qua, đền thờ Hải Thượng Lãn Ông đã trở thành điểm du lịch tâm linh, là nơi cầu may mắn, sức khỏe, thành công mỗi dịp đầu năm. Điều làm nên sức hấp dẫn của hai khu di tích không phải bởi cảnh quan mà nó là nơi giúp hậu thế dõi theo, học tập tấm gương y đức của Lãn Ông. Hải Thượng Lãn Ông là đại danh y của nền y học dân tộc, ông là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Tuy đã sống cách đây gần 3 thế kỷ nhưng những tư tưởng, quan điểm chữa bệnh tiến bộ của ông vẫn là kim chỉ nam cho các thầy thuốc thế hệ sau, là tấm gương sáng cho chúng ta học tập noi theo.
GS Tôn Thất Tùng Vị tổ sư của cắt gan có kế hoạch Trong bài tưởng niệm GS Tôn Thất Tùng in trên tờ Témoignage (Bằng chứng), tờ báo của giới Y học Pháp, BS J.-M. Krivine viết: Không ai có thể thay thế được GS Tôn Thất Tùng. Không một nhà phẫu thuật nào có tầm cỡ như ông trong thế hệ hiện nay… Đưa bệnh viện Phủ Doãn lên ngang tầm quốc tế Sau ngày Hà Nội giải phóng, ông xin thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế để chuyên tâm làm khoa học. Qua tranh cãi gay gắt, cuối cùng, phương pháp cắt gan của Tôn Thất Tùng được nhiều nước công nhận. Ông được tặng Huy chương Phẫu thuật quốc tế Lannelongue, được bầu làm viện sĩ nhiều viện hàn lâm, rồi được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Tên tuổi ông được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội , Huế , Đà Nẵng , Long An … Sau ngày Hà Nội giải phóng, 10/10/1954, GS Tôn Thất Tùng bắt tay cải tạo Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt – Đức) cũ kỹ thành môt bệnh viện hiện đại với 350 giường và 60 chuyên gia (một số đạt trình độ giáo sư theo tiêu chuẩn quốc tế). Nhiều khoa của bệnh viện đuổi kịp các nước tiên tiến khi đó. Năm 1958, ông thực hiện thành công ca mổ tim đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1965, cũng lần đầu tiên ở Việt Nam, ông sử dụng thành công máy tim-phổi nhân tạo trong khi mổ tim. Ở Sài Gòn thời đó, các bác sĩ Mỹ có đến biểu diễn phương pháp ấy, nhưng người Việt chưa ai áp dụng được. Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là việc ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, chứ chưa phải tự mình sáng chế, phát minh. Nhớ lại bốn năm 1935-1939, khi mới 23-27 tuổi, ông đã mổ hơn 200 lá gan người chết, từ đó, viết thành công trình được Đại học Paris tặng huy chương bạc: Cách phân chia các mạch máu trong gan. Đó thật sự là một khám phá, bởi vì, từ thời cổ đại Hy Lạp cho đến lúc ấy, chưa ai làm được. Nắm chắc các mạch máu trong gan rồi, ông đi đến một giả thuyết táo bạo: Rất có thể tìm tất cả các mạch máu trong gan, buộc chúng lại và sau đó mới cắt gan. Đấy chính là cách làm về sau được gọi là phương pháp cắt gan có kế hoạch mà ông là người thực hiện đầu tiên trên thế giới, là “cha đẻ” – như lời khẳng định của nhà phẫu thuật Pháp Jean-Michel Krivine, Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật Trung tâm Bệnh viện Émile-Roux, Paris. Ca mổ đầu tiên theo phương pháp do Tôn Thất Tùng đề xướng và được GS Mayer-May tán thành, diễn ra tại Hà Nội năm 1939, được viết thành báo cáo gửi tới Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris. Viện giao cho GS Funck-Brentano đọc và nhận xét. Tiếc thay, ông này công kích! “Ý tuởng của Tôn Thất Tùng quá mới – J.-M. Krivine viết – cho nên, lúc bấy giờ, chưa được cơ quan khoa học đầy quyền uy này thấu hiểu!” Thất vọng trước sự “đón tiếp” của “vị thánh” của ngành phẫu thuật thế giới thời ấy, Tôn Thất Tùng e ngại, không đụng dao mổ đến gan trong hơn 20 năm ròng rã! Một lần nữa, cái mới có thể bị bóp chết! Trở về Hà Nội giải phóng, không bị biệt lập về khoa học với thế giới bên ngoài, GS Tùng mới biết: Năm 1952, GS Pháp Lortat-Jacob đã thành công khi cắt gan có kế hoạch, bằng cách trước khi cắt, tìm buộc tất cả các cuống mạch máu ở ngoài gan. Ông lại cảm thấy hăm hở như xưa, muốn tiếp tục cái công việc bỏ dở từ năm 27 tuổi. Ngày 7/1/1961, ông cắt thuỳ gan phải của một ca ung thư sơ phát chỉ vẻn vẹn trong… 6 phút! Nếu làm theo phương pháp Lortat-Jacob, thì phải mất 3-4 giờ! Phương pháp của ông khác phương pháp Lortat-Jacob ở chỗ: Ông tìm các mạch máu và ống mật ở ngay trong gan (qua tổ chức gan ung thư bị ông bóp vỡ) để thắt lại trước khi mổ; trong khi Lortat-Jacob tìm ở ngoài gan, do vậy, lâu hơn nhiều. Sở dĩ ông có thể làm được như vậy là vì chính ông là người đầu tiên trên thế giới mô tả được rành rẽ các mạch máu và ống mật trong gan. Ông bèn cho công bố Một phương pháp cắt gan mới trên tờ The Lancet (Dao bầu) ở London, tờ tạp chí rất nổi tiếng trong ngành phẫu thuật thế giới, phát hành hàng triệu bản. Công trình gây chấn động dư luận. Chỉ sau một tháng, hơn 100 nhà phẫu thuật từ Mỹ đến Australia gửi thư sang Hà Nội, xin ông thêm tài liệu. Một số người viết bài dè dặt hoan nghênh. Nhưng nhiều người hoài nghi, kịch liệt phản đối! Đọc những lời bài bác của giới phẫu thuật phương Tây, không ít người Việt Nam vội cho là “phen này ông Tùng hố to” bởi vì đã làm một việc… “phản khoa học”! Một lần nữa, cái mới đứng trước nguy cơ bị bóp chết! Để có thể dành hết thời gian và tâm huyết cho phẫu thuật, GS Tùng xin thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế. Không nên nghe “tây” bảo sai, là bỏ cuộc! Về “cuộc đọ sức với cái cũ” năm ấy, GS Tùng kể lại: “Nhà phát minh, sáng chế phải là người can đảm rất mực, không hề biết nản chí là gì, không sợ có ý kiến chống đối! Con người ấy phải luôn kiên trì tiếp tục công việc của mình, phải dám tranh cãi, và phải thông thạo chuyên môn cũng như ngoại ngữ để tranh cãi với đồng nghiệp quốc tế. Không nên có mặc cảm tự ti, nghe “Tây” bảo sai là thôi, không dám làm nữa; hoặc nghe chung quanh có người không tin hay thậm chí cho mình “phản khoa học” là bỏ cuộc!” Giờ đây, ông vững tin ở mình hơn. Nếu năm 1939, ông chán nản do lời nhận xét bất công của GS Funck-Brentano, thì năm 1962, ông sẵn sàng “một mình một ngựa” lao vào cuộc luận chiến tưởng chừng không cân sức với những tên tuổi lớn. Và rồi cuối cùng, ông đã thắng. Những người công kích ông dữ dội nhất, một khi đã thấu hiểu phương pháp mới do ông đề xướng, liền “phục thiện”, quay ra ca ngợi ông hết lời, coi ông là “cha đẻ”, là “vị tổ sư” của phương pháp cắt gan có kế hoạch! Phương pháp cắt gan của Tôn Thất Tùng cũng được giới thiệu trong Encyclopédie médico – chirurgicale (Bách khoa thư nội thương – phẫu thuật) của Pháp; được đưa vào Obstetrics and Surgery’s Reader Digest (Tuyển chọn các tài liệu sản khoa và phẫu thuật) của Mỹ. Tạp chí Lyon chirurgicale (Lyon Phẫu thuật) viết: “Hai tinh hoa mà Đại học Y Hà Nội có thể tự hào là: 1) Lần đầu tiên trên thế giới nghiên cứu các mạch máu trong gan, và 2) Lần đầu tiên cắt gan có kế hoạch.” Cả hai tinh hoa đó đều là của Tôn Thất Tùng. Không có nhà phẫu thuật nào sánh ngang tầm cỡ Năm 1979, Nhà xuất bản Masson ở Paris in tiếp một cuốn sách khác của GS Tùng: Les Résections majeures et mineures du foie (Phẫu thuật lớn và nhỏ về gan). Trong tác phẩm này, ông tổng kết 715 ca ông đã cắt gan. Con số đó vượt xa kinh nghiệm của các nhà phẫu thuật gan khác trên thế giới: Sau ông là một nhà phẫu thuật Singapore cắt hơn 100 ca. Nhà phẫu thuật Pháp J.-M. Krivine nhận xét: “Với cuốn sách đó, kỹ thuật cắt gan của Tôn Thất Tùng đã dứt khoát được xác định thành quy trình, thao tác. Quả thật, người ta có thể nói ông đã “dân chủ hoá” phẫu thuật cắt gan, cho phép mọi nhà phẫu thuật đại cương, nếu chịu khó học tập phương pháp của ông, cũng sẽ không còn phải chịu bó tay trước những tổn thương nghiêm trọng ở gan.” GS Tôn Thất Tùng được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris, Viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Liên Xô, v.v. Ông được nhiều nước mời đến trình diễn phương pháp do chính ông đề xướng. Trong một đời người, có được một công trình kinh điển như thế, đã là vinh hạnh lắm rổi. Thế mà, Tôn Thất Tùng công bố tới 123 công trình lớn, nhỏ. Năm 1977, GS Tôn Thất Tùng được Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris tặng Huy chương Phẫu thuật quốc tế Lannelongue. Đây là loại huy chương đặt ra từ năm 1911 và 5 năm mới trao cho 1 người. Người ấy hiển nhiên phải là nhà phẫu thuật xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm ấy. Tôn Thất Tùng là người thứ 12 được tặng huy chương đó. Nhà phẫu thuật trứ danh của nước ta qua đời lúc 11 giờ 45 phút ngày 7/5/1982, thọ 70 tuổi. Trong bài tưởng niệm GS Tôn Thất Tùng – một nhà phẫu thuật lớn đã ra đi in trên tờ Témoignage (Bằng chứng), tờ báo của giới Y học Pháp, BS J.-M. Krivine viết: “Không ai có thể thay thế được GS Tôn Thất Tùng! Không một nhà phẫu thuật nào có tầm cỡ như ông trong thế hệ hiện nay (…). Nhưng chúng ta tin rằng ngành phẫu thuật Việt Nam sẽ tiếp tục nuôi dưỡng và phát huy nhiệt tình, tính nghiêm túc và trí tuệ cởi mở của bậc thầy khai sáng ấy.” Tôn Thất Tùng đã qua đời! Nhưng ông vẫn sống với trường phái phẫu thuật do ông sáng lập. Ông còn được thế giới trân trọng vì đã công bố những công trình mở đường cho việc nghiên cứu chất độc da cam/ dioxin. Năm 1984, GS Arthur H. Westing ở Stockholm cho in cuốn: Chất diệt cỏ trong chiến tranh – những hậu quả lâu dài về mặt sinh thái học và đối với cơ thể con người, với lời để từ: “Cuốn sách này được để tặng vong linh GS Tôn Thất Tùng (1912-1982)”. Tên tuổi ông còn lại mãi trên các đường phố Tôn Thất Tùng ở Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Long An…
GS Tôn Thất Tùng Vị tổ sư của cắt gan có kế hoạch Trong bài tưởng niệm GS Tôn Thất Tùng in trên tờ Témoignage (Bằng chứng), tờ báo của giới Y học Pháp, BS J.-M. Krivine viết: Không ai có thể thay thế được GS Tôn Thất Tùng. Không một nhà phẫu thuật nào có tầm cỡ như ông trong thế hệ hiện nay… Đưa bệnh viện Phủ Doãn lên ngang tầm quốc tế Sau ngày Hà Nội giải phóng, ông xin thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế để chuyên tâm làm khoa học. Qua tranh cãi gay gắt, cuối cùng, phương pháp cắt gan của Tôn Thất Tùng được nhiều nước công nhận. Ông được tặng Huy chương Phẫu thuật quốc tế Lannelongue, được bầu làm viện sĩ nhiều viện hàn lâm, rồi được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Tên tuổi ông được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội , Huế , Đà Nẵng , Long An … Sau ngày Hà Nội giải phóng, 10/10/1954, GS Tôn Thất Tùng bắt tay cải tạo Bệnh viện Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt – Đức) cũ kỹ thành môt bệnh viện hiện đại với 350 giường và 60 chuyên gia (một số đạt trình độ giáo sư theo tiêu chuẩn quốc tế). Nhiều khoa của bệnh viện đuổi kịp các nước tiên tiến khi đó. Năm 1958, ông thực hiện thành công ca mổ tim đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1965, cũng lần đầu tiên ở Việt Nam, ông sử dụng thành công máy tim-phổi nhân tạo trong khi mổ tim. Ở Sài Gòn thời đó, các bác sĩ Mỹ có đến biểu diễn phương pháp ấy, nhưng người Việt chưa ai áp dụng được. Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là việc ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, chứ chưa phải tự mình sáng chế, phát minh. Nhớ lại bốn năm 1935-1939, khi mới 23-27 tuổi, ông đã mổ hơn 200 lá gan người chết, từ đó, viết thành công trình được Đại học Paris tặng huy chương bạc: Cách phân chia các mạch máu trong gan. Đó thật sự là một khám phá, bởi vì, từ thời cổ đại Hy Lạp cho đến lúc ấy, chưa ai làm được. Nắm chắc các mạch máu trong gan rồi, ông đi đến một giả thuyết táo bạo: Rất có thể tìm tất cả các mạch máu trong gan, buộc chúng lại và sau đó mới cắt gan. Đấy chính là cách làm về sau được gọi là phương pháp cắt gan có kế hoạch mà ông là người thực hiện đầu tiên trên thế giới, là “cha đẻ” – như lời khẳng định của nhà phẫu thuật Pháp Jean-Michel Krivine, Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật Trung tâm Bệnh viện Émile-Roux, Paris. Ca mổ đầu tiên theo phương pháp do Tôn Thất Tùng đề xướng và được GS Mayer-May tán thành, diễn ra tại Hà Nội năm 1939, được viết thành báo cáo gửi tới Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris. Viện giao cho GS Funck-Brentano đọc và nhận xét. Tiếc thay, ông này công kích! “Ý tuởng của Tôn Thất Tùng quá mới – J.-M. Krivine viết – cho nên, lúc bấy giờ, chưa được cơ quan khoa học đầy quyền uy này thấu hiểu!” Thất vọng trước sự “đón tiếp” của “vị thánh” của ngành phẫu thuật thế giới thời ấy, Tôn Thất Tùng e ngại, không đụng dao mổ đến gan trong hơn 20 năm ròng rã! Một lần nữa, cái mới có thể bị bóp chết! Trở về Hà Nội giải phóng, không bị biệt lập về khoa học với thế giới bên ngoài, GS Tùng mới biết: Năm 1952, GS Pháp Lortat-Jacob đã thành công khi cắt gan có kế hoạch, bằng cách trước khi cắt, tìm buộc tất cả các cuống mạch máu ở ngoài gan. Ông lại cảm thấy hăm hở như xưa, muốn tiếp tục cái công việc bỏ dở từ năm 27 tuổi. Ngày 7/1/1961, ông cắt thuỳ gan phải của một ca ung thư sơ phát chỉ vẻn vẹn trong… 6 phút! Nếu làm theo phương pháp Lortat-Jacob, thì phải mất 3-4 giờ! Phương pháp của ông khác phương pháp Lortat-Jacob ở chỗ: Ông tìm các mạch máu và ống mật ở ngay trong gan (qua tổ chức gan ung thư bị ông bóp vỡ) để thắt lại trước khi mổ; trong khi Lortat-Jacob tìm ở ngoài gan, do vậy, lâu hơn nhiều. Sở dĩ ông có thể làm được như vậy là vì chính ông là người đầu tiên trên thế giới mô tả được rành rẽ các mạch máu và ống mật trong gan. Ông bèn cho công bố Một phương pháp cắt gan mới trên tờ The Lancet (Dao bầu) ở London, tờ tạp chí rất nổi tiếng trong ngành phẫu thuật thế giới, phát hành hàng triệu bản. Công trình gây chấn động dư luận. Chỉ sau một tháng, hơn 100 nhà phẫu thuật từ Mỹ đến Australia gửi thư sang Hà Nội, xin ông thêm tài liệu. Một số người viết bài dè dặt hoan nghênh. Nhưng nhiều người hoài nghi, kịch liệt phản đối! Đọc những lời bài bác của giới phẫu thuật phương Tây, không ít người Việt Nam vội cho là “phen này ông Tùng hố to” bởi vì đã làm một việc… “phản khoa học”! Một lần nữa, cái mới đứng trước nguy cơ bị bóp chết! Để có thể dành hết thời gian và tâm huyết cho phẫu thuật, GS Tùng xin thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế. Không nên nghe “tây” bảo sai, là bỏ cuộc! Về “cuộc đọ sức với cái cũ” năm ấy, GS Tùng kể lại: “Nhà phát minh, sáng chế phải là người can đảm rất mực, không hề biết nản chí là gì, không sợ có ý kiến chống đối! Con người ấy phải luôn kiên trì tiếp tục công việc của mình, phải dám tranh cãi, và phải thông thạo chuyên môn cũng như ngoại ngữ để tranh cãi với đồng nghiệp quốc tế. Không nên có mặc cảm tự ti, nghe “Tây” bảo sai là thôi, không dám làm nữa; hoặc nghe chung quanh có người không tin hay thậm chí cho mình “phản khoa học” là bỏ cuộc!” Giờ đây, ông vững tin ở mình hơn. Nếu năm 1939, ông chán nản do lời nhận xét bất công của GS Funck-Brentano, thì năm 1962, ông sẵn sàng “một mình một ngựa” lao vào cuộc luận chiến tưởng chừng không cân sức với những tên tuổi lớn. Và rồi cuối cùng, ông đã thắng. Những người công kích ông dữ dội nhất, một khi đã thấu hiểu phương pháp mới do ông đề xướng, liền “phục thiện”, quay ra ca ngợi ông hết lời, coi ông là “cha đẻ”, là “vị tổ sư” của phương pháp cắt gan có kế hoạch! Phương pháp cắt gan của Tôn Thất Tùng cũng được giới thiệu trong Encyclopédie médico – chirurgicale (Bách khoa thư nội thương – phẫu thuật) của Pháp; được đưa vào Obstetrics and Surgery’s Reader Digest (Tuyển chọn các tài liệu sản khoa và phẫu thuật) của Mỹ. Tạp chí Lyon chirurgicale (Lyon Phẫu thuật) viết: “Hai tinh hoa mà Đại học Y Hà Nội có thể tự hào là: 1) Lần đầu tiên trên thế giới nghiên cứu các mạch máu trong gan, và 2) Lần đầu tiên cắt gan có kế hoạch.” Cả hai tinh hoa đó đều là của Tôn Thất Tùng. Không có nhà phẫu thuật nào sánh ngang tầm cỡ Năm 1979, Nhà xuất bản Masson ở Paris in tiếp một cuốn sách khác của GS Tùng: Les Résections majeures et mineures du foie (Phẫu thuật lớn và nhỏ về gan). Trong tác phẩm này, ông tổng kết 715 ca ông đã cắt gan. Con số đó vượt xa kinh nghiệm của các nhà phẫu thuật gan khác trên thế giới: Sau ông là một nhà phẫu thuật Singapore cắt hơn 100 ca. Nhà phẫu thuật Pháp J.-M. Krivine nhận xét: “Với cuốn sách đó, kỹ thuật cắt gan của Tôn Thất Tùng đã dứt khoát được xác định thành quy trình, thao tác. Quả thật, người ta có thể nói ông đã “dân chủ hoá” phẫu thuật cắt gan, cho phép mọi nhà phẫu thuật đại cương, nếu chịu khó học tập phương pháp của ông, cũng sẽ không còn phải chịu bó tay trước những tổn thương nghiêm trọng ở gan.” GS Tôn Thất Tùng được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris, Viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Liên Xô, v.v. Ông được nhiều nước mời đến trình diễn phương pháp do chính ông đề xướng. Trong một đời người, có được một công trình kinh điển như thế, đã là vinh hạnh lắm rổi. Thế mà, Tôn Thất Tùng công bố tới 123 công trình lớn, nhỏ. Năm 1977, GS Tôn Thất Tùng được Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris tặng Huy chương Phẫu thuật quốc tế Lannelongue. Đây là loại huy chương đặt ra từ năm 1911 và 5 năm mới trao cho 1 người. Người ấy hiển nhiên phải là nhà phẫu thuật xuất sắc nhất thế giới trong 5 năm ấy. Tôn Thất Tùng là người thứ 12 được tặng huy chương đó. Nhà phẫu thuật trứ danh của nước ta qua đời lúc 11 giờ 45 phút ngày 7/5/1982, thọ 70 tuổi. Trong bài tưởng niệm GS Tôn Thất Tùng – một nhà phẫu thuật lớn đã ra đi in trên tờ Témoignage (Bằng chứng), tờ báo của giới Y học Pháp, BS J.-M. Krivine viết: “Không ai có thể thay thế được GS Tôn Thất Tùng! Không một nhà phẫu thuật nào có tầm cỡ như ông trong thế hệ hiện nay (…). Nhưng chúng ta tin rằng ngành phẫu thuật Việt Nam sẽ tiếp tục nuôi dưỡng và phát huy nhiệt tình, tính nghiêm túc và trí tuệ cởi mở của bậc thầy khai sáng ấy.” Tôn Thất Tùng đã qua đời! Nhưng ông vẫn sống với trường phái phẫu thuật do ông sáng lập. Ông còn được thế giới trân trọng vì đã công bố những công trình mở đường cho việc nghiên cứu chất độc da cam/ dioxin. Năm 1984, GS Arthur H. Westing ở Stockholm cho in cuốn: Chất diệt cỏ trong chiến tranh – những hậu quả lâu dài về mặt sinh thái học và đối với cơ thể con người, với lời để từ: “Cuốn sách này được để tặng vong linh GS Tôn Thất Tùng (1912-1982)”. Tên tuổi ông còn lại mãi trên các đường phố Tôn Thất Tùng ở Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Long An…
Nghiên cứu ứng dụng phương pháp địa tầng phân tập cho các trầm tích Cambri Trung – Ordovic Hạ ở Đông Bắc Việt Nam Trên thế giới nghiên cứu Địa tầng phân tập (Sequence stratigraphy) được các nhà địa chất, địa vật lý các nước Tây Âu, Mỹ và Canada tập trung nghiên cứu và áp dụng trong công tác tìm kiếm và thăm dò dầu khí một cách có hiệu quả như: Posamentier, Jervey và Vail (1988), Van Wagoner, Michum (1990), D. Emery và K.J. Myer (1996), Catuneanu O. (2007). Các kết quả đạt được đã đóng góp quan trọng trong việc xác định phức tập (sequence) dựa trên sự thay đổi mực nước biển toàn cầu và sự sắp xếp các đơn vị trầm tích cùng nguồn gốc theo không gian và theo thời gian. Trên nguyên tắc đó một loạt các đơn vị địa tầng phân tập được xác lập như phân tập (parasequence), nhóm phân tập (parasequence set), miền hệ thống trầm tích biển thấp (lowstand system tract), miền hệ thống trầm tích biển tiến (transgessive system tract) và miền hệ thống trầm tích biển cao (highstand system tract). Ở Việt Nam, từ những năm 1980 các nhà địa chất đã bắt đầu tiếp cận với hướng nghiên cứu địa tầng phân tập. Các đề tài, hội thảo về nghiên cứu địa tầng địa chấn, tướng đá cổ địa lý, chu kỳ trầm tích và tiến hóa trầm tích trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước biển (MNB) và chuyển động kiến tạo của trầm tích Kainozoi do các tác giả Việt Nam và thế giới tiến hành đã góp phần làm sáng tỏ bản chất của địa tầng phân tập. Tuy vậy, cho đến nay các ứng dụng phương pháp Địa tầng phâp tập được nghiên cứu đối với các trầm tích trước Kainozoi còn rất hạn chế, đặc biệt là các trầm tích Cambri trung – Ordovic hạ thì chưa có một công trình nghiên cứu nào được thực hiện. Trải quả gần 100 năm, những kết quả điều tra, nghiên cứu đã bước đầu làm sáng tỏ lịch sử phát triển địa chất giai đoạn Cambri giữa – Ordovic sớm ở Đông Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất trong việc phân chia các phân vị địa tầng thể hiện ở sự khác biệt về bề dày, tuổi, các quan hệ địa tầng cũng như cả về nội dung thạch địa tầng. Thực tiễn, công tác đo vẽ lập bản đồ địa chất 1: 50.000 và 1: 200.000 đã gặp khó khăn và không thống nhất trong phân chia và liên hệ địa tầng ở những khoảng địa tầng chưa tìm thấy hoặc không có hóa thạch. Đây là những tồn tại rất quan trọng cần giải quyết nhằm đảm bảo tính thống nhất quốc tế về địa chất và khoáng sản Việt Nam. Để giải quyết được những tồn tại này trong công tác địa tầng cần phải có những hướng tiếp cận với những phương pháp mới. Chính vì vậy nhóm nghiên cứu do Cơ quan chủ trì Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản phối hợp với Chủ nhiệm đề tài ThS. Nguyễn Đức Phong cùng thực hiện với mục tiêu Ứng dụng địa tầng phân tập nhằm làm sáng tỏ lịch sử tiến hóa các trầm tích Cambri trung – Ordovic hạ ở Đông Bắc Việt Nam. Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả sau: – Phân tích, lựa chọn mô hình địa tầng phân tập áp dụng phù hợp cho nghiên cứu trầm tích trầm tích Cambri trung – Ordovic hạ ở Đông Bắc Việt Nam. – Xác lập 10 tướng đá gồm: (1) Tướng cát bột kết, bột kết đa khoáng triều thấp, ven bờ biển nông; (2) Tướng đá vôi vụn sinh vật ven bờ biển nông; (3) Tướng đá vôi trứng cá gần bờ biển nông, thềm trong; (4) Tướng đá vôi kết cục-coprolit gần bờ biển nông, thềm trong; (5) Tướng đá vôi vụn nội bồn (intraclastic limestones) xa bờ biển nông, thềm trong; (6) Tướng đá vôi hạt mịn, đá vôi vi hạt, đá vôi đolomit xa bờ biển nông, thềm ngoài; (7) Tướng phiến sét giàu silit, sét vôi xa bờ biển nông, thềm ngoài; (8) Tướng cát kết, cát bột kết, bột cát kết đa khoáng nón phóng vật; (9) Tướng đá vôi hạt mịn, sét vôi xa bờ biển nông thềm ngoài; (10) Tướng sét silit hào sâu dạng aulacogen trên thềm lục địa thụ động. – Xác lập 6 cộng sinh tướng gồm: (1) Triều dưới sâu; (2) Triều dưới nông; (3) Gian triều thấp; (4) Bãi triều; (5) Gian triều cao và (6) Vũng vịnh kín – Xác lập 14 phức tập (S1 cp – S14 cp) ở vùng Đồng Văn – Mèo Vạc, 3 phức tập (S1 ph – S3 ph) ở vùng Vị Xuyên – thành phố Hà Giang và 4 phức tập (S1 ts – S4 ts) ở vùng Võ Nhai (Thái Nguyên). Ranh giới giữa các phức tập đều là bề mặt chỉnh hợp. – Bước đầu làm sáng tỏ lịch sử tiến hóa các trầm tích Cambri trung – Ordovic hạ ở Đông Bắc Việt Nam chủ yếu được khống chế bởi dao động mực nước biển toàn cầu và khu vực: + Vùng Đồng Văn – Mèo Vạc gồm 14 giai đoạn phát triển tương ứng với 14 chu kỳ dao động mực nước biển; + Vùng Vị Xuyên – thành phố Hà Giang gồm 3 giai đoạn phát triển tương ứng với 3 chu kỳ dao động mực nước biển. + Vùng Võ Nhai (Thái Nguyên) có 4 giai đoạn phát triển tương ứng với 4 chu kỳ dao động mực nước biển. – Phát hiện 03 điểm hóa thạch Răng nón thuộc hệ tầng Lutxia, 17 điểm hóa thạch Bọ ba thùy, Tay cuộn thuộc hệ tầng Chang Pung và 02 điểm hóa thạch Bút đá thuộc hệ tầng Thần Sa rất có giá trị định tuổi, đối sánh địa tầng, ý nghĩa cổ môi trường và cổ sinh thái. – Bước đầu làm sáng tỏ đặc điểm và phân bố thềm lục địa, thềm trong – đới ven bờ, giáp triều, biển vũng vịnh, đới thềm chuyển tiếp, thềm ngoài giúp khôi phục hoàn cảnh cổ địa lý thành tạo các trầm tích Cambri trung – Ordovic hạ ở Đông Bắc Việt Nam. – Thành lập 03 sơ đồ tướng đá – cổ địa lý của 3 giai đoạn Cambri giữa, Cambri muộn và Ordovic sớm ở Đông Bắc Việt Nam tỷ lệ 1: 500.000. – Xây dựng thành công quy trình ứng dụng phương pháp địa tầng phân tập cho các trầm tích trước Kainozoi nói chung và trầm tích Cambri trung – Ordovic hạ nói riêng ở Việt Nam. *Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 13804/2016) tại Cục Thông tin KHCNQG.
Research and application of the stratigraphic method for Middle Cambrian - Lower Ordovician sediments in Northeast Vietnam Around the world, Sequence stratigraphy research is focused on by geologists and geophysicists from Western European countries, the US and Canada and applied in the search and exploration of oil and gas in a systematic way. effective as: Posamentier, Jervey and Vail (1988), Van Wagoner, Michum (1990), D. Emery and K.J. Myer (1996), Catuneanu O. (2007). The achieved results have made an important contribution to determining the sequence based on global sea level changes and the arrangement of sedimentary units of the same origin in space and time. On that principle, a series of diverse stratigraphic units are established such as sequence, sequence set, lowstand system tract, marine sediment system region. transgessive system tract and highstand system tract. In Vietnam, since the 1980s, geologists have begun to approach diversity stratigraphic research. Topics and seminars on research on seismic stratigraphy, paleogeographic rock facies, and cycles sediment and sedimentary evolution in relation to sea level change (MNB) and tectonic movements of Cenozoic sediments conducted by Vietnamese and world authors have contributed to clarifying the nature of stratigraphy. episode. However, up to now, the applications of the Concentration Stratigraphy method that have been studied for pre-Cenozoic sediments are still very limited, especially in the Middle Cambrian - Lower Ordovician sediments, there has not been any research work. be done. Over nearly 100 years, the results of investigations and research have initially clarified the history of geological development of the Middle Cambrian - Early Ordovician period in Northeast Vietnam. However, there is still no consensus in the division of stratigraphic units, reflected in differences in thickness, age, stratigraphic relationships as well as lithostratigraphic content. In practice, the work of measuring and creating geological maps at 1:50,000 and 1:200,000 has encountered difficulties and inconsistencies in stratigraphic division and relationship in stratigraphic intervals that have not yet been found or have no fossils. These are very important problems that need to be resolved to ensure international consistency in Vietnam's geology and minerals. To solve these problems in stratigraphic work, it is necessary to have new approaches and methods. That's why the research team is led by the Institute of Geosciences and Mineral Resources in coordination with the Project Manager MSc. Nguyen Duc Phong jointly implemented with the goal of applying diversity stratigraphy to clarify the evolutionary history of Middle Cambrian - Lower Ordovician sediments in Northeast Vietnam. After a period of research, the project has obtained the following results: – Analyze and select a diversity stratigraphic model to apply appropriately to the study of Middle Cambrian - Lower Ordovician sediments in Northeast Vietnam. – Establishing 10 rock facies including: (1) Siltstone sandstone facies, low tide multi-mineral siltstone, shallow coastal; (2) Bioclastic limestone facies along the shallow coast; (3) Ovine limestone facies near shallow coast, inner shelf; (4) Conglomerate-coprolite limestone facies near shallow coast, inner shelf; (5) Intraclastic limestones far from the shallow coast, inner shelf; (6) Facies of fine-grained limestone, micrograined limestone, dolomitic limestone away from the shallow coast, outer shelf; (7) Silite-rich shale facies, calcareous clay away from the shallow coast, outer shelf; (8) Facies sandstone, sandstone siltstone, multi-mineral sandstone siltstone projectile cone; (9) Fine-grained limestone facies, calcareous clay away from the shallow outer shelf coast; (10) Aulacogene deep trench silite clay facies on the passive continental shelf. – Establish 6 symbiotic facies including: (1) Deep tide; (2) Shallow lower tide; (3) Low tide; (4) Tidal flats; (5) High tide and (6) Closed bay – Establishing 14 complexes (S1 cp – S14 cp) in the Dong Van – Meo Vac area, 3 complexes (S1 ph – S3 ph) in the Vi Xuyen area – Ha Giang city and 4 complexes (S1 ts – S4 ts ) in Vo Nhai region (Thai Nguyen). The boundaries between complexes are all conformal surfaces. – Initial steps to clarify the evolutionary history of Middle Cambrian - Lower Ordovician sediments in Northeast Vietnam, mainly controlled by global and regional sea level fluctuations: + Dong Van - Meo Vac region includes 14 development stages corresponding to 14 cycles of sea level fluctuations; + Vi Xuyen region - Ha Giang city includes 3 stages of development corresponding to 3 cycles of sea level fluctuations. + Vo Nhai region (Thai Nguyen) has 4 stages of development corresponding to 4 cycles of sea level fluctuations. – Discovered 03 Conodont fossil sites in the Lutxia Formation, 17 Trilobite and Brachiopod fossil sites in the Chang Pung Formation and 02 Stone Pen fossil sites in the Than Sa Formation which are very valuable for dating and comparison. stratigraphy, paleo-environmental and paleo-ecological significance. – Initial steps to clarify the characteristics and distribution of the continental shelf, inner shelf - coastal zone, intertidal zone, gulf sea, transition shelf zone, outer shelf, helping to restore the paleogeographic circumstances of the formation of Cambrian sediments Middle – Lower Ordovician in Northeast Vietnam. – Establishment of 03 paleo-geographic and lithological facies diagrams of the 3 stages of Middle Cambrian, Late Cambrian and Early Ordovician in Northeast Vietnam at a scale of 1: 500,000. – Successfully developed a process for applying the stratigraphic method of diversity to pre-Cenozoic sediments in general and Middle Cambrian - Lower Ordovician sediments in particular in Vietnam. *The research results report (code 13804/2016) can be found at the National Department of Science and Technology Information.
Leonardo da Vinci qua 500 hình ảnh sống động Từ lâu, nhiều câu chuyện hấp dẫn và bí mật về Leonardo da Vinci – một trong những danh họa được xem là trụ cột của thời Phục hưng, mà tên tuổi gắn với những bức tranh: Mona Lisa, Bữa tối cuối cùng … luôn được người xem tò mò. Leonardo da Vinci sinh năm 1452 ở Vinci (Ý) trong hoàn cảnh không may mắn khi chỉ là đứa con ngoài giá thú. Tên khai sinh của ông là Leonardo di ser Piero da Vinci, có nghĩa “Leonardo – con trai của Ser Piero từ Vinci”. Nằm trong tuyển tập về các danh họa thế giới của Omega Plus, tác phẩm mới Leonardo da Vinci: Cuộc đời và tác phẩm qua 500 hình ảnh (tác giả Rosalind Ormiston, dịch giả Đỗ Tường Linh) do NXB Dân Trí và Omega Plus vừa ấn hành, khắc họa toàn diện về cuộc đời và các tác phẩm của người nghệ sĩ, kỹ sư, nhà phát minh và nhà khoa học có ảnh hưởng lớn của thế giới: Leonardo da Vinci. Sự lôi cuốn của nhân vật không chỉ bởi ông là nghệ sĩ vĩ đại từng sống, thậm chí được tôn sùng như một thiên tài đa dạng trong chính thời đại của mình,mà Leonardo da Vinci còn vĩ đại ở các tác phẩm hội họa danh tiếng và những ghi chép ở nhiều khía cạnh khoa học lý thú. Leonardo da Vinci được biết đến nhiều nhất trong vai trò họa sĩ và nhà điêu khắc. Công việc kiến trúc sư và kỹ sư bổ sung cho những quan sát sắc sảo của ông ở khía cạnh một nhà giải phẫu học và tự nhiên học. Đó là một gia tài mà những người cùng thời khó lòng sánh kịp. Khát khao cháy bỏng mà Leonardo dành cho tri thức ở hầu hết các lĩnh vực khiến ông tạo ra một lượng ghi chép phong phú về rất nhiều chủ đề, toàn bộ được gắn với nhau trong các cuốn sổ tay rời rạc. Tuy nhiên, chúng lại không tiết lộ gì nhiều về con người, gia đình hay đời tư của Leonardo. Ở phần đầu sách, nếu người đọc hồi hộp, dõi theo Leonardo từ những năm tháng học nghề cho đến những nghiên cứu cuối đời ông, với những phân tích về mức độ ảnh hưởng của thời đại, các mối quan hệ gia đình, đồng nghiệp cũng như thấy được những suy nghĩ vượt xa mức độ hiểu biết thông thường…, thì đến phần sưu tập hình ảnh, tác giả phân tích các tác phẩm quan trọng của Leonardo bao gồm hình vẽ, tranh vẽ và những nghiên cứu giải phẫu cơ thể người, kiến trúc và kỹ thuật. Những bức tranh và bản vẽ luôn thể hiện sự đa dạng và năng suất vượt trội từ người nghệ sĩ. Độc giả không phải mệt mỏi vì sự dày đặc thông tin tiểu sử như thường thấy mà với cuốn sách này lại được thỏa thích ngắm nhìn các minh họa tuyệt đẹp với 500 hình ảnh nổi bật, màu sắc sống động về người họa sĩ đã góp phần làm nên diện mạo của hội họa phương Tây và thế giới. Leonardo da Vinci: Cuộc đời và tác phẩm qua 500 hình ảnh bỗng chốc trở thành tư liệu tham khảo toàn diện về cuộc đời và tác phẩm của Leonardo da Vinci; góp phần cung cấp những khám phá sống động về đời sống cá nhân cũng như những ảnh hưởng của ông đối với nghệ thuật và bối cảnh lịch sử ở Ý thời Phục hưng. Được biết, Leonardo da Vinci đã để lại các bức tranh, tài sản và khoảng 13.000 trang ghi chép, bản vẽ, bản thảo, trong số đó chỉ còn 6.500 trang tồn tại đến ngày nay. Vì vậy có trong tay Leonardo da Vinci: Cuộc đời và tác phẩm qua 500 hình ảnh, độc giả đã phần nào sở hữu các bí ẩn của danh họa. Lê Công Sơn
Leonardo da Vinci through 500 vivid images For a long time, there have been many fascinating and secret stories about Leonardo da Vinci - one of the famous artists considered the pillar of the Renaissance, whose name is associated with his paintings: Mona Lisa, The Last Supper … always makes viewers curious. Leonardo da Vinci Born in 1452 in Vinci (Italy) in unfortunate circumstances as an illegitimate child. His birth name was Leonardo di ser Piero da Vinci, meaning "Leonardo – son of Ser Piero from Vinci". Included in Omega Plus's collection of world famous artists, the new work Leonardo da Vinci: Life and works through 500 images (author Rosalind Ormiston, translator Do Tuong Linh) has just been published by Dan Tri Publishing House and Omega Plus. published, comprehensively depicting the life and works of the world's most influential artist, engineer, inventor and scientist: Leonardo da Vinci. The character's appeal is not only because he was the greatest artist who ever lived, even revered as a diverse genius in his own time, but Leonardo da Vinci was also great in his famous paintings. sounds and notes on many interesting scientific aspects. Leonardo da Vinci is best known as a painter and sculptor. His work as an architect and engineer complemented his keen observations as an anatomist and naturalist. That's one heritage that his contemporaries could hardly match. Leonardo's burning desire for knowledge in almost all fields led him to create a rich record on a wide variety of subjects, all bound together in separate notebooks. However, they do not reveal much about Leonardo's personality, family or personal life. In the first part of the book, if the reader is nervous, follows Leonardo from his years of apprenticeship to his final research, with analyzes of the influence of the times, family relationships, and colleagues. career as well as seeing thoughts that go beyond the level of normal understanding..., then in the image collection, the author analyzes Leonardo's important works including drawings, paintings and anatomical studies. human body, architecture and engineering. Paintings and drawings always demonstrate outstanding diversity and productivity from the artist. Readers do not have to be tired of the usual dense biographical information, but with this book they can enjoy looking at the beautiful illustrations with 500 outstanding, vividly colored images of the artist who contributed to the work. part that creates the appearance of Western and world painting. Leonardo da Vinci: Life and works through 500 images suddenly becomes a comprehensive reference document on the life and works of Leonardo da Vinci; provides vivid explorations of his personal life and influence on the art and historical context of Renaissance Italy. It is known that Leonardo da Vinci left behind paintings, property and about 13,000 pages of notes, drawings, and manuscripts, of which only 6,500 pages exist today. Therefore, with Leonardo da Vinci: Life and works through 500 images in hand, readers already partly possess the secrets of the famous artist. Le Cong Son
TS Trần Công Trục và “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông” Là một chuyên gia có thâm niên hơn 30 năm gắn bó với công tác biên giới lãnh thổ quốc gia, đặc biệt là chủ quyền trên biển, nên TS Trần Công Trục có điều kiện để nghiên cứu sâu về những vấn đề liên quan đến biển đảo, trong đó có vấn đề chủ quyền ở Biển Đông. Chính vì vậy, thời gian gần đây, đặc biệt từ khi Trung Quốc đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 nằm sâu trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ông thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế để nói về vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đặc biệt, mới đây, trong vai trò chủ biên, TS Trần Công Trục đã cho ra mắt cuốn sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông”. Công trình đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm đặc biệt của độc giả trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh tình hình Biển Đông căng thẳng như vừa qua. Mặc dù đây là công trình tâm huyết sau hơn 30 năm gắn bó với công tác biên giới lãnh thổ quốc gia, nhưng khi nói về đứa con tinh thần của mình, TS Trần Công Trục lại khiêm tốn tâm sự: “Nhiều điều trong cuốn sách không mới mẻ, nó đã từng được đề cập ở nhiều nơi, với nhiều hình thức, tôi chỉ là người nghiên cứu, tổng hợp, sắp xếp lại tất cả những tư liệu đó theo một hệ thống, logic, đáp ứng nhu cầu của công chúng trong thông tin ở lĩnh vực biên giới, lãnh thổ”. Tuy TS Trần Công Trục nói vậy nhưng xem cuốn sách của ông, người ta thấy trong công trình dày 400 trang với 4 chương dày dặn ấy là cả một kho thông tin và kiến thức vô cùng phong phú được trình bày một cách có hệ thống về lĩnh vực biên giới lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Vì vậy, nó giúp cho người đọc có được cái nhìn tổng quan hơn, đầy đủ hơn so với những cuốn trước đây chỉ bàn về những vấn đề riêng lẻ như biên giới trên bộ, các vấn đề về vùng biển và thềm lục địa, hoặc chỉ riêng về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa… Trong cuốn sách, phần gây được sự chú ý đặc biệt đối với người đọc chính là nội dung của chương ba. Ở đây tác giả đã mô tả lại cụ thể quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ thời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn đến thời chống Pháp, chống Mỹ và cho đến tận hôm nay. Bằng sự nghiên cứu công phu, bài bản dựa trên những bằng chứng lịch sử có tính pháp lý cao, tác giả đã khẳng định rằng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình tại quần đảo Hoàng Sa, ít nhất từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thực sự liên tục, hòa bình, phù hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Được biết, để thực hiện được cuốn sách quý này, TS Trần Công Trục đã bỏ rất nhiều thời gian, công sức để sưu tầm, nghiên cứu, kiểm chứng và đánh giá qua rất nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Trong đó có nguồn tư liệu rất quý mà ông là người đầu tiên cất công sang tận Pháp để sưu tầm trong những năm công tác tại Ban Biên giới Chính phủ. TS Trần Công Trục cho biết, mặc dù cuốn sách chưa được dịch ra các thứ tiếng nước ngoài, nhưng ông cũng đã nhận được phản hồi từ các độc giả Trung Quốc. Một số học giả Trung Quốc bày tỏ đồng tình với quan điểm nêu trong cuốn sách. Và cũng có ý kiến không đồng ý. Tuy nhiên, như ông nói: “Với tôi, càng nhận được nhiều phản hồi, kể cả trái chiều, tôi càng phấn khởi, bởi điều đó chứng tỏ cuốn sách được mọi người quan tâm. Tôi sẵn sàng đối chất với những quan điểm, ý kiến trái chiều. Quan trọng là những thông tin tôi đưa ra đã đến được với mọi người”. Có thể nói, với những công trình nghiên cứu nghiêm túc, khoa học và đầy tâm huyết, trong đó có công trình “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông”, TS Trần Công Trục đã đem đến cho người đọc, nhất là bạn đọc nước ngoài những thông tin bổ ích và minh xác, góp phần hạn chế những đánh giá và nhận định thiên kiến về các vấn đề biên giới lãnh thổ của Việt Nam, trong đó có vấn đề chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa./.
Dr. Tran Cong Truc and "Vietnam's imprint on the East Sea" As an expert with more than 30 years of experience working with national borders and territories, especially maritime sovereignty, Dr. Tran Cong Truc has the conditions to do in-depth research on issues related to the sea. islands, including sovereignty issues in the East Sea. Therefore, recently, especially since China unilaterally illegally placed the Haiyang Dizhi 981 oil rig deep in Vietnam's continental shelf and exclusive economic zone, he often appears on social media. mass media, domestic and international conferences to talk about the issue of Vietnam's sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos. In particular, recently, as editor, Dr. Tran Cong Truc launched the book "Vietnam's imprint on the East Sea". The work quickly attracted special attention from domestic and foreign readers, especially in the context of the recent tense situation in the East Sea. Although this is a passionate work after more than 30 years of working with national borders and territories, when talking about his brainchild, Dr. Tran Cong Truc humbly confided: "Many things in the book The book is not new, it has been mentioned in many places, in many forms, I am just the person who researches, synthesizes, and rearranges all that material in a systematic, logical way to meet the needs. of the public in information in the field of borders and territories". Although Dr. Tran Cong Truc said that, looking at his book, one sees that in that 400-page work with 4 thick chapters is an extremely rich store of information and knowledge presented systematically. in the field of territorial borders and sovereignty over seas and islands of Vietnam. Therefore, it helps readers have a more comprehensive and comprehensive overview than previous books that only discussed individual issues such as land borders, maritime issues and continental shelves. or just about the two archipelagos Hoang Sa and Truong Sa... In the book, the part that attracts special attention to readers is the content of chapter three. Here the author has specifically described the process of establishing and exercising Vietnam's sovereignty over the two archipelagos of Truong Sa and Hoang Sa from the time of Lord Nguyen and Tay Son to the time of fighting against the French and Americans and until the end. Today. Through meticulous and methodical research based on highly legal historical evidence, the author has affirmed that the State of Vietnam is the first state in history to have possessed and exercised sovereignty over Vietnam. in the Hoang Sa archipelago, at least since the 17th century. The possession and exercise of this sovereignty is truly continuous, peaceful, and in accordance with the principles of international law and practice. It is known that to produce this valuable book, Dr. Tran Cong Truc spent a lot of time and effort to collect, research, verify and evaluate through many different sources. Among them are very valuable sources of information that he was the first person to go to France to collect during his years working at the Government Border Committee. Dr. Tran Cong Truc said that although the book has not been translated into foreign languages, he has received feedback from Chinese readers. Some Chinese scholars expressed agreement with the views stated in the book. And there are also disagreements. However, as he said: "For me, the more feedback I receive, even mixed ones, the more excited I am, because it proves that the book is of interest to everyone. I am ready to confront opposing views and opinions. It is important that the information I give reaches everyone." It can be said that with serious, scientific and enthusiastic research projects, including the project "Vietnam's imprint on the East Sea", Dr. Tran Cong Truc has brought to readers, especially readers. useful and accurate information to foreign countries, contributing to limiting biased assessments and judgments about Vietnam's territorial border issues, including the issue of Vietnam's sacred sovereignty over the two countries. Hoang Sa and Truong Sa archipelagos./.
Cuộc đời và cái chết của triết gia “khôn ngoan nhất” thành Athens Socrates (470-399 TCN) là một triết gia thời Hy Lạp cổ đại và là người khởi nguồn chính cho tư tưởng phương Tây. Thông tin về cuộc đời ông ít được biết đến ngoài những ghi chép của chính những học trò, trong đó có triết gia vĩ đại Plato. Socrates là con trai của Sophroniscus, một thợ điêu khắc ở thành Athens. Ông được học nghề của cha và đã rèn nghề trong nhiều năm. Ông tham gia cuộc chiến Peloponnesian (431-04 TCN) khi thành Athens bị nghiền nát bởi người Sparta, và ông tự cho rằng mình là người can đảm. Một bức tượng triết gia Socrates Những chi tiết về thời thơ ấu của ông rất hiếm hoi, mặc dù có vẻ như ông cũng hưởng thụ một nền giáo dục bình thường của Hy Lạp cổ đại trước khi dành cuộc đời của mình cho những niềm đam mê trí tuệ khác. Ông có niềm đam mê đặc biệt với tác phẩm của các triết gia tự nhiên, và học trò Plato cũng ghi lại những cuộc gặp gỡ của ông với Zeno xứ Elea và Parmedides khi họ tới thành Athens vào khoảng năm 450 TCN. Bản thân Socrates không viết gì, chính vì thế những bằng chứng về cuộc đời và các hoạt động của ông đều xuất phát từ những ghi chép của Plato và Xenophon (khoảng 431-352 TCN). Ngoài những câu chuyện về tính cách kỳ lạ của Socrates, những thông tin trong Symposium của Plato còn miêu tả về ngoại hình của ông. Ông thấp người, ngoại hình của ông khá trái ngược với chuẩn mực về cái đẹp ở Athens lúc bấy giờ. Ông cũng rất nghèo, tài sản của ông chỉ có những vật dụng thiết yếu nhất cho cuộc sống. Tuy vậy, sự xấu xí về ngoại hình của ông lại không hề ngăn cản việc ông là một người cực kỳ thu hút những người xung quanh. Tư tưởng của Socrates Tư tưởng của ông đậm tính tôn giáo mặc dù ông chỉ trích các thần thoại Hy Lạp. Lời nói và những hành động của ông trong các tác phẩm như Apology, Crito, Phaedo, và Symposium đều cho thấy sự tôn trọng sâu sắc của ông đối với các phong tục tôn giáo của Athens và sự tôn kính chân thành với thần thánh. Socrates khẳng định rằng luôn có một giọng nói thần thánh mà ông có thể nghe được từ bên trong mình trong những thời điểm quan trọng của cuộc đời ông. Đó không phải là giọng nói đưa ra cho ông những chỉ dẫn tích cực, mà là những lời cảnh báo khi ông đi chệch khỏi con đường. Trong phiên tòa bào chữa cho chính mình, Socrates kể lại câu chuyện ông từng được một nhà tiên tri nổi danh ở đền Delphi đánh giá là người khôn ngoan nhất. Socrates nói ông cảm thấy bối rối vì lời nhận xét này, bởi vì không ai biết được mức độ thiếu hiểu biết của mình ngoài chính họ. Nhà tù nơi đã giam giữ Socrates ở Athens, Hy Lạp Tuy nhiên, ông quyết tâm tìm ra sự thật trong lời của nhà tiên tri. Trong suốt nhiều năm, ông đi khắp nơi và đặt câu hỏi cho những người có nổi tiếng là khôn ngoan và những người tự nhận mình là người khôn ngoan. Ông kết luận rằng đúng là ông khôn ngoan hơn họ, bởi vì ông có thể nhận thức được sự thiếu hiểu biết của mình, trong khi họ thì không. Socrates là bậc thầy của phương pháp lập luận truy vấn (một hệ thống được sử dụng để tranh luận). Những tác phẩm của ông khiến ông có số lượng kẻ thù cũng nhiều như số người ngưỡng mộ. Một ví dụ về điều đó có viết trong Apology của Plato. Meletus buộc tội Socrates đã làm hư hỏng những người trẻ, hủy hoại đạo đức của họ. Socrates bắt đầu phản biện bằng việc đặt câu hỏi liệu Meletus có xem sự tiến bộ của người trẻ là quan trọng hay không. Meletus đáp: Có. Socrates hỏi: Ai có thể giúp người trẻ tiến bộ? Meletus đáp: Luật pháp. Socrates hỏi: Ngài có thể nêu tên một người hiểu về luật pháp? Meletus đáp: Các thẩm phán là người hiểu luật. Socrates hỏi: Có phải tất cả thẩm phán đều có thể chỉ dẫn và giúp người trẻ tiến bộ không hay chỉ một vài người có thể làm được điều này? Meletus đáp: Tất cả họ đều có khả năng làm việc này. Sau đó, Socrates tiếp tục buộc Meletus phải thừa nhận rằng những nhóm người khác như Thượng viện, Quốc hội và sau đó là tất cả người dân Athens đều có khả năng chỉ dẫn và giúp người trẻ tiến bộ. Sau đó, Socrates lại bắt đầu một loạt câu hỏi tương tự về việc huấn luyện ngựa và các loài động vật khác. Có phải tất cả mọi người đều có khả năng huyến luyện ngựa không hay chỉ những người có chuyên môn và kinh nghiệm đặc biệt mới có thể làm điều này? – Socrates hỏi. Lúc này, Meletus đã nhận ra sự ngớ ngẩn trong lập luận của mình. Hắn không trả lời, nhưng Socrates đã trả lời thay. Ông nói rằng, nếu như Meletus không đủ quan tâm tới người trẻ Athens để đóng góp những ý kiến thỏa đáng cho những người có thể chỉ dẫn và giúp người trẻ Athens tiến bộ, thì ông không có quyền gì để buộc tội Socrates đã làm hư hỏng người trẻ. Phương pháp tranh luận của Socrates bắt đầu bằng những câu hỏi khiến đối phương tin rằng người hỏi rất đơn giản, nhưng sau đó lại kết thúc bằng sự đảo ngược hoàn toàn. Vì thế, những đóng góp chủ yếu của ông không nằm ở việc xây dựng một hệ thống phức tạp, mà ở việc xóa bỏ những niềm tin sai trái và dẫn dắt con người nhận thức được sự thiếu hiểu biết của mình, từ vị trí đó họ mới có thể bắt đầu khám phá sự thật. Chính sự kết hợp độc đáo giữa kỹ năng biện chứng (sử dụng logic và lập luận trong một cuộc tranh luận) với sức hấp dẫn mạnh mẽ của ông với những người trẻ đã khiến những đối thủ của ông có cơ hội đưa ông ra xét xử vào năm 399 TCN. Cái chết của Socrates Meletus, Lycon và Anytus là những kẻ buộc tội Socrates vô thần và làm hư hỏng giới trẻ của thành Athena. Ông bị kết án tử hình bằng cách uống thuốc độc. Một bức họa miêu tả lại thời điểm Socrates uống thuốc độc trước mặt những người bạn Tác phẩm Crito của Platon đã kể về những nỗ lực của Crito trong việc thuyết phục Socrates trốn khỏi nhà tù, nhưng trong một cuộc đối thoại của Socrates với Luật pháp Athena, ông đã bày tỏ sự tôn kính của mình với thành phố này và kiên quyết tuân theo luật pháp của nó ngay cả khi điều đó khiến ông phải chết. Trong tác phẩm Phaedo, Plato đã kể lại cuộc tranh luận của Socrates về sự bất tử của linh hồn. Kết thúc cuộc đối thoại, một trong những cảnh tượng xúc động và kịch tính nhất trong văn học cổ đại đã diễn ra – đó là cảnh Socrates nâng ly thuốc độc trong khi bạn bè ông ngồi xung quanh đầy bất lực. Trước khi tắt thở, Socrates vẫn không quên trăng trối với Crito bằng những lời hài hước: “Crito, tôi còn mắc nợ Asclepius một con gà trống, anh làm ơn trả giùm tôi được không?”. Socrates là tên tuổi nhiều màu sắc nhất trong lịch sử triết học cổ đại. Danh tiếng của ông lan rộng khắp nơi và nhanh chóng trở thành một cái tên mà ai cũng biết thời kỳ đó, mặc dù ông không sở hữu trí khôn phi thường, không xây dựng hệ thống triết học, không thiết lập trường học và tông phái. Tầm ảnh hưởng của ông tới đường hướng của triết học cổ đại thông qua Plato, những người hoài nghi và ít trực tiếp hơn là Aristotle, là không thể kể hết. Những câu nói nổi tiếng của Socrates: 1. “Hiểu biết đích thực là biết rằng mình không biết gì cả”. 2. “Một cuộc sống mà không không có thử thách là một cuộc sống không đáng để sống”. 3. “Điều tốt đẹp duy nhất là kiến thức, điều xấu xa duy nhất là sự thờ ơ”. 4. “Tôi không thể dạy ai một thứ gì. Tôi chỉ có thể khiến họ suy nghĩ”. 5. “Đối xử tốt với mỗi người bạn gặp là một trận chiến khó khăn”. 6. “Những bộ óc lớn thảo luận về những ý tưởng, bộ óc trung bình bàn luận về những sự kiện còn những bộ óc non yếu chỉ nói chuyện về con người”. 7. “Dù gì thì cũng nên kết hôn, nếu lấy được người vợ hiền thì bạn sẽ hạnh phúc; nếu không, bạn sẽ trở thành một triết gia”. 8. “Người không hài lòng với những gì anh ta có cũng sẽ không hài lòng với những gì ảnh ta sẽ có”. 9. ” Đôi khi bạn dựng lên những bức tường không phải để ngăn cách với mọi người, mà để xem ai đủ quan tâm phá bỏ nó”. 10. “Trí tuệ bắt nguồn từ những điều kì diệu”.
Cuộc đời và cái chết của triết gia “khôn ngoan nhất” thành Athens Socrates (470-399 TCN) là một triết gia thời Hy Lạp cổ đại và là người khởi nguồn chính cho tư tưởng phương Tây. Thông tin về cuộc đời ông ít được biết đến ngoài những ghi chép của chính những học trò, trong đó có triết gia vĩ đại Plato. Socrates là con trai của Sophroniscus, một thợ điêu khắc ở thành Athens. Ông được học nghề của cha và đã rèn nghề trong nhiều năm. Ông tham gia cuộc chiến Peloponnesian (431-04 TCN) khi thành Athens bị nghiền nát bởi người Sparta, và ông tự cho rằng mình là người can đảm. Một bức tượng triết gia Socrates Những chi tiết về thời thơ ấu của ông rất hiếm hoi, mặc dù có vẻ như ông cũng hưởng thụ một nền giáo dục bình thường của Hy Lạp cổ đại trước khi dành cuộc đời của mình cho những niềm đam mê trí tuệ khác. Ông có niềm đam mê đặc biệt với tác phẩm của các triết gia tự nhiên, và học trò Plato cũng ghi lại những cuộc gặp gỡ của ông với Zeno xứ Elea và Parmedides khi họ tới thành Athens vào khoảng năm 450 TCN. Bản thân Socrates không viết gì, chính vì thế những bằng chứng về cuộc đời và các hoạt động của ông đều xuất phát từ những ghi chép của Plato và Xenophon (khoảng 431-352 TCN). Ngoài những câu chuyện về tính cách kỳ lạ của Socrates, những thông tin trong Symposium của Plato còn miêu tả về ngoại hình của ông. Ông thấp người, ngoại hình của ông khá trái ngược với chuẩn mực về cái đẹp ở Athens lúc bấy giờ. Ông cũng rất nghèo, tài sản của ông chỉ có những vật dụng thiết yếu nhất cho cuộc sống. Tuy vậy, sự xấu xí về ngoại hình của ông lại không hề ngăn cản việc ông là một người cực kỳ thu hút những người xung quanh. Tư tưởng của Socrates Tư tưởng của ông đậm tính tôn giáo mặc dù ông chỉ trích các thần thoại Hy Lạp. Lời nói và những hành động của ông trong các tác phẩm như Apology, Crito, Phaedo, và Symposium đều cho thấy sự tôn trọng sâu sắc của ông đối với các phong tục tôn giáo của Athens và sự tôn kính chân thành với thần thánh. Socrates khẳng định rằng luôn có một giọng nói thần thánh mà ông có thể nghe được từ bên trong mình trong những thời điểm quan trọng của cuộc đời ông. Đó không phải là giọng nói đưa ra cho ông những chỉ dẫn tích cực, mà là những lời cảnh báo khi ông đi chệch khỏi con đường. Trong phiên tòa bào chữa cho chính mình, Socrates kể lại câu chuyện ông từng được một nhà tiên tri nổi danh ở đền Delphi đánh giá là người khôn ngoan nhất. Socrates nói ông cảm thấy bối rối vì lời nhận xét này, bởi vì không ai biết được mức độ thiếu hiểu biết của mình ngoài chính họ. Nhà tù nơi đã giam giữ Socrates ở Athens, Hy Lạp Tuy nhiên, ông quyết tâm tìm ra sự thật trong lời của nhà tiên tri. Trong suốt nhiều năm, ông đi khắp nơi và đặt câu hỏi cho những người có nổi tiếng là khôn ngoan và những người tự nhận mình là người khôn ngoan. Ông kết luận rằng đúng là ông khôn ngoan hơn họ, bởi vì ông có thể nhận thức được sự thiếu hiểu biết của mình, trong khi họ thì không. Socrates là bậc thầy của phương pháp lập luận truy vấn (một hệ thống được sử dụng để tranh luận). Những tác phẩm của ông khiến ông có số lượng kẻ thù cũng nhiều như số người ngưỡng mộ. Một ví dụ về điều đó có viết trong Apology của Plato. Meletus buộc tội Socrates đã làm hư hỏng những người trẻ, hủy hoại đạo đức của họ. Socrates bắt đầu phản biện bằng việc đặt câu hỏi liệu Meletus có xem sự tiến bộ của người trẻ là quan trọng hay không. Meletus đáp: Có. Socrates hỏi: Ai có thể giúp người trẻ tiến bộ? Meletus đáp: Luật pháp. Socrates hỏi: Ngài có thể nêu tên một người hiểu về luật pháp? Meletus đáp: Các thẩm phán là người hiểu luật. Socrates hỏi: Có phải tất cả thẩm phán đều có thể chỉ dẫn và giúp người trẻ tiến bộ không hay chỉ một vài người có thể làm được điều này? Meletus đáp: Tất cả họ đều có khả năng làm việc này. Sau đó, Socrates tiếp tục buộc Meletus phải thừa nhận rằng những nhóm người khác như Thượng viện, Quốc hội và sau đó là tất cả người dân Athens đều có khả năng chỉ dẫn và giúp người trẻ tiến bộ. Sau đó, Socrates lại bắt đầu một loạt câu hỏi tương tự về việc huấn luyện ngựa và các loài động vật khác. Có phải tất cả mọi người đều có khả năng huyến luyện ngựa không hay chỉ những người có chuyên môn và kinh nghiệm đặc biệt mới có thể làm điều này? – Socrates hỏi. Lúc này, Meletus đã nhận ra sự ngớ ngẩn trong lập luận của mình. Hắn không trả lời, nhưng Socrates đã trả lời thay. Ông nói rằng, nếu như Meletus không đủ quan tâm tới người trẻ Athens để đóng góp những ý kiến thỏa đáng cho những người có thể chỉ dẫn và giúp người trẻ Athens tiến bộ, thì ông không có quyền gì để buộc tội Socrates đã làm hư hỏng người trẻ. Phương pháp tranh luận của Socrates bắt đầu bằng những câu hỏi khiến đối phương tin rằng người hỏi rất đơn giản, nhưng sau đó lại kết thúc bằng sự đảo ngược hoàn toàn. Vì thế, những đóng góp chủ yếu của ông không nằm ở việc xây dựng một hệ thống phức tạp, mà ở việc xóa bỏ những niềm tin sai trái và dẫn dắt con người nhận thức được sự thiếu hiểu biết của mình, từ vị trí đó họ mới có thể bắt đầu khám phá sự thật. Chính sự kết hợp độc đáo giữa kỹ năng biện chứng (sử dụng logic và lập luận trong một cuộc tranh luận) với sức hấp dẫn mạnh mẽ của ông với những người trẻ đã khiến những đối thủ của ông có cơ hội đưa ông ra xét xử vào năm 399 TCN. Cái chết của Socrates Meletus, Lycon và Anytus là những kẻ buộc tội Socrates vô thần và làm hư hỏng giới trẻ của thành Athena. Ông bị kết án tử hình bằng cách uống thuốc độc. Một bức họa miêu tả lại thời điểm Socrates uống thuốc độc trước mặt những người bạn Tác phẩm Crito của Platon đã kể về những nỗ lực của Crito trong việc thuyết phục Socrates trốn khỏi nhà tù, nhưng trong một cuộc đối thoại của Socrates với Luật pháp Athena, ông đã bày tỏ sự tôn kính của mình với thành phố này và kiên quyết tuân theo luật pháp của nó ngay cả khi điều đó khiến ông phải chết. Trong tác phẩm Phaedo, Plato đã kể lại cuộc tranh luận của Socrates về sự bất tử của linh hồn. Kết thúc cuộc đối thoại, một trong những cảnh tượng xúc động và kịch tính nhất trong văn học cổ đại đã diễn ra – đó là cảnh Socrates nâng ly thuốc độc trong khi bạn bè ông ngồi xung quanh đầy bất lực. Trước khi tắt thở, Socrates vẫn không quên trăng trối với Crito bằng những lời hài hước: “Crito, tôi còn mắc nợ Asclepius một con gà trống, anh làm ơn trả giùm tôi được không?”. Socrates là tên tuổi nhiều màu sắc nhất trong lịch sử triết học cổ đại. Danh tiếng của ông lan rộng khắp nơi và nhanh chóng trở thành một cái tên mà ai cũng biết thời kỳ đó, mặc dù ông không sở hữu trí khôn phi thường, không xây dựng hệ thống triết học, không thiết lập trường học và tông phái. Tầm ảnh hưởng của ông tới đường hướng của triết học cổ đại thông qua Plato, những người hoài nghi và ít trực tiếp hơn là Aristotle, là không thể kể hết. Những câu nói nổi tiếng của Socrates: 1. “Hiểu biết đích thực là biết rằng mình không biết gì cả”. 2. “Một cuộc sống mà không không có thử thách là một cuộc sống không đáng để sống”. 3. “Điều tốt đẹp duy nhất là kiến thức, điều xấu xa duy nhất là sự thờ ơ”. 4. “Tôi không thể dạy ai một thứ gì. Tôi chỉ có thể khiến họ suy nghĩ”. 5. “Đối xử tốt với mỗi người bạn gặp là một trận chiến khó khăn”. 6. “Những bộ óc lớn thảo luận về những ý tưởng, bộ óc trung bình bàn luận về những sự kiện còn những bộ óc non yếu chỉ nói chuyện về con người”. 7. “Dù gì thì cũng nên kết hôn, nếu lấy được người vợ hiền thì bạn sẽ hạnh phúc; nếu không, bạn sẽ trở thành một triết gia”. 8. “Người không hài lòng với những gì anh ta có cũng sẽ không hài lòng với những gì ảnh ta sẽ có”. 9. ” Đôi khi bạn dựng lên những bức tường không phải để ngăn cách với mọi người, mà để xem ai đủ quan tâm phá bỏ nó”. 10. “Trí tuệ bắt nguồn từ những điều kì diệu”.
Chân dung nhà văn qua ‘Cây bút đời người’ TS. Mai Anh Tuấn Sách “Cây bút đời người” của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Vương Trí Nhàn tái hiện con người đời thường và con người sáng tạo của các nhà văn. Trong cái nhìn của nhà phê bình Vương Trí Nhàn, một nhà văn thực sự đúng nghĩa không chỉ hiện diện trên tác phẩm, mà thường xuyên và quan trọng không kém, còn ở trong đời sống. Ở đó, họ cũng là con người với tất thảy tính tốt hay thói xấu, với những mơ mộng, trăn trở, lao động nghề nghiệp vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa đơn độc, nhọc nhằn. Nhà văn, nghề văn không biến ai đó trở nên khác biệt mà ngược lại, chính tư cách đó làm họ gần gũi, sinh động hơn giữa nhân gian vốn dĩ muôn hình vạn trạng. Lựa chọn viết về các nhà văn, theo Vương Trí Nhàn, là một cách phác thảo, tái hiện con người đời thường và con người sáng tạo của họ. Muốn vậy, người viết ít nhất phải có khả năng quan sát kỹ lưỡng, phải thu thập nhiều dữ liệu, từ tác phẩm , con đường văn chương đến tính cách, lối sống của nhà văn. Có dữ liệu nhưng cũng phải biết sắp xếp, đặt trong bối cảnh thời đại, trong những biến chuyển cá nhân lẫn văn đàn để không bị cuốn theo những cả tin, phong thanh, vô sở cứ, càng không bị cảm xúc yêu ghét thuần túy lấn át góc nhìn. Vương Trí Nhàn đã duy trì được bản lĩnh, vị thế của người quan sát như vậy, một phần vì ông từng trải qua công việc nghiên cứu , phê bình; phần khác vì, như ông tự thấy, có may mắn tiếp xúc trực tiếp, trò chuyện, bàn bạc “về công việc văn chương cũng như việc đời” với nhiều nhà văn nhà thơ. Ông cũng đủ tỉnh táo để không thiêng hóa văn nhân, nhìn ra trong văn giới “có thánh thần và có ma quỷ”, “phần lớn người cầm bút cũng có cả những chỗ tầm thường lẫn chỗ cao quý”. Khôn ngoan khi giữ một cự ly gần, với thái độ trân trọng, đồng cảm và tri âm, Vương Trí Nhàn lần lượt dựng lại 12 chân dung nhà văn mà ông đã dành nhiều năm nghiền ngẫm. Trong số đó, có người cùng thế hệ Vương Trí Nhàn như Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nghiêm Đa Văn, có người nổi danh trong giai đoạn văn chương kháng chiến chống Mỹ như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thành Long, lại có người là tác giả lớn từ trước 1945 như Tô Hoài, Tế Hanh, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu . Mỗi người một kiểu, nhưng hấp dẫn và có thể gợi ít nhiều suy nghĩ cho văn đàn hôm nay, theo tôi, là những phát hiện của Vương Trí Nhàn về phẩm chất nhà văn của họ. Đó phải là người khao khát được học, vượt qua ngưỡng hạn chế học vấn như Xuân Quỳnh; là người thể hiện được cảm xúc thật của mình trên trang viết, dẫu nó khác thời và khác người, như Lưu Quang Vũ; là người sống sôi nổi, phiêu lưu nhưng không nên tản mát văn tài như Nghiêm Đa Văn. Phẩm chất nhà văn đôi khi hiện hữu ở tinh thần chấp nhận cái khổ, thiếu thốn, một sự “dễ dàng trong cách sống” như Nguyễn Khải, nhưng đôi khi, cũng nên “lơ mơ sự đời”, ngay giữa đám đông “vẫn có thể chìm đắm trong những suy nghĩ riêng” như Nguyễn Minh Châu. Người biết nhiều chuyện và có thể mang được “đủ thứ chi tiết linh tinh” vào trang viết như Tô Hoài phải là người “sòng phẳng và biết tới biết lui”, “lõi đời, sành sỏi, con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt!”; người “rù rì lần bước” ngoài đời lại định hình được một phong cách “hoàn chỉnh và ổn định” trong thơ như Tế Hanh. Một người có hoàn cảnh xuất thân “làng nhàng”, ốm đau bệnh tật, đến với phê bình văn học vừa muộn vừa “cam tâm chấp nhận rằng mình thất bại trong việc đời” nhưng nếu biết “vừa học vừa chơi mà tiếng Pháp học được vẫn đủ để kiếm công ăn việc làm khi ra đời” thì cũng có chút đóng góp dịch thuật văn học như Nhị Ca. Cũng có người sớm bộc lộ tài năng, tác phẩm phổ biến rộng rãi, khi gặp điều kiện sống khó khăn thì “trở nên sinh động tự nhiên” nhưng khi gặp hoàn cảnh ổn định thì “yếu đuối” đến mức không viết được gì đáng kể như Thanh Tịnh… Phẩm tính nhà văn, rõ ràng, là một đại lượng khó lường, càng không dễ qui vào tốt xấu rành rẽ. Chúng nổi trội, nhất quán ở người này nhưng cũng biến đổi, đứt gãy ở người kia. Dĩ nhiên, phẩm tính đó cũng cần được rèn luyện, bồi đắp và, như Vương Trí Nhàn nhấn mạnh, phải kinh qua sáng tạo, qua dòng chảy cuộc đời. Không có một kiểu nhà văn chung chung, chỉ có nhà văn của con người này, số phận và cuộc đời này, cụ thể và duy nhất. Sách khắc họa chân dung một thế hệ nhà văn tài năng, nhiều khao khát. Ảnh: NXB Kim Đồng. Không chủ trương viết văn học sử nhưng cuốn sách của Vương Trí Nhàn cũng là tư liệu giúp độc giả hôm nay nhìn lại, hiểu rõ hơn về một thời đoạn văn học đầy biến động, nhất là từ khoảng sau năm 1954 đến đầu Đổi mới. Thời đó, như trang sách gợi dẫn, có những ràng buộc oái oăm khiến nhà văn khó lòng thành thật, viết thật, hoặc, không cách nào khác, phải thích ứng thời cuộc chóng vánh. Nguyễn Tuân cũng “nhập vai”, Tô Hoài “muốn viết gì thì viết, không định bụng thế này thế kia, mà cũng sợ mang tiếng khi viết”, Nguyễn Khải có “lối phù thịnh một cách rất tự nhiên”, Nguyễn Thành Long “người căn bản là lành, căn bản là tốt” mà thỉnh thoảng gặp phải “những tai nạn nghề nghiệp nho nhỏ”… Giữ một cự ly gần, với thái độ trân trọng, đồng cảm và tri âm, Vương Trí Nhàn dựng lại 12 chân dung nhà văn mà ông đã dành nhiều năm nghiền ngẫm. Vương Trí Nhàn nhìn thấy ở họ những băn khoăn, chất vấn nội tâm trước trang văn, đồng thời cũng có những thỏa hiệp, xoay xở để sống, làm việc một cách bình thường. Một thế hệ tài năng, nhiều khao khát, “vừa sống, vừa viết, vừa quan tâm tới đời sống văn hóa khác” như Vương Trí Nhàn chứng kiến, rút cuộc, vẫn không tránh khỏi những ảo tưởng, vụng về và mệt mỏi khi bước tiếp hành trình văn chương. Có lẽ, nếu có một giá trị mẫu mực nào đó từ những nhà văn này, có thể làm cẩm nang cho thế hệ cầm bút hiện nay, thì tôi nghĩ, đấy là những nỗ lực lớn, cả trong nhận thức lẫn việc làm, khi lựa chọn nghề cầm bút. Tài năng hay hoàn cảnh văn hóa xã hội hẳn cần thiết, và là nền tảng để đạt thành tựu, nhưng sự cố gắng, tự học và tự trưởng thành của người viết cũng tựa như nguồn năng lượng bứt phá lâu dài. Đây là điểm mà văn học sử ít khi tường tận, nên độc giả, để hiểu một đời sống văn chương đúng nghĩa, phải tìm đến tư liệu của người trong cuộc. Bản thân một số nhà văn mà Vương Trí Nhàn nhắc tới trong cuốn sách cũng từng viết, xuất bản nhiều tập tiểu luận – phê bình, chân dung văn học đặc sắc như Trang giấy trước đèn của Nguyễn Minh Châu, Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người của Đỗ Chu, Nghề văn cũng lắm công phu của Nguyễn Khải… Viết chân dung văn học , nhất là lối viết kết hợp giữa kể, hồi ức, tâm tình và nhận định, đánh giá như cuốn Cây bút đời người thể hiện, luôn là cơ hội để bộc lộ chính bản thân người viết. Dẫu tự đặt mình ở vị trí lắng nghe, quan sát và ghi chép, Vương Trí Nhàn cũng không giấu cá tính, quan điểm và trải nghiệm văn chương của mình. Ông dẫn dắt, chắp nối sự kiện nhưng khi cần, sẽ diễn giải, phân tích. Ông miêu tả, so sánh, kể lể nhưng không quên tranh luận, đối thoại. Ông cho thấy cơ sở của “họa người” là phải hiểu văn, hiểu “ngoài trời còn có trời”, nhưng cũng cần buộc mình nghĩ sâu hơn, phát hiện khía cạnh mới. Chưa kể độ lùi thời gian giúp ông tìm ra nhiều góc nhìn thấu đáo hơn. Trước thái độ thẳng thắn nhưng chân tình của Vương Trí Nhàn, tôi thấy các văn nhân xưa ít ra gặp may mắn, bởi họ không bị đặt trong những cái viết cuống cuồng, thêu dệt và thù tạc như đang phổ biến trên văn đàn hiện nay. Viết chân dung nhà văn, xét cho cùng, chẳng công kênh hay làm mất mặt được ai, nhưng vẫn là thể loại giúp người viết tự họa được bản tính và kiến văn của mình. M.A.T Cây bút đời người của Vương Trí Nhàn in lần đầu năm 2002 (NXB Trẻ), được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải B hạng mục phê bình, lý luận năm 2003. Sách tái bản năm 2005 (NXB Hội nhà văn). Mới đây, NXB Kim Đồng in lại cuốn sách này trong tủ sách Bạn văn Bạn mình .
Chân dung nhà văn qua ‘Cây bút đời người’ TS. Mai Anh Tuấn Sách “Cây bút đời người” của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Vương Trí Nhàn tái hiện con người đời thường và con người sáng tạo của các nhà văn. Trong cái nhìn của nhà phê bình Vương Trí Nhàn, một nhà văn thực sự đúng nghĩa không chỉ hiện diện trên tác phẩm, mà thường xuyên và quan trọng không kém, còn ở trong đời sống. Ở đó, họ cũng là con người với tất thảy tính tốt hay thói xấu, với những mơ mộng, trăn trở, lao động nghề nghiệp vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa đơn độc, nhọc nhằn. Nhà văn, nghề văn không biến ai đó trở nên khác biệt mà ngược lại, chính tư cách đó làm họ gần gũi, sinh động hơn giữa nhân gian vốn dĩ muôn hình vạn trạng. Lựa chọn viết về các nhà văn, theo Vương Trí Nhàn, là một cách phác thảo, tái hiện con người đời thường và con người sáng tạo của họ. Muốn vậy, người viết ít nhất phải có khả năng quan sát kỹ lưỡng, phải thu thập nhiều dữ liệu, từ tác phẩm , con đường văn chương đến tính cách, lối sống của nhà văn. Có dữ liệu nhưng cũng phải biết sắp xếp, đặt trong bối cảnh thời đại, trong những biến chuyển cá nhân lẫn văn đàn để không bị cuốn theo những cả tin, phong thanh, vô sở cứ, càng không bị cảm xúc yêu ghét thuần túy lấn át góc nhìn. Vương Trí Nhàn đã duy trì được bản lĩnh, vị thế của người quan sát như vậy, một phần vì ông từng trải qua công việc nghiên cứu , phê bình; phần khác vì, như ông tự thấy, có may mắn tiếp xúc trực tiếp, trò chuyện, bàn bạc “về công việc văn chương cũng như việc đời” với nhiều nhà văn nhà thơ. Ông cũng đủ tỉnh táo để không thiêng hóa văn nhân, nhìn ra trong văn giới “có thánh thần và có ma quỷ”, “phần lớn người cầm bút cũng có cả những chỗ tầm thường lẫn chỗ cao quý”. Khôn ngoan khi giữ một cự ly gần, với thái độ trân trọng, đồng cảm và tri âm, Vương Trí Nhàn lần lượt dựng lại 12 chân dung nhà văn mà ông đã dành nhiều năm nghiền ngẫm. Trong số đó, có người cùng thế hệ Vương Trí Nhàn như Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nghiêm Đa Văn, có người nổi danh trong giai đoạn văn chương kháng chiến chống Mỹ như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thành Long, lại có người là tác giả lớn từ trước 1945 như Tô Hoài, Tế Hanh, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu . Mỗi người một kiểu, nhưng hấp dẫn và có thể gợi ít nhiều suy nghĩ cho văn đàn hôm nay, theo tôi, là những phát hiện của Vương Trí Nhàn về phẩm chất nhà văn của họ. Đó phải là người khao khát được học, vượt qua ngưỡng hạn chế học vấn như Xuân Quỳnh; là người thể hiện được cảm xúc thật của mình trên trang viết, dẫu nó khác thời và khác người, như Lưu Quang Vũ; là người sống sôi nổi, phiêu lưu nhưng không nên tản mát văn tài như Nghiêm Đa Văn. Phẩm chất nhà văn đôi khi hiện hữu ở tinh thần chấp nhận cái khổ, thiếu thốn, một sự “dễ dàng trong cách sống” như Nguyễn Khải, nhưng đôi khi, cũng nên “lơ mơ sự đời”, ngay giữa đám đông “vẫn có thể chìm đắm trong những suy nghĩ riêng” như Nguyễn Minh Châu. Người biết nhiều chuyện và có thể mang được “đủ thứ chi tiết linh tinh” vào trang viết như Tô Hoài phải là người “sòng phẳng và biết tới biết lui”, “lõi đời, sành sỏi, con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt!”; người “rù rì lần bước” ngoài đời lại định hình được một phong cách “hoàn chỉnh và ổn định” trong thơ như Tế Hanh. Một người có hoàn cảnh xuất thân “làng nhàng”, ốm đau bệnh tật, đến với phê bình văn học vừa muộn vừa “cam tâm chấp nhận rằng mình thất bại trong việc đời” nhưng nếu biết “vừa học vừa chơi mà tiếng Pháp học được vẫn đủ để kiếm công ăn việc làm khi ra đời” thì cũng có chút đóng góp dịch thuật văn học như Nhị Ca. Cũng có người sớm bộc lộ tài năng, tác phẩm phổ biến rộng rãi, khi gặp điều kiện sống khó khăn thì “trở nên sinh động tự nhiên” nhưng khi gặp hoàn cảnh ổn định thì “yếu đuối” đến mức không viết được gì đáng kể như Thanh Tịnh… Phẩm tính nhà văn, rõ ràng, là một đại lượng khó lường, càng không dễ qui vào tốt xấu rành rẽ. Chúng nổi trội, nhất quán ở người này nhưng cũng biến đổi, đứt gãy ở người kia. Dĩ nhiên, phẩm tính đó cũng cần được rèn luyện, bồi đắp và, như Vương Trí Nhàn nhấn mạnh, phải kinh qua sáng tạo, qua dòng chảy cuộc đời. Không có một kiểu nhà văn chung chung, chỉ có nhà văn của con người này, số phận và cuộc đời này, cụ thể và duy nhất. Sách khắc họa chân dung một thế hệ nhà văn tài năng, nhiều khao khát. Ảnh: NXB Kim Đồng. Không chủ trương viết văn học sử nhưng cuốn sách của Vương Trí Nhàn cũng là tư liệu giúp độc giả hôm nay nhìn lại, hiểu rõ hơn về một thời đoạn văn học đầy biến động, nhất là từ khoảng sau năm 1954 đến đầu Đổi mới. Thời đó, như trang sách gợi dẫn, có những ràng buộc oái oăm khiến nhà văn khó lòng thành thật, viết thật, hoặc, không cách nào khác, phải thích ứng thời cuộc chóng vánh. Nguyễn Tuân cũng “nhập vai”, Tô Hoài “muốn viết gì thì viết, không định bụng thế này thế kia, mà cũng sợ mang tiếng khi viết”, Nguyễn Khải có “lối phù thịnh một cách rất tự nhiên”, Nguyễn Thành Long “người căn bản là lành, căn bản là tốt” mà thỉnh thoảng gặp phải “những tai nạn nghề nghiệp nho nhỏ”… Giữ một cự ly gần, với thái độ trân trọng, đồng cảm và tri âm, Vương Trí Nhàn dựng lại 12 chân dung nhà văn mà ông đã dành nhiều năm nghiền ngẫm. Vương Trí Nhàn nhìn thấy ở họ những băn khoăn, chất vấn nội tâm trước trang văn, đồng thời cũng có những thỏa hiệp, xoay xở để sống, làm việc một cách bình thường. Một thế hệ tài năng, nhiều khao khát, “vừa sống, vừa viết, vừa quan tâm tới đời sống văn hóa khác” như Vương Trí Nhàn chứng kiến, rút cuộc, vẫn không tránh khỏi những ảo tưởng, vụng về và mệt mỏi khi bước tiếp hành trình văn chương. Có lẽ, nếu có một giá trị mẫu mực nào đó từ những nhà văn này, có thể làm cẩm nang cho thế hệ cầm bút hiện nay, thì tôi nghĩ, đấy là những nỗ lực lớn, cả trong nhận thức lẫn việc làm, khi lựa chọn nghề cầm bút. Tài năng hay hoàn cảnh văn hóa xã hội hẳn cần thiết, và là nền tảng để đạt thành tựu, nhưng sự cố gắng, tự học và tự trưởng thành của người viết cũng tựa như nguồn năng lượng bứt phá lâu dài. Đây là điểm mà văn học sử ít khi tường tận, nên độc giả, để hiểu một đời sống văn chương đúng nghĩa, phải tìm đến tư liệu của người trong cuộc. Bản thân một số nhà văn mà Vương Trí Nhàn nhắc tới trong cuốn sách cũng từng viết, xuất bản nhiều tập tiểu luận – phê bình, chân dung văn học đặc sắc như Trang giấy trước đèn của Nguyễn Minh Châu, Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người của Đỗ Chu, Nghề văn cũng lắm công phu của Nguyễn Khải… Viết chân dung văn học , nhất là lối viết kết hợp giữa kể, hồi ức, tâm tình và nhận định, đánh giá như cuốn Cây bút đời người thể hiện, luôn là cơ hội để bộc lộ chính bản thân người viết. Dẫu tự đặt mình ở vị trí lắng nghe, quan sát và ghi chép, Vương Trí Nhàn cũng không giấu cá tính, quan điểm và trải nghiệm văn chương của mình. Ông dẫn dắt, chắp nối sự kiện nhưng khi cần, sẽ diễn giải, phân tích. Ông miêu tả, so sánh, kể lể nhưng không quên tranh luận, đối thoại. Ông cho thấy cơ sở của “họa người” là phải hiểu văn, hiểu “ngoài trời còn có trời”, nhưng cũng cần buộc mình nghĩ sâu hơn, phát hiện khía cạnh mới. Chưa kể độ lùi thời gian giúp ông tìm ra nhiều góc nhìn thấu đáo hơn. Trước thái độ thẳng thắn nhưng chân tình của Vương Trí Nhàn, tôi thấy các văn nhân xưa ít ra gặp may mắn, bởi họ không bị đặt trong những cái viết cuống cuồng, thêu dệt và thù tạc như đang phổ biến trên văn đàn hiện nay. Viết chân dung nhà văn, xét cho cùng, chẳng công kênh hay làm mất mặt được ai, nhưng vẫn là thể loại giúp người viết tự họa được bản tính và kiến văn của mình. M.A.T Cây bút đời người của Vương Trí Nhàn in lần đầu năm 2002 (NXB Trẻ), được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải B hạng mục phê bình, lý luận năm 2003. Sách tái bản năm 2005 (NXB Hội nhà văn). Mới đây, NXB Kim Đồng in lại cuốn sách này trong tủ sách Bạn văn Bạn mình .
Khám phá Cửu phẩm Liên Hoa – Bảo vật quốc gia ở chùa Giám Tòa Cửu phẩm Liên Hoa là một trong những cổ vật có giá trị đặc biệt, điểm nhấn của ngôi chùa Giám cổ kính ở Hải Dương , được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2015. Có chiều cao 4,44m, Cửu phẩm Liên Hoa ở chùa Giám là cổ vật có kích thước hoành tráng, có giá trị nghệ thuật kiến trúc Phật giáo đặc biệt. Đến thăm chùa Giám ở xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng , tỉnh Hải Dương, du khách sẽ được chiêm ngưỡng Cửu phẩm Liên Hoa – một trong những cổ vật có giá trị đặc biệt, bảo vật quốc gia . Là địa danh tâm linh nổi tiếng lưu giữ bảo vật quốc gia, chùa Giám tọa lạc trên khoảng đất rộng 2ha, ngoài thờ Phật còn là nơi đặt tượng thờ Đại danh y Tuệ Tĩnh – vị thánh tổ của ngành y dược Việt Nam. Từ Hà Nội đi xuôi về phía Hải Dương theo đường Quốc lộ 5A hơn 40km đến ngã tư chợ Ghẽ rẽ trái chừng 3km là đến Chùa Giám. Chùa được xây dựng từ thời Lý và được Tuệ Tĩnh trùng tu, tôn tạo vào thế kỷ 14. Đến cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, chùa được xây dựng lại với quy mô lớn theo kiểu “nội công, ngoại quốc.” Chùa được xếp hạng di tích quốc gia năm 1974. Chùa Giám tên chữ là “Nghiêm Quang Tự.” Căn cứ vào 2 tấm bia ký Chính Hòa năm 17 “Bính Tý niên 1696”, Chính Hòa thứ 22 “Tân Tỵ niên 1701.” Chùa Giám Cẩm Sơn trước đây thuộc tổng An Trang, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Xã Cẩm Sơn trước đây thuộc huyện Lương Tài , Bắc Ninh , đến năm 1897 thời Pháp thuộc thay đổi địa giới hành chính chuyển về huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, do đó có khắc chữ ở quả chuông đồng và cột chùa ghi là An Trang xã, Lương Tài huyện, Bắc Ninh. Chùa Giám hiện còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị. Đó là những chuông lớn, bia đá, tượng Phật cổ xưa … Một số pho tượng ở đây còn là những tiêu bản tượng gốc, dựa vào hình dáng các pho tượng này người ta đã tạo ra những pho tượng khác để thờ ở nhiều nơi trong cả nước. Một trong sáu mặt của tòa Cửu phẩm Liên Hoa. (Nguồn: Báo ảnh Việt Nam) Tòa Cửu phẩm Liên Hoa là một trong những cổ vật có giá trị đặc biệt, điểm nhấn của ngôi chùa Giám cổ kính. Tòa tháp bằng gỗ có tuổi đời khoảng 300 năm cao 4,44m với 9 tầng, mỗi tầng có 5 lớp cánh hoa sen. Chín tầng đài sen này tượng trưng cho 9 cấp tu hành chính quả của Phật giáo. Tòa Cửu phẩm có sáu mặt, mỗi mặt rộng 1,2m. Để tạo dựng một công trình ấn tượng có bố cục chặt chẽ, cân xứng, với đường nét tinh tế các nghệ nhân xưa dựng cột trụ lim ở giữa, 6 cột chạm khắc hình trúc hóa rồng ở chung quanh. Liên kết trụ giữa với các cột rồng bằng một hệ thống xà gánh đan chéo. Trên mỗi cạnh của tòa Cửu phẩm đặt 3 pho tượng Phật, mỗi tầng 18 pho. Ở tầng cao nhất trên nóc chỉ đặt một pho tượng Phật lớn cao 1m, đầu đội trần nhà. Với tổng cộng tất cả 145 pho tượng Phật, tòa Cửu phẩm nặng khoảng 4 tấn, tuy nhiên chỉ cần dùng tay đẩy nhẹ, cả tòa sen vẫn có thể từ từ quay vòng tròn. Cửu phẩm Liên Hoa ở chùa Giám hiện được xem là cổ vật có giá trị nghệ thuật kiến trúc Phật giáo đặc biệt. Cùng với hai tòa Cửu phẩm ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) và chùa Động Ngọ (Hải Dương), đây là một trong ba kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ truyền Việt Nam liên quan đến Phật giáo còn lưu giữ được đến ngày nay. Gian đặt tòa Cửu phẩm Liên Hoa (được gọi là nhà Phẩm) nhìn từ nhà tổ chùa Giám. (Nguồn: Báo ảnh Việt Nam) Không những thế, đây còn là nguồn tư liệu rất có giá trị lịch sử phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Với những giá trị đó, tòa Cửu phẩm Liên Hoa chùa Giám đã được chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia năm 2015. Cửu phẩm liên hoa không chỉ mang thông điệp từ bi, vị tha, bác ái của đạo Phật mà còn thể hiện sự phát triển của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử ở nước ta. Sự hiện diện của các tòa tháp Cửu phẩm liên hoa một lần nữa khẳng định nghệ thuật điêu khắc đỉnh cao ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 17, 18./.
Discover Nine Lotus Products - National Treasure at Giam Pagoda The Nine-Rank Lotus Palace is one of the especially valuable antiques, the highlight of the ancient Giam pagoda Hai Duong , recognized as a national treasure in 2015. With a height of 4.44m, the Nine-Piece Lien Hoa at Giam Pagoda is a horizontal-sized antique majestic, has special Buddhist architectural and artistic value. Visit Giam Pagoda in Cam Son commune, district Cam Giang , Hai Duong province, visitors will admire the Nine Products Lien Hoa - one of the especially valuable antiques, National treasures . As a famous spiritual site that preserves national treasures, Giam Pagoda is located on a 2-hectare area of ​​land. In addition to worshiping Buddha, it is also home to a statue worshiping the great physician Tue Tinh - the saintly founder of Vietnamese medicine and pharmacy. From Hanoi, go down towards Hai Duong along Highway 5A for more than 40km to Ghe market intersection, turn left about 3km to reach Giam Pagoda. The pagoda was built during the Ly Dynasty and was restored and embellished by Tue Tinh in the 14th century. By the late 17th and early 18th centuries, the pagoda was rebuilt on a large scale in the style of "domestic work, foreign country". ” The pagoda was ranked as a national monument in 1974. Giam Pagoda's literal name is "Nghiem Quang Tu." Based on the two steles inscribed in the 17th Chinh Hoa year "Binh Ty year 1696", the 22nd Chinh Hoa year "Tan Ty year 1701." Cam Son Pagoda was formerly located in An Trang canton, Thuong Hong district, Hai Duong town, now Cam Son commune, Cam Giang district, Hai Duong province. Cam Son commune was formerly part of the district Luong Tai , Bac Ninh In 1897, the French colonial period changed the administrative boundaries to Cam Giang district, Hai Duong province, so there were engravings on the bronze bell and pagoda pillar stating An Trang commune, Luong Tai district, Bac Ninh. Giam Pagoda still preserves many valuable relics and antiques. These are large bells, stone stele, ancient Buddha statues... Some statues here are also original statue specimens. Based on the shape of these statues, people have created other statues to worship in many places. in the country. One of the six sides of the Nine-Rank Lotus Palace. (Source: Vietnam Pictorial) The Nine-Rank Lotus Palace is one of the especially valuable antiques, a highlight of the ancient Giam pagoda. The wooden tower is about 300 years old and is 4.44m high with 9 floors, each floor has 5 layers of lotus petals. These nine levels of lotus symbolize the 9 levels of Buddhist practice. The Nine-Rank Court has six sides, each side is 1.2m wide. To create an impressive structure with a tight, symmetrical layout, with delicate lines, ancient artisans built an iron pillar in the middle, and 6 columns carved with dragon-shaped bamboo around it. Linking the middle pillar with the dragon columns with a system of cross beams. On each side of the Nine-Rank Court are placed 3 Buddha statues, 18 on each floor. On the highest floor, on the roof, there is only a large Buddha statue 1m high, with its head crowned by the ceiling. With a total of 145 Buddha statues, the Nine-Rank Lotus Court weighs about 4 tons, but with just a light push by your hand, the entire lotus throne can still slowly rotate. The nine-piece Lotus Flower at Giam Pagoda is currently considered a valuable antique art Special Buddhist architecture. Along with the two Nine-grade temples at But Thap Pagoda (Bac Ninh) and Dong Ngo Pagoda (Hai Duong), this is one of the three masterpiece of traditional Vietnamese wood carving art related to Buddhism still preserved today. The space where the Nine-Rank Lotus Palace is located (called the Pham House) is seen from the ancestral house of Giam Pagoda. (Source: Vietnam Pictorial) Not only that, this is also a very valuable source of information history serve scientific research. With those values, the Nine-Rank Lotus Temple at Giam Pagoda was recognized by the government as a national treasure in 2015. The nine-piece lotus flower not only carries the message of compassion, altruism, and charity of Buddhism but also represents the development of the Truc Lam Yen Tu Zen sect in our country. The presence of the Nine-Piece Lotus Towers once again affirms the pinnacle of sculpture art in Vietnam in the late 17th and 18th centuries./.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ viên tịch Đức pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam viên tịch lúc 3h22 ngày 21/10 tại Tổ đình Viên Minh, Hà Nội . Sáng 21/10, Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng, Đệ nhất Phó Pháp chủ kiêm Chủ tịch Hội đồng Giám luật Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, báo tin Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã viên tịch vào 3h22 ngày 21/10 tại Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên , Hà Nội. Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho biết Đức pháp chủ trụ thế 105 năm, hạ lạp 85 năm. Lễ nhập kim quan được cử hành lúc 13h ngày 21/10 tại Tổ đình Viên Minh. Lễ viếng chính thức từ 7h ngày 22/10 đến hết ngày 23/10. Lễ truy điệu được cử hành lúc 9h ngày 24/10, sau đó cung thỉnh kim quan Đại lão Hòa thượng nhập Bảo tháp trong khuôn viên Tổ đình Viên Minh. Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ thế danh là Bùi Văn Quý, sinh ngày 12/4/1917 tại thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh , tỉnh Ninh Bình. Ông xuất gia năm 1923 tại chùa Quán, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình . Ông là Đức Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự; Nguyên Trưởng ban Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Hà Tây (nay là TP Hà Nội); Uỷ viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Viện chủ Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng). Sinh thời, ông đã nhận Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Đại đoàn kết Dân tộc; Bằng khen của Thủ tướng, nhiều bằng tuyên dương công đức của GHPGVN và nhiều phần thưởng cao quý khác. Theo Đại đức Thích Chánh Thuần, trụ trì chùa Phúc Lâm (Thường Tín, Hà Nội), chức danh Pháp chủ dùng để gọi người lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Pháp chủ là người đứng đầu Hội đồng Chứng minh, là lãnh đạo cao nhất về mặt tinh thần, về mặt giáo pháp của tăng ni, phật tử cả nước. Ngôi vị Pháp chủ do Đại hội Phật giáo toàn quốc suy cử một vị Hòa thượng, và tại vị đến suốt đời. Từ khi thành lập năm 1981 đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có ba vị Pháp chủ. Hai vị tiền nhiệm của Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ là Trưởng lão Hòa thượng Thích Tâm Tịch và Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận. Do là vị Pháp chủ thứ 3, Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ thường được gọi là Đệ tam Pháp chủ.
Elder Venerable Thich Pho Tue passed away His Holiness the Patriarch of the Vietnam Buddhist Sangha passed away at 3:22 a.m. on October 21 at Vien Minh Ancestral Temple, Hanoi . On the morning of October 21, Venerable Elder Thich Tri Quang, First Deputy Dharma Lord and Chairman of the Council of Vinaya of the Vietnam Buddhist Sangha, announced that Venerable Thich Pho Tue had passed away at 3:22 a.m. October 21 at Vien Minh Patriarch (Rang Pagoda), Quang Lang commune, district Phu Xuyen , Hanoi. Venerable Thich Duc Thien, Vice President, General Secretary of the Executive Council of the Vietnam Buddhist Sangha, said that His Holiness the Dharma Lord lived in this world for 105 years, and he lived for 85 years. The ceremony to enter the golden coffin was held at 1:00 p.m. on October 21 at Vien Minh Ancestral Temple. The official visitation ceremony is from 7:00 a.m. on October 22 until October 23. The memorial service was held at 9:00 a.m. on October 24, then the Venerable Golden Mandarin was invited to enter the Stupa in the grounds of Vien Minh Patriarchal Temple. Venerable Elder Thich Pho Tue, whose name is Bui Van Quy, was born on April 12, 1917 in Phung Thien village, Khanh Tien commune, district Yen Khanh , Ninh Binh province. He became a monk in 1923 at Quan Pagoda, Khanh Phu commune, Yen Khanh district, province Ninh Binh . He is the Dharma Head of the Vietnam Buddhist Sangha Certification Council; Former Vice Chairman of the Board of Directors; Former Head of the Executive Committee of the Vietnamese Buddhist Sangha of Ha Tay province (now Hanoi City); Member of the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front; Abbot of To Vien Minh temple (Rang pagoda). During his lifetime, he received the Ho Chi Minh Medal and the Second Class Independence Medal; Great National Solidarity Medal; Certificate of Merit from the Prime Minister, many certificates praising the merits of the Vietnam Buddhist Sangha and many other noble awards. According to Venerable Thich Chanh Thuan, abbot of Phuc Lam Pagoda (Thuong Tin, Hanoi), the title Dharma Lord is used to call the highest leader of the Vietnam Buddhist Church. The Dharma Master is the head of the Evidence Council, the highest spiritual and dharma leader of monks, nuns, and Buddhists nationwide. The position of Dharma Master is appointed by the National Buddhist Congress to appoint a Venerable, and will remain in office for life. Since its establishment in 1981, the Vietnam Buddhist Sangha has had three Dharma leaders. The two predecessors of the Most Venerable Elder Thich Pho Tue were the Most Venerable Elder Thich Tam Tich and the Most Venerable Elder Thich Duc Nhuan. Because he is the third Dharma Lord, the Most Venerable Thich Pho Tue is often called the Third Dharma Lord.
Turbine gió ngoài khơi lớn nhất thế giới bắt đầu hoạt động Turbine gió Haliade-X 14 MW được lắp đặt ở trang trại điện gió ngoài khơi nước Anh, cung cấp điện cho hàng triệu hộ gia đình. Hơn 3 năm sau khi công bố kế hoạch xây dựng turbine gió ngoài khơi khổng lồ mang tên Haliade-X, GE Renewable Energy thông báo nguyên mẫu của thiết kế turbine ngoài khơi mới và mạnh nhất bắt đầu hoạt động với công suất 14 MW ở Rotterdam, Hà Lan. Haliade-X 14 MW là phiên bản cập nhật của mẫu turbine Haliade-X 13 MW đã được cấp phép hồi tháng 1/2021. Các kỹ sư đang bắt tay vào xin cấp phép cho mẫu Haliade-X 14 MW, biến GE Renewable Energy thành công ty đầu tiên trong ngành vận hành turbine công suất lớn cỡ này. Là phiên bản cao cấp hơn của những turbine sử dụng cùng loại móng nổi, mỗi cánh quạt của Haliade-X 14 dài 107 m và cao 260 m. Công ty cho biết turbine có khả năng sản xuất 74 GWh điện mỗi năm, giúp giảm 52.000 tấn khí CO2, tương đương khí thải do 11.000 chiếc xe sản sinh trong một năm. Khả năng sản xuất nhiều điện hơn từ một turbine có nghĩa số lượng turbine cần lắp đặt ở mỗi trang trại điện gió sẽ ít hơn. Ngoài góp phần giảm chi phí, điều này còn giúp đơn giản hóa công tác vận hành và bão dưỡng, nâng cao tính kinh tế và dễ tiếp cận của năng lượng tái tạo đối với khách hàng trên khắp thế giới. Mẫu turbine ngoài khơi hàng đầu Haliade-X 14 sẽ hoạt động thương mại ở trang trại điện gió ngoài khơi Dogger Bank C cách vùng bờ biển phía đông bắc nước Anh 130 km. Tại đây, 87 turbine gió sẽ được lắp đặt. Theo dự kiến, mỗi giai đoạn của dự án sẽ có công suất phát điện 1,4 GW. Cả ba giai đoạn có thể cung cấp điện cho 6 triệu hộ gia đình. Hiện nay, GE Renewable Energy đã sẵn sàng xin cấp phép cho phiên bản mẫu turbine 14 MW. Tuy nhiên, Haliade-X 14 có thể không nắm kỷ lục turbine gió ngoài khơi lớn và mạnh nhất thế giới trong thời gian dài. Mẫu turbine Vestas đang trong quá trình phát triển của Đan Mạch có công suất 15 MW, dự kiến xây dựng vào năm sau và đi vào sản xuất năm 2024. Turbine MySE công suất 16 MW của công ty MingYang Smart Energy ở Trung Quốc cũng bắt đầu sản xuất thương mại năm 2024. An Khang (Theo New Atlas )
The world's largest offshore wind turbine begins operation The 14 MW Haliade-X wind turbine was installed on a wind farm off the coast of England, providing electricity to millions of households. More than 3 years after announcing the plan build Giant offshore wind turbine named Haliade-X, GE Renewable Energy announced that the prototype of its new and most powerful offshore turbine design begins operating with a capacity of 14 MW in Rotterdam, Netherlands. Haliade-X 14 MW is an updated version of the Haliade-X 13 MW turbine model that was licensed in January 2021. Engineers are working on licensing the 14 MW Haliade-X model, making GE Renewable Energy the first company in the industry to operate a turbine of this magnitude. As a more advanced version of turbines using the same floating foundation, each blade of Haliade-X 14 is 107 m long and 260 m high. The company says the turbine is capable of producing 74 GWh of electricity per year, helping to reduce 52,000 tons of CO2 emissions, equivalent to the emissions produced by 11,000 cars in a year. The ability to produce more electricity from one turbine means fewer turbines need to be installed at each wind farm. In addition to contributing to cost reduction, this also simplifies operation and maintenance, improving efficiency economy and the accessibility of renewable energy to customers around the world. The flagship offshore turbine model Haliade-X 14 will operate commercially at the Dogger Bank C offshore wind farm 130 km off the northeast coast of England. Here, 87 wind turbines will be installed. As expected, each phase of the project will have a power generation capacity of 1.4 GW. All three phases can supply electricity to 6 million households. Currently, GE Renewable Energy is ready to apply for a license for the 14 MW turbine model. However, Haliade-X 14 may not hold the record for the world's largest and most powerful offshore wind turbine for long. The Vestas turbine model under development in Denmark has a capacity of 15 MW, expected to be built next year and go into production in 2024. The 16 MW MySE turbine of MingYang Smart Energy in China is also starting. Start commercial production in 2024. An Khang (According to New Atlas )
Những câu chuyện về Kỳ Ngoại hầu Cường Để và vua Duy Tân: Tư liệu quý lộ diện Mới đây, người viết may mắn có được tờ báo Pháp Combat (Chiến đấu) số ra ngày 16.7.1947, có một bài viết đề cập đến bản tuyên bố của cựu hoàng Duy Tân. Đây là một tư liệu quý lần đầu lộ diện, rất cần thiết cho người đọc yêu lịch sử và các nhà nghiên cứu. Bài báo có nhan đề Bản tuyên bố chính trị của cựu hoàng Việt Nam Duy Tân. Ở bài trước, chúng ta biết rằng vào ngày 29.8.1945, cựu hoàng Duy Tân có phổ biến một tuyên bố chính trị quan trọng đề cập nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ Việt – Pháp trong tình hình mới, khi cuộc thế chiến II đã kết thúc. Ngay phần đầu văn kiện này, cựu hoàng Duy Tân xác định rõ lập trường của mình: “Tôi nghĩ rằng tương lai của Việt Nam, dù là tương lai trước mắt, phải được đặt trên cơ sở tình hữu nghị và quyền lợi chung, chứ không phải trên ý tưởng thống trị…”. Tiếp sau đó, cựu hoàng đặt ra cho nước Pháp một yêu cầu thẳng thắn về sự cần phải loại bỏ ý tưởng “chia để trị” để chứng tỏ thiện chí đối với nhân dân Việt Nam. Đây là một trong những vấn đề thời sự nổi bật khi vào thời điểm này, chính quyền Pháp đang chuẩn bị cho sự ra đời của một thực thể chính trị gọi là chính thể Cộng hòa tự trị Nam kỳ; và cựu hoàng, thiếu tá thuộc lực lượng nước Pháp tự do, cực lực phản đối việc làm này. Trong bản tuyên bố, ông viết: “Tôi nghĩ rằng nước Pháp cần phải đưa ra chứng cứ về ý muốn thật sự nhằm giúp đỡ người Việt Nam trong sự phát triển , và như vậy sẽ đạt được sự tin cậy và gắn bó của họ. Chứng cứ ấy là sự triệt tiêu rào cản chia cách Bắc – Trung và Nam kỳ. Dân ba miền kết hợp với nhau, có một lý tưởng chung, gắn bó với lý tưởng đó, và để thực hiện lý tưởng, họ sẽ hợp tác toàn diện với Pháp, là nước có thể đảm bảo sử dụng quân đội để bảo vệ một nền kinh tế quốc gia hình thành nhờ vào sự hỗ trợ về vốn liếng và thiết bị của Pháp”. Với quan niệm cho rằng chế độ bảo hộ đang áp dụng cho Cambodge ((Campuchia)) là chế độ tốt nhất, cựu hoàng vạch ra một thể chế chính trị theo ông là phù hợp cho Việt Nam: “… kết hợp Trung và Bắc kỳ dưới hình thức một sự phục tùng duy nhất, trao cho cơ cấu trung ương quyền tự chủ toàn diện về kinh tế và nội trị, trong lúc vẫn dành cho quân đội và ngành ngoại giao Pháp sự bảo vệ và mối quan hệ với các quốc gia ngoài nước Pháp. Điều này sẽ diễn ra trong một thời kỳ mà sự kéo dài bao lâu sẽ được xác định tại Paris bởi thỏa hiệp giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Pháp. Về phương diện kinh tế là sự miễn trừ thuế quan giữa nước Pháp và Đông Dương; lắp đặt ngay các nhà máy để khai thác những nguyên liệu phổ biến nhất ở Đông Dương…”. Cuối cùng, ông tóm lược chủ trương chung của mình như sau: “Tóm lại, tôi nhắm đến Liên bang Đông Dương như sự kết hợp giữa một quốc gia Việt Nam tự trị với hai nước bảo hộ (ám chỉ Lào và Campuchia – Lê Nguyễn), tất cả đặt dưới quyền hành trực tiếp của một toàn quyền sẽ mang danh xưng là cao ủy của nước Cộng hòa Pháp. Viên cao ủy này sẽ có những quyết định dựa theo các nghị quyết của một hội đồng bao gồm đại diện của ba nước, về những vấn đề liên quan đến quyền lợi chung của Liên bang Đông Dương. Hiển nhiên là thể thức áp dụng hệ thống này phải là đối tượng của một cuộc nghiên cứu sâu xa được thực hiện trước khi có sự giải phóng lãnh thổ, để không bị buộc phải tuân theo những sự ngẫu hứng gây ra hậu quả tai hại”. Báo Combat trích bản tuyên bố của cựu hoàng Duy Tân Như vậy, có thể thấy qua bản tuyên bố này, chủ trương của cựu hoàng Duy Tân vẫn là một Liên bang Đông Dương, song nét mới mẻ ở đây là các nước trong liên bang có sự tự trị rộng rãi về kinh tế và nội trị, giao cho chính quốc (Pháp) đảm trách hai lĩnh vực quốc phòng và ngoại giao. Phần cuối tuyên bố của cựu hoàng như những di ngôn dành cho người ở lại: “Người Pháp cần phải biết rằng, với tư cách cá nhân, tôi sẵn sàng hy sinh vì họ, và rằng trong mọi hoàn cảnh, tôi sẽ hành động vì sự tốt đẹp của dân tộc tôi, cũng như vì sự tốt đẹp của nước Pháp, vì thế, tôi muốn rằng khi tôi chết đi, người ta có thể ghi trên phần mộ của tôi cái câu đã được ghi bên dưới pho tượng của tướng Foch (*) tại London, chỉ cần thay đổi cái tên: “Tôi ý thức được rằng phụng sự cho nước Pháp cũng là phụng sự cho chính đất nước của tôi”. (Lê Nguyễn trích dịch từ tư liệu riêng, báo Combat số ra ngày 16.7.1947). (còn tiếp) (*) Ferdinand Foch, tướng lãnh, người hùng của nước Pháp trong Thế chiến thứ nhất (1914 – 1918). Lê Nguyễn
Stories about Ky Ngoai Marquis Cuong De and King Duy Tan: Precious documents revealed Recently, the writer was fortunate enough to have the French newspaper Combat, dated July 16, 1947, with an article mentioning the declaration of former emperor Duy Tan. this is a Data The precious book appears for the first time, very necessary for history-loving readers and researchers. The article is titled Political Declaration of Former Vietnamese Emperor Duy Tan. In the previous article, we know that on August 29, 1945, former Emperor Duy Tan issued an important political statement mentioning many issues related to the Vietnam-France relationship in the new situation, when the world changed. War II has ended. Right at the beginning of this document, former Emperor Duy Tan clearly defined his stance: "I think that the future of Vietnam, even the immediate future, must be based on friendship and common interests, not on the idea of ​​domination…”. Next, the former emperor made a straightforward request to France about the need to eliminate the idea of ​​"divide and rule" to demonstrate goodwill towards the Vietnamese people. This is one of the prominent current issues when at this time, the French government is preparing for the birth of a political entity called the Autonomous Republic of Cochinchina; and the former emperor, a major in the Free French forces, strongly opposed this action. In the statement, he wrote: "I think that France needs to show evidence of its true will to help the Vietnamese people in their struggle." develop , and thus gain their trust and attachment. That evidence is the elimination of the barrier separating the North, Central and South. The people of the three regions come together, have a common ideal, are attached to that ideal, and to realize that ideal, they will cooperate fully with France, which can guarantee the use of the military to protect A national economy was formed thanks to the support of French capital and equipment. With the notion that the protectionist regime currently applied to Cambodia ((Cambodia)) is the best regime, the former emperor outlined a political regime that he believed was suitable for Vietnam: “…combining Central and Northern period in the form of a single submission, granting the central structure complete economic and domestic autonomy, while still affording the French military and diplomatic service protection and relations with the country outside France. This will take place over a period whose duration will be determined in Paris by compromise between the Vietnamese and French governments. Economically, there is tariff exemption between France and Indochina; Immediately install factories to exploit the most popular raw materials in Indochina...". Finally, he summarized his general policy as follows: “In short, I aim at the Indochina Federation as a combination of an autonomous Vietnam with two protectorates (referring to Laos and Cambodia – Le Nguyen), all under the direct authority of a whole. The authority will bear the title of High Commissioner of the French Republic. This high commissioner will make decisions based on the resolutions of a council consisting of representatives of the three countries, on issues related to the common interests of the Indochina Federation. It is obvious that the mode of application of this system must be the subject of an in-depth study carried out before the liberation of the territory, so as not to be forced to follow improvisations with disastrous consequences. ”. Combat newspaper quoted the statement of former Emperor Duy Tan Thus, it can be seen through this declaration that former Emperor Duy Tan's policy is still an Indochina Federation, but the new feature here is that the countries in the federation have extensive economic and internal autonomy. government, assigning the main country (France) to be responsible for two areas of defense and diplomacy. The last part of the former emperor's statement was like a testament to those who remained: "The French people need to know that, as an individual, I am willing to sacrifice for them, and that under all circumstances, I will act because of the good of my people, as well as for the good of France, therefore, I wish that when I die, the sentence that was inscribed under the statue of General Foch may be inscribed on my grave (* ) in London, just change the name: "I am aware that serving France is also serving my own country." (Translated by Le Nguyen from private documents, Combat newspaper issue dated July 16, 1947). (to be continued) (*) Ferdinand Foch, general, hero of France during World War I (1914 - 1918). Le Nguyen
Người duy nhất được trao 2 giải Nobel toàn phần Trên website nobelprize.org về lịch sử trao các giải thưởng Nobel, chính thức xác nhận nhà khoa học người Mỹ Linus Pauling (1901-1994) được trao 2 giải Nobel toàn phần trong các năm 1954 và 1962, trở thành người duy nhất nhận được vinh dự hiếm hoi này trong lịch sử 1,2 thế kỷ tồn tại giải thưởng Nobel danh giá hàng đầu thế giới. Cụ thể, nhà hóa học, hóa sinh học, giáo dục học, tác giả kiêm nhà hoạt động vì hòa bình kỳ cựu L. Pauling được trao lần đầu là giải Nobel Hóa học của năm 1954, do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển (KVA) trao tặng vì những đóng góp giúp phát triển một ngành khoa học mới là hóa học lượng tử. Đúng 8 năm sau, Giáo sư L. Pauling được trao lần thứ 2 là giải Nobel Hòa bình của năm 1962, do Ủy ban Nobel Vương quốc Na Uy (DNN) trao vì những hoạt động tích cực chống vũ khí hạt nhân và chiến tranh Việt Nam. Trong toàn bộ sự nghiệp của mình, Giáo sư – Tiến sĩ L. Pauling đã xuất bản hơn 1.200 bài báo và đầu sách, trong đó có khoảng 850 tài liệu về các chủ đề khoa học. Tạp chí khoa học New Scientist của Anh tôn vinh L. Pauling là 1 trong 20 nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời. Được biết, giải Nobel toàn phần chỉ trao cho một cá nhân duy nhất, được thụ hưởng trọn vẹn giải thưởng (1,1 triệu USD).
The only person to be awarded two full Nobel Prizes On the website nobelprize.org about the history of awarding Nobel Prizes, it is officially confirmed that American scientist Linus Pauling (1901-1994) was awarded two full Nobel Prizes in 1954 and 1962, becoming the only person to receive received this rare honor in the 1.2 century history of the world's most prestigious Nobel Prize. Specifically, chemists, biochemists, educationalists, author Veteran peace activist and activist L. Pauling was first awarded the Nobel Prize in Chemistry in 1954, awarded by the Royal Swedish Academy of Sciences (KVA) for his contributions to helping develop a scientific field. The new science is quantum chemistry. Exactly 8 years later, Professor L. Pauling was awarded the Nobel Peace Prize for the second time in 1962, by the Norwegian Nobel Committee (DNN) for his active activities against nuclear weapons and war. Vietnam. During his entire career, Professor - Dr. L. Pauling has published more than 1,200 articles and books, including about 850 documents on scientific topics. British science magazine New Scientist honored L. Pauling as one of the 20 greatest scientists of all time. It is known that the full Nobel Prize is only awarded to a single individual, who fully benefits the prize (1.1 million USD).
Vệ tinh ‘Made in Vietnam’ huỷ phóng trước một phút Lúc 7h50 (giờ Hà Nội) từ Trung tâm Vũ trụ Uchinoura, tỉnh Kagoshima (Nhật Bản), JAXA báo kế hoạch huỷ phóng vệ tinh do trục trặc ở trạm mặt đất. Theo kế hoạch, vệ tinh NanoDragon của Việt Nam sẽ phóng cùng 8 vệ tinh khác của Nhật Bản trong chương trình “Trình diễn công nghệ vệ tinh sáng tạo 2″- Innovative Satellite Technology Demonstration-2” của Cơ quan Hàng không – Vũ trụ Nhật Bản (JAXA) lúc 7h51 (giờ Hà Nội ). Trước thời điểm phóng 5 phút JAXA xác nhận tầm bay và các hệ thống an toàn bay đã “chuẩn bị” để khởi động. Vệ tinh cũng được thông báo đã sẵn sàng cất cánh tại Trung tâm Vũ trụ Uchinoura ở tây nam Nhật Bản. Tuy nhiên, chỉ trước một phút tên lửa rời bệ phóng, JAXA thông báo “sẽ không phóng tên lửa hôm nay”. TS Lê Xuân Huy, Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cho biết, lịch phóng tiếp theo JAXA sẽ ra thông báo sau. NanoDragon là vệ tinh dạng cubesat lớp nano nặng khoảng 4 kg, có kích thước 3U (100x100x340,5mm), được Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (VNSC) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phát triển. Quá trình nghiên cứu, thiết kế, tích hợp, thử nghiệm chức năng vệ tinh hoàn toàn được thực hiện tại Việt Nam, bởi các cán bộ nghiên cứu của VNSC. Toàn bộ cấu trúc cơ khí và mạch phân phối nguồn và một số mạch phụ trợ khác của vệ tinh cũng được tự chế tạo tại Việt Nam. Vệ tinh này được gửi sang Nhật Bản, bàn giao hôm 17/8 để chuyển đến bãi phóng Trung tâm Vũ trụ Uchinoura, tỉnh Kagoshima, kiểm tra các khâu cuối cùng, sẵn sàng vào bệ phóng. Vệ tinh NanoDragon được phát triển với mục đích chứng minh có thể dùng công nghệ chùm vệ tinh cỡ siêu nhỏ để thu tín hiệu nhận dạng tự động tàu thủy (Automatic Identification System – AIS) để theo dõi, giám sát phương tiện trên biển. Vệ tinh NanoDragon cũng được thiết kế để xác minh chất lượng của hệ thống điều khiển, xác định tư thế vệ tinh và một máy tính tiên tiến mới được phát triển riêng dành cho vệ tinh cỡ nhỏ. Vệ tinh NanoDragon dự kiến hoạt động ở quỹ đạo đồng bộ mặt trời ở độ cao khoảng 560 km. NanoDragon được nghiên cứu, thiết kế, chế tạo 100% tại Việt Nam. Sản phẩm nằm trong lộ trình phát triển Vệ tinh nhỏ “Made in Vietnam” của VNSC, theo “Chiến lược phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ vũ trụ đến năm 2030” Thủ tướng phê duyệt ngày 4/2/2021. Phương Hoa – Xuân Dương
The 'Made in Vietnam' satellite canceled its launch one minute before At 7:50 a.m. (Hanoi time) from the Uchinoura Space Center, Kagoshima Prefecture (Japan), JAXA announced its plan to cancel the satellite launch due to problems at the ground station. According to the plan, Vietnam's NanoDragon satellite will launch with eight other Japanese satellites in the program "Innovative Satellite Technology Demonstration-2" of the Aeronautics and Space Administration. Japan (JAXA) at 7:51 am (hour Hanoi ). 5 minutes before launch time, JAXA confirmed that the flight range and flight safety systems were "prepared" to launch. Satellites have also been notified ready took off at the Uchinoura Space Center in southwestern Japan. However, just one minute before the rocket left the launch pad, JAXA announced that it "will not launch the rocket today". Dr. Le Xuan Huy, Deputy General Director of the Vietnam Space Center, said that JAXA's next launch schedule will be announced later. NanoDragon is a nano-class cubesat satellite weighing about 4 kg, with dimensions of 3U (100x100x340.5mm), operated by the Space Center. Vietnam (VNSC) under the development of the Vietnam Academy of Science and Technology. The process of research, design, integration, and testing of satellite functions is completely carried out in Vietnam, by VNSC research staff. The entire mechanical structure, power distribution circuit and some other auxiliary circuits of the satellite are also self-made in Vietnam. This satellite was sent to Japan, handed over on August 17 to be transported to the Uchinoura Space Center launch site, Kagoshima Prefecture, for final inspection, ready to enter the launch pad. The NanoDragon satellite was developed with the purpose of demonstrating that it is possible to use micro-satellite beam technology to receive automatic ship identification signals (Automatic Identification System – AIS) to track and monitor vehicles at sea. The NanoDragon satellite is also designed to verify the quality of the control system, determine the satellite attitude and a new advanced computer developed specifically for small satellites. The NanoDragon satellite is expected to operate in a sun-synchronous orbit at an altitude of about 560 km. NanoDragon is 100% researched, designed and manufactured in Vietnam. The product is part of VNSC's "Made in Vietnam" Small Satellite development roadmap, according to the "Strategy for development and application of space science and technology until 2030" approved by the Prime Minister on February 4, 2021. Phuong Hoa – Xuan Duong
Người phụ nữ ngực trần bí ẩn và những sự thật đáng ngạc nhiên về giải Nobel Những sự thật đáng ngạc nhiên về giải thưởng Nobel khiến bạn bất ngờ xung quanh giải thưởng này. Lễ trao giải Nobel 2021 đang được tổ chức ở thủ đô Stockholm- Thụy Điển. Giải Nobel Y học được trao vào chiều 4/10, giải Nobel Vật lý trao ngày 5/10, giải Hóa học trao ngày 6/10, giải Văn học trao ngày 7/10 và Hòa bình trao ngày 8/10. Giải Nobel Kinh tế được trao cuối cùng, vào chiều 11/10. Nobel là một trong những giải thưởng danh giá nhất thế giới được trao cho những phát minh khoa học vĩ đại. Thế nhưng, cũng có không ít những điều thú vị khiến bạn bất ngờ. 1. Alfred Nobel, một người Thụy Điển phát minh ra thuốc nổ, rất hối hận vì sự đóng góp của mình cho chiến tranh nên đã quyết định trao 5 giải thưởng hàng năm cho những ai trong năm trước đó có những đóng góp to lớn cho nhân loại. Đây chính là khởi nguồn của giải Nobel danh giá hàng năm. 2. Trước khi qua đời, Alfred Nobel cũng đã để lại 31 triệu kroner Thụy Điển (tương đương 265 triệu đô la) để tài trợ cho các giải Nobel. 3. Bất kỳ ai còn sống đều có thể được đề cử giải Nobel. Tuy nhiên, nếu một người chết sau khi được đề cử thì người đó vẫn đủ điều kiện nhận giải. 4. Lê Đức Thọ (1911 – 1990) từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng với cố vấn ngoại giao Henry Kissinger vào năm 1973, nhưng ông đã từ chối nhận giải với lý do đất nước Việt Nam chưa thể có được hòa bình chừng nào chưa đánh đổ được chế độ tay sai của Mỹ. Đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt cho đến nay. 5. Những người được đề cử giải Nobel không hề được thông báo trước và tất cả hồ sơ đều được niêm phong trong 50 năm. 6. Những người tự ứng cử giải Nobel sẽ bị loại ngay. 7. Tính đến năm 2020, đã có 57 phụ nữ đã đoạt giải Nobel, nhưng lại có tổng cộng 58 giải Nobel đã được trao cho nữ giới. Lý do là bởi Marie Curie đã giành giải Nobel tới 2 lần, một lần về vật lý và một lần về hóa học. 8. Mặt sau của tấm huy chương giải Nobel Vật lý và Hóa học là hình một phụ nữ để ngực trần. Đến nay vẫn chưa có lời giải thích về người phụ nữ bí ẩn này. 9. Ngoài bà Marie Curie ra, còn một người nữa nhận giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau là Linus Pauling. Năm 1954, ông giành giải Nobel hóa học và năm 1962, nhận giải Nobel hòa bình. 10. Cũng có những tranh cãi liên quan tới giải Nobel. Điển hình như Linus Pauling hoàn toàn sai lầm khi khẳng định ADN có hình xoắn ốc ba. Thực ra cấu trúc chính xác của ADN là xoắn ốc đôi. Phát hiện này thuộc về James Watson, Francis Crick, và Maurice Wilkins với giải Nobel năm 1962. 11. Tranh cãi lớn nhất thuộc về giải Nobel Y học năm 1926 với “phát minh” đáng ngờ của Johannes Fibiger rằng chuột có thể phát triển ung thư do ăn gián nhiễm giun ký sinh. 12. Giải Nobel Y học năm 1949 của Antonio Egas Moniz cũng gây ra tranh cãi không kém về vấn đề phẫu thuật thùy não. 13. Nhà vật lý Lise Meitner, người đã có những tính toán dẫn đến phát minh về sự phân hạt nhân, được đề cử giải Nobel tới 13 lần, nhưng chưa lần nào được chấp nhận. 14. Người cộng sự của bà Lise Meitner, Otto Hahn, một mình nhận giải Nobel Hóa học về phát minh đó năm 1944; ông ta ở nước Đức Quốc xã trong khi bà Meitner, một phụ nữ Do Thái phải sang Thụy Điển năm 1938. 15. Năm 1992, nguyên tố 109 được gọi là meitnerium để tỏ lòng tôn vinh đối với bà Meitner, người được mệnh danh là “nhà khoa học nữ quan trọng nhất của thế kỷ này”. 16. Một người nổi tiếng khác và cũng vô cùng nổi tiếng, nhưng chưa bao giờ nhận giải Nobel là Gandhi. Ông đang được xem xét đề cử giải Nobel Hòa bình thì bị ám sát vào năm 1948. Mohandas Gandhi (1869-1948) từng là biểu tượng đậm nét cho tinh thần bất bạo động trong thế kỷ 20, nhưng lại chưa hề có một giải Nobel Hòa bình nào . 17. Paul Greengard – một đại diện của thời kỳ Phục hưng hiện đại không chỉ là người giành giải Nobel Y học năm 2000 mà còn là người về nhất trong cuộc thi vác bao khoai tây tại một đại hội hướng đạo sinh ở New York. 18. Để chứng minh giả thuyết cho rằng vi khuẩn Helicobacter pylori gây loét dạ dày, bác sĩ Barry Marshall đã uống nguyên một mẻ cấy vi khuẩn xoắn ốc khi ông đoạt giải Nobel về sinh lý học và y khoa năm 2005. Đây vốn là một giả thuyết mà ban đầu bị nhiều người chế giễu. 19. Huy chương Nobel làm bằng vàng 18 ca-ra, nặng 150 gram. Một số tấm huy chương Nobel đã được chủ nhân mang ra bán đấu giá, thường dao động từ 500.000 đến 1 triệu đô la. Từ năm 2014, việc bán huy chương Nobel trở nên phổ biến. Kỷ lục ghi nhận thuộc về James Watson, với tấm huy chương được bán đấu giá lên tới 4,7 triệu USD. 20. Tuổi trung bình của những người đoạt giải Nobel trên tất cả các hạng mục giải thưởng là 59. Người đoạt giải cao nhất là Leonid Hurwicz, 90 tuổi, với giải Nobel Kinh tế năm 2007. Người đoạt giải trẻ nhất là Malala Yousafzai khi mới 17 tuổi, với giải Hoa khôi Hòa bình năm 2014. Minh Khôi
The mysterious topless woman and surprising facts about the Nobel Prize Surprising facts about the Nobel Prize that will surprise you surrounding this award. Nobel Prize Award Ceremony 2021 is being held in Stockholm - Sweden. Nobel Prize in Medicine Awarded on the afternoon of October 4, the prize Nobel Physics awarded on October 5, Chemistry prize awarded on October 6, Literature prize awarded on October 7 and Peace prize awarded on October 8. The Nobel Prize in Economics was awarded last, on the afternoon of October 11. Nobel is one of the most prestigious awards world awarded for great scientific inventions. However, there are also many interesting things that will surprise you. 1. Alfred Nobel, a Swedish inventor of dynamite, regretted his contribution to the war so he decided to award 5 prize every year for those who in the previous year made great contributions to humanity. This is the origin of the prestigious annual Nobel Prize. 2. Before his death, Alfred Nobel also left 31 million Swedish kroner (equivalent to 265 million dollars) to fund the Nobel Prizes. 3. Anyone alive can be nominated for a Nobel Prize. However, if a person dies after being nominated, he or she is still eligible to receive the award. 4. Le Duc Tho (1911 - 1990) was awarded the Nobel Peace Prize along with diplomatic advisor Henry Kissinger in 1973, but he refused to accept the award on the grounds that Vietnam could not yet have peace. as long as the US minion regime has not been overthrown. It is the only Nobel Prize awarded to Vietnamese people to date. 5. Nobel Prize nominees are not notified in advance and all records are sealed for 50 years. 6. Self-nominees for the Nobel Prize will be immediately disqualified. 7. As of 2020, there have been 57 women who have won the Nobel Prize, but a total of 58 Nobel Prizes have been awarded to women. The reason is because Marie Curie won the Nobel Prize twice, once in physics and once in chemistry. 8. On the back of the Nobel Prize medal in Physics and Chemistry is a picture of a topless woman. To date, there is still no explanation for this mysterious woman. 9. Besides Marie Curie, there is another person who received Nobel Prizes in two different fields: Linus Pauling. In 1954, he won the Nobel Prize in Chemistry and in 1962, received the Nobel Peace Prize. 10. There are also controversies related to the Nobel Prize. For example, Linus Pauling was completely wrong when he asserted that DNA has a triple helix shape. In fact, the exact structure of DNA is a double helix. This discovery went to James Watson, Francis Crick, and Maurice Wilkins with the Nobel Prize in 1962. 11. The biggest controversy belongs to the 1926 Nobel Prize in Medicine with Johannes Fibiger's questionable "discovery" that rats can develop cancer from eating cockroaches infected with parasitic worms. 12. Antonio Egas Moniz's 1949 Nobel Prize in Medicine also caused controversy over the issue of lobotomy. 13. Physicist Lise Meitner, whose calculations led to the invention of nuclear fission, was nominated for the Nobel Prize 13 times, but was never accepted. 14. Lise Meitner's collaborator, Otto Hahn, alone received the Nobel Prize in Chemistry for that invention in 1944; he was in Nazi Germany while Mrs. Meitner, a Jewish woman, had to go to Sweden in 1938. 15. In 1992, element 109 was named meitnerium in honor of it honor for Ms. Meitner, who has been called “the most important female scientist of this century.” 16. Another famous and extremely famous person who never received a Nobel Prize is Gandhi. He was being considered for the Nobel Peace Prize when he was assassinated in 1948. Mohandas Gandhi (1869-1948) was a bold symbol of non-violence in the 20th century, but never won a Nobel Peace Prize. . 17. Paul Greengard - a representative of the modern Renaissance is not only the winner of the Nobel Prize in Medicine in 2000 but also the first runner-up in the potato bag carrying contest at a Boy Scout convention in New York. 18. To prove the hypothesis that Helicobacter pylori causes stomach ulcers, Dr. Barry Marshall drank an entire batch of spiral bacteria culture when he won the Nobel Prize in physiology and medicine in 2005. This was originally a theory that was initially ridiculed by many. 19. The Nobel medal is made of 18 carat gold, weighs 150 grams. A number of Nobel medals have been auctioned by their owners, usually ranging from $500,000 to $1 million. Since 2014, selling Nobel medals has become popular. The record belongs to James Watson, whose medal was auctioned for up to 4.7 million USD. 20. The average age of Nobel laureates across all prize categories is 59. The highest laureate is Leonid Hurwicz, 90, who won the Nobel Prize in Economics in 2007. The youngest laureate is Malala Yousafzai at the age of 17, with the Miss Peace award in 2014. Intelligent Recovery
Việt Nam sản xuất thành công lô vaccine Sputnik V đầu tiên từ bán thành phẩm Chiều 24/9, Công ty trách nhiệm hữu hạn MTV Vắc xin và Sinh phẩm số 1 (Vabiotech), Bộ Y tế đã công bố sản xuất thành công lô vaccine COVID-19 Sputnik V đầu tiên tại Việt Nam. Lô vaccine Sputnik V gia công tại Vabiotech đã được Viện Nghiên cứu Quốc gia về dịch tễ học và vi sinh vật Gamaleya phân tích, thẩm định và đánh giá đáp ứng yêu cầu. Trước đó, ngày 26/8, lô vaccine Sputnik V mã số SV-030721M sản xuất tại Vabiotech đã được Viện Nghiên cứu quốc gia về dịch tễ học và vi sinh vật Gamalaya, Liên bang Nga phân tích, thẩm định và đánh giá đáp ứng yêu cầu của tài liệu quy chuẩn. “Thành công này sẽ giúp Việt Nam sớm tiếp cận được nguồn vaccine chất lượng, góp phần đẩy lùi dịch bệnh COVID-19. Trong tháng 9 này, Công ty sẽ làm thủ tục nhập bán thành phẩm vaccine Sputnik V về Việt Nam để nhanh chóng đóng ống, đóng gói vaccine này tại Việt Nam nhằm chủ động nguồn cung vaccine Sputnik V tại Việt Nam”, ông Đỗ Tuấn Đạt, Chủ tịch Vabiotech chia sẻ. Vaccine Sputnik V phát triển dựa trên nền tảng vectơ adenovirus được đăng ký đầu tiên trên thế giới, lịch tiêm là 2 mũi, khoảng cách giữa 2 mũi là 3 tuần. Theo kết quả thử nghiệm lâm sàng được công bố trên tạp chí “The Lancet”, vaccine Sputnik V đạt hiệu quả lên tới 91,6 %. Riêng đối với tình nguyện viên trên 60 tuổi, tỷ lệ này là 91,8%. Sau tiêm, 98 % tình nguyện viên có kháng thể chống lại virus SARS-CoV-2. Tại Việt Nam, vaccine Sputnik V đã được Bộ Y tế cấp phép sử dụng khẩn cấp có điều kiện vào ngày 23/3. Ngày 21/7, Vabiotech đã chính thức công bố việc sản xuất thử nghiệm vaccine Sputnik V tại Việt Nam. Ông Đạt cho biết Vabiotech cũng thúc đẩy việc nộp hồ sơ vaccine Sputnik Light để nhanh chóng đăng ký sớm cho vaccine này, sau đó Vabiotec sẽ trao đổi với nhà cung cấp ở Nga để đóng gói đóng ống vaccine này tại Việt Nam. Khác với các loại vaccine khác, Sputnik Light chỉ cần tiêm 1 liều duy nhất.
Vietnam successfully produced the first batch of Sputnik V vaccine from semi-finished products On the afternoon of September 24, MTV Vaccines and Biological Products Limited Liability Company Không. 1 (Vabiotech), Ministry of Health announced the production success The first batch of COVID-19 Sputnik V vaccine in Vietnam. The batch of Sputnik V vaccine processed at Vabiotech has been analyzed, appraised and evaluated by the Gamaleya National Research Institute of Epidemiology and Microbiology to meet the requirements. Previously, on August 26, the batch of Sputnik V vaccine code SV-030721M produced at Vabiotech was analyzed, evaluated and met by the Gamalaya National Research Institute of Epidemiology and Microbiology, Russian Federation. Meet the requirements of standard documents. “This success will help Vietnam soon access quality vaccines, contributing to repelling the COVID-19 epidemic. This September, the Company will carry out procedures to import semi-finished products of Sputnik V vaccine to Vietnam to quickly tube and package this vaccine in Vietnam to actively supply Sputnik V vaccine in Vietnam", Mr. Do Tuan Dat, Chairman of Vabiotech shared. Sputnik V vaccine is developed based on the world's first registered adenovirus vector platform, the injection schedule is 2 shots, the interval between 2 shots is 3 weeks. According to clinical trial results published in "The Lancet" magazine, the Sputnik V vaccine is up to 91.6% effective. Particularly for volunteers over 60 years old, this rate is 91.8%. After injection, 98% of volunteers had antibodies against SARS-CoV-2 virus. In Vietnam, the Sputnik V vaccine was licensed for conditional emergency use by the Ministry of Health on March 23. On July 21, Vabiotech officially announced the trial production of Sputnik V vaccine in Vietnam. Mr. Dat said that Vabiotech is also promoting the submission of Sputnik Light vaccine documents to quickly register this vaccine early, after which Vabiotec will discuss with suppliers in Russia to package this vaccine tube in Vietnam. Unlike other vaccines, Sputnik Light only requires a single dose.
20 năm nhìn lại đảo nhân tạo lớn nhất thế giới hình cây cọ Palm Jumeirah là đảo nhân tạo lớn nhất thế giới được xây dựng 20 năm trước ở Dubai và là biểu tượng của tiểu vương quốc này. Việc nạo vét và đặt móng cho đảo Palm bắt đầu vào năm 2001 ở tiểu vương quốc Dubai, thuộc Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE). 6 năm sau, những cư dân đầu tiên của hòn đảo đã chuyển đến sinh sống. Tàu và sà lan bắt đầu xây dựng dự án đảo Palm ở Dubai. Hệ thống Định vị Toàn cầu (GPS) được đưa vào không gian ở độ cao khoảng 676 km để định vị chính xác hình dạng của đảo Palm. Kết cấu độc đáo của Palm Jumeirah bao gồm lượng cát khổng lồ 95 triệu mét khối. Hòn đảo giống như một cây cọ cách điệu, hình thành từ cát được nạo vét ở đáy vịnh Ba Tư. Ngoài ra, 7 triệu tấn đá đã được khai thác từ dãy núi Hajar và được vận chuyển để xây đảo. Trong ảnh là đảo Palm nhìn từ trên cao vào năm 2005. Cơ sở hạ tầng cơ bản đã được hoàn thành vào năm 2004, và hòn đảo được mở cửa xây dựng vào năm 2006. Một trong những sự thật thú vị nhất về kỹ thuật xây dựng đảo nhân tạo Palm Jumeirah là chỉ hoàn toàn sử dụng cát và đá, không có thép hoặc bê tông. Điều này được thực hiện theo cam kết của tiểu vương Dubai Mohammed bin Rashid Al Maktoum, người đưa ra ý tưởng xây đảo cây cọ. Ảnh chụp từ trực thăng năm 2007 cho thấy các công trình xây dựng đang được tiến hành tại Palm Jumeirah. Pháo hoa trong lễ khánh thành khu nghỉ dưỡng Atlantis, The Palm ở Dubai ngày 21/11/2008. Khu nghỉ dưỡng lớn trị giá 1,5 tỷ USD với 1.539 phòng là khu nghỉ mát đầu tiên mở cửa trên đảo Palm Jumeirah. Đảo Palm Jumeirah dài 5 km, gồm một thân cây, 16 nhánh lá cọ, với phần bao quanh bên ngoài hình trăng khuyết gần 17 km tạo thành đê chắn sóng. Ngoài ra còn có tuyến tàu điện một làn nối Palm Jumeirah với đường bờ biển của Dubai. Tuyến tàu điện này vận chuyển hơn 20.000 lượt khách mỗi ngày. Palm Jumeirah thu hút người nổi tiếng từ khắp nơi trên thế giới. Cầu thủ bóng đá Anh David Beckham sở hữu một biệt thự ở Palm Jumeirah. Siêu sao Bollywood Shahrukh Khan cũng có một biệt thự 6 phòng ngủ ở Palm Jumeirah và hòn đảo này là điểm lưu trú yêu thích của ông. Palm Fountain được khánh thành ngày 22/10/2020 tại Point Palm Jumeirah. Palm Fountain phá kỷ lục là đài phun nước lớn nhất thế giới với 7.327 mét vuông. The View at The Palm, một đài quan sát giúp quan sát toàn cảnh 360 độ về Palm Jumeirah, mở cửa cho công chúng hôm 7/4. Những ngôi nhà tráng lệ, khu nghỉ dưỡng khách sạn và một số địa điểm ăn uống sang trọng trên đảo nhìn từ The View at The Palm.
20 years looking back at the world's largest artificial island shaped like a palm tree Palm Jumeirah is the world's largest artificial island built 20 years ago in Dubai and is the symbol of this emirate. Dredging and laying foundations for Palm Island began in 2001 in the emirate of Dubai, in the United Arab Emirates (UAE). 6 years later, the first residents of the island moved in. Ships and barges begin construction of the Palm Island project in Dubai. The Global Positioning System (GPS) was sent into space at an altitude of about 676 km to accurately locate the shape of Palm Island. The unique structure of Palm Jumeirah includes a whopping 95 million cubic meters of sand. The island resembles a stylized palm tree, formed from sand dredged from the bottom of the Persian Gulf. In addition, 7 million tons of stone were mined from the Hajar Mountains and transported to build the island. Pictured is Palm Island seen from above in 2005. Basic infrastructure was completed in 2004, and the island opened for construction in 2006. One of the most interesting facts about the construction technique of the artificial island of Palm Jumeirah is that it only used sand and stone, without steel or concrete. This is done according to the commitment of Dubai emir Mohammed bin Rashid Al Maktoum, who came up with the idea of ​​building a palm tree island. A 2007 helicopter photo shows construction works underway at Palm Jumeirah. Fireworks at the inauguration ceremony of Atlantis resort, The Palm in Dubai on November 21, 2008. The $1.5 billion mega-resort with 1,539 rooms is the first resort to open on Palm Jumeirah island. Palm Jumeirah Island is 5 km long, consisting of a tree trunk, 16 palm leaf branches, with a crescent-shaped outer part of nearly 17 km forming a breakwater. There is also a single-lane tram line connecting Palm Jumeirah to Dubai's coastline. This train line transports more than 20,000 passengers every day. Palm Jumeirah attracts celebrities from all over the world. English football player David Beckham owns a villa in Palm Jumeirah. Bollywood superstar Shahrukh Khan also has a six-bedroom villa in Palm Jumeirah and the island is his favorite place to stay. Palm Fountain was inaugurated on October 22, 2020 at Point Palm Jumeirah. Palm Fountain breaks the record as the world's largest fountain with 7,327 square meters. The View at The Palm, an observation deck that offers 360-degree panoramic views of Palm Jumeirah, opened to the public on April 7. Magnificent homes, hotel resorts and several places to eat luxurious on the island seen from The View at The Palm.
Tổng thống Mỹ ký sắc lệnh giải mật tài liệu về sự kiện 11/9 Ngày 4/9, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã ký sắc lệnh hành pháp chỉ đạo Bộ Tư pháp và một số cơ quan khác xem xét, công bố một phần tài liệu liên quan đến cuộc điều tra của Cục Điều tra Liên bang (FBI) đối với hai cuộc tấn công khủng bố nhằm vào nước Mỹ ngày 11/9 cách đây đúng 20 năm. Ngay từ khi tranh cử tổng thống, ông Biden đã cam kết bảo đảm sự minh bạch trong tiến trình giải mật tài liệu này. Theo sắc lệnh vừa được ký, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên bang khác sẽ bắt đầu xem xét các tài liệu liên quan loạt vụ khủng bố hôm 11/9/2001 và Bộ trưởng Tư pháp sẽ công bố thông tin được giải mật trong vòng 6 tháng tới. Chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện Adam Schiff cho biết việc xem xét sẽ được một hội đồng giám sát, nhằm đảm bảo mức độ minh bạch tối đa trong quá trình đánh giá. Phát biểu sau khi ký sắc lệnh trên, Tổng thống Biden cam kết tiến trình giải mật sẽ được tiến hành theo cách tôn trọng gia đình các nạn nhân thiệt mạng nhằm an ủi các gia đình sau nhiều năm muốn biết thêm thông tin về sự kiện đau lòng. “Chúng ta không bao giờ được quên nỗi đau dai dẳng của gia đình và người thân của 2.977 người dân vô tội đã thiệt mạng trong cuộc tấn công khủng bố tồi tệ nhất lịch sử nước Mỹ. Đối với họ, đó không chỉ là thảm kịch quốc gia và quốc tế, mà là của cá nhân”, ông Biden nhấn mạnh. Đại diện nhóm các gia đình nạn nhân 11/9 đã ca ngợi sắc lệnh hành pháp trên, đồng thời bày tỏ hy vọng chính quyền sẽ bảo đảm công lý cho những người đã thiệt mạng cũng như trong việc khắc phục những thiệt hại to lớn. Mỹ công bố kế hoạch giải mật tài liệu sau đúng 20 năm xảy ra sự kiện 11/9. Hiện Nhà trắng chưa thông báo địa điểm ông Biden dự lễ kỷ niệm, nhưng theo truyền thông sở tại, nhiều khả năng ông Biden sẽ dự lễ kỷ niệm tổ chức ở thành phố New York.
The US President signed an executive order to declassify documents on the 9/11 event On September 4, US President Joe Biden signed an executive order directing the Department of Justice and a number of other agencies to review and release part of the documents related to the investigation by the Federal Bureau of Investigation (FBI). ) for the two terrorist attacks on the United States on September 11 exactly 20 years ago. Since running for president, Mr. Biden has pledged to ensure transparency in the process of declassifying this document. According to the recently signed order, the Department of Justice and other federal agencies will begin reviewing documents related to the terrorist attacks on September 11, 2001 and the Attorney General will release declassified information. within the next 6 months. House Intelligence Committee Chairman Adam Schiff said the review will be overseen by an oversight panel, to ensure the maximum level of transparency in the review process. Speaking after signing the above order, President Biden pledged that the declassification process would be conducted in a way that respects the families of the victims to comfort families after many years of wanting more information about the event. hurt. “We must never forget the enduring pain of the families and loved ones of the 2,977 innocent people who lost their lives in the worst terrorist attack in American history. For them, it is not just a national and international tragedy, but personal,” Mr. Biden emphasized. Representatives of the group of families of 9/11 victims praised the above executive order, and expressed hope that the government will ensure justice for those who died as well as overcome the huge damages. . America announced plan declassified documents exactly 20 years after the 9/11 incident. The White House has not yet announced the location where Mr. Biden will attend the celebration, but according to local media, it is likely that Mr. Biden will attend the celebration held in New York City.
Lệ hồi tỵ độc đáo của Việt Nam từng áp dụng rất nghiêm ngặt dưới triều Nguyễn Lệ hồi tỵ là từ Hán Việt, có nghĩa là tránh đi, được đặt ra để ngăn chặn tình trạng nhiều người trong một đại gia đình làm chung dễ dẫn đến liên kết nhũng nhiễu người dân, được thực hiện rất nghiêm ngặt dưới triều Nguyễn. Dưới triều Nguyễn, lệ hồi tỵ được áp dụng rất chặt chẽ, cha con, anh em, họ hàng thân thích không được làm chung với nhau trong một nha môn hay một hạt, nếu triều đình không biết mối quan hệ giữa họ với nhau mà bổ về làm chung thì các đương sự phải tự khai để đổi một người đi chỗ khác. Ở mỗi khoa thi, các quan chức được cử làm khảo quan mà có anh em hay con cháu dự kỳ thi đó thì cũng phải xin hồi tỵ. Đội vệ binh dưới triều Nguyễn Ảnh: T.L Trong tác phẩm mới Xã hội Việt Nam thời Lê – Nguyễn (do Dtbooks và NXB Hồng Đức) vừa ấn hành, tác giả Lê Nguyễn kể: “Năm 1831, vua Minh Mạng định rằng các quan chức ở ngạch thông phán (tòng lục phẩm), kinh lịch (chánh thất phẩm) ở các trấn, nếu là người ở bản hạt, phải đổi đi qua một hạt khác để tránh vì tình riêng mà sinh ra những điều tệ hại. Năm 1836, nhà vua lại định rằng những quan chức làm ở một nha môn từ 3 năm trở lên phải được đổi sang nha môn khác; các thông lại, lại mục nguyên quán ở phủ huyện nào thì không được làm việc tại phủ huyện đó. Đến triều Thiệu Trị, năm 1844, nhà vua còn đi xa hơn, định rằng những họ hàng có tang phục ba tháng trở lên, những người là bố vợ, anh em ruột của vợ, chồng chị, chồng em của vợ đều phải hồi tỵ, không được làm chung với nhau tại một nha môn”. Cũng theo sách đã dẫn: “Đến triều Đồng Khánh, năm 1887, triều đình định rằng các quan lại làm cùng một tỉnh hay một nha môn, những người có nguyên quán cùng một huyện mà lại có giao tình thân thiết thì được cho hồi tỵ. Trong cùng một bộ hay một tỉnh, nếu trong bốn ấn quan (quan lại có sử dụng ấn tín, từ chánh ngũ phẩm trở lên), có đến ba người xuất thân cùng một hạt thì những người này cũng phải hồi tỵ. Trong trường hợp có người cùng làm ở chung làng với mẹ hay vợ thì phải trình báo quan trên và đợi chỉ nhà vua định đoạt” Trong số các trường hợp đó thì nhà nghiên cứu Lê Nguyễn tiết lộ cụ Phan Thanh Giản được xem là một nhân vật tiêu biểu cho tinh thần “bất vị thân”. Khi cụ giữ tới chức Kinh lược sứ, hàm Hiệp biện Đại học sĩ, nhất phẩm triều đình nhưng các con trai cụ là Phan Liêm và Phan Tôn, dù tuổi đời đã trên dưới 30, vẫn không có một địa vị nào đáng kể trong xã hội. Chân dung quan đại thần Phan Thanh Giản ẢNH: T.L CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU LÊ NGUYỄN Được biết, tại miền Nam trước 1975, thì lệ hồi tỵ trong ngành tư pháp khá cụ thể và rõ ràng, nếu như viên chánh án một tỉnh thụ lý một vụ án mà nguyên cáo hay bị cáo, nguyên đơn hay bị đơn có quan hệ huyết thống hoặc mối thâm giao với mình, viên chức này sẽ xin hồi tỵ, cơ quan tư pháp trung ương sẽ cử một chánh án khác ở nơi gần đó sang xét xử nội vụ. Nhờ đó, tránh được những tiêu cực xảy ra có thể gây bất bình trong dư luận. “Vì vậy, dẫu có lệ hồi tỵ hay không thì vào thời nào và ở đâu cũng vậy, nếu để xảy ra những kẻ chỉ biết lạm dụng chức quyền, trọng dụng bọn dốt nát và xu nịnh, quay lưng ngoảnh mặt lại với người tài, sẽ mang trọng tội với lịch sử …”, tác giả Lê Nguyễn nhấn mạnh trong sách Xã hội Việt Nam thời Lê – Nguyễn . Quỳnh Trân
Vietnam's unique law of returning slaves was applied very strictly during the Nguyen Dynasty The law of returning to the snare is a Sino-Vietnamese word, meaning to avoid. It was created to prevent the situation where many people in a large family working together could easily lead to collusion and harassment of the people. It was implemented very strictly during the Nguyen Dynasty. . During the Nguyen Dynasty, the rule of return was strictly applied. Fathers, sons, brothers, and relatives were not allowed to work together in the same family or county if the court did not know their relationship with each other. If they decide to work together, the parties must declare themselves in order to change one person to another place. In each exam department, officials appointed as judges who have brothers or descendants participating in that exam must also apply for resignation. Guards under the Nguyen Dynasty Photo: T.L In work new Vietnamese society during the Le - Nguyen dynasties (by Dtbooks and Hong Duc Publishing House) just published, author Le Nguyen said: "In 1831, King Minh Mang decided that officials in the ranks of general judge (sixth grade), economic (seventh grade) in the towns , if you are from this county, you must change to another county to avoid bad things arising out of personal love. In 1836, the king decided that officials who worked at one department for 3 years or more must be transferred to another department; If you are from any district where you are originally from, you are not allowed to work in that district. During the reign of Thieu Tri, in 1844, the king went even further, determining that relatives who were in mourning for three months or more, those who were the father-in-law, the wife's siblings, the wife's sister-in-law, and the wife's younger brother's husbands, had to return home. If you are jealous, you are not allowed to work together at the same door. Also according to the cited book: "During the Dong Khanh dynasty, in 1887, the court decided that mandarins who worked in the same province or a mandarin, those who had their origin in the same district and had close relationships, would be allowed to return home. jealous. In the same ministry or province, if among the four seals (mandarins who use seals, from the fifth grade or higher), there are three people from the same county, then these people must also return. In case someone works in the same village as his mother or wife, he must report it to the superior and wait for the king to decide. Among those cases, researcher Le Nguyen revealed that Mr. Phan Thanh Gian is considered a character who represents the spirit of "selflessness". When he held the position of King's Ambassador, the rank of Grand Academician of Dialectics, and first rank in the royal court, his sons Phan Liem and Phan Ton, even though they were over 30 years old, still did not have a significant position in the royal court. society. Portrait of mandarin Phan Thanh Gian PHOTO: T.L. BY RESEARCHER LE NGUYEN It is known that in the South before 1975, the law on recusal in the judicial branch was quite specific and clear, if the chief judge of a province handled a case in which the plaintiff or defendant, the plaintiff or defendant, was involved. related to him by blood or close relationship, this official will request to return home, and the central judicial agency will appoint another judge from a nearby place to judge the case. Thanks to that, we can avoid negative events that could cause discontent in public opinion. “So, whether there is a custom of jealousy or not, in any time and place, if there are people who only know how to abuse their power, take advantage of the ignorant and flattering people, turn their backs on others. talent, will carry a serious crime history ...", author Le Nguyen emphasized in the book Vietnamese society during the Le - Nguyen dynasties . Quynh Tran
Tàu cảnh sát biển 8021 về Việt Nam Tàu CSB 8021 với lượng giãn nước 3.000 tấn được Mỹ chuyển giao về tới Việt Nam hồi đầu tháng 7. Con tàu được chính phủ Mỹ chuyển giao cho Việt Nam nhằm “chứng minh cho hợp tác an ninh hàng hải chặt chẽ giữa hai nước và giúp đảm bảo trật tự dựa trên quy tắc ở Biển Đông”, Đại sứ quán Mỹ đăng trên Facebook ngày 23/7, song không nêu rõ thời điểm tàu CSB 8021 cập cảng Việt Nam. “Hành trình từ Seattle với chặng dừng tại Hawaii và Guam đánh đấu hải trình dài nhất mà tàu quân sự Việt Nam từng thực hiện”, Đại sứ quán Mỹ cho biết. “Chúc mừng các thủy thủ Cảnh sát biển Việt Nam đã lập dấu mốc lịch sử”. Tàu CSB 8021, tên cũ là USCGC John Midgett, là tàu tuần tra cỡ lớn lớp Hamilton của Tuần duyên Mỹ, được khởi đóng ngày 5/4/1971 và loại biên năm 2020. Đây là tàu tuần tra lớp Hamilton thứ hai được Mỹ chuyển giao cho Việt Nam, thông qua Chương trình bán trang bị quốc phòng dư thừa (EDA), sau chiếc USCGC Morgenthau năm 2017. Tàu CSB 8021 lên đường về Việt Nam hôm 1/6. Tàu John Midgett trải qua đợt nâng cấp toàn diện hồi năm 1991, được nâng cấp vũ khí, cảm biến, bổ sung nhà chứa trực thăng, đại tu động cơ và cải thiện không gian sinh hoạt của thủy thủ đoàn. Phần lớn radar và vũ khí của tàu đã được tháo bỏ trước khi chuyển giao cho Cảnh sát biển Việt Nam, tàu chỉ được giữ lại pháo Otobreda cỡ 76 mm trước mũi. Tàu dài 115 m, rộng 13 m, có lượng giãn nước 3.050 tấn, được trang bị hai động cơ diesel và hai động cơ turbine khí, cho phép đạt tốc độ tối đa 54 km/h. Tàu có thể làm nhiệm vụ 45 ngày liên tục trên biển với tầm hoạt động 20.000 km. Mỹ gần đây tăng cường hợp tác với Việt Nam trên các lĩnh vực, đặc biệt là về an ninh hàng hải. Với mong muốn hỗ trợ Việt Nam tăng cường khả năng tuần tra trên biển, bảo vệ chủ quyền, an ninh hàng hải, Mỹ đã cung cấp nhiều phương tiện, tàu bè cho lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam. Ngoài tàu tuần tra của Tuần duyên, Mỹ đã bàn giao cho Việt Nam nhiều xuồng tuần tra Metal Shark, thể hiện sự hợp tác sâu sắc giữa hai nước trong thực thi pháp luật, tìm kiếm cứu nạn trên biển trong lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Coast Guard Ship 8021 returns to Vietnam Ship CSB 8021 with a displacement of 3,000 tons was delivered by the US Vietnam at the beginning of July. The ship was transferred to Vietnam by the US government to "demonstrate close maritime security cooperation between the two countries and help ensure rules-based order in the East Sea", the US Embassy posted on Facebook on Friday. July 23, but did not specify when ship CSB 8021 docked in Vietnam. "The journey from Seattle with stops in Hawaii and Guam marks the longest cruise ever made by a Vietnamese military ship," the US Embassy said. "Congratulations to the Vietnam Coast Guard sailors for setting a historic milestone." Ship CSB 8021, former name USCGC John Midgett, is a large Hamilton-class patrol ship of the US Coast Guard, started construction on April 5, 1971 and decommissioned in 2020. This is the second Hamilton-class patrol ship to be commissioned by the US. transferred to Vietnam, through the Excess Defense Equipment Sales Program (EDA), after the USCGC Morgenthau in 2017. Ship CSB 8021 sailed back to Vietnam on June 1. The John Midgett underwent a comprehensive upgrade in 1991, upgrading weapons and sensors, adding a helicopter hangar, overhauling the engine and improving the crew's living space. Most of the ship's radar and weapons were removed before being transferred to the Vietnam Coast Guard; the ship only retained the 76 mm Otobreda cannon on its bow. The ship is 115 m long, 13 m wide, has a displacement of 3,050 tons, is equipped with two diesel engines and two gas turbine engines, allowing a maximum speed of 54 km/h. The ship can be on duty for 45 consecutive days at sea with a range of 20,000 km. The US has recently increased cooperation with Vietnam in many fields, especially maritime security. With the desire to support Vietnam in enhancing its maritime patrol capabilities, protecting sovereignty and maritime security, the US has provided many vehicles and ships to the Vietnam Coast Guard. In addition to Coast Guard patrol boats, the US has handed over to Vietnam many Metal Shark patrol boats, demonstrating the deep cooperation between the two countries in law enforcement and search and rescue at sea in territorial waters and special zones. Vietnam's economic rights.
Tướng Mỹ lên máy bay rời Afghanistan sau cùng Tướng Donahue là người cuối cùng trong quân đội Mỹ lên vận tải cơ C-17 rời Afghanistan, kết thúc chiến dịch quân sự 20 năm tại quốc gia Trung Á. “Quân nhân Mỹ cuối cùng rời Afghanistan là thiếu tướng Christopher Donahue, chỉ huy sư đoàn dù 82 thuộc quân đoàn dù 18 lục quân, lên vận tải cơ C-17 ngày 30/8, kết thúc chiến dịch của Mỹ tại Afghanistan”, Bộ Quốc phòng Mỹ đăng trên Twitter vài giờ sau khi chuyến bay cuối cùng rời Afghanistan. Ảnh chụp bằng kính nhìn đêm cho thấy tướng Donahue mặc quân phục dã chiến với áo trang bị, đội mũ bảo hiểm gắn kính nhìn đêm và xách theo một khẩu súng trường hoặc carbine khi bước lên vận tải cơ C-17. Tướng Donahue cùng một tiểu đoàn và một lữ đoàn thuộc sư đoàn dù 82 được điều tới Afghanistan để hỗ trợ chiến dịch di tản công dân Mỹ, Afghanistan và các nước khác rời quốc gia Trung Á, Lầu Năm Góc cho biết ngày 17/8. Thiếu tướng Christopher Donahue bước lên vận tải cơ C-17 rời khỏi sân bay Kabul, Afghanistan ngày 30/8. Ảnh: USCENTCOM. Vận tải cơ C-17 của Mỹ cất cánh từ sân bay quốc tế Hamid Karzai lúc 11h59 ngày 30/8 (1h29 ngày 31/8 giờ Hà Nội), chở đại sứ Mỹ Ross Wilson và những lính Mỹ cuối cùng rời Kabul, khép lại hai tuần triển khai hoạt động di tản và 20 năm Mỹ mở chiến dịch quân sự tại Afghanistan. Khoảng 123.000 công dân nước ngoài và người Afghanistan được đưa khỏi quốc gia Trung Á sau khi Taliban nắm quyền. Giới chức quân sự Mỹ cho biết còn dưới 250 công dân nước này chưa rời Afghanistan, Ngoại trưởng Antony Blinken khẳng định sẽ hỗ trợ bất cứ công dân Mỹ nào muốn rời nước này. Trước khi rút khỏi Afghanistan, các binh sĩ Mỹ vô hiệu hóa hơn 70 máy bay, nhiều tổ hợp phòng thủ C-RAM, hàng chục thiết giáp kháng mìn và phương tiện quân sự cùng nhiều loại khí tài, trang bị khác. Lực lượng Mỹ quyết định duy trì hoạt động của tổ hợp C-RAM tại sân bay Kabul tới phút cuối và bắn hạ 5 rocket tập kích cơ sở này ngày 30/8. Sư đoàn dù 82 của Mỹ đóng quân tại căn cứ Fort Bragg, bang Bắc Carolina, là hạt nhân của Lực lượng Phản ứng Toàn cầu của Lầu Năm Góc với nhiệm vụ “ứng phó với các cuộc khủng hoảng ở bất cứ đâu trên thế giới trong 18 giờ”. Tướng Donahue tốt nghiệp Học viện Quân sự Mỹ tại West Point năm 1992 với quân hàm thiếu úy, sau đó là nghiên cứu sinh ở Đại học Harvard. Donahue 17 lần được điều động tham gia hỗ trợ các chiến dịch quân sự của Mỹ ở Afghanistan, Iraq, Syria, Bắc Phi và Đông Âu. Trong lần tham chiến gần nhất, tướng Donahue được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Lực lượng Đặc nhiệm Liên hợp Afghanistan tham gia chiến dịch Freedom’s Sentinel ở quốc gia Trung Á này. Nguyễn Tiến (Theo BQP Mỹ)
The American general boarded the plane to leave Afghanistan last General Donahue was the last person in the US military to board a C-17 transport plane to leave Afghanistan, ending the 20-year military campaign in the Central Asian country. "The last US soldier to leave Afghanistan was Major General Christopher Donahue, commander of the 82nd Airborne Division of the 18th Army Airborne Corps, boarding a C-17 transport on August 30, ending the US campaign in Afghanistan," The US Department of Defense posted on Twitter hours after the last flight left Afghanistan. Photos taken with night vision goggles show General Donahue wearing a field uniform with equipment vest, a helmet with night vision goggles and carrying a rifle or carbine as he boarded the C-17 transport. General Donahue and a battalion and a brigade of the 82nd Airborne Division were sent to Afghanistan to support the campaign to evacuate US citizens, Afghans and other countries from the Central Asian country, the Pentagon said on August 17. . Major General Christopher Donahue boarded a C-17 transport plane to leave Kabul airport, Afghanistan on August 30. Photo: USCENTCOM. The US C-17 transport took off from Hamid Karzai International Airport at 11:59 a.m. on August 30 (1:29 a.m. on August 31, Hanoi time), carrying US ambassador Ross Wilson and the last US soldiers to leave Kabul, closing the door. Another two weeks of evacuation operations and 20 years of the US launching a military campaign in Afghanistan. About 123,000 foreign nationals and Afghans were taken from the Central Asian country after the Taliban took power. Military officials America said that there are less than 250 American citizens who have not left Afghanistan. Secretary of State Antony Blinken affirmed that he will support any American citizen who wants to leave the country. Before withdrawing from Afghanistan, US soldiers disabled more than 70 aircraft, many C-RAM defense complexes, dozens of mine-resistant armored vehicles and military vehicles, along with many other types of weapons and equipment. US forces decided to maintain the operation of the C-RAM complex at Kabul airport until the last minute and shot down 5 rockets that attacked this facility on August 30. The US 82nd Airborne Division is stationed at Fort Bragg, North Carolina, and is the nucleus of the Pentagon's Global Response Force with the mission of "responding to crises anywhere in the world." in 18 hours”. General Donahue graduated from the US Military Academy at West Point in 1992 with the rank of second lieutenant, then was a graduate student at Harvard University. Donahue was deployed 17 times to support US military campaigns in Afghanistan, Iraq, Syria, North Africa and Eastern Europe. During his most recent combat engagement, General Donahue was appointed commander of the Afghanistan Joint Task Force participating in Operation Freedom's Sentinel in this Central Asian country. Nguyen Tien (According to US Department of Defense)
Dự án Thế hệ S (S-Generation) trao 20 tỷ đồng quyên góp cho Quỹ vắc-xin Covid-19 Sau loạt chiến dịch truyền cảm hứng kêu gọi cộng đồng cùng chung tay mang cơ hội tiếp cận vắc-xin tới xã hội, Dự án Cộng đồng Thế hệ S (S-Generation) đã trao số tiền 20 tỷ đồng quyên góp vào Quỹ vắc-xin phòng chống Covid-19 của Chính phủ. Chiều ngày 11/6, tại Lễ tiếp nhận ủng hộ Quỹ vắc-xin phòng chống Covid-19, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã trao giấy chứng nhận ủng hộ và đánh giá cao hành động đẹp, có ý nghĩa thiết thực và kịp thời của Dự án cộng đồng Thế hệ S. S-Generation được khởi xướng với mục tiêu xây dựng hình ảnh thế hệ người Việt Nam tinh hoa, gồm nhiều hoạt động truyền cảm hứng, bắt đầu từ chiến dịch Arise’21 kêu gọi cộng đồng góp sức cùng cuộc chiến chống Covid-19 của Chính phủ. Đây cũng là dự án cộng đồng qua nền tảng mạng xã hội hiện đang dẫn đầu về tính lan toả và đem lại kết quả thực tiễn lớn trong phong trào chống dịch giai đoạn quý I- quý II/2021. Dự án khởi động bằng chiến dịch Arise’21 từ tháng 2/2021 và nhanh chóng tạo một làn sóng tích cực, lan toả những giai điệu đầy tính khích lệ, tự hào của bài hát “Ta sẽ hồi sinh” cùng “Vũ điệu hồi sinh”. Dự án đã góp phần thiết thực khích lệ cộng đồng cùng chung tay mang cơ hội tiếp cận vắc-xin Covid-19 đến gần hơn với xã hội. Cụ thể, mỗi cá nhân chỉ cần chia sẻ MV “Ta sẽ hồi sinh” hoặc tham gia thực hiện “Vũ điệu hồi sinh” và chia sẻ trên các nền tảng mạng xã hội, sẽ được Dự án Thế hệ S thay mặt đóng góp 200.000 đồng vào Quỹ vắc-xin phòng chống Covid-19 của Chính phủ. Ông Hồ Đức Phớc – Bộ trưởng Bộ Tài chính phát biểu tại buổi Lễ Chiến dịch đã nhận được sự hưởng ứng của hàng loạt nghệ sỹ nổi tiếng, KOLs và khán giả mọi lứa tuổi, nghề nghiệp, quốc tịch, màu da, góp phần cổ vũ và nâng đỡ tinh thần những chiến sĩ trên tuyến đầu đang ngày đêm chống dịch. Ngày 1/5/2021, Arise’21 đã khép lại với những con số ấn tượng: gần 10 triệu lượt tiếp cận, hơn 5.400 lượt chia sẻ MV “Ta sẽ hồi sinh” và hơn 77.000 lượt dự thi “Vũ điệu hồi sinh”. Ca sĩ Uyên Linh trong MV Ta sẽ hồi sinh Theo cam kết của chiến dịch Arise’21, ngân sách quy đổi từ sự chung tay và lan toả mạnh mẽ các hoạt động truyền cảm hứng nói trên đã lên tới 20 tỷ đồng. Toàn bộ ngân sách này do Tập đoàn Sun Group tài trợ và thay mặt cộng đồng trao tặng vào Quỹ vắc-xin phòng chống Covid-19. Cũng trong buổi trao tặng này, Tập đoàn Sun Group đã ủng hộ Quỹ vắc-xin phòng chống Covid-19 số tiền 300 tỷ đồng. Chia sẻ về sứ mệnh của dự án, Đại diện Dự án cộng đồng Thế hệ S cho biết: “ Trên thế giới, khái niệm thế hệ S (Sustainable Generation) đã được biết đến từ lâu và đại diện cho những nhân tố không phân định bằng tuổi tác mà phân định bằng tư duy tiến bộ, khác biệt, hành động tử tế, thúc đẩy chất lượng sống bền vững của xã hội. Tại Việt Nam, Dự án Thế hệ S (S-Generation) của chúng tôi hướng tới mục tiêu phát triển 5 tố chất: Sẵn sàng, Sẻ chia, Sáng tạo, Siêng năng và Sống trọn của người Việt Nam mới, thúc đẩy sự lớn mạnh của một thế hệ tinh hoa và tiến bộ, cùng hành động với mục tiêu đưa xã hội lên một đẳng cấp mới ”. Các nghệ sĩ tham gia nhảy Vũ điệu hồi sinh “ Thông qua chiến dịch cộng đồng với những dự án nghệ thuật và hoạt động quyên góp cho Quỹ vắc-xin phòng chống Covid-19, chúng tôi muốn lan toả những giá trị tích cực và truyền cảm hứng tốt đẹp tới mọi người dân trên dải đất hình chữ S. Thật xúc động khi Dự án không chỉ nhận được sự tài trợ ý nghĩa từ Tập đoàn Sun Group, sự đồng hành tích cực của Công ty VCCorp với Giải thưởng We choice cũng như của các nghệ sỹ nổi tiếng cùng hàng triệu người dân Việt Nam. Chúng tôi cũng mong rằng, dự án sẽ được lan tỏa sâu rộng hơn nữa và nhận được sự hợp tác từ nhiều đơn vị, tổ chức, cá nhân tiến bộ trong và ngoài nước, để tiếp tục hành trình ý nghĩa, đầy tự hào của thế hệ S – thế hệ người Việt tinh hoa ”. Khởi đầu với những hoạt động mang ý nghĩa nhân văn, lay động tới cộng đồng, với sự chung tay của Tập đoàn Sun Group , thời gian tới, S-Generation sẽ còn tiếp tục đem tới cho cộng đồng nhiều chiến dịch và sự đóng góp thiết thực hơn nữa. Đây cũng là dự án cộng đồng đầu tiên của Việt Nam quan tâm và hướng đến mục tiêu kiến tạo một thế hệ người Việt Nam mới với những phẩm chất, năng lực và sức khỏe bắt kịp với thế giới.
S-Generation Project donates 20 billion VND to the Covid-19 Vaccine Fund After a series of inspirational campaigns calling on the community to join hands to bring the opportunity to access vaccines to society, the S-Generation Community Project (S-Generation) donated an amount of VND 20 billion to the Vaccine Fund. -Apply for Covid-19 prevention from the Government. On the afternoon of June 11, at the Reception Ceremony to support the Covid-19 Vaccine Fund, the Minister of Finance awarded a certificate of support and appreciation for this beautiful, meaningful, practical and timely action. of Generation S Community Project. S-Generation was initiated with the goal of building the image of the elite Vietnamese generation, including many inspirational activities, starting with the Arise'21 campaign calling on the community to contribute to the fight against Covid-19. government. This is also a community project through a social network platform that is currently leading in terms of spread and bringing great practical results in the anti-epidemic movement in the first quarter - second quarter of 2021. The project kicked off with the Arise'21 campaign from February 2021 and quickly created a positive wave, spreading the encouraging and proud melodies of the song "I will revive" and "Dance". revival". The project has made a practical contribution to encouraging the community to join hands to bring the opportunity to access Covid-19 vaccine closer to society. Specifically, each individual only needs to share the MV "I will revive" or participate in performing "Revival Dance" and share on social networking platforms, and Generation S Project will contribute on their behalf. 200,000 VND to the Government's Covid-19 Vaccine Fund. Mr. Ho Duc Phoc - Minister of Finance spoke at the ceremony The campaign has received the response of a series of famous artists, KOLs and audiences of all ages, occupations, nationalities, skin colors, contributing to cheering and uplifting the soldiers on the front lines who are working day and night. anti-epidemic night. On May 1, 2021, Arise'21 ended with impressive numbers: nearly 10 million views, more than 5,400 shares of the MV "I will revive" and more than 77,000 entries for the "Revival Dance" contest. ”. Singer Uyen Linh in the MV I will revive According to the commitment of the Arise'21 campaign, the converted budget from joining hands and strongly spreading the above inspirational activities has reached 20 billion VND. This entire budget is sponsored by Sun Group and donated on behalf of the community to the Covid-19 Vaccine Fund. Also in this giving ceremony, Sun Group supported the Covid-19 Vaccine Fund with an amount of VND 300 billion. Sharing about the mission of the project, Representative of Generation S Community Project said: “ In the world, the concept of Generation S (Sustainable Generation) has been known for a long time and represents factors that are not defined by age but by progressive, different thinking, kind actions, and encouragement. promote sustainable quality of life in society. In Vietnam, our S-Generation Project aims to develop 5 qualities: Willingness, Sharing, Creativity, Diligence and Living Fully of the new Vietnamese people, promoting the growth of an elite and progressive generation, working together with the goal of bringing society to a new level ”. Artists participate in the Revival Dance “ Through a community campaign with art projects and donation activities for the Covid-19 Vaccine Fund, we want to spread positive values ​​and inspire goodness to all people on the strip. S-shaped land. It is touching that the Project not only received meaningful sponsorship from Sun Group, the active companionship of VCCorp Company with the We Choice Award as well as famous artists from the same row. million Vietnamese people. We also hope that the project will spread further and receive cooperation from many progressive units, organizations and individuals at home and abroad, to continue its meaningful and proud journey. of generation S - the quintessential Vietnamese generation ”. Starting with meaningful humane activities that touch the community, with the cooperation of the Group Sun Group , in the coming time, S-Generation will continue to bring to the community more campaigns and practical contributions. This is also the first community project in Vietnam that cares and aims to create a new generation of Vietnamese people with qualities, abilities and health that keep pace with the world.
Thạch Kim Tuấn thi chung kết cử tạ Olympic ngày 25/7 Thạch Kim Tuấn là niềm hy vọng huy chương của Đoàn Thể thao Việt Nam trong ngày thi đấu thứ hai tại Olympic Tokyo 2020. Trong ngày thi đấu 25/7, Đoàn Thể thao Việt Nam có 6 VĐV tranh tài ở 5 môn. Trong đó, Thạch Kim Tuấn sẽ thi chung kết nhóm A hạng 61 kg nam môn cử tạ lúc 13h50 (giờ Hà Nội). Sau khi các niềm hy vọng huy chương ở môn taekwondo và bắn súng thi đấu không thành công trong ngày 24/7, cử tạ là môn còn lại có nhiều cơ hội nhất. Thạch Kim Tuấn nhận được sự kỳ vọng, bởi anh đang xếp thứ 3 trên bảng xếp hạng thế giới khi vòng loại Olympic diễn ra, chỉ sau Li Fabin (Trung Quốc) và Eko Yuli Irawan (Indonesia). Trưởng đoàn Trần Đức Phấn nhận định: “Trong 11 môn, hy vọng giành huy chương lớn nhất đặt ở cử tạ. Đây là môn có bề dày thành tích, từng có VĐV giành HCB và HCĐ Olympic”. Trong buổi sáng, lúc 8h30, Lường Thị Thảo và Đinh Thị Hảo bước vào vòng Repechage để tranh vé vào bán kết môn rowing, sau khi cán đích thứ 4 lượt hai hôm 24/7. Nếu nằm trong top 3 của lượt đấu, đôi chèo Việt Nam sẽ vào bán kết, ngược lại, họ sẽ phải tranh chung kết nhóm C. Lúc 11h, Nguyễn Thị Thanh Thủy có trận ra quân môn judo hạng dưới 52 kg nữ. Đối thủ của Thủy là Andreea Chitu (Bỉ), từng hai lần giành ngôi á quân thế giới các năm 2014, 2015. Võ sĩ 33 tuổi này giành HCV Grand Prix Antalya năm 2019. Ở môn boxing, sau khi Nguyễn Văn Đương khởi đầu thuận lợi hôm 24/7, người hâm mộ đang chờ đợi Nguyễn Thị Tâm tạo nên bất ngờ ở trận ra quân lúc 15h48. Đối thủ của Tâm là Krasteva Zhelyazkova, từng hai lần liên tiếp giành HCB thế giới năm 2016 và 2018, cũng như vô địch châu Âu 2018. Nguyễn Tiến Minh khép lại ngày thi đấu của Đoàn Thể thao Việt Nam với trận ra quân gặp tay vợt hạng 3 thế giới Anders Antonsen tại bảng L môn cầu lông lúc 18h. Đây được coi là trận tranh ngôi nhất bảng và tấm vé đi tiếp. Hai tay vợt từng gặp nhau tại giải vô địch thế giới 2018 và Antonsen giành chiến thắng 21-16, 21-18. Trong lần thứ 4 liên tiếp dự Olympic, Tiến Minh không đặt áp lực lên bản thân và cố gắng chơi tốt từng trận.
Thach Kim Tuan competed in the Olympic weightlifting finals on July 25 Thach Kim Tuan is the medal hope of the Vietnamese Sports Delegation on the second day of competition at the 2020 Tokyo Olympics. On competition day July 25, the Vietnam Sports Delegation had 6 athletes competing in 5 sports. Among them, Thach Kim Tuan will compete in the final of group A in the men's 61 kg weightlifting category at 1:50 p.m. (Hanoi time). After medal hopes in taekwondo and shooting were unsuccessful on July 24, weightlifting is the remaining subject with the most chances. Thach Kim Tuan received high expectations, because he was ranked 3rd in the world rankings when the Olympic qualifiers took place, only behind Li Fabin (China) and Eko Yuli Irawan (Indonesia). Delegation leader Tran Duc Phan commented: "Of the 11 sports, the biggest hope of winning a medal lies in weightlifting. This is a subject with a long history of achievements, with athletes winning silver and bronze medals at the Olympics." In the morning, at 8:30 a.m., Luong Thi Thao and Dinh Thi Hao entered the Repechage round to compete for tickets to the rowing semi-finals, after finishing 4th in round two on July 24. If in the top 3 of the round, pair row Vietnam will enter the semi-finals, otherwise, they will have to compete in the Group C final. At 11 a.m., Nguyen Thi Thanh Thuy had her debut in the women's judo under 52 kg category. Thuy's opponent is Andreea Chitu (Belgium), who won world runner-up twice in 2014 and 2015. This 33-year-old boxer won the gold medal at the Grand Prix Antalya in 2019. In boxing, after Nguyen Van Duong started well on July 24, fans are waiting for Nguyen Thi Tam to create a surprise in the opening match at 3:48 p.m. Tam's opponent is Krasteva Zhelyazkova, who won two consecutive world silver medals in 2016 and 2018, as well as the 2018 European championship. Nguyen Tien Minh closed the competition day of the Vietnam Sports Delegation with the opening match against world Không. 3 player Anders Antonsen in Group L of badminton at 6:00 p.m. This is considered the match for first place in the group and the ticket to continue. The two players met at the 2018 world championship and Antonsen won 21-16, 21-18. For the fourth consecutive time attending the Olympics, Tien Minh does not put pressure on himself and tries to play well in each match.
Hội đồng Dịch thuật & sách dịch văn học nước ngoài Hội nghị triển khai công tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam khóa X nhiệm kỳ 2020-2025 với sự tham gia của Ban Chấp hành Hội cùng thành viên các hội đồng chuyên môn, ban công tác diễn ra giữa tháng 4.2021. Hội đồng Dịch thuật gồm 9 thành viên do nhà phê bình – dịch giả Nguyễn Chí Hoan làm Chủ tịch cũng đã tiến hành cuộc họp riêng, với sự tham dự của nhà thơ Phan Hoàng – Ủy viên BCH Hội, đã bàn luận sôi nổi và đề ra những nhiệm vụ cụ thể về chuyên môn, mà trọng tâm là dịch những tác phẩm văn học có giá trị của thế giới và dịch quảng bá các tác phẩm có giá trị của Việt Nam ra nước ngoài. Từ góc nhìn riêng của Hội đồng Dịch thuật Hội Nhà văn Việt Nam khóa X, những thông tin về sách văn học dịch sẽ được cung cấp cho bạn đọc… Sách dịch văn học nước ngoài, đã thành một nề nếp, chẳng ngừng mang tới bạn đọc các đầu sách mới, bên cạnh dồi dào những ấn phẩm văn học dịch được tái bản và những kệ sách dồi dào không kém của những ấn phẩm văn chương trinh thám, phăng te di huyễn ảo, viễn tưởng với màu sắc khoa học, truyện sử hay dã sử hư cấu, v.v. Thực tế là văn chương xưa nay không kiêng khem bất kỳ một món nào thuộc về cõi nhân sinh, nhất là khi chúng can dự vào, liên đới với đời sống tinh thần. Song cũng chính vì thế, chúng tôi muốn góp một cái nhìn từ phương diện “thuần” văn học hơn ở mục điểm sách này của Hội đồng Dịch thuật. Cũng với ý ấy, hẳn chúng ta sẽ quan tâm nhiều đến các sáng tác văn chương lâu nay được gọi là “phi-hư cấu”: thế giới này chưa bao giờ hết khao khát cái sự thật với tính chân thực, về bản thân mình, mà xem ra luôn luôn khó đạt được nếu không có văn chương nói chung. Một số thành viên Hội đồng Dịch thuật Hội Nhà văn Việt Nam khóa X trong cuộc gặp gỡ đầu tiên. Từ trái sang: Nguyễn Chí Thuật, Bùi Xuân, Nguyễn Chí Hoan, Kiều Bích Hậu, Phạm Đức Hùng, Nguyễn Hữu Dũng Trong bản tin này chúng tôi chọn đưa một số đầu sách dịch văn học mới, cùng một vài giới thiệu ngắn về mỗi tác phẩm đó từ nguồn của các đồng nghiệp làm sách và đồng nghiệp báo chí khác. Về phần chúng tôi, những đóng góp bình luận và điểm sách, điểm tin về các tác giả và dịch giả sẽ dần dần được đưa lên sau. “Phù sinh lục ký”, Thẩm Phục, do Châu Hải Đường dịch, Tao Đàn – NXB Hội Nhà văn, là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh – Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, “Phù sinh lục ký” là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Nội dung “Phù sinh lục ký” gồm có sáu “ký”, trong đó Thẩm Phục viết lại cuộc đời mình, nhưng không theo dòng thời gian biên niên, mà theo một cách khác: theo mạch cảm xúc của cuộc sống. Sáu thiên ký ấy là: “Vui Khuê phòng”, “Thú nhàn tình”, “Sầu Trắc trở”, “Thú lãng du”, “Trải Trung Sơn”, và “Nhàn dưỡng sinh”. Trong đó, nổi bật lên là những ghi chép về tình cảm và cuộc sống của ông và người vợ – Trần Vân, với đầy đủ mọi sắc thái hỉ – nộ – ai – lạc, qua đó, có thể thấy tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, gầy lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một trình độ nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Đáng tiếc rằng, do tác giả của nó không có danh vị cao trong xã hội, kinh tế lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay khi ông sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Đến năm Quang Tự thứ ba (1877), khi Dương Dẫn Truyền lần đầu tiên ấn hành tác phẩm, thì “sáu ký đã mất hai”, khiến cho bản “Phù sinh lục ký” truyền thế giống như bức tượng Vệ Nữ bị mất cánh tay, chỉ còn lại bốn ký đầu mà thôi. Tuy nhiên, văn chương của “Phù sinh lục ký” đã lập tức khiến văn đàn sửng sốt và hâm mộ, đến nỗi không lâu sau đó, trên thị trường đã xuất hiện một bản được gọi là “Túc bản Phù sinh lục ký” (Phù sinh lục ký bản đầy đủ), bổ sung thêm quyển ký thứ 5: “Trải Trung Sơn”, và thứ 6: “Nhàn dưỡng sinh”. Song, qua khảo chứng của rất nhiều học giả, thì đều có một nhận định chung rằng: hai quyển ký bổ sung ấy đều là ngụy tác. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, các tác phẩm, hoặc một phần tác phẩm ngụy tác là không ít, song một tác phẩm xuất hiện muộn, ngay trong đời Thanh mà có những phần ngụy tác, cũng là hiếm có và phải vô cùng đặc biệt vậy. Lâm Ngữ Đường, trong lời tựa bản dịch tiếng Anh cuốn “Phù sinh lục ký” năm 1936, có nói: “Tôi đoán chừng rằng, trong các tàng thư gia đình ở Tô Châu, hay các tiệm sách cũ, nhất định sẽ có một bản toàn vẹn, nếu có may mắn ấy, thì có thể chúng ta sẽ phát hiện được.” Đến nay, tuy các chưa ai phát hiện được một bản toàn vẹn như Lâm Ngữ Đường nói (không tính bản ngụy tác), nhưng cũng rất may mắn, vào năm 2005, nhà sưu tập Bành Lệnh, đã sưu tầm được một cuốn sách viết tay có nhan đề là “Ký sự châu” của Tiền Vịnh – học giả, nhà thư pháp nổi tiếng đời Thanh, người sống cùng thời với Thẩm Tam Bạch, trong đó đã tìm thấy có những đoạn ghi chép của Tiền Vịnh về “Phù sinh lục ký”, đặc biệt là thiên: “Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược”, đã được rất nhiều học giả nhận định là sao lục từ quyển thứ 5 “Trải Trung Sơn” (hay còn gọi “Hải quốc ký”) của Thẩm Tam Bạch. Tuy nhiên, những phần Tiền Vịnh sao lục, chưa đầy đủ quyển ký thứ 5 – “Trải Trung Sơn” – đã thất truyền của Thẩm Tam Bạch, nhưng cũng cho chúng ta thấy phần nào trong nguyên tác của ông. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, “Phù sinh lục ký” đã được xuất bản hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2, “Thú nhàn tình” , của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai … và xuất bản ở nhiều nước. Tuy nhiên, cho đến nay, tác phẩm vẫn chưa từng được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Tác phẩm được Thẩm Phục viết theo lối văn ngôn: cô đọng, súc tích, giàu chất thơ và nhạc tính. Ở Trung Quốc, cho đến hiện tại, Phù Sinh Lục Ký vẫn được rất nhiều tác gia cũng như độc giả quan tâm yêu mến. Tác phẩm đã khơi gợi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều tác giả đương đại, cũng như trở thành đề tài cho nhiều loại hình nghệ thuật khác khai thác như: hý kịch, hội họa, vũ ba lê … Ngay cả việc dịch từ nguyên tác văn ngôn ra bạch thoại cũng được không chỉ một người thực hiện. “ Bình địa trong lửa”, Juan Rulfo , Hà Cheem dịch, Phan Book – NXB Hội Nhà văn Juan Rulfo là một trong những tác gia lớn của văn học Mỹ Latinh. Tác phẩm của ông là nguồn cảm hứng cho Gabriel Garcia Márquez và nhiều nhà văn khác của tân lục địa. Ở Mỹ, ông được The New York Times đưa vào nhóm “bất tử”, được Susan Sontag ngợi khen như “bậc thầy kể chuyện” đã sáng tạo ra một “kiệt tác văn chương của thế kỷ XX”. Tác phẩm này ra mắt lần đầu năm 1953. Đến năm 1970, tác giả bổ sung hai truyện mới, nâng tổng số lên 17 truyện như ta thấy trong bản tiếng Việt. Có lẽ, cách tốt nhất để thâm nhập thế giới mà Juan Rulfo bày ra, một lãnh thổ chưa hề được minh định, là tránh khỏi sự ồn ào của tác giả lớn, người đã tự thú: “Trong cuộc đời tôi, có nhiều sự im lặng”. Sự im lặng, cũng chính là thứ bao phủ vùng “Bình Địa” theo một nghĩa nào đó. Ở vùng đất khắc nghiệt này, con người chỉ còn lại sự im lặng, khi địa hình hiểm trở, bầu trời và mặt đất đều xa lạ, ngay cả một cái cây cũng không có. “Tàn ngày để lại” , Kazuo Ishiguro, An Lý dịch, Nhã Nam – NXB Văn học tiêu biểu cho tinh thần sáng tác của Kazuo Ishiguro, về ký ức, thời gian và sự tự huyễn hoặc, nỗi niềm hoài niệm về thời quá vãng. Tờ The Guardian đã xếp “Tàn ngày để lại” vào danh sách “100 quyển sách mà người ta không thể không đọc” vào năm 2007, đánh dấu “một kiệt tác văn chương thực thụ” được công nhận bởi thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển. “ Tiếng triều dâng” , Mishima Yukio, Aikawa Haruki dịch, Nhã Nam – NXB Hội Nhà văn Tác phẩm nổi bật “mang nét đẹp bâng khuâng của một mối tình đầu”. “Bầy rùa chồng chất”, John Green, Bảo Anh dịch, NXB Trẻ Tác phẩm “kể về thế giới phức tạp của tuổi thanh thiếu niên. Những ngổn ngang trong suy nghĩ, những đốm sáng yếu ớt của hy vọng, những bóng tối của thất vọng. Họ có thể thoát ra, và cũng có thể không.” HỘI ĐỒNG DỊCH THUẬT biên soạn (Còn tiếp)
Hội đồng Dịch thuật & sách dịch văn học nước ngoài Hội nghị triển khai công tác văn học của Hội Nhà văn Việt Nam khóa X nhiệm kỳ 2020-2025 với sự tham gia của Ban Chấp hành Hội cùng thành viên các hội đồng chuyên môn, ban công tác diễn ra giữa tháng 4.2021. Hội đồng Dịch thuật gồm 9 thành viên do nhà phê bình – dịch giả Nguyễn Chí Hoan làm Chủ tịch cũng đã tiến hành cuộc họp riêng, với sự tham dự của nhà thơ Phan Hoàng – Ủy viên BCH Hội, đã bàn luận sôi nổi và đề ra những nhiệm vụ cụ thể về chuyên môn, mà trọng tâm là dịch những tác phẩm văn học có giá trị của thế giới và dịch quảng bá các tác phẩm có giá trị của Việt Nam ra nước ngoài. Từ góc nhìn riêng của Hội đồng Dịch thuật Hội Nhà văn Việt Nam khóa X, những thông tin về sách văn học dịch sẽ được cung cấp cho bạn đọc… Sách dịch văn học nước ngoài, đã thành một nề nếp, chẳng ngừng mang tới bạn đọc các đầu sách mới, bên cạnh dồi dào những ấn phẩm văn học dịch được tái bản và những kệ sách dồi dào không kém của những ấn phẩm văn chương trinh thám, phăng te di huyễn ảo, viễn tưởng với màu sắc khoa học, truyện sử hay dã sử hư cấu, v.v. Thực tế là văn chương xưa nay không kiêng khem bất kỳ một món nào thuộc về cõi nhân sinh, nhất là khi chúng can dự vào, liên đới với đời sống tinh thần. Song cũng chính vì thế, chúng tôi muốn góp một cái nhìn từ phương diện “thuần” văn học hơn ở mục điểm sách này của Hội đồng Dịch thuật. Cũng với ý ấy, hẳn chúng ta sẽ quan tâm nhiều đến các sáng tác văn chương lâu nay được gọi là “phi-hư cấu”: thế giới này chưa bao giờ hết khao khát cái sự thật với tính chân thực, về bản thân mình, mà xem ra luôn luôn khó đạt được nếu không có văn chương nói chung. Một số thành viên Hội đồng Dịch thuật Hội Nhà văn Việt Nam khóa X trong cuộc gặp gỡ đầu tiên. Từ trái sang: Nguyễn Chí Thuật, Bùi Xuân, Nguyễn Chí Hoan, Kiều Bích Hậu, Phạm Đức Hùng, Nguyễn Hữu Dũng Trong bản tin này chúng tôi chọn đưa một số đầu sách dịch văn học mới, cùng một vài giới thiệu ngắn về mỗi tác phẩm đó từ nguồn của các đồng nghiệp làm sách và đồng nghiệp báo chí khác. Về phần chúng tôi, những đóng góp bình luận và điểm sách, điểm tin về các tác giả và dịch giả sẽ dần dần được đưa lên sau. “Phù sinh lục ký”, Thẩm Phục, do Châu Hải Đường dịch, Tao Đàn – NXB Hội Nhà văn, là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh – Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, “Phù sinh lục ký” là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Nội dung “Phù sinh lục ký” gồm có sáu “ký”, trong đó Thẩm Phục viết lại cuộc đời mình, nhưng không theo dòng thời gian biên niên, mà theo một cách khác: theo mạch cảm xúc của cuộc sống. Sáu thiên ký ấy là: “Vui Khuê phòng”, “Thú nhàn tình”, “Sầu Trắc trở”, “Thú lãng du”, “Trải Trung Sơn”, và “Nhàn dưỡng sinh”. Trong đó, nổi bật lên là những ghi chép về tình cảm và cuộc sống của ông và người vợ – Trần Vân, với đầy đủ mọi sắc thái hỉ – nộ – ai – lạc, qua đó, có thể thấy tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, gầy lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một trình độ nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Đáng tiếc rằng, do tác giả của nó không có danh vị cao trong xã hội, kinh tế lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay khi ông sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Đến năm Quang Tự thứ ba (1877), khi Dương Dẫn Truyền lần đầu tiên ấn hành tác phẩm, thì “sáu ký đã mất hai”, khiến cho bản “Phù sinh lục ký” truyền thế giống như bức tượng Vệ Nữ bị mất cánh tay, chỉ còn lại bốn ký đầu mà thôi. Tuy nhiên, văn chương của “Phù sinh lục ký” đã lập tức khiến văn đàn sửng sốt và hâm mộ, đến nỗi không lâu sau đó, trên thị trường đã xuất hiện một bản được gọi là “Túc bản Phù sinh lục ký” (Phù sinh lục ký bản đầy đủ), bổ sung thêm quyển ký thứ 5: “Trải Trung Sơn”, và thứ 6: “Nhàn dưỡng sinh”. Song, qua khảo chứng của rất nhiều học giả, thì đều có một nhận định chung rằng: hai quyển ký bổ sung ấy đều là ngụy tác. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, các tác phẩm, hoặc một phần tác phẩm ngụy tác là không ít, song một tác phẩm xuất hiện muộn, ngay trong đời Thanh mà có những phần ngụy tác, cũng là hiếm có và phải vô cùng đặc biệt vậy. Lâm Ngữ Đường, trong lời tựa bản dịch tiếng Anh cuốn “Phù sinh lục ký” năm 1936, có nói: “Tôi đoán chừng rằng, trong các tàng thư gia đình ở Tô Châu, hay các tiệm sách cũ, nhất định sẽ có một bản toàn vẹn, nếu có may mắn ấy, thì có thể chúng ta sẽ phát hiện được.” Đến nay, tuy các chưa ai phát hiện được một bản toàn vẹn như Lâm Ngữ Đường nói (không tính bản ngụy tác), nhưng cũng rất may mắn, vào năm 2005, nhà sưu tập Bành Lệnh, đã sưu tầm được một cuốn sách viết tay có nhan đề là “Ký sự châu” của Tiền Vịnh – học giả, nhà thư pháp nổi tiếng đời Thanh, người sống cùng thời với Thẩm Tam Bạch, trong đó đã tìm thấy có những đoạn ghi chép của Tiền Vịnh về “Phù sinh lục ký”, đặc biệt là thiên: “Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược”, đã được rất nhiều học giả nhận định là sao lục từ quyển thứ 5 “Trải Trung Sơn” (hay còn gọi “Hải quốc ký”) của Thẩm Tam Bạch. Tuy nhiên, những phần Tiền Vịnh sao lục, chưa đầy đủ quyển ký thứ 5 – “Trải Trung Sơn” – đã thất truyền của Thẩm Tam Bạch, nhưng cũng cho chúng ta thấy phần nào trong nguyên tác của ông. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, “Phù sinh lục ký” đã được xuất bản hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2, “Thú nhàn tình” , của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai … và xuất bản ở nhiều nước. Tuy nhiên, cho đến nay, tác phẩm vẫn chưa từng được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Tác phẩm được Thẩm Phục viết theo lối văn ngôn: cô đọng, súc tích, giàu chất thơ và nhạc tính. Ở Trung Quốc, cho đến hiện tại, Phù Sinh Lục Ký vẫn được rất nhiều tác gia cũng như độc giả quan tâm yêu mến. Tác phẩm đã khơi gợi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều tác giả đương đại, cũng như trở thành đề tài cho nhiều loại hình nghệ thuật khác khai thác như: hý kịch, hội họa, vũ ba lê … Ngay cả việc dịch từ nguyên tác văn ngôn ra bạch thoại cũng được không chỉ một người thực hiện. “ Bình địa trong lửa”, Juan Rulfo , Hà Cheem dịch, Phan Book – NXB Hội Nhà văn Juan Rulfo là một trong những tác gia lớn của văn học Mỹ Latinh. Tác phẩm của ông là nguồn cảm hứng cho Gabriel Garcia Márquez và nhiều nhà văn khác của tân lục địa. Ở Mỹ, ông được The New York Times đưa vào nhóm “bất tử”, được Susan Sontag ngợi khen như “bậc thầy kể chuyện” đã sáng tạo ra một “kiệt tác văn chương của thế kỷ XX”. Tác phẩm này ra mắt lần đầu năm 1953. Đến năm 1970, tác giả bổ sung hai truyện mới, nâng tổng số lên 17 truyện như ta thấy trong bản tiếng Việt. Có lẽ, cách tốt nhất để thâm nhập thế giới mà Juan Rulfo bày ra, một lãnh thổ chưa hề được minh định, là tránh khỏi sự ồn ào của tác giả lớn, người đã tự thú: “Trong cuộc đời tôi, có nhiều sự im lặng”. Sự im lặng, cũng chính là thứ bao phủ vùng “Bình Địa” theo một nghĩa nào đó. Ở vùng đất khắc nghiệt này, con người chỉ còn lại sự im lặng, khi địa hình hiểm trở, bầu trời và mặt đất đều xa lạ, ngay cả một cái cây cũng không có. “Tàn ngày để lại” , Kazuo Ishiguro, An Lý dịch, Nhã Nam – NXB Văn học tiêu biểu cho tinh thần sáng tác của Kazuo Ishiguro, về ký ức, thời gian và sự tự huyễn hoặc, nỗi niềm hoài niệm về thời quá vãng. Tờ The Guardian đã xếp “Tàn ngày để lại” vào danh sách “100 quyển sách mà người ta không thể không đọc” vào năm 2007, đánh dấu “một kiệt tác văn chương thực thụ” được công nhận bởi thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển. “ Tiếng triều dâng” , Mishima Yukio, Aikawa Haruki dịch, Nhã Nam – NXB Hội Nhà văn Tác phẩm nổi bật “mang nét đẹp bâng khuâng của một mối tình đầu”. “Bầy rùa chồng chất”, John Green, Bảo Anh dịch, NXB Trẻ Tác phẩm “kể về thế giới phức tạp của tuổi thanh thiếu niên. Những ngổn ngang trong suy nghĩ, những đốm sáng yếu ớt của hy vọng, những bóng tối của thất vọng. Họ có thể thoát ra, và cũng có thể không.” HỘI ĐỒNG DỊCH THUẬT biên soạn (Còn tiếp)
Phát súng đi vào lịch sử của VĐV Việt Nam ở Olympic VIDEO: Hoàng Xuân Vinh giành được HCV tại Olympic Chung kết nội dung 10m súng ngắn nam Olympic Rio 2016 diễn ra đầy căng thẳng đến loạt bắn cuối cùng. Ở viên áp chót, VĐV Hoàng Xuân Vinh bắn không tốt nên tụt xuống thứ 2 với 0,2 điểm kém Felipe. Đến loạt bắn cuối cùng, Felipe bắn được 10,1 điểm, trong khi xạ thủ Hoàng Xuân Vinh đạt 10,7 điểm. Như vậy, Hoàng Xuân Vinh đã chính thức giành được HCV tại Olympic với 202,5 điểm. Phát súng lịch sử của Hoàng Xuân Vinh đã giúp cho đoàn thể thao Việt Nam có mốc son chói lọi tại Olympic. Tính đến hiện tại, tấm HCV của Hoàng Xuân Vinh vẫn chính là kết quả cao nhất mà thể thao Việt Nam có được tại một kỳ Thế vận hội. Đến với Olympic Tokyo 2021, xạ thủ Hoàng Xuân Vinh chia sẻ: “Olympic là sân chơi lớn và quy tụ rất nhiều đối thủ mạnh trên thế giới tham dự. Do vậy, việc thi đấu cạnh tranh cho tấm huy chương là rất khó khăn. Tôi sẽ phải nỗ lực 200% thậm chí hơn, phấn đấu hết khả năng để giành thành tích cao nhất”. Hoàng Xuân Vinh sẽ tranh tài ở nội dung 10m súng ngắn nam Olympic Tokyo 2021 vào lúc 11h00 ngày 24/7.
The shot went down in the history of Vietnamese athletes at the Olympics VIDEO: Hoang Xuan Vinh won gold medal at the Olympics The final of the Rio 2016 Olympic men's 10m pistol event was tense until the last shot. In the penultimate shot, athlete Hoang Xuan Vinh did not shoot well so he fell to second place with 0.2 points behind Felipe. In the final series of shots, Felipe scored 10.1 points, while shooter Hoang Xuan Vinh scored 10.7 points. Thus, Hoang Xuan Vinh officially won the gold medal at the Olympics with 202.5 points. Hoang Xuan Vinh's historic shot helped the Vietnamese sports delegation reach a brilliant milestone at the Olympics. Up to now, Hoang Xuan Vinh's gold medal is still the highest result that Vietnamese sports have achieved at an Olympics. Coming to the 2021 Tokyo Olympics, shooter Hoang Xuan Vinh shared: “The Olympics is a big playground and brings together many strong competitors from around the world. Therefore, competing for a medal is very difficult. I will have to try 200% or even more, strive to the best of my ability to achieve the highest results." Hoang Xuan Vinh will compete in the men's 10m pistol event at the 2021 Tokyo Olympics at 11:00 a.m. on July 24.
Thêm 16 tỉnh thành phía Nam giãn cách theo chỉ thị 16, từ 0h ngày 19-7 Thủ tướng Chính phủ đồng ý áp dụng giãn cách theo chỉ thị 16 đối với 16 tỉnh thành phía Nam từ 0h ngày 19-7-2021, thời hạn 14 ngày, để chống dịch. Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký văn bản hỏa tốc về việc áp dụng biện pháp giãn cách xã hội để phòng, chống dịch tại một số địa phương. Theo đó, ngoài 3 tỉnh, thành đang áp dụng chỉ thị 16 là TP.HCM, Bình Dương và Đồng Nai, sẽ có thêm 16 tỉnh, thành giãn cách theo chỉ thị này để chống dịch gồm: Cần Thơ, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang , Long An, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang, An Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau và Kiên Giang . Đối với tỉnh, thành phố đang áp dụng biện pháp giãn cách trước ngày có văn bản này, căn cứ diễn biến dịch bệnh và kết quả phòng, chống dịch trên địa bàn, chủ tịch UBND cấp tỉnh chủ động, kịp thời báo cáo cấp thẩm quyền trước khi quyết định việc tiếp tục thực hiện thời gian giãn cách như đã quyết định hoặc kéo dài thời gian giãn cách như các tỉnh, thành phố bổ sung nêu trên. Thủ tướng yêu cầu các bộ, cơ quan trung ương chủ động phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các địa phương để thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chỉ thị 16, chú ý bảo đảm nguồn vật tư, trang thiết bị, nhân lực y tế, nhất là đội ngũ y bác sĩ, cán bộ, nhân viên y tế. Đồng thời bảo đảm an ninh, an toàn, an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, không để bất cứ người dân nào thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhu yếu phẩm thiết yếu; đặc biệt chú ý nâng cao hiệu quả điều trị, ưu tiên tối đa nguồn lực cho các ca bệnh nặng. Thủ tướng cũng lưu ý các địa phương cần chỉ đạo thực hiện nghiêm, có hiệu quả chỉ thị 16, đồng thời kiên quyết không để “chặt ngoài, lỏng trong”; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện nghiêm chỉ đạo của cấp trên và yêu cầu về giãn cách, không để xảy ra tụ tập đông người. Song song đó, quan tâm làm tốt công tác an sinh xã hội, nhất là đảm bảo cung ứng kịp thời, đầy đủ lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm thiết yếu cho người dân, đặc biệt người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người mất công ăn việc làm do dịch bệnh. Thủ tướng cũng yêu cầu các địa phương đảm bảo tốt nhất an ninh, trật tự an toàn xã hội; bảo đảm sản xuất, lưu thông hàng hóa an toàn trong nội bộ tỉnh, thành phố và với các địa phương khác; chỉ cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các cơ sở đáp ứng yêu cầu, quy định về phòng chống dịch; không để thừa, thiếu hàng hóa, ách tắc giao thông… Trong điều kiện phòng, chống dịch cấp bách do chủng virus mới Delta diễn biến nhanh, mạnh, khó lường… với tinh thần vì sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết, trước hết, Thủ tướng kêu gọi nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, tự lực, tự cường; chia sẻ, ủng hộ, hưởng ứng và nghiêm túc thực hiện chỉ thị 16, chỉ ra khỏi nhà trong trường hợp thật sự cần thiết và thực hiện nghiêm 5K. Thủ tướng nhấn mạnh: việc thực hiện chỉ thị 16 không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là quyền lợi của mỗi người dân, vì lợi ích của cộng đồng và vì sự phát triển của đất nước. Thủ tướng giao Phó thủ tướng Vũ Đức Đam – trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 – trực tiếp chỉ đạo thủ trưởng các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện, thay mặt Thủ tướng giải quyết các vấn đề cấp bách, phát sinh mới theo thẩm quyền. Các phó thủ tướng, thành viên Chính phủ, lãnh đạo các địa phương thực hiện nghiêm chỉ đạo và phân công của Thủ tướng trong công tác phòng, chống dịch. Bộ Công thương: Người dân không nên nóng ruột, tích trữ, mua nhiều hàng hóa * Bộ Công thương đã chuẩn bị cung ứng hàng hóa thiết yếu như thế nào khi áp dụng chỉ thị 16 trên địa bàn 19 tỉnh, thành phố? – Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải : Theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo quốc gia và kế hoạch của Bộ Công thương, chúng tôi đã chuẩn bị các kịch bản cho tình huống áp dụng chỉ thị 16 trên 19 tỉnh, thành phố. Xin khẳng định với người dân và các cấp là chúng ta chuẩn bị đầy đủ nhu yếu phẩm thiết yếu để phục vụ đời sống người dân. Song chúng tôi cũng lưu ý người dân phải chuẩn bị tinh thần là sẽ có những xáo trộn nhất định. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với TP.HCM và tỉnh, thành phố khác để có phương án vận chuyển hàng hóa đến những nơi áp dụng chỉ thị 16 và đưa đến các nơi cần thiết nhất để người dân thuận tiện trong tiếp cận thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống. * Vấn đề người dân quan tâm nhất là có đủ hàng, mua ở đâu thuận tiện nhất vì trong thời gian giãn cách sẽ gặp khó khăn khi đi lại. Bộ phối hợp với các địa phương triển khai việc này thế nào? – Như tôi đã nói, việc đầu tiên là phải đưa mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là lương thực, thực phẩm, đến các địa phương đang áp dụng chỉ thị 16. Tuy nhiên, mỗi địa phương có đặc điểm tình hình khác nhau, đề nghị chính quyền các địa phương phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trung ương, nhất là Bộ Công thương, để đưa ra khuyến cáo cụ thể với người dân. Đơn cử như TP.HCM đang dừng hoạt động khoảng 2/3 chợ truyền thống và đầu mối, do đó 30% nhu cầu còn lại của người dân tập trung vào các siêu thị, trung tâm thương mại, do vậy phải tăng giờ bán lên hằng ngày và phải tính đến việc mở lại một số chợ truyền thống với điều kiện bảo đảm quy định phòng chống dịch để tăng đầu mối cung cấp thực phẩm và hàng hóa thiết yếu cho người dân. Mặt khác, một việc đang được áp dụng thành công, có hiệu quả là tổ chức bán hàng lưu động, không chỉ địa phương mà nhiều cơ quan cũng đã vào cuộc như hệ thống bưu điện, Viettel Post. Thời gian tới, phải có sự phối hợp tốt hơn, nhịp nhàng hơn để phục vụ người dân. * Ông có khuyến cáo gì khi một số người dân có tâm lý mua hàng tích trữ? – Chúng ta đã có kinh nghiệm áp dụng chỉ thị 16 tại một số nơi như Bắc Giang, Bắc Ninh, TP.HCM. Xin khẳng định Chính phủ và các bộ ngành luôn đảm bảo đủ hàng phục vụ nhu cầu người dân. Mong người dân bình tĩnh, tin tưởng vào các chỉ đạo, hướng dẫn của các bộ ngành, địa phương, chúng tôi làm hết sức mình để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của người dân. Nếu người dân đổ xô tới những nơi đông người cũng là một nguy cơ lây nhiễm COVID-19. Người dân không nên nóng ruột, tích trữ mua nhiều hàng hóa, mà cần tuân thủ các quy định, hướng dẫn của các cấp có thẩm quyền, địa phương.
An additional 16 southern provinces and cities will quarantine according to Directive 16, from 0:00 on July 19 The Prime Minister agreed to apply social distancing according to Directive 16 for 16 southern provinces from 0:00 on July 19, 2021, for a period of 14 days, to fight the epidemic. Prime Minister Pham Minh Chinh has just signed an express document on the application of social distancing measures to prevent and control epidemics in some localities. Accordingly, in addition to the three provinces and cities that are applying Directive 16, which are Ho Chi Minh City, Binh Duong and Dong Nai, there will be 16 more provinces and cities that are following this directive to fight the epidemic, including: Can Tho, Binh Phuoc, Tay Ninh. Ninh, Ba Ria – Vung Tau, Tien Giang , Long An, Vinh Long, Dong Thap, Ben Tre, Hau Giang, An Giang, Bac Lieu, Soc Trang, Tra Vinh, Ca Mau and Kien Giang . For provinces and cities that are applying distancing measures before the date of this document, based on the epidemic developments and the results of epidemic prevention and control in the area, the Chairman of the Provincial People's Committee proactively and promptly reports to the local level. authority before deciding to continue implementing the separation period as decided or extend the separation period as the additional provinces and cities mentioned above. The Prime Minister requested ministries and central agencies to proactively coordinate closely and effectively with localities to seriously and effectively implement Directive 16, paying attention to ensuring supplies, equipment and human resources. healthcare, especially the team of doctors, officers, and medical staff. At the same time, ensuring security, safety, social security, taking care of the material and spiritual life of the people, not letting any people lack food, clothing, or essential necessities; Pay special attention to improving treatment effectiveness, giving maximum priority to resources for serious cases. The Prime Minister also noted that localities need to direct strict and effective implementation of Directive 16, and at the same time resolutely not be "tight on the outside, loose on the inside"; Strengthen inspection, supervision, and urge strict implementation of superiors' instructions and requirements on physical distancing to prevent large gatherings of people. At the same time, pay attention to doing a good job of social security, especially ensuring timely and adequate supply of food, food, and essential necessities for people, especially the poor and disadvantaged people. difficulties, people lost their jobs due to the epidemic. The Prime Minister also requested localities to best ensure security, social order and safety; ensure safe production and circulation of goods within the province, city and with other localities; Only allow production and business activities for establishments that meet requirements and regulations on epidemic prevention and control; Do not leave excess or shortage of goods, traffic jams... In the context of urgent epidemic prevention and control due to the fast, strong, unpredictable development of the new Delta virus strain... in the spirit of putting the people's health and lives first, first of all, the Prime Minister calls on the people and the community to Enterprise communities promote the spirit of great national solidarity, self-reliance and self-reliance; Share, support, respond and seriously implement directive 16, only leave the house if absolutely necessary and strictly follow 5K. The Prime Minister emphasized: implementing Directive 16 is not only a responsibility and obligation but also the right of each person, for the benefit of the community and for the development of the country. The Prime Minister assigned Deputy Prime Minister Vu Duc Dam - Head of the National Steering Committee for COVID-19 Prevention and Control - to directly direct heads of ministries, branches and localities to organize implementation and, on behalf of the Prime Minister, resolve issues. Urgent and newly arising issues according to authority. Deputy Prime Ministers, Government members, and local leaders strictly implement the Prime Minister's instructions and assignments in epidemic prevention and control. Ministry of Industry and Trade: People should not be impatient, hoard, or buy a lot of goods * How has the Ministry of Industry and Trade prepared to supply essential goods when applying Directive 16 in 19 provinces and cities? – Deputy Minister Do Thang Hai : According to the direction of the National Steering Committee and the plan of the Ministry of Industry and Trade, we have prepared scenarios for the situation of applying directive 16 out of 19 provinces and cities. We would like to confirm with the people and all levels that we have fully prepared essential necessities to serve people's lives. However, we also caution people to be mentally prepared that there will be certain disturbances. We coordinate closely with Ho Chi Minh City and other provinces and cities to have plans to transport goods to places where Directive 16 applies and bring them to the most needed places so that people can conveniently access food. and essential items for life. * The issue people are most concerned about is having enough goods and where is the most convenient place to buy them because during the quarantine period it will be difficult to travel. How does the Ministry coordinate with localities to implement this? – As I said, the first thing is to bring essential goods, especially food, to localities that are applying Directive 16. However, each locality has different characteristics of the situation. , requested local authorities to coordinate closely with central ministries and branches, especially the Ministry of Industry and Trade, to give specific recommendations to people. For example, Ho Chi Minh City is shutting down about 2/3 of traditional and wholesale markets, so the remaining 30% of people's needs focus on supermarkets and shopping centers, so they have to increase selling hours. increased daily and must consider reopening some traditional markets with conditions that ensure epidemic prevention regulations to increase the supply of food and essential goods to people. On the other hand, one thing that is being applied successfully and effectively is organizing mobile sales, not only locally but many agencies have also participated such as the postal system and Viettel Post. In the coming time, there must be better coordination and more rhythm to serve the people. * What do you recommend when some people have the mentality of buying and hoarding goods? – We have experience applying Directive 16 in some places such as Bac Giang, Bac Ninh, and Ho Chi Minh City. We would like to confirm that the Government and ministries always ensure enough goods to serve people's needs. We hope that people will stay calm and trust the direction and guidance of ministries and localities. We will do our best to ensure the essential needs of the people. If people flock to crowded places, it is also a risk of COVID-19 infection. People should not be impatient and hoard to buy a lot of goods, but should comply with the regulations and instructions of competent authorities and localities.
Top 5 công trình khiến du lịch Việt Nam được thế giới nể phục Kể từ sau khi khu nghỉ dưỡng InterContinental Danang Sun Peninsula Resort ( Đà Nẵng ) của Sun Group gây choáng ngợp giới xê dịch toàn cầu với hàng loạt giải thưởng du lịch quốc tế từ năm 2014, Việt Nam đã có thêm nhiều công trình du lịch khiến thế giới phải thán phục. 1. InterContinental Danang Sun Peninsula Resort (Bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng) Được coi là một biểu tượng du lịch nghỉ dưỡng của Đà Nẵng và của cả ngành công nghiệp khách sạn Việt Nam, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort do Tập đoàn Sun Group đầu tư và InterContinental Hotel Group (IHG) quản lý, vận hành được xem như khu nghỉ “sinh ra để giành giải thưởng”. 7 năm trước, khi World Travel Awards (WTA) lần đầu tiên xướng tên InterContinental Danang Sun Peninsula Resort là “Khu nghỉ dưỡng sang trọng bậc nhất thế giới”, giới xê dịch quốc tế đã phải nhìn Việt Nam, vốn khi đó vẫn bị xem như một điểm du lịch giá rẻ, bằng một con mắt khác. Và sau đó, khu nghỉ dưỡng trên bán đảo Sơn Trà giữ ngôi vương này liên tiếp trong 4 năm (2014-2017)- một kỳ tích vô tiền khoáng hậu không chỉ với Việt Nam, mà có lẽ là cả với thế giới. Trong danh sách các giải thưởng du lịch hàng đầu thế giới nhiều năm qua cũng hiếm khi thiếu cái tên InterContinental Danang Sun Peninsula Resort. Năm 2020, bất chấp ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, khu nghỉ dưỡng đầu tiên do “ông hoàng resort” Bill Bensley thiết kế tại Việt Nam vẫn được tôn vinh tại bảy hạng mục giải thưởng WTA khu vực châu Á. WTA thế giới năm 2020 cũng vinh danh InterContinental Danang Sun Peninsula Resort là “Khu nghỉ dưỡng thân thiện với môi trường hàng đầu Thế giới 2020”. Sở hữu trong tay bộ sưu tập giải thưởng “khủng”, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort đã trở thành điểm đến “must-go” của dân siêu giàu, giới tài phiệt và cả các chính trị gia quốc tế. 2. Cầu Vàng (Sun World Ba Na Hills – Đà Nẵng) Không phải đến lúc đạt được giải thưởng “Cây cầu du lịch biểu tượng hàng đầu thế giới” do World Travel Awards 2020 trao tặng, Cầu Vàng (Đà Nẵng) mới tỏa sáng trên trường quốc tế. Thực tế, “siêu phẩm” của tập đoàn Sun Group tại khu du lịch Sun World Ba Na Hills đã khiến thế giới phải ngỡ ngàng, thán phục ngay từ khi mới ra đời. Các hãng thông tấn thế giới như CNN, BBC, Reuters, National Geographic, New York Times, Time… đồng loạt nhắc đến Cầu Vàng như một biểu tượng của vẻ đẹp độc nhất vô nhị. Tháng 8-2019, Cầu Vàng được “Chứng nhận đặc biệt cho công trình xuất sắc” từ Property Guru Property Vietnam Awards 2019 – một giải thưởng lớn trong lĩnh vực bất động sản châu Á. Mới đây nhất, Cầu Vàng cũng được độc giả của tờ Daily Mail (Anh) bình chọn dẫn đầu Top 10 Kỳ quan thế giới mới. Cùng với vẻ đẹp trác tuyệt vốn có của thiên nhiên và những danh hiệu, giải thưởng đáng tự hào do các tổ chức quốc tế trao tặng, Cầu Vàng đã góp phần không nhỏ hiện thực hoá giấc mơ đưa du lịch Việt Nam ra biển lớn. 3. JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay (Phú Quốc) Nằm sát bên bãi Kem thơ mộng, tuyệt tác nghỉ dưỡng thứ 2 tại Việt Nam của kiến trúc sư hàng đầu thế giới Bill Bensley không chỉ gây choáng ngợp bởi lối kiến trúc độc đáo mô phỏng trường Đại học Lamarck trong giả tưởng, mà còn khiến người ta phải ngưỡng mộ bởi “bảng thành tích” hoành tráng với bộ sưu tập giải thưởng danh giá bậc nhất thế giới. Chỉ sau 6 tháng đi vào vận hành, đón khách, JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay đã được WTA 2017 vinh danh là “Khu nghỉ dưỡng mới tốt nhất châu Á”. Đồng thời Chanterelle – Spa by JW cũng xuất sắc nhận giải “Spa cao cấp mới nổi bật nhất Đông Nam Á”, trong khuôn khổ giải thưởng World Luxury Spa & Restaurant Awards 2017. JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay còn vào Top 50 khu nghỉ dưỡng tốt nhất thế giới do tạp chí du lịch Mỹ Condé Nast Traveller bình chọn cũng trong năm 2017. Hai năm tiếp theo (2018-2019), JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay trở thành cái tên quen thuộc được vinh danh ở những hạng mục danh giá của các giải thưởng uy tín nhất thế giới như WTA và World Luxury Restaurant Awards. Khu nghỉ này cũng nổi đình nổi đám thế giới với việc trở thành nơi tổ chức đám cưới kéo dài 7 ngày đêm của một cặp đôi tỷ phú Ấn Độ năm 2019 và sau đó, nó đã chứng kiến rất nhiều đám cưới tỷ phú khác cũng không kém phần xa xỉ. Bước sang năm 2020, resort bên bãi Kem tiếp tục được giải “Oscar du lịch thế giới” vinh danh ở hạng mục “Khu nghỉ dưỡng Tiệc cưới xa xỉ hàng đầu Thế giới”, đồng thời đạt giải Best of the Best Awards do người dùng TripAdvisor bình chọn. 4. Sun World Ba Na Hills (Đà Nẵng) Sau hơn 12 năm đi vào hoạt động, Sun World Ba Na Hills do Tập đoàn Sun Group đầu tư và vận hành tại Đà Nẵng không chỉ chinh phục hàng triệu du khách trong và ngoài nước bằng cảnh quan tuyệt đẹp, dịch vụ chuyên nghiệp, sản phẩm đẳng cấp mà còn góp phần nâng tầm vị thế của du lịch Đà Nẵng nói riêng, Việt Nam nói chung bằng hàng loạt giải thưởng quốc tế uy tín. Tại WTA 2019 Châu Á – Châu Đại Dương, khu du lịch trên đỉnh Bà Nà đạt giải “Công viên chủ đề hàng đầu Việt Nam”. Bước sang năm 2020, Sun World Ba Na Hills bất ngờ trở thành điểm sáng của du lịch Đà Nẵng và Việt Nam khi liên tục được các tổ chức giải thưởng thế giới vinh danh. World Travel Awards khu vực châu Á vinh danh khu du lịch trên đỉnh núi Chúa với giải thưởng “Hệ thống cáp treo hàng đầu thế giới”. World Travel Awards toàn cầu gọi tên Sun World Ba Na Hills với cú hat-trick 3 giải thưởng “Hệ thống cáp treo hàng đầu thế giới 2020”, “Điểm du lịch biểu tượng hàng đầu thế giới” và “Cây cầu du lịch biểu tượng hàng đầu thế giới 2020” dành cho Cầu Vàng. 5. Sun World Fansipan Legend (Lào Cai) Đi vào hoạt động từ năm 2016 tại Sa Pa ( Lào Cai ), cách làm du lịch vừa chuyên nghiệp vừa thấm đẫm chất văn hóa Tây Bắc của Sun World Fansipan Legend và chủ đầu tư Sun Group đã nhanh chóng chinh phục không chỉ du khách trong nước và quốc tế, mà còn khiến thế giới ngưỡng mộ. Hai năm liền, KDL Sun World Fansipan Legend nhận giải thưởng “Điểm đến du lịch văn hoá hàng đầu thế giới” (2019, 2020) do World Travel Awards (WTA) trao tặng, mang về niềm tự hào lớn cho không chỉ ngành du lịch Lào Cai. Năm 2020, Sun World Fansipan Legend tiến thêm một nấc thang mới với danh hiệu “Điểm du lịch có thắng cảnh thiên nhiên hấp dẫn hàng đầu thế giới”.
Top 5 projects that make Vietnam tourism admired by the world Since the launch of the InterContinental Danang Sun Peninsula Resort ( Danang ) of Sun Group has overwhelmed the global travel world with a series of international tourism awards since 2014, Vietnam has had many more tourism projects that have made the world admire. 1. InterContinental Danang Sun Peninsula Resort (Son Tra Peninsula, Da Nang City) Considered a symbol of resort tourism of Da Nang and the entire Vietnamese hotel industry, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort Invested by Sun Group and managed and operated by InterContinental Hotel Group (IHG), it is considered a "born to win" resort. 7 years ago, when the World Travel Awards (WTA) first named InterContinental Danang Sun Peninsula Resort as "The world's most luxurious resort", international travelers had to look at Vietnam, which at that time was still being overlooked. Seen as a cheap tourist destination, with a different eye. And then, the resort on Son Tra peninsula held this throne for 4 consecutive years (2014-2017) - an unprecedented feat not only for Vietnam, but perhaps also for the world. In the list of top tourism awards in the world over the years, the name InterContinental Danang Sun Peninsula Resort has rarely been missing. In 2020, despite the severe impact of the Covid-19 pandemic, the first resort designed by "resort king" Bill Bensley in Vietnam was still honored in seven WTA award categories in Asia. WTA World 2020 also honored InterContinental Danang Sun Peninsula Resort as "The World's Leading Environmentally Friendly Resort 2020". Possessing a huge collection of awards, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort has become a "must-go" destination for the super-rich, tycoons and international politicians. 2. Golden Bridge (Sun World Ba Na Hills – Da Nang) It's not time to win the "World's Leading Iconic Tourist Bridge" award from the World Travel Awards 2020, Golden Bridge (Da Nang) recently shined in the international arena. In fact, the "super product" of Sun Group at Sun World Ba Na Hills tourist area has surprised and admired the world since its inception. World news agencies such as CNN, BBC, Reuters, National Geographic, New York Times, Time... all mentioned the Golden Bridge as a symbol of unique beauty. In August 2019, Cau Vang received a "Special Certificate for Excellent Project" from Property Guru Property Vietnam Awards 2019 - a major award in the Asian real estate sector. Most recently, the Golden Bridge was also voted by readers of the Daily Mail (UK) to lead the Top 10 New Wonders of the World. Along with the inherent beauty of nature and proud titles and awards awarded by international organizations, Golden Bridge has contributed significantly to realizing the dream of bringing Vietnamese tourism to the ocean. . 3. JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay (Phu Quoc) Located next to the romantic Kem beach, the second masterpiece resort in Vietnam by the world's leading architect Bill Bensley not only overwhelms with its unique architecture simulating the fictional Lamarck University, but also making people admire their majestic "achievement board" with a collection of the most prestigious awards in the world. After only 6 months of operation and welcoming guests, JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay was honored by WTA 2017 as "Asia's Best New Resort". At the same time, Chanterelle - Spa by JW also excellently received the award "Most outstanding new luxury spa in Southeast Asia", within the framework of the World Luxury Spa & Restaurant Awards 2017. JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay is also in the Top 50 resorts. Best resort in the world by American travel magazine Condé Nast Traveler Voted also in 2017. The next two years (2018-2019), JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay became a familiar name honored in prestigious categories of the world's most prestigious awards such as WTA and World Luxury Restaurant Awards. This resort is also famous around the world for being the venue for the 7-day and night-long wedding of an Indian billionaire couple in 2019, and since then, it has witnessed many other billionaire weddings as well. no less luxurious. Entering 2020, the resort on Kem beach continued to be honored by the "World Tourism Oscar" in the category "World's Leading Luxury Wedding Resort", and also won the Best of the Best Awards awarded by the People's Committee of Vietnam. use TripAdvisor voted. 4. Sun World Ba Na Hills (Da Nang) After more than 12 years of operation, Sun World Ba Na Hills invested and operated by Sun Group in Da Nang, it not only conquers millions of domestic and foreign tourists with beautiful landscapes, professional services, and classy products but also contributes to raising the position of tourists. Da Nang in particular and Vietnam in general with a series of prestigious international awards. At WTA 2019 Asia - Oceania, the Ba Na peak tourist area won the award "Vietnam's leading theme park". Entering 2020, Sun World Ba Na Hills suddenly became a highlight of Da Nang and Vietnam tourism when continuously honored by world award organizations. World Travel Awards Asia region honored the tourist area on the top of Mount Chua with the award "World's leading cable car system". The global World Travel Awards named Sun World Ba Na Hills with a hat-trick of 3 awards: "World's leading cable car system 2020", "World's leading iconic tourist destination" and "Iconic tourist bridge". "World's leading statue 2020" for the Golden Bridge. 5. Sun World Fansipan Legend (Lao Cai) In operation since 2016 in Sa Pa ( Lao Cai ), the way of doing tourism is both professional and imbued with the Northwest culture of Sun World Fansipan Legend and investor Sun Group has quickly conquered not only domestic and international tourists, but also made the world admire. For two consecutive years, Sun World Fansipan Legend Resort received the "World's Leading Cultural Tourism Destination" award (2019, 2020) by World Travel Awards (WTA) awarded, bringing great pride to not only Lao Cai tourism industry. In 2020, Sun World Fansipan Legend reached a new level with the title of "World's leading tourist destination with attractive natural landscapes".
Lắt léo chữ nghĩa: Nguồn gốc và ý nghĩa câu Tiên học lễ, hậu học văn Một số người cho rằng Tiên học lễ, hậu học văn (先学禮後学文) là tục ngữ gốc Trung Quốc, nhưng trên những trang mạng Trung văn, người Trung Quốc lại hỏi nhau câu này nghĩa là gì. Đơn giản là vì câu Tiên học lễ, hậu học văn không có nguồn gốc từ Hán ngữ và cũng không phải là câu xuất phát từ quan điểm chữ “lễ” của Khổng Tử. Theo sách Từ Hải, Lễ (礼) vốn nghĩa là kính thần rồi dần chuyển nghĩa thành kính trọng ai đó, về sau dùng để “chỉ các quy phạm đạo đức và các chuẩn mực xã hội” (Luận ngữ). Chữ lễ (礼) không phải do Khổng Tử nghĩ ra và cũng không xuất phát từ Nho gia, bởi vì trước đó, “lễ” đã manh nha từ thời Tam Hoàng Ngũ đế, đến thời Nghiêu-Thuấn thì trở thành lễ nghi qua “ngũ lễ”: cát lễ (吉礼), hung lễ (凶礼), tân lễ (宾礼), quân lễ (军礼) và gia lễ (嘉礼). Khổng Tử thời Xuân Thu chỉ là người kế thừa, phát huy chữ lễ đến mức tột đỉnh của Nho gia: “khắc kỉ phục lễ” (克己复礼), để rồi trong thiên Nhan Uyên của Luận ngữ, Khổng Tử viết: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”, nghĩa là: “Không hợp với lễ thì đừng nhìn, không hợp với lễ thì đừng nghe, không hợp với lễ thì đừng nói, không hợp với lễ thì chẳng nên làm”. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đã sử dụng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí để làm nền tảng chuẩn mực cho đạo đức. Lễ chính là “tâm khiêm tốn nhường nhịn” (từ nhượng chi tâm/辭讓之心), “tâm biết đúng sai” (thị phi chi tâm/是非之心), lễ là một trong những phẩm hạnh đạo đức của con người. Về sau, Tuân Tử còn coi trọng “lễ” hơn cả Mạnh Tử (qua trước tác Lễ luận). Tuân Tử sử dụng “lễ” và “hình” để trị nước… Đó là vài nét về chữ lễ ở Trung Quốc thời xưa, còn ở Việt Nam hiện nay thì sao? Có quan điểm cho rằng nên bỏ khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn vì câu này là sản phẩm của nền giáo dục Nho giáo , khiến người dưới phải phục tùng, giữ “lễ” với người trên, trở nên thụ động và không còn tư duy phản biện. Việc loại bỏ câu này giúp giải phóng sức sáng tạo… Quan điểm trên đã vấp phải sự phản đối của nhiều người, bởi vì, hiện nay chữ “lễ” không còn được hiểu là phục vụ cho giai cấp phong kiến và Nho giáo, mà chính là “lễ nghĩa, đạo đức, những phép tắc ứng xử đúng đắn, tốt đẹp trong gia đình và ngoài xã hội. Lễ thực chất là học làm Người”. Câu Tiên học lễ, hậu học văn có ý nghĩa là “trước hết phải rèn luyện đạo đức, tu dưỡng nhân cách của bản thân; sau đó mới học đến những kiến thức văn hóa , nâng cao vốn hiểu biết”. Vậy, câu Tiên học lễ, hậu học văn xuất hiện vào thời nào? Có nhà nghiên cứu khẳng định là vào thời Chu Văn An (1292 – 1370), nhưng chưa có cứ liệu nào chứng minh được điều này. Câu Tiên học lễ, hậu học văn có lẽ là do những nhà Nho người Việt nghĩ ra, xuất hiện từ giai đoạn nửa đầu thế kỷ 19 (thời nhà Nguyễn), đặc biệt là được treo trong những trường tiểu học và trung học tại miền Nam Việt Nam. Điều này được ghi nhận trong quyển Vietnam and the Chinese Model A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century của Alexander Woodside (Harvard University. Council on East Asian Studies, 1988, tr.343). Có người cho rằng “dù hiểu chữ lễ theo nghĩa tốt thì cũng không nên duy trì “khẩu hiệu” này, không nên đặt “lễ” (đạo đức) trước “văn” (tri thức), vì hai thứ đều cần như nhau, không trước không sau”. Dĩ nhiên, quyết định bỏ hay giữ câu Tiên học lễ, hậu học văn thì còn tùy thuộc vào giới có thẩm quyền. Song cần lưu ý, nếu vẫn giữ câu này thì không nên coi chỉ là lời nói suông, mà cần phải là phương châm định hướng giáo dục. Vương Trung Hiếu
Tricky words: Origin and meaning of the sentence Tien learns rituals, then learns literature Some people believe that first learning rituals, later learning literature (先学禮後学文) is a Chinese proverb, but on Chinese websites, Chinese people ask each other what this means. Simply because the sentence "First learn rituals, then learn literature" does not originate from Chinese and is not a sentence derived from Confucius's view of the word "ritual". According to the book Tu Hai, Li (礼) originally meant respect for god and then gradually changed its meaning to respect for someone, later used to "refer to moral codes and social standards" (Analects). The word ceremony (礼) was not invented by Confucius nor did it come from Confucianism, because before that, "ceremony" had been around since the time of the Three Emperors and Five Emperors, and by the time of Yao-Shun, it had become a ritual. “five rituals”: ​​good rituals (吉礼), bad rituals (凶礼), new rituals (宾礼), military rituals (军礼) and family rituals (嘉礼). Confucius in the Spring and Autumn period was just the successor, promoting the Confucian word of etiquette to its highest level: "retreat in a strict manner" (克己复礼), and then in Nhan Uyen of the Analects, Confucius wrote: " Non-offerings of visual objects, non-offerings of hearing, non-offerings of words, non-offerings of animals", meaning: "If it's not in line with the ritual then don't look, if it's not in line with the ritual then don't listen, if it's not in accordance with the ritual then don't speak, no If it is in accordance with the ceremony, it should not be done." During the Warring States period, Mencius used Humanity, Righteousness, Rites, and Wisdom as the standard foundation for morality. Rites are "a heart of humility and tolerance" (tu leng chi tam/辭讓之心), "a mind that knows right from wrong" (thi phi chi tam/是非之心), rites are one of the moral virtues of humans . Later, Tuan Tu valued "rituals" even more than Mencius (through his earlier work on Rites). Xun Zi used "ceremony" and "images" to rule the country... Those are some features of ritual characters in ancient China, but what about in Vietnam today? There is a view that the slogan should be abandoned: first learn rituals, then learn literature because this saying is a product of education Confucius , causing subordinates to obey, maintain "respect" with superiors, become passive and no longer think critically. Eliminating this sentence frees up creativity… The above viewpoint has faced opposition from many people, because, nowadays, the word "rituals" is no longer understood as serving the feudal class and Confucianism, but rather as "rituals, ethics, and rituals." principles of correct and good behavior in the family and in society. Ceremony is essentially learning to be human." Gou Tien learns rituals and then learns literature, which means "first of all, you must practice morality and cultivate your own personality; Then learn the knowledge culture , improve knowledge". So, when did the saying "First learn rituals, then learn literature" appear? Some researchers claim that it was during the time of Chu Van An (1292 - 1370), but there is no evidence to prove this. Cau Tien learned rituals and later learned literature probably from Confucian scholars Vietnamese people invented, appeared in the first half of the 19th century (Nguyen Dynasty), especially hung in primary and secondary schools in the South of Vietnam. This is noted in the book Vietnam and the Chinese Model A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century by Alexander Woodside (Harvard University. Council on East Asian Studies, 1988, p.343). Some people believe that "even if we understand the word ritual in a good sense, we should not maintain this "slogan", we should not put "ceremony" (morality) before "literature" (knowledge), because both things are needed equally. , neither before nor after”. Of course, the decision to abandon or keep the saying "First learns rituals and then learns literature" depends on the authorities. However, it should be noted that if this sentence is still kept, it should not be considered just empty words, but should be a guiding motto for education. Vuong Trung Hieu
Thủ phủ du lịch Đà Nẵng “làm mới” chờ ngày bung lụa Đặt mục tiêu sớm đưa du lịch trở lại trạng thái bình thường, Đà Nẵng không chỉ quyết liệt kiểm soát dịch bệnh mà còn tích cực “khoác áo mới” cho các điểm đến, để sẵn sàng đón du khách quay trở lại. Sau nhiều tháng “đóng cửa” chống dịch, Đà Nẵng đã tự tin lên phương án đón du khách trở lại khi công tác kiểm soát dịch đạt những kết quả khả quan. Hiện thành phố bên sông Hàn đứng thứ 8/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm vắc-xin cao của cả nước, với số người trên 18 tuổi đã được tiêm vắc-xin mũi 1 đạt 95%, mũi 2 đạt 15%. Bên cạnh việc chốt phương án đón khách nội địa theo 4 giai đoạn, UBND thành phố Đà Nẵng cũng đã mạnh dạn đề nghị Thủ tướng Chính phủ thống nhất cho phép tổ chức đón và phục vụ khách quốc tế theo phương án riêng từ tháng 11/2021. Thực tế, ngay từ những ngày nghỉ giãn cách phòng chống dịch, nhiều điểm đến nổi tiếng Đà thành như Sun World Ba Na Hills , Công viên Châu Á- Asia Park , Bảo tàng Đà Nẵng, Núi Thần Tài… đã âm thầm “khoác áo mới”, sẵn sàng đem đến những trải nghiệm mới mẻ, độc đáo cho du khách ngày hội ngộ. Điển hình là Sun World Ba Na Hills. Khu du lịch trên đỉnh núi Chúa đã thể hiện nỗi nhớ du khách bằng những thay đổi hết sức ngoạn mục trong mùa dịch, để du khách sẽ phải ồ lên thích thú trong ngày trở lại. Với việc trồng thêm hơn 12.000 gốc hồng, 10.000 gốc hướng dương và hàng ngàn đóa cúc vạn thọ…, Bà Nà Hills đã trở thành thánh địa hoa lộng lẫy cùng những góc check-in đẹp thần sầu khắp khu du lịch. Thác Mặt trời – công trình mới tại Sun World Ba Na Hills Trở lại Bà Nà sau nhiều ngày xa cách, du khách cũng sẽ choáng ngợp với Thác Mặt Trời bừng sáng tại khu vực Beer Plaza. Những bức tượng vàng cực kỳ tinh xảo được tạo tác bởi gia tộc điêu khắc tượng lừng danh thế giới Frilli Gallery. Đây là sản phẩm mới độc đáo được chủ đầu tư Sun Group kỳ công kiến tạo tại KDL Sun World Ba Na Hills với kỳ vọng tạo thêm một biểu tượng du lịch mới cho Đà Nẵng. Ba Na Hills Golf Club đã mở cửa đón khách Khu nghỉ dưỡng “sang trọng nhất thế giới” trên bán đảo Sơn Trà- InterContinental Danang Sun Peninsula Resort và “Sân golf tốt nhất Châu Á” Ba Na Hills Golf Club đã tự tin mở cửa đón khách trở lại từ đầu tháng 10/2021. Tất cả nhân viên được tiêm phòng vắc-xin đầy đủ, đồng thời các biện pháp phòng dịch được triển khai nghiêm ngặt. Khách sạn bên sông Hàn Novotel Danang Premier Han River Hotel cũng đã mở cửa nhà hàng The Square phục vụ thực khách. Công viên châu Á- Asia Park Dù chưa chính thức mở cửa trở lại, song các điểm đến khác của Sun Group tại Đà Nẵng như: Công viên Châu Á – Asia Park, Sky 36, Premier Village Danang Resort cũng đã tranh thủ thời gian ngưng đón khách để làm mới về diện mạo lẫn chất lượng dịch vụ, với mong muốn đem đến những trải nghiệm tuyệt vời nhất cho du khách. Bảo tàng Đà Nẵng đã xây dựng chương trình học ngoại khóa cho học sinh trên địa bàn Hiện Bảo tàng Đà Nẵng cũng đã sẵn sàng mở cửa đón khách khi Đà Nẵng trở lại trạng thái bình thường. Hàng loạt sản phẩm, sự kiện văn hóa, giải trí hấp dẫn đã được Bảo tàng lên kế hoạch tổ chức, giới thiệu đến du khách. Đặc biệt, Bảo tàng Đà Nẵng đã xây dựng kế hoạch tiếp tục triển khai chương trình giờ học ngoại khóa, giáo dục lịch sử địa phương dành cho các cấp học phổ thông trên địa bàn trong năm học 2021-2022. Dự kiến lên phương án đón khách từ cuối tháng 12 và chính thức đón khách vào tháng 1/2022, danh thắng Ngũ Hành Sơn tập trung cao độ cho công tác phòng chống dịch, giữ an toàn cho điểm đến. Đồng thời, đảm bảo vệ sinh môi trường, phòng chống cháy nổ… Hiện nay, ngoài việc lên phương án đón và phục vụ khách du lịch nội địa với 4 giai đoạn, Đà Nẵng đã chính thức đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép đón khách quốc tế từ tháng 11/2021. Chắc chắn, để hiện thực hóa các phương án đón khách, Đà Nẵng còn rất nhiều việc phải làm để đưa du lịch hoạt động trở lại trong tình hình mới. Tuy nhiên, với tinh thần sẵn sàng và sự chuẩn bị kỹ càng của các điểm đến, tin rằng du lịch Đà Nẵng sẽ sớm sôi động, nhộn nhịp trở lại. Và những bước chân đam mê khám phá sẽ lại lấp đầy nỗi nhớ của các điểm đến Đà Nẵng.
The tourist capital of Da Nang is "refreshed" waiting for its grand opening Set a goal to soon return tourism to a normal state, Danang not only fiercely controlling the epidemic but also actively "putting on new clothes" for destinations, to be ready to welcome tourists back. After many months of "closing" to fight the epidemic, Da Nang has confidently planned to welcome tourists back when the epidemic control work achieves positive results. Currently, the city on the Han River ranks 8th out of 63 provinces and cities with a high vaccination rate in the country, with the number of people over 18 years old who have been vaccinated with the first dose reaching 95%, and the second dose reaching 15%. . In addition to finalizing the plan to welcome domestic guests in 4 phases, the People's Committee of Da Nang City also boldly requested the Prime Minister to agree to allow the organization to welcome and serve international guests according to a separate plan from November. /2021. In fact, right from the days of quarantine to prevent epidemics, many famous destinations in Da Thanh such as Sun World Ba Na Hills , Asia Park - Asia Park , Da Nang Museum, Than Tai Mountain... have quietly "put on new clothes", ready to bring new and unique experiences to visitors on the reunion day. A typical example is Sun World Ba Na Hills. The tourist area on the top of Chua mountain has expressed the nostalgia of tourists with extremely spectacular changes during the epidemic season, so that tourists will be excited when they return. With the planting of more than 12,000 roses, 10,000 sunflowers and thousands of marigolds..., Ba Na Hills has become a splendid flower mecca with breathtakingly beautiful check-in corners throughout the tourist area. Sun Waterfall - new project at Sun World Ba Na Hills Returning to Ba Na after many days away, visitors will also be overwhelmed with the bright Sun Waterfall in the Beer Plaza area. The extremely sophisticated golden statues were created by the world-famous sculptor family Frilli Gallery. This is a unique new product approved by the investor Sun Group The feat of construction at Sun World Ba Na Hills Resort with the expectation of creating a new tourism symbol for Da Nang. Ba Na Hills Golf Club is open to welcome guests The "world's most luxurious" resort on Son Tra peninsula - InterContinental Danang Sun Peninsula Resort and "Asia's best golf course" Ba Na Hills Golf Club have confidently reopened to welcome guests from the beginning of October 2021. . All employees are fully vaccinated, and strict epidemic prevention measures are implemented. The Han River hotel Novotel Danang Premier Han River Hotel has also opened its restaurant The Square to serve diners. Asia Park - Asia Park Although not officially reopened, Sun Group's other destinations in Da Nang such as: Asia Park, Sky 36, Premier Village Danang Resort have also taken advantage of the time to stop welcoming guests to refresh. appearance and service quality, with the desire to bring the best experiences to visitors. Da Nang Museum has developed an extracurricular program for students in the area Currently, Da Nang Museum is also ready to open to welcome visitors when Da Nang returns to normal. A series of attractive cultural and entertainment products and events have been planned and introduced to visitors by the Museum. In particular, the Da Nang Museum has developed a plan to continue implementing the extracurricular and educational class program local history for high school levels in the area in the 2021-2022 school year. Expected to plan to welcome guests from the end of December and officially welcome guests in January 2022, Ngu Hanh Son scenic spot is highly focused on epidemic prevention and keeping the destination safe. At the same time, ensuring environmental hygiene, fire and explosion prevention... Currently, in addition to planning to welcome and serve domestic tourists in 4 phases, Da Nang has officially requested the Prime Minister to allow international visitors from November 2021. Certainly, to realize plans to welcome guests, Da Nang still has a lot of work to do to bring tourism back to life in the new situation. However, with the spirit of readiness and careful preparation of the destinations, it is believed that Da Nang tourism will soon be vibrant and bustling again. And those passionate footsteps of discovery will once again fill the nostalgia of Da Nang destinations.
WHO kêu gọi ứng phó ‘hợp lý’ với chủng Omicron WHO kêu gọi các nước giữ bình tĩnh và thực hiện biện pháp “hợp lý” trước biến chủng Omicron, sau những phản ứng gấp rút ban đầu. “Chúng tôi kêu gọi tất cả quốc gia thành viên thực hiện những biện pháp giảm thiểu rủi ro một cách hợp lý và tương xứng. Phản ứng toàn cầu phải bình tĩnh, có sự phối hợp và mạch lạc”, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO ) Tedros Adhanom Ghebreyesus hôm nay phát biểu. Sau khi Nam Phi hôm 25/11 công bố về Omicron, biến chủng nCoV mới có tới 50 đột biến, nhiều nước trên toàn cầu đã ghi nhận ca nhiễm biến chủng này, thúc đẩy hàng loạt chính phủ nhanh chóng áp lệnh hạn chế đi lại với khu vực phía nam châu Phi. Tuy nhiên, WHO không khuyến khích động thái này, bởi lo ngại gây ra bất công đối với các nước phát hiện chủng mới đầu tiên. “Tôi xin gửi lời cảm ơn Botswana và Nam Phi vì đã phát hiện, giải trình gene và báo cáo về biến chủng mới rất nhanh chóng”, Tedros cho biết, đồng thời bày tỏ “lo ngại sâu sắc khi những nước này đang bị trừng phạt vì làm điều đúng đắn”. Giám đốc WHO nhấn mạnh chưa rõ mức độ nguy hiểm của biến chủng Omicron. “Chúng ta vẫn có nhiều câu hỏi hơn đáp án về ảnh hưởng của Omicron đối với sự lây nhiễm, mức độ nghiêm trọng của bệnh, cũng như hiệu quả xét nghiệm, điều trị và tiêm chủng”, ông cho hay. Tedros cho biết mong muốn bảo vệ công dân của các nước là điều dễ hiểu, nhưng ông cũng lo ngại một số quốc gia thành viên WHO “đang đưa ra những biện pháp thiếu cân nhắc, đánh đồng” và sẽ chỉ làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng. “Chúng ta càng cho phép đại dịch kéo dài, bằng cách không giải quyết tình trạng bất bình đẳng vaccine, hoặc không thực hiện các biện pháp y tế và xã hội một cách phù hợp và nhất quán, thì càng tạo cơ hội cho virus đột biến theo những hướng không thể dự đoán hoặc ngăn chặn”, Tedros nói. Biến chủng Omicron xuất hiện lần đầu tại Botswana vào ngày 11/11, sau đó được Nam Phi phát hiện và công bố , khi số ca nhiễm ở nước này tăng theo cấp số nhân chỉ trong vài tuần. WHO hôm 26/11 tuyên bố xếp biến chủng này vào danh sách đáng lo ngại. Omicron có tới hơn 50 đột biến, trong đó ít nhất 32 đột biến nằm trên protein gai, bộ phận giúp virus bám dính và xâm nhập tế bào của người, gây lo ngại về nguy cơ lây nhiễm dễ dàng và thậm chí né miễn dịch. Tuy nhiên, WHO cho hay vẫn chưa thể chắc chắn về các đặc tính của biến chủng này. Ánh Ngọc (Theo AFP )
WHO calls for a 'rational' response to the Omicron strain WHO calls on countries to stay calm and take "reasonable" measures against the Omicron variant, after initial hasty responses. “We call on all member states to take appropriate and proportionate risk mitigation measures. The global response must be calm, coordinated and coherent,” Director-General of the World Health Organization ( WHO ) Tedros Adhanom Ghebreyesus spoke today. After South Africa announced on November 25 about Omicron, a new strain of nCoV with up to 50 mutations, many countries around the world have recorded cases of infection with this strain, prompting a series of governments to quickly impose restrictions on travel. to the southern African region. However, WHO does not encourage this move, because of concerns about causing injustice to the countries that first discovered the new strain. “I would like to thank Botswana and South Africa for their rapid discovery, genetic sequencing and reporting of new strains,” Tedros said, expressing “deep concern that these countries are being punished for doing the right thing.” The WHO director emphasized that it is unclear how dangerous the Omicron strain is. “We still have more questions than answers about the impact of Omicron on infection, disease severity, as well as the effectiveness of testing, treatment and vaccination,” he said. Tedros said countries' desire to protect their citizens is understandable, but he is also concerned that some WHO member countries "are taking ill-considered, equivocal measures" that will only aggravate the situation. inequality situation. “The longer we allow the pandemic to persist, by failing to address vaccine inequality, or by failing to implement appropriate and consistent health and social measures, the more opportunities we will give the virus. mutate in ways that cannot be predicted or prevented,” Tedros said. The Omicron strain first appeared in Botswana on November 11, then was discovered by South Africa and announced , when the number of infections in the country increased exponentially in just a few weeks. On November 26, WHO announced that this variant was on the list of concern. Omicron has more than 50 mutations, of which at least 32 mutations are located on the spike protein, the part that helps the virus attach to and invade human cells, causing concerns about the risk of easy infection and even immune avoidance. . However, WHO said it is still uncertain about the characteristics of this variant. Luster (According to AFP )
Nguyễn Đình Chiểu và những lý tưởng, sứ mệnh của UNESCO Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ được yêu thích rộng rãi ở Việt Nam từ hơn 150 năm nay. Nhìn từ lý tưởng và sứ mệnh của UNESCO, chúng ta thử điểm lại những giá trị cụ Đồ đã góp cho hành trang của chúng ta, cho con cháu hôm nay và mai sau. Trong những giá trị tốt đẹp ấy, những gì có thể giới thiệu với bạn bè năm châu để góp vào hành trang đi tới của nhân loại? Theo tôi là 4 phương diện sau đây. Nhà thơ lớn của nhân dân Việt Nam Nói đến thơ Nguyễn Đình Chiểu, trước hết nói đến tác phẩm Lục Vân Tiên . Lục Vân Tiên đề cao tình nghĩa ở đời: tình cha con (Vân Tiên với cha mẹ), tình vợ chồng (Vân Tiên-Nguyệt Nga), tình bạn bè (Vân Tiên-Hớn Minh, Tử Trực), tình thầy trò, thầy tớ (Vân Tiên-tiểu đồng, Nguyệt Nga-Kim Liên)… Tình nghĩa là căn cốt của tâm hồn Việt Nam, của tính cách Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Đó cũng là giá trị mà Việt Nam có thể mang ra thế giới. Lục Vân Tiên đề cao tinh thần nghĩa hiệp – trọng nghĩa khinh tài – thông qua hình tượng Vân Tiên đánh cướp, Vân Tiên giúp nước giúp dân… Lục Vân Tiên thể hiện ước mơ của người bình dân về công lý trong cuộc sống: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo – kẻ ác phải bị trừng phạt. Lục Vân Tiên là truyện thơ viết bằng chữ Nôm, viết bằng tiếng nói bình dân, kể chuyện cho dân nghe, rất được dân chúng ưa thích. Lục Vân Tiên có sức ảnh hưởng lớn trong nước và trên thế giới; được chuyển thể thành những loại hình nghệ thuật khác như: tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống về Lục Vân Tiên, tuồng Lục Vân Tiên, phim Lục Vân Tiên, nhạc kịch về Lục Vân Tiên (vở Tiên Nga của Thành Lộc công diễn 2019)…, tức là một “trường văn hóa” về Lục Vân Tiên – đó là điều ngoài Truyện Kiều ra, ít tác phẩm nào có được. Tranh Đông Hồ về “Lục Vân Tiên” – Ảnh tác giả chụp lại từ tư liệu Lục Vân Tiên còn là tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra nhiều thứ tiếng: ít nhất 7 bản tiếng Pháp. Năm 1985 Lục Vân Tiên còn được dịch ra tiếng Nhật với bản dịch của giáo sư Takeuchi Yonosuke. Năm 2016 Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Anh với bản dịch của Éric Rosencrantz… Nhà thơ nhân đạo – thân dân, yêu hòa bình Tình cảm nhân đạo, thân dân, yêu hòa bình thể hiện chủ yếu ở văn tế, thơ của Nguyễn Đình Chiểu sáng tác sau khi Pháp xâm lược. Nguyễn Đình Chiểu là tác giả hàng đầu Việt Nam về thể loại văn tế : Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế sĩ dân Lục tỉnh trận vong và thơ điếu liên hoàn : Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Thơ điếu Phan Thanh Giản… Ngoài ra còn thơ và tập truyện thơ Nôm Ngư Tiều y thuật vấn đáp . Các tác phẩm thể hiện một lòng yêu nước thiết tha, một khát vọng về quyền tự quyết của dân tộc. Với tinh thần ấy, các tác phẩm đã đưa Nguyễn Đình Chiểu lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19, và cũng chính là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào “phi thực dân hóa” của các dân tộc Á Phi – một phong trào được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận tiến bộ trên thế giới, phù hợp với hiến chương Liên Hiệp Quốc, trong đó có UNESCO. Lục Vân Tiên đánh cướp trong “Vân Tiên cổ tích truyện” Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với chủ nghĩa nhân đạo, thân dân, với tinh thần yêu hòa bình truyền thống của dân tộc Việt Nam. Qua các tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luôn phản ánh số phận của nhân dân: nhân dân là nạn nhân đầu tiên của chiến tranh, đặc biệt phụ nữ, trẻ em – những nhóm người yếu thế nhất trong xã hội. Tình nghĩa là căn cốt của tâm hồn Việt Nam, của tính cách Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Đó cũng là giá trị mà Việt Nam có thể mang ra thế giới. Nhà tư tưởng Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu có vị trí danh dự. Ông đánh dấu quá trình chuyển biến của Nho học Việt Nam ở Gia Định theo hướng đô thị hóa, Việt hóa và bình dân hóa. Ở Lục Vân Tiên chúng ta thấy có một nhân vật khá đặc biệt, đó là ông Quán. Ông Quán làu thông kinh sử, ngao ngán con đường công danh, nhưng không lui về ẩn dật theo con đường quen thuộc của các nhà nho – ẩn sĩ ngày xưa, mà ông lại mở quán bán hàng, tức là làm thương mại. Tác phẩm “Lục Vân Tiên” bản tiếng Nhật năm 1985 Thế mà nhà nho của Nguyễn Đình Chiểu, nho thì rất nho nhưng cũng biết đến cả kinh doanh. Nếu xu hướng ông Quán này được tiếp tục phát triển thì ông có khác gì các nhà nho duy tân đầu thế kỷ 20.Nhà nho truyền thống thường coi khinh buôn bán, thương nhân đứng ở nấc thang cuối cùng (sĩ, nông, công, thương), triều đình cũng thi hành chính sách “trọng nông ức thương”. Nho giáo của Nguyễn Đình Chiểu đang trên quá trình Việt hóa – bình dân hóa một cách sâu sắc. Chữ trung, đức mục hàng đầu của nhà nho, được Việt hóa thành khái niệm “ngay” (ngay ngắn, ngay thẳng). Chữ hiếu, đức mục đứng sau chữ trung, được Việt hóa thành khái niệm “thảo”, “ngũ thường” thành “năm hằng”, “chính khí” thành “hơi chính”… Khi trung thành ngay, hiếu thành thảo, thì những thói ngu trung, hiếu một cách mù quáng không còn nữa. Sự thay đổi khái niệm không phải chỉ là vấn đề thay đổi ngôn từ, mà nội hàm của những khái niệm đó cũng thay đổi. Vượt nghịch cảnh giúp ích cho nhân dân Nguyễn Đình Chiểu là nhà giáo có uy tín cao, thường được dân Lục tỉnh gọi là “cụ Đồ” với thái độ kính trọng mà thân thương. Học trò của ông rải khắp Sài Gòn, Cần Giuộc, Ba Tri. Cụ còn là người thầy thuốc lớn, thương dân, có trách nhiệm, rất đề cao y đức. Nhà nghiên cứu văn học Đoàn Lê Giang Trong Lục Vân Tiên , ông gay gắt lên án bọn lang băm hám lợi, hại người. Sách Ngư Tiều y thuật vấn đáp của ông là cuốn cẩm nang, sách giáo khoa về nghề y, đương thời rất được các thầy thuốc ưa chuộng, sử dụng rất nhiều. Hình tượng Kỳ Nhân Sư trong tác phẩm ấy thể hiện sự gắn số phận của người trí thức với đất nước và nhân dân. Nước mất, Kỳ Nhân Sư bỏ vào núi vì không muốn làm người trí thức vong thân; buồn đau và bất lực, ông đã dùng chính hiểu biết về nghề thuốc xông mù đôi mắt để khỏi thấy cảnh đất nước điêu linh, sinh dân nghiêng nghèo. Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng, khi mà cuộc đời ông và sáng tác của ông, lời nói của ông và việc làm của ông thống nhất làm một. PGS-TS ĐOÀN LÊ GIANG (Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia TP.HCM)
Nguyen Dinh Chieu and the ideals and missions of UNESCO Nguyen Dinh Chieu is a widely loved poet in Vietnam for more than 150 years. Looking at the ideals and mission of UNESCO, let's try to review the values ​​that Mr. Do contributed to our journey, for our children and grandchildren today and tomorrow. Among those good values, what can be introduced to friends in five continents to contribute to humanity's journey forward? In my opinion, there are 4 aspects as follows. Great poet of the Vietnamese people When talking about Nguyen Dinh Chieu's poetry, we first talk about the work Luc Van Tien . Luc Van Tien emphasizes love in life: father-child love (Van Tien with his parents), husband-wife love (Van Tien-Nguyet Nga), friendship love (Van Tien-Hon Minh, Tu Truc), teacher-student love, teacher and servant (Van Tien-little dong, Nguyet Nga-Kim Lien)... Love is the core of the Vietnamese soul, of Vietnamese character, and of Vietnamese culture. That is also the value that Vietnam can bring to the world. Luc Van Tien promotes the spirit of chivalry - respecting righteousness and disregarding talent - through the image of Van Tien fighting robbers, Van Tien helping the country to help the people... Luc Van Tien represents the common people's dream of justice in life: good will be rewarded with good, evil will be rewarded with evil - the evil must be punished. Luc Van Tien is a poetic story written in Nom, written in popular language, telling stories to the people, very popular with the people. Luc Van Tien has great influence domestically and internationally; was transformed into other art forms such as: Dong Ho paintings, Hang Trong paintings about Luc Van Tien, Luc Van Tien opera, Luc Van Tien film, musical about Luc Van Tien (Thanh Loc's play Tien Nga premiered in 2019 )…, that is, a "cultural school" about Luc Van Tien - that is something other than The Tale of Kieu, few works have. Dong Ho painting about "Luc Van Tien" - Author's photo taken from documents Luc Van Tien is also a Vietnamese literary work that has been translated into many languages: at least 7 French versions. In 1985 Luc Van Tien was also translated into Japanese with a translation by professor Takeuchi Yonosuke. In 2016 Luc Van Tien was translated into English with a translation by Éric Rosencrantz… Humanitarian poet - pro-people, loves peace Humanitarian, pro-people, and peace-loving sentiments are expressed mainly in orations, poem by Nguyen Dinh Chieu composed after the French invasion. Nguyen Dinh Chieu is Vietnam's leading author of the literary genre : Liturgy of Can Giuoc, Truong Dinh, Literary of the Luc people in battle and continuous eulogy : Truong Dinh's eulogy, Phan Tong's eulogy, Phan Thanh Gian's eulogy... There are also poems and collections of Nom poetry stories Ngu Tieu medical questions and answers . The works express a passionate patriotism and a desire for the nation's right to self-determination. With that spirit, Nguyen Dinh Chieu's works have brought Nguyen Dinh Chieu to the top position among Vietnamese patriotic poets in the second half of the 19th century, and is also a typical poet in the "decolonization" movement of Vietnam. African-Asian peoples - a movement widely supported by progressive public opinion around the world, in accordance with the United Nations charter, including UNESCO. Luc Van Tien fights robbers in "Fairy Tale of Van Tien" Nguyen Dinh Chieu's patriotic ideology is associated with humanitarianism, pro-people, and the traditional peace-loving spirit of the Vietnamese people. Through his works, Nguyen Dinh Chieu always reflects the fate of the people: the people are the first victims of war, especially women and children - the most vulnerable groups in society. Gratitude is the core of the Vietnamese soul, Vietnamese character, and Vietnamese culture. That is also the value that Vietnam can bring to the world. Thinker In the history of Vietnamese thought, Nguyen Dinh Chieu has an honorable position. He marked the transformation of Vietnamese Confucianism in Gia Dinh towards urbanization, Vietnameseization and popularization. LIVE Luc Van Tien We see a rather special character, Mr. Quan. Mr. Quan was well-versed in history and was bored with the path of fame and fortune, but he did not retreat to seclusion following the familiar path of ancient Confucian scholars and hermits. Instead, he opened a shop to sell goods, that is, to do business. The Japanese version of "Luc Van Tien" in 1985 Yet Nguyen Dinh Chieu's Confucian scholar is very confucian but also knows how to do business. If Mr. Quan's trend continues to develop, he will be no different from the modernist Confucianists of the early 20th century. Traditional Confucianists often despise trade, merchants stand at the last rung of the ladder (scholars, farmers, workers). , trade), the court also implemented the policy of "respecting farmers and suppressing trade". Nguyen Dinh Chieu's Confucianism is in the process of Vietnameseization - profound popularization. The word loyalty, the leading virtue of Confucian scholars, was Vietnameseized into the concept of "straightness" (straightness, uprightness). The words filial piety and virtue come after the word loyalty, and have been Vietnameseized into the concept of "thào", "five constants" into "five constants", "right qi" into "main breath"... When you are loyal and filial, then the habits of stupid loyalty and blind filial piety will no longer exist. Changing concepts is not just a matter of changing words, but the connotations of those concepts also change. Overcoming adversity helps the people Nguyen Dinh Chieu is a highly reputable teacher, often called "Mr. Do" by Luc province people with a respectful and loving attitude. His students are spread throughout Saigon, Can Giuoc, and Ba Tri. He is also a great physician, loves people, is responsible, and highly values ​​medical ethics. Literary researcher Doan Le Giang In Luc Van Tien , he harshly condemned charlatans who seek profit and harm people. Book Ngu Tieu medical questions and answers His is a handbook and textbook on the medical profession, and is very popular and widely used by physicians at that time. The image of the Ky Sphinx in that work represents the connection of the intellectual's fate with the country and its people. Having lost his country, Ky Nhan Sphin went into the mountains because he did not want to be an intellectual who lost his life; Sad and helpless, he used his knowledge of medicine to blind his eyes to avoid seeing the country's desolation and its poor people. Nguyen Dinh Chieu is a shining example, when his life and his writings, his words and his deeds are unified into one. Associate Professor, Dr. DOAN LE GIANG (University of Social Sciences and Humanities, Ho Chi Minh City National University)
Nhà văn Nguyễn Kim Huy TRIỀN SÔNG THƠ ẤU – KỲ 3 Nhà văn Nguyễn Kim Huy CÓC XANH KIÊU HÃNH VÀ 12 HÒN CUỘI ĐỎ – 12 HÒN CUỘI TRẮNG Dù ra đời chưa được bao lâu, Cóc Xanh ta vẫn kiêu hãnh ra mặt. Thứ nhất, màu da chú không mốc xịt như lũ cóc ranh cùng lứa đâu nhé. Da chú màu xanh, thế mới lạ, và cũng vì thế mà chú đặt tên cho mình là Cóc Xanh. Cái tên đặc biệt đó được thừa nhận ngay, rõ chú đã ăn đứt cái lũ cóc xám tầm thường kia. Thứ hai chú có một sức khỏe vô địch. Lũ oắt kia, mỗi đứa cố lắm một bước nhảy chỉ được một gang tay – là người ta còn châm chước đấy, chứ thực ra chưa đến một gang đâu, còn thiếu một xíu nữa. Chú ấy à, chú nhảy một bước những hai gang, không, còn hơn nữa, hai gang rưỡi. Là nói lúc chú nhảy chơi chơi thôi, chú đã ra sức thì dứt khoát bước nhảy của chú phải là ba gang. Lại thêm một điều ăn đứt bọn cóc ranh kia. Nhưng còn điều này nữa mới ghê gớm… Một hôm tình cờ đang nghênh ngang dạo chơi gần bờ giếng, trông thấy Cóc Oắt – ranh này có tên như thế vì chú bé nhất bọn – đang ngồi chầu hẫu thin thít giữa một túm cỏ, Cóc Xanh lên tiếng oai vệ hỏi: – Oắt, mày làm gì ở đây thế hả? Oắt giật mình quay lại đã há miệng toan trả lời, nhưng thình lình chú đổi ý lao đến đớp một miếng “tách” vào ngọn cỏ trước mặt, nuốt ực, chóp chép miệng, đoạn trả lời : – Anh thấy đấy, em đang rình lũ mối. Trời, chúng béo lắm cơ, thật ngon lành làm sao. Cóc Xanh có vẻ ngạc nhiên lắm: – Mày nói gì? Mày… mày nuốt chửng mấy con mối tanh òm ấy à? Khiếp! Cóc Oắt trợn mắt: – Sao lại tanh? Chúng thơm phưng phức ấy anh ạ, ngon lắm cơ… Chưa dứt lời, chú lại bỏ câu nói, lao tới đớp đánh “tách” lần nữa vào ngọn cỏ, nghểnh cổ nuốt ực và lại chóp chép miệng. Nhìn thấy thế, Cóc Xanh chậm rãi lắc đầu hai lần, ra ý chê bai và ghê tởm một cách thâm thúy. Không để ý điều đó, Cóc Oắt lại hỏi, sau khi nuốt xong con mối béo tròn: – Anh chê lũ mối béo mẩy này à? Thế… anh ăn gì để sống mà có vẻ khỏe ghê vậy? Cóc Xanh làm ra vẻ đang bận suy nghĩ điều gì không nghe thấy câu hỏi của Oắt. Càng tò mò, Oắt nhảy một bước – chỉ có một gang tay thôi, nhưng chú đã lại làm thêm ngay một bước nhảy nữa, thế là được ở sát bên Cóc Xanh. Chú nghểnh đầu, cố sức hét thật to: – Anh không nghe thấy em hỏi à? Anh vẫn thường xơi gì vậy, anh Cóc Xanh? Lần này thì Cóc Xanh trả lời, giọng nghiêm trang: – Mày xem đây. Cóc Xanh dớn dáo đảo mắt nhìn quanh. Bỗng chú làm một bước nhảy oai vệ về phía trái. Cóc Oắt giật mình, nhưng chú đã vội nhảy theo Cóc Xanh ngay – tất nhiên là hai cú. Chưa kịp định thần, Oắt đã nghe Cóc Xanh quát một giọng rất đanh: – Này nhé! Chú vươn cổ, tợp ngay một cái vào hòn cuội xinh xinh bé bé nằm trước mặt. Oắt hoảng hốt định ngăn lại thì Cóc Xanh đã tợp thêm một cái, rồi một cái nữa… Oắt tái xanh mặt, cuống cuồng vừa chạy vừa hét toáng lên: – Chúng mày ơi! Anh Cóc Xanh nuốt vào bụng tất tật mấy hòn cuội rồi! Ghê quá chúng mày ơi! Cả lũ Cóc đổ ra, xúm lại nghe Cóc Oắt kể chuyện. Oắt vẫn còn xám xanh mày mặt, chú vừa run vừa hổn hển kể. Đó là biệt tài đáng gờm nhất của Cóc Xanh. Cũng từ đó, chú đâm ra nổi tiếng khắp vùng, và lại càng có vẻ kiêu hãnh tợn. Lúc nào mắt chú cũng gườm gườm, đầu chú cũng nghênh nghênh, dáng đi điệu đứng lại càng ngông. Lũ cóc con đều sợ và kính phục Cóc Xanh ra mặt, không đứa nào dám mon men lại gần chú. Mà sá gì cái lũ cóc con xám xịt, không biết nuốt cuội kia, đến cụ Cóc Tía – Đạo sĩ lâu nay ẩn dật lánh thân tu luyện ở một cái hóc tối om hun hút, Cóc Xanh cũng chẳng tỏ vẻ nể nang gì. Có lần chú còn dám buông lời xúc phạm đến cụ nữa kia đấy. Chú bảo: – Cụ Cóc Tía ấy à? Nghe nói cụ có mấy hòn cuội quý lắm, lúc nào ta lên đó nuốt chửng cuội của cụ chơi. Không ngờ cái câu đùa cợt phạm thượng đến tai cụ Cóc Tía – Đạo sĩ thật. Giữa lúc đang ngồi thiền, thế mà cụ cũng bực mình quá, mở choàng mắt ra quát: – Nó dám láo thế à ? Dẫn nó đến đây cho ta! Không rõ phép thuật của cụ huyền bí thế nào mà cụ vừa quát xong, đã thấy Cóc Xanh xuất hiện ngay trước mặt, y như vừa bị tóm cổ đến vậy. Chú ngơ ngơ ngác ngác đảo mắt nhìn quanh, chợt ngẩng lên trông thấy Cóc Tía – Đạo sĩ, chú tái xám cả mặt. Cụ Cóc Tía nghiêm giọng hỏi: – Nghe nói mày định đến đây nuốt mấy viên cuội của ta phải không? Cóc Xanh sợ quá, toan chối, thì cụ lại bảo: – Ta biết cả rồi, đừng chối. Đây, cho mày, nuốt đi. Cụ vứt ra trước mắt Cóc Xanh 24 hòn cuội tất cả, 12 hòn cuội đỏ, 12 hòn cuội trắng. Những viên cuội lấp lánh trông thật đẹp mắt. Cóc Xanh lúc này đã xanh tái cả người dù chú vốn đã xanh. Chú chần chừ, lúc thì nhìn những hòn cuội, lúc lại ngước nhìn cụ đạo sĩ. Cụ giục: – Nuốt đi! Cực chẳng đã, Cóc Xanh phải thè lưỡi đớp lấy một viên cuội, ngập ngừng nuốt. Viên thứ nhất, viên thứ hai rồi viên thứ ba… Nuốt xong 12 viêng cuội trắng, chú đã hoa cả mắt, bụng nặng trình trịch cứ chực nôn ra. Nhưng ngước lên, bắt gặp ngay cái nhìn nghiêm khắc của cụ đạo sĩ Cóc Tía, chú lại phải cố sức thè lưỡi đớp tiếp những hòn cuội đỏ. Một viên… hai viên… Nuốt tiếp xong 12 viên cuội đỏ, mắt chú nảy đom đóm, lưỡi lè ra. Mệt quá, Cóc Xanh chúi đầu xuống đất nằm thở thì… Trời ơi! Cái gì trong bụng thế này? Lửa, lửa! Như có ngọn lửa bừng lên từ ruột gan chú, thiêu đốt chú. Nóng, nóng quá. Sức nóng từ trong bụng làm chú bật ngửa ra phía sau. Thì… trời ơi! Lạnh, lạnh một cách khủng khiếp, cái lạnh toát ra cũng từ ruột gan chú. Cái lạnh hất chú chúi đầu xuống, chổng ngược lên, thì ngay lập tức cơn nóng bùng lên… Cứ thế, hễ chú ngước lên thì lại lạnh, chúi xuống thì liền ngay cơn nóng! Mình đầm đìa mồ hôi, chú muốn kêu thét lên, thì ực một cái, chú nôn thốc nôn tháo những hòn cuội ra. 12 hòn đỏ, 12 hòn trắng… Nôn xong, ngọn lửa và cơn lạnh liền biến mất khỏi bụng chú. Cóc Xanh còn đang thở hổn hển, thì giọng sang sảng của cụ Cóc Tía – Đạo sĩ đã vang lên: – Cuội của ta, 12 viên đỏ là 12 hòn lửa, 12 viên trắng là 12 cục tuyết. Nhà ngươi đã biết điều rồi chứ? Từ nay phải chừa cái tính tự cao tự đại đi nghe chưa? Thôi, cho ngươi lui. Cụ dứt lời, Cóc Xanh đã lại thấy mình ngồi bên thành giếng. Người chú vẫn còn toát mồ hôi, chú run lẩy bẩy, tưởng chừng như mình vừa trải qua một cơn mơ khủng khiếp. Từ đó, lũ cóc con thấy Cóc Xanh không còn cái vẻ kiêu hãnh hợm hĩnh nữa. Chú hiền lành chạy nhảy chơi đùa với chúng. Mỗi khi lũ bạn ép chú trổ tài nuốt cuội, chú lại lắc đầu nguầy nguậy, mặt tái xanh tái xám. Một hôm Cóc Oắt nhìn thấy chú ngồi chồm hỗm bên thành giếng rình đớp ngon lành những con mối béo nung núc. NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ Giữa trưa đứng bóng hay chiều tối, nắng hay mưa, mùa đông rét cắt ruột hay mùa hè nóng bỏng da, mỗi lúc có việc đi ra đồng tôi đều nhìn thấy bà Hượu đang lúi húi mò mẫm dưới ruộng bắt ốc mò cua hay sục sạo tôm tép. Lúc sẫm tối, cái lưng khòm lại cúi xuống của bà gắn liền với mặt ruộng lúa thành một khối đen lù lù, cứ như một lùm dứa dại đột ngột mọc lên ở giữa ruộng nếu không có tiếng oàm oạp của đôi tay bà luôn lục sục mò vớt dưới bùn. Bà Hượu sống một mình. Ngày tôi còn nhỏ thì bà đã già lắm rồi. Tôi không hiểu tại làm sao mà ngày xưa, ở quê tôi có nhiều ông già bà lão sống một mình đến vậy. Không thấy có con cháu gì, mỗi xóm mỗi thôn đều có một vài cụ sống cô độc lủi thủi trong các mái tranh hay rơm rạ rộng chừng hai manh chiếu đôi thấp lè tè chỏng chơ mục nát, ẩm ướt và tối om om ngay cả giữa trưa nắng. Trong nhà vừa đủ chỗ để kê một cái chõng tre cũ, thường đặt sát bên chái bếp thò lò ông đầu rau và cái ấm nấu chè xanh ám khói đen thui. Trên mấy thanh củi xù xì dùng làm giàn bếp treo lủng lẳng mấy trái bắp khô queo hay vài gói hạt giống bí bầu. Sát bên chái bếp bao giờ cũng là cái ảng sành sứt miệng luôn để sẵn gáo dừa múc nước có cái cán dài ngoằng vắt ngang miệng ảng bên mấy dây bí dây bầu bò lơ ngơ lên mái rạ. Mỗi khi ông bà cụ nào qua đời, chiếc chõng tre cũng được khiêng ra đốt bên mộ, căn lều tội nghiệp bị bỏ hoang chẳng ai đến ở, không bao lâu cũng sụp đổ rồi biến mất trong đống dây leo dại um tùm ngày một xanh rì dưới lớp bụi thời gian. Bà Hượu cũng đã qua đời từ lâu. Bẵng đi bao nhiêu năm tháng, một lần về thăm quê, tôi mon men lội bộ dọc theo những con đường bờ ruộng trơn tuột mà lúc nhỏ tôi vẫn đi học. Bỗng, tôi nhìn thấy một bóng người lom khom dưới ruộng và tiếng nước kêu oàm oạp. Bất giác tôi kêu lên sửng sốt : – Bà Hượu! Người ấy đứng thẳng dậy, gỡ nón nhìn lên. Đó là mẹ tôi! Triền sông thơ ấu – Nhà văn Nguyễn Kim Huy – Kỳ 1 Triền sông thơ ấu – Nhà văn Nguyễn Kim Huy – Kỳ 2
Nhà văn Nguyễn Kim Huy TRIỀN SÔNG THƠ ẤU – KỲ 3 Nhà văn Nguyễn Kim Huy CÓC XANH KIÊU HÃNH VÀ 12 HÒN CUỘI ĐỎ – 12 HÒN CUỘI TRẮNG Dù ra đời chưa được bao lâu, Cóc Xanh ta vẫn kiêu hãnh ra mặt. Thứ nhất, màu da chú không mốc xịt như lũ cóc ranh cùng lứa đâu nhé. Da chú màu xanh, thế mới lạ, và cũng vì thế mà chú đặt tên cho mình là Cóc Xanh. Cái tên đặc biệt đó được thừa nhận ngay, rõ chú đã ăn đứt cái lũ cóc xám tầm thường kia. Thứ hai chú có một sức khỏe vô địch. Lũ oắt kia, mỗi đứa cố lắm một bước nhảy chỉ được một gang tay – là người ta còn châm chước đấy, chứ thực ra chưa đến một gang đâu, còn thiếu một xíu nữa. Chú ấy à, chú nhảy một bước những hai gang, không, còn hơn nữa, hai gang rưỡi. Là nói lúc chú nhảy chơi chơi thôi, chú đã ra sức thì dứt khoát bước nhảy của chú phải là ba gang. Lại thêm một điều ăn đứt bọn cóc ranh kia. Nhưng còn điều này nữa mới ghê gớm… Một hôm tình cờ đang nghênh ngang dạo chơi gần bờ giếng, trông thấy Cóc Oắt – ranh này có tên như thế vì chú bé nhất bọn – đang ngồi chầu hẫu thin thít giữa một túm cỏ, Cóc Xanh lên tiếng oai vệ hỏi: – Oắt, mày làm gì ở đây thế hả? Oắt giật mình quay lại đã há miệng toan trả lời, nhưng thình lình chú đổi ý lao đến đớp một miếng “tách” vào ngọn cỏ trước mặt, nuốt ực, chóp chép miệng, đoạn trả lời : – Anh thấy đấy, em đang rình lũ mối. Trời, chúng béo lắm cơ, thật ngon lành làm sao. Cóc Xanh có vẻ ngạc nhiên lắm: – Mày nói gì? Mày… mày nuốt chửng mấy con mối tanh òm ấy à? Khiếp! Cóc Oắt trợn mắt: – Sao lại tanh? Chúng thơm phưng phức ấy anh ạ, ngon lắm cơ… Chưa dứt lời, chú lại bỏ câu nói, lao tới đớp đánh “tách” lần nữa vào ngọn cỏ, nghểnh cổ nuốt ực và lại chóp chép miệng. Nhìn thấy thế, Cóc Xanh chậm rãi lắc đầu hai lần, ra ý chê bai và ghê tởm một cách thâm thúy. Không để ý điều đó, Cóc Oắt lại hỏi, sau khi nuốt xong con mối béo tròn: – Anh chê lũ mối béo mẩy này à? Thế… anh ăn gì để sống mà có vẻ khỏe ghê vậy? Cóc Xanh làm ra vẻ đang bận suy nghĩ điều gì không nghe thấy câu hỏi của Oắt. Càng tò mò, Oắt nhảy một bước – chỉ có một gang tay thôi, nhưng chú đã lại làm thêm ngay một bước nhảy nữa, thế là được ở sát bên Cóc Xanh. Chú nghểnh đầu, cố sức hét thật to: – Anh không nghe thấy em hỏi à? Anh vẫn thường xơi gì vậy, anh Cóc Xanh? Lần này thì Cóc Xanh trả lời, giọng nghiêm trang: – Mày xem đây. Cóc Xanh dớn dáo đảo mắt nhìn quanh. Bỗng chú làm một bước nhảy oai vệ về phía trái. Cóc Oắt giật mình, nhưng chú đã vội nhảy theo Cóc Xanh ngay – tất nhiên là hai cú. Chưa kịp định thần, Oắt đã nghe Cóc Xanh quát một giọng rất đanh: – Này nhé! Chú vươn cổ, tợp ngay một cái vào hòn cuội xinh xinh bé bé nằm trước mặt. Oắt hoảng hốt định ngăn lại thì Cóc Xanh đã tợp thêm một cái, rồi một cái nữa… Oắt tái xanh mặt, cuống cuồng vừa chạy vừa hét toáng lên: – Chúng mày ơi! Anh Cóc Xanh nuốt vào bụng tất tật mấy hòn cuội rồi! Ghê quá chúng mày ơi! Cả lũ Cóc đổ ra, xúm lại nghe Cóc Oắt kể chuyện. Oắt vẫn còn xám xanh mày mặt, chú vừa run vừa hổn hển kể. Đó là biệt tài đáng gờm nhất của Cóc Xanh. Cũng từ đó, chú đâm ra nổi tiếng khắp vùng, và lại càng có vẻ kiêu hãnh tợn. Lúc nào mắt chú cũng gườm gườm, đầu chú cũng nghênh nghênh, dáng đi điệu đứng lại càng ngông. Lũ cóc con đều sợ và kính phục Cóc Xanh ra mặt, không đứa nào dám mon men lại gần chú. Mà sá gì cái lũ cóc con xám xịt, không biết nuốt cuội kia, đến cụ Cóc Tía – Đạo sĩ lâu nay ẩn dật lánh thân tu luyện ở một cái hóc tối om hun hút, Cóc Xanh cũng chẳng tỏ vẻ nể nang gì. Có lần chú còn dám buông lời xúc phạm đến cụ nữa kia đấy. Chú bảo: – Cụ Cóc Tía ấy à? Nghe nói cụ có mấy hòn cuội quý lắm, lúc nào ta lên đó nuốt chửng cuội của cụ chơi. Không ngờ cái câu đùa cợt phạm thượng đến tai cụ Cóc Tía – Đạo sĩ thật. Giữa lúc đang ngồi thiền, thế mà cụ cũng bực mình quá, mở choàng mắt ra quát: – Nó dám láo thế à ? Dẫn nó đến đây cho ta! Không rõ phép thuật của cụ huyền bí thế nào mà cụ vừa quát xong, đã thấy Cóc Xanh xuất hiện ngay trước mặt, y như vừa bị tóm cổ đến vậy. Chú ngơ ngơ ngác ngác đảo mắt nhìn quanh, chợt ngẩng lên trông thấy Cóc Tía – Đạo sĩ, chú tái xám cả mặt. Cụ Cóc Tía nghiêm giọng hỏi: – Nghe nói mày định đến đây nuốt mấy viên cuội của ta phải không? Cóc Xanh sợ quá, toan chối, thì cụ lại bảo: – Ta biết cả rồi, đừng chối. Đây, cho mày, nuốt đi. Cụ vứt ra trước mắt Cóc Xanh 24 hòn cuội tất cả, 12 hòn cuội đỏ, 12 hòn cuội trắng. Những viên cuội lấp lánh trông thật đẹp mắt. Cóc Xanh lúc này đã xanh tái cả người dù chú vốn đã xanh. Chú chần chừ, lúc thì nhìn những hòn cuội, lúc lại ngước nhìn cụ đạo sĩ. Cụ giục: – Nuốt đi! Cực chẳng đã, Cóc Xanh phải thè lưỡi đớp lấy một viên cuội, ngập ngừng nuốt. Viên thứ nhất, viên thứ hai rồi viên thứ ba… Nuốt xong 12 viêng cuội trắng, chú đã hoa cả mắt, bụng nặng trình trịch cứ chực nôn ra. Nhưng ngước lên, bắt gặp ngay cái nhìn nghiêm khắc của cụ đạo sĩ Cóc Tía, chú lại phải cố sức thè lưỡi đớp tiếp những hòn cuội đỏ. Một viên… hai viên… Nuốt tiếp xong 12 viên cuội đỏ, mắt chú nảy đom đóm, lưỡi lè ra. Mệt quá, Cóc Xanh chúi đầu xuống đất nằm thở thì… Trời ơi! Cái gì trong bụng thế này? Lửa, lửa! Như có ngọn lửa bừng lên từ ruột gan chú, thiêu đốt chú. Nóng, nóng quá. Sức nóng từ trong bụng làm chú bật ngửa ra phía sau. Thì… trời ơi! Lạnh, lạnh một cách khủng khiếp, cái lạnh toát ra cũng từ ruột gan chú. Cái lạnh hất chú chúi đầu xuống, chổng ngược lên, thì ngay lập tức cơn nóng bùng lên… Cứ thế, hễ chú ngước lên thì lại lạnh, chúi xuống thì liền ngay cơn nóng! Mình đầm đìa mồ hôi, chú muốn kêu thét lên, thì ực một cái, chú nôn thốc nôn tháo những hòn cuội ra. 12 hòn đỏ, 12 hòn trắng… Nôn xong, ngọn lửa và cơn lạnh liền biến mất khỏi bụng chú. Cóc Xanh còn đang thở hổn hển, thì giọng sang sảng của cụ Cóc Tía – Đạo sĩ đã vang lên: – Cuội của ta, 12 viên đỏ là 12 hòn lửa, 12 viên trắng là 12 cục tuyết. Nhà ngươi đã biết điều rồi chứ? Từ nay phải chừa cái tính tự cao tự đại đi nghe chưa? Thôi, cho ngươi lui. Cụ dứt lời, Cóc Xanh đã lại thấy mình ngồi bên thành giếng. Người chú vẫn còn toát mồ hôi, chú run lẩy bẩy, tưởng chừng như mình vừa trải qua một cơn mơ khủng khiếp. Từ đó, lũ cóc con thấy Cóc Xanh không còn cái vẻ kiêu hãnh hợm hĩnh nữa. Chú hiền lành chạy nhảy chơi đùa với chúng. Mỗi khi lũ bạn ép chú trổ tài nuốt cuội, chú lại lắc đầu nguầy nguậy, mặt tái xanh tái xám. Một hôm Cóc Oắt nhìn thấy chú ngồi chồm hỗm bên thành giếng rình đớp ngon lành những con mối béo nung núc. NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ Giữa trưa đứng bóng hay chiều tối, nắng hay mưa, mùa đông rét cắt ruột hay mùa hè nóng bỏng da, mỗi lúc có việc đi ra đồng tôi đều nhìn thấy bà Hượu đang lúi húi mò mẫm dưới ruộng bắt ốc mò cua hay sục sạo tôm tép. Lúc sẫm tối, cái lưng khòm lại cúi xuống của bà gắn liền với mặt ruộng lúa thành một khối đen lù lù, cứ như một lùm dứa dại đột ngột mọc lên ở giữa ruộng nếu không có tiếng oàm oạp của đôi tay bà luôn lục sục mò vớt dưới bùn. Bà Hượu sống một mình. Ngày tôi còn nhỏ thì bà đã già lắm rồi. Tôi không hiểu tại làm sao mà ngày xưa, ở quê tôi có nhiều ông già bà lão sống một mình đến vậy. Không thấy có con cháu gì, mỗi xóm mỗi thôn đều có một vài cụ sống cô độc lủi thủi trong các mái tranh hay rơm rạ rộng chừng hai manh chiếu đôi thấp lè tè chỏng chơ mục nát, ẩm ướt và tối om om ngay cả giữa trưa nắng. Trong nhà vừa đủ chỗ để kê một cái chõng tre cũ, thường đặt sát bên chái bếp thò lò ông đầu rau và cái ấm nấu chè xanh ám khói đen thui. Trên mấy thanh củi xù xì dùng làm giàn bếp treo lủng lẳng mấy trái bắp khô queo hay vài gói hạt giống bí bầu. Sát bên chái bếp bao giờ cũng là cái ảng sành sứt miệng luôn để sẵn gáo dừa múc nước có cái cán dài ngoằng vắt ngang miệng ảng bên mấy dây bí dây bầu bò lơ ngơ lên mái rạ. Mỗi khi ông bà cụ nào qua đời, chiếc chõng tre cũng được khiêng ra đốt bên mộ, căn lều tội nghiệp bị bỏ hoang chẳng ai đến ở, không bao lâu cũng sụp đổ rồi biến mất trong đống dây leo dại um tùm ngày một xanh rì dưới lớp bụi thời gian. Bà Hượu cũng đã qua đời từ lâu. Bẵng đi bao nhiêu năm tháng, một lần về thăm quê, tôi mon men lội bộ dọc theo những con đường bờ ruộng trơn tuột mà lúc nhỏ tôi vẫn đi học. Bỗng, tôi nhìn thấy một bóng người lom khom dưới ruộng và tiếng nước kêu oàm oạp. Bất giác tôi kêu lên sửng sốt : – Bà Hượu! Người ấy đứng thẳng dậy, gỡ nón nhìn lên. Đó là mẹ tôi! Triền sông thơ ấu – Nhà văn Nguyễn Kim Huy – Kỳ 1 Triền sông thơ ấu – Nhà văn Nguyễn Kim Huy – Kỳ 2
Hôm nay 5-9: Lễ khai giảng năm học mới ‘chưa từng có’ Sáng nay 5-9, thầy, trò tại 57/63 tỉnh, thành phố sẽ tổ chức lễ khai giảng năm học mới. Lễ khai giảng được tổ chức theo hình thức trực tuyến, trên sóng truyền hình hoặc trực tiếp tùy điều kiện từng địa phương. Đây là lễ khai giảng năm học vô cùng đặc biệt, diễn ra trong bối cảnh nhiều địa phương phải gồng mình chống dịch COVID-19 nên cách thức tổ chức linh hoạt, tùy theo tình hình thực tế ở từng địa phương. TP.HCM: Mặc niệm tưởng nhớ nạn nhân mất vì COVID-19 trong lễ khai giảng Sáng 5-9, TP.HCM tổ chức lễ khai giảng đặc biệt năm học 2021-2022 tại điểm Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong ( quận 5 ). Buổi lễ có sự tham dự của ông Phan Văn Mãi – chủ tịch UBND TP.HCM; ông Dương Anh Đức -phó chủ tịch, lãnh đạo Sở GD-ĐT… thầy cô giáo và đại diện 10 học sinh cho 3 khối lớp của trường. Sau lễ chào cờ, mọi người đã dành phút mặc niệm tưởng nhớ nạn nhân mất vì đại dịch COVID-19. Học sinh dành phút mặc niệm nạn nhân qua đời vì COVID-19 trong buổi lễ khai giảng năm học mới – Ảnh: QUANG ĐỊNH Ông Phan Văn Mãi cho biết TP dự định tiêm đủ 2 mũi vắc xin cho nhà giáo, các bộ nhân viên nhà trường trước ngày 20-11 và đề xuất Bộ Y tế tiêm cho học sinh 12 -18 tuổi. “Cùng nhau, chúng ta sẽ bù lại cho các em, các cháu một ngày đến trường đúng nghĩa” Sáng 5-9, dự lễ khai trương Bệnh viện dã chiến truyền nhiễm 5G thuộc Học viện Quân y điều trị bệnh nhân COVID-19 mức độ nặng tại quận 6 (TP.HCM), Phó thủ tướng Vũ Đức Đam chia sẻ: “Hôm nay tôi có những cảm xúc rất đặc biệt. Bình thường ngày này những năm gần đây, thường giờ này, tôi thường lặng lẽ đến các trường học để chứng kiến bố mẹ, ông bà đưa các cháu nhỏ đến trường, chứng kiến các cháu nhỏ nô nức, háo hức, kể cả những cháu nhỏ xíu lần đầu đến trường còn sợ, còn khóc. Chúng ta đến đấy để thấy rằng đất nước, ngành giáo dục còn nhiều khó khăn, nhưng tương lai thì rạng ngời ở phía trước. Ngày hôm nay, chúng ta ngồi ở đây, tôi ở đây không phải trong không khí tưng bừng mà tất cả đều rất trang nghiêm. Trong số các bác sĩ ngồi đây có những người cũng có con, có cháu mà lẽ ra hôm nay mình ở bên cạnh. Rất nhiều tỉnh dù khai giảng nhưng trẻ em cũng chưa thể đến trường. Chúng ta phải cùng nhau sao cho dịch bệnh ở TP và một số khu vực lân cận sớm được kiểm soát. Chúng ta phải cùng nhau tự hứa sẽ bù lại cho các em, các cháu một ngày đến trường đúng nghĩa. Chúng ta cũng phải cùng nhau tự hứa ở những tỉnh, những địa bàn hiện nay còn khống chế, kiểm soát được dịch, trẻ em còn được đến trường phải cố gắng giữ thành quả. Ở những nơi trẻ em chưa thể đến trường, phải tạo điều kiện tốt nhất dù qua mạng, qua truyền hình, dù qua các phiếu học tập để các em các con các cháu được học hành thật tốt. Hơn hết chúng ta phải cùng nhau tự hứa rằng ngay ở địa bàn TP này chúng ta đã và sẽ tiếp tục nỗ lực bảo vệ cho các thầy cô giáo và các cháu học sinh”. Lắng lại một chút, ông Đam tiếp lời: “Tại bệnh viện này, rất có thể ngày mai, thậm chí ngày hôm nay sẽ có những bệnh nhân là thầy giáo cô giáo và thậm chí học sinh. Tất cả chúng ta, hơn lúc nào hết, khi lực lượng quân đội không chỉ bảo vệ tổ quốc mà còn đến tận khu phố, ngõ xóm để chăm sóc, mang đồ ăn thức uống cho mọi người. Tôi mong rằng, toàn xã hội, tất cả các lực lượng, dù là công hay tư, chúng ta phải bước qua tất cả những ràng buộc, kể cả cơ chế, kể cả trong suy nghĩ để làm sao kiểm soát, dập được dịch, sớm nhất đem lại cuộc sống bình thường mới cho nhân dân. Và như tôi đã nói, để trẻ em sớm được quay lại trường học”. Phó thủ tướng gửi lời cảm ơn các tướng lĩnh quân đội, chiến sĩ và các lực lượng, cảm ơn các thầy thuốc và các lực lượng đang tiếp tục quên mình để chống dịch. TIẾN LONG
Today, September 5: 'Unprecedented' opening ceremony of the new school year This morning, September 5, teachers and students in 57/63 provinces and cities will hold opening ceremonies for the new school year. The opening ceremony is held online, on television or in person depending on local conditions. This is a very special opening ceremony of the school year, taking place in the context of many localities having to fight against the COVID-19 epidemic, so the organization method is flexible, depending on the actual situation in each locality. Ho Chi Minh City: Silent silence in memory of victims who died of COVID-19 during the opening ceremony Morning September 5, Ho Chi Minh City held a special opening ceremony for the 2021-2022 school year at Le Hong Phong High School for the Gifted ( district 5 ). The ceremony was attended by Mr. Phan Van Mai - Chairman of Ho Chi Minh City People's Committee; Mr. Duong Anh Duc - vice president, leader of the Department of Education and Training... teachers and representatives of 10 students for 3 grade levels of the school. After the flag-raising ceremony, everyone spent a moment of silence to remember the victims who died due to the COVID-19 pandemic. Students spend a minute of silence in silence for victims who died of COVID-19 during the opening ceremony of the new school year - Photo: QUANG DINH Mr. Phan Van Mai said that the City plans to vaccinate teachers and school staff with 2 doses of vaccine before November 20 and proposed that the Ministry of Health vaccinate students 12-18 years old. “Together, we will compensate our children for a true day at school.” On the morning of September 5, attending the opening ceremony of the 5G Infectious Diseases Field Hospital under the Military Medical Academy treating severe COVID-19 patients in District 6 (Ho Chi Minh City), Deputy Prime Minister Vu Duc Dam shared: “ Today I have very special feelings. Normally on this day in recent years, usually at this time, I often quietly go to schools to witness parents and grandparents taking their children to school, witnessing the children's joy and excitement, including the children. When the little child went to school for the first time, he was scared and cried. We went there to see that the country and the education sector still have many difficulties, but the future is bright ahead. Today, we sit here, I am here, not in a jubilant atmosphere but everything is very solemn. Among the doctors sitting here, there are people who also have children and grandchildren that I should be with today. Although many provinces have opened school, children still cannot go to school. We must work together so that the epidemic in the city and some surrounding areas can be controlled soon. We must together promise ourselves that we will compensate our children for a proper day at school. We must also promise ourselves that in the provinces and areas where the epidemic is currently under control and where children can still go to school, we must try to keep the results. In places where children cannot go to school, we must create the best conditions whether online, through television, or through study cards so that they can have a good education. Above all, we must promise ourselves that right in this city we have and will continue to make efforts to protect teachers and students." After a moment of silence, Mr. Dam continued: "At this hospital, it is very possible that tomorrow, even today, there will be patients who are teachers and even students. All of us, more than ever, when the military not only protects the country but also goes to the neighborhoods and alleys to care for and bring food and drink to everyone. I hope that, in the whole society, all forces, whether public or private, we must overcome all constraints, including mechanisms, even in thinking, to control and stamp out the epidemic. , bringing a new normal life to the people as soon as possible. And like I said, so that children can return to school soon." The Deputy Prime Minister thanked the army generals, soldiers and forces, and thanked the doctors and forces who continue to sacrifice themselves to fight the epidemic. TIEN LONG
Những chuyện kỳ thú đồng tiền Việt Nam Tiền thưởng khắc thơ và hộ mệnh thời Nguyễn Các vua Nguyễn cho đúc tiền dùng để ban tặng cho quý tộc có công hay trong những dịp lễ đặc biệt. Trên tiền thưởng đó, có khi là cả bài thơ. Chúc phúc vua, cầu an cho đất nước Cố Giáo sư (GS) Đỗ Văn Ninh ( Viện Khảo cổ học ) cho biết vua Minh Mệnh (Minh Mạng) chính là người cho đúc những đồng tiền thưởng có ảnh hưởng tới việc đúc tiền của các vua Nguyễn sau đó. Theo GS Ninh, vua Minh Mệnh chú ý tới việc xây dựng đất nước và đạt được nhiều thành tựu hơn cả so với những đời vua Nguyễn khác. “Chính sách đời Minh Mệnh làm tiền tệ đời này đạt tới đỉnh cao trong lịch sử phát triển tiền tệ thời Nguyễn. Có thể nói, nhiều loại tiền mới chỉ có ở thời Nguyễn được bắt đầu ban hành rồi định hình từ đời này. Những đồng tiền lớn mang mỹ hiệu 4 chữ hoặc 8 chữ dùng làm tiền thưởng xuất hiện. Những đời vua sau có đúc thay mỹ hiệu khác thì quy cách, kích thước cũng dựa trên những nét căn bản của triều Minh Mạng”, GS Ninh viết trong cuốn Tiền cổ Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, 2019). Theo khảo tả của GS Đỗ Văn Ninh, tiền đồng lớn thời Minh Mệnh có đường kính 50 mm, đúc ra với mục đích biểu dương công đức nhà vua, tán dương triều đại. Tiền này được lưu trữ ở tất các kho tiền các tỉnh và đặc biệt được trữ tại kho Kinh. Tiền này cũng được lưu thông và tất nhiên giá trị của chúng cao hơn những đồng tiền nhỏ. Ký hiệu tiền tệ, niên đại chế tạo, địa phương đúc đều được đúc rõ ràng trên tiền. GS Ninh cho biết thêm, những đồng tiền thưởng ngoài tên tiền trên mặt, còn có chữ đúc nổi ở lưng tiền. Những chữ đúc ở lưng này hoặc 8 hoặc 4, gọi là mỹ hiệu. Những đồng tiền mang mỹ hiệu 4 chữ không khác gì những đồng mang mỹ hiệu 8 chữ cả về kích thước, chất liệu, kỹ thuật đúc. Theo PGS-TS Nguyễn Đình Chiến (nguyên Phó giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia), thông điệp trên những đồng tiền này thường mang ý nghĩa tốt lành, chúc phúc cho nhà vua, cầu bình an cho đất nước, cầu được mùa, giáo dục tam cương ngũ thường. Chẳng hạn, thời Minh Mệnh có những mỹ hiệu 8 chữ như: “Hiền hiền, thân thân, lạc lạc, lợi lợi” – nghĩa là hiền với người hiền, thân với người thân, vui cái vui, lợi cái lợi; “Nguyên lưu thuận quỹ, niên cốc phong đăng” – nghĩa là nguồn nước thuận dòng, hằng năm được mùa; “Đắc vị, đắc danh, đắc lộc, đắc thọ” – nghĩa là được địa vị, được công danh, được lộc, được sống lâu… Ông Chiến đánh giá: “Như vậy, nội dung của nhiều đồng tiền thưởng không chỉ giáo dục nhân cách con người theo quy phạm đạo đức, mà còn thiên về khía cạnh giáo dục chính trị đạo đức”. Trinh Nguyễn
Interesting stories about Vietnamese currency Bonus engraved with poems and amulets of the Nguyen Dynasty The Nguyen kings minted coins to give to nobles with meritorious services or on special occasions. On that reward, sometimes even a poem. Bless the king and pray for peace for the country Late Professor (Prof.) Do Van Ninh ( Institute of Archeology ) said that King Minh Menh (Minh Mang) was the one who minted the bonus coins, which influenced the minting of coins by later Nguyen kings. According to Professor Ninh, King Minh Menh paid attention to building the country and achieved more achievements than other Nguyen kings. “The Minh Menh dynasty's policy of making this generation's currency reached its peak in the history of currency development during the Nguyen Dynasty. It can be said that many new types of money only existed in the Nguyen Dynasty and were issued and shaped from this generation. Large coins bearing 4-word or 8-word symbols used as bonuses appear. Later generations of kings cast other beautiful names, the specifications and sizes were also based on the basic features of the Minh Mang dynasty," Professor Ninh wrote in the book Ancient Vietnamese Coins (Social Science Publishing House, 2019). According to the description of Professor Do Van Ninh, the large bronze coin of the Minh Menh period had a diameter of 50 mm, minted for the purpose of praising the king's merits and praising the dynasty. This money is stored in all provincial vaults and especially stored in Kinh treasury. These coins are also circulated and of course their value is higher than small coins. Currency symbols, date of manufacture, and locality of minting are all clearly minted on the money. Professor Ninh added that, in addition to the name on the face, the bonus coins also have embossed letters on the back of the coins. The letters cast on this back are either 8 or 4, called fine marks. The coins bearing the 4-word fine mark are no different from the coins bearing the 8-letter fine mark in terms of size, material, and casting technique. According to Associate Professor and Doctor Nguyen Dinh Chien (former Deputy Director of the National Museum of History), the messages on these coins often have good meanings, blessing the king, praying for peace for the country, and praying for a good harvest. , education of the three diamonds and five common senses. For example, during the Minh Menh period, there were 8-word beautiful names such as: "Kindness, friendliness, happiness, benefit" - meaning be kind to good people, be close to loved ones, be happy with joy, benefit with benefit; "The flow of water is favorable, the year of the year is favorable" - meaning the water source follows the flow, and there is a good harvest every year; "Winning position, winning fame, winning fortune, gaining longevity" - meaning to gain status, gain fame, gain fortune, live a long life... Mr. Chien assessed: "Thus, the content of many bonus coins is not only teaching educating human character according to moral norms, but also in favor of the aspect of political and moral education. Trinh Nguyen
Quy định mới tháng 9: Bỏ danh hiệu học sinh tiên tiến Bỏ danh hiệu học sinh tiên tiến, không cần nộp bản sao giấy tờ tùy thân khi làm sổ đỏ, thêm nhiều quyền lợi cho người tham gia BHXH… là những chính sách chuẩn bị có hiệu lực Từ tháng 9, nhiều chính sách liên quan tới đất đai, bảo hiểm, giáo dục sẽ chính thức có hiệu lực. Trong đó, đáng chú ý là thay đổi trong việc đánh giá xếp loại học sinh ở cấp THCS và THPT. Bỏ danh hiệu học sinh tiên tiến ở cấp học THCS, THPT Thông tư 22 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về đánh giá học sinh THCS và THPT có nhiều quy định mới. Đáng chú ý nhất là việc văn bản này đã chính thức bỏ danh hiệu học sinh tiên tiến ở hai cấp học này, chỉ còn giữ lại danh hiệu học sinh xuất sắc và học sinh giỏi. Một quy định mới khác là Thông tư này cũng không còn quy định xếp loại học lực của học sinh, dựa vào điểm trung bình các môn học như trước đây. Thay vào đó, học sinh được đánh giá bằng hình thức nhận xét và điểm số. Hình thức đánh giá bằng nhận xét áp dụng với các môn: Giáo dục thể chất, Nghệ thuật , Âm nhạc, Mỹ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp. Các môn học còn lại được áp dụng hình thức đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số. Các mức đánh giá học sinh bao gồm: Tốt, Khá, Đạt và Chưa đạt. Thông tư 22 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/9, tuy nhiên việc đánh giá học sinh sẽ được thực hiện theo lộ trình cụ thể. Theo đó, từ năm học 2021-2022 áp dụng với học sinh lớp 6. Từ năm học 2022-2023 áp dụng với học sinh lớp 7 và lớp 10. Học sinh lớp 8 và lớp 11 áp dụng từ năm học 2023-2024. Từ năm học 2024-2025, áp dụng với học sinh lớp 9 và lớp 12. Có hiệu lực từ ngày đầu tiên của tháng 9, Thông tư 09 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư hướng dẫn Luật Đất đai. Theo Thông tư này, khi Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã chia sẻ và kết nối với dữ liệu của các ngành, lĩnh vực trong đó có lĩnh vực đất đai, người dân khi đi làm các thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hay còn gọi là sổ đỏ) không cần phải nộp bản sao CMND, căn cước công dân hoặc sổ hộ khẩu. Thay vào đó, thông tin của người dân sẽ được khai thác từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Ngoài ra, Thông tư này cũng bổ sung 2 trường hợp đăng ký biến động được cấp sổ đỏ bao gồm: Thửa đất được tách ra để cấp riêng sổ đỏ đối với trường hợp sổ đỏ được cấp chung cho nhiều thửa; thay đổi diện tích đất ở trong thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở do xác định lại diện tích đất ở theo quy định. Một trong những điểm mới của Thông tư này là quy định cụ thể về việc ghi thông tin trên sổ đỏ trong trường hợp người dân tự nguyện tặng cho một phần thửa đất, để làm đường giao thông, công trình thủy lợi hoặc công trình công cộng khác… Nội dung này được đề cập trong Thông tư 06 do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành, hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội. Có hiệu lực từ 1/9, Thông tư quy định nhiều điểm mới liên quan trực tiếp đến quyền lợi đối với người tham gia BHXH bắt buộc. Theo đó, Thông tư 06 bổ sung trường hợp vợ tham gia BHXH nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản thì chồng vẫn được hưởng trợ cấp một lần khi vợ sinh con. Trước đây chỉ quy định vợ không tham gia BHXH thì chồng mới được nhận khoản tiền này. Thông tư cũng bổ sung trường hợp phải tham gia BHXH bắt buộc là người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, đồng thời là người giao kết hợp đồng lao động từ một tháng trở lên. Người tham gia BHXH sẽ được hưởng thêm nhiều quyền lợi kể từ 1/9, khi Thông tư 06 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực. Người tham gia BHXH sẽ được hưởng thêm nhiều quyền lợi kể từ 1/9, khi Thông tư 06 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực. Ngoài ra, theo văn bản này, trường hợp lao động nữ mang thai đôi trở lên thì chế độ thai sản được hưởng tính theo số lượng con đã sinh, không kể còn sống hay đã mất, trong khi quy định trước đây chỉ giải quyết chế độ thai sản cho con còn sống. Nghị định 75 của Chính phủ về các quy định liên quan đến mức hưởng trợ cấp, phụ cấp và các chế độ ưu đãi đối với người có công quy định cụ thể mức trợ cấp ưu đãi với người có công. Nghị định này quy định Bà mẹ Việt Nam Anh hùng được hưởng mức trợ cấp ưu đãi hàng tháng là 4.872.000 đồng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến là 1.361.000 đồng. Bệnh binh có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 41% trở lên được hưởng trợ cấp từ 1.695.000 đồng đến 4.137.000 đồng, tùy vào tỷ lệ tổn thương cơ thể… Cũng theo nghị định, thân nhân của liệt sĩ khi đi thăm viếng mộ liệt sĩ sẽ được hỗ trợ tiền đi lại và tiền ăn cho tối đa 3 ngày, mức hỗ trợ được tính là 3.000 đồng/1km/người. Mức hỗ trợ cất bốc hài cốt liệt sĩ được quy định là 4 triệu đồng cho mỗi hài cốt liệt sĩ. Nếu thân nhân liệt sĩ không có nguyện vọng an táng hài cốt liệt sĩ trong nghĩa trang liệt sĩ thì được hỗ trợ kinh phí xây mộ liệt sĩ là 10 triệu đồng/mộ. Nghị định này có hiệu lực từ 15/9 nhưng một số chế độ được áp dụng từ ngày 1/7/2021 và 1/1/2022. Từ 1/9, các quy định về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư sẽ được áp dụng theo Nghị định 69 của Chính phủ. Theo nghị định này, trong trường hợp chủ sở hữu căn hộ chung cư có nhu cầu tái định cư tại chỗ, UBND cấp tỉnh quyết định hệ số bồi thường bằng 1-2 lần diện tích căn hộ cũ. Trường hợp chủ sở hữu căn hộ chung cư không có nhu cầu tái định cư tại chỗ, mà chủ đầu tư có nhà đất tại địa điểm khác để bố trí tái định cư, và chủ sở hữu có nhu cầu, thì được bố trí tái định cư như cơ chế tái định cư tại chỗ. Đặc biệt, trường hợp chủ sở hữu căn hộ chung cư không có nhu cầu tái định cư thì được bồi thường bằng tiền, theo giá trị căn hộ sau khi quy đổi theo hệ số nêu trên. Về việc bố trí chỗ ở tạm thời cho người sở hữu nhà chung cư trong thời gian thực hiện dự án cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư, Nghị định nêu rõ trường hợp chủ sở hữu tự lo chỗ ở thì chủ đầu tư phải chi trả chi phí thuê nhà và các chi phí khác. Còn nếu chủ sở hữu không thể tự lo chỗ ở thì được bố trí chỗ ở tạm thời. Hoài Thu
New regulations in September: Remove the title of advanced student Removing the title of advanced student, not needing to submit copies of identification documents when applying for a red book, adding more benefits for social insurance participants... are the policies that are about to take effect. From September, many policies related to land, insurance, and education will officially take effect. Notably, there are changes in the assessment and grading of students at the middle and high school levels. Remove the title of advanced student at the middle and high school levels Circular 22 of the Ministry of Education and Training regulating the assessment of middle and high school students has many new regulations. Most notably, this document officially abolished the title of advanced students at these two levels, only retaining the titles of excellent students and excellent students. Another new regulation is that this Circular no longer stipulates the classification of students' academic performance, based on the average score of subjects as before. Instead, students are evaluated in the form of comments and scores. The form of evaluation by comments applies to the following subjects: Physical Education, Art , Music, Fine Arts, Local educational content, Experience activities, career guidance. The remaining subjects are evaluated by comments combined with scores. Student evaluation levels include: Good, Good, Pass and Unsatisfactory. Circular 22 takes effect from September 5, however, student assessment will be carried out according to a specific roadmap. Accordingly, from the 2021-2022 school year, it applies to 6th grade students. From the 2022-2023 school year, it applies to 7th and 10th grade students. 8th and 11th grade students apply from the 2023-2024 school year. From the 2024-2025 school year, applicable to students in grades 9 and 12. Effective from the first day of September, Circular 09 of the Ministry of Natural Resources and Environment regulates amendments and supplements to a number of articles of the Circulars guiding the Land Law. According to this Circular, when the National Population Database has shared and connected with data of industries and fields, including the land field, people when going to do land registration procedures , assets attached to land, granting a Certificate of land use rights (also known as red book) does not require submitting a copy of ID card, citizen identification card or household registration book. Instead, people's information will be exploited from the National Population Database. In addition, this Circular also adds 2 cases of registration of changes in issuance of red books, including: The land plot is separated to issue a separate red book in cases where the red book is issued together for many plots; Change in residential land area in a plot of land with a garden or pond attached to the house due to redefining the residential land area according to regulations. One of the new points of this Circular is the specific regulations on recording information on the red book in case people voluntarily donate a portion of land plot to build roads, irrigation works or public works. another plus… This content is mentioned in Circular 06 issued by the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs, guiding the Law on Social Insurance. Effective from September 1, the Circular stipulates many new points directly related to benefits for participants in compulsory social insurance. Accordingly, Circular 06 adds that in case the wife participates in social insurance but is not eligible for maternity benefits, the husband will still be entitled to a one-time benefit when the wife gives birth. Previously, only if the wife did not participate in social insurance, the husband could receive this money. The Circular also adds cases where people who must participate in compulsory social insurance are those who work part-time at the commune level and are also those who sign a labor contract of one month or more. Social insurance participants will enjoy more benefits from September 1, when Circular 06 of the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs guiding the Law on Social Insurance takes effect. Social insurance participants will enjoy more benefits from September 1, when Circular 06 of the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs guiding the Law on Social Insurance takes effect. In addition, according to this document, in case a female employee is pregnant with twins or more, maternity benefits are calculated based on the number of children born, regardless of whether they are alive or dead, while the previous regulations only dealt with Maternity benefits for living children. Decree 75 of the Government on regulations related to benefits, allowances and preferential regimes for people with meritorious services specifically stipulates the level of preferential benefits for people with meritorious services. This Decree stipulates that Vietnamese Heroic Mothers are entitled to a preferential monthly allowance of 4,872,000 VND; Hero of the People's Armed Forces and Hero of Labor during the resistance period is 1,361,000 VND. Sick soldiers with a bodily injury rate of 41% or more are entitled to benefits from 1,695,000 VND to 4,137,000 VND, depending on the bodily injury rate... Also according to the decree, relatives of martyrs when visiting martyrs' graves will be supported with travel and meals for up to 3 days, the support level is calculated at 3,000 VND/1km/person. The level of support for burying martyrs' remains is set at 4 million VND for each martyr's remains. If the martyrs' relatives do not wish to bury the martyrs' remains in the martyrs' cemetery, they will be supported with funding to build martyrs' graves of 10 million VND/grave. This Decree takes effect from September 15, but some regimes are applied from July 1, 2021 and January 1, 2022. From September 1, regulations on renovating and rebuilding apartment buildings will be applied according to Decree 69 of the Government. According to this decree, in case the apartment owner needs to resettle on the spot, the Provincial People's Committee decides on a compensation coefficient equal to 1-2 times the area of ​​the old apartment. In case the apartment owner does not need to resettle on site, but the investor has real estate in another location to arrange resettlement, and the owner has a need, resettlement will be arranged. settlement as an on-site resettlement mechanism. In particular, in cases where the apartment owner does not need to resettle, he or she will be compensated in money, according to the apartment value after conversion according to the coefficient mentioned above. Regarding the arrangement of temporary accommodation for apartment owners during the implementation of apartment renovation and reconstruction projects, the Decree clearly states that in cases where the owner takes care of the accommodation himself, the investor must pay for rent and other expenses. If the owner cannot provide accommodation on his own, temporary accommodation will be arranged. Hoai Thu
Chuyện đời khó tin về thiên tài Thomas Edison Sở hữu hơn 1.500 phát minh và sáng chế, Edison từng bị thầy giáo xem là “kẻ tâm thần” không thể đến trường, nhưng cuộc đời ông là cuốn truyện đáng đọc. Trở thành thiên tài nhờ “lời nói dối” của mẹ Edison, sinh ngày 11/2/1847, tại Milan, Ohio (Mỹ), vốn bị coi là đứa trẻ “đần độn, rối trí” (tâm thần). Vào khoảng năm 7 tuổi, một hôm cậu từ trường về nhà và nói với mẹ: “Mẹ, thầy giáo bảo con đưa cho mẹ cái này!”. Cẩn thận mở ra xem, bên trong kèm lá thư của giáo viên chủ nhiệm gửi phụ huynh em Edison, nước mắt bà Nancy Elliott giàn giụa. Cậu bé đứng ngẩn người kinh ngạc, cậu hỏi mẹ rằng thầy giáo đã viết gì trong đó?. Ngập ngừng một lát, bà Nancy đọc to lá thư cho con trai mình: “Con trai của ông bà là một thiên tài! Nhưng ngôi trường này quá nhỏ, các giáo viên của chúng tôi không có đủ năng lực để dạy dỗ cậu bé. Bởi vậy, xin ông bà hãy tự kèm cặp con trai mình”. Kể từ đó, Edison được mẹ, cũng từng là giáo viên ở Canada kèm cặp, dạy dỗ mà không đến trường thêm lần nào nữa. Nhiều năm sau đó, mẹ của Edison đã qua đời, còn con trai bà thì trở thành một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất thế kỷ 20, người được mệnh danh là “Thầy phù thủy ở Menlo Park” nhờ những sáng chế thiên tài cống hiến cho nhân loại. Một ngày, khi xem lại những kỷ vật của gia đình, Edison vô tình nhìn thấy một tờ giấy gập nhỏ được cất trong ngăn kéo bàn. Tò mò mở ra đọc, trước mắt cậu chính là lá thư của thầy giáo năm nào. Trong thư, có đoạn: “Con trai ông bà là đứa trẻ rối trí. Chúng tôi không thể chấp nhận cho trò ấy đến trường được nữa”. Edison đã khóc hàng giờ sau khi đọc lá thư năm nào. Thiên tài viết trong nhật ký rằng: “Thomas Alva Edison là một đứa trẻ rối trí, vậy mà, nhờ có một người mẹ tuyệt vời, cậu đã trở thành thiên tài của thế kỷ”. Lời cầu hôn “có một không hai” với nữ thư ký Lúc 24 tuổi, Edison trở thành chủ một xí nghiệp được nhiều người biết tiếng. Cuộc sống dần ổn định nên chàng trai ấy muốn có một mái ấm gia đình. Ông chú ý đến cô thư kí Mary Stilwell dịu dàng, thanh mảnh làm việc trong công ty. Một hôm, Edison đến gặp Mary và nói: “Thưa cô! Tôi không muốn phí thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn gọn và rõ ràng: Cô có muốn làm vợ tôi không?”. Lời tỏ tình quá bất ngờ khiến nữ thư ký “đứng hình”. Thấy vậy, Edison tiếp tục: “Ý cô thế nào? Cô nhận lời tôi nhé? Tôi xin cô hãy suy nghĩ trong năm phút”. Định thần lại, Mary Stilwell lên tiếng: “Năm phút cơ à? Thế thì lâu quá! Vâng em nhận lời” và ngày 25/12/1871 họ đã trở thành vợ chồng, sinh được ba người con. Tuy nhiên, đến năm 1884, bà Mary mất. Ở tuổi 39, Edison đi bước nữa với Mina Miller, cô gái kém ông 19 tuổi và họ cũng có với nhau thêm ba con chung, trong đó có Charles Edison – người về sau trở thành Bộ trưởng Hải quân Mỹ và Thống đốc bang New Jersey. Hơi thở cuối cùng của Edison vẫn đang trong bảo tàng Khi thiên tài Edison hấp hối ngày 18/10/1931, bác sĩ đã thu lại hơi thở cuối cùng của ông bằng một ống nghiệm có nút đậy ngay bên cạnh. Hiện ống nghiệm này đang được trưng bày tại bảo tàng Henry Ford ở Mỹ. Nó không chỉ là hiện vật để tưởng nhớ về Edison, mà còn gắn liền với câu chuyện về tình bạn với Henry Ford (1863 – 1947) – ông chủ hãng Ford Motor nổi tiếng thế giới . Chuyện kể rằng khi Edison sắp lâm chung, người bạn thân Henry Ford nói với Charles Edison (con trai Edison) ngồi cạnh người cha và cầm ống nghiệm bên cạnh miệng ông, giữ lại hơi thở cuối cùng. Bởi Ford hy vọng có thể “hồi sinh nhà phát minh vĩ đại”. Thực tế, Charles không hề cầm ống nghiệm cận kề Edison trước khi cha đang hấp hối, mà các ống nghiệm được đặt quanh giường của ông. Ngay sau khi Edison qua đời, Charles yêu cầu bác sĩ riêng của cha, Hubert S. Howe, niêm phong những ống nghiệm bằng parafin và gửi một chiếc cho Ford. Hơi thở Edison lưu tại bảo tàng. Ảnh: Spooky Librarians. Trước khi qua đời, thiên tài Edison đã để lại hàng nghìn phát minh và sáng chế phục vụ đời sống xã hội loài người. Một trong số đó là máy quay đĩa ghi âm Được coi là phát minh vĩ đại đầu tiên của Thomas Edison, máy quay đĩa ghi giọng nói và phát lại. Khi nói vào máy thu, sự rung động âm thanh của giọng nói sẽ khiến kim tạo ra vết lõm có độ sâu khác nhau trên trụ được bọc bằng lá thiếc để ghi lại âm thanh. Thông điệp đầu tiên được ghi lại là giọng nói của Edison, với nội dung “Mary có một con cừu nhỏ”, điều này khiến mọi người vô cùng thích thú và kinh ngạc bởi lần đầu tiên họ nghe thấy âm thanh được ghi và phát lại. Edison yêu chiếc máy quay đĩa đến mức ông gọi nó là “đứa con cưng” và tiếp tục nghiên cứu cải tiến để nó hoàn hiện hơn trong 50 năm tiếp theo. Bóng đèn điện Thomas Edison được biết đến nhiều nhất nhờ phát minh ra bóng đèn điện và sau này được vinh danh “Người mang lại mặt trời thứ hai cho nhân loại”. Bóng đèn điện của Edison được phát minh sau hàng ngàn thí nghiệm và thành công bằng cách tạo chân không bên trong, tìm dây tóc phù hợp để sử dụng và chạy điện áp thấp hơn. Chia sẻ về phát minh vĩ đại này, Edison từng nói: “Tôi chưa thất bại, tôi chỉ là đã tìm ra 10.000 cách mà sản phẩm chưa hoạt động” hay “Thiên tài 1% là cảm hứng và 99% là mồ hôi”. Edison sau đó cũng đã phát minh ra toàn bộ hệ thống tiện ích điện để ông có thể cung cấp năng lượng cho tất cả các bóng đèn, động cơ và các thiết bị khác. Máy chiếu phim Phát minh về máy chiếu phim của Edison được lấy cảm hứng từ các phân tích chuyển động của nhiếp ảnh gia Muybridge, người Anh. Thiết bị máy chiếu phim đầu tiên này giống máy quay đĩa của ông, với sự sắp xếp xoắn ốc của các bức ảnh 1/16 inch được thực hiện trên một hình trụ. Nhìn bằng kính hiển vi, những hình ảnh chuyển động đầu tiên này khá thô và khó lấy nét. Sau đó, ông hợp tác cùng với nhà phát minh người Scotland William Kennedy Laurie Dickson, để cải tiến máy chiếu phim. Họ đã phát triển máy hoạt ảnh (Strip Kinetograph), sử dụng tấm phim celluloid 35 mm cải tiến của George Eastman, nhà sáng lập của công ty chuyên về thiết bị ảnh Kodak. Phim được cắt thành các dải liên tục và đục lỗ dọc theo các cạnh, di chuyển bằng các đĩa xích theo chuyển động dừng và quay phía sau cửa màn trập. Trong xưởng phim của Edison, về mặt kỹ thuật được gọi là Nhà hát Kinetographic, nhưng có biệt danh “The Black Maria”. Edison và các nhân viên của ông đã quay những đoạn phim ngắn để xem bằng ống soi hoạt ảnh (Kinetoscope). Người xem tại một thời điểm có thể nhìn qua ống Kinetoscope, mỗi ống có kích cỡ 437,8cm2 và có kính lúp lỗ nhỏ cho phép xem phim dài 15,24m trong khoảng 20 giây. Người xem máy chiếu phim qua ống lúp lỗ nhỏ. Ảnh: Wikipedia. Công tơ điện Mỗi hộ gia đình ngày nay đều sử dụng một thiết bị đo số điện tiêu thụ gọi là công tơ điện. Edison được coi là cha đẻ của thiết bị này bằng phát minh vào năm 1881, để giải quyết vấn đề đo đạc lượng điện năng sử dụng cho gia đình hay doanh nghiệp lúc bấy giờ. Thời điểm bắt đầu chu kỳ tính tiền điện, các tấm kẽm được tẩy sạch và cân cẩn thận trong phòng thí nghiệm rồi cắm vào các zắc đặt trong chất điện phân. Khi có dòng điện chạy qua chất điện phân sẽ tạo ra một lượng kẽm phủ đọng lại trên tấm kia. Đến cuối kỳ tính tiền điện, đem các tấm kẽm cân lại một lần nữa. Sự khác biệt về trọng lượng kẽm giữa hai lần cân sẽ biểu trưng cho tổng lượng điện năng đã đi qua. Công tơ điện này được hiệu chỉnh sao cho đơn vị thanh toán sẽ tương đương với đơn vị đo thể tích khí đốt là feet khối. Sau này, Edison có bổ sung thêm bộ đếm cơ khí để giúp cho việc đọc chỉ số. Công tơ điện kiểu này vẫn được sử dụng cho đến cuối thế kỷ thứ 19 và được cải tiến thành chiếc công tơ hiện đại ngày nay. Ô tô điện Năm 1899, Edison bắt đầu phát triển một loại pin trữ điện cho ô tô với niềm tin rằng những chiếc xe sẽ được chạy bằng điện. Ông đã thành công khi vào năm 1900, khoảng 28% trong hơn 4.000 chiếc xe được sản xuất ở Mỹ được chạy bằng điện. Edison vẫn tiếp tục nghiên cứu với mục tiêu tạo ra một loại pin có thể giúp xe chạy khoảng hơn 160 km mà không cần sạc. Khoảng 10 năm sau, khi xăng dầu xuất hiện, Edison đã từ bỏ dự án, tuy nhiên công trình không vô ích vì pin sạc của ông đã được sử dụng trong đèn pha của thợ mỏ, tín hiệu đèn đường sắt, hải phao. Henry Ford cũng sử dụng pin của Edison trong mẫu xe của mình. Cả cuộc đời của Thomas Edison có tới hơn 1.500 phát minh và sáng chế. Tính trung bình cứ khoảng 12 ngày thì lại có một phát minh mới của ông ra đời. Edison mất ở New Jersey vào ngày 18/10/1931 ở tuổi 84, chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng điện đầu tiên. Khi đó, nước Mỹ đã tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ trong một phút, để tưởng nhớ “người bạn của nhân loại” đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá “mặt trời thứ hai”. Đăng Hưng ( Tổng hợp )
Chuyện đời khó tin về thiên tài Thomas Edison Sở hữu hơn 1.500 phát minh và sáng chế, Edison từng bị thầy giáo xem là “kẻ tâm thần” không thể đến trường, nhưng cuộc đời ông là cuốn truyện đáng đọc. Trở thành thiên tài nhờ “lời nói dối” của mẹ Edison, sinh ngày 11/2/1847, tại Milan, Ohio (Mỹ), vốn bị coi là đứa trẻ “đần độn, rối trí” (tâm thần). Vào khoảng năm 7 tuổi, một hôm cậu từ trường về nhà và nói với mẹ: “Mẹ, thầy giáo bảo con đưa cho mẹ cái này!”. Cẩn thận mở ra xem, bên trong kèm lá thư của giáo viên chủ nhiệm gửi phụ huynh em Edison, nước mắt bà Nancy Elliott giàn giụa. Cậu bé đứng ngẩn người kinh ngạc, cậu hỏi mẹ rằng thầy giáo đã viết gì trong đó?. Ngập ngừng một lát, bà Nancy đọc to lá thư cho con trai mình: “Con trai của ông bà là một thiên tài! Nhưng ngôi trường này quá nhỏ, các giáo viên của chúng tôi không có đủ năng lực để dạy dỗ cậu bé. Bởi vậy, xin ông bà hãy tự kèm cặp con trai mình”. Kể từ đó, Edison được mẹ, cũng từng là giáo viên ở Canada kèm cặp, dạy dỗ mà không đến trường thêm lần nào nữa. Nhiều năm sau đó, mẹ của Edison đã qua đời, còn con trai bà thì trở thành một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất thế kỷ 20, người được mệnh danh là “Thầy phù thủy ở Menlo Park” nhờ những sáng chế thiên tài cống hiến cho nhân loại. Một ngày, khi xem lại những kỷ vật của gia đình, Edison vô tình nhìn thấy một tờ giấy gập nhỏ được cất trong ngăn kéo bàn. Tò mò mở ra đọc, trước mắt cậu chính là lá thư của thầy giáo năm nào. Trong thư, có đoạn: “Con trai ông bà là đứa trẻ rối trí. Chúng tôi không thể chấp nhận cho trò ấy đến trường được nữa”. Edison đã khóc hàng giờ sau khi đọc lá thư năm nào. Thiên tài viết trong nhật ký rằng: “Thomas Alva Edison là một đứa trẻ rối trí, vậy mà, nhờ có một người mẹ tuyệt vời, cậu đã trở thành thiên tài của thế kỷ”. Lời cầu hôn “có một không hai” với nữ thư ký Lúc 24 tuổi, Edison trở thành chủ một xí nghiệp được nhiều người biết tiếng. Cuộc sống dần ổn định nên chàng trai ấy muốn có một mái ấm gia đình. Ông chú ý đến cô thư kí Mary Stilwell dịu dàng, thanh mảnh làm việc trong công ty. Một hôm, Edison đến gặp Mary và nói: “Thưa cô! Tôi không muốn phí thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn gọn và rõ ràng: Cô có muốn làm vợ tôi không?”. Lời tỏ tình quá bất ngờ khiến nữ thư ký “đứng hình”. Thấy vậy, Edison tiếp tục: “Ý cô thế nào? Cô nhận lời tôi nhé? Tôi xin cô hãy suy nghĩ trong năm phút”. Định thần lại, Mary Stilwell lên tiếng: “Năm phút cơ à? Thế thì lâu quá! Vâng em nhận lời” và ngày 25/12/1871 họ đã trở thành vợ chồng, sinh được ba người con. Tuy nhiên, đến năm 1884, bà Mary mất. Ở tuổi 39, Edison đi bước nữa với Mina Miller, cô gái kém ông 19 tuổi và họ cũng có với nhau thêm ba con chung, trong đó có Charles Edison – người về sau trở thành Bộ trưởng Hải quân Mỹ và Thống đốc bang New Jersey. Hơi thở cuối cùng của Edison vẫn đang trong bảo tàng Khi thiên tài Edison hấp hối ngày 18/10/1931, bác sĩ đã thu lại hơi thở cuối cùng của ông bằng một ống nghiệm có nút đậy ngay bên cạnh. Hiện ống nghiệm này đang được trưng bày tại bảo tàng Henry Ford ở Mỹ. Nó không chỉ là hiện vật để tưởng nhớ về Edison, mà còn gắn liền với câu chuyện về tình bạn với Henry Ford (1863 – 1947) – ông chủ hãng Ford Motor nổi tiếng thế giới . Chuyện kể rằng khi Edison sắp lâm chung, người bạn thân Henry Ford nói với Charles Edison (con trai Edison) ngồi cạnh người cha và cầm ống nghiệm bên cạnh miệng ông, giữ lại hơi thở cuối cùng. Bởi Ford hy vọng có thể “hồi sinh nhà phát minh vĩ đại”. Thực tế, Charles không hề cầm ống nghiệm cận kề Edison trước khi cha đang hấp hối, mà các ống nghiệm được đặt quanh giường của ông. Ngay sau khi Edison qua đời, Charles yêu cầu bác sĩ riêng của cha, Hubert S. Howe, niêm phong những ống nghiệm bằng parafin và gửi một chiếc cho Ford. Hơi thở Edison lưu tại bảo tàng. Ảnh: Spooky Librarians. Trước khi qua đời, thiên tài Edison đã để lại hàng nghìn phát minh và sáng chế phục vụ đời sống xã hội loài người. Một trong số đó là máy quay đĩa ghi âm Được coi là phát minh vĩ đại đầu tiên của Thomas Edison, máy quay đĩa ghi giọng nói và phát lại. Khi nói vào máy thu, sự rung động âm thanh của giọng nói sẽ khiến kim tạo ra vết lõm có độ sâu khác nhau trên trụ được bọc bằng lá thiếc để ghi lại âm thanh. Thông điệp đầu tiên được ghi lại là giọng nói của Edison, với nội dung “Mary có một con cừu nhỏ”, điều này khiến mọi người vô cùng thích thú và kinh ngạc bởi lần đầu tiên họ nghe thấy âm thanh được ghi và phát lại. Edison yêu chiếc máy quay đĩa đến mức ông gọi nó là “đứa con cưng” và tiếp tục nghiên cứu cải tiến để nó hoàn hiện hơn trong 50 năm tiếp theo. Bóng đèn điện Thomas Edison được biết đến nhiều nhất nhờ phát minh ra bóng đèn điện và sau này được vinh danh “Người mang lại mặt trời thứ hai cho nhân loại”. Bóng đèn điện của Edison được phát minh sau hàng ngàn thí nghiệm và thành công bằng cách tạo chân không bên trong, tìm dây tóc phù hợp để sử dụng và chạy điện áp thấp hơn. Chia sẻ về phát minh vĩ đại này, Edison từng nói: “Tôi chưa thất bại, tôi chỉ là đã tìm ra 10.000 cách mà sản phẩm chưa hoạt động” hay “Thiên tài 1% là cảm hứng và 99% là mồ hôi”. Edison sau đó cũng đã phát minh ra toàn bộ hệ thống tiện ích điện để ông có thể cung cấp năng lượng cho tất cả các bóng đèn, động cơ và các thiết bị khác. Máy chiếu phim Phát minh về máy chiếu phim của Edison được lấy cảm hứng từ các phân tích chuyển động của nhiếp ảnh gia Muybridge, người Anh. Thiết bị máy chiếu phim đầu tiên này giống máy quay đĩa của ông, với sự sắp xếp xoắn ốc của các bức ảnh 1/16 inch được thực hiện trên một hình trụ. Nhìn bằng kính hiển vi, những hình ảnh chuyển động đầu tiên này khá thô và khó lấy nét. Sau đó, ông hợp tác cùng với nhà phát minh người Scotland William Kennedy Laurie Dickson, để cải tiến máy chiếu phim. Họ đã phát triển máy hoạt ảnh (Strip Kinetograph), sử dụng tấm phim celluloid 35 mm cải tiến của George Eastman, nhà sáng lập của công ty chuyên về thiết bị ảnh Kodak. Phim được cắt thành các dải liên tục và đục lỗ dọc theo các cạnh, di chuyển bằng các đĩa xích theo chuyển động dừng và quay phía sau cửa màn trập. Trong xưởng phim của Edison, về mặt kỹ thuật được gọi là Nhà hát Kinetographic, nhưng có biệt danh “The Black Maria”. Edison và các nhân viên của ông đã quay những đoạn phim ngắn để xem bằng ống soi hoạt ảnh (Kinetoscope). Người xem tại một thời điểm có thể nhìn qua ống Kinetoscope, mỗi ống có kích cỡ 437,8cm2 và có kính lúp lỗ nhỏ cho phép xem phim dài 15,24m trong khoảng 20 giây. Người xem máy chiếu phim qua ống lúp lỗ nhỏ. Ảnh: Wikipedia. Công tơ điện Mỗi hộ gia đình ngày nay đều sử dụng một thiết bị đo số điện tiêu thụ gọi là công tơ điện. Edison được coi là cha đẻ của thiết bị này bằng phát minh vào năm 1881, để giải quyết vấn đề đo đạc lượng điện năng sử dụng cho gia đình hay doanh nghiệp lúc bấy giờ. Thời điểm bắt đầu chu kỳ tính tiền điện, các tấm kẽm được tẩy sạch và cân cẩn thận trong phòng thí nghiệm rồi cắm vào các zắc đặt trong chất điện phân. Khi có dòng điện chạy qua chất điện phân sẽ tạo ra một lượng kẽm phủ đọng lại trên tấm kia. Đến cuối kỳ tính tiền điện, đem các tấm kẽm cân lại một lần nữa. Sự khác biệt về trọng lượng kẽm giữa hai lần cân sẽ biểu trưng cho tổng lượng điện năng đã đi qua. Công tơ điện này được hiệu chỉnh sao cho đơn vị thanh toán sẽ tương đương với đơn vị đo thể tích khí đốt là feet khối. Sau này, Edison có bổ sung thêm bộ đếm cơ khí để giúp cho việc đọc chỉ số. Công tơ điện kiểu này vẫn được sử dụng cho đến cuối thế kỷ thứ 19 và được cải tiến thành chiếc công tơ hiện đại ngày nay. Ô tô điện Năm 1899, Edison bắt đầu phát triển một loại pin trữ điện cho ô tô với niềm tin rằng những chiếc xe sẽ được chạy bằng điện. Ông đã thành công khi vào năm 1900, khoảng 28% trong hơn 4.000 chiếc xe được sản xuất ở Mỹ được chạy bằng điện. Edison vẫn tiếp tục nghiên cứu với mục tiêu tạo ra một loại pin có thể giúp xe chạy khoảng hơn 160 km mà không cần sạc. Khoảng 10 năm sau, khi xăng dầu xuất hiện, Edison đã từ bỏ dự án, tuy nhiên công trình không vô ích vì pin sạc của ông đã được sử dụng trong đèn pha của thợ mỏ, tín hiệu đèn đường sắt, hải phao. Henry Ford cũng sử dụng pin của Edison trong mẫu xe của mình. Cả cuộc đời của Thomas Edison có tới hơn 1.500 phát minh và sáng chế. Tính trung bình cứ khoảng 12 ngày thì lại có một phát minh mới của ông ra đời. Edison mất ở New Jersey vào ngày 18/10/1931 ở tuổi 84, chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng điện đầu tiên. Khi đó, nước Mỹ đã tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ trong một phút, để tưởng nhớ “người bạn của nhân loại” đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá “mặt trời thứ hai”. Đăng Hưng ( Tổng hợp )
Bộ Nội vụ đề xuất thí điểm sáp nhập một số tỉnh Trên cơ sở hiệu quả của việc sáp nhập một số huyện, xã, Bộ Nội vụ tiếp tục đề xuất thí điểm sáp nhập một số tỉnh giai đoạn 2022-2025 và định hướng đến năm 2030. Nội dung này được Bộ Nội vụ đề cập trong dự thảo báo cáo, tờ trình và Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 1211 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính để lấy ý kiến nhân dân. Đáng chú ý, Bộ Nội vụ đề xuất thí điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh giai đoạn 2022-2025 và định hướng đến năm 2030. Đồng thời, khắc phục các hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 1211 để việc thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phù hợp hơn với thực tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội và phát triển đô thị của đất nước. Cụ thể, bổ sung một điều quy định về tiêu chuẩn của thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, gồm các tiêu chuẩn về quy mô dân số, diện tích tự nhiên, số đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, loại đô thị và cơ cấu, trình độ phát triển kinh tế – xã hội theo hướng có phân biệt cao hơn so với các đô thị cấp huyện khác. Ví dụ, quy mô dân số từ 250.000 người trở lên (quận là 200.000 người, thành phố thuộc tỉnh là 180.000 người, thị xã là 120.000 người). Trường hợp không đạt tiêu chuẩn về quy mô dân số và diện tích tự nhiên của đơn vị hành chính thì tiến hành nhập, sắp xếp theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và cơ quan có thẩm quyền. Bộ Nội vụ cũng nêu rõ không thực hiện chia đơn vị hành chính các cấp, trừ trường hợp đặc biệt để đáp ứng yêu cầu về bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh do Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Bộ Nội vụ nhận định sau khi có nghị quyết về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã đã khắc phục cơ bản tình trạng chia tách làm tăng đơn vị hành chính trong các nhiệm kỳ trước. Bước đầu thực hiện chủ trương này, Bộ Nội vụ cho biết đã giảm được 8 đơn vị hành chính cấp huyện (từ 713 xuống 705), giảm 563 đơn vị hành chính cấp xã so với năm 2016 (từ 11.162 xuống 10.599), phù hợp với quá trình phát triển kinh tế – xã hội và đô thị hóa ở các địa phương. Theo đó, các đơn vị hành chính nông thôn có xu hướng giảm (giảm: 18 huyện, 707 xã, do nhập hoặc chuyển thành đơn vị hành chính đô thị), các đơn vị hành chính đô thị có xu hướng tăng nhanh (tăng 13 thành phố thuộc tỉnh, 138 phường và 6 thị trấn); đồng thời, đã triển khai được mô hình “thành phố trong thành phố” (thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP.HCM). Bộ Nội vụ đánh giá việc thực hiện sắp xếp các đơn vị cấp huyện, cấp xã nhận được sự đồng tình, ủng hộ cao của nhân dân. Tuy nhiên, một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa quyết tâm thực hiện, tiến độ còn chậm so với lộ trình kế hoạch đề ra. Nhiều đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã mới hình thành sau khi sắp xếp vẫn chưa bảo đảm các tiêu chuẩn theo quy định. Từ thực tế đã triển khai, Bộ Nội vụ đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính phù hợp với từng loại hình. Trên cơ sở đó, quy định điều khoản áp dụng đối với việc thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính, làm căn cứ tiếp tục sắp xếp đơn vị hànnh chính cấp huyện, cấp xã. Hoài Thu
The Ministry of Home Affairs proposed a pilot merger of some provinces Based on the effectiveness of merging a number of districts and communes, the Ministry of Home Affairs continues to propose a pilot merger of a number of provinces in the period 2022-2025 with a vision to 2030. This content is mentioned by the Ministry of Home Affairs in the draft report, proposal and Resolution amending and supplementing a number of articles of Resolution Không. 1211 of the National Assembly Standing Committee on standards of administrative units and subdivisions. type of administrative unit to collect people's opinions. Notably, the Ministry of Home Affairs proposed to pilot the arrangement of provincial-level administrative units for the period 2022-2025 with a vision to 2030. At the same time, overcome limitations and inadequacies in the process of implementing Resolution Không. 1211 to make the establishment, merger, division, and adjustment of administrative unit boundaries more consistent with reality, promoting the country's socio-economic and urban development. Specifically, add an article stipulating the standards of cities belonging to centrally run cities, including standards on population size, natural area, number of commune-level administrative units under central authority, and type of urban area. Urban structure and level of socio-economic development are more differentiated than other district-level urban areas. For example, the population size is 250,000 people or more (district is 200,000 people, provincial city is 180,000 people, town is 120,000 people). In case the population size and natural area of ​​the administrative unit are not met, the import and arrangement shall be carried out according to the regulations of the National Assembly Standing Committee and competent authorities. The Ministry of Home Affairs also clearly stated that it does not divide administrative units at all levels, except in special cases to meet the requirements of protecting national sovereignty, national defense and security submitted by the Government to the National Assembly and the Standing Committee. The National Assembly shall consider and decide. The Ministry of Home Affairs commented that after the resolution on the arrangement of district and commune-level administrative units, the situation of separation and increase in administrative units in previous terms has been basically overcome. Initially implementing this policy, the Ministry of Home Affairs said it has reduced 8 administrative units district (from 713 to 705), reducing 563 commune-level administrative units compared to 2016 (from 11,162 to 10,599), in line with the process of socio-economic development and urbanization in localities. Accordingly, rural administrative units tend to decrease (decrease: 18 districts, 707 communes, due to merger or transformation into urban administrative units), urban administrative units tend to increase rapidly (increase 13 provincial cities, 138 wards and 6 towns); At the same time, the "city within a city" model (establishment of a city) has been implemented Thu Duc in Ho Chi Minh City). The Ministry of Home Affairs assessed that the implementation of the arrangement of district and commune-level units received high sympathy and support from the people. However, some provinces and centrally run cities are not determined to implement it, progress is still slow compared to the planned roadmap. Many newly formed district and commune-level administrative units after reorganization still do not meet the prescribed standards. From the actual implementation, the Ministry of Home Affairs proposes to amend and supplement regulations on standards of administrative units appropriate to each type. On that basis, regulations apply to the establishment, merger, division, and adjustment of administrative unit boundaries, as a basis for further arrangement of district and commune-level administrative units. Hoai Thu
8 khoảnh khắc quan trọng từ chương trình Tàu con thoi của NASA Tác giả: Kristen Rogers, CNN Tàu con thoi Atlantis (số hiệu trạm quỹ đạo : OV-104) nằm trong chương trình tàu con thoi của Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ ( NASA ). Chuyến bay đầu tiên của Atlantis được thực hiện từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 10 năm 1985 và chuyến bay cuối cùng của nó được thực hiện từ ngày 8 tháng 7 đến ngày 21 tháng 7 năm 2011. Ký niệm 10 năm tròn chuyến bay vào vũ trụ cuối cùng của Atlantic, chúng ta hãy đi dọc theo hành trình ký ức, tìm lại những khoảnh khắc quan trọng trong kỷ nguyên tàu con thoi của NASA (từ chuyến bay thử nghiệm đầu tiên vào năm 1981 và các chuyến bay chính thức từ năm 1982 đến 2011với 135 lần bay, tổng cộng thời gian bay là 1322 ngày, 19 giờ, 21 phút và 23 giây, trên 4 tàu con thoi mang tên: Columbia, Challenger, Discovery & Atlantis). vansudia.net Tàu con thoi Atlantis được chụp ảnh tại buổi ra mắt của nó tại Trung tâm Không gian Kennedy của NASA ở Florida vào ngày 7 tháng 7 năm 2011. Người phụ nữ đầu tiên của Mỹ lên vũ trụ Khi ngồi trên sàn đáp của tàu con thoi Challenger, phi hành gia Sally Ride, chuyên gia của sứ mệnh STS-7, trở thành người phụ nữ đầu tiên của Hoa Kỳ bay lên vũ trụ vào ngày 18/6/1983. Khi tàu con thoi Challenger (sứ mệnh STS-7) được phóng lên không gian vào ngày 18 tháng 6 năm 1983, Sally Ride đã trở thành người phụ nữ đầu tiên của Mỹ bay lên vũ trụ. Cách sự kiện này 20 năm về trước, nữ phi hành gia Liên Xô Valentina Vladimirovna Tereshkova (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1937) là người phụ nữ đầu tiên của thế giới đã bay lên vũ trụ trên con tàu Vostok 6 vào ngày 16 tháng 6 năm 1963. Người Mỹ gốc Phi đầu tiên bay vào vũ trụ Guion “Guy” Bluford Jr., người đầu tiên của Mỹ gốc Phi trong không gian, đang tập thể dục trên máy chạy bộ của tàu con thoi Challenger. Khi sứ mệnh thứ ba của Challenger, STS-8, được phóng từ Trung tâm vũ trụ Kennedy vào ngày 30 tháng 8 năm 1983, đã đánh dấu một cốt mốc lịch sử trong sự nghiệp của Kỹ sư Hàng không và Phi hành gia Guion “Guy” Bluford Jr (ông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1942 tại Philadelphia, Pennsylvania). Ông đã trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên bay lên quỹ đạo . Đánh dấu lần đi đầu tiên không có dây dẫn Chuyên gia Bruce McCandless II thực hiện chuyến đi ngoài không gian lịch sử cách cabin của tàu Challenger quay quanh trái đất vài mét vào ngày 7 tháng 2 năm 1984. Sau khi tàu con thoi Challenger phóng lên sứ mệnh STS-41B vào sáng sớm 3 tháng 2 năm 1984, các chuyên gia sứ mệnh Bruce McCandless II và Robert L. Stewart đã thực hiện chuyến đi đầu tiên bên ngoài tàu con thoi mà không bị ràng buộc vào tàu con thoi. Tiếp tục chuyến bay con thoi sau vụ nổ Challenger Tàu con thoi Discovery cửa hàng cánh vào ngày 29 tháng 9 năm 1988. Du hành trên tàu con thoi Discovery (STS-26) vào ngày 29 tháng 9 năm 1988, là chuyến bay trở lại vũ trụ đầu tiên của NASA trong khoảng hai năm sau thảm họa tàu con thoi Challenger làm thiệt mạng cả bảy thành viên phi hành đoàn vào ngày 28 tháng 1 năm 1986. Phóng Kính viễn vọng Không gian Hubble Tàu con thoi Atlantis chụp Kính viễn vọng Không gian Hubble bằng cánh tay robot của nó. Mốc thời gian đánh dấu sự khởi đầu của sứ mệnh nâng cấp và sửa chữa kính thiên văn vào ngày 13 tháng 5 năm 2009. Để triển khai kính thiên văn, tàu con thoi Discovery (STS-31) được phóng vào ngày 24 tháng 4 năm 1990, và bay lên với một độ cao 370 miles (595.5 kilometers), quỹ đạo con thoi cao nhất từng có tại thời điểm đó, theo NASA . Được đặt trên quỹ đạo khi hai camera IMAX ghi lại sứ mệnh vào ngày 25 tháng 4, từ đó Kính viễn vọng Không gian Hubble đã cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về vũ trụ trong hơn 30 năm bằng cách chia sẻ những quan sát của nó về các ngôi sao, thiên hà và các thiên văn khác. Đánh dấu lần phóng thứ 100 vào vũ trụ của con người ở Hoa Kỳ Một sự kiện không gian quốc tế bắt đầu vào tháng 6 năm 1995, khi tàu con thoi Atlantis cập nhật với vũ trụ Mir của Nga lần đầu tiên. Tàu con thoi Atlantis, tàu con thoi cuối cùng, phóng vào ngày 27 tháng 6 năm 1995, đánh dấu lần phóng thứ 100 của con người vào không gian của Hoa Kỳ. Nhiệm vụ này (STS-71) được thực hiện với sự họp tác giữa Nga và Hoa Kỳ; đây là lần đầu tiên – một sự hợp tác không gian quốc tế, giúp Atlantis (Hoa Kỳ) và Mir (Nga) trở thành tàu vũ trụ kết hợp lớn nhất từng có trên quỹ đạo, với tổng giá trị gần nửa triệu bảng Anh (226,796 kg), theo NASA. Sự kiện này đã giúp mở đường cho việc thành lập Trạm vũ trụ quốc tế. Trở lại vũ trụ sau thảm họa Columbia Tàu con thoi Discovery và phi hành đoàn bảy thành viên của nó phóng vào ngày 26 tháng 7 năm 2005, sứ mệnh tàu con thoi lần đầu tiên sau thảm họa Columbia. Gần hai năm sau khi tàu con thoi Columbia phát nổ trên bầu trời Texas khi quay trở lại trái đất, tàu con thoi Discovery (STS-114) được phóng lên quỹ đạo vào ngày 26 tháng 7 năm 2005. “Hãy ghi lại những gì bạn đã thấy ở đây,” Quản trị viên NASA khi đó là Michael Griffin nói với các phóng viên, theo một bản báo cáo năm 2005 của CNN. “Sức mạnh và sự uy nghiêm của buổi ra mắt, tất nhiên, nhưng cũng có năng lực và sự chuyên nghiệp, sự dũng cảm tuyệt đối, sự khéo léo, gan góc của đội ngũ này đã kéo chương trình này ra khỏi hố sâu của sự tuyệt vọng. “ Tu sửa Trạm vũ trụ quốc tế Bức ảnh này cho thấy nhà vệ sinh do Nga xây dựng được phi hành đoàn trên tàu con thoi Endeavour phóng lên Trạm vũ trụ quốc tế, ngày 14 tháng 11 năm 2008. Một mục tiêu khi phóng tàu con thoi Endeavour (STS-126) vào ngày 14 tháng 11 năm 2008, là để phi đoàn cải tạo nhà tắm và phòng tắm trên ISS và cung cấp tủ lạnh mới. Ngoài ra còn có trong hàng hóa của Endeevour là các trang thiết bị. Tất cả các nguồn cung cấp này là một phần trong hy vọng của NASA để mở rộng trạm vũ trụ và cho phép nhân viên không gian thực hiện các nhiệm vụ dài hạn. Hạnh Thục (lược thuật)
8 key moments from NASA's Space Shuttle program Author: Kristen Rogers, CNN Space shuttle Atlantis (orbital station number: OV-104) is part of the space shuttle program of the United States Aeronautics and Space Administration ( NASA ). Atlantis's first flight was carried out from 3 to 7 October 1985 and its last flight was made from 8 July to 21 July 2011. Celebrating the 10th anniversary of Atlantic's last space flight, let's take a trip down memory lane, looking back at key moments in NASA's space shuttle era (from the first test flight in in 1981 and official flights from 1982 to 2011 with 135 flights, a total flight time of 1322 days, 19 hours, 21 minutes and 23 seconds, on 4 space shuttles named: Columbia, Challenger, Discovery & Atlantis ). vansudia.net Space shuttle Atlantis is photographed at its launch at NASA's Kennedy Space Center in Florida on July 7, 2011. First American woman in space While sitting on the flight deck of the space shuttle Challenger, astronaut Sally Ride, a specialist on the STS-7 mission, became the first American woman in space on June 18, 1983. When the space shuttle Challenger (mission STS-7) was launched into space on June 18, 1983, Sally Ride became the first American woman in space. 20 years ago, Soviet female astronaut Valentina Vladimirovna Tereshkova (born March 6, 1937) was the first woman in the world to fly into space on the Vostok 6 ship on March 16. June 1963. First African American in space Guion “Guy” Bluford Jr., the first African American in space, exercises on the space shuttle Challenger's treadmill. When Challenger's third mission, STS-8, launched from Kennedy Space Center on August 30, 1983, it marked a milestone in the career of Aeronautical Engineer and Astronaut Guion. Guy” Bluford Jr (he was born November 22, 1942 in Philadelphia, Pennsylvania). He became the first African American to orbit . Marking the first trip without a wire Specialist Bruce McCandless II performed a historic spacewalk a few meters from the cabin of the Earth-orbiting Challenger on February 7, 1984. After the space shuttle Challenger launched on mission STS-41B in the early morning of February 3, 1984, mission specialists Bruce McCandless II and Robert L. Stewart made the first ascent outside the shuttle without being injured. bound to the shuttle. Continued shuttle flight after the Challenger explosion Space shuttle Discovery took off on September 29, 1988. Traveling aboard space shuttle Discovery (STS-26) on September 29, 1988, was NASA's first return to space in about two years after the space shuttle Challenger disaster that killed all seven crew members. crew on January 28, 1986. Launch of the Hubble Space Telescope Space shuttle Atlantis captures the Hubble Space Telescope with its robotic arm. The timeline marks the start of the telescope upgrade and repair mission on May 13, 2009. To deploy the telescope, the space shuttle Discovery (STS-31) was launched on April 24, 1990, and rose to an altitude of 370 miles (595.5 kilometers), the highest shuttle orbit ever achieved at the time. that point, according to NASA. Placed in orbit when two IMAX cameras recorded the mission on April 25, the Hubble Space Telescope has since provided us with an understanding of the universe for more than 30 years by sharing observations its about stars, galaxies and other astronomy. Marks the 100th human space launch in the United States An international space event began in June 1995, when the space shuttle Atlantis docked with Russia's Mir spaceship for the first time. Space Shuttle Atlantis, the last space shuttle, launched on June 27, 1995, marking the 100th human space launch for the United States. This mission (STS-71) was carried out in cooperation between Russia and the United States; this is a first – an international space collaboration, making Atlantis (USA) and Mir (Russia) the largest combined spacecraft ever in orbit, with a total value of almost half a million pounds (226,796 kg), according to NASA. This event helped pave the way for the establishment of the International Space Station. Return to space after the Columbia disaster The space shuttle Discovery and its seven-member crew launched on July 26, 2005, the first shuttle mission after the Columbia disaster. Nearly two years after the space shuttle Columbia exploded over Texas during reentry, the space shuttle Discovery (STS-114) was launched into orbit on July 26, 2005. “Take note of what you saw here,” then-NASA Administrator Michael Griffin told reporters, according to a 2005 CNN report. “The power and majesty of the launch, of course, but also the competence and professionalism, the sheer courage, the ingenuity, the grit of this team that pulled this show out of the deep hole. of despair. “ Remodeling the International Space Station This photo shows the Russian-built toilet launched by the crew aboard the space shuttle Endeavor to the International Space Station, November 14, 2008. One goal of the launch of space shuttle Endeavor (STS-126) on November 14, 2008, was for the crew to renovate the bathrooms and bathrooms on the ISS and provide new refrigerators. Also included in Endeevour's merchandise are equipment. All of these supplies are part of NASA's hopes to expand the space station and enable space personnel to carry out long-duration missions. Hanh Thuc (narrative)
Xác ướp 7000 năm tuổi được đưa vào danh sách Di sản thế giới Xác ướp của người Chinchorro, được xem là xác ướp do con người tẩm liệm có niên đại cổ nhất lịch sử, đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Thế giới của vào ngày 27/7 vừa qua. Tờ Daily Mail đưa tin, trong phiên họp thứ 44 của Ủy ban Di sản Thế giới, được tổ chức trực tuyến tại Phúc Châu (Trung Quốc) hôm 27/7, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã chính thức thông báo sẽ đưa “khu định cư và kỹ thuật ướp xác của nền văn hóa Chinchorro” vào hạng mục “uy tín” trong danh sách di sản thế giới. Theo thông báo chính thức của UNESCO, kỹ thuật ướp xác và địa điểm khai quật những xác ướp của người Chinchorro “đều là bảo chứng cho một nền văn minh săn bắn, hái lượm của những người từng sinh sống ở bờ biển phía bắc sa mạc Atacama tại Chile từ khoảng năm 5450 đến năm 890 trước Công nguyên. Đây là những bằng chứng khảo cổ học lâu đời nhất được biết đến về quá trình ướp xác bởi bàn tay con người”. Bernardo Arriaza, nhà nhân chủng học người Chile, cho biết trước báo chí: “Thông qua nhiều chuyên gia khác nhau, UNESCO đánh giá các khu định cư và kĩ thuật ướp xác nhân tạo của nền văn hóa Chinchorro có giá trị đặc biệt, mang tầm quan trọng toàn cầu”. Chinchorro là tên của những nhóm người sinh sống từ cách đây hơn 7.000 năm tại các khu vực giao nhau giữa sa mạc và Thái Bình Dương , mà ngày nay là phía nam Peru và phía bắc Chile. Quá trình ướp xác của người Chinchorro bắt đầu từ việc loại bỏ hoàn toàn nội tạng, ruột và các mô của thi thể. rồi được nhồi thay thế bằng các loại sợi thực vật cùng lông động vật. Lớp da của người chết được lột bỏ, và phần đầu được khâu kín với bộ tóc giả màu đen. Cuối cùng, xác ướp được phủ một lớp sơn màu đỏ hoặc đen được pha chế từ đất, bột màu, mangan và oxit sắt. Những xác ướp đầu tiên của người Chinchorro được phát hiện và khai quật ở Chile vào đầu thế kỷ 20. Chúng được xác định có niên đại hơn 7.000 năm, tức xuất hiện sớm hơn những xác ướp của Ai Cập cổ đại tới hơn 2.000 năm. Việt Anh
The 7,000-year-old mummy is included in the World Heritage list The Chinchorro mummy, considered the oldest human shrouded mummy in history, was included in UNESCO's World Heritage list on July 27. The Daily Mail reported that during the 44th session of the World Heritage Committee, held online in Fuzhou (China) on July 27, the United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO) has officially announced that it will include "the settlement and mummification technique of the Chinchorro culture" in the "prestigious" category on the world heritage list. According to UNESCO's official announcement, the mummification technique and the excavated location of the Chinchorro mummies "are all evidence of a hunting and gathering civilization of people who once lived on the northern coast of Sa Pa." Atacama Desert in Chile from about 5450 to 890 BC. These are the oldest known archaeological evidence of mummification by human hands." Bernardo Arriaza, a Chilean anthropologist, told the press: “Through many different experts, UNESCO evaluates the settlements and artificial mummification techniques of the Chinchorro culture as having special value, of global importance". Chinchorro is the name of groups of people who lived more than 7,000 years ago in areas where the desert and Pacific , which is today southern Peru and northern Chile. The Chinchorro mummification process begins with the complete removal of the body's internal organs, intestines and tissues. then stuffed instead with plant fibers and animal hair. The dead man's skin was removed, and the head was sewn shut with a black wig. Finally, the mummy was covered with a layer of red or black paint prepared from earth, pigments, manganese and iron oxide. The first mummies of the Chinchorro people were discovered and excavated in Chile in the early 20th century. They were determined to be more than 7,000 years old, which is more than 2,000 years earlier than the mummies of ancient Egypt. . Vietnamese-English
Khai trương đoàn tàu container đầu tiên chạy thẳng từ Việt Nam sang Bỉ Đường sắt tổ chức đoàn tàu chuyên container chạy thẳng từ Việt Nam sang Bỉ, mở tuyến vận tải mới đến châu Âu. Tổng công ty Đường sắt VN cho biết, hôm nay (20/7)sẽ tổ chức chạy chuyến tàu chuyên container đầu tiên sang Bỉ. Tàu xuất phát từ ga Yên Viên (Việt Nam), điểm đến là thành phố Liege (Bỉ), sau đó tiếp chuyển container bằng đường bộ đến điểm đích là thành phố Rotterdam (Hà Lan). Thành phần đoàn tàu gồm 23 container 40 feet, vận chuyển các loại hàng hóa như dệt may, da giày. Hành trình đoàn tàu sẽ đến Trịnh Châu (Trung Quốc) và kết nối vào đoàn tàu Á – Âu để đến điểm đích. Theo Tổng công ty Đường sắt VN, đây là đoàn tàu container đầu tiên do Công ty Ratraco kết hợp với các doanh nghiệp vận chuyển, giao – nhận các nước cung cấp chuỗi dịch vụ logistics cho khách hàng từ Việt Nam đến điểm đích. “Hiện nay, đường sắt Việt Nam đang cung cấp dịch vụ vận chuyển container bằng đường sắt giữa Việt Nam – Trung Quốc và quá cảnh đi Nga, châu Âu, các nước ASEAN và các nước Trung Á. Đường sắt cung cấp dịch vụ logistics trọn gói cho các khách hàng. Việc tổ chức thành công đoàn tàu từ Việt Nam sang Bỉ sẽ tiếp tục mở ra những tuyến vận tải đường sắt đi sâu nội địa châu Âu ngoài các tuyến đã khai thác sang Đức, Ba Lan”, đại diện Công ty Ratraco cho hay. Hiện nay, Ratraco và đối tác châu Âu đang bắt đầu xây dựng kế hoạch và tổ chức vận chuyển 8 chuyến mỗi tháng xuất phát tại Việt Nam. Tổng thời gian vận chuyển dự kiến cho toàn bộ hành trình là 25 – 27 ngày. Dự kiến, đoàn thứ hai xuất phát tại Yên Viên ngày 27/7 với các sản phẩm điện tử; đoàn thứ 3 xuất phát ngày 3/8. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid -19 bùng phát trên toàn thế giới, vận tải đường biển quốc tế đang đối mặt với thời kỳ khó khăn, vận tải đường sắt đang được nhiều khách hàng tìm đến để vận chuyển hàng hóa liên vận quốc tế từ Việt Nam sang Trung Quốc và từ đó đi tiếp châu Âu. Với ưu thế hệ thống kết nối đường sắt liên vận quốc tế hiệu quả, các đoàn tàu đi đến ga đích đúng giờ, chi phí vận tải phù hợp, vận tải đường sắt liên vận đang ngày càng phát triển, tăng trưởng. “6 tháng đầu năm 2021, tại cửa khẩu ga Lào Cai sản lượng xe nhập tăng 14%, sản lượng hàng hóa nhập tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2020. Còn tại cửa khẩu ga Đồng Đăng sản lượng xe nhập tăng 91%, xe xuất tăng 117%”, Tổng công ty Đường sắt VN thông tin.
Launching the first container train running directly from Vietnam to Belgium The railway organizes a specialized container train running directly from Vietnam to Belgium, opening a new transport route to Europe. Vietnam Railways Corporation said that today (July 20) it will organize the first specialized container train to Belgium. The train departs from Yen Vien station (Vietnam), the destination is Liege city (Belgium), then transfers containers by Road to the destination is the city of Rotterdam (Netherlands). The train consists of 23 40-foot containers, transporting goods such as textiles, garments, and footwear. The train journey will arrive in Zhengzhou (China) and connect to the Asia-Europe train to reach the destination. According to Vietnam Railway Corporation, this is the first container train by Ratraco Company in combination with shipping, delivery and receiving businesses from other countries to provide logistics service chains for customers from Vietnam to the destination. "Currently, rail Vietnam is providing container transportation services by rail between Vietnam - China and transit to Russia, Europe, ASEAN countries and Central Asian countries. Railways provides comprehensive logistics services to customers. The successful organization of the train from Vietnam to Belgium will continue to open up rail transport routes deeper into Europe in addition to the routes already operated to Germany and Poland," said a representative of Ratraco Company. Currently, Ratraco and its European partners are starting to plan and organize 8 shipping trips per month departing from Vietnam. Total estimated shipping time for the entire journey is 25 - 27 days. It is expected that the second delegation will depart from Yen Vien on July 27 with electronic products; The third group departed on August 3. In the context of the Covid -19 epidemic breaking out worldwide, international sea transport is facing difficult times, rail transport is being sought by many customers to transport goods internationally. from Vietnam to China and from there to Europe. With the advantage of an effective international rail connection system, trains arriving at their destination stations on time, and reasonable transport costs, intermodal rail transport is increasingly developing and growing. “In the first 6 months of 2021, at Lao Cai station border gate, the output of imported vehicles increased by 14%, the output of imported goods increased by 7.9% compared to the same period in 2020. And at Dong Dang station border gate, the output of imported vehicles increased. 91%, vehicle exports increased by 117%", Vietnam Railway Corporation informed.
Hấp dẫn huyền thoại Cánh đồng Chum Nằm rải rác dọc cao nguyên Mương Phuôn, Cánh đồng Chum thuộc tỉnh Xiêng Khoảng, Bắc Lào đến nay vẫn là thách thức với giới khảo cổ Lào và quốc tế. Chưa rõ những chiếc chum có đến cả 1.000 năm tuổi đó được làm ra như thế nào, nằm ở đó từ bao giờ, được dùng vào việc gì và tại sao lại chỉ có ở một nơi duy nhất trên thế giới là Xiêng Khoảng? Cách đồng Chum ước tính có khoảng 1.969 chiếc chum, nằm rải rác tại 52 địa điểm ở tỉnh Xiêng Khoảng, chiếc lớn nhất được tìm thấy cao 3m, chiếc nặng nhất tới 14 tấn, còn phần lớn cao chừng 1 đến 2m. Hiện mới chỉ có ba điểm được đưa vào khai thác du lịch gồm Bản Ang, Lắt Sén và Bản Sua, các địa điểm khác phần vì quá ít, phần vì vẫn còn rất nhiều bom mìn còn sót lại trong chiến tranh chưa được rà phá nên chưa mở cửa cho khách tham quan. Nhìn từ xa, Cánh đồng Chum như một bàn cờ, những chiếc chum như những quân cờ lổm nhổm thật kỳ thú. Khi đến gần mới thấy chúng nằm lẫn lộn vào nhau không theo quy luật sắp xếp nào. Cái trồi hẳn trên mặt đất, cái chìm một phần thân dưới đất. Hình dạng cũng không điển hình. Cái thắt núm, cái miệng thẳng, cái vuông vức, cái lại như quả dưa… Chạm tay vào những khối đá sần sùi, “mốc” xanh thời gian đang nằm yên lặng trên nền đất, người ta mơ hồ cảm nhận những bí ẩn lịch sử to lớn chứa đựng bên trong. Nằm cách thủ phủ Phôn-xa-vẳn của Xiêng Khoảng chừng 12 km, Bản Ang là địa điểm nổi tiếng nhất với 334 chum được tìm thấy. Ða phần những chiếc chum không có nắp, có hình dạng vuông tròn khác nhau, đây đó có những chiếc đã vỡ, thủng đáy hoặc sứt mẻ. Các nhà khảo cổ tin rằng các chum này có niên đại 1500 đến 2000 năm, được những người thuộc nhóm Môn Khmer làm ra. Người Lào cũng không rõ đích xác những chiếc chum đó có từ đâu, bởi có quá nhiều huyền thoại về Cánh đồng Chum: Người thì kể rằng Cánh đồng thuộc về những người khổng lồ từng định cư ở khu vực từ thời xa xưa. Người lại nói rằng xưa kia, có một vị vua tên là Khun Chương sau khi giành thắng lợi trong một cuộc chiến chống kẻ thù, đã cho dựng lên Cánh đồng Chum và dùng những chiếc chum này để ủ men làm rượu khao quân. Có ý kiến lại nói, vì Xiêng Khoảng nằm ở cao nguyên, có hai mùa rõ rệt, mùa mưa thối đất, mùa khô hạn đến quắt queo, nên người xưa đã làm nên những chiếc chum khổng lồ này để tích nước… Ngay đến cả chất liệu làm ra các chum này cũng gây tranh cãi. Một số người cho rằng, chúng được làm từ đá vôi, số khác lại nói chúng được làm từ đá ong và đá cẩm thạch trộn lẫn những nguyên liệu đặc biệt nào đó thời cổ đại, nay đã thất truyền. Giải đáp những thắc mắc này, anh Bua-xổ Minh-khăm-đeng, Phó Giám đốc Sở Thông tin – Văn hóa tỉnh Xiêng Khoảng cho biết, người đầu tiên phát hiện ra Cánh đồng Chum và tiến hành khảo sát, nghiên cứu, ghi chép liệt kê một cách toàn diện nhất các hiện vật là nhà khảo cổ người Pháp M.Ma-đơ-len Cô-la-ni thuộc Viện Viễn đông Bác cổ. Năm 1930, bà cùng nhóm nghiên cứu khai quật khu vực Cánh đồng Chum và phát hiện một hang động với các di tích gồm cả xương và tro, đồ trang sức… của con người. Bà đưa ra giả thuyết, mỗi cái chum là một cái quách chôn người chết. Tuy nhiên, sau 80 năm từ khi bà Ma-đơ-len đưa ra giả thuyết này, mặc dù đã có nhiều cuộc khai quật khác nhưng bí mật về Cánh đồng Chum vẫn là một bài toán chưa có đáp số chung của các nhà khoa học. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn đó là những huyền thoại về Cánh đồng Chum giúp lượng khách tới thăm Xiêng Khoảng ngày một đông, những năm gần đây tăng đều đặn khoảng 25%/năm… Anh Bua-xổ đã đúng, khi tôi hỏi chị Hin-dô, một du khách đến từ Hà Lan đang có mặt trên Cánh đồng Chum về điều gì đã đưa chị tới cánh đồng này, chị nói “Cánh đồng Chum đem lại cho tôi cảm giác hết sức thú vị bởi những huyền thoại về cánh đồng, những chiếc chum đó từ đâu ra, tại sao chúng lại nằm ở đây. Nó cũng là nơi khiến chúng ta cảm thấy buồn khi những hố bom nằm xen lẫn với những chiếc chum nhắc chúng ta nghĩ tới chiến tranh. Tất cả những điều đó khiến Cánh đồng Chum trở nên hấp dẫn”. Với những khách du lịch Việt Nam khi đến với Cánh đồng Chum, họ không chỉ đến với những huyền thoại, mà còn muốn tận mắt chứng kiến chiến trường từng một thời hết sức khốc liệt trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nơi đã có hàng chục nghìn bộ đội tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào anh dũng hy sinh để bảo vệ mảnh đất này. Anh Nguyễn Lê Quang Anh, một du khách đến từ TP Hồ Chí Minh cho biết: “Từ nhỏ tôi đã được nghe về Cánh đồng Chum và ước mơ được một lần thăm nơi đây. Ngoài việc muốn hiểu thêm về văn hóa Lào, tôi còn muốn tận mắt chứng kiến chiến trường Cánh đồng Chum nổi tiếng khốc liệt khi xưa, nơi những chiến sĩ Lào và Việt Nam đã cùng sát cánh bên nhau để thế hệ trẻ chúng tôi có được ngày hôm nay”. Hiện, Cánh đồng Chum đang được các chuyên gia thuộc Tổ chức UNESCO nghiên cứu, khảo sát lại vị trí, đánh dấu toàn bộ số chum để có thể trở thành di sản văn hóa thế giới – một di sản bằng đá trên nóc mái nhà Ðông Dương. CHÂU HƯƠNG
Fascinating legend of the Plain of Jars Scattered along the Muong Phuon plateau, the Plain of Jars in Xieng Khouang province, Northern Laos is still a challenge to Lao and international archaeologists. It is unclear how those 1,000-year-old jars were made, when were they there, what were they used for, and why are they only found in one place in the world, Xieng Khouang? There are an estimated 1,969 jars in the Plain of Jars, scattered in 52 locations in Xieng Khouang province. The largest one was found to be 3 meters high, the heaviest one was 14 tons, and the majority were about 1 to 2 meters high. Currently, there are only three sites that have been put into operation for tourism, including Ban Ang, Lat Sen and Ban Sua. The other sites are partly because they are too few and partly because there are still many mines left over from the war that have not been cleared. so it is not open to visitors yet. Seen from a distance, the Plain of Jars looks like a chessboard, the jars are like jagged chess pieces, very interesting. When we get closer, we see that they are mixed together without any arrangement rules. One is completely above the ground, the other is partially submerged underground. The shape is also atypical. The knob is tied, the mouth is straight, the mouth is square, the other is like a melon... Touching the rough rocks, the green "mold" of time lying quietly on the ground, one vaguely feels the mysteries. The great history contained within. Located about 12 km from Xieng Khouang's capital Phonxavan, Ban Ang is the most famous site with 334 jars found. Most of the jars have no lids, have different square and round shapes, here and there some are broken, have holes in the bottom or are chipped. Archaeologists believe that these jars are 1,500 to 2,000 years old and were made by people of the Mon Khmer group. Lao people also do not know exactly where those jars came from, because there are so many legends about the Plain of Jars: Some people say that the Field belonged to giants who settled in the area since ancient times. He said that in the past, there was a king named Khun Chuong who, after winning a war against his enemies, built the Plain of Jars and used these jars to ferment the wine to make Khao Quan wine. Some opinions say that because Xieng Khouang is located in the highlands, there are two distinct seasons, the rainy season to rot the soil, and the dry season to the point of crippling, so the ancients made these giant jars to store water... Even the material used to make these jars is also controversial. Some people say they are made from limestone, others say they are made from laterite and marble mixed with special ingredients from ancient times, now lost. Answering these questions, Mr. Buaxo Minh-khamdeng, Deputy Director of the Department of Information - Culture Xieng Khouang province said that the first person to discover the Plain of Jars and conduct the most comprehensive survey, research, and listing of artifacts was the French archaeologist M. Magdalene Co. -la-ni belongs to the Institute of the Far East. In 1930, she and her research team excavated the Plain of Jars area and discovered a cave with relics including human bones and ashes, jewelry... She theorized that each jar was a sarcophagus to bury the dead. However, after 80 years since Ms. Magdalene proposed this hypothesis, although there have been many other excavations, the secret of the Plain of Jars is still a problem that has not had a common answer among scientists. learn. However, one thing is certain: the legends about the Plain of Jars help the number of tourists visiting Xieng Khouang increase, in recent years it has increased steadily by about 25%/year... Mr. Buaxo was right. When I asked Ms. Hindo, a tourist from the Netherlands who was on the Plain of Jars, what brought her to this field, she said, "The Plain of Jars brings me Feeling very interesting because of the legends about the field, where did those jars come from, why are they located here. It is also a place that makes us feel sad when bomb craters mixed with jars remind us of war. All of these things make the Plain of Jars attractive." For Vietnamese tourists who come to the Plain of Jars, they not only come to see the legends, but also want to witness with their own eyes the once extremely fierce battlefield in the resistance war against American imperialism, where there were Tens of thousands of Vietnamese volunteer soldiers and Lao soldiers heroically sacrificed their lives to protect this land. Mr. Nguyen Le Quang Anh, a tourist from Ho Chi Minh City said: "Since I was little, I have heard about the Plain of Jars and dreamed of visiting this place once. In addition to wanting to understand more about Lao culture, I also wanted to witness with my own eyes the famous fierce Plain of Jars battlefield in the past, where Lao and Vietnamese soldiers stood side by side so that our young generation could have today". Currently, the Plain of Jars is being researched and re-surveyed by experts from the UNESCO Organization, marking all the jars so that they can become a world cultural heritage - a stone heritage on the roof of the house. Indochina. CHAU HUONG
NASA: NUÔI DƯỠNG CÔNG NGHỆ AI TỪ NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ VỀ CÔNG NGHỆ Ở THUNG LŨNG SILICON Tác giả: Disha Sinha NASA đã bắt đầu nuôi dưỡng các công nghệ AI [1], từ nhiều gã khổng lồ công nghệ ở Thung lũng Silicon như Google, IBM và Intel để nâng cao hơn nữa trong khoa học vũ trụ. NASA đang tập trung vào việc nâng cao tiền kiến để nghiên cứu và tìm hiểu thêm về sự sống ngoài không gian với Trí tuệ nhân tạo trong một tương lai gần. Tận dụng Trí tuệ nhân tạo có thể cung cấp một số dữ liệu chưa biết tuyệt vời để dự đoán chính xác hành vi của vũ trụ. NASA có thể sử dụng một số chức năng thông minh như nhận dạng hình ảnh và nhiều chức năng khác thông qua các kính viễn vọng và đài quan sát trong tương lai. Những gã khổng lồ công nghệ ở Thung lũng Silicon nổi tiếng thế giới với sự đổi mới không ngừng Trí tuệ nhân tạo để nâng cao hiệu quả và hiệu quả hệ thống làm việc truyền thống. Vì vậy,NASA đang hợp tác với các công ty danh tiếng này để áp dụng các thuật toán học máy tiên tiến nhằm giải quyết các vấn đề phổ quát phức tạp. NASA sở hữu Phòng thí nghiệm Phát triển Biên giới [2], để đổi mới các công nghệ AI tiên tiến mới bằng cách ghép nối các sinh viên khoa học và kỹ thuật máy tính với các nhà đổi mới chuyên nghiệp từ các công ty công nghệ tiên phong. Google, Intel và IBM đang đóng góp nhiều tổ hợp phần cứng, tài nguyên kỹ thuật, tài trợ cũng như các thuật toán máy học để phát hiện tiểu hành tinh, hành tinh hoặc bất kỳ hoạt động bất thường nào khác trong vũ trụ. Một nhóm của FDL đã phát triển một công nghệ AI để nghiên cứu bầu khí quyển của các ngoại hành tinh. Google đã hỗ trợ mạng nơ-ron từ Google Cloud để giải quyết các vấn đề phức tạp trong một khoảng thời gian ngắn. Một nhóm khác đã xây dựng một công nghệ AI để tạo ra các mô hình 3D của các tiểu hành tinh với hình dạng, kích thước chính xác và các thông tin chi tiết khác. Điều này đã giúp NASA phát hiện ra hành vi của các tiểu hành tinh đối với Trái đất. Google đã hoàn thành tám dự án bằng cách tận dụng Trí tuệ nhân tạo trong năng suất của NASA. IBM, SETI và Lockheed Martin đã giúp NASA phát triển công nghệ AI để điền vào dữ liệu còn thiếu từ một cảm biến bị hỏng. Cảm biến này đã ngừng cung cấp dữ liệu thời gian thực cần thiết về mức bức xạ EUV. Do đó, chương trình máy tính của IBM có thể phân tích dữ liệu từ các thiết bị SDO khác để phát hiện mức bức xạ EUV một cách hiệu quả. NASA cũng đã làm việc với Microsoft, để phát triển phần mềm được gọi là OnSight cho phép các nhà khoa học làm việc trên sao Hỏa trong một mô hình ảo. Nó sử dụng dữ liệu thực tế của Rover để xây dựng một môi trường ảo của Sao Hỏa để khám phá thêm. Safari [3] đã cung cấp khóa đào tạo về Tiêu chuẩn mã hóa và mã hóa an toàn cho các nhà phát triển hệ thống không gian và mặt đất của NASA để điều hướng thông qua sách và các khóa học video về việc triển khai các công nghệ AI trong việc phát triển hệ thống phần mềm an toàn trong thư viện Safari. NASA đã chọn SpaceX, Blue Origin và Lockheed Martin để tăng cường hoạt động của tàu vũ trụ trong điều kiện nhiệt độ rất cao để hạ cánh tàu vũ trụ theo phương thẳng đứng trên mặt trăng. Blue Origin đang nghiên cứu nhằm tạo ra một hệ thống định vị với công nghệ AI để hạ cánh an toàn và chính xác tại một loạt địa điểm cụ thể. SpaceX tập trung vào công nghệ AI để di chuyển tên lửa đẩy từ phương tiện này sang phương tiện khác theo quỹ đạo an toàn. Những đột phá nhanh chóng của AI đã cung cấp cho Khoa học Dữ liệu để nhìn thấu không gian với dữ liệu vệ tinh cũng như các mô phỏng máy tính tiên tiến. Các thuật toán học máy này đang đồng hành cùng các phi hành gia để thực hiện các nhiệm vụ không gian thành công trong một khoảng thời gian giới hạn. Có thể dễ dàng nghiên cứu và quan sát mảng không gian rộng lớn với việc triển khai AI trong các hệ thống truyền thống của NASA. AI và Người máy có thể cùng nhau chế tạo nhiều robot, để giúp NASA khám phá không gian bên ngoài một cách dễ dàng bằng cách tránh các mảnh vỡ không gian mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của con người. Bảo Nguyên (Chuyển ngữ & chú thích) Chú thích: Nhan đề bài viết bằng tiếng Anh: NASA: Nurturing AI Technologies from Silicon Valley Tech Giants , tác giả: Disha Sinha , cập nhật ngày 11 tháng 7 năm 2021. [1] AI là viết tắt hai chữ Artificial Intelligence = Trí tuệ Nhân tạo. [2] Tên tiếng Anh: Frontier Development Lab, viết tắt FDL. [3] Safari là một trình duyệt website do Apple tạo ra dựa trên công nghệ Webkit.
NASA: NURTURE AI TECHNOLOGY FROM TECHNOLOGY GIANTS IN SILICON VALLEY Author: Disha Sinha NASA has begun nurturing AI technologies [1], from many Silicon Valley tech giants such as Google, IBM, and Intel to further advance space science. NASA is focusing on advancing the frontier to research and learn more about life in space with Artificial Intelligence in the near future. Leveraging Artificial Intelligence can provide some amazing unknown data to accurately predict the behavior of the universe. NASA can use some smart functions like image recognition and many more through future telescopes and observatories. Silicon Valley tech giants are world-famous for their constant innovation in Artificial Intelligence to improve the efficiency and effectiveness of traditional work systems. So, NASA is partnering with these reputable companies to apply advanced machine learning algorithms to solve complex universal problems. NASA houses the Frontier Development Laboratory [2], to innovate new advanced AI technologies by pairing computer science and engineering students with professional innovators from public companies. pioneering technology. Google, Intel and IBM are contributing multiple combinations of hardware, engineering resources, funding as well as machine learning algorithms to detect asteroids, planets or any other unusual activity in the universe. An FDL team has developed an AI technology to study the atmospheres of exoplanets. Google has enabled neural networks from Google Cloud to solve complex problems in a short amount of time. Another team built an AI technology to create 3D models of asteroids with precise shapes, sizes, and other details. This helped NASA discover the behavior of asteroids towards Earth. Google has completed eight projects leveraging Artificial Intelligence in NASA productivity. IBM, SETI and Lockheed Martin helped NASA develop AI technology to fill in missing data from a broken sensor. This sensor stopped providing essential real-time data on EUV radiation levels. IBM's computer program can therefore analyze data from other SDO devices to effectively detect EUV radiation levels. NASA has also worked with Microsoft, to develop software called OnSight that allows scientists to work on Mars in a virtual model. It uses the Rover's real-world data to build a virtual environment of Mars for further exploration. Safari [3] has provided training on the Secure Encryption and Encryption Standard for NASA space and ground systems developers to navigate through books and video courses on implementing AI technology in developing safe software systems in the Safari library. NASA selected SpaceX, Blue Origin and Lockheed Martin to enhance spacecraft operations in very high temperatures to land spacecraft vertically on the moon. Blue Origin is working to create a navigation system with AI technology to land safely and accurately at a series of specific locations. SpaceX focuses on AI technology to move boosters from one vehicle to another in a safe orbit. Rapid breakthroughs in AI have provided Data Science with insight into space with satellite data as well as advanced computer simulations. These machine learning algorithms are accompanying astronauts to carry out successful space missions within a limited period of time. Large arrays of space can be easily studied and observed with the implementation of AI in traditional NASA systems. AI and Robotics can together build many robots, to help NASA explore outer space easily by avoiding space debris without any human intervention. Bao Nguyen (Translation & caption) Note: Title of article in English: NASA: Nurturing AI Technologies from Silicon Valley Tech Giants , author: Disha Sinha , updated July 11, 2021. [1] AI is a two-letter abbreviation Artificial Intelligence = Artificial Intelligence. [2] English name: Frontier Development Lab, abbreviated FDL. [3] Safari is a website browser created by Apple based on Webkit technology.
Tàu Trung Quốc sẽ lấy mẫu vật vùng tối Mặt Trăng năm 2024 Trung Quốc đang chuẩn bị phóng tàu vũ trụ Hằng Nga 6 tới vùng trũng Nam Cực – Aitken ở vùng tối của Mặt Trăng để mang mẫu đất đá về Trái Đất. Vào tháng 11 năm ngoái, Tàu Hằng Nga 5 của Trung Quốc đã thu thập khoang hồi quyển chứa mẫu vật có thể là mẫu đá Mặt Trăng niên đại nhỏ nhất từ trước tới nay. Hiện nay, tàu dự phòng cho nhiệm vụ đó là Hằng Nga 6 đang chuẩn bị cho nỗ lực lấy mẫu vật khó khăn hơn ở vùng tối của Mặt Trăng năm 2024. Hu Hao, kỹ sư trưởng tại Trung tâm kỹ thuật vũ trụ và khám phá Mặt Trăng Trung Quốc, thông báo tàu thăm dò Hằng Nga 6, bao gồm tàu quay quanh quỹ đạo, trạm đổ bộ, phương tiện hạ cánh xuống Mặt Trăng và khoang hồi quyển, sẽ nhắm tới vùng trũng Nam Cực – Aitken (SPA). Vùng trũng SPA là miệng hố va chạm cổ đại khổng lồ có đường kính khoảng 2.500 km, chiếm gần 1/4 vùng tối của Mặt Trăng. Miệng hố va chạm này được đánh giá là lâu đời nhất trên Mặt Trăng, chứa manh mối quan trọng về lịch sử của nó và hệ Mặt Trời . Trước đây, Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ từng đề xuất nhiệm vụ tương tự ở vùng trũng SPA như ưu tiên nghiên cứu trong chương trình Vision and Voyages for Planetary Science vào giai đoạn 2013 – 2022. Trạm đổ bộ Hằng Nga 4 của Trung Quốc và robot tự hành Thỏ Ngọc 2 lần đầu tiên hạ cánh ở vùng tối của Mặt Trăng năm 2019. Hiện nay, chúng đang khám phá và truyền dữ liệu từ khu vực hạ cánh ở miệng hố Von Kármán bên trong vùng trũng SPA. Nhưng việc phân tích mẫu đá từ khu vực này trên Trái Đất sẽ giúp xác định niên đại của miệng hố va chạm, cung cấp hiểu biết về lịch sử hình thành Mặt Trăng. Nhà chức trách Trung Quốc chưa tiết lộ địa điểm hạ cánh chính xác bên trong vùng trũng SPA trải dài từ miệng hố Aitken ở 18 độ vĩ nam tới Cực Nam của Mặt Trăng. Nhiệm vụ Hằng Nga 6 sẽ mang theo nhiều trang bị từ các đối tác quốc tế. Pháp sẽ cung cấp máy dò mang tên DORN để nghiên cứu nguyên tố radon và quá trình nó thoát ra từ tầng phong hóa trên Mặt Trăng. Viện Vật lý Hạt nhân Quốc gia Italy (INFN) sẽ cung cấp thiết bị phản xạ laser ngược, dùng để phản chiếu ánh sáng trở lại nguồn của nó, cho phép các nhà khoa học đo thời gian của hành trình và quy đổi thông tin thành khoảng cách chính xác. Một thiết bị khác hợp tác giữa Trung Quốc và Nga sẽ tìm hiểu khả năng tồn tại băng chứa nước trên bề mặt trong khi đối tác Thụy Điển sẽ tập trung vào phát hiện ion âm. Hằng Nga 6 là phần đầu trong dự án hợp tác với Nga để thiết lập Trạm nghiên cứu Mặt Trăng quốc tế. Vùng tối của Mặt Trăng không bao giờ quay về phía Trái Đất, do đó tàu Hằng Nga 6 sẽ cần vệ tinh chuyển tiếp để liên lạc với Trái Đất. Vệ tinh Ô Thước đã đảm nhận vai trò này trong nhiệm vụ Hằng Nga 4 và có thể hỗ trợ cả Hằng Nga 6. An Khang (Theo Space )
The Chinese ship will take samples from the dark side of the Moon in 2024 China is preparing to launch the Chang'e 6 spacecraft to the Antarctic-Aitken depression in the dark side of the Moon to bring rock and soil samples back to Earth. In November last year, China's Chang'e 5 probe collected a recirculation chamber containing what may be the smallest dated lunar rock sample ever. Currently, the backup spacecraft for that mission, Chang'e 6, is preparing for a more difficult sample retrieval effort on the dark side of the Moon in 2024. Hu Hao, chief engineer at the China Lunar Exploration and Space Engineering Center, announced the Chang'e 6 probe, which includes an orbiter, lander, lunar landing vehicle and gyrospheric chamber, will target the Antarctica–Aitken depression (SPA). The SPA depression is a giant ancient impact crater with a diameter of about 2,500 km, accounting for nearly 1/4 of the dark side of the Moon. This impact crater is considered the oldest on the Moon, containing important clues about its history and solar system . Previously, the American Academy of Sciences proposed a similar mission in the SPA basin as a research priority in the Vision and Voyages for Planetary Science program in the period 2013 - 2022. China's Chang'e 4 landing station and the Jade Rabbit 2 rover first landed on the dark side of the Moon in 2019. Currently, they are exploring and transmitting data from the landing area in the Von Kármán crater inside the SPA depression. But analyzing rock samples from this area on Earth will help determine the age of the impact crater, providing insight into the history of the formation of the Moon. Chinese authorities have not revealed the exact landing site within the SPA depression that stretches from the Aitken crater at 18 degrees south latitude to the Moon's South Pole. The Chang'e 6 mission will carry many equipment from international partners. France will provide a detector called DORN to study the element radon and the process by which it escapes from the weathering layer on the Moon. The Italian National Institute of Nuclear Physics (INFN) will provide the laser retroreflector, which reflects light back to its source, allowing scientists to measure the time of the journey and convert the information. to the exact distance. Another joint device between China and Russia will explore the possibility of water ice on the surface while the Swedish partner will focus on negative ion detection. Chang'e 6 is the first part of a cooperative project with Russia to establish an International Lunar Research Station. The dark side of the Moon never turns toward Earth, so Chang'e 6 will need a relay satellite to communicate with Earth. The Wushuoc satellite took on this role during the Chang'e 4 mission and could support Chang'e 6 as well. An Khang (According to Space )
Bước nhảy vọt của NASA trong khám phá sao Hỏa NASA đã có những bước nhảy vọt trong khám phá sao Hỏa kể từ khi tàu thám hiểm đầu tiên đến hành tinh đỏ 24 năm trước. Vào ngày 4.7.1997, sứ mệnh Pathfinder của NASA đã hạ cánh xuống sao Hỏa, đưa một tàu đổ bộ cùng tên và một tàu thám hiểm tự hành nhỏ tên là Sojourner – chiếc tàu có bánh đầu tiên của NASA – lên bề mặt hành tinh đỏ. Pathfinder là sứ mệnh đầu tiên của NASA đến được sao Hỏa thành công kể từ sau hai tàu đổ bộ/quỹ đạo Viking 1 và Viking 2 vào giữa những năm 1970, và thành công của nó đã giúp mở đường cho một cuộc khai phá hành tinh đỏ của các tàu thăm dò. Trong hơn hai thập kỷ kể từ đó, 10 tàu thăm dò khác của NASA đã đến được sao Hỏa và 7 trong số này vẫn hoạt động cho đến ngày nay. Michael Meyer, nhà khoa học hàng đầu của Chương trình Thám hiểm Sao Hỏa của NASA, cho biết: “Pathfinder đã khởi xướng hơn hai thập kỷ thám hiểm sao Hỏa liên tục, đưa chúng ta đến ngưỡng trả về mẫu vật và khả năng có con người trên hành tinh đầu tiên ngoài Trái đất ”. Pathfinder được phóng vào ngày 4.12.1996 và đến hành tinh đỏ sau hành trình 8 tháng. Sau khi tàu đổ bộ hạ cánh, robot thám hiểm tự hành Sojourner 6 bánh, có kích thước bằng lò vi sóng, đã lăn xuống một đoạn đường dốc và chạm vào vùng đất đỏ trên sao Hỏa. Các hình ảnh của tàu đổ bộ và tàu thám hiểm đã thu về 200 triệu lượt truy cập trên mạng Internet vẫn còn non trẻ từ ngày 4-8.7.1997 – một kỷ lục về lưu lượng truy cập vào thời điểm đó theo các quan chức NASA. Một phần của bức tranh toàn cảnh năm 1997 từ một máy ảnh trên tàu đổ bộ Pathfinder của NASA cho thấy Sojourner có kích thước bằng lò vi sóng bên cạnh một tảng đá có tên “Yogi”. Ảnh: NASA Tàu đổ bộ Pathfinder được thiết kế để hoạt động trong 1 tháng và Sojourner chỉ trong 1 tuần. Nhưng cả hai robot vẫn tiếp tục hoạt động trong 3 tháng, thu thập dữ liệu về bầu khí quyển và khí hậu của sao Hỏa, cũng như địa chất của hành tinh đỏ. Mặc dù sứ mệnh Pathfinder trị giá 264 triệu USD chủ yếu là một cuộc trình diễn công nghệ, nhưng đã giúp mở ra một kỷ nguyên mới của những nỗ lực khám phá sao Hoả tương đối rẻ và phát triển nhanh chóng. “Chúng tôi cần phát minh hoặc phát minh lại 25 công nghệ cho sứ mệnh này trong vòng chưa đầy 3 năm và chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi vượt quá giới hạn chi phí, sứ mệnh sẽ bị hủy bỏ” – giám đốc hệ thống bay Pathfinder và phó giám đốc dự án Brian Muirhead của Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực NASA cho biết trong cùng một tuyên bố. “Tất cả những ai tham gia dự án sao Hoả Pathfinder đều cảm thấy chúng tôi đã làm được điều gì đó phi thường” – Muirhead nói thêm. NASA đã sử dụng lại những công nghệ mới này – bao gồm Sojourner, máy tính tiên tiến và hệ thống hạ cánh bằng túi khí – trong sứ mệnh thám hiểm tiếp theo, đưa cặp song sinh cỡ xe golf Spirit và Opportunity đến hành tinh đỏ. Spirit và Opportunity hạ cánh cách nhau vài tuần vào tháng 1.2004 và nhanh chóng bắt đầu tìm kiếm các dấu hiệu của nước trong quá khứ trên sao Hoả. Cả hai robot đã tìm thấy rất nhiều bằng chứng như vậy, sau đó tiếp tục vượt xa thời hạn 3 tháng của chúng: Spirit ngừng giao tiếp với Trái đất vào tháng 3.2010, trong khi Opportunity vẫn đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. Các tàu thám hiểm khác của NASA đã đến được sao Hỏa sau Pathfinder là tàu đổ bộ Phoenix và tàu thám hiểm Curiosity, lần lượt bị hạ cánh vào tháng 5.2008 và tháng 8.2012; Global Surveyor (tháng 9.1997); Odyssey (tháng 10.2001); MRO (tháng 3.2006); MAVEN (tháng 9.2014); Insight (tháng 11.2018); Perseverance mang theo trực thăng Ingenuity (tháng 2.2021). Tàu Perseverance trên hành tinh đỏ. Ảnh: NASA Hai sứ mệnh hành tinh đỏ khác của NASA, Tàu quỹ đạo khí hậu sao Hỏa và Tàu đổ bộ địa cực sao Hỏa, được phóng vào cuối những năm 1990 nhưng không đến đích thành công. Các tàu Opportunity, Curiosity, Odyssey, MRO, MAVEN, Insight và Perseverance vẫn đang hoạt động cho đến ngày nay. Hiện trên sao Hoả còn có các tàu quỹ đạo/đổ bộ/thám hiểm tự hành của Châu Âu, Ấn Độ, UAE, Trung Quốc. NGỌC VÂN
NASA's leap in Mars exploration NASA has made great leaps in discovery Mars since the first rover reached the red planet 24 years ago. On July 4, 1997, Pathfinder's mission NASA landed on Mars, sending a lander of the same name and a small rover named Sojourner – NASA's first wheeled craft – to the surface of the red planet. Pathfinder was NASA's first mission to successfully reach Mars since the Viking 1 and Viking 2 landers/orbiters in the mid-1970s, and its success helped pave the way for further exploration. red crystals of the probes. In the more than two decades since, 10 other NASA probes have reached Mars, and seven of these remain operational today. “Pathfinder initiated more than two decades of continuous Mars exploration, bringing us to the threshold of sample return and the possibility of humans on the first outer planet Earth ”. Pathfinder was launched on December 4, 1996 and arrived at the red planet after an eight-month journey. After the lander landed, the six-wheeled, microwave-sized Sojourner rover rolled down a ramp and touched the red soil of Mars. Images of the lander and rover racked up 200 million hits on the still-young Internet between July 4 and 8, 1997 — a traffic record at the time, according to officials. NASA. Part of a 1997 panorama from a camera on NASA's Pathfinder lander shows the microwave-sized Sojourner next to a rock named "Yogi." Photo: NASA The Pathfinder lander is designed to operate for 1 month and the Sojourner for only 1 week. But both robots continued to operate for three months, collecting data on the Martian atmosphere and climate, as well as the red planet's geology. Although the $264 million Pathfinder mission is primarily a technology demonstration, it has helped usher in a new era of relatively cheap and rapidly evolving Mars exploration efforts. “We needed to invent or re-invent 25 technologies for this mission in less than 3 years, and we knew that if we exceeded the cost limit, the mission would be canceled” – system manager Pathfinder flight and NASA Jet Propulsion Laboratory deputy project manager Brian Muirhead said in the same statement. “Everyone involved in the Mars Pathfinder project feels we have done something extraordinary,” Muirhead added. NASA reused these new technologies – including Sojourner, advanced computers and airbag landing systems – in its next exploration mission, sending golf cart-sized twins Spirit and Opportunity to the red planet . Spirit and Opportunity landed within weeks of each other in January 2004 and quickly began searching for signs of past water on Mars. Both robots found plenty of such evidence, then continued far beyond their three-month deadlines: Spirit stopped communicating with Earth in March 2010, while Opportunity was still going strong until Nowadays. Other NASA probes that have reached Mars after Pathfinder are the Phoenix lander and the Curiosity rover, which landed in May 2008 and August 2012, respectively; Global Surveyor (September 1997); Odyssey (October 2001); MRO (March 2006); MAVEN (September 2014); Insight (November 2018); Perseverance carries the Ingenuity helicopter (February 2021). Perseverance spacecraft on the red planet. Photo: NASA NASA's two other red planet missions, the Mars Climate Orbiter and the Mars Polar Lander, were launched in the late 1990s but did not reach their destinations successfully. The Opportunity, Curiosity, Odyssey, MRO, MAVEN, Insight and Perseverance rovers are still operating today. Currently on Mars there are also orbiters/landers/autonomous explorers from Europe, India, UAE, and China. NGOC VAN
Người phụ nữ 82 tuổi sẽ đồng hành cùng Jeff Bezos lên vũ trụ: Cái giá phải trả là 4 lần bị từ chối và 50 năm chờ đợi! Không có khối tài sản tỷ đô cũng không có mối quan hệ, người phụ nữ 82 tuổi này đã hoàn toàn thuyết phục ông chủ Amazon bởi lý do này. Sau nửa thế kỷ chờ đợi, Wally Funk cuối cùng cũng thực hiện được ước mơ bay vào vũ trụ của mình. Bà được đào tạo cho chương trình Sao Thủy của NASA nhưng bị từ chối liên tiếp bốn lần. Giờ đây, ở độ tuổi 82, Wally Funk được chọn bởi người đàn ông giàu nhất thế giới. Những người tham gia chuyến du hành bao gồm Jeff Benzos, anh trai của ông, bà Wally và một người may mắn thắng cuộc chưa rõ danh tính. Tất cả sẽ khởi hành bay vào quỹ đạo vào ngày 20 tháng 7. Thông tin được Blue Origin công bố vào ngày 2 tháng 7 vừa qua. Người phụ nữ 82 tuổi này sẽ tham gia trên chuyến du hành New Shepard với tư cách là “khách mời danh dự”. Thông tin này được công bố trên Instagram của Bezos. Bà Wally Funk đã tình nguyện là thành viên của chương trình “Mercury 13”, hay còn được gọi là “Chương trình Phụ nữ trong Không gian”, vào tháng 2 năm 1961. Khi ấy bà vừa tròn 22 tuổi. Đây là một hoạt động do tư nhân tài trợ nhằm đào tạo nữ phi hành gia trong các chương trình không gian trong tương lai của NASA. Theo chia sẻ, bà đã bị mê hoặc bởi máy bay từ khi còn là một đứa trẻ, và đã có bằng phi công khi còn là một thiếu niên. Năm 1960, bà trở thành nữ huấn luyện viên bay đầu tiên tại trường đào tạo của mình ở Oklahoma. Có 13 phụ nữ tham gia chương trình đã trải qua tất cả các khóa đào tạo và thử nghiệm được NASA lựa chọn cho chương trình tàu vũ trụ Mercury. Và Wally Funk đã trở thành người phụ nữ trẻ nhất tốt nghiệp chương trình đào tạo. Không những vậy, theo thông tin được tiết lộ, bà “đã làm tốt hơn và hoàn thành công việc nhanh hơn bất kỳ người đàn ông nào”. Những buổi huấn luyện khắc nghiệt nhằm đẩy những người tham gia đến tình trạng kiệt sức; vì không ai có thể biết trong không gian cơ thể con người sẽ bị tác động như thế nào. Việc rèn luyện các phi hành gia ở trạng thái sức khỏe tốt nhất là điều kiện bắt buộc để tiến hành chuẩn bị bay vào vũ trụ. Bà thậm chí đã dành 10 giờ 35 phút bên trong một bể khử cảm giác trong một lần thử nghiệm Mercury 13, kết quả vượt trội hơn nhiều so với phi hành gia nổi tiếng John Glenn. Khi đã ngoài 40 tuổi, bà vẫn mong muốn được bay vào vũ trụ. Wally Funk đã nộp đơn vào đoàn phi hành gia của NASA bốn lần, nhưng cơ quan này yêu cầu các phi hành gia phải có bằng kỹ sư, và Funk không đáp ứng được điều kiện này. Funk tiếp tục trở về với vị trí thanh tra an toàn của Cục Hàng không Liên bang, là người phụ nữ đầu tiên đảm nhận vai trò như vậy. Bà Funk nhớ lại: “Tôi đã đến NASA bốn lần và nói rằng ‘Tôi muốn trở thành một phi hành gia’, tôi có thể đảm nhiệm vị trí này. Không có gì có thể cản đường tôi. Nhưng họ đã đáp lại tôi rằng ‘Wally, bạn là một cô gái, bạn không thể làm điều đó’. Tôi đã nói, ‘Không quan trọng bản thân là ai, chúng ta đều có thể làm được nếu mình muốn’ và tôi thích làm những điều mà trước đây chưa ai từng làm”. Bà đã có nhiều kinh nghiệm lái máy bay, tham gia hơn 19.600 giờ bay và dạy hơn 3.000 người cách lái máy bay tư nhân và thương mại. Nhưng bà Funk sẽ không nhất thiết phải sử dụng tất cả những kinh nghiệm đó để khi điều khiển chiếc New Shepard của Blue Origin. Hệ thống tên lửa và tàu vũ trụ tự động hoàn toàn được thiết kế để cho phép hầu như bất kỳ ai cũng có thể trở thành phi hành gia chỉ sau vài giờ được hướng dẫn và huấn luyện an toàn tại các cơ sở của Blue Origin ở Tây Texas. Theo thông tin được chia sẻ năm 2019 của Wally Funk trên The Guardian , bà trước đây đã mua vé lên máy bay vũ trụ dưới quỹ đạo do công ty Virgin Galactic do Richard Branson hậu thuẫn và là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Blue Origin. Hiện tại nó vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm của chương trình và chưa công bố ngày khởi hành chuyến bay thương mại đầu tiên của mình. Các hành khách của Blue Origin sẽ được đào tạo vài ngày trước ngày trọng đại và hứa hẹn sẽ thu hút sự quan tâm của công chúng thế giới. Nguồn: CNN, The Atlantic Thùy Anh Theo Nhịp sống kinh tế
The 82-year-old woman will accompany Jeff Bezos to space: The price to pay is 4 rejections and 50 years of waiting! With no billion-dollar assets or connections, this 82-year-old woman completely convinced Amazon's boss for this reason. After half a century of waiting, Wally Funk finally realized his dream of flying into space. She trained for Mercury's program NASA but was rejected four times in a row. Now, at the age of 82, Wally Funk is chosen by the richest man in the world. Participants on the trip include Jeff Benzos, his brother, Mrs. Wally and an unknown lucky winner. All will depart to orbit on July 20. The information was announced by Blue Origin on July 2. The 82-year-old woman will join the New Shepard cruise as a "guest of honor." This information was published on Bezos' Instagram. Ms. Wally Funk volunteered as a member of the “Mercury 13” program, also known as the “Women in Space Program,” in February 1961. She was just 22 years old at the time. This is a privately funded operation aimed at training female astronauts in NASA's future space programs. According to her, she has been fascinated by airplanes since she was a child, and got her pilot's license when she was a teenager. In 1960, she became the first female flight instructor at her training school in Oklahoma. There were 13 women in the program who went through all the training and testing selected by NASA for the Mercury spacecraft program. And Wally Funk became the youngest woman to graduate from the training program. Not only that, according to revealed information, she "did better and completed the job faster than any man". Harsh training sessions are intended to push participants to a state of exhaustion; Because no one can know how the human body will be affected in space. Training astronauts to be in the best health state is a mandatory condition to prepare to fly into space. She even spent 10 hours and 35 minutes inside a sensory deprivation tank during a Mercury 13 test, far surpassing that of famous astronaut John Glenn. When she was over 40 years old, she still wanted to fly into space. Wally Funk applied to join NASA's astronaut corps four times, but the agency required astronauts to have an engineering degree, and Funk did not meet this condition. Funk went on to return as a safety inspector for the Federal Aviation Administration, the first woman to hold such a role. “I went to NASA four times and said ‘I want to be an astronaut,’ I could handle the position,” Ms. Funk recalled. Nothing can stand in my way. But they responded to me saying 'Wally, you're a girl, you can't do that'. I said, 'It doesn't matter who we are, we can all do it if we want to' and I like to do things that no one has ever done before." She has extensive experience flying aircraft, participating in more than 19,600 flight hours and teaching more than 3,000 people how to fly private and commercial aircraft. But Ms. Funk won't necessarily use all that experience when piloting Blue Origin's New Shepard. The fully autonomous rocket and spacecraft system is designed to enable virtually anyone to become an astronaut after just a few hours of instruction and safety training at Blue Origin facilities in West Texas. According to information shared in 2019 by Wally Funk above The Guardian , she previously bought a ticket to a suborbital spaceplane operated by Richard Branson-backed company Virgin Galactic and a direct competitor of Blue Origin. It is currently still in the testing phase of the program and has not announced a departure date for its first commercial flight. Blue Origin passengers will receive training days before the big day and promises to attract the attention of the world's public. Source: CNN, The Atlantic Thuy Anh According to Economic Life
Nín thở trước những khoảnh khắc ngoạn mục nhìn từ vũ trụ được NASA ghi lại Dưới đây là những khoảnh khắc ấn tượng từ vũ trụ được NASA ghi lại dưới một góc nhìn hoàn toàn khác. Bức ảnh Trái Đất nhìn từ Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS) được một phi hành gia ghi lại. Quầng sáng màu cam bao gồm những dải sáng khuếch tán được tạo nên khi các nguyên tử va chạm với bầu khí quyển ở nơi giao nhau giữa Trái Đất và vũ trụ. Việc nghiên cứu về những quầng sáng này giúp các nhà khoa học hiểu hơn về mối liên hệ giữa thời tiết trên Trái Đất và trong vũ trụ. Một phi hành gia trên ISS đã chụp lại bức ảnh tàu con thoi Endeavour khi nó gần cập bến vào tháng 2/2010 trong chuyến bay thứ mười tới ISS. Hình ảnh núi lửa Raikoke nằm ở Thái Bình Dương trong đợt phun trào đầu tiên trong gần 100 năm đã được ghi lại ngày 22/6/2019 Khung cảnh Quebec, Canada nổi bật với những ngôi sao, mặt trăng và cực quang trong bức ảnh từ tháng 2/2012. Miệng hố Manicouagan ở phía dưới bên phải của bức ảnh được tạo nên khi một thiên thạch va vào Trái Đất cách đây 214 triệu năm. Được phóng lên năm 2003, Kính Thiên văn Không gian Spitzer của NASA đang di chuyển theo quỹ đạo trên Trái Đất gần 570 km. Năm 2007, nó đã ghi lại được hình ảnh Tinh vân Helix (hay còn gọi là “Mắt của Chúa”). Tinh vân này nằm trong chòm sao Bảo Bình nằm cách chúng ta 650 năm ánh sáng. Tháng 1/2019, NASA đã ghi lại hình ảnh phiến băng khổng lồ Brunt Ice Shelf ở Nam Cực khi nó chuẩn bị tách ra thành một tảng băng trôi với kích thước gấp 2 lần Thành phố New York. Vết nứt trên, nằm ở bên phải của bức ảnh được gọi là “vết nứt Halloween” khi nó lần đầu xuất hiện vào tháng 10/2016. Năm 2018, bức ảnh trung tâm Madagascar đã cho thay đổi của một khung cảnh rộng lớn trong khu vực này khi nhìn từ ISS. Hòn đảo lớn thứ tư thế giới này đang trải qua tình trạng chặt phá rừng nghiêm trọng bởi nhu cầu cần đến những tài nguyên độc đáo tại nơi này. Được chụp từ vệ tinh Landsat-8 vào tháng 6/2018, bức ảnh Biển Chukchi này cho thấy sự sinh sôi phát triển của những thực vật phù du nhiều màu sắc. Ở khoảng cách 400 km so với Trái Đất, các phi hành gia trên ISS có cơ hội ghi lại những thay đổi và những sự kiện trên hành tinh của chúng ta từ những góc nhìn độc đáo. Bức ảnh cực quang màu xanh lá cây trên được chụp vào tháng 8/2014. Hiện tượng cực quang xảy ra khi các hạt mang điện tích từ gió mặt trời va chạm với bầu khí quyển Trái Đất. Sự thay đổi về màu sắc trên sao Diêm Vương đã được tàu thăm dò New Horizons của NASA ghi lại năm 2015. Sao Diêm Vương có núi và đồng bằng với bầu trời xanh cùng với băng và tuyết đỏ. Được phi hành gia Thomas Pesquet của Cơ quan Vũ trụ châu Âu ghi lại năm 2017, hình ảnh này cho thấy con sông Dnieper dài gần 2.000 km đang bị đóng băng vào tháng 2. Dòng sông này chảy từ Nga ra Biển Đen. ISS quay quanh Trái Đất 16 lần/ngày và có thể quan sát từng sự thay đổi trên hành tinh của chúng ta. Hình ảnh trên cho thấy một hố đen siêu năng với khối lượng gấp 17 tỷ làn Mặt Trời được Kính Thiên văn Hubble của NASA và Kính thiên văn Gemini ở Hawaii phát hiện. Những hố đen này được cho là nằm trong những thiên hà rất lớn với những chòm sao tập trung đông đúc. Khu vực màu đen ở trung tâm chính là chân trời sự kiện, nơi mà ngay cả ánh sáng không thể thoát ra khỏi lực hấp dẫn vô cùng mạnh của hố đen. Trong khi đi bộ trong không gian để bảo trì ISS vào tháng 3/2019, phi hành gia Nick Hague đã chụp một bức ảnh selfie./.
Hold your breath at the breathtaking moments seen from space recorded by NASA Here are some impressive moments from space NASA Recorded from a completely different perspective. The photo of Earth seen from the International Space Station (ISS) was recorded by an astronaut. The orange halo consists of diffuse bands of light created when atoms collide with the atmosphere at the intersection of Earth and space. Studying these halos helps scientists better understand the relationship between weather on Earth and in space. An astronaut on the ISS took a photo of the space shuttle Endeavor as it neared docking in February 2010 during its tenth flight to the ISS. Image of Raikoke volcano located in the Pacific Ocean during the first eruption in nearly 100 years was recorded on June 22, 2019 A landscape of Quebec, Canada highlighted by stars, moons and aurora borealis in this photo from February 2012. The Manicouagan crater in the lower right of the photo was created when a meteorite hit Earth 214 million years ago. Launched in 2003, NASA's Spitzer Space Telescope is orbiting nearly 570 km above Earth. In 2007, it captured images of the Helix Nebula (also known as the “Eye of God”). This nebula is located in the constellation Aquarius, located 650 light years away from us. In January 2019, NASA recorded images of the giant Brunt Ice Shelf in Antarctica as it prepared to split into an iceberg twice the size of New York City. The crack above, located on the right side of the photo, was called the “Halloween crack” when it first appeared in October 2016. In 2018, photos of the center of Madagascar showed a change in the vast landscape in this area as seen from the ISS. The world's fourth largest island is experiencing severe deforestation due to demand for its unique resources. Taken from the Landsat-8 satellite in June 2018, this photo of the Chukchi Sea shows the proliferation of colorful phytoplankton. At a distance of 400 km from Earth, astronauts on the ISS have the opportunity to record changes and events on our planet from unique perspectives. The green aurora photo above was taken in August 2014. Auroras occur when charged particles from the solar wind collide with Earth's atmosphere. The color change on Pluto was recorded by NASA's New Horizons probe in 2015. Pluto has mountains and plains with blue skies and red ice and snow. Recorded by European Space Agency astronaut Thomas Pesquet in 2017, this image shows the nearly 2,000 km long Dnieper River freezing in February. This river flows from Russia to the Black Sea. The ISS orbits Earth 16 times a day and can observe every change on our planet. The image above shows a supermassive black hole with a mass 17 billion solar times discovered by NASA's Hubble Telescope and the Gemini Telescope in Hawaii. These black holes are thought to be located in very large galaxies with densely clustered constellations. The black area in the center is the event horizon, where even light cannot escape the black hole's extremely strong gravity. While walking in space to maintain the ISS in March 2019, astronaut Nick Hague took a selfie./.
Người đứng sau phép màu vaccine của Pfizer và Moderna Tiến sĩ Katalin Kariko là người đặt nền móng vaccine công nghệ mRNA, giúp nhiều quốc gia dần lật ngược tình thế trong đại dịch Covid-19. Lớn lên ở Hungary, bà Kariko là con gái của một người bán thịt. Dù suốt tuổi thơ chưa gặp nhà khoa học nào, bà lại khát khao trở thành một học giả. Bà chuyển đến Mỹ khi đang ở độ tuổi 20. Trong nhiều thập kỷ mày mò nghiên cứu, chưa từng tìm được một chỗ đứng, bà vẫn kiên trì bám vào “rìa” của giới học thuật. Bà di chuyển từ phòng thí nghiệm này sang phòng thí nghiệm khác, hợp tác với nhà khoa học này đến nhà khoa học khác, để được thỏa mãn đam mê nghiên cứu. Bà chưa bao giờ kiếm được hơn 60.000 USD một năm. Giờ đây, theo New York Times , Katalin Kariko – 66 tuổi, được các đồng nghiệp gọi trìu mến là Kati – nổi lên như một người hùng trong quá trình phát triển vaccine Covid-19 . Cùng với tiến sĩ Drew Weissman của Đại học Pennsylvania, bà Kariko đặt nền móng cho sự ra đời của hai loại vaccine Covid-19 do Pfizer/BioNTech và Moderna sản xuất. Đây là hai loại vaccine dựa trên công nghệ RNA, hay còn gọi là mRNA, loại công nghệ sinh học mà bà Kariko tập trung trong suốt nhiều năm trời. Bà tin rằng mRNA có thể được sử dụng để hướng dẫn các tế bào của cơ thể tạo ra một thứ gì đó. “Theo nghĩa tích cực, bà ấy bị ám ảnh bởi khái niệm RNA thông tin”, Tiến sĩ Anthony Fauci – giám đốc Viện Quốc gia về Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm – nói. Các loại vaccine của Pfizer/BioNTech và Moderna sử dụng công nghệ mRNA. Ảnh: Stat News. “Ngồi trên băng ghế dự bị” Tiến sĩ Kariko lớn lên ở thị trấn Kisujszallas của Hungary, lấy bằng Tiến sĩ tại Đại học Szeged, và nghiên cứu sau tiến sĩ cũng tại trường này. Năm 1985, khi chương trình nghiên cứu của trường gặp vấn đề tài chính, bà Kariko, cùng chồng cô và con gái 2 tuổi chuyển đến Philadelphia, Mỹ để tiếp tục nghiên cứu sau tiến sĩ ở Đại học Temple. Vì chính phủ Hungary khi đó chỉ cho phép mang theo 100 USD khi xuất cảnh, hai vợ chồng bà phải nhét trộm khoảng 1.246 USD vào con gấu bông của cô con gái Susan. Đó là thời điểm tiến sĩ Kariko bắt đầu nghiên cứu mRNA. Tuy nhiên, lúc này mọi thứ đều khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Câu hỏi mà bà luôn trăn trở là làm thế nào để tạo ra các phân tử RNA trong phòng thí nghiệm, hay đưa vào các tế bào của cơ thể. Năm 1989, bà nhận làm việc với tiến sĩ Elliot Barnathan, khi đó là bác sĩ tim mạch tại Đại học Pennsylvania. Đó là một vị trí khởi điểm – giáo sư nghiên cứu bậc một (research assistant professor) – và không phải là một vị trí dài hạn (tenure). Bà cũng không nhận được tiền trợ cấp. Hai người lên kế hoạch chèn mRNA vào các tế bào, khiến chúng sản sinh ra protein mới. Trong một thí nghiệm, họ hy vọng sẽ công nghệ này sẽ hướng dẫn các tế bào tạo ra một loại protein gọi là thụ thể urokinase. Nếu thí nghiệm có kết quả, họ sẽ phát hiện ra một loại protein mới. Gia đình tiến sĩ Kariko vào năm 1985. Ảnh: New York Times. “Hầu hết mọi người lúc đó đều cười nhạo chúng tôi”, tiến sĩ Barnathan nói. Vào ngày định mệnh ấy, hai nhà khoa học lượn lờ bên cạnh chiếc máy in kim tại căn phòng hẹp cuối hành lang. Máy đếm gamma – loại máy dùng để theo dõi phân tử phóng xạ, được gắn vào máy in – bắt đầu cho ra dữ liệu. Máy dò tìm thấy loại protein mới – được tạo ra bởi các tế bào mà các nhà nghiên cứu chưa từng nghĩ đến. Điều này có nghĩa mRNA có thể được sử dụng để chỉ đạo bất kỳ tế bào nào tạo ra loại protein theo ý muốn. “Tôi cảm thấy mình như một vị thần,” tiến sĩ Kariko nhớ lại. Bà và tiến sĩ Barnathan chìm đắm các ý tưởng. Họ có thể sử dụng mRNA để cải thiện mạch máu trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, hoặc thậm chí sử dụng quy trình này để kéo dài tuổi thọ của tế bào con người. Tuy nhiên, tiến sĩ Barnathan đã sớm rời bỏ vị trí này và nhận một công việc khác tại một công ty công nghệ sinh học. Tiến sĩ Kariko bị bỏ lại mà không có phòng thí nghiệm hay bất cứ sự hỗ trợ tài chính nào. “Họ mong đợi tôi sẽ nghỉ việc,” bà nói. Lúc đó, tiến sĩ David Langer – bác sĩ giải phẫu thần kinh đã từng làm việc với tiến sĩ Kariko – cho bà một cơ hội. “Anh ấy đã cứu tôi”, bà nói. Nhưng tiến sĩ Langer lại cho rằng chính tiến sĩ Kariko đã cứu ông khỏi vòng tròn lẩn quẩn. Bà Kariko giúp ông Langer nhận ra rằng quá trình nghiên cứu luôn khiến bản thân nhà khoa học nhận ra một điều gì đó, ngay cả khi đó là điều bản thân họ không muốn. Đó mới chính là ý nghĩa thực sự của việc nghiên cứu khoa học. “Các nhà khoa học giỏi luôn cố gắng chứng minh mình sai. Sự thiên tài của Kati nằm ở chỗ cô ấy luôn sẵn sàng chấp nhận thất bại và tiếp tục cố gắng, và có khả năng trả lời những điều mà một số người không đủ thông minh để hỏi”, ông Langer nói. Tiến sĩ Langer hy vọng sẽ sử dụng mRNA để điều trị cho những bệnh nhân hình thành cục máu đông sau khi phẫu thuật não, thường dẫn đến đột quỵ. Tuy nhiên, họ đã thất bại. Sau đó, họ thử nghiệm kỹ thuật này trên những con thỏ dễ bị đột quỵ, và lại thất bại tiếp. Tiến sĩ Langer sau đó rời trường đại học, và bà Kariko lại không có phòng thí nghiệm và không có đủ kinh phí để tiếp tục nghiên cứu. Cuộc gặp gỡ mang tính bước ngoặt Cuộc gặp tình cờ với Drew Weissman vào năm 1997, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Penn Medicine, đã thay đổi mọi thứ. Trong cuộc trò chuyện đó, tiến sĩ Weissman mong muốn tạo ra một loại vaccine chống lại HIV. “Tôi đã nói ‘Vâng, vâng, tôi có thể làm được’”, bà Kariko nhớ lại. “Tôi là một nhà khoa học mRNA, tôi có thể tạo ra bất cứ thứ gì với mRNA”. Sau nhiều năm, hai người đã tạo nên ý tưởng thêm pseudouridine trong tRNA – một dạng RNA khác trong cơ thể con người – vào mRNA nhằm tránh phản ứng của hệ thống miễn dịch. Điều đó có nghĩa là mRNA có thể thay đổi các chức năng của tế bào mà không gặp phải sự tấn công của hệ thống miễn dịch. “Chúng tôi bắt đầu đi xin tài trợ sau khi phát hiện ra ý tưởng này. Nhưng mọi người không quan tâm đến mRNA”, tiến sĩ Weissman nói. Các tạp chí khoa học hàng đầu từ chối công trình của họ. Khi nghiên cứu được công bố trên tạp chí Immunity , rất ít người chú ý đến nó. Trong suốt cả sự nghiệp nghiên cứu, bà Kariko chưa bao giờ nghĩ kế hoạch kiếm tiền, thành lập công ty và nhận bằng sáng chế mỗi khi có khám phá khoa học mới. Ảnh: Euronews. Tiến sĩ Weissman và tiến sĩ Kariko sau đó còn thử nghiệm tiêm mRNA cho khỉ để lấy erythropoietin – một loại protein kích thích cơ thể tạo ra các tế bào hồng cầu. Hai người họ cho rằng phương pháp tương tự có thể được sử dụng để thúc đẩy cơ thể tạo ra được loại thuốc có thành phần chính là protein (protein drug) – như insulin hoặc một số loại thuốc tiểu đường. Điều quan trọng, mRNA cũng có thể được sử dụng để tạo ra loại vaccine mới, không giống cách hoạt động của bất kỳ loại vaccine nào trước đây. Thay vì tiêm một phần virus vào cơ thể, các bác sĩ có thể tiêm mRNA, để mRNA chỉ dẫn các tế bào tạo ra virus bản sao không gây hại trong thời gian ngắn. “Chúng tôi đã nói chuyện với rất nhiều nhà đầu tư và công ty dược phẩm. Nhưng chẳng ai quan tâm”, tiến sĩ Weissman nói. “Không ai chịu lắng nghe chúng tôi”. Cuối cùng, hai công ty công nghệ sinh học chú ý đến điều này: Moderna (Mỹ) và BioNTech (Đức). Hai bên hợp tác với nhau và cùng tài trợ cho phòng thí nghiệm của tiến sĩ Weissman. Các thử nghiệm lâm sàng về vaccine mRNA được tiến hành, nhằm chế tạo nhiều loại vaccine mới chống lại cytomegalovirus hay virus Zika. Và rồi bây giờ là virus corona. Ngay sau khi các nhà khoa học Trung Quốc công bố trình tự gene của virus corona, khắp mọi nơi, các nhà nghiên cứu bắt tay vào cuộc đua sản xuất vaccine. BioNTech thiết kế vaccine mRNA trong vài giờ; Moderna thiết kế trong hai ngày. Việc thử nghiệm các loại vaccine trong một thời gian ngắn đòi hỏi nỗ lực rất lớn từ các bên liên quan. Nhưng tiến sĩ Kariko luôn vững niềm tin và không hề nghi ngờ điều này. Bà Kariko và ông Weissman vào ngày tiêm vaccine Covid-19. Ảnh: Penn Medicine. Vào ngày 8/11/2020, kết quả nghiên cứu đầu tiên của Pfizer/BioNTech cho thấy vaccine mRNA cung cấp khả năng miễn dịch mạnh mẽ chống lại virus corona. Vào khoảng khắc ấy, tiến sĩ Kariko quay sang nói với chồng duy nhất một câu: “Ồ, nó hoạt động kìa”. Để ăn mừng, bà ăn nguyên hộp đậu phộng phủ socola. Tiến sĩ Weissman ăn mừng sự kiện này với gia đình mình. Ông đã đặt bữa tối từ một nhà hàng của Italy. Trong sâu thẳm, ông từng rất sợ hãi. “Tôi có ước mơ là cùng với Kariko phát triển một thứ gì đó giúp ích cho mọi người”, tiến sĩ Weissman nói. “Giờ đây, ước mơ của tôi đã thành sự thật”. Tiến sĩ Kariko và tiến sĩ Weissman đã tiêm chủng vào ngày 18/12/2020 tại Đại học Pennsylvania. Vào thời khắc ấy, tiến sĩ Kariko đã rơi lệ. Phương Linh
Người đứng sau phép màu vaccine của Pfizer và Moderna Tiến sĩ Katalin Kariko là người đặt nền móng vaccine công nghệ mRNA, giúp nhiều quốc gia dần lật ngược tình thế trong đại dịch Covid-19. Lớn lên ở Hungary, bà Kariko là con gái của một người bán thịt. Dù suốt tuổi thơ chưa gặp nhà khoa học nào, bà lại khát khao trở thành một học giả. Bà chuyển đến Mỹ khi đang ở độ tuổi 20. Trong nhiều thập kỷ mày mò nghiên cứu, chưa từng tìm được một chỗ đứng, bà vẫn kiên trì bám vào “rìa” của giới học thuật. Bà di chuyển từ phòng thí nghiệm này sang phòng thí nghiệm khác, hợp tác với nhà khoa học này đến nhà khoa học khác, để được thỏa mãn đam mê nghiên cứu. Bà chưa bao giờ kiếm được hơn 60.000 USD một năm. Giờ đây, theo New York Times , Katalin Kariko – 66 tuổi, được các đồng nghiệp gọi trìu mến là Kati – nổi lên như một người hùng trong quá trình phát triển vaccine Covid-19 . Cùng với tiến sĩ Drew Weissman của Đại học Pennsylvania, bà Kariko đặt nền móng cho sự ra đời của hai loại vaccine Covid-19 do Pfizer/BioNTech và Moderna sản xuất. Đây là hai loại vaccine dựa trên công nghệ RNA, hay còn gọi là mRNA, loại công nghệ sinh học mà bà Kariko tập trung trong suốt nhiều năm trời. Bà tin rằng mRNA có thể được sử dụng để hướng dẫn các tế bào của cơ thể tạo ra một thứ gì đó. “Theo nghĩa tích cực, bà ấy bị ám ảnh bởi khái niệm RNA thông tin”, Tiến sĩ Anthony Fauci – giám đốc Viện Quốc gia về Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm – nói. Các loại vaccine của Pfizer/BioNTech và Moderna sử dụng công nghệ mRNA. Ảnh: Stat News. “Ngồi trên băng ghế dự bị” Tiến sĩ Kariko lớn lên ở thị trấn Kisujszallas của Hungary, lấy bằng Tiến sĩ tại Đại học Szeged, và nghiên cứu sau tiến sĩ cũng tại trường này. Năm 1985, khi chương trình nghiên cứu của trường gặp vấn đề tài chính, bà Kariko, cùng chồng cô và con gái 2 tuổi chuyển đến Philadelphia, Mỹ để tiếp tục nghiên cứu sau tiến sĩ ở Đại học Temple. Vì chính phủ Hungary khi đó chỉ cho phép mang theo 100 USD khi xuất cảnh, hai vợ chồng bà phải nhét trộm khoảng 1.246 USD vào con gấu bông của cô con gái Susan. Đó là thời điểm tiến sĩ Kariko bắt đầu nghiên cứu mRNA. Tuy nhiên, lúc này mọi thứ đều khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Câu hỏi mà bà luôn trăn trở là làm thế nào để tạo ra các phân tử RNA trong phòng thí nghiệm, hay đưa vào các tế bào của cơ thể. Năm 1989, bà nhận làm việc với tiến sĩ Elliot Barnathan, khi đó là bác sĩ tim mạch tại Đại học Pennsylvania. Đó là một vị trí khởi điểm – giáo sư nghiên cứu bậc một (research assistant professor) – và không phải là một vị trí dài hạn (tenure). Bà cũng không nhận được tiền trợ cấp. Hai người lên kế hoạch chèn mRNA vào các tế bào, khiến chúng sản sinh ra protein mới. Trong một thí nghiệm, họ hy vọng sẽ công nghệ này sẽ hướng dẫn các tế bào tạo ra một loại protein gọi là thụ thể urokinase. Nếu thí nghiệm có kết quả, họ sẽ phát hiện ra một loại protein mới. Gia đình tiến sĩ Kariko vào năm 1985. Ảnh: New York Times. “Hầu hết mọi người lúc đó đều cười nhạo chúng tôi”, tiến sĩ Barnathan nói. Vào ngày định mệnh ấy, hai nhà khoa học lượn lờ bên cạnh chiếc máy in kim tại căn phòng hẹp cuối hành lang. Máy đếm gamma – loại máy dùng để theo dõi phân tử phóng xạ, được gắn vào máy in – bắt đầu cho ra dữ liệu. Máy dò tìm thấy loại protein mới – được tạo ra bởi các tế bào mà các nhà nghiên cứu chưa từng nghĩ đến. Điều này có nghĩa mRNA có thể được sử dụng để chỉ đạo bất kỳ tế bào nào tạo ra loại protein theo ý muốn. “Tôi cảm thấy mình như một vị thần,” tiến sĩ Kariko nhớ lại. Bà và tiến sĩ Barnathan chìm đắm các ý tưởng. Họ có thể sử dụng mRNA để cải thiện mạch máu trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, hoặc thậm chí sử dụng quy trình này để kéo dài tuổi thọ của tế bào con người. Tuy nhiên, tiến sĩ Barnathan đã sớm rời bỏ vị trí này và nhận một công việc khác tại một công ty công nghệ sinh học. Tiến sĩ Kariko bị bỏ lại mà không có phòng thí nghiệm hay bất cứ sự hỗ trợ tài chính nào. “Họ mong đợi tôi sẽ nghỉ việc,” bà nói. Lúc đó, tiến sĩ David Langer – bác sĩ giải phẫu thần kinh đã từng làm việc với tiến sĩ Kariko – cho bà một cơ hội. “Anh ấy đã cứu tôi”, bà nói. Nhưng tiến sĩ Langer lại cho rằng chính tiến sĩ Kariko đã cứu ông khỏi vòng tròn lẩn quẩn. Bà Kariko giúp ông Langer nhận ra rằng quá trình nghiên cứu luôn khiến bản thân nhà khoa học nhận ra một điều gì đó, ngay cả khi đó là điều bản thân họ không muốn. Đó mới chính là ý nghĩa thực sự của việc nghiên cứu khoa học. “Các nhà khoa học giỏi luôn cố gắng chứng minh mình sai. Sự thiên tài của Kati nằm ở chỗ cô ấy luôn sẵn sàng chấp nhận thất bại và tiếp tục cố gắng, và có khả năng trả lời những điều mà một số người không đủ thông minh để hỏi”, ông Langer nói. Tiến sĩ Langer hy vọng sẽ sử dụng mRNA để điều trị cho những bệnh nhân hình thành cục máu đông sau khi phẫu thuật não, thường dẫn đến đột quỵ. Tuy nhiên, họ đã thất bại. Sau đó, họ thử nghiệm kỹ thuật này trên những con thỏ dễ bị đột quỵ, và lại thất bại tiếp. Tiến sĩ Langer sau đó rời trường đại học, và bà Kariko lại không có phòng thí nghiệm và không có đủ kinh phí để tiếp tục nghiên cứu. Cuộc gặp gỡ mang tính bước ngoặt Cuộc gặp tình cờ với Drew Weissman vào năm 1997, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Penn Medicine, đã thay đổi mọi thứ. Trong cuộc trò chuyện đó, tiến sĩ Weissman mong muốn tạo ra một loại vaccine chống lại HIV. “Tôi đã nói ‘Vâng, vâng, tôi có thể làm được’”, bà Kariko nhớ lại. “Tôi là một nhà khoa học mRNA, tôi có thể tạo ra bất cứ thứ gì với mRNA”. Sau nhiều năm, hai người đã tạo nên ý tưởng thêm pseudouridine trong tRNA – một dạng RNA khác trong cơ thể con người – vào mRNA nhằm tránh phản ứng của hệ thống miễn dịch. Điều đó có nghĩa là mRNA có thể thay đổi các chức năng của tế bào mà không gặp phải sự tấn công của hệ thống miễn dịch. “Chúng tôi bắt đầu đi xin tài trợ sau khi phát hiện ra ý tưởng này. Nhưng mọi người không quan tâm đến mRNA”, tiến sĩ Weissman nói. Các tạp chí khoa học hàng đầu từ chối công trình của họ. Khi nghiên cứu được công bố trên tạp chí Immunity , rất ít người chú ý đến nó. Trong suốt cả sự nghiệp nghiên cứu, bà Kariko chưa bao giờ nghĩ kế hoạch kiếm tiền, thành lập công ty và nhận bằng sáng chế mỗi khi có khám phá khoa học mới. Ảnh: Euronews. Tiến sĩ Weissman và tiến sĩ Kariko sau đó còn thử nghiệm tiêm mRNA cho khỉ để lấy erythropoietin – một loại protein kích thích cơ thể tạo ra các tế bào hồng cầu. Hai người họ cho rằng phương pháp tương tự có thể được sử dụng để thúc đẩy cơ thể tạo ra được loại thuốc có thành phần chính là protein (protein drug) – như insulin hoặc một số loại thuốc tiểu đường. Điều quan trọng, mRNA cũng có thể được sử dụng để tạo ra loại vaccine mới, không giống cách hoạt động của bất kỳ loại vaccine nào trước đây. Thay vì tiêm một phần virus vào cơ thể, các bác sĩ có thể tiêm mRNA, để mRNA chỉ dẫn các tế bào tạo ra virus bản sao không gây hại trong thời gian ngắn. “Chúng tôi đã nói chuyện với rất nhiều nhà đầu tư và công ty dược phẩm. Nhưng chẳng ai quan tâm”, tiến sĩ Weissman nói. “Không ai chịu lắng nghe chúng tôi”. Cuối cùng, hai công ty công nghệ sinh học chú ý đến điều này: Moderna (Mỹ) và BioNTech (Đức). Hai bên hợp tác với nhau và cùng tài trợ cho phòng thí nghiệm của tiến sĩ Weissman. Các thử nghiệm lâm sàng về vaccine mRNA được tiến hành, nhằm chế tạo nhiều loại vaccine mới chống lại cytomegalovirus hay virus Zika. Và rồi bây giờ là virus corona. Ngay sau khi các nhà khoa học Trung Quốc công bố trình tự gene của virus corona, khắp mọi nơi, các nhà nghiên cứu bắt tay vào cuộc đua sản xuất vaccine. BioNTech thiết kế vaccine mRNA trong vài giờ; Moderna thiết kế trong hai ngày. Việc thử nghiệm các loại vaccine trong một thời gian ngắn đòi hỏi nỗ lực rất lớn từ các bên liên quan. Nhưng tiến sĩ Kariko luôn vững niềm tin và không hề nghi ngờ điều này. Bà Kariko và ông Weissman vào ngày tiêm vaccine Covid-19. Ảnh: Penn Medicine. Vào ngày 8/11/2020, kết quả nghiên cứu đầu tiên của Pfizer/BioNTech cho thấy vaccine mRNA cung cấp khả năng miễn dịch mạnh mẽ chống lại virus corona. Vào khoảng khắc ấy, tiến sĩ Kariko quay sang nói với chồng duy nhất một câu: “Ồ, nó hoạt động kìa”. Để ăn mừng, bà ăn nguyên hộp đậu phộng phủ socola. Tiến sĩ Weissman ăn mừng sự kiện này với gia đình mình. Ông đã đặt bữa tối từ một nhà hàng của Italy. Trong sâu thẳm, ông từng rất sợ hãi. “Tôi có ước mơ là cùng với Kariko phát triển một thứ gì đó giúp ích cho mọi người”, tiến sĩ Weissman nói. “Giờ đây, ước mơ của tôi đã thành sự thật”. Tiến sĩ Kariko và tiến sĩ Weissman đã tiêm chủng vào ngày 18/12/2020 tại Đại học Pennsylvania. Vào thời khắc ấy, tiến sĩ Kariko đã rơi lệ. Phương Linh
NASA đăng ảnh “pháo hoa vũ trụ” lấp lánh mừng Quốc khánh Mỹ Kính thiên văn Hubble hiện tạm ngừng hoạt động nhưng những hình ảnh và dữ liệu mới được xử lý vẫn đang được NASA và Cơ quan Vũ trụ Châu Âu công bố. Một trong những ảnh mới nhất của kính thiên văn Hubble vừa được công bố là màn pháo hoa vũ trụ của cụm sao mở NGC 330. Cụm sao mở hay quần tinh mở là nhóm lỏng lẻo gồm những ngôi sao khá trẻ. Hình ảnh Hubble về cụm sao mở NGC 330 có những ngôi sao được làm nổi bật với màu đỏ, trắng và xanh lam giống như hình ảnh cận cảnh pháo hoa được thắp sáng trong đêm. Bởi những cụm sao hình thành từ một đám mây khí và bụi nguyên sơ đơn nhất, tất cả những ngôi sao trong cụm đều cùng tuổi. Nhờ vậy, các cụm sao trở thành phòng thí nghiệm tự nhiên hữu ích cho các nhà thiên văn học tìm hiểu cách những ngôi sao hình thành và tiến hóa, Cơ quan Vũ trụ Châu Âu nêu trong thông cáo được NASA công bố ngày 2.7. Trên Twitter, nhóm Hubble của NASA cũng đăng ảnh cụm sao rực rỡ NGC 330 kèm chia sẻ: “Sẵn sàng cho cuối tuần ngày 4.7”. Cụm sao NGC 330 cách xa Trái đất 180.000 năm ánh sáng trong chòm sao Đỗ Quyên (Tucana hoặc The Toucan). Quan sát kỹ một số ngôi sao ở cụm sao mở này người yêu thiên văn có thể nhận thấy đặc trưng trong các bức ảnh từ kính thiên văn Hubble: 4 gai ánh sáng phát ra từ mỗi điểm sáng nhất. “Vân đan chéo xung quanh những ngôi sao trong hình ảnh này được gọi là gai nhiễu xạ. Chúng được tạo ra khi ánh sáng sao tương tác với bốn cánh mỏng hỗ trợ gương thứ cấp của Hubble” – ESA giải thích. NASA thường mừng kỷ niệm quốc khánh Mỹ với những hình ảnh đầy sắc màu từ kính thiên văn Hubble. Năm 2009, vào dịp này, cơ quan vũ trụ Mỹ chia sẻ hình ảnh về hệ sao Eta Carinae. Hiện các thiết bị khoa học của kính thiên văn Hubble đang ngừng hoạt động khi NASA khắc phục sự cố bộ nhớ bằng cách đưa hệ thống vào chế độ bảo vệ an toàn từ tháng 6. Với hơn ba thập kỷ làm việc, Hubble đã có một chặng đường dài. THANH HÀ
NASA posted a photo of sparkling "cosmic fireworks" celebrating America's Independence Day The Hubble Telescope is currently offline, but newly processed images and data are still being released by NASA and the European Space Agency. One of the latest images of the Hubble telescope just released is the cosmic fireworks display of the open star cluster NGC 330. Open star clusters or open star clusters are loose groups of relatively young stars. The Hubble image of open star cluster NGC 330 features stars highlighted in red, white and blue like a close-up of fireworks being lit at night. Because star clusters form from a single primordial cloud of gas and dust, all the stars in the cluster are the same age. Thanks to that, star clusters become useful natural laboratories for astronomers to learn how stars form and evolve, the European Space Agency stated in a statement released by NASA on July 2. On Twitter, NASA's Hubble team also posted a photo of the brilliant star cluster NGC 330 with the caption: "Ready for the weekend of July 4." Star cluster NGC 330 is far away Earth 180,000 light years away in the constellation Tucana or The Toucan. Looking closely at some of the stars in this open cluster, astronomy lovers can notice a characteristic in photos from the Hubble telescope: 4 spikes of light emitting from each brightest point. “The crisscrossing patterns around the stars in this image are called diffraction spikes. They are created when starlight interacts with the four thin wings that support Hubble's secondary mirror" - ESA explains. NASA often celebrates America's Independence Day with colorful images from the Hubble telescope. In 2009, on this occasion, the US space agency shared images of the Eta Carinae star system. The Hubble telescope's science instruments are currently offline as NASA fixes the memory problem by putting the system into failsafe mode since June. With more than three decades of work, Hubble has had a long street. THANH HA
Phát kiến cung cấp thực phẩm cho con người trên sao Hỏa Các nhà nghiên cứu trên Trái đất đang phát triển thực đơn cho con người trên sao Hỏa. Thử nghiệm ở Trái đất Nếu hoặc khi con người đến hành tinh đỏ, một trong những câu hỏi lớn tiếp theo là: Họ sẽ ăn gì ở đó? Liệu có thể có một chế độ ăn uống lành mạnh hoặc hy vọng là ngon miệng trên một hành tinh không giống với Trái đất không? Trong một góc của nhà kính tại Đại học Villanova, ngoại ô Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ, giáo sư vật lý thiên văn và khoa học hành tinh Edward Guinan đã thử nghiệm để xem những gì có thể phát triển trên sao Hỏa. Theo podcast khoa học và sức khoẻ The Pulse, giáo sư bắt đầu dự án này vào năm 2017. Mục tiêu là trồng nhiều loại cây khác nhau trong các điều kiện được trang bị thêm để giống sao Hỏa. “Sao Hỏa không có mây, không có mưa như ở Trái đất. Vì vậy, về tổng thể, chỉ nhận được khoảng 60% tổng năng lượng ánh sáng trong năm sao Hỏa” – giáo sư Guinan giải thích. Giáo sư Edward Guinan nghiên cứu trồng các loại cây. Ảnh chụp màn hình Trời tối hơn, lạnh hơn rất nhiều và sao Hỏa cũng được bao phủ bởi một thứ gọi là regolith (lớp đất mặt). Đây là một loại đất giàu sắt khiến nó có màu đỏ đặc trưng, nhưng nó cũng bị nhiễm peclorat. Nghiên cứu của giáo sư Guinan không sử dụng đất trên sao Hỏa bởi chưa có mẫu nào được trả về Trái đất. Đất đã được nghiên cứu từ xa với việc sử dụng tàu thăm dò sao Hỏa và tàu quỹ đạo sao Hỏa. Tuy nhiên, các nhà khoa học NASA và Phòng thí nghiệm sức đẩy phản lực đã phát triển cái gọi là mô phỏng lớp đất mặt của sao Hỏa và có thể mua trực tuyến. Và nhờ các oxit sắt, nó vẫn có màu đỏ. Các loại cây phát triển tốt Guinan khuyến khích sinh viên của mình suy nghĩ về những hạn chế đó khi lựa chọn cây trồng. Ông hy vọng họ sẽ chọn các loại cây ưa bóng râm với rễ nông. Ông muốn sinh viên lưu ý đến giá trị dinh dưỡng như cải xoăn, hoặc củ cải, nhưng các sinh viên của ông có những kế hoạch khác. Năm 2017, họ đã trồng hoa bia (hops) và cây phát triển mạnh. Hoa bia. Ảnh: Wiki Sau đó, nhiều người từ khắp nơi trên thế giới đã gửi ý tưởng về việc trồng loại cây nào tiếp theo. Hai gợi ý thu hút sự quan tâm là lạc và atisô Jerusalem. Giáo sư Guinan cho hay, cả hai đều phát triển. Lạc là một loại cây họ đậu, chỉ cần nhiều ánh sáng, nhưng nó là loại cây khả thi, và atisô Jerusalem cũng phát triển rất tốt. Một sinh viên tham gia dự án của giáo sư Guinan là Alicia Eglin. Gần đây cô đã tốt nghiệp với tấm bằng vật lý học thiên thể và thiên văn. Một điểm cộng khác, cô thích làm vườn. Eglin tập trung vào thủy canh, phát triển hệ thống của riêng mình để trồng cây trong dung dịch giàu chất dinh dưỡng. Cô cũng có thể tìm ra một giải pháp hoàn hảo cho thách thức của Guinan, vừa bổ dưỡng vừa giúp tăng trưởng nhanh. Thành công của cô là cây bồ công anh. “Không phải ai cũng quen với việc ăn rau bồ công anh như một nguồn thực phẩm. Họ thường nghĩ bồ công anh là một loài cỏ dại. Nhưng đó là vụ đầu tiên tôi làm, và nó phát triển tốt nhất trong hệ thống thủy canh. Bồ công anh rất tuyệt, vì có thể ăn toàn bộ cây. Khi ở trên sao Hỏa, có thể phải giảm thiểu rác thải. Vì vậy, đối với bồ công anh, có thể ăn rễ, lá, hoa và thân, tất cả mọi thứ. Nó còn có mục đích chữa bệnh, có thể làm rượu bồ công anh, trà bồ công anh” – Eglin nói. Cây bồ công anh. Ảnh: Wiki Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một ý tưởng khác: Sử dụng loài giun đất để cải tạo đất trên sao Hỏa. Lớp đất mặt khi ướt có độ đặc của đất sét. Nếu có giun trong lớp đất mặt trên sao Hỏa, điều này thực sự quan trọng vì chúng có thể giúp biến đổi kết cấu giống như đất sét thành một loại đất giống với Trái đất hơn. Một lợi ích khác của việc đưa động vật không xương sống lên sao Hỏa là chúng có thể được biến thành nguồn protein. “Khả năng có bò hoặc gà hoặc bất kỳ động vật nông nghiệp truyền thống nào trên sao Hỏa thực sự khó xảy ra vì phải vận chuyển chúng đến đó, cho chúng ăn, trong khi phi hành gia cần có thức ăn trước” – Eglin nói. Hoa bồ công anh. Ảnh: Wiki Trên thực tế, giáo sư Guinan đã hoàn thiện công thức chế biến giun đất của mình. “Tôi làm sạch phân của giun, sau đó chiên giòn… Cho nhiều muối, tỏi… Tôi thử rồi, ăn được, không bị sao cả. Tất nhiên đây không phải là món ăn hàng ngày, nhưng tôi biết trên sao Hỏa, đó là một nguồn protein tốt” – giáo sư Guinan cho hay. NGỌC VÂN
Discovery of food supplies for humans on Mars Researchers on Earth are developing menus for humans on Mars. Testing on Earth If or when humans reach the red planet, one of the next big questions is: What will they eat there? Is it possible to have a healthy or hopefully delicious diet on a different planet? Earth Are not? In a corner of the greenhouse at Villanova University, outside Philadelphia, Pennsylvania, USA, professor of astrophysics and planetary science Edward Guinan experimented to see what could grow on Mars. According to science and health podcast The Pulse, the professor started this project in 2017. The goal is to grow various plants in conditions retrofitted to resemble Mars. “Mars has no clouds or rain like on Earth. So overall, only about 60% of the total light energy is received in the Martian year" - explained Professor Guinan. Professor Edward Guinan studies growing plants. Screenshots It's a lot darker, a lot colder, and Mars is also covered in something called regolith (topsoil). This is an iron-rich soil that gives it its characteristic red color, but it is also contaminated with perchlorate. Professor Guinan's research does not use Martian soil because no samples have been returned to Earth. Soil has been studied remotely with the use of Mars probes and Mars orbiters. However, scientists NASA and the Jet Propulsion Laboratory have developed a so-called Mars topsoil simulator that can be purchased online. And thanks to iron oxides, it remains red. The plants grow well Guinan encourages his students to think about those limitations when choosing plants. He hopes they will choose shade-loving plants with shallow roots. He wanted students to pay attention to the nutritional value of kale, or radishes, but his students had other plans. In 2017, they planted hops and the plants thrived. Hops. Photo: Wiki After that, many people from all over the world submitted ideas about what kind of tree to grow next. Two suggestions that have attracted interest are peanuts and Jerusalem artichokes. Both develop, Professor Guinan said. Peanuts are a legume that only need a lot of light, but it is a viable plant, and Jerusalem artichoke also grows very well. One student participating in Professor Guinan's project is Alicia Eglin. She recently graduated with a degree in astrophysics and astronomy. Another plus, she loves gardening. Eglin focused on hydroponics, developing his own system for growing plants in nutrient-rich solutions. She was also able to find a perfect solution to Guinan's challenge that was both nutritious and fast-growing. Her success is the dandelion. “Not everyone is familiar with eating dandelion greens as a food source. They often think dandelion is a weed. But it was the first crop I made, and it grew best in a hydroponic system. Dandelions are great, because the whole plant can be eaten. Once on Mars, waste may have to be minimized. So for dandelions, you can eat the roots, leaves, flowers and stems, everything. It also has medicinal purposes, you can make dandelion wine and dandelion tea," Eglin said. Dandelion. Photo: Wiki The research team also came up with another idea: Using earthworms to improve soil on Mars. Topsoil when wet has the consistency of clay. If there are worms in the topsoil on Mars, this would be really important because they could help transform the clay-like texture into a soil more similar to Earth. Another benefit of sending invertebrates to Mars is that they can be turned into a protein source. “The possibility of having cows or chickens or any traditional agricultural animals on Mars is really unlikely because you have to transport them there, feed them, and astronauts need to have food first” – Eglin speak. Dandelion. Photo: Wiki In fact, Professor Guinan has perfected his earthworm processing recipe. “I cleaned the worms' excrement, then fried it crispy... Added a lot of salt, garlic... I tried it, it was edible, no problem. Of course this is not an everyday dish, but I know on Mars, it is a good source of protein" - Professor Guinan said. NGOC VAN
Bí mật ít biết trên những tờ tiền Việt đang lưu hành Không phải ai cũng biết hết địa danh được in trên những tờ tiền Việt đang lưu hành. Tờ 500.000 đồng là tờ tiền có mệnh giá lớn nhất trong hệ thống tiền tệ của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, không phải ai cũng để ý, địa danh in trên đồng tiền 500.000 là Làng Sen thuộc huyện Nam Đàn (Nghệ An). Nơi đây chính là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên tờ 50.000 đồng có hình Nghênh Lương Đình và Phu Văn Lầu ở Huế . Đây là hai công trình được xây dựng dưới thời Nguyễn, dùng làm nơi nghỉ chân hoặc nơi hóng mát của nhà vua. Hình ảnh địa danh được in trên tờ 20.000 đồng là chùa Cầu ở Hội An . Chùa Cầu được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17. Năm 1990, chùa Cầu đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Hình ảnh địa danh in trên tờ 100.000 đồng là Văn miếu Quốc Tử Giám ở Hà Nội. Tờ tiền này phát hành chính thức vào ngày 1/9/2004. Cùng với đồng tiền 10.000 đồng, tờ 200.000 đồng là đồng tiền polymer hiện đang lưu hành phát hành muộn nhất, vào ngày 30/8/2006. Địa danh in trên tờ 200.000 đồng là Hòn Đỉnh Hương – một hòn đảo nhỏ nằm ở khu vực phía Tây Nam của vịnh Hạ Long của tỉnh Quang Ninh – một trong 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận. Tờ tiền 5.000 đồng là một trong số ít tiền Việt vẫn sử dụng chất liệu giấy cotton. Hình ảnh được in trên tờ tiền này là nhà máy thủy điện Trị An tại Đồng Nai . (Theo Tri Thức và Cuộc Sống)
Little-known secrets on Vietnamese banknotes in circulation Not everyone knows all the place names printed on Vietnamese banknotes in circulation. The 500,000 VND note is the largest denomination in Vietnam's monetary system today. However, not everyone notices that the place printed on the 500,000 coin is Sen Village in Nam Dan district (Nghe An). This is the hometown of President Ho Chi Minh. Above 50,000 VND bill There are pictures of Nghenh Luong Dinh and Phu Van Lau Hue . These are two buildings built during the Nguyen Dynasty, used as a resting place or a place for the king to cool off. The image of the place printed on the 20,000 VND bill is Cau Pagoda Hoi An . Covered Bridge was built around the 17th century. In 1990, Covered Bridge was recognized as a National Historical and Cultural Relic. The image of the place printed on the 100,000 VND bill is the Temple of Literature in Hanoi. This banknote was officially released on September 1, 2004. Along with the 10,000 VND note, the 200,000 VND note is the polymer currency currently in circulation that was issued the latest, on August 30, 2006. The place name printed on the 200,000 VND bill is Dinh Huong Island - a small island located in the southwest area of ​​Ha Long Bay in the province. Quang Ninh – one of the 7 natural wonders of the world recognized by UNESCO. The 5,000 VND bill is one of the few Vietnamese bills that still uses cotton paper. The image printed on this banknote is the Tri An hydroelectric plant at Dong Nai . (According to Knowledge and Life)
Xuất bản di cảo của học giả Phan Khôi Phan Khôi di cảo (bản chưa đầy đủ) do các con của học giả Phan Khôi chuẩn bị bản thảo: Phan Thị Mỹ Khanh, Phan Trản, Phan Nam Sinh (soạn chú thích), Phan An Sa (sao lục và xử lý văn bản). Cuốn sách được Nhà xuất bản Tri thức phát hành (2021). Nhà văn, nhà báo Phan Khôi (1887 – 1959) là một học giả tên tuổi, sinh tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn , tỉnh Quảng Nam , cháu ngoại của Tổng đốc Hoàng Diệu. Năm 19 tuổi, ông đỗ Tú tài Hán học nhưng lại đi vào lịch sử văn học với vai trò người mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới với bài thơ Tình già. Là một nhà báo tài năng, trước 1945, Phan Khôi được mang danh là Ngự sử văn đàn. Phan Khôi di cảo (bản chưa đầy đủ) gồm 2 phần: Phần di cảo và 2 phần Phụ lục. Phần Di cảo với 10 đề mục tài liệu, đều thuộc sở trường của ông, là lịch sử cổ đại Trung Quốc, lịch sử cận đại Việt Nam, tiếng Việt (Cổ sử Trung Hoa bị đánh đổ, Kiểm thảo lại cái gọi bằng dân chủ ở Trung Quốc đời xưa, hồi ký Vụ xin xâu ở Quảng Nam và Duy Tân khởi nghĩa, Những con số không nhất định trong từ ngữ). Đáng chú ý là các bản Tự thuật tiểu sử sơ lược, Kiểm thảo sơ bộ và Tự kiểm thảo do tự tay nhà văn Phan Khôi viết năm 1953 trong cuộc chỉnh huấn năm 1953 trên Việt Bắc. Cùng với đó là các cuốn sổ tay ghi chép. Những tư liệu này góp phần bổ sung vào bản lý lịch cá nhân còn khuyết của nhà văn, nhà báo Phan Khôi nói riêng và lịch sử văn học, lịch sử báo chí Việt Nam nói chung. Qua chia sẻ của các con của nhà văn Phan Khôi trong sách cho thấy, từ năm 1956 – 1958, dù bị phê phán, cô lập về mọi mặt trong đời sống chính trị xã hội nhưng “không có bất cứ một bản thảo nào mang dấu ấn của sự phản ứng, của sự phản đối; trong khi ông lại dồn hết trí tuệ, sức lực để hoàn thành một bản khảo luận rất có giá trị về tiếng Việt trước ngày ông qua đời một năm”. Đó là nghiên cứu Những con số không nhất định trong từ ngữ được nhà ngôn ngữ học Phan Khôi hoàn thành tại số 10 phố Nguyễn Thượng Hiền, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, ngày 1.2.1958, gồm 15 trang viết tay không gạch xóa. Có thể nói, đây là nghiên cứu tiếng Việt tiếp nối công trình Việt ngữ nghiên cứu (Nhà xuất bản Văn nghệ, 1955) của học giả Phan Khôi. Có một sự kiện, chúng tôi thấy cũng cần trao đổi thêm với nhóm biên soạn sách Phan Khôi di cảo (bản chưa đầy đủ). Đó là nội dung thông tin sau: “Giữa năm 1958, Phan Khôi cùng hai người nữa bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn. Mãi đến năm 2007, trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại mới thấy ghi tên và hình minh họa chân dung ông với danh hiệu hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam” (tr.356). Thông tin này không đúng. Từ năm 1989 khi Hội Nhà văn Việt Nam tuyên bố phục hồi danh hiệu hội viên cho nhà văn Phan Khôi và các nhà văn liên quan đến nhóm Nhân văn Giai phẩm còn sống được trở lại sinh hoạt Hội (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán…) thì việc ghi tên và hình minh họa chân dung nhà văn Phan Khôi cùng các nhà văn khác đã được thực hiện trong sách Nhà văn Việt Nam hiện đại do Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản từ năm 1992. Tên và hình minh họa chân dung nhà văn Phan Khôi được in tại trang 83, vị trí B.178, sau tên nhà văn Phạm Thiều (B.177) và trước tên nhà văn Thợ Rèn (B.179), nhà văn Trần Huy Liệu (B.180).
Publishing the posthumous manuscript of scholar Phan Khoi Phan Khoi's posthumous version (incomplete version) was prepared by the children of scholar Phan Khoi: Phan Thi My Khanh, Phan Tran, Phan Nam Sinh (composed notes), Phan An Sa (copied and processed text). copy). The book is published by Knowledge Publishing House (2021). Writer and journalist Phan Khoi (1887 - 1959) is a famous scholar, born in Bao An village, District 1. Dien Ban , conscious Quang Nam , grandson of Governor Hoang Dieu. At the age of 19, he passed the Chinese baccalaureate but went down in literary history as the initiator and promoter of the New Poetry movement with the poem Old Love. As a talented journalist, before 1945, Phan Khoi was known as Ngu Tu Van Dan. Phan Khoi's posthumous version (incomplete version) includes 2 parts: Posthumous part and 2 appendix parts. The Posthumous part has 10 document topics, all of which belong to his forte, including ancient Chinese history, modern Vietnamese history, Vietnamese (Chinese ancient history was overthrown, Re-examining the so-called people's equality). in ancient China, memoirs of the Xin Xia incident in Quang Nam and the Duy Tan uprising, Uncertain numbers in words). Notably, the Brief Biographical Narration, Preliminary Inspection and Self-Inspection were written by writer Phan Khoi in 1953 during the 1953 rectification in Viet Bac. Along with that are notebooks. These documents contribute to supplementing the missing personal resume of writer and journalist Phan Khoi in particular and the history of Vietnamese literature and journalism in general. Through the sharing of writer Phan Khoi's children in the book, it shows that from 1956 to 1958, despite being criticized and isolated in all aspects of social and political life, "there was not a single manuscript that brought the mark of reaction, of protest; Meanwhile, he devoted all his intelligence and strength to complete a very valuable treatise on Vietnamese one year before his death. That is the study Uncertain Numbers in Words completed by linguist Phan Khoi at 10 Nguyen Thuong Hien Street, Hai Ba Trung District, Hanoi, on February 1, 1958, including 15 unlined handwritten pages. erase. It can be said that this is a Vietnamese study that continues the work on Vietnamese language research (Viterature Publishing House, 1955) by scholar Phan Khoi. There is an event that we feel needs to discuss further with the group that compiled the posthumous Phan Khoi book (incomplete version). That is the following information: "In mid-1958, Phan Khoi and two other people were expelled from the Writers' Association. It was not until 2007 that in the book Modern Vietnamese Writers, we saw his name and portrait illustrated as a founding member of the Vietnam Writers Association" (p.356). This information is incorrect. Since 1989, when the Vietnam Writers' Association announced the restoration of membership status for writer Phan Khoi and other writers related to the Nhan Van Giai Pham group who were still alive and could return to the Association's activities (Hoang Cam, Tran Dan, Le Dat, Phung Quan...), the names and portrait illustrations of writer Phan Khoi and other writers were done in the book. Vietnamese writer published by the Vietnam Writers' Association since 1992. The name and portrait illustration of writer Phan Khoi are printed on page 83, position B.178, after the name of writer Pham Thieu (B.177) and before Names of writer Thien Ren (B.179), writer Tran Huy Lieu (B.180).
Bộ Quốc phòng Mỹ lần đầu tiên công khai những thông tin liên quan UFO Ngày 25/6, Lầu Năm góc đã đệ trình lên Quốc hội nước này báo cáo về các vật thể bay không xác định (UFO) và các hiện tượng trên không không xác định (UAP). Dưới tiêu đề “Đánh giá sơ bộ: Hiện tượng trên không không xác định,” văn kiện dày 9 trang do Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia (ODNI) công bố nhằm cung cấp cho Quốc hội Mỹ thông tin sơ bộ về cách thức chính phủ nước này xử lý một báo cáo đầy đủ hơn về những gì giới chức Mỹ biết về UFO, hoặc UAP. Báo cáo nêu rõ 143 trong tổng số 144 thông tin kể từ năm 2004 tới nay vẫn “nằm ngoài lý giải của Chính phủ Mỹ” và không loại trừ khả năng có người ngoài hành tinh. Báo cáo không đưa ra lời giải thích thỏa đáng cho 144 vụ việc, Lầu Năm Góc cũng không kết luận rằng các UFO này là người ngoài hành tinh từ thế giới khác đến thăm Trái Đất của chúng ta. Tuy nhiên, báo cáo cho biết thêm cách lý giải này là một khả năng tiềm tàng, không thể loại trừ. Ngoài ra, báo cáo cũng nêu các khả năng khác để lý giải cho hiện tượng UFO/UAP, bao gồm đó là hiện tượng khí quyển, sự chuyển động của không khí hay “những phát triển và các chương trình bí mật của Mỹ.” Theo báo cáo trên, có 18 hiện tượng được miêu tả trong 21 báo cáo cho thấy các năng lực công nghệ mà con người trên Trái Đất hoàn toàn chưa được biết tới, như việc các vật thể di chuyển mà không cần lực đẩy, hoặc tăng tốc và giảm tốc nhanh hơn bất kỳ thiết bị bay nào hiện nay trên thế giới có thể thực hiện. Một số nhà phân tích cũng lưu ý rằng các công nghệ chưa được biết tới mà Trung Quốc, Nga hay các bên khác đang triển khai cũng là một phương án giải thích tiềm tàng cho các hiện tượng UFO/UAP. Một số nghị sĩ Mỹ cho rằng việc công bố báo cáo trên chỉ là bước khởi đầu trong quá trình điều tra hiện tượng UFO/UAP của Chính phủ Mỹ. Dù các cuộc điều tra làm rõ các hiện tượng liên quan đến UFO/UAP có thể khiến Mỹ trở thành quốc gia lạc hậu trong phát triển công nghệ siêu thanh, nhưng vẫn cần được thực hiện một cách nghiêm túc và chính phủ, quân đội Mỹ cần quan tâm hơn nữa đến các thông tin liên quan đến UFO/UAP do các quân nhân, người dân cung cấp. Đây là lần đầu tiên Chính phủ Mỹ công khai và chia sẻ những thông tin liên quan UFO/UAP ./.
The US Department of Defense publicly released information related to UFOs for the first time On June 25, the Pentagon submitted to the National Assembly a report on unidentified flying objects (UFOs) and unidentified aerial phenomena (UAP). Under the heading “Preliminary Assessment: Unidentified Aerial Phenomena,” the nine-page document released by the Office of the Director of National Intelligence (ODNI) aims to provide the US Congress with preliminary information on how The country's official government processed a fuller report on what US officials know about UFOs, or UAPs. The report states that 143 out of 144 pieces of information since 2004 are still "beyond the explanation of the US Government" and does not rule out the possibility of aliens. The report did not provide a satisfactory explanation for the 144 incidents, nor did the Pentagon conclude that these UFOs were aliens from another world visiting our Earth. However, the report adds that this explanation is a potential possibility that cannot be ruled out. In addition, the report also states other possibilities to explain the UFO/UAP phenomenon, including whether it is atmospheric phenomena, air movement or "secret US developments and programs." ” According to the above report, there are 18 phenomena described in 21 reports that show the technological capabilities that humans on Earth have. Earth completely unknown, such as objects moving without propulsion, or accelerating and decelerating faster than any flying device in the world today can do. Some analysts have also noted that unknown technologies being deployed by China, Russia or others are also a potential explanation for UFO/UAP phenomena. Some US lawmakers believe that the publication of the above report is only the first step in the US Government's investigation of the UFO/UAP phenomenon. Although investigations to clarify phenomena related to UFOs/UAPs can make the US a backward country in developing hypersonic technology, they still need to be taken seriously by the government and military. The US needs to pay more attention to information related to UFOs/UAPs provided by soldiers and citizens. This is the first time the US Government has publicly disclosed and shared relevant information UFO/UAP ./.
Bốn khám phá thiên văn kỳ thú từ Hy Lạp cổ đại Tác giả: Gareth Dorrian [1] Ian Whittaker[2] Các nhà khoa học và toán học Hy Lạp cổ đại đã thực hiện một số khám phá thiên văn đáng ngạc nhiên và quan trọng nhất từ ​​nhiều thế kỷ trước. Cuốn sách “Lịch sử ” của Herodotus (484TCN đến 435 TCN) [3], đã mở ra một cánh cửa đáng chú ý để vào thế giới mà người Hy Lạp cổ đại biết vào giữa thế kỷ thứ năm trước Công nguyên. Herodotus cho rằng châu Phi được bao quanh gần như hoàn toàn bởi biển. Nhưng làm sao ông biết được điều đó về một khối đất khổng lồ như vậy? Nhà sử học kể lại câu chuyện về những thủy thủ người Phoenicia được vua Neco II của Ai Cập (khoảng 600 năm TCN) cử đi thuyền vòng quanh lục địa châu Phi theo chiều kim đồng hồ, bắt đầu từ Biển Đỏ. Câu chuyện này, nếu có thật, không chỉ kể lại hành trình vòng quanh châu Phi sớm nhất được biết đến của nhân loại mà còn chứa đựng một cái nhìn sâu sắc, thú vị về kiến ​​thức thiên văn của thế giới cổ đại. Chuyến đi, tất nhiên, kéo dài vài năm. Sau khi vòng qua mũi phía nam của châu Phi, và đi theo hướng tây, các thủy thủ đã quan sát thấy mặt trời đang ở bên tay phải của họ, phía trên đường chân trời phía bắc. Hồi bấy giờ, quan sát này đơn giản là không có ý nghĩa, vì thời đó, con người chưa biết Trái Đất có hình cầu và có bán cầu nam. Các hành tinh quay quanh Mặt Trời Vài thế kỷ sau, đã có rất nhiều tiến bộ trong vũ trụ học. Aristarchus của Samos (310 TCN đến 230 TCN) [4]cho rằng Mặt Trời là “ngọn lửa trung tâm” của vũ trụ và ông thậm chí đã đặt tất cả các hành tinh được biết đến vào thời điểm đó theo đúng thứ tự khoảng cách của chúng xung quanh nó. Đây là lý thuyết nhật tâm được biết đến sớm nhất của hệ mặt trời. Song, thật không may, văn bản gốc mà ông đưa ra lập luận này đã bị thất lạc trong lịch sử, vì vậy chúng ta không thể biết chắc chắn về cách mà nhà tư tưởng lỗi lạc này đã giải quyết nó. Aristarchus biết Mặt Trời lớn hơn nhiều so với Trái đất hoặc Mặt Trăng, và ông có thể đã phỏng đoán rằng do đó nó nên ở vị trí trung tâm trong hệ Mặt Trời. Tuy nhiên, đó là một phát hiện đáng ngạc nhiên, đặc biệt là khi bạn cho rằng nó đã không được phát hiện lại cho đến thế kỷ 16, bởi Nicolaus Copernicus [5], người thậm chí đã thừa nhận Aristarchus trong quá trình phát triển công trình của chính mình. Nghệ thuật lộng lẫy của Hy Lạp cổ đại Một trong những khám phá thiên văn vĩ đại nhất từ ​​thời Hy Lạp cổ đại: kích thước của Mặt trăng Một trong những cuốn sách còn tồn tại của Aristarchus đề cập đến kích thước và khoảng cách của Mặt Trời và Mặt Trăng. Trong chuyên luận đáng chú ý này, Aristarchus đã đưa ra những tính toán đã được thử nghiệm sớm nhất về kích thước và khoảng cách tương đối với Mặt Trời và Mặt Trăng. Từ lâu, người ta đã quan sát thấy Mặt Trời và Mặt Trăng có cùng kích thước biểu kiến ​​trên bầu trời, và Mặt Trời ở xa hơn. Họ nhận ra điều này từ các hiện tượng nhật thực, do Mặt Trăng đi qua phía trước Mặt Trời ở một khoảng cách nhất định so với Trái Đất. Ngoài ra, vào thời điểm Mặt Trăng ở phần tư thứ nhất hoặc thứ ba, Aristarchus lý luận rằng Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng sẽ tạo thành một tam giác vuông. Vì Pythagoras [6]đã xác định độ dài các cạnh của tam giác có liên quan như thế nào vài thế kỷ trước đó, Aristarchus đã sử dụng tam giác để ước tính rằng khoảng cách tới Mặt Trời bằng 18 đến 20 lần khoảng cách tới Mặt Trăng. Ông cũng ước tính rằng kích thước của Mặt Trăng xấp xỉ một phần ba so với Trái Đất, dựa trên thời gian diễn ra nguyệt thực một cách cẩn thận. Trong khi khoảng cách ước tính của ông về Mặt Trời quá thấp (tỷ lệ thực tế là 390), do thiếu độ chính xác của kính thiên văn vào thời điểm đó, giá trị của tỷ lệ giữa kích thước của Trái Đất và Mặt Trăng là chính xác một cách đáng kinh ngạc ( Mặt Trăng có đường kính gấp 0,27 lần Trái Đất). Ngày nay, chúng ta biết chính xác kích thước và khoảng cách tới Mặt Trăng bằng nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm kính thiên văn chính xác, quan sát radar và phản xạ laser do các phi hành gia Apollo để lại trên bề mặt. Thanh cổ Acropolis – Trái tim của Hy Lạp Chu vi Trái đất Eratosthenes (276 TCN – 195 TCN) là thủ thư trưởng tại Thư viện lớn Alexandria, và là một nhà thực nghiệm nhạy bén. Trong số nhiều thành tựu của ông là tính toán chu vi Trái đất sớm nhất được biết đến. Pythagoras thường được coi là người đề xuất sớm nhất Trái đất hình cầu, mặc dù dường như không phải kích thước của nó. Phương pháp nổi tiếng và đơn giản của Eratosthenes [7]dựa trên việc đo độ dài khác nhau của bóng đổ bởi các cực cắm thẳng đứng vào mặt đất, vào giữa trưa ngày hạ chí, ở các vĩ độ khác nhau. Mặt trời ở khoảng cách đủ xa để các tia của nó đến Trái đất ở bất cứ đâu, chúng vẫn song song một cách hiệu quả, như đã được Aristarchus chỉ ra trước đây. Vì vậy, sự khác biệt trong bóng tối chứng tỏ bề mặt Trái đất cong bao nhiêu. Eratosthenes đã sử dụng điều này để ước tính chu vi Trái Đất là khoảng 40.000km. Con số này nằm trong khoảng vài phần trăm giá trị thực tế, được thiết lập bởi trắc địa hiện đại (khoa học về hình dạng Trái Đất). Sau đó, một nhà khoa học khác tên là Posidonius [8](135BC đến 51BC[9]) đã sử dụng một phương pháp hơi khác và đưa ra câu trả lời gần như chính xác. Posidonius đã sống trên đảo Rhodes trong phần lớn cuộc đời của mình. Tại đó, ông quan sát thấy ngôi sao sáng Canopus sẽ nằm rất gần đường chân trời. Tuy nhiên, khi ở Alexandria, Ai Cập , ông lưu ý rằng Canopus (sao Lão Nhân) sẽ bay lên khoảng 7,5 độ so với đường chân trời. Cho rằng 7,5 độ là 1/4 của một vòng tròn, anh ta nhân khoảng cách từ Rhodes đến Alexandria với 48, và đạt được một giá trị cũng xấp xỉ 40.000 km. Máy tính thiên văn đầu tiên của Hy Lạp cổ đại Máy tính cơ học lâu đời nhất còn tồn tại trên thế giới là Cơ chế Antikythera . Thiết bị tuyệt vời được phát hiện trong một con tàu đắm cổ ngoài khơi đảo Antikythera của Hy Lạp vào năm 1900. Thiết bị hiện đã bị phân mảnh theo thời gian, nhưng khi còn nguyên vẹn, nó sẽ xuất hiện như một chiếc hộp chứa hàng chục bánh răng bằng đồng được gia công tinh xảo. Khi được quay bằng tay bằng tay cầm, các bánh răng quay ở bên ngoài hiển thị các giai đoạn của Mặt Trăng, thời gian của nguyệt thực và vị trí của năm hành tinh sau đó được biết đến (Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ) ở các vị trí khác nhau thời gian trong năm. Điều này thậm chí còn giải thích cho chuyển động ngược của chúng – một sự thay đổi ảo ảnh trong chuyển động của các hành tinh qua bầu trời. Chúng ta không biết ai đã xây dựng nó, nhưng nó có niên đại từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 1 TCN, và thậm chí có thể là công trình của Archimedes[10]. Công nghệ chế tạo bánh răng với sự tinh vi của cơ chế Antikythera đã không còn xuất hiện nữa trong một nghìn năm. Đáng buồn thay, phần lớn các công trình này đã bị thất lạc trong lịch sử và sự thức tỉnh khoa học của chúng ta đã bị trì hoãn hàng thiên niên kỷ. Là một công cụ để giới thiệu phép đo khoa học, các kỹ thuật của Eratosthenes tương đối dễ thực hiện và không yêu cầu thiết bị đặc biệt, cho phép những người mới bắt đầu quan tâm đến khoa học có thể hiểu bằng cách thực hiện, thử nghiệm và cuối cùng, thực hiện theo các bước chân một số bước đầu tiên các nhà khoa học. Người ta có thể suy đoán rằng nền văn minh của chúng ta có thể ở đâu bây giờ nếu khoa học cổ đại này tiếp tục không suy giảm. Hạnh Thục (lược dịch và chú thích) Chú thích: [1 ] Gareth Dorrian là Nghiên cứu viên Sau Tiến sĩ về Khoa học Không gian, Đại học Birmingham. [2] Ian Whittaker là Giảng viên Vật lý, Đại học Nottingham Trent. [3] Herodotos là một nhà sử học người Hy Lạp sống ở thế kỷ 5 trước Công nguyên. Ông được coi là “cha đẻ của môn sử học” trong văn hóa phương Tây. [4] Aristarchus của Samos là một nhà thiên văn và nhà toán học người Hy Lạp , sinh ra trên đảo Samos ở Hy Lạp. Ông là người Hy Lạp đầu tiên, đồng thời là người đầu tiên trên thế giới đã đưa ra luận cứ rõ ràng cho mô hình nhật tâm của hệ Mặt Trời, với việc đặt Mặt Trời (chứ không phải Trái Đất) ở trung tâm của vũ trụ. [5] Nicolaus Copernicus (1473 – 1543) là một nhà thiên văn học đã nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) trong cuốn sách Về sự chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium). [6] Pythagoras (sinh khoảng năm 580 đến 572 TCN – mất khoảng năm 500 đến 490 TCN) là một nhà triết học người Hy Lạp. Ông thường được biết đến như một nhà khoa học và toán học vĩ đại. [7] Eratosthenes (276 TCN – 194 TCN) là một nhà toán học, địa lý và thiên văn người Hy Lạp. Sinh thời, ông được gọi là “Beta”, do ông là người nổi tiếng thứ hai trên thế giới vào thời đó trong nhiều lĩnh vực, sau người đồng nghiệp và bạn thân là Archimedes. [8] Posidonius (135 – 51 TCN) là một chính trị gia người Hy Lạp, nhà thiên văn học, nhà chiêm tinh học, nhà địa lý học, nhà sử học, nhà toán học và giáo viên gốc Apamea, Syria. [9] BC là từ viết tắt của tiếng Anh: “Before Christ”, nghĩa là “trước khi chúa Giê-su ra đời”, cũng có nghĩa là Trước công nguyên (TCN). [10] Archimedes (287 TCN – 212 TCN) là một nhà toán học, nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát minh và nhà thiên văn học người Hy Lạp; ông được coi là một trong những nhà khoa học hàng đầu của thời kỳ cổ đại.
Bốn khám phá thiên văn kỳ thú từ Hy Lạp cổ đại Tác giả: Gareth Dorrian [1] Ian Whittaker[2] Các nhà khoa học và toán học Hy Lạp cổ đại đã thực hiện một số khám phá thiên văn đáng ngạc nhiên và quan trọng nhất từ ​​nhiều thế kỷ trước. Cuốn sách “Lịch sử ” của Herodotus (484TCN đến 435 TCN) [3], đã mở ra một cánh cửa đáng chú ý để vào thế giới mà người Hy Lạp cổ đại biết vào giữa thế kỷ thứ năm trước Công nguyên. Herodotus cho rằng châu Phi được bao quanh gần như hoàn toàn bởi biển. Nhưng làm sao ông biết được điều đó về một khối đất khổng lồ như vậy? Nhà sử học kể lại câu chuyện về những thủy thủ người Phoenicia được vua Neco II của Ai Cập (khoảng 600 năm TCN) cử đi thuyền vòng quanh lục địa châu Phi theo chiều kim đồng hồ, bắt đầu từ Biển Đỏ. Câu chuyện này, nếu có thật, không chỉ kể lại hành trình vòng quanh châu Phi sớm nhất được biết đến của nhân loại mà còn chứa đựng một cái nhìn sâu sắc, thú vị về kiến ​​thức thiên văn của thế giới cổ đại. Chuyến đi, tất nhiên, kéo dài vài năm. Sau khi vòng qua mũi phía nam của châu Phi, và đi theo hướng tây, các thủy thủ đã quan sát thấy mặt trời đang ở bên tay phải của họ, phía trên đường chân trời phía bắc. Hồi bấy giờ, quan sát này đơn giản là không có ý nghĩa, vì thời đó, con người chưa biết Trái Đất có hình cầu và có bán cầu nam. Các hành tinh quay quanh Mặt Trời Vài thế kỷ sau, đã có rất nhiều tiến bộ trong vũ trụ học. Aristarchus của Samos (310 TCN đến 230 TCN) [4]cho rằng Mặt Trời là “ngọn lửa trung tâm” của vũ trụ và ông thậm chí đã đặt tất cả các hành tinh được biết đến vào thời điểm đó theo đúng thứ tự khoảng cách của chúng xung quanh nó. Đây là lý thuyết nhật tâm được biết đến sớm nhất của hệ mặt trời. Song, thật không may, văn bản gốc mà ông đưa ra lập luận này đã bị thất lạc trong lịch sử, vì vậy chúng ta không thể biết chắc chắn về cách mà nhà tư tưởng lỗi lạc này đã giải quyết nó. Aristarchus biết Mặt Trời lớn hơn nhiều so với Trái đất hoặc Mặt Trăng, và ông có thể đã phỏng đoán rằng do đó nó nên ở vị trí trung tâm trong hệ Mặt Trời. Tuy nhiên, đó là một phát hiện đáng ngạc nhiên, đặc biệt là khi bạn cho rằng nó đã không được phát hiện lại cho đến thế kỷ 16, bởi Nicolaus Copernicus [5], người thậm chí đã thừa nhận Aristarchus trong quá trình phát triển công trình của chính mình. Nghệ thuật lộng lẫy của Hy Lạp cổ đại Một trong những khám phá thiên văn vĩ đại nhất từ ​​thời Hy Lạp cổ đại: kích thước của Mặt trăng Một trong những cuốn sách còn tồn tại của Aristarchus đề cập đến kích thước và khoảng cách của Mặt Trời và Mặt Trăng. Trong chuyên luận đáng chú ý này, Aristarchus đã đưa ra những tính toán đã được thử nghiệm sớm nhất về kích thước và khoảng cách tương đối với Mặt Trời và Mặt Trăng. Từ lâu, người ta đã quan sát thấy Mặt Trời và Mặt Trăng có cùng kích thước biểu kiến ​​trên bầu trời, và Mặt Trời ở xa hơn. Họ nhận ra điều này từ các hiện tượng nhật thực, do Mặt Trăng đi qua phía trước Mặt Trời ở một khoảng cách nhất định so với Trái Đất. Ngoài ra, vào thời điểm Mặt Trăng ở phần tư thứ nhất hoặc thứ ba, Aristarchus lý luận rằng Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng sẽ tạo thành một tam giác vuông. Vì Pythagoras [6]đã xác định độ dài các cạnh của tam giác có liên quan như thế nào vài thế kỷ trước đó, Aristarchus đã sử dụng tam giác để ước tính rằng khoảng cách tới Mặt Trời bằng 18 đến 20 lần khoảng cách tới Mặt Trăng. Ông cũng ước tính rằng kích thước của Mặt Trăng xấp xỉ một phần ba so với Trái Đất, dựa trên thời gian diễn ra nguyệt thực một cách cẩn thận. Trong khi khoảng cách ước tính của ông về Mặt Trời quá thấp (tỷ lệ thực tế là 390), do thiếu độ chính xác của kính thiên văn vào thời điểm đó, giá trị của tỷ lệ giữa kích thước của Trái Đất và Mặt Trăng là chính xác một cách đáng kinh ngạc ( Mặt Trăng có đường kính gấp 0,27 lần Trái Đất). Ngày nay, chúng ta biết chính xác kích thước và khoảng cách tới Mặt Trăng bằng nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm kính thiên văn chính xác, quan sát radar và phản xạ laser do các phi hành gia Apollo để lại trên bề mặt. Thanh cổ Acropolis – Trái tim của Hy Lạp Chu vi Trái đất Eratosthenes (276 TCN – 195 TCN) là thủ thư trưởng tại Thư viện lớn Alexandria, và là một nhà thực nghiệm nhạy bén. Trong số nhiều thành tựu của ông là tính toán chu vi Trái đất sớm nhất được biết đến. Pythagoras thường được coi là người đề xuất sớm nhất Trái đất hình cầu, mặc dù dường như không phải kích thước của nó. Phương pháp nổi tiếng và đơn giản của Eratosthenes [7]dựa trên việc đo độ dài khác nhau của bóng đổ bởi các cực cắm thẳng đứng vào mặt đất, vào giữa trưa ngày hạ chí, ở các vĩ độ khác nhau. Mặt trời ở khoảng cách đủ xa để các tia của nó đến Trái đất ở bất cứ đâu, chúng vẫn song song một cách hiệu quả, như đã được Aristarchus chỉ ra trước đây. Vì vậy, sự khác biệt trong bóng tối chứng tỏ bề mặt Trái đất cong bao nhiêu. Eratosthenes đã sử dụng điều này để ước tính chu vi Trái Đất là khoảng 40.000km. Con số này nằm trong khoảng vài phần trăm giá trị thực tế, được thiết lập bởi trắc địa hiện đại (khoa học về hình dạng Trái Đất). Sau đó, một nhà khoa học khác tên là Posidonius [8](135BC đến 51BC[9]) đã sử dụng một phương pháp hơi khác và đưa ra câu trả lời gần như chính xác. Posidonius đã sống trên đảo Rhodes trong phần lớn cuộc đời của mình. Tại đó, ông quan sát thấy ngôi sao sáng Canopus sẽ nằm rất gần đường chân trời. Tuy nhiên, khi ở Alexandria, Ai Cập , ông lưu ý rằng Canopus (sao Lão Nhân) sẽ bay lên khoảng 7,5 độ so với đường chân trời. Cho rằng 7,5 độ là 1/4 của một vòng tròn, anh ta nhân khoảng cách từ Rhodes đến Alexandria với 48, và đạt được một giá trị cũng xấp xỉ 40.000 km. Máy tính thiên văn đầu tiên của Hy Lạp cổ đại Máy tính cơ học lâu đời nhất còn tồn tại trên thế giới là Cơ chế Antikythera . Thiết bị tuyệt vời được phát hiện trong một con tàu đắm cổ ngoài khơi đảo Antikythera của Hy Lạp vào năm 1900. Thiết bị hiện đã bị phân mảnh theo thời gian, nhưng khi còn nguyên vẹn, nó sẽ xuất hiện như một chiếc hộp chứa hàng chục bánh răng bằng đồng được gia công tinh xảo. Khi được quay bằng tay bằng tay cầm, các bánh răng quay ở bên ngoài hiển thị các giai đoạn của Mặt Trăng, thời gian của nguyệt thực và vị trí của năm hành tinh sau đó được biết đến (Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ) ở các vị trí khác nhau thời gian trong năm. Điều này thậm chí còn giải thích cho chuyển động ngược của chúng – một sự thay đổi ảo ảnh trong chuyển động của các hành tinh qua bầu trời. Chúng ta không biết ai đã xây dựng nó, nhưng nó có niên đại từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 1 TCN, và thậm chí có thể là công trình của Archimedes[10]. Công nghệ chế tạo bánh răng với sự tinh vi của cơ chế Antikythera đã không còn xuất hiện nữa trong một nghìn năm. Đáng buồn thay, phần lớn các công trình này đã bị thất lạc trong lịch sử và sự thức tỉnh khoa học của chúng ta đã bị trì hoãn hàng thiên niên kỷ. Là một công cụ để giới thiệu phép đo khoa học, các kỹ thuật của Eratosthenes tương đối dễ thực hiện và không yêu cầu thiết bị đặc biệt, cho phép những người mới bắt đầu quan tâm đến khoa học có thể hiểu bằng cách thực hiện, thử nghiệm và cuối cùng, thực hiện theo các bước chân một số bước đầu tiên các nhà khoa học. Người ta có thể suy đoán rằng nền văn minh của chúng ta có thể ở đâu bây giờ nếu khoa học cổ đại này tiếp tục không suy giảm. Hạnh Thục (lược dịch và chú thích) Chú thích: [1 ] Gareth Dorrian là Nghiên cứu viên Sau Tiến sĩ về Khoa học Không gian, Đại học Birmingham. [2] Ian Whittaker là Giảng viên Vật lý, Đại học Nottingham Trent. [3] Herodotos là một nhà sử học người Hy Lạp sống ở thế kỷ 5 trước Công nguyên. Ông được coi là “cha đẻ của môn sử học” trong văn hóa phương Tây. [4] Aristarchus của Samos là một nhà thiên văn và nhà toán học người Hy Lạp , sinh ra trên đảo Samos ở Hy Lạp. Ông là người Hy Lạp đầu tiên, đồng thời là người đầu tiên trên thế giới đã đưa ra luận cứ rõ ràng cho mô hình nhật tâm của hệ Mặt Trời, với việc đặt Mặt Trời (chứ không phải Trái Đất) ở trung tâm của vũ trụ. [5] Nicolaus Copernicus (1473 – 1543) là một nhà thiên văn học đã nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) trong cuốn sách Về sự chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium). [6] Pythagoras (sinh khoảng năm 580 đến 572 TCN – mất khoảng năm 500 đến 490 TCN) là một nhà triết học người Hy Lạp. Ông thường được biết đến như một nhà khoa học và toán học vĩ đại. [7] Eratosthenes (276 TCN – 194 TCN) là một nhà toán học, địa lý và thiên văn người Hy Lạp. Sinh thời, ông được gọi là “Beta”, do ông là người nổi tiếng thứ hai trên thế giới vào thời đó trong nhiều lĩnh vực, sau người đồng nghiệp và bạn thân là Archimedes. [8] Posidonius (135 – 51 TCN) là một chính trị gia người Hy Lạp, nhà thiên văn học, nhà chiêm tinh học, nhà địa lý học, nhà sử học, nhà toán học và giáo viên gốc Apamea, Syria. [9] BC là từ viết tắt của tiếng Anh: “Before Christ”, nghĩa là “trước khi chúa Giê-su ra đời”, cũng có nghĩa là Trước công nguyên (TCN). [10] Archimedes (287 TCN – 212 TCN) là một nhà toán học, nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát minh và nhà thiên văn học người Hy Lạp; ông được coi là một trong những nhà khoa học hàng đầu của thời kỳ cổ đại.
Kim tự tháp Etruscan Cái gọi là Kim tự tháp Etruscan là một tượng đài đá cự thạch, nằm ở thung lũng Tacchiolo gần thành phố Viterbo, Ý. Tên của di tích là do hình chóp bên của nó được chạm khắc từ đá magma tự nhiên, trong khi việc xây dựng nó có lẽ đầu tiên là do Nền văn minh Rinaldonian trước thời Etruscans. Nền văn minh Rinaldonian xuất hiện giữa 4000-2000 năm trước Công nguyên, và có kỹ năng cao trong việc chế tác đá để xây dựng các di tích nghi lễ phức tạp, chẳng hạn như Vòng tròn Đá Poggio Rota ở Tuscany. Các nguồn khác vẫn cho rằng kim tự tháp là một công trình xây dựng của người Etruscan, hoặc được phỏng theo công trình xây dựng của người Rinaldonian từ khoảng năm 700 trước Công nguyên đến năm 400 trước Công nguyên. Người Etruscan nổi lên vào khoảng năm 900 trước Công nguyên và thành lập ba liên minh thành phố, cho đến khi họ bị kế vị bởi Vương quốc La Mã đang trỗi dậy, đã lan rộng để thống trị khu vực vào thế kỷ 5 và 4 trước Công nguyên. Hình ảnh: Alessio Pellegrini – CC BY 2.0 Kim tự tháp được điêu khắc cẩn thận từ một khối đá núi lửa duy nhất, và nhìn về phía trước trông giống như một khu phức hợp bàn thờ lớn với một loạt các bậc thang dẫn lên bằng cầu thang. Ở phía bên trái của kim tự tháp, một cầu thang dài dẫn đến bàn thờ thứ nhất, trong khi ở phía bên phải có bàn thờ thứ hai với hai bên là một cái thang. Giữa cả hai khu vực, một loạt các bậc thang lớn hơn đã bị cắt dẫn đến “nơi cao”, được cho là nhằm phục vụ mục đích tôn giáo liên quan đến nước. Lý thuyết này được hỗ trợ bởi một bồn đá hình tứ giác nhìn ra kim tự tháp cho các nghi lễ tẩy rửa linh thiêng (một nghi lễ rửa các bộ phận của cơ thể, động vật hoặc vật chứa linh thiêng), trong khi một con kênh dài được cắt trong đá có lẽ được sử dụng để thoát nước chất lỏng. Gợi ý về các nghi lễ hiến tế vẫn chưa được xác định, nhưng vị trí của di tích dẫn đến việc nó bị che khuất hoàn toàn khỏi mặt trời vào buổi trưa, trong khi hướng thẳng hàng của nó quay về hướng tây bắc mà người Etruscans tin rằng các vị thần của thế giới ngầm đã sinh sống. Kim tự tháp lần đầu tiên được phát hiện bởi hai nhà khảo cổ học địa phương, Giovanni Lamoratta và Giuseppe Maiorano vào năm 1991, nhưng khám phá này đã thu hút được ít sự chú ý của các học giả và giới học thuật. Mãi cho đến năm 2008, Salvatore Fosci, một cư dân địa phương của Bomarzo đã dọn dẹp thảm thực vật mọc um tùm để phát hiện ra tầm cỡ của di tích. Bảo Nguyên (theo heitagedaily)
Etruscan pyramid The so-called Etruscan Pyramid is a megalithic stone monument, located in the Tacchiolo valley near the city of Viterbo, Italy. The monument's name is due to its side pyramid carved from natural igneous rock, while its construction was probably first attributed to the Rinaldonian Civilization before the Etruscans. The Rinaldonian civilization emerged between 4000-2000 BC, and was highly skilled at working stone to construct elaborate ceremonial monuments, such as the Poggio Rota Stone Circle in Tuscany. Other sources maintain that the pyramid was an Etruscan construction, or adapted from Rinaldonian construction from around 700 BC to 400 BC. The Etruscans emerged around 900 BC and established three city confederations, until they were succeeded by the rising Roman Kingdom, which spread to dominate the region in the 5th and 4th centuries. B.C. Image: Alessio Pellegrini – CC BY 2.0 The pyramid was carefully sculpted from a single block of volcanic rock, and from the front looks like a large altar complex with a series of steps leading up by stairs. On the left side of the pyramid, a long staircase leads to the first altar, while on the right side there is a second altar flanked by a ladder. Between both areas, a variety of step The larger one was cut off to the “high place,” which was said to serve a religious purpose related to water. This theory is supported by a quadrangular stone basin overlooking the pyramid for sacred ablutions (a ritual washing of parts of the body, animal, or sacred vessel), while a Long channels cut in the rock were probably used to drain liquids. Suggestions for sacrificial rituals have not been identified, but the location of the monument results in it being completely hidden from the noonday sun, while its alignment faces the northwest Etruscans believed that the gods of the underworld inhabited it. The pyramid was first discovered by two local archaeologists, Giovanni Lamoratta and Giuseppe Maiorano in 1991, but the discovery attracted little attention from scholars and academics. It wasn't until 2008 that Salvatore Fosci, a local resident of Bomarzo, cleared the overgrown vegetation to discover the enormity of the monument. Bao Nguyen (according to heitagedaily)
168 chuột con ‘không gian’ sinh ra từ tinh trùng đông lạnh trên ISS Tinh trùng chuột đông lạnh trên Trạm ISS trong gần 6 năm đã được đưa về Trái Đất và thụ tinh, cho ra đời 168 con chuột ‘không gian’ không bị dị tật di truyền. Tinh trùng chuột đông lạnh trên Trạm Không gian Quốc tế (ISS) trong gần 6 năm đã được đưa về Trái Đất và thụ tinh, cho ra đời 168 con chuột ‘không gian’ không bị dị tật di truyền. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản đã được xuất bản trên tạp chí Science Advances vào ngày 11/6. Tác giả dẫn đầu nghiên cứu, nhà sinh vật học Teruhiko Wakayama cho biết có rất ít sự khác biệt giữa những con chuột được thụ tinh từ tinh trùng trữ đông trong không gian và tinh trùng trữ đông tại Trái Đất . ‘Tất cả chuột con đều có vẻ ngoài bình thường. Khi các nhà nghiên cứu kiểm tra gen thì chúng tôi không tìm thấy bất kỳ bất thường nào’, ông Wakayama giải thích. Năm 2013, Wakayama cùng các đồng nghiệp tại Đại học Yamanashi (Nhật Bản) đã đưa ba hộp, mỗi hộp chứa 48 ống tinh trùng trữ đông của chuột lên ISS để phục vụ cho nghiên cứu dài hạn. Các ống tinh trùng chỉ có kích thước bằng một chiếc bút chì nhỏ giúp giảm chi phí khi phóng lên không gian. Họ muốn xác định xem liệu việc tiếp xúc lâu dài với bức xạ trong không gian có làm hỏng ADN trong các tế bào sinh sản hay truyền đột biến sang thế hệ sau hay không. Đây là vấn đề mà loài người cần quan tâm khi thực hiện các sứ mệnh thám hiểm không gian và khai thác thuộc địa trong tương lai. Wakayama viết trong báo cáo: ‘Trong tương lai, khi đến thời điểm di cư đến các hành tinh khác, chúng ta sẽ cần phải khẳng định sự đa dạng của nguồn gen, không chỉ đối với con người mà còn đối với vật nuôi. Tuy nhiên, vì lý do chi phí và an toàn, nhiều khả năng các tế bào gốc được lưu trữ sẽ được vận chuyển bằng tàu vũ trụ thay vì ở trong động vật sống’. Bên cạnh đó, Wakayama chỉ ra việc trữ đông tinh trùng trong không gian có thể duy trì nòi giống trong trường hợp trên Trái Đất xảy ra thảm họa diệt vong. Các nhà nghiên cứu đã thực hiện những ca thụ tinh từ các lô tinh trùng trữ đông trên ISS với các khoảng thời gian khác nhau, từ 9 tháng đầu tiên, sau đó là 2 năm và cuối cùng là 6 năm. Tổng cộng đã có 168 con chuột con được sinh ra. Họ xác nhận những con chuột ‘không gian’ khi trưởng thành được giao phối ngẫu nhiên với nhau. Thế hệ sau của những con chuột này cũng hoàn toàn bình thường về mặt di truyền. Theo Wakayama, quá trình trữ đông tinh trùng làm tăng khả năng sống sót của tinh trùng so với tinh trùng tươi, vì tinh trùng trữ đông không chứa nước bên trong nhân tế bào và tế bào. Nhóm khoa học tính toán tinh trùng đông lạnh có thể được lưu trữ tới 200 năm trên ISS. Do ngoài không gian chứa vô vàn bức xạ mạnh từ các hạt năng lượng Mặt trời và các tia vũ trụ thiên hà nên nghiên cứu lưu ý rằng vẫn cần phải theo dõi thêm tác động của bức xạ ngoài không gian đối với trứng đông lạnh và phôi thụ tinh của phụ nữ trước khi con người thực hiện các bước đi tiếp theo.
168 'space' baby mice born from frozen sperm on the ISS Mouse sperm frozen on the ISS for nearly 6 years was brought back to Earth and fertilized, giving birth to 168 'space' mice without genetic defects. Mouse sperm frozen on the International Space Station (ISS) for nearly 6 years was brought to Earth and fertilized, giving birth to 168 'space' mice without genetic defects. The research results of Japanese scientists were published in the journal Science Advances on June 11. The study's lead author, biologist Teruhiko Wakayama, said there was little difference between mice inseminated with sperm frozen in space and sperm frozen in space. Earth . ‘All the pups appeared normal. When researchers tested the genes, we did not find any abnormalities,' Mr. Wakayama explained. In 2013, Wakayama and colleagues at Yamanashi University (Japan) brought three boxes, each containing 48 frozen mouse sperm tubes, to the ISS for long-term research. Sperm tubes are only the size of a small pencil, helping to reduce costs when launching into space. They wanted to determine whether long-term exposure to radiation in space would damage DNA in reproductive cells or pass mutations to future generations. This is an issue that humanity needs to pay attention to when carrying out space exploration and colonization missions in the future. Wakayama wrote in the report: 'In the future, when the time comes to migrate to other planets, we will need to affirm the diversity of genetic resources, not only for humans but also for livestock. However, for cost and safety reasons, it is more likely that stored stem cells will be transported by spacecraft instead of in living animals. In addition, Wakayama pointed out that freezing sperm in space can maintain the species in case of a catastrophic disaster on Earth. Researchers performed fertilizations from batches of frozen sperm on the ISS for different periods of time, from the first 9 months, then 2 years and finally 6 years. A total of 168 pups were born. They confirmed that adult 'space' mice mated randomly with each other. The next generation of these mice was also completely genetically normal. According to Wakayama, the process of freezing sperm increases the viability of sperm compared to fresh sperm, because frozen sperm does not contain water inside the cell nucleus and cells. The scientific team calculates that frozen sperm can be stored for up to 200 years on the ISS. Because space contains a wealth of intense radiation from energetic solar particles and galactic cosmic rays, the study notes that it is still necessary to further monitor the effects of space radiation on frozen eggs and fertilized female embryos before humans take the next steps.
Báo cáo về UFO được chờ đợi từ lâu của Lầu Năm Góc trước Quốc hội Hoa Kỳ sẽ được đưa ra trong tháng này (6/2021) Tác giả: Mindy Weisberger Sau một cuộc điều tra kéo dài nhiều tháng, Lầu Năm Góc (The Pentagon – Hoa Kỳ) đã sẵn sàng đưa ra một báo cáo đề cập đến việc nhìn thấy các hiện tượng không xác định (UAP), thường được gọi là “vật thể bay không xác định”(unidentified flying objects) hay UFO . Nhưng đừng mong đợi một tiết lộ lớn về công nghệ bí mật của người ngoài hành tinh và phi thuyền ngoài Trái đất. Mục đích của báo cáo là thiết lập các tiêu chuẩn để ghi lại các lần nhìn thấy các vật thể bí ẩn và xác định xem những vật thể đó có gây ra mối đe dọa cho an ninh quốc gia hay không. Vào năm 2020, Ủy ban Tình báo Thượng viện Hoa Kỳ (The U.S.Senate Intelligence Committee) đã kêu gọi một cuộc điều tra về các UAP trong Đạo luật Ủy quyền Tình báo cho Năm Tài chính 2021 (The Intelligence Authorization Act for the Fiscal Year 2021). Theo tài liệu, các thành viên ủy ban lo ngại rằng “không có quy trình thống nhất, toàn diện trong Chính phủ Liên bang để thu thập và phân tích thông tin tình báo về các hiện tượng không xác định, bất chấp mối đe dọa tiềm tàng.” Sau khi dự luật được ban hành vào ngày 21 tháng 12 năm 2020, giám đốc tình báo quốc gia và Bộ trưởng Quốc phòng sau đó có 180 ngày để đưa ra một báo cáo cho ủy ban, “được đệ trình ở dạng chưa được phân loại”, về trạng thái hiện tại của các giao thức và những lần nhìn thấy UAP. Tạp chí Live Science (Khoa học đời sống) đã báo cáo trước đây – và thời hạn sáu tháng đó sẽ hết hạn vào tháng này (tức hết hạn vào tháng 6/2021 – ND). Thượng nghị sĩ Florida Marco Rubio từng là chủ tịch Ủy ban Tình báo khi đạo luật được soạn thảo và ban hành, và ông đã ra lệnh điều tra các UAP, vì coi chúng là một vấn đề an ninh quốc gia quan trọng, Rubio đã nói với nhà báo Bill Whitaker trong chương trình “60 Minutes” của CBS vào tháng Năm. Rubio nói: “Bất cứ thứ gì xâm nhập vào một vùng trời không được cho là có ở đó đều có mối đe dọa. “Tôi muốn chúng ta xem xét nó một cách nghiêm túc và có một quy trình để thực hiện nó một cách nghiêm túc. Tôi muốn chúng ta có một quy trình để phân tích dữ liệu mỗi khi nó xuất hiện.” Vào tháng 4 năm 2020, Hải quân Hoa Kỳ đã công bố ba đoạn video về các lần nhìn thấy UFO từ năm 2004 và 2015; các clip này được đặt biệt danh là “FLIR”, “GOFAST” và “GIMBAL” và chúng cho thấy những gì có vẻ là tàu vũ trụ đang di chuyển với tốc độ siêu thanh mà không có động cơ đẩy, Tạp chí Live Science đưa tin . (Ba video trước đó đã được đăng trực tuyến vào năm 2017 và 2018 bởi nhóm nghiên cứu UFO của Học viện Khoa học và Nghệ thuật Các ngôi sao.) Cựu Tổng thống Obama đưa ra ý kiến xung quanh các video cho thấy UFO xuất hiện gần các mục tiêu quân sự Mỹ “Có những cảnh quay và ghi chép về các vật thể trên bầu trời mà chúng ta không biết chính xác chúng là gì – chúng ta không thể giải thích cách chúng di chuyển, quỹ đạo của chúng. Chúng không có một mô hình dễ dàng để giải thích”, cựu tổng thống Barack Obama nói vào tháng Năm, trong một lần xuất hiện trên “The Late Late Show với James Corden” của CBS . Vì vậy, những gì có thể được bao gồm trong báo cáo? Không phải mọi thứ trong tài liệu sẽ được công bố công khai – trong khi báo cáo sẽ không được phân loại, nó “có thể bao gồm một phụ lục được phân loại”, Ủy ban Tình báo viết. Ủy ban đã yêu cầu phân tích chi tiết dữ liệu và thông tin tình báo của UAP, bao gồm cả thông tin do Cục Điều tra Liên bang (FBI) thu thập về UFO. Ủy ban cũng yêu cầu báo cáo phác thảo một quy trình chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, để giúp xác định các công nghệ không quen thuộc và phát hiện các mẫu UFO xuất hiện có thể ám chỉ ý định thù địch. Rubio nói: “Tôi muốn chúng tôi có một quy trình để phân tích dữ liệu mỗi khi nó được đưa vào. Rằng có một nơi mà điều này được lập danh mục và phân tích liên tục, cho đến khi chúng tôi nhận được một số câu trả lời”. “Có thể nó có một câu trả lời rất đơn giản. Có thể nó không có,” Rubio nói với Whitaker. “Chúng tôi sẽ tìm hiểu khi nhận được báo cáo đó.” Mindy Weisberger – Điền Sơn (chuyển ngữ)
The Pentagon's long-awaited UFO report to the US Congress will be released this month (June 2021). Author: Mindy Weisberger After a months-long investigation, the Pentagon is ready to release a report regarding sightings of unidentified phenomena (UAP), commonly known as “objects”. "unidentified flying objects" or UFOs . But don't expect a big reveal about secret alien technology and extraterrestrial spacecraft. The purpose of the report is to establish standards for recording sightings of mysterious objects and determining whether such objects pose a threat to national security. In 2020, the U.S. Senate Intelligence Committee called for an investigation into UAPs in the Intelligence Authorization Act for the Fiscal Year 2021. 2021). According to the document, committee members are concerned that “there is no unified, comprehensive process within the Federal Government to collect and analyze intelligence on unidentified phenomena, regardless of the threat potential.” After the bill is enacted on December 21, 2020, the director of national intelligence and the Secretary of Defense then have 180 days to issue a report to the committee, “submitted in unclassified form.” type”, about the current status of protocols and UAP sightings. Live Science (Life Sciences) magazine previously reported – and that six-month period will expire this month. Florida Senator Marco Rubio served as chairman of the Intelligence Committee when the bill was drafted and enacted, and he ordered an investigation into UAPs, considering them an important national security issue, Rubio said. told journalist Bill Whitaker on CBS's “60 Minutes” in May. “Anything that enters an airspace that is not supposed to be there poses a threat,” Rubio said. “I want us to take it seriously and have a process to take it seriously. I want us to have a process to analyze data every time it comes in.” In April 2020, Navy USA released three videos of UFO sightings from 2004 and 2015; the clips are nicknamed “FLIR,” “GOFAST,” and “GIMBAL,” and they show what appears to be spacecraft moving at supersonic speeds without thrusters, Live Science Magazine reported . (The three videos were previously posted online in 2017 and 2018 by the Star Academy of Arts and Sciences UFO research team.) Former President Obama commented on videos showing UFOs appearing near US military targets “There are footage and records of objects in the sky that we don't know exactly what they are – we can't explain how they move, their orbits. They don't have an easy pattern to explain,” former president Barack Obama said in May, during an appearance on CBS's “The Late Late Show with James Corden.” So what can be included in the report? Not everything in the document will be released publicly — while the report will be unclassified, it "may include a classified appendix," the Intelligence Committee wrote. The Committee requested detailed analysis of UAP data and intelligence, including information collected by the Federal Bureau of Investigation (FBI) on UFOs. The committee also requested a report outlining a process for sharing information between agencies, to help identify unfamiliar technologies and detect UFO sighting patterns that may imply hostile intent. “I want us to have a process to analyze data every time it comes in,” Rubio said. That there is a place where this is cataloged and analyzed continuously, until we get some answers.” “Maybe it has a very simple answer. Maybe it doesn’t,” Rubio told Whitaker. “We will find out when we get that report.” Mindy Weisberger – Dien Son (translated)
11 đại học sản sinh nhiều tỷ phú nhất Trong danh sách tỷ phú thế giới 2021 của Forbes, nhiều người tốt nghiệp từ các trường danh tiếng của Mỹ như Harvard, Stanford hay Yale. Đại học Harvard, Mỹ Harvard đứng đầu danh sách trường sản sinh ra nhiều tỷ phú nhất với 29 cựu sinh viên. Tổng tài sản của những người này đạt 209 tỷ USD. Trong đó 17 người hoạt động trong lĩnh vực tài chính và đầu tư. Đại học Harvard là viện đại học nghiên cứu tư thục, thành viên của Liên đoàn Ivy nằm ở Cambridge, bang Massachusetts. Với lịch sử, tầm ảnh hưởng và tài sản của mình, Harvard là một trong những trường danh tiếng nhất thế giới. Đại học Pennsylvania và Đại học Stanford, Mỹ Đại học Pennsylvania ở thành phố Philadelphia, bang Pennsylvania, và Đại học Stanford (hay Đại học Leland Stanford Junior) ở bang California cùng xếp thứ hai với 28 người. Tổng giá trị tài sản của các tỷ phú ở trường Pennsylvania lên tới 284,8 tỷ USD, trong khi ở trường Stanford là 124,4 tỷ USD. Đại học Pennsylvania cũng là bệ phóng cho hai tỷ phú nổi tiếng là cựu tổng thống Mỹ Donald Trump và doanh nhân Elon Musk. Đại học Yale, Mỹ Xếp thứ tư là Đại học Yale, một trong những viện đại học lâu đời nhất ở Mỹ. 21 tỷ phú tốt nghiệp ở đây có giá trị tài sản ước tính 140,8 tỷ USD. Năm 2018, cựu sinh viên Edward Bass tặng 160 triệu USD cho trường để cải tạo cơ sở vật chất. Đại học Mumbai, Ấn Độ Đại học Mumbai là cơ sở giáo dục duy nhất ngoài Mỹ có tên trong danh sách tỷ phú thế giới 2021 của Forbes. Trong 20 cựu sinh viên được công nhận là tỷ phú với tổng giá trị tài sản 162,8 tỷ USD, 4 người giàu có nhờ thừa kế. Đây cũng là ngôi trường tỷ phú giàu nhất châu Á Mukesh Ambani từng học. Đại học Cornell, Mỹ Đại học Cornell là cơ sở nghiên cứu tư nhân cung cấp chương trình giáo dục đặc biệt cho sinh viên đại học, sau đại học và những nhà nghiên cứu ở New York. 18 cựu sinh viên là tỷ phú, với tổng tài sản là 65,1 tỷ USD, giúp trường này đứng vị trí thứ 6 trong danh sách của Forbers. Chuck Feeney là cựu sinh viên nổi tiếng của Đại học Cornell khi cho đi toàn bộ tài sản 8 tỷ USD, trong đó gần một tỷ USD tặng cho trường. Đại học Southern California, Mỹ Là viện đại học tư thục phi lợi nhuận tọa lạc tại thành phố Los Angeles, bang California, Đại học Southern California từng là nơi học tập của 15 tỷ phú có tổng tài sản 58,5 tỷ USD. Marc Benioff, CEO của Công ty phần mềm Salesforce, là cựu sinh viên giàu nhất trường này khi sở hữu 8,4 tỷ USD. Viện Công nghệ Masschusetts (MIT), Mỹ Viện Công nghệ Masschusetts từng trao bằng tốt nghiệp cho 14 tỷ phú, với tổng tài sản 104 tỷ USD. Một nửa trong số này giàu có nhờ thừa kế. Các tỷ phú tự thân gồm có nhà toán học Jim Simons sở hữu 24,6 tỷ USD từ việc sáng lập quỹ Renaissance Technologies và đồng sáng lập kiêm CEO Dropbox, Drew Houston. MIT là viện đại học nghiên cứu tư thục ở thành phố Cambridge, bang Massachusetts. Trường nổi tiếng nhờ hoạt động nghiên cứu và giáo dục trong các ngành khoa học vật lý, kỹ thuật, cũng như các ngành sinh học, kinh tế học, ngôn ngữ học, và quản lý. Đại học Columbia, Đại học Princeton và Đại học California Berkeley, Mỹ Ba trường cùng có số tỷ phú như nhau với 11 người. Hai tỷ phú giàu nhất từng là sinh viên Đại học Columbia là ông chủ đội bóng New England Patriots và Rocco Commisso, nhà sáng lập công ty truyền thông Mediacom. Đại học Princeton có số lượng tỷ phú ít hơn trường đứng đầu, Đại học Harvard, nhưng giá trị tài sản ròng của những người giàu có từng học tại đây lại dẫn đầu danh sách. Lý do là Bill Gates và Mark Zuckerberg, hai người giàu nhất từng học ở Harvard, bỏ học giữa chừng nên không được tính. Trong khi đó, hai người giàu nhất từng học ở Princeton, ông chủ Amazon Jeff Bezos và vợ cũ MacKenzie Scott, đều tốt nghiệp. Tổng tài sản của họ là 230 tỷ USD, chiếm 80% sự giàu có của các tỷ phú Princeton. Đại học CaliforniaBerkeley là viện đại học công lập uy tín hàng đầu nằm trong khu vực vịnh San Francisco, thành phố Berkeley, bang California. Các tỷ phú từng học tại đây có số tài sản 82,6 tỷ USD. Năm nay, hai cựu sinh viên của trường giàu lên nhờ tận dụng tốt cơ hội trong Covid-19 , ghi tên mình trong danh sách tỷ phú. Bình Minh (Theo Forbes )
11 universities produce the most billionaires On Forbes' 2021 list of world billionaires, many people graduated from prestigious American schools such as Harvard, Stanford or Yale. Harvard University, USA Harvard tops the list of schools that produce the most billionaires with 29 alumni. The total assets of these people reached 209 billion USD. Of which 17 people work in the field of finance and investment. Harvard University is a private research university, a member of the Ivy League located in Cambridge, Massachusetts. With its history, influence, and assets, Harvard is one of the most prestigious schools in the world. University of Pennsylvania and Stanford University, USA The University of Pennsylvania in Philadelphia, Pennsylvania, and Stanford University (or Leland Stanford Junior University) in California both ranked second with 28 people. The total wealth of billionaires at Pennsylvania is up to 284.8 billion USD, while at Stanford it is 124.4 billion USD. The University of Pennsylvania is also the launching pad for two famous billionaires, former US president Donald Trump and businessman Elon Musk. Yale University, USA Ranked fourth is Yale University, one of the oldest universities in America. The 21 billionaires who graduated here have an estimated net worth of 140.8 billion USD. In 2018, alumnus Edward Bass donated $160 million to the school to renovate facilities. University of Mumbai, India Mumbai University is the only educational institution outside the US on Forbes' 2021 list of world billionaires. Of the 20 alumni recognized as billionaires with a total assets of 162.8 billion USD, 4 are rich through inheritance. This is also the school where Asia's richest billionaire Mukesh Ambani studied. Cornell University, USA Cornell University is a private research institution providing exceptional education to undergraduate and graduate students and researchers in New York. 18 alumni are billionaires, with a total assets of 65.1 billion USD, helping this school rank 6th on Forbes' list. Chuck Feeney is a famous alumnus of Cornell University who gave away his entire fortune of $8 billion, of which nearly $1 billion was donated to the school. University of Southern California, USA A non-profit private university located in Los Angeles, California, the University of Southern California was once the place of study for 15 billionaires with a total assets of 58.5 billion USD. Marc Benioff, CEO of software company Salesforce, is the school's richest alumnus, owning $8.4 billion. Massachusetts Institute of Technology (MIT), USA The Massachusetts Institute of Technology has awarded diplomas to 14 billionaires, with a total assets of 104 billion USD. Half of these are rich through inheritance. Self-made billionaires include mathematician Jim Simons who owns $24.6 billion from founding Renaissance Technologies and Dropbox co-founder and CEO Drew Houston. MIT is a private research university in Cambridge, Massachusetts. The school is renowned for its research and education in the physical sciences and engineering, as well as biology, economics, linguistics, and management. Columbia University, Princeton University and University of California Berkeley, USA The three schools have the same number of billionaires with 11 people. The two richest billionaires who were Columbia University students are the owner of the New England Patriots football team and Rocco Commisso, founder of media company Mediacom. Princeton University has fewer billionaires than the top school, Harvard University, but the net worth of the wealthy who studied there tops the list. The reason is that Bill Gates and Mark Zuckerberg, the two richest people who studied at Harvard, dropped out of college so they don't count. Meanwhile, the two richest people to ever study at Princeton, Amazon boss Jeff Bezos and his ex-wife MacKenzie Scott, both graduated. Their total assets are $230 billion, accounting for 80% of the wealth of Princeton billionaires. The University of California Berkeley is a leading prestigious public university located in the San Francisco Bay Area, Berkeley, California. Billionaires who studied here have assets of 82.6 billion USD. This year, two alumni of the school became rich by taking advantage of internal opportunities Covid-19 , put his name on the list of billionaires. Dawn (According to Forbes )
Đạo Phật giáo Hoà Hảo đ­ược khai sáng trên nền tảng đạo Bửu Sơn Kỳ H­ương của ông Đoàn Minh Huyên và lấy pháp tu Tịnh độ tông làm căn bản tu hành. Đạo Phật giáo Hoà Hảo với giáo pháp là học Phật, tu Nhân, tại gia cư sĩ, thực hiện Tứ ân: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất n­ước, Ân Tam bảo, Ân đồng bào nhân loại. Là một tôn giáo cách tân, có xu hư­ớng nhập thế, đạo rất coi trọng hoạt động từ thiện xã hội. Vì vậy, trong Hiến ch­ương của Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo đã xác định đường hư­ớng hành đạo là “vì Đạo pháp, vì Dân tộc”. Tôn chỉ hành đạo là học Phật, tu Nhân, tại gia cư­ sĩ, giáo huấn tín đồ về Tứ ân; thực hiện 8 điều răn cấm, cứu giúp ng­ười nguy khó, tư­ơng trợ trong quan, hôn, tang, tế và hoạt động từ thiện hữu ích cho xã hội. Ngoài ra, để phổ truyền giáo lý của đạo, Ban Trị sự TW Phật giáo Hoà Hảo đã mở nhiều lớp đào tạo giáo lý viên cho những ngư­ời làm nhiệm vụ truyền giảng đạo cho tín đồ. Mở đ­ược hàng chục lớp cho tín đồ học tập về giáo lý của đạo, tìm hiểu về chủ tr­ương, chính sách pháp luật về tôn giáo. Phạm Văn Thuận Chuyên viên Vụ Các tôn giáo khác
Hoa Hao Buddhism was founded on the foundation of Doan Minh Huyen's Buu Son Ky Huong religion and took Pure Land Buddhism as the basis of practice. Hoa Hao Buddhism's teachings are to study Buddhism, practice Humanity, be a lay person, and practice the Four Gratitudes: Gratitude to ancestors, parents, Gratitude to the country, Gratitude to the Three Jewels, Gratitude to fellow human beings. As an innovative religion with a tendency to enter the world, it attaches great importance to social charity activities. Therefore, in the Charter of the Hoa Hao Buddhist Church, the direction of religious practice is defined as "for Dharma, for the Nation". The principle of religious practice is to study Buddhism, practice Humanity, be a lay person, and teach followers about the Four Graces; Carry out the 8 commandments, help people in danger, assist in funerals, marriages, funerals, sacrifices and charitable activities useful to society. In addition, to propagate the teachings of the religion, the Central Executive Board of Hoa Hao Buddhism has opened many catechist training classes for those tasked with preaching the religion to believers. Opened dozens of classes for followers to learn about religion's teachings and learn about religious guidelines and legal policies. Pham Van Thuan Specialist in the Department of Other Religions
Sun Group trao tặng gói hỗ trợ đợt 3 trị giá 25 tỷ đồng, tiếp sức Kiên Giang chống dịch, đón khách tới Phú Quốc Tập đoàn Sun Group vừa khẩn cấp triển khai gói hỗ trợ trang thiết bị y tế với tổng trị giá 25 tỷ đồng nhằm tiếp sức và tăng cường năng lực y tế phòng chống dịch Covid-19 cho tỉnh Kiên Giang, trước ngưỡng cửa tỉnh này đang chuẩn bị cho kế hoạch thí điểm đón khách quốc tế đến Phú Quốc sử dụng “ hộ chiếu vắc-xin ”. Sáng 28/9, tại trụ sở Sở Y tế tỉnh Kiên Giang , Tập đoàn Sun Group đã chính thức trao tặng địa phương này gói hỗ trợ có tổng trị giá 25 tỷ đồng, gồm 120.000 bộ kit test nhanh, 3 xe cứu thương, 2 xe vận chuyển rác thải y tế. Đây là đợt hỗ trợ thứ ba của Sun Group nhằm tăng cường năng lực phòng chống dịch Covid-19 cho Kiên Giang, tạo điều kiện thuận lợi để tỉnh nhanh chóng kiểm soát dịch bệnh tại Phú Quốc, chuẩn bị mọi điều kiện an toàn, sẵn sàng cho việc triển khai thí điểm đón khách quốc tế sử dụng “hộ chiếu vắc-xin” trong thời gian tới theo chủ trương của Chính phủ. Sở Y tế Kiên Giang đã phân bổ 3 xe cứu thương do Sun Group tài trợ về cho huyện Vĩnh Thuận , Gò Quao và TP. Hà Tiên để kịp thời phục vụ công tác phòng, chống dịch Trước đó, Sun Group đã hai lần trao tặng Kiên Giang các gói hỗ trợ trang thiết bị, sinh phẩm y tế phòng chống dịch, kit xét nghiệm nhanh Covid-19… Tổng giá trị qua 03 đợt hỗ trợ là 41 tỷ đồng. Hiện nay, Bộ VHTTDL và UBND tỉnh Kiên Giang đã chính thức thống nhất đề xuất phương án đón khách quốc tế đến Phú Quốc bằng “hộ chiếu vắc- xin”, dự kiến bắt đầu từ trung tuần tháng 11. Tình hình dịch bệnh tại Phú Quốc hiện nay đã cơ bản được kiểm soát, khi thành phố đã nhanh chóng khoanh vùng, truy vết nguồn lây nhiễm. Để chuẩn bị cho kế hoạch đón khách quốc tế, Bộ Y tế cũng đã đồng ý phân bổ tăng cường cho Phú Quốc 300.000 liều vắc xin, hiện đang chờ kiểm định để tiêm cho người dân, nhằm đảm bảo miễn dịch cộng đồng trước khi kế hoạch đón khách chính thức được triển khai. Chia sẻ về quyết định này, ông Phạm Quốc Quân –Ủy viên HĐQT, Chủ tịch Sun Group Vùng Miền Nam cho biết: “Chúng tôi hiểu rằng, mở cửa Phú Quốc cũng chính là tiền đề quan trọng để mở cửa và từng bước phục hội du lịch Việt Nam. Là doanh nghiệp đồng hành với sự phát triển của Phú Quốc, Kiên Giang và luôn sát cánh với địa phương trong giai đoạn chống dịch, Sun Group mong muốn được tiếp tục chung tay tiếp sức giúp Kiên Giang tăng cường năng lực y tế phòng chống dịch bệnh ở cấp độ cao hơn, sẵn sàng đối mặt với những tình huống dịch phức tạp hơn, từ đó giúp Phú Quốc sẵn sàng, tự tin đón khách quốc tế và khách nội địa trong thời gian tới”. Không chỉ Kiên Giang, rất nhiều địa phương trên cả nước đều đã liên tục nhận được sự hỗ trợ và đồng hành của Tập đoàn Sun Group trong công cuộc chống dịch, kể từ khi Covid-19 tấn công Việt Nam. Bằng nhiều hình thức, từ ủng hộ tiền mặt, trang thiết bị và sinh phẩm y tế đến lương thực, thực phẩm cho người dân nghèo, tài trợ xây dựng nhiều bệnh viện dã chiến, trung tâm hồi sức tích cực trên cả nước, Sun Group đã và đang là một trong những doanh nghiệp tư nhân đi đầu trong công tác hỗ trợ Chính phủ và các địa phương chống dịch./.
Sun Group awarded the third round of support package worth VND 25 billion, helping Kien Giang fight the epidemic and welcoming visitors to Phu Quoc Group Sun Group has just urgently deployed a medical equipment support package with a total value of 25 billion VND to support and strengthen the medical capacity to prevent the Covid-19 epidemic for Kien Giang province, on the threshold of which this province is preparing for Pilot plan to welcome international visitors to Phu Quoc using " Vaccine passport ”. On the morning of September 28, at the headquarters of the Provincial Department of Health Kien Giang , Sun Group officially awarded this locality a support package worth a total of 25 billion VND, including 120,000 rapid test kits, 3 ambulances, and 2 medical waste transport vehicles. This is the third round of support from Sun Group to strengthen Covid-19 epidemic prevention capacity for Kien Giang, create favorable conditions for the province to quickly control the epidemic in Phu Quoc, prepare all safe conditions, ready for the pilot implementation of welcoming international visitors using "vaccine passports" in the near future according to the Government's policy. Kien Giang Department of Health has allocated 3 ambulances sponsored by Sun Group to the district Vinh Thuan , Go Quao and City. Ha Tien to promptly serve the work of epidemic prevention and control Previously, Sun Group twice awarded Kien Giang support packages for equipment, medical biological products for epidemic prevention, Covid-19 rapid testing kits... The total value through 03 support rounds is 41 billion VND. Currently, the Ministry of Culture, Sports and Tourism and the People's Committee of Kien Giang province have officially agreed to propose a plan to welcome international visitors to Kien Giang province. Phu Quoc with a "vaccine passport", expected to start from mid-November. The epidemic situation in Phu Quoc is currently basically under control, as the city has quickly localized and traced the source of infection. To prepare for the plan to welcome international visitors, the Ministry of Health has also agreed to allocate 300,000 doses of vaccine to Phu Quoc, currently awaiting testing, to vaccinate people, to ensure community immunity before The official welcome plan has been implemented. Sharing about this decision, Mr. Pham Quoc Quan - Member of the Board of Directors, Chairman of Sun Group Southern Region said: “We understand that, open Phu Quoc It is also an important premise to open and gradually restore Vietnam's tourism. As an enterprise that accompanies the development of Phu Quoc and Kien Giang and always stands side by side with the locality during the epidemic prevention period, Sun Group wishes to continue to join hands to help Kien Giang strengthen its preventive medical capacity. epidemic at a higher level, ready to face more complicated epidemic situations, thereby helping Phu Quoc be ready and confident to welcome international and domestic visitors in the near future." Not only Kien Giang, many localities across the country have continuously received support and companionship from Sun Group in the fight against the epidemic, since Covid-19 attacked Vietnam. In many forms, from donating cash, equipment and medical biological products to food for poor people, sponsoring the construction of many field hospitals and intensive care centers across the country, Sun Group has been one of the leading private enterprises in supporting the Government and localities to fight the epidemic./.
Hệ sinh thái Sun Group & giấc mơ “người khổng lồ” mang quốc tịch Việt Nam Năm 2009, tuyến cáp treo đầu tiên của khu du lịch Sun World Ba Na Hills đi vào hoạt động. Cũng từ đó, những công trình chất lượng và đẳng cấp thế giới “made in Vietnam” lần lượt ra đời cùng sự lớn mạnh của thương hiệu Sun Group, tạo nên những hệ sinh thái đồng bộ, bài bản, bền vững trên khắp ba miền đất nước. Khát vọng “để người Việt có thể ngẩng cao đầu bước ra thế giới” Ba năm trước, khi thương hiệu vui chơi giải trí Sun World của tập đoàn Sun Group đã nổi tiếng khắp cả nước và ghi những dấu ấn trên thế giới, góp phần nâng tầm du lịch Việt, ông Đặng Minh Trường – Chủ tịch HĐQT Sun Group đã chia sẻ một lý do tưởng chừng rất bình dị cho những nỗ lực của tập đoàn này: “Chúng tôi mong muốn đem đến nhiều hơn nữa những trải nghiệm vui chơi giải trí đẳng cấp quốc tế, để du khách Việt không phải sang tận nước ngoài đi chơi công viên”. Sun World Ba Na Hills – công trình đầu tiên của hệ thống khu vui chơi giải trí Sun World Từ mong ước giản dị đó, Sun Group đã không chỉ thành công trong việc “mang thế giới về Việt Nam”, mà họ còn đưa Việt Nam đến với thế giới một cách đầy thuyết phục. Hàng loạt khách sạn, khu nghỉ dưỡng sang trọng thuộc thương hiệu Sun Hospitality Group của Sun Group được vinh danh trong các giải thưởng danh giá quốc tế. Cái tên “Việt Nam” liên tục được xướng lên trong những lễ trao giải bên cạnh các “ngôi sao du lịch” toàn thế giới, khẳng định đẳng cấp của du lịch nghỉ dưỡng Việt. Và những hình ảnh tráng lệ, sang trọng của InterContinental Danang Sun Peninsula Resort – nơi diễn ra Hội nghị thượng đỉnh APEC 2017 – được truyền thông khắp thế giới, đã thực sự gây ấn tượng mạnh, mang đến cái nhìn khác biệt cho du lịch Việt Nam. InterContinental Danang Sun Peninsula Resort – tuyệt tác nghỉ dưỡng tại bán đảo Sơn Trà Với Sun World và Sun Hospitality Group, Sun Group đã tiên phong tạo nên một xu hướng vui chơi giải trí “đa trong một” tại Việt Nam. Không chỉ bắt kịp xu hướng thế giới, mà còn tạo nên những sức hút mang đậm tinh thần Việt. Nhưng không dừng lại ở đó, Sun Group còn có ước mơ lớn hơn. Uớc mơ mang phồn thịnh tô màu cho những vùng đất Một hệ sinh thái mang thương hiệu Sun Group đã thành hình. Với ba thương hiệu Sun World, Sun Hospitality Group và Sun Property Group hoạt động đồng bộ trong ba lĩnh vực Vui chơi giải trí – Du lịch nghỉ dưỡng – Bất động sản cao cấp, được kiến tạo bài bản, ở cả 3 miền đất nước, Sun Group đã mang tới cho khách hàng trải nghiệm “all-in-one” đẳng cấp, chất lượng, khác biệt. Sự đồng bộ trong chất lượng, tiêu chuẩn hoạt động được vun đắp bởi cả ba “chân kiềng” đã tối đa hóa được giá trị của cả hệ sinh thái, mang lại giá trị tối ưu và lâu dài cho khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Những hệ sinh thái đa màu sắc với tiêu chuẩn quốc tế đã “đánh thức” những vùng đất giàu tiềm năng nhưng chưa được khai thác xứng tầm, bằng sự phong phú trong trải nghiệm, bằng sự đủ đầy trong đời sống, và bằng sự thịnh vượng đang mỗi ngày có mặt rõ nét hơn tại Sa Pa , Quảng Ninh , Thanh Hóa , Đà Nẵng hay Phú Quốc … Hotel de la Coupole, MGallery – khách sạn 5 sao quốc tế đầu tiên tại Sa Pa Đến Sa Pa ngày nay, bạn sẽ ngỡ ngàng trước “cuộc chuyển mình” ngoạn mục của thị trấn sương mù ngày nào. Một khu du lịch tầm cỡ Sun World Fansipan Legend đưa du lịch Lào Cai thăng hạng thế giới với các giải thưởng danh giá. Một Hotel de la Coupole, MGallery – khách sạn 5 sao quốc tế đầu tiên tại xứ sương mù với những tiêu chuẩn và trải nghiệm đẳng cấp. Một dự án bất động sản Sun Plaza Cầu Mây đang dần thành hình, đồng điệu và giao hòa với nét văn hóa Tây Bắc đặc trưng, tạo nên không gian mua sắm, giải trí vừa sang trọng, tinh tế, vừa đậm sắc màu bản địa. Trong khi đó, Quảng Ninh với sức bật mạnh mẽ những năm qua đã không ngừng vượt lên, dẫn đầu về lượng khách đến, nhờ sự góp mặt của những dự án đẳng cấp mà Sun Group đã nỗ lực tạo nên. Đó là Tổ hợp vui chơi giải trí Sun World Halong Complex lớn nhất miền Bắc, Khu nghỉ dưỡng Premier Village Halong Resort hay khu nghỉ dưỡng suối khoáng chuẩn Nhật đầu tiên của Việt Nam, những dự án bất động sản cao cấp hàng đầu như Sun Grand City Feria, tới đây là Sun Onsen Village – Limited Edition, Sun Marina Town, những công trình không-thủy-bộ quy mô như Sân bay quốc tế Vân Đồn , Cảng tàu khách Hạ Long, cao tốc Hạ Long- Vân Đồn, Vân Đồn-Móng Cái… Sun Group đã tạo nên một hệ sinh thái hoàn chỉnh đồng bộ với hệ thống hạ tầng giao thông đẳng cấp nhất cả nước, góp phần trang hoàng cho vùng di sản bằng sự phồn thịnh, tràn đầy sức sống. Khu nghỉ dưỡng Premier Village Danang Resort nhìn ra bãi biển tuyệt đẹp của Đà Nẵng Và chắc chắn không thể không nhắc đến câu chuyện của Đà Nẵng , điểm dừng chân đầu tiên của Sun Group khi trở về từ Ukraine. Từ một “trạm trung chuyển” tại miền Trung, với sự chung tay góp sức của Sun Group, Đà Nẵng đã trở thành điểm đến nổi tiếng toàn thế giới với tuyệt tác Cầu Vàng , InterContinental Danang Sun Peninsula Resort, Công viên Châu Á – Asia Park hay Premier Village Danang Resort – khu nghỉ dưỡng biệt thự dành cho gia đình hàng đầu thế giới, khách sạn MICE hàng đầu Novotel Danang Premier Han River…. Sun Premier Village Primavera như bức tranh Địa Trung Hải đẹp ngoạn mục bên bờ biển Nam đảo Ngọc Nam Phú Quốc có lẽ là điểm đến mang đậm nhất dấu ấn thay da đổi thịt khi có sự xuất hiện của cái tên Sun Group. Gần 50 công trình mà Sun Group đã và đang kiến tạo đã góp phần đưa Phú Quốc ghi danh trên bản đồ nghỉ dưỡng toàn cầu, với những khu nghỉ dưỡng đẳng cấp như JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay, Premier Village Phu Quoc Resort, Premier Residences Phu Quoc Emerald Bay, Cáp treo vượt biển dài nhất thế giới, tổ hợp vui chơi giải trí biển Sun World Hon Thom Nature Park, những dự án hứa hẹn đưa An Thới thành điểm hẹn thượng lưu, trung tâm văn hóa kinh tế mới của Phú Quốc như Sun Premier Village Primavera, khu đô thị Sun Grand City New An Thới, khu phức hợp Sun Grand City Hillside Residence, khu đô thị nghỉ dưỡng phong cách nhiệt đới Sun Tropical Village, tiên phong dẫn dắt xu hướng wellness second home (ngôi nhà thứ hai phục vụ chăm sóc sức khỏe) tại đảo ngọc. Và giấc mơ có một “người khổng lồ” mang quốc tịch Việt Nam trên trường du lịch quốc tế có lẽ không còn quá xa vời…
Sun Group ecosystem & the dream of a "giant" with Vietnamese nationality In 2009, the first cable car line of Sun World Ba Na Hills tourist area came into operation. Since then, quality and world-class projects "made in Vietnam" have been born one after another along with the growth of the Sun Group brand, creating synchronous, methodical and sustainable ecosystems across three regions. country region. Aspiration "so that Vietnamese people can walk out into the world with their heads held high" Three years ago, when the entertainment brand Sun World of Sun Group has become famous throughout the country and made its mark in the world, contributing to raising the level of Vietnamese tourism. Mr. Dang Minh Truong - Chairman of the Board of Directors of Sun Group shared a seemingly simple reason for The efforts of this group: "We want to bring more world-class entertainment experiences, so that Vietnamese tourists do not have to go abroad to visit the park." Sun World Ba Na Hills - the first project of the Sun World entertainment area system From that simple wish, Sun Group has not only succeeded in "bringing the world to Vietnam", but they have also brought Vietnam to the world in a convincing way. A series of luxury hotels and resorts under the Sun Hospitality Group brand of Sun Group have been honored in prestigious international awards. The name "Vietnam" is constantly announced in award ceremonies alongside "travel stars" around the world, affirming the class of Vietnamese resort tourism. And the magnificent, luxurious images of InterContinental Danang Sun Peninsula Resort - where the 2017 APEC Summit took place - was reported around the world, and has truly made a strong impression, bringing a different perspective to Vietnamese tourism. InterContinental Danang Sun Peninsula Resort - a masterpiece of relaxation on the peninsula Son Tra With Sun World and Sun Hospitality Group, Sun Group has pioneered a "multi-in-one" entertainment trend in Vietnam. Not only does it keep up with world trends, but it also creates attractions imbued with Vietnamese spirit. But it doesn't stop there, Sun Group There are even bigger dreams. The dream of bringing prosperity colors the lands An ecosystem branded Sun Group has formed. With three brands Sun World, Sun Hospitality Group and Sun Property Group Operating synchronously in three areas of Entertainment - Resort Tourism - High-end real estate, methodically created, in all three regions of the country, Sun Group has brought customers an "all-round" experience. in-one” class, quality, difference. The synchronization in quality and operating standards cultivated by all three "legs" has maximized the value of the entire ecosystem, bringing optimal and long-term value to customers using the product. , service. Colorful ecosystems with international standards have "awakened" lands rich in potential but not yet fully exploited, with the richness of experience, the fullness of life, and the Prosperity is appearing more clearly every day Sa Pa , Quang Ninh , Thanh Hoa , Danang nice Phu Quoc … Hotel de la Coupole, MGallery – the first international 5-star hotel in Sa Pa Coming to Sa Pa today, you will be surprised by the spectacular "transformation" of the foggy town. A large tourist area Sun World Fansipan Legend bringing Lao Cai tourism to world rankings with prestigious awards. A Hotel de la Coupole, MGallery - the first international 5-star hotel in the land of fog with classy standards and experiences. A real estate project Sun Plaza Cau May is gradually taking shape, in harmony and harmony with the typical Northwest culture, creating a shopping and entertainment space that is both luxurious, sophisticated, and rich in local colors. land. Meanwhile, Quang Ninh With strong resilience over the past years, it has continuously surpassed and led in the number of visitors, thanks to the presence of high-class projects that Sun Group has strived to create. These are the largest entertainment complex Sun World Halong Complex in the North, Premier Village Halong Resort or Vietnam's first Japanese-standard mineral spring resort, and top high-end real estate projects such as Sun. Grand City Feria, coming here is Sun Onsen Village – Limited Edition, Sun Marina Town, large-scale land-land projects such as the International Airport Van Don , Ha Long Passenger Port, Ha Long-Van Don, Van Don-Mong Cai expressway... Sun Group has created a complete ecosystem in sync with the most classy transportation infrastructure system in the country, contributing to Royalize the heritage area with prosperity and full of vitality. Premier Village Danang Resort overlooks Da Nang's beautiful beaches And certainly we can't help but mention the story of Danang , Sun Group's first stop when returning from Ukraine. From a "transit station" in the Central region, with the contribution of Sun Group, Da Nang has become a world-famous destination for its masterpieces. Golden Bridge , InterContinental Danang Sun Peninsula Resort, Asia Park – Asia Park or Premier Village Danang Resort - the world's leading family villa resort, leading MICE hotel Novotel Danang Premier Han River... Sun Premier Village Primavera is like a breathtakingly beautiful Mediterranean painting on the coast of the Southern Pearl Island Southern Phu Quoc is probably the destination that bears the deepest mark of change with the appearance of the name Sun Group. Nearly 50 projects that Sun Group has been creating have contributed to putting Phu Quoc on the global resort map, with high-class resorts such as JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay, Premier Village Phu Quoc Resort, Premier Residences Phu Quoc Emerald Bay, the world's longest sea-crossing cable car, Sun World Hon Thom Nature Park marine entertainment complex, projects that promise to turn An Thoi into an upscale meeting place, a new economic and cultural center of Phu Quoc such as Sun Premier Village Primavera, Sun Grand City New An Thoi urban area, Sun Grand City Hillside Residence complex, Sun Tropical Village tropical resort urban area, pioneering the wellness second home trend. (second home for health care) on pearl island. And the dream of having a "giant" of Vietnamese nationality on the scene tourism Internationalization is probably not too far away...
Ngắm hoa nở ngập trời Sa Pa đẹp đến thổn thức Đến hẹn lại lên, Sa Pa lại đang vào mùa “bay giữa mùa hoa” đẹp nhất trong năm, mùa du khách nô nức đi săn lúa, săn mây, ngắm hoa trải dài những triền đồi mỗi khi thu về. Sa Pa năm nay rất khác, vẫn rực rỡ và nên thơ đến mê mẩn, nhưng tất cả đều nhớ mong bước chân bạn trở lại trên mảnh đất này. Thu sang, đất trời Sa Pa càng quyến rũ. Lớp lớp ruộng bậc thang rực lên màu nắng vàng óng ả, khiến những trái tim mê xê dịch năm nay thêm thổn thức, chỉ ước sao được về ngay với thị trấn trong sương êm đềm và thưởng trọn kiệt tác của thiên nhiên Tây Bắc ấy. Trong khi chúng ta gác lại sở thích đi săn lúa, thưởng hoa mùa này mỗi năm để cùng nhau phòng chống dịch, thì những suối hoa đang bung nở trải dài từ đỉnh Fansipan tới khắp thung lũng, rực rỡ hơn bất cứ mùa hoa nào trước đây. Màu tím nhạt của cẩm tú cầu, màu đỏ như nhung của đồi hoa xác pháo, hay đồi hoa tím mênh mông, vườn hồng khổng lồ bung nở đủ sắc giữa núi rừng Hoàng Liên. Tháng 9 cũng là lúc đồi hoa đuôi công ngay phía cổng vào khu du lịch Sun World Fansipan Legend nở rộ. Sắc hồng, tím nhạt và trắng đan xen mong manh dịu ngọt, những sóng hoa đung đưa theo gió khiến bất cứ ai đặt chân tới cũng tưởng như đang lạc vào miền tiên cảnh. Sở hữu thung lũng hoa hồng đạt kỷ lục “Thung lũng hoa hồng lớn nhất Việt Nam” rộng tới 50.000 m2, trải dài dọc theo đường tàu hoả leo núi Mường Hoa từ thị trấn Sa Pa đến khu vực ga đi cáp treo, Sun World Fansipan Legend hội tụ 150 loài hoa hồng danh tiếng của Việt Nam và hồng ngoại. Giữa tiết trời se lạnh mây bay, còn gì thích thú hơn khi được ngắm từ hồng vàng rực rỡ đến hồng đỏ kiêu kỳ, hồng trắng tinh khôi, hồng cổ Sa Pa từng chùm nở rộ… cho đến những bông hồng đẹp lạ như ở xứ hoa hồng Bulgari xa xôi. Những ngày du lịch trầm lắng này, các nhân viên cây xanh của khu du lịch vẫn kỳ công chăm bón cho khu vườn đẹp như cổ tích nơi miền đất cằn sỏi đá, chờ mong một ngày được đón bước chân du khách trở lại rộn ràng. Không rực rỡ như vườn hồng, triền hoa mã tiền thảo tím lại mang vẻ đẹp mộng mị, lãng mạn, hư ảo. Trải rộng tới 15ha, thảm hoa tím hòa với sắc trời, sắc mây Fansipan như một bức tranh siêu thực của thiên nhiên, “đốn tim” bất cứ ai có dịp ngắm nhìn. Còn những triền hoa dơn lúa – “đặc sản” mới năm nay của Fansipan lại tô điểm cho đỉnh thiêng một sắc cam rực lửa, từ vô vàn những nhành hoa thanh mảnh, dịu dàng mà rất đỗi thanh tao. Dơn lúa vốn là loại hoa khó trồng, vậy mà sau rất nhiều lần thử và thất bại với biết bao kỳ công, khu du lịch đã thắp sáng được loài hoa này trên đỉnh Fansipan sương gió khắc nghiệt. Ngắm thảm hoa tầng tầng lớp lớp trên đỉnh Fansipan miên man tới tận chân trời, càng nhớ quay quắt không gian khoáng đạt kỳ vĩ, trong mát của Sa Pa, nhớ bầu không khí nhộn nhịp không ngớt khi lang thang chợ đêm, quây quần quanh sạp đồ nướng ấm áp bên bạn bè, tán gẫu bên ly cà phê, hay la cà khắp thị trấn và các bản làng, ngắm trọn những nụ cười hồn hậu của bà con miền sơn cước. Sa Pa hôm nay tĩnh lặng nhưng vẫn đẹp dịu dàng, cuốn hút. Hẹn ngày hội ngộ, ta sẽ thỏa thuê ôm trọn vào lòng vẻ đẹp và hơi thở bình yên miền Tây Bắc ấy, để tâm hồn lại được say mê với thiên nhiên, với những khoảnh khắc dịu ngọt, an yên. Ảnh: Nguyễn Văn Giới, Quyền Anh Tuấn, Nguyễn Tiến Đạt
Watching the flowers blooming in Sa Pa is so beautiful it makes you sob To reschedule up, Sa Pa It's the most beautiful "flying in the middle of the flower season" season of the year, the season when tourists eagerly hunt rice, hunt clouds, and watch flowers spread across the hillsides every autumn. Sa Pa this year is very different, still brilliant and enchantingly poetic, but everyone misses your footsteps on this land. When autumn comes, Sa Pa's land and sky become more attractive. Layers of terraced fields glow with the golden sunlight, making hearts that love to travel this year feel even more excited, wishing they could return right away to the town in the gentle mist and fully enjoy that masterpiece of Northwest nature. . While we put aside our hobby of hunting rice and enjoying flowers this season every year to work together to prevent epidemics, flower streams are blooming stretching from Fansipan peak to the entire valley, more brilliant than any other flower season. before. The light purple of hydrangeas, the velvet red of the hill of firecracker flowers, or the vast purple flower hill, the giant rose garden blooming in all colors in the middle of Hoang Lien mountains and forests. September is also the time when the peacock tail flower hill is right at the entrance to the tourist area Sun World Fansipan Legend full bloom. The colors of pink, light purple and white intertwine delicately and sweetly, the waves of flowers swaying with the wind make anyone who sets foot in it feel like they are lost in a fairyland. Possessing a rose valley that holds the record of "Vietnam's largest rose valley" with an area of ​​up to 50,000 m2, stretching along the Muong Hoa mountain railway from the town. Sa Pa Coming to the cable car station area, Sun World Fansipan Legend brings together 150 species of famous Vietnamese roses and infrared. In the midst of the cold, cloudy weather, what could be more enjoyable than seeing bright yellow roses, haughty red roses, pure white roses, Sapa ancient roses blooming in bunches... to strangely beautiful roses like those in The distant land of Bulgarian roses. These quiet tourist days, the area's green staff tourism Still diligently cultivating the beautiful fairy-tale garden in the rocky land, looking forward to the day when we can welcome the bustling footsteps of tourists again. Not as brilliant as the rose garden, the purple hibiscus flowers have a dreamy, romantic, and unreal beauty. Spreading up to 15 hectares, the purple flower carpet blends with the colors of the sky and clouds of Fansipan like a surreal picture of nature, "capturing the hearts" of anyone who has the opportunity to see it. As for the rice flower slopes - this year's new "specialty". Fansipan again adorns the sacred peak with a fiery orange color, from countless slender, gentle and very elegant flower branches. Don rice is inherently a difficult flower to grow, but after many tries and failures with countless feats, the tourist area was able to light up this flower on the harsh, windy Fansipan peak. Admire the layered flower carpet at the top Fansipan endlessly reaching to the horizon, I miss even more the wonderful, cool, spacious space of Sa Pa, miss the endlessly bustling atmosphere when wandering the night market, gathering around the warm barbecue stalls with friends, chatting over a cup of coffee, or wandering around towns and villages, admiring the kind smiles of the mountainous people. Sa Pa today is quiet but still beautiful, gentle and attractive. On the day of our reunion, we will fully embrace the beauty and peaceful breath of the Northwest, so that our souls can once again be fascinated with nature, with sweet, peaceful moments. Photos: Nguyen Van Gioi, Quyen Anh Tuan, Nguyen Tien Dat
Sun Group khẩn cấp hỗ trợ trang thiết bị y tế cho bệnh viện dã chiến Tây Ninh Ngay sau những hỗ trợ khẩn cấp tới hàng loạt tỉnh phía Nam , mới đây nhất, Tập đoàn Sun Group tiếp tục trao tặng Tây Ninh hệ thống trang thiết bị và sinh phẩm y tế phòng chống dịch Covid-19 trị giá hơn 10 tỷ đồng. Trong số đó, nhiều trang thiết bị sẽ được dùng hỗ trợ Tây Ninh thành lập bệnh viện dã chiến. Cụ thể, Tập đoàn Sun Group đã tài trợ khẩn cấp cho Tây Ninh các thiết bị vận hành và sinh phẩm để phục vụ hệ thống xét nghiệm PCR cùng với 2000 bộ đồ phòng hộ, 2000 bộ đồ phòng dịch tấm chắn, kịp thời đáp ứng nhu cầu cấp thiết trong phòng chống và điều trị Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Cùng với đó, Sun Group cũng trao tặng Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) Tây Ninh 15.000 bộ kit xét nghiệm nhanh kháng nguyên SARS-CoV-2 để phân bổ cho các khu cách ly, khu phong tỏa và các điểm chống dịch, đẩy nhanh và hỗ trợ cho công tác xét nghiệm, khoanh vùng dập dịch. Được biết, các bộ kit xét nghiệm trên của hãng Abbott Lab (Mỹ) theo tiêu chuẩn của Tổ chức y tế thế giới (WHO), được Bộ Y tế cấp phép lưu hành và có kết quả xét nghiệm gần như ngay tức thời. Đây là những hỗ trợ vô cùng thiết yếu đáp ứng nhu cầu sàng lọc và phát hiện nhanh các ca bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh, trong bối cảnh dịch bệnh đang diễn biến phức tạp tại hầu khắp các tỉnh thành phía Nam cũng như tại Tây Ninh, với số lượng ca mắc mới tăng nhanh. Ngoài ra, Tập đoàn này cũng tài trợ các thiết bị với trị giá khoảng 2 tỷ đồng cho công tác thiết lập, vận hành bệnh viện dã chiến tại Tây Ninh. Đến ngày 26/7/2021, toàn bộ các gói trang thiết bị, sinh phẩm y tế nói trên đã được Sun Group trao cho CDC Tây Ninh, Sở Y tế Tây Ninh để kịp thời phân bổ tới các trung tâm y tế trên địa bàn tỉnh. Ước tính tổng trị giá các gói tài trợ là khoảng hơn 10 tỷ đồng. Chia sẻ về những đóng góp của Sun Group cho công tác phòng chống Covid-19 trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, ông Đặng Minh Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn cho biết : “Tây Ninh là một trong những địa phương hiện có diễn biến dịch phức tạp, mọi sự hỗ trợ đối với tỉnh và bà con trong thời điểm này đều đáng quý. Chúng tôi hi vọng những đóng góp của Sun Group sẽ phần nào củng cố thêm nguồn lực cũng như mang lại niềm động viên tinh thần tới chính quyền và người dân, để Tây Ninh tiếp tục chân cứng đá mềm vượt qua thử thách trước mắt, sớm ngăn chặn được dịch bệnh và nhanh chóng cùng với cả nước ổn định đời sống kinh tế, xã hội”. Như vậy, Sun Group đã ủng hộ các tỉnh, thành phía Nam 80 tỷ đồng trang thiết bị và sinh phẩm y tế trong đợt dịch được đánh giá là nặng nề và phức tạp nhất kể từ khi Covid-19 bùng phát tại Việt Nam. Sun Group đã tài trợ và trực tiếp thi công, lắp đặt các trang thiết bị y tế hiện đại cho nhiều địa phương trên cả nước Luôn đặt sự phát triển của tập đoàn song hành với sự phát triển của đất nước, trong bối cảnh tổ quốc lâm nguy bởi đại dịch, hai năm qua, tập đoàn Sun Group đã bền bỉ hỗ trợ công tác phòng chống Covid-19 dưới nhiều hình thức, một cách kịp thời nhất, ở những tâm dịch phức tạp nhất. Từ tài trợ và trực tiếp thi công lắp đặt các bệnh viện dã chiến tại Đà Nẵng , Hải Dương ; Tài trợ và lắp đặt các Trung tâm hồi sức tích cực (ICU) tại Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên; Trao tặng nhiều trang thiết bị y tế hiện đại tới Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh và Bệnh viện đa khoa Hưng Yên; Ủng hộ quỹ vắc-xin của Chính phủ cũng như quỹ vắc-xin của thành phố Hà Nội , tỉnh Thanh Hóa ; Hỗ trợ tiền mặt, tặng máy xét nghiệm PCR và bộ Kit Test Covid-19 cho nhiều tỉnh thành, đến trao tặng máy móc, trang thiết bị và sinh phẩm y tế tới các tỉnh miền Nam…, Sun Group đã có mặt ở hầu hết các địa phương có dịch. Tính đến nay, tổng giá trị mà Tập đoàn này đóng góp vào công cuộc phòng chống dịch của cả nước là 701 tỷ đồng. Đây là nỗ lực to lớn thể hiện trách nhiệm xã hội của một trong những tập đoàn kinh tế tư nhân hàng đầu Việt Nam, khi mà lĩnh vực kinh doanh chính của Sun Group là du lịch nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Sun Group hiện đứng thứ 3 trong Top 30 doanh nghiệp Việt Nam có đóng góp hỗ trợ nhiều nhất trong đại dịch, theo số liệu công bố đến ngày 24/6/2021 của Tạp chí Forbes Vietnam.
Sun Group urgently supported medical equipment for the Tay Ninh field hospital Immediately after, emergency support was provided to a series of provinces southern Most recently, Sun Group continued to donate to Tay Ninh a system of medical equipment and biological products to prevent the Covid-19 epidemic worth more than 10 billion VND. Among them, many equipment will be used to support Tay Ninh in establishing a field hospital. Specifically, Sun Group has provided emergency funding Tay Ninh operating equipment and biological products to serve the PCR testing system along with 2,000 protective suits and 2,000 protective shield suits, promptly meeting the urgent needs in preventing and treating Covid-19 in the world. province. Along with that, Sun Group also awarded the Tay Ninh Center for Disease Control (CDC) 15,000 SARS-CoV-2 antigen rapid test kits to distribute to quarantine areas, blockade areas and anti-epidemic sites. , speed up and support the work of testing and localizing the epidemic. It is known that the above test kits from Abbott Lab (USA) comply with the standards of the World Health Organization (WHO), are licensed for circulation by the Ministry of Health and have almost immediate test results. These are extremely essential supports to meet the needs of screening and quickly detecting Covid-19 cases in the province, in the context of the epidemic developing complicatedly in most southern provinces as well as in Tay Ninh, with the number of new cases increasing rapidly. In addition, this Group also sponsored equipment worth about 2 billion VND for the establishment and operation of a field hospital in Tay Ninh. By July 26, 2021, all of the above packages of medical equipment and biological products were given by Sun Group to Tay Ninh CDC and Tay Ninh Department of Health for timely distribution to local medical centers. provincial table. It is estimated that the total value of the sponsorship packages is about more than 10 billion VND. Sharing about Sun Group's contributions to Covid-19 prevention in Tay Ninh province, Mr. Dang Minh Truong, Chairman of the Group's Board of Directors said. : "Tay Ninh is one of the localities currently experiencing complicated epidemic developments, any support to the province and people at this time is valuable. We hope that Sun Group's contributions will partly strengthen resources as well as bring spiritual encouragement to the government and people, so that Tay Ninh can continue to work hard and be soft in overcoming the challenges ahead. We can soon prevent the epidemic and quickly stabilize economic and social life together with the whole country." Thus, Sun Group has supported southern provinces and cities with 80 billion VND in medical equipment and biological products during the epidemic that is considered the heaviest and most complicated since Covid-19 broke out in Vietnam. Sun Group has sponsored and directly constructed and installed modern medical equipment for many localities across the country. Always placing the group's development in parallel with the country's development, in the context of the country being in danger due to the pandemic, over the past two years, Sun Group has persistently supported Covid-19 prevention under the in many forms, in the most timely manner, in the most complicated epidemic centers. From sponsoring and directly constructing and installing field hospitals at Danang , Hai Duong ; Funding and installation of Intensive Care Centers (ICU) in Bac Ninh, Bac Giang, Hung Yen; Donating many modern medical equipment to Ha Tinh Provincial General Hospital and Hung Yen General Hospital; Support the Government's vaccine fund as well as the city's vaccine fund Hanoi , conscious Thanh Hoa ; Providing cash support, donating PCR testing machines and Covid-19 Test Kits to many provinces and cities, to donating machinery, equipment and medical biological products to the Southern provinces..., Sun Group has been present in most of the provinces. All localities have epidemics. Up to now, the total value that this Group has contributed to the country's epidemic prevention and control work is 701 billion VND. This is a great effort to demonstrate the social responsibility of one of the leading private economic groups in Vietnam, when Sun Group's main business field, which is resort tourism and entertainment, is also affected. severely affected by the Covid-19 pandemic. Sun Group Currently ranked 3rd in the Top 30 Vietnamese businesses with the most support contributions during the pandemic, according to data published as of June 24, 2021 by Forbes Vietnam Magazine.
TIME gợi ý 2 khách sạn mới của Sun Group tại Hà Nội và Phú Quốc- nơi vừa lọt top điểm đến tuyệt vời nhất thế giới 2021 Hà Nội, Phú Quốc và TP Hồ Chí Minh vừa được tạp chí danh tiếng TIME (Mỹ) ghi nhận trong “Top 100 điểm đến tuyệt vời nhất thế giới 2021”. Trong đó, hai khách sạn, resort mới độc đáo của Sun Group tại Hà Nội và Phú Quốc được TIME gợi ý như những điểm lưu trú ấn tượng. Là tạp chí uy tín bậc nhất nước Mỹ suốt gần 100 năm qua, Top 100 điểm đến tuyệt vời nhất thế giới của TIME luôn là bảng xếp hạng uy tín hàng năm dành cho giới xê dịch. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 gần 2 năm qua, danh sách năm nay được TIME lựa chọn theo tiêu chí các thành phố du lịch đẹp, có triển vọng phục hồi và thích nghi tốt giữa Covid-19. Việc Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Phú Quốc được vinh danh trong danh sách này đã thể hiện khả năng thích ứng và không ngừng đổi mới của những điểm đến này trong đại dịch. Trong đó, sự góp mặt của các khách sạn mới như Capella Hanoi hay New World Phu Quoc Resort đã góp phần làm nên sức hấp dẫn cho các điểm đến này với thị trường quốc tế. New World Phu Quoc Resort- làng biển bên Bãi Kem TIME mô tả Phú Quốc là “viên kim cương” của Việt Nam và là một trong những điểm đến có tốc độ phát triển nhanh nhất tại Đông Nam Á. Năm 2019, Phú Quốc thu hút 5 triệu lượt khách, tăng 30% so với 2018. TIME cũng đưa thông tin, hòn đảo thiên đường dự kiến sẽ mở cửa trở lại cho khách quốc tế vào mùa thu năm nay, với thời gian lưu trú miễn visa lên tới 30 ngày. New World Phu Quoc Resort, khu nghỉ dưỡng 5 sao mới nhất do Sun Group đầu tư và đưa vào vận hành hồi tháng 5/2021 gồm 375 căn villa với bãi biển riêng tư và những khu vườn xanh mát, được TIME nhắc đến đầu tiên trong những điểm nghỉ dưỡng đáng trải nghiệm khi đến Phú Quốc. Sở hữu bờ biển tuyệt đẹp của Bãi Kem- top 100 bãi biển đẹp nhất thế giới do Flight Network bình chọn, New World Phu Quoc Resort gây ấn tượng với thiết kế tổng thể như một làng chài ven biển nên thơ. Những biệt thự mái lá ẩn mình dưới rặng cây xanh mướt, mỗi biệt thự 3-4 phòng ngủ mang nét thiết kế dung hòa giữa truyền thống và hiện đại, với những vật dụng trang trí từ chất liệu thân thuộc như gỗ, mây, tre… New World Phu Quoc Resort khiến khách trong nước như được “về nhà”, và khách quốc tế cảm nhận rõ nét một Phú Quốc truyền thống hiện diện ở khu nghỉ dưỡng này. Khu nghỉ dưỡng cũng sở hữu những tiện ích đẳng cấp cho một kỳ nghỉ tuyệt vời cho cả gia đình hay các nhóm bạn: bể bơi vô cực dài 120 mét tới sát biển, khu trò chơi dưới nước dành cho trẻ em, trung tâm fitness, yoga, spa và câu lạc bộ trẻ em. Hội tụ tới 4 nhà hàng và quán bar: Bay Kitchen, Lửa, The Lounge và Bar bể bơi, resort bên Bãi Kem cũng mang đến những trải nghiệm ẩm thực đẳng cấp từ hải sản và nguyên liệu phong phú của vùng biển Phú Quốc. Được kiến tạo bởi Sun Group và quản lý vận hành bởi New World Hotels & Resorts – thuộc sở hữu của Tập đoàn khách sạn top đầu thế giới Rosewood Hotel Group, đây là những bảo chứng cho chất lượng dịch vụ của New World Phu Quoc Resort, và cũng là lý do khu nghỉ này được TIME ưu ái nhắc đến đầu tiên, khi gợi ý các điểm lưu trú tại đảo ngọc Phú Quốc. Capella Hanoi- một Hà Nội xưa tái hiện Hà Nội – thủ đô nghìn năm văn hiến của Việt Nam được TIME mô tả “đang từng ngày phát triển, đồng thời vẫn duy trì được dấu ấn bản sắc mạnh mẽ của mình”. Và minh chứng cho sự phát triển cân bằng này chính là sự ra đời của khách sạn Capella Hanoi – tác phẩm mới nhất của Sun Group và kiến trúc sư lừng danh Bill Bensley. Capella Hanoi tọa lạc tại con phố trung tâm – Lê Phụng Hiểu, với quy mô 47 phòng, được thiết kế với cảm hứng từ thời kỳ huy hoàng của dòng nhạc opera của thế kỷ trước. Kiến trúc Art Deco (phong cách thịnh hành và được giới nghệ sĩ trên thế giới đặc biệt yêu thích vào những năm 1920-1930) hòa quyện với những sáng tạo mới mẻ chưa từng có ở bất cứ nơi nào đã thổi vào khách sạn boutique sang trọng bậc nhất Hà Nội một hơi thở vừa cổ điển vừa sang trọng, tinh tế. Như một cung điện xa hoa giữa lòng thủ đô, Capella Hanoi tái hiện không khí quyến rũ, mê hoặc của những năm 1920, khi nơi đây từng là quán trọ nhỏ gần kề Nhà hát lớn Hà Nội, điểm hẹn thời thượng của các diễn viên, danh ca nhạc kịch, nhà soạn nhạc, nhà thiết kế sân khấu, nhà thiết kế trang phục opera vĩ đại nhất. Khi tấm rèm sân khấu buông xuống, những nhân vật có tầm ảnh hưởng tìm đến đây như một điểm hẹn của hội hè, của sự đồng điệu, để thư giãn nghỉ ngơi trước khi một ngày mới bắt đầu. Bước vào thế giới đầy mê hoặc của Capella Hanoi, bạn sẽ được đắm mình theo dòng chảy của nghệ thuật opera những tháng năm huy hoàng nhất. Mỗi căn phòng như một bản giao hưởng được phổ nhạc bằng những câu chuyện ly kì của xã hội nhạc kịch hơn 150 năm qua, với phong cách bài trí độc nhất vô nhị cùng những trang phục sân khấu, hàng ngàn kỉ vật cổ và các bức chân dung được vẽ bởi họa sĩ tài ba Kate Spencer. Mỗi phòng cũng là một câu chuyện kể về thế giới riêng tư đầy bí ẩn của những nghệ sỹ tên tuổi, những huyền thoại trong quá khứ. Quầy bar Diva’s Lounge là nơi du khách đắm mình trong những ly coktail cầu kỳ, mang dấu ấn và câu chuyện của những nữ diva lừng danh thế giới thập niên 20. Còn nhà hàng Backstage gây ấn tượng đặc biệt với tông màu đỏ nồng ấm, nổi bật, cùng những rương hòm, trang phục, cổ vật, nội thất gợi nhắc một không gian xa hoa, lộng lẫy, nơi nghệ sĩ tụ họp, trang điểm hay thư giãn, chuẩn bị cho những tiết mục bùng nổ của mình ở thời vàng son của nghệ thuật opera. Là khách sạn đầu tiên của Sun Group tại thủ đô, được vận hành bởi Tập đoàn quản lý khách sạn Capella Hotel Group nổi tiếng thế giới của Singapore, Capella Hanoi là một trong những biểu tượng mới của nghỉ dưỡng xa xỉ tại thủ đô, đồng thời vẫn hài hòa và tôn vinh nét đẹp cổ kính, thanh lịch của khu phố cổ Hà Nội. Đó là lý do để TIME đưa Capella Hanoi như một dẫn chứng cho sự phát triển mà vẫn giữ được bản sắc thanh lịch cùng bề dầy văn hóa, lịch sử của đất Hà thành ngàn năm văn hiến.
TIME suggests 2 new hotels of Sun Group in Hanoi and Phu Quoc - which have just reached the top of the world's most wonderful destinations in 2021 Hanoi, Phu Quoc and Ho Chi Minh City have just been recognized by the prestigious TIME magazine (USA) in the "Top 100 most wonderful destinations in the world 2021". Among them, two unique new hotels and resorts of Sun Group at Hanoi and Phu Quoc Recommended by TIME as impressive places to stay. As America's most prestigious magazine for nearly 100 years, TIME's Top 100 World's Greatest Destinations is always a prestigious annual ranking for travelers. In the context of the Covid-19 pandemic for nearly 2 years, this year's list was selected by TIME based on the criteria of beautiful tourist cities with good prospects for recovery and adaptation amid Covid-19. Jobs in Hanoi, City. Ho Chi Minh and Phu Quoc being honored on this list has demonstrated the ability of these destinations to adapt and continuously innovate during the pandemic. In particular, the presence of new hotels such as Capella Hanoi or New World Phu Quoc Resort has contributed to the attractiveness of these destinations to the international market. New World Phu Quoc Resort - beach village next to Bai Kem TIME describes Phu Quoc as Vietnam's "diamond" and one of the fastest growing destinations in Southeast Asia. In 2019, Phu Quoc attracted 5 million visitors, an increase of 30% compared to 2018. TIME also reported that the paradise island is expected to reopen to international visitors this fall, with a stay of Visa-free stay for up to 30 days. New World Phu Quoc Resort, the newest 5-star resort invested by Sun Group and put into operation in May 2021, includes 375 villas with private beaches and lush green gardens, mentioned first by TIME. One of the vacation spots worth experiencing when coming to Phu Quoc. Possessing the beautiful coastline of Bai Kem - top 100 most beautiful beaches in the world voted by Flight Network, New World Phu Quoc Resort impresses with its overall design like a poetic coastal fishing village. Thatched-roof villas are hidden under lush green trees, each 3-4 bedroom villa has a design that blends tradition and modernity, with decorative items made from familiar materials such as wood, rattan, bamboo… New World Phu Quoc Resort makes domestic guests feel like they are "coming home", and international guests clearly feel the traditional Phu Quoc present at this resort. The resort also possesses classy amenities for a wonderful vacation for the whole family or groups of friends: a 120-meter infinity swimming pool close to the sea, a water play area for children, and a fitness center. , yoga, spa and kids club. Converging up to 4 restaurants and bars: Bay Kitchen, Lua, The Lounge and Pool Bar, the resort on Bai Kem also offers classy culinary experiences from seafood and rich ingredients of Phu Quoc waters. Created by Sun Group and managed and operated by New World Hotels & Resorts - owned by the world's leading hotel group Rosewood Hotel Group, these are guarantees for the service quality of New World Phu Quoc Resort. , and is also the reason this resort is mentioned first by TIME when suggesting places to stay on the pearl island of Phu Quoc. Capella Hanoi - an ancient Hanoi recreated Hanoi - Vietnam's capital of a thousand years of civilization is described by TIME as "developing day by day, while still maintaining its strong identity". And proof of this balanced development is the birth of Capella Hanoi Hotel - the latest work of Sun Group and famous architect Bill Bensley. Capella Hanoi is located on the central street - Le Phung Hieu, with 47 rooms, designed with inspiration from the glorious period of opera music of the last century. Art Deco architecture (a popular style that was especially loved by artists around the world in the 1920s and 1930s) blends with new innovations that have never been seen anywhere before in the boutique hotel. The most luxurious in Hanoi, a breath of both classic and luxurious, sophisticated. Like a luxurious palace in the heart of the capital, Capella Hanoi recreates the charming, enchanting atmosphere of the 1920s, when this place was once a small inn near the Hanoi Opera House, a fashionable meeting place for actors and actresses. greatest actor, opera singer, composer, stage designer, and opera costume designer. When the stage curtain falls, influential people come here as a meeting place, of harmony, to relax and rest before a new day begins. Entering the enchanting world of Capella Hanoi, you will be immersed in the flow of opera art in its most glorious years. Each room is like a symphony set to music with thrilling stories of the musical society over the past 150 years, with a unique decoration style along with stage costumes, thousands of antique memorabilia and souvenirs. The portrait was painted by talented artist Kate Spencer. Each room is also a story about the private, mysterious world of famous artists and legends of the past. Diva's Lounge bar is where visitors can immerse themselves in sophisticated cocktails, bearing the mark and stories of world-famous divas in the 20s. Backstage restaurant makes a special impression with its warm red tones. , stands out, along with trunks, costumes, antiques, and furniture that remind of a luxurious, splendid space, where artists gather, apply makeup or relax, preparing for their explosive performances. in the golden age of opera art. As Sun Group's first hotel in the capital, operated by Singapore's world-famous Capella Hotel Group, Capella Hanoi is one of the new symbols of luxury resorts in the capital. At the same time, it still harmonizes and honors the ancient and elegant beauty of Hanoi's Old Quarter. That is the reason why TIME presents Capella Hanoi as an example of development while still maintaining the elegant identity and rich culture and history of Hanoi with thousands of years of civilization.
Sun Group ủng hộ 100 tỷ đồng xây dựng Bệnh viện dã chiến lớn nhất Hà Nội Tập đoàn Sun Group đã tài trợ 100 tỷ đồng xây dựng Bệnh viện điều trị Covid-19 – Y Hà Nội tại phường Yên Sở, quận Hoàng Mai , Hà Nội. Chiều 31/8/2021, Lễ khánh thành Bệnh viện điều trị bệnh nhân Covid-19 trực thuộc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội (gọi tắt là Bệnh viện điều trị Covid-19 – Y Hà Nội) đã chính thức diễn ra, với sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, lãnh đạo UBND quận Hoàng Mai, Ban Giám hiệu và Ban Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội cùng đại diện các nhà tài trợ. Khởi công cuối tháng 7/2021, Bệnh viện điều trị Covid-19 – Y Hà Nội được hoàn thiện chỉ sau 30 ngày cấp tốc xây dựng, với sự tham gia của hơn 1000 công nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, thực hiện thi công ba ca liên tục và sự hỗ trợ kinh phí từ nhiều đơn vị tài trợ. Trong đó, Tập đoàn Sun Group là một trong hai nhà tài trợ chính, với gói tài trợ trị giá 100 tỷ đồng gồm: chi phí xây dựng hoàn thiện bệnh viện, một phần kinh phí điều hoà, hệ thống khí và máy móc, thiết bị y tế… PGS.TS Nguyễn Lân Hiếu- Giám đốc BV ĐH Y Hà Nội phát biểu tại Lễ khánh thành BV điều trị Covid-19 Y Hà Nội Phát biểu tại Lễ khánh thành Bệnh viện, PGS. TS. Nguyễn Lân Hiếu, Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội cho biết: “ Bệnh viện được xây dựng mới hoàn toàn, thiết kế dựa trên các bằng chứng khoa học cũng như kinh nghiệm chúng tôi chống dịch ở Bình Dương và miền Trung giai đoạn trước đây. Các bác sĩ là những người đã có kinh nghiệm điều trị Covid-19, vì vậy chúng tôi giám sát chi tiết, từ khe hở nhỏ của cánh cửa cũng như phân luồng đi lại của người bệnh, nhân viên y tế phải thật rõ ràng, không để các luồng chạm vào nhau và xảy ra nguy cơ lây nhiễm cho nhân viên y tế. Chúng tôi cũng được sự tư vấn của chuyên gia Việt Nam, Nhật Bản và Châu Âu ngay từ đầu”. PGS. TS. Nguyễn Lân Hiếu cũng bày tỏ sự trân trọng trước sự chung tay của các cấp bộ ban ngành, và các nhà tài trợ: “ Bệnh viện được xây dựng, hoàn thành mà chưa cần sử dụng đến nguồn vốn ngân sách của Nhà nước. Toàn bộ công trình mà chúng ta được chứng kiến hôm nay là từ những nhà hảo tâm, những Tập đoàn, Tổng công ty lớn như Tập đoàn Sun Group, Ngân hàng Techcombank, Tập đoàn Xây dựng Delta, Tập đoàn công nghệ viễn thông Quân đội Viettel… cũng như rất nhiều các nhà tài trợ, nhà hảo tâm khác ”. Toàn cảnh Bệnh viện điều trị Covid-19 Y Hà Nội Tại Lễ khánh thành, toàn bộ 19 khối nhà của công trình đã được bàn giao để Bệnh viện Đại học Y Hà Nội tiếp nhận, đưa vào hoạt động. Với quy mô 500 giường bệnh, đây là Bệnh viện điều trị Covid-19 lớn nhất và hiện đại bậc nhất tại Hà Nội tính đến thời điểm này. BV điều trị Covid-19- Y Hà Nội được bố trí trang thiết bị y tế hiện đại Bệnh viện có chức năng là tuyến cuối trong bậc thang điều trị bệnh nhân Covid-19 tại thủ đô và một số tỉnh phía Bắc (gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Quảng Ninh và Lạng Sơn). Đồng thời, đây cũng sẽ là Trung tâm hồi sức tích cực Covid-19 Quốc gia, với nhiệm vụ tổ chức thu dung, cấp cứu, điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng, nguy kịch và chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật trong cấp cứu, hồi sức tích cực và điều trị người bệnh Covid-19 cho các cơ sở được phân công. Trải qua các đợt dịch, Sun Group luôn là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong công tác hỗ trợ Chính phủ và các địa phương chống dịch. Không chỉ đóng góp vào Quỹ vắc-xin phòng chống Covid-19 của Chính phủ 320 tỷ đồng, Tập đoàn này còn hỗ trợ Quỹ vắc-xin của nhiều địa phương khác như Hà Nội , Thanh Hóa … Trước tình hình dịch bệnh căng thẳng thời gian gần đây, Sun Group đặc biệt chú trọng hỗ trợ các địa phương nâng cao năng lực xét nghiệm, điều trị, cấp cứu bệnh nhân Covid-19, góp phần đem tới nguồn lực hữu hiệu trợ giúp các bệnh viện, y bác sỹ nơi tuyến đầu chống dịch. Ngoài xây dựng BVDC số 3 tại Chí Linh (Hải Dương) và các Trung tâm hồi sức cấp cứu (ICU) tại Bắc Giang, Bắc Ninh, tài trợ và lắp đặt trang thiết bị y tế hiện đại cho các bệnh viện đa khoa của nhiều địa phương như Hà Tĩnh , Hưng Yên…, mới đây nhất, Sun Group đã tài trợ và thi công cải tạo, nâng cấp hai cơ sở gồm Trung tâm cấp cứu (A9) và Trung tâm tiêm chủng (A11) của Bệnh viện Bạch Mai… BV điều trị Covid-19- Y Hà Nội được bố trí trang thiết bị y tế hiện đại Cùng với đó, hàng trăm ngàn kit xét nghiệm nhanh, sinh phẩm, máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại trị giá hàng trăm tỷ đồng cùng nhiều ngàn tấn lương thực, thực phẩm dành tặng các hộ gia đình nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn cũng đã được Sun Group trao tặng tới các địa phương như Thanh Hóa, Kiên Giang, Phú Quốc, Đà Nẵng , Hưng Yên, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, TPHCM…
Sun Group donated 100 billion VND to build the largest field hospital in Hanoi Sun Group has sponsored 100 billion VND to build the Covid-19 Treatment Hospital - Hanoi Medical Center in Yen So ward, District 1. Hoang Mai , Hanoi. On the afternoon of August 31, 2021, the Inauguration Ceremony of the Hospital for treating Covid-19 patients under Hanoi Medical University Hospital (referred to as Covid-19 Treatment Hospital - Hanoi Medical) officially took place, with the participation of Deputy Minister of Health Do Xuan Tuyen, leaders of Hoang Mai District People's Committee, Board of Directors and Board of Directors of Hanoi Medical University Hospital and representatives of sponsors. Starting construction at the end of July 2021, Hanoi Covid-19 - Medical Hospital was completed after only 30 days of urgent construction, with the participation of more than 1,000 workers, engineers, architects, implementing construction in three consecutive shifts and financial support from many sponsors. In particular, Sun Group is one of two main sponsors, with a sponsorship package worth VND 100 billion including: complete hospital construction costs, part of the costs for air conditioning, gas systems and machinery, medical equipment… Associate Professor, Dr. Nguyen Lan Hieu - Director of Hanoi Medical University Hospital speaking at the Inauguration Ceremony of Hanoi Covid-19 Medical Hospital Speaking at the Hospital Inauguration Ceremony, Associate Professor. Dr. Nguyen Lan Hieu, Director of Hanoi Medical University Hospital said: “ The hospital was completely newly built, designed based on scientific evidence as well as our experience fighting epidemics in Binh Duong and the Central region in the past. Doctors are experienced in treating Covid-19, so we monitor details, from the small gap in the door as well as the movement of patients and medical staff must be very clear. , do not let the threads touch each other and there is a risk of infection for medical staff. We also received advice from Vietnamese, Japanese and European experts from the beginning." Associate Professor. Dr. Nguyen Lan Hieu also expressed his appreciation for the cooperation of ministries, branches, and sponsors: “ The hospital was built and completed without using state budget capital. All the projects we are witnessing today are from benefactors, large corporations and corporations such as Sun Group, Techcombank, Delta Construction Group, Quan Telecommunications Technology Group, and Techcombank. Viettel team... as well as many other sponsors and benefactors ”. Panorama of Hanoi Covid-19 Medical Hospital At the inauguration ceremony, all 19 blocks of the project were handed over to Hanoi Medical University Hospital to receive and put into operation. With a scale of 500 beds, this is the largest and most modern Covid-19 treatment hospital in Hanoi to date. Hanoi Covid-19-Medical Hospital is equipped with modern medical equipment The hospital functions as the last line in the ladder of treating Covid-19 patients in the capital and some northern provinces (including Bac Ninh, Bac Giang, Hai Phong, Quang Ninh and Lang Son). At the same time, this will also be the National Covid-19 Intensive Care Center, with the task of organizing the admission, emergency care, and treatment of severe and critical Covid-19 patients and directing, guiding, and supporting Technical expertise in emergency care, intensive care and treatment of Covid-19 patients for assigned facilities. Through epidemics, Sun Group has always been one of the leading businesses in supporting the Government and localities to fight epidemics. Not only contributing to the Government's Covid-19 Vaccine Fund of VND 320 billion, this Group also supported the Vaccine Fund of many other localities such as Hanoi , Thanh Hoa ... Faced with the recent stressful epidemic situation, Sun Group especially focuses on supporting localities to improve their capacity to test, treat and rescue Covid-19 patients, contributing to providing effective resources. Support hospitals and doctors on the front lines of fighting the epidemic. In addition to building General Hospital Không. 3 in Chi Linh (Hai Duong) and intensive care centers (ICU) in Bac Giang and Bac Ninh, sponsoring and installing modern medical equipment for general hospitals of many localities such as Ha Tinh , Hung Yen..., most recently, Sun Group sponsored and constructed to renovate and upgrade two facilities including the Emergency Center (A9) and Vaccination Center (A11) of Bach Mai Hospital... Hanoi Covid-19-Medical Hospital is equipped with modern medical equipment Along with that, hundreds of thousands of rapid test kits, biological products, machinery, and modern medical equipment worth hundreds of billions of VND along with many thousands of tons of food are donated to poor and wealthy households. Sun Group also donated difficult circumstances to localities such as Thanh Hoa, Kien Giang, Phu Quoc, Danang , Hung Yen, Dong Nai, Ba Ria Vung Tau, Ho Chi Minh City...
Đưa vào hoạt động Trung tâm Hồi sức tích cực cho “tâm dịch” Bắc Ninh do Sun Group tài trợ Chiều 12/6, Tập đoàn Sun Group đã chính thức bàn giao Trung tâm Hồi sức tích cực (ICU) điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng trị giá 50 tỷ đồng cho tỉnh Bắc Ninh. Tham dự Lễ bàn giao có ông Đỗ Xuân Tuyên – Thứ trưởng Bộ Y tế, Trưởng Bộ phận Thường trực đặc biệt của Bộ Y tế hỗ trợ chống dịch Covid-19 tại Bắc Ninh, bà Đào Hồng Lan – Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh, bà Nguyễn Hương Giang, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND Tỉnh Bắc Ninh cùng các lãnh đạo UBND tỉnh, chuyên gia của Bệnh viện Bạch Mai, đại diện lãnh đạo Sở Y tế và Bệnh viện Đa khoa Bắc Giang… Về phía Sun Group có ông Trần Minh Sơn – Thành viên Hội đồng sáng lập Tập đoàn cùng các cán bộ, kỹ sư và đơn vị thi công lắp đặt Trung tâm Hồi sức tích cực (ICU). Tại thời điểm dịch bệnh vẫn đang diễn biến phức tạp và căng thẳng ở Bắc Ninh hiện nay, việc đưa vào vận hành Trung tâm ICU có ý nghĩa vô cùng thiết thực đối với công tác điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng trên địa bàn tỉnh. Trung tâm ICU tại Bắc Ninh được đặt tại tòa nhà 3 tầng của Bệnh viện Đa khoa tỉnh (đường Nguyễn Quyền, phường Võ Cường, TP Bắc Ninh), do Tập đoàn Sun Group tài trợ và trực tiếp thi công lắp đặt với tổng chi phí 50 tỷ đồng. Đây là Trung tâm ICU quy mô và hiện đại nhất miền Bắc, tương tự như Trung tâm ICU mà tập đoàn này đã tài trợ cho tỉnh Bắc Giang ngày 04/6 vừa qua. Trung tâm ICU Bắc Ninh đáp ứng nhu cầu điều trị cho các bệnh nhân Covid-19 nặng với 100 giường bệnh đa năng và 33 hạng mục máy móc hiện đại, tối tân bậc nhất như máy thở cao cấp Carescape R860, máy thở xách tay di động, máy điện tim, máy lọc máu liên tục, máy ép tim tự động, máy đo khí máu,… có khả năng phục vụ công tác cấp cứu hồi sức tích cực đến mức độ cao nhất như ECMO (tim, phổi nhân tạo). Trong đó, 56 giường đa năng trang bị đầy đủ hệ thống oxy, khí nén được bố trí đều ở cả 3 tầng: 26 giường hoàn thiện 3 đầu khí phục vụ điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng tại tầng 1, 30 giường trang bị oxy và khí nén tại tầng 2 và 3. Trao đổi về công tác triển khai thi công Trung tâm ICU cho tỉnh Bắc Ninh, đại diện Tập đoàn Sun Group cho biết, Trung tâm ICU Bắc Ninh đã được hoàn thiện sau 07 ngày thi công kể từ ngày tiếp nhận mặt bằng hôm 05/6, với sự tham gia của 70 cán bộ, kỹ sư và công nhân, thi công gần như 24/24. So với Trung tâm ICU tại Bắc Giang, việc thi công ICU tại Bắc Ninh phát sinh nhiều hạng mục để đáp ứng yêu cầu điều trị cho bệnh nhân Covid-19 và công tác phòng chống dịch, tránh lây nhiễm chéo. Cụ thể, Trung tâm được lắp đặt thêm thang máy dành cho bệnh nhân, thang bộ bằng thép dành cho cán bộ y bác sĩ, thang vận chuyển rác thải y tế, hệ thống cấp oxy, hệ thống điều hòa thông khí… Bên cạnh đó, Sun Group cũng tiến hành cải tạo một số hạng mục của tòa nhà như: lát nền, xây lại bộ tam cấp, lắp đặt khung nhôm, vách kính chia tách các phòng bệnh, lắp đặt bổ sung nhà vệ sinh di động, nhà tắm di động phục vụ bệnh nhân và y bác sĩ… nhằm mang đến chất lượng cơ sở vật chất tốt nhất cho ICU. Đánh giá cao sự đóng góp của Tập đoàn Sun Group đối với công tác phòng chống dịch Covid-19, đặc biệt là việc tài trợ Trung tâm ICU cho Bắc Ninh, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên nhận định: “Trong thời gian vừa qua, Tập đoàn Sun Group đã hỗ trợ, tài trợ cho hầu hết các đơn vị y tế trong cả nước, đồng thời ủng hộ, hỗ trợ cho Quỹ Vắc xin phòng chống Covid-19 theo lời kêu gọi của Thủ tướng Chính phủ. Với Trung tâm ICU do Sun Group tài trợ tại Bắc Ninh, tôi cho rằng không chỉ đối với những bệnh nhân nặng, mà ngay cả các bệnh nhân khác cũng có thể được hưởng thụ điều kiện cơ sở vật chất của ICU này. Sau này khi dịch bệnh tại Bắc Ninh được đẩy lùi, Trung tâm Hồi sức tích cực còn được đưa vào sử dụng để hỗ trợ cho các bệnh nhân mắc bệnh khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”. Bày tỏ sự cảm kích và đánh giá cao sự hỗ trợ kịp thời và đầy trách nhiệm của Sun Group và các đơn vị, bà Nguyễn Hương Giang, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND Tỉnh Bắc Ninh chia sẻ: “Việc tiếp nhận và đưa vào sử dụng Trung tâm Hồi sức tích cực này sẽ giúp cho ngành y tế tăng thêm năng lực điều trị bệnh nhân nặng, sẵn sàng đáp ứng với tình huống có 3000 ca mắc Covid-19. Việc Sun Group hỗ trợ kinh phí và thi công Trung tâm ICU cho tỉnh Bắc Ninh thể hiện sự quan tâm, chia sẻ hết sức quý báu và ý nghĩa, giúp cho người dân địa phương có điều kiện điều trị hồi sức tốt nhất, góp phần quan trọng vào công tác phòng chống dịch bệnh, đảm bảo sức khỏe cho nhân dân, và về lâu dài tiếp tục nâng cao năng lực cho hệ thống y tế tỉnh Bắc Ninh”. Phát biểu tại sự kiện, ông Trần Minh Sơn– Thành viên Hội đồng sáng lập Tập đoàn Sun Group bày tỏ: “Tập đoàn Sun Group luôn đặt sự phát triển của mình gắn liền với sự phát triển của đất nước, coi việc đóng góp sức mình vào công cuộc phát triển của quê hương là trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam phải đối mặt với đại dịch Covid-19 hiện nay. Tính đến ngày hôm nay, Sun Group đã dành nguồn lực tài chính hơn 500 tỷ đồng đóng góp vào công tác chống dịch, và chúng tôi sẽ không dừng lại ở đó. Tập đoàn Sun Group sẽ còn tiếp tục chung tay cùng Bắc Ninh nói riêng và các địa phương nói chung trong cuộc chiến này”. Là một trong những doanh nghiệp tiên phong đồng hành với các địa phương và Chính phủ trong công tác phòng chống và kiểm soát dịch bệnh, Sun Group liên tục có các hành động thiết thực và kịp thời kể từ đầu mùa dịch tới nay. Mới đây nhất, ngày 9/6, hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ trong việc huy động các nguồn lực xã hội hóa tại chiến lược vắc-xin, Sun Group đã ủng hộ 320 tỷ đồng ủng vào Quỹ vắc-xin phòng chống dịch Covid-19, góp phần hiện thực hóa “giấc mơ vắc-xin” cho người Việt. Tính đến nay, chưa kể hai bệnh viện dã chiến tại Đà Nẵng và Hải Dương , tổng chi phí Sun Group đã ủng hộ cho công tác phòng chống dịch Covid-19 tại các địa phương trên cả nước là gần 510 tỷ đồng./.
Putting into operation the Intensive Resuscitation Center for the "epidemic center" of Bac Ninh sponsored by Sun Group On the afternoon of June 12, Sun Group officially handed over the Intensive Care Center (ICU) for treating severe Covid-19 patients worth VND 50 billion to Bac Ninh province. Attending the handover ceremony were Mr. Do Xuan Tuyen - Deputy Minister of Health, Head of the Special Standing Section of the Ministry of Health supporting the fight against Covid-19 epidemic in Bac Ninh, Ms. Dao Hong Lan - Member of the Party Central Committee, Secretary of the Bac Ninh Provincial Party Committee, Ms. Nguyen Huong Giang, Deputy Secretary of the Provincial Party Committee, Chairman of the People's Committee of Bac Ninh Province along with leaders of the Provincial People's Committee, experts from Bach Mai Hospital, representatives of the Department of Health and Da Nang Hospital. Bac Giang Faculty... On Sun Group's side, there was Mr. Tran Minh Son - Member of the Group's Founding Council along with officers, engineers and the construction and installation unit of the Intensive Care Center (ICU). At a time when the epidemic is still complicated and tense in Bac Ninh today, the operation of the ICU Center has extremely practical significance for the treatment of severe Covid-19 patients in the area. conscious. The ICU center in Bac Ninh is located in the 3-story building of the Provincial General Hospital (Nguyen Quyen Street, Vo Cuong Ward, Bac Ninh City), owned by the Group. Sun Group sponsor and directly construct and install with a total cost of 50 billion VND. This is the largest and most modern ICU Center in the North, similar to the ICU Center that this group sponsored for Bac Giang province on June 4. Bac Ninh ICU Center meets the treatment needs of severe Covid-19 patients with 100 multi-purpose beds and 33 items of modern, state-of-the-art machinery such as the high-end Carescape R860 ventilator and portable ventilator. Mobile devices, electrocardiographs, continuous hemodialysis machines, automatic cardiac compression machines, blood gas monitors, etc. are capable of serving intensive emergency resuscitation to the highest level such as ECMO (cardiac, pulmonary bypass). create). Of these, 56 multi-purpose beds fully equipped with oxygen and compressed air systems are arranged evenly on all 3 floors: 26 beds complete with 3 air heads to serve the treatment of severe Covid-19 patients on the 1st floor, 30 beds oxygen and compressed air on the 2nd and 3rd floors. Discussing the construction work of the ICU Center for Bac Ninh province, a representative of Sun Group said that the Bac Ninh ICU Center has been completed after 7 days of construction from the date of receiving the site on May 5. 6, with the participation of 70 officers, engineers and workers, construction almost 24/24. Compared to the ICU Center in Bac Giang, the construction of the ICU in Bac Ninh has many items to meet the treatment requirements for Covid-19 patients and epidemic prevention and avoidance of cross-infection. Specifically, the Center is equipped with additional elevators for patients, steel stairs for medical staff, medical waste transport elevators, oxygen supply systems, air conditioning systems... Besides Meanwhile, Sun Group also renovated some items of the building such as: flooring, rebuilding the three steps, installing aluminum frames, glass walls separating patient rooms, installing additional mobile toilets, Mobile bathrooms serve patients and doctors... to provide the best quality facilities for the ICU. Appreciating Sun Group's contribution to Covid-19 epidemic prevention, especially the sponsorship of the ICU Center for Bac Ninh, Deputy Minister of Health Do Xuan Tuyen commented: “In recent times, Sun Group has supported and sponsored most medical units in the country, and at the same time supported and supported the Covid-19 Prevention Vaccine Fund according to the call of Prime Minister. With the ICU Center sponsored by Sun Group in Bac Ninh, I think that not only seriously ill patients, but also other patients can enjoy the facilities of this ICU. Later, when the epidemic in Bac Ninh was repelled, the Intensive Resuscitation Center was also put into use to support patients with other diseases in Bac Ninh province." Expressing her gratitude and appreciation for the timely and responsible support of Sun Group and its units, Ms. Nguyen Huong Giang, Deputy Secretary of the Provincial Party Committee, Chairman of the People's Committee of Bac Ninh Province shared: “Receiving and putting into use this Intensive Care Center will help the health sector increase its capacity Treating seriously ill patients, ready to respond to the situation of 3,000 Covid-19 cases. Sun Group's support for funding and construction of the ICU Center for Bac Ninh province shows extremely valuable and meaningful care and sharing, helping local people have the best conditions for resuscitation treatment, contributing an important part in disease prevention, ensuring people's health, and in the long term continuing to improve the capacity of the health system in Bac Ninh province." Speaking at the event, Mr. Tran Minh Son - Founding Board Member of Sun Group expressed: “Sun Group always puts its development closely linked to the development of the country, considering contributing to the development of the homeland as its responsibility and obligation, especially in the context of Vietnam faces the current Covid-19 pandemic. As of today, Sun Group has spent more than VND 500 billion in financial resources to contribute to the fight against the epidemic, and we will not stop there. Sun Group will continue to join hands with Bac Ninh in particular and localities in general in this fight." As one of the pioneering businesses accompanying localities and the Government in disease prevention and control, Sun Group has continuously taken practical and timely actions since the beginning of the epidemic season until now. Most recently, on June 9, responding to the Government's call to mobilize social resources in the vaccine strategy, Sun Group donated 320 billion VND to the Preventive Vaccine Fund. Covid-19 epidemic, contributing to realizing the "vaccine dream" for Vietnamese people. Up to now, not to mention two field hospitals at Danang and Hai Duong , the total cost Sun Group has supported for Covid-19 epidemic prevention in localities across the country is nearly 510 billion VND./.
Nhiều trang thiết bị y tế hiện đại hỗ trợ điều trị Covid-19 đã được Sun Group trao tặng Hà Tĩnh và Hưng Yên Hỗ trợ hai tỉnh Hà Tĩnh và Hưng Yên trong công cuộc phòng chống và đẩy lùi dịch bệnh Covid-19, vừa qua, Tập đoàn Sun Group đã trao tặng nhiều trang thiết bị y tế với tổng trị giá hơn 46 tỷ đồng tới Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hưng Yên . Theo đó, chiều 11/7, Tập đoàn Sun Group đã trao tặng gói trang thiết bị y tế phòng chống Covid-19 trị giá hơn 31 tỷ đồng tới Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh . Hầu hết các trang thiết bị y tế trong gói tài trợ, gồm 10 máy thở đa chức năng, 20 máy monitor theo dõi bệnh nhân 5 thông số, 10 máy chạy thận nhân tạo, 10 máy siêu âm 3D, 1 máy X-quang kỹ thuật số đều được nhập khẩu trực tiếp từ các nước như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức… Các trang thiết bị này sẽ tạo thêm nguồn lực y tế hiện đại cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh, giúp nâng cao hiệu quả công cuộc điều trị bệnh nhân Covid-19 trong thời điểm dịch bệnh vẫn đang diễn biến hết sức khó lường như hiện nay. Bà Mai Thúy Hằng – TGĐ Sun Group Vùng thủ đô (Tập đoàn Sun Group) phát biểu tại Lễ trao tặng trang thiết bị y tế phòng chống dịch Covid-19 của Sun Group cho BVĐK Hà Tĩnh Tại lễ trao tặng, thay mặt cán bộ, nhân viên Tập đoàn Sun Group, bà Mai Thúy Hằng – Tổng Giám đốc Sun Group Vùng thủ đô (Tập đoàn Sun Group) chia sẻ: “ Trong cuộc chiến chống Covid-19 còn nhiều cam go, thử thách, chúng tôi thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với những khó khăn, vất vả của các y bác sỹ ở tuyến đầu chống dịch, trong điều kiện nhiều nơi, trang thiết bị, vật tư y tế còn hạn chế. Đó cũng là lý do Sun Group đã chung tay cùng nhiều địa phương thiết lập Bệnh viện dã chiến, Trung tâm điều trị tích cực ICU… Hôm nay, chúng tôi trân trọng trao tặng tới Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh các trang thiết bị y tế phòng chống Covid-19, với mong muốn cùng chính quyền Tỉnh và các y bác sỹ tạo thế chủ động, sẵn sàng ứng phó trong thời điểm diễn biến dịch vẫn đang vô cùng phức tạp.” Bà Mai Thúy Hằng cũng bày tỏ mong muốn các trang thiết bị máy móc mới, hiện đại do Tập đoàn Sun Group đài thọ sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả, giúp ích cho các y bác sỹ của Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh trong việc điều trị cho người dân trên địa bàn tỉnh về lâu dài, khi dịch bệnh được khống chế. Ngoài gói trang thiết bị y tế, Tập đoàn Sun Group còn trao tặng 100 suất quà trị giá 50 triệu đồng cho bệnh nhân nghèo đang điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh. Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Tĩnh Trần Thế Dũng tặng chứng nhận “Tấm lòng nhân ái” cho đại diện Tập đoàn Sun Group Thay mặt Ban Chỉ đạo Phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh Hà Tĩnh, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Tĩnh Trần Thế Dũng đã trao tặng chứng nhận “Tấm lòng nhân ái” cho đại diện Tập đoàn Sun Group. Nguyên Phó trưởng Ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Thanh Bình phát biểu tại buổi lễ Phát biểu tại buổi lễ, nguyên Phó trưởng Ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Thanh Bình cho biết: “Trong đợt dịch bệnh bùng phát này, sau khi tỉnh đề xuất các danh mục thiết bị y tế cần thiết, lãnh đạo tập đoàn đã đồng ý và triển khai ngay việc đặt mua từ nước ngoài để kịp thời hỗ trợ tỉnh trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Đó là tình cảm vô cùng quý báu mà chính quyền và nhân dân Hà Tĩnh được đón nhận”. Ông Nguyễn Thanh Bình cũng khẳng định, số trang thiết bị này là nguồn hỗ trợ quý giá để ngành y tế Hà Tĩnh sử dụng hiệu quả trong công tác khám, chữa bệnh, đặc biệt là điều trị cho bệnh nhân Covid-19. Đồng thời, nguyên Phó trưởng Ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương cũng gửi lời cảm ơn Tập đoàn Sun Group đã đồng hành, hỗ trợ chính quyền, nhân dân Hà Tĩnh trong công tác xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội và cứu trợ những đợt thiên tai, dịch bệnh suốt nhiều năm qua. Lễ bàn giao hệ thống máy và thiết bị hồi sức tích cực của Sun Group cho BVĐK Hưng Yên Trước đó, ngày 7/7, Sun Group cũng đã tài trợ thiết bị và hỗ trợ chỉnh trang, làm mới cơ sở vật chất để tạo nên Trung tâm hồi sức tích cực có khả năng điều trị bệnh nhân Covid -19 nặng cho Bệnh viện Đa khoa Hưng Yên, với tổng trị giá ước tính khoảng 15 tỷ đồng. Trong đó hệ thống thiết bị hiện đại được trang bị gồm có Máy lọc máu liên tục, Máy thở xách tay kèm van PEEP, Máy phân tích khí máu điện giải, Monitor theo dõi bệnh nhân 7 thông số, Bộ đặt nội khí quản, Máy X-quang di động kỹ thuật số, Máy điện tim, Máy siêu âm Doppler màu… Đặc biệt chú trọng việc hỗ trợ công tác điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng tại các địa phương, trong đợt dịch lần thứ 4, Tập đoàn Sun Group đã liên tục có các hoạt động tài trợ và trực tiếp thi công, lắp đặt các trang thiết bị y tế hiện đại cho các bệnh viện đa khoa của nhiều địa phương trên cả nước. Ngay trong tháng 6 vừa qua, Sun Group đã trao tặng thiết bị, chỉnh trang cơ sở vật chất, lắp đặt tặng Bắc Ninh và Bắc Giang hai Trung tâm hồi sức tích cực (ICU) hiện đại quy mô mỗi trung tâm 100 giường, phục vụ điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng với tổng trị giá 100 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ngoài ủng hộ Quỹ vắc-xin của Chính phủ 320 tỷ, Tập đoàn này cũng đã đồng hành cùng Thanh Hóa và thủ đô Hà Nội trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 với việc tài trợ Quỹ vắc-xin của hai địa phương này số tiền 65 tỷ đồng. Như vậy, chưa kể hai bệnh viện dã chiến tại Đà Nẵng và Hải Dương , từ đầu mùa dịch đến nay, tổng số tiền mặt và trị giá hiện vật mà Sun Group đóng góp cho công tác phòng chống Covid-19 đã lên tới 621 tỷ đồng.
Many modern medical equipment to support Covid-19 treatment were given to Ha Tinh and Hung Yen by Sun Group. Supporting the two provinces of Ha Tinh and Hung Yen in the work of preventing and repelling the Covid-19 epidemic, Sun Group recently donated many medical equipment with a total value of more than 46 billion VND to the Hospital. Ha Tinh Provincial General Hospital and Provincial General Hospital hung Yen . Accordingly, on the afternoon of July 11, Sun Group donated a package of medical equipment to prevent Covid-19 worth more than 31 billion VND to the Provincial General Hospital. Ha Tinh . Most of the medical equipment in the sponsorship package, including 10 multi-function ventilators, 20 5-parameter patient monitoring monitors, 10 hemodialysis machines, 10 3D ultrasound machines, 1 X-ray machine All digital devices are imported directly from countries such as the US, Korea, Japan, Germany... These equipment will create more modern medical resources for Ha Tinh Provincial General Hospital, helping to improve efficiency. The results of the treatment of Covid-19 patients at a time when the epidemic is still very unpredictable as it is today. Ms. Mai Thuy Hang - General Director of Sun Group Capital Region (Sun Group) spoke at the donation ceremony of Sun Group's Covid-19 epidemic prevention medical equipment to Ha Tinh General Hospital At the awarding ceremony, on behalf of officers and employees of Sun Group, Ms. Mai Thuy Hang - General Director of Sun Group Capital Region (Sun Group) shared: " In the fight against Covid-19, which still has many hardships and challenges, we deeply understand and sympathize with the difficulties and hardships of doctors and nurses on the front lines of fighting the epidemic, in many places and with different equipment. Medical equipment and supplies are limited. That is also the reason why Sun Group has joined hands with many localities to set up field hospitals, ICU intensive treatment centers... Today, we respectfully presented medical equipment to Ha Tinh General Hospital. Covid-19 prevention and control, with the desire to work together with the Provincial government and doctors to create a proactive position and be ready to respond at a time when the epidemic is still extremely complicated." Ms. Mai Thuy Hang also expressed her hope that the new, modern machinery and equipment sponsored by Sun Group will continue to be effective, helping the doctors and nurses of Ha Tinh General Hospital in their work. Treat people in the province in the long term, when the epidemic is controlled. In addition to the medical equipment package, the Group Sun Group also awarded 100 gifts worth 50 million VND to poor patients being treated at Ha Tinh General Hospital. Permanent Deputy Secretary of Ha Tinh Provincial Party Committee Tran The Dung presented the certificate of "Compassionate Heart" to the representative of Sun Group On behalf of the Steering Committee for COVID-19 Prevention and Control of Ha Tinh province, Permanent Deputy Secretary of the Ha Tinh Provincial Party Committee Tran The Dung awarded the "Compassionate Heart" certificate to the representative of Sun Group. Former Deputy Head of the Standing Committee of the Central Organizing Committee Nguyen Thanh Binh spoke at the ceremony Speaking at the ceremony, former Deputy Head of the Standing Committee of the Central Organizing Committee Nguyen Thanh Binh said: “During this epidemic outbreak, after the province proposed lists of necessary medical equipment, the group's leaders agreed and immediately deployed orders from abroad to promptly support the province in its work. disease prevention and control. That is an extremely valuable sentiment that the government and people of Ha Tinh have received." Mr. Nguyen Thanh Binh also affirmed that this equipment is a valuable source of support for the Ha Tinh health sector to use effectively in medical examination and treatment, especially in the treatment of Covid-19 patients. At the same time, the former Deputy Head of the Standing Committee of the Central Organizing Committee also thanked Sun Group for accompanying and supporting the government and people of Ha Tinh in the work of hunger eradication, poverty reduction, social security and rescue. supporting natural disasters and epidemics over the years. Handover ceremony of Sun Group's intensive care system and equipment to Hung Yen General Hospital Previously, on July 7, Sun Group also sponsored equipment and supported the renovation and renovation of facilities to create an Intensive Resuscitation Center capable of treating severe Covid -19 patients for the Hospital. Hung Yen General Hospital, with an estimated total value of about 15 billion VND. The modern equipment system is equipped with a continuous hemodialysis machine, a portable ventilator with a PEEP valve, a blood gas and electrolyte analyzer, a 7-parameter patient monitoring monitor, an intubation kit, Digital mobile X-ray machine, ECG machine, Color Doppler ultrasound machine... Paying special attention to supporting the treatment of severe Covid-19 patients in localities, during the 4th epidemic, Sun Group has continuously sponsored and directly constructed and installed activities. Modern medical equipment for general hospitals in many localities across the country. Right in June, Sun Group donated equipment, renovated facilities, and installed two modern Intensive Care Centers (ICU) with each center having 100 beds, in Bac Ninh and Bac Giang. serving the treatment of severe Covid-19 patients with a total value of 100 billion VND. Besides, in addition to supporting the Government's Vaccine Fund of VND 320 billion, this Group has also accompanied Thanh Hoa and the capital Hanoi in the fight against the Covid-19 epidemic with the donation of VND 65 billion to the Vaccine Fund of these two localities. So, not to mention the two field hospitals at Danang and Hai Duong , from the beginning of the epidemic season until now, the total amount of cash and in-kind value that Sun Group has contributed to Covid-19 prevention has reached 621 billion VND.
Chung tay cùng Hà Nội đẩy lùi Covid-19 Tập đoàn Sun Group ủng hộ 55 tỷ đồng mua vắc-xin Tối 19/6, Tập đoàn Sun Group đã trao tặng 55 tỷ đồng cho Quỹ vắc-xin của thành phố Hà Nội . Cùng với đó, Sun Group cũng công bố sẽ mua 500.000 liều vắc-xin để tiêm cho cán bộ nhân viên và đối tác của Tập đoàn. Trong khuôn khổ chương trình “Hà Nội chung tay hành động đẩy lùi Covid-19” diễn ra tại Cung văn hóa Hữu nghị Việt Xô tối 19/6, cùng với nhiều Tổ chức, cá nhân và Doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô, Tập đoàn Sun Group đã đóng góp 55 tỷ đồng cho Quỹ vắc-xin của thành phố. Chương trình “Hà Nội chung tay hành động đẩy lùi Covid-19” đã diễn ra vào tối ngày 19.6 tại Cung văn hoá Hữu nghị Việt Xô Cũng tại sự kiện, Tập đoàn Sun Group công bố sẽ triển khai mua 500.000 liều vắc-xin để tiêm cho cán bộ nhân viên và các đối tác của Sun Group, nhằm chung tay cùng Hà Nội và cả nước nhanh chóng đạt tới mục tiêu miễn dịch cộng đồng, đẩy lùi dịch bệnh Covid-19, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách còn hạn hẹp của Thủ đô. Hành động thiết thực và kịp thời này được thực hiện ngay sau khi UBND và Uỷ ban MTTQVN thành phố Hà Nội phát đi Thư kêu gọi nhân dân, cán bộ, chiến sỹ, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp ủng hộ kinh phí mua vắc-xin phòng chống dịch Covid-19. Khán phòng đảm bảo giãn cách Như vậy, sau khi ủng hộ Quỹ vắc-xin phòng chống Covid-19 của Chính phủ 320 tỷ đồng, thì với 55 tỷ đồng trao tặng Quỹ vắc-xin của thành phố Hà Nội, tổng kinh phí Sun Group đóng góp cho công tác mua vắc-xin phòng chống Covid-19 của Việt Nam đã lên tới 375 tỷ đồng. Cũng trong tối 19/6, nhiều doanh nghiệp khác trên địa bàn Thủ đô cũng đã ủng hộ Quỹ vắc-xin của thành phố, trong đó, Vingroup trao tặng 25 tỷ đồng, tập đoàn T&T đóng góp 30 tỷ đồng, ngân hàng Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội MB Bank trao tặng 10 tỷ đồng… Ông Chu Ngọc Anh – Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Đánh giá cao đóng góp của hàng trăm đơn vị, tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trên địa bàn Thủ đô, trong đó có Tập đoàn Sun Group, cho chương trình “Hà Nội chung tay hành động đẩy lùi Covid-19”, ông Chu Ngọc Anh- Chủ tịch UBND thành phố nhấn mạnh: “ Những tình cảm trao gửi đi của các tổ chức cá nhân và doanh nghiệp không chỉ kịp thời hỗ trợ, động viên tiếp sức cho lực lượng phòng chống dịch và giúp cho các hộ nghèo, người lao động vơi đi phần nào những khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, mà còn góp phần lan tỏa tình yêu nước, tình người của nhân dân Thủ đô . Chúng tôi tin tưởng và kỳ vọng vào sự chung sức đồng lòng của toàn thể nhân dân, của cộng đồng doanh nghiệp Thủ đô cùng quyết tâm cao nhất, nỗ lực lớn nhất, để Hà Nội cùng cả nước tiếp tục đẩy lùi và chiến thắng đại dịch Covid 19. Biến khó khăn thách thức thành thước đo của tinh thần đoàn kết và năng lực vượt qua cùng hành động vì mục tiêu an toàn sức khoẻ, vì quyết tâm mỗi người dân Thủ đô được tiêm vắc-xin ngừa Covid-19 sớm nhất .” Chia sẻ về những đóng góp mới nhất cho công tác phòng chống dịch Covid-19 của Hà Nội, ông Đặng Minh Trường- Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Sun Group nói: “ Chứng kiến rất nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân của Thủ đô Hà Nội chung tay ủng hộ Quỹ vắc-xin của thành phố, chúng tôi vô cùng xúc động. Những đóng góp của Sun Group với Thủ đô, dù rất khiêm tốn, nhưng chúng tôi tin rằng, từ những điều nhỏ bé, tinh thần ‘mình vì mọi người, mọi người vì mình’ sẽ tiếp tục được lan tỏa rộng khắp. Và với những đóng góp của toàn quân, toàn dân, Thủ đô của chúng ta sẽ nhanh chóng triển khai thành công việc tiêm vắc-xin rộng rãi trên toàn địa bàn, sớm đưa cuộc sống người dân trở lại bình thường, phát triển kinh tế, ổn định xã hội”. Liên tục thời gian qua, cái tên Sun Group đã xuất hiện trên mọi mặt trận chống dịch của hầu hết các địa phương có dịch trên cả nước. Từ việc trao tặng Bắc Ninh và Bắc Giang mỗi tỉnh một Trung tâm hồi sức tích cực (ICU) trang thiết bị hiện đại với quy mô 100 giường, phục vụ điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng với tổng trị giá 100 tỷ đồng, đến việc ủng hộ Quỹ vắc-xin của Chính phủ 320 tỷ, và trước đó là nhiều hình thức ủng hộ khác cho các địa phương. Tính đến nay, chưa kể hai bệnh viện dã chiến tại Đà Nẵng và Hải Dương, tổng số tiền mặt và trị giá hiện vật mà Sun Group đóng góp cho công tác phòng chống Covid-19 đã lên tới 565 tỷ đồng. Luôn có mặt khi Tổ quốc cần, sẵn sàng khi Tổ quốc gọi và không ngừng chung tay góp sức trong công cuộc phát triển của các địa phương mà Sun Group đầu tư, tập đoàn này còn cam kết sẽ tiếp tục đồng hành với cả nước, trong cuộc chiến đấu chống dịch còn nhiều cam go, thử thách./.
Join hands with Hanoi to repel Covid-19 Sun Group donated 55 billion VND to buy vaccines On the evening of June 19, Sun Group donated 55 billion VND to the city's Vaccine Fund Hanoi . Along with that, Sun Group also announced that it will purchase 500,000 doses of vaccine to vaccinate the Group's employees and partners. Within the framework of the program "Hanoi joins hands to repel Covid-19" taking place at the Vietnam-Soviet Friendship Cultural Palace on the evening of June 19, along with many organizations, individuals and businesses in the capital, Sun Group Corporation contributed VND 55 billion to the city's Vaccine Fund. The program "Hanoi joins hands to repel Covid-19" took place on the evening of June 19 at the Vietnam-Soviet Friendship Cultural Palace. Also at the event, Sun Group announced that it would purchase 500,000 doses of vaccine to vaccinate employees and partners of Sun Group, to join hands with Hanoi and the whole country to quickly achieve the goal. community immunity, repelling the Covid-19 epidemic, reducing the burden on the capital's limited budget. This practical and timely action was taken immediately after the People's Committee and Vietnam Fatherland Front Committee of Hanoi issued a letter calling for people, officers, soldiers, agencies, units, and businesses to support funds. Buy vaccines to prevent Covid-19 epidemic. The auditorium ensures physical distancing Thus, after donating 320 billion VND to the Government's Covid-19 Prevention Vaccine Fund, with 55 billion VND donated to Hanoi City's Vaccine Fund, the total budget Sun Group contributed to the work was Vietnam's purchase of Covid-19 vaccines has reached VND 375 billion. Also on the evening of June 19, many other businesses in the capital also supported the city's Vaccine Fund, of which Vingroup donated 25 billion VND, T&T Group contributed 30 billion VND, and Viet Nam Bank donated 25 billion VND. Military Joint Stock Commercial Bank MB Bank awarded 10 billion VND... Mr. Chu Ngoc Anh - Chairman of Hanoi People's Committee Appreciate the contributions of hundreds of units, organizations, individuals and businesses in the capital, including Sun Group, to the program "Hanoi joins hands to repel Covid-19", Mr. Chu Ngoc Anh - Chairman of the City People's Committee emphasized: " The sentiments sent by organizations, individuals and businesses not only provide timely support and encouragement to the epidemic prevention and control forces, but also help poor households and workers alleviate some of the difficulties caused by the pandemic. impact of the epidemic, but also contributes to spreading patriotism and humanity of the people of the Capital . We believe and expect the united efforts of all people and the Capital's business community with the highest determination and greatest efforts, so that Hanoi and the whole country will continue to repel and win. Covid 19 pandemic. Turning difficulties and challenges into a measure of solidarity and the ability to overcome and act for the goal of health safety, because of the determination that every person in the Capital will be vaccinated against Covid-19. 19 at the earliest .” Sharing about the latest contributions to Hanoi's Covid-19 epidemic prevention work, Mr. Dang Minh Truong - Chairman of the Board of Directors of Sun Group said: " Seeing so many organizations, businesses, and individuals in Hanoi capital joining hands to support the city's Vaccine Fund, we were extremely moved. Sun Group's contributions to the Capital, although very modest, we believe that, from small things, the spirit of 'me for everyone, everyone for me' will continue to spread widely. And with the contributions of the entire army and people, our Capital will quickly and successfully deploy widespread vaccination throughout the area, soon bringing people's lives back to normal and developing the economy. economic and social stability". Over time, the name Sun Group has appeared on all anti-epidemic fronts in most epidemic-affected localities across the country. From giving Bac Ninh and Bac Giang each province an Intensive Care Center (ICU) with modern equipment with a scale of 100 beds, serving the treatment of severe Covid-19 patients with a total value of 100 billion VND, to supporting the Government's Vaccine Fund of VND 320 billion, and before that, many other forms of support for localities. Up to now, not including the two field hospitals in Da Nang and Hai Duong, the total cash and in-kind value that Sun Group has contributed to Covid-19 prevention has reached VND 565 billion. Always present when the Fatherland needs us, ready when the Fatherland calls and constantly join hands to contribute to the development of localities where Sun Group invests. This group also pledges to continue accompanying the whole country. , in the fight against the epidemic there are still many hardships and challenges./.
Những câu chuyện cổ tích về Trung thu Tết Trung thu được xem là một trong những ngày lễ quan trọng trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Tết Trung thu được bắt nguồn từ văn minh lúa nước của người Việt. Cứ vào ngày Rằm tháng Tám Âm lịch hàng năm trẻ em trên khắp cả nước lại háo hức với những phần quà, đồ chơi, bánh kẹo và được tổ chức vui chơi, phá cỗ Tết Trung thu. Và đối với người lớn, đây là dịp để cho ông bà, bố mẹ, anh chị… thể hiện nhiều hơn nữa tình yêu thương đối với con trẻ. Trung thu hay còn gọi là Rằm tháng Tám là một trong những dịp Tết dành cho thiếu nhi. Đây là ngày được rất nhiều trẻ em đón đợi. Dưới đây là những câu chuyện cổ tích về Trung thu dành cho các em nhỏ nhân dịp Tết Trung thu. Chuyện nhà vua dạo chơi cung trăng vào Rằm tháng Tám Đó là câu chuyện lưu truyền răng Tết Trung thu xuất phát từ Trung Quốc. Chuyện kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm Rằm tháng 8 âm lịch. Nhà vua đã được một đạo sĩ đưa lên cung trăng thưởng thức tiên cảnh. Với những tiếng đàn tiếng nhạc du dương cùng các tiên nữ thiết tha xiêm y múa hát, sự hòa quyện giữa âm thanh, ánh sang diệu huyền nhà vua đã quên mất trời gần sáng. Khi trở về hoàng cung nhà vua vẫn còn vấn vương tiên cảnh nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng 8 lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng Tám đã trở thành phong tục của dân gian. Sự tích chị Hằng Nga Đây là một câu chuyện đẹp về tình yêu của Hằng Nga và Hậu Nghệ. Chuyện kể rằng vào thời xưa rất xa xưa có một cô gái tên là Hằng Nga vô cùng xinh đẹp mà tính tình cũng rất đỗi hiền dịu. Nàng là vợ của anh hùng cái thế Hậu Nghệ- người có tài thiện xạ tuyệt đỉnh đã bắn rớt chín ông mặt trời để cứu tất cả mọi người thoát khỏi nạn hỏa thiêu. Hậu Nghệ gặp được Vương Mẫu nương nương ban tặng một viên thần dược trường sinh bất tử, nếu uống vào chàng sẽ được thành tiên và bay thẳng về trời. Tuy nhiên, vì tình cảm quyến luyến với Hằng Nga và không muốn vợ chồng chia cắt chàng đã mang viên linh dược về nhà đưa cho vợ cất giữ. Hậu Nghệ có rất nhiều đệ tử đến xin tầm sư học đạo. Và Bồng Mông là một trong những đệ tử của Hậu Nghệ. Người này vốn có tâm địa gian ác, trong một lần Hậu Nghệ đi săn, hắn giả ốm để ở lại thực hiện mưu đồ cướp vật báu. Ngay khi chàng vừa đi khỏi thì Bồng Mông lập tức mang bảo kiếm uy hiếp Hằng Nga bắt nàng phải giao thần dược. Hằng Nga không thể giao thần dược cho kẻ gian ác, bất đắc dĩ nàng liền uống viên thần dược. Kỳ diệu thay, người nàng trở nên nhẹ bẫng, không chút trọng lực. Nàng từ từ theo gió bay lên trời. Vì tình yêu sâu nặng với Hậu Nghệ nên nàng đã neo lại cung trăng là nơi gần nhất với thế giới của con người để ngày ngày được nhìn xuống dương thế trong nỗi nhớ thương chàng Hậu Nghệ. Khi trở về biết chuyện, Hậu Nghệ vô cùng thương nhớ Hằng Nga, chàng ngước lên trời để gọi tên vợ thì bỗng nhận thấy ông trăng đêm nay sáng, đẹp hơn ngày thường nhìn thấy gương mặt người vợ hiền của mình trên đó. Chàng cùng người dân lập hương án để tế Hằng Nga. Và nghi thức đó dần dần trở thành phong tục quen thuộc, không thể thiếu trong những ngày trung thu hằng năm của người Việt. Sự tích chú Cuội Theo sự tích, Cuội là một chàng trai mồ côi, thông minh, tốt bụng làm nghề đốn củi. Một lần vào rừng cuội phát hiện ra gốc đa lớn có thể chữa được bệnh. Cuội đã mang cây đa về trông gần nhà và mang những chiếc lá đi cứu chữa người bệnh trong làng. Song vợ Cuội lại mắc bệnh đãng trí và quên mất lời chồng dặn rằng khi chăm sóc cây không được tưới nước bẩn lên cây nếu không cây sẽ biến mất. Để rồi khi Cuội đi làm, vợ chàng đã ra chỗ gốc cây và tiểu lên đó. Khi Cuội trở về thì thấy cây đa thần đang từ từ nhổ rễ bung lên khỏi mặt đất, Cuội đã cố gắng bổ chiếc rìu vào rễ cây hòng giữ cây ở lại nhưng bất lực. Cứ thế Cuội và cây đa bay thẳng lên cung trăng. Ngày nay, vào những ngày Rằm trăng sang mỗi khi ngước nhìn lên trăng chúng ta cũng có thể thấy được nhìn ảnh bóng tối xen lẫn vào trên trăng và theo dân gian đó là hình ảnh cây đa và chú Cuội đang ngồi nhìn xuống trần gian. Sự tích rước đèn Trung thu Chuyện kể rằng ở một làng nọ có một cậu bé tên là Cuội. Cuội thông minh, tốt bụng và rất hay giúp đỡ bạn bè nên được các bạn yêu quý. Và trong lúc mải chơi một bạn đã bị đuối nước. Đang chăn trâu thổi sáo, nghe thấy tiếng kêu cứu, không ngần ngại nguy hiểm, Cuội đã nhảy xuống cứu giúp bạn lên bờ. Thế nhưng, Cuội mãi không trở về với bạn. Cuội được lên cung trăng từ đó. Hình ảnh Cuội tốt bụng vẫn mãi vấn vương không quên trong tâm trí của những người bạn. Thấu hiểu được tình bạn đẹp giữa Cuội và những người bạn ở trần gian cô tiên đã giúp cho các bạn nhỏ được gặp lại Cuội. Đó là cứ vào ngày Rằm tháng Tám hàng năm – ngày trăng tròn và đẹp nhất hãy rước đèn ông sao để Cuội có thể thấy được các bạn nhỏ ở trần gian. Không những thế, các bạn nhỏ còn còn tạo ra các loại đèn hình con cá, con thỏ… để nhớ về những lần chơi đùa bắt cá, bắt thỏ… cùng nhau. Và từ đó, cứ vào rằm tháng Tám hàng năm các bạn nhỏ lại cùng nhau quây quần làm đèn, rước đèn đêm trăng trung thu để nhớ về Cuội. T.H
Fairy tales about Mid-Autumn Festival Mid-Autumn Festival is considered one of the important holidays in Vietnamese national tradition. Mid-Autumn Festival originated from the wet rice civilization of the Vietnamese people. Every year on the full moon day of the eighth lunar month, children all over the country are excited about gifts, toys, candies and fun. organization Have fun and celebrate the Mid-Autumn Festival. And for adults, this is an opportunity for grandparents, parents, siblings... to show more love for children. Mid-Autumn Festival, also known as the Full Moon of August, is one of the Tet holidays for children. This is a day that many children look forward to. Below are fairy tales about the Mid-Autumn Festival for children on the occasion of the Mid-Autumn Festival. The story of the king walking around the moon on the full moon day of the eighth month That is the story passed down that the Mid-Autumn Festival originated from China. The story goes that King Minh Hoang of Duong (713-741 Tay Lich) strolled around Ngu Uyen garden on the full moon night of the 8th lunar month. The king was taken by a Taoist to the moon to enjoy the fairyland. With the melodious sounds of instruments and music and the eager fairies dancing and singing, the harmony between sound and magical light, the king forgot about the almost dawn sky. When returning to the royal palace, the king was still haunted by the fairyland, so he created Khuc Nghe Thuong Vu Y and every full moon night of the 8th month, he ordered the people to organize a lantern procession and a party to celebrate. Since then, organizing lantern processions and parties on the full moon day of the eighth lunar month has become a folk custom. The story of Hang Nga This is a beautiful story about the love of Hang Nga and Hau Nghe. The story goes that in a very long time ago, there was a girl named Hang Nga who was extremely beautiful and had a very gentle personality. She is the wife of the great hero Hau Nghe - the person with excellent marksmanship who shot down nine suns to save everyone from being burned. Hau Nghe met the Queen Mother who gave him a magic pill of immortality. If he drank it, he would become an immortal and fly straight to heaven. However, because of his attachment to Hang Nga and not wanting to separate his wife and husband, he brought the elixir home and gave it to his wife to keep. Hau Nghe had many disciples who came to ask the master to learn the teachings. And Bong Mong was one of Hau Nghe's disciples. This person had an evil mind. One time Hau Nghe went hunting, he pretended to be sick to stay behind to carry out a plot to rob the treasure. As soon as he left, Bong Mong immediately used a sword to threaten Hang Nga, forcing her to hand over the magic medicine. Hang Nga could not give the magic medicine to an evil person, so she reluctantly took the magic medicine. Miraculously, her body became light, without any gravity. She slowly flew into the sky with the wind. Because of her deep love for Hau Nghe, she anchored herself on the moon, the closest place to the human world, so that she could look down at the earth every day in her longing for Hau Nghe. When he returned and found out about the incident, Hau Nghe missed Hang Nga very much. He looked up to the sky to call his wife's name and suddenly realized that the moon tonight was brighter and more beautiful than usual. He could see his gentle wife's face on it. He and the people set up an incense burner to worship Hang Nga. And that ritual gradually becomes a familiar and indispensable custom in the annual Mid-Autumn Festival of Vietnamese people. The story of Uncle Cuoi According to the story, Cuoi was an intelligent, kind-hearted orphan who worked as a woodcutter. Once in the pebble forest, he discovered a large banyan tree that could cure diseases. Cuoi brought the banyan tree to look at near his house and brought the leaves to treat sick people in the village. But Cuoi's wife suffered from forgetfulness and forgot her husband's instructions that when taking care of the tree, do not pour dirty water on it or the tree will disappear. Then when Cuoi went to work, his wife went to the tree and urinated on it. When Cuoi returned, he saw the banyan tree slowly pulling its roots out of the ground. Cuoi tried to put an ax into the tree's roots to keep the tree there but was powerless. Just like that, Cuoi and the banyan tree flew straight to the moon. Nowadays, on full moon days, every time we look up at the moon, we can also see the image of darkness mixed in on the moon and according to folklore, it is the image of a banyan tree and Uncle Cuoi sitting and looking down at the world. . The story of the Mid-Autumn Festival lantern procession The story goes that in a certain village there was a boy named Cuoi. Cuoi is smart, kind and very helpful to his friends, so he is loved by them. And while playing, a friend drowned. While herding buffaloes playing the flute, he heard a cry for help. Without hesitating about the danger, Cuoi jumped down to help his friend get to shore. However, Cuoi never returned to his friends. Cuoi went to the moon from there. The image of kind-hearted Cuoi still lingers in the minds of his friends. Understanding the beautiful friendship between Cuoi and her friends on earth, the fairy helped the children meet Cuoi again. That is, on the full moon day of August every year - the most beautiful and full moon day, we carry star lanterns so that Cuoi can see the children on earth. Not only that, the children also created lamps shaped like fish, rabbits... to remember the times they played catching fish, rabbits... together. And since then, every year on the full moon day of August, the children gather together to make lanterns and carry lanterns on the mid-autumn moon night to remember Cuoi. TH
Sau Bắc Giang, Sun Group hỗ trợ Bắc Ninh 50 tỷ lắp đặt Trung tâm Hồi sức tích cực Luôn xuất hiện ở các tâm dịch trên cả nước trong những thời khắc nước sôi lửa bỏng, Sun Group công bố tiếp tục tài trợ tỉnh Bắc Ninh một Trung tâm Hồi sức tích cực (ICU) quy mô 100 giường, trang thiết bị y tế hoàn chỉnh với tổng trị giá 50 tỷ đồng, để điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng. Chỉ vài ngày sau quyết định hỗ trợ Bắc Giang thiết lập Trung tâm Hồi sức tích cực hiện đại quy mô 100 giường trang bị đầy đủ thiết bị y tế hiện đại với tổng trị giá 50 tỷ đồng, Tập đoàn Sun Group tiếp tục dành sự quan tâm đặc biệt cho Bắc Ninh, với sự hỗ trợ tương tự. Theo đó, Sun Group sẽ hỗ trợ thiết lập tại Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Bắc Ninh một Trung tâm Hồi sức tích cực (ICU) trị giá tương đương 50 tỷ đồng, với số giường bệnh và hệ thống máy móc, trang thiết bị như Trung tâm ICU Bắc Giang, nhằm mục tiêu phục vụ điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng. Và sau khi hết dịch, Trung tâm Hồi sức tích cực này sẽ được Bệnh viện đa khoa Bắc Ninh tiếp tục sử dụng hỗ trợ điều trị cho nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tập đoàn Sun Group cam kết sẽ triển khai lắp đặt khẩn trương để hoàn thành Trung tâm ICU trong thời gian nhanh nhất. Hiện tại, cùng với Bắc Giang, Bắc Ninh đang là một trong những ổ dịch phức tạp nhất cả nước với số ca nhiễm tăng nhanh chóng. Tính đến trưa 31/5, toàn tỉnh Bắc Ninh ghi nhận 849 ca dương tính với SARS-CoV-2 tại 08 huyện, thị xã, thành phố với 141 ổ dịch. Dịch bệnh diễn biến căng thẳng, số ca bệnh tăng nhanh đang tạo áp lực lớn lên chính quyền địa phương trong việc bố trí cách ly cho các trường hợp liên quan và điều trị cho bệnh nhân Covid-19 nặng. Đáng chú ý, từ khi dịch COVID-19 xuất hiện thời gian qua, hơn 400 doanh nghiệp phải dừng sản xuất, khoảng 65.000 lao động buộc phải nghỉ làm, ảnh hưởng lớn đến kinh tế địa phương và đời sống người dân. Trước tình hình dịch bệnh tại hai tâm dịch Bắc Ninh, Bắc Giang, sáng 29/5/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì cuộc họp trực tuyến toàn quốc về công tác phòng, chống dịch COVID-19 với tinh thần “Chống dịch như chống giặc”. Tại cuộc họp, Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra 4 mục tiêu, trong đó nhấn mạnh: “Quyết tâm kiềm chế, đẩy lùi, kiểm soát và dập tắt cao điểm của đợt dịch bệnh bùng phát lần này, trước mắt tập trung cao độ tại các địa bàn có ổ dịch đang diễn biến phức tạp như Bắc Giang, Bắc Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…” và “Tập trung phòng, chống dịch bệnh nhưng vẫn phải lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, thực hiện tốt an ninh, an toàn, an dân”. Chia sẻ về quyết định tài trợ Bắc Ninh thiết lập Trung tâm hồi sức tích cực, bà Bùi Thị Thanh Hương – Tổng Giám đốc Sun Group nói: “ Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, trên tinh thần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, chung tay giúp Bắc Giang, Bắc Ninh cũng là góp phần giúp cả nước dập dịch, để có thể sớm ổn định tập trung phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, Sun Group đã quyết định chi viện Bắc Ninh lắp đặt Trung tâm Hồi sức tích cực, với quy mô tương tự như chúng tôi đang thực hiện tại Bắc Giang”. Theo bà Hương, với các trang thiết bị hiện đại, hai trung tâm hồi sức tích cực này sẽ có giá trị sử dụng lâu dài đối với ngành y tế các tỉnh, ngay cả sau khi dịch bệnh kết thúc. “Chúng tôi cũng hy vọng rằng Bắc Ninh, Bắc Giang sẽ tiếp tục nhận được nhiều hơn nữa những sự giúp đỡ từ các doanh nghiệp, người dân trên cả nước”, Tổng Giám đốc Tập đoàn Sun Group nói thêm. Như vậy, chỉ trong vòng chưa đầy một tuần, Sun Group đã hỗ trợ hai tỉnh đang là tâm điểm của đợt dịch thứ 4, gồm Bắc Giang và Bắc Ninh, tổng số tiền lên tới 100 tỷ đồng. Trước đó, tập đoàn này đã liên tục đồng hành chống dịch cùng các địa phương trên cả nước như Hà Nội, Quảng Ninh , Bắc Ninh, Lạng Sơn , Tây Ninh … bằng nhiều hình thức khác nhau như ủng hộ tiền mặt, tặng máy xét nghiệm PCR và bộ Kit Test Covid-19, cũng như hỗ trợ nhu yếu phẩm cho lực lượng biên phòng và công tác phòng dịch tại tỉnh biên giới… Đặc biệt, ngay từ những ngày Việt Nam có ca nhiễm Covid-19 đầu tiên, Cảng HKQT Vân Đồn của Sun Group đã đón hàng trăm chuyến bay giải cứu, đưa khoảng 40.000 người Việt và chuyên gia nước ngoài từ các “tâm dịch” trên thế giới về Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ trang thiết bị, nhân lực, vật lực, Sun Group cũng là tập đoàn tiên phong trong các đợt dịch Covid-19 thứ 2 và thứ 3, khi liên tục lao vào tâm dịch tài trợ và trực tiếp lắp đặt, thi công xây dựng thần tốc hai bệnh viện dã chiến quy mô, tạo “lá chắn thép” giúp thành phố Đà Nẵng và Hải Dương vượt qua dịch bệnh. Và với 2 trung tâm hồi sức tích cực tại các tâm dịch mới là Bắc Ninh và Bắc Giang, một lần nữa, Sun Group đã tiếp tục tinh thần tiên phong của “sếu đầu đàn” không chỉ trong phát triển kinh tế, mà còn trong công cuộc chung tay, góp sức cùng đất nước chiến đấu chống lại đại dịch.
After Bac Giang, Sun Group supported Bac Ninh 50 billion to install an Intensive Resuscitation Center Always appearing in epidemic centers across the country in moments of boiling fire, Sun Group announced its continued sponsorship of the province. Bac Ninh an Intensive Care Center (ICU) with a scale of 100 beds, complete medical equipment with a total value of 50 billion VND, to treat severe Covid-19 patients. Just a few days later decided to support Bac Giang Establishing a modern Intensive Care Center with a scale of 100 beds fully equipped with modern medical equipment with a total value of 50 billion VND, Sun Group continues to pay special attention to Bac Ninh, with the Similar support. Accordingly, Sun Group will support the establishment at Bac Ninh Provincial General Hospital of an Intensive Care Center (ICU) worth equivalent to VND 50 billion, with the same number of beds and machinery and equipment systems as the Bac Giang ICU Center. , aiming to serve the treatment of severe Covid-19 patients. And after the epidemic is over, this Intensive Care Center will continue to be used by Bac Ninh General Hospital to support treatment for people in the province. Sun Group pledges to deploy urgent installation to complete the ICU Center in the fastest time. Currently, along with Bac Giang, Bac Ninh is one of the most complicated outbreaks in the country with a rapidly increasing number of cases. As of noon on May 31, the entire Bac Ninh province recorded 849 positive cases of SARS-CoV-2 in 08 districts, towns and cities with 141 outbreaks. The epidemic is tense and the number of cases is increasing rapidly, creating great pressure on local authorities to arrange quarantine for related cases and treatment for severe Covid-19 patients. Notably, since the COVID-19 epidemic appeared recently, more than 400 businesses had to stop production, about 65,000 workers were forced to quit work, greatly affecting the local economy and people's lives. Faced with the epidemic situation in the two epidemic centers of Bac Ninh and Bac Giang, on the morning of May 29, 2021, Prime Minister Pham Minh Chinh chaired a national online meeting on COVID-19 epidemic prevention and control with the spirit of "Fighting the epidemic is like fighting the enemy". At the meeting, the Prime Minister set 4 goals, which emphasized: "Determination to restrain, repel, control and extinguish the peak of this epidemic outbreak, with high focus in the immediate future." levels in areas with complicated outbreaks such as Bac Giang, Bac Ninh, Ho Chi Minh City, Hanoi..." and "Focus on disease prevention and control but still have to lead and direct the promotion of socio-economic development, ensuring national defense, security, social order and safety, and good implementation of security, safety, and people's safety." Sharing about the decision to sponsor Bac Ninh to establish an Intensive Resuscitation Center, Ms Bui Thi Thanh Huong – General Director of Sun Group said: “ Implementing the Prime Minister's direction, in the spirit of promoting the strength of the great solidarity of all people, joining hands to help Bac Giang and Bac Ninh is also contributing to helping the whole country suppress the epidemic, so that we can soon stabilize and focus on development. socio-economic, ensuring the dual goals of disease prevention and control, protecting people's health, and socio-economic recovery and development, Sun Group has decided to support Bac Ninh to install the Center. Active resuscitation, on a similar scale as we are doing in Bac Giang." According to Ms. Huong, with modern equipment, these two intensive care centers will have long-term value for the health sector of the provinces, even after the epidemic ends. "We also hope that Bac Ninh and Bac Giang will continue to receive more help from businesses and people across the country," General Director of Sun Group added. Thus, in less than a week, Sun Group has supported two provinces that are the focus of the 4th epidemic, including Bac Giang and Bac Ninh, with a total amount of up to 100 billion VND. Previously, this group had continuously accompanied the fight against the epidemic with localities across the country such as Hanoi, Quang Ninh , Bac Ninh, Lang Son , Tay Ninh ... in many different forms such as cash donations, PCR testing machines and Covid-19 Test Kits, as well as supporting necessities for border guards and epidemic prevention work in border provinces... Especially , right from the days when Vietnam had its first case of Covid-19 infection, International Airport Van Don of Sun Group has welcomed hundreds of rescue flights, bringing about 40,000 Vietnamese people and foreign experts from "epidemic centers" around the world to Vietnam. Not only stopping at supporting equipment, human resources, and material resources, Sun Group is also a pioneer in the second and third Covid-19 epidemics, continuously rushing into the center of the epidemic by sponsoring and directly Continuing the rapid installation and construction of two large-scale field hospitals, creating a "steel shield" to help Da Nang and Hai Duong cities overcome the epidemic. And with two intensive care centers in the new epidemic centers of Bac Ninh and Bac Giang, once again, Sun Group has continued the pioneering spirit of the "leading crane" not only in economic development, but also in joining hands and contributing to the country's fight against the pandemic.