vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Đề 1 – Đề kiểm tra học kì II – Tiếng Việt 4
Hướng dẫn
I.Em đọc thầm bài Hoa mai vàng
Hoa mai vàng
Nếu như hoa đào là đặc sản của miền Bắc, thì hoa mai vàng là đặc sản của miền Nam. Mai vàng thuộc họ hoàng mai, vốn là một loại cây rừng. Cây mai vàng cũng rụng lá vào mùa đông, thân lá mềm mại hơn cành đào. Hoa mai vàng mọc thành chùm và có cuống dài treo lơ lửng bên cành. Hoa mai vàng có mùi thơm e ấp và kín đáo. Mai vàng có giống sau khi cho hoa còn kết trái màu đỏ nhạt bóng như ngọc. Mai tứ quý là mai nở hoa bốn mùa, còn nhị độ mai là mai nở hai lần trong năm.
Người ta nhân giống mai bằng cách chiết cành hoặc trồng từ hạt. Có thể trồng mai vàng ngoài vườn, vào bồn hay vào chậu cũng đều được. Mai ưa ánh sáng và đất ẩm. Người miền Nam chơi hoa mai vàng vào những ngày Tết rất kiêng kị hoa héo. Còn giống hoa mai nước gọi là mai chiếu thủy, cây lá nhỏ, hoa mọc thành chùm trắng, nhỏ và thơm, thường trồng vào núi non bộ, ra hoa mùa xuân, cây và cành được uốn tỉa thành cây thế.
Những năm gần đây, hoa mai vàng miền Nam đã được trồng nhiều ở miền Bắc. Việc trồng mai vàng ở đất Bắc cần nhất là tránh gió rét mùa đông. Những cây mai vàng trồng ở miền Bắc thường cho hoa muộn vào cuối tháng hai âm lịch.
Khoanh tròn vào chữ cái trước ý trả lời đúng nhất.
1.Hoa mai vàng là đặc sản của vùng miền nào?
A.Miền Bắc
B.Miền Trung
C.Miền Nam
2.Đặc điểm riêng của hoa mai so với hoa đào là gì?
A.Rụng lá vào mùa đông.
B.Thân cành mềm mại.
C. Hoa mọc thành chùm.
3.Bài văn cho ta biết có mấy loại hoa mai?
A.Một loại
B.Hai loại
C. Ba loại
D. Bốn loại
4.Cụm từ được gạch dưới trong câu “Những năm gần đây, hoa mai vàng miền Nam đã được trồng nhiều ở miền Bắc.” là:
A.Trạng ngữ chỉ nơi chốn.
B.Trạng ngữ chỉ thời gian,
C.Trạng ngữ chỉ mục đích.
5.Chuyển câu kể sau thành câu cảm:
Hoa mai vàng có mùi thơm e ấp và kín đáo
Câu cảm là:……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
6.Chuyển các câu sau đây thành câu cầu khiến:
a.Cả nhà dậy sớm.
b.Chị ở lại chăm sóc mẹ.
c.Nam đi học.
d.Thanh đi lao động.
đ) Lan phấn đấu học giỏi.
III.Tập làm văn
Cho đề bài như sau: Tả một con vật mà em đã trông thấy.
Em hãy:
1. Lập dàn ý chi tiết để tả con vật đó.
2.Viết đoạn mở bài theo cách gián tiếp và đoạn kết bài theo cách mở rộng.
>>XEM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TẠI ĐÂY
|
Topic 1 – Semester II test – Vietnamese 4
Instruct
I. I silently read the song Yellow Apricot Blossom
Yellow apricot flowers
If peach blossoms are a specialty of the North, then yellow apricot blossoms are a specialty of the South. Yellow apricot belongs to the royal apricot family, which is a type of forest tree. The yellow apricot tree also loses its leaves in winter, and the leaf stems are softer than peach branches. Yellow apricot flowers grow in clusters and have long stems hanging from the branches. Yellow apricot flowers have a shy and discreet fragrance. There is a variety of yellow apricot that, after flowering, still bears light red fruits that are shiny like pearls. The fourth-grade apricot is the apricot that blooms in four seasons, while the second-grade apricot is the apricot that blooms twice a year.
People propagate apricot by cutting branches or growing from seeds. You can plant yellow apricot in the garden, in a tub or in a pot. Apricot likes light and moist soil. Southerners who play yellow apricot blossoms on Tet days are very taboo about wilted flowers. As for the water apricot flower called water apricot apricot, the tree has small leaves, the flowers grow in white, small and fragrant bunches, often planted in mountainous areas, flower in spring, the tree and branches are bent and pruned into a tree.
In recent years, southern yellow apricot blossoms have been grown widely in the North. Growing yellow apricot trees in the North is most important to avoid cold winter winds. Yellow apricot trees grown in the North often flower late at the end of the second lunar month.
Circle the letter in front of the best answer.
1. Yellow apricot flowers are a specialty of which region?
A. North
B. Central region
C. The South
2.What are the unique characteristics of apricot blossoms compared to peach blossoms?
A. Leaves drop in winter.
B. Soft branches.
C. Flowers grow in clusters.
3.The article tells us how many types of apricot flowers are there?
A. One type
B.Two types
C. Three types
D. Four types
4.The underlined phrase in the sentence "In recent years, Southern yellow apricot blossoms have been grown a lot in the North." To be:
A. Adverbs of place.
B. Adverbs of time,
C.Adverbial purpose.
5.Change the following sentence into an emotional sentence:
Yellow apricot flowers have a shy and discreet fragrance
The sentence is:…………………………………………………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………
6.Change the following sentences into imperative sentences:
a. The whole family gets up early.
b.She stayed to take care of her mother.
c.Male goes to school.
d.Thanh went to work.
d) Lan strives to study well.
III.Practice writing
Give the task as follows: Describe an animal you have seen.
Please:
1. Make a detailed outline to describe that animal.
2.Write the introduction in an indirect way and the conclusion in an extended way.
>>SEE ANALYSIS GUIDE HERE
|
Đề 10: Hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 10: So sánh hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài làm
Người lính là một trong những hình tượng trung tâm của văn học cách mạng Việt Nam. Đi vào trang văn trang thơ là những anh bộ đội Cụ Hồ với những phẩm chất đáng quý. Hai tác phẩm Đồng chí (1948) của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) của Phạm Tiến Duật cũng nằm trong dòng chảy đó.
Hai bài thơ, mỗi bài mỗi vẻ. Ở Đồng chí của Chính Hữu, người đọc bắt gặp hình ảnh người nông dân mặc áo lính giản dị, chân thành, chất phác với hoàn cảnh xuất thân bình dị:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Họ đều là những người nông dân chân lấm tay bùn, ra đi từ những miền quê nghèo khó. Vì chung lí tưởng, chung nhiệm vụ mà họ trở thành người đồng chí sát cánh bên nhau. Khác với những người chiến sĩ trong bài Đồng chí, những người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những chiến sĩ trẻ hồn nhiên, hóm hỉnh, ngang tàng, trẻ trung, phần nhiều là những thanh niên học sinh đi thẳng từ nhà trường ra chiến trường. Họ ngang tàng, hóm hỉnh ngay từ chính câu thơ đầu tiên: “Không có kính không phải vì xe không có kính” – câu thơ mang giọng tranh luận sôi nổi, say sưa của tuổi trẻ. Dòng thơ đầu dài mười tiếng như lời phân trần nguyên nhân khiến xe không có kính. Và người chiến sĩ lái xe trẻ trung đã biến cái không bình thường thành cái bình thường, thậm chí thấy thú vị trước cái không bình thường đó.
Tuy mang một vài điểm khác nhau về độ tuổi, về hoàn cảnh xuất thân nhưng hình tượng người lính trong hai bài thơ đều mang những nét đẹp chung của anh bộ đội Cụ Hồ như tinh thần sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, tình đồng đội keo sơn gắn bó, ý chí chiến đấu kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời.
Trong cuộc kháng chiến trường kì của nhân dân ta, dù ở thời điểm nào, người lính cũng phải đương đầu với vô vàn khó khăn, thử thách. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã phải sống những ngày tháng kháng chiến gian truân, vất vả, thiếu thốn. Ai đã từng trải qua đời lính trong những năm tháng đó mới thấm thìa hết những gian nan mà người lính phải trải qua. Một trong những khó khăn mà họ phải đối mặt là căn bệnh sốt rét rừng:
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Những người nhiễm bệnh đầu tiên cảm thấy ớn lạnh, sau đó người lạnh run cầm cập, đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ, người vã mồ hôi vì nóng và vì yếu. Sau cơn sốt rét là da xanh, da vàng, viêm gan… Viết về điều này, Tố Hữu đã có những câu về anh vệ quốc quân: “Giọt giọt mồ hôi rơi – Trên má anh vàng nghệ”. Thôi Hữu trong bài Lên Cấm Sơn cũng để cập đến căn bệnh ác tính này: “Nước da đã lên màu tật bệnh – Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”. Không chỉ để lại nước da xanh, căn bệnh này còn cướp đi sinh mạng của biết bao chiến sĩ. Có những người không chống chọi lại được với bệnh tật và nằm lại ở rừng xanh: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đờì” (Quang Dũng – Tây Tiến).
Không chỉ phải đối mặt với bệnh tật, những ngày đầu kháng chiến, cuộc sống của người lính rất gian khổ thiếu thốn:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Những khó khăn thiếu thốn đó của các anh bộ đội đã hiện lên trong thơ Chính Hữu bằng bút pháp tả thực, một sự thật trần trụi đến xót xa. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ cũng kể về những anh lính thiếu thốn quân trang quân dụng, phải đánh giặc bằng vũ khí tự tạo:
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Ảo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
Khi viết về những người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật không nhắc đến những thiếu thốn về quân trang quân dụng mà đề cập đến sự khốc liệt của chiến trường. Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe của đoàn xe ra trận trở thành những chiếc xe không kính. Xe không kính vì: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Không có kính nên “Bụi phun tóc trắng như người già”, “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Và tác giả đã lạc quan vui vẻ gọi tiểu đội của mình là “tiểu đội xe không kính”. Trên con đường Trường Sơn – nơi mà “một mét vuông có ba quả bom lớn” nhiều chiến sĩ đã phải nằm lại về điều này, có nhà thơ đã viết những câu thơ đầy đau xót.:
Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn?
Dù ở thời điểm nào, chiến tranh cũng luôn là mất mát, là đau thương. Mặc dầu vậy, những chiến sĩ lái xe vẫn vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình một cách lạc quan, trẻ trung. Họ hiện ra với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm: “Ung dung buồng lái ta ngồi – Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Tư thế đó là tư thế đi vào lịch sử, tư thế hùng tráng của những anh hùng Trường Sơn.
Dù khó khăn, vất vả như vậy nhưng những chiến sĩ vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Dù đứng giữa rừng rét buốt nhưng trên môi họ vẫn nở nụ cười: “Miệng cười buốt gia ‘ (Đồng chí). Họ coi thường thử thách, khó khăn. Câu thơ cho thấy sự lạc quan, bình thản của những con người hồn nhiên, giản dị. Những người lính ấy lạc quan, cười trước khó khăn, chấp nhận mọi thách thức: “Không có kính, ừ thì có bụi – Bụi phun tóc trắng như người già – Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, rồi “Không có kính, ừ thì ướt áo – Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời – Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió lùa, khô mau thôi”. Ai đã từng đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời chống Mĩ mới thấu hiểu hết gian khổ của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mưa rừng Trường Sơn như trút nước. Mùa khô, bụi bay mù trời. Ngày trời quang mây tạnh thì bom giặc Mĩ liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra trận. Xe có kính, những chiến sĩ lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào.
Sống giữa lửa đạn chiến tranh, những người lính càng thêm yêu thương đùm bọc nhau. Sống những ngày tháng gian khổ, họ sẵn sàng chia sẻ từng cái chăn, tấm áo: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Chính Hữu – Đồng chỉ). Đó là cái nắm tay xiết chặt hàng ngũ và gạt bớt những khó khăn, gian khổ. Dù bom đạn giặc Mĩ có khốc liệt đến đâu cũng không thể ngăn được những cái bắt tay thân ái của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới – Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay đó cho thấy sự bất lực của kẻ thù, đồng thời cũng cho thấy sự cộng hưởng niềm vui chiến thắng. Dù trút mưa bom bão đạn song đế quốc Mĩ không sao ngăn được “Bếp Hoàng Cẩm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy – Võng mắc chông chênh đường xe chạy – Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Dừng chân giữa rừng Trường Sơn, những người chiến sĩ động viên, khích lệ nhau cùng hướng về ngày mai tươi sáng. “Chỉ cần trong xe có một trái tim”, dù không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước thì những chiếc xe vẫn sẽ luôn hướng về miền Nam yêu thương.
THỦY BÌNH
Lời nhận xét:
– Kiểu bài so sánh là một dụng đề khó, đòi hỏi tư duy tổng hợp, khái quát và kiến thức sâu rộng về tác phẩm. So sánh hình tượng người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính, người viết đã chỉ ra những nét giống và khác nhau cơ bản, đặc sắc.
– Bố cục bài viết mạch lạc, lô gích. Sau khi chỉ ra các đặc điểm khác nhau về hoàn cảnh xuất thân, người viết đã đi sâu phân tích những nét tương đồng của hình tượng người lính trong hai bài thơ như: “tinh thần sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, tình đồng đội keo sơn gắn bó, ý chí chiến đấu kiên cường vù tinh thần lạc quan yêu đời “
– Lời văn trong sáng, giàu cảm xúc.
|
Đề 10: Hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 10: So sánh hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài làm
Người lính là một trong những hình tượng trung tâm của văn học cách mạng Việt Nam. Đi vào trang văn trang thơ là những anh bộ đội Cụ Hồ với những phẩm chất đáng quý. Hai tác phẩm Đồng chí (1948) của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) của Phạm Tiến Duật cũng nằm trong dòng chảy đó.
Hai bài thơ, mỗi bài mỗi vẻ. Ở Đồng chí của Chính Hữu, người đọc bắt gặp hình ảnh người nông dân mặc áo lính giản dị, chân thành, chất phác với hoàn cảnh xuất thân bình dị:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Họ đều là những người nông dân chân lấm tay bùn, ra đi từ những miền quê nghèo khó. Vì chung lí tưởng, chung nhiệm vụ mà họ trở thành người đồng chí sát cánh bên nhau. Khác với những người chiến sĩ trong bài Đồng chí, những người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những chiến sĩ trẻ hồn nhiên, hóm hỉnh, ngang tàng, trẻ trung, phần nhiều là những thanh niên học sinh đi thẳng từ nhà trường ra chiến trường. Họ ngang tàng, hóm hỉnh ngay từ chính câu thơ đầu tiên: “Không có kính không phải vì xe không có kính” – câu thơ mang giọng tranh luận sôi nổi, say sưa của tuổi trẻ. Dòng thơ đầu dài mười tiếng như lời phân trần nguyên nhân khiến xe không có kính. Và người chiến sĩ lái xe trẻ trung đã biến cái không bình thường thành cái bình thường, thậm chí thấy thú vị trước cái không bình thường đó.
Tuy mang một vài điểm khác nhau về độ tuổi, về hoàn cảnh xuất thân nhưng hình tượng người lính trong hai bài thơ đều mang những nét đẹp chung của anh bộ đội Cụ Hồ như tinh thần sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, tình đồng đội keo sơn gắn bó, ý chí chiến đấu kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời.
Trong cuộc kháng chiến trường kì của nhân dân ta, dù ở thời điểm nào, người lính cũng phải đương đầu với vô vàn khó khăn, thử thách. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã phải sống những ngày tháng kháng chiến gian truân, vất vả, thiếu thốn. Ai đã từng trải qua đời lính trong những năm tháng đó mới thấm thìa hết những gian nan mà người lính phải trải qua. Một trong những khó khăn mà họ phải đối mặt là căn bệnh sốt rét rừng:
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Những người nhiễm bệnh đầu tiên cảm thấy ớn lạnh, sau đó người lạnh run cầm cập, đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ, người vã mồ hôi vì nóng và vì yếu. Sau cơn sốt rét là da xanh, da vàng, viêm gan… Viết về điều này, Tố Hữu đã có những câu về anh vệ quốc quân: “Giọt giọt mồ hôi rơi – Trên má anh vàng nghệ”. Thôi Hữu trong bài Lên Cấm Sơn cũng để cập đến căn bệnh ác tính này: “Nước da đã lên màu tật bệnh – Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”. Không chỉ để lại nước da xanh, căn bệnh này còn cướp đi sinh mạng của biết bao chiến sĩ. Có những người không chống chọi lại được với bệnh tật và nằm lại ở rừng xanh: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đờì” (Quang Dũng – Tây Tiến).
Không chỉ phải đối mặt với bệnh tật, những ngày đầu kháng chiến, cuộc sống của người lính rất gian khổ thiếu thốn:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Những khó khăn thiếu thốn đó của các anh bộ đội đã hiện lên trong thơ Chính Hữu bằng bút pháp tả thực, một sự thật trần trụi đến xót xa. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ cũng kể về những anh lính thiếu thốn quân trang quân dụng, phải đánh giặc bằng vũ khí tự tạo:
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Ảo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
Khi viết về những người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật không nhắc đến những thiếu thốn về quân trang quân dụng mà đề cập đến sự khốc liệt của chiến trường. Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe của đoàn xe ra trận trở thành những chiếc xe không kính. Xe không kính vì: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Không có kính nên “Bụi phun tóc trắng như người già”, “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Và tác giả đã lạc quan vui vẻ gọi tiểu đội của mình là “tiểu đội xe không kính”. Trên con đường Trường Sơn – nơi mà “một mét vuông có ba quả bom lớn” nhiều chiến sĩ đã phải nằm lại về điều này, có nhà thơ đã viết những câu thơ đầy đau xót.:
Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn?
Dù ở thời điểm nào, chiến tranh cũng luôn là mất mát, là đau thương. Mặc dầu vậy, những chiến sĩ lái xe vẫn vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình một cách lạc quan, trẻ trung. Họ hiện ra với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm: “Ung dung buồng lái ta ngồi – Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Tư thế đó là tư thế đi vào lịch sử, tư thế hùng tráng của những anh hùng Trường Sơn.
Dù khó khăn, vất vả như vậy nhưng những chiến sĩ vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Dù đứng giữa rừng rét buốt nhưng trên môi họ vẫn nở nụ cười: “Miệng cười buốt gia ‘ (Đồng chí). Họ coi thường thử thách, khó khăn. Câu thơ cho thấy sự lạc quan, bình thản của những con người hồn nhiên, giản dị. Những người lính ấy lạc quan, cười trước khó khăn, chấp nhận mọi thách thức: “Không có kính, ừ thì có bụi – Bụi phun tóc trắng như người già – Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, rồi “Không có kính, ừ thì ướt áo – Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời – Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió lùa, khô mau thôi”. Ai đã từng đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời chống Mĩ mới thấu hiểu hết gian khổ của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mưa rừng Trường Sơn như trút nước. Mùa khô, bụi bay mù trời. Ngày trời quang mây tạnh thì bom giặc Mĩ liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra trận. Xe có kính, những chiến sĩ lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào.
Sống giữa lửa đạn chiến tranh, những người lính càng thêm yêu thương đùm bọc nhau. Sống những ngày tháng gian khổ, họ sẵn sàng chia sẻ từng cái chăn, tấm áo: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Chính Hữu – Đồng chỉ). Đó là cái nắm tay xiết chặt hàng ngũ và gạt bớt những khó khăn, gian khổ. Dù bom đạn giặc Mĩ có khốc liệt đến đâu cũng không thể ngăn được những cái bắt tay thân ái của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới – Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay đó cho thấy sự bất lực của kẻ thù, đồng thời cũng cho thấy sự cộng hưởng niềm vui chiến thắng. Dù trút mưa bom bão đạn song đế quốc Mĩ không sao ngăn được “Bếp Hoàng Cẩm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy – Võng mắc chông chênh đường xe chạy – Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Dừng chân giữa rừng Trường Sơn, những người chiến sĩ động viên, khích lệ nhau cùng hướng về ngày mai tươi sáng. “Chỉ cần trong xe có một trái tim”, dù không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước thì những chiếc xe vẫn sẽ luôn hướng về miền Nam yêu thương.
THỦY BÌNH
Lời nhận xét:
– Kiểu bài so sánh là một dụng đề khó, đòi hỏi tư duy tổng hợp, khái quát và kiến thức sâu rộng về tác phẩm. So sánh hình tượng người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính, người viết đã chỉ ra những nét giống và khác nhau cơ bản, đặc sắc.
– Bố cục bài viết mạch lạc, lô gích. Sau khi chỉ ra các đặc điểm khác nhau về hoàn cảnh xuất thân, người viết đã đi sâu phân tích những nét tương đồng của hình tượng người lính trong hai bài thơ như: “tinh thần sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, tình đồng đội keo sơn gắn bó, ý chí chiến đấu kiên cường vù tinh thần lạc quan yêu đời “
– Lời văn trong sáng, giàu cảm xúc.
|
Đề 11 – Giới thiệu về một loài cây hoặc loài hoa.(cây mai) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Về một loài cây hoặc loài hoa.(hoa mai)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
– Trước hết, em cần chọn cho mình một loài cây hoặc loài hoa gần gũi với em (cây dừa, cây phượng, cây bàng, cây me, cây đa, cây bưởi, hoa sen, hoa phượng…). Dù em chọn loài cây hay loài hoa nào đi chăng nữa thì cũng phải nhớ nguyên tắc là: đối tượng thuyết minh đó, bản thân em phải có thật nhiều kiến thức về nó.
Khi thuyết minh về một loài cây, loài hoa; em cần chú ý các điểm sau đây:
+ Nguồn gốc, xuất xứ loài cây, loài hoa ấy?
+ Cấu tạo của loài cây, loài hoa ấy (hình dáng bên ngoài, thân, cành, rễ, lá, hoa, quả, hương thơm, màu sắc…)
+ Cách trồng như thế nào?
+ Đó là loài cây, loài hoa như thế nào? (ưa nắng, chịu gió mưa được,…)
+ Cách chăm sóc loài cây ấy ra sao?
+ Giá trị kinh tế? (thương mại, buôn bán…)
+ Giá trị tinh thần? (niềm vui trong cuộc sống của con người)
+ Cảm nghĩ của em về loài cây, loài hoa đó?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Giới thiệu: Hoa mai trong đời sống của người miền Nam, đặc biệt là trong những ngày Tết. (có thể dùng cách so sánh: miền Bắc: hoa đào, miền Nam: hoa mai).
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ, cấu tạo
Xuất phát là một loại cây mọc dại ở trong rừng.
Cây cao trên 2m, thân gỗ, chia thành nhiều nhánh.
Lá nhỏ bằng hai ngón tay, màu xanh lục, tán luôn xòe rộng.
2. Phân loại:
Mai có nhiều loại:
Mai vàng (hoàng mai): hoa mọc thành chùm, có cuống dài treo lơ lửng dọc theo cành. Cánh hoa mỏng, màu vàng, có mùi thơm kín đáo.
Mai tứ quý (nhị độ mai): là loại mai vàng nở quanh năm. Sau khi cánh hoa rụng hết ở giữa bông hoa còn lại 2, 3 hạt nhỏ và dẹt màu đen bóng.
Mai trắng (bạch mai): Hoa mới nở có màu hồng nhạt, sau chuyển sang trắng, có mùi thơm nhẹ.
Mai chiếu thủy: hoa nhỏ, lá nhỏ mọc thành chùm màu trắng và thơm ngát về đêm.
Thường được trồng trang trí ở hòn non bộ hoặc trong chậu sứ.
3. Cách chăm sóc mai:
Mai vàng là cây cảnh ưa sáng. Khi trồng nên chọn vị trí có ánh sáng thật nhiều (ánh nắng trực tiếp) có từ 6 giờ chiếu sáng trở lên, nếu trồng ở sân thượng thì bảo đảm yêu cầu về ánh sáng.
Trồng ở ban công thì thích hợp hơn ở hướng chính đông hoặc chính tây (có từ bốn giờ chiếu sáng trở lên). Cây mai sản xuất lớn thì người ta trồng ở vùng rộng lớn, cánh đồng có ánh nắng trực tiếp cả ngày.
Bổ sung đất phân, thay đất, cắt rễ già, tỉa cành, tỉa hoa, nụ, quả cho mai vàng: Trồng cây mai trong chậu thoát nước tốt: dưới đáy chậu bỏ một lóp cát xây, vỏ trấu chưa đốt, đá dăm nhỏ, miếng sành, sứ,… để nước mưa hay nước tưới cho cây mai khi quá nhiều sẽ thoát ra ngoài dễ dàng vì cây mai cần đủ ẩm nhưng không chịu được ngập, úng lâu ngày.
Bổ sung đất phân trên mặt chậu (tiến hành hàng năm): Lấy 5->10cm đất mặt chậu bỏ đi, bổ sung vào bằng hỗn hợp đất phân trồng mai theo công thức: 30% phân hữu cơ (phân bò, dê) + 30% đất phù sa + 40% phân trấu, rơm rạ, xơ dừa,…Công thức này có thể vận dụng theo nguyên liệu của từng địa phương sao cho phù hợp.
Thay đất cho mai vàng: Xăm quanh chậu, kéo cây mai ra, cắt bớt rễ, đất phía dưới đáy(10->20cm) và xung quanh (5->10cm), 2 năm tiến hành một lần.
Tỉa cành, tỉa hoa, nụ và quả cho mai vàng: Tỉa lại cành cho cây mai có tán cân đối, cắt ngắn lại những cành vượt ở tán và cắt bỏ những chồi vượt trong thân. Tỉa hết hoa, nụ và quả.
Cây mai ưa nước sạch, không chịu được nước nhiễm chua phèn, mặn.
Cây mai ưa ẩm vì vậy phải được tưới nước hàng ngày trừ những ngày mưa to.
Nếu ta thấy trời mưa lâm râm, cứ nghĩ cây đủ nước nên không tưới, cây mai sẽ bị khô lá, lá bị vàng ở đầu ngọn và tuổi thọ của lá mai sẽ bị ngắn dần. Việc này nếu xảy ra nhiều lần trong năm sẽ làm cây mai không giữ được lá đến 12 tháng để đợi chúng ta lặt lá và ra hoa tập trung. Do đó cây mai sẽ ra hoa lác đác từ tháng 9->12 âm lịch. Vì vậy cây mai sẽ không nở được tập trung, ít hoa.
Đoán ngày lặt lá cho mai sẽ ra hoa đúng Tết Nguyên đán. Đây là một việc làm mang tính đòi hỏi sự cảm nhận, kinh nghiệm của người trồng và chơi mai.
Lặt lá mai phụ thuộc vào thời tiết (lập xuân), loại Mai 5,9,12 cánh,…, cây mai khỏe hay yếu, tập tính của từng cây mai được trồng, chăm sóc của riêng từng gia đình, được đặt ở những vị trí của riêng từng nhà,…
Trước tiết lập xuân trời lạnh, sau tiết lập xuân trời ấm, kết hợp với theo dõi dự báo thời tiết hằng ngày để quyết định ngày lặt lá mai, bản thân cứ mạnh dạn quyết định vài lần để tự rút ra kinh nghiệm. Thông thường: mai 12 cánh (mai tai giảo) lặt lá từ 25/11 đến 5/12 Âm lịch. Mai 5 cánh đến 9 cánh lặt lá từ 5->10/12 Âm lịch. Ngoài ra còn phụ thuộc vào nụ mai lớn, nhỏ, lá mai già hay xanh để quyết định ngày lặt lá. Lặt lá mai là một việc làm hết sức tỉ mỉ, thận trọng, cân nhắc trải qua những tâm trạng hồi hộp, lo lắng, phấn khởi, hy vọng, thất vọng… thật hết sức thú vị.
4. Ý nghĩa của hoa mai
Sau khi đưa ông Táo về trời (23 tháng chạp), các nhà vườn bứng nguyên gốc mai cho vào chậu đem về các chợ hoa xuân ở thành phố để bán hoặc khách có thể đến tận vườn để mua.
Trong nhũng ngày Tết hầu như nhà nào cũng mua hoa mai về trưng, vừa trang trí cho đẹp nhà vừa cầu tụng may mắn. Nếu hoa mai nở rộ vào sáng mùng 1 Tết, gia chủ sẽ rất vui. Nếu trong 3 ngày Tết mà hoa mai chưa nở hoặc đã tàn thì gia chủ cảm nhận khó thấy được niềm vui được trọn vẹn.
III. KẾT BÀI
Cây mai được xếp vào hàng “tứ quý” được vẽ trong bộ tranh “tứ bình” đại diện cho 4 mùa: mai, lan, cúc, trúc và hoa mai biểu tượng cho mùa xuân.
Về mặt ý nghĩa, cây hoa mai còn tượng trưng cho dáng vẻ thanh mảnh, phẩm giá thanh cao, tốt đẹp của con người Việt Nam.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Vào ngày Tết cổ truyền hằng năm, cùng với bánh chưng xanh và dưa hấu đỏ, chúng tôi là những nhân vật không thể thiếu, thậm chí còn là những nhân vật chính. Các bạn biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi chính là cây hoa mai, một loại cây quen thuộc trong ngày xuân. Sau đây, ta hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về dòng họ nhà mai chúng tôi nhé.
Không như cô đào khó tính và kén chọn, chăm sóc tôi vô cùng dễ dàng, chi cần đặt ở nơi có đầy đủ ánh sáng, đất luôn ẩm nhưng phải thoát nước đế chống bị ủng. Để loài mai chúng tôi nở đúng vào ngày Tết thì trước Tết âm lịch nửa tháng, người ta thường hay tuốt bỏ lá, ngưng tưới nước và bắt đầu bón thúc cho chúng tôi. Khoảng mười ngày sau, trên cành đã bắt đầu xuất hiện những nụ hoa nhỏ màu xanh biếc mọc thành chùm, tỏa ra hương thơm ngào ngạt.
Sau một mùa đông lạnh lẽo, năm cũ trôi qua, năm mới đến gần, thay thế cho làn gió se lạnh là những tia nắng ấm áp của mùa xuân, mọi người tấp nập ra phố đón ngày mới. Trong khung cảnh đông đúc, tấp nập mua sắm của người dân là sự báo hiệu của ngày Tết sắp đến. Nói đến Tết thì không thể không nhắc đến dòng họ mai chúng tôi. Trong không khí vui tươi này, nhà ai cũng muốn chưng một cây mai trong nhà, không lớn thì nhỏ, chưng ở giữa phòng để mọi người cùng nhau chiêm ngưỡng. Có vài người, cụ thể là những tay chơi mai thường nói rằng trong ba ngày Tết, nếu loài mai chúng tôi nở rộ thì chắc chắn gia chủ sẽ rất vui, gặp nhiều may mắn trong năm mới. Còn nếu hoa chưa nở hoặc tàn thì sẽ khiến gia chủ khó có niềm vui trọn vẹn, gặp những bất lợi trong công việc. Đó cũng chỉ là suy nghĩ, nhưng ai đâu biết được có thể chúng tôi cũng có tầm quan trọng như thế đấy. Muốn chúng tôi xinh đẹp hay xấu xí vào ngày Tết thì điều đó còn tùy thuộc vào cách chăm sóc của người chủ. Trong ngày Tết, chậu mai phải để ở nơi thoáng mát, đủ ánh sáng và không nên để gần quạt hay chỗ có gió lùa vì sẽ làm mai bị rụng hoa và nụ. Chứng tôi rất yêu ánh sáng, nếu để tôi vào chỗ quá tối thì tôi sẽ không thế quang hợp, chồi sẽ vươn dài, lá ra nhanh, hoa rụng sớm. Nhưng cũng không nên để tôi ở nơi quá sáng như ở gần bóng đèn có công suất lớn vì nhiệt độ cao cũng làm cho chúng tôi nở nhanh, chóng tàn hơn. Sau những ngày xuân vui tươi thì những nàng mai chúng tôi bắt đầu tàn tạ nhan sắc và cần được chăm sóc, chiều chuộng để năm sau lại đơm hoa kết nhụy. Nếu được chưng trong nhà thì sau Tết phải đem cây ra ngoài càng sớm càng tốt, đặt cây ở nơi có bóng râm để lá không bị cháy khi tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời. Sau đó lặt bỏ tất cả các hoa dù nở hay chưa nở để cây không mất dinh dưỡng nuôi đài hoa tạo hạt.
Dòng họ mai của tôi được xếp vào bộ tứ bình, là một trong bốn cây điển hình của bốn mùa: mai (mùa xuân), lan (mùa hạ), cúc (mùa thu), trúc (mùa đông). Như một câu thơ trong đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” của Nguyễn Du đã nói: “Mai cốt cách tuyết tinh thần” đã cho thấy loài mai chúng tôi đây không chỉ đơn giản là biểu tượng cho mùa xuân mà còn là biểu tượng cho nét thanh cao, đẹp đẽ, tràn đầy sức sống của con người.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 12: Giới thiệu về một loài cây hoặc loài hoa.(hoa sen) tại đây.
Tags:Đề 11 · Hoa mai · Văn chọn lọc 9
|
Đề 11 – Giới thiệu về một loài cây hoặc loài hoa.(cây mai) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Về một loài cây hoặc loài hoa.(hoa mai)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
– Trước hết, em cần chọn cho mình một loài cây hoặc loài hoa gần gũi với em (cây dừa, cây phượng, cây bàng, cây me, cây đa, cây bưởi, hoa sen, hoa phượng…). Dù em chọn loài cây hay loài hoa nào đi chăng nữa thì cũng phải nhớ nguyên tắc là: đối tượng thuyết minh đó, bản thân em phải có thật nhiều kiến thức về nó.
Khi thuyết minh về một loài cây, loài hoa; em cần chú ý các điểm sau đây:
+ Nguồn gốc, xuất xứ loài cây, loài hoa ấy?
+ Cấu tạo của loài cây, loài hoa ấy (hình dáng bên ngoài, thân, cành, rễ, lá, hoa, quả, hương thơm, màu sắc…)
+ Cách trồng như thế nào?
+ Đó là loài cây, loài hoa như thế nào? (ưa nắng, chịu gió mưa được,…)
+ Cách chăm sóc loài cây ấy ra sao?
+ Giá trị kinh tế? (thương mại, buôn bán…)
+ Giá trị tinh thần? (niềm vui trong cuộc sống của con người)
+ Cảm nghĩ của em về loài cây, loài hoa đó?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Giới thiệu: Hoa mai trong đời sống của người miền Nam, đặc biệt là trong những ngày Tết. (có thể dùng cách so sánh: miền Bắc: hoa đào, miền Nam: hoa mai).
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ, cấu tạo
Xuất phát là một loại cây mọc dại ở trong rừng.
Cây cao trên 2m, thân gỗ, chia thành nhiều nhánh.
Lá nhỏ bằng hai ngón tay, màu xanh lục, tán luôn xòe rộng.
2. Phân loại:
Mai có nhiều loại:
Mai vàng (hoàng mai): hoa mọc thành chùm, có cuống dài treo lơ lửng dọc theo cành. Cánh hoa mỏng, màu vàng, có mùi thơm kín đáo.
Mai tứ quý (nhị độ mai): là loại mai vàng nở quanh năm. Sau khi cánh hoa rụng hết ở giữa bông hoa còn lại 2, 3 hạt nhỏ và dẹt màu đen bóng.
Mai trắng (bạch mai): Hoa mới nở có màu hồng nhạt, sau chuyển sang trắng, có mùi thơm nhẹ.
Mai chiếu thủy: hoa nhỏ, lá nhỏ mọc thành chùm màu trắng và thơm ngát về đêm.
Thường được trồng trang trí ở hòn non bộ hoặc trong chậu sứ.
3. Cách chăm sóc mai:
Mai vàng là cây cảnh ưa sáng. Khi trồng nên chọn vị trí có ánh sáng thật nhiều (ánh nắng trực tiếp) có từ 6 giờ chiếu sáng trở lên, nếu trồng ở sân thượng thì bảo đảm yêu cầu về ánh sáng.
Trồng ở ban công thì thích hợp hơn ở hướng chính đông hoặc chính tây (có từ bốn giờ chiếu sáng trở lên). Cây mai sản xuất lớn thì người ta trồng ở vùng rộng lớn, cánh đồng có ánh nắng trực tiếp cả ngày.
Bổ sung đất phân, thay đất, cắt rễ già, tỉa cành, tỉa hoa, nụ, quả cho mai vàng: Trồng cây mai trong chậu thoát nước tốt: dưới đáy chậu bỏ một lóp cát xây, vỏ trấu chưa đốt, đá dăm nhỏ, miếng sành, sứ,… để nước mưa hay nước tưới cho cây mai khi quá nhiều sẽ thoát ra ngoài dễ dàng vì cây mai cần đủ ẩm nhưng không chịu được ngập, úng lâu ngày.
Bổ sung đất phân trên mặt chậu (tiến hành hàng năm): Lấy 5->10cm đất mặt chậu bỏ đi, bổ sung vào bằng hỗn hợp đất phân trồng mai theo công thức: 30% phân hữu cơ (phân bò, dê) + 30% đất phù sa + 40% phân trấu, rơm rạ, xơ dừa,…Công thức này có thể vận dụng theo nguyên liệu của từng địa phương sao cho phù hợp.
Thay đất cho mai vàng: Xăm quanh chậu, kéo cây mai ra, cắt bớt rễ, đất phía dưới đáy(10->20cm) và xung quanh (5->10cm), 2 năm tiến hành một lần.
Tỉa cành, tỉa hoa, nụ và quả cho mai vàng: Tỉa lại cành cho cây mai có tán cân đối, cắt ngắn lại những cành vượt ở tán và cắt bỏ những chồi vượt trong thân. Tỉa hết hoa, nụ và quả.
Cây mai ưa nước sạch, không chịu được nước nhiễm chua phèn, mặn.
Cây mai ưa ẩm vì vậy phải được tưới nước hàng ngày trừ những ngày mưa to.
Nếu ta thấy trời mưa lâm râm, cứ nghĩ cây đủ nước nên không tưới, cây mai sẽ bị khô lá, lá bị vàng ở đầu ngọn và tuổi thọ của lá mai sẽ bị ngắn dần. Việc này nếu xảy ra nhiều lần trong năm sẽ làm cây mai không giữ được lá đến 12 tháng để đợi chúng ta lặt lá và ra hoa tập trung. Do đó cây mai sẽ ra hoa lác đác từ tháng 9->12 âm lịch. Vì vậy cây mai sẽ không nở được tập trung, ít hoa.
Đoán ngày lặt lá cho mai sẽ ra hoa đúng Tết Nguyên đán. Đây là một việc làm mang tính đòi hỏi sự cảm nhận, kinh nghiệm của người trồng và chơi mai.
Lặt lá mai phụ thuộc vào thời tiết (lập xuân), loại Mai 5,9,12 cánh,…, cây mai khỏe hay yếu, tập tính của từng cây mai được trồng, chăm sóc của riêng từng gia đình, được đặt ở những vị trí của riêng từng nhà,…
Trước tiết lập xuân trời lạnh, sau tiết lập xuân trời ấm, kết hợp với theo dõi dự báo thời tiết hằng ngày để quyết định ngày lặt lá mai, bản thân cứ mạnh dạn quyết định vài lần để tự rút ra kinh nghiệm. Thông thường: mai 12 cánh (mai tai giảo) lặt lá từ 25/11 đến 5/12 Âm lịch. Mai 5 cánh đến 9 cánh lặt lá từ 5->10/12 Âm lịch. Ngoài ra còn phụ thuộc vào nụ mai lớn, nhỏ, lá mai già hay xanh để quyết định ngày lặt lá. Lặt lá mai là một việc làm hết sức tỉ mỉ, thận trọng, cân nhắc trải qua những tâm trạng hồi hộp, lo lắng, phấn khởi, hy vọng, thất vọng… thật hết sức thú vị.
4. Ý nghĩa của hoa mai
Sau khi đưa ông Táo về trời (23 tháng chạp), các nhà vườn bứng nguyên gốc mai cho vào chậu đem về các chợ hoa xuân ở thành phố để bán hoặc khách có thể đến tận vườn để mua.
Trong nhũng ngày Tết hầu như nhà nào cũng mua hoa mai về trưng, vừa trang trí cho đẹp nhà vừa cầu tụng may mắn. Nếu hoa mai nở rộ vào sáng mùng 1 Tết, gia chủ sẽ rất vui. Nếu trong 3 ngày Tết mà hoa mai chưa nở hoặc đã tàn thì gia chủ cảm nhận khó thấy được niềm vui được trọn vẹn.
III. KẾT BÀI
Cây mai được xếp vào hàng “tứ quý” được vẽ trong bộ tranh “tứ bình” đại diện cho 4 mùa: mai, lan, cúc, trúc và hoa mai biểu tượng cho mùa xuân.
Về mặt ý nghĩa, cây hoa mai còn tượng trưng cho dáng vẻ thanh mảnh, phẩm giá thanh cao, tốt đẹp của con người Việt Nam.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Vào ngày Tết cổ truyền hằng năm, cùng với bánh chưng xanh và dưa hấu đỏ, chúng tôi là những nhân vật không thể thiếu, thậm chí còn là những nhân vật chính. Các bạn biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi chính là cây hoa mai, một loại cây quen thuộc trong ngày xuân. Sau đây, ta hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về dòng họ nhà mai chúng tôi nhé.
Không như cô đào khó tính và kén chọn, chăm sóc tôi vô cùng dễ dàng, chi cần đặt ở nơi có đầy đủ ánh sáng, đất luôn ẩm nhưng phải thoát nước đế chống bị ủng. Để loài mai chúng tôi nở đúng vào ngày Tết thì trước Tết âm lịch nửa tháng, người ta thường hay tuốt bỏ lá, ngưng tưới nước và bắt đầu bón thúc cho chúng tôi. Khoảng mười ngày sau, trên cành đã bắt đầu xuất hiện những nụ hoa nhỏ màu xanh biếc mọc thành chùm, tỏa ra hương thơm ngào ngạt.
Sau một mùa đông lạnh lẽo, năm cũ trôi qua, năm mới đến gần, thay thế cho làn gió se lạnh là những tia nắng ấm áp của mùa xuân, mọi người tấp nập ra phố đón ngày mới. Trong khung cảnh đông đúc, tấp nập mua sắm của người dân là sự báo hiệu của ngày Tết sắp đến. Nói đến Tết thì không thể không nhắc đến dòng họ mai chúng tôi. Trong không khí vui tươi này, nhà ai cũng muốn chưng một cây mai trong nhà, không lớn thì nhỏ, chưng ở giữa phòng để mọi người cùng nhau chiêm ngưỡng. Có vài người, cụ thể là những tay chơi mai thường nói rằng trong ba ngày Tết, nếu loài mai chúng tôi nở rộ thì chắc chắn gia chủ sẽ rất vui, gặp nhiều may mắn trong năm mới. Còn nếu hoa chưa nở hoặc tàn thì sẽ khiến gia chủ khó có niềm vui trọn vẹn, gặp những bất lợi trong công việc. Đó cũng chỉ là suy nghĩ, nhưng ai đâu biết được có thể chúng tôi cũng có tầm quan trọng như thế đấy. Muốn chúng tôi xinh đẹp hay xấu xí vào ngày Tết thì điều đó còn tùy thuộc vào cách chăm sóc của người chủ. Trong ngày Tết, chậu mai phải để ở nơi thoáng mát, đủ ánh sáng và không nên để gần quạt hay chỗ có gió lùa vì sẽ làm mai bị rụng hoa và nụ. Chứng tôi rất yêu ánh sáng, nếu để tôi vào chỗ quá tối thì tôi sẽ không thế quang hợp, chồi sẽ vươn dài, lá ra nhanh, hoa rụng sớm. Nhưng cũng không nên để tôi ở nơi quá sáng như ở gần bóng đèn có công suất lớn vì nhiệt độ cao cũng làm cho chúng tôi nở nhanh, chóng tàn hơn. Sau những ngày xuân vui tươi thì những nàng mai chúng tôi bắt đầu tàn tạ nhan sắc và cần được chăm sóc, chiều chuộng để năm sau lại đơm hoa kết nhụy. Nếu được chưng trong nhà thì sau Tết phải đem cây ra ngoài càng sớm càng tốt, đặt cây ở nơi có bóng râm để lá không bị cháy khi tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời. Sau đó lặt bỏ tất cả các hoa dù nở hay chưa nở để cây không mất dinh dưỡng nuôi đài hoa tạo hạt.
Dòng họ mai của tôi được xếp vào bộ tứ bình, là một trong bốn cây điển hình của bốn mùa: mai (mùa xuân), lan (mùa hạ), cúc (mùa thu), trúc (mùa đông). Như một câu thơ trong đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” của Nguyễn Du đã nói: “Mai cốt cách tuyết tinh thần” đã cho thấy loài mai chúng tôi đây không chỉ đơn giản là biểu tượng cho mùa xuân mà còn là biểu tượng cho nét thanh cao, đẹp đẽ, tràn đầy sức sống của con người.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 12: Giới thiệu về một loài cây hoặc loài hoa.(hoa sen) tại đây.
Tags:Đề 11 · Hoa mai · Văn chọn lọc 9
|
Đề 11 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề Tiếng Việt tả cảnh nơi em ở Tiếng Vọng
1. Ở từng chỗ trông dưới đây, có thể điền chữ (tiếng) gì bắt đầu bằng:
a) ch / tr
– Mẹ … tiền mua cân … cá.
– Bà thường kể… đời xưa, nhất là … cổ tích.
– Gần … rồi mà anh ấy vẫn … ngủ dậy.
b) d / gi
– Nó … rất kĩ, không để lại … vết gì.
– Đồng hồ đã được lên … mà kim … vẫn không hoạt động.
– Ông tớ mua một đôi giày …và một ít đồ … dụng.
2. a) Viết lại cho rõ nội dung từng câu dưới đây (có thể thêm một vài từ):
– Vôi của tôi tôi tôi.
– Trứng của bác bác bác.
b) Mỗi câu dưới đây có mấy cách hiểu? Hãy diễn đạt lại cho rõ nghĩa từng cách hiểu ấy (có thể thêm một vài từ).
– Mời các anh chị ngồi vào bàn.
– Đem cá về kho!
3. Kết thúc bài thơ Tiếng vong, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết:
Đêm đêm tôi vừa chợp mắt
Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh
Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ
Tiếng lăn như đá lở trên ngàn.
Đoạn thơ cho thấy những hình ảnh nào đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí tác giả? Vì sao như vậy?
|
Topic 11 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Vietnamese topic describing the scene where I live in Tieng Vong
1. In each space below, you can enter any word (language) that begins with:
a) ch / tr
– Mom... money to buy scales... fish.
– She often talks about... old times, especially... fairy tales.
– Almost... but he still... woke up.
b) d/gi
– It... is very thorough, leaving no... marks.
– The clock has been turned on... but the hands... still don't work.
– My grandfather bought a pair of shoes... and some... appliances.
2. a) Rewrite clearly the content of each sentence below (you can add a few words):
– My lime I me me.
– Your eggs, uncle.
b) How many interpretations does each sentence below have? Please re-express the meaning of each understanding clearly (maybe add a few words).
– Please sit at the table.
– Bring the fish back to the warehouse!
3. At the end of the poem Echoes, poet Nguyen Quang Thieu wrote:
That night I just fell asleep
The door vibrated again
The eggs rolled back to sleep
The sound of rolling like avalanche of rocks.
What images does the poem show that left a deep impression in the author's mind? Why is that?
|
Đề 12 – Giới thiệu về một loài cây hoặc loài hoa.(hoa sen) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Một loài cây hoặc loài hoa.(hoa sen)
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Hoa sen trong đời sống của người Việt Nam tượng trưng cho sự thuần khiết, trong sáng, cao sang.
Là quốc hoa của nước Việt Nam.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Hoa sen có nguồn gốc từ Châu Á, xuất phát từ đất nước Ấn Độ, sau đó lan rộng ra nhiều nước khác như Hàn Quốc, Trung Quốc,…
Từ Bắc đến Nam, sen có mặt ở khắp mọi nơi với hình ảnh gần gũi, thân thuộc như cây đa đầu làng, cây tre, trúc,…
Nếu ở Bắc, sen chỉ mọc vào mùa hè do điều kiện thời tiết thì ở Nam, sen bốn mùa khoe sắc thắm, đặc biệt là ở Đồng Tháp Mười.
2. Cấu tạo
Hoa được đỡ nâng bằng cuống hoa dài, đưa hoa mọc lên trên bề mặt nước để khoe sắc hương của mình.
Lá to rộng, có đường kính khoảng sáu mươi cen-ti-mét.
Cánh hoa khi nở thì rất to và đẹp, có nhiều màu như màu trắng tinh khiết hay màu hồng đào phất phơ.
Hoa sen có nhiều nhị (tua sen) và noãn rời, các noãn này về sau thành quả gắn trên một đế hoa hình nón ngược (gương sen).
Mỗi quả chứa một hạt, trong hạt có chồi mầm (tâm sen) gồm bốn lá non gập vào trong.
Sen có thể được trồng bằng hạt hay thân rễ.
3. Cách trồng
Không nên trồng quá sâu hoặc quá cạn làm sen dễ bị nổi lên. Nên chọn chân ruộng trũng để trồng.
Thời vụ: thường trồng vào tháng 1 – 2 dương lịch.
Cách trồng: có thế trồng bằng gốc sen hoặc tách nhánh (phát triển nhanh hơn); chọn nhánh dài khoảng 0,7 – 1m, có 3 cụm lá là tốt nhất.
Trồng cây cách cây 2m x 2m, khoảng 250 cây/1000.
Sau trồng giữ mực nước trong ao, hồ, ruộng khoảng 20 – 25cm.
Sau 10 ngày cây bén rễ nếu có cây bị chết cần giặm cho đủ.
Sau thời gian này, giữ mực nước tăng dần theo sự phát triển cây sen và khống chế trên dưới 50cm là tốt nhất.
Từ sen có thể chế biến thành nhiều món ăn bổ dưỡng, những bài thuốc đặc trị rất hay: hạt sen nhỏ, có màu vàng, vừa là món ăn dân dã quen thuộc, vừa là liều thuốc tốt để chữa bệnh mất ngủ, suy nhược thần kinh.Tâm sen màu xanh, nằm giữa hạt sen, có thể dùng ướp trà, tạo nên hương thơm dịu.
Lá sen dùng để gói bánh, cốm thì rất tuyệt vì nó mang lại một hương thơm rất đặc trưng.
5. Cách chăm sóc
Liều lượng và cách bón phân cho 1000ao sen: Phân có thể dùng super lân, urê và KCl. Bón lót toàn bộ phân lân trước khi trồng với lượng khoảng 40kg. Sau đó cứ sau 15 ngày bón thúc 1 lần với khoảng 2kg urê + 10kg super lân/1000.
Bón thúc lần 5 có thêm kali với lượng vài trăm gram/1000.
Trước khi bón nên thay đổi nước trong ao trồng sen cho nước mới có phù sa vào và giữ cố định ở mức nói trên.
Sen cần bón cân đối đạm, lân và kali để tạo ra nhiều bông hoa đẹp nên cần thường xuyên bón phân. Nếu thiếu phân, cây cho hoa không ấn tượng, lá vàng và cây yếu.
Mặt khác do sen trồng trong điều kiện ao, ruộng ngập nước sâu nên có thế kết hợp nuôi một số loài cá và động vật thủy sinh.
Để môi trường trong ao tốt, khi bón phân cần chú ý loại phân và sử dụng đúng liều lượng.
Bón phân không gây ngộ độc cho động vật thủy sinh, nguồn nước và không kích thích tảo mọc nhiều. Lưu ý không nên bón phân dạng DAP hoặc phân gà vì chúng sẽ giúp tảo mọc dày, cạnh tranh oxy và đất sống với sen.
Sen mọc dưới nước, có sức chống chịu cao, không có bệnh, tuy nhiên thỉnh thoảng bị sâu ăn lá, khắc phục bằng việc thường xuyên kiểm tra và cắt lá bị sâu vùi sâu xuống bùn.
6. Ý nghĩa
Sen còn được xem là biểu tưọng cho sự trong trắng, thanh thoát của người con gái.
Hoa sen còn tượng trưng cho vẻ tươi sáng, cao sang, thuần khiết của dân tộc, con người và đất nước Việt Nam thân yêu.
Chính vì những ý nghĩa cao đẹp đấy mà sen đã trờ thành quốc hoa của đất nước Việt Nam và luôn là nguồn cảm hứng tuyệt vời cho thi ca, nhà văn và nghệ thuật.
III. KẾT BÀI
Với vẻ đẹp giản dị, tao nhã, hoa sen là hiện thân cho nhân phẩm, lối sống, tâm hồn cũng như cốt cách nhân văn của người Việt.
Đây là món quà quý báu mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người.
BÀI VĂN THAM KHẢO
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn ”
Bài ca dao trên ca ngợi nét đẹp tinh khiết của loài hoa sen đã làm cho người đọc thêm yêu quý, trân trọng loài hoa này. Cũng vì nét đẹp này mà sen đã trở thành quốc hoa của đất nước Việt Nam.
Hoa sen của nước ta thuộc giống sen màu đỏ, cánh kép gọi là quý. Giống hoa này có thân, lá, hoa đều nhỏ nên được gọi là sen tịch thượng. Nó thường được trồng ở chậu nước hay bể cạn. Ở Ân Độ và Bắc Mỹ, còn có giống sen màu vàng.
Hoa sen không những có hương thơm mà nó còn có nét đẹp yêu kiều và thuần khiết. Nó đẹp giản dị với cánh hoa màu đào phất phơ ôm ấp nhị hoa màu vàng tươi và toả hương thơm ngát. Mỗi bộ phận cùa hoa đều có ích, từ ngó sen, thân sen. lá sen, hạt sen đến nhị sen và nhân sen. Ngó sen, nó góp phần làm nên các món ăn ngon, thân sen dùng để làm thuốc, lá sen dùng để gói đồ ăn, hạt sen thì có thể bào chế làm thuốc cho những người mất ngủ hoặc suy nhược, nhị sen còn có thể làm thuốc Bắc. Hoa sen rất có ý nghĩa đối với con người Việt Nam. Nó không chỉ là quốc hoa của Việt Nam mà còn là biểu tượng cùa người con gái vói nét đẹp tươi sáng, yêu kiều mà giản dị và mang đầy nét truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cũng chính vì lẽ đó mà hoa sen đã được chọn làm chủ đề cho nhiều bài văn, bài thơ và là hình ảnh trang trí cho nhiều vật dụng ví dụ như tà áo dài đằm tliam hay được trưng trong các chùa chiền, miếu thờ,… Hoa sen tuy là thân mềm nhưng rất mạnh mẽ và có sức sống mãnh liệt. Vì là cây ưa nắng nên nó có thế ngoằn ngoèo mà tìm ảnh sáng. Khi trồng sen, chúng ta có thể qua ba mươi năm mà không cần đổ phân, chăm bón. Không những hoa sen mang ý nghĩa thực dụng, mà nó còn mang ý nghĩa triết lí văn hoá. Hình ảnh sen tinh khiết, giản dị vươn lên tìm ánh sáng toả hương ngan ngát, hình ảnh ấy như cho mọi người thấy sự giản dị, tinh khiết nhưng luôn kiên cường, bất khuất vươn lên trong mọi khó khăn gian khó của những người Việt Nam.
Có thể nói hoa sen mang nhiều ý nghĩa và lợi ích gắn bó mật thiết với dân tộc Việt Nam. Khi nghĩ đến hoa sen, nghĩ đến những con người Việt Nam, chúng ta không thể không nghĩ tới nét đẹp giản dị, thanh tao, nhưng lại rất kiên cường bất khuất khi gặp khó khăn và luôn toả hương thơm ngào ngạt giữa năm châu bốn bể.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 13: Giới thiệu về một loài cây hoặc loài hoa.(cây gạo) tại đây.
Tags:Đề 12 · Hoa sen · Văn chọn lọc 9
|
Topic 12 – Introducing a plant or flower (lotus) – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
A plant or flower (lotus)
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
The lotus flower in Vietnamese life symbolizes purity, innocence, and nobility.
It is the national flower of Vietnam.
II. BODY OF ARTICLE
1. Origin and origin
The lotus flower originates from Asia, originating from India, then spreading to many other countries such as Korea, China,...
From North to South, lotus is present everywhere with close and familiar images such as the village's banyan tree, bamboo, etc.
If in the North, lotus only grows in summer due to weather conditions, then in the South, lotus blooms in all four seasons, especially in Dong Thap Muoi.
2. Structure
The flowers are supported by long flower stalks, allowing them to grow above the water surface to show off their fragrance.
The leaves are large and wide, about sixty centimeters in diameter.
When the flower petals bloom, they are very large and beautiful, with many colors such as pure white or fluttering peach pink.
The lotus flower has many stamens (lotus tassels) and separate ovules. These ovules later become fruits attached to an inverted conical flower base (lotus mirror).
Each fruit contains a seed, within the seed there is a bud (lotus stem) consisting of four young leaves folded inwards.
Lotus can be grown from seeds or rhizomes.
3. How to plant
Do not plant too deep or too shallow as the lotus will easily emerge. You should choose the foot of a sunken field for planting.
Season: usually planted in January - February of the solar calendar.
How to plant: can be planted by lotus root or branched (grows faster); Choosing a branch about 0.7 - 1m long, with 3 clusters of leaves is best.
Plant trees 2m x 2m apart, about 250 trees/1000.
After planting, keep the water level in ponds, lakes, and fields about 20 - 25cm.
After 10 days, the plants take root, if any plants die, they need to be pruned.
After this time, it is best to keep the water level gradually increasing according to the growth of the lotus plant and controlling it to around 50cm.
From lotus can be processed into many nutritious dishes and very good special remedies: lotus seeds are small, yellow in color, and are both a familiar rustic dish and a good medicine to treat insomnia and depression. nervous weakness. The green lotus center, located in the middle of lotus seeds, can be used to marinate tea, creating a soothing fragrance.
Lotus leaves are great for wrapping cakes and green rice because it brings a very unique fragrance.
5. How to care
Dosage and fertilization method for 1000 lotus ponds: Fertilizer can use super phosphate, urea and KCl. Apply all phosphate fertilizer before planting with an amount of about 40kg. Then fertilize once every 15 days with about 2kg of urea + 10kg of super phosphate/1000.
The 5th top dressing has added potassium in the amount of several hundred grams/1000.
Before fertilizing, you should change the water in the lotus pond to add new water with silt and keep it fixed at the above level.
Lotuses need a balance of nitrogen, phosphorus and potassium to produce many beautiful flowers, so they need to be fertilized regularly. If there is a lack of fertilizer, the plants will produce unimpressive flowers, yellow leaves and weak plants.
On the other hand, because lotus is grown in ponds and deeply flooded fields, it is possible to combine raising some species of fish and aquatic animals.
For a good pond environment, when fertilizing, you need to pay attention to the type of fertilizer and use the correct dosage.
Fertilizing does not poison aquatic animals or water sources and does not stimulate algae growth. Note that you should not fertilize with DAP or chicken manure because they will help algae grow thickly, competing with lotus for oxygen and soil.
Lotus grows underwater, is highly resistant, and has no diseases. However, sometimes worms eat the leaves, which can be overcome by regularly checking and cutting leaves that are buried deep in the mud.
6. Meaning
The lotus is also considered a symbol of a girl's innocence and serenity.
The lotus flower also symbolizes the brightness, nobility, and purity of the people, people, and beloved country of Vietnam.
Because of these noble meanings, the lotus has become the national flower of Vietnam and has always been a great source of inspiration for poets, writers and art.
III. END
With its simple, elegant beauty, the lotus embodies the dignity, lifestyle, soul and humanity of the Vietnamese people.
This is a precious gift that nature has given to humans.
REFERENCE ESSAY
"In what beautiful dress with lotus
Green leaves, white flowers, and yellow stamens
Yellow stamens, white flowers, green leaves
Nearly mud that does not stink of mud "
The above folk song praising the pure beauty of the lotus flower has made readers love and appreciate this flower more. Because of this beauty, the lotus has become the national flower of Vietnam.
Our country's lotus is a red lotus with double petals called precious. This flower variety has small stems, leaves, and flowers, so it is called the upper lotus. It is often grown in water pots or shallow tanks. In India and North America, there are also yellow lotus varieties.
The lotus flower not only has a fragrance but also has a lovely and pure beauty. It is simply beautiful with fluttering peach petals embracing bright yellow stamens and emitting a fragrant scent. Every part of the flower is useful, from the lotus stem to the lotus stem. lotus leaves, lotus seeds to lotus stamens and lotus kernels. Lotus root, it contributes to making delicious dishes, lotus stem is used to make medicine, lotus leaf is used to wrap food, lotus seeds can be prepared as medicine for people with insomnia or weakness, lotus stamens also have can make traditional Chinese medicine. The lotus flower is very meaningful to Vietnamese people. It is not only the national flower of Vietnam but also a symbol of a girl with bright, graceful yet simple beauty and full of traditional features of the Vietnamese people. For that reason, the lotus has been chosen as the theme for many essays and poems and as a decorative image for many items such as ao dai, often displayed in temples, shrines, etc. ... Although the lotus has a soft stem, it is very strong and has intense vitality. Because it is a sun-loving plant, it can zigzag to find light. When growing lotus, we can go thirty years without needing to fertilize or fertilize. Not only does the lotus have a practical meaning, but it also has a cultural philosophical meaning. The image of a pure and simple lotus rising to find light and spreading its fragrance, that image seems to show everyone the simplicity and purity but always resilient and indomitable to rise up in all difficulties and hardships of those who Vietnam.
It can be said that the lotus flower has many meanings and benefits closely linked to the Vietnamese people. When we think of the lotus flower, when we think of the Vietnamese people, we cannot help but think of its simple, elegant beauty, but its indomitable resilience when faced with difficulties and always radiating a sweet fragrance among the five continents. four tanks.
(Students' work)
>> See more Topic 13: Introducing a plant or flower (rice plant) here.
Tags: Topic 12 · Lotus flower · Selected literature 9
|
Đề 12 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Mùa thảo quả Nghĩa gốc nghĩa chuyển Tả cụ già
1. Trong những câu nào dưới đây, các từ sườn, tai mang nghĩa gốc và trong những câu nào, chúng mang nghĩa chuyển?
a) Sườn: – Nó hích vào sườn tôi.
– Con đèo chạy ngang sườn núi.
– Tôi đi qua phía sườnnhà.
– Dựa vào sườn của bản báo cáo…
b) Tai: – Đó là điều tôi mắt thấy tainghe
– Chiếc cối xay lúa củng có hai tairất điệu.
– Đến cả cái ấm, cái chén cũng có tai.
2. Với mỗi nghĩa dưới đây của từ chạy, hãy đặt một câu:
a) Dời chỗ bằng chân với tốc độ cao.
(VD: Ở cự li chạy l00m, chị ấy luôn dẫn đầu.)
b) Tìm kiếm (VD: chạy tiền)
c) Trốn tránh (VD: chạy giặc)
d) Vận hành, hoạt động (VD: máy chạy)
e) Vận chuyển (VD: chạy thóc vào kho)
3. Trong bài Mùa thảo quả, nhà văn Ma Văn Kháng tả hương thơm trong rừng thảo quả như sau:
Gió tây lướt thướt bay qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm ủ ấp trong từng nếp áo, nếp khăn.
Hãy nêu nhận xét về cách dùng từ, đặt câu nhằm nhấn mạnh hương thơm của thảo quả chín trong đoạn văn trên.
|
Topic 12 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Cardamom season Original meaning transferred Left old man
1. In which of the following sentences do the words rib and ear have original meanings and in which sentences do they have shifting meanings?
a) Ribs: – It nudged my ribs.
– The pass runs across the mountainside.
– I went to the side of the house.
– Based on the content of the report…
b) Tai: – That's what I saw with my own eyes
– The rice mill also has two very stylish ears.
– Even the kettle and cup have ears.
2. For each of the following meanings of the word run, make a sentence:
a) Move with your feet at high speed.
(Example: At a distance of 100m, she always leads.)
b) Search (eg: make money)
c) Evasion (eg: running away from the enemy)
d) Operation, operation (eg: running machine)
e) Transportation (eg: transporting rice to warehouse)
3. In the article Cardamom Season, writer Ma Van Khang describes the fragrance in the cardamom forest as follows:
The west wind glides through the forest, carrying the scent of cardamom, spreading it along the mountain slopes, bringing the sweet, fragrant scent of cardamom into the villages of Chin San. Fragrant wind. Fragrant herbs. Fragrant earth and sky. When people come back from the cardamom forest, the strong fragrance lingers in every fold of their shirt and scarf.
Please comment on the use of words and sentences to emphasize the aroma of ripe cardamom in the above paragraph.
|
Đề 12: Phân tích tình cảm của người mẹ trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 12: Phân tích tình cảm của người mẹ trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm).
Bài làm
Từ những ngày còn bên nôi, ta đã được sống trong bầu không khí êm đềm, mát lành với lời ru ầu ơ của bà, của mẹ. Tiếng hát ấy đưa ta vào giấc ngủ an lành của tuổi thơ, nâng giấc ta, nuôi ta trưởng thành. Đó là những thanh âm trong trẻo vang động sâu sắc tâm hồn ta. Nó không chỉ cho ta những dấu ấn đầu tiên về quê hương xứ sở mà còn găm chặt trong tim ta tình yêu của mẹ thiết tha gửi gắm. Khúc hát ru của bà mẹ Tà-ôi trong thi phẩm Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ru da diết, lắng đọng. Nó mang đến cho ta những cảm nhận sâu đậm về tình yêu con của người mẹ vùng chiến khu Trị Thiên trong những năm chống Mĩ ác liệt.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ không chỉ là bài thơ mà còn là lời ru dành cho những em bé lớn lên bằng nhịp đưa nôi của lưng mẹ. Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc cho bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt tựa đề là Lời ru trên nương. Chính những lời ru đã làm thành nên cấu tứ của bài thơ, dẫn dắt vào một thế giới mang đậm bản sắc riêng của người Tà-ôi. Tình yêu ngân lên thành một điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Câu thơ vừa như lời hát trìu mến của người mẹ, vừa như lời nhắn nhủ đầy yêu thương của nhà thơ dành cho em bé. Nhịp thơ nhè nhẹ tựa như tiếng hát êm đềm vang xa giữa núi rừng bao la. Hình ảnh ém bé Tà-ôi “ngủ trên lưng mẹ” êm đềm biết bao, nó khiến ta bồi hồi nhớ lại những câu thơ về người mẹ Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp của nhà thơ Tố Hữu:
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Cả hai bà mẹ đều giống nhau ở công việc, giống nhau ở sự chăm sóc, chở che cho con nhưng nếu người mẹ Việt Bắc hiện lên trong hồi tưởng, thì người mẹ Tà-ôi được dựng lên giữa hiện thực:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng.
Nhịp thơ 3/4 đều đều ở hai câu thơ tựa như nhịp đưa à ơi trên cánh võng. Công việc của mẹ là giã gạo để nuôi bộ đội kháng chiến nhưng chính trong công việc đó người mẹ đã thể hiện tình yêu dành çho con. Từ “nghiêng” lặp lại hai lần vừa tạo nhịp điệu cho câu thơ vừa có chất tạo hình đồng thời diễn tả chân thực hình ảnh người mẹ vừa giã gạo vừa địu con trên lưng. Nỗi nhọc nhằn hiện hữu cả nơi mẹ và con:
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Công việc của mẹ khiến em bé cũng phải vất vả, nhưng em được mẹ bù đắp bằng tình yêu thiết tha. Giấc ngủ “nghiêng” của con có mẹ chở che, nâng giấc bằng “vai gầy” làm gối, bằng “lưng đưa nôi” và trái tim cất vang lời ru. Đó là lời ru được ngân lên từ tình yêu thương bao la của mẹ.
Trong mọi công việc, mọi hoàn cảnh, tình yêu tha thiết ấy vẫn vẹn nguyên, ấm áp. Dù là khi giã gạo ở nhà hay tỉa bắp trên núi Ka-lưi nắng cháy, trong tim mẹ vẫn ngân vang khúc hát ru cho a-kay, bởi a-kay chính là nguồn sống, là động lực của mẹ:
Mặt trời của bắp thì nằm trên núi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ được tác giả sử dụng thật đắc địa, mang lại những rung cảm thẩm mĩ sâu sắc, thể hiện tình mẹ con cảm động, thiêng liêng. Con là mặt trời soi rọi, sưởi ấm lòng mẹ, là nguồn vui, hạnh phúc của đời mẹ. Hạt bắp lớn lên nhờ hơi ấm của mặt trời. Mẹ vui sống bằng nguồn sáng của mặt trời trên lưng – đứa con yêu của mẹ. Lời thơ nhịp nhàng, dịu dàng như tình mẹ êm đềm ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai.
Ngủ ngoan a-kay ơi
Ngủ ngoan a-kay hỡi
Những lời ru nhẹ nhàng thể hiện sự nâng niu, gượng nhẹ của mẹ đối với giấc ngủ trẻ thơ của con. Tình yêu nồng ấm ấy trải dài xuyên suốt toàn bộ bài thơ, qua những lời ru được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc mỗi lúc một tha thiết hơn. Yêu con, thương con, bao ước mong của mẹ gửi gắm vào con. Đó chính là nguồn động lực giúp mẹ vượt qua những gian nan, thử thách, những khó khăn, nhọc nhằn để sống, lao động và tham gia kháng chiến. Những ước mong ấy giản dị, mộc mạc, phù hợp với tâm thức của người mẹ Tà-ôi và gắn liền với những ước mong dành cho bộ đội, cho kháng chiến:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Mẹ mong con trở thành một chàng trai khoẻ mạnh, có thể “vung chầy lún sân”, có thể “phát mười Ka-lưi” Trong ước mơ ấy thấp thoáng bóng dáng và sức mạnh của những anh hùng trong sử thi, thần thoại đồng thời hội tụ cả sức mạnh của dân tộc từ quá khứ đến hiện tại gắn với cuộc chiến đấu trường kì của đất nước. Đặc biệt, ước mơ trong lời ru cuối của mẹ mới đẹp làm sao:
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con ì ớn làm người Tự do…
Đó là ước mơ về ngày thống nhất non sông. Yêu con, niềm mong mỏi lớn nhất của người mẹ là con được làm người tự do. Mẹ lớn lên trong đói nghèo, nô lệ, trưởng thành trong gian khổ chiến tranh, mẹ hiểu lắm giá trị của tự do. Vì thế, mẹ không mong gì hơn là con được trở thành công dân của một đất nước tự do, độc lập. Tinh yêu con của mẹ thật sâu sắc biết bao, lớn lao biết bao.
HOÀNG THANH HƯƠNG
Lời nhận xét:
– Bài viết đã phân tích rõ nét tình cảm của người mẹ Tà-ôi đôi với con trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.
– Người viết đã cảm nhận và thẩm bình các chi tiết nghệ thuật khá tinh tê: “Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ được tác giả sử dụng thật đắc địa, mang lại những rung cảm thấm mĩ sầu sắc, thế hiện tình mẹ con cảm động, thiêng liêng. Con là mặt trời soi rọi, sưởi ấm lòng mẹ, là nguồn vui, hạnh phúc của đời mẹ. Hạt bắp Iớn lên nhờ hơi ấm của mặt trời. Mẹ vui sống nhờ hơi ấm của nguồn sáng mặt trời trên lưng – đứa con yêu của mẹ. Lời thơ nhịp nhàng, dịu dàng như tình mẹ êm đềm ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai
– Người viết đã có ý thức liên hệ so sánh nhưng cần phải gia tăng, mở rộng hơn nữa để bài viết phong phú hơn.
– Kết cấu của bài viết khá hợp lí.
|
Topic 12: Analyzing the mother's feelings in Lullaby for the big babies on their mother's back - Selected essay for grade 9
Instruct
Topic 12: Analyze the mother's feelings in Lullaby for the big babies on their mother's back (Nguyen Khoa Diem).
Assignment
Since the days when I was at the cradle, I have lived in a calm, cool atmosphere with the sad lullabies of my grandmother and mother. That singing takes us into the peaceful sleep of childhood, lifts us up, and nourishes us into adulthood. Those are clear sounds that resonate deeply in our souls. It not only gives us the first impressions of our homeland but also engraves in our hearts the love our mother passionately sent us. The lullaby sung by Ta-oi's mother in Nguyen Khoa Diem's poem Lullaby to the big babies on their mother's back is a poignant, poignant lullaby. It brings us deep feelings about the mother's love for her child in the Tri Thien war zone during the years of fierce anti-Americanism.
The lullaby for the babies growing up on their mother's back is not only a poem but also a lullaby for babies who grow up with the rocking rhythm of their mother's back. It is no coincidence that when composing this poem to music, musician Tran Hoan titled it Lullaby in the Field. It is the lullabies that form the structure of the poem, leading into a world imbued with the unique identity of the Ta-oi people. Love rings out in a continuous chorus to the rhythm of the mother's pestle:
Tai's little brother sleeps on mom's back
Sleep well and don't leave mom's back.
The poem is both a mother's affectionate song and a poet's loving message to her baby. The gentle rhythm of the poem is like a gentle song echoing far and wide among the vast mountains and forests. The image of baby Ta-oi "sleeping on his mother's back" is so peaceful, it makes us recall the verses about the Viet Bac mother during the resistance war against the French colonialists by poet To Huu:
Babies strapped on the field, breaking each cob
Both mothers are similar in their work, similar in their care and protection for their children, but if the Viet Bac mother appears in flashback, then the Ta-oi mother is set up in reality:
Mother pounded rice to feed the soldiers
The rhythm of the baseball tilts, my sleep tilts.
The rhythm of the poem is 3/4 steady in the two verses, like the rhythm of a swing in a hammock. Her job was to pound rice to feed the resistance soldiers, but it was in that job that she showed her love for her children. The word "tilt" repeated twice not only creates rhythm for the poem, but also has a visual quality and realistically describes the image of a mother pounding rice while carrying her child on her back. The hardship exists in both mother and child:
Mom's sweat fell on my hot cheeks
Mother's thin shoulders undulate as a pillow
The back rocks the cradle and the heart sings into words
The mother's work makes the baby work hard, but the baby is compensated by her mother's passionate love. The child's "tilted" sleep is protected by the mother, supporting the sleep with her "thin shoulder" as a pillow, with her "back rocking the cradle" and her heart singing lullabies. That is a lullaby sung from a mother's immense love.
In every job and every situation, that passionate love remains intact and warm. Even when pounding rice at home or trimming corn in the scorching heat of Ka-li mountain, my mother's heart still sings a lullaby to a-kay, because a-kay is her mother's source of life and motivation:
The sun of corn is located on the mountain
The sun of my mother lying on her back.
The metaphorical artistic method used by the author is very effective, bringing profound aesthetic vibes, expressing the touching and sacred love between mother and child. You are the sun that shines, warms my heart, and is the source of joy and happiness in my life. Corn kernels grow thanks to the warmth of the sun. Mother happily lives with the light of the sun on her back - her beloved child. The poem's lyrics are rhythmic and gentle like a mother's love, lulling little Tai to a deeper sleep.
Sleep well a-kay
Sleep well a-kay
Gentle lullabies show a mother's gentle care and encouragement for her child's sleep. That warm love stretches throughout the entire poem, through lullabies that are repeated over and over again like a chorus that becomes more and more earnest each time. I love you, love you, my mother's wishes are entrusted to you. That is the source of motivation that helps my mother overcome the hardships, challenges, difficulties and hardships of living, working and participating in the resistance. These wishes are simple, rustic, consistent with the mind of Ta-oi's mother and are closely linked to the wishes for the soldiers and the resistance:
I dream of giving you white rice grains
Tomorrow, the eldest child will swing the pestle and sink the yard...
I dream of giving my mother evenly grown corn kernels
Tomorrow, the older child will be given ten Kalli
I hope my son becomes a healthy young man, able to "swing the pitchfork", able to "slay ten ka-li" In that dream, the silhouette and strength of heroes in epics and myths loom. At the same time, it brings together the strength of the nation from the past to the present, associated with the country's long struggle. In particular, how beautiful is the dream in the mother's last lullaby:
I dream for my mother to see Uncle Ho. Someday I will be a Liberal...
That is the dream of the day of reunification. Loving your child, a mother's greatest wish is for her child to be a free person. My mother grew up in poverty, slavery, and grew up in the hardships of war. She understood very well the value of freedom. Therefore, I wish nothing more than for you to become a citizen of a free and independent country. A mother's love for her child is so deep and so great.
HOANG THANH HUONG
Comment:
– The article clearly analyzes the feelings between Ta-oi mother and her child in the poem Khuc sings a lullaby to the big babies on their mother's back.
– The writer felt and evaluated the artistic details quite finely: "The metaphorical artistic method used by the author is very effective, bringing emotional and melancholy emotions, expressing the love between mother and child. moving, sacred. You are the sun that shines, warms my heart, and is the source of joy and happiness in my life. Corn kernels grow thanks to the warmth of the sun. Mother lives happily thanks to the warmth of the sunlight on her back - her beloved child. The poem is rhythmic and gentle like a mother's gentle love, lulling little Tai to a deeper sleep
– The writer already has a sense of comparison but needs to increase and expand it further to make the article richer.
– The structure of the article is quite reasonable.
|
Đề 13 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Tả cô giáo Măt trời xanh của tôi nghĩa gốc
1. Xác định nghĩa của từ in đậm trong các cụm từ, câu dưới đây, rồi phân các nghĩa ấy thành hai loại: nghĩa gốc, nghĩa chuyển.
a) Lá: – Lá bàng đang đỏ ngọn cây. (TốHữu)
– Lá khoai anh ngỡ lá sen. (Ca dao)
– Lá cờ căng lên vì ngược gió. (Nguyễn Huy Tưởng)
– Cầm lá thư này lòng hướng vô Nam. (Bài hát)
b) Quả: – Quảdừa – đàn lợn con nằm trên cao. (Trần Đăng Khoa)
– Quả cau nho nhỏ ; Cái vỏ vân vân. (Ca dao)
– Trăng tròn như quả bóng. (Trần Đăng Khoa)
– Quảđất là ngôi nhà chung của chúng ta.
–Quả hồng như thể quả tim giữa đời.
2. Tìm từ có thể thay thế từ mũitrong các câu sau:
– Mũithuyền
– Mũi súng -Mủi đất
– Mũiquân bên trái đang thừa thắng xốc tới.
– Tiêm ba mũi
3. Trong bài Măt trời xanh của tôi, nhà thơ Nguyễn Viết Bình có viết:
Rừng cọ ơi! Rừng cọ!
Lá đẹp, lá ngời ngời
Tôi yêu thường vẫn gọi
Mặt trời xanh của tôi.
Theo em, khổ thơ trên đã bộc lộ tình cảm của tác giả đối với rừng cọ của quê hương như thế nào?
4. Tả cô giáo (thầy giáo) đã dạy em trong những năm học trước.
|
Topic 13 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Describe my teacher Blue Sun original meaning
1. Determine the meaning of the words in bold in the phrases and sentences below, then divide those meanings into two types: original meaning and transferred meaning.
a) Leaves: – Almond leaves are red at the top of the tree. (ToHuu)
– Potato leaves look like lotus leaves. (Folk)
– The flag was raised because of the wind. (Nguyen Huy Tuong)
– Take this letter with your heart towards the South. (Song)
b) Fruit: – Coconut – herd of piglets lying on high ground. (Tran Dang Khoa)
– Small areca fruit; The shell and so on. (Folk)
– The moon is as round as a ball. (Tran Dang Khoa)
– The earth is our common home.
–The persimmon is like a heart in the middle of life.
2. Find words that can replace the word nose in the following sentences:
– Boat bow
– Gun tip - Land tip
– The army on the left is moving forward.
– Three injections
3. In the article My Blue Sun, poet Nguyen Viet Binh wrote:
Palm forest! Palm forest!
Beautiful leaves, bright leaves
My love often calls
My blue sun.
In your opinion, how does the above poem reveal the author's feelings for the palm forest of his homeland?
4. Describe the teacher (teacher) who taught you in previous school years.
|
Đề 14: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 14: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Bài làm
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sáng tác của ông thấm đẫm phong vị của ca dao, dân ca nhưng nhiều bài vẫn có cái ngang tàng mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế cứ đi sâu vào tâm hồn người đọc một cách tự nhiên và có lúc khiến người ta phải giật mình. Ánh trăng là một thi phẩm như thế. Nó tựa như một câu chuyện nhỏ có các sự kiện diễn biến theo trình tự thời gian. Lời thơ dung dị như lời kể nhưng chất thơ vẫn đong đầy và ẩn chứa những triết lí sâu sắc về con người, cuộc đời.
Mớ đầu bài thơ là những kỉ niệm êm đềm, tươi đẹp giữa trăng và người trong quá khứ. Một loạt những mốc thời gian được liệt kê, như một cuốn phim quay chậm:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Lời thơ như không hề có sự dụng công nghệ thuật mà chỉ là sự đo đếm bước đi của thời gian, sự kiện: hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh… Thế nhưng ẩn chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, thơ dại đến khi trưởng thành và trong những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, không cùng, gợi hình ảnh ánh trăng tràn ngập không gian, trải dài theo thời gian. Cách gieo vần lưng “đổng”, “sông” và điệp từ “với” đã diễn tả một tuổi thơ êm đềm hạnh phúc chan hoà cùng thiên nhiên của tác giả. Khi lớn lên, bước chân vào đời lính gian khổ, giữa núi rừng hoang lạnh “vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng theo sát bước chân người lính, cùng chia sẻ buồn vui của cuộc sống chiến đấu. Ta chợt nhớ tới vầng trăng của tình đồng đội thiêng liêng trong sáng tác của Chính Hữu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
(Chính Hữu – Đồng chí)
Trăng thực sự là một người bạn thân thiết trong những năm tháng tuổi nhỏ và là người “tri kỉ” của người lính trong những tháng ngày khói lửa chiến tranh. Con người giản dị, hồn nhiên như bản tính vốn có của tự nhiên bao đời:
hồn nhiên như cây cỏ
Tính từ “trần trụi”, “hồn nhiên” được đặt ở hai đầu dòng thơ như muốn nhấn mạnh khí chất của con người. Trăng và người cứ hồn nhiên như thế, như sông, như đồng, như bể, như tâm hồn chân chất của những người nông dân mộc mạc, như tinh thần lạc quan, bay bổng của những người lính. Cách gieo vần lưng “thiên nhiên”, “hồn nhiên” làm cho âm điệu thơ liền mạch, khơi dòng cảm xúc dâng tràn trong tâm hồn thi nhân. Từ “ngỡ” như báo trước một sự đổi thay, một điều bất thường. Câu thơ như một lời tự nhủ của nhân vật trữ tình, cũng là bản lề mở ra sự biến chuyển của tứ thơ:
Từ hồi vê thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đì qua ngõ
như người dưng qua đường
Tác giả chỉ ra sự đối lập giữa hoàn cảnh của con người trong hiện tại và quá khứ. Quá khứ là những tháng ngày sống cùng thiên nhiên dân dã, mộc mạc, với đồng, với sông, với bể ; còn hiện tại là “ánh điện, cửa gương” nơi phố thị phồn hoa. Tác giả sử dụng thủ pháp hoán dụ để nói về cuộc sống đầy đủ, tiện nghi xa hoa, ồn ào của thành phố. Từ sự thay đổi của hoàn cảnh đã dẫn đến sự đổi thay của lòng người:
Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Người bạn “tri kỉ”, “tình nghĩa” tưởng không bao giờ quên được ấy giờ đây lại giống như “người dưng qua đường”. Phép nhân hoá càng gợi lên dư vị xót xa trong tâm hồn độc giả. Vầng trăng có tình cảm, có yêu thương, có thuỷ chung. Còn con người lại dửng dưng, vô tình, dễ đổi thay. Những ồn ào nơi cuộc sống phố thị, những ánh sáng của cuộc sống xa hoa làm lu mờ trái tim, xoá nhoà kí ức đẹp đẽ một thời. Đó không phải là điều cá biệt trong cuộc sống. Bởi vậy mà ông cha ta đã từng nhắc nhớ: “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”, khuyên con người ta không nên quay lưng lại với quá khứ.
Có lẽ, vầng trăng tri kỉ đó sẽ mãi bị “ngủ quên” trong miền kí ức nếu không có một tình huống bất ngờ xảy đến, buộc con người phải đối mặt:
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Đèn điện tắt cũng là lúc những ánh sáng của bóng điện cửa gương biến mất. Đó là tình huống tạo nên bước ngoặt để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Hai từ “thình lình”, “đột ngột” mang âm hưởng nhanh, mạnh, được đảo lên đầu câu, tạo sự đối lập giữa “phòng buyn – đinh tối om” và “vầng trăng tròn”. Giây phút nhìn thấy vầng trăng chứa chở bao cảm xúc ngỡ ngàng. Cái “đột ngột” trons sự xuất hiện của vầng trăng cũng chính là tâm trạng “đột ngột” của nhà thơ khi nhận ra vầng trăng tình nghĩa ngày nào. Trăng vẫn như xưa, vẫn đẹp một vẻ tròn đầy, vẹn nguyên. Sự xuất hiện ấy, lặng lẽ thôi mà đầy bất ngờ, mà có sức rung động mạnh mẽ đối với tâm hồn con người, thức tỉnh phần kí ức bị ngủ quẽn. Để rồi, khi đối diện với trăng, những cảm xúc ấy càng dâng tràn mạnh mẽ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bê
như lù sông là rừng
Niềm xúc động chen lẫn sự thành kính bao trùm không gian. Trăng và người, quá khứ và hiện tại, thuỷ chung và đổi thay đối diện với nhau. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ đa nghĩa, tạo nên sự đa dạng cho ý thơ. “Mặt” là trăng, là thiên nhiên, là quá khứ một thời bị lãng quên, và “mặt” còn là chính bản thân con người. Con người đang tự đối diện với chính mình, với một thời quá vãng. Khoảnh khắc đối diện ấy làm nhà thơ “rung rung” xúc động, bởi quá khứ vất vả mà ấm áp tình yêu cùng trăng bấy lâu tưởng chừng bị lãng quên nay lại ùa về, bởi con người đã nhận thức được giá trị của quá khứ, biết hổ thẹn và ân hận về sự đổi thay của mình.
Điệp từ “như là”, các hình ảnh liệt kê sông, đồng, bể, rừng cùng nhịp thơ dồn dập tạo nên dòng cảm xúc mãnh liệt, cuốn độc giả hoà theo với bao mênh mông, sâu lắng.
Khổ thơ cuối là dòng cảm xúc lắng sâu, trở thành những triết lí nhân sinh sâu sắc:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
“Trăng tròn vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đẩy, vẹn nguyên, thuỷ chung như nhất của thiên nhiên, của quá khứ. Nó đối lập với con người vô tình đổi thay, đối lập với ánh điện cửa gương dễ bị chi phối bởi hoàn cảnh. Hai tiếng “kể chi” như một lời khẳng định thể hiện sự bao dung độ lượng của trăng. Ánh trăng được nhân hoá và khoảnh khắc “im phăng phắc” là cái lặng im của sự nghiêm khắc mà bao dung, của sự thấu hiểu và độ lượng, tha thứ. Sự im lặng của trăng đủ để nhà thơ “giật mhìh” – cái giật mình của lương tâm thức tỉnh, của kí ức bị lãng quên ùa về. Cái giật mình ấy làm cho con người trở nên đáng trọng hơn. Bao ăn năn như bị dồn nén, tạo nên một sự ám ảnh sâu sắc về cái lặng im đầy ý nghĩa, về cái giật mình thảng thốt ấy.
PHẠM TUẤN ANH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã có những phân tích sâu sắc, khá tinh tế về bài thơ Ánh trăng – một thi phẩm chứa đựng nhiều ý nghĩa. Người viết khai thúc tốt các giá trị biểu cảm của từ ngữ cũng như các thủ pháp nghệ thuật.
– Bô cục bài viết hợp lí, mạch lạc.
– Văn phong trong sáng, giàu xúc cảm: “Lời thơ như không hề có sự dụng công nghệ thuật, chỉ là sư đo đếm bước đi của thời gian, sự kiện: hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh,… thế nhưng ẩn chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, hoang dại đến khi trưởng thành và những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, không cùng, gợi hình ảnh ánh trăng tràn ngập không gian, trải dài theo thời gian.
|
Đề 14: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 14: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Bài làm
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sáng tác của ông thấm đẫm phong vị của ca dao, dân ca nhưng nhiều bài vẫn có cái ngang tàng mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế cứ đi sâu vào tâm hồn người đọc một cách tự nhiên và có lúc khiến người ta phải giật mình. Ánh trăng là một thi phẩm như thế. Nó tựa như một câu chuyện nhỏ có các sự kiện diễn biến theo trình tự thời gian. Lời thơ dung dị như lời kể nhưng chất thơ vẫn đong đầy và ẩn chứa những triết lí sâu sắc về con người, cuộc đời.
Mớ đầu bài thơ là những kỉ niệm êm đềm, tươi đẹp giữa trăng và người trong quá khứ. Một loạt những mốc thời gian được liệt kê, như một cuốn phim quay chậm:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Lời thơ như không hề có sự dụng công nghệ thuật mà chỉ là sự đo đếm bước đi của thời gian, sự kiện: hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh… Thế nhưng ẩn chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, thơ dại đến khi trưởng thành và trong những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, không cùng, gợi hình ảnh ánh trăng tràn ngập không gian, trải dài theo thời gian. Cách gieo vần lưng “đổng”, “sông” và điệp từ “với” đã diễn tả một tuổi thơ êm đềm hạnh phúc chan hoà cùng thiên nhiên của tác giả. Khi lớn lên, bước chân vào đời lính gian khổ, giữa núi rừng hoang lạnh “vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng theo sát bước chân người lính, cùng chia sẻ buồn vui của cuộc sống chiến đấu. Ta chợt nhớ tới vầng trăng của tình đồng đội thiêng liêng trong sáng tác của Chính Hữu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
(Chính Hữu – Đồng chí)
Trăng thực sự là một người bạn thân thiết trong những năm tháng tuổi nhỏ và là người “tri kỉ” của người lính trong những tháng ngày khói lửa chiến tranh. Con người giản dị, hồn nhiên như bản tính vốn có của tự nhiên bao đời:
hồn nhiên như cây cỏ
Tính từ “trần trụi”, “hồn nhiên” được đặt ở hai đầu dòng thơ như muốn nhấn mạnh khí chất của con người. Trăng và người cứ hồn nhiên như thế, như sông, như đồng, như bể, như tâm hồn chân chất của những người nông dân mộc mạc, như tinh thần lạc quan, bay bổng của những người lính. Cách gieo vần lưng “thiên nhiên”, “hồn nhiên” làm cho âm điệu thơ liền mạch, khơi dòng cảm xúc dâng tràn trong tâm hồn thi nhân. Từ “ngỡ” như báo trước một sự đổi thay, một điều bất thường. Câu thơ như một lời tự nhủ của nhân vật trữ tình, cũng là bản lề mở ra sự biến chuyển của tứ thơ:
Từ hồi vê thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đì qua ngõ
như người dưng qua đường
Tác giả chỉ ra sự đối lập giữa hoàn cảnh của con người trong hiện tại và quá khứ. Quá khứ là những tháng ngày sống cùng thiên nhiên dân dã, mộc mạc, với đồng, với sông, với bể ; còn hiện tại là “ánh điện, cửa gương” nơi phố thị phồn hoa. Tác giả sử dụng thủ pháp hoán dụ để nói về cuộc sống đầy đủ, tiện nghi xa hoa, ồn ào của thành phố. Từ sự thay đổi của hoàn cảnh đã dẫn đến sự đổi thay của lòng người:
Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Người bạn “tri kỉ”, “tình nghĩa” tưởng không bao giờ quên được ấy giờ đây lại giống như “người dưng qua đường”. Phép nhân hoá càng gợi lên dư vị xót xa trong tâm hồn độc giả. Vầng trăng có tình cảm, có yêu thương, có thuỷ chung. Còn con người lại dửng dưng, vô tình, dễ đổi thay. Những ồn ào nơi cuộc sống phố thị, những ánh sáng của cuộc sống xa hoa làm lu mờ trái tim, xoá nhoà kí ức đẹp đẽ một thời. Đó không phải là điều cá biệt trong cuộc sống. Bởi vậy mà ông cha ta đã từng nhắc nhớ: “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”, khuyên con người ta không nên quay lưng lại với quá khứ.
Có lẽ, vầng trăng tri kỉ đó sẽ mãi bị “ngủ quên” trong miền kí ức nếu không có một tình huống bất ngờ xảy đến, buộc con người phải đối mặt:
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Đèn điện tắt cũng là lúc những ánh sáng của bóng điện cửa gương biến mất. Đó là tình huống tạo nên bước ngoặt để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Hai từ “thình lình”, “đột ngột” mang âm hưởng nhanh, mạnh, được đảo lên đầu câu, tạo sự đối lập giữa “phòng buyn – đinh tối om” và “vầng trăng tròn”. Giây phút nhìn thấy vầng trăng chứa chở bao cảm xúc ngỡ ngàng. Cái “đột ngột” trons sự xuất hiện của vầng trăng cũng chính là tâm trạng “đột ngột” của nhà thơ khi nhận ra vầng trăng tình nghĩa ngày nào. Trăng vẫn như xưa, vẫn đẹp một vẻ tròn đầy, vẹn nguyên. Sự xuất hiện ấy, lặng lẽ thôi mà đầy bất ngờ, mà có sức rung động mạnh mẽ đối với tâm hồn con người, thức tỉnh phần kí ức bị ngủ quẽn. Để rồi, khi đối diện với trăng, những cảm xúc ấy càng dâng tràn mạnh mẽ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bê
như lù sông là rừng
Niềm xúc động chen lẫn sự thành kính bao trùm không gian. Trăng và người, quá khứ và hiện tại, thuỷ chung và đổi thay đối diện với nhau. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ đa nghĩa, tạo nên sự đa dạng cho ý thơ. “Mặt” là trăng, là thiên nhiên, là quá khứ một thời bị lãng quên, và “mặt” còn là chính bản thân con người. Con người đang tự đối diện với chính mình, với một thời quá vãng. Khoảnh khắc đối diện ấy làm nhà thơ “rung rung” xúc động, bởi quá khứ vất vả mà ấm áp tình yêu cùng trăng bấy lâu tưởng chừng bị lãng quên nay lại ùa về, bởi con người đã nhận thức được giá trị của quá khứ, biết hổ thẹn và ân hận về sự đổi thay của mình.
Điệp từ “như là”, các hình ảnh liệt kê sông, đồng, bể, rừng cùng nhịp thơ dồn dập tạo nên dòng cảm xúc mãnh liệt, cuốn độc giả hoà theo với bao mênh mông, sâu lắng.
Khổ thơ cuối là dòng cảm xúc lắng sâu, trở thành những triết lí nhân sinh sâu sắc:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
“Trăng tròn vành vạnh” biểu tượng cho sự tròn đẩy, vẹn nguyên, thuỷ chung như nhất của thiên nhiên, của quá khứ. Nó đối lập với con người vô tình đổi thay, đối lập với ánh điện cửa gương dễ bị chi phối bởi hoàn cảnh. Hai tiếng “kể chi” như một lời khẳng định thể hiện sự bao dung độ lượng của trăng. Ánh trăng được nhân hoá và khoảnh khắc “im phăng phắc” là cái lặng im của sự nghiêm khắc mà bao dung, của sự thấu hiểu và độ lượng, tha thứ. Sự im lặng của trăng đủ để nhà thơ “giật mhìh” – cái giật mình của lương tâm thức tỉnh, của kí ức bị lãng quên ùa về. Cái giật mình ấy làm cho con người trở nên đáng trọng hơn. Bao ăn năn như bị dồn nén, tạo nên một sự ám ảnh sâu sắc về cái lặng im đầy ý nghĩa, về cái giật mình thảng thốt ấy.
PHẠM TUẤN ANH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã có những phân tích sâu sắc, khá tinh tế về bài thơ Ánh trăng – một thi phẩm chứa đựng nhiều ý nghĩa. Người viết khai thúc tốt các giá trị biểu cảm của từ ngữ cũng như các thủ pháp nghệ thuật.
– Bô cục bài viết hợp lí, mạch lạc.
– Văn phong trong sáng, giàu xúc cảm: “Lời thơ như không hề có sự dụng công nghệ thuật, chỉ là sư đo đếm bước đi của thời gian, sự kiện: hồi nhỏ, sống với đồng, với bể, với sông, hồi chiến tranh,… thế nhưng ẩn chứa sau nó là cả một quãng đời dài, từ thời niên thiếu hồn nhiên, hoang dại đến khi trưởng thành và những năm tháng chiến tranh gian khổ gắn bó cùng trăng. Mọi chiều kích không gian và thời gian được mở rộng tới bao la, không cùng, gợi hình ảnh ánh trăng tràn ngập không gian, trải dài theo thời gian.
|
Đề 15 – Thuyết minh về một đồ vật gần gũi trong đời sống(Kính đeo mắt) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Một đồ vật gần gũi trong đời sống
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần chọn cho mình một đồ vật trong đời sống cụ thể (phích nước, bàn ủi, cây chổi, kính đeo mắt,…) miễn là đồ dùng đó là vật gần gũi, em có nhiều tình cảm về nó và có nhiều kiến thức về nó. Khi thuyết minh, em cần đảm bảo những ý sau đây:
+ Nguồn gốc, xuất xứ, người phát minh?
+ Cấu tạo của đồ vật đó bao gồm những bộ phận nào? (cấu tạo bên ngoài, cấu tạo bên trong)
+ Cách sử dụng đồ vật đó như thế nào là đúng, là tốt?
+ Cách bảo quản đồ vật đó như thế nào là tốt?
+ Ý nghĩa của đồ vật trong cuộc sống của em?
+ Cảm nghĩ của em về đồ vật đó?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Giới thiệu: Chiếc kính đeo mắt là một vật dụng hết sức cần thiết trong cuộc sống của chúng ta ngày nay.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Chiếc kính mắt đầu tiên ra đòi ở Ý vào năm 1920, gồm hai mắt kính nối với nhau bằng một sợ dây để lên mũi.
Năm 1930, một chuyên gia quang học ở Luân Đôn sáng chế ra hai càng (ngày nay gọi là gọng kính) để mắt kính gá vào một cách chắc chắn.
2. Cấu tạo
Gồm hai bộ phận chính là gọng kính và tròng kính.
Gọng thường được làm bằng nhựa cứng hoặc dẻo, kim loại.
Mỗi loại gọng thì có một ưu điểm riêng, gọng kim loại được làm bằng một loại sắt, giúp người đeo cảm thấy cứng cáp và chắc chắn.
Gọng nhựa dẻo và bền thì có thể chịu được áp lực lớn mà không bị cong hoặc biến dạng.
Một loại gọng được làm bằng ti-tan rất nhẹ, có thể bẻ cong mà không gãy.
Giá của các loại gọng đó sẽ chênh lệch nhau không ít.
Phần cuối gọng kính được bẻ cong để người sử dụng có thể gác lên vành tai.
Dù là nhựa hay kim loại thì tất cả các loại gọng đều có rất nhiều màu sắc và kiểu dáng khác nhau tạo nên những vẻ đẹp riêng cho kính, như màu đỏ, đen, tím, vàng, xanh,… và còn trang trí những hình ảnh, hoa văn ngộ nghĩnh như thờ, mèo,…
Tròng kính được làm bằng thuỷ tinh trong suốt hoặc nhựa cao cấp, ban đầu có hình tròn, vuông và được mài, cắt sao cho vừa khít với gọng mà người dùng lựa chọn. Đối với tròng kính, tuy trong suốt nhưng dễ vỡ. Còn tròng kính bằng nhựa, tuy nhẹ nhưng dễ bị trầy nên cần phải lựa chọn loại kính phù hợp với nhu cầu sử dụng của mình.
Tròng kính có các loại chống tia cực tím, loại chống trầy xước là loại có cả hai đặc tính trên.
Tròng kính được gán vào gọng nhờ một sợi dây cước trang và gọng được siết chặt giữ hai tròng kính nhờ hai con đinh vít. Gần hai tròng có hai miếng đệm cao su hoặc nhựa dùng để gác lên hai bên của sống mũi.
3. Phân loại
Kính đeo mắt thì có nhiều loại: kính thuốc, kính râm, kính thời trang,… tùy mỗi loại sẽ có những công dụng riêng khác nhau.
Kính thuốc là kính dùng cho những người bị bệnh về mắt như cận thị, loạn thị,…
Kính thời trang là vật trang điểm, tạo dáng cho mắt và khuôn mặt.
Kính râm là kính để bảo vệ mắt khi đi ngoài trời.
4. Cách sử dụng và bảo quản
Lúc sử dụng kính, nên nhẹ nhàng mở bằng hai tay, dùng xong nên lau sạch tròng kính bằng khăn mềm, mịn, cất kính vào hộp, để ở nơi cố định, dễ tìm như trong ngăn tù, ngăn bàn, mặt bàn,… tránh các vật nặng đè vỡ hoặc làm trầy xước mặt kính.
Thường xuyên rửa kính bằng nước, lau sạch tròng kính bằng khăn chuyên dùng.
Để mắt kính không bị biến dạng, khi đeo và tháo kính nên dùng hai tay cầm gọng kính.
Phải dùng kính đúng độ thì thị lực sẽ không bị tăng cao.
III. KẾT BÀI
Giúp ta nhìn sự vật một cách chính xác, tạo điều kiện cho mọi người lao động và học tập tốt hơn.
Là một người bạn không thể thiếu của chúng ta.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Chiếc kính đeo mắt là một trong những vật dụng rất cần thiết đối với con người. Nói về nguồn gốc của chiếc kính đeo mắt, ít ai biết được rằng nó được ra đời ở đất nước Trung Quốc vào thế kỉ XII. Trải qua bao thời gian, chiếc mắt kính ngày nay đã có sự cải tiến không chỉ về chất lượng mà còn về hình thức, mẫu mã. Hưởng lợi từ thành quả đó, chúng ta không thể không nhớ đến công ơn của những nhà khoa học đã miệt mài nghiên cứu và cải tiến để làm ra một chiếc mắt kính tốt nhất.
Bộ phận còn lại là gọng kính dùng để nâng đỡ tròng kính. Trước đây, người ta dùng hai sợi dây để đeo vào tai nhưng bây giờ mỗi chiếc kính đều có hai thanh đỡ để đeo vào tai. Tròng kính được làm bằng nhựa hoặc kim loại nối với phần trên của gọng bằng một con ốc. Ở phía trên của gọng có hai miếng đệm để khi đeo vào không bị cấn vào mũi làm đau. Cũng như tròng kính, gọng kính cũng đủ màu sắc sặc sỡ không thua kém gì. Ngoài ra, trên gọng kính cũng được trang trí bằng các đường viền hoặc các hoa văn làm cho người nhìn không cảm thấy quá chán vì chỉ có một màu.
Kính đeo mắt có nhiều loại với nhiều công dụng khác nhau như kính mát, kính loạn thị, kính cận, kính viễn,… phù hợp với nhu cầu của mỗi người.
Kính đeo mắt rất được ưa chuộng bởi vì nó có nhiều màu sắc rất đẹp. Nó được sử dụng rất nhiều trong việc học tập, làm việc, giải trí,… Nhiều người làm công việc hàn sắt, thép rất cần có chiếc kính làm bằng kim loại để không cho các ánh sáng tiếp xúc trực tiếp với mắt. Kính dành cho học sinh là loại kính có tròng làm bằng thuỷ tinh hoặc mi-ca và tròng thì trong suốt không có màu, còn loại kính thời trang thì dành cho các diễn viên hoặc các nhà tạo mẫu tròng kính sặc sỡ đủ màu sắc khiến người khác nhìn vào cảm thấy vui tươi và yêu đời. Những loại kính thường thấy là ray-ban hay versus là những loại kính thưòng dùng cho thời trang. Còn những loại kính thường dùng để đi xa tránh nắng và bụi thì là những kính có tròng màu đen và gọng cũng màu đen. Hàng năm có hàng trăm triệu chiếc mắt kính sản xuất ra để phục vụ đời sống con người và ngày càng tiến bộ hơn rất nhiều. Con người chúng ta đã làm ra chiếc kính 3D dùng để xem phim làm hình ảnh thêm rõ nét, sống động hon trải nghiệm được như cuộc sống thật ở trong phim. Kính đeo mắt được trải rộng khắp mọi nơi trên thế giới kể cả trong phim cho đến ngoài đời thực.
Riêng tôi, tôi nghĩ rằng những người đang mắc phải bệnh về mắt sẽ khó khăn biết chừng nào trong cuộc sống nếu thiếu chiếc kính đeo mắt. Có chiếc kính đeo mắt cũng chính là có thêm một người bạn thân thiết với chúng ta. Tôi hi vọng rằng chiếc kính đeo mắt sẽ được cải tiến nhiều hơn nữa trong một tương lai không xa.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 16: Thuyết minh về một đồ vật gần gũi trong đời sống(Cái quạt giấy) tại đây.
Tags:Đề 15 · Kính đeo mắt · Thuyết minh · Văn chọn lọc 9
|
Topic 15 – Explanation about a familiar object in life (Eyeglasses) – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
A close object in life
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to choose a specific object in your life (thermos, iron, broom, eyeglasses, etc.) as long as that object is a close object, you have a lot of feelings about it and have a lot of knowledge about it. When explaining, you need to ensure the following points:
+ Origin, origin, inventor?
+ What parts does the structure of that object include? (external structure, internal structure)
+ What is the correct and good way to use that object?
+ What is a good way to preserve that object?
+ What is the meaning of objects in your life?
+ What do you think about that object?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
Introduction: Eyeglasses are an extremely necessary item in our lives today.
II. BODY OF ARTICLE
1. Origin and origin
The first eyeglasses were introduced in Italy in 1920, consisting of two lenses connected by a string to hang on the nose.
In 1930, an optical expert in London invented two claws (today called eyeglass frames) to securely attach the glasses.
2. Structure
Consists of two main parts: eyeglass frames and lenses.
Frames are usually made of hard or flexible plastic or metal.
Each type of frame has its own advantages. Metal frames are made of a type of iron, helping the wearer feel sturdy and sturdy.
Flexible and durable plastic frames can withstand great pressure without bending or deforming.
A type of frame made of titanium that is very light and can bend without breaking.
The prices of those types of frames will vary quite a bit.
The end of the glasses frame is bent so that the user can rest it on the ear.
Whether plastic or metal, all types of frames have many different colors and designs that create unique beauty for glasses, such as red, black, purple, yellow, blue,... and also decorated with different colors. Funny images and patterns like worship, cats,...
Lenses are made of transparent glass or high-quality plastic, initially round or square and ground and cut to fit the frame of the user's choice. As for glasses lenses, although transparent, they are fragile. As for plastic lenses, although light, they are easily scratched, so you need to choose the type of glasses that suits your needs.
Lenses have anti-ultraviolet rays, and anti-scratch lenses have both of the above characteristics.
The lenses are attached to the frame with a wire and the frame is tightened to hold the two lenses with two screws. Near the two lenses, there are two rubber or plastic pads used to rest on both sides of the bridge of the nose.
3. Classification
There are many types of eyeglasses: prescription glasses, sunglasses, fashion glasses,... each type will have different uses.
Prescription glasses are glasses used for people with eye diseases such as nearsightedness, astigmatism, etc.
Fashion glasses are makeup items that shape the eyes and face.
Sunglasses are glasses to protect your eyes when outdoors.
4. How to use and preserve
When using glasses, you should gently open them with both hands. After use, you should wipe the lenses clean with a soft, smooth towel, put the glasses in a box, put them in a fixed place, easy to find, such as in a drawer, desk drawer, table top, etc. ... avoid heavy objects crushing or scratching the glass.
Regularly wash your glasses with water and wipe the lenses with a specialized towel.
To prevent the glasses from deforming, when putting on and taking off the glasses, you should use both hands to hold the frames.
You must use the correct glasses so your vision will not increase.
III. END
Helps us see things accurately, creating conditions for people to work and study better.
Is our indispensable friend.
REFERENCE ESSAY
Eyeglasses are one of the most necessary items for humans. Talking about the origin of eyeglasses, few people know that they were born in China in the 12th century. Over time, today's glasses have improved not only in quality but also in form and design. Benefiting from that achievement, we cannot help but remember the gratitude of the scientists who diligently researched and improved to make the best glasses.
The remaining part is the frame used to support the lenses. In the past, people used two strings to put on their ears, but now each pair of glasses has two supports to put on their ears. Lenses are made of plastic or metal connected to the top of the frame with a screw. At the top of the frame there are two pads so that when worn, it won't hurt your nose. Just like the lenses, the frames are also colorful and colorful. In addition, the frames of the glasses are also decorated with borders or patterns so that the viewer does not feel too bored because there is only one color.
There are many types of eyeglasses with many different uses such as sunglasses, astigmatism glasses, nearsighted glasses, farsighted glasses, etc. to suit each person's needs.
Eyeglasses are very popular because they come in many beautiful colors. It is used a lot in studying, working, entertaining, etc. Many people who work in welding iron and steel need metal glasses to prevent light from coming into direct contact with their eyes. Glasses for students are glasses with lenses made of glass or mica and transparent lenses without color, while fashion glasses are for actors or stylists with colorful lenses. makes others feel happy and in love with life. Common types of glasses are ray-ban or versus, which are commonly used glasses for fashion. As for the types of glasses commonly used to go far away from the sun and dust, they are glasses with black lenses and black frames. Every year, hundreds of millions of glasses are produced to serve human life and become much more advanced. We humans have created 3D glasses used to watch movies to make the images clearer and more vivid to experience real life in movies. Eyeglasses are spread everywhere in the world, both in movies and in real life.
Personally, I think how difficult it will be for people suffering from eye diseases to live without eyeglasses. Having eyeglasses is also having another close friend to us. I hope that eyeglasses will be further improved in the near future.
(Students' work)
>> See more Topic 16: Explanation about a familiar object in life (Paper fan) here.
Tags: Topic 15 · Spectacles · Explanation · Selected text 9
|
Đề 15 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Cô Tấm của mẹ đại từ xưng hô tả em
1. Tìm đại từ xưng hô trong đoạn trích sau, nói rõ từng đại từ thay thế cho từ ngữ nào:
Khi gấu đã đi khuất, anh kia từ trên cây tụt xuống và cười:
-Thế nào, gấu rỉ tai cậu điều gì thế?
– À, nó bảo với tớ rằng những người xấu là những kẻ chạy bỏ bạn trong lúc hiểm nghèo.
(Lép Tôn-xtôi)
2. Dùng đại từ xưng hô để thay thế cho danh từ bị lặp lại (từ in đậm) trong các câu dưới đây:
Chuột chui qua khe hở và tìm ra rất nhiều thức ăn. Là một con chuột tham lam nên chuột ăn nhiều đến mức bụng chuột phình lên. Sáng ra, chuột tìm đường về ổ, nhưng cái bụng phình to đến mức chuột không sao lách qua được khe hở.
3. Trong bài Cô Tấm của mẹ, nhà thơ Lê Hồng Thiện viết:
Bao nhiêu công việc lặng thầm
Bàn tay của bé đỡ đần mẹ cha.
Bé học giỏi, bé nết na
Bé là cô Tấm, bé là con ngoan.
Đoạn thơ giúp em thấy được những điều gì đẹp đẽ ở cô bé đáng yêu?
4. Tả một em bé đang tuổi tập đi, tập nói (hoặc em bé ở lứa tuổi mầm non).
|
Topic 15 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Miss Tam's mother's pronoun describes you
1. Find the pronouns in the following excerpt, clearly stating which word each pronoun replaces:
When the bear was gone, the other guy came down from the tree and laughed:
-So, what is the bear whispering in your ear?
– Well, he told me that bad people are those who run away from friends in times of danger.
(Lep Tonxto)
2. Use pronouns to replace repeated nouns (words in bold) in the sentences below:
The mouse crawled through the gap and found a lot of food. Being a greedy mouse, he ate so much that his stomach swelled. In the morning, the mouse found its way back to the nest, but its belly was so swollen that the mouse could not squeeze through the gap.
3. In the poem Mother's Co Tam, poet Le Hong Thien wrote:
So much silent work
The baby's hand supports his mother and father.
The child studies well and is well-mannered
She is Miss Tam, she is a good child.
The poem helps you see what's beautiful about the lovely girl?
4. Describe a baby learning to walk or talk (or a baby of preschool age).
|
Đề 15: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 15: Tình yêu làng và lòng yêu quê hương, tinh thần kháng chiến của người nông dân được thể hiện sâu sắc trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Em hãy phân tích nhân vật ông Hai để làm sáng tỏ điều đó.
Bài làm
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã xây dựng thành công hình ảnh những con người Việt Nam kiên cường, bất khuất với một tình yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng. Bên cạnh hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên mặt trận còn có những con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương để góp phần vào thắng lợi của kháng chiến. Đó là những người nông dân có lòng yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc. Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh nhân vật ông Hai – một người nông dân chân chất nhưng mang nặng tình yêu làng và lòng yêu quê hương, có tinh thần kháng chiến mạnh mẽ.
Phải đi tản cư do làng bị địch chiếm đóng nhưng ông Hai không lúc nào nguôi nỗi nhớ về làng mình. Đó là nỗi nhớ da diết của một con người cả đời gắn bó sâu nặng với mảnh đất nơi mình sinh ra, lớn lên. Tinh yêu ấy được Kim Lân cảm nhận một cách sâu sắc và thể hiện hết sức giản dị, chân thành.
Những ai đã đọc Làng đều cảm nhận được ở ông Hai tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với làng xóm, với quê hương. Đối với người nông dân chất phác ấy, tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự trong tim, ngấm sâu vào máu thịt. Cũng như bao người dân lao động khác, cả một đời ông Hai gắn bó với mảnh đất quê nghèo mà nặng sâu ân tình. Cái làng Chợ Dầu ấy đã trở thành nguồn vui sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách chân thật, nồng nhiệt, vừa có những nét quen thuộc vừa có những nét riêng biệt chỉ có ở ông Hai. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì thuộc về làng, thậm chí yêu cả những cái mà ông và biết bao người đã phải khổ sở vì nó. Ông Hai tự hào vì làng Chợ Dầu của ông có những ngôi nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong lạng toàn lát bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất… Ông tự hào về tất cả những nét độc đáo, những thứ đã làm nên bề dày lịch sử của làng ông.
Nhưng tình yêu làng của người nông dân ấy không bất biến mà thay đổi theo thời gian, theo sự biến chuyển của thời đại. Kháng chiến nổ ra mang theo những luồng tư tướng mới chiếu rọi tâm hồn ông. Giờ đây, đối với ông Hai, cái làng cụ Thượng, cái sinh phần kia đều đáng căm thù ; niềm tự hào về làng là những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy tham gia ; những hố, những ụ, những hào…, chiếc chòi phát thanh. Tất cả những điều đó, từ những cái nhỏ nhặt đến những điều lớn lao, đểu trở thành đối tượng của tình yêu tha thiết, đậm sâu trong ông. Qua những lời khoe của ông Hai, ta có cảm tưởng như cảnh vật, làng xóm đã hằn in trong ông, chiếm trọn con tim, khối óc người nông dân ấy.
Nếu như cuộc sống cứ diễn ra yên bình như thế thì tình yêu làng của ông Hai mới chỉ là “tâm lí làng xã” của những người dân quê Việt Nam – những con người cả đời gắn bó với luỹ tre, cây đa, bến nước, sân đình ; yêu nơi “chôn rau cắt rốn” bằng một tình yêu bản năng, máu thịt. Kim Lân đã để cho nhân vật trải qua tình huống truyện độc đáo: ông Hai nghe tin làng theo Tây. Đây chính là tác nhân làm bùng nổ tình yêu nước thiết tha, sâu đậm của ông. Ở người nông dán ấy, tình yêu làng gắn liền với lòng yêu nước. Ta bắt gặp ở đây chân lí về cội nguồn của lòng yêu nước theo quan điểm của nhà văn Liên Xô (cũ). Ê-ren-bua: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tâm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc“.
Nghe tin làng theo giặc, “cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân…, ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được”. Trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: ông tủi nhục, đớn đau, ông tự giày vò, ông hồ nghi rồi lại tự nhủ mình phải tin vì mọi chuyện đã hết sức rõ ràng. Cuối cùng, ông cay đắng rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này…“. Tiếng rít ấy là tiếng nói của lòng căm hờn, sự căm giận đang ngùn ngụt trong lòng ông Hai. Trong ông đang có cuộc giằng co dữ dội: Ông yêu làng, làng ông đáng tự hào là thế, mà giờ lại theo Tây. Tinh cảm của ông phải thế nào đây? Nhưng sự giằng co ấy nhanh chóng đi đến kết luận: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì ta phải thù”. Một thái độ dứt khoát, một tình yêu mạnh mẽ nhưng không mù quáng. Tinh yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng phải gắn với nước. Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không thể yêu làng như xưa được nữa. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết… tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai.
Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng, những suy nghĩ và cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông Hai trong những ngày nghe tin làng theo Tây chính là tình huống giúp Kim Lân khắc hoạ rõ nét hơn bức chân dung tinh thần và lòng yêu nước sâu nặng, tình yêu làng tha thiết của ông Hai. Ông thấy tủi hổ vì niềm tự hào bấy lâu nay của ông giờ thành ra như thế. Ông chỉ biết “cúi gằm mặt xuống mà đi“, ông thương lũ con ông vì chúng có một quê hương đáng xấu hổ: “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu“. Suốt những ngày đó, ông không dám đi đâu, chỉ “nằm rũ ở trên giường, không nói gì”, “quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội mà nghe ngóng”, lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Ta bỗng hiểu hơn tại sao tác giả lại kể và tả tí mí những biểu hiện của tình yêu làng nơi ông Hai những ngày làng còn chưa bị đồn là theo Tây. Nó là sự đối nghịch với thái độ kiên quyết khi nghe tin làng làm Việt gian, là sự khẳng định mạnh mẽ tình yêu nước lớn lao trong ông. Tinh yêu ấy không chỉ là bản năng mà đã trở thành ý thức – ý thức của một công dân. Nó gắn liền với tình cảm dành cho kháng chiến và đối với Cụ Hồ, được thể hiện thật cảm động khi ông giãi bày tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với Cụ Hồ, với anh em đồng chí và là lời tự nhủ của chính ông trong những lúc căng thẳng, thử thách. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông“. Những lời bộc lộ chân tình ấy là biểu hiện của tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với kháng chiến mà biếu tượng là Cụ Hồ ; cũng là thể hiện tình yêu đất nước thiết tha của ông Hai. Tình cảm của một người nông dân nghèo đối với đất nước và kháng chiến thật sâu nặng và thiêng liêng: “Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
Niềm vui sướng vỡ oà khi ông Hai biết rằng làng mình vẫn là làng kháng chiến. Không còn nỗi tủi nhục đè nặng trong Iòng, ông lại tiếp tục đi khoe về làng Chợ Dầu anh dũng của mình, “lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông“. Người nông dân vốn gắn bó với nhà cửa ruộng vườn… Phải bỏ nhà ra đi họ đã xót xa lắm, ông Hai cũng thế. Nhưng ta lại bắt gặp hình ảnh ông Hai tất bật đi khoe cái tin “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn“. Ông sung sướng bởi việc Tây đốt nhà là biểu hiện của làng ông trong sạch, làng ông không làm Việt gian. Làng vẫn là tình yêu, là niềm tự hào tha thiết của ông Hai. Nhà ông bị đốt hết nhưng như thế có là gì. Đó chí là một phần ông cống hiến cho đất nước. Tài sản riêng mất mát nhưng cách mạng, đất nước sẽ vững mạnh hơn, đó mới thực sự là niềm vui, là hạnh phúc.
VŨ HOÀNG ANH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã làm nổi bật tình yêu làng quê tha thiết, sâu nặng của ông Hai cũng như những diễn biến, thay đổi trong tâm lí của nhân vật. Người viết thực sự am hiểu diễn biến tâm lí nhân vật, do đó lời văn phân tích có hồn, giàu câm xúc: “Niềm vui sướng vỡ oà khi ông Hai biết rằng làng mình trong sạch, làng mình vẫn là làng kháng chiến. Khônq còn nỗi tủi nhục đè nặng trong lòng, ông lại tiếp tục đi khoe về làng Chợ Dầu anh dũng của mình, “lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông”. Người nông dân xưa vốn qấn bó với nhà cửa, ruộng vườn… Phải bỏ nhà ra đi họ đã xót xa lắm, ông Hai cũng thế. Nhưng ta lại bất gặp hình ảnh ông Hai tất bật đi khoe cái tin “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn”. Ông sung sướng bởi việc Tây đốt nhà là biểu hiện của làng ông trong sạch, làng ông không làm Việt gian”.
– Bài viết có cấu trúc hợp lí, ý tứ rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ, có những ý kiến đánh giá khá sâu sắc: ” Tình yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng đó phải gắn với nước. Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không thể yêu làng như xưa được nữa. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết… tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai”.
– Cần gia tăng những liên hệ, so sánh để bài viết phong phú hơn.
|
Đề 15: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 15: Tình yêu làng và lòng yêu quê hương, tinh thần kháng chiến của người nông dân được thể hiện sâu sắc trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Em hãy phân tích nhân vật ông Hai để làm sáng tỏ điều đó.
Bài làm
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã xây dựng thành công hình ảnh những con người Việt Nam kiên cường, bất khuất với một tình yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng. Bên cạnh hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên mặt trận còn có những con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương để góp phần vào thắng lợi của kháng chiến. Đó là những người nông dân có lòng yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc. Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh nhân vật ông Hai – một người nông dân chân chất nhưng mang nặng tình yêu làng và lòng yêu quê hương, có tinh thần kháng chiến mạnh mẽ.
Phải đi tản cư do làng bị địch chiếm đóng nhưng ông Hai không lúc nào nguôi nỗi nhớ về làng mình. Đó là nỗi nhớ da diết của một con người cả đời gắn bó sâu nặng với mảnh đất nơi mình sinh ra, lớn lên. Tinh yêu ấy được Kim Lân cảm nhận một cách sâu sắc và thể hiện hết sức giản dị, chân thành.
Những ai đã đọc Làng đều cảm nhận được ở ông Hai tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với làng xóm, với quê hương. Đối với người nông dân chất phác ấy, tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự trong tim, ngấm sâu vào máu thịt. Cũng như bao người dân lao động khác, cả một đời ông Hai gắn bó với mảnh đất quê nghèo mà nặng sâu ân tình. Cái làng Chợ Dầu ấy đã trở thành nguồn vui sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách chân thật, nồng nhiệt, vừa có những nét quen thuộc vừa có những nét riêng biệt chỉ có ở ông Hai. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì thuộc về làng, thậm chí yêu cả những cái mà ông và biết bao người đã phải khổ sở vì nó. Ông Hai tự hào vì làng Chợ Dầu của ông có những ngôi nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong lạng toàn lát bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất… Ông tự hào về tất cả những nét độc đáo, những thứ đã làm nên bề dày lịch sử của làng ông.
Nhưng tình yêu làng của người nông dân ấy không bất biến mà thay đổi theo thời gian, theo sự biến chuyển của thời đại. Kháng chiến nổ ra mang theo những luồng tư tướng mới chiếu rọi tâm hồn ông. Giờ đây, đối với ông Hai, cái làng cụ Thượng, cái sinh phần kia đều đáng căm thù ; niềm tự hào về làng là những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy tham gia ; những hố, những ụ, những hào…, chiếc chòi phát thanh. Tất cả những điều đó, từ những cái nhỏ nhặt đến những điều lớn lao, đểu trở thành đối tượng của tình yêu tha thiết, đậm sâu trong ông. Qua những lời khoe của ông Hai, ta có cảm tưởng như cảnh vật, làng xóm đã hằn in trong ông, chiếm trọn con tim, khối óc người nông dân ấy.
Nếu như cuộc sống cứ diễn ra yên bình như thế thì tình yêu làng của ông Hai mới chỉ là “tâm lí làng xã” của những người dân quê Việt Nam – những con người cả đời gắn bó với luỹ tre, cây đa, bến nước, sân đình ; yêu nơi “chôn rau cắt rốn” bằng một tình yêu bản năng, máu thịt. Kim Lân đã để cho nhân vật trải qua tình huống truyện độc đáo: ông Hai nghe tin làng theo Tây. Đây chính là tác nhân làm bùng nổ tình yêu nước thiết tha, sâu đậm của ông. Ở người nông dán ấy, tình yêu làng gắn liền với lòng yêu nước. Ta bắt gặp ở đây chân lí về cội nguồn của lòng yêu nước theo quan điểm của nhà văn Liên Xô (cũ). Ê-ren-bua: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tâm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc“.
Nghe tin làng theo giặc, “cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân…, ông lão lặng đi, tưởng như không thể thở được”. Trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: ông tủi nhục, đớn đau, ông tự giày vò, ông hồ nghi rồi lại tự nhủ mình phải tin vì mọi chuyện đã hết sức rõ ràng. Cuối cùng, ông cay đắng rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này…“. Tiếng rít ấy là tiếng nói của lòng căm hờn, sự căm giận đang ngùn ngụt trong lòng ông Hai. Trong ông đang có cuộc giằng co dữ dội: Ông yêu làng, làng ông đáng tự hào là thế, mà giờ lại theo Tây. Tinh cảm của ông phải thế nào đây? Nhưng sự giằng co ấy nhanh chóng đi đến kết luận: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì ta phải thù”. Một thái độ dứt khoát, một tình yêu mạnh mẽ nhưng không mù quáng. Tinh yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng phải gắn với nước. Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không thể yêu làng như xưa được nữa. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết… tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai.
Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng, những suy nghĩ và cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông Hai trong những ngày nghe tin làng theo Tây chính là tình huống giúp Kim Lân khắc hoạ rõ nét hơn bức chân dung tinh thần và lòng yêu nước sâu nặng, tình yêu làng tha thiết của ông Hai. Ông thấy tủi hổ vì niềm tự hào bấy lâu nay của ông giờ thành ra như thế. Ông chỉ biết “cúi gằm mặt xuống mà đi“, ông thương lũ con ông vì chúng có một quê hương đáng xấu hổ: “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu“. Suốt những ngày đó, ông không dám đi đâu, chỉ “nằm rũ ở trên giường, không nói gì”, “quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội mà nghe ngóng”, lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Ta bỗng hiểu hơn tại sao tác giả lại kể và tả tí mí những biểu hiện của tình yêu làng nơi ông Hai những ngày làng còn chưa bị đồn là theo Tây. Nó là sự đối nghịch với thái độ kiên quyết khi nghe tin làng làm Việt gian, là sự khẳng định mạnh mẽ tình yêu nước lớn lao trong ông. Tinh yêu ấy không chỉ là bản năng mà đã trở thành ý thức – ý thức của một công dân. Nó gắn liền với tình cảm dành cho kháng chiến và đối với Cụ Hồ, được thể hiện thật cảm động khi ông giãi bày tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với Cụ Hồ, với anh em đồng chí và là lời tự nhủ của chính ông trong những lúc căng thẳng, thử thách. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông“. Những lời bộc lộ chân tình ấy là biểu hiện của tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với kháng chiến mà biếu tượng là Cụ Hồ ; cũng là thể hiện tình yêu đất nước thiết tha của ông Hai. Tình cảm của một người nông dân nghèo đối với đất nước và kháng chiến thật sâu nặng và thiêng liêng: “Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.
Niềm vui sướng vỡ oà khi ông Hai biết rằng làng mình vẫn là làng kháng chiến. Không còn nỗi tủi nhục đè nặng trong Iòng, ông lại tiếp tục đi khoe về làng Chợ Dầu anh dũng của mình, “lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông“. Người nông dân vốn gắn bó với nhà cửa ruộng vườn… Phải bỏ nhà ra đi họ đã xót xa lắm, ông Hai cũng thế. Nhưng ta lại bắt gặp hình ảnh ông Hai tất bật đi khoe cái tin “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn“. Ông sung sướng bởi việc Tây đốt nhà là biểu hiện của làng ông trong sạch, làng ông không làm Việt gian. Làng vẫn là tình yêu, là niềm tự hào tha thiết của ông Hai. Nhà ông bị đốt hết nhưng như thế có là gì. Đó chí là một phần ông cống hiến cho đất nước. Tài sản riêng mất mát nhưng cách mạng, đất nước sẽ vững mạnh hơn, đó mới thực sự là niềm vui, là hạnh phúc.
VŨ HOÀNG ANH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã làm nổi bật tình yêu làng quê tha thiết, sâu nặng của ông Hai cũng như những diễn biến, thay đổi trong tâm lí của nhân vật. Người viết thực sự am hiểu diễn biến tâm lí nhân vật, do đó lời văn phân tích có hồn, giàu câm xúc: “Niềm vui sướng vỡ oà khi ông Hai biết rằng làng mình trong sạch, làng mình vẫn là làng kháng chiến. Khônq còn nỗi tủi nhục đè nặng trong lòng, ông lại tiếp tục đi khoe về làng Chợ Dầu anh dũng của mình, “lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông”. Người nông dân xưa vốn qấn bó với nhà cửa, ruộng vườn… Phải bỏ nhà ra đi họ đã xót xa lắm, ông Hai cũng thế. Nhưng ta lại bất gặp hình ảnh ông Hai tất bật đi khoe cái tin “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn”. Ông sung sướng bởi việc Tây đốt nhà là biểu hiện của làng ông trong sạch, làng ông không làm Việt gian”.
– Bài viết có cấu trúc hợp lí, ý tứ rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ, có những ý kiến đánh giá khá sâu sắc: ” Tình yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng đó phải gắn với nước. Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không thể yêu làng như xưa được nữa. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết… tất cả, tất cả đều là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai”.
– Cần gia tăng những liên hệ, so sánh để bài viết phong phú hơn.
|
Đề 16 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Tả một người công nhân Bác ơi các đại từ
1. Tìm các đại từ xưng hô và nhận xét thái độ, tình cảm của nhân vật khi dùng mỗi đại từ trong đoạn thơ sau:
Má hét lớn ỉ “Tụi bay đồ chó!
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
Tao già không sức cầm dao
Giết bay đã có con tao trăm vùng!”
(Tố Hữu)
2. Tìm đại từ trong đoạn trích sau, phân biệt ngôi (ngôi thứ nhất, thứ hai, hay thứ ba), sô'(sốít hay số nhiều) của từng đại từ tìm được:
Hai người đi đường nhìn thấy một túi tiền lăn lóc giữa đường. Người trẻ nhặt lên và bảo:
– Thượng đế gửi lộc cho tôi đây.
Còn ông già bảo:
– Chúng ta cùng hưởng chứ?
Người trẻ cãi:
– Không, chúng ta đâu có cùng thấy, một mình tôi nhặt lên thôi.
Chợt họ nghe thấy có người cưỡi ngựa đuổi theo sau, quát bảo:
– Đứa nào ăn cắp túi tiền?
Người trẻ sợ hãi nói:
– Bác ơi, không khéo vì cái của bắt được này mà chúng ta khốn mât. Ông già liền bảo:
– Của bắt được là của anh, chứ đâu phải của chúng ta, thế thì anh khốn chứ chúng ta không khốn.
(Theo Lép Tôn-xtôi)
3. Ca ngợi cuộc sông cao đẹp của Bác Hồ, trong bài thơ Bác ơi!, nhà thơ Tô” Hữu có viết:
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Đoạn thơ trên đã giúp em hiểu được những nét đẹp gì trong cuộc sông của Bác Hồ kính yêu?
4. Tả một người công nhân (hoặc nông dân, thợ thủ công, bác sĩ, y tá,…) đang làm việc.
|
Topic 16 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Describe a worker Uncle, pronouns
1. Find the pronouns and comment on the character's attitude and feelings when using each pronoun in the following poem:
Mom shouted loudly, “You dogs!
Steal my country, slit my people's throats!
I'm old and can't hold a knife
If I kill you, I'll be in a hundred places!”
(To Huu)
2. Find the pronouns in the following excerpt, distinguishing between the person (first, second, or third person), number (singular or plural) of each pronoun found:
Two passersby saw a bag of money lying in the middle of the road. The young man picked it up and said:
– God sent me luck here.
And the old man said:
– Do we enjoy it together?
Young people argue:
– No, we didn't see it together, I just picked it up.
Suddenly they heard someone on horseback chasing after them, shouting:
– Who stole the money bag?
The scared young man said:
– Uncle, unfortunately because of this captured property, we are miserable. The old man immediately said:
– The captured property is yours, not ours. Then you are miserable but we are not miserable.
(According to Lep Tonxi)
3. Praising Uncle Ho's noble life, in the poem Uncle!, poet To" Huu wrote:
Love every rice plant, every flower branch
Freedom for every slave
Milk for children, silk for the elderly.
What does the above poem help you understand about the beauty in the life of beloved Uncle Ho?
4. Describe a worker (or farmer, craftsman, doctor, nurse, etc.) at work.
|
Đề 16: Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 16: Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.
Bài làm
Mỗi lần có dịp ghé thăm Sa Pa – hòn ngọc của Tây Bắc, đi trên những con đường uốn lượn giữa núi rừng điệp trùng, tôi luôn kiếm tìm hình ảnh một con người, một chàng thanh niên trong câu chuyện mà tôi yêu mến: Lặng lẽ Sa Pa. Tôi thầm cảm ơn nhà văn Nguyễn Thành Long, bởi nhờ ông, tôi và biết bao độc giả biết đến một con người lặng lẽ làm nghề khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn, một chàng thanh niên “đặc biệt”, biết cống hiến, hi sinh hết mình cho đất nước.
Xuyên suốt truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, không một ai biết chính xác tên tuổi của chàng trai nhưng ấn tượng mà anh để lại thì thật sâu đậm. Trước hết đó là con người yêu đời, sống ngăn nắp, khoa học. Anh thanh niên được bác lái xe giới thiệu là “người cô độc nhất thế gian” mới nghe đã gây hứng thú và sự tò mò không chỉ với riêng ông họa sĩ, cô gái mà với cả bạn đọc. Bác lái xe đã cung cấp một cách khái quát nhất về lí lịch anh thanh niên đặc biệt này: “hai mươi bảy tuổi […] làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu“. Điều mà nhà văn thực sự muốn nhấn mạnh đó là nỗi cô đơn, thèm người lạ lùng của chàng trai trẻ trong những ngày đầu lên núi. Vì sống và làm việc một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, “bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá” anh thanh niên đã lấy khúc gỗ chắn ngang đường cho xe dừng lại để được nói chuyện. Câu chuyện bác lái xe kể thật dí dỏm cho thấy sự vui tính của chàng trai trẻ. Con người đó thật dễ gần, dễ mến với “tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ” khi xuất hiện trước mọi người. Đáng quý hơn, anh còn mang trong mình trái tim luôn biết quan tâm, sẻ chia. Từ lời nói đầu tiên của anh trong tác phẩm (Củ tam thất cháu vừa đào đấy. Cháu gửi bác gái ngâm rượu uống. Hôm nọ bác chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy là gì?”) đến những quả trứng anh dành cho ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ ăn trưa đều khiến cho người đọc cảm nhận rõ nét điều đó. Sự quan tâm đó dù rất bình dị nhưng thể hiện tình cảm yêu thương của anh thanh niên đối với những người xung quanh.
Nhà văn Nguyễn Thành Long bên cạnh việc khắc họa lòng yêu đời, nếp sống khoa học còn đặc biệt nhấn mạnh niềm say mê, cống hiến hết mình cho công việc của chàng trai trẻ tuổi. Nghe cách anh kể về công việc của mình cho ông họa sĩ và cô kĩ sư, ta thấy toát lên một tình yêu lớn lao, vô bờ bến đối với công việc: “Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Công việc của anh tưởng chừng đơn giản nhưng đòi hỏi sự chính xác và cũng có muôn vàn khó khăn: “gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng”. Đó chính là thử thách đòi hỏi người thanh niên phải đấu tranh tâm lí để vượt qua: “Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi“. Tuy vậy, gió bão, tuyết sương không thể làm gục ngã niềm yêu nghề, sống chết với nghề của anh thanh niên. Có trách nhiệm với công việc được giao phó, người trai trẻ luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình và còn lập những chiến công vang dội: “nhờ cháu có góp phần phát hiện một đám mây khô mù ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu phản-lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng”. Cảm giác “hạnh phúc” của chàng trai sau khi biết được sự đóng góp của mình không phải là sự tự cao, tự đại mà là niềm hạnh phúc được cống hiến, được hi sinh cho quê hương mình.
Mặc dù là người hi sinh hết mình cho công việc, có những đóng góp quan trọng nhưng anh thanh niên là một người rất khiêm tốn. Phẩm chất đó khiến chúng ta càng thêm trân trọng, quý mến anh hơn. Anh thanh niên tự thấy những đóng góp của mình thật nhỏ bé so anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng, ông kĩ sư vườn rau hay đồng chí chuyên nghiên cứu sét. Vì vậy, anh thấy mình không xứng để cho họa sĩ vẽ. Thái độ của chàng trai chuyên đo nắng, mưa, gió, bão,… không phải là sự tự ti mà là thái độ khiêm tốn, biết học hỏi.
HOÀNG KHÁNH LY
Lời nhận xét:
– Bài viết đã khám phá, phân tích chi tiết những phẩm chất đáng quý của anh thanh niên: từ lòng yêu đời, lối sống ngăn nắp đến lòng say mê nghê nghiệp và sự khiêm tốn, học hỏi.
– Người viết đã khai thác những chi tiết nhỏ nhưng tinh tế góp phần soi sáng tính cách nhân vật như: sự quan tâm của anh thanh niên đối với vợ bác lái xe, ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ…
– Văn phong trong sáng, diễn đạt mạch lạc, có những liên hệ thực tê tốt như nêu lên những điều mà thế hệ trẻ ngày nay cần học tập ở nhân vật anh thanh niên: biết yêu công việc, biết sống và hi sinh vì người khúc.
– Mở bài và kết bài tự nhiên, ấn tượng.
|
Topic 16: Analyzing the character of a young man in the short story Quiet Sa Pa by Nguyen Thanh Long - Selected essay for grade 9
Instruct
Topic 16: Analyze the character of the young man in the short story Quiet Sa Pa by Nguyen Thanh Long.
Assignment
Every time I have the opportunity to visit Sa Pa - the pearl of the Northwest, walking on winding roads between endless mountains and forests, I always look for the image of a person, a young man in the story that I love: Quietly in Sa Pa. I silently thank writer Nguyen Thanh Long, because thanks to him, I and many readers know a quiet person working as a meteorologist and geophysicist on the top of Yen Son, a "special" young man. Know how to contribute and sacrifice yourself for the country.
Throughout the short story Quiet Sa Pa, no one knows the boy's exact name, but the impression he leaves is very deep. First of all, he is a person who loves life, lives orderly and scientifically. The young man who was introduced by the driver as "the loneliest person in the world" first heard it, arousing interest and curiosity not only for the artist and the girl but also for the readers. The driver provided the most general background of this special young man: "twenty-seven years old [...] working in meteorology and geophysics". What the writer really wants to emphasize is the young man's loneliness and strange craving for people during his first days on the mountain. Because he lived and worked alone on the 2,600 meter high Yen Son peak, "only trees and clouds were cold on all four sides, he was not used to it, and craved people," the young man used a log to block the road to stop the car. back to talk. The story the driver told was witty, showing the young man's humor. That person is very approachable and likable with "a small stature and a radiant face" when appearing in front of people. More precious, he also has a heart that always cares and shares. From his first words in the work (I just dug up the Panax notoginseng root. I sent it to my aunt to soak in wine to drink. Didn't you tell her the other day what it was when she got sick?") to the eggs he gave to him. The artist and the young engineer having lunch both make the reader clearly feel that. That concern, although very simple, shows the young man's love and affection for those around him.
Writer Nguyen Thanh Long, in addition to portraying the love of life and scientific lifestyle, also especially emphasized the young man's passion and dedication to his work. Listening to the way he told about his work to the artist and the engineer, we see a great and boundless love for his work: "I am here responsible for measuring wind, rain, and wind. sunshine, calculating clouds, measuring ground vibrations, participating in daily weather forecasts, serving production and combat." His job seems simple but requires precision and also has countless difficulties: "the most arduous is the time when recording and reporting at 1 o'clock in the morning". That is a challenge that requires the young man to struggle mentally to overcome: "In the middle of the night, lying under the blanket, when I hear the clock ringing, I just want to reach out and turn it off." However, the wind, storms, and snow could not defeat the young man's love of his job, of living and dying with it. Responsible for the work assigned to him, the young man always completed his tasks well and even achieved resounding victories: "Thanks to you, did you contribute to the discovery of a dry cloud that day, that month, or not? How many American counter-forces did our troops kill on Ham Rong bridge? The boy's feeling of "happiness" after knowing his contribution is not arrogance or arrogance but the happiness of being able to contribute and sacrifice for his homeland.
Although he sacrifices himself for his work and makes important contributions, the young man is a very humble person. That quality makes us respect and love him even more. The young man felt that his contributions were very small compared to his friend on the Fansipan peak station, the vegetable garden engineer or the comrade specializing in lightning research. Therefore, he felt that he was not worthy of being painted by an artist. The attitude of the guy who specializes in measuring sun, rain, wind, storms, etc. is not one of inferiority but of humility and learning.
HOANG KHANH LY
Comment:
– The article explores and analyzes in detail the young man's valuable qualities: from his love of life, his organized lifestyle, his passion for his career, his humility and learning.
– The writer has exploited small but subtle details that contribute to illuminating the character's personality such as: the young man's concern for the driver's wife, the painter and the young engineer...
– The writing style is clear, coherently expressed, and has good practical connections such as stating the things that today's young generation needs to learn from the young man character: knowing how to love work, knowing how to live and sacrifice for song person.
– Open and conclude naturally and impressively.
|
Đề 17 – Thuyết minh về một đồ vật gần gũi trong đời sống(Cái nón) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Đề 17 -Thuyết minh về cái nón
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Khi nhắc đến trang phục truyền thống của Việt Nam, chúng ta thường thấy nét đặc trưng là những tà áo dài. Và sẽ rất là thiếu sót nếu như chúng ta không tô điểm thêm vào nét duyên ấy một chiếc nón lá dịu dàng.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Nón làng Chuông vốn rất đẹp lại bền.
Xa xưa nón làng Chuông là cống vật tiến hoàng hậu, công chúa bởi vẻ đẹp rất riêng được làm từ những bàn tay tài hoa khéo léo của các nghệ nhân lành nghề.
Ngày nay, nón làng Chuông có mặt khắp nơi, cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước.
Trung bình mỗi ngày, dân làng làm được khoảng 7.000 chiếc nón đưa đi khắp nơi, sang cả Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Âu.
2. Cách làm
Đầu tiên là chọn lá.
Lá lụi được đem về vò trong cát rồi phơi nắng cho đến khi màu xanh của lá chuyển sang màu trắng bạc.
Sau đó lá được lót dưới nắm giẻ, dùng lưỡi cày miết nhanh sao cho lá phẳng mà không giòn không rách.
Vòng nón làm bằng cật nứa vót nhỏ và đều, khi nối bắt buộc phải tròn và không chấp, không gợn.
Nón làng Chuông có 16 lớp vòng giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại.
Người thợ xếp từng lá vào vòng nón, một lớp mo tre và một lớp lá nữa rồi khâu.
Khâu là một công đoạn rất khó bởi không khéo là rách lá ngay.
Khi chiếc nón được khâu xong, người thợ hơ bằng hơi diêm làm cho màu nón trở nên trắng muốt và giúp nón không mốc.
3. Phân loại
Nón ba tầm làm cho các cô gái, nón nhọn, nón chóp cho đàn ông.
Ông Hai Cát, giờ đã 84 tuổi là người có công đưa nón Xuân Kiều, còn gọi là nón Ba Đồn về làng sản xuất thay cho các loại nón cổ.
Hiện nay làng chỉ còn gia đình hai nghệ nhân chuyên làm nón cổ. Đó là nhà ông Lê Văn Tuy làm nón chóp và nhà ông Trần Văn Canh làm nón ba tầm – còn gọi là nón quai thao.
Nón quai thao làm thì khó mà lại ít được ưa chuộng nên tương lai cũng khó phát triển.
4. Ý nghĩa
Là vật dụng làm duyên của người con gái Việt Nam cùng với tà áo dài thướt tha.
Là vật dụng cần thiết và hữu ích cho con người: che nắng, che mưa,…
III. KẾT BÀI
Chiếc nón lá từ lâu đã là hình ảnh quen thuộc khi nhắc đến người phụ nữ Việt Nam.
Cần phải quảng bá hình ảnh này ra khắp năm châu bốn bể.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Ngày xưa, chàng trách nàng rằng:
Xưa kia gắn bó một hai
Giờ đây ghé nón ngang vai chẳng chào!
Bộ trang phục tương đối đầy đủ của cô gái Kinh Bắc đưọc tả như sau:
Đội nón ba tầm
Quai thao một nhúm, áo trầm một đôi
Cái thắt lưng em, bảy, tám vuông sồi….
Cái nón để che mưa che nắng, để phục tang, đỡ ngượng, che giấu tình cảm, thêm duyên, làm đẹp…Lại có câu…
Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái, như ai không chồng
Hoặc như câu đối lại:
Nón không quai, nón nghiêng nón ngủ,
Làm cả làng phải ngả, phải nghiêng.
Ngày nóng nực quá, cô gái khát nước xin một gầu nước giếng mát đổ ngay vào chiếc nón, uống cho đỡ khát rồi rửa mặt, rửa tay. Thỉnh thoảng cô gái soi chiếc gương trong nón, cười một mình, tin vào mình, nghĩ bụng: nhan sắc nhường này, ta chẳng sợ…Có lúc cái nón dùng để phe phẩy cho mát. Lúc đó, cái nón thay cho cái quạt. Cái nón trong tay người sử dụng sinh ra nhiều động tác và ý nghĩa:
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu…
Khổ “giã bạn” trong cảnh quan họ, các liền anh, liền chị hát rất buồn: “Khăn, nón i…ôi…để lại đây”… là lúc cô gái tặng cho các bạn trai cái nón quai thao thân thiết của mình. Cái nón là tấm lòng cùa cô gái, là vật nặng tình. Chàng trai Bắc Ninh không muốn cho cô bạn gái của mình phải ra chợ mua nón. Anh ta tự chẻ tre đan lấy nón. Cho nàng đội để đi xem hội đêm rằm. Anh ta muốn cái nón đó phải mang hơi thở và nỗi lòng của mình.
Việt Nam là quê hương của ba loại nón: nón ba tầm, nón quai thao, nón bài thơ. Và cũng có nhiều loại nón khác nữa như: nón lá gồi, nón lá cọ, nón sơn, nón Nghệ, nón lòng chảo, nón thúng, nón giang, nón mệnh phụ, nón xam, nón quả bứa, nón tiến vua, nón dứa, nón dấu, nón thờ, nón lông, nón đi biển, nón tu cờ (nhà sư), nón chóp…Phổ biến hơn cả là nón lá cọ, nón bài thơ, nón Huế, nón làng Chuông, nón Hữu Bằng, nón Vân Đình… Cái nón Huế trắng đến lóe mắt. Nón bài thơ còn được gọi là nón “người tình”.
Chiếc nón quai thao thật đặc biệt. Nón có đường kính chừng 70cm. Thành nón cao trên 7cm. Mặt dưới có gắn một ống hình tròn bằng nan trẻ để đội vào đầu cho cân gọi là chũm nón. Quanh chũm nón là những vòng tre chuốt nhỏ, khâu bằng chỉ màu. đan chéo sợi rất công phu. Nón còn được trang trí bằng những bông hoa, cánh bướm. Quai nón làm bằng dây thao đen gồm từ một đến ba dây chập lại, buông võng dài xuống…
Các bạn nước ngoài đến Việt Nam thường phải mua bằng được một vài chiếc nón để làm kỉ niệm. Các diễn viên, nghệ sĩ ngôi sao nước ngoài đến Việt Nam luôn tranh thủ cơ hội đội cái nón Việt Nam rồi chụp ảnh, đánh dấu sự có mặt của mình ở quê hương của nón.
Suốt cả chiều dài lịch sử dân tộc, qua mấy cuộc trường kì, cái nón là hình ảnh, biểu trưng của người phụ nữ Việt Nam. Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh những chiếc nón mê, nón tả tơi trong cuộc sống lam lũ một thời, cũng như những chiếc nón của nông dân cướp kho thóc Nhật, đi dân công phục vụ các chiến dịch lịch sử. Những chiếc nón giản dị mà kiên cường! Lại còn những chiếc nón nhấp nhô trong các phiên chợ làng. Một mái tóc, một vành nón… là cả một ấn tượng sâu sắc, đậm đà, là nhớ, là mong. Cái nón là hình ảnh và âm hưởng của quê hương.
Thiết tưởng trong các bảo tàng văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, chúng ta nên có hẳn một gian phòng trang trọng giữ lại hình ảnh của những chiếc nón Việt Nam tần tảo, nhẫn nại, bi hùng và trữ tình… Chúng góp một nét đậm đà khó quên trong nền văn hóa truyền thống…
(Theo Lý Khắc Cung, Hà Nội Văn hóa và Phong tục, 2014)
>> Xem thêm Đề 18: Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam tại đây.
Tags:Cái nón · Thuyết minh · Văn chọn lọc 9
|
Topic 17 – Explanation about a familiar object in life (The hat) – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Topic 17 -Explanation about the hat
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
When it comes to traditional Vietnamese costumes, we often see the characteristic features of ao dai. And it would be a mistake if we did not add to that charm a gentle conical hat.
II. BODY OF ARTICLE
1. Origin and origin
Chuong village hats are very beautiful and durable.
In the past, Chuong village hats were a tribute to queens and princesses because of their unique beauty, made by the skillful hands of skilled artisans.
Today, Chuong village hats are present everywhere, both in the domestic and foreign markets.
On average every day, villagers make about 7,000 hats and send them everywhere, including China, Japan and European countries.
2. How to do it
First is to choose the leaves.
The leaves are brought home, crushed in sand and then dried in the sun until the green color of the leaves turns silvery white.
Then the leaves are placed under a handful of rags, and the plow blade is quickly rubbed so that the leaves are flat but not brittle or torn.
The hat ring is made of small and evenly sharpened bamboo shoots. When connecting, it must be round and not attached or rippled.
Chuong village hats have 16 layers of rings, helping the hat to be durable but still soft.
The worker arranges each leaf into the hat ring, a layer of bamboo shoots and another layer of leaves and then sews.
Sewing is a very difficult step because if not done well, the leaves will tear immediately.
When the hat is finished sewing, the worker heats it with match air to make the hat's color white and prevent the hat from getting moldy.
3. Classification
Ba tam hats are made for girls, pointed hats, top hats for men.
Mr. Hai Cat, now 84 years old, is the person who was instrumental in bringing Xuan Kieu hats, also known as Ba Don hats, to the village to produce instead of ancient hats.
Currently, the village only has two families of artisans who specialize in making antique hats. That's Mr. Le Van Tuy's house making top hats and Mr. Tran Van Canh's house making ba tam hats - also known as quai sports hats.
Hats with straps are difficult to make and are less popular, so it will be difficult to develop in the future.
4. Meaning
It is a charming accessory for Vietnamese girls along with a graceful ao dai.
It is a necessary and useful item for humans: sun protection, rain protection,...
III. END
The conical hat has long been a familiar image when referring to Vietnamese women.
It is necessary to promote this image all over the world.
REFERENCE ESSAY
In the past, he blamed her:
In the past, we were one or two together
Now I put my hat on my shoulder and don't say hello!
The relatively complete outfit of a Kinh Bac girl is described as follows:
Wear a three tam hat
A pair of straps, a pair of sequins
My belt, seven, eight square oak...
Hats are used to cover rain and sun, to cover mourning, to reduce embarrassment, to hide emotions, to add charm, to beautify...There is another saying...
Staggering like a hat without a handle
Like a boat without a rudder, like someone without a husband
Or as the opposite goes:
Hats without handles, tilted hats, sleeping hats,
Causing the whole village to lean and tilt.
On a very hot day, the thirsty girl asked for a bucket of cool well water, poured it into her hat, drank it to quench her thirst, then washed her face and hands. Sometimes the girl looks at the mirror in her hat, smiles to herself, believes in herself, thinks: with this beauty, I'm not afraid... Sometimes the hat is used to wave it to keep cool. At that time, the hat replaced the fan. The hat in the user's hand generates many movements and meanings:
The more you love yourself, the more you love yourself...
Suffering from "farewell to friends" in the scene of their family, the brothers and sisters sang very sadly: "Scarves, hats... oh... leave them here"... is when the girl gives her boyfriend her beloved hat with straps. . The hat is the girl's heart, a cherished object. The Bac Ninh guy didn't want his girlfriend to have to go to the market to buy hats. He split bamboo himself to weave hats. Let her wear it to go see the full moon night festival. He wanted that hat to carry his breath and feelings.
Vietnam is the homeland of three types of hats: Ba Tam hats, Quai Thao hats, and Poem hats. And there are also many other types of hats such as: palm leaf hats, palm leaf hats, painted hats, Nghe hats, basin hats, basket hats, giang hats, mahu hats, xam hats, fruit bamboo hats, king-making hats, hats Pineapple hats, seal hats, church hats, fur hats, beach hats, tu flag hats (monks), top hats... The most popular are palm leaf hats, poem hats, Hue hats, Chuong village hats, Huu Bang hats, Van Dinh hat... The Hue hat is so white it's blinding. Poem hats are also called "lover" hats.
The hat with straps is really special. The hat has a diameter of about 70cm. The side of the hat is over 7cm high. The underside has a circular tube made of spokes that can be placed on the head for weight, called a helmet. Around the conical hat are small bamboo rings sewn with colored thread. Cross the yarn very elaborately. The hat is also decorated with flowers and butterfly wings. The hat's handle is made of black rope, consisting of one to three ropes folded together, letting the hammock hang down...
Foreigners who come to Vietnam often have to buy a few hats as souvenirs. Foreign actors and artists who come to Vietnam always take advantage of the opportunity to wear a Vietnamese hat and take photos, marking their presence in the hat's homeland.
Throughout the nation's history, through many long wars, the hat has been the image and symbol of Vietnamese women. We cannot forget the images of hats and tattered hats in the hard-working life of a time, as well as the hats of farmers robbing Japanese granaries and working as civil servants to serve historical campaigns. Simple yet resilient hats! There are also hats bobbing in the village markets. A piece of hair, a brim of a hat... is a deep, rich impression, a memory, a hope. The hat is the image and sound of the homeland.
It is thought that in museums of culture, history, and art, we should have a solemn room that retains the images of Vietnamese conical hats that are diligent, patient, heroic, and lyrical... They contribute a Unforgettable charm in traditional culture...
(According to Ly Khac Cung, Hanoi Culture and Customs, 2014)
>> See more Topic 18: Introduction to Vietnamese ao dai here.
Tags: Hat · Explanation · Selected text 9
|
Đề 17 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Tả người trong gia đình về sau chuyến đi xa
1. Tìm quan hệ từ, cặp quan hệ từ trong các câu sau và nêu rõ tác dụng của chúng:
Hằng ngày, bằng tinh thần và ý chí vươn lên, dưới trời nắng gay gắt hay trong tuyết rơi, hàng triệu trẻ em trên thế giới cùng đi học. Nếu phong trào học tập ấy bị ngừng lại thì nhân loại sẽ chìm đắm trong cảnh ngu dốt, trong sự dã man.
2. Tìm quan hệ từ thích hợp để điền vào chỗ trông: với, hoặc, mà, của.
a) Đây là em … tôi và bạn … nó.
b) Chiều nay … sáng mai sẽ có.
c) Nói.,. không làm.
d) Hai bạn như hình … bóng, không rời nhau một bước.
3. Đọc hai câu ca dao:
– Ai ơi, đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
– Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Em hiểu được điều gì có ý nghĩa đẹp đẽ trong cuộc sông của con người?
4. Tả một người trong gia đình (bố, mẹ, anh, chị,…) vừa trở về nhà sau chuyến đi xa.
|
Topic 17 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Describe a family member returning from a long trip
1. Find word relations and pairs of words in the following sentences and clearly state their effects:
Every day, with the spirit and will to rise, under the hot sun or in the falling snow, millions of children around the world go to school. If that learning movement is stopped, humanity will sink into ignorance and barbarism.
2. Find the appropriate word relationship to fill in the blank: with, or, which, of.
a) This is you... me and you... it.
b) This afternoon... it will be there tomorrow morning.
c) Speak.,. do not do.
d) The two of you are like shadows, never taking a step apart.
3. Read two folk songs:
– Hey, don't leave the fields fallow,
How many feet underground, yellow feet much.
– Invite each other to plant and plow
Now hard, there are days of fluidity.
Do you understand what is meaningful and beautiful in human life?
4. Describe a family member (father, mother, brother, sister, etc.) who has just returned home after a long trip.
|
Đề 17: Phân tích nhân vật ông hoạ sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 17: Phân tích nhân vật ông hoạ sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long.
Bài làm
Có người đã nhận xét rằng Lặng lẽ Sa Pa là nơi hội tụ của những tấm lòng. Câu chuyện giản dị mà sâu sắc ấy kể vể những con người có tâm hồn trong sáng và trái tim ấm áp. Họ gặp nhau tình cờ và quyến luyến nhau bởi cái tình đằm thắm trong mỗi người. Trong cuộc hội ngộ ấy, ông hoạ sĩ là nhân vật để lại trong lòng ta những ấn tượng sâu đậm, bởi tính cách thâm trầm, sâu sắc, bởi những triết lí sâu xa về nghệ thuật. Ông chính là sợi dây liên kết các nhân vật trong câu chuyện.
Điều đầu tiên dễ nhận ra ở ông hoạ sĩ là một tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với công việc. Dù tuổi đã cao, đến lúc được nghỉ ngơi nhưng ông vẫn say mê, năng nổ với nghề nghiệp của mình. Ông không bằng lòng với tất cả những gì mình đã làm được trong cuộc đời. Ông muốn vươn tới những giá trị vinh hằng. Khát vọng đó thôi thúc người nghệ sĩ ấy lên đường. Và hành trình đến với Sa Pa là hành trình ông đi tìm cái đẹp theo tiếng vẫy gọi, sự thôi thúc của con tim. Câu nói của ông hoạ sĩ già đã khiến cô kĩ sư trẻ xúc động “đối với một người khao khát trời rộng, việc dứt bỏ một tình yêu đôi khi lại cảm thấy nhẹ lòng”. Ông nói với cô gái trẻ mới bước vào ngưỡng cửa cuộc đời hay là tâm niệm với chính mình, bởi bản thân ông cũng là một người khao khát trời rộng? Có lẽ trong cuộc đời mình, cũng không ít lần ông từng mạnh dạn vứt bỏ nhũng tình yêu tầm thường, vô vị để đi tìm giá trị chân chính của cuộc đời.
Những khát vọng, những cảm hứng sáng tác bùng nổ trong ông khi ông bắt gặp anh thanh niên trên đỉnh Yên Sơn. Từ những ấn tượng được nghe trước đó qua lời giới thiệu của bác lái xe, đến khi tận mắt nhìn thấy “người con trai có tầm vóc nhỏ bé, nét mặt rạng rỡ” ông đã “xúc động mạnh“. Đó là sự xúc động của một người luôn khao khát đi tìm cái đẹp đã “bắt gặp được một điều thực ra ông vẫn ao ước được biết. Một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét đủ là giá tri của một chuyến đi dài”.
Những hành động, lời nói vô tư, suy nghĩ sâu sắc, thái độ chân thành, nhiệt huyết của anh thanh niên đã tác động mạnh đến suy nghĩ của người hoạ sĩ. Ông băn khoăn về những cái đã làm và những cái chưa làm, những cái ông dám nghĩ nhưng không dám làm, về mảnh đất Sa Pa “mà ônq quyết định sẽ chỉ đến và nghỉ ngơi giai đoạn cuối đời, mà ông yêu nhưng vần còn tránh“. Có thể nói những suy nghĩ của ông hoạ sĩ cũng chính là những tâm niệm nghệ thuật của nhà vãn Nguyễn Thành Long. Nhân vật ông hoạ sĩ là hoá thân bằng xương bằng thịt của một tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn.
Ông hoạ sĩ còn là người sống hoà đồng, chân thành. Trên chuyến xe Hà Nội – Lào Cai ấy, nơi nhữnơ con người xa lạ, lần đầu và cũng có thể là lần cuối gặp nhau, ông hoạ sĩ đã là người kết nối họ lại. Ông hoà mình với tất cả, dễ dàng thân thiết với mọi người. Ông cởi mở – cái cởi mở chân thành đến mức hồn nhiên ở một người lớn tuổi, từng trải, mang trong mình trái tim ấm nóng, chan chứa tình đời của một người nghệ sĩ nhạy cảm. Chính ông đã mang lại cho cô kĩ sư một niềm tin tưởng, gieo vào tâm hồn cô gái trẻ ấy niềm tin mạnh mẽ để bước vào đời. Ông tâm sự với cô những điều sâu xa, tế nhị “những điều mà người ta ít nghĩ tới hoặc giấu kín trong lòng”. Tình cảm của ông dành cho cô thật hồn hậu, nhân ái như tình cảm của một người cha với cô con gái nhỏ. Nó không chỉ dừng lại ở những tâm sự an ủi, động viên mà còn thể hiện qua những việc làm cụ thể: đưa cô đến tận tinh giao tận tay ông trưởng ti rồi xem qua chỗ ăn ở của cô. Những hành động, việc làm ấy chỉ có thể bắt nguồn từ một tình cảm chận thành.
Nhân vật ông hoạ sĩ già là một thành công nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Thành Long. Ông là hiện thân của con người luôn ý thức được vị trí, trách nhiệm của bản thân đối với công việc, với cuộc đời và với đất nước. Tâm hồn nghệ sĩ cho ông những sợi dây tinh nhậy để rung cảm trước những nét đẹp của cuộc đời, nhận ra chân giá trị của cái đẹp bắt nguồn từ chính cuộc sống đời thường, từ những con người giản dị. Hình ảnh ông cùng các nhân vật khác – những con người lặng lẽ làm nên một Sa Pa không lặng lẽ – đã để lại trong lòng độc giả những ngân vang sâu lắng.
Lời nhân xét:
– Người viết có năng lực phân tích tốt. Phân tích nhân vật người họa sĩ, người viết đã xoáy sâu vào hai nét phẩm chất nổi bật: một con người có tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với công việc và một con người sống hoà đồng, chân thành với mọi người xung quanh. Để làm rõ những nét phẩm chất đó của người hoạ sĩ, bài viết đã chú ý khai thác các chi tiết được coi là điểm sáng nghệ thuật, đặc biệt là những suy nghĩ của nhân vật. Ví dụ: “ Vẽ anh, ông thấy mình bất lực: “Người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông khó nhọc quá. Với những điều làm người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vời vợi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người”. Đó chính là nghịch lí của nghệ thuật: sự bất lực của nghệ sĩ trước tấm gương của cuộc đời hiện hữu, ngồn ngộn sức sống, tràn đầy nhiệt huyết ẩn bên trong một sự giản dị, mà ông không thể chuyển tải hết vào trong tác phẩm của mình. Chính cái giản dị đời thường – tưởng chừng là “cái chết của nghệ thuật ” – lại là hạt ngọc quý mà không phải nghệ sĩ nào cũng nhận ra ánh sáng của nó“.
– Lời văn trong sáng, giản dị, có những nhận định, đánh giá sâu sắc. Ví dụ: “Tình cảm của ông dành cho cô thật hồn hậu, nhân ái như tình cảm của một người cha với cô con gái nhỏ. Nó không chỉ dừng lại ở những tâm sự, an ủi, động viên mà thể hiện ở cả những việc làm cụ thể: đưa cô đến tận ti, giao tận tay ông trưởng ti rồi xem qua chỗ ăn ở của cô. Những hành động, việc làm ấy chỉ có thể bắt nguồn từ một tình cảm chân thành“.
|
Topic 17: Analyzing the character of the painter in Quiet Sa Pa by Nguyen Thanh Long - Selected essay for grade 9
Instruct
Topic 17: Analyze the character of the painter in Quiet Sa Pa by Nguyen Thanh Long.
Assignment
Someone commented that Quiet Sa Pa is the convergence of hearts. This simple yet profound story tells about people with pure souls and warm hearts. They met by chance and were attracted to each other by the deep love within each other. In that reunion, the artist is a character who leaves deep impressions in our hearts, because of his profound personality and profound philosophies about art. He is the thread that connects the characters in the story.
The first thing that is easy to recognize about the artist is his love and strong passion for his work. Even though he is old and it is time to rest, he is still passionate and energetic about his profession. He was not satisfied with everything he had accomplished in life. He wanted to reach eternal values. That desire motivated the artist to set out. And the journey to Sa Pa was his journey to find beauty following the calling and urging of his heart. The old artist's words touched the young engineer: "For someone who longs for the open sky, giving up a love sometimes feels relieved." Is he speaking to a young girl who has just entered the threshold of life, or is he thinking to himself, because he himself is also a person who longs for the open sky? Perhaps in his life, many times he boldly abandoned trivial and tasteless love to find the true value of life.
His aspirations and creative inspiration exploded in him when he encountered the young man on Yen Son peak. From the impressions he heard earlier through the driver's introduction, to seeing with his own eyes "the boy of small stature, with a radiant face" he was "strongly moved". It was the emotion of a person who always yearned to find beauty and "encountered something he actually longed to know. One stroke is enough to affirm a soul, evoke a creative idea, one stroke is enough to be the value of a long trip."
The young man's carefree actions and words, deep thoughts, sincere attitude, and enthusiasm had a strong impact on the artist's thoughts. He wondered about what he had done and what he had not done, what he dared to think but did not dare to do, about the land of Sa Pa "that he decided he would only come to and rest at the end of his life, that he loved but still avoid". It can be said that the artist's thoughts are also the artistic thoughts of writer Nguyen Thanh Long. The character of the artist is the flesh and blood incarnation of the writer's artistic statement.
The artist is also a sociable and sincere person. On that Hanoi - Lao Cai bus trip, where strangers met each other for the first and possibly last time, the artist was the one who connected them. He blends in with everyone, easily gets close to everyone. He is open - an openness that is sincere to the point of innocence in an older, experienced person, with a warm heart filled with the love of life of a sensitive artist. It was he who gave the engineer confidence, instilling in that young girl's soul a strong belief to move forward in life. He confided to her profound and delicate things, "things that people rarely think about or keep hidden in their hearts." His feelings for her were as kind and compassionate as the feelings of a father for his young daughter. It not only stopped at condolences and encouragement but was also expressed through specific actions: taking her to the temple to hand over to the boss's hand and then taking a look at her accommodation. Those actions and deeds can only originate from a sincere feeling.
The character of the old painter is an artistic success of writer Nguyen Thanh Long. He is the embodiment of a person who is always aware of his position and responsibility towards work, life and the country. The artist's soul gave him the sensitive strings to feel the beauty of life, realizing the true value of beauty originating from everyday life, from simple people. The image of him and other characters - quiet people who make up a not-so-quiet Sa Pa - has left deep echoes in the hearts of readers.
Comments:
– The writer has good analytical ability. Analyzing the character of the artist, the writer focuses deeply on two outstanding qualities: a person with love and a strong passion for his work and a person who lives in harmony and sincerity with everyone around him. around. To clarify those qualities of the artist, the article has paid attention to exploiting details that are considered artistic highlights, especially the characters' thoughts. For example: "Drawing him, he felt helpless: "That boy is really cute but makes him so hard. With things that make people think about him. And about the things I thought about in the vast solitude twenty-six hundred meters above the sea, flowing out when I met someone. That is the paradox of art: the artist's helplessness before the mirror of existing life, full of vitality, full of enthusiasm hidden inside a simplicity, which he cannot fully convey into his works. It is the simplicity of everyday life - seemingly "the death of art" - that is a precious gem whose light not every artist recognizes."
– The writing is clear and simple, with profound comments and assessments. For example: "His feelings for her were as kind and compassionate as the feelings of a father towards his young daughter. It didn't just stop at confiding, comforting, and encouraging, but also showed up in specific actions: taking her to the office, delivering it to the head of the office, and then checking out her accommodation. Those actions and deeds can only originate from sincere feelings."
|
Đề 18 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sin giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Chiếc xe lu tả người bạn cặp quan hệ từ
1. Tìm cặp quan hệ từ thích hợp để điền vào chỗ trông:
a)... trời mưa … chúng em sẽ nghỉ lao động.
b)... cha mẹ quan tâm dạy dỗ … em bé này rất ngoan.
c) … nó ốm …nó vẫn đi học.
d)... Nam hát hay… Nam vẽ cũng giỏi.
2. Hãy thay quan hệ từ trong từng câu dưới đây bằng quan hệ từ khác để có câu đúng:
a) Nếu Rùa biết mình chậm chạp nên nó cố gắng chạy thật nhanh.
b) Tuy Thỏ cắm cổ chạy miết nên nó vẫn không đuổi kịp Rùa.
c) Vì Thỏ chủ quan, coi thường người khác nhưng Thỏ đã thua Rùa.
d) Câu chuyện này không chỉ hấp dẫn, thú vị nên nó còn có ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc.
3. Trong bài Chiếc xe lu, nhà thơ Trần Nguyên Đào có viết:
Tớ là chiếc xe lu
Người tớ to lù lù
Con đường nào mới đắp
Tớ san bằng tăm tắp
Con đường nào rải nhựa
Tớ là phẳng như lụa
Trời nóng như lửa thiêu
Tớ vẫn lăn đều đều
Trời lạnh như ướp đá
Tớ càng lăn vội vã.
Theo em, qua hình ảnh chiếc xe lu (xe lăn đường), tác giả muốn ca ngợi ai? Ca ngợi những phẩm chất gì đáng quý?
|
Topic 18 – Practice questions – Fostering good students in Vietnamese 5
Instruct
The truck describes the couple's relationship from
1. Find the appropriate pair of relative words to fill in the blanks:
a)... it's raining... we will take a break from work.
b)... parents care about teaching... this baby is very good.
c) …he's sick…he still goes to school.
d)... Nam is good at singing... Nam is also good at drawing.
2. Replace the word relation in each sentence below with another word relation to get the correct sentence:
a) If the Tortoise knows that it is slow, it tries to run as fast as possible.
b) Even though the Rabbit ran hard, it still couldn't catch up with the Tortoise.
c) Because the Rabbit was subjective and looked down on others, the Rabbit lost to the Turtle.
d) This story is not only attractive and interesting, it also has a very profound educational meaning.
3. In the article The Roller, poet Tran Nguyen Dao wrote:
I am a roller
The servant is huge
Which road has just been built?
I flattened it with a toothpick
Which road is paved?
I'm smooth as silk
It's hot like fire
I still roll steadily
It's as cold as ice
I roll even faster.
In your opinion, through the image of a road roller, who does the author want to praise? What qualities are worth praising?
|
Đề 19 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
1. Phân các câu dưới đây thành hai loại: câu đơn và câu ghép. Em dựa vào đâu để phân chia như vậy?
a) Trên các trảng rộng và chung quanh những lùm bụi thấp mọc theo các lạch nước, ta có thể nghe tiếng vù vù bất tận của hàng nghìn loại côn trùng có cánh không ngớt bay đi bay lại trên những bông hoa nhiệt đới sặc sỡ.
(Theo Đoàn Giỏi)
b) Một vài giọt mưa loáng thoáng rơi trên chiếc khăn quàng đỏ và mái tóc xoã ngang vai của Thuỷ, những sợi cỏ đẫm nước lùa vào dép Thuỷ làm cho bàn chân nhỏ bé của em ướt lạnh.
(Theo Lưu Quang Vũ)
c) Cây chuối củng ngủ, tàu lá lặng đi như thiếp vào trong nắng.
(Theo Băng Sơn)
d) Trong im ắng, hương vườn thơm thoảng bắt đầu rón rén bước ra, và tung tăng trong ngọn gió nhẹ, nhảy trên cỏ, trườn theo những thân cành.
(Theo Phạm Đức)
2. Vạch ranh giới giữa các vế câu trong từng câu ghép ở bài tập 1. Xác định chủ ngữ, vị ngữ trong từng vế câu.
3. Trong Thư gửi các hoc sịnhnhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (1945), Bác Hồ đã viết:
Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.
Lời dạy của Bác Hồ kính yêu đã giúp em hiểu được trách nhiệm của người học sinh đốì với việc học tập như thế nào?
|
Topic 19 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
1. Divide the sentences below into two types: simple sentences and compound sentences. On what basis do you make such a division?
a) In the open glades and around the low bushes growing along the creeks, one can hear the endless buzzing sound of thousands of winged insects flying back and forth over the colorful tropical flowers. .
(According to Doan Gioi)
b) A few drops of rain fell on Thuy's red scarf and her shoulder-length hair. The wet grass strands slid into Thuy's sandals, making her small feet wet and cold.
(According to Luu Quang Vu)
c) The banana tree is also sleeping, its leaves are silent as if falling asleep in the sunlight.
(According to Bang Son)
d) In the silence, the fragrant scent of the garden began to tiptoe out, and toss around in the gentle breeze, jumping on the grass, crawling along the branches.
(According to Pham Duc)
2. Draw the boundary between clauses in each compound sentence in exercise 1. Identify the subject and predicate in each clause.
3. In his Letter to the students on the opening day of the first school of independent Vietnam (1945), Uncle Ho wrote:
Whether the Vietnamese river becomes beautiful or not, whether the Vietnamese people can step to the throne of glory to compete with the great powers of the five continents or not, depends largely on their studies.
How have beloved Uncle Ho's teachings helped you understand a student's responsibility towards learning?
|
Đề 1: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 1: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Bài làm
Thân em như hụt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Lời ca dao cứ da diết, ngân vang, ám ảnh. Ngược dòng thời gian trở về quá khứ, hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong văn học thật đẹp, thật sáng trong, nhưng số phận của họ cũng thật nhiều éo le, ngang trái. Tôi thực sự bị ám ảnh bởi hình ảnh Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Có lẽ đây là một trong những hình tượng đầu tiên, phản ánh chân thực và rõ nét số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến hà khắc.
Mở đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu một cách ngắn gọn về nhân vật Vũ Nương. Đó là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Mặc dù, truyện được viết theo thể loại truyền kì, nhưng với cách giới thiệu họ tên, quê quán cụ thể, tác giả tạo nên tính hiện thực sống động cho nhân vật. Người con gái đó không chỉ dẹp về nhan sắc mà còn có những phẩm chất sáng ngời: hiền hậu, đảm đang, chung thủy, giàu đức hi sinh. Tác giả đã đưa ra nhiều chi tiết thể hiện phẩm chất đáng quý đó của Vũ Nương. Tuy Trương Sinh – chồng của nàng – là một người đa nghi, “đối với vợ phòng ngừa quá sức” nhưng “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Người phụ nữ là người giữ lửa cho mỗi gia đình, Vũ Nương đã khéo léo giữ được không khí đầm ấm, hạnh phúc cho mái nhà nhỏ của mình. Đây thực sự là điều không hể dễ dàng. Cũng như bao người phụ nữ Việt Nam khác, Vũ Thị Thiết đã hi sinh hết mình vì chồng. Nhưng hạnh phúc mà nàng được hưởng thật ngắn ngủi, chẳng khác nào “bóng câu qua cửa sổ”. Người đọc thật xót xa, thương cảm khi nghe những lời chia li của nàng trước khi chồng ra trận: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Nếu như người ra đi phải đối diện với hiểm nguy vì hòn tên mũi đạn thì người ở nhà cũng phải chịu bao khổ đau với nỗi cô đơn tột cùng, mỏi mòn và niềm mong ngóng cháy bỏng. Bởi lẽ: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” (Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm), người ra đi mấy ai may mắn trớ về. Vũ Nương thương chồng hết mực và chính tình thương yêu đó đã biến thành sức mạnh để nàng vượt qua bao khó khăn khi chồng ra đi.
Là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết tưởng rằng Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh phúc suốt đời nhưng nàng lại có một số phận thật bi thảm, bất hạnh. Tấm lòng hi sinh, hiếu thảo của Vũ Nương tưởng như được đền đáp khi Trương Sinh từ chiến trận trở về. Song, cuộc đời thật trớ trêu, ngày chồng trở về không phải ngày Vũ Nương ngập tràn trong hạnh phúc sum vầy mà là ngày định mệnh, tột cùng đau khổ, bi thương với nàng. Lời nói ngây thơ của bé Đản chẳng khác nào những nhát dao oan nghiệt: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít […] Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Người ta thường nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, Trương Sinh lại là người hay ghen và đa nghi do đó lời nói của con càng khiến chàng tin rằng Vũ Nương đã phụ bạc mình. Chàng đâu biết “người đàn ông” mà cậu bé Đản nói chính là cái bóng của chính Vũ Nương. Vì thương con, nhớ chồng nên nàng thường chỉ bóng mình ở trên vách và nói đó là cha Đản. Có lẽ nàng cũng không thể ngờ chính tình yêu thương chồng con lại trở thành mối dây oan nghiệt với cuộc đời mình. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp cho độc giả. Liệu Vũ Nương sẽ giải thích sao đây? Liệu tự nàng có giải oan được cho mình hay không?
Cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh bèo đơn chiếc trôi nổi giữa dòng đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chồng cũng không tin, nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: “kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời thề của Vũ Nương vừa thể hiện niềm đau đớn khôn nguôi vừa khẳng định tấm lòng trinh bạch của nàng. Tác giả đã sử dụng kết hợp các điển tích, điển cố “ngọc Mị Nương, cỏ Ngu mĩ” như lối so sánh ngầm. Tấm lòng của Vũ Thị Thiết cũng sáng trong, trinh khiết như Mị Nương, Ngu Cơ – những trang “tiết hạnh khả phong” của muôn đời. Lòng tự trọng bị xúc phạm nặng nề và để minh oan cho sự trong sáng của mình, Vũ Nương đã “gieo mình xuống sông mà chết”. Cái chết của nàng khiến người đọc hiểu thêm về số phận bi thảm của người phụ nữ xưa. Hạnh phúc với họ thật mong manh.
Tuy vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn đau đáu một niềm yêu thương chồng con tha thiết. Vũ Nương dù đã chết nhưng không nguôi nỗi nhớ mái ấm gia đình. Với tài năng bậc thầy, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế giới huyền ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực khi để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò chuyện với Vũ Nương chốn thủy cung. Những giọt nước mắt của nàng khi nghe người hàng xóm nói về chồng con “Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai ngợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?” cho chúng ta thấy, nàng vẫn một lòng yêu thương Trương Sinh tha thiết. Vì còn lòng yêu thương nên nàng đã để cho Trương Sinh có cơ hội gặp lại mình: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”. Tuy nhiên sự trở về của Vũ Nương thật ngắn ngủi: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện”. Nàng chỉ nói một câu duy nhất: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn Nguyễn Dữ đã gửi gắm vào sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để khẳng định lòng chung thủy, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết hối lỗi như Trương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát thể hiện con người đã ra đi mãi mãi không thể trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật khó có thể lấy lại. Trương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên đã để mất người vợ. Bên cạnh đó, ẩn sâu trong sự trở về của Vũ Nương là nỗi ngậm ngùi, đau đớn, xót xa cho số phận người phụ nữ:
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Hai chữ “bạc mệnh” cứ bám riết, đeo đẳng số phận người phụ nữ. Hình tượng Vũ Nương là điển hình nghệ thuật cho “phận đàn bà” tư dung tốt đẹp, chung thủy sắt son mà bất hạnh tột cùng. Câu chuyện vừa là niềm cảm thương sâu sắc với số phận người phụ nữ, vừa là tiếng nói vạch trần, tố cáo đanh thép đối với xã hội phong kiến đã chà đạp, bóp nghẹt quyền sống của con người. Chuyện người con gái Nam Xương do đó thấm đượm giá trị nhàn đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Cho đến hôm nay câu chuyện vẫn như một hồi chuông nhắc nhở mọi người phải bênh vực, bảo vệ người phụ nữ để họ được hưởng những niềm hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Gấp trang sách lại, lòng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: Liệu cuộc đời này còn biết bao người phải khổ như Vũ Nương?
CHU HÀ THỦY LINH
Lời nhân xét:
– Người viết hiểu và phân tích nhân vật kĩ, sâu sắc.
– Bố cục bài viết mạch lạc, thể hiện tư duy lô gíc chặt chẽ nhưng cũng giàu cảm xúc và chất văn chương. Người viết thể hiện niềm cảm thông chân thành đối với số phận éo le, bất hạnh, ngang trái của nhản vật Vũ Nương.
– Người viết đã có những so sánh khiến bài viết có chiều sâu, phong phú: so sánh Vũ Nương với Ngu Cơ, Mị Châu…
– Kết bài tạo ấn tượng với câu hỏi nhiều sức gợi: “Liệu cuộc đời này còn biết bao người phải khổ như Vũ Nương?
|
Đề 1: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 1: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Bài làm
Thân em như hụt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Lời ca dao cứ da diết, ngân vang, ám ảnh. Ngược dòng thời gian trở về quá khứ, hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong văn học thật đẹp, thật sáng trong, nhưng số phận của họ cũng thật nhiều éo le, ngang trái. Tôi thực sự bị ám ảnh bởi hình ảnh Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Có lẽ đây là một trong những hình tượng đầu tiên, phản ánh chân thực và rõ nét số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến hà khắc.
Mở đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu một cách ngắn gọn về nhân vật Vũ Nương. Đó là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Mặc dù, truyện được viết theo thể loại truyền kì, nhưng với cách giới thiệu họ tên, quê quán cụ thể, tác giả tạo nên tính hiện thực sống động cho nhân vật. Người con gái đó không chỉ dẹp về nhan sắc mà còn có những phẩm chất sáng ngời: hiền hậu, đảm đang, chung thủy, giàu đức hi sinh. Tác giả đã đưa ra nhiều chi tiết thể hiện phẩm chất đáng quý đó của Vũ Nương. Tuy Trương Sinh – chồng của nàng – là một người đa nghi, “đối với vợ phòng ngừa quá sức” nhưng “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Người phụ nữ là người giữ lửa cho mỗi gia đình, Vũ Nương đã khéo léo giữ được không khí đầm ấm, hạnh phúc cho mái nhà nhỏ của mình. Đây thực sự là điều không hể dễ dàng. Cũng như bao người phụ nữ Việt Nam khác, Vũ Thị Thiết đã hi sinh hết mình vì chồng. Nhưng hạnh phúc mà nàng được hưởng thật ngắn ngủi, chẳng khác nào “bóng câu qua cửa sổ”. Người đọc thật xót xa, thương cảm khi nghe những lời chia li của nàng trước khi chồng ra trận: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Nếu như người ra đi phải đối diện với hiểm nguy vì hòn tên mũi đạn thì người ở nhà cũng phải chịu bao khổ đau với nỗi cô đơn tột cùng, mỏi mòn và niềm mong ngóng cháy bỏng. Bởi lẽ: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” (Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm), người ra đi mấy ai may mắn trớ về. Vũ Nương thương chồng hết mực và chính tình thương yêu đó đã biến thành sức mạnh để nàng vượt qua bao khó khăn khi chồng ra đi.
Là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết tưởng rằng Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh phúc suốt đời nhưng nàng lại có một số phận thật bi thảm, bất hạnh. Tấm lòng hi sinh, hiếu thảo của Vũ Nương tưởng như được đền đáp khi Trương Sinh từ chiến trận trở về. Song, cuộc đời thật trớ trêu, ngày chồng trở về không phải ngày Vũ Nương ngập tràn trong hạnh phúc sum vầy mà là ngày định mệnh, tột cùng đau khổ, bi thương với nàng. Lời nói ngây thơ của bé Đản chẳng khác nào những nhát dao oan nghiệt: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít […] Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Người ta thường nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, Trương Sinh lại là người hay ghen và đa nghi do đó lời nói của con càng khiến chàng tin rằng Vũ Nương đã phụ bạc mình. Chàng đâu biết “người đàn ông” mà cậu bé Đản nói chính là cái bóng của chính Vũ Nương. Vì thương con, nhớ chồng nên nàng thường chỉ bóng mình ở trên vách và nói đó là cha Đản. Có lẽ nàng cũng không thể ngờ chính tình yêu thương chồng con lại trở thành mối dây oan nghiệt với cuộc đời mình. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp cho độc giả. Liệu Vũ Nương sẽ giải thích sao đây? Liệu tự nàng có giải oan được cho mình hay không?
Cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh bèo đơn chiếc trôi nổi giữa dòng đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chồng cũng không tin, nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: “kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời thề của Vũ Nương vừa thể hiện niềm đau đớn khôn nguôi vừa khẳng định tấm lòng trinh bạch của nàng. Tác giả đã sử dụng kết hợp các điển tích, điển cố “ngọc Mị Nương, cỏ Ngu mĩ” như lối so sánh ngầm. Tấm lòng của Vũ Thị Thiết cũng sáng trong, trinh khiết như Mị Nương, Ngu Cơ – những trang “tiết hạnh khả phong” của muôn đời. Lòng tự trọng bị xúc phạm nặng nề và để minh oan cho sự trong sáng của mình, Vũ Nương đã “gieo mình xuống sông mà chết”. Cái chết của nàng khiến người đọc hiểu thêm về số phận bi thảm của người phụ nữ xưa. Hạnh phúc với họ thật mong manh.
Tuy vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn đau đáu một niềm yêu thương chồng con tha thiết. Vũ Nương dù đã chết nhưng không nguôi nỗi nhớ mái ấm gia đình. Với tài năng bậc thầy, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế giới huyền ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực khi để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò chuyện với Vũ Nương chốn thủy cung. Những giọt nước mắt của nàng khi nghe người hàng xóm nói về chồng con “Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai ngợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?” cho chúng ta thấy, nàng vẫn một lòng yêu thương Trương Sinh tha thiết. Vì còn lòng yêu thương nên nàng đã để cho Trương Sinh có cơ hội gặp lại mình: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”. Tuy nhiên sự trở về của Vũ Nương thật ngắn ngủi: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện”. Nàng chỉ nói một câu duy nhất: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn Nguyễn Dữ đã gửi gắm vào sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để khẳng định lòng chung thủy, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết hối lỗi như Trương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát thể hiện con người đã ra đi mãi mãi không thể trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật khó có thể lấy lại. Trương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên đã để mất người vợ. Bên cạnh đó, ẩn sâu trong sự trở về của Vũ Nương là nỗi ngậm ngùi, đau đớn, xót xa cho số phận người phụ nữ:
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Hai chữ “bạc mệnh” cứ bám riết, đeo đẳng số phận người phụ nữ. Hình tượng Vũ Nương là điển hình nghệ thuật cho “phận đàn bà” tư dung tốt đẹp, chung thủy sắt son mà bất hạnh tột cùng. Câu chuyện vừa là niềm cảm thương sâu sắc với số phận người phụ nữ, vừa là tiếng nói vạch trần, tố cáo đanh thép đối với xã hội phong kiến đã chà đạp, bóp nghẹt quyền sống của con người. Chuyện người con gái Nam Xương do đó thấm đượm giá trị nhàn đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Cho đến hôm nay câu chuyện vẫn như một hồi chuông nhắc nhở mọi người phải bênh vực, bảo vệ người phụ nữ để họ được hưởng những niềm hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Gấp trang sách lại, lòng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: Liệu cuộc đời này còn biết bao người phải khổ như Vũ Nương?
CHU HÀ THỦY LINH
Lời nhân xét:
– Người viết hiểu và phân tích nhân vật kĩ, sâu sắc.
– Bố cục bài viết mạch lạc, thể hiện tư duy lô gíc chặt chẽ nhưng cũng giàu cảm xúc và chất văn chương. Người viết thể hiện niềm cảm thông chân thành đối với số phận éo le, bất hạnh, ngang trái của nhản vật Vũ Nương.
– Người viết đã có những so sánh khiến bài viết có chiều sâu, phong phú: so sánh Vũ Nương với Ngu Cơ, Mị Châu…
– Kết bài tạo ấn tượng với câu hỏi nhiều sức gợi: “Liệu cuộc đời này còn biết bao người phải khổ như Vũ Nương?
|
Đề 2 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề 2 – Đề học sinh giỏi Tiếng Việt 5
1. Chọn từ thích hợp trong các từ sau để điền vào chỗ trông: cho, biếu, tặng, truy tặng, cấp, phát, ban, dâng, hiến.
a) Bác gửi… các cháu nhiều cái hôn thân ái.
(Hồ Chí Minh)
b) … chị Võ Thị Sáu danh hiệu anh hùng.
c) Ăn thì no,… thì tiếc. (Tục ngữ)
d) Lúc bà về, mẹ lại… một gói trà mạn ướp nhị sen thơm phưng phức.
(Tiếng Việt 3, tập hai, 1983)
e) Đức cha ngậm ngùi đưa tay … phước.
(Chu Văn)
g) Nhà trường … học bổng cho sinh viên xuất sắc.
h) Ngày mai, trường … bằng tốt nghiệp cho sinh viên.
i) Thi đua lập công … Đảng.
k) Sau hoà bình, ông Đỗ Đình Thiện đã … toàn bộ đồn điền này cho Nhà nước.
(Tiếng Việt 5, tập hai, 2006)
2. Tìm thêm các từ đồng nghĩa vào mỗi nhóm từ dưới đây và chỉ ra nghĩa chung của từng nhóm:
a) chọn, lựa, …
b) diễn đạt, biểu đạt, …
c) đông đúc, tấp nập, …
3. Trong bài Việt Nam thân yêu (Tiếng Việt 5, tập một), nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết:
Việt Nam đất nước ta ơi!
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.
Cánh cò bay lả dập dờn,
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
4. Đất nước ta có nhiều cảnh đẹp do con người tạo nên. Hãy tả một cảnh đẹp đó trên quê hương em hoặc nơi em đã từng đến.
|
Topic 2 – Practice topics – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Topic 2 – Vietnamese excellent students topic 5
1. Choose the appropriate word from the following words to fill in the blanks: give, donate, donate, posthumously, grant, give, bestow, offer, dedicate.
a) I send... you many warm kisses.
(Ho Chi Minh)
b) … Ms. Vo Thi Sau was given the title of hero.
c) Eating makes you feel full,... makes you feel sorry. (Proverb)
d) When grandma came home, mom brought... a package of fragrant lotus tea marinated with lotus stamens.
(Vietnamese 3, volume two, 1983)
e) The Bishop sadly extended his hand... blessed.
(Chu Van)
g) The school... scholarships for excellent students.
h) Tomorrow, school... diploma for students.
i) Emulation to achieve achievements... Party.
k) After peace, Mr. Do Dinh Thien... gave this entire plantation to the State.
(Vietnamese 5, volume two, 2006)
2. Find additional synonyms for each group of words below and point out the general meaning of each group:
a) choose, choose, …
b) express, express, ...
c) crowded, bustling, ...
3. In the article Dear Vietnam (Vietnamese 5, volume one), poet Nguyen Dinh Thi wrote:
Vietnam, our country!
Where vast rice sea sky more beautiful.
The stork's wings fluttered,
Cloudy clouds cover Truong Son peak early in the afternoon.
4. Our country has many beautiful landscapes created by humans. Describe a beautiful scene in your hometown or a place you have been to.
|
Đề 2 – Đề kiểm tra học kì II – Tiếng Việt 4
Hướng dẫn
I.Phần bài đọc
SAU TRẬN MƯA RÀO
Một giờ sau cơn dông, người ta hầu như không nhận thấy trời hè vừa ủ dột. Mùa hè, mặt đất cũng chóng khô như da em bé.
Không gì đẹp bằng lá cây vừa tắm mưa xong, đang được mặt trời lau ráo, lúc ấy trông nó vừa tươi mát, vừa ấm áp)… Khóm cây, luống cảnh trao đổi hương thơm và tia sáng. Trong tán lá mấy cây sung, chích chòe huyên náo, chim sẻ tung hoành, gõ kiến leo dọc thân cây dẻ, mổ lách cách trên vỏ. Hoa cẩm chướng có mùi thơm nồng nồng. Ánh sáng mạ vàng những đóa hoa kim cương, làm cho nó sáng rực lên như những ngọn đèn. Quanh các luống kim hương, vô số bướm chập chờn trông như những tia sáng lập lòe của các đóa đèn hoa ấy.
Ánh sáng chan hòa làm cho vạn vật đầy tin tưởng. Nhựa ngọt, mùi thơm, khí ấm, cuộc sống tràn trề. Nhờ có cát nên không có một vết bùn, nhờ có mưa nên không có bụi trên lá. Cây cỏ vừa tắm gội xong, trăm thứ như nhung gấm bạc, vàng, vàng bày lên trên cánh hoa không một tí bụi. Cảnh vườn là cảnh vắng lặng của thiên nhiên ngập tràn hạnh phúc, vắng lặng thần tiên, vắng lặng mà dung hòa với nghìn thứ âm nhạc; có chim gù, có ong vo ve, có.gió hồi hộp dưới lá.
II.Em đọc thầm bài “Sau trận mưa rào” để làm các bài tập sau:
(Khoanh vào đáp án đúng?)
1.Tên các loài chim và hoa được tác giả miêu tả trong bài là:
A. Sung, sẻ, chích chòe, gõ kiến, cẩm chướng.
B. Sẻ, chích chòe, gõ kiến, cẩm chướng, kim hương,.
C. Chích chòe, gõ kiến, cẩm chướng, sung, kim hương,
D.Chích chòe, gõ kiến, ong, cẩm chướng, kim hương.
2.Tác giả đã sử dụng từ ngữ nào để miêu tả trời hè trựớc cơn mưa dông?
A.Tươi mát.
B.Ấm áp.
C.Huyên náo
D.Ủ dột.
3.Sau trận mưa rào, yếu tố nào làm cho vạn vật trở nên tươi mát, ấm áp, đầy tin tưởng?
A. Mưa
B.Anh sáng.
C.Tia sáng
D.Khí ẩm.
4.Tìm các từ ngữ miêu tả hoạt động của chim chóc trong bài?
5.Tìm và viết lại một câu văn trong bài học có sử dụng hình ảnh nhân hóa?
6.Câu “Khóm cây, luống cảnh trao đổi hương thơm và ánh sáng.” thuộc loại câu nào?
A.Câu kể.
B.Câu cảm.
C.Câu khiến.
7.Điền trạng ngữ thích hợp vào chỗ chấm trong câu sau:
-……………….., em giúp bố mẹ quét dọn nhà cửa.
8.Dòng nào dưới đây chỉ gồm các từ có chứa tiếng “lạc” mang nghĩa là “vui, mừng”?
A. Lạc quan, lạc hậu, lạc điệu, lạc thú.
B. Lạc quan, lạc thú, lạc nghiệp, an lạc.
C. Lạc quan, lạc nghiệp, lạc đàn, an lạc.
9.Tìm trạng ngữ trong câu sau và cho biết trạng ngữ bổ sung ý nghĩa gì cho câu?
Trạng ngữ: ……………………………..
Trạng ngữ bổ sung ý nghĩa:………………
III.Tập làm văn
Đề bài: Tả một con vật nuôi trong nhà.
Bài làm
>>XEM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TẠI ĐÂY
|
Topic 2 – Semester II test – Vietnamese 4
Instruct
I. Reading part
AFTER THE SHOWER
An hour after the thunderstorm, people hardly noticed that the summer sky had just turned gloomy. In the summer, the ground dries quickly like a baby's skin.
There is nothing more beautiful than leaves that have just finished bathing in the rain and are being dried by the sun. At that time, they look both fresh and warm)... Clusters of trees and ornamental beds exchange fragrance and rays of light. In the foliage of the fig trees, warblers were noisy, sparrows were flying around, and woodpeckers were climbing along the trunk of the chestnut tree, pecking on the bark. Carnations have a strong fragrance. The light gilded the diamond flowers, making them shine like lamps. Around the beds of hyssop, countless butterflies fluttered like the flickering rays of those flower lights.
The radiant light makes everything full of trust. Sweet resin, fragrant smell, warm air, full of life. Thanks to the sand, there is not a trace of mud, thanks to the rain, there is no dust on the leaves. The plants have just finished bathing, hundreds of things like silver brocade velvet, gold, gold are placed on the petals without a trace of dust. The garden scene is a quiet scene of nature filled with happiness, a magical quietness, a quietness that harmonizes with a thousand types of music; There are birds cooing, bees buzzing, there is a thrilling wind under the leaves.
II.I silently read the article "After the Shower" to do the following exercises:
(Circle the correct answer?)
1.The names of birds and flowers described by the author in the article are:
A. Figs, sparrows, warblers, woodpeckers, carnations.
B. Sparrows, warblers, woodpeckers, carnations, honeysuckle, etc.
C. Magpies, woodpeckers, carnations, figs, goldenrods,
D. Warblers, woodpeckers, bees, carnations, and honeysuckle.
2.What words did the author use to describe the summer sky before a thunderstorm?
A. Fresh.
B. Warm.
C. Noisy
D. Depression.
3. After a shower, what factor makes everything become fresh, warm, and full of trust?
A. Rain
B.You are bright.
C. Ray of light
D. Moist air.
4.Find words that describe the activities of birds in the article?
5. Find and rewrite a sentence in the lesson that uses personification?
6.The sentence "Clusters of trees and ornamental beds exchange fragrance and light." What type of sentence?
A.The story.
B. Feeling.
C. Sentence command.
7. Fill in the appropriate adverb in the punctuation in the following sentence:
-……………….., I help my parents clean the house.
8.Which line below contains only words containing the word "lac" which means "happy, glad"?
A. Optimism, backwardness, dystopia, pleasure.
B. Optimism, pleasure, happiness, peace.
C. Optimism, happiness, joy, peace.
9. Find the adverb in the following sentence and tell us what meaning the adverb adds to the sentence?
Adverb: ……………………………..
Adverbs add meaning:………………
III.Practice writing
Topic: Describe a domestic pet.
Assignment
>>SEE ANALYSIS GUIDE HERE
|
Đề 20 – Giới thiệu về một di tích lịch sử hoặc danh lam thắng cảnh(Huế) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Đề 20 – Giới thiệu về Huế
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
– Trước hết, em cần chọn cho mình một danh lam thắng cảnh hoặc một di tích ở quê hương em cụ thể (Vịnh Hạ Long, Nha Trang, Huế, các Chùa nổi tiếng (chùa Hương, chùa Một Cột…) miễn là danh lam thắng cảnh hoặc một di tích ở quê hương có sự gần gũi, em có nhiều tình cảm về nó và có nhiều kiến thức về nó. Khi thuyết minh, em cần đảm bảo những ý sau đây:
+ Nguồn gốc, xuất xứ, lịch sử hình thành nên danh lam đó?
+ Kết cấu, kiến trúc cùa danh lam thấng cảnh đó bao gồm những điều gì? (cấu tạo bên ngoài, cấu tạo bên trong)
+ Có thể kể một vài câu chuyện lịch sử ngắn, một vị anh hùng dân tộc gắn liền với danh lam thắng cảnh đó?
+ Ý nghĩa, giá trị lịch sử của địa danh đó?
+ Nhà nước, địa phương đã có những biện pháp nào để trùng tu, tôn tạo và phát triển nó?
+ Cảm nghĩ của em về danh lam thắng cảnh đó?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Giới thiệu: Huế được liệt vào một trong những di sản văn hóa thế giới bởi vì Huế đẹp, thơ mộng, cổ kính và có nhiều công trình kiến trúc độc đáo.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Huế nằm ở miền Trung của đất nước, phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng, phía Tây dựa vào dãy Trường Sơn và phía Đông nhìn ra biển Đông. Huế cách Hà Nội 660 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1080 km. Huế là do từ “Hóa” trong từ “Thuận Hóa” đọc chệch đi.
2. Đặc điểm
Đến với Huế, du khách có rất nhiều địa điểm để tham quan: Đầu tiên, du khách có thể đến thăm kinh thành Huế.
Nơi đây gồm 3 vòng thành từ ngoài vào trong đó là Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.
Tử Cấm Thành có điện cần Chánh là nơi vua làm việc và điện Càng Thành là nơi vua ở.
Kinh Thành Huế có kiến trúc kết hợp nghệ thuật Đông Tây và còn được gọi là thành phố, thành luỹ ngôi sao.
Lăng Gia Long được xây dựng trên một khu đất bao gồm 42 đồi núi lớn nhỏ. Ở đây là nơi chọn cất vua Gia Long cùng các cung tần mĩ nữ và những bà chị của vua.
Lăng Minh Mạng được xây dựng trước khi ông mất một năm. Lăng có vẻ đẹp thiên nhiên hấp dẫn của vùng núi cẩm Khê bên tả ngạn sông Hương cách Huế 12km.
Lăng Tự Đức được xây dựng trên núi Vạn Niên. Lăng toạ lạc trong một thung lũng và là một trong những công trình đẹp nhất trong kiến trúc cung đình Huế.
Huế cũng là nơi đạo Phật rất thịnh hành và có rất nhiều chùa chiền và nối tiếng nhất là chùa Thiên Mụ. Chùa nằm ở đồi Hà Khê bên tả ngạn sông Hương.
Chùa có một tháp bát giác, bảy tầng cao 21m. Mỗi tầng thờ một đức Như Lai.
Núi Ngự và sông Hương như là linh hồn của Huế.
Con sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Son hùng vĩ lặng lẽ trôi qua núi rừng rồi âm thầm chảy về sông Hương đi qua nơi an giấc nghìn thu của các vua nhà Nguyễn.
Cùng với sông Hương, núi Ngự cũng là một nét đặc trưng của Huế.
Ngọn núi hình thang cao 105m. Dáng núi uy nghi như một con đại bàng đang vỗ cánh nên người ta còn gọi là Bằng Sơn. Sau này vua Gia Long mới đổi lại là Ngự Bình.
III. KẾT BÀI
Nhắc đến Huế, chúng ta thường nghĩ ngay đến sự mộng mơ và kiều diễm.
Người ta yêu Huế bởi vì Huế quá dịu dàng, ngay cả ánh nắng cũng dè dặt. Nhất là những chiều mưa ở Huế rất đượm buồn, gợi cảm giác nhớ thương.
BÀI VĂN THAM KHẢO
“Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về sông Hương”
(Trích bài hát “Ai ra xứ Huế”- Duy Khánh)
Huế là một trong những trung tâm văn hoá, nghệ thuật của Việt Nam. Nếu đem Huế so sánh với các thủ đô trên thế giới thì Huế quá nhỏ bé, nhưng Huế vẫn được liệt vào một trong những di sản văn hoá thế giới bởi vì Huế đẹp, thơ mộng, cổ kính và có nhiều công trình kiến trúc độc đáo.
Huế cũng là nơi đạo Phật rất thịnh hành và có rất nhiều chùa chiền và nổi tiếng nhất là chùa Thiên Mụ. Chùa nằm ở đồi Hà Khê bên tả ngạn sông Hương. Chùa có một tháp bát giác, bảy tầng cao 21m. Mỗi tầng thờ một đức Như Lai. Cứ chiều chiều, khi tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang lên như mang lại sự an lành hạnh phúc cho người dân xứ Huế.
Ở đây, người ta còn yêu thích bởi những sản phẩm đặc biệt của Huế. Huế là thành phố của vườn hoa, cây cảnh, vườn cây ăn quả tươi mát và những chiếc nón lá càng tô điểm vẻ đẹp dịu dàng, thanh cao của những cô gái Huế. Chính vì vậy, trước khi rời Huế, ai cũng mua một chiếc nón bài thơ để làm kỉ niệm.
Đã bao lần du khách đến với Huế, lúc thì vội vàng, lúc thì thong dong nhưng Huế đã để lại trong lòng du khách một tình cảm như một cố nhân. Người ta yêu Huế bởi vì Huế quá dịu dàng, ngay cả ánh nắng cũng dè dặt. Nhất là những chiều mưa ở Huế rất là đượm buồn gợi cảm giác nhớ thương. Vì thế có một nhạc sĩ viết hết sức là trữ tình:
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ.
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt.
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được nét dịu dàng pha lẫn trầm tư…”
(Trích bài hát “Huế tình yêu của tôi”– Trương Tuyết Mai)
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 21 – Giới thiệu về một di tích lịch sử hoặc danh lam thắng cảnh(Văn Miếu – Quốc Tử Giám) tại đây.
Tags:Đề 20 · Huế · Văn chọn lọc 9
|
Topic 20 – Introducing a historical site or scenic spot (Hue) – Developing selective essay writing skills 9
Instruct
Topic 20 – Introduction to Hue
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
– First of all, you need to choose for yourself a specific scenic spot or monument in your hometown (Ha Long Bay, Nha Trang, Hue, famous pagodas (Perfume Pagoda, One Pillar Pagoda...) as long as they are famous. A scenic spot or monument in your hometown that is close to you, you have a lot of feelings about it and a lot of knowledge about it When explaining, you need to ensure the following ideas:
+ Origin, origin, history of forming that landmark?
+ What does the structure and architecture of that scenic spot include? (external structure, internal structure)
+ Can you tell a few short historical stories about a national hero associated with that scenic spot?
+ The meaning and historical value of that place?
+ What measures have the state and localities taken to restore, embellish and develop it?
+ What do you think about that scenic spot?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
Introduction: Hue is listed as one of the world's cultural heritages because Hue is beautiful, poetic, ancient and has many unique architectural works.
II. BODY OF ARTICLE
1. Origin and origin
Hue is located in the central region of the country, bordering Quang Tri to the north, Da Nang to the south, leaning on the Truong Son range to the west and overlooking the East Sea to the east. Hue is 660 km from Hanoi and 1080 km from Ho Chi Minh City. Hue is because the word "Hoa" in the word "Thuan Hoa" is read incorrectly.
2. Characteristics
Coming to Hue, tourists have many places to visit: First, tourists can visit the Hue citadel.
This place consists of 3 citadels from outside to inside, including the Imperial Citadel, the Imperial Citadel and the Forbidden City.
The Forbidden City has Can Chanh palace where the king worked and Can Thanh palace where the king lived.
Hue Citadel has architecture that combines East and West art and is also known as the city and star citadel.
Gia Long Tomb was built on a plot of land including 42 large and small hills and mountains. This is where King Gia Long, along with his concubines and beautiful ladies, and his sisters were chosen to be buried.
Minh Mang's mausoleum was built a year before his death. The mausoleum has the attractive natural beauty of the Cam Khe mountain area on the left bank of the Huong River, 12km from Hue.
Tu Duc Tomb was built on Van Nien Mountain. The mausoleum is located in a valley and is one of the most beautiful works in Hue royal architecture.
Hue is also where Buddhism is very popular and has many pagodas, the most famous being Thien Mu Pagoda. The pagoda is located on Ha Khe hill on the left bank of the Perfume River.
The pagoda has an octagonal tower, seven floors 21m high. Each floor worships a Tathagata.
Ngu Mountain and Perfume River are like the soul of Hue.
The Perfume River originates from the majestic Truong Son range, quietly flows through the mountains and forests, then silently flows to the Perfume River, passing through the eternal resting place of the Nguyen kings.
Along with the Perfume River, Ngu Mountain is also a characteristic feature of Hue.
The trapezoidal mountain is 105m high. The majestic mountain looks like an eagle flapping its wings, so people also call it Bang Son. Later, King Gia Long changed it to Ngu Binh.
III. END
When mentioning Hue, we often think of dreaminess and beauty.
People love Hue because Hue is so gentle, even the sunlight is reserved. Especially rainy afternoons in Hue are very sad, evoking a feeling of longing.
REFERENCE ESSAY
“Whoever goes to Hue will come out
Whoever comes back will return to Ngu Mountain
Whoever comes back will return to the Perfume River."
(Excerpt from the song "Who goes to Hue" - Duy Khanh)
Hue is one of the cultural and artistic centers of Vietnam. If you compare Hue with other capitals in the world, Hue is too small, but Hue is still listed as one of the world cultural heritages because Hue is beautiful, poetic, ancient and has many architectural works. unique.
Hue is also where Buddhism is very popular and has many pagodas and the most famous is Thien Mu Pagoda. The pagoda is located on Ha Khe hill on the left bank of the Perfume River. The pagoda has an octagonal tower, seven floors 21m high. Each floor worships a Tathagata. Every afternoon, when the bell of Thien Mu Pagoda rings, it seems to bring peace and happiness to the people of Hue.
Here, people also love Hue's special products. Hue is a city of flower gardens, ornamental plants, fresh fruit gardens and conical hats that further adorn the gentle and noble beauty of Hue girls. That's why, before leaving Hue, everyone bought a poem hat as a souvenir.
How many times have tourists come to Hue, sometimes in a hurry, sometimes leisurely, but Hue has left in the hearts of tourists a feeling like an old friend. People love Hue because Hue is so gentle, even the sunlight is reserved. Especially rainy afternoons in Hue are very sad and evoke feelings of longing. Therefore, there is a musician who writes very lyrically:
“I've been to dreamy Hue a couple of times.
I embrace a sweet love.
Nowhere else can the beauty of Hue have the gentleness mixed with contemplation..."
(Excerpt from the song “My Love Hue” – Truong Tuyet Mai)
(Students' work)
>> See more Topic 21 - Introduction to a historical site or scenic spot (Temple of Literature - Quoc Tu Giam) here.
Tags: Topic 20 · Hue · Selected literature 9
|
Đề 20 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Tả ca sĩ cả nhà đi học từ nối dấu nối
1. Các vế câu trong từng câu ghép dưới đây được nối với nhau bằng cách nào (dùng từ có tác dung nốihay dùng dấu câu để nối trực tiếp)?
a) Mùa thu, gió thổi mây về phía cửa sông, mặt nước phía dưới cầu Tràng Tiền đen sẫm lại.
(Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường)
b) Đêm đã rất khuya nhưng mẹ em vẫn cặm cụi ngồi soạn bài.
c) Em ngủ và chị cũng thiu thiu ngủ theo.
(Băng Sơn)
d) Mưa rào rào trên sân gạch ; mưa đồm độp trên phên nứa, đập bùng bùng vào lòng lá chuối.
(Theo Tô Hoài)
2. Tìm từ có tác dung nối hoặc dấu câu thích hợp để điền vào chỗ trông:
a) Sự sống cứ tiếp tục trong âm thầm… hoa thảo quả nảy dưới gốc cây kín đáo và lặng lẽ.
(Ma Văn Kháng)
b) Chuột là con vật tham lam… nó ăn nhiều quá, nhiều đến mức bụng chuột phình to ra.
(Theo Lép Tôn-xtôi)
c) Đến sáng, chuột tìm đường trở về ổ… nó không sao lách qua khe hở được.
(Theo Lép Tôn-xtôi)
d) Mùa nắng, đất nẻ chân chim… nền nhà cũng rạn nứt.
(Theo Mai Văn Tạo)
3. Đọc bài thơ sau
Cả nhà đi học
Đưa con đến lớp mỗi ngày
Như con, mẹ củng “thưa thầy”, “chào cô”
Chiều qua bố đón, tình cờ
Con nghe bố củng “chào cô”, “thưa thầy”…
Cả nhà đi học, vui thay!
Hèn chi điểm xấu buồn lây cả nhà
Hèn chi mười điểm hôm qua
Nhà mình như thể được …ba điểm mười.
(Cao Xuân Sơn)
4. Tả một ca sĩ (hoặc diễn viên múa, kịch, xiếc, điện ảnh,…) mà em yêu thích.
|
Topic 20 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Describing the singer, the whole family went to school to learn hyphenation words
1. How are the clauses in each compound sentence below connected (using connecting words or using punctuation to connect directly)?
a) In autumn, the wind blows clouds towards the river mouth, the water surface under Trang Tien bridge turns black.
(According to Hoang Phu Ngoc Tuong)
b) It was very late at night but my mother was still diligently writing her lessons.
c) You fell asleep and I fell asleep too.
(Berg)
d) Rain showers on the brick yard; The rain poured down on the bamboo, pounding into the banana leaves.
(According to To Hoai)
2. Find words that have the function of connecting or appropriate punctuation to fill in the blanks:
a) Life continues silently... cardamom flowers bloom discreetly and quietly under the tree.
(Ma Van Khang)
b) Rats are greedy animals... they eat too much, so much that their stomachs swell.
(According to Lep Tonxi)
c) In the morning, the mouse found its way back to the nest... it couldn't get through the gap.
(According to Lep Tonxi)
d) During the dry season, the ground cracks... the house's floor also cracks.
(According to Mai Van Tao)
3. Read the following poem
The whole family goes to school
Take your child to class every day
Like my child, my mother also says "sir" and "hello"
Yesterday afternoon my father picked me up, by chance
I heard my dad say "hello", "sir"...
The whole family goes to school, it's fun!
No wonder bad grades spread sadness to the whole family
No wonder it was ten points yesterday
My house feels like it's...three out of ten.
(Cao Xuan Son)
4. Describe a singer (or dancer, theater, circus, movie, etc.) that you like.
|
Đề 20: Phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 20: Truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang sáng là bài ca về tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng. Em hãy phân tích nhân vật ông Sáu đề làm sáng tỏ điều đó.
Bài làm
Văn học từ cổ chí kim luôn tồn tại một mạch nguồn xuyên suốt, đó là tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Đã có biết bao khúc ca ấm áp vang lên như sự tri ân của những người con dành cho cha mẹ. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một bài ca đẹp về tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng, bao năm qua luôn là một tiếng ngân sâu lắng trong lòng độc giả Việt Nam.
Chiếc lược ngà là câu chuyện về tình cha con sâu nặng, tha thiết của ông Sáu và cô con gái tên Thu. Một câu chuyện đẹp nhưng buồn, có sức lay động sâu xa, gợi lên trong lòng độc giả bao thế hệ nỗi niềm xót xa, thương cảm, day dứt khôn nguôi về chiến tranh và sự tàn phá của nó. Những ám ảnh ấy như khắc sâu vào tâm khảm mỗi người, khiến ta thấm thía hơn sự hi sinh của những người chiến sĩ của một thời chiến tranh gian khổ và ta biết yêu kính hơn, trân trọng họ hơn. Bằng lời văn dung dị, nhẹ nhàng, nhiều âm vang với những cung bậc cảm xúc khác nhau, nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc và cảm động tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Phải chăng sức nặng của những ám ảnh đó chính là bởi tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng toát ra từ mỗi lời văn, va đập vào trái tim độc giả, lắng đọng và day dứt mãi không thôi?
Ngày từ đầu câu chuyên, người đọc đã có thể cảm nhận sâu sắc tình yêu con tha thiết của ông Sáu. Người lính đã trải qua khói lửa chiến tranh, gió sương núi rừng, có một khuôn mặt lạnh, một ý chí thép nhưng trái tim người cha trong ông thì vẫn ấm nóng. Vì vậy mà, mới chỉ nghĩ đến việc được gặp con thôi, ông đã thấy “nôn nao mãi“. Hành động vội vàng: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”, “bước vội vàng với những bước chân dài, rồi dừng lại, kêu to: “Thu! Con” đã khắc họa rõ nét nỗi lòng khao khát, mong mỏi của người cha. Tiếng gọi con lần đầu như vỡ oà trong tình yêu quá lớn bị dồn nén bao năm. Hình ảnh “vết thẹo dài trên má phải đỏ ửng lên, giần giật…” là biểu hiện của sự xúc động tột độ. Tiếng xưng “ba” sau bao ngày nhớ mong, mòn mỏi, vừa muốn vỡ oà, vừa lại như bị dòng cảm xúc quá lớn kìm xuống, khiến nó nghẹn lại trong “giọng run run”: “Ba đây con”. Nhưng chính nỗi mong mỏi, niềm hạnh phúc, mong chờ quá lớn ấy lại khiến ông đau đớn bội phần khi đứa con gái không đáp lại sự vồ vập của ông, “mặt nó tái đi, rồi vụt chạy”. Cả bầu trời như sụp xuống trước mắt người cha. Niềm đau, sự hụt hẫng bóp nghẹt trái tim ông. Ông “đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Vào thời khắc cuối cùng được ở nhà, được nhìn thấy con gái, trái tim của người cha đã được xoa dịu khi bé Thu nhận ra ba. Lúc chia tay, ông Sáu cố nén lòng, kìm giữ cảm xúc của mình. Ông “cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng cũng lại sợ nó giãy lên, lại bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó“. Chỉ cần nhìn thấy sự hiện diện của con thôi, ông cũng cảm thấy được an ủi phần nào. Và bao nhiêu tình yêu ông dồn cả vào ánh mắt nhìn con – “đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu“. Ánh mắt ấy vừa muốn bộc lộ hết tình yêu tha thiết với con, vừa thể hiện nỗi khao khát bị kìm nén, nỗi buồn của sự chia xa và cả nỗi đau của sự bị khước từ. Để rồi, tất cả như vỡ oà theo tiếng gọi “ba” bất ngờ của bé Thu: “Ba… a… a… ba!”. Tiếng gọi ông Sáu khao khát, trông chờ, tưởng chùng mòn mỏi bao lâu đã vang lên, khiến tim ông như muốn vỡ ra vì hạnh phúc. Người đọc như cũng lạc nhịp tim trong giây phút âm thanh yêu thương ấy cất lên. Ông Sáu “không ghìm được xúc động”, “một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Những dòng nước mắt tuôn trào từ trái tim yêu thương cháy bỏng của người cha.
Có thể nói, Nguyễn Quang Sáng đã thật tài tình khi xây dựng nhân vật ông Sáu. Toàn bộ câu chuyện về người chiến sĩ ấy đều gắn với sự bộc lộ tình yêu con. Từ những hành động đến những chi tiết miêu tả ngoại hình, tâm trạng. Vì thế mà trong tâm trí người đọc, hình ảnh ông Sáu hiện lên với tình yêu con thiết tha, sâu nặng. Những ngày ở chiến trường, tình yêu con được ông Sáu dồn vào việc làm cây lược tặng con. Dõi theo quá trình làm chiếc lược của ông Sáu, từ vẻ mặt “hớn hở” khi nhặt được khúc ngà đến khi tỉ mỉ ngồi giũa cây lược “như người thợ bạc”, ta có thể cảm nhận được tình yêu sâu nặng của ông. Dòng chữ khắc trên cây lược “yêu nhớ tặng Thu con của ba‘’ thể hiện trọn vẹn nỗi lòng người cha đối với cô con gái ngàn lần dấu yêu nơi quê nhà. Chiếc lược ngà ấy đã “gỡ rối đi phần nào tâm trạng” của ông. Lời hứa của ông đối với con đã thành hiện thực. Chiếc lược là chỗ dựa tinh thần mỗi khi ông nhớ con. Đó là kỉ vật cuối cùng lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông Sáu dành cho con, ông khao khát được tận tay trao cho con gái. Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh đã khiến nguyện ước của ông không thành nhưng cây lược sẽ là minh chứng cho tình yêu con của ông.
Tình yêu của ông Sáu dành cho con thật sâu sắc. Bao cung bậc cảm xúc của ông được người đọc thấu cảm, sẻ chia. Trong chiến tranh, có những việc tưởng chừng rất bình dị như nghe một tiếng con gọi “ba”, tự tay tặng cho con một món quà nhỏ, được ôm con trong vòng tay,… cũng trở thành mơ ước của rất nhiều người và cũng rất nhiều người trong số họ giống như ông Sáu đã không thực hiện được ước nguyện đó. Nhưng cũng chính trong sự khốc liệt của chiến tranh, tình cảm tha thiết, trái tim ấm nóng của người cha lại được bộc lộ rõ nhất. Nó lắng đọng ngân vang mãi trong lòng ta.
Tác phẩm khép lại nhưng tình phụ tử ấm áp, thiêng liêng, cao cả sẽ mãi là ngọn lửa lấp lánh sáng, sưởi ấm trái tim độc giả.
HÀ VUƠNG ANH
Lời nhận xét:
– Bài viết đã phân tích khá sâu sắc hình ảnh ông Sáu khi đi sâu khai thác những diễn biến tâm trạng, tình yêu con tha thiết, hết mực của người cha: “Tiếng gọi con lần đầu như vỡ oà trong tình yêu quá lớn của người cha bị dồn nén bao năm“. Hình ảnh “vết thẹo dài trên má phải đỏ ửng lên, giần giật… ” là biểu hiện của sự xúc động tột độ.
– Bố cục bài viết sáng rõ, mạch lạc, có những khái quát, đánh giá sâu sắc: “Sức ám ảnh của tác phẩm được tạo nên bởi nội dung câu chuyên. Ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng thật tinh tế trong việc thể hiện mọi cung bậc của cảm xúc, xây dựng tình huống truyện, sử dụng ngôn từ,… tất cả những điều đó đã góp phần làm nên sức sống của câu chuyện”.
– Văn phong diễn đạt trôi chảy, có cảm xúc: “Dòng chữ khắc trên cây lược “yêu nhớ tặng Thu con của ba” thể hiện trọn vẹn nỗi lòng người cha gửi gắm cho cô con gái ngàn lần dấu yêu nơi quê nhà. Chiếc lược ngà ấy đã “gỡ rối đi phần nào tâm trạng” của ông. Lời hứa của ông đối với con đã thành hiện thực. Chiếc lược là chỗ dựa của ông mỗi khi nhớ con. Đó là kỉ vật cuối cùng lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông Sáu dành cho con và ông khao khát được tận tay trao cho con gái. Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh đã khiến nguyện ước của ông không thành hiện thực, nhưng cây lược sẽ là minh chứng cho tình yêu cọn sâu nặng của ông”.
|
Đề 20: Phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 20: Truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang sáng là bài ca về tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng. Em hãy phân tích nhân vật ông Sáu đề làm sáng tỏ điều đó.
Bài làm
Văn học từ cổ chí kim luôn tồn tại một mạch nguồn xuyên suốt, đó là tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Đã có biết bao khúc ca ấm áp vang lên như sự tri ân của những người con dành cho cha mẹ. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một bài ca đẹp về tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng, bao năm qua luôn là một tiếng ngân sâu lắng trong lòng độc giả Việt Nam.
Chiếc lược ngà là câu chuyện về tình cha con sâu nặng, tha thiết của ông Sáu và cô con gái tên Thu. Một câu chuyện đẹp nhưng buồn, có sức lay động sâu xa, gợi lên trong lòng độc giả bao thế hệ nỗi niềm xót xa, thương cảm, day dứt khôn nguôi về chiến tranh và sự tàn phá của nó. Những ám ảnh ấy như khắc sâu vào tâm khảm mỗi người, khiến ta thấm thía hơn sự hi sinh của những người chiến sĩ của một thời chiến tranh gian khổ và ta biết yêu kính hơn, trân trọng họ hơn. Bằng lời văn dung dị, nhẹ nhàng, nhiều âm vang với những cung bậc cảm xúc khác nhau, nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc và cảm động tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Phải chăng sức nặng của những ám ảnh đó chính là bởi tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng toát ra từ mỗi lời văn, va đập vào trái tim độc giả, lắng đọng và day dứt mãi không thôi?
Ngày từ đầu câu chuyên, người đọc đã có thể cảm nhận sâu sắc tình yêu con tha thiết của ông Sáu. Người lính đã trải qua khói lửa chiến tranh, gió sương núi rừng, có một khuôn mặt lạnh, một ý chí thép nhưng trái tim người cha trong ông thì vẫn ấm nóng. Vì vậy mà, mới chỉ nghĩ đến việc được gặp con thôi, ông đã thấy “nôn nao mãi“. Hành động vội vàng: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”, “bước vội vàng với những bước chân dài, rồi dừng lại, kêu to: “Thu! Con” đã khắc họa rõ nét nỗi lòng khao khát, mong mỏi của người cha. Tiếng gọi con lần đầu như vỡ oà trong tình yêu quá lớn bị dồn nén bao năm. Hình ảnh “vết thẹo dài trên má phải đỏ ửng lên, giần giật…” là biểu hiện của sự xúc động tột độ. Tiếng xưng “ba” sau bao ngày nhớ mong, mòn mỏi, vừa muốn vỡ oà, vừa lại như bị dòng cảm xúc quá lớn kìm xuống, khiến nó nghẹn lại trong “giọng run run”: “Ba đây con”. Nhưng chính nỗi mong mỏi, niềm hạnh phúc, mong chờ quá lớn ấy lại khiến ông đau đớn bội phần khi đứa con gái không đáp lại sự vồ vập của ông, “mặt nó tái đi, rồi vụt chạy”. Cả bầu trời như sụp xuống trước mắt người cha. Niềm đau, sự hụt hẫng bóp nghẹt trái tim ông. Ông “đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Vào thời khắc cuối cùng được ở nhà, được nhìn thấy con gái, trái tim của người cha đã được xoa dịu khi bé Thu nhận ra ba. Lúc chia tay, ông Sáu cố nén lòng, kìm giữ cảm xúc của mình. Ông “cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng cũng lại sợ nó giãy lên, lại bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó“. Chỉ cần nhìn thấy sự hiện diện của con thôi, ông cũng cảm thấy được an ủi phần nào. Và bao nhiêu tình yêu ông dồn cả vào ánh mắt nhìn con – “đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu“. Ánh mắt ấy vừa muốn bộc lộ hết tình yêu tha thiết với con, vừa thể hiện nỗi khao khát bị kìm nén, nỗi buồn của sự chia xa và cả nỗi đau của sự bị khước từ. Để rồi, tất cả như vỡ oà theo tiếng gọi “ba” bất ngờ của bé Thu: “Ba… a… a… ba!”. Tiếng gọi ông Sáu khao khát, trông chờ, tưởng chùng mòn mỏi bao lâu đã vang lên, khiến tim ông như muốn vỡ ra vì hạnh phúc. Người đọc như cũng lạc nhịp tim trong giây phút âm thanh yêu thương ấy cất lên. Ông Sáu “không ghìm được xúc động”, “một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Những dòng nước mắt tuôn trào từ trái tim yêu thương cháy bỏng của người cha.
Có thể nói, Nguyễn Quang Sáng đã thật tài tình khi xây dựng nhân vật ông Sáu. Toàn bộ câu chuyện về người chiến sĩ ấy đều gắn với sự bộc lộ tình yêu con. Từ những hành động đến những chi tiết miêu tả ngoại hình, tâm trạng. Vì thế mà trong tâm trí người đọc, hình ảnh ông Sáu hiện lên với tình yêu con thiết tha, sâu nặng. Những ngày ở chiến trường, tình yêu con được ông Sáu dồn vào việc làm cây lược tặng con. Dõi theo quá trình làm chiếc lược của ông Sáu, từ vẻ mặt “hớn hở” khi nhặt được khúc ngà đến khi tỉ mỉ ngồi giũa cây lược “như người thợ bạc”, ta có thể cảm nhận được tình yêu sâu nặng của ông. Dòng chữ khắc trên cây lược “yêu nhớ tặng Thu con của ba‘’ thể hiện trọn vẹn nỗi lòng người cha đối với cô con gái ngàn lần dấu yêu nơi quê nhà. Chiếc lược ngà ấy đã “gỡ rối đi phần nào tâm trạng” của ông. Lời hứa của ông đối với con đã thành hiện thực. Chiếc lược là chỗ dựa tinh thần mỗi khi ông nhớ con. Đó là kỉ vật cuối cùng lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông Sáu dành cho con, ông khao khát được tận tay trao cho con gái. Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh đã khiến nguyện ước của ông không thành nhưng cây lược sẽ là minh chứng cho tình yêu con của ông.
Tình yêu của ông Sáu dành cho con thật sâu sắc. Bao cung bậc cảm xúc của ông được người đọc thấu cảm, sẻ chia. Trong chiến tranh, có những việc tưởng chừng rất bình dị như nghe một tiếng con gọi “ba”, tự tay tặng cho con một món quà nhỏ, được ôm con trong vòng tay,… cũng trở thành mơ ước của rất nhiều người và cũng rất nhiều người trong số họ giống như ông Sáu đã không thực hiện được ước nguyện đó. Nhưng cũng chính trong sự khốc liệt của chiến tranh, tình cảm tha thiết, trái tim ấm nóng của người cha lại được bộc lộ rõ nhất. Nó lắng đọng ngân vang mãi trong lòng ta.
Tác phẩm khép lại nhưng tình phụ tử ấm áp, thiêng liêng, cao cả sẽ mãi là ngọn lửa lấp lánh sáng, sưởi ấm trái tim độc giả.
HÀ VUƠNG ANH
Lời nhận xét:
– Bài viết đã phân tích khá sâu sắc hình ảnh ông Sáu khi đi sâu khai thác những diễn biến tâm trạng, tình yêu con tha thiết, hết mực của người cha: “Tiếng gọi con lần đầu như vỡ oà trong tình yêu quá lớn của người cha bị dồn nén bao năm“. Hình ảnh “vết thẹo dài trên má phải đỏ ửng lên, giần giật… ” là biểu hiện của sự xúc động tột độ.
– Bố cục bài viết sáng rõ, mạch lạc, có những khái quát, đánh giá sâu sắc: “Sức ám ảnh của tác phẩm được tạo nên bởi nội dung câu chuyên. Ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng thật tinh tế trong việc thể hiện mọi cung bậc của cảm xúc, xây dựng tình huống truyện, sử dụng ngôn từ,… tất cả những điều đó đã góp phần làm nên sức sống của câu chuyện”.
– Văn phong diễn đạt trôi chảy, có cảm xúc: “Dòng chữ khắc trên cây lược “yêu nhớ tặng Thu con của ba” thể hiện trọn vẹn nỗi lòng người cha gửi gắm cho cô con gái ngàn lần dấu yêu nơi quê nhà. Chiếc lược ngà ấy đã “gỡ rối đi phần nào tâm trạng” của ông. Lời hứa của ông đối với con đã thành hiện thực. Chiếc lược là chỗ dựa của ông mỗi khi nhớ con. Đó là kỉ vật cuối cùng lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông Sáu dành cho con và ông khao khát được tận tay trao cho con gái. Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh đã khiến nguyện ước của ông không thành hiện thực, nhưng cây lược sẽ là minh chứng cho tình yêu cọn sâu nặng của ông”.
|
Đề 21 – Giới thiệu về một di tích lịch sử hoặc danh lam thắng cảnh(Văn Miếu – Quốc Tử Giám) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Giới thiệu về Văn Miếu – Quốc Tử Giám
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Văn miếu – Ọuốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông.
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.
Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ. Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành.
Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi).
Năm 1762, Lê Hiến Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám lập tại Huế.
Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các, với một chức năng duy nhất là nơi thờ tự Thánh hiền. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
2. Kết cấu
Nhà Thái học có ba gian, có tường nang, lợp bằng ngói đồng.
Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian.
Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người.
Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Tràng.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hưong ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Ọuốc.
Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh.
Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805).
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời).
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toả trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá huỷ. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tử Phổi (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử).
Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa.
Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hoà giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương.
3. Ý nghĩa
Là hình ảnh tiêu biểu của Hà Nội.
Là nơi tượng trưng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.
III. KẾT BÀI
Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Đến ngày 27/7/2011, 82 bia Tiến sĩ lại tiếp tục được công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu.
Di tích làm rạng rỡ văn hóa, lịch sử sâu rộng của dân tộc Việt Nam; tôn vinh nền văn hóa, nền giáo dục, truyền thống hiếu học, hiếu nghĩa, tôn sư trọng đạo, quý đức, quý tài của dân tộc Việt Nam.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Việt Nam là một nước văn hiến. Cách đây gần một ngàn năm, vào năm 1070, Văn Miếu được xây dựng và đến năm 1076, tại đây, Quốc Tử Giám được chính thức thành lập, là nơi dạy học cho Thái tử và con các quan đại thần. Năm 1257, Quốc Tử Giám được đổi thành Quốc Học Viện. Sang đời Lê, lại đổi thành Nhà Thái Học. Từ những ngày đầu tiên đó, Quốc Tử Giám thực sự là một trường đại học đầu tiên của nước Đại Việt. Và sau đó, trường đại học này đã được đặt dưới sự lãnh đạo của các vị Tứ nghiệp hoặc Tế tửu (như giám đốc ngày nay) mà tài năng và đức độ từng nổi tiếng trong lịch sử Chu Văn An, một nhà nho đầy khí phách và tài năng; Ngô Sĩ Liên, một sử gia cấn trọng; Lê Quý Đôn một học giả uyên thâm,…
Trong số 1306 ngưòi thi đỗ, có tên trên bia, có thể đọc thấy tên một số danh sĩ như Lương Thế Vinh (1441 –?), Lê Qúy Đôn (1726 – 1783), Ngô Sĩ Liên (đỗ tiến sĩ năm 1544), Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) và rất nhiều người khác.
Đến đời Nguyễn, Thủ đô bị dời vào Huế. Quốc Tử Giám chỉ còn là Văn Miếu thờ Không Tử. Năm 1946, thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã đốt phá gần hết Văn Miếu. Từ năm 1954, năm giải phóng Thủ đô đến nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám được trùng tu sửa sang, xây dựng lại, đúng quy cách như xưa, nhưng đẹp đẽ hơn nhiều.
Nằm ở phía tây nội thành Hà Nội, trên một khoảng đất rộng, Văn Miếu là một khu di tích lịch sử, đẹp đẽ, trang nghiêm và còn nhiều tư liệu quý.
Trước cổng, có một hồ nhỏ, có đảo, gọi là Văn Hồ. Qua một cổng, có 4 cột trụ là một cổng lớn xây theo kiểu tam quan, có gác chuông và hai cổng phụ nhỏ hai bên, trên cổng còn rõ chữ Văn Miếu Môn. Trước và sau cổng có hai đôi rồng đá, tạc từ thời Lê. Qua một đoạn đường lát gạch là cổng Đại Trung và hai cổng nhỏ: Thành Đức và Đạt Tài. Lại qua một đoạn đường nữa đến Khuê Văn Các. Đây là một công trình độc đáo, được dựng lên năm 1805, với tám mái cong, xinh xắn, trên gác có cửa hình tròn, có những con tiện tỏa ra như nhũng tia sáng của một ngôi sao lớn: ngôi sao Khuê, tượng trưng cho văn học.
Bên trong và sát với Khuê Văn Các là một giếng hình vuông, quanh năm nước xanh trong vắt: Thiên Quang Tỉnh (giếng chứa ánh sáng mặt trời). Khuê Văn Các với Thiên Quang Tỉnh qua cửa số hình tròn và mặt giếng hình vuông, theo quan niệm của người xưa nói về vũ trụ: trời tròn, đất vuông.
Hai bên giếng Thiên Quang là khu nhà bia. Những tấm bia đá đồ sộ, đã trải mưa nắng bão dông qua hàng trăm năm, có tấm bị nứt, có tấm đã mờ, có tấm rêu phong; thậm chí có tấm đã bị triều đình nhà Nguyễn đục đi mất một số tên tiến sĩ – những nhân sĩ tiến bộ đã làm việc với nhà Tây Sơn.
Qua hết khu vực này đến phần chính của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Một chiếc sân khá rộng, lát gạch Bát Tràng cổ, hai bên là tả vu và hữu vu. Cuối sân là nhà Bái Đường và Chính điện, xây dựng vào cuối thế kỉ XIII với nhũng hàng cột gỗ lim vững chãi, nâng những cánh mái cong vút tám đầu đao.
Văn Miếu không những đẹp về cách sắp xếp các kiến trúc qua nhiều cửa cách nhau bằng những lối đi dài hun hút, tạo ra khung cảnh chờ đợi của người đi vào, mỗi bước đi lại mở ra một ảnh trí mới lạ, một công trình mới lạ, mà Văn Miếu còn đẹp vì những hàng cây cổ thụ, tỏa bóng um tùm mát rượi xuống những công trình cổ; những lối đi lát gạch vòng vèo và những thảm cỏ xanh bốn mùa không đổi. Những chiếc hoa gạo, lá xoài, lá đa rụng lác đác như những cánh hoa thêu nhiều màu trên nền xanh biếc.
Từ năm 1954 đến nay, Văn Miếu được chọn làm nơi tổ chức những cuộc vui chơi giải trí tao nhã của Thủ đô trong những dịp ngày lễ, ngày Tết như ca nhạc, ngâm thơ, chơi chim…
Đặc biệt Tết năm 1962 trong một buổi ngâm thơ đón xuân những bài thơ hay đang được trình bày thì có một cụ già từ ngoài cửa bước vào. Nhưng mọi người nhận ra ngay và cùng reo lên: Bác Hồ! Bác Hồ! Đúng! Đó là Hồ Chủ tịch. Người đã ngồi nghe ngâm thơ suốt buổi và sau đó tặng các cụ hai câu thơ:
Tuổi già nhưng chí không già
Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh.
Hiện nay Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chăm sóc chu đáo. Cây cỏ được chăm bón và trồng thêm, bổ sung thường xuyên. Khu vực bia tiến sĩ được vẽ sơ đồ, có chú thích từng tấm ra đời năm nào, ghi tên tiến sĩ khoa thi nào…Gian chính diện dùng để trưng bày một số tư liệu văn học nghệ thuật của Thủ đô và của các danh nhân viết về Thủ đô qua nhiều thế kỉ.
Văn Miếu – Ọuốc Tử Giám là niềm tự hào chung của chúng ta. Nó là chứng tích rất cụ thể của nền văn hiến trải hàng ngàn năm vẫn sừng sững tính dân tộc, không một thế lực nào đụng chạm được vào nó.
(Theo Băng Sơn, Hà Nội rong ruổi quẩn quanh, 2013)
>> Xem thêm Đề 22: Giới thiệu về một di tích lịch sử hoặc danh lam thắng cảnh(Vịnh Hạ Long) tại đây.
Tags:Đề 21 · Văn chọn lọc 9 · Văn Miếu – Quốc Tử Giám
|
Đề 21 – Giới thiệu về một di tích lịch sử hoặc danh lam thắng cảnh(Văn Miếu – Quốc Tử Giám) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Giới thiệu về Văn Miếu – Quốc Tử Giám
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Văn miếu – Ọuốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông.
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.
Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ. Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành.
Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi).
Năm 1762, Lê Hiến Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám lập tại Huế.
Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các, với một chức năng duy nhất là nơi thờ tự Thánh hiền. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
2. Kết cấu
Nhà Thái học có ba gian, có tường nang, lợp bằng ngói đồng.
Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian.
Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người.
Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Tràng.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hưong ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Ọuốc.
Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh.
Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805).
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời).
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toả trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá huỷ. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tử Phổi (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử).
Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa.
Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hoà giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương.
3. Ý nghĩa
Là hình ảnh tiêu biểu của Hà Nội.
Là nơi tượng trưng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.
III. KẾT BÀI
Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Đến ngày 27/7/2011, 82 bia Tiến sĩ lại tiếp tục được công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu.
Di tích làm rạng rỡ văn hóa, lịch sử sâu rộng của dân tộc Việt Nam; tôn vinh nền văn hóa, nền giáo dục, truyền thống hiếu học, hiếu nghĩa, tôn sư trọng đạo, quý đức, quý tài của dân tộc Việt Nam.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Việt Nam là một nước văn hiến. Cách đây gần một ngàn năm, vào năm 1070, Văn Miếu được xây dựng và đến năm 1076, tại đây, Quốc Tử Giám được chính thức thành lập, là nơi dạy học cho Thái tử và con các quan đại thần. Năm 1257, Quốc Tử Giám được đổi thành Quốc Học Viện. Sang đời Lê, lại đổi thành Nhà Thái Học. Từ những ngày đầu tiên đó, Quốc Tử Giám thực sự là một trường đại học đầu tiên của nước Đại Việt. Và sau đó, trường đại học này đã được đặt dưới sự lãnh đạo của các vị Tứ nghiệp hoặc Tế tửu (như giám đốc ngày nay) mà tài năng và đức độ từng nổi tiếng trong lịch sử Chu Văn An, một nhà nho đầy khí phách và tài năng; Ngô Sĩ Liên, một sử gia cấn trọng; Lê Quý Đôn một học giả uyên thâm,…
Trong số 1306 ngưòi thi đỗ, có tên trên bia, có thể đọc thấy tên một số danh sĩ như Lương Thế Vinh (1441 –?), Lê Qúy Đôn (1726 – 1783), Ngô Sĩ Liên (đỗ tiến sĩ năm 1544), Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) và rất nhiều người khác.
Đến đời Nguyễn, Thủ đô bị dời vào Huế. Quốc Tử Giám chỉ còn là Văn Miếu thờ Không Tử. Năm 1946, thực dân Pháp xâm lược nước ta, đã đốt phá gần hết Văn Miếu. Từ năm 1954, năm giải phóng Thủ đô đến nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám được trùng tu sửa sang, xây dựng lại, đúng quy cách như xưa, nhưng đẹp đẽ hơn nhiều.
Nằm ở phía tây nội thành Hà Nội, trên một khoảng đất rộng, Văn Miếu là một khu di tích lịch sử, đẹp đẽ, trang nghiêm và còn nhiều tư liệu quý.
Trước cổng, có một hồ nhỏ, có đảo, gọi là Văn Hồ. Qua một cổng, có 4 cột trụ là một cổng lớn xây theo kiểu tam quan, có gác chuông và hai cổng phụ nhỏ hai bên, trên cổng còn rõ chữ Văn Miếu Môn. Trước và sau cổng có hai đôi rồng đá, tạc từ thời Lê. Qua một đoạn đường lát gạch là cổng Đại Trung và hai cổng nhỏ: Thành Đức và Đạt Tài. Lại qua một đoạn đường nữa đến Khuê Văn Các. Đây là một công trình độc đáo, được dựng lên năm 1805, với tám mái cong, xinh xắn, trên gác có cửa hình tròn, có những con tiện tỏa ra như nhũng tia sáng của một ngôi sao lớn: ngôi sao Khuê, tượng trưng cho văn học.
Bên trong và sát với Khuê Văn Các là một giếng hình vuông, quanh năm nước xanh trong vắt: Thiên Quang Tỉnh (giếng chứa ánh sáng mặt trời). Khuê Văn Các với Thiên Quang Tỉnh qua cửa số hình tròn và mặt giếng hình vuông, theo quan niệm của người xưa nói về vũ trụ: trời tròn, đất vuông.
Hai bên giếng Thiên Quang là khu nhà bia. Những tấm bia đá đồ sộ, đã trải mưa nắng bão dông qua hàng trăm năm, có tấm bị nứt, có tấm đã mờ, có tấm rêu phong; thậm chí có tấm đã bị triều đình nhà Nguyễn đục đi mất một số tên tiến sĩ – những nhân sĩ tiến bộ đã làm việc với nhà Tây Sơn.
Qua hết khu vực này đến phần chính của Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Một chiếc sân khá rộng, lát gạch Bát Tràng cổ, hai bên là tả vu và hữu vu. Cuối sân là nhà Bái Đường và Chính điện, xây dựng vào cuối thế kỉ XIII với nhũng hàng cột gỗ lim vững chãi, nâng những cánh mái cong vút tám đầu đao.
Văn Miếu không những đẹp về cách sắp xếp các kiến trúc qua nhiều cửa cách nhau bằng những lối đi dài hun hút, tạo ra khung cảnh chờ đợi của người đi vào, mỗi bước đi lại mở ra một ảnh trí mới lạ, một công trình mới lạ, mà Văn Miếu còn đẹp vì những hàng cây cổ thụ, tỏa bóng um tùm mát rượi xuống những công trình cổ; những lối đi lát gạch vòng vèo và những thảm cỏ xanh bốn mùa không đổi. Những chiếc hoa gạo, lá xoài, lá đa rụng lác đác như những cánh hoa thêu nhiều màu trên nền xanh biếc.
Từ năm 1954 đến nay, Văn Miếu được chọn làm nơi tổ chức những cuộc vui chơi giải trí tao nhã của Thủ đô trong những dịp ngày lễ, ngày Tết như ca nhạc, ngâm thơ, chơi chim…
Đặc biệt Tết năm 1962 trong một buổi ngâm thơ đón xuân những bài thơ hay đang được trình bày thì có một cụ già từ ngoài cửa bước vào. Nhưng mọi người nhận ra ngay và cùng reo lên: Bác Hồ! Bác Hồ! Đúng! Đó là Hồ Chủ tịch. Người đã ngồi nghe ngâm thơ suốt buổi và sau đó tặng các cụ hai câu thơ:
Tuổi già nhưng chí không già
Góp phần xây dựng nước nhà phồn vinh.
Hiện nay Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chăm sóc chu đáo. Cây cỏ được chăm bón và trồng thêm, bổ sung thường xuyên. Khu vực bia tiến sĩ được vẽ sơ đồ, có chú thích từng tấm ra đời năm nào, ghi tên tiến sĩ khoa thi nào…Gian chính diện dùng để trưng bày một số tư liệu văn học nghệ thuật của Thủ đô và của các danh nhân viết về Thủ đô qua nhiều thế kỉ.
Văn Miếu – Ọuốc Tử Giám là niềm tự hào chung của chúng ta. Nó là chứng tích rất cụ thể của nền văn hiến trải hàng ngàn năm vẫn sừng sững tính dân tộc, không một thế lực nào đụng chạm được vào nó.
(Theo Băng Sơn, Hà Nội rong ruổi quẩn quanh, 2013)
>> Xem thêm Đề 22: Giới thiệu về một di tích lịch sử hoặc danh lam thắng cảnh(Vịnh Hạ Long) tại đây.
Tags:Đề 21 · Văn chọn lọc 9 · Văn Miếu – Quốc Tử Giám
|
Đề 21 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề bài luyện tập học sinh giỏi Tiếng Việt 5
1. Xác định các vế câu, quan hệ từhoặc căp quan hệ từnôi các vế câu trong từng câu ghép sau:
a) Chẳng những Lãn Ông không lấy tiền của gia đình người thuyền chài mà ông còn cho thêm gạo, củi.
b) Về việc thì người bệnh chết do tay người thầy thuốc khác nhưng về tình, tôi như mắc phải tội giết người.
c) Là thầy thuốc nổi tiếng, Lãn Ông nhiều lần được vua chúa vời vào cung chữa bệnh và được tiến cử vào chức ngự y, song ông đã khéo chối từ.
d) Vì Lãn Ông không vương vào vòng danh lợi nên ông sống rất thanh thản.
2. Tìm quan hê từ, cặp quan hệ từ thích hợp với chỗ trống trong từng câu ghép sau:
a) Lúa gạo là quý nhất … lúa gạo nuôi sống con người.
b) Lúa gạo quý …ta phải đổ bao mồ hôi mới làm ra được.
c) … cây lúa không được chăm bón …nó cũng không lớn lên được.
d) … con người quai đê lấn biển, làm đầm nuôi tôm … một phần rừng ngập mặn đã mất đi.
3. Hình ảnh người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến chống Mĩ được nhà thơ Bằng Việt gợi tả qua những câu thơ trong bài Mẹnhư sau:
Nhớ dáng mẹ ân cần mà lặng lẽ
Nhà yên ắng. Tiếng chân đi rất nhẹ
Gió từng hồi trên mái lá ùa qua.
…
Con xót lòng, mẹ hái trái bưởi đào
Con nhạt miệng có canh tôm nấu khế
Khoai nướng, ngô bung ngọt lòng đến thế
Mỗi ban mai toả khói ấm trong nhà.
Hãy nêu cảm nhận của em về hình ảnh người mẹ chiến sĩ qua hai khổ thơ trên.
4. Tả một người đang bán hàng mà em có dịp qụan sát ở địa phương (hoặc ở nơi khác).
|
Topic 21 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Practice questions for excellent students in Vietnamese 5
1. Identify clauses, word relations or pairs of clauses in each of the following compound sentences:
a) Not only did Lan Ong not take money from the fishing boat's family, but he also gave him rice and firewood.
b) Technically, the patient died at the hands of another physician, but emotionally, I felt guilty of murder.
c) As a famous physician, Lan Ong was invited many times by kings to the palace for treatment and was recommended to the position of royal physician, but he cleverly refused.
d) Because Lan Ong did not get caught up in fame and fortune, he lived very peacefully.
2. Find the relative word or pair of related words that fits the blank space in each of the following compound sentences:
a) Rice is the most precious... rice feeds people.
b) Precious rice...we have to sweat a lot to produce it.
c) …the rice plant is not fertilized…it cannot grow.
d) ... people built dikes and built shrimp farms ... part of the mangrove forest has been lost.
3. The image of a soldier's mother in the resistance war against America is described by poet Bang Viet through the following verses in the poem Mother:
I remember my mother's considerate and quiet appearance
The house is quiet. The sound of footsteps was very light
The wind blew across the leaf roof.
…
I was heartbroken, my mother picked a peach grapefruit
The pale one has shrimp soup cooked with star fruit
Baked potatoes and corn on the cob are so sweet
Every morning, warm smoke spreads throughout the house.
Please state your feelings about the image of a soldier's mother through the two stanzas above.
4. Describe a person selling goods that you had the opportunity to observe in your locality (or elsewhere).
|
Đề 21: Kể lại cuộc gặp mặt của cha con ông Sáu bằng lời của nhân vật ông Sáu – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 21: Tại chiến khu, trong một ngày mưa, ngồi buồn nhớ con, ông Sáu đã đem câu chuyện gặp gỡ đầy xúc động của mình với bé Thu sau tám năm xa cách kể lại cho đồng đội nghe.
Em hãy thay lời nhân vật ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng kể lại câu chuyện đó.
Bài làm
Ngoài trời mưa tầm tã. Chiếc lán anh em tôi dựng hôm nào dột lỗ chỗ. Sau khi đánh thắng trận càn ác liệt của địch, anh em tôi quây quần bên nhau nghỉ ngơi, đàn hát và kể chuyện gia đình. Đó thực sự là những phút giây quý giá trong đời lính chúng tôi. Như thường lệ, tôi lôi từ trong áo ra chiếc lược làm bằng ngà đang làm dở để trau chuốt những công đoạn cuối cùng. Cầm chiếc lược trên tay, nỗi nhớ bé Thu trong tôi bỗng dâng lên mãnh liệt, cồn cào gan ruột. Tôi đem cuộc gặp gỡ của hai cha con bữa trước kể cho đồng đội nghe, hi vọng sẽ khuây khoả phần nào…
Thấm thoắt cũng đã tám năm ròng kể từ ngày tôi từ biệt quê hương, gia đình, bạn bè tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì của dàn tộc. Dẫu cho má nhỏ có vượt rừng thăm tôi vài lần, dẫu cho tấm ảnh má con nó vẫn được nâng niu và nhìn ngắm mỗi ngày thì cái cảm giác được gặp con, được ôm ấp cái “hình hài máu mủ” ấy vào lòng vẫn khiến tôi khao khát…
Con xuồng nhỏ đang trên đường cập bến, đem theo khát khao của tôi về với quê nhà.
Trước mặt tôi, hình ảnh những hàng dừa nước nghiêng mình xuống dòng kênh trước nhà bỗng chốc hiện ra. Bất chợt tôi nhìn thấy một bé gái độ tám tuổi, tóc cắt ngắn, mặc chiếc áo bông đang chơi dưới gốc cây trước nhà. Linh cảm của một người cha khiến tôi nhận ra đó chính là bé Thu – đứa con gái bé bỏng mà tôi khao khát, mong mỏi gặp mặt bấy lâu nay.
Xuồng cập bến, tôi nhảy vọt lên bờ không để ý thấy dưới xuồng mọi người bị tôi làm cho chao đảo.
– Thu! Con!
Tôi hét thật to và chạy đến gần con. Với cuộc trở về đầy bất ngờ này tôi nghĩ con bé sẽ chạy thật nhanh đến mà ôm chầm lấy tôi, sẽ kêu to lên cho má nó trong nhà biết. Tôi dang hai tay, mở sẵn lòng để đón đứa con gái bé bỏng.
Nhưng, lạ chưa kìa, con bé ngơ ngác, tròn mắt ngạc nhiên như cố vắt óc ra xem tôi là ai. Tôi vẫn hi vọng và bước đến gần nó với đôi tay dang rộng. Nhưng thật lạ, con bé không chạy lại như tôi tưởng, nét mặt nó trở nên sợ sệt. Nó hét toáng lên: “Má! Má!” rồi vội vàng chạy vô nhà.
Tôi điếng, người, hai tay buông thõng. Tôi nhìn theo nó đang chạy vô nhà thật nhanh, chẳng dám quay mặt lại. Quay sang anh Ba, chúng tôi cùng lắc đầu. Anh Ba an ủi:
– Thôi, cứ yên tâm, trước sau gì nó cũng nhận ra cậu. Bố nó chứ ai mà nó lại không chịu nhận.
Tôi cười mà nước mắt như muốn trào ra. Tại sao lại thế này? Đúng lúc đó, má nhỏ chạy ra mừng rỡ đỡ cái ba lô trên vai tôi rồi chạy đi báo tin cho mọi người.
Giữa bộn bề những lời thăm hỏi của họ hàng làng xóm, dù cho phấn khởi thật nhưng tôi vẫn cảm thấy trong lòng trống trải. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt lén nhìn con nhưng nó vẫn cứ trốn tránh cái nhìn của tôi. Trái tim tôi như rỉ máu.
Vì đường sá xa xôi, tôi chỉ được ở nhà có ba ngày. Tôi dành toàn bộ thời gian của mình cho gia đình, đặc biệt là cho con. Đến bữa cơm, má nhỏ sai nó ra gọi tôi vô ăn cơm. Nó vùng vằng, lắc đầu nguầy nguậy không chịu gọi. Má nó đâm cáu, quơ đũa bếp dọa đánh đòn, nó mới tức tưởi gọi vọng ra từ cửa bếp:
– Vô ăn cơm!
Câu nói đầu tiên nó nói với tôi từ khi trở về lại là một câu trống không. Tôi lặng người nhưng tôi cũng hiểu rằng khoảng cách tám năm đã ngăn cản tình cảm của cha con tôi. Tôi vẫn hi vọng, vẫn trông chờ tiếng gọi “ba” của nó.
Bữa khác, má nó đang nấu cơm thì chạy vội đi mua thức ăn, dặn nó trông nồi. Nồi cơm sôi sùng sục, nó cầm đôi đũa đảo đi đảo lại mấy lượt. Nhưng đến công đoạn chắt nước, nó lượng sức mình không nhấc nổi mới cầu viện đến tôi:
– Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!
Lại một câu nói trổng, tôi lặng im không đáp, tiếp tục nhâm nhi chén trà đặc với anh Ba. Tôi cố tình tỏ ra không nghe thấy để mong sao con bé sẽ gọi một tiếng “ba” ấm áp, trìu mến. Nhưng không, con bé vẫn chẳng chịu gọi tôi là ba. Nó loay hoay hồi lâu rồi lấy cái vá múc ra từng vá nước. Con bé đáo để thật!
– Ăn đi con!
Nó không nói gì, rồi bất thần hất miếng trứng ra, cơm vãi tung tóe khắp mâm. Tôi giận quá, không kìm chế được, lấy tay phát liền hai cái vào mông nó, mắng:
– Sao mày cứng đầu quá vậy hả?
Đánh con xong lòng tôi đau như xát muối. Lạ thay, nó chẳng khóc, cũng chẳng phụng phịu đạp đổ mâm cơm hay nhổ thức ăn trong miệng ra như những đứa trẻ khác. Nó cúi gằm mặt, lặng lẽ gắp miếng trứng cá vô chén, để ngay ngắn rồi lẳng lặng ra thuyền, sang bên nhà ngoại. Lúc này, tôi thấy ân hận hơn là giận con. Con bé không có lỗi, tất cả là do chiến tranh đã ngăn cách ba con chúng tôi. Đêm đã về khuya, tôi nằm thao thức không sao ngủ nổi, không biết giờ con bé thế nào rồi? Chắc nó giận và ghét tôi lắm. Không hiểu sao nước mắt tôi cứ trào ra.
Sáng hôm sau tôi lên đường. Bận bịu chào mọi người, tôi không còn thời gian nghĩ tới nó nữa. Trước khi đi, tôi quay ra tìm con. Nó đang đứng ớ góc nhà, thẫn thờ nhìn tôi, ánh mắt không còn hờn trách tôi nữa. Tôi muốn chạy đến ôm hôn từ biệt con nhưng sợ con bỏ chạy nên tôi chỉ đứng từ xa, nhìn thẳng vào mắt nó khe khẽ nói:
– Ba đi nghe con!
Tôi vội quay mặt đi ngay. Nhưng trong lúc mọi người đều nghĩ nó sẽ lặng thinh thì:
– Ba..a…a…ba!
Trời ơi! Tai tôi có nghe nhầm không vậy? Cái Thu đang gọi tôi đấy ư? Tôi còn chưa hết bàng hoàng thì con bé chạy đến ôm chầm lấy tôi và nói trong tiếng nấc nghẹn ngào:
– Con không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con cơ!
Nói rồi, nó hôn lên cổ, lên tóc, lên má và lên cả vết thẹo dài trên má tôi. Tôi ôm nó vào lòng và thấy thật ấm áp biết bao. Tôi nói:
– Ba đi rồi ba lại về với con!
– Không!
Hai tay nó ôm chặt lấy cổ tôi. Đôi chân quặp ngang hai bên hông của tôi. Nó nức nở khóc và tôi cũng thấy khóe mắt cay cay. Đến khi má nó và bà ngoại dỗ dành, con bé mới chịu buông tôi ra. Nước mắt lưng tròng, nó nức nở ;
Tôi gật đầu không thốt nên lời. Vì nhiệm vụ một lần nữa tôi gạt nước mắt ra đi, lên đường chiến đấu. Lần này, trong hành trang của mình, tôi mang theo lời hứa với con gái bé bỏng. Chắc chắn, tôi sẽ làm một cây lược thật đẹp để gửi về cho con… Ông trời như cũng chiều lòng ba con tôi. Một hôm khi đang tìm kiếm chất liệu làm lược trong rừng, tôi bất ngờ nhặt được một khúc ngà nho nhỏ. Tôi sung sướng vô cùng vì khúc ngà này sẽ giúp tôi làm một chiếc lược xinh xắn cho con bé. Chắc nó đang mong tôi lắm. Công việc làm lược không nhanh chóng như tôi tướng. Ngày ngày, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tôi lại ngồi tỉ mẩn cưa từng chiếc răng lược một. Cứ thế… cứ thế rồi cũng đến ngày cây lược được hoàn thiện. Như để đánh dấu kỉ vật của hai ba con, tôi đã khắc lên sống lưng lược hàng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Hi vọng rằng con bé sẽ thích và vui khi nhận được món quà này.
Thu à! Nhất định ba sẽ về, sẽ trao tận tay con cây lược. Khi nào đất nước thống nhất, ba sẽ vể ở hẳn bên con, sẽ bù đắp những thiếu thốn tình cảm trong bao năm xa cách. Chờ ba con nhé!
TRƯƠNG BÁ HUỲNH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã đem đến cho tác phẩm Chiếc lược ngà một màu sắc mới khi người viết đóng vai ông Sáu kể lại câu chuyện.
– Lời văn giàu cảm xúc, phù hợp với tâm trạng của nhân vật: “Tôi gật đầu không thốt nên lời. Vì nhiệm vụ một lần nữa tôi gạt nước mắt ra đi, lên đường chiến đấu. Lần này, trong hành trang của mình, tôi mang theo lời hứa với con gái bé bỏng. Chắc chắn, tôi sẽ làm một cây lược thật đẹp để gửi về cho con.
– Người viết nên sáng tạo thêm một số chi tiết để câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
|
Đề 21: Kể lại cuộc gặp mặt của cha con ông Sáu bằng lời của nhân vật ông Sáu – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 21: Tại chiến khu, trong một ngày mưa, ngồi buồn nhớ con, ông Sáu đã đem câu chuyện gặp gỡ đầy xúc động của mình với bé Thu sau tám năm xa cách kể lại cho đồng đội nghe.
Em hãy thay lời nhân vật ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng kể lại câu chuyện đó.
Bài làm
Ngoài trời mưa tầm tã. Chiếc lán anh em tôi dựng hôm nào dột lỗ chỗ. Sau khi đánh thắng trận càn ác liệt của địch, anh em tôi quây quần bên nhau nghỉ ngơi, đàn hát và kể chuyện gia đình. Đó thực sự là những phút giây quý giá trong đời lính chúng tôi. Như thường lệ, tôi lôi từ trong áo ra chiếc lược làm bằng ngà đang làm dở để trau chuốt những công đoạn cuối cùng. Cầm chiếc lược trên tay, nỗi nhớ bé Thu trong tôi bỗng dâng lên mãnh liệt, cồn cào gan ruột. Tôi đem cuộc gặp gỡ của hai cha con bữa trước kể cho đồng đội nghe, hi vọng sẽ khuây khoả phần nào…
Thấm thoắt cũng đã tám năm ròng kể từ ngày tôi từ biệt quê hương, gia đình, bạn bè tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì của dàn tộc. Dẫu cho má nhỏ có vượt rừng thăm tôi vài lần, dẫu cho tấm ảnh má con nó vẫn được nâng niu và nhìn ngắm mỗi ngày thì cái cảm giác được gặp con, được ôm ấp cái “hình hài máu mủ” ấy vào lòng vẫn khiến tôi khao khát…
Con xuồng nhỏ đang trên đường cập bến, đem theo khát khao của tôi về với quê nhà.
Trước mặt tôi, hình ảnh những hàng dừa nước nghiêng mình xuống dòng kênh trước nhà bỗng chốc hiện ra. Bất chợt tôi nhìn thấy một bé gái độ tám tuổi, tóc cắt ngắn, mặc chiếc áo bông đang chơi dưới gốc cây trước nhà. Linh cảm của một người cha khiến tôi nhận ra đó chính là bé Thu – đứa con gái bé bỏng mà tôi khao khát, mong mỏi gặp mặt bấy lâu nay.
Xuồng cập bến, tôi nhảy vọt lên bờ không để ý thấy dưới xuồng mọi người bị tôi làm cho chao đảo.
– Thu! Con!
Tôi hét thật to và chạy đến gần con. Với cuộc trở về đầy bất ngờ này tôi nghĩ con bé sẽ chạy thật nhanh đến mà ôm chầm lấy tôi, sẽ kêu to lên cho má nó trong nhà biết. Tôi dang hai tay, mở sẵn lòng để đón đứa con gái bé bỏng.
Nhưng, lạ chưa kìa, con bé ngơ ngác, tròn mắt ngạc nhiên như cố vắt óc ra xem tôi là ai. Tôi vẫn hi vọng và bước đến gần nó với đôi tay dang rộng. Nhưng thật lạ, con bé không chạy lại như tôi tưởng, nét mặt nó trở nên sợ sệt. Nó hét toáng lên: “Má! Má!” rồi vội vàng chạy vô nhà.
Tôi điếng, người, hai tay buông thõng. Tôi nhìn theo nó đang chạy vô nhà thật nhanh, chẳng dám quay mặt lại. Quay sang anh Ba, chúng tôi cùng lắc đầu. Anh Ba an ủi:
– Thôi, cứ yên tâm, trước sau gì nó cũng nhận ra cậu. Bố nó chứ ai mà nó lại không chịu nhận.
Tôi cười mà nước mắt như muốn trào ra. Tại sao lại thế này? Đúng lúc đó, má nhỏ chạy ra mừng rỡ đỡ cái ba lô trên vai tôi rồi chạy đi báo tin cho mọi người.
Giữa bộn bề những lời thăm hỏi của họ hàng làng xóm, dù cho phấn khởi thật nhưng tôi vẫn cảm thấy trong lòng trống trải. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt lén nhìn con nhưng nó vẫn cứ trốn tránh cái nhìn của tôi. Trái tim tôi như rỉ máu.
Vì đường sá xa xôi, tôi chỉ được ở nhà có ba ngày. Tôi dành toàn bộ thời gian của mình cho gia đình, đặc biệt là cho con. Đến bữa cơm, má nhỏ sai nó ra gọi tôi vô ăn cơm. Nó vùng vằng, lắc đầu nguầy nguậy không chịu gọi. Má nó đâm cáu, quơ đũa bếp dọa đánh đòn, nó mới tức tưởi gọi vọng ra từ cửa bếp:
– Vô ăn cơm!
Câu nói đầu tiên nó nói với tôi từ khi trở về lại là một câu trống không. Tôi lặng người nhưng tôi cũng hiểu rằng khoảng cách tám năm đã ngăn cản tình cảm của cha con tôi. Tôi vẫn hi vọng, vẫn trông chờ tiếng gọi “ba” của nó.
Bữa khác, má nó đang nấu cơm thì chạy vội đi mua thức ăn, dặn nó trông nồi. Nồi cơm sôi sùng sục, nó cầm đôi đũa đảo đi đảo lại mấy lượt. Nhưng đến công đoạn chắt nước, nó lượng sức mình không nhấc nổi mới cầu viện đến tôi:
– Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!
Lại một câu nói trổng, tôi lặng im không đáp, tiếp tục nhâm nhi chén trà đặc với anh Ba. Tôi cố tình tỏ ra không nghe thấy để mong sao con bé sẽ gọi một tiếng “ba” ấm áp, trìu mến. Nhưng không, con bé vẫn chẳng chịu gọi tôi là ba. Nó loay hoay hồi lâu rồi lấy cái vá múc ra từng vá nước. Con bé đáo để thật!
– Ăn đi con!
Nó không nói gì, rồi bất thần hất miếng trứng ra, cơm vãi tung tóe khắp mâm. Tôi giận quá, không kìm chế được, lấy tay phát liền hai cái vào mông nó, mắng:
– Sao mày cứng đầu quá vậy hả?
Đánh con xong lòng tôi đau như xát muối. Lạ thay, nó chẳng khóc, cũng chẳng phụng phịu đạp đổ mâm cơm hay nhổ thức ăn trong miệng ra như những đứa trẻ khác. Nó cúi gằm mặt, lặng lẽ gắp miếng trứng cá vô chén, để ngay ngắn rồi lẳng lặng ra thuyền, sang bên nhà ngoại. Lúc này, tôi thấy ân hận hơn là giận con. Con bé không có lỗi, tất cả là do chiến tranh đã ngăn cách ba con chúng tôi. Đêm đã về khuya, tôi nằm thao thức không sao ngủ nổi, không biết giờ con bé thế nào rồi? Chắc nó giận và ghét tôi lắm. Không hiểu sao nước mắt tôi cứ trào ra.
Sáng hôm sau tôi lên đường. Bận bịu chào mọi người, tôi không còn thời gian nghĩ tới nó nữa. Trước khi đi, tôi quay ra tìm con. Nó đang đứng ớ góc nhà, thẫn thờ nhìn tôi, ánh mắt không còn hờn trách tôi nữa. Tôi muốn chạy đến ôm hôn từ biệt con nhưng sợ con bỏ chạy nên tôi chỉ đứng từ xa, nhìn thẳng vào mắt nó khe khẽ nói:
– Ba đi nghe con!
Tôi vội quay mặt đi ngay. Nhưng trong lúc mọi người đều nghĩ nó sẽ lặng thinh thì:
– Ba..a…a…ba!
Trời ơi! Tai tôi có nghe nhầm không vậy? Cái Thu đang gọi tôi đấy ư? Tôi còn chưa hết bàng hoàng thì con bé chạy đến ôm chầm lấy tôi và nói trong tiếng nấc nghẹn ngào:
– Con không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con cơ!
Nói rồi, nó hôn lên cổ, lên tóc, lên má và lên cả vết thẹo dài trên má tôi. Tôi ôm nó vào lòng và thấy thật ấm áp biết bao. Tôi nói:
– Ba đi rồi ba lại về với con!
– Không!
Hai tay nó ôm chặt lấy cổ tôi. Đôi chân quặp ngang hai bên hông của tôi. Nó nức nở khóc và tôi cũng thấy khóe mắt cay cay. Đến khi má nó và bà ngoại dỗ dành, con bé mới chịu buông tôi ra. Nước mắt lưng tròng, nó nức nở ;
Tôi gật đầu không thốt nên lời. Vì nhiệm vụ một lần nữa tôi gạt nước mắt ra đi, lên đường chiến đấu. Lần này, trong hành trang của mình, tôi mang theo lời hứa với con gái bé bỏng. Chắc chắn, tôi sẽ làm một cây lược thật đẹp để gửi về cho con… Ông trời như cũng chiều lòng ba con tôi. Một hôm khi đang tìm kiếm chất liệu làm lược trong rừng, tôi bất ngờ nhặt được một khúc ngà nho nhỏ. Tôi sung sướng vô cùng vì khúc ngà này sẽ giúp tôi làm một chiếc lược xinh xắn cho con bé. Chắc nó đang mong tôi lắm. Công việc làm lược không nhanh chóng như tôi tướng. Ngày ngày, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tôi lại ngồi tỉ mẩn cưa từng chiếc răng lược một. Cứ thế… cứ thế rồi cũng đến ngày cây lược được hoàn thiện. Như để đánh dấu kỉ vật của hai ba con, tôi đã khắc lên sống lưng lược hàng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Hi vọng rằng con bé sẽ thích và vui khi nhận được món quà này.
Thu à! Nhất định ba sẽ về, sẽ trao tận tay con cây lược. Khi nào đất nước thống nhất, ba sẽ vể ở hẳn bên con, sẽ bù đắp những thiếu thốn tình cảm trong bao năm xa cách. Chờ ba con nhé!
TRƯƠNG BÁ HUỲNH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã đem đến cho tác phẩm Chiếc lược ngà một màu sắc mới khi người viết đóng vai ông Sáu kể lại câu chuyện.
– Lời văn giàu cảm xúc, phù hợp với tâm trạng của nhân vật: “Tôi gật đầu không thốt nên lời. Vì nhiệm vụ một lần nữa tôi gạt nước mắt ra đi, lên đường chiến đấu. Lần này, trong hành trang của mình, tôi mang theo lời hứa với con gái bé bỏng. Chắc chắn, tôi sẽ làm một cây lược thật đẹp để gửi về cho con.
– Người viết nên sáng tạo thêm một số chi tiết để câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
|
Đề 22 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề bài bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
1. Xác định các vế câu và các quan hê từ, căp quan hê từ trong từng câu ghép dưới đây:
a) Vì rừng ngập mặn được phục hồi ở nhiều địa phương nên môi trường đã có những thay đổi rất nhanh chóng.
b) Nhân dân các địa phương đều phấn khởi vì rừng ngập mặn đã được phục hồi.
c) Nếu lá chắn bảo vệ đê biển không còn nữa thì đê điều dễ bị xói lở, bị vỡ khi có gió, bão, sóng lớn.
d) Không những lượng hải sản tăng lên nhiều mà các loài chim nước củng trở nên phong phú.
2. Nghĩa nào dưới đây thích hợp với từng quan hệ từ sau: do, tai, nhờ.
a) Điều sắp nêu ra là nguyên nhân dẫn đến kết quả tốt đẹp được nói đến.
b) Điều sắp nêu ra là nguyên nhân của sự việc nói đến.
c) Điều sắp nêú ra là nguyên nhân của sự việc không hay – được nói đến.
3. Trong bài Bộ đội về làng, nhà thơ Hoàng Trung Thông có viết:
Các anh về
Mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ.
Các anh về
Tưng bừng trước ngỗ,
Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau.
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.
Em hãy cho biết: Những hình ảnh nào thể hiện niềm vui của xóm nhỏ khi bộ đội về? Vì sao các anh bộ đội được mọi người mừng rỡ đón chào như vậy?
|
Topic 22 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Topics for training excellent students in Vietnamese 5
1. Identify the clauses, prepositions, and preposition pairs in each compound sentence below:
a) Because mangrove forests have been restored in many localities, the environment has changed very rapidly.
b) Local people are excited because the mangrove forests have been restored.
c) If the protective shield of the sea dyke is no longer there, the dyke will easily be eroded and broken when there are winds, storms, and big waves.
d) Not only has the amount of seafood increased, but waterfowl have also become abundant.
2. Which of the following meanings is appropriate for each of the following word relationships: do, ear, thanks.
a) What is about to be mentioned is the cause of the good results mentioned.
b) What is about to be mentioned is the cause of the incident mentioned.
c) What is about to be mentioned is the cause of the unfortunate incident - mentioned.
3. In the article Soldiers return to the village, poet Hoang Trung Thong wrote:
You guys are back
Warm and happy home
Singing and laughing
Busy little neighborhood.
You guys are back
Jubilantly before the altar,
Classes of juniors happily ran after.
The old mother wore a brown shirt
Happy with the new cubs from the deep forest.
Please tell us: What images show the joy of the small village when the soldiers returned? Why were the soldiers welcomed by everyone so happily?
|
Đề 22: Cảm nghĩ về những ước vọng được thể hiện trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 22: Cảm nghĩ của em về những ước vọng được thể hiện trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Từ ước nguyện ấy của Thanh Hải, em có suy nghĩ gì về khát vọng và sự cống hiến của thế hệ trẻ ngày nay.
Bài làm
Nếu lù con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?
(Tố Hữu – Một khúc ca)
Đó là những lời tâm niệm chân thành của người chiến sĩ cách mạng Tố Hữu, cũng là của thế hệ cha anh một thời đất nước chìm trong máu lửa. Nhà thơ Thanh Hải, giống như bao người con đất Việt ở thời đại ông, đã có một ước nguyện thật cao cả: được sống và cống hiến cho quê hương, xứ sở. Những tâm niệm ấy giản dị mà chân thành, sâu sắc và cảm động biết bao. Tất cả những ước vọng ấy được thể hiện trong thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
Tinh yêu quê hương đất nước tha thiết của Thanh Hải đã giúp ông “thức nhọn các giác quan” để cảm nhận được vẻ đẹp và sự đổi thay, chuyển vận của đất trời. Quê hương trong con mắt nhà thơ mới đẹp và tràn đầy sức sống làm sao:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiên
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Mùa xuân đất nước hiện lên với những hình ảnh rộn ràng, màu sắc tươi sáng, âm thanh trong trẻo của cây lá, chim chóc… Ta nhận ra trong những dòng thơ ấy một tình yêu tha thiết, một niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ đối với quê hương, đất nước.
Mùa xuân đất nước đẹp dường ấy. Là một người con đất Việt, phải làm gì cho quê hương đây? Tâm hồn, trái tim của một người nặng lòng với non sông đã cất vang lên những nguyện ước chân thành nhất. Những ước nguyện của Thanh Hải thật giản dị mà cao đẹp biết bao:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Lời thơ da diết, ngân vang như tiếng ca tha thiết, như điệu Nam ai, Nam bình nhẹ nhàng trôi trên dòng Hương giang. Từ “tôi” ở đầu bài thơ đã được chuyển thành “ta” đầy ý nghĩa. Nếu như “tôi” chỉ một cá nhân, một con người cụ thể, thích hợp để bày tỏ những cảm xúc, rung cảm cá nhân thì “ta” lại thích hợp với tâm thế hoà nhập, sẻ chia. “Ta” ở đây đâu chỉ là nhà thơ mà còn là tất cả mọi người. Thanh Hải thật khéo léo khi chọn lựa những hình ảnh thiên nhiên để thể hiện tâm niệm nung nấu trong tim mình. Nó nhỏ bé, đơn sơ như là một con chim, một nhành hoa, một nốt trầm… mà giàu sức gợi, mà mang những ý nghĩa ẩn tàng sâu sắc, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhầ thơ nguyện được làm một chú chim cất tiếng hót trong veo làm rộn ràng hơn mùa xuân đất nước, muốn làm một cành hoa thơm ngát toả hương cho khu vườn cuộc đời, muốn làm một.nốt nhạc trầm trong bản hoà tấu muôn điệu của cung đàn mùa xuân đất nước. Nguyện ước ấy thật giản dị và khiêm tốn. Chỉ là một chú chim nhỏ bé, một bông hoa mỏng manh, một nốt trầm không lảnh lót, nhưng không thể thiếu trong bản hoà ca để làm “xao xuyến” lòng người. Thanh Hải ý thức rất rõ vai trò, sự đóng góp của mỗi cá nhân là rất nhỏ bé giữa cuộc đời rộng lớn, cũng giống như một nốt trầm có thể “tan biến trong hoà ca”, nhưng là những nét làm nên bản sắc. Bản sắc của Thanh Hải được thể hiện độc đáo nhất trong ước muốn được làm “một mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm nên mùa xuân lớn của đất nước. Đây là điểm nhấn sáng tạo nhất của Thanh Hải trong toàn bộ thi phẩm. Hình ảnh mùa xuân vừa là một mùa xuân thực với dòng sông, bông hoa, tiếng chim nhưng còn là ẩn dụ về một cuộc đời, một khát vọng, một lẽ sống cao đẹp: ước mong được cống hiến, được sống có ích cho quê hương, để đất nước mãi mãi là mùa xuân. Khát vọng ấy cháy bỏng bất chấp cả thời gian, tuổi tác:
Dù là khi tóc bạc
Điệp từ “dù là” càng có ý nghĩa nhấn mạnh, khẳng định thái độ quyết tâm, bền bỉ của tấm lòng, của khát vọng thiết tha đối với quê hương đất nước. Cống hiến cho quê hương từ khi tuổi còn trẻ cho đến khi đã da mồi, tóc bạc. Hai hình ảnh hoán dụ, đối lập ấy cho ta thấy thời gian, tuổi tác không thể làm hao mòn đi bầu nhiệt huyết của những con người trọn đời cống hiến cho đất nước. Khát vọng sống, cống hiến cuộc đời để làm đẹp cho đất nước thật đáng quý biết bao. Đó là quan niệm sống đầy trách nhiệm và thật đáng trân trọng. Những câu thơ không chỉ là lời tâm niệm mà còn là sự tổng kết của nhà thơ về cuộc đời mình – cuộc đời một chiến sĩ, thi sĩ đã cống hiến trọn vẹn cho non sông, đất nước. Giờ đây, ngay cả khi cái chết cận kề, trái tim và tâm trí con người ấy vẫn cháy bỏng một khát vọng duy nhất: được cống hiến cho quê hương.
Lời nguyện ước cuối cùng của nhà thơ mang đậm dấu ấn của một người con xứ Huế – đó là cất lên tiếng ca để đón chào mùa xuân. “Câu Nam ai Nam bình” thấm đượm chất Huế, nhẹ nhàng, da diết thể hiện niềm tin yêu, gắn bó thiết tha của nhà thơ với quê hương mình. Hiểu hoàn cảnh sáng tác bài thơ (những ngày Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, cận kề với cái chết) ta càng trân trọng và cảm phục hơn một tấm lòng yêu đời, nặng lòng với quê hương, khát khao sống và cống hiến. Khúc hát ấy chính là “một mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải “lặng lẽ dâng cho đời”, sẽ mãi ngân vang, lắng đọng trong tâm trí những người dân Việt Nam.
Trong những cuộc chiến tranh, khi đất nước lâm nguy, cống hiến cho quê hương là góp sức mình để giành lại độc lập và chủ quyền dân tộc. Thời đại đó là thời đại của những người “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, sẵn sàng xả thân vì màu xanh hoà bình trên mảnh đất quê hương. Trong thời đại ngày nay, khi đất nước đã hoà bình, thống nhất và đang trên đà phát triển, là một người con của đất nước, nhiệm vụ của chúng ta là phải gắng phấn đấu học tập, lao động để phục vụ, xây dựng đất nước vững mạnh đi lên, “sánh vai với các cường quốc năm châu”, để mỗi ngày được ngắm nhìn quê hương thay da đổi thịt, lớn mạnh, hùng cường. Cống hiến cho đất nước là nghĩa vụ và bổn phận của tất cả người dân Việt Nam. Mỗi người, với khả năng của mình, hãy cố gắng đóng góp cho đất nước mình để đưa quê hương ngày càng giàu đẹp hơn. Để là người sống có trách nhiệm với đất nước, chúng ta phải sống có mục đích, ước mơ, lí tưởng. Chính những mơ ước, lí tưởng ấy là cơ sở để chúng ta xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Đặc biệt, tuổi trẻ chúng ta cần tránh xa những tệ nạn xã hội, biết sống một cách lành mạnh và có trách nhiêm. Có như thế, ta mới là người sống có trách nhiệm với đất nước mình bởi mỗi người chỉ có thể có trách nhiệm với người khác khi có trách nhiệm với chính bản thân mình.
Là một người trẻ tuổi, một thành viên của thế hệ trẻ ngày nay, tôi cũng đang tự nhủ phải từng ngày, từng giờ, cố gắng học tập và phấn đấu thật tốt để có thể đóng góp công sức nhỏ bé của mình làm nên những “mùa xuân” đẹp tươi của đất nước ta như nguyện ước ngày nào của nhà thơ Thanh Hải.
TRỊNH LÂM ANH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã nêu lên những cảm nhận sâu sắc, tinh tế về ước vọng mà nhà thơ Thanh Hải gửi gắm qua thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
– Bố cục bài viết hợp lí, chặt chẽ.
– Lời văn diễn đạt trôi chảy, giàu xúc cảm: “Hình ảnh mùa xuân vừa là một mùa xuân thực với dòng sông, bông hoa, tiếng chim nhưng còn là ẩn dụ về một cuộc đời, một khát vọng, một lẽ sống cao đẹp: ước mong được cống hiên, được sống có ích cho quê hương, để đất nước mãi mãi là mùa xuân
– Người viết đã có những liên hệ, đánh giá phù hợp với thực tế thế hệ trẻ hiện nay. Điều này khiến bài viết trở nên sâu sắc hơn: “Trong thời đại ngày nay, khi đất nước đã hoà bình, thống nhất và đang trên đà phát triển, là một người con của đất nước, nhiệm vụ của chúng ta là phải cố gắng phấn đấu học tập và lao động để xây dựng đất nước vững mạnh đi lên, “sánh vai với các cường quốc năm châu ”, để mỗi ngày được ngắm nhìn quê hương thay da đổi thịt, lớn mạnh, hùng cường”.
|
Đề 22: Cảm nghĩ về những ước vọng được thể hiện trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 22: Cảm nghĩ của em về những ước vọng được thể hiện trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Từ ước nguyện ấy của Thanh Hải, em có suy nghĩ gì về khát vọng và sự cống hiến của thế hệ trẻ ngày nay.
Bài làm
Nếu lù con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?
(Tố Hữu – Một khúc ca)
Đó là những lời tâm niệm chân thành của người chiến sĩ cách mạng Tố Hữu, cũng là của thế hệ cha anh một thời đất nước chìm trong máu lửa. Nhà thơ Thanh Hải, giống như bao người con đất Việt ở thời đại ông, đã có một ước nguyện thật cao cả: được sống và cống hiến cho quê hương, xứ sở. Những tâm niệm ấy giản dị mà chân thành, sâu sắc và cảm động biết bao. Tất cả những ước vọng ấy được thể hiện trong thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
Tinh yêu quê hương đất nước tha thiết của Thanh Hải đã giúp ông “thức nhọn các giác quan” để cảm nhận được vẻ đẹp và sự đổi thay, chuyển vận của đất trời. Quê hương trong con mắt nhà thơ mới đẹp và tràn đầy sức sống làm sao:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiên
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Mùa xuân đất nước hiện lên với những hình ảnh rộn ràng, màu sắc tươi sáng, âm thanh trong trẻo của cây lá, chim chóc… Ta nhận ra trong những dòng thơ ấy một tình yêu tha thiết, một niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ đối với quê hương, đất nước.
Mùa xuân đất nước đẹp dường ấy. Là một người con đất Việt, phải làm gì cho quê hương đây? Tâm hồn, trái tim của một người nặng lòng với non sông đã cất vang lên những nguyện ước chân thành nhất. Những ước nguyện của Thanh Hải thật giản dị mà cao đẹp biết bao:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Lời thơ da diết, ngân vang như tiếng ca tha thiết, như điệu Nam ai, Nam bình nhẹ nhàng trôi trên dòng Hương giang. Từ “tôi” ở đầu bài thơ đã được chuyển thành “ta” đầy ý nghĩa. Nếu như “tôi” chỉ một cá nhân, một con người cụ thể, thích hợp để bày tỏ những cảm xúc, rung cảm cá nhân thì “ta” lại thích hợp với tâm thế hoà nhập, sẻ chia. “Ta” ở đây đâu chỉ là nhà thơ mà còn là tất cả mọi người. Thanh Hải thật khéo léo khi chọn lựa những hình ảnh thiên nhiên để thể hiện tâm niệm nung nấu trong tim mình. Nó nhỏ bé, đơn sơ như là một con chim, một nhành hoa, một nốt trầm… mà giàu sức gợi, mà mang những ý nghĩa ẩn tàng sâu sắc, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhầ thơ nguyện được làm một chú chim cất tiếng hót trong veo làm rộn ràng hơn mùa xuân đất nước, muốn làm một cành hoa thơm ngát toả hương cho khu vườn cuộc đời, muốn làm một.nốt nhạc trầm trong bản hoà tấu muôn điệu của cung đàn mùa xuân đất nước. Nguyện ước ấy thật giản dị và khiêm tốn. Chỉ là một chú chim nhỏ bé, một bông hoa mỏng manh, một nốt trầm không lảnh lót, nhưng không thể thiếu trong bản hoà ca để làm “xao xuyến” lòng người. Thanh Hải ý thức rất rõ vai trò, sự đóng góp của mỗi cá nhân là rất nhỏ bé giữa cuộc đời rộng lớn, cũng giống như một nốt trầm có thể “tan biến trong hoà ca”, nhưng là những nét làm nên bản sắc. Bản sắc của Thanh Hải được thể hiện độc đáo nhất trong ước muốn được làm “một mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm nên mùa xuân lớn của đất nước. Đây là điểm nhấn sáng tạo nhất của Thanh Hải trong toàn bộ thi phẩm. Hình ảnh mùa xuân vừa là một mùa xuân thực với dòng sông, bông hoa, tiếng chim nhưng còn là ẩn dụ về một cuộc đời, một khát vọng, một lẽ sống cao đẹp: ước mong được cống hiến, được sống có ích cho quê hương, để đất nước mãi mãi là mùa xuân. Khát vọng ấy cháy bỏng bất chấp cả thời gian, tuổi tác:
Dù là khi tóc bạc
Điệp từ “dù là” càng có ý nghĩa nhấn mạnh, khẳng định thái độ quyết tâm, bền bỉ của tấm lòng, của khát vọng thiết tha đối với quê hương đất nước. Cống hiến cho quê hương từ khi tuổi còn trẻ cho đến khi đã da mồi, tóc bạc. Hai hình ảnh hoán dụ, đối lập ấy cho ta thấy thời gian, tuổi tác không thể làm hao mòn đi bầu nhiệt huyết của những con người trọn đời cống hiến cho đất nước. Khát vọng sống, cống hiến cuộc đời để làm đẹp cho đất nước thật đáng quý biết bao. Đó là quan niệm sống đầy trách nhiệm và thật đáng trân trọng. Những câu thơ không chỉ là lời tâm niệm mà còn là sự tổng kết của nhà thơ về cuộc đời mình – cuộc đời một chiến sĩ, thi sĩ đã cống hiến trọn vẹn cho non sông, đất nước. Giờ đây, ngay cả khi cái chết cận kề, trái tim và tâm trí con người ấy vẫn cháy bỏng một khát vọng duy nhất: được cống hiến cho quê hương.
Lời nguyện ước cuối cùng của nhà thơ mang đậm dấu ấn của một người con xứ Huế – đó là cất lên tiếng ca để đón chào mùa xuân. “Câu Nam ai Nam bình” thấm đượm chất Huế, nhẹ nhàng, da diết thể hiện niềm tin yêu, gắn bó thiết tha của nhà thơ với quê hương mình. Hiểu hoàn cảnh sáng tác bài thơ (những ngày Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, cận kề với cái chết) ta càng trân trọng và cảm phục hơn một tấm lòng yêu đời, nặng lòng với quê hương, khát khao sống và cống hiến. Khúc hát ấy chính là “một mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải “lặng lẽ dâng cho đời”, sẽ mãi ngân vang, lắng đọng trong tâm trí những người dân Việt Nam.
Trong những cuộc chiến tranh, khi đất nước lâm nguy, cống hiến cho quê hương là góp sức mình để giành lại độc lập và chủ quyền dân tộc. Thời đại đó là thời đại của những người “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, sẵn sàng xả thân vì màu xanh hoà bình trên mảnh đất quê hương. Trong thời đại ngày nay, khi đất nước đã hoà bình, thống nhất và đang trên đà phát triển, là một người con của đất nước, nhiệm vụ của chúng ta là phải gắng phấn đấu học tập, lao động để phục vụ, xây dựng đất nước vững mạnh đi lên, “sánh vai với các cường quốc năm châu”, để mỗi ngày được ngắm nhìn quê hương thay da đổi thịt, lớn mạnh, hùng cường. Cống hiến cho đất nước là nghĩa vụ và bổn phận của tất cả người dân Việt Nam. Mỗi người, với khả năng của mình, hãy cố gắng đóng góp cho đất nước mình để đưa quê hương ngày càng giàu đẹp hơn. Để là người sống có trách nhiệm với đất nước, chúng ta phải sống có mục đích, ước mơ, lí tưởng. Chính những mơ ước, lí tưởng ấy là cơ sở để chúng ta xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Đặc biệt, tuổi trẻ chúng ta cần tránh xa những tệ nạn xã hội, biết sống một cách lành mạnh và có trách nhiêm. Có như thế, ta mới là người sống có trách nhiệm với đất nước mình bởi mỗi người chỉ có thể có trách nhiệm với người khác khi có trách nhiệm với chính bản thân mình.
Là một người trẻ tuổi, một thành viên của thế hệ trẻ ngày nay, tôi cũng đang tự nhủ phải từng ngày, từng giờ, cố gắng học tập và phấn đấu thật tốt để có thể đóng góp công sức nhỏ bé của mình làm nên những “mùa xuân” đẹp tươi của đất nước ta như nguyện ước ngày nào của nhà thơ Thanh Hải.
TRỊNH LÂM ANH
Lời nhân xét:
– Bài viết đã nêu lên những cảm nhận sâu sắc, tinh tế về ước vọng mà nhà thơ Thanh Hải gửi gắm qua thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
– Bố cục bài viết hợp lí, chặt chẽ.
– Lời văn diễn đạt trôi chảy, giàu xúc cảm: “Hình ảnh mùa xuân vừa là một mùa xuân thực với dòng sông, bông hoa, tiếng chim nhưng còn là ẩn dụ về một cuộc đời, một khát vọng, một lẽ sống cao đẹp: ước mong được cống hiên, được sống có ích cho quê hương, để đất nước mãi mãi là mùa xuân
– Người viết đã có những liên hệ, đánh giá phù hợp với thực tế thế hệ trẻ hiện nay. Điều này khiến bài viết trở nên sâu sắc hơn: “Trong thời đại ngày nay, khi đất nước đã hoà bình, thống nhất và đang trên đà phát triển, là một người con của đất nước, nhiệm vụ của chúng ta là phải cố gắng phấn đấu học tập và lao động để xây dựng đất nước vững mạnh đi lên, “sánh vai với các cường quốc năm châu ”, để mỗi ngày được ngắm nhìn quê hương thay da đổi thịt, lớn mạnh, hùng cường”.
|
Đề 23 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề bài luyện tập học sinh giỏi Tiếng Việt 5
1. Trong các câu ghép dưới đây, câu ghép nào biểu thị quan hệ điều kiên – kết quả, giả thiết – kết quả:
a) Vì người dân buôn Chư Lênh rất yêu quý “cái chữ” nên họ đã đón tiếp cô Y Hoa trang trọng và thân tình đến thế.
b) Mặc dù Y Hoa được dân làng trọng vọng nhưng cô vẫn rất thân mật, hoà mình với tất cả mọi người.
c) Nếu trẻ em không được học chữ thì cuộc sống của các em sau này sẽ rất khó thoát khỏi cảnh lạc hậu, tối tăm.
2. Tìm quan hệ từ hoặc căp quan hệ từ thích hợp điền vào chỗ trông:
a) … cụ Ún tin tưởng ở bác sĩ trong việc chữa bệnh … cụ đã không trốn viện về nhà.
b) …cụ Ún đến bệnh viện kịp thời …cụ không phải chịu những cơn đau quằn quại, khổ sở như vậy.
c) … con trai cụ nói đến chuyện đi bệnh viện chữa bệnh …cụ Ún lại nói lảng sang chuyện khác.
d) …cụ Ún đi viện từ sớm … bệnh sỏi thận của cụ đã khỏi lâu rồi.
3. Trong bài thơ Chú đi tuần của Trần Ngọc, hình ảnh người chiến sĩ đi tuần trong đêm khuya thành phố được tả như sau:
Trong đêm khuya vắng vẻ,
Nép mình dưới bóng hàng cây
Gió đông lạnh buốt đôi tay chú rồi!
Rét thì mặc rét cháu ơi!
Chú đi giữ mãi ấm nơi cháu nằm.
Đoạn thơ nói về người chiến sĩ đi tuần trong hoàn cảnh thế nào? Hai dòng thơ cuối cho ta thấy ý nghĩa gì sâu sắc và đẹp đẽ?
4. Kể lại câu chuyện về một chiến sĩ cách mạng đã hi sinh anh dũng cho Tổ quốc mà em được biết (qua sách báo, phim ảnh hoặc người khác kể lại).
|
Topic 23 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Practice questions for excellent students in Vietnamese 5
1. In the following compound sentences, which one represents the condition-result, hypothesis-result relationship:
a) Because the people of Chu Lenh village love "the word" so much, they welcomed Ms. Y Hoa so solemnly and cordially.
b) Although Y Hoa is respected by the villagers, she is still very friendly and mingles with everyone.
c) If children do not learn to read, their future lives will be very difficult to escape from backwardness and darkness.
2. Find the appropriate word relationship or pair of words to fill in the blanks:
a) … Mr. Un trusted the doctor in treating his illness … he did not escape from the hospital and go home.
b) ... Mr. Un went to the hospital in time ... he did not have to endure such excruciating pain and suffering.
c) ... his son talked about going to the hospital for treatment ... Mr. Un talked about something else.
d) … Mr. Un went to the hospital early … his kidney stones have been cured for a long time.
3. In the poem Uncle on Patrol by Tran Ngoc, the image of a soldier patrolling late at night in the city is described as follows:
In the dead of night,
Nestled under the shade of trees
The cold winter wind is biting my hands!
My nephew is wearing cold cold!
He goes to keep warm where he lies.
The poem talks about the situation of a soldier on patrol? What profound and beautiful meaning do the last two lines of the poem show us?
4. Retell the story of a revolutionary soldier who sacrificed heroically for the Fatherland that you know (through books, movies, or others).
|
Đề 23: Cảm nhận về đoạn thơ cuối trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 23: Cảm nhận của em về đoạn thơ:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
(Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
Bài làm
Mùa xuân là mùa của tình yêu, sức sống dào dạt và cũng là mùa khơi nguồn cho bao áng thi ca, nhạc họa. Nếu chọn những bài thơ hay nhất viết về mùa xuân, tôi tin chắc không thể vắng bóng Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải. Thi phẩm là sự kết tinh, lắng đọng của một tài năng thơ đang độ chín. Bài thơ không chỉ hấp dẫn bạn đọc bởi khung cảnh mùa xuân mộng mơ nơi xứ Huế mà còn bởi khát vọng cống hiến cháy bỏng, dạt dào:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của nhà thơ Thanh Hải, được viết khi nhà thơ nằm trên giường bệnh, chỉ mấy ngày trước khi ông qua đời. Có lẽ vì vậy, bài thơ như một lời tâm niệm, chất chứa bao cảm xúc, suy tư của nhà thơ trọn đời gắn bó với cách mạng, đất nước. Mở đầu đoạn thơ, tác giả nêu lên trực tiếp ước muốn, nguyện vọng của mình:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Khát vọng được dâng hiến cho quê hương, đất nước không phải chỉ có ở riêng nhà thơ Thanh Hải song khẳng định một cách mạnh mẽ, dứt khoát và thiết tha mong ước cao cả đó, có lẽ chỉ có ở ông. Điệp từ “ta làm” được lặp lại hai lần kết hợp với biện pháp lặp cấu trúc ngữ pháp khiến cho nhịp thơ vừa uyển chuyển, nhịp nhàng vừa mạnh mẽ. Không ước mơ trở thành cái gì quá lớn lao, cao sang, vĩ đại, những điều tác giả mong muốn thật bình dị nhưng đầy ý nghĩa. Nhân vật trữ tình muốn làm “con chim hót” để ca ngợi đất nước đẹp giàu, muốn làm “cành hoa” để toả hương, khoe sắc cho đời, muốn làm “nốt trầm xao xuyến” để góp phần làm nên bản hoà ca của cuộc đời. Mong muốn giản dị thôi nhưng chính những điều đó làm cho cuộc sống này trở nên tươi đẹp hơn, ý nghĩa, kì diệu hơn. Ta bắt gặp sự đồng điệu giữa tâm hồn thơ Thanh Hải với tâm hồn nhạc sĩ Trương Quốc Khánh – tác giả khúc ca Tự nguyện:
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người, tôi sẽ chết cho quê hương
Đó là sự gặp gỡ của những tâm hồn nghệ sĩ ý thức được vai trò, trách nhiệm cao cả của mình với quê hương. Nhà thơ Thanh Hải và nhạc sĩ Trương Quốc Khánh đều có ước muốn thật thanh cao, đẹp đẽ. Điểm khác biệt của hai nghệ sĩ là ở cách thức thể hiện. Nếu trong lời ca của Trương Quốc Khánh, ông sử dụng lối viết giả thiết, với sự điệp lại của liên từ “nếu” thì nhà thơ Thanh Hải dùng lối viết khẳng định “ta làm” ; “ta nhập”. Người đọc trân trọng trái tim ấm nóng, gắn bó với quê hương đất nước của hai tâm hồn nghệ sĩ.
Nhà thơ Thanh Hải thực sự khiến người đọc ngưỡng mộ, khâm phục bởi khi cái chết cận kề, ông vẫn mang trong mình những trăn trở, khát vọng dâng hiến cho quê hương, đất nước. Đỉnh cao của ước vọng hiến dâng ấy là niềm mong muốn được là “mùa xuân nho nhỏ”:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Vẫn không phải là một mùa xuân lớn lao, ôm trùm vũ trụ, nhà thơ chỉ mong là một “mùa xuân nho nhỏ” ấm áp. Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân” thể hiện phần tốt đẹp của mỗi người, là tài năng, trí tuệ, là sức sống. Nhà thơ muốn dem hết tâm hồn, sức lực và cả sự sống của mình cống hiến cho sự phát triển của quê hương, đất nước dấu yêu. Sự dâng hiến lớn lao đó không khoa trương, ồn ào mà chỉ “lặng lẽ dâng cho đời”. Động từ “dâng” thể hiện một thái độ thành kính, trân trọng, nâng niu. Nhà thơ nguyện cống hiến hết mình cho Tổ quốc:
Dù là khi tóc bạc.
Hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi”, “tóc bạc” thể hiện thời gian của đời người, thể hiện khát vọng cống hiến hết mình, trọn đời của nhà thơ. Cho dù đó là khi trẻ trung căng tràn nhựa sống hay khi đã về già thì ông cũng không lúc nào nguôi niềm mong ước được hiến dâng.
Với lời thơ năm chữ nhẹ nhàng, lắng sâu, nhà thơ Thanh Hải đã thực sự làm lay động trái tim biết bao bạn đọc. Khát vọng cháy bỏng được hiến dâng của nhà thơ thể hiên một tình yêu quê hương tha thiết. Khát vọng đó càng đáng quý, đáng trân trọng hơn bởi đó là mong ước sau cùng của con người sắp từ giã cõi đời. Ta hiểu rằng, sự cống hiến không bị giới hạn bởi tuổi tác, chỉ cần con người có một trái tim luôn ấm nóng và biết sống vì người khác. Hai khổ thơ thực sự mang đến những bài học quý giá cho thế hệ trẻ hôm nay. Liệu chúng ta đã, đang và sẽ làm được gì để cống hiến cho quê hương, đất nước mình? Mỗi người hãy phấn đấu trở thành những “mùa xuân nho nhỏ” để đất nước ngày càng đẹp tươi.
THỦY HÀ
Lời nhận xét:
– Bài viết đã cảm nhận, phân tích được những cái hay về nội dung cũng như nghệ thuật của hai khổ thơ. Văn viết trong sáng, mạch lạc.
– Có những đánh giá sâu sắc, liên hệ với thực tiễn tốt: “Ta hiểu rằng, sự công hiến không bị giới hạn bởi tuổi tác, thời gian, chỉ cần con người có một trái tim luôn ấm nống và biết sống vì người khác. Hai khổ thơ thực sự mang đến những bài học quý giá cho thế hệ trẻ hôm nay… ”.
|
Topic 23: Feelings about the last stanza in the poem Little Spring - Selected essay for grade 9
Instruct
Topic 23: My feelings about the poem:
I make the bird sing
I make a flower branch
We enter into harmony
A bass note flutters.
A little spring
Quietly give to life
Even in my twenties
Whether it's the gray hair.
(Thanh Hai – Little spring)
Assignment
Spring is the season of love, abundant vitality and also the season that inspires many poems, music and paintings. If I were to choose the best poems written about spring, I'm sure Thanh Hai's Little Spring could not be missing. Poetry is the crystallization and deposition of a ripe poetic talent. The poem not only attracts readers by the dreamy spring scene in Hue but also by the burning and abundant desire to contribute:
I make the bird sing
I make a flower branch
We enter into harmony
A bass note flutters.
A little spring
Quietly give to life
Even in my twenties
Whether it's the gray hair.
Little Spring is the last poem of poet Thanh Hai, written when the poet was lying on his deathbed, just a few days before his death. Perhaps that is why the poem is like a thought, containing many emotions and thoughts of a poet who has been attached to the revolution and his country all his life. At the beginning of the poem, the author directly states his wishes and aspirations:
I make the bird sing
I make a flower branch
We enter into harmony
A bass note flutters.
The desire to dedicate oneself to one's homeland and country is not unique to poet Thanh Hai, but strongly, decisively and passionately affirming that noble wish is perhaps unique to him. The refrain "I do" is repeated twice combined with the repetition of grammatical structure, making the poem's rhythm both flexible, rhythmic and strong. Not dreaming of becoming something too big, noble, or great, what the author wants is simple but meaningful. The lyrical character wants to be a "singing bird" to praise the beautiful and rich country, wants to be a "flower branch" to radiate fragrance and bloom for life, wants to be a "twitching bass note" to contribute to the harmony. of life. It's a simple wish, but it's those things that make this life more beautiful, meaningful, and magical. We encounter the harmony between the soul of Thanh Hai's poetry and the soul of musician Truong Quoc Khanh - author of the song Voluntary:
If I were a flower, I would be a sunflower
If I were a cloud, I would be a warm cloud
As a human being, I will die for my homeland
It is a meeting of artistic souls who are aware of their noble role and responsibility to their homeland. Poet Thanh Hai and musician Truong Quoc Khanh both have noble and beautiful wishes. The difference between the two artists is in the way of expression. If in Truong Quoc Khanh's lyrics, he uses the hypothetical writing style, with the repetition of the conjunction "if", then the poet Thanh Hai uses the affirmative writing style "I do"; “I enter”. Readers appreciate the warm hearts and attachment to their homeland and country of two artists' souls.
Poet Thanh Hai truly makes readers admire and admire him because when death was near, he still carried within him the concerns and desires to dedicate himself to his homeland and country. The pinnacle of that desire for dedication is the desire to be a "little spring":
A little spring
Quietly give to life
Even in my twenties
Whether it's the gray hair.
Still not a great spring, embracing the universe, the poet only hopes for a warm "little spring". The metaphor "spring" represents the good part of each person, which is talent, intelligence, and vitality. The poet wants to devote all his soul, strength and life to the development of his homeland, his beloved country. That great dedication is not ostentatious or noisy, but just "quietly offered to life". The verb "offer" shows an attitude of respect, respect, and care. The poet vows to devote himself to the Fatherland:
Whether it's the gray hair.
The metonymic images "twenty years old" and "gray hair" represent the time of a person's life, expressing the poet's desire to devote himself all his life. Whether it was when he was young and full of vitality or when he was old, he never lost his desire to dedicate himself.
With gentle, deep five-word poems, poet Thanh Hai has truly touched the hearts of many readers. The poet's burning desire to dedicate himself shows a passionate love for his homeland. That desire is even more precious and worthy of respect because it is the last wish of a person about to leave this world. We understand that dedication is not limited by age, as long as a person has a warm heart and knows how to live for others. These two stanzas really bring valuable lessons to today's young generation. What have we been, are and will we do to contribute to our homeland and country? Everyone should strive to become "little springs" to make the country more and more beautiful.
THUY HA
Comment:
– The article has commented and analyzed the good things about the content as well as the art of the two stanzas. The writing is clear and coherent.
– There are profound assessments, related to good practice: "We understand that dedication is not limited by age or time, as long as people have a warm heart and know how to live for others." other. These two stanzas really bring valuable lessons to today's young generation...".
|
Đề 24 – Thuyết minh một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam(Tết trung thu) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Nét đẹp của Tết trung thu
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Tết Trung thu là một cái Tết đặc biệt dành cho thiếu nhi.
Đây cũng là dịp để mọi người trong gia đình sum họp, trò chuyện,…
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Người Việt ta ăn Tết Trung Thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch là do ta phỏng theo phong tục của người Trung Quốc.
Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung Thu, trăng rất tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.
Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.
Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ.
2. Đặc điểm
Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn.Cỗ mừng trung thu gồm bánh trung thu, kẹo, mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để con cái hiểu được sự săn sóc quý mến của cha mẹ đối với mình một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khăng khít thêm.
Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành.
Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba “thình, thùng, thình.” Ngày xưa trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát.
3. Ý nghĩa
Tết Trung Thu mới đầu là tết của người lớn để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, ăn bánh, và uống trà ngắm trăng rằm vào giữa tiết Thu.
Dần dần Tết Trung Thu trở thành Tết trẻ em hay Tết nhi đồng, nhưng người lớn cũng dự phần trong đó.
Trẻ em được người lớn chú ý săn sóc như các hội đoàn người Việt hải ngoại đã và đang làm.
Các em có dịp vui chơi rước đèn, ca hát, phá cỗ do cha mẹ anh chị bày cho và nhất là có dịp ăn bánh kẹo thả cửa mà không sợ bị quở mắng là “ăn kẹo hư răng.”.
III. KẾT BÀI
Tết Trung thu là một trong những cái Tết rất có ý nghĩa không chỉ đối với người lớn mà còn đặc biệt đối với thiếu nhi.
Chúng ta cần phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những ý nghĩa cao đẹp của nó.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Từ rất xa xưa đã có tục lệ, mùa xuân tế mặt trời, mùa thu tế mặt trăng. Tế xong, mọi người cùng thưởng thức bánh dưới trăng. Phong tục này cứ kéo dài. Ngày 15 là ngày giữa tháng tám, cũng là giữa mùa thu. Đó là ngày trăng tròn nhất trong cả năm. Trăng tròn tượng trưng cho hạnh phúc tròn đầy, sự vuông tròn của ước mong. Là sự đoàn viên của các thành viên trong gia đình cũng như họ hàng và cộng đồng. Với trẻ em, được tung tăng chơi và ăn bánh, hoa quả dưới bầu trời có trăng sáng là một điều thú vị và say sưa lắm. Chúng thường nghêu ngao:
Có cây đa to
Có thằng cuội già
Ôm một mối mơ…
Với người lớn, người ta nhìn lên mặt trăng sáng mát cảm thấy thanh thản như mình trẻ lại. Có khi họ nghĩ đến những kỉ niệm xưa, người xưa: trăng thề nhớ buối hoa viên; vầng trăng ai xẻ làm đôi; ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương, trông trăng lại nhớ đến người đêm trăng ; nhìn trăng đang hát điệu vong tình; Thái Bạch ôm trăng lạnh, thuyền trăng Phạm Lãi luyến Tây Thi… Trăng là đề tài muôn thuở và chứa đựng biết bao nhiêu huyền thoại…
Dần dà, người ta không tế trăng nữa mà bày cỗ và chơi dưới trăng. Xung quanh mâm cỗ, chủ yểu là trẻ con rồi đến các thành viên khác trong gia đình và khách. Các trẻ em đi rước đèn ngoài phố qua xóm ngõ, cánh đồng ven đô. Chúng tụ tập chừng 10 đến 20 em, mỗi em mang một chiếc đèn thắp bằng nến. Đèn con thỏ, đèn ông sao, đèn xếp, đèn nổi, đèn lồng, đèn con cóc… các em lớn hơn một chút đi đầu múa sư tử. Chúng vừa đi vừa hát, có khi đứng vòng lại với nhau rồi múa. Sau khi rước đèn, chúng về nhà phá cỗ.
Chúng cùng ăn bánh dẻo, bánh nướng với mọi người và còn được chia thêm các hoa quả như hồng, na, chuối, bưởi, cam, ổi và các loại bánh bằng bột nướng hoặc rán mang hình các con vật thân thuộc như tôm, cá, thỏ, lợn, hươu… Mâm cỗ được thắp sáng bằng nến, ở giữa có bày tượng một ông tiến sĩ giấy ngồi bảnh chọe, có cờ, có biển. Hình ảnh này tượng trưng cho sự hiếu học, lòng ham mê khoa cử. Bên cạnh còn được bày những con vật nhỏ xíu được nặn bằng bột và quét màu xanh, đỏ, vàng trông rất xinh và ngộ nghĩnh.
Trong mỗi nhà, thường treo ở gian giữa một chiếc đèn kéo quân tạo nên những hình ảnh hoạt động của các nhân vật trong truyện như: Ông già úp cá, Thị Mầu lên chùa, Thạch Sanh đốn củi, Lã Bố hí Điêu Thuyền… Những hình ảnh đó cứ diễu quanh nhiều vòng, in bóng vào mặt giấy của đèn nhanh hay chậm là do ngọn nến ở giữa cháy to hay cháy nhỏ tạo nên gió chuyển nhiều hay ít. Bọn trẻ còn bận bịu và hồi hộp với những đồ chơi Trung thu như: quả đào úp mở theo bánh xe phía dưới chuyển động, tàu thủy chạy dưới nước, con thỏ đánh trống, con gà thổi kèn…bằng sắt Tây. Mấy hôm trước ngày rằm, một số em thiếu nhi hiếu động rủ nhau đi trống kèn và kể vè. Chúng nắm tay nhau, xếp thành vòng tròn có tầng trên và tầng dưới. Những đứa ở tầng trên đứng lên vai những đứa ở tầng dưới. Một đứa tốt giọng kể vè, những đứa khác xen vào câu “Dô ta” để hưởng ứng. Ví dụ, chúng kể về việc làm ăn:
Làng ta làm giấy, thua tài làng Đông.
Hoặc để chế nhạo:
Con ngựa bạch đeo cái cương sừng
Một cô con gái ôm lưng ông già…
Mỗi năm, cứ đến Tết Trung thu, nơi nào cũng náo nhiệt. Nhưng đặc biệt náo nhiệt là mấy phố chính như Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Hàng Thiếc, Hàng Mã, chợ Đồng Xuân và xung quanh hồ Hoàn Kiếm. Cũng có những đoàn múa sư tử, múa rồng của nhũng người lớn thích chơi, nhũng người mãi võ biểu diễn hoặc múa tranh giải do các nhà từ thiện hoặc các cửa hàng trao cho đoàn nào múa đẹp và sôi nổi. Có năm lại xuất hiện một vài đoàn múa sư tử gồm toàn con gái mặc võ phục gọn gàng và dũng mãnh làm nức lòng mọi người.Ở vùng Bưởi, các em còn chơi trồng hoa trồng nụ, bịt mắt bắt dê, nhảy cừu, rồng rắn lên mây…trong những ngày trước và sau rằm tháng tám.
Tết Trung thu là Tết truyền thống của nước ta, là Tết cùa các em thiếu nhi, nhưng người lớn cũng có phần. Nó làm sống lại quãng đời trẻ thơ không bao giờ trở lại của họ.
(Theo Lý Khắc Cung, Hà Nội Văn hóa và Phong tục, 2014)
>> Xem thêm Đề 25 – Thuyết minh một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam(Bánh trung thu) tại đây.
Tags:Đề 24 · Tết trung thu · Văn chọn lọc 9
|
Đề 24 – Thuyết minh một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam(Tết trung thu) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Nét đẹp của Tết trung thu
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Tết Trung thu là một cái Tết đặc biệt dành cho thiếu nhi.
Đây cũng là dịp để mọi người trong gia đình sum họp, trò chuyện,…
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Người Việt ta ăn Tết Trung Thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch là do ta phỏng theo phong tục của người Trung Quốc.
Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung Thu, trăng rất tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.
Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.
Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ.
2. Đặc điểm
Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn.Cỗ mừng trung thu gồm bánh trung thu, kẹo, mía, bưởi, và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để con cái hiểu được sự săn sóc quý mến của cha mẹ đối với mình một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khăng khít thêm.
Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành.
Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba “thình, thùng, thình.” Ngày xưa trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát.
3. Ý nghĩa
Tết Trung Thu mới đầu là tết của người lớn để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, ăn bánh, và uống trà ngắm trăng rằm vào giữa tiết Thu.
Dần dần Tết Trung Thu trở thành Tết trẻ em hay Tết nhi đồng, nhưng người lớn cũng dự phần trong đó.
Trẻ em được người lớn chú ý săn sóc như các hội đoàn người Việt hải ngoại đã và đang làm.
Các em có dịp vui chơi rước đèn, ca hát, phá cỗ do cha mẹ anh chị bày cho và nhất là có dịp ăn bánh kẹo thả cửa mà không sợ bị quở mắng là “ăn kẹo hư răng.”.
III. KẾT BÀI
Tết Trung thu là một trong những cái Tết rất có ý nghĩa không chỉ đối với người lớn mà còn đặc biệt đối với thiếu nhi.
Chúng ta cần phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những ý nghĩa cao đẹp của nó.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Từ rất xa xưa đã có tục lệ, mùa xuân tế mặt trời, mùa thu tế mặt trăng. Tế xong, mọi người cùng thưởng thức bánh dưới trăng. Phong tục này cứ kéo dài. Ngày 15 là ngày giữa tháng tám, cũng là giữa mùa thu. Đó là ngày trăng tròn nhất trong cả năm. Trăng tròn tượng trưng cho hạnh phúc tròn đầy, sự vuông tròn của ước mong. Là sự đoàn viên của các thành viên trong gia đình cũng như họ hàng và cộng đồng. Với trẻ em, được tung tăng chơi và ăn bánh, hoa quả dưới bầu trời có trăng sáng là một điều thú vị và say sưa lắm. Chúng thường nghêu ngao:
Có cây đa to
Có thằng cuội già
Ôm một mối mơ…
Với người lớn, người ta nhìn lên mặt trăng sáng mát cảm thấy thanh thản như mình trẻ lại. Có khi họ nghĩ đến những kỉ niệm xưa, người xưa: trăng thề nhớ buối hoa viên; vầng trăng ai xẻ làm đôi; ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương, trông trăng lại nhớ đến người đêm trăng ; nhìn trăng đang hát điệu vong tình; Thái Bạch ôm trăng lạnh, thuyền trăng Phạm Lãi luyến Tây Thi… Trăng là đề tài muôn thuở và chứa đựng biết bao nhiêu huyền thoại…
Dần dà, người ta không tế trăng nữa mà bày cỗ và chơi dưới trăng. Xung quanh mâm cỗ, chủ yểu là trẻ con rồi đến các thành viên khác trong gia đình và khách. Các trẻ em đi rước đèn ngoài phố qua xóm ngõ, cánh đồng ven đô. Chúng tụ tập chừng 10 đến 20 em, mỗi em mang một chiếc đèn thắp bằng nến. Đèn con thỏ, đèn ông sao, đèn xếp, đèn nổi, đèn lồng, đèn con cóc… các em lớn hơn một chút đi đầu múa sư tử. Chúng vừa đi vừa hát, có khi đứng vòng lại với nhau rồi múa. Sau khi rước đèn, chúng về nhà phá cỗ.
Chúng cùng ăn bánh dẻo, bánh nướng với mọi người và còn được chia thêm các hoa quả như hồng, na, chuối, bưởi, cam, ổi và các loại bánh bằng bột nướng hoặc rán mang hình các con vật thân thuộc như tôm, cá, thỏ, lợn, hươu… Mâm cỗ được thắp sáng bằng nến, ở giữa có bày tượng một ông tiến sĩ giấy ngồi bảnh chọe, có cờ, có biển. Hình ảnh này tượng trưng cho sự hiếu học, lòng ham mê khoa cử. Bên cạnh còn được bày những con vật nhỏ xíu được nặn bằng bột và quét màu xanh, đỏ, vàng trông rất xinh và ngộ nghĩnh.
Trong mỗi nhà, thường treo ở gian giữa một chiếc đèn kéo quân tạo nên những hình ảnh hoạt động của các nhân vật trong truyện như: Ông già úp cá, Thị Mầu lên chùa, Thạch Sanh đốn củi, Lã Bố hí Điêu Thuyền… Những hình ảnh đó cứ diễu quanh nhiều vòng, in bóng vào mặt giấy của đèn nhanh hay chậm là do ngọn nến ở giữa cháy to hay cháy nhỏ tạo nên gió chuyển nhiều hay ít. Bọn trẻ còn bận bịu và hồi hộp với những đồ chơi Trung thu như: quả đào úp mở theo bánh xe phía dưới chuyển động, tàu thủy chạy dưới nước, con thỏ đánh trống, con gà thổi kèn…bằng sắt Tây. Mấy hôm trước ngày rằm, một số em thiếu nhi hiếu động rủ nhau đi trống kèn và kể vè. Chúng nắm tay nhau, xếp thành vòng tròn có tầng trên và tầng dưới. Những đứa ở tầng trên đứng lên vai những đứa ở tầng dưới. Một đứa tốt giọng kể vè, những đứa khác xen vào câu “Dô ta” để hưởng ứng. Ví dụ, chúng kể về việc làm ăn:
Làng ta làm giấy, thua tài làng Đông.
Hoặc để chế nhạo:
Con ngựa bạch đeo cái cương sừng
Một cô con gái ôm lưng ông già…
Mỗi năm, cứ đến Tết Trung thu, nơi nào cũng náo nhiệt. Nhưng đặc biệt náo nhiệt là mấy phố chính như Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Hàng Thiếc, Hàng Mã, chợ Đồng Xuân và xung quanh hồ Hoàn Kiếm. Cũng có những đoàn múa sư tử, múa rồng của nhũng người lớn thích chơi, nhũng người mãi võ biểu diễn hoặc múa tranh giải do các nhà từ thiện hoặc các cửa hàng trao cho đoàn nào múa đẹp và sôi nổi. Có năm lại xuất hiện một vài đoàn múa sư tử gồm toàn con gái mặc võ phục gọn gàng và dũng mãnh làm nức lòng mọi người.Ở vùng Bưởi, các em còn chơi trồng hoa trồng nụ, bịt mắt bắt dê, nhảy cừu, rồng rắn lên mây…trong những ngày trước và sau rằm tháng tám.
Tết Trung thu là Tết truyền thống của nước ta, là Tết cùa các em thiếu nhi, nhưng người lớn cũng có phần. Nó làm sống lại quãng đời trẻ thơ không bao giờ trở lại của họ.
(Theo Lý Khắc Cung, Hà Nội Văn hóa và Phong tục, 2014)
>> Xem thêm Đề 25 – Thuyết minh một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam(Bánh trung thu) tại đây.
Tags:Đề 24 · Tết trung thu · Văn chọn lọc 9
|
Đề 24 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề bài luyện tập bồi dưỡng giỏi Tiếng Việt 5
1. Trong các câu ghép dưới đây, câu ghép nào biểu thị quan hệ tương phản:
a) Vì Trần Thủ Độ là người có công lập nên nhà Trần nên ai ai cũng nể trọng ông.
b) Tuy Trần Thủ Độ là chú của vua và đứng đầu trăm quan nhưng ông không cho phép mình vượt qua phép nước.
c) Nếu Trần Thủ Độ chỉ nghĩ đến tình riêng, bỏ qua phép nước thì ông đã cho người kia giữ chức câu đương.
2. Tìm quan hệ từhoặc căp quan hệ từ thích hợp điền vào chỗ trông:
a) … ai rào giậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân cụ Hồ.
(Tố Hữu)
b) … Linh Từ Quốc Mẫu đòi phải trừng trị kẻ dưới khinh nhờn … Trần Thủ Độ không những không trừng trị mà ban thưởng cho người quân hiệu.
c) … viên quan tâu với vua rằng Trần Thủ Độ chuyên quyền … Trần Thủ Độ vẫn đề cao việc làm của viên quan ấy.
3. Trong bài Khúc hát runhững em bé lớn trên lưng mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết về lời hát ru cất lên từ trái tim yêu thương của người mẹ như sau:
– Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Mai sau con lớn vung chày lún sân …
Theo em, lời hát ru của người mẹ đã bộc lộ những điều gì đẹp đẽ và sâu sắc?
4. Tả một đồ vật trong nhà (hoặc trên lớp học) gần gũi và thân thiết đối với em.
|
Topic 24 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Practice questions to improve Vietnamese proficiency 5
1. Which of the following compound sentences represents a contrasting relationship:
a) Because Tran Thu Do was the founder of the Tran Dynasty, everyone respected him.
b) Although Tran Thu Do was the king's uncle and the head of a hundred mandarins, he did not allow himself to surpass the country's laws.
c) If Tran Thu Do only thought about personal love and ignored the country's law, he would have given the other person the position of concubine.
2. Find the appropriate word relationship or pair of words to fill in the blanks:
a) … who fences the yard?
Our hearts are still Uncle Ho's people.
(To Huu)
b) ... Linh Tu Quoc Mau demanded to punish those who were disrespectful... Tran Thu Do not only did not punish him but rewarded him with military honors.
c) … the mandarin told the king that Tran Thu Do was autocratic … Tran Thu Do still appreciated the work of that mandarin.
3. In the song Khuc sings a lullaby for the babies growing up on their mother's back, poet Nguyen Khoa Diem writes about the lullaby from the mother's loving heart as follows:
– Sleep well a-kay, sleep well a-kay
Mom loves a-kay, mom loves the soldiers
Tomorrow, the eldest child will swing the pestle and sink the yard...
In your opinion, what beautiful and profound things does the mother's lullaby reveal?
4. Describe an object in the house (or classroom) that is close and dear to you.
|
Đề 25 – Thuyết minh một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam(Bánh trung thu) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Thuyết minh về bánh trung thu
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Một loại bánh không thể nào thiếu được trong ngày Tết Trung thu đó chính là chiếc bánh trung thu.
Một loại bánh chất chứa hạnh phúc đầm ấm của gia đình.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Có nguồn gốc từ Trung Quốc và được gọi là bánh Nguyệt.
Theo sử sách ghi chép từ thời Ân, Chu ở vùng Triết Giang đã có loại bánh kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng gọi là bánh Thái Sư. Bánh này có thể coi như là thuỷ tổ của bánh Trung Thu.
Vào thời Tây Hán, Trương Thiên đi Tây Vực mang về Trung Quốc hạt Mè, hạt Hồ đào, dưa hấu làm nguyên liệu cho bánh Nguyệt thêm dồi dào.
Thời đó hồ đào là nguyên liệu chính của bánh Nguyệt nên còn gọi là bánh hồ đào.
Đến thời Đường trong dân gian có những ngưòi hành nghề làm bánh, ở thành phố Trường An có những tiệm bánh trứ danh.
Tương truyền có một đêm Trung Thu Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi ăn bánh hồ đào, thuởng ngoạn trăng rằm, Đường Huyền Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt tên là Bánh Nguyệt cho thơ mộng hơn, nên từ đó về sau thứ bánh này có tên là bánh Nguyệt (tên người Trung Quốc đặt) và trở thành bánh Trung Thu khi du nhập vào Việt Nam.
2. Cách làm bánh
Bánh có hai phần: Phần áo và phần nhân.
Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang.
Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm.
Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm.
Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh.
Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu.Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân…
Bánh dẻo làm bằng bột nếp trắng tinh nhồi với đường với nước hoa bưởi thơm lừng, đúc trong khuôn gỗ thường hình tròn, nhân làm bằng hột sen hay đậu xanh tán nhuyễn là chiếc bánh Trung Thu mang sắc thái Việt Nam hơn bánh nướng.
Theo khẩu vị Hà Nội, bánh dẻo thường ngọt sắc hơn trong Nam.
Đường kính của bánh thường rất lớn, có thể gần bằng chiếc mâm, để thể hiện hình dáng của vầng trăng thu lớn và trắng ngà trong biểu tượng của ý nghĩa “đoàn viên của gia đình” và nhất ià tình yêu khắng khít vợ chồng.
Bánh nướng Trung Thu hầu như vẫn trong bí quyết chế biến của dân Việt gốc Hoa.
Hình dáng bánh nướng thường vuông hay tròn, thường đựng vừa khít bốn chiếc trong một cái hộp giấy vuông.
Vỏ bánh làm bằng bột mì dậy men trộn vói trứng gà và chút rượu, nhân thì có thể thuần tuý thường làm bằng đậu xanh, khoai môn, hay hột sen tán nhuyễn bao bọc lấy một hay hai tròng đỏ trứng vịt muối có mùi vani hay sầu riêng hoặc là nhân thập cẩm gồm đủ thứ như dăm bông, thịt quay, vi yến, dừa, hạt dưa, vỏ quít, ngó sen, bí đao.
Một điểm cần biết là những chiếc bánh nướng Trung Hoa mà chúng ta quen ăn ở Việt Nam hay mua tại những tiệm Hoa đại đa số ở hải ngoại chính là thoát thai từ kiểu thức và khẩu vị của vùng Quảng Đông bên Trung Hoa với những đặc điểm sau: vỏ bánh có vị ngọt, bánh đúc từ khuôn gỗ, còn về nhân thì thập cẩm bao gồm đến 200 loại vô cùng phong phú.
4. Cách thưởng thức
Về mặt thưởng thức, bánh nướng mới ra lò ăn không ngon vì vỏ khô cứng mà phải chờ ba ngày sau, mỡ trong lớp nhân mới rịn ra làm bánh ăn mềm và thơm ngon.
Mặc dù người ta quảng cáo bánh có thể bảo quản lâu đến một tháng nhưng điều kiện khí hậu bình thường thì bánh chỉ nên ăn trong vòng hai tuần là tối đa nếu không thì ngửi khét dầu và làm sình bụng.
III. KẾT BÀI
Có chiếc bánh trung thu vào ngày Tết Trung thu thể hiện sự sum họp, hạnh phúc gia đình.
Chiếc bánh dẻo tròn, gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Tết Trung thu, phải nói đến chiếc bánh nướng, bánh dẻo kì diệu, cũng giống như chiếc bánh chưng trong những ngày Tết Nguyên Đán.
Bánh dẻo có hai phần: Phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm. Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm. Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân…
Nhân của bánh dẻo chay tịnh, nặng mùi hương đồng gió nội. Mãi về sau này, người ta mới phá cách cho thêm lạp sường vào. Nhân bánh nướng được cải tiến với nhiều sáng kiến. Mỗi hiệu bánh đều muốn có phần độc đáo của mình. Vả lại bánh nướng là “em” của bánh dẻo. Nó sinh sau đẻ muộn, mới xuất hiện từ năm 1930 nên lắm trò hơn. Ngoài mứt bí, hạt dưa, nhân bánh nướng còn có thêm cả ruột quả trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sường…gọi là nhân thập cẩm… Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, dừa sợi, hạt sen.
Bánh dẻo trắng trong, bánh nướng có màu vàng sẫm và vàng nhạt do chỗ nướng già, nướng non tạo ra, thường có đường kính chừng 7-8cm, chiều dày 2,5-3cm. Cứ 4 cái bánh được xếp chồng lên nhau là một cân. Ngoài giấy bọc có in nhãn hiệu đẹp và nhiều màu sắc. Đặc biệt là các hiệu người Hoa rất chú ý in nhãn hiệu thật nổi. Nhiều nhà còn đặt làm những chiếc bánh dẻo đặc biệt to bằng chiếc đĩa tây hoặc gần bằng cái mâm, trên có hình mặt trăng tròn, lưỡng long tranh châu, song phượng…
Nghĩa là người thợ làm cả cái việc tạo hình trên chiếc bánh. Bánh dẻo, bánh nướng Trung thu nói lên cái tài hoa của người thợ. Ngay cả ở các hiệu lớn của người Hoa trước đây, thợ Việt Nam cũng chiếm 70-90%. Hằng năm, cứ đến gần Tết Trung thu là các hiệu lại rộn rã cho người về các vùng lân cận, đón các phường thợ làm bánh nổi tiếng ra Hà Nội vào mùa. Các chủ hiệu ưu ái họ lắm, mỗi người được chủ hiệu phát một áo choàng trắng, mũ trắng và một đôi guốc mộc. Các cửa hàng lấy làm hãnh diện đã mời được ông Toán làng Bưởi, các ông Ba Thiện xã Cào ở tỉnh Sờn, ông Quế Xuân Tảo Sở, hoặc ông Lý Bắc Ninh.
Tết Trung thu, nhà nào cũng phải có bánh dẻo. Người nghèo cũng cố mua cho con cái một vài cái bánh dẻo. Không có bánh dẻo tức là không có Tết. Người ta làm quà cho ân nhân, khách quý, bạn thân…bằng bánh Trung thu. Chiếc bánh dẻo tròn, gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Vào những năm 1989 – 1990, những chiếc bánh Trung thu từng tham dự các Hội chợ quốc tế ở đức và Bun-ga-ri, gây sự chú ý đặc biệt và được tặng Huy chương độc đáo. Chúng mang mùi vị, thanh sắc Việt Nam, kèm theo cái nghệ thuật thưởng thức miếng ngon tinh tế, thanh nhã. Nó cũng là biểu tượng văn hóa của Việt Nam. Chiếc bánh Trung thu sẽ trường tồn. Chúng ta mong sao có thêm nhiều người thợ tài hoa kế tục nghệ thuật làm bánh Trung thu truyền thống, không những cho mọi người mà còn cho khách nước ngoài thưởng thức mỗi khi đến với mùa Tết Trung thu.
(Theo Lý Khắc Cung, Hà Nội Văn hóa và Phong tục, 2014)
>> Xem thêm Đề 26: Thuyết minh một món ăn của người Việt Nam (Bún thang) tại đây.
Tags:Bánh trung thu · Văn chọn lọc 9
|
Đề 25 – Thuyết minh một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam(Bánh trung thu) – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Thuyết minh về bánh trung thu
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Một loại bánh không thể nào thiếu được trong ngày Tết Trung thu đó chính là chiếc bánh trung thu.
Một loại bánh chất chứa hạnh phúc đầm ấm của gia đình.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Có nguồn gốc từ Trung Quốc và được gọi là bánh Nguyệt.
Theo sử sách ghi chép từ thời Ân, Chu ở vùng Triết Giang đã có loại bánh kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng gọi là bánh Thái Sư. Bánh này có thể coi như là thuỷ tổ của bánh Trung Thu.
Vào thời Tây Hán, Trương Thiên đi Tây Vực mang về Trung Quốc hạt Mè, hạt Hồ đào, dưa hấu làm nguyên liệu cho bánh Nguyệt thêm dồi dào.
Thời đó hồ đào là nguyên liệu chính của bánh Nguyệt nên còn gọi là bánh hồ đào.
Đến thời Đường trong dân gian có những ngưòi hành nghề làm bánh, ở thành phố Trường An có những tiệm bánh trứ danh.
Tương truyền có một đêm Trung Thu Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi ăn bánh hồ đào, thuởng ngoạn trăng rằm, Đường Huyền Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt tên là Bánh Nguyệt cho thơ mộng hơn, nên từ đó về sau thứ bánh này có tên là bánh Nguyệt (tên người Trung Quốc đặt) và trở thành bánh Trung Thu khi du nhập vào Việt Nam.
2. Cách làm bánh
Bánh có hai phần: Phần áo và phần nhân.
Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang.
Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm.
Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm.
Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh.
Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu.Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân…
Bánh dẻo làm bằng bột nếp trắng tinh nhồi với đường với nước hoa bưởi thơm lừng, đúc trong khuôn gỗ thường hình tròn, nhân làm bằng hột sen hay đậu xanh tán nhuyễn là chiếc bánh Trung Thu mang sắc thái Việt Nam hơn bánh nướng.
Theo khẩu vị Hà Nội, bánh dẻo thường ngọt sắc hơn trong Nam.
Đường kính của bánh thường rất lớn, có thể gần bằng chiếc mâm, để thể hiện hình dáng của vầng trăng thu lớn và trắng ngà trong biểu tượng của ý nghĩa “đoàn viên của gia đình” và nhất ià tình yêu khắng khít vợ chồng.
Bánh nướng Trung Thu hầu như vẫn trong bí quyết chế biến của dân Việt gốc Hoa.
Hình dáng bánh nướng thường vuông hay tròn, thường đựng vừa khít bốn chiếc trong một cái hộp giấy vuông.
Vỏ bánh làm bằng bột mì dậy men trộn vói trứng gà và chút rượu, nhân thì có thể thuần tuý thường làm bằng đậu xanh, khoai môn, hay hột sen tán nhuyễn bao bọc lấy một hay hai tròng đỏ trứng vịt muối có mùi vani hay sầu riêng hoặc là nhân thập cẩm gồm đủ thứ như dăm bông, thịt quay, vi yến, dừa, hạt dưa, vỏ quít, ngó sen, bí đao.
Một điểm cần biết là những chiếc bánh nướng Trung Hoa mà chúng ta quen ăn ở Việt Nam hay mua tại những tiệm Hoa đại đa số ở hải ngoại chính là thoát thai từ kiểu thức và khẩu vị của vùng Quảng Đông bên Trung Hoa với những đặc điểm sau: vỏ bánh có vị ngọt, bánh đúc từ khuôn gỗ, còn về nhân thì thập cẩm bao gồm đến 200 loại vô cùng phong phú.
4. Cách thưởng thức
Về mặt thưởng thức, bánh nướng mới ra lò ăn không ngon vì vỏ khô cứng mà phải chờ ba ngày sau, mỡ trong lớp nhân mới rịn ra làm bánh ăn mềm và thơm ngon.
Mặc dù người ta quảng cáo bánh có thể bảo quản lâu đến một tháng nhưng điều kiện khí hậu bình thường thì bánh chỉ nên ăn trong vòng hai tuần là tối đa nếu không thì ngửi khét dầu và làm sình bụng.
III. KẾT BÀI
Có chiếc bánh trung thu vào ngày Tết Trung thu thể hiện sự sum họp, hạnh phúc gia đình.
Chiếc bánh dẻo tròn, gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Tết Trung thu, phải nói đến chiếc bánh nướng, bánh dẻo kì diệu, cũng giống như chiếc bánh chưng trong những ngày Tết Nguyên Đán.
Bánh dẻo có hai phần: Phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm. Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm. Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân…
Nhân của bánh dẻo chay tịnh, nặng mùi hương đồng gió nội. Mãi về sau này, người ta mới phá cách cho thêm lạp sường vào. Nhân bánh nướng được cải tiến với nhiều sáng kiến. Mỗi hiệu bánh đều muốn có phần độc đáo của mình. Vả lại bánh nướng là “em” của bánh dẻo. Nó sinh sau đẻ muộn, mới xuất hiện từ năm 1930 nên lắm trò hơn. Ngoài mứt bí, hạt dưa, nhân bánh nướng còn có thêm cả ruột quả trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sường…gọi là nhân thập cẩm… Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, dừa sợi, hạt sen.
Bánh dẻo trắng trong, bánh nướng có màu vàng sẫm và vàng nhạt do chỗ nướng già, nướng non tạo ra, thường có đường kính chừng 7-8cm, chiều dày 2,5-3cm. Cứ 4 cái bánh được xếp chồng lên nhau là một cân. Ngoài giấy bọc có in nhãn hiệu đẹp và nhiều màu sắc. Đặc biệt là các hiệu người Hoa rất chú ý in nhãn hiệu thật nổi. Nhiều nhà còn đặt làm những chiếc bánh dẻo đặc biệt to bằng chiếc đĩa tây hoặc gần bằng cái mâm, trên có hình mặt trăng tròn, lưỡng long tranh châu, song phượng…
Nghĩa là người thợ làm cả cái việc tạo hình trên chiếc bánh. Bánh dẻo, bánh nướng Trung thu nói lên cái tài hoa của người thợ. Ngay cả ở các hiệu lớn của người Hoa trước đây, thợ Việt Nam cũng chiếm 70-90%. Hằng năm, cứ đến gần Tết Trung thu là các hiệu lại rộn rã cho người về các vùng lân cận, đón các phường thợ làm bánh nổi tiếng ra Hà Nội vào mùa. Các chủ hiệu ưu ái họ lắm, mỗi người được chủ hiệu phát một áo choàng trắng, mũ trắng và một đôi guốc mộc. Các cửa hàng lấy làm hãnh diện đã mời được ông Toán làng Bưởi, các ông Ba Thiện xã Cào ở tỉnh Sờn, ông Quế Xuân Tảo Sở, hoặc ông Lý Bắc Ninh.
Tết Trung thu, nhà nào cũng phải có bánh dẻo. Người nghèo cũng cố mua cho con cái một vài cái bánh dẻo. Không có bánh dẻo tức là không có Tết. Người ta làm quà cho ân nhân, khách quý, bạn thân…bằng bánh Trung thu. Chiếc bánh dẻo tròn, gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Vào những năm 1989 – 1990, những chiếc bánh Trung thu từng tham dự các Hội chợ quốc tế ở đức và Bun-ga-ri, gây sự chú ý đặc biệt và được tặng Huy chương độc đáo. Chúng mang mùi vị, thanh sắc Việt Nam, kèm theo cái nghệ thuật thưởng thức miếng ngon tinh tế, thanh nhã. Nó cũng là biểu tượng văn hóa của Việt Nam. Chiếc bánh Trung thu sẽ trường tồn. Chúng ta mong sao có thêm nhiều người thợ tài hoa kế tục nghệ thuật làm bánh Trung thu truyền thống, không những cho mọi người mà còn cho khách nước ngoài thưởng thức mỗi khi đến với mùa Tết Trung thu.
(Theo Lý Khắc Cung, Hà Nội Văn hóa và Phong tục, 2014)
>> Xem thêm Đề 26: Thuyết minh một món ăn của người Việt Nam (Bún thang) tại đây.
Tags:Bánh trung thu · Văn chọn lọc 9
|
Đề 25 –Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề bài luyện tập học sinh giỏi Tiếng Việt 5
1. Trong các câu ghép dưới đây, câu ghép nào biểu thị quan hệ tăng tiến giữa các vế câu:
a) Ông Đỗ Đình Thiện không những là chủ của một số nhà máy, tiệm buôn nổi tiếng mà ông còn là chủ của nhiều đồn điền rộng lớn.
b) Vì ông Thiện là một người nhiệt thành yêu nước nên ông đã dành sự trợ giúp to lớn cho Cách mạng.
c) Tuy ông Đỗ Đình Thiện hết lòng ủng hộ Cách mạng nhưng ông không hề đòi hỏi sự đền đáp nào.
2. Tìm cặp quan hệ từ thích hợp điền vào chỗ trống:
a) Ông Giang Văn Minh …là người có tài trí … ông còn là người có dũng khí, có lòng quả cảm.
b) Vĩ đại thần nhà Minh … không đạt được mục đích làm nhục sứ thần Việt Nam … viên quan này còn bị bẽ mặt trước vế đối lại cứng cỏi của ông Giang Văn Minh.
c) Sứ thần Giang Văn Minh … dùng mưu làm cho vua nhà Minh buộc phải tuyên bố bỏ lệ góp giỗ Liễu Thăng … ông còn giữ được danh dự và thể diện cho đất nước qua vế đối cứng cỏi, tràn đầy lòng tự hào dân tộc.
3. Nghĩ về nơi dòng sông chảy ra biển, trong bài Cửa sông, nhà thơ Quang Huy viết:
Cửa sông chẳng dứt cội nguồn
Lá xanh mỗi lần trôi xuống
Bỗng… nhớ một vùng núi non.
Em hãy chỉ rõ những hình ảnh nhân hoá được tác giả sử dụng trong khổ thơ trên và nêu ý nghĩa của những hình ảnh đó.
4. Tả một thứ đồ chơi của em (hoặc đồ vật dùng để vui chơi nơi công cộng mà em biết).
|
Topic 25 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Practice questions for excellent students in Vietnamese 5
1. Which of the following compound sentences represents a progressive relationship between clauses:
a) Mr. Do Dinh Thien is not only the owner of a number of famous factories and shops, but he is also the owner of many large plantations.
b) Because Mr. Thien was an enthusiastic patriot, he gave great support to the Revolution.
c) Although Mr. Do Dinh Thien wholeheartedly supported the Revolution, he did not ask for any compensation.
2. Find the appropriate pair of relative words to fill in the blanks:
a) Mr. Giang Van Minh ... is a talented person ... he is also a person with courage and courage.
b) The great mandarin of the Ming Dynasty... could not achieve his goal of humiliating the Vietnamese envoy... this official was also humiliated by Mr. Giang Van Minh's tough opposition.
c) Ambassador Giang Van Minh... used a trick to make the Ming king forced to announce the abolition of the commemoration of Lieu Thang's death anniversary... he also maintained the honor and face of the country through his tough opposition, filled with people's pride. clan.
3. Thinking about where the river flows into the sea, in the article River mouth, poet Quang Huy wrote:
The river mouth does not end at its source
Green leaves drift down each time
Suddenly... miss a mountainous area.
Please point out the personification images used by the author in the above poem and state the meaning of those images.
4. Describe one of your toys (or an object you know that is used for public play).
|
Đề 25: Cảm nhận về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 25: cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.
Bài làm
“Thơ là thu của đất trời, thu là thơ của lòng người”. Mùa thu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân muôn đời. Đó là một mùa thu vàng rực rỡ, tràn trề sức sống trong Mùa thu vàng của danh hoạ Lêvitan, là bức tranh thu nơi đồng bằng Bắc Bộ hiu hắt trong thơ Nguyễn Khuyến (chùm ba bài thơ thu), là những bước chuyển mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam vào những ngày thu trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi, là cái thu lạnh lẽo, “rét mướt” trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu… Cũng góp một gam màu dệt nên bức tranh thu tuyệt sắc ấy, Hữu Thỉnh mang đến cho ta một Sang thu mới mẻ, nhẹ nhàng mà sâu lắng, khai thác được những cung bậc tế vi của thời khắc giao mùa sang thu:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Sông được lúc dềnh dùng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám máy mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Vẫn còn bao nhêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Từ nhan đề của bài thơ, tác giả đã xác định cho người đọc một tâm thế để cảm nhận: thời điểm giao mùa “sang thu”. Đó không phải là những ngày chính thu, khi trời cao xanh ngắt những tầng mây lơ lửng, không phải là cuối thu khi chớm lạnh, “Đã nghe rét mướt luồn trong gió” (Xuân Diệu – Đây mùa thu tới). Sang thu là mới chớm thu, khi những dấu hiệu báo mùa về mới chỉ ở trạng thái “chớm”, nhẹ nhàng.
Bài thơ ngắn, thể thơ bốn chữ với nhịp thơ nhanh, ngôn ngữ thơ dung dị càng tô đậm hơn cảm xúc của nhà thơ được kí thác trong từng câu chữ. Dường như đó là những cung bậc cảm xúc tự lên tiếng, tự tìm cho nó cách thể hiện tốt nhất.
Dấu hiệu đầu tiên của mùa thu là hương ổi:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se…
Không đi theo lối mòn của những công thức ước lệ quen thuộc trong thơ ca trung đại là mùa thu gắn với lá ngô đồng (Ngô đồng nhất diệp lạc – Thiên hạ tận tri thu); hay với rừng phong (Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san), Hữu Thỉnh nắm bắt khoảnh khắc giao mùa ở một tín hiệu mới mẻ: hương ổi. Nó gần gũi lắm với làng quê Việt Nam. Sau khi chắt nắng từ những ngày hè nóng cháy, những ngày thu sang, ổi bắt đầu chín và toả hương. Khắp đường làng, ngõ xóm tràn ngập hương ổi thom. Ở đây, Hữu Thỉnh để người đọc tự cảm nhận mà không hề đưa ra một định ngữ đi kèm để định tính cho nó. Nhưng dường như chính điều đó lại làm cho cảnh sắc có chiều sâu và bức tranh giao mùa hiện lên mênh mang hơn.
Từ khứu giác, cảm giác của nhà thơ nhanh chóng chuyển sang thị giác để ngắm nhìn những làn sương mỏng manh “chùng chình qua ngõ”. Chỉ một từ “chùng chình” đủ để làm cho hình ảnh sương trở nên sinh động, có hồn. Nó cho ta cảm nhận được cả không gian tràn ngập sương mờ ẩm ướt của buổi giao mùa thu sang. Làn sương mỏng manh, như còn lưu luyến, vương vấn gì hay đang muốn nhắc nhớ mọi người thời điểm giao mùa đã tới.
Dường như những sự vật đó đã gọi mùa về, để rồi nhà thơ phải thốt lên:
Hình như thu đã về.
Một cảm giác mơ hồ trong hai chữ “hình như”, một sự gượng nhẹ, sợ điều gì đó mỏng manh sẽ vỡ oà. Lắng lại sau giây phút ngỡ ngàng, nhà thơ tiếp tục khám phá những biểu hiện của mùa thu:
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Từ những đặc trưng riêng của mùa thu, nghiêng về cảm giác, đến đây đã chuyển sang những đổi thay của thiên nhiên dưới tác động của ngày mùa sang. Dòng sông, cánh chim hay đám mây không tô điểm cho cảnh thu bởi những gam màu đặc trưng mà đánh dấu ngày thu đang đến qua những “đặc trưng thu” của mình. Không còn những ngày hè mưa đổ, sông đục ngầu, cuộn sóng dữ dội mà đã “dềnh dàng”, bình lặng, trôi êm đềm theo làn gió mùa thu trong lành, hiu hắt, nhẹ nhàng. Trái ngược với sự bình thản của dòng sông là sự “vội vã” của bầy chim. Mùa thu sang báo hiệu những ngày đông giá sắp sửa, chúng phải nhanh chóng di trú về phương nam tránh rét. Trong cái “vội vã” của bầy chim như chứa chở cả cái nắng nóng của mùa hè phương Bắc vào miền ấm áp. “Đám mây mùa hạ” kia như cũng hoà cùng sự đổi thay của đất trời để “Vắt nửa mình sang thu”. Biện pháp nhân hoá độc đáo mang đến cho người đọc những dự cảm lí thú. Một sự liên tưởng mới mẻ của một trí tưởng tượng độc đáo: đám mây như chiếc cầu nối hai mùa, còn dang dở mùa hạ và bắt đầu chuyển mình sang thu. Hành động “Vắt nửa mình sang thu” của đám mây có giống tâm trạng “chùng chình” của làn sương, có khác hành động “vội vã” của bầy chim hay sự “dềnh dàng” của dòng sông? Tất cả chúng dường như đều có điểm chung là trạng thái giao mùa. Thế mới biết nhà thơ phải có tài quan sát và tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết mới có thể cảm nhận được những biến chuyển tế vi trong từng sự vật như vậy. Nhà thơ thấu cảm sự vật, miêu tả chính xác trạng thái và thổi hồn vào tạo vật, mang đến cho chúng những cảm giác rất người.
Những biểu hiện của mùa thu tiếp tục được khắc hoạ rõ ràng hơn ở khổ thơ cuối:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Thu đến, vạn vật vẫn còn những đặc trưng của mùa hạ nhưng mức độ đã giảm dần.“Vẫn còn bao nhiêu nắng” – cái nắng nhẹ nhàng, dịu dàng của mùa thu. Câu thơ giản dị như lời nói thường dung dị, tự nhiên, như bước chuyển mùa âm thầm, lặng lẽ… Những cơn mưa bất chợt đã “vơi dần” theo ngày hạ đang trôi qua. Hàng cây đã quá quen với mưa dông, bão nổi, được nhà thơ gọi một cách hình ảnh là “hàng cây đứng tuổi”. Đến đày, người đọc như có những cảm nhận mới về câu thơ. Không chỉ còn là tả thực về thiên nhiên, tạo vật mà còn bao hàm ý nghĩa nhân sinh sâu xa. Nắng, mưa, sấm, chớp… hay là những sóng gió của cuộc đời và “hàng cây đứng tuổi” hay là con người từng trải qua bao biến động, ba đào, không còn “bất ngờ” trước những vang động của đời? Chính nguồn mạch liên tưởng ấy mang lại cho thiên nhiên vẻ đẹp sâu lắng của cõi nhân sinh.
TRỊNH SAO MAI
Lời nhân xét:
– Bài viết thực sự gây ấn tượng với lối viết nhẹ nhàng mà sâu lắng. Người viết đã nắm bắt chính xác cái hồn của Sang thu. Lối phân tích chan chứa tình cảm nhưng vẫn lô gích, mạch lạc.
– Người viết đã bám sát vào ngôn từ giàu tính biểu đạt, các hình ảnh thơ đặc sắc như: hương ổi, dòng sông, đám mây và cảm nhận được sự tinh tế trong cách dùng từ của tác giả: “Từ “bỗng” đầu câu thơ như đặt cả một sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Có cảm tưởng như thi nhân đã vô tình với thiên nhiên, để rồi hương ổi nhẹ nhàng lan toả trong gió đã lên tiếng gọi, thức động tâm hồn nghệ sĩ đón nhận và rung cảm trước bước đi của mùa. Từ “phá” được sử dụng thực sự đắc địa. Hương ổi được nhân hoá, biết tự mình mang hương sắc hoà nhập vào thiên nhiên, đánh dấu bản ngã của mình, “phả vào trong gió se” hương thơm nồng nàn để báo hiệu một mùa mới đã sang.
|
Đề 25: Cảm nhận về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 25: cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.
Bài làm
“Thơ là thu của đất trời, thu là thơ của lòng người”. Mùa thu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân muôn đời. Đó là một mùa thu vàng rực rỡ, tràn trề sức sống trong Mùa thu vàng của danh hoạ Lêvitan, là bức tranh thu nơi đồng bằng Bắc Bộ hiu hắt trong thơ Nguyễn Khuyến (chùm ba bài thơ thu), là những bước chuyển mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam vào những ngày thu trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi, là cái thu lạnh lẽo, “rét mướt” trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu… Cũng góp một gam màu dệt nên bức tranh thu tuyệt sắc ấy, Hữu Thỉnh mang đến cho ta một Sang thu mới mẻ, nhẹ nhàng mà sâu lắng, khai thác được những cung bậc tế vi của thời khắc giao mùa sang thu:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Sông được lúc dềnh dùng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám máy mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Vẫn còn bao nhêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Từ nhan đề của bài thơ, tác giả đã xác định cho người đọc một tâm thế để cảm nhận: thời điểm giao mùa “sang thu”. Đó không phải là những ngày chính thu, khi trời cao xanh ngắt những tầng mây lơ lửng, không phải là cuối thu khi chớm lạnh, “Đã nghe rét mướt luồn trong gió” (Xuân Diệu – Đây mùa thu tới). Sang thu là mới chớm thu, khi những dấu hiệu báo mùa về mới chỉ ở trạng thái “chớm”, nhẹ nhàng.
Bài thơ ngắn, thể thơ bốn chữ với nhịp thơ nhanh, ngôn ngữ thơ dung dị càng tô đậm hơn cảm xúc của nhà thơ được kí thác trong từng câu chữ. Dường như đó là những cung bậc cảm xúc tự lên tiếng, tự tìm cho nó cách thể hiện tốt nhất.
Dấu hiệu đầu tiên của mùa thu là hương ổi:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se…
Không đi theo lối mòn của những công thức ước lệ quen thuộc trong thơ ca trung đại là mùa thu gắn với lá ngô đồng (Ngô đồng nhất diệp lạc – Thiên hạ tận tri thu); hay với rừng phong (Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san), Hữu Thỉnh nắm bắt khoảnh khắc giao mùa ở một tín hiệu mới mẻ: hương ổi. Nó gần gũi lắm với làng quê Việt Nam. Sau khi chắt nắng từ những ngày hè nóng cháy, những ngày thu sang, ổi bắt đầu chín và toả hương. Khắp đường làng, ngõ xóm tràn ngập hương ổi thom. Ở đây, Hữu Thỉnh để người đọc tự cảm nhận mà không hề đưa ra một định ngữ đi kèm để định tính cho nó. Nhưng dường như chính điều đó lại làm cho cảnh sắc có chiều sâu và bức tranh giao mùa hiện lên mênh mang hơn.
Từ khứu giác, cảm giác của nhà thơ nhanh chóng chuyển sang thị giác để ngắm nhìn những làn sương mỏng manh “chùng chình qua ngõ”. Chỉ một từ “chùng chình” đủ để làm cho hình ảnh sương trở nên sinh động, có hồn. Nó cho ta cảm nhận được cả không gian tràn ngập sương mờ ẩm ướt của buổi giao mùa thu sang. Làn sương mỏng manh, như còn lưu luyến, vương vấn gì hay đang muốn nhắc nhớ mọi người thời điểm giao mùa đã tới.
Dường như những sự vật đó đã gọi mùa về, để rồi nhà thơ phải thốt lên:
Hình như thu đã về.
Một cảm giác mơ hồ trong hai chữ “hình như”, một sự gượng nhẹ, sợ điều gì đó mỏng manh sẽ vỡ oà. Lắng lại sau giây phút ngỡ ngàng, nhà thơ tiếp tục khám phá những biểu hiện của mùa thu:
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Từ những đặc trưng riêng của mùa thu, nghiêng về cảm giác, đến đây đã chuyển sang những đổi thay của thiên nhiên dưới tác động của ngày mùa sang. Dòng sông, cánh chim hay đám mây không tô điểm cho cảnh thu bởi những gam màu đặc trưng mà đánh dấu ngày thu đang đến qua những “đặc trưng thu” của mình. Không còn những ngày hè mưa đổ, sông đục ngầu, cuộn sóng dữ dội mà đã “dềnh dàng”, bình lặng, trôi êm đềm theo làn gió mùa thu trong lành, hiu hắt, nhẹ nhàng. Trái ngược với sự bình thản của dòng sông là sự “vội vã” của bầy chim. Mùa thu sang báo hiệu những ngày đông giá sắp sửa, chúng phải nhanh chóng di trú về phương nam tránh rét. Trong cái “vội vã” của bầy chim như chứa chở cả cái nắng nóng của mùa hè phương Bắc vào miền ấm áp. “Đám mây mùa hạ” kia như cũng hoà cùng sự đổi thay của đất trời để “Vắt nửa mình sang thu”. Biện pháp nhân hoá độc đáo mang đến cho người đọc những dự cảm lí thú. Một sự liên tưởng mới mẻ của một trí tưởng tượng độc đáo: đám mây như chiếc cầu nối hai mùa, còn dang dở mùa hạ và bắt đầu chuyển mình sang thu. Hành động “Vắt nửa mình sang thu” của đám mây có giống tâm trạng “chùng chình” của làn sương, có khác hành động “vội vã” của bầy chim hay sự “dềnh dàng” của dòng sông? Tất cả chúng dường như đều có điểm chung là trạng thái giao mùa. Thế mới biết nhà thơ phải có tài quan sát và tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết mới có thể cảm nhận được những biến chuyển tế vi trong từng sự vật như vậy. Nhà thơ thấu cảm sự vật, miêu tả chính xác trạng thái và thổi hồn vào tạo vật, mang đến cho chúng những cảm giác rất người.
Những biểu hiện của mùa thu tiếp tục được khắc hoạ rõ ràng hơn ở khổ thơ cuối:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Thu đến, vạn vật vẫn còn những đặc trưng của mùa hạ nhưng mức độ đã giảm dần.“Vẫn còn bao nhiêu nắng” – cái nắng nhẹ nhàng, dịu dàng của mùa thu. Câu thơ giản dị như lời nói thường dung dị, tự nhiên, như bước chuyển mùa âm thầm, lặng lẽ… Những cơn mưa bất chợt đã “vơi dần” theo ngày hạ đang trôi qua. Hàng cây đã quá quen với mưa dông, bão nổi, được nhà thơ gọi một cách hình ảnh là “hàng cây đứng tuổi”. Đến đày, người đọc như có những cảm nhận mới về câu thơ. Không chỉ còn là tả thực về thiên nhiên, tạo vật mà còn bao hàm ý nghĩa nhân sinh sâu xa. Nắng, mưa, sấm, chớp… hay là những sóng gió của cuộc đời và “hàng cây đứng tuổi” hay là con người từng trải qua bao biến động, ba đào, không còn “bất ngờ” trước những vang động của đời? Chính nguồn mạch liên tưởng ấy mang lại cho thiên nhiên vẻ đẹp sâu lắng của cõi nhân sinh.
TRỊNH SAO MAI
Lời nhân xét:
– Bài viết thực sự gây ấn tượng với lối viết nhẹ nhàng mà sâu lắng. Người viết đã nắm bắt chính xác cái hồn của Sang thu. Lối phân tích chan chứa tình cảm nhưng vẫn lô gích, mạch lạc.
– Người viết đã bám sát vào ngôn từ giàu tính biểu đạt, các hình ảnh thơ đặc sắc như: hương ổi, dòng sông, đám mây và cảm nhận được sự tinh tế trong cách dùng từ của tác giả: “Từ “bỗng” đầu câu thơ như đặt cả một sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Có cảm tưởng như thi nhân đã vô tình với thiên nhiên, để rồi hương ổi nhẹ nhàng lan toả trong gió đã lên tiếng gọi, thức động tâm hồn nghệ sĩ đón nhận và rung cảm trước bước đi của mùa. Từ “phá” được sử dụng thực sự đắc địa. Hương ổi được nhân hoá, biết tự mình mang hương sắc hoà nhập vào thiên nhiên, đánh dấu bản ngã của mình, “phả vào trong gió se” hương thơm nồng nàn để báo hiệu một mùa mới đã sang.
|
Đề 26 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề tả cây hoa có những vẻ đẹp em thích
1. Xác định các vế câu, cặp từ hô ứng nôi các vế câu trong từng câu ghép dưới đây:
a) Bích Vân vừa về đến nhà, Hồng Hạnh đã gọi đi ngay.
b) Tôi chưa đi đến lớp, các bạn đã đến đông đủ rồi.
c) Gà mẹ đi đến đâu, gà con đi theo đấy.
d) Tôi bảo sao thì nó làm vậy.
2. Tìm cặp từ hô ứng thích hợp điền vào chỗ trống:
a) Gió … to, con thuyền … lướt nhanh trên mặt biển.
b) Đám mây bay đến cả một vùng rộng lớn rợp mát đến …
c) Trời … tối hẳn, vầng trăng tròn vành vạnh … hiện ra.
d) Thuyền … cập bến, bọn trẻ … xúm lại.
3. Trong bài Nhớ Việt Bắc (Tiếng Việt 3, tập một), nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi được nhà thơ Tố Hữu gợi tả như sau:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang…
Em hãy cho biết: Người cán bộ về xuôi nhớ những gì ở chiến khu Việt Bắc? Nỗi nhớ ấy bộc lộ tình cảm gì ở người cán bộ?
|
Topic 26 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Describe the flower tree that has the beauty you like
1. Identify the clauses and pairs of words corresponding to clauses in each compound sentence below:
a) As soon as Bich Van arrived home, Hong Hanh immediately called.
b) I haven't gone to class yet, everyone has already arrived.
c) Wherever the mother hen goes, the chicks follow.
d) Whatever I say, he will do it.
2. Find suitable pairs of words to fill in the blanks:
a) The wind... is strong, the boat... glides quickly across the sea.
b) The cloud flew to a large, cool area...
c) The sky... was completely dark, the full moon... appeared.
d) The boat... arrived at the dock, the children... gathered around.
3. In the article Remembering Viet Bac (Vietnamese 3, volume one), the nostalgia of the cadre returning to the lowlands is described by poet To Huu as follows:
When I come back, do you miss me?
I about, I remember the flowers to him.
Green forest with bright red banana flowers
High Pass waist tuck knife sun light.
On spring day, apricots bloom white in the forest
Remember the person who knitted the hat and polished each thread...
Please tell me: What do officers who return to Vietnam remember about the Viet Bac war zone? What feelings does that nostalgia reveal in the officer?
|
Đề 26: Tâm sự của người cha đối với con trong bài thơ Nói với con của Y Phương – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 26: Cảm nhận và suy nghĩ của em về tâm sự của người cha đối với con trong bài thơ Nói với con của Y Phương.
Hướng dẫn phân tích
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha
Trong mỗi gia đình, nếu mẹ là người giữ lửa, giữ sự ấm áp cho mái nhà thì cha là trụ cột của gia đình. Bề ngoài, cha thường nghiêm khắc nhưng ẩn chứa bên trong là cả một trái tim bao la, thương yêu các con hết mực. Cha dạy con những điều lớn lao trong cuộc sống, là bờ vai vững chắc để các con nương dựa. Có biết bao áng văn thơ viết về tình cảm cha con. Y Phương – nhà thơ dân tộc Tày cũng mang đến cho thi đàn một tiếng thơ giản dị, hồn nhiên mà không kém phẩn sâu sắc về tình cha con ấm áp qua bài thơ Nói với con.
Tác phẩm dược viết theo thể thơ tự do, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị. Đặc biệt, bài thơ không đưa ra những chân lí to tát mà là lời tâm sự chân thành của một người cha dành cho đứa con yêu quý, dạy con hãy biết yêu thương, quý trọng, phát huy truyền thống của quê hương. Qua đó, tình cảm cha con hiện lên thật ấm áp và cao cả biết bao.
Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu một khung cảnh gia đình, quê hương thật đầm ấm, yên vui:
Chân phải bước tới cha
Chần trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Câu thơ được diễn đạt tự nhiên tái hiện không khí gia đình rộn rã tiếng cười. Đó là tiếng cười của con trẻ bi bô tập nói, chập chững tập đi ; là niềm hạnh phúc rạng ngời của mẹ cha khi thấy con mình dần khôn lớn. Trong bốn câu thợ, tác giả sử dụng bốn từ “bước”. Đó là bước chân của đứa con thơ đang tập đi, và đó cũng là bước chân của con đang dần bước vào cuộc đời rộng lớn. Nếu như ở những câu thơ đầu tiên, người con được sống trong vòng tay ấm áp, dìu dắt của mẹ cha thì đến những vần thơ tiếp theo, đứa con ấy còn được nuôi dưỡng bởi cái nôi lớn hơn: cái nôi quê hương, “đồng mình”:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken cảu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
“Người đồng mình ” – cách nói sao mà giản dị, gần gũi. Người cha muốn đứa con bé nhỏ hiểu về sự chân chất, mộc mạc của người dân quê mình. Đó là những con người cần cù, chăm chỉ làm lụng (“Đan lờ cài nan hoa”). Nhưng bên cạnh đó họ còn có một tâm hồn rộng mở, tràn đầy tinh thần lạc quan (“vách nhà ken câu hát”). Động từ “ken” được sử dụng thật tự nhiên thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người “đồng mình”. Hình ảnh giàu sức ẩn dụ “Con đường cho những tấm lòng” thể hiện cuộc sống gắn bó, thấm đượm tình yêu thương, san sẻ của đồng bào. Với lối nói mộc mạc, chất phác, người cha giúp con cảm nhận được không khí ấm áp, hạnh phúc, yêu thương, nồng đượm của gia đình, quê hương mà từ đó đứa con được sinh ra, nuôi dưỡng, trưởng thành.
Trong mạch nguồn tâm sự, người cha còn cho con hiểu thêm về truyền thống đáng tự hào của “người đồng mình”, của quê hương, bản làng:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Nhà thơ đã đưa vào thi phẩm cách đo đếm của người dân quê mình khiến cho lời thơ mang đậm phong vị dân tộc, giản dị mà sâu sắc biết bao: “Cao đo nôi buồn – Xa nuôi chí lớn”. Tác giả lấy khoảng cách cụ thể (cao, xa) để đo những đại lượng vô hình (nỗi buồn, chí lớn) từ đó người cha muốn con hiểu rằng: người đồng mình sống thật sâu sắc và có ý chí, nghị lực mạnh mẽ ; người đồng mình có một trái tim ấm áp và một nghị lực phi thường. Từ đó, người cha muốn hướng người con đến vấn đề sâu xa hơn – vấn đề lẽ sống:
Sông trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Y Phương không phải là nhà thơ duy nhất đưa lẽ sống vào thơ. Đã có biết bao nhà thơ, nghệ sĩ viết về vấn đề này. Nhà thơ Tố Hữu đã viết vể lẽ sống “cho – nhận” ở đời (“Sông là cho đâu chi nhận riêng mình”); nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua ca từ đã đề cập đến lẽ sống yêu thương (“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”) Đó đều là những lẽ sống cao thượng, đẹp đẽ. Nhà thơ dân tộc Tày Y Phương qua cách nói “thô sơ” mà sâu sắc ý tình đã đem đến bài học: sống phải có nghị lực. Ông xây dựng nên một loạt các hình ảnh gợi sự khó khăn, vất vả: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” nhưng dường như cuộc sống càng khó khăn bao nhiêu thì con người càng phải vươn lên không ngừng, đấu tranh vượt qua nó. Cụm từ “không chẽ” được lặp lại hai lần nhằm khẳng định ý chí mạnh mẽ của con người. Người cha muốn dạy con lẽ sống có ý chí mạnh mẽ: “Sống như sông như suối – Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực nhọc”. Đây thực sự là điều cần thiết cho mỗi con người khi bước chân vào đường đời lắm chông gai, nhọc nhằn bởi lẽ “đường đi khó không phải vì ngăn sông cách núi mà vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Ngựời đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Sự giản đơn bề ngoài “thô sơ da thịt” như càng làm tăng thêm sức mạnh niềm tin, ý chí bên trong mỗi con người. Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực (chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi) vừa mang nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người cha muốn nói với con: chính người dân quê mình đã tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương giàu đẹp. Câu thơ ngầm chứa niềm tự hào, kiêu hãnh. Cha đã nhắc nhở, chỉ dạy cho con về phẩm chất, phong tục, truyền thống cao quý của quê hương mình. Đố là tình yêu thiêng liêng cần có trong bản thân mỗi người.
Bài thơ khép lại bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với bao niềm hi vọng của cha đặt vào đứa con yêu:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con
Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường” có một thứ quý giá hơn mọi thứ trên đời đó là ý chí, nghị lực, truyền thống của quê hương. Lời dặn ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương. Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con.
THỦY HÀ
Lời nhận xét:
– Bài viết đã tạo ấn tượng cho người đọc ngay từ phần mở bùi rất tự nhiên mà lôi cuốn với những trích dẫn, liên hệ phù hợp. Người viết đã cảm nhận chiều sâu trong lời tâm sự của người cha với con để thấy tình cảm đậm sâu của cha dành cho con. Đặc biệt, Thủy Hà nắm bắt được phong cách thơ mang âm hưởng dân tộc, lời lẽ giản dị, dễ hiểu mà ý tứ sâu xa: “Nhà thơ đã đưa vào thi phẩm cách đo đếm của người dân quê mình khiến cho lời thơ đậm phong vị dân tộc, giản di mà sân sắc biết bao: “Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn”. Tác giả lấy khoảng cách cụ thể (cao, xa) để đo những đại lượng vô hình (nỗi buồn, chí lớn) từ đó người cha muốn con hiểu rằng: người đồng mình sống thật sâu sắc và có ý chí, nghị lực mạnh mẽ ; người đồng mình có một trái tim luôn ấm áp và một nghi lực phi thường”.
– Bài viết có sự liên hệ, so sánh phong phú, sâu sắc so sánh lẽ sống trong thơ của Y Phương với thơ của Tố Hữu, nhạc Trịnh Công Sơn.
Tags:hot
|
Đề 26: Tâm sự của người cha đối với con trong bài thơ Nói với con của Y Phương – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 26: Cảm nhận và suy nghĩ của em về tâm sự của người cha đối với con trong bài thơ Nói với con của Y Phương.
Hướng dẫn phân tích
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha
Trong mỗi gia đình, nếu mẹ là người giữ lửa, giữ sự ấm áp cho mái nhà thì cha là trụ cột của gia đình. Bề ngoài, cha thường nghiêm khắc nhưng ẩn chứa bên trong là cả một trái tim bao la, thương yêu các con hết mực. Cha dạy con những điều lớn lao trong cuộc sống, là bờ vai vững chắc để các con nương dựa. Có biết bao áng văn thơ viết về tình cảm cha con. Y Phương – nhà thơ dân tộc Tày cũng mang đến cho thi đàn một tiếng thơ giản dị, hồn nhiên mà không kém phẩn sâu sắc về tình cha con ấm áp qua bài thơ Nói với con.
Tác phẩm dược viết theo thể thơ tự do, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị. Đặc biệt, bài thơ không đưa ra những chân lí to tát mà là lời tâm sự chân thành của một người cha dành cho đứa con yêu quý, dạy con hãy biết yêu thương, quý trọng, phát huy truyền thống của quê hương. Qua đó, tình cảm cha con hiện lên thật ấm áp và cao cả biết bao.
Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu một khung cảnh gia đình, quê hương thật đầm ấm, yên vui:
Chân phải bước tới cha
Chần trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Câu thơ được diễn đạt tự nhiên tái hiện không khí gia đình rộn rã tiếng cười. Đó là tiếng cười của con trẻ bi bô tập nói, chập chững tập đi ; là niềm hạnh phúc rạng ngời của mẹ cha khi thấy con mình dần khôn lớn. Trong bốn câu thợ, tác giả sử dụng bốn từ “bước”. Đó là bước chân của đứa con thơ đang tập đi, và đó cũng là bước chân của con đang dần bước vào cuộc đời rộng lớn. Nếu như ở những câu thơ đầu tiên, người con được sống trong vòng tay ấm áp, dìu dắt của mẹ cha thì đến những vần thơ tiếp theo, đứa con ấy còn được nuôi dưỡng bởi cái nôi lớn hơn: cái nôi quê hương, “đồng mình”:
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken cảu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
“Người đồng mình ” – cách nói sao mà giản dị, gần gũi. Người cha muốn đứa con bé nhỏ hiểu về sự chân chất, mộc mạc của người dân quê mình. Đó là những con người cần cù, chăm chỉ làm lụng (“Đan lờ cài nan hoa”). Nhưng bên cạnh đó họ còn có một tâm hồn rộng mở, tràn đầy tinh thần lạc quan (“vách nhà ken câu hát”). Động từ “ken” được sử dụng thật tự nhiên thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người “đồng mình”. Hình ảnh giàu sức ẩn dụ “Con đường cho những tấm lòng” thể hiện cuộc sống gắn bó, thấm đượm tình yêu thương, san sẻ của đồng bào. Với lối nói mộc mạc, chất phác, người cha giúp con cảm nhận được không khí ấm áp, hạnh phúc, yêu thương, nồng đượm của gia đình, quê hương mà từ đó đứa con được sinh ra, nuôi dưỡng, trưởng thành.
Trong mạch nguồn tâm sự, người cha còn cho con hiểu thêm về truyền thống đáng tự hào của “người đồng mình”, của quê hương, bản làng:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Nhà thơ đã đưa vào thi phẩm cách đo đếm của người dân quê mình khiến cho lời thơ mang đậm phong vị dân tộc, giản dị mà sâu sắc biết bao: “Cao đo nôi buồn – Xa nuôi chí lớn”. Tác giả lấy khoảng cách cụ thể (cao, xa) để đo những đại lượng vô hình (nỗi buồn, chí lớn) từ đó người cha muốn con hiểu rằng: người đồng mình sống thật sâu sắc và có ý chí, nghị lực mạnh mẽ ; người đồng mình có một trái tim ấm áp và một nghị lực phi thường. Từ đó, người cha muốn hướng người con đến vấn đề sâu xa hơn – vấn đề lẽ sống:
Sông trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Y Phương không phải là nhà thơ duy nhất đưa lẽ sống vào thơ. Đã có biết bao nhà thơ, nghệ sĩ viết về vấn đề này. Nhà thơ Tố Hữu đã viết vể lẽ sống “cho – nhận” ở đời (“Sông là cho đâu chi nhận riêng mình”); nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua ca từ đã đề cập đến lẽ sống yêu thương (“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”) Đó đều là những lẽ sống cao thượng, đẹp đẽ. Nhà thơ dân tộc Tày Y Phương qua cách nói “thô sơ” mà sâu sắc ý tình đã đem đến bài học: sống phải có nghị lực. Ông xây dựng nên một loạt các hình ảnh gợi sự khó khăn, vất vả: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” nhưng dường như cuộc sống càng khó khăn bao nhiêu thì con người càng phải vươn lên không ngừng, đấu tranh vượt qua nó. Cụm từ “không chẽ” được lặp lại hai lần nhằm khẳng định ý chí mạnh mẽ của con người. Người cha muốn dạy con lẽ sống có ý chí mạnh mẽ: “Sống như sông như suối – Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực nhọc”. Đây thực sự là điều cần thiết cho mỗi con người khi bước chân vào đường đời lắm chông gai, nhọc nhằn bởi lẽ “đường đi khó không phải vì ngăn sông cách núi mà vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Ngựời đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Sự giản đơn bề ngoài “thô sơ da thịt” như càng làm tăng thêm sức mạnh niềm tin, ý chí bên trong mỗi con người. Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực (chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi) vừa mang nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người cha muốn nói với con: chính người dân quê mình đã tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương giàu đẹp. Câu thơ ngầm chứa niềm tự hào, kiêu hãnh. Cha đã nhắc nhở, chỉ dạy cho con về phẩm chất, phong tục, truyền thống cao quý của quê hương mình. Đố là tình yêu thiêng liêng cần có trong bản thân mỗi người.
Bài thơ khép lại bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với bao niềm hi vọng của cha đặt vào đứa con yêu:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con
Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường” có một thứ quý giá hơn mọi thứ trên đời đó là ý chí, nghị lực, truyền thống của quê hương. Lời dặn ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương. Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con.
THỦY HÀ
Lời nhận xét:
– Bài viết đã tạo ấn tượng cho người đọc ngay từ phần mở bùi rất tự nhiên mà lôi cuốn với những trích dẫn, liên hệ phù hợp. Người viết đã cảm nhận chiều sâu trong lời tâm sự của người cha với con để thấy tình cảm đậm sâu của cha dành cho con. Đặc biệt, Thủy Hà nắm bắt được phong cách thơ mang âm hưởng dân tộc, lời lẽ giản dị, dễ hiểu mà ý tứ sâu xa: “Nhà thơ đã đưa vào thi phẩm cách đo đếm của người dân quê mình khiến cho lời thơ đậm phong vị dân tộc, giản di mà sân sắc biết bao: “Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn”. Tác giả lấy khoảng cách cụ thể (cao, xa) để đo những đại lượng vô hình (nỗi buồn, chí lớn) từ đó người cha muốn con hiểu rằng: người đồng mình sống thật sâu sắc và có ý chí, nghị lực mạnh mẽ ; người đồng mình có một trái tim luôn ấm áp và một nghi lực phi thường”.
– Bài viết có sự liên hệ, so sánh phong phú, sâu sắc so sánh lẽ sống trong thơ của Y Phương với thơ của Tố Hữu, nhạc Trịnh Công Sơn.
Tags:hot
|
Đề 27 – Đề bài luyện tập – Bôi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề học sinh giỏi Tiếng Việt tả cây ăn quả
1. Tìm từ được lặp lại nhiều trong đoạn trích sau. Việc lặp lại từ trong trường hợp này có tác dụng gì?
Cái đẹp của Hạ Long trước hết là sự kì vĩ của thiên nhiên.Trên một diện tích hẹp mọc lên hàng nghìn đảo nhấp nhô khuất khúc như rồng chầu phượng múa. Đảo có chỗ sừng sững chạy dài như bức tường thành vững chãi, ngăn khơi với lộng, nối mặt biển với chân trời. Có chỗ đảo dàn ra thưa thớt, hòn này với hòn kia biệt lập, xa trông như quân cờ bày chon von trên mặt biển. Tuỳ theo sự phân bố của đảo, mặt vịnh Hạ Long lúc toả mênh mông, lúc thu hẹp lại thành ao, thành vũng, lúc bị kẹp giữa hai triền đảo như một dòng suối, lúc uốn quanh chân đảo như dải lụa xanh.
(Theo Thi Sảnh)
2. Chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ trông trong đoạn trích dưới đây, để tạo sự liên kết giữa các câu trong đoạn:
Cuộc sống quê tôi gắn với … Cha làm cho tôi chiếc … để quét nhà, quét sân. Mẹ đựng hạt giống đầy móm lá cọ, treo lên gác bếp, để gieo cấy mùa sau. Chị tôi đan nón lại biết đan cả … và … xuất khẩu. Chiều chiều chăn trâu, chúng tôi rủ nhau đi nhặt những … rơi đầy quanh gốc về om, ăn vừa béo vừa bùi.
(Theo Nguyễn Thái Vận)
(lá cọ, mành cọ, làn cọ, cây cọ, chổi cọ, trái cọ)
Nước chúng ta,
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Em hiểu những câu thơ trên như thế nào? Hai dòng thơ cuối muôn nhắc nhở ta điều gì?
4. Tả một cây ăn quả ở quê em (hoặc ở nơi khác) mà em có dịp quan sát và thưởng thức loại quả đó.
|
Topic 27 – Practice questions – Nurturing good students in Vietnamese 5
Instruct
Question for good Vietnamese students to describe fruit trees
1. Find words that are repeated a lot in the following excerpt. What effect does repeating words have in this case?
The beauty of Ha Long is first of all the magnificence of nature. On a narrow area, thousands of undulating islands appear like dancing dragons and phoenixes. The island has some lofty spots that run as long as a solid wall, separating the ocean from the ocean, connecting the sea surface with the horizon. There are places where the islands are spread out sparsely, one island from the other isolated, from afar they look like chess pieces scattered on the sea surface. Depending on the distribution of the islands, the surface of Ha Long Bay is sometimes vast, sometimes narrowed into a pond or pool, sometimes sandwiched between two island slopes like a stream, sometimes curving around the foot of the island like a strip of blue silk.
(According to Thi Hall)
2. Choose the appropriate word in parentheses to fill in the space in the excerpt below, to create a connection between the sentences in the paragraph:
My hometown life is associated with... My father made me a... to sweep the house and yard. Mom packed the seeds with palm leaves and hung them up in the kitchen to plant next season. My sister knows how to knit hats... and... export. In the afternoon, after grazing the buffalo, we invited each other to pick up the... leaves that had fallen all around the roots and braise them, eating them both fatty and flavorful.
(According to Nguyen Thai Van)
(palm leaves, palm curtain, palm lane, palm tree, palm broom, palm fruit)
Our country,
The country of those who have never died
At night, the earth murmurs in the sound of the earth
The expectations about the old days.
How do you understand the above verses? What do the last two lines of the poem remind us of?
4. Describe a fruit tree in your hometown (or elsewhere) that you have the opportunity to observe and enjoy.
|
Đề 27: Phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn Bến quê – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 27: Phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn Bến quê
Bài làm
Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Với quan niệm viết văn là “đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, tác giả đã cố gắng lách ngòi bút của mình vào sâu thế giới nội tâm nhân vật để tìm kiếm những hạt ngọc tiềm tàng. Nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn Bến quê được xây dựng theo quan điểm đó. Bằng ngòi bút khắc họa tâm lí tài tình, Nguyễn Minh Châu đã đưa người đọc vào thế giới tâm trạng của Nhĩ trong một buổi sáng đầu thu, qua đó gửi đến độc giả những bài học triết lí nhân sinh về cuộc đời con người.
Xây dựng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh éo le, ngặt nghèo trong những ngày cuối đời. Là người đã từng đi khắp mọi nơi trên trái đất, vậy mà cuối đời Nhĩ lại bị buộc chặt trên giường bởi một căn bệnh quái ác khiến anh gần như liệt toàn thân và sự sống của Nhĩ gần như cạn kiệt. Khai thác tình huống này, tác giả phát hiện và nhấn mạnh vào những nghịch lí trong cảnh ngộ của anh: Là người đã từng đi khắp thế giới nhưng Nhĩ lại chưa từng đặt chân lên cái bãi bồi màu mỡ ngay phía bên kia sông, từng bay những chuyến bay vượt nửa vòng trái đất nhưng nay lại không nhích được mình dịch chuyển vài mươi phân trên giường bệnh. Đứa con trai mà anh nhờ thay mình thực hiện điều khao khát là đặt chân lên bờ bãi phía bên kia sông lại mải mê sa vào một đám chơi cờ thế trên hè phố, có thể lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Tạo ra một chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc rằng cuộc sống và số phận của con người chứa đựng những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên vượt ra ngoài những dự định, ước muốn, những hiểu biết và tính toán của chúng ta. Ngoài ra, tác giả còn muốn nhắn nhủ với người đọc: chúng ta thường hay hướng đến những điều cao xa mà vô tình không biết đến những vẻ đẹp gần gũi ngay bên cạnh mình như vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông đối với nhân vật Nhĩ.
Nằm trên giường bệnh, Nhĩ suy ngẫm và nhận ra nhiều điều. Trước tiên, anh nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên xung quanh mình, vẻ đẹp của buổi sáng đầu thu được nhìn từ cửa sổ căn phòng. Cảnh vật được miêu tả trong tầm nhìn của anh, từ gần đến xa, tạo thành một không gian vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng: những bông hoa bằng lăng ngay phía cửa sổ, con sông Hồng phía xa xa với màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, mặt sông như rộng thêm ra, vòm trời cũng cao hơn, những tia nắng sớm di chuyển trên mặt nước, cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông với sắc màu quen thuộc. Đó chính là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp diễn ra hàng ngày mà đến hôm nay Nhĩ mới thấy. Tất cả đều được anh cảm nhận bằng những cảm xúc rất tinh tế. Không gian và những cảnh vật ấy vốn quen thuộc, gần gũi nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ. Có lẽ đây là lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó. Cái nhìn ấy thể hiện niềm tha thiết với cuộc sống, với vẻ đẹp bình dị mà sâu xa của thiên nhiên, của quê hương ở nhân vật Nhĩ.
Không chỉ có những tình cảm rất đáng quý với thiên nhiên quanh mình, với những người thân yêu, lần đầu tiên Nhĩ cũng nhận ra vẻ đẹp đặc biệt của bãi bồi phía bên kia sông, nhận thấy những sắc màu quen thuộc như da thịt, như hơi thở của đất đai màu mỡ. Nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn mà cả đời mình không nhận ra, anh khao khát được đặt chân lên nơi đó. Và trớ trêu thay, với “con người đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất như Nhĩ, cái bờ bãi bên kia sông giờ đây lại trở thành “một chân trời gần gũi mù lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”. Việc Nhĩ khao khát được đặt chân lên vùng đất ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bình dị, bền vững mà sâu xa của đời sống. Những giá trị thường bị chúng ta lãng quên, vô tình lại chính là những điều giản dị, mộc mạc, đơn sơ như gia đình, quê hương vì khi còn trẻ, con người dễ chạy theo những ham muốn xa vời. Sự thức nhận này chỉ đến vói con người khi họ đã từng trải, đã thấm thía những sướng vui và cay đắng… Cùng với sự thức tỉnh đó là những nỗi xót xa cay đắng, vì ân hận, vì nuối tiếc. Nhĩ cũng nhận ra khi anh biết đến giá trị giản dị nhưng đích thực của cuộc sống thì anh lại không còn nhiều thời gian và khả năng để thực hiện nó nữa. Càng trớ trêu hơn khi Nhĩ nhờ con trai mình thực hiện cái ước muốn nhỏ bé ấy thì con anh lại không thể hiểu được niềm khao khát của cha nó nên nó thực hiện một cách miễn cưỡng để rồi bị cuốn hút theo trò chơi hấp dẫn mà nó gặp trên đường đi. Rất có thể nó sẽ lỡ mất chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Từ hoàn cảnh éo le của mình, từ việc làm của đứa con, Nhĩ đã chiêm nghiệm ra cái quy luật phổ quát của cuộc đời: “con người ta trên đường đời thật khó tránh được những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Chính vì hiểu được quy luật này nên anh không trách con mình, bởi cũng như anh trước đây “nó đã thấy có gì hấp dẫn ở phía bên kia sông đâu”. Đến cuối truyện, chúng ta thấy hành động đặc biệt của Nhĩ: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi say mê đầy đau khổ, cả mười đẩu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cúi bậu cửa sổ… Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào”. Có lẽ anh đang khẩn thiết ra hiệu cho con trai của mình, sợ nó “chùng chình”, sẽ lỡ mất cơ hội sang sông. Dường như Nhĩ cũng muốn thức tỉnh chúng ta về những điều vòng vèo, “chùng chình” để rút ra khỏi đó, hướng đến những giá trị đích thực, giản dị và gần gũi.
TRƯƠNG THỊ HỒNG VÂN
Lời nhận xét:
– Bài viết đã đi sâu khám phá, phân tích diễn biến tâm lí, niềm khát khao, suy tư, trăn trở của nhân vật Nhĩ. Người viết đã đi sâu khám phá những triết lí sâu xa mà tác giả muốn gửi gắm. “Tao ra một chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc rằng cuộc sống và sô phận của con người chứa đựng những điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định, ước muốn, cả những hiểu biết và tính toán của chúng ta. Ngoài ra, tác giả còn muốn nhắn nhủ với người đọc: Chúng ta thường hay hướng đến những điều cao xa mà vô tình không biết đến những vẻ đẹp gần gũi ngay bên cạnh mình như vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông đối với nhân vật Nhĩ ”.
– Diễn đạt trôi chảy, mạch lạc. Văn phong trong sáng, có những đánh giá sâu sắc.
|
Topic 27: Analyzing the character Nhi in the short story Ben Nghe - Selected essay for grade 9
Instruct
Topic 27: Analyze the character Nhi in the short story Ben Nghe
Assignment
Nguyen Minh Chau is an outstanding writer of modern Vietnamese literature. With the concept of writing as "finding hidden gems in the depths of the human soul", the author tried to penetrate his pen deep into the character's inner world to find hidden gems. The character Nhi in the short story Ben Nghe is built from that point of view. With a skillful pen depicting psychology, Nguyen Minh Chau brought readers into the world of Nhi's mood on an early autumn morning, thereby sending readers philosophical lessons about human life.
Building the character Nhi, Nguyen Minh Chau placed the character in a difficult and difficult situation in the last days of his life. As a person who had traveled everywhere on earth, at the end of his life Nhi was tied to a bed by a cruel disease that left him almost completely paralyzed and his life almost exhausted. Exploiting this situation, the author discovered and emphasized the paradoxes in his situation: Although Nhi has traveled all over the world, Nhi has never set foot on the fertile mudflats right across the river. I used to fly flights halfway around the world but now I couldn't move a few inches on the hospital bed. The boy he asked to do what he wanted to do, which was to set foot on the beach on the other side of the river, was so engrossed in a group of chess players on the sidewalk that he could miss the only ferry of the day. Creating a series of paradoxical situations like the one above, the author wants to remind readers that human life and destiny contain abnormalities, paradoxes, and coincidences that go beyond plans and desires. , our understandings and calculations. In addition, the author also wants to remind readers: we often aim for far away things but unintentionally do not know the beauty that is close to us right next to us, like the beauty of the mudflats across the river for people. Object Ear.
Lying on the hospital bed, Nhi contemplated and realized many things. First, he realized the beauty of nature around him, the beauty of the early autumn morning seen from the room's window. The scenery depicted in his vision, from near to far, creates a space with both depth and width: the linden flowers right at the window, the Red River in the distance with its light red color. When it is autumn, the river surface seems to be wider, the sky is also higher, the morning rays of sunlight move across the water surface, the whole old alluvial area of the mudflats on the other side of the river has familiar colors. That is the beautiful picture of nature that happens every day that Nhi has only seen today. He feels everything with very delicate emotions. Those spaces and scenes are familiar and close, but they seem very new to Nhi. Perhaps this was the first time he felt all its beauty and richness. That look shows the character Nhi's passion for life, for the simple yet profound beauty of nature and homeland.
Not only did he have precious feelings for the nature around him and his loved ones, for the first time Nhi also realized the special beauty of the mudflats on the other side of the river, noticing the familiar colors like flesh. , like the breath of fertile soil. Realizing the hidden beauty that he had not realized all his life, he longed to set foot there. And ironically, for "humans who have visited every corner of the earth like Nhi, the shore on the other side of the river has now become "a horizon that is close and blind yet far away because it has never been seen before." time to go". Nhi's desire to set foot on that land is an awakening to the simple, sustainable and profound values of life. The values that we often forget, unintentionally, are simple, rustic, simple things like family and homeland because when we are young, people easily chase distant desires. This realization only comes to people when they have experienced and penetrated the joys and bitterness... Along with that awakening comes bitter sadness, regret, and regret. Nhi also realized that when he knew the simple but true value of life, he no longer had much time and ability to realize it. It's even more ironic that when Nhi asked his son to fulfill that small wish, his son couldn't understand his father's desire, so he reluctantly did it and was drawn to the exciting game. that it encounters on its way. It is very likely that it will miss the only ferry of the day. From his difficult situation and from his child's work, Nhi has contemplated the universal rule of life: "It is difficult for people to avoid twists and turns on their life's path." Because he understands this rule, he does not blame his son, because like him before, "he has not seen anything attractive on the other side of the river." At the end of the story, we see Nhi's special actions: "Nh's face was unusually red, his eyes were sparkling with a passion full of pain, all ten of Nhi's fingers were clutching tightly at the sink. window... He was trying to muster all the last remaining strength to swing himself out, raising one thin arm out the window as if urgently signaling someone. ”. Perhaps he was urgently signaling his son, afraid that he would "slow down" and miss the opportunity to cross the river. It seems that Nhi also wants to awaken us to the tortuous and "sluggish" things in order to get out of them and move towards true, simple and close values.
TRUONG THI HONG VAN
Comment:
– The article deeply explores and analyzes the psychological developments, desires, thoughts, and concerns of character Nhi. The writer has delved deeper into exploring the profound philosophies that the author wants to convey. “Creating a series of paradoxical situations like the one above, the author wants to remind readers that human life and destiny contain irregularities, paradoxes, coincidences, beyond expectations, our desires, our understanding and our calculations. In addition, the author also wants to remind readers: We often aim for far away things but unintentionally do not know the beauty that is close to us right next to us, like the beauty of the mudflats across the river for people. Object Ear".
– Express fluently and coherently. The writing style is clear and has profound assessments.
|
Đề 28 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề học sinh giỏi tả một cây có bóng mát
1. Đọc đoạn trích sau:
Thời trẻ, Lép Tôn-xtôi hay có những hành động bột phát. Có lúc Tôn-xtôi tự treo mình lên cây bằng một nửa mái tóc. Sau đó, Tôn-xtôi lại cạo sạch lông mày. Tôn-xtôi muốn tìm hiểu xem đối với những hành động như vậy, mọi người có phản ứng như thế nào. Có hôm, Tôn-xtôi muốn mình cũng bay được như chim. Thế là Tôn-xtôi trèo lên gác, chui qua cửa sổ lao xuống sân với đôi cánh tay dang rộng như cánh chim. Khi mọi người chạy đến, thấy Tôn-xtôi nằm ngất lịm ở giữa sân.
(Theo Truyện kể về thần đổng thế giới)
a) Tìm từ trùng lặp nhiều trong đoạn trích trên, có thể thay thế được bằng đại từ hoặc từ ngữ đồng nghĩa.
b) Từ ngữ có thể thay thế ở đây là từ ngữ nào? Chép lại đoạn trích sau khi đã thay thế từ trùng lặp bằng đại từ hoặc từ đồng nghĩa.
2. Trong đoạn văn sau, người viết đã dùng những từ ngữ nào để chỉ anh hùng Núp? Việc dùng nhiều từ ngữ thay thế cho nhau như vậy có tác dụng gì?
Năm 1964, anh hùng Núp tới thăm đất nước Cu-ba theo lời mời của Chủ tịch Phi-đen Cát-xtơ-rô. Người anh hùng Tây Nguyên được đón tiếp trong tình anh em vô cùng thân mật. Anh Núp thấy người Cu-ba giống người Tây Nguyên mình quá, củng mạnh mẽ, sôi nổi, bụng dạ hào phóng như cánh cửa bỏ ngỏ, thích nói to và đặc biệt là thích nhảy múa. Tới chỗ đông người nào, sau một lúc chuyện trò, tất cả lại cùng nhảy múa. Bị cuốn vào những cuộc vui ấy, anh Núp thấy như đang sông giữa buôn làng Tây Nguyên muôn vàn yêu dấu của mình.
(Theo Nguyễn Khắc Trường)
3. Đọc hai khổ thơ sau trong bài Hương nhãn của tác giả Trần Kim Dũng:
Cháu còn bé thơ
Vâng lời ông dặn
Cháu tưới cháu che.
…
Nay mùa quả chín
Thơm hương nhãn lồng
Cháu ăn nhãn ngọt
Nhớ ông vun trồng.
Em có nhận xét gì về hình ảnh người cháu qua hai khổ thơ trên.
4. Tả một cây có bóng mát (hoặc cây lấy gỗ, cây công nghiệp,…) từng đem lại lợi ích cho mọi người.
|
Topic 28 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Ask good students to describe a tree that provides shade
1. Read the following excerpt:
In his youth, Lep Tonxto often had spontaneous actions. At one point Tonxi hung himself from a tree by half his hair. After that, Tonxi shaved his eyebrows. TonxI wanted to find out how people react to such actions. One day, Tonx I wanted to be able to fly like a bird. So Tony climbed up the stairs, crawled through the window and rushed into the yard with his arms spread out like bird wings. When everyone ran over, they saw Tonx Ti lying unconscious in the middle of the yard.
(According to The Tale of the World God)
a) Find words that overlap a lot in the above excerpt, which can be replaced with pronouns or synonyms.
b) What word can be replaced here? Copy the excerpt after replacing duplicate words with pronouns or synonyms.
2. In the following passage, what words does the writer use to refer to the hero Nup? What is the effect of using so many words interchangeably?
In 1964, hero Nup visited Cuba at the invitation of President Fidel Castro. The Central Highlands hero was welcomed in extremely cordial brotherhood. Mr. Nup finds that Cuban people are very similar to the Central Highlands people, they are also strong, vibrant, have a generous heart like an open door, like to talk loudly and especially like to dance. Go to a crowded place, after a while of chatting, everyone dances together. Caught up in those fun activities, Mr. Nup felt like he was living in the middle of his beloved Central Highlands village.
(According to Nguyen Khac Truong)
3. Read the following two stanzas in the poem Perfume Label by author Tran Kim Dung:
I'm still a baby
Obey what he said
I water and cover.
…
Now is the season for ripe fruit
Scent of longan
I eat sweet longan
Remember him cultivating.
What do you notice about the image of the nephew through the above two stanzas?
4. Describe a shade tree (or timber tree, industrial tree, etc.) that once brought benefits to people.
|
Đề 29 – Mối quan hệ giữa văn học và tình thương – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Văn học và tình thương
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến hai khái niệm: văn học và tình thương.
Vậy văn học là gì?
Tình thương có nghĩa là gì?
Giữa văn học và tình thương có mối quan hệ ra sao?
Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho mối quan hệ đó?
Suy nghĩ của em về tác dụng của văn học trong việc bồi dưỡng tình yêu thương trong trái tim của mỗi con người?
Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Tình yêu thương luôn là thước đo nhân cách của con người.
Văn học với chức năng của nó đã thể hiện một cách rõ rệt những mảng sáng, mảng tối của cuộc sống đặc biệt là tình yêu thương con người.
II. THÂN BÀI
Trong văn bản “Ý nghĩa văn chương” của tác giả Hoài Thanh đã nhấn mạnh: “Nguồn gốc cốt yếu cùa văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài.” (SGK Ngữ văn 7 – trang 60).
Dẫn chứng một vài ví dụ cụ thể:
Trong tác phẩm “Cô bé bán diêm” của nhà văn Đan Mạch An- đéc – xen, chúng ta thấy rằng với tấm lòng yêu thương con người vô hạn, nhà văn đã tạo dựng rất nhiều tình huống đầy tính nhân đạo nhằm mang đến cho cô bé bán diêm những điều mà cô mong muốn. Đó là lò sưởi ấm, là bữa ăn ngon miệng, là cây thông nô- en tuyệt đẹp, là người bà kính yêu, là được bay lên thiên đường cùng bà. Nụ cười cuối truyện thật sự làm ấm lòng con người bởi cuối cùng cô bé đã được toại nguyện. Tình yêu thương con người của nhà văn còn bộc bạch qua những lời xì xào của người qua đường khi thấy cô bé đã qua đời “Chắc nó muốn sưởi ấm”, nhà văn đã lên án cái xã hội đầy bất công ấy đã vô tâm, thờ ơ với cuộc sống của những người nghèo khổ. Tất cả đã được chứa đựng một cách đầy đủ, rõ ràng trong tác phẩm. Hay tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” của nhà văn người Mỹ O Hen-ri đã thực sự làm cho chúng ta rung cảm tâm hồn trước tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ.
Bên cạnh đó, văn học không chỉ có chức năng ca ngợi tình yêu thương mà nó còn có khả năng phản ánh, phê phán những con người vô tâm, thờ ơ với cuộc sống của con người xung quanh. Những kẻ này cần phải được xã hội lên án.
III. KẾT BÀI
Nói chung, văn học là sự phản ảnh thực tế đời sống của nhà văn, nhà thơ.
Giữa văn học và tình thương luôn có một mối dây gắn bó khắng khít và bổ sung cho nhau.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong những tình cảm của quan hệ giữa người với người thì tình cảm gia đình là quan trọng nhưng trong tình cảm gia đình thì tình mẫu tử là loại tình cảm thiêng liêng nhất. Chẳng hạn như số phận đau thương, nỗi giày vò của chú bé Hồng trong hoàn cảnh nghèo nàn khi bố mất, mẹ phải đi tha hương cầu thực, Hồng phải sống trong sự ghẻ lạnh của dòng họ nội. Không những vậy, Hồng còn bị bà cô gieo rắc vào đầu những ý nghĩ xấu xa để Hồng ruồng rẫy, khinh ghét mẹ của mình. Tất cả đều được thể hiện qua tập truyện ngắn “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng. Tình mẫu tử được thể hiện rõ nét qua sự miêu tả tinh tế của tác giả khiến người đọc không sao kiềm được những giọt nước mắt xúc động, nghẹn ngào.
Con người khác loài vật ở chỗ là biết suy nghĩ và có tình cảm. Tuy rằng ta khác màu da, tiếng nói, phong tục tập quán, thói quen nhưng vẫn giúp đỡ nhau khi gặp hoạn nạn khó khăn cho dù ở bất cứ nơi đâu như lời giao hẹn của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân thời trước.Tuy vậy, nhưng vẫn có những kẻ tỏ thái độ lạnh lùng, thò’ ơ, dửng dưng trước người gặp nạn, khó khăn như bà cô chú bé Hồng trong “Những ngày thơ ấu”. Bà cô đã nhẫn tâm gieo rắc vào đầu đứa cháu ngây thơ, trong sáng, hồn nhiên những suy nghĩ tanh bẩn để Hồng khinh miệt và ruồng rẫy mẹ của chính mình.
Vì vậy, trong văn học cũng như trong quan hệ giữa người với người ngoài cuộc sống, ta cần phải biết yêu thương, động viên, giúp đỡ nhau vượt qua những thử thách đầy chông gai, khó khăn để xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp và góp phần giúp ích cho đất nước phát triển giàu mạnh hơn.
>> Xem thêm Đề 30: Trình bày suy nghĩ của em về lỗi lầm và sự biết ơn tại đây.
Tags:Đề 29 · Văn chọn lọc 9 · Văn học và tình thương
|
Topic 29 – The relationship between literature and love – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Literature and love
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to form in your mind the main ideas related to two concepts: literature and love.
So what is literature?
What does love mean?
What is the relationship between literature and love?
What specific manifestations demonstrate that relationship?
What are your thoughts on the effect of literature in fostering love in every human heart?
What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
Love is always a measure of human personality.
Literature, with its function, clearly shows the light and dark aspects of life, especially human love.
II. BODY OF ARTICLE
In the text "The meaning of literature" by author Hoai Thanh emphasized: "The essential origin of literature is love for people and, by extension, love for all things and all species." (Literature Textbook 7 – page 60).
Cite a few specific examples:
In the work "The Little Match Girl" by Danish writer An-Dec - Sen, we see that with his infinite love for people, the writer has created many humane situations to bring happiness to people. Give the little match seller what she wants. It's a warm fireplace, a delicious meal, a beautiful Christmas tree, a beloved grandmother, and flying to heaven with her. The smile at the end of the story truly warms people's hearts because the girl is finally satisfied. The writer's love for people was also expressed through the whispers of passersby when they saw the little girl had passed away. "Maybe she wanted to warm up", the writer condemned that unfair society for being heartless. , indifferent to the lives of poor people. Everything is contained fully and clearly in the work. Or the work "The Last Leaf" by American writer O Henri has truly touched our hearts with the noble love between poor people.
Besides, literature not only has the function of praising love, but it also has the ability to reflect and criticize people who are heartless and indifferent to the lives of people around them. These people need to be condemned by society.
III. END
In general, literature is a reflection of the real life of writers and poets.
Between literature and love there is always a close bond and complement each other.
REFERENCE ESSAY
Among the emotions of relationships between people, family love is important, but in family love, maternal love is the most sacred type of love. For example, the painful fate and torment of little Hong in poor circumstances when his father died, his mother had to go abroad to seek food, and Hong had to live in estrangement from his paternal family. Not only that, Hong's aunt also planted evil thoughts in her head that made Hong abandon and despise her mother. All are shown through the short story collection "Childhood Days" by Nguyen Hong. Motherly love is clearly expressed through the author's delicate description, making the reader unable to hold back tears of emotion and choking.
Humans are different from animals in that they can think and have emotions. Even though we have different skin colors, languages, customs, and habits, we still help each other when we encounter difficulties, no matter where we are, like the promise of mother Au Co and father Lac Long Quan in the past. .However, there are still people who show a cold, indifferent, indifferent attitude towards people in distress and difficulties like little Hong's aunt and uncle in "Childhood Days". The aunt cruelly planted dirty thoughts in the head of her innocent, innocent grandchild, causing Hong to despise and abandon his own mother.
Therefore, in literature as well as in relationships between people in real life, we need to know how to love, encourage, and help each other overcome difficult and difficult challenges to build relationships. good and contribute to helping the country develop richer and stronger.
>> See more Topic 30: Present your thoughts about mistakes and gratitude here.
Tags: Topic 29 · Selected literature 9 · Literature and love
|
Đề 29 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề luyện học sinh giỏi Tiếng Việt tả cây
1. Chép lại câu chuyện dưới đây và đặt đúng dấu chấmhoặc dấu chấm hỏi, dấu chấm than vào chỗ có gạch chéo (/).
Quả lê
Bé cầm quả lê to / Bé hỏi:
– Lê ơi / Sao lê không chia thành nhiều múi như cam / Có phải lê muốn dành riêng cho tôi không Ị Quả lê đáp:
– Tôi không dành riêng cho bạn đâu / Tôi không chia thành nhiều múi để bạn biếu cả quả cho bà đấy /
Bé reo lên:
– Đúng rồi Ị
Rồi bé dem quả lê biếu bà /
(Theo Ba-um-vôn)
2. Đặt câu với mỗi nội dung dưới đây và dùng dấu câu cho thích hợp:
a) Hỏi bạn về ước mơ làm một nghề khi lớn lên.
b) Khuyên em trai cần đánh răng cho sạch trước khi đi ngủ.
c) Nhờ một người lớn đưa qua đường lúc có nhiều xe cộ.
d) Bộc lộ sự ngạc nhiên, vui thích khi được xem xiếc thú.
3. Trong bài Nghệ nhân Bát Tràng, nhà thơ Hồ Minh Hà tả nét bút vẽ của cô gái làm đồ gốm như sau:
Bút nghiêng lất phất hạt mưa
Bút chao gợn nước Tây Hồ lăn tăn
Hài hoà đường nét hoa văn
Dáng em, dáng của nghệ nhân Bát Tràng.
Đoạn thơ giúp em cảm nhận được nét bút tài hoa của người nghệ nhân Bát Tràng như thế nào?
|
Topic 29 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Topics to practice for good students: Vietnamese tree description
1. Copy the story below and place the correct period or question mark or exclamation mark in the place where the slash (/) is.
Pear
Baby holding a big pear / Baby asks:
– Pear / Why aren't pears divided into many segments like oranges / Do pears want to be reserved for me? The pear replied:
– I didn't make it just for you / I didn't divide it into segments for you to give the whole fruit to grandma /
Baby shouted:
– That's right
Then the child brought a pear to her grandmother.
(According to Baumvon)
2. Make sentences with each content below and use appropriate punctuation:
a) Ask your friend about your dream of having a profession when you grow up.
b) Advise your brother to brush his teeth before going to bed.
c) Ask an adult to help you cross the street when there is a lot of traffic.
d) Express your surprise and joy when watching the animal circus.
3. In the article Bat Trang Artisan, poet Ho Minh Ha describes the brush strokes of a girl making pottery as follows:
The pen tilted with raindrops
The water ripples in Tay Ho
Harmonize the pattern lines
Your figure, the figure of Bat Trang artist.
How does the poem help you feel the talented brushwork of the Bat Trang artist?
|
Đề 29: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 29: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
Bài làm
Văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã xây dựng nên những bức tượng đài bất tử về các chiến sĩ thanh niên xung phong đã anh dũng chiến đấu cho hoà bình, độc lập của đất nước. Trong số đó, có những nét vẽ khoẻ khoắn về những “cô gái mở đường” dũng cảm trong Khoảng trời hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ ; những cô thanh niên xung phong hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ Phạm Tiến Duật Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây ; Gửi em cô thanh niên xung phong) là người “em gái tiền phương”, “vai áo bạc quàng súng trường” trong Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi… Lê Minh Khuê cũng đã góp thêm vào đó một chân dung đẹp đẽ, chân thực và sinh động với nhân vật Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi.
Hoà chung nhịp đập của thời đại cách mạng, người con gái bé nhỏ đã hi sinh tuổi xuân, chấp nhận cuộc sống gian khổ nơi chiến trường như bao đồng đội khác. Cuộc sống chiến đấu hiểm nguy và đầy gian khổ không làm mờ đi tâm hồn trong sáng, tính cách dũng cảm, hồn nhiên cùng tinh thần lạc quan của người nữ thanh niên xung phong ấy. Nó khiến ta xúc động, cảm phục trước một người con gái bé nhỏ mà kiên cường – một biểu tượng của phụ nữ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Phương Định là một cô gái Hà Nội. Như bao thiếu nữ Hà thành khác, cô từng có một tuổi thơ êm đềm, hồn nhiên. Đó là những tháng năm học trò vô tư sống cùng người mẹ thân yêu trong một căn phòng nhỏ trên một con phố yên tĩnh. Trong những ngày tháng chiến tranh khốc liệt, giữa khói lửa chiến trường, những kỉ niệm mát lành ấy thường ùa về, làm dịu tâm hồn cô.
Phương Định đẹp một vẻ đẹp thanh xuân. Hãy lắng nghe những lời tự khẳng định bản thân của cô: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Đó là những lời tự đánh giá chân thật, vừa có cái tự hào ngầm của một cô gái tự tin, vừa thể hiện sự thẳng thắn của một người chiến sĩ, một nữ thanh niên xung phong. Giữa cái khốc liệt của chiến trường, vẻ đẹp của Phương Định như một “ngôi sao” lấp lánh, làm dịu đi vùng đất “chỉ có những thân cây bị tước khô cháy”. Vẻ đẹp ấy của cồ đã khiến bao anh lính ngẩn ngơ. Điều ấy làm cô thấy vui – niềm vui hồn nhiên của một thiếu nữ khi vẻ đẹp của mình được khẳng định. Nhưng cô chưa dành tình cảm đặc biệt cho bất cứ ai. Cô cũng không thích “săn đón vồn vã”. Trong khi những người con gái khác “xúm lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đó” thì cô lại thường “đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt”. Nếu chỉ đọc đến đây, ta sẽ dễ lầm tưởng Phương Định là một cô gái kiêu kì. Hoàn toàn không phải vậy. Cô chỉ là người con gái kín đáo, không hay biểu lộ tình cảm của mình và như cô nói: “chẳng qua tôi điệu thế thôi”. Chỉ một suy nghĩ: “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ” cũng đủ cho ta thấy tâm hồn trong sáng của cô. Cô là một thiếu nữ, và trên hết, một nữ thanh niên xung phong mang vẻ đẹp và trái tim của một người lính.
Phương Định đã cùng đồng đội của mình trải qua những gian khó của trận chiến. Những cô gái phải sống ở một nơi “không có lá cây xanh”, “chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Âm thanh quen thuộc hàng ngày họ được nghe là tiếng “máy bay rít, bom nổ”. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt, công việc của Phương Định và đồng đội “chẳng hề đơn giản” mà khó khăn, nguy hiểm vô cùng. Công việc của cô là sau mỗi trận bom, lao ra trọng điểm, do và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Họ “bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh”. Những cô gái thuộc “tổ trinh sát mặt đường” ấy luôn bị cái chết đe doạ. Trong lời tự thuật của Phương Định, giữa những ấn tượng về sự hiểm nguy của công việc, ta thấy lấp lánh ánh sáng của tinh thần lạc quan, lòng dũng cảm. Cô nói về cái chết nhẹ nhàng như kể một câu chuyện đời thường, xen vào đó những câu bông đùa. Ta nhận ra trong đó lòng quả cảm, sự kiên cường của những người chiến sĩ đã được tôi luyện qua lò lửa chiến tranh của người chiến sĩ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Là một nữ thanh niên xung phong kiên trung, Phương Định vẫn là một cô gái – một cô gái bé nhỏ lắm trước sự “mênh mông” của chiến trường, giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Cô cũng có những giây phút hoang mang trong những lần phá bom: “không gì cô đơn và khiếp sợ hơn khi bom gào thét chung quanh mà không nghe một tiếng trả lời”. Lúc đó, con người cần lắm một âm thanh gần gũi, “dù chỉ một tiếng súng trường thôi, cũng đủ giúp con người thấy mênh mông bên mình sự che chở đồng tình, để có thể có một khả năng tự vệ rất vững…”. Tâm lí đó của Phương Định rất chân thật, cũng là tâm trạng của biết bao người cầm súng trên chiến trường. Giữa những thời khắc khốc liệt, con người rất cần có những điểm tựa để biết mình có đồng đội, để biết mình không đơn độc, để có thể đứng vững. Vì vậy mà cô thanh niên xung phong Phương Định đã “muốn la toáng lên vì thích thú” khi phát hiện ra “xung quanh cao điểm vắng vẻ này có bao nhiêu là người”. Đó là niềm vui của tình đồng đội, đồng chí. Nó mang đến cho Phương Định sức mạnh vì “cô cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình” và cô “không còn sợ nữa”. Những trải nghiệm của Phương Định giúp ta hiểu đâu là cội nguồn sức mạnh tinh thần, ý chí kiên cường của những người chiến sĩ nơi chiến trường. Chính tình yêu, lòng tin tưởng giữa những người đồng đội đã giúp họ chiến thắng mọi gian khổ, vượt qua mọi sợ hãi để vững vàng tay súng, chiến đấu với quân thù.
Những ngôi sao xa xôi là khúc ca vể những con người dũng cảm, hồn nhiên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước nhiều hi sinh, gian khổ nhưng cũng rất vẻ vang. Phương Định là một trong số những ngôi sao đó. Cô tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam một thời, tiêu biểu cho những nữ thanh niên xung phong, dù trải qua bao khó khăn, nhưng vẫn luôn giữ vững tinh thần lạc quan và trái tim ấm áp. Sẽ còn mãi trong lòng độc giả Việt Nam hình ảnh cô gái Phương Định – một “ngôi sao xa xôi” sáng lấp lánh trong trái tim nhiều thế hệ bạn đọc.
Lời nhận xét:
– Người viết thực sự hiểu đề, phân tích chi tiết các đặc điểm tính cách của nhân vật Phương Định. Bạn đã có những nhận định, bình luận, đánh giá sâu sắc: “Vào chiến trường đã ba năm, sống giữa nơi trọng điểm ác liệt, Phương Định vẫn giữ được sự hồn nhiên, mơ mộng của một cô gái mới lớn. Chính tâm hồn lãng mạn ấy đã giúp cô có thể cảm nhận sâu sắc mọi thứ đang diễn ra xung quanh, từ khung cảnh khô khốc, xác xơ nơi chiến trường, cái im lặng của những buổi trưa đến cả ranh giới mong manh của sự sống và cái chết…”.
– Bố cục bài viết mạch lục, ỷ tứ rõ ràng. Lời văn trong sáng, biểu cảm: “Hoà chung nhịp đập của thời đại cách mạng, người con gái bé nhỏ đã hi sinh tuổi xuân, chấp nhận cuộc sống gian khổ nơi chiến trường như bao đồng đội của mình”.
– Phần so sánh giữa nhân vật Phương Định và các nhân vật khác cần cụ thể, chi tiết hơn để bài viết thêm phong phú.
|
Đề 29: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 29: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
Bài làm
Văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã xây dựng nên những bức tượng đài bất tử về các chiến sĩ thanh niên xung phong đã anh dũng chiến đấu cho hoà bình, độc lập của đất nước. Trong số đó, có những nét vẽ khoẻ khoắn về những “cô gái mở đường” dũng cảm trong Khoảng trời hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ ; những cô thanh niên xung phong hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ Phạm Tiến Duật Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây ; Gửi em cô thanh niên xung phong) là người “em gái tiền phương”, “vai áo bạc quàng súng trường” trong Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi… Lê Minh Khuê cũng đã góp thêm vào đó một chân dung đẹp đẽ, chân thực và sinh động với nhân vật Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi.
Hoà chung nhịp đập của thời đại cách mạng, người con gái bé nhỏ đã hi sinh tuổi xuân, chấp nhận cuộc sống gian khổ nơi chiến trường như bao đồng đội khác. Cuộc sống chiến đấu hiểm nguy và đầy gian khổ không làm mờ đi tâm hồn trong sáng, tính cách dũng cảm, hồn nhiên cùng tinh thần lạc quan của người nữ thanh niên xung phong ấy. Nó khiến ta xúc động, cảm phục trước một người con gái bé nhỏ mà kiên cường – một biểu tượng của phụ nữ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Phương Định là một cô gái Hà Nội. Như bao thiếu nữ Hà thành khác, cô từng có một tuổi thơ êm đềm, hồn nhiên. Đó là những tháng năm học trò vô tư sống cùng người mẹ thân yêu trong một căn phòng nhỏ trên một con phố yên tĩnh. Trong những ngày tháng chiến tranh khốc liệt, giữa khói lửa chiến trường, những kỉ niệm mát lành ấy thường ùa về, làm dịu tâm hồn cô.
Phương Định đẹp một vẻ đẹp thanh xuân. Hãy lắng nghe những lời tự khẳng định bản thân của cô: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Đó là những lời tự đánh giá chân thật, vừa có cái tự hào ngầm của một cô gái tự tin, vừa thể hiện sự thẳng thắn của một người chiến sĩ, một nữ thanh niên xung phong. Giữa cái khốc liệt của chiến trường, vẻ đẹp của Phương Định như một “ngôi sao” lấp lánh, làm dịu đi vùng đất “chỉ có những thân cây bị tước khô cháy”. Vẻ đẹp ấy của cồ đã khiến bao anh lính ngẩn ngơ. Điều ấy làm cô thấy vui – niềm vui hồn nhiên của một thiếu nữ khi vẻ đẹp của mình được khẳng định. Nhưng cô chưa dành tình cảm đặc biệt cho bất cứ ai. Cô cũng không thích “săn đón vồn vã”. Trong khi những người con gái khác “xúm lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đó” thì cô lại thường “đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt”. Nếu chỉ đọc đến đây, ta sẽ dễ lầm tưởng Phương Định là một cô gái kiêu kì. Hoàn toàn không phải vậy. Cô chỉ là người con gái kín đáo, không hay biểu lộ tình cảm của mình và như cô nói: “chẳng qua tôi điệu thế thôi”. Chỉ một suy nghĩ: “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ” cũng đủ cho ta thấy tâm hồn trong sáng của cô. Cô là một thiếu nữ, và trên hết, một nữ thanh niên xung phong mang vẻ đẹp và trái tim của một người lính.
Phương Định đã cùng đồng đội của mình trải qua những gian khó của trận chiến. Những cô gái phải sống ở một nơi “không có lá cây xanh”, “chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Âm thanh quen thuộc hàng ngày họ được nghe là tiếng “máy bay rít, bom nổ”. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt, công việc của Phương Định và đồng đội “chẳng hề đơn giản” mà khó khăn, nguy hiểm vô cùng. Công việc của cô là sau mỗi trận bom, lao ra trọng điểm, do và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Họ “bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh”. Những cô gái thuộc “tổ trinh sát mặt đường” ấy luôn bị cái chết đe doạ. Trong lời tự thuật của Phương Định, giữa những ấn tượng về sự hiểm nguy của công việc, ta thấy lấp lánh ánh sáng của tinh thần lạc quan, lòng dũng cảm. Cô nói về cái chết nhẹ nhàng như kể một câu chuyện đời thường, xen vào đó những câu bông đùa. Ta nhận ra trong đó lòng quả cảm, sự kiên cường của những người chiến sĩ đã được tôi luyện qua lò lửa chiến tranh của người chiến sĩ “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Là một nữ thanh niên xung phong kiên trung, Phương Định vẫn là một cô gái – một cô gái bé nhỏ lắm trước sự “mênh mông” của chiến trường, giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Cô cũng có những giây phút hoang mang trong những lần phá bom: “không gì cô đơn và khiếp sợ hơn khi bom gào thét chung quanh mà không nghe một tiếng trả lời”. Lúc đó, con người cần lắm một âm thanh gần gũi, “dù chỉ một tiếng súng trường thôi, cũng đủ giúp con người thấy mênh mông bên mình sự che chở đồng tình, để có thể có một khả năng tự vệ rất vững…”. Tâm lí đó của Phương Định rất chân thật, cũng là tâm trạng của biết bao người cầm súng trên chiến trường. Giữa những thời khắc khốc liệt, con người rất cần có những điểm tựa để biết mình có đồng đội, để biết mình không đơn độc, để có thể đứng vững. Vì vậy mà cô thanh niên xung phong Phương Định đã “muốn la toáng lên vì thích thú” khi phát hiện ra “xung quanh cao điểm vắng vẻ này có bao nhiêu là người”. Đó là niềm vui của tình đồng đội, đồng chí. Nó mang đến cho Phương Định sức mạnh vì “cô cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình” và cô “không còn sợ nữa”. Những trải nghiệm của Phương Định giúp ta hiểu đâu là cội nguồn sức mạnh tinh thần, ý chí kiên cường của những người chiến sĩ nơi chiến trường. Chính tình yêu, lòng tin tưởng giữa những người đồng đội đã giúp họ chiến thắng mọi gian khổ, vượt qua mọi sợ hãi để vững vàng tay súng, chiến đấu với quân thù.
Những ngôi sao xa xôi là khúc ca vể những con người dũng cảm, hồn nhiên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước nhiều hi sinh, gian khổ nhưng cũng rất vẻ vang. Phương Định là một trong số những ngôi sao đó. Cô tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam một thời, tiêu biểu cho những nữ thanh niên xung phong, dù trải qua bao khó khăn, nhưng vẫn luôn giữ vững tinh thần lạc quan và trái tim ấm áp. Sẽ còn mãi trong lòng độc giả Việt Nam hình ảnh cô gái Phương Định – một “ngôi sao xa xôi” sáng lấp lánh trong trái tim nhiều thế hệ bạn đọc.
Lời nhận xét:
– Người viết thực sự hiểu đề, phân tích chi tiết các đặc điểm tính cách của nhân vật Phương Định. Bạn đã có những nhận định, bình luận, đánh giá sâu sắc: “Vào chiến trường đã ba năm, sống giữa nơi trọng điểm ác liệt, Phương Định vẫn giữ được sự hồn nhiên, mơ mộng của một cô gái mới lớn. Chính tâm hồn lãng mạn ấy đã giúp cô có thể cảm nhận sâu sắc mọi thứ đang diễn ra xung quanh, từ khung cảnh khô khốc, xác xơ nơi chiến trường, cái im lặng của những buổi trưa đến cả ranh giới mong manh của sự sống và cái chết…”.
– Bố cục bài viết mạch lục, ỷ tứ rõ ràng. Lời văn trong sáng, biểu cảm: “Hoà chung nhịp đập của thời đại cách mạng, người con gái bé nhỏ đã hi sinh tuổi xuân, chấp nhận cuộc sống gian khổ nơi chiến trường như bao đồng đội của mình”.
– Phần so sánh giữa nhân vật Phương Định và các nhân vật khác cần cụ thể, chi tiết hơn để bài viết thêm phong phú.
|
Đề 2: Về kết thúc có hậu trong hai tác phẩm Truyện Kiều và Chuyện người con gái Nam Xương – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 2: Em hãy phân tích, so sánh ý nghĩa của lối kết thúc có hậu trong hai tác phẩm Truyện Kiều của Nguyến Du và Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Bài làm
Trong xã hội phong kiến xưa, những người phụ nữ, những người dân thấp cổ bé họng phải chịu bao nỗi đắng cay, bất hạnh. Những đau khổ của họ như chất thành núi, nước mắt tuôn chảy thành sông. Nỗi niềm đó, con người chỉ có thể gửi gắm vào các áng thơ văn giàu xúc cảm. Ta có thể nhận ra trong các tác phẩm tiêu biểu của thời kì này những ước mơ, khát vọng của người bình dân về một xã hội công bình, mà ở đó, nhân nghĩa sẽ thắng hung tàn, kẻ ác sẽ bị trừng trị thích đáng. Vì vậy, không chỉ truyện cổ tích mà các tác phẩm văn học viết cũng luôn hướng tới những kết thúc có hậu để đáp ứng tâm lí, tình cảm và ước mơ, khát vọng của nhân dân lao động. Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có những cái kết ấm áp như vậy.
Chuyện người con gái Nam Xương được sáng tác dựa trên một câu chuyệi có thật xảy ra vào thế kỉ XIII đời Hồ. Tuy nhiên Nguyễn Dữ đã không ghi chép lại một cách thụ động mà đã sáng tạo thêm dể câu chuyện có được những ý nghĩa sâu sắc. Nếu như câu chuyện thực kết thúc bằng cái chết oan ức của Vũ Nương trên bến Hoàng Giang thì trong tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật được sống ở dưới thuỷ cung sau khi gieo mình xuống sông và đặc biệt là nàng đã được lập đàn giải oan, hiện về giữa dòng Hoàng Giang trong cờ hoa võng lọng.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. So với tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân thì Truyện Kiều của Nguyễn Du thành công hơn, toả sáng rực rỡ hơn, là “tập đại thành” của văn học Việt Nam. Thành công đó của tác phẩm không chỉ được tạo nên từ giá trị hiện thực sâu sắc hay tài nghệ của một cây bút bậc thầy mà còn bởi tinh thần nhân đạo cao cả của một trái tim nghệ sĩ lớn chan chứa lòng yêu thương con người. Thanh Tâm Tài Nhân kết thúc tác phẩm của mình bằng cái chết oan nghiệt của Kiều trên sông Tiền Đường. Nhưng Nguyễn Du, bằng tài năng và trái tim ấm nóng của mình, đã sáng tạo thêm phần “đoàn tụ”, không để cho Thuý Kiều phải chết như lời báo mộng của Đạm Tiên. Tố Như đã để cho Thuý Kiều vượt lên trên định mệnh, được sư Giác Duyên cứu và sau đó nàng được trở về quê hương sum họp với gia đình và sống hạnh phúc giữa người thân.
Vũ Nương sau một đời khổ cực, hi sinh vì chồng con, lại phải tìm đến với cái chết oan ức. Nguyễn Dữ không muốn người con gái “tính đã thuỳ mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” ấy phải chịu số kiếp “hẩm hiu”. Vì thế, ông đã sáng tạo thêm phần kết thúc mang tính chất kì ảo. Vũ Nương không chết mà được sống ở động tiên dưới thuỷ cung. Nhà văn để cho nàng được sống những ngày tháng vui vẻ trong tình yêu thương của các nàng tiên. Sống ở đó, nàng phần nào vợi được nỗi khổ trên trần thế. Nhưng Vũ Nương là một người vợ chung thuỷ, một người mẹ hết mực yêu con. Vì vậy mà cảnh sống sung sướng, đủ đầy không làm nàng nguôi vơi đi nỗi lòng vương vấn trần thế. Nàng luôn hướng về quê hương, nhớ tới phần mộ tổ tiên, nhớ chồng, thương con. Và trong trái tim của người phụ nữ tiết hạnh ấy luôn khắc khoải, canh cánh bởi nỗi oan chưa được giải. Vì vậy việc được gặp Phan Lang với nàng là cơ hội để được minh oan, chiêu tuyết. Hình ảnh nàng xuất hiện trên sông Hoàng Giang, “trên một chiếc kiệu hoa”, với “cờ tán, võng lọng đầy sông” là lời khẳng định mạnh mẽ về tấm lòng son sắt, thuỷ chung như nhất của người con gái ấy. Dẫu khôn được trở về dương gian, nhưng với một người có tấm lòng trong trắng thì việc Vũ Nương được giải oan, không chi làm vợi bớt đi nỗi day dứt của người chồng cả ghen, đa nghi, mà còn thoả nguyện ước mong tha thiết của quần chúng có oan phải được giải oan.
Nhưng kết thúc mang những nét có hậu ấy không làm giảm đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về nhưng chỉ “đứng ở giữa dòng”, “lúc ẩn, lúc hiện”. Nàng và chồng con sẽ mãi mãi chia lìa đôi ngả, âm dương cách biệt. Hạnh phúc trần thế đã vĩnh viễn rời xa nàng. Nguyễn Dữ đã ru người đọc trong cảm giác thoả mãn vì Vũ Nương được giải oan, nhưng rồi ngay lập tức kéo chúng tạ trở về thực tại. Màn sương khói huyền ảo như một giấc mơ tan đi cũng là lúc sự thật càng trở nên cay đắng, bẽ bàng. Nỗi oan của người phụ nữ không có đàn tràng nào giải nổi, dù là sự ân hận muộn màng của người chồng hay đàn cầu siêu của tôn giáo. Đó là giấc mơ, nhưng cũng là một lời tố cáo đanh thép. Nó lắng lại trong lòng ta những dư vị ngậm ngùi. Dù nó chỉ là ảo ảnh, nhưng nếu không có ảo ảnh này thì nỗi đau của người bất hạnh sẽ không được xoa dịu, trái tim người đọc sẽ mãi day dứt khôn nguôi.
Nguyễn Dữ gửi gắm ước vọng được minh oan, chiêu tuyết cho những thân phận bất hạnh trong xã hội cũ với một kết thúc mang tính chất kì ảo. Đại thi hào Nguyễn Du cũng mang trong mình ước nguyện về cuộc đời hạnh phúc cho những kiếp tài hoa bạc mệnh khi sáng tạo nên một kết thúc có hậu cho Truyện Kiều, khác với nguyên tác Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Thuý Kiều được sư Giác Duyên cứu và nàng được trở về đoàn tụ cùng gia đình. Sau mười lăm năm chìm nổi của kiếp đoạn trường, Kiều được sống trong vòng tay yêu thương của những người thân. Ta nhận ra trong đó trái tim nhân đạo bao la của tác giả. Thấu cảm vẻ đẹp của những người phụ nữ, Nguyễn Du muốn đòi quyền sống cho họ bởi họ xứng đáng được hưởng một cuộc đời hạnh phúc trọn vẹn. Cách kết thúc này đã xoa dịu nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến hà khắc cũng như thoả nguyện nỗi niềm của những người:
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên
(Chế Lan Viên)
Nguyễn Dữ và Nguyễn Du sống cách nhau tới ba thế kỉ. Nhưng ta nhận ra ở họ sự đồng điệu của tấm lòng nhân đạo cao cả, của tình yêu thương sâu sắc dành cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đó chính là điều làm nên sức sống bền lâu của hai tác phẩm trong đời sống tinh thần của dân tộc.
Ngày nay, ước mơ xưa đã thành hiện thực. Cuộc đời đã bước sang trang, và người phụ nữ không còn bị những khắc chế dồn ép mà được hưởng hạnh phúc. Nhưng những ý nghĩa nhân đạo cao cả thể hiện qua Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều sẽ còn mãi ngân vang, như khúc ca ấm áp tình người!
ĐỖ THỊ MAI HIÊN
Lời nhận xét
– Đây là một đề văn đòi hỏi người viết thể hiện năng lực tổng hợp, khái quát qua sự so sánh, đánh giá. Bài viết của Mai Hiên thể hiện tư duy mạch lạc, lô gíc. Bạn đã phân tích và so sánh kết thúc của hai tác phẩm một cách cụ thể, chì tiết đê từ đó thấy được “Nguyễn Dữ và Nguyễn Du cách nhau tới ba thế kỉ. Nhưng ta nhận ra ở họ sự đồng điệu của tấm lòng nhân đạo cao cả, của tình yêu thương sâu sắc dành cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đó chính là điêu làm nên sức sống bền lâu của hai tác phẩm trong đời sống tinh thần của dân tộc.
– Bố cục bài viết hợp lí, khoa học.
Văn phong trôi chảy,có những đánh giá, nhận xét sắc sảo: “Nhưng kết thúc mang những nét có hậu ấy không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về nhưng chỉ “đứng ở giữa dòng”, “lúc ẩn, lúc hiện”. Nàng và chồng con sẽ mãi mãi chia lìa đôi ngả, âm dương cách biệt. Hạnh phúc trần thế đã vĩnh viễn rời xa nàng. Nguyễn Dữ đã ru người đọc trong cảm giác thoả mãn vì Vũ Nương được giải oan, nhưng rồi ngay lập tức kéo chúng ta trở về thực tại
|
Đề 2: Về kết thúc có hậu trong hai tác phẩm Truyện Kiều và Chuyện người con gái Nam Xương – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 2: Em hãy phân tích, so sánh ý nghĩa của lối kết thúc có hậu trong hai tác phẩm Truyện Kiều của Nguyến Du và Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Bài làm
Trong xã hội phong kiến xưa, những người phụ nữ, những người dân thấp cổ bé họng phải chịu bao nỗi đắng cay, bất hạnh. Những đau khổ của họ như chất thành núi, nước mắt tuôn chảy thành sông. Nỗi niềm đó, con người chỉ có thể gửi gắm vào các áng thơ văn giàu xúc cảm. Ta có thể nhận ra trong các tác phẩm tiêu biểu của thời kì này những ước mơ, khát vọng của người bình dân về một xã hội công bình, mà ở đó, nhân nghĩa sẽ thắng hung tàn, kẻ ác sẽ bị trừng trị thích đáng. Vì vậy, không chỉ truyện cổ tích mà các tác phẩm văn học viết cũng luôn hướng tới những kết thúc có hậu để đáp ứng tâm lí, tình cảm và ước mơ, khát vọng của nhân dân lao động. Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có những cái kết ấm áp như vậy.
Chuyện người con gái Nam Xương được sáng tác dựa trên một câu chuyệi có thật xảy ra vào thế kỉ XIII đời Hồ. Tuy nhiên Nguyễn Dữ đã không ghi chép lại một cách thụ động mà đã sáng tạo thêm dể câu chuyện có được những ý nghĩa sâu sắc. Nếu như câu chuyện thực kết thúc bằng cái chết oan ức của Vũ Nương trên bến Hoàng Giang thì trong tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật được sống ở dưới thuỷ cung sau khi gieo mình xuống sông và đặc biệt là nàng đã được lập đàn giải oan, hiện về giữa dòng Hoàng Giang trong cờ hoa võng lọng.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. So với tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân thì Truyện Kiều của Nguyễn Du thành công hơn, toả sáng rực rỡ hơn, là “tập đại thành” của văn học Việt Nam. Thành công đó của tác phẩm không chỉ được tạo nên từ giá trị hiện thực sâu sắc hay tài nghệ của một cây bút bậc thầy mà còn bởi tinh thần nhân đạo cao cả của một trái tim nghệ sĩ lớn chan chứa lòng yêu thương con người. Thanh Tâm Tài Nhân kết thúc tác phẩm của mình bằng cái chết oan nghiệt của Kiều trên sông Tiền Đường. Nhưng Nguyễn Du, bằng tài năng và trái tim ấm nóng của mình, đã sáng tạo thêm phần “đoàn tụ”, không để cho Thuý Kiều phải chết như lời báo mộng của Đạm Tiên. Tố Như đã để cho Thuý Kiều vượt lên trên định mệnh, được sư Giác Duyên cứu và sau đó nàng được trở về quê hương sum họp với gia đình và sống hạnh phúc giữa người thân.
Vũ Nương sau một đời khổ cực, hi sinh vì chồng con, lại phải tìm đến với cái chết oan ức. Nguyễn Dữ không muốn người con gái “tính đã thuỳ mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” ấy phải chịu số kiếp “hẩm hiu”. Vì thế, ông đã sáng tạo thêm phần kết thúc mang tính chất kì ảo. Vũ Nương không chết mà được sống ở động tiên dưới thuỷ cung. Nhà văn để cho nàng được sống những ngày tháng vui vẻ trong tình yêu thương của các nàng tiên. Sống ở đó, nàng phần nào vợi được nỗi khổ trên trần thế. Nhưng Vũ Nương là một người vợ chung thuỷ, một người mẹ hết mực yêu con. Vì vậy mà cảnh sống sung sướng, đủ đầy không làm nàng nguôi vơi đi nỗi lòng vương vấn trần thế. Nàng luôn hướng về quê hương, nhớ tới phần mộ tổ tiên, nhớ chồng, thương con. Và trong trái tim của người phụ nữ tiết hạnh ấy luôn khắc khoải, canh cánh bởi nỗi oan chưa được giải. Vì vậy việc được gặp Phan Lang với nàng là cơ hội để được minh oan, chiêu tuyết. Hình ảnh nàng xuất hiện trên sông Hoàng Giang, “trên một chiếc kiệu hoa”, với “cờ tán, võng lọng đầy sông” là lời khẳng định mạnh mẽ về tấm lòng son sắt, thuỷ chung như nhất của người con gái ấy. Dẫu khôn được trở về dương gian, nhưng với một người có tấm lòng trong trắng thì việc Vũ Nương được giải oan, không chi làm vợi bớt đi nỗi day dứt của người chồng cả ghen, đa nghi, mà còn thoả nguyện ước mong tha thiết của quần chúng có oan phải được giải oan.
Nhưng kết thúc mang những nét có hậu ấy không làm giảm đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về nhưng chỉ “đứng ở giữa dòng”, “lúc ẩn, lúc hiện”. Nàng và chồng con sẽ mãi mãi chia lìa đôi ngả, âm dương cách biệt. Hạnh phúc trần thế đã vĩnh viễn rời xa nàng. Nguyễn Dữ đã ru người đọc trong cảm giác thoả mãn vì Vũ Nương được giải oan, nhưng rồi ngay lập tức kéo chúng tạ trở về thực tại. Màn sương khói huyền ảo như một giấc mơ tan đi cũng là lúc sự thật càng trở nên cay đắng, bẽ bàng. Nỗi oan của người phụ nữ không có đàn tràng nào giải nổi, dù là sự ân hận muộn màng của người chồng hay đàn cầu siêu của tôn giáo. Đó là giấc mơ, nhưng cũng là một lời tố cáo đanh thép. Nó lắng lại trong lòng ta những dư vị ngậm ngùi. Dù nó chỉ là ảo ảnh, nhưng nếu không có ảo ảnh này thì nỗi đau của người bất hạnh sẽ không được xoa dịu, trái tim người đọc sẽ mãi day dứt khôn nguôi.
Nguyễn Dữ gửi gắm ước vọng được minh oan, chiêu tuyết cho những thân phận bất hạnh trong xã hội cũ với một kết thúc mang tính chất kì ảo. Đại thi hào Nguyễn Du cũng mang trong mình ước nguyện về cuộc đời hạnh phúc cho những kiếp tài hoa bạc mệnh khi sáng tạo nên một kết thúc có hậu cho Truyện Kiều, khác với nguyên tác Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Thuý Kiều được sư Giác Duyên cứu và nàng được trở về đoàn tụ cùng gia đình. Sau mười lăm năm chìm nổi của kiếp đoạn trường, Kiều được sống trong vòng tay yêu thương của những người thân. Ta nhận ra trong đó trái tim nhân đạo bao la của tác giả. Thấu cảm vẻ đẹp của những người phụ nữ, Nguyễn Du muốn đòi quyền sống cho họ bởi họ xứng đáng được hưởng một cuộc đời hạnh phúc trọn vẹn. Cách kết thúc này đã xoa dịu nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến hà khắc cũng như thoả nguyện nỗi niềm của những người:
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên
(Chế Lan Viên)
Nguyễn Dữ và Nguyễn Du sống cách nhau tới ba thế kỉ. Nhưng ta nhận ra ở họ sự đồng điệu của tấm lòng nhân đạo cao cả, của tình yêu thương sâu sắc dành cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đó chính là điều làm nên sức sống bền lâu của hai tác phẩm trong đời sống tinh thần của dân tộc.
Ngày nay, ước mơ xưa đã thành hiện thực. Cuộc đời đã bước sang trang, và người phụ nữ không còn bị những khắc chế dồn ép mà được hưởng hạnh phúc. Nhưng những ý nghĩa nhân đạo cao cả thể hiện qua Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều sẽ còn mãi ngân vang, như khúc ca ấm áp tình người!
ĐỖ THỊ MAI HIÊN
Lời nhận xét
– Đây là một đề văn đòi hỏi người viết thể hiện năng lực tổng hợp, khái quát qua sự so sánh, đánh giá. Bài viết của Mai Hiên thể hiện tư duy mạch lạc, lô gíc. Bạn đã phân tích và so sánh kết thúc của hai tác phẩm một cách cụ thể, chì tiết đê từ đó thấy được “Nguyễn Dữ và Nguyễn Du cách nhau tới ba thế kỉ. Nhưng ta nhận ra ở họ sự đồng điệu của tấm lòng nhân đạo cao cả, của tình yêu thương sâu sắc dành cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đó chính là điêu làm nên sức sống bền lâu của hai tác phẩm trong đời sống tinh thần của dân tộc.
– Bố cục bài viết hợp lí, khoa học.
Văn phong trôi chảy,có những đánh giá, nhận xét sắc sảo: “Nhưng kết thúc mang những nét có hậu ấy không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về nhưng chỉ “đứng ở giữa dòng”, “lúc ẩn, lúc hiện”. Nàng và chồng con sẽ mãi mãi chia lìa đôi ngả, âm dương cách biệt. Hạnh phúc trần thế đã vĩnh viễn rời xa nàng. Nguyễn Dữ đã ru người đọc trong cảm giác thoả mãn vì Vũ Nương được giải oan, nhưng rồi ngay lập tức kéo chúng ta trở về thực tại
|
Đề 3 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt lớp 5
Hướng dẫn
Đề 3 – Học sinh giỏi Tiếng Việt lớp 5
1. Thay từ ngữ in đậm trong đoạn văn dưới đây bằng một từ ngữ đồng nghĩa khác để các câu văn có hình ảnh hơn:
Hồ Tơ-nưng
Hồ Tơ-nưng ở phía bắc thị xã Plây-cu. Hồ rộng lắm, nước trong như lọc. Hồ sáng đep dưới ánh nắng chói của những buổi trưa hè. Hàng trăm thứ cá sinh sôi nảy ở đây. Cá đi từng đàn, khi thì tự do bơi lội, khi thì lao nhanh như những con thoi. Chim chóc cũng đua nhau đến bên hồ làm tổ. Những con bói cá mỏ dài, lông nhiều màu sắc. Những con cuốc đen trũi, chen lách vào giữa các bụi bờ …
2. Chọn từ ngữ thích hợp nhất (trong các từ đồng nghĩa cho sẵn ở dưới) để điền vào từng vị trí trong đoạn văn miêu tả sau đây:
Đêm trăng trên Hồ Tây
Hồ về thu, nước (1), (2). Trăng toả sáng rọi vào các gợn sóng (3). Bây giờ, sen trên hồ đã gần tàn nhưng vẫn còn (4) mấy đoá hoa nở muộn. Mùi hương đưa theo chiều gió (5). Thuyền theo gió cứ từ từ mà đi ra giữa khoảng (6). Đêm thanh, cảnh vắng, bốn bề (7).
(Theo Phan Kế Bính)
(1): trong veo, trong lành, trong trẻo, trong vắt, trong sáng.
(2): bao la, bát ngát, thênh thang, mênh mông, rộng rãi.
(4): thưa thớt, lưa thưa, lác đác, lơ thơ, loáng thoáng.
(5): thoang thoảng, ngào ngạt, thơm phức, thơm ngát, ngan ngát.
(6): trông trải, bao la, mênh mang, mênh mông.
(7): yên tĩnh, yên lặng, im lìm, vắng lặng, lặng ngắt như tò.
3. Trong cuốn Hồi kí Bác Hồ, hai nhà văn Hoài Thanh và Thanh Tịnh đã tả phong cảnh quê hương Bác như sau:
Trước mắt chúng tôi, giữa hai dãy núi là nhà Bác với cánh đồng quê Bác. Nhìn xuống cánh đồng có đủ các màu xanh, xanh pha vàng của ruộng mía, xanh rất mượt của lúa chiêm đương thời con gái, xanh đậm của những rặng tre ; đây đó một vài cây phi lao xanh biếc và nhiều màu xanh khác nữa.
Đọc đoạn văn trên, em có nhận xét gì về cách dùng những từ ngữ chỉ màu xanh? Cách dùng từ ngữ như vậy đã góp phần gợi tả điều gì về cảnh vật trên quê Bác?
4. Tả cảnh nơi em ở (hoặc nơi em đã từng đến) vào một buổi sáng đẹp tròi.
|
Topic 3 – Practice topics – Fostering excellent Vietnamese students in grade 5
Instruct
Topic 3 – Excellent Vietnamese students in grade 5
1. Replace the bolded word in the paragraph below with another synonym to make the sentences more graphic:
Ho To-nung
Tonung Lake is in the north of Plei Cu town. The lake is very large, the water is as clear as a filter. The lake shines beautifully under the bright sunlight of summer afternoons. Hundreds of types of fish thrive here. Fish travel in groups, sometimes swimming freely, sometimes rushing as fast as shuttles. Birds also race to the lake to nest. Kingfishers have long beaks and colorful feathers. The black hoes, squeezing between the bushes...
2. Choose the most appropriate word (from the synonyms given below) to fill in each position in the following descriptive paragraph:
Moonlit night on West Lake
Lake in autumn, water (1), (2). The moon shines brightly on the ripples (3). Now, the lotus on the lake has almost withered but there are still (4) a few late blooming flowers. Scent carried by the wind (5). The boat slowly follows the wind and moves out into the middle (6). Clear night, deserted scene, all around (7).
(According to Phan Ke Binh)
(1): clear, fresh, clear, clear, clear.
(2): immense, immense, spacious, immense, spacious.
(4): sparse, sparse, sporadic, absent-minded, vague.
(5): faint, sweet, fragrant, fragrant, fragrant.
(6): looks vast, vast, immense, immense.
(7): quiet, quiet, silent, quiet, still as quiet.
3. In the book Uncle Ho's Memoirs, two writers Hoai Thanh and Thanh Tinh described the landscape of Uncle Ho's hometown as follows:
Before our eyes, between two mountain ranges is Uncle Ho's house and his hometown fields. Looking down at the field, there are all kinds of green, the yellow-green of the sugarcane fields, the very smooth green of the rice fields of the girl's time, the dark green of the bamboo groves; Here and there are a few blue casuarina trees and many other green colors.
Reading the above passage, what do you notice about the use of words indicating the color blue? What does using such words contribute to describing about the scenery in Uncle Ho's hometown?
4. Describe the scene where you live (or where you have been) on a beautiful morning.
|
Đề 3 – Đề kiểm tra học kì II – Tiếng Việt 4
Hướng dẫn
I.Phần bài đọc
SÁNG NAY CHIM SẺ NÓI GÌ?
Đêm nọ, trong giấc mơ, bé Na được ông Bụt ban cho viên ngọc quý nghe được tiếng nói của loài vật. Rồi bé Na vượt suối băng rừng, thỏa thích lắng nghe muông thú. Bé Na thích nhất là câu nói của bác Sư Tử. Câu ấy thế này: “Đâu nhất thiết chúng tôi phải nói tiếng người thì loài người mới hiểụ được chúng tôi. Chỉ cần một chút yêu thương, gần gũi, các bạn sẽ hiểu chúng tôi”…
Sáng sớm hôm ấy, bé Na thức dậy, bước về phía cửa, nơi chiếc chuông gió đang khúc khích cười. Và kia! Một chú Chim sẻ đang đậu trên dây điện chằng chịt tự nhiên bay sà xuống ban công. Chim sẻ quẹt quẹt cái mỏ nhỏ xinh xuống nền nhà. Chim sẻ mổ mổ những hạt cát. Chim Sẻ ngẩng lên, tròn xoe đôi mắt nhìn bé Na. Và rồi bé Na thoảng nghe trong gió:
-Chị ơi, em đói lắm!
-Ai thế? – Bé Na ngơ ngác nhìn quanh. Ai đang nói chuyện với Na thế?
-Em là Chim sẻ nè. Em đói…
Bé Na nhìn sững chú chim nhỏ vài giây. Quả thật, cái mỏ nhỏ cũng vừa mấp máy. A, mình nghe được tiếng Chim sẻ thật rồi! Bé Na vô cùng thích thú, bé chạy vội xuống nhà bếp nắm một nắm gạo rồi chạy lên ban công.
Chim Sẻ nói cảm ơn liên hồi rồi cúi xuống mổ dồn dập.
Theo Phan Đăng Đăng
(Báo Nhi đồng số 8/2009)
II. Em đọc thầm bài “Sáng nay Chim sẻ nói gì?” rồi khoanh tròn vào chữ cái trước ý em chọn là đúng nhất hoặc trả lời các câu hỏi sau:
1.Trong giấc mơ, bé Na được ông Bụt ban cho vật gì, yật đó có giá trị ra sao?
A.Viên đá quý rất đắt tiền.
B.Một vật giúp bé Na học giỏi.
C.Viên ngọc quý nghe được tiếng nói của loài vật.
D.Một vật là đồ cổ có giá trị.
2.Bé Na thích nhất điều gì sau khi có viên ngọc quý?
A.Đi khắp nơi trong rừng nghe tiếng nói của các loài chim.
B.Nghe được câu nói của bác Sư Tử.
C.Nghe được nhiều câu nói của nhiều người ở xa.
D.Nghe được tiếng chân di chuyển của loài thú dữ, nguy hiểm.
3.Chim Sẻ đã nói gì với chị bé Na?
AChị ơi, em đói lắm!
B.Em là Chim sẻ nè. Em đói…
C.Ôi, em cám ơn chị!
D.Cả 3 ý trên đều đúng.
4.Câu nói của bác Sư Tử: “Đâu nhất thiết chúng tối phải nói tiếng người thì loài người mới hiểu được cliúng tôi. Chỉ cần một chút yếu thương, gần gũi, các bạn sẽ hiểu chúng tôi” muốn nhắn gửi đến loài người điều gì?
5.Nghĩa trong bài của cụm từ “Vượt suối băng rừng” là:
B.Đi thám hiểm qua nhiều con suối, qua nhiều khu rừng để tìm hiểu về đời sống của muông thú và nghe được tiếng nói của chúng.
C.Đi thám hiểm để thăm dò dấu vết cổ từ các con suối, khu rừng xa lạ.
D.Đi thám hiểm qua nhiều con suối, qua nhiều khu rừng để tìm những loài thú quý hiếm về nuôi.
6.Tìm và viết ra một câu cảm có trong bài đọc thầm.
-Câu cảm là:
7.
a) Tìm trong bài đọc thầm 1 câu kể có dạng Ai là gì?
b) Xác định chủ ngữ của câu vừa tìm được
-Câu kể có dạng Ai là gì?……………………………………………………
-Chủ ngữ của câu trên là: …………………………………………………..
8.Thêm trạng ngữ cho các câu sau:
a)………………………………………………………………………………….., em chăm chú nghe cô giảng bài.
b)………………………………………………………………………, muôn loài hoa đua nhau nở.
III.Tập làm văn
Đề bài: Tả một con vật nuôi ở vườn thú.
Bài làm
>>XEM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TẠI ĐÂY
|
Topic 3 – Semester II test – Vietnamese 4
Instruct
I. Reading part
WHAT DID THE SPRINGS SAY THIS MORNING?
One night, in a dream, baby Na was given a precious gem by the Buddha that could hear the voices of animals. Then little Na crossed the stream through the forest, listening to the animals with pleasure. Baby Na likes Mr. Tu's words the most. The sentence goes like this: “It is not necessary for us to speak human language for humans to understand us. With just a little love and closeness, you will understand us.”…
Early that morning, baby Na woke up and walked towards the door, where the wind chimes were giggling. And there! A sparrow perched on a tangled electric wire suddenly flew down to the balcony. The sparrow swipes its pretty little beak on the floor. Sparrows pecked at grains of sand. The Sparrow looked up and looked at baby Na with wide eyes. And then little Na heard in the wind:
-Sister, I'm so hungry!
-Who is that? – Baby Na looked around bewildered. Who is talking to Na?
-I'm Sparrow. I'm hungry…
Baby Na stared at the little bird for a few seconds. Indeed, the little beak just moved. Ah, I can really hear the sound of a Sparrow! Baby Na was extremely excited, she rushed down to the kitchen, grabbed a handful of rice and ran up to the balcony.
The Sparrow said thank you repeatedly and then bent down to peck furiously.
According to Phan Dang Dang
(Children's Newspaper Không. 8/2009)
II. I silently read the song "What did the sparrow say this morning?" Then circle the letter in front of the idea you choose as best or answer the following questions:
1.In the dream, what object was given to baby Na by the Buddha? What was its value?
A. The gem is very expensive.
B.An object that helps baby Na study well.
C.The precious gem hears the voices of animals.
D.An object is a valuable antique.
2.What does Baby Na like the most after having the precious gem?
A. Go everywhere in the forest and listen to the voices of birds.
B. Hear Mr. Lion's words.
C. Hear many sayings from many people far away.
D.Hear the footsteps of wild, dangerous animals.
3.What did Sparrow say to little sister Na?
Sister, I'm so hungry!
B.I'm a Sparrow. I'm hungry…
C. Oh, thank you!
D. All three ideas above are correct.
4. Uncle Lion's saying: "It is not necessary for us to speak human language for humans to understand us. With just a little love and closeness, you will understand what we want to send to humanity?
5.The meaning in the article of the phrase "Crossing the stream through the forest" is:
B. Go on an expedition through many streams and forests to learn about the lives of animals and hear their voices.
C. Go on an expedition to explore ancient traces from strange streams and forests.
D. Go on an expedition through many streams and forests to find rare animals to raise.
6. Find and write down an emotional sentence in the silent reading.
-The sentence is:
7.
a) Find in the silent reading a sentence of the form Who is what?
b) Determine the subject of the sentence you just found
-The narrative has the form Who is what?……………………………………………………
-The subject of the above sentence is: …………………………………………………..
8.Add adverbs to the following sentences:
a)……………………………………………………………………….., I listened attentively to the teacher's lecture.
b)………………………………………………………………………………………………, all kinds of flowers are blooming.
III.Practice writing
Topic: Describe an animal kept at the zoo.
Assignment
>>SEE ANALYSIS GUIDE HERE
|
Đề 30 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề học sinh giỏi Tiếng Việt 5 tả con vật
1. a) Ghép tiếng ở dòng (1) với tiếng ở dòng (2) để tạo thành 10 từ phức thường dùng:
(1) – nam, nữ
(2) – sinh, giới, công, nhi, trang, tính
b) Giải nghĩa từ phức đã ghép được với tiếng công, tiếng trang ở mục a.
2. Đặt dấu phẩy vào mỗi câu dưới đây và cho biết tác dụng của dấu phẩy đó trong câu:
a) Trong lớp tôi thường xung phong phát biểu ý kiến.
b) Cô giáo khen cả nhóm làm bài tốt cho mỗi bạn một điểm mười.
c) Các bạn nữ lau bàn ghế các bạn nam quét lớp.
3. Viết về người mẹ, nhà thơ Trương Nam Hương có những câu thơ sau:
Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một màu trắng đến nôn nao
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm cao.
Mẹ ơi, trong lời mẹ hát
Có cả cuộc đời hiện ra
Lời ru chắp con đôi cánh
Lớn rồi con sẽ bay xa.
(Trích Trong lời mẹ hát)
Theo em, đoạn thơ trên đã bộc lộ những cảm xúc và suy nghĩ gì của tác giả?.
4. Tả một con vật nuôi trong nhà gần gũi với em (hoặc con vật trong vườn thú mà em yêu thích).
|
Topic 30 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Topic for good students in Vietnamese 5: describing animals
1. a) Combine the sounds in line (1) with the sounds in line (2) to form 10 commonly used complex words:
(1) – male, female
(2) – birth, gender, merit, children, beauty, character
b) Explain the meaning of the complex words that have been paired with the Gong and Trang languages in section a.
2. Put a comma in each sentence below and indicate the function of that comma in the sentence:
a) In class I often volunteer to express my opinion.
b) The teacher praised the whole group for doing a good test and gave each student a point of ten.
c) The girls clean the tables and chairs, while the boys sweep the classroom.
3. Writing about mothers, poet Truong Nam Huong has the following verses:
Time runs through my hair
A nauseating white color
Mother's back gradually bent down
For the day a high added.
Mom, in the words you sing
There is a whole life appearing
Lullabies give children wings
When you grow up, you will fly far away.
(Excerpt from mother's song)
In your opinion, what feelings and thoughts of the author do the above poem reveal?
4. Describe a house pet that is close to you (or a zoo animal that you love).
|
Đề 31 – Suy nghĩ của em về lòng yêu nước – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về lòng yêu nước
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến khái niệm: lòng yêu nước.
Vậy lòng yêu nước có nghĩa là gì?
Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho lòng yêu nước?
Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người không có lòng yêu nước, phản bội đất nước, kết giao với ngoại bang để chà đạp lên sự phát triển của đất nước thì những con người này chúng ta phải có cách ứng xử và thái độ ra sao?
Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Lòng yêu nước là một trong những phẩm chất cao quý của con người đối với đất nước mà chúng ta đang sinh sống.
Vậy lòng yêu nước đóng vai trò quan trọng như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
Lòng yêu nước là gì? => Đó là thứ tình cảm thiêng liêng, là sự tôn trọng, tôn thờ, ghi khắc trong tim đối với đất nước mà mình đang sinh sống.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Tại sao chúng ta phải có lòng yêu nước?
+ Một con người có lòng yêu nước là người có những tình cảm cao đẹp, trong sáng và luôn vì sự phát triển của đất nước mà cống hiến hết mình.
+ Là thước đo để đánh giá phẩm chất, đạo đức một con người.
+ Người có lòng yêu nước thì dù đi đâu, làm gì, ở bất cứ nơi nào thì trong tim vẫn luôn hướng về cội nguồn, đất nước.
Dẫn chứng: Những lần ngoại xâm sang xâm lược nước ta (trong lịch sử – 3 lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, Thanh, Minh,…), kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ,…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
Phê phán những con người có hành động bán rẻ linh hồn của mình cho bọn phản động, hại nước. Đó là những người rất đáng chê trách và bị xã hội tẩy chay.
III. KẾT BÀI
Lòng yêu nước là phẩm chất đạo đức cần thiết của con người.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Dân tộc Việt Nam chúng ta trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm chống lại những cuộc xâm lăng vô nghĩa, lập nên những trang sử oai hùng. Trong rất nhiều những yếu tố góp nên thành công ấy, chúng ta phải kể đến lòng yêu nước dạt dào trong mỗi trái tim của người con đất Việt. Giờ đây, khi đất nước đứng trước những thử thách mới của một thời đại phát triển, lòng yêu nước được thể hiện như thế nào?
Thật vậy, lòng yêu nước đóng một vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của một đất nước. Ta hiểu đơn giản lòng yêu nước chính là việc yêu những thứ nhỏ bé, giản dị, bình thường của quê hương đất nước. Những hàng tre xanh, dòng sông, xóm làng,… Từ những cái nhỏ bé ấy đã giúp chúng ta thêm yêu và gắn bó hon với quê hương và đất nước của mình. Con người dù đi đến đâu, về đâu đều hướng về đất nước, quê hương. Quê hương, đất nước không chỉ là nơi dạy dỗ cho chúng ta nên người, mà còn mang đến những điều thú vị, dạy chúng ta từng bước đi vững chắc trong cuộc sống. Vì vậy đất nước luôn để lại một ấn tượng cho mỗi con người, làm cho mọi người yêu đất nước hơn. Những con người có lòng yêu nước luôn chất chứa những tình cảm đẹp đẽ, hướng về đất nước và ra sức để giúp cho đất nước ngày càng phồn vinh. Những con người đó luôn tự hào về đất nước.
Quê hương đất nước là bàn đạp giúp con người đạt được những thành công. Ngay từ khi còn bé, mỗi người dân Việt Nam đều đã được cha mẹ xây dựng và phát triển tinh thần yêu nước từ nhũng giai điệu, lời hát, lời ru à ơi… Ngày nay cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, cùng với sự du nhập của những giá trị văn hoá trên thế giới, những truyền thống dân tộc bị mai một và bị biến đổi; nhưng truyền thống yêu nước của dân tộc sẽ không bao giờ bị thay đổi, nó như một ngọn lửa âm ỉ cháy trong tâm hồn mỗi con người và khi có điều kiện hoàn cảnh, thử thách sẽ được bùng cháy. Trong thời gian vụ việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, những người con đất Việt ở khắp mọi miền đất nước và ở hải ngoại đã bộc lộ rõ lòng yêu nước luôn luôn bùng cháy trong tâm hồn họ. Họ đoàn kết lại, chung lòng phản đối mãnh liệt hành động sai trái và tư tưởng lệch lạc của Trung Quốc.
Tóm lại, chúng ta cần phải luôn cảnh giác với những hành động này và tránh xa nó. Cần phải thể hiện lòng yêu nước đúng lúc, đúng chỗ. Và bản thân tôi cũng phải nuôi dưỡng và phát triển lòng yêu nước cho bản thân để góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp và vững mạnh.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam ta, đã có biết bao tấm gương anh hùng dám liều mình đứng lên chống lại bọn giặc xâm lược mang lại hạnh phúc, vinh quang cho đất nước. Trong số đó ta có thể kể đến các anh hùng như: Lí Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo,… Đó là những tấm gương hi sinh anh dũng cho đất nước trọn một niềm vui hòa bình. Để có thể đánh thắng được lũ giặc bạo tàn, ngoài sự mưu trí, dũng lược thì lòng yêu nước sâu sắc là một trong những sức mạnh.
Vậy lòng yêu nước có nghĩa là gì? Lòng yêu nước là một tình cảm thiêng liêng, quý báu mà bất cứ người dân nào cũng có đối với đất nước mà mình đang sinh sống, tồn tại. Và tình cảm thiêng liêng đó được trỗi dậy mạnh mẽ hơn cả trong những giai đoạn lịch sử dân tộc phải gồng mình trong các cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Ở đất nước Việt Nam chúng ta, bất cứ người dân nào cũng luôn tồn tại lòng yêu nước mãnh liệt. Cụ thể là khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan xuống vùng biển của Việt Nam thì trong tim của mỗi con người Việt trỗi dậy một nỗi bất bình mạnh mẽ, tạo thành một làn sóng phản đối quyết liệt đối với hành vi, ứng xử không đúng đắn đó. Đâu đâu tại Việt Nam cũng như trên thế giới, hễ là người Việt Nam đều nêu cao tinh thần yêu nước và phản đối Trung Quốc. Hay những thanh niên hiện nay đủ tuổi phải thực thi lệnh gọi Nghĩa vụ quân sự luôn hăng hái, xung phong, xung kích lên đường thực hiện nghĩa vụ cao quý, thiêng liêng của mình. Dù chúng ta đang sống trong thời bình, nhưng không có nghĩa là chúng ta lơ là với bất kì hành động khiêu khích nào, chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta luôn có kế hoạch xây dựng, củng cố quốc phòng vững mạnh, chắc chắn, là lực lượng tiên phong để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và đất nước Việt Nam ngày càng vững bền. Đó chính là những hành động của lòng yêu nước sâu sắc.
Nói tóm lại, trong mỗi con người Việt Nam ta đều sẵn sàng một lòng yêu nước sâu sắc. Chỉ có một số ít người vì hám lợi mà bán rẻ đất nước. Riêng bản thân tôi, tôi sẽ học tập thật tốt, là con ngoan trò giỏi để mai sau thành tài góp công xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh để xứng danh với các cường quốc năm châu bốn bể.
(Bài làm cùa HS)
>> Xem thêm Đề 32: Suy nghĩ của em về lòng nhân ái tại đây.
Tags:Đề 31 · Lòng yêu nước · Văn chọn lọc 9
|
Đề 31 – Suy nghĩ của em về lòng yêu nước – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về lòng yêu nước
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến khái niệm: lòng yêu nước.
Vậy lòng yêu nước có nghĩa là gì?
Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho lòng yêu nước?
Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người không có lòng yêu nước, phản bội đất nước, kết giao với ngoại bang để chà đạp lên sự phát triển của đất nước thì những con người này chúng ta phải có cách ứng xử và thái độ ra sao?
Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Lòng yêu nước là một trong những phẩm chất cao quý của con người đối với đất nước mà chúng ta đang sinh sống.
Vậy lòng yêu nước đóng vai trò quan trọng như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
Lòng yêu nước là gì? => Đó là thứ tình cảm thiêng liêng, là sự tôn trọng, tôn thờ, ghi khắc trong tim đối với đất nước mà mình đang sinh sống.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Tại sao chúng ta phải có lòng yêu nước?
+ Một con người có lòng yêu nước là người có những tình cảm cao đẹp, trong sáng và luôn vì sự phát triển của đất nước mà cống hiến hết mình.
+ Là thước đo để đánh giá phẩm chất, đạo đức một con người.
+ Người có lòng yêu nước thì dù đi đâu, làm gì, ở bất cứ nơi nào thì trong tim vẫn luôn hướng về cội nguồn, đất nước.
Dẫn chứng: Những lần ngoại xâm sang xâm lược nước ta (trong lịch sử – 3 lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, Thanh, Minh,…), kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ,…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
Phê phán những con người có hành động bán rẻ linh hồn của mình cho bọn phản động, hại nước. Đó là những người rất đáng chê trách và bị xã hội tẩy chay.
III. KẾT BÀI
Lòng yêu nước là phẩm chất đạo đức cần thiết của con người.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Dân tộc Việt Nam chúng ta trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm chống lại những cuộc xâm lăng vô nghĩa, lập nên những trang sử oai hùng. Trong rất nhiều những yếu tố góp nên thành công ấy, chúng ta phải kể đến lòng yêu nước dạt dào trong mỗi trái tim của người con đất Việt. Giờ đây, khi đất nước đứng trước những thử thách mới của một thời đại phát triển, lòng yêu nước được thể hiện như thế nào?
Thật vậy, lòng yêu nước đóng một vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của một đất nước. Ta hiểu đơn giản lòng yêu nước chính là việc yêu những thứ nhỏ bé, giản dị, bình thường của quê hương đất nước. Những hàng tre xanh, dòng sông, xóm làng,… Từ những cái nhỏ bé ấy đã giúp chúng ta thêm yêu và gắn bó hon với quê hương và đất nước của mình. Con người dù đi đến đâu, về đâu đều hướng về đất nước, quê hương. Quê hương, đất nước không chỉ là nơi dạy dỗ cho chúng ta nên người, mà còn mang đến những điều thú vị, dạy chúng ta từng bước đi vững chắc trong cuộc sống. Vì vậy đất nước luôn để lại một ấn tượng cho mỗi con người, làm cho mọi người yêu đất nước hơn. Những con người có lòng yêu nước luôn chất chứa những tình cảm đẹp đẽ, hướng về đất nước và ra sức để giúp cho đất nước ngày càng phồn vinh. Những con người đó luôn tự hào về đất nước.
Quê hương đất nước là bàn đạp giúp con người đạt được những thành công. Ngay từ khi còn bé, mỗi người dân Việt Nam đều đã được cha mẹ xây dựng và phát triển tinh thần yêu nước từ nhũng giai điệu, lời hát, lời ru à ơi… Ngày nay cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, cùng với sự du nhập của những giá trị văn hoá trên thế giới, những truyền thống dân tộc bị mai một và bị biến đổi; nhưng truyền thống yêu nước của dân tộc sẽ không bao giờ bị thay đổi, nó như một ngọn lửa âm ỉ cháy trong tâm hồn mỗi con người và khi có điều kiện hoàn cảnh, thử thách sẽ được bùng cháy. Trong thời gian vụ việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, những người con đất Việt ở khắp mọi miền đất nước và ở hải ngoại đã bộc lộ rõ lòng yêu nước luôn luôn bùng cháy trong tâm hồn họ. Họ đoàn kết lại, chung lòng phản đối mãnh liệt hành động sai trái và tư tưởng lệch lạc của Trung Quốc.
Tóm lại, chúng ta cần phải luôn cảnh giác với những hành động này và tránh xa nó. Cần phải thể hiện lòng yêu nước đúng lúc, đúng chỗ. Và bản thân tôi cũng phải nuôi dưỡng và phát triển lòng yêu nước cho bản thân để góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp và vững mạnh.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam ta, đã có biết bao tấm gương anh hùng dám liều mình đứng lên chống lại bọn giặc xâm lược mang lại hạnh phúc, vinh quang cho đất nước. Trong số đó ta có thể kể đến các anh hùng như: Lí Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo,… Đó là những tấm gương hi sinh anh dũng cho đất nước trọn một niềm vui hòa bình. Để có thể đánh thắng được lũ giặc bạo tàn, ngoài sự mưu trí, dũng lược thì lòng yêu nước sâu sắc là một trong những sức mạnh.
Vậy lòng yêu nước có nghĩa là gì? Lòng yêu nước là một tình cảm thiêng liêng, quý báu mà bất cứ người dân nào cũng có đối với đất nước mà mình đang sinh sống, tồn tại. Và tình cảm thiêng liêng đó được trỗi dậy mạnh mẽ hơn cả trong những giai đoạn lịch sử dân tộc phải gồng mình trong các cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Ở đất nước Việt Nam chúng ta, bất cứ người dân nào cũng luôn tồn tại lòng yêu nước mãnh liệt. Cụ thể là khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan xuống vùng biển của Việt Nam thì trong tim của mỗi con người Việt trỗi dậy một nỗi bất bình mạnh mẽ, tạo thành một làn sóng phản đối quyết liệt đối với hành vi, ứng xử không đúng đắn đó. Đâu đâu tại Việt Nam cũng như trên thế giới, hễ là người Việt Nam đều nêu cao tinh thần yêu nước và phản đối Trung Quốc. Hay những thanh niên hiện nay đủ tuổi phải thực thi lệnh gọi Nghĩa vụ quân sự luôn hăng hái, xung phong, xung kích lên đường thực hiện nghĩa vụ cao quý, thiêng liêng của mình. Dù chúng ta đang sống trong thời bình, nhưng không có nghĩa là chúng ta lơ là với bất kì hành động khiêu khích nào, chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta luôn có kế hoạch xây dựng, củng cố quốc phòng vững mạnh, chắc chắn, là lực lượng tiên phong để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và đất nước Việt Nam ngày càng vững bền. Đó chính là những hành động của lòng yêu nước sâu sắc.
Nói tóm lại, trong mỗi con người Việt Nam ta đều sẵn sàng một lòng yêu nước sâu sắc. Chỉ có một số ít người vì hám lợi mà bán rẻ đất nước. Riêng bản thân tôi, tôi sẽ học tập thật tốt, là con ngoan trò giỏi để mai sau thành tài góp công xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh để xứng danh với các cường quốc năm châu bốn bể.
(Bài làm cùa HS)
>> Xem thêm Đề 32: Suy nghĩ của em về lòng nhân ái tại đây.
Tags:Đề 31 · Lòng yêu nước · Văn chọn lọc 9
|
Đề 31 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề học sinh giỏi Tiếng Việt 5 tả con vật
1. Điền từ trai hay nam, gái hay nữ vào chỗ trông trong các thành ngữ, tục ngữ, câu văn dưới đây sao cho thích hợp:
a) Làm … cho đáng nên …
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai đã từng.
b) Luật pháp đã quy định rõ quyền bình đẳng giữa … và …
c) … tài, … đảm.
d) Những bộ đồng phục, đồng phục … của trường em rất đẹp.
e) … mà chi, … mà chi
Sinh con có nghĩa có nghi là hơn.
2. Viết lại các câu văn dưới đây sau khi sửa lại dấu phẩy đặt sai vị trí:
a) Anh Kim Đồng nhanh trí dũng cảm, tuyệt vời.
b) Trên đường ra nơi xử bắn chị, Võ Thị Sáu ngắt một bông hoa cài lên mái tóc.
c) Chúng em luôn nhớ ơn những anh hùng đã hi sinh, vì dân vì nước.
c) Rừng cây im lặng tiếng chim gù, nghe trầm âm.
3. Trong bài Thợ rèn, nhà thơ Khánh Nguyên viết:
Làm thợ rèn mùa hè có nực
Quai một trận, nước tu ừng ực
Hai vai trần bóng nhẫy mồ hôi
Cũng có khi thấy thở qua tai.
Làm thợ rèn vui như diễn kịch
Râu bằng than mọc lên bằng thích
Nghịch ồ đây già trẻ như nhau
Nên nụ cười nào có tắt đâu.
4. Tả con vật rất quen thuộc và gắn bó với tuổi thơ của em (hoặc với những người dân ở địa phương em).
|
Topic 31 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Topic for good students in Vietnamese 5: describing animals
1. Fill in the words boy or man, girl or woman in the idioms, proverbs, and sentences below as appropriate:
a) Do... as it should...
Phu Xuan also experienced it, Dong Nai had it.
b) The law clearly stipulates equal rights between … and …
c) … talent, … courage.
d) My school's uniforms, uniforms... are very beautiful.
e) … but why, … but why
Giving birth means having doubts.
2. Rewrite the sentences below after correcting the misplaced commas:
a) Mr. Kim Dong is quick-witted, brave, and wonderful.
b) On the way to the place where she was shot, Vo Thi Sau picked a flower and put it in her hair.
c) We always remember the heroes who sacrificed their lives for the people and the country.
c) The forest is silent, the sound of birds cooing sounds deep.
3. In the article The Blacksmith, poet Khanh Nguyen wrote:
Being a blacksmith in the summer is stressful
After a while, the water gulps down
His bare shoulders were shiny with sweat
Sometimes you can also see breathing through your ears.
Being a blacksmith is as fun as acting
Charcoal beards grow with maple
This kid is young and old alike
So the smile never fades.
4. Describe an animal that is very familiar and attached to your childhood (or to the people in your locality).
|
Đề 32 -Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề học sinh giỏi Tiếng Việt tả cảnh quê hương
1. Chép lại đoạn văn dưới đây, sau khi đặt dấu chấm hoặc dấu phẩy cho đúng ở những chỗ có gạch chéo (/)
Bé mới mười tuổi / bữa cơm / Bé nhường hết thức ăn cho em / hằng ngày / Bé đi câu cá bống về băm sả / hoặc di lượm vỏ đạn giặc ở ngoài gò về cho mẹ / thấy cái thau / cái vung nào gỉ người ta vứt / Bé đem về cho ông Mười quân giới /
(Theo Nguyễn Thi)
2. Đặt câu có sử dụng dấu hai chấm cho mỗi trường hợp sau:
a) Đùng dấu hai chấm để tách lòi giải thích về các loại cây (hoặc: hoa, quả) với bộ phận đứng trước nói về khu vườn.
b) Dùng dấu hai chấm để tách lòi giải thích về một số phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam với bộ phận đứng trước có ý giới thiệu.
c) Dùng dấu hai chấm (phối hợp với dấu gạch ngang đầu dòng) để báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của bố (hoặc: mẹ, anh, chị) đối với em.
d) Dùng dấu hai chấm (phối hợp với dấu ngoặc kép) để báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là một thành ngữ (hoặc tục ngữ) mà em dẫn ra.
3. Nói về nhân vật chị Sứ (người phụ nữ anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ), trong tác phẩm Hòn Đấtcủa nhà văn Anh Đức có đoạn viết:
Đọc đoạn văn trên, em hiểu được vì sao chị Sứ rất yêu quý và gắn bó với quê hương?
4. Tả một cảnh đẹp ở quê hương mà em yêu thích.
|
Topic 32 - Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
A question for good Vietnamese students to describe their homeland
1. Copy the paragraph below, after placing periods or commas correctly in the places with slashes (/)
The child is only ten years old / at mealtime / He gives all his food to his younger brother / every day / He goes goby fishing and comes back to chop lemongrass / or collects enemy bullet shells from the mound to bring back to his mother / sees a pot / a pot that looks rusty I throw it away / You bring it back to me Ten military precepts /
(According to Nguyen Thi)
2. Make sentences using colons for each of the following cases:
a) Use a colon to separate the explanation about the plants (or: flowers, fruits) from the preceding part about the garden.
b) Use a colon to separate the explanation of some good qualities of Vietnamese women from the preceding part intended to introduce.
c) Use a colon (coordinated with a dash) to signal that the part of the sentence that follows it is what your father (or: mother, brother, sister) said to you.
d) Use a colon (in combination with quotation marks) to signal that the part of the sentence following it is an idiom (or proverb) that you cited.
3. Talking about the character of Ms. Su (a heroic woman in the resistance war against America), in the work Hon Dat by writer Anh Duc, there is a passage:
Reading the above passage, do you understand why Ms. Su loves and is attached to her homeland?
4. Describe a beautiful scene in your hometown that you love.
|
Đề 32: Thuyết minh về loài hoa em yêu – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 32: Thuyết minh về loài hoa em yêu
Bài làm
Mùa hè, mùa của nắng. Trên những con đường, sắc đỏ của hoa phượng, sắc vàng của hoa điệp hoà cùng với sắc tím của bằng lăng như rực rỡ hơn dưới ánh mặt trời chói chang. Thế nhưng dưới hồ lại có những cánh hoa với sắc hồng bình dị hay sắc trắng thanh tao lấp ló sau những chiếc lá và toả hương thơm dìu dịu làm giảm bớt đi cái không khí nóng nực. Đó là hoa sen – loài hoa đặc trưng của mùa hè và cũng là loài hoa tôi yêu thích nhất.
Từ rất lâu, cách chúng ta hơn một trăm triệu năm về trước, sen đã bắt đầu xuất hiện và mọc dọc theo con sông Nin huyền thoại ở đất nước Ai Cập. Sen là loài cây túc thảo, ưa ánh sáng, thường sống ở vùng đầm lầy, ao, hồ nông hoặc ngập nước. Qua con đường tơ lụa, sen được mang đến và trồng ở Ba Tư, An Độ, Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Nhưng có lẽ do quá gần gũi, quá thân thuộc với con người Việt Nam nên trong dân gian vẫn lan truyền sự tích về hoa sen.
Truyện kể rằng có hai cô gái, một chị một em không những xinh đẹp mà còn hát hay múa giỏi nổi tiếng cả vùng. Nghe tiếng hai cô, một tên hào phú độc ác sai người bắt cô chị về. Để giữ trinh tiết, cô chị nhảy xuống hồ tự vẫn. Quá thương chị, cô em cũng nhảy xuống theo. Lạ kì thay, sau đó trên hồ xuất hiện những bông hoa trắng và hồng vô cùng đẹp đẽ, toả hương thơm thanh khiết như tâm hồn của hai cô gái. Đó là hoa sen.
Hoa sen có thân rễ mọc trong bùn lầy của ao hồ. Dù vậy nó không hề bị vấy bẩn mà ngược lại thân rễ (hay ngó sen) trắng muốt. Ngó sen có thể ăn sống hoặc làm các món ăn như súp, canh. Thân sen nhỏ như ngón tay, màu xanh hoặc nâu, có nhiều gai nhỏ li ti. Lá sen to bản, nổi ngay trên mặt nước như những chiếc nón quai thao của các liền chị hát quan họ thường đội. Lá sen dùng để gói cốm. Cốm làng Vòng gói trong lá sen Hồ Tây – một món quà vô cùng đặc biệt của người Hà Thành. Hường cốm hoà quyện với hương lá sen dìu dịu, man mác khiến cho bất kì ai cũng không thể quên. Không chỉ vậy, lá sen không thấm nước, còn áp dụng vào chế tạo các bề mặt tự làm sạch, người ta gọi đó là hiệu ứng lá sen,
Nắng nồng không nhạt, mưa dầm không phai
Dù dưới cái nắng gay gắt của mặt trời hay những cơn mưa rào bất chợt của mùa hè thì hoa sen vẫn giữ nguyên sắc tươi sáng, đằm thắm như nó vốn có. Nếu sen trắng với sắc trắng thanh khiết, cánh hoa mềm mại, mỏng manh thì sen với sắc hồng phơn phớt, dáng xinh xinh tựa như đôi hài của người thiếu nữ xưa. Bên trong nhụy vàng bao quanh gương sen tròn đầy đặn.
Hoa sen không chỉ có sắc mà còn có cả hương. Hương sen dìu dịu, thoang thoảng. Đứng bên hồ sen, để cơn gió mang hương sen luồn qua mái tóc, hít hà cái mùi hương đang lan toả trong không gian mới thấy thật bình yên. Chính vì cái hương thơm này mà người ta dùng nó để ướp trà. Đối với người dân Hà Nội, ướp trà sen là một nghệ thuật. Người ta phải dậy thật sớm, khi mặt trời còn chưa tỉnh giấc, lấy nhụy vàng từ những bông sen tươi mang về ủ với trà, hương sen đượm vào trong từng lá trà, uống sao mà đậm đà. Người dân Huế lại ướp trà vào ban đêm, khi trời đất giao hoà, những bông sen mới he hé, người ta bỏ trà vào lòng hoa rồi buộc chặt lại, ép không cho hoa nở, sáng hôm sau mới thu trà. Những chén trà Huế đã làm say lòng biết bao nhiêu du khách.
Nhiều người cho rằng hoa sen đâu cũng có nhưng chẳng có nơi nào sen lại đẹp như ở Huế. Quả thật sự tĩnh lặng, không khí trầm lắng của miền đất cố đô tạo cho hoa sen ớ đây cái gì đó khác biệt. Bước vào cánh cổng đại nội mùa hè, hai bên hồ Thượng Tứ và Tịnh Tâm rực sắc. Sáng sớm trên những con đường Huế, gánh hoa của các bà, các chị đã đầy hương sắc sen. Những bông hoa sen nằm gối đầu lên những phiến lá sen xanh rì. Thu về, sen tàn, những cánh hoa rơi nhẹ nhàng xuống mặt hồ. Thế nhưng vẫn phảng phất đâu đây hương sen dịu mát. Hương sen Huế như níu giữ chân người đi, đọng lại trong lòng chút gì xao xuyến:
Đầu hè nở, thu về hoa ủ rũ
Vương vấn hồn hoa vẫn ngát hương
Hoa sen còn có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của người Việt. Theo quan niệm của người xưa, sen tượng trưng cho sự đức hạnh, sự thanh khiết:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhi vàng
Nhị vàng, bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Sen có sức sống mạnh mẽ, trong bùn lầy nhưng sen vẫn vươn mình thoát khỏi mặt nước, kết nụ khai hoa và toả hương thơm ngát tràn đầy cả không gian. Thật kì lạ, sen mọc ở đâu thì nước ở đó lắng trong chứ không vẩn đục. Đó là sen đã thay đổi hoàn cảnh sống của chính nó để trở nên đẹp hơn, tinh khiết hơn.
Ít loài hoa nào có nhiều phẩm chất tốt đẹp như hoa sen. Có lẽ bởi vậy mà Phật giáo chọn sen làm biểu tượng và ví nó với đức tính của người tu hành. Trong quan niệm Phật giáo, sen trắng là sự thuần hoá nhân tính, sen đỏ là biểu tượng của Phật Bà Quan Âm với ý nghĩa là bản chất nguyên thủy của trái tim ; sen xanh tượng trưng cho trí tuệ của con người và sen hồng là biểu tượng của vị tối cao. Sự hình thành của sen là sự luân hồi, nối tiếp liên tục. Hoa nở là quá khứ, đài sen là hiện tại, hạt sen là tương lai.
Trong nghệ thuật, điêu khắc và kiến trúc Phật giáo, hình hoa sen xuất hiện rất nhiều. Từ những ngôi chùa đến bệ tượng phật rồi các bình hoa, bình gốm. Nhưng tiêu biểu nhất là kiến trúc Phật giáo. Một trong những ngôi chùa tựa hoa sen là chùa Một Cột (Hà Nội). Chùa được xây dựng từ giấc mộng đài sen của Lí Thánh Tông. Mái chùa cong cong như cánh hoa sen, một cột thẳng đứng vươn cao như thân sen đỡ lấy bông sen. Từ trên nhìn xuống, chùa Một Cột như một bông sen khổng lồ nổi bật giữa hồ sen rộng lớn. Hoa sen là sự giác ngộ, thanh khiết và vô nhiễm.
Không chỉ đi vào đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt Nam mà sen còn đi vào đời sống sinh hoạt thường ngày. Hoa sen dùng để cắm trang trí trong nhà, trên bàn làm việc, phòng khách bởi vẻ đẹp thanh tao, trong sạch của nó. Hoa sen đối với chị em phụ nữ như một loại mĩ phẩm thiên nhiên cực tốt, hơn hẳn những loại phấn son đắt tiền khác. Hoa sen còn là một trong những nét văn hoá ẩm thực của người Việt: chè sen, vịt hấp lá sen, mứt sen… Chè sen ăn ngọt ngọt, thanh thanh, hương vị khó quên. Hoa sen còn là vị thuốc dùng để chữa say nắng và suy nhược cơ thể. Tâm sen đắng chát nhưng là vị thuốc an thần cho những ai mất ngủ.
Hoa sen mang nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Từ những câu ca dao, sự tích hoa sen đến những bài thơ về sen cũng đều ngợi ca vẻ đẹp trong sạch, tinh khiết của sen. Hãy đi dạo bên Hồ Tây, hít hà không khí ở đó hay đến tham quan vùng đất Huế, lặng ngắm những đoá sen nở để thấy và cảm nhận được những gì đẹp nhất từ sen.
PHÙNG THỊ KIM ANH
Lời nhận xét:
– Người viết đã thể hiện vốn hiểu biết phong phú và tình yêu của mình với loài hoa sen: “Đối với người dân Hà Nội, ướp trà sen là một nghệ thuật. Người ta phải dậy thật sớm, khi mặt trời còn chưa tỉnh giấc, lấy nhụy vàng từ những bông sen tươi mang về ủ với trà, hương sen đượm vào trong từng lá trà, uống sao mà đậm đà. Người dân Huê lại ướp trà vào ban đêm, khi trời đất giao hoà, những bông sen mới he hé, người tu bỏ trà vào lòng hoa rồi buộc chặt lại, ép không cho hoa nở, súng hôm sau mới thu trà. Những chén trà Huế đã làm say lòng biết bao nhiêu du khách”.
– Vân phong trong sáng, giản dị: “Sen có sức sống mạnh mẽ, trong bùn lầy nhưng sen vẫn vươn mình thoát khỏi mặt nước, kết nụ khai hoa và toả hương thơm ngút tràn đầy cả không gian. Thật kì lạ, sen mọc ở đâu thì nước ở đó lắng trong chứ không vẩn đục. Đó là sen đã thay đổi hoàn cảnh sống của chính nó để trở nên đẹp hơn, tinh khiết hơn”.
– Cần gia tăng sự liên hệ, so sánh sen với một số loài hoa khác để bài viết sâu sắc hơn.
|
Đề 32: Thuyết minh về loài hoa em yêu – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 32: Thuyết minh về loài hoa em yêu
Bài làm
Mùa hè, mùa của nắng. Trên những con đường, sắc đỏ của hoa phượng, sắc vàng của hoa điệp hoà cùng với sắc tím của bằng lăng như rực rỡ hơn dưới ánh mặt trời chói chang. Thế nhưng dưới hồ lại có những cánh hoa với sắc hồng bình dị hay sắc trắng thanh tao lấp ló sau những chiếc lá và toả hương thơm dìu dịu làm giảm bớt đi cái không khí nóng nực. Đó là hoa sen – loài hoa đặc trưng của mùa hè và cũng là loài hoa tôi yêu thích nhất.
Từ rất lâu, cách chúng ta hơn một trăm triệu năm về trước, sen đã bắt đầu xuất hiện và mọc dọc theo con sông Nin huyền thoại ở đất nước Ai Cập. Sen là loài cây túc thảo, ưa ánh sáng, thường sống ở vùng đầm lầy, ao, hồ nông hoặc ngập nước. Qua con đường tơ lụa, sen được mang đến và trồng ở Ba Tư, An Độ, Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Nhưng có lẽ do quá gần gũi, quá thân thuộc với con người Việt Nam nên trong dân gian vẫn lan truyền sự tích về hoa sen.
Truyện kể rằng có hai cô gái, một chị một em không những xinh đẹp mà còn hát hay múa giỏi nổi tiếng cả vùng. Nghe tiếng hai cô, một tên hào phú độc ác sai người bắt cô chị về. Để giữ trinh tiết, cô chị nhảy xuống hồ tự vẫn. Quá thương chị, cô em cũng nhảy xuống theo. Lạ kì thay, sau đó trên hồ xuất hiện những bông hoa trắng và hồng vô cùng đẹp đẽ, toả hương thơm thanh khiết như tâm hồn của hai cô gái. Đó là hoa sen.
Hoa sen có thân rễ mọc trong bùn lầy của ao hồ. Dù vậy nó không hề bị vấy bẩn mà ngược lại thân rễ (hay ngó sen) trắng muốt. Ngó sen có thể ăn sống hoặc làm các món ăn như súp, canh. Thân sen nhỏ như ngón tay, màu xanh hoặc nâu, có nhiều gai nhỏ li ti. Lá sen to bản, nổi ngay trên mặt nước như những chiếc nón quai thao của các liền chị hát quan họ thường đội. Lá sen dùng để gói cốm. Cốm làng Vòng gói trong lá sen Hồ Tây – một món quà vô cùng đặc biệt của người Hà Thành. Hường cốm hoà quyện với hương lá sen dìu dịu, man mác khiến cho bất kì ai cũng không thể quên. Không chỉ vậy, lá sen không thấm nước, còn áp dụng vào chế tạo các bề mặt tự làm sạch, người ta gọi đó là hiệu ứng lá sen,
Nắng nồng không nhạt, mưa dầm không phai
Dù dưới cái nắng gay gắt của mặt trời hay những cơn mưa rào bất chợt của mùa hè thì hoa sen vẫn giữ nguyên sắc tươi sáng, đằm thắm như nó vốn có. Nếu sen trắng với sắc trắng thanh khiết, cánh hoa mềm mại, mỏng manh thì sen với sắc hồng phơn phớt, dáng xinh xinh tựa như đôi hài của người thiếu nữ xưa. Bên trong nhụy vàng bao quanh gương sen tròn đầy đặn.
Hoa sen không chỉ có sắc mà còn có cả hương. Hương sen dìu dịu, thoang thoảng. Đứng bên hồ sen, để cơn gió mang hương sen luồn qua mái tóc, hít hà cái mùi hương đang lan toả trong không gian mới thấy thật bình yên. Chính vì cái hương thơm này mà người ta dùng nó để ướp trà. Đối với người dân Hà Nội, ướp trà sen là một nghệ thuật. Người ta phải dậy thật sớm, khi mặt trời còn chưa tỉnh giấc, lấy nhụy vàng từ những bông sen tươi mang về ủ với trà, hương sen đượm vào trong từng lá trà, uống sao mà đậm đà. Người dân Huế lại ướp trà vào ban đêm, khi trời đất giao hoà, những bông sen mới he hé, người ta bỏ trà vào lòng hoa rồi buộc chặt lại, ép không cho hoa nở, sáng hôm sau mới thu trà. Những chén trà Huế đã làm say lòng biết bao nhiêu du khách.
Nhiều người cho rằng hoa sen đâu cũng có nhưng chẳng có nơi nào sen lại đẹp như ở Huế. Quả thật sự tĩnh lặng, không khí trầm lắng của miền đất cố đô tạo cho hoa sen ớ đây cái gì đó khác biệt. Bước vào cánh cổng đại nội mùa hè, hai bên hồ Thượng Tứ và Tịnh Tâm rực sắc. Sáng sớm trên những con đường Huế, gánh hoa của các bà, các chị đã đầy hương sắc sen. Những bông hoa sen nằm gối đầu lên những phiến lá sen xanh rì. Thu về, sen tàn, những cánh hoa rơi nhẹ nhàng xuống mặt hồ. Thế nhưng vẫn phảng phất đâu đây hương sen dịu mát. Hương sen Huế như níu giữ chân người đi, đọng lại trong lòng chút gì xao xuyến:
Đầu hè nở, thu về hoa ủ rũ
Vương vấn hồn hoa vẫn ngát hương
Hoa sen còn có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của người Việt. Theo quan niệm của người xưa, sen tượng trưng cho sự đức hạnh, sự thanh khiết:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhi vàng
Nhị vàng, bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Sen có sức sống mạnh mẽ, trong bùn lầy nhưng sen vẫn vươn mình thoát khỏi mặt nước, kết nụ khai hoa và toả hương thơm ngát tràn đầy cả không gian. Thật kì lạ, sen mọc ở đâu thì nước ở đó lắng trong chứ không vẩn đục. Đó là sen đã thay đổi hoàn cảnh sống của chính nó để trở nên đẹp hơn, tinh khiết hơn.
Ít loài hoa nào có nhiều phẩm chất tốt đẹp như hoa sen. Có lẽ bởi vậy mà Phật giáo chọn sen làm biểu tượng và ví nó với đức tính của người tu hành. Trong quan niệm Phật giáo, sen trắng là sự thuần hoá nhân tính, sen đỏ là biểu tượng của Phật Bà Quan Âm với ý nghĩa là bản chất nguyên thủy của trái tim ; sen xanh tượng trưng cho trí tuệ của con người và sen hồng là biểu tượng của vị tối cao. Sự hình thành của sen là sự luân hồi, nối tiếp liên tục. Hoa nở là quá khứ, đài sen là hiện tại, hạt sen là tương lai.
Trong nghệ thuật, điêu khắc và kiến trúc Phật giáo, hình hoa sen xuất hiện rất nhiều. Từ những ngôi chùa đến bệ tượng phật rồi các bình hoa, bình gốm. Nhưng tiêu biểu nhất là kiến trúc Phật giáo. Một trong những ngôi chùa tựa hoa sen là chùa Một Cột (Hà Nội). Chùa được xây dựng từ giấc mộng đài sen của Lí Thánh Tông. Mái chùa cong cong như cánh hoa sen, một cột thẳng đứng vươn cao như thân sen đỡ lấy bông sen. Từ trên nhìn xuống, chùa Một Cột như một bông sen khổng lồ nổi bật giữa hồ sen rộng lớn. Hoa sen là sự giác ngộ, thanh khiết và vô nhiễm.
Không chỉ đi vào đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt Nam mà sen còn đi vào đời sống sinh hoạt thường ngày. Hoa sen dùng để cắm trang trí trong nhà, trên bàn làm việc, phòng khách bởi vẻ đẹp thanh tao, trong sạch của nó. Hoa sen đối với chị em phụ nữ như một loại mĩ phẩm thiên nhiên cực tốt, hơn hẳn những loại phấn son đắt tiền khác. Hoa sen còn là một trong những nét văn hoá ẩm thực của người Việt: chè sen, vịt hấp lá sen, mứt sen… Chè sen ăn ngọt ngọt, thanh thanh, hương vị khó quên. Hoa sen còn là vị thuốc dùng để chữa say nắng và suy nhược cơ thể. Tâm sen đắng chát nhưng là vị thuốc an thần cho những ai mất ngủ.
Hoa sen mang nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Từ những câu ca dao, sự tích hoa sen đến những bài thơ về sen cũng đều ngợi ca vẻ đẹp trong sạch, tinh khiết của sen. Hãy đi dạo bên Hồ Tây, hít hà không khí ở đó hay đến tham quan vùng đất Huế, lặng ngắm những đoá sen nở để thấy và cảm nhận được những gì đẹp nhất từ sen.
PHÙNG THỊ KIM ANH
Lời nhận xét:
– Người viết đã thể hiện vốn hiểu biết phong phú và tình yêu của mình với loài hoa sen: “Đối với người dân Hà Nội, ướp trà sen là một nghệ thuật. Người ta phải dậy thật sớm, khi mặt trời còn chưa tỉnh giấc, lấy nhụy vàng từ những bông sen tươi mang về ủ với trà, hương sen đượm vào trong từng lá trà, uống sao mà đậm đà. Người dân Huê lại ướp trà vào ban đêm, khi trời đất giao hoà, những bông sen mới he hé, người tu bỏ trà vào lòng hoa rồi buộc chặt lại, ép không cho hoa nở, súng hôm sau mới thu trà. Những chén trà Huế đã làm say lòng biết bao nhiêu du khách”.
– Vân phong trong sáng, giản dị: “Sen có sức sống mạnh mẽ, trong bùn lầy nhưng sen vẫn vươn mình thoát khỏi mặt nước, kết nụ khai hoa và toả hương thơm ngút tràn đầy cả không gian. Thật kì lạ, sen mọc ở đâu thì nước ở đó lắng trong chứ không vẩn đục. Đó là sen đã thay đổi hoàn cảnh sống của chính nó để trở nên đẹp hơn, tinh khiết hơn”.
– Cần gia tăng sự liên hệ, so sánh sen với một số loài hoa khác để bài viết sâu sắc hơn.
|
Đề 33 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề Tiếng Việt tả cảnh đẹp em từng đến thăm
1. – Tìm 5 từ láy thường chỉ giọng nói, cách nói của trẻ em. (VD: bi bô)
– Đặt 2 câu vổi 2 từ láy (mỗi câu có 1 từ) trong số’ những từ em tìm được.
2. a) Đoạn văn dưới đây có những câu cần đặt dấu ngoặc kép để đánh dấu lời nói trực tiếp của nhân vật. Em hãy viết lại những câu đó và đặt dấu ngoặc kép cho đúng:
Mèo con nhảy một cái thật cao theo bướm, rồi cuộn tròn lăn lông lốc giữa sân, cho đến lúc chạm bịch vào gốc cau. Rì rào, rì rào, con mèo nào mới về thế? Cây cau lắc lư chòm lá trên cao tít hỏi xuống. Rì rào, rì rào, chú bé leo lên đây nào! Mèo con ôm lấy thân cau, trèo nhanh thoăn thoắt. Rì rào, rì rào, ừ chú trèo khá đấy! Mèo con ngứa vuốt, cào cào thân cau sồn sột. Ấy, ấy! Chú làm xước cả mình tôi rồi, đê vuốt sắc mà bắt chuột chứ! Mèo con tiu nghỉu cúp tai lại, tụt xuống đất. Rì rào, rì rào, chòm cau vẫn lắc lư trên cao.
(Theo Nguyễn Đình Thi)
b) Đặt 1 câu có dùng dấu ngoặc kép để đánh dấu lời nói trực tiếp hoặc ý nghĩ của nhân vật ; 1 câu có dùng dấu ngoặc kép để đánh dấu những từ ngữ có ý nghĩa đặc biệt.
Đi qua thời ấu thơ
Bao điều bay đi mất
Chỉ còn trong đời thật
Tiếng người nói với con
Hạnh phúc khó khăn hơn
Mọi điều con đã thấy
Nhưng là con giành lấy
Từ hai bàn tay con.
Qua đoạn thơ, tác giả muốn nói với con điều gì khi con lớn lên và từ giã thời ấu thơ?
4. Tả cảnh đẹp ở một nơi em đã từng đến thăm và cảm thấy thích thú.
|
Topic 33 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Vietnamese topic describing the beautiful scenery you have visited
1. – Find 5 common words that refer to children's voices and ways of speaking. (eg: babbling)
– Make 2 sentences with 2 red words (each sentence has 1 word) among the words you find.
2. a) The passage below has sentences that need quotation marks to mark the character's direct speech. Please rewrite those sentences and put quotation marks correctly:
The kitten jumped very high after the butterfly, then curled up and rolled in the middle of the yard, until it hit the areca tree. Whisper, whisper, which cat just came back? The areca tree swayed its leaves high up and asked down. Whisper, whisper, little boy climb up here! The kitten hugged the areca trunk and climbed quickly. Whisper, whisper, yes he climbed quite well! Kittens have itchy claws and scratch their bodies. Hey, there! You scratched my whole body, why don't you catch mice with sharp claws? The kitten sadly cupped its ears and fell to the ground. Whispering, whispering, the areca tree still sways high above.
(According to Nguyen Dinh Thi)
b) Write a sentence using quotation marks to mark the character's direct speech or thoughts; A sentence uses quotation marks to mark words with special meaning.
Going through childhood
Many things fly away
Only in real life
Human voice speaking to the child
Happiness is more difficult
Everything I've seen
But I took it
From my two hands.
Through the poem, what does the author want to tell children when they grow up and say goodbye to childhood?
4. Describe a beautiful scene in a place you have visited and enjoyed.
|
Đề 34 – Suy nghĩ của em về lòng khiêm tốn – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ của em về lòng khiêm tốn
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến khái niệm: lòng khiêm tốn.
Vậy lòng khiêm tốn có nghĩa là gì?
Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho lòng khiêm tốn?
Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người không có lòng khiêm tốn, không nhận ra được khả năng thật sự của bản thân, lúc nào cũng tự cao tự đại cho mình là nhất thì những con người này phải bị phê phán, lên án ra sao?
Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Trong vô vàn nhũng đức tính tốt của con người thì khiêm tốn, dường như có rất nhiều giá trị quý báu.
Vậy đức tính khiêm tốn, có giá trị tinh thần như thế nào trong xã hội của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
Khiêm tốn là gì? => Có nghĩa là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự đề cao, không kiêu căng, tự phụ.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Như thế nào? Tại sao? Vì sao?)
* Người có đức tính khiêm tốn là người như thế nào?
Ngưòi có tính khiêm tốn là người tự cho mình chưa hoàn thiện luôn phải cố gắng nhiều hơn trong mọi việc.
Khi có nhiều đóng góp trong sự thành công chung, người có tính khiêm tốn, ít khi ca tụng hoặc nêu lên những đóng góp của bản thân.
* Tại sao chúng ta phải khiêm tốn?
Bởi vì nó thể hiện phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi chúng ta.
Giúp ta nâng cao phẩm giá, khiến cho các mối quan hệ thêm bền chặt, khắng khít và tạo được sự tin tưởng lẫn nhau.
Có cuộc sống nhẹ nhàng, ít xô bồ hơn trong xã hội hiện giờ.Giúp cho ta biết tự kiềm chế bản thân: khen người khác thì hết sức chân thành, đúng đắn. Khi chê người khác, lời chê phải thận trọng, nhẹ nhàng mang tính xây dựng.
Nhờ có đức tính này, chúng ta dễ có được địa vị và công việc tốt trong xã hội. Thể hiện sự nhìn xa trông rộng cùa mình.
Tuy vậy, khiêm tốn không có nghĩa là tự hạ thấp bản thân mà phải luôn phấn đấu, nỗ lực nhiều hơn.
Dẫn chứng: Bác Hồ sống một cuộc sống hết khiêm nhường với ngôi nhà sàn gỗ mộc mạc, đơn sơ. Ăn uống đạm bạc, lối sống hết sức giản dị…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
Phê phán, lên án những con người có tính tự cao, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn. Những con người này với địa vị cao thường hay lên mặt, coi thường những người xung quanh.
Dẫn chứng: Tính tự kiêu này ta có thể thấy rõ ràng qua câu tục ngữ: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”.
III. KẾT BÀI
Khiêm tốn, khiêm nhường là đức tính tốt, rất cần thiết cho con người.
Cần phải trau dồi, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức này bằng tất cả việc làm, trước hết là ở chính bản thân mình.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong xã hội hiện đại, để thành công, chúng ta cần trang bị cho bản thân đức tính khiêm tốn bởi vì khi có nó, ta sẽ có những nhìn nhận đúng mực về bản thân. Từ đó, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành quả tốt hơn trong cuộc sống.
Lòng khiêm tốn thật sự rất cần thiết và quan trọng đối với mỗi con người. Đó là thái độ không tự đề cao mình. Đánh giá đúng bản thân, luôn học hỏi người khác và biết kính trên nhường dưới. Những người khiêm tốn là những người luôn hoà nhã nhún nhường, tôn trọng người khác và nghe nhiều hơn là nói. Họ luôn nhanh chóng nhìn nhận và sửa đổi khuyết điểm, học tập những cái hay, cái tốt để hoàn thiện bản thân. Họ cũng không bao giờ khoe khoang những thứ mình đạt được. Bác Hồ là tấm gương sáng cho lòng khiêm tốn. Suốt cuộc đời mình, Bác luôn giữ một cuộc sống giản dị, thanh đạm. Dù ở cương vị của một chù tịch nước, Bác vẫn ở nhà sàn, cùng với những vật dụng giản dị và những món ăn đơn sơ. Khiêm nhường là một đức tính cần thiết và là một thái độ sống đẹp trong xã hội hiện nay. Vì không ai trong chúng ta là hoàn hảo cả. Tất cả những việc chúng ta cần làm là học tập không ngừng ở người khác. Khiêm tốn đó dường như chỉ là một giọt nước giữa đại dương bao la mà thôi, khiêm tốn sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân và mở rộng hiểu biết của mình, khiêm tốn là thái độ cần có của mỗi chúng ta, bất kể là ai, làm chức vụ gì, tài giỏi thế nào thì đức tính đó sẽ làm chúng ta có thiện cảm với mọi người, và được mọi người yêu quý ta cũng như sẽ có những mối quan hệ gần gũi và thân thiết.
Tóm lại, khiêm tốn là đức tính góp phần nâng cao giá trị con người. Bản thân tôi cũng phải tự rèn luyện bản thân cho minh đức tính khiêm tốn để phát triển bản thân cũng như góp phần phát triển xã hội và đất nước.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta phải tự trang bị cho mình những hành trang cần thiết để có thể tự hoàn thiện chính mình và hoà nhập với cộng đồng, vào xã hội. Một trong những đức tính cần thiết nhất để có thể hội nhập, hoà đồng và có được mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh đó là lòng khiêm tốn. Khiêm tốn không chỉ là nghệ thuật mà còn là nền tảng đi đến thành công trong cuộc sống. Vậy ta hiểu “khiêm tốn” là như thế nào?
Quả đúng như vậy, khiêm tốn là một trong những đức tính tốt đẹp của con người, khiêm tốn là không tự đề cao chính bản thân, đánh giá đúng mực về bản thân, phải luôn học hỏi người khác và biết kính trên nhường dưới. Những người khiêm tốn thường rất hoà nhã, nhún nhường, tôn trọng người khác và nghe nhiều hơn nói. Họ luôn nhanh chóng nhìn nhận và sửa đổi khuyết điểm của mình, học tập những cái hay, cái tốt từ người khác và không tự mãn với những gì mình đạt được.
Còn đối với những người không có đức tính khiêm tốn thì sẽ ngủ quên trên vinh quang. Một số khác lại tự ti, xem nhẹ bản thân minh, rụt rè và nhút nhát. Những con người như thế sẽ rất khó thành công trong công việc. Từ đó đế lại những hậu quả rất lớn đó là vốn kiến thức sẽ bị thu hẹp, gây đố kị dẫn đến thất bại.
Và ngược lại với đức tính khiêm tốn là sự kiêu căng, tự mãn. Những người có tính tự kiêu căng thường hay tự đề cao mình, luôn coi thường những người xung quanh, dễ bị mọi người xa lánh.
Đối với tôi, những đức tính tốt như đức tính khiêm tốn nên là thứ cần thiết ở mọi người, giúp cho tôi nhận thấy đúng đắn hơn về bản thân mình, hoàn thiện mình
hơn trong cách ứng xử của cuộc sống thường ngày. Tóm lại, khiêm tốn thực sự là đức tính góp phần nâng cao giá trị của con người. Đó là một trong những đức tính mà Bác Hồ đã dạy cho thiếu niên Việt Nam. Chính vì vậy, chúng ta cần phải kính trên nhường dưới, không ngừng học hỏi, rèn luyện bản thân và không tự mãn trước thành quả mà ta đạt được.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 35: Suy nghĩ về lời dạy của Phật: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung” tại đây.
Tags:Đề 34 · Lòng khiêm tốn · Văn chọn lọc 9
|
Đề 34 – Suy nghĩ của em về lòng khiêm tốn – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ của em về lòng khiêm tốn
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến khái niệm: lòng khiêm tốn.
Vậy lòng khiêm tốn có nghĩa là gì?
Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho lòng khiêm tốn?
Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người không có lòng khiêm tốn, không nhận ra được khả năng thật sự của bản thân, lúc nào cũng tự cao tự đại cho mình là nhất thì những con người này phải bị phê phán, lên án ra sao?
Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Trong vô vàn nhũng đức tính tốt của con người thì khiêm tốn, dường như có rất nhiều giá trị quý báu.
Vậy đức tính khiêm tốn, có giá trị tinh thần như thế nào trong xã hội của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
Khiêm tốn là gì? => Có nghĩa là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự đề cao, không kiêu căng, tự phụ.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Như thế nào? Tại sao? Vì sao?)
* Người có đức tính khiêm tốn là người như thế nào?
Ngưòi có tính khiêm tốn là người tự cho mình chưa hoàn thiện luôn phải cố gắng nhiều hơn trong mọi việc.
Khi có nhiều đóng góp trong sự thành công chung, người có tính khiêm tốn, ít khi ca tụng hoặc nêu lên những đóng góp của bản thân.
* Tại sao chúng ta phải khiêm tốn?
Bởi vì nó thể hiện phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi chúng ta.
Giúp ta nâng cao phẩm giá, khiến cho các mối quan hệ thêm bền chặt, khắng khít và tạo được sự tin tưởng lẫn nhau.
Có cuộc sống nhẹ nhàng, ít xô bồ hơn trong xã hội hiện giờ.Giúp cho ta biết tự kiềm chế bản thân: khen người khác thì hết sức chân thành, đúng đắn. Khi chê người khác, lời chê phải thận trọng, nhẹ nhàng mang tính xây dựng.
Nhờ có đức tính này, chúng ta dễ có được địa vị và công việc tốt trong xã hội. Thể hiện sự nhìn xa trông rộng cùa mình.
Tuy vậy, khiêm tốn không có nghĩa là tự hạ thấp bản thân mà phải luôn phấn đấu, nỗ lực nhiều hơn.
Dẫn chứng: Bác Hồ sống một cuộc sống hết khiêm nhường với ngôi nhà sàn gỗ mộc mạc, đơn sơ. Ăn uống đạm bạc, lối sống hết sức giản dị…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
Phê phán, lên án những con người có tính tự cao, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn. Những con người này với địa vị cao thường hay lên mặt, coi thường những người xung quanh.
Dẫn chứng: Tính tự kiêu này ta có thể thấy rõ ràng qua câu tục ngữ: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”.
III. KẾT BÀI
Khiêm tốn, khiêm nhường là đức tính tốt, rất cần thiết cho con người.
Cần phải trau dồi, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức này bằng tất cả việc làm, trước hết là ở chính bản thân mình.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong xã hội hiện đại, để thành công, chúng ta cần trang bị cho bản thân đức tính khiêm tốn bởi vì khi có nó, ta sẽ có những nhìn nhận đúng mực về bản thân. Từ đó, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành quả tốt hơn trong cuộc sống.
Lòng khiêm tốn thật sự rất cần thiết và quan trọng đối với mỗi con người. Đó là thái độ không tự đề cao mình. Đánh giá đúng bản thân, luôn học hỏi người khác và biết kính trên nhường dưới. Những người khiêm tốn là những người luôn hoà nhã nhún nhường, tôn trọng người khác và nghe nhiều hơn là nói. Họ luôn nhanh chóng nhìn nhận và sửa đổi khuyết điểm, học tập những cái hay, cái tốt để hoàn thiện bản thân. Họ cũng không bao giờ khoe khoang những thứ mình đạt được. Bác Hồ là tấm gương sáng cho lòng khiêm tốn. Suốt cuộc đời mình, Bác luôn giữ một cuộc sống giản dị, thanh đạm. Dù ở cương vị của một chù tịch nước, Bác vẫn ở nhà sàn, cùng với những vật dụng giản dị và những món ăn đơn sơ. Khiêm nhường là một đức tính cần thiết và là một thái độ sống đẹp trong xã hội hiện nay. Vì không ai trong chúng ta là hoàn hảo cả. Tất cả những việc chúng ta cần làm là học tập không ngừng ở người khác. Khiêm tốn đó dường như chỉ là một giọt nước giữa đại dương bao la mà thôi, khiêm tốn sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân và mở rộng hiểu biết của mình, khiêm tốn là thái độ cần có của mỗi chúng ta, bất kể là ai, làm chức vụ gì, tài giỏi thế nào thì đức tính đó sẽ làm chúng ta có thiện cảm với mọi người, và được mọi người yêu quý ta cũng như sẽ có những mối quan hệ gần gũi và thân thiết.
Tóm lại, khiêm tốn là đức tính góp phần nâng cao giá trị con người. Bản thân tôi cũng phải tự rèn luyện bản thân cho minh đức tính khiêm tốn để phát triển bản thân cũng như góp phần phát triển xã hội và đất nước.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta phải tự trang bị cho mình những hành trang cần thiết để có thể tự hoàn thiện chính mình và hoà nhập với cộng đồng, vào xã hội. Một trong những đức tính cần thiết nhất để có thể hội nhập, hoà đồng và có được mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh đó là lòng khiêm tốn. Khiêm tốn không chỉ là nghệ thuật mà còn là nền tảng đi đến thành công trong cuộc sống. Vậy ta hiểu “khiêm tốn” là như thế nào?
Quả đúng như vậy, khiêm tốn là một trong những đức tính tốt đẹp của con người, khiêm tốn là không tự đề cao chính bản thân, đánh giá đúng mực về bản thân, phải luôn học hỏi người khác và biết kính trên nhường dưới. Những người khiêm tốn thường rất hoà nhã, nhún nhường, tôn trọng người khác và nghe nhiều hơn nói. Họ luôn nhanh chóng nhìn nhận và sửa đổi khuyết điểm của mình, học tập những cái hay, cái tốt từ người khác và không tự mãn với những gì mình đạt được.
Còn đối với những người không có đức tính khiêm tốn thì sẽ ngủ quên trên vinh quang. Một số khác lại tự ti, xem nhẹ bản thân minh, rụt rè và nhút nhát. Những con người như thế sẽ rất khó thành công trong công việc. Từ đó đế lại những hậu quả rất lớn đó là vốn kiến thức sẽ bị thu hẹp, gây đố kị dẫn đến thất bại.
Và ngược lại với đức tính khiêm tốn là sự kiêu căng, tự mãn. Những người có tính tự kiêu căng thường hay tự đề cao mình, luôn coi thường những người xung quanh, dễ bị mọi người xa lánh.
Đối với tôi, những đức tính tốt như đức tính khiêm tốn nên là thứ cần thiết ở mọi người, giúp cho tôi nhận thấy đúng đắn hơn về bản thân mình, hoàn thiện mình
hơn trong cách ứng xử của cuộc sống thường ngày. Tóm lại, khiêm tốn thực sự là đức tính góp phần nâng cao giá trị của con người. Đó là một trong những đức tính mà Bác Hồ đã dạy cho thiếu niên Việt Nam. Chính vì vậy, chúng ta cần phải kính trên nhường dưới, không ngừng học hỏi, rèn luyện bản thân và không tự mãn trước thành quả mà ta đạt được.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 35: Suy nghĩ về lời dạy của Phật: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung” tại đây.
Tags:Đề 34 · Lòng khiêm tốn · Văn chọn lọc 9
|
Đề 34 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề Tiếng Việt tả người mà em hằng yêu thương
1. Chia những dòng từ ngữ dưới đây thành hai nhóm: từ ngữ nói về quyền của trẻ em và từ ngữ nói về bổn phân của trẻ em:
a) Được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ
b) Yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ
c) Khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại cơ sở y tế công lập
d) Lễ phép với người lớn, thương yêu em nhỏ
e) Thực hiện trật tự công cộng và an toàn giao thông
g) Học trường tiểu học công lập không phải trả học phí
2. Nêu ví dụ minh hoạ cho mỗi trường hợp sử dụng dấu gạch ngang với tác dụng dưới đây:
a) Đánh dấu chỗ bắt đầu lòi nói của nhân vật trong đốì thoại
b) Đánh dấu phần chú thích trong câu
c) Đánh dấu các ý trong một đoạn liệt kê
3. Trong bài Con cò, nhà thơ Chế Lan Viên viết về lòi ru của người mẹ như sau:
Mai khôn lớn con theo cò đi học,
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.
Lớn lên, lớn lên, lớn lên…
Con làm gì?
Con làm thi sĩ.
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ,
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát cău văn.
Hãy nêu những suy nghĩ của em về hình ảnh con cò trong đoạn thơ trên.
|
Topic 34 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Vietnamese topic to describe the person you love
1. Divide the lines of words below into two groups: words about children's rights and words about children's duties:
a) Get health care and protection
b) Love, respect, and be filial to grandparents and parents
c) Free medical examination and treatment at public medical facilities
d) Be polite to adults and love children
e) Implement public order and traffic safety
g) Studying at a public elementary school does not require tuition
2. Give an illustrative example for each case of using a hyphen with the following effects:
a) Mark the beginning of the character's speech in the dialogue
b) Mark the comment in the sentence
c) Highlight ideas in a list
3. In the song The Stork, poet Che Lan Vien wrote about a mother's lullaby as follows:
When I grow up, I will follow the stork to school.
The stork's white wings flew along the heels of its feet.
Grow up, grow up, grow up…
What do you do?
I am a poet.
The white stork's wings fly without stopping,
Front porch
And in the cool breeze.
Please give your thoughts about the image of the stork in the above poem.
|
Đề 35 – Suy nghĩ về lời dạy của Phật: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung”- Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về lời dạy của Phật
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến khái niệm thông qua lời dạy của Phật: lòng khoan dung.
Vậy lòng khoan dung có nghĩa là gì?
Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho lòng khoan dung?
Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người không có lòng khoan dung, không có sự tha thứ, độ lượng cho những người mắc lỗi, lúc nào cũng tự cho mình là đúng thì những con người này đáng bị phê phán, lên án ra sao?
Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Trong vô vàn những đức tính tốt đẹp và quý báu của con người Việt Nam thì lòng khoan dung là tiêu biểu nhất.
Phật có lời dạy rằng: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung”.
Vậy lời dạy trên có giá trị như thế nào trong xã hội của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
+ Tài sản là gì?
Đó là bao gồm những gì thuộc về vật chất hoặc tinh thần có giá trị giúp cho con người được trở nên sung túc, đầy đủ.
+ Lòng khoan dung là gì?
Chỉ sự tha thứ, độ lượng cho những gì mà người khác mắc lỗi nhưng biết sửa chữa lỗi lầm của mình.
=> Nghĩa của cả câu (lời khuyên, nhắc nhở): So sánh tài sản (thuộc về vật chất) có giá trị rất lớn với lòng khoan dung (thuộc về tinh thần) có giá trị tương đương. Điều đó chứng tỏ, câu nói của Phật đề cao đức tính con người quý giá hơn giá trị vật chất.
* Tại sao chúng ta phải có lòng khoan dung?
+ Bởi vì nó thể hiện phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi chúng ta.
+ Nói khái quát hơn thì lòng khoan dung chính là tấm lòng yêu thương con người, là sự chia sẻ, quan tâm đến những khó khăn của người khác.
+ Để tha thứ cho một người mắc sai lầm quả thật rất khó khăn nhưng khi ta làm được điều đó sẽ giúp cho việc hàn gắn tình cảm giữa con người và con người.
+ Khi ta tha thứ được cho một người phạm lỗi lầm, trong lòng ta dâng lên một niềm vui và hạnh phúc vì mình vừa làm được một việc tốt.
+ Dẫn chứng: Trong lịch sử chống giặc Minh xâm lược, sau khi giặc đầu hàng, ta mở rộng tấm lòng khoan dung: cung cấp phương tiện và lương thực để họ về nước, tha thứ cho những người bạn đã làm điều xấu đối với mình: như đánh mình, nghi oan mình là kẻ ăn cắp,…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
Phê phán, lên án những con người thù dai, không mở rộng tấm lòng tha thứ cho người khác dễ dẫn đến sứt mẻ tình cảm giữa con người với con người khiến cho mối quan hệ tình cảm bị rạn nút. Có những người khi có cơ hội thì trả thù khi người khác mắc lỗi.
Dẫn chứng: trong lớp học, trong cuộc sống hàng ngày, trong gia đình…
III. KẾT BÀI
Lời dạy cùa Phật là đúng đắn.
Lòng khoan dung là đức tính tốt, rất cần thiết cho con người.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống của chúng ta, lòng khoan dung, độ lượng là một trong những đức tính tốt đẹp và cũng chính là tài sản của đòi người mà ngày nay trong mỗi chúng ta ai cũng cần thiết phải có. Vì thế câu nói trên là hoàn toàn đúng “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung”. Vậy chúng ta hiểu “lòng khoan dung” là đức tính như thế nào?
Quả đúng như vậy, lòng khoan dung là sự tha thứ, độ lượng, không khắt khe, có thể tha thứ cho những lỗi lầm mà người khác đã gây ra cho mình, không nóng nảy. Vì thế mỗi người trong chúng ta cần phải có lòng khoan dung để xử sự đúng cách trong cuộc sống và quan hệ xã hội.
Tại sao chúng ta phải có “lòng khoan dung”? Vì nó giúp ta ứng xử đúng mực trong cuộc sống, cho ta biết phải quan tâm đến người khác, biết độ lượng, tha thứ cho những việc làm sai trái, giúp ta hiểu hơn những cái đúng, cái sai, những gì nên tha thứ. Giống như Bác Hồ, khi thấy các anh bộ đội làm sai diều gì chỉ khuyên nhủ, nhắc nhở chứ không la mắng. Chúng ta thấy đó, lòng khoan dung chính là tài sản lớn nhất mà con người cần phải có.
Biểu hiện của lòng khoan dung là ta cần phải giúp đỡ, quan tâm người khác, đến người làm điều sai thì biết tha thứ, khuyên dạy điều đúng đắn. Khi ta biết khoan dung, ta sẽ được sự tôn trọng của người khác, yêu mến, quí trọng của mọi người xung quanh. Mặt khác, lòng khoan dung sẽ là một yếu tố quan trọng đem lại sự bình yên, hòa thuận, hạnh phúc cho xã hội và gia đình. Khi thể hiện lòng khoan dung với người khác thì tâm hồn ta cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng vì đã làm được một điều có ý nghĩa của phẩm chất nhân ái, vì như thế là không phạm vào sự nhỏ nhen, hẹp hòi, trái với phẩm chất quí giá của con người.
Qua những dẫn chứng trên ta rút ra được lòng khoan dung làm cho tâm hồn ta trở nên độ lượng, cao thượng và giàu có hơn. Vì thế, ta phải lấy sự khoan dung, sự nhường nhịn làm phương châm xử thế “Một sự nhịn, chín sự lành”. Và chúng ta cần rèn luyện nhân cách, phẩm giá, sống là phải biết yêu thương sẻ chia, đồng cảm, biết kiềm chế những cảm xúc nóng giận và học cách yêu thương, vị tha, khoan dung.
Tóm lại, bản thân mỗi chúng ta phải không ngừng tự rèn luyện, phấn đấu bồi đắp cho mình có lòng khoan dung rộng lớn. Lòng khoan dung là tài sản vô giá của con người và cũng là phương châm đối nhân xử thế tốt nhất.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 36: Suy nghĩ của em về tiền bạc và hạnh phúc tại đây.
Tags:Lời Phật dạy · Lòng khoan dung · Văn chọn lọc 9
|
Topic 35 - Thinking about Buddha's teachings: "The greatest asset in human life is tolerance" - Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Think about Buddha's teachings
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to form in your mind the main ideas related to the concept through Buddha's teachings: tolerance.
So what does tolerance mean?
What specific manifestations demonstrate tolerance?
Discuss and expand the issue: when a person has no tolerance, no forgiveness, no tolerance for those who make mistakes, and always considers himself right, then these people deserve to be criticized. How to condemn?
What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
Among the countless good and precious qualities of the Vietnamese people, tolerance is the most typical.
Buddha taught: "The greatest asset in human life is tolerance."
So how valuable is the above teaching in our society?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
+ What is an asset?
It includes valuable material or spiritual things that help people become prosperous and complete.
+ What is tolerance?
Only forgiveness and tolerance for what others make mistakes but know how to correct their own mistakes.
=> Meaning of the whole sentence (advice, reminder): Compare assets (material) of great value with tolerance (spiritual) of equivalent value. This proves that Buddha's saying promotes human virtues as more valuable than material values.
* Why must we have tolerance?
+ Because it shows the moral qualities needed in each of us.
+ To put it more generally, tolerance is the heart of love for people, sharing, and concern for the difficulties of others.
+ To forgive someone who makes a mistake is indeed very difficult, but when we can do it, it will help heal the feelings between people.
+ When we forgive someone who has made a mistake, we feel joy and happiness in our hearts because we have just done a good deed.
+ Evidence: In the history of fighting the Ming invaders, after the enemy surrendered, we extended our tolerance: providing means and food for them to return home, forgiving friends who had done bad things to them. towards me: like hitting me, falsely suspecting me of being a thief,...
c. Discuss and expand the issue
Criticizing and condemning vindictive people and not extending a heart of forgiveness to others can easily lead to broken feelings between people, causing emotional relationships to break down. There are people who, when given the opportunity, take revenge when others make mistakes.
Evidence: in the classroom, in daily life, in the family...
III. END
Buddha's teachings are correct.
Tolerance is a good virtue, very necessary for humans.
REFERENCE ESSAY
In our lives, tolerance and generosity are one of the good virtues and are also human assets that each of us needs to have today. Therefore, the above statement is completely true: "The greatest asset in human life is tolerance." So how do we understand "tolerance" as a virtue?
That's right, tolerance is forgiveness, generosity, not being harsh, being able to forgive mistakes that others have done to you, and not being impatient. Therefore, each of us needs to have tolerance to behave properly in life and social relationships.
Why must we have "tolerance"? Because it helps us behave properly in life, tells us to care for others, be tolerant, forgive wrong doings, helps us better understand what is right, what is wrong, and what should be forgiven. rank. Like Uncle Ho, when he saw soldiers doing something wrong, he only advised and reminded them, not scolded them. We see that tolerance is the greatest asset that humans need to have.
The expression of tolerance is that we need to help and care for others. When we know how to forgive those who do wrong, we can advise them on what is right. When we know how to be tolerant, we will gain the respect of others, the love and esteem of everyone around us. On the other hand, tolerance will be an important factor bringing peace, harmony, and happiness to society and family. When we show tolerance to others, our soul feels peaceful and light because we have done something meaningful with the quality of kindness, because by doing so, we do not commit petty, narrow-mindedness or immorality. with precious human qualities.
Through the above evidence, we can learn that tolerance makes our souls more generous, noble and richer. Therefore, we must take tolerance and tolerance as the motto "One patience, nine good things". And we need to practice personality, dignity, to live is to know how to love, share, sympathize, know how to control angry emotions and learn to love, altruism, and tolerance.
In short, each of us must constantly train ourselves and strive to cultivate broad tolerance. Tolerance is a priceless human asset and is also the best motto for treating people.
(Students' work)
>> See more Topic 36: My thoughts about money and happiness here.
Tags:Buddha's teachings · Tolerance · Selected literature 9
|
Đề 35 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề Tiếng Việt kể câu chuyện nói về tình bạn
1. a) Điền từ trẻ hoặc từ già vào chỗ trống trong các thành ngữ, tục ngữ dưới đây:
(1) … thì dưỡng cây, … thì cây dưỡng.
(2) … được bát canh, … được manh áo mới.
(3) … trồng na, … trồng chuối.
(4) Đi hỏi…, về nhà hỏi…
(5) Yêu ……. hay đến nhà, kính ……. để tuổi cho.
b) Nêu nội dung, ý nghĩa của câu (1), câu (5).
2. Đặt câu nói về việc học tập và rèn luyện của em, trong đó có sử dụng trạng ngữ theo yêu cầu dưới đây:
a) Câu có trạng ngữ chỉ thời gian và trạng ngữ chỉ nơi chốn.
b) Câu có trạng ngữ chỉ nguyên nhân (hoặc trạng ngữ chỉ mục đích).
c) Câu có trạng ngữ chỉ thòi gian và trạng ngữ chỉ phương tiện.
3. Đọc những khổ thơ sau trong bài Ngưỡng cửacủa nhà thơ Vũ Quần Phương:
Nơi này ai củng quen
Ngay từ thời tấm bé
Khi tay bà, tay mẹ
Còn dắt vòng đi men.
Nơi bố mẹ ngày đêm
Lúc nào qua cũng vội,
Nơi bạn bè chạy tới
Thường lúc nào cũng vui.
Nơi này đã đưa tôi
Buổi đầu tiên đến lớp
Nay con đường xa tắp,
Vấn đang chờ tôi đi.
Hình ảnh ngưởng cửa của ngôi nhà trong mỗi khổ thơ trên gợi cho em nghĩ đến những điều gì đẹp đẽ và sâu sắc?
|
Topic 35 – Practice questions – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Vietnamese title tells a story about friendship
1. a) Fill in the blanks with the word young or old in the idioms and proverbs below:
(1) ... then nourishes the tree, ... then nourishes the tree.
(2) ... get a bowl of soup, ... get a new shirt.
(3) … grow custard apples, … grow bananas.
(4) Go ask..., go home and ask...
(5) Love ……. often come to the house, glass ……. Let the age give.
b) State the content and meaning of sentence (1) and sentence (5).
2. Make sentences about your learning and training, including using adverbs as required below:
a) The sentence has an adverb of time and an adverb of place.
b) Sentences with adverbs indicating cause (or adverbs indicating purpose).
c) The sentence has an adverbial of time and an adverbial of means.
3. Read the following stanzas in the poem Threshold by poet Vu Quan Phuong:
Everyone is familiar with this place
Right from childhood
When her hand, mother's hand
Still walking around.
Where parents are day and night
Always passing by in a hurry,
Where friends run to
Usually always fun.
This place got me
First day of class
Now the road is far away,
Van is waiting for me to go.
What beautiful and profound things does the image of the house's threshold in each stanza above remind you of?
|
Đề 36 – Suy nghĩ của em về tiền bạc và hạnh phúc – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về tiền bạc và hạnh phúc
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến hai khái niệm: tiền bạc và hạnh phúc.
– Vậy tiền bạc có nghĩa là gì?
– Hạnh phúc có nghĩa là gì?
– Mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh phúc được thể hiện ra sao?
– Nhũng biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh
phúc?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người quá lệ thuộc vào tiền bạc thì liệu người đó có tìm thấy cho mình hạnh phúc đích thực hay không? Tiền bạc có nuôi dưỡng được hạnh phúc thêm lâu dài hay không?
– Cảm nghĩ của em về hai khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Tiền bạc và hạnh phúc là hai trong những vấn đề thiết yếu của con người.
– Vậy tiền bạc và hạnh phúc đóng vai trò quan trọng như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tiền bạc là gì? => Đó là từ ngữ chỉ chung về những thứ giúp con người trao đổi với nhau những lợi ích.
– Hạnh phúc là gì? => Đó là tính từ thể hiện sự đạt được như ý nguyện của con người về mặt tình cảm, cảm xúc.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Tại sao tiền bạc và hạnh phúc lại có mối quan hệ khắng khít với nhau?
+ Bởi vì nó là hai khía cạnh góp phần tạo nên cuộc sống của mỗi con người.
+ Phần lớn, mọi người đều có suy nghĩ rằng tiền bạc có thể mua được tất cả mọi thứ.
Và chúng ta chỉ có hạnh phúc khi và chỉ khi có tiền bạc đầy đủ.
+ Dẫn chứng: Nêu ra những dẫn chứng thiết thực của cuộc sống thực dụng ở mỗi con người. Họ dùng tiền để mua hạnh phúc và liệu họ có hạnh phúc thật sự hay không?…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Tiền bạc có thể mua được tất cả tuy nhiên đối với hạnh phúc thì không.
– Dẫn chứng: Những gia đình giàu có có những người mẹ vì muốn lấy vợ cho con mình mà bỏ ra một số tiền lớn để “mua” con dâu về. Thế nhưng, chắc chắn đó là hai vợ chồng không hề tìm thấy được hạnh phúc. “Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên” đúng như ông bà ta ngày xưa thường nói.
– Tiền bạc và hạnh phúc là hai mặt luôn đi song song với nhau.
– Tuy vậy, chúng ta cần hiểu rõ và đúng đắn ý nghĩa của đồng tiền và tự tạo cho mình hạnh phúc tròn đầy bằng chính trái tim của chúng ta chứ không phải bằng những đồng tiền vô nghĩa.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Có khi nào chúng ta tự hỏi: Tiền bạc là gì mà nhiều kẻ đã mất lí trí để theo đuổi, hạnh phúc là gì mà bao người cũng khát khao, mong đợi? Hai điều đó tưởng như không có quan hệ gì với nhau nhưng chúng lại tạo một liên kết chặt chẽ, mật thiết trong cuộc sống. Vậy ta hiểu “tiền bạc và hạnh phúc” là như thế nào?
Quả đúng như vậy, tiền bạc là vật dụng có giá trị, dùng để chi tiêu, đáp ứng được những nhu cầu của con người dù cao hay thấp, còn dùng để trao đôi buôn bán. Còn hạnh phúc là cảm giác sung sướng, mãn nguyện và cảm thấy hoàn toàn đạt được những gì mà mình mong muốn, cũng như được người khác quan tâm, chăm sóc. Giữa tiền bạc và hạnh phúc chúng có mối liên kết khắng khít với nhau.
Tại sao chúng ta lại cần “tiền bạc và hạnh phúc”? Vì tiền bạc có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với chúng ta. Nó chính là điều kiện cho nhiều hoạt động của cuộc sống hằng ngày như học tập, ăn ở, đi lại,… Mỗi việc chúng ta làm đều cần rất nhiều tiền. Hàng ngày chúng ta phải ăn uống để duy trì sự sinh tồn. Phải có tiền thì chúng ta mới mua được những thực phẩm mà cần dùng hằng ngày. Nếu không ăn uống, không có những thứ tối thiểu để sinh hoạt, chắc chắn rằng cơ thể sẽ bị giảm sút và kéo theo đó là rất nhiều điều nguy hiểm, kết quả học tập và làm việc sẽ không được đảm bảo. Nhưng không chỉ tiền là có ảnh hưởng lớn với chúng ta mà ngang bằng với nó là hạnh phúc cũng như thế. Tiền bạc là một điều kiện của cuộc sống nhưng đó không phải là điều kiện đủ của hạnh phúc. Có rất nhiều người chỉ mải mê làm việc, kiếm tiền vì họ nghĩ có kiếm bao nhiêu cũng không đủ sống cho gia đình, họ không biết trân trọng nhũng gì mình đang có. Đối với họ, hạnh phúc ở chỗ họ làm ra được rất nhiều tiền. Và khi nhận ra mình không có hạnh phúc thì đã quá muộn.
Cũng giống như Bác Hồ không cần quá nhiều tiền cũng thấy hạnh phúc. Bác hạnh phúc với những thứ mình đang có, khi làm được việc mình thích mỗi ngày, và với một cuộc sống giản dị cùng với thú lâm tuyền đầy tao nhã. Chỉ với một ngôi nhà sàn, một ao cá, vài loài cây tự tay mình trồng,… Bác cũng cảm thấy đó là tất cả của sự hạnh phúc.
Với tôi, hạnh phúc không phụ thuộc vào giá trị vật chất mà đồng tiền mang đến, quan trọng là sự nâng niu, trân trọng cuộc sống mà chúng ta có mà thôi.
Tóm lại, tiền bạc và hạnh phúc là hai điều mà ai cũng muốn có, cũng muốn hoà hợp để đạt đến sự hoàn hảo, làm con người có đủ những điều mà ai cũng ngưỡng mộ.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong xã hội hiện nay, tiền bạc và sự hạnh phúc đóng một vai trò quan trọng. Hai điều đó tưởng chừng không gắn bó gì với nhau nhưng lại tạo nên một mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết. Vậy ta hiểu như thể nào về tiền bạc và hạnh phúc?
Thật vậy, tiền bạc và hạnh phúc thực sự rất quan trọng. Hạnh phúc là cảm giác rất sung sướng, thoả mãn vì đạt được những gì mình muốn. Còn tiền bạc là công cụ để trao đổi cho những chi tiêu hàng ngày. Giũa tiền bạc và hạnh phúc có một mối quan hệ khắng khít với nhau.
Tiền bạc có tầm ảnh hưởng lớn đối với chúng ta. Nó là thứ cần cho nhiều hoạt động sống hàng ngày như học tập, ăn uống, đi lại. Mỗi việc chúng ta làm đều cần tiền. Chúng ta phải có tiền mới mua được lương thực, thực phẩm ta cần. Chúng ta cần tiền để đổ xăng phục vụ cho nhu cầu đi lại của chúng ta. Và nếu như một ngày chúng ta không có tiền chi tiêu thì sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu của chúng ta hằng ngày. Lúc đó ta sẽ bị giảm sút sức khoẻ và kéo theo đó là nhiều điều tồi tệ khác. Bên cạnh những giá trị vật chất, chúng ta có khi đáp ứng những giá trị tinh thần khi có tiền. Như đi chơi vào những ngày cuối tuần để thư giãn. Dường như đồng tiền đã là một phần nào của cuộc sống chi phối hoạt động và nhu cầu của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần phải hiểu được điều kiện kinh tế của gia đình và bản thân để chi tiêu hợp lí.
Mặt khác, ngày nay có rất nhiều người không biết quý tiền, sinh ra những thói hư tật xấu: lười biếng, hư hỏng, trì trệ. Cái gì cũng đã có, không phải làm gì và chỉ biết hưởng thụ những gì tiền đem tới. Và chắc chắn họ sẽ không có được hạnh phúc. Chúng ta cũng cần phải phê phán những người sử dụng đồng tiền sai trái vào những việc xấu. Chúng ta cần phải bác bỏ những quan niệm sai trái về đồng tiền. Chúng ta cần phải hướng dẫn họ biết giá trị cuộc sống và làm thể nào có hạnh phúc thật sự.
Tóm lại, chúng ta đã hiểu rõ thêm thế nào là tiền bạc và hạnh phúc. Và hạnh phúc không phụ thuộc vào giá trị vật chất mà đồng tiền mang đến mà là sự nâng niu trân trọng trong cuộc sống mà chúng ta đang có.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 37: Suy nghĩ của em về truyền thống tôn sư trọng đạo tại đây.
Tags:Tiền bạc và hạnh phúc · Văn chọn lọc 9
|
Đề 36 – Suy nghĩ của em về tiền bạc và hạnh phúc – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về tiền bạc và hạnh phúc
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến hai khái niệm: tiền bạc và hạnh phúc.
– Vậy tiền bạc có nghĩa là gì?
– Hạnh phúc có nghĩa là gì?
– Mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh phúc được thể hiện ra sao?
– Nhũng biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh
phúc?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người quá lệ thuộc vào tiền bạc thì liệu người đó có tìm thấy cho mình hạnh phúc đích thực hay không? Tiền bạc có nuôi dưỡng được hạnh phúc thêm lâu dài hay không?
– Cảm nghĩ của em về hai khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Tiền bạc và hạnh phúc là hai trong những vấn đề thiết yếu của con người.
– Vậy tiền bạc và hạnh phúc đóng vai trò quan trọng như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tiền bạc là gì? => Đó là từ ngữ chỉ chung về những thứ giúp con người trao đổi với nhau những lợi ích.
– Hạnh phúc là gì? => Đó là tính từ thể hiện sự đạt được như ý nguyện của con người về mặt tình cảm, cảm xúc.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Tại sao tiền bạc và hạnh phúc lại có mối quan hệ khắng khít với nhau?
+ Bởi vì nó là hai khía cạnh góp phần tạo nên cuộc sống của mỗi con người.
+ Phần lớn, mọi người đều có suy nghĩ rằng tiền bạc có thể mua được tất cả mọi thứ.
Và chúng ta chỉ có hạnh phúc khi và chỉ khi có tiền bạc đầy đủ.
+ Dẫn chứng: Nêu ra những dẫn chứng thiết thực của cuộc sống thực dụng ở mỗi con người. Họ dùng tiền để mua hạnh phúc và liệu họ có hạnh phúc thật sự hay không?…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Tiền bạc có thể mua được tất cả tuy nhiên đối với hạnh phúc thì không.
– Dẫn chứng: Những gia đình giàu có có những người mẹ vì muốn lấy vợ cho con mình mà bỏ ra một số tiền lớn để “mua” con dâu về. Thế nhưng, chắc chắn đó là hai vợ chồng không hề tìm thấy được hạnh phúc. “Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên” đúng như ông bà ta ngày xưa thường nói.
– Tiền bạc và hạnh phúc là hai mặt luôn đi song song với nhau.
– Tuy vậy, chúng ta cần hiểu rõ và đúng đắn ý nghĩa của đồng tiền và tự tạo cho mình hạnh phúc tròn đầy bằng chính trái tim của chúng ta chứ không phải bằng những đồng tiền vô nghĩa.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Có khi nào chúng ta tự hỏi: Tiền bạc là gì mà nhiều kẻ đã mất lí trí để theo đuổi, hạnh phúc là gì mà bao người cũng khát khao, mong đợi? Hai điều đó tưởng như không có quan hệ gì với nhau nhưng chúng lại tạo một liên kết chặt chẽ, mật thiết trong cuộc sống. Vậy ta hiểu “tiền bạc và hạnh phúc” là như thế nào?
Quả đúng như vậy, tiền bạc là vật dụng có giá trị, dùng để chi tiêu, đáp ứng được những nhu cầu của con người dù cao hay thấp, còn dùng để trao đôi buôn bán. Còn hạnh phúc là cảm giác sung sướng, mãn nguyện và cảm thấy hoàn toàn đạt được những gì mà mình mong muốn, cũng như được người khác quan tâm, chăm sóc. Giữa tiền bạc và hạnh phúc chúng có mối liên kết khắng khít với nhau.
Tại sao chúng ta lại cần “tiền bạc và hạnh phúc”? Vì tiền bạc có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với chúng ta. Nó chính là điều kiện cho nhiều hoạt động của cuộc sống hằng ngày như học tập, ăn ở, đi lại,… Mỗi việc chúng ta làm đều cần rất nhiều tiền. Hàng ngày chúng ta phải ăn uống để duy trì sự sinh tồn. Phải có tiền thì chúng ta mới mua được những thực phẩm mà cần dùng hằng ngày. Nếu không ăn uống, không có những thứ tối thiểu để sinh hoạt, chắc chắn rằng cơ thể sẽ bị giảm sút và kéo theo đó là rất nhiều điều nguy hiểm, kết quả học tập và làm việc sẽ không được đảm bảo. Nhưng không chỉ tiền là có ảnh hưởng lớn với chúng ta mà ngang bằng với nó là hạnh phúc cũng như thế. Tiền bạc là một điều kiện của cuộc sống nhưng đó không phải là điều kiện đủ của hạnh phúc. Có rất nhiều người chỉ mải mê làm việc, kiếm tiền vì họ nghĩ có kiếm bao nhiêu cũng không đủ sống cho gia đình, họ không biết trân trọng nhũng gì mình đang có. Đối với họ, hạnh phúc ở chỗ họ làm ra được rất nhiều tiền. Và khi nhận ra mình không có hạnh phúc thì đã quá muộn.
Cũng giống như Bác Hồ không cần quá nhiều tiền cũng thấy hạnh phúc. Bác hạnh phúc với những thứ mình đang có, khi làm được việc mình thích mỗi ngày, và với một cuộc sống giản dị cùng với thú lâm tuyền đầy tao nhã. Chỉ với một ngôi nhà sàn, một ao cá, vài loài cây tự tay mình trồng,… Bác cũng cảm thấy đó là tất cả của sự hạnh phúc.
Với tôi, hạnh phúc không phụ thuộc vào giá trị vật chất mà đồng tiền mang đến, quan trọng là sự nâng niu, trân trọng cuộc sống mà chúng ta có mà thôi.
Tóm lại, tiền bạc và hạnh phúc là hai điều mà ai cũng muốn có, cũng muốn hoà hợp để đạt đến sự hoàn hảo, làm con người có đủ những điều mà ai cũng ngưỡng mộ.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong xã hội hiện nay, tiền bạc và sự hạnh phúc đóng một vai trò quan trọng. Hai điều đó tưởng chừng không gắn bó gì với nhau nhưng lại tạo nên một mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết. Vậy ta hiểu như thể nào về tiền bạc và hạnh phúc?
Thật vậy, tiền bạc và hạnh phúc thực sự rất quan trọng. Hạnh phúc là cảm giác rất sung sướng, thoả mãn vì đạt được những gì mình muốn. Còn tiền bạc là công cụ để trao đổi cho những chi tiêu hàng ngày. Giũa tiền bạc và hạnh phúc có một mối quan hệ khắng khít với nhau.
Tiền bạc có tầm ảnh hưởng lớn đối với chúng ta. Nó là thứ cần cho nhiều hoạt động sống hàng ngày như học tập, ăn uống, đi lại. Mỗi việc chúng ta làm đều cần tiền. Chúng ta phải có tiền mới mua được lương thực, thực phẩm ta cần. Chúng ta cần tiền để đổ xăng phục vụ cho nhu cầu đi lại của chúng ta. Và nếu như một ngày chúng ta không có tiền chi tiêu thì sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu của chúng ta hằng ngày. Lúc đó ta sẽ bị giảm sút sức khoẻ và kéo theo đó là nhiều điều tồi tệ khác. Bên cạnh những giá trị vật chất, chúng ta có khi đáp ứng những giá trị tinh thần khi có tiền. Như đi chơi vào những ngày cuối tuần để thư giãn. Dường như đồng tiền đã là một phần nào của cuộc sống chi phối hoạt động và nhu cầu của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần phải hiểu được điều kiện kinh tế của gia đình và bản thân để chi tiêu hợp lí.
Mặt khác, ngày nay có rất nhiều người không biết quý tiền, sinh ra những thói hư tật xấu: lười biếng, hư hỏng, trì trệ. Cái gì cũng đã có, không phải làm gì và chỉ biết hưởng thụ những gì tiền đem tới. Và chắc chắn họ sẽ không có được hạnh phúc. Chúng ta cũng cần phải phê phán những người sử dụng đồng tiền sai trái vào những việc xấu. Chúng ta cần phải bác bỏ những quan niệm sai trái về đồng tiền. Chúng ta cần phải hướng dẫn họ biết giá trị cuộc sống và làm thể nào có hạnh phúc thật sự.
Tóm lại, chúng ta đã hiểu rõ thêm thế nào là tiền bạc và hạnh phúc. Và hạnh phúc không phụ thuộc vào giá trị vật chất mà đồng tiền mang đến mà là sự nâng niu trân trọng trong cuộc sống mà chúng ta đang có.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 37: Suy nghĩ của em về truyền thống tôn sư trọng đạo tại đây.
Tags:Tiền bạc và hạnh phúc · Văn chọn lọc 9
|
Đề 37 – Suy nghĩ của em về truyền thống tôn sư trọng đạo – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Truyền thống tôn sư trọng đạo
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến hai khái niệm: truyền thống và tôn sư trọng đạo.
– Vậy truyền thống có nghĩa là gì?
– Tôn sư trọng đạo có nghĩa là gì?
– Tôn sư trọng đạo có phải là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta không?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho truyền thống ấy? (có những câu thơ, câu tục ngữ hay bài ca dao nào liên quan đến truyền thống tôn sư trọng đạo?)
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người khi thành công trong cuộc sống lại vội quên đi công lao của thầy cô đã dìu dắt chúng ta nên người ngày trước, những con người này thật đáng phải lên án ra sao?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm “tôn sư trọng đạo” trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Tôn sư trọng đạo là một trong những truyền thống cao đẹp muôn đời của dân tộc ta, là nền tảng đạo đức của xã hội văn minh.
– Vậy tôn sư trọng đạo là một truyền thống có giá trị như thế nào trong xã hội của chúng ta ngày nay?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tôn sư trọng đạo là gì? => Tôn sư tức là kính thầy, trọng thầy vì thầy là người đưa đường chỉ lối cho ta đi đến con đường thành công. Đạo là đạo đức, đạo lí con người hiểu rộng ra đó là những kiến thức, hiểu biết mà ta tiếp thu. Trọng đạo nghĩa là người học phải thể hiện sự kính trọng của mình đối với lễ nghĩa, các mặt đạo đức. Ý nghĩa toàn câu: Bản thân người học phải kính trọng người làm thầy, đặt đạo nghĩa làm đầu. Đây là một truyền thống quý báu của dân tộc.
• Tại sao chúng ta phải tôn sư trọng đạo?
+ Bởi vì nó thể hiện phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi chúng ta.
+ Thầy là người truyền đạt kiến thức, hiểu biết của nhân loại cho ta cho nên ta phải kính trọng thầy. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” đó là một phạm trù đạo đức mà bất cứ ai là học sinh đều phải biết.
+ Học ở thầy không chỉ được học về mặt kiến thức, hiếu biết mà còn được thầy truvền đạt những bài học đạo đức, đạo lí giàu ý nghĩa có giá trị rất lớn trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
+ Bồi dưỡng tình cảm cao đẹp trong tâm hồn con người ở mỗi chúng ta.
+ Biểu hiện của tinh thần “tôn sư trọng đạo” ở học sinh chính là cố gắng, nỗ lực học hành chăm chỉ, ngoan ngoãn nghe lời thầy cô.
+ Dẫn chứng.
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Phê phán, lên án những con người quên đi công lao của thầy cô mà lại có những hành động như: lên mạng nói xấu. đánh thầy cô, dựng chuyện để gây khó khăn cho thầy cô,…
III. KẾT BÀI
– Tôn sư trọng đạo là một truyền thống tốt, rất cần thiết cho con người.
– Bản thân học sinh phải luôn yêu thương, kính trọng thầy cô như cha mẹ của mình vậy.
Từ xưa đến nay, tôn sư trọng đạo không chỉ là vấn đề đạo đức mà còn là một truyền thống văn hoá vô cùng tốt đẹp của nhân dân ta. Đó cũng là yếu tố quan trọng làm nền tảng đạo đức của một xã hội văn minh. Vậy ta hiểu như thế nào về truyền thống trên?
Thật vậy, tôn sư trọng đạo quả là một truyền thống vô cùng tốt đẹp. “Tôn sư” là tôn kính những người đã dạy dỗ mình, đạo thầy trò là một trong những mối quan hệ đạo đức quan trọng. “Tôn sư trọng đạo” đã trở thành một truyền thống đạo đức quý giá của người Việt… Nhờ coi trọng việc học, tôn kính người thầy, nhân dân đã góp phần tạo nên nền văn hiến lâu đời của đất nước. Thời đại nào cũng có những tấm gương hiếu học, nhiều người thầy mẫu mực và những câu chuyện cảm động về tình thầy trò. Có những người thầy đã khuất nhưng tài năng và nhân cách của họ vẫn toả sáng. Có những học trò dù đã đỗ đạt thành tài, có quyền cao chức trọng nhưng vẫn luôn nhớ về người thầy đã dạy dỗ mình nên người.
Ngày nay, truyền thống tôn sư trọng đạo ấy vẫn được tiếp nối và phát huy. Nhà nước, xã hội luôn có sự quan tâm, phát huy giáo dục. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người làm thầy làm cô. Các gia đình ở cấp học nào thỉ tiếng nói của thầy giáo, cô giáo vẫn có tác động vô cùng lớn đến sự hình thành nhân cách của mỗi con người.
Tóm lại, tôn sư trọng đạo là một truyền thống tốt đẹp và chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy nó. Bản thân tôi cũng sẽ luôn hướng về và nhớ ơn những thầy cô đã dạy dỗ mình.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 38: Suy nghĩ về quan điểm của Mác-xim-góc-ki “Người bạn tốt nhất bao giờ cũng là người đến với ta trong những giờ phút khóa khăn, cay đắng nhất cuộc đời” tại đây.
Tags:Đề 37 · Tôn sư trọng đạo · Văn chọn lọc 9
|
Topic 37 – My thoughts on the tradition of respecting teachers and teachings – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Tradition respects teachers
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to form in your mind the main ideas related to two concepts: tradition and respect for teachers.
– So what does tradition mean?
– What does it mean for a teacher to respect the way?
– Is respecting religion a long-standing tradition of our Vietnamese people?
– What specific manifestations demonstrate that tradition? (Are there any verses, proverbs or folk songs related to the tradition of respecting teachers?)
– Discuss and expand the issue: when a person, when successful in life, quickly forgets the merits of the teachers who guided us to become good people in the past, how should these people really be condemned?
– What are your thoughts on the above concept of “respecting the teacher and respecting the way”? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
- Respecting morality is one of the eternally beautiful traditions of our nation, the moral foundation of a civilized society.
– So how valuable is respect for the teacher as a tradition in our society today?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What is the respect of religion? => Master means respecting the teacher, respecting the teacher because the teacher is the one who shows us the way to success. Tao is morality, human morality is broadly understood as the knowledge and understanding that we acquire. Respect for morality means that learners must show their respect for decency and morality. The meaning of the whole sentence: Students themselves must respect teachers and put morality first. This is a precious tradition of the nation.
• Why must we respect our teachers?
+ Because it shows the moral qualities needed in each of us.
+ The teacher is the one who conveys human knowledge and understanding to us, so we must respect him. "One word is a teacher, half a word is a teacher" is an ethical category that anyone who is a student must know.
+ Learning from a teacher not only learns knowledge and understanding, but also learns meaningful moral and ethical lessons that have great value in our daily lives.
+ Fostering beautiful feelings in the human soul of each of us.
+ The manifestation of the spirit of "respecting the teacher and respecting morality" in students is their efforts, studying hard, and obediently listening to their teachers.
+ Evidence.
c. Discuss and expand the issue
– Criticize and condemn people who forget the merits of teachers and take actions such as: going online to say bad things. Beating teachers, making up stories to cause difficulties for teachers, etc.
III. END
- Respecting religion is a good tradition, very necessary for people.
– Students themselves must always love and respect their teachers like their parents.
From ancient times until now, respecting one's teacher is not only a moral issue but also an extremely good cultural tradition of our people. It is also an important factor that forms the moral foundation of a civilized society. So how do we understand the above tradition?
Indeed, respecting the teacher's teachings is indeed an extremely beautiful tradition. “Respecting a teacher” means respecting those who have taught you. Teacher-discipleship is one of the important moral relationships. "Respecting teachers and respecting morality" has become a valuable moral tradition of the Vietnamese people... By valuing learning and respecting teachers, the people have contributed to creating the country's long-standing civilization. Every era has examples of studiousness, many exemplary teachers and touching stories about teacher-student love. There are teachers who have passed away but their talent and personality still shine. There are students who, even though they have passed the exam and are successful and have high positions of authority, still always remember the teacher who taught them to be good people.
Today, that tradition of respecting teachers is still continued and promoted. The state and society always pay attention to and promote education. Improve the material and spiritual life of teachers. Families at any level of education believe that the voice of teachers still has a huge impact on the formation of each person's personality.
In short, respecting one's teacher is a good tradition and we need to preserve and promote it. I myself will always look back and be grateful to the teachers who taught me.
(Students' work)
>> See more Topic 38: Thinking about Marx's point of view "The best friend is always the one who comes to us in the most difficult and bitter moments of life" here.
Tags:Topic 37 · Master respects morality · Selected literature 9
|
Đề 38 – Suy nghĩ về quan điểm của Mác-xim-góc-ki – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Quan điểm của Mác-xim-góc-ki
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần hình thành trong đầu những ý chính liên quan đến hai khái niệm: người bạn và người bạn tốt nhất.
– Vậy người bạn có nghĩa là gì?
– Người bạn tốt nhất có nghĩa là gì?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho “người bạn tốt nhất”?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: những con người vong ân bội nghĩa, quên đi tình nghĩa bạn bè trong nhũng lúc khó khăn, gian khổ; đây là những người đáng phải bị lên án ra sao?
– Cảm nghĩ của em về quan điểm trên của Mác-xim-góc-ki ở trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Tình bạn là một trong nhũng tình cảm thiêng liêng và tốt đẹp của con người.
– Mác-xim-góc-ki cho rằng: “Người bạn tốt nhất bao giờ cũng là người đến với ta trong những giờ phút khó khăn, cay đắng nhất cuộc đời”.
– Vậy quan điểm trên có giá trị như thế nào trong xã hội của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
+ Người bạn tốt nhất là gì?
– Đó là người quan tâm, kề bên, chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn cùng với ta trong cuộc sống.
=> Nghĩa của cả câu (lời khuyên, nhắc nhở): Người bạn tốt nhất là người luôn ở bên ta trong những giờ phút khó khăn đế hỗ trợ ta cả về vật chất lẫn tinh thần.
• Tại sao Mác-xim-góc-ki có quan điểm rằng: “Người bạn tốt nhất bao giờ cũng là người đến với ta trong những giờ phút khó khăn, cay đắng nhất cuộc đời”?
+ Có thêm một người bạn tốt là ta có thêm một đời sống tinh thần tình cảm phong phú, đa dạng.
+ Khi ta gặp khó khăn, cực khổ không phải ai cũng sẽ đến để chia sẻ cùng ta những vất vả ấy mà chỉ có những người bạn tốt mới có sự quan tâm đến chúng ta mà thôi.
+ Dẫn chứng:
– Câu ca dao:
Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời
– Trong cuộc sống hàng ngày, ta quen rất nhiều người bạn nhưng chỉ cần ta sa cơ thất thế một lần (vỡ nợ, công ty phá sản, cần tiền để khám chữa bệnh cho người thân…), cần bạn bè giúp đỡ về vấn đề tiền bạc thì không bao giờ thấy ai đến với mình cả, họ né tránh, họ viện cớ đủ điều. Nếu là bạn tốt của mình, thì dù không giúp được về vật chất thì ít nhất họ cũng là nơi cho ta tựa vào về mặt tinh thần để vượt qua cơn khốn khó.
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Phê phán, lên án những người lợi dụng tình bạn để trục lợi, ích kỉ, kiếm lợi ích cho mình nhưng đến khi cần giúp đỡ thì chối bỏ, bỏ mặc người bạn đang khốn khó của mình.
– Dẫn chứng: trong lớp học, trong cuộc sống hàng ngày, trong gia đình…
III. KẾT BÀI
– Ta cần trân trọng và gìn giữ, quý trọng tình bạn và những người bạn thân thiết của mình.
– Luôn luôn tâm niệm trong lòng “thêm một người bạn là bớt một kẻ thù”.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Để có một người bạn tốt, một người bạn tri âm tri kỷ chia sẻ cùng ta những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống không phải là điều dễ dàng. Đặc biệt là những tình huống khó khăn, cay đắng nhất mới giúp ta nhận ra ai mới thật sự là bạn tốt của mình. Cho nên Mác-xim-góc-ki có ý kiến rằng: “Người bạn tốt nhất bao giờ cũng là người đến với ta trong nhũng giờ phút khó khăn, cay đắng nhất cuộc đời”. Vậy ta hiểu như thế nào là “tình bạn”?
Có thể nói tình bạn là mối quan hệ tình cảm, sự liên kết giữa những con người cùng trang lứa (cùng một độ tuổi), là sự gắn bó thân thiết lâu dài về mọi mặt cũng như hai người có chung một suy nghĩ. Vậy còn “người bạn tốt nhất” là gì?
Người bạn tốt nhất là người luôn biết lắng nghe, chia sẻ và đồng cảm với ta, người luôn thấy được mặt tốt-xấu của ta đế nhắc nhở và giúp ta khắc phục. Họ luôn
lo lắng và quan tâm mỗi khi ta gặp khó khăn và giúp đỡ ta một cách tận tình. Chính tôi lúc còn học trung học cơ sở vào năm cuối cấp, tôi thật may mắn và cơ duyên đã
cho tôi và người bạn có một tình bạn tuyệt đẹp trong suốt ba năm học và cho đến ngày hôm nay chúng tôi vẫn giữ liên lạc, đi chơi cùng với nhau.
Nhìn chung, tình bạn ở tuổi chúng ta thật đẹp nhưng cũng rất phức tạp. Nếu không được định hướng đúng, không được quan tâm, sẽ rất dễ sa ngã, nhận thức sai lệch. Do đó gia đình và xã hội phải thực sự quan tâm đến vấn đề này để tình bạn là tình ngọc, tình hoa, tình của những kỉ niệm đẹp của mỗi con người đặc biệt là các bạn học sinh.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 39: Suy nghĩ của em về việc các nữ sinh thời nay nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường tại đây.
Tags:Đề 38 · Quan điểm của Mac-xim-góc-ki · Văn chọn lọc 9
|
Topic 38 – Thinking about Marx's point of view – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Marx's point of view
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to form in your mind the main ideas related to two concepts: friend and best friend.
– So what does friend mean?
– What does best friend mean?
– What specific expressions demonstrate “best friend”?
– Discuss and expand the issue: ungrateful people who betray their gratitude and forget their friendship in times of difficulty and hardship; How should these people be condemned?
– What are your thoughts on Marx's point of view above? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– Friendship is one of the sacred and good feelings of humans.
- Marxismokki said: "The best friend is always the one who comes to us in the most difficult and bitter moments of life."
– So how valuable is the above perspective in our society?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
+ What is a best friend?
– That is the person who cares, is next to us, and shares the joys and sorrows with us in life.
=> Meaning of the whole sentence (advice, reminder): The best friend is the one who is always by our side in difficult moments to support us both physically and mentally.
• Why does Marxismokki have the opinion that: "The best friend is always the one who comes to us in the most difficult and bitter moments of life"?
+ Having a good friend means we have a rich and diverse spiritual and emotional life.
+ When we encounter difficulties and hardships, not everyone will come to share those hardships with us, only good friends will care about us.
+ Evidence:
- Verse:
Just left and met a good friend
It's as good as eating heavenly peaches
– In everyday life, we know a lot of friends, but we only need to lose money once (bankruptcy, company bankruptcy, need money for medical examination and treatment for relatives...), and we need friends to help us. When it comes to money problems, no one ever comes to them, they avoid them, they make all sorts of excuses. If they are your good friends, even if they cannot help you materially, at least they will be a place for you to lean on mentally to overcome difficulties.
c. Discuss and expand the issue
– Criticize and condemn people who take advantage of friendship for personal gain, selfishness, and gain benefits for themselves, but when they need help, they deny and abandon their friend who is in need.
– Evidence: in the classroom, in daily life, in the family...
III. END
– We need to respect, preserve and value our friendship and close friends.
– Always keep in mind "one more friend is one less enemy".
REFERENCE ESSAY
To have a good friend, a confidant who shares with us the joys and sorrows in life is not easy. Especially the most difficult and bitter situations help us realize who our truly good friends are. That's why Marxismokki has the opinion: "The best friend is always the one who comes to us in the most difficult and bitter moments of life." So how do we understand "friendship"?
It can be said that friendship is an emotional relationship, a connection between people of the same age (same age), a long-term close bond in all aspects as well as two people sharing the same thoughts. So what is a “best friend”?
The best friend is someone who always listens, shares and sympathizes with us, who always sees our good and bad sides to remind and help us overcome them. They always
Worry and care when we encounter difficulties and help us wholeheartedly. When I was in middle school in my senior year, I was very lucky and fortunate
My friend and I had a wonderful friendship during three years of school and to this day we still keep in touch and hang out together.
In general, friendship at our age is beautiful but also very complicated. If you are not oriented properly and are not cared for, it will be easy to fall and misperceive. Therefore, family and society must really pay attention to this issue so that friendship is the love of pearls, the love of flowers, the love of beautiful memories for each person, especially students.
(Students' work)
>> See more Topic 39: My thoughts on whether female students today should wear traditional ao dai or inappropriate modern clothes when going to school here.
Tags: Topic 38 · Macxim-cornerki's perspective · Selected literature 9
|
Đề 39 – Suy nghĩ về trang phục khi đến trường của nữ sinh thời nay – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Trang phục khi đến trường của nữ sinh
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: hiện tượng đời sống xã hội (việc nữ sinh thời nay nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường?)
– Vậy truyền thống có nghĩa là gì?
– Giải thích hiện tượng trong đề bài là hiện tượng như thế nào? Hiện tượng ấy có ảnh hưởng như thế nào đối với các thế hệ trẻ?
– Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng đó? (đưa ra cụ thể các nguyên nhân)
– Những cách khắc phục nào (đối với hiện tượng tiêu cực) và phát triển, tuyên truyền ra sao (đối với hiện tượng tích cực)?
– Bài học, kinh nghiệm nào mà em rút ra từ những gì vừa phân tích ở trên?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Ngày nay, các nữ sinh khi đi học đa phần đều mặc áo dài truyền thống thế nhưng thời gian gần đây xuất hiện trào lưu mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường.
– Vậy quan điểm của em về vấn đề này như thế nào?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích hiện tượng: (Đặt câu hỏi: là gì?)
+ Hiện tượng nữ sinh mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực đến trường đó là hiện tượng gì?
– Đó là hiện tượng học sinh nữ mặc những bộ trang phục không phù hợp với môi trường học đường vì quá “hiện đại” như: váy nhiều màu, quần ngắn, áo quá mỏng hợp thời trang, áo hai dây…
– Mặc áo dài truyền thống đi học thể hiện được nét duyên dáng của nữ sinh.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Như thế nào? Tại sao? Vì sao?)
• Tại sao hiện tượng mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường lại diễn ra?
+ Bởi vì nó thể hiện phần nào cá tính mạnh mẽ của học sinh.
+ Thể hiện mình là người có gu thẩm mĩ trong cách ăn mặc.
+ Cạnh tranh với bè bạn xung quanh.
• Hậu quả dẫn đến của hiện tượng này là gì?
+ Do vi phạm quy định nhà trường nên bị nhà trường nhắc nhở thường xuyên.
+ Bạn bè xa lánh vì ăn mặc không nghiêm túc, dị hợm.
+ Mình trở thành tâm điểm cho mọi người bàn tán.
+ Mất dần nhân cách, đạo đức và tạo cái nhìn không thiện cảm cho mọi người xung quanh đối với mình.
• Cái bất lợi của việc mặc áo dài truyền thống là gì?
+ Mùa mưa: đường phố lầy lội dễ vấy bẩn lên áo khi đi học, dễ vướng căm xe.
+ Chi phí cho việc may một chiếc áo dài đắt hơn.
c. Nguyên nhân do đâu dẫn đến việc học sinh mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường?
– Học sinh cho rằng chiếc áo dài truyền thống chưa phù hợp với thời đại hiện đại ngày nay.
– Ý thức học sinh chưa cao, chưa phân biệt được nơi nghiêm túc và nơi thả sức diện đồ hiện đại. Môi trường học đường cần phải có sự nghiêm túc, đàng hoàng.
– Mong muốn thể hiện mình trong nhà trường của các em quá mãnh liệt.
– Mong muốn được mọi người nể phục, trầm trồ khen ngợi.
d. Biện pháp khắc phục
– Nhà trường cần phối hợp với xã hội, gia đình để giáo dục các em ý thức cao hơn trong vấn đề ăn mặc đến trường.
– Tạo một môi trường lành mạnh, thi tài về vấn đề trang phục cho các em thoả sức thể hiện mình và sáng tạo (Ví dụ như: thi thiết kế thời trang, thời trang giấy,…)
III. KẾT BÀI
– Mặc áo dài truyền thống hay mặc trang phục hiện đại đến trường đều có mặt lợi và hại.
– Ta cần phải hiểu rõ và đúng đắn trong việc ăn mặc khi đến trường.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Có thể nói, chiếc áo dài trắng thướt tha, bay bay trong gió luôn là hình ảnh đẹp đẽ; thể hiện nét đẹp dịu dàng khi nói đến người con gái Việt Nam, đặc biệt là các nữ sinh Việt Nam. Nét đẹp truyền thống ấy đã được giữ gìn, tôn vinh không chỉ trong nước mà còn trên khắp thế giới. Thế nhưng hiện nay xuất hiện một trào lưu trong môi trường học đường, đó chính là các nữ sinh mặc những trang phục khá hiện đại nhưng không đúng mực đến trường. Quan điểm của chúng ta về vấn đề này như thế nào?
Hiện tượng các nữ sinh mặc những trang phục khá hiện đại nhưng không đúng mực đến trường là hiện tượng các em mặc những trang phục không phù hợp với môi trường học đường như: váy nhiều màu, quần quá ngắn, áo quá mỏng, áo hai dây,…Những trang phục này tuy khá là gần gũi với các em nhưng lại không phù hợp với môi trường giáo dục học đường. Còn chiếc áo dài trắng đã trở thành trang phục truyền thống bao lâu nay của các em nữ sinh, tạo nên nét duyên dáng, dịu dàng của người con gái Việt Nam ta.
Hai cách ăn mặc khi đến trường mà chúng ta vừa đề cập ở trên đã cho ta thấy sự khác nhau trong nhận thức của các em. Vậy thì, một vấn đề cần đặt ra là tại sao cách ăn mặc trang phục hiện đại không đúng mực ấy lại diễn ra? Phải chăng, đó chính là cách mà các em học sinh thể hiện cá tính mạnh mẽ của bản thân – một cách thể hiện bản lĩnh với bạn bè xung quanh mình. Hay đó là cách mà các em thể hiện được xu hướng thẩm mĩ “mới” trong cách ăn mặc của mình khi đến trường? Dù là với lí do nào đi chăng nữa thì việc ăn mặc như thế là không phù hợp. Bởi khi các em ăn mặc như thế khi đến trường, chắc chắn các em sẽ phải đối diện với những lời nhắc nhở từ nhà trường vì vi phạm nội quy của nhà trường. Hình ảnh mặc đồ váy ngắn, nhiều màu, áo quá mỏng,…có thể nói là những hình ảnh phản cảm, làm mất đi sự trong sáng vốn có của bộ trang phục mà nó còn làm mất đi hình ảnh trong sáng, hồn nhiên của các nữ sinh trong mắt các bạn khác. Những người xung quanh các em sẽ xa lánh bởi họ không muốn “đụng” tới những người ăn mặc dị hợm, khác lạ một cách không phù hợp. Không chỉ vậy, bản thân người mặc trang phục không phù hợp ấy cũng sẽ dần dần mất đi nhân cách, đạo đức tạo một cái nhìn không thiện cảm đối với những người xung quanh. Vậy còn việc mặc trang phục áo dài thì sao? Có thể nói, chiếc áo dài trắng thể hiện nét đẹp tinh khôi, trong trắng, sự dịu dàng của người con gái Việt Nam. Trang phục này khi sử dụng trong môi trường học đường thì rất phù hợp. Thế nhưng, đi kèm sự phù hợp ấy vẫn còn tồn tại đâu đó sự bất tiện trong một số thời tiết, hoàn cảnh nhất định. Những khi mùa nắng nóng kéo về, chiếc áo dài khiến cho những người mặc nó cảm giác không thoải mái. Còn mùa mưa, đường phố lầy lội khiến cho tà áo dài màu trắng bỗng trong phút chốc bị vấy bẩn. Chi phí để may một chiếc áo dài cũng đắt hơn một bộ trang phục bình thường. Thêm một tình huống cũng khá phổ biến đó là khi các em nữ sinh chạy xe đạp, thường hay gặp phải trường hợp tà áo dài vướng vào dây xích của xe. Khi ấy, chiếc áo dài không chỉ bị vấy bẩn mà còn có thể bị rách, gây khó khăn cho các em trong việc di chuyển.
Làm cách nào để chúng ta có thể khắc phục được tình trạng nữ sinh mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường? Điều này có thể khắc phục được nếu như nhà trường cần phối hợp với xã hội, gia đình để giáo dục các em ý thức cao hơn trong vấn đề ăn mặc đến trường. Ban lãnh đạo nhà trường thường xuyên làm công tác tư tưởng mỗi khi đến giờ chào cờ, giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở mỗi ngày, bạn bè bảo nhau,…Hay nhà trường cũng có thể tạo nên một môi trường lành mạnh, thi tài về vấn đề trang phục cho các em thoả sức thể hiện mình và sáng tạo như thi thiết kế thời trang giấy. Những biện pháp này chắc chắn sẽ giúp cho các em nữ sinh có ý thức tốt hơn về cách ăn mặc khi đến trường.
>> Xem thêm Đề 40: Phân tích và làm sáng tỏ ý nghĩa câu nói của Nguyễn Bá Học:” Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” tại đây.
Tags:Đề 39 · Trang phục đến trường · Văn chọn lọc 9
|
Đề 39 – Suy nghĩ về trang phục khi đến trường của nữ sinh thời nay – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Trang phục khi đến trường của nữ sinh
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: hiện tượng đời sống xã hội (việc nữ sinh thời nay nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường?)
– Vậy truyền thống có nghĩa là gì?
– Giải thích hiện tượng trong đề bài là hiện tượng như thế nào? Hiện tượng ấy có ảnh hưởng như thế nào đối với các thế hệ trẻ?
– Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng đó? (đưa ra cụ thể các nguyên nhân)
– Những cách khắc phục nào (đối với hiện tượng tiêu cực) và phát triển, tuyên truyền ra sao (đối với hiện tượng tích cực)?
– Bài học, kinh nghiệm nào mà em rút ra từ những gì vừa phân tích ở trên?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Ngày nay, các nữ sinh khi đi học đa phần đều mặc áo dài truyền thống thế nhưng thời gian gần đây xuất hiện trào lưu mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường.
– Vậy quan điểm của em về vấn đề này như thế nào?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích hiện tượng: (Đặt câu hỏi: là gì?)
+ Hiện tượng nữ sinh mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực đến trường đó là hiện tượng gì?
– Đó là hiện tượng học sinh nữ mặc những bộ trang phục không phù hợp với môi trường học đường vì quá “hiện đại” như: váy nhiều màu, quần ngắn, áo quá mỏng hợp thời trang, áo hai dây…
– Mặc áo dài truyền thống đi học thể hiện được nét duyên dáng của nữ sinh.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Như thế nào? Tại sao? Vì sao?)
• Tại sao hiện tượng mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường lại diễn ra?
+ Bởi vì nó thể hiện phần nào cá tính mạnh mẽ của học sinh.
+ Thể hiện mình là người có gu thẩm mĩ trong cách ăn mặc.
+ Cạnh tranh với bè bạn xung quanh.
• Hậu quả dẫn đến của hiện tượng này là gì?
+ Do vi phạm quy định nhà trường nên bị nhà trường nhắc nhở thường xuyên.
+ Bạn bè xa lánh vì ăn mặc không nghiêm túc, dị hợm.
+ Mình trở thành tâm điểm cho mọi người bàn tán.
+ Mất dần nhân cách, đạo đức và tạo cái nhìn không thiện cảm cho mọi người xung quanh đối với mình.
• Cái bất lợi của việc mặc áo dài truyền thống là gì?
+ Mùa mưa: đường phố lầy lội dễ vấy bẩn lên áo khi đi học, dễ vướng căm xe.
+ Chi phí cho việc may một chiếc áo dài đắt hơn.
c. Nguyên nhân do đâu dẫn đến việc học sinh mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường?
– Học sinh cho rằng chiếc áo dài truyền thống chưa phù hợp với thời đại hiện đại ngày nay.
– Ý thức học sinh chưa cao, chưa phân biệt được nơi nghiêm túc và nơi thả sức diện đồ hiện đại. Môi trường học đường cần phải có sự nghiêm túc, đàng hoàng.
– Mong muốn thể hiện mình trong nhà trường của các em quá mãnh liệt.
– Mong muốn được mọi người nể phục, trầm trồ khen ngợi.
d. Biện pháp khắc phục
– Nhà trường cần phối hợp với xã hội, gia đình để giáo dục các em ý thức cao hơn trong vấn đề ăn mặc đến trường.
– Tạo một môi trường lành mạnh, thi tài về vấn đề trang phục cho các em thoả sức thể hiện mình và sáng tạo (Ví dụ như: thi thiết kế thời trang, thời trang giấy,…)
III. KẾT BÀI
– Mặc áo dài truyền thống hay mặc trang phục hiện đại đến trường đều có mặt lợi và hại.
– Ta cần phải hiểu rõ và đúng đắn trong việc ăn mặc khi đến trường.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Có thể nói, chiếc áo dài trắng thướt tha, bay bay trong gió luôn là hình ảnh đẹp đẽ; thể hiện nét đẹp dịu dàng khi nói đến người con gái Việt Nam, đặc biệt là các nữ sinh Việt Nam. Nét đẹp truyền thống ấy đã được giữ gìn, tôn vinh không chỉ trong nước mà còn trên khắp thế giới. Thế nhưng hiện nay xuất hiện một trào lưu trong môi trường học đường, đó chính là các nữ sinh mặc những trang phục khá hiện đại nhưng không đúng mực đến trường. Quan điểm của chúng ta về vấn đề này như thế nào?
Hiện tượng các nữ sinh mặc những trang phục khá hiện đại nhưng không đúng mực đến trường là hiện tượng các em mặc những trang phục không phù hợp với môi trường học đường như: váy nhiều màu, quần quá ngắn, áo quá mỏng, áo hai dây,…Những trang phục này tuy khá là gần gũi với các em nhưng lại không phù hợp với môi trường giáo dục học đường. Còn chiếc áo dài trắng đã trở thành trang phục truyền thống bao lâu nay của các em nữ sinh, tạo nên nét duyên dáng, dịu dàng của người con gái Việt Nam ta.
Hai cách ăn mặc khi đến trường mà chúng ta vừa đề cập ở trên đã cho ta thấy sự khác nhau trong nhận thức của các em. Vậy thì, một vấn đề cần đặt ra là tại sao cách ăn mặc trang phục hiện đại không đúng mực ấy lại diễn ra? Phải chăng, đó chính là cách mà các em học sinh thể hiện cá tính mạnh mẽ của bản thân – một cách thể hiện bản lĩnh với bạn bè xung quanh mình. Hay đó là cách mà các em thể hiện được xu hướng thẩm mĩ “mới” trong cách ăn mặc của mình khi đến trường? Dù là với lí do nào đi chăng nữa thì việc ăn mặc như thế là không phù hợp. Bởi khi các em ăn mặc như thế khi đến trường, chắc chắn các em sẽ phải đối diện với những lời nhắc nhở từ nhà trường vì vi phạm nội quy của nhà trường. Hình ảnh mặc đồ váy ngắn, nhiều màu, áo quá mỏng,…có thể nói là những hình ảnh phản cảm, làm mất đi sự trong sáng vốn có của bộ trang phục mà nó còn làm mất đi hình ảnh trong sáng, hồn nhiên của các nữ sinh trong mắt các bạn khác. Những người xung quanh các em sẽ xa lánh bởi họ không muốn “đụng” tới những người ăn mặc dị hợm, khác lạ một cách không phù hợp. Không chỉ vậy, bản thân người mặc trang phục không phù hợp ấy cũng sẽ dần dần mất đi nhân cách, đạo đức tạo một cái nhìn không thiện cảm đối với những người xung quanh. Vậy còn việc mặc trang phục áo dài thì sao? Có thể nói, chiếc áo dài trắng thể hiện nét đẹp tinh khôi, trong trắng, sự dịu dàng của người con gái Việt Nam. Trang phục này khi sử dụng trong môi trường học đường thì rất phù hợp. Thế nhưng, đi kèm sự phù hợp ấy vẫn còn tồn tại đâu đó sự bất tiện trong một số thời tiết, hoàn cảnh nhất định. Những khi mùa nắng nóng kéo về, chiếc áo dài khiến cho những người mặc nó cảm giác không thoải mái. Còn mùa mưa, đường phố lầy lội khiến cho tà áo dài màu trắng bỗng trong phút chốc bị vấy bẩn. Chi phí để may một chiếc áo dài cũng đắt hơn một bộ trang phục bình thường. Thêm một tình huống cũng khá phổ biến đó là khi các em nữ sinh chạy xe đạp, thường hay gặp phải trường hợp tà áo dài vướng vào dây xích của xe. Khi ấy, chiếc áo dài không chỉ bị vấy bẩn mà còn có thể bị rách, gây khó khăn cho các em trong việc di chuyển.
Làm cách nào để chúng ta có thể khắc phục được tình trạng nữ sinh mặc trang phục hiện đại chưa đúng mực khi đến trường? Điều này có thể khắc phục được nếu như nhà trường cần phối hợp với xã hội, gia đình để giáo dục các em ý thức cao hơn trong vấn đề ăn mặc đến trường. Ban lãnh đạo nhà trường thường xuyên làm công tác tư tưởng mỗi khi đến giờ chào cờ, giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở mỗi ngày, bạn bè bảo nhau,…Hay nhà trường cũng có thể tạo nên một môi trường lành mạnh, thi tài về vấn đề trang phục cho các em thoả sức thể hiện mình và sáng tạo như thi thiết kế thời trang giấy. Những biện pháp này chắc chắn sẽ giúp cho các em nữ sinh có ý thức tốt hơn về cách ăn mặc khi đến trường.
>> Xem thêm Đề 40: Phân tích và làm sáng tỏ ý nghĩa câu nói của Nguyễn Bá Học:” Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” tại đây.
Tags:Đề 39 · Trang phục đến trường · Văn chọn lọc 9
|
Đề 3: Phân tích bức tranh mùa xuân trong bốn câu thơ của Nguyễn Du – Bài văn chọn lọc lớp 9
Hướng dẫn
Đề 3: Phân tích bức tranh mùa xuân trong bốn câu thơ sau:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Nguyễn Du – Truyện Kiểu)
Bài làm
Chẳng biết tự bao giờ, mùa xuân đã có sức thu hút kì diệu với lòng người đến vậy. Xuân tuyệt diệu, xuân trẻ trung, tinh khiết đã làm say lòng các thi nhân, văn sĩ. Đã có biết bao áng thơ, áng văn, biết bao bản nhạc ca ngợi mùa xuân nhưng bức tranh xuân chắc hẳn sẽ kém đi sự huyền diệu nếu không có cảnh ngày xuân trong thơ đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã vẽ nên khung cảnh tuyệt diệu của mùa xuân để lưu truyền cho muôn đời:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Mở đầu bức tranh xuân, tác giả thông báo trực tiếp về thời gian: “Ngày xuân con én đưa thoi – Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi ra các cách hiểu khác nhau. “Con én đưa thoi” có thể hiểu là những cánh én chao liệng trên bầu trời như thoi đưa, bởi chim én là tín hiệu của mùa xuân. Bên cạnh đó, “con én đưa thoi” còn có thể hiểu là thời gian trôi rất nhanh chẳng khác nào thoi đưa. Nếu hiểu theo cách hai thì câu thơ “Ngày xuân con én đưa thoi” không chỉ đơn thuần là câu thơ tả cảnh mà ngầm chứa trong đó bước đi vội vàng của thời gian. Cách hiểu này dường như rất lô gích với câu thơ tiếp theo: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Nhà thơ Nguyễn Du đã đưa ra những con số rất cụ thể. Mùa xuân có chín mươi ngày thì đã trôi đi quá nửa (“đã ngoài sáu mươi”). Câu thơ ẩn chứa sự nuối tiếc khôn nguôi của con người trước sự chảy trôi chóng vánh của thời gian. Mùa xuân vốn đến và đi theo quy luật của tự nhiên, bao đời vẫn thế nhưng ở đây nhà thơ đã nhìn dưới cái nhìn tâm lí mang màu sắc chủ quan nên mùa xuân cũng trở nên sống động. Ta bắt gặp sự gần gũi trong cách cảm nhận thời gian của đại thi hào Nguyễn Du với “hoàng tử thơ ca” Xuân Diệu sau này. Nhà thơ Xuân Diệu của thời thơ mới trước mùa xuân tươi đẹp cũng đã có những dự cảm về sự tàn phai, nuối tiếc:
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
(Xuân Diệu – Vội vàng)
Sự tương đồng trong cách cảm nhận bước đi mùa xuân giữa hai nhà thơ cách nhau mấy thế kỉ thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế của những hồn thơ kiệt xuất. Chỉ có những người biết yêu, biết quý trọng thời gian mới có thể cảm nhận được sự chảy trôi, vận động tế vi đến như vậy.
Nếu như hai câu đầu, Nguyễn Du nghiêng về miêu tả thời gian thì hai câu sau nhà thơ tập trung miêu tả cảnh sắc:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã làm sống dậy một bức tranh xuân căng tràn nhựa sống. Tất cả cảnh vật đều được miêu tả ở trạng thái viên mãn nhất. “Cỏ non xanh tận chân trời“, màu xanh của cỏ tiếp nối với màu xanh của trời như trải ra ngút ngàn. Màu xanh vốn là màu của sự sống, hơn nữa đây là xanh non, xanh lộc biếc nên sự sống lại càng tràn trề, trào dâng. Nguyễn Du không phải là nhà thơ đầu tiên miêu tả cỏ xuân, trước ông, nhà thơ Nguyễn Trãi đã viết trong bài Bến đò xuân đầu trại:
Độ đầu xuân thảo lục như yên,
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
(Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời)
Nếu Nguyễn Trãi sử dụng thủ pháp so sánh “thảo lục như yên” để miêu tả vẻ xuân như mờ ảo, sương khói trong ngày mưa nơi bến đò thì Nguyễn Du lại vẽ trực tiếp bức tranh cỏ xuân. Chỉ với câu thơ: “Cỏ non xanh tận chân trời”, ông đã đem đến cho người đọc cảm nhận về hình ảnh, màu sắc, đường nét, sức sống của cỏ… Tất cả đều hài hoà, lắng đọng trong chiều sâu câu thơ 6 chữ, tạo nên nét xuân riêng rất Nguyễn Du. Cái tài của đại thi hào không chỉ dừng ở đó, bức tranh cỏ xuân xanh biếc như làm nền cho sự đột phá ở câu thơ tiếp theo:
Miêu tả những bông hoa lê trắng trong, tinh khiết, nhà thơ không viết là “điểm trắng” mà sử dụng đảo ngữ “trắng điểm” khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Chỉ “một vài bông hoa” nhưng cũng đủ làm nên thần thái của bức tranh xuân. Chính điều này đã khiến câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du tạo được dấu ấn riêng sắc nét so với câu thơ cổ của Trung Quốc:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
Câu thơ “Lê chi sổ điểm hoa” (Trên cành lê có mấy bông hoa) chỉ đơn giản là lời thông báo, không có sự hoà quyện màu sắc giữa sắc màu hoa lê với sắc màu “cỏ thơm” ở câu đầu. Trái lại, câu thơ của Nguyễn Du là sự hoà quyện, kết hợp màu sắc tạo nên nét thần thái của cảnh vật. Tác giả đã rất tinh tế khi lựa chọn màu sắc cho bức tranh xuân của mình. Đó là xanh và trắng – những sắc màu trinh nguyên, thanh khiết, giàu sức sống, tiêu biểu cho mùa xuân. Ta nhận ra rằng Nguyễn Du không chỉ là đại thi hào trong lĩnh vực thơ ca mà cũng là bậc thầy trong lĩnh vực hội họa. Hai câu thơ tả cảnh thực sự là những câu thơ tuyệt bút.
HÀ HOÀNG MINH
Lời nhận xét:
– Bài viết đã thực sự tạo ấn tượng với sự cảm nhận và phân tích tinh tế. Người viết tỏ ra thực sự có năng lực cảm thụ văn chương, phát hiện vù xoáy sâu vào những chi tiết miêu tả cái thần của cảnh vật như: “con én đưa thoi ”, “cỏ non xanh tận chân trời”, thủ pháp đảo ngữ,…
– Đặc biệt, tác giả bài viết đã thể hiện kiến thức văn chương phong phú khi đưa ra những so sánh hợp lí, tinh tế. Ví dụ khi so sánh cảm nhận thời gian trong thơ Nguyễn Du với nhà thơ Xuân Diệu sau này: “Sự tương đồng trong cách cảm nhận bước đi mùa xuân giữa hai nhà thơ cách nhau mấy thê kỉ thê hiện sự nhạy cảm, tinh tế của những hồn thơ kiệt xuất. Chỉ có những người biết yêu, biết quý trọng thời gian mới có thể cảm nhận được sự chảy trôi, vận động tế vi đến như vậy” hay so sánh để tìm va sự khác biệt giữa hình ảnh trong thơ Nguyễn Trãi và Nguyên Du.
|
Topic 3: Analyze the picture of spring in four verses by Nguyen Du - Selected essays for grade 9
Instruct
Topic 3: Analyze the picture of spring in the following four verses:
On spring days, swallows shuttle,
Optical Thieu was past sixty nine decades.
Green grass reaches the horizon,
There are some blossoms on the white pear branch.
(Nguyen Du – Stories)
Assignment
I don't know when spring had such a magical attraction to people's hearts. Wonderful spring, youthful and pure spring has captivated the hearts of poets and writers. There have been so many poems, essays, and songs praising spring, but the picture of spring would certainly be less magical if there were no spring scenes in the poems of great poet Nguyen Du. With just four short verses, Nguyen Du painted a wonderful scene of spring to pass down for generations:
On spring days, swallows shuttle,
Optical Thieu was past sixty nine decades.
Green grass reaches the horizon,
There are some blossoms on the white pear branch.
At the beginning of the spring painting, the author directly announces the time: "On the spring day, the swallow flies - Thieu Quang is ninety and already sixty." The image of a "swallow shuttle" suggests different interpretations. “Swinging swallow” can be understood as swallow wings flying in the sky like a shuttle, because swallows are the signal of spring. Besides, "swallow shuttle" can also be understood as time passing very quickly like a shuttle. If understood in the second way, the verse "On a spring day, the swallow shuttles" is not simply a poem describing a scene but implicitly contains within it the hasty march of time. This understanding seems very logical with the next verse: "Thieu Quang is ninety and over sixty." Poet Nguyen Du gave very specific numbers. Spring has ninety days and more than half has passed ("over sixty"). The poem contains people's endless regret at the rapid passage of time. Spring comes and goes according to the laws of nature, it has always been the same, but here the poet has looked at it from a subjective psychological perspective, so spring also becomes alive. We encounter the closeness in the way the great poet Nguyen Du perceives time with the later "poetry prince" Xuan Dieu. Poet Xuan Dieu of the new era before the beautiful spring also had premonitions of fading and regret:
Spring is still young, which means spring will be old,
(Xuan Dieu – Hurry)
The similarity in the way spring steps are felt between two poets several centuries apart shows the sensitivity and sophistication of outstanding poetic souls. Only people who know how to love and value time can feel such subtle flow and movement.
If in the first two lines, Nguyen Du is inclined to describe time, then in the next two lines the poet focuses on describing the scenery:
Green grass reaches the horizon,
There are some blossoms on the white pear branch.
With just two verses, the author has brought to life a picture of spring full of life. All scenes are depicted in their fullest state. "The young grass is green to the horizon", the green of the grass continues with the blue of the sky as if stretching out endlessly. Green is the color of life, moreover, this is green, green, so life is even more overflowing and overflowing. Nguyen Du is not the first poet to describe spring grass. Before him, poet Nguyen Trai wrote in the article Spring ferry at the beginning of the camp:
In early spring, the grass is green like peace,
Xuan Vuem meets Water and Thien
(The grass is as green as fresh spring smoke
There's spring rain again, water splashes in the sky)
If Nguyen Trai uses the comparison technique "green grass is like peace" to describe the blurry, foggy look of spring on a rainy day at the wharf, Nguyen Du directly paints the picture of spring grass. With just the verse: "The young grass is green to the horizon", he gives the reader a sense of the images, colors, lines, vitality of the grass... All are harmonious and settled in the depth of the sentence. 6-word poem, creating a unique spring feature that is very Nguyen Du. The talent of the great poet does not stop there, the picture of green spring grass seems to be the background for the breakthrough in the next verse:
Describing the pure white pear flowers, the poet does not write "white spots" but uses the anagram "white spots" to make the white color even more emphasized. Besides, the anagram method makes the reader feel that the white color of the pear blossom actively decorates the spring picture more wonderfully. Just "a few flowers" but enough to create the spirit of a spring painting. This is what makes the verses of great poet Nguyen Du create a distinct impression compared to ancient Chinese verses:
Phuong Thao Lien Thien Bich
Le chi flower scoring book
The verse "There are a few flowers on the pear branch" is simply an announcement, there is no color blend between the color of the pear flower and the color of "fragrant grass" in the first verse. On the contrary, Nguyen Du's poetry is a blend and combination of colors that create the charisma of the scene. The author was very delicate when choosing colors for his spring painting. They are blue and white - virgin, pure, vibrant colors that represent spring. We realize that Nguyen Du is not only a great poet in the field of poetry but also a master in the field of painting. The two verses describing the scene are truly masterpieces.
HA HOANG MINH
Comment:
– The article really made an impression with its sophisticated perception and analysis. The writer shows that he really has the ability to perceive literature, discovering deeply into the details that describe the spirit of the scene such as: "swallow shuttle", "green grass to the horizon", tactics. anagram,…
– In particular, the author of the article has shown rich literary knowledge when making reasonable and sophisticated comparisons. For example, when comparing the sense of time in Nguyen Du's poetry with the later poet Xuan Dieu: "The similarity in the way of feeling the spring steps between two poets several centuries apart shows sensitivity and sophistication." of outstanding poetic souls. Only those who know how to love and appreciate time can feel such subtle flow and movement" or compare to find and find the difference between images in Nguyen Trai and Nguyen Du's poems.
|
Đề 4 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề 4 bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
1. Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn để hoàn chỉnh từng câu dưới đây:
a) Chúng ta bảo vệ những (thành công, thành tích, thành tựu, thành quả) của sự nghiệp đổi mới đất nước.
b) Các quốc gia đang phải gánh chịu những (kết quả, hiệu quả, hệ quả, hậu quả) của sự ô nhiễm môi trường.
c) Học sinh phải chấp hành (quy chế, nội quy, thể lệ, quy định) của lớp học.
2. Điền từ thích hợp vào từng chỗ trống (chọn trong các từ đồng nghĩa):
a) Loại xe ấy … nhiều xăng quá,,không hợp với ý muốn của người … nên rất khó …
(tiêu dùng, tiêu thụ, tiêu hao)
b) Các …là những người có tâm hồn …
(thi sĩ, nhà thơ)
3. Đọc bài thơ sau:
Quê em
Bên này là núi uy nghiêm
Bên kia là cánh đồng liền chân mây
Xóm làng xanh mát bóng cây
Sông xa trắng cánh buồm bay lưng trời…
(Trần Đăng Khoa)
Em hình dung được cảnh quê hương của nhà thơ Trần Đăng Khoa như thế nào?
4. Tả một cảnh đẹp mà em từng quan sát kĩ và cảm thấy yêu thích vào buổi chiều trong ngày.
|
Topic 4 – Practice topics – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Topic 4 fosters good students in Vietnamese 5
1. Choose the appropriate word in parentheses to complete each sentence below:
a) We protect the (success, achievements, accomplishments, results) of the country's innovation cause.
b) Countries are suffering from (results, effects, consequences, consequences) of environmental pollution.
c) Students must obey (rules, rules, regulations, regulations) of the classroom.
2. Fill in each blank with the appropriate word (choose from synonyms):
a) That type of car... has too much gas, doesn't suit people's wishes... so it's very difficult...
(consume, consume, consume)
b) You...are people with a soul...
(poet, poet)
3. Read the following poem:
My hometown
This side is a majestic mountain
On the other side is a field next to the clouds
The village is green and shady with trees
The river is white with sails flying across the sky...
(Tran Dang Khoa)
How do you imagine the hometown of poet Tran Dang Khoa?
4. Describe a beautiful scene that you observed closely and loved in the afternoon of the day.
|
Đề 4 – Đề kiểm tra học kì II – Tiếng Việt 4
Hướng dẫn
I.Em đọc thầm bài Cứu muối
Cứu muối
Đám mây đen to và nặng bay ngang qua bầu trời. Nó dừng lại, ngay trên đầu làng. Mặt Trời bỗng dưng biến mất và nắng như tấm màn mỏng nhà ai đang căng phơi bị cuốn ngay lại. Trời âm u.
-Cứu muối, bà con ơi!
-Cứu muối! – Nhiều tiếng kêu theo vang trên các khoảnh đồng.
Tiếng chân người chạy thình thịch, dồn dập trên đường làng. Người vác trang, bồ cào, người phên liếp, thúng mủng vội vã chạy ra đồng. Tôi cũng chạy theo rất nhanh.
Đồng muối lúc này nom thật lạ mắt, cứ loang loáng như gương. Trên những ô nề, muối đã bắt đầu kết tinh; đã nhìn thấy những hạt muối tươi lấm tấm nổi lên giữa những vùng nước mặn đang bắt đầu đóng váng. Mọi người hối hả lấy trang cào muối vun lại thành đống ở mỗi góc ruộng rồi lấy phên liếp che lên trên. Tôi cũng nhặt lấy một cái trang và bắt đầu cào muối. Mùi nắng nồng gặp mưa bốc lên mặn chát. Tôi thấy người nóng rực, mồ hôi toát ra.
Những hạt mưa to và nặng bắt đầu rơi xuống như ai ném đá, nghe rào rào. Mặt đất bốc hơi ngùn ngụt. Nhưng chỉ một lúc sau mưa tạnh ngay. Nắng bừng lên chói chang vàng rực. Mọi người lại vội vã bỏ phên liếp che đậy trên các ruộng ra để lấy nắng. Một chị phụ nữ nhìn tôi cười, hỏi:
-Em là cháu bác Tự. Em về làng nghỉ hè.
(Trích Cánh đồng bờ biển, Nguyễn Thị Ngọc Tú)
II.Làm bài tập
Khoanh vào ô trống trước ý trả lời đúng nhất
1.Khi sắp mưa, cảnh bầu trời được miêu tả như thế nào?
A.Các đám mây trên đầu làng bỗng dưng biến mất.
B.Trời âm u, có nhiều đám mây đen to và nặng bay qua.
C. Nắng như tấm màn mỏng đang căng phơi bị cuốn ngay lại.
2.Cảnh người khẩn trương chạy đi cứu muối được miêu tả bằng những chi tiết nào?
A.Mọi người vội vã bỏ phên liếp che đậy trên các ruộng ra để lấy nắng.
B.Mọi người cảm thấy trong người nóng rực, mồ hôi toát ra.
C. Tiếng kêu “Cứu muối”! vang lên, mọi người vác trang, bồ cào, phên liếp, thúng mủng vội vã chạy ra đồng.
3.Người ta cứu muối bằng cách nào? Vì sao các việc đó phải làm hối hả?
4.Câu “Cứu muối, bà con ơi!” là loại câu gì?
A.Cầu khiến
B.Câu kể
C.Câu cảm
5.Tìm trạng ngữ trong câu sau và cho biết nó bổ sung ý nghĩa gì cho câu.
Trên những ô nề, muối đã bắt đầu kết tinh.
a.Trạng ngữ: …………………………….
b.Ý nghĩa của trạng ngữ:……………………
6.Câu “Ngoài trời lúc này, tuyết tạm ngừng rơi, lạnh như cắt ruột”. Có mấy trạng ngữ?
A. Có một trạng ngữ. Đó là Ngoài trời lúc này.
C.Có ba trạng ngữ. Đó là Ngoài trời lúc này và tuyết tạm ngừng rơi.
7.Điền từ thích hợp vào chỗ trống: (lạc hậu, lạc đề, thất lạc, lạc quan, lạc hướng)
a.Bài văn bị…………..
b.Hồ sơ bị………………………………. ….
c.Sống…………….
d.Nền kinh tế………
e.Con tàu bị…………..
8.Chuyển câu kể sau thành câu cảm.
Trời âm u.
III.Tập làm văn
Đề bài: Tả con gà mái cùng đàn gà con.
Bài làm.
>>XEM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TẠI ĐÂY
|
Topic 4 – Semester II test – Vietnamese 4
Instruct
I. I silently read the article Saving Salt
Save the salt
Big and heavy black clouds flew across the sky. It stopped, right at the top of the village. The Sun suddenly disappeared and it was like a thin curtain in someone's house that was being stretched to dry and immediately rolled back. Cloudy.
-Save salt, people!
-Save salt! – Many cries echoed in the fields.
The sound of people running was pounding and pounding on the village road. People carrying clothes, rakes, bamboo baskets, and baskets hurriedly ran to the fields. I also followed very quickly.
The salt fields at this time look very strange, shining like a mirror. On the masonry squares, salt has begun to crystallize; saw speckled grains of fresh salt floating in the middle of salty waters that were beginning to scum. Everyone hurriedly raked the salt into piles in each corner of the field and then covered the top with wattles. I also picked up a page and started raking in the salt. The strong smell of sunlight meets rain and becomes salty. I felt hot and sweaty.
Big and heavy raindrops began to fall like someone was throwing stones, and there was a rumbling sound. The ground evaporated. But just a moment later, the rain stopped. The sun shines brightly and brightly yellow. Everyone hastily removed the wattles covering the fields to get some sunlight. A woman looked at me and smiled and asked:
-I am Mr. Tu's nephew. I went back to the village for the summer vacation.
(Excerpt from Coastal Fields, Nguyen Thi Ngoc Tu)
II. Do the exercises
Circle the blank box next to the best answer
1.When it is about to rain, how is the sky described?
A. The clouds above the village suddenly disappeared.
B. The sky is gloomy, there are many big and heavy black clouds flying by.
C. The sun is like a thin curtain that is stretched out to dry and immediately rolled back.
2. In what details is the scene of people rushing to save the salt described?
A. Everyone hurriedly removed the rattan coverings from the fields to get some sunlight.
B. Everyone feels hot and sweaty.
C. The cry "Save the salt"! rang out, everyone carried their clothes, rakes, rakes, and baskets and hurriedly ran to the fields.
3.How do people save salt? Why do these things have to be done in a hurry?
4.The sentence "Save the salt, people!" What kind of sentence is it?
A. Ask for orders
B.The story
C. Feeling
5. Find the adverb in the following sentence and tell what meaning it adds to the sentence.
On the masonry squares, salt has begun to crystallize.
a. Adverb: …………………………….
b. Meaning of adverb:……………………
6. Sentence "Outside at this time, the snow has temporarily stopped falling, it's as cold as the stomach". How many adverbs are there?
A. There is an adverb. It's Outdoors now.
C.There are three adverbs. It's Outside now and the snow has stopped falling for a while.
7. Fill in the blanks with appropriate words: (outdated, off-topic, lost, optimistic, misdirected)
a.The essay is…………..
b.The file is ………………………………. ….
c.Living…………….
d.Economy………
e.The ship was …………..
8.Change the following sentence into an emotional sentence.
Cloudy.
III.Practice writing
Topic: Describe a hen and her chicks.
Assignment.
>>SEE ANALYSIS GUIDE HERE
|
Đề 40 – Câu nói của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Ý nghĩa câu nói của Nguyễn Bá Học
Đề 40: Phân tích và làm sảng tỏ ý nghĩa của câu nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí thông qua một câu nhận định (Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông “Nguyễn Bá Học ”)
– Em cần rút ra được ý nghĩa được chứa trong câu nói của Nguyễn Bá Học?
– Giải thích khái niệm “lòng kiên trì, quyết tâm” có nghĩa là gì?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho sự kiên trì, quyết tâm?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người không có lòng kiên trì, quyết tâm có làm được mọi việc mà mình mong muốn hay không
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Sử dụng các câu tục ngữ, ca dao về kiên trì để dẫn dắt “Có chí thì nên”, “Không có việc gì khó…”,
– Gợi dẫn vào nội dung trong câu nói: Ý chí, quyết tâm, kiên trì.
– Trích dẫn câu nói.
II. THÂN BÀI
a. Giải thích:Câu nói trên có ý nghĩa là gì?
Nghĩa đen: Trên đường ta đi, thường gặp nhiều trở ngại (sông, núi) nếu không có ý chí nghị lực phi thường sẽ không vượt qua được.
Nghĩa bóng: Trên đường đời ta thường gặp nhiều khó khăn, thử thách, nếu có ý
chí, nghị lực, kiên trì ta sẽ thành công.
b. Đưa ra các biểu hiện:Tại sao khi ta có sự kiên trì sẽ thành công trong mọi việc?
– Mọi kết quả, thành công không tự dưng có được mà phải trải qua một quá trình học tập, lao động gian khổ, đòi hỏi con người phải có sự kiên trì, sự quyết tâm cao độ. Đó là bí quyết để thành công.
– Trong cuộc sống, đôi khi ta cũng cần phải có sự thất bại thì mới thành công được. Phải biết kiên trì, nhẫn nại với sự thất bại đó.
– Cho dẫn chứng: Bác Hồ, thầy Nguyễn Ngọc Ký, bản thân các em…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:Làm gì để rèn luyện đức tính kiên trì?
– Phê phán những kẻ nghèo ý chí, sự kiên trì, nhẫn nại. Chỉ biết hưởng thụ mà không biết bỏ sức lực của mình ra. Đức tính kiên trì khi chúng ta rèn luyện nó là để phục vụ cho con người với những việc tốt, phấn đấu đi lên chứ không phải là những mục đích thấp hèn.
– Tóm lại, câu nói của Nguyễn Bá Học gửi gắm đến chúng ta một bài học giàu ý nghĩa.
– Bản thân em rút ra được điều gì trong câu nói trên? (Phải luôn rèn luyện, trau dồi đạo đức đặc biệt là đức tính kiên trì nếu muốn thành công trong mọi việc.)
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
Hồ Chí Minh ”
Lời khuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất có ích cho tất cả mọi người. Bởi lẽ làm việc gì cũng phải gặp khó khăn, nếu con người không kiên trì và quyết tâm vượt khó thì sẽ chẳng thể làm được gì. Nguyễn Bá Học có ý kiến cho rằng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Vậy, ý kiến ấy có vai trò, ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta?
Thật vậy, câu nói trên có ý nghĩa khẳng định và nhấn mạnh vai trò của yếu tố tinh thần, tư tưởng kiên trì, vượt khó của con người đối với sự thành công trong công việc. “Đường đi khó” có ý nghĩa là con đường mà chúng ta đang bước đi luôn trải đầy chông gai, vất vả khó mà vượt qua được một cách dễ dàng. Những trở ngại “ngăn sông, cách núi” dường như không làm chùn bước của những con người giàu lòng kiên định, quyết tâm vượt lên trên sự gian truân, cực khổ. Và khi tư tưởng thông suốt, tinh thần vững vàng thì sẽ có quyết tâm cao, có ý chí vững mạnh để vượt qua các thử thách, khó khăn. Vậy tinh thần vượt khó và quyết tâm hoàn thành công việc là điều rất quan trọng trong việc quyết định sự thành công của chúng ta. Trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc ta, tinh thần vượt khó ấy đã thể hiện được rất sôi nổi và rất đẹp. Hình tượng những người lính với tinh thần bất khuất, đạp lên mọi khó khăn, gian khổ để chiến đấu, chiến thắng nỗi vất vả và chiến thắng kẻ thù đã trở thành những hình tượng nghệ thuật điển hình về tinh thần vượt khó:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Trèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo ”
Câu nói của Nguyễn Bá Học rất đúng với những khó khăn trong hoạt động cách mạng. Sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, là sự nghiệp lâu dài, gian khổ và cần nhiều nhất lòng quyết tâm và sự kiên định lí tưởng. Câu nói đã đúc kết một kinh nghiệm được rút ra từ những khó khăn và thành bại trong cuộc đấu tranh không ngừng vì lẽ phải. Đường đi khó không phải vì bản thân con đường ấy có nhiều chướng ngại vật mà khó bởi người đi đường không có quyết tâm cao.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải phê phán những người không kiên trì vượt khó mà còn cản trở những người muốn vươn lên. Con đường nào cũng có khó khăn và gian khổ, con đường càng vinh quang càng nhiều chông gai. Nếu chúng ta không tiến lên phía trước mà đợi người khác làm thế cho mình coi như là vô dụng, không kiên trì vượt khó. Nguyễn Bá Học đã dạy cho ta: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Để vượt qua được những trở ngại trên đường đời, không có cách nào khác là phải quyết tâm.
Câu nói của Ngụyễn Bá Học thật sự là một lời khuyên đúng đắn và bổ ích. Chúng ta cần phải biết kiên trì, vượt khó trong mọi việc mới đạt được thành công. Riêng bản thân tôi, tôi sẽ cố gắng vượt mọi trở ngại trong cuộc sống để tiến dần đến bước đường vinh quang của sự thành công không chỉ trong việc học tập mà còn trong cuộc sống, để không phụ lòng cha mẹ, thầy cô đã tin tưởng và yêu thương.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Ông bà ta ngày xưa đã truyền dạy cho con cháu những đức tính rất tốt trong đó có đức tính kiên trì, bền chí. Và thường thì cuộc đời của chúng ta giống như một con đường có nhiều khó khăn, hiểm trở trước mắt. Thế nên Nguyễn Bá Học đã từng nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Suy nghĩ của chúng ta về vấn đề này như thế nào?
Câu nói của Nguyễn Bá Học có ý nghĩa là gì? “Đường đi” mang ý nghĩa là con đường, là cuộc đời mà chúng ta đang bước đi, đang tồn tại. Con đường này không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng, êm đềm cho chúng ta đi qua mà chúng còn tồn tại những “sông, núi” chông gai, trắc trở, đầy nguy hiểm. Câu nói của Nguyễn Bá Học khuyên rằng trên con đường ta đi, thường gặp nhiều trở ngại (sông, núi) nếu không có ý chí nghị lực phi thường sẽ không thể vượt qua được. Suy rộng ra, câu nói ấy còn hàm chứa ý nghĩa là trên đường đời ta thường gặp nhiều khó khăn, thử thách, nếu có ý chí, nghị lực, kiên trì ta sẽ thành công.
Kiên trì, bền chí là một phẩm chất không thể thiếu ở mỗi người. Vì nó giúp chúng ta đạt được thành công trong cuộc sống và làm nên nhũng thành tựu lớn. Nguyễn Ngọc Ký liệt cả hai tay từ nhỏ, nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng và tập viết bằng chân. Ông đã trở thành nhà giáo nổi tiếng. Hay Nick Vujicic bị dị tật từ nhỏ nhưng ông vẫn kiên trì chịu đau và làm nên những điều tuyệt vời khác người và ông thật sự trở thành tấm gương sống cho mọi người trên toàn thế giới noi theo.
Dẫu biết rằng trong cuộc sống, khi ta đối diện với một lần thất bại là một lần cho ta một bài học kinh nghiệm tuyệt vời. Đó chính là hành trang giúp ta vững tin bước vào cuộc sống. Tuy vậy, ta vẫn còn bắt gặp đâu đó những con người mau chán nản khi gặp thất bại thậm chí là bỏ cuộc. Những người này thật sự rất đáng chê trách bởi nếu không rèn luyện, trau dồi sự bền bỉ, kiên trì thì sẽ chẳng thành công điều gì cả.
Người Nhật đã rất kiên trì khắc phục hậu quả của thiên tai tạo nên một đất nước cường thịnh, giàu có. Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, em thật thấm thía lời dạy của cha ông “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”, học theo Bác Hồ, noi gương người xưa để trở thành công dân có ích. Câu nói của Nguyễn Bá Học thực sự là một lời khuyên đúng đắn cho chúng ta vươn tới thành công, giúp chúng ta làm những việc phi thường, tạo dựng tương lai tươi sáng cho đất nước.
(Bài làm cùa HS)
>> Xem thêm Đề 41: Trình bày suy nghĩ của em về đức tính kiên trì tại đây.
Tags:Đề 40 · Nguyễn Bá Học · Văn chọn lọc 9
|
Đề 40 – Câu nói của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Ý nghĩa câu nói của Nguyễn Bá Học
Đề 40: Phân tích và làm sảng tỏ ý nghĩa của câu nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí thông qua một câu nhận định (Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông “Nguyễn Bá Học ”)
– Em cần rút ra được ý nghĩa được chứa trong câu nói của Nguyễn Bá Học?
– Giải thích khái niệm “lòng kiên trì, quyết tâm” có nghĩa là gì?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho sự kiên trì, quyết tâm?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người không có lòng kiên trì, quyết tâm có làm được mọi việc mà mình mong muốn hay không
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Sử dụng các câu tục ngữ, ca dao về kiên trì để dẫn dắt “Có chí thì nên”, “Không có việc gì khó…”,
– Gợi dẫn vào nội dung trong câu nói: Ý chí, quyết tâm, kiên trì.
– Trích dẫn câu nói.
II. THÂN BÀI
a. Giải thích:Câu nói trên có ý nghĩa là gì?
Nghĩa đen: Trên đường ta đi, thường gặp nhiều trở ngại (sông, núi) nếu không có ý chí nghị lực phi thường sẽ không vượt qua được.
Nghĩa bóng: Trên đường đời ta thường gặp nhiều khó khăn, thử thách, nếu có ý
chí, nghị lực, kiên trì ta sẽ thành công.
b. Đưa ra các biểu hiện:Tại sao khi ta có sự kiên trì sẽ thành công trong mọi việc?
– Mọi kết quả, thành công không tự dưng có được mà phải trải qua một quá trình học tập, lao động gian khổ, đòi hỏi con người phải có sự kiên trì, sự quyết tâm cao độ. Đó là bí quyết để thành công.
– Trong cuộc sống, đôi khi ta cũng cần phải có sự thất bại thì mới thành công được. Phải biết kiên trì, nhẫn nại với sự thất bại đó.
– Cho dẫn chứng: Bác Hồ, thầy Nguyễn Ngọc Ký, bản thân các em…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:Làm gì để rèn luyện đức tính kiên trì?
– Phê phán những kẻ nghèo ý chí, sự kiên trì, nhẫn nại. Chỉ biết hưởng thụ mà không biết bỏ sức lực của mình ra. Đức tính kiên trì khi chúng ta rèn luyện nó là để phục vụ cho con người với những việc tốt, phấn đấu đi lên chứ không phải là những mục đích thấp hèn.
– Tóm lại, câu nói của Nguyễn Bá Học gửi gắm đến chúng ta một bài học giàu ý nghĩa.
– Bản thân em rút ra được điều gì trong câu nói trên? (Phải luôn rèn luyện, trau dồi đạo đức đặc biệt là đức tính kiên trì nếu muốn thành công trong mọi việc.)
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
Hồ Chí Minh ”
Lời khuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất có ích cho tất cả mọi người. Bởi lẽ làm việc gì cũng phải gặp khó khăn, nếu con người không kiên trì và quyết tâm vượt khó thì sẽ chẳng thể làm được gì. Nguyễn Bá Học có ý kiến cho rằng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Vậy, ý kiến ấy có vai trò, ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta?
Thật vậy, câu nói trên có ý nghĩa khẳng định và nhấn mạnh vai trò của yếu tố tinh thần, tư tưởng kiên trì, vượt khó của con người đối với sự thành công trong công việc. “Đường đi khó” có ý nghĩa là con đường mà chúng ta đang bước đi luôn trải đầy chông gai, vất vả khó mà vượt qua được một cách dễ dàng. Những trở ngại “ngăn sông, cách núi” dường như không làm chùn bước của những con người giàu lòng kiên định, quyết tâm vượt lên trên sự gian truân, cực khổ. Và khi tư tưởng thông suốt, tinh thần vững vàng thì sẽ có quyết tâm cao, có ý chí vững mạnh để vượt qua các thử thách, khó khăn. Vậy tinh thần vượt khó và quyết tâm hoàn thành công việc là điều rất quan trọng trong việc quyết định sự thành công của chúng ta. Trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc ta, tinh thần vượt khó ấy đã thể hiện được rất sôi nổi và rất đẹp. Hình tượng những người lính với tinh thần bất khuất, đạp lên mọi khó khăn, gian khổ để chiến đấu, chiến thắng nỗi vất vả và chiến thắng kẻ thù đã trở thành những hình tượng nghệ thuật điển hình về tinh thần vượt khó:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Trèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo ”
Câu nói của Nguyễn Bá Học rất đúng với những khó khăn trong hoạt động cách mạng. Sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, là sự nghiệp lâu dài, gian khổ và cần nhiều nhất lòng quyết tâm và sự kiên định lí tưởng. Câu nói đã đúc kết một kinh nghiệm được rút ra từ những khó khăn và thành bại trong cuộc đấu tranh không ngừng vì lẽ phải. Đường đi khó không phải vì bản thân con đường ấy có nhiều chướng ngại vật mà khó bởi người đi đường không có quyết tâm cao.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải phê phán những người không kiên trì vượt khó mà còn cản trở những người muốn vươn lên. Con đường nào cũng có khó khăn và gian khổ, con đường càng vinh quang càng nhiều chông gai. Nếu chúng ta không tiến lên phía trước mà đợi người khác làm thế cho mình coi như là vô dụng, không kiên trì vượt khó. Nguyễn Bá Học đã dạy cho ta: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Để vượt qua được những trở ngại trên đường đời, không có cách nào khác là phải quyết tâm.
Câu nói của Ngụyễn Bá Học thật sự là một lời khuyên đúng đắn và bổ ích. Chúng ta cần phải biết kiên trì, vượt khó trong mọi việc mới đạt được thành công. Riêng bản thân tôi, tôi sẽ cố gắng vượt mọi trở ngại trong cuộc sống để tiến dần đến bước đường vinh quang của sự thành công không chỉ trong việc học tập mà còn trong cuộc sống, để không phụ lòng cha mẹ, thầy cô đã tin tưởng và yêu thương.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Ông bà ta ngày xưa đã truyền dạy cho con cháu những đức tính rất tốt trong đó có đức tính kiên trì, bền chí. Và thường thì cuộc đời của chúng ta giống như một con đường có nhiều khó khăn, hiểm trở trước mắt. Thế nên Nguyễn Bá Học đã từng nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Suy nghĩ của chúng ta về vấn đề này như thế nào?
Câu nói của Nguyễn Bá Học có ý nghĩa là gì? “Đường đi” mang ý nghĩa là con đường, là cuộc đời mà chúng ta đang bước đi, đang tồn tại. Con đường này không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng, êm đềm cho chúng ta đi qua mà chúng còn tồn tại những “sông, núi” chông gai, trắc trở, đầy nguy hiểm. Câu nói của Nguyễn Bá Học khuyên rằng trên con đường ta đi, thường gặp nhiều trở ngại (sông, núi) nếu không có ý chí nghị lực phi thường sẽ không thể vượt qua được. Suy rộng ra, câu nói ấy còn hàm chứa ý nghĩa là trên đường đời ta thường gặp nhiều khó khăn, thử thách, nếu có ý chí, nghị lực, kiên trì ta sẽ thành công.
Kiên trì, bền chí là một phẩm chất không thể thiếu ở mỗi người. Vì nó giúp chúng ta đạt được thành công trong cuộc sống và làm nên nhũng thành tựu lớn. Nguyễn Ngọc Ký liệt cả hai tay từ nhỏ, nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng và tập viết bằng chân. Ông đã trở thành nhà giáo nổi tiếng. Hay Nick Vujicic bị dị tật từ nhỏ nhưng ông vẫn kiên trì chịu đau và làm nên những điều tuyệt vời khác người và ông thật sự trở thành tấm gương sống cho mọi người trên toàn thế giới noi theo.
Dẫu biết rằng trong cuộc sống, khi ta đối diện với một lần thất bại là một lần cho ta một bài học kinh nghiệm tuyệt vời. Đó chính là hành trang giúp ta vững tin bước vào cuộc sống. Tuy vậy, ta vẫn còn bắt gặp đâu đó những con người mau chán nản khi gặp thất bại thậm chí là bỏ cuộc. Những người này thật sự rất đáng chê trách bởi nếu không rèn luyện, trau dồi sự bền bỉ, kiên trì thì sẽ chẳng thành công điều gì cả.
Người Nhật đã rất kiên trì khắc phục hậu quả của thiên tai tạo nên một đất nước cường thịnh, giàu có. Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, em thật thấm thía lời dạy của cha ông “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”, học theo Bác Hồ, noi gương người xưa để trở thành công dân có ích. Câu nói của Nguyễn Bá Học thực sự là một lời khuyên đúng đắn cho chúng ta vươn tới thành công, giúp chúng ta làm những việc phi thường, tạo dựng tương lai tươi sáng cho đất nước.
(Bài làm cùa HS)
>> Xem thêm Đề 41: Trình bày suy nghĩ của em về đức tính kiên trì tại đây.
Tags:Đề 40 · Nguyễn Bá Học · Văn chọn lọc 9
|
Đề 41 – Trình bày suy nghĩ của em về đức tính kiên trì – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về đức tính kiên trì
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí
– Giải thích khái niệm “lòng kiên trì, quyết tâm”?
– Những dẫn chứng nào cụ thể minh chứng cho sự kiên trì, quyết tâm?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người không có lòng kiên trì, quyết tâm có làm được mọi việc mà mình mong muốn hay không
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Sử dụng các câu tục ngữ, ca dao về kiên trì để dẫn dắt “Có chí thì nên”, “Không có việc gì khó…”,
– Gợi dẫn vào nội dung của khái niệm: Ý chí, quyết tâm, kiên trì.
II. THÂN BÀI
a. Giải thích:Khái niệm trên có ý nghĩa là gì?
=> Kiên trì có nghĩa là khi ta thất bại một việc nào đó thì ta cần cố gắng nỗ lực tiếp tục thực hiện cho tới khi nào thành công thì thôi.
b. Giải quyết vấn đề:Tại sao khi có sự kiên trì ta sẽ thành công trong mọi việc?
– Mọi kết quả, thành công không tự dưng có được mà phải trải qua một quá trình học tập, lao động gian khổ, đòi hỏi con người phải có sự kiên trì, sự quyết tâm cao độ. Đó là bí quyết để thành công.
– Cho dẫn chứng, biểu hiện cụ thể: Bác Hồ, thầy Nguyễn Ngọc Ký, bản thân em…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:Làm gì để rèn luyện đức tính kiên trì?
– Phê phán những kẻ nghèo ý chí, sự kiên trì, nhẫn nại. Chỉ biết hưởng thụ mà không biết bỏ sức lực của mình ra. Đức tính kiên trì khi chúng ta rèn luyện nó là để phục vụ cho con người với những việc tốt, phấn đấu đi lên chứ không phải là những mục đích thấp hèn.
III. KẾT BÀI
– Tóm lại, khi ta có đức tính kiên trì thì ta dễ dàng thành công trong mọi việc.
– Bản thân em rút ra được điều gì trong câu nói trên? (Phải luôn rèn luyện, trau dồi đạo đức đặc biệt là đức tính kiên trì nếu muốn thành công trong mọi việc.)
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống, chúng ta thường thấy có rất nhiều người đã thành công ở lĩnh vực mà họ đang làm. Để đạt được thành công rực rỡ như vậy, họ đã phải cố gắng rất nhiều trong việc trui rèn tri thức, kĩ năng và trên hơn hết chính là đức tính kiên trì, nhẫn nại. Nếu muốn cuộc sống sung túc và hạnh phúc thì chúng ta cần kiên trì và nỗ lực trong công việc.
Thế nhưng trong cuộc sống vẫn còn đâu đó một số người hay nản chí, chỉ thất bại lần đầu đã vội bỏ cuộc. Những người thiếu ý chí như vậy chắc chắn trong tương lai sẽ không bao giờ thành công được. Trong đời sống hàng ngày ta vẫn thấy có rất nhiều người nghèo nàn đó là do họ không ăn học đàng hoàng ngày trước chỉ biết trốn học, không thích học. Sau này họ phải buôn bán vé số hay phải trộm cắp…bởi họ sống mà không có một mục đích rõ ràng, không kiên trì phấn đấu để vươn lên trong cuộc sống. Những đối tượng này sẽ dễ sa ngã vào con đường phạm pháp.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 42: Trình bày suy nghĩ của em về mối quan hệ giữa tranh giành và nhường nhịn tại đây.
Tags:Đề 41 · Kiên trì · Văn chọn lọc 9
|
Topic 41 – Present your thoughts on the virtue of perseverance – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Think about the virtue of perseverance
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what type of topic this is: moral ideology
– Explain the concept of “perseverance and determination”?
– What specific evidence demonstrates perseverance and determination?
– Discuss and expand the issue: when a person does not have perseverance and determination, can he do everything he wants?
– What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– Use proverbs and folk songs about perseverance to guide “If there is a will, there is a way”, “Nothing is difficult…”,
– Introduction to the content of the concept: Will, determination, perseverance.
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: What does the above concept mean?
=> Perseverance means that when we fail at something, we need to keep trying until we succeed.
b. Problem solving: Why do we succeed in everything when we have perseverance?
– All results and success do not come suddenly but must go through a process of learning and arduous labor, requiring people to have perseverance and high determination. That's the secret to success.
– Give specific evidence and manifestations: Uncle Ho, teacher Nguyen Ngoc Ky, myself...
c. Discuss and expand the problem: What to do to practice the virtue of perseverance?
– Criticize those who lack willpower, perseverance, and patience. Only knowing how to enjoy it without knowing how to put in your own energy. The virtue of perseverance when we practice it is to serve people with good deeds, to strive for advancement, not for lowly goals.
III. END
– In short, when we have the virtue of perseverance, we can easily succeed in everything.
– What can you draw from the above statement? (You must always practice and cultivate morality, especially the virtue of perseverance, if you want to succeed in everything.)
REFERENCE ESSAY
In life, we often see many people who have succeeded in the field they are doing. To achieve such brilliant success, they had to try very hard to hone their knowledge, skills and, above all, the virtue of perseverance and patience. If we want a prosperous and happy life, we need to persevere and make efforts at work.
However, in life there are still some people who get discouraged and quickly give up after failing the first time. People who lack such will will certainly never succeed in the future. In everyday life, we still see many poor people because they did not study properly in the past and just skipped school and did not like to study. Later they have to sell lottery tickets or steal... because they live without a clear purpose, do not persistently strive to get ahead in life. These subjects will easily fall into the path of crime.
(Students' work)
>> See more Topic 42: Present your thoughts about the relationship between fighting and yielding here.
Tags: Topic 41 · Perseverance · Selected literature 9
|
Đề 42 – Suy nghĩ của em về mối quan hệ giữa tranh giành và nhường nhịn – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Tranh giành và nhường nhịn
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội đung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tướng đạo lí (tranh giành và nhường nhịn)
– Giải thích hai khái niệm tranh giành và nhường nhịn có nghĩa là gì?
– Đưa ra các biếu hiện của hai khái niệm trên được thể hiện như thế nào trong cuộc sống?
– Mối quan hệ giữa hai khái niệm tranh giành và nhường nhịn?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi chúng ta cố gắng tranh giành một điều gì đó về mình cho dù đó là điều tiêu cực, có ảnh hưởng không tốt thì người đó sẽ gánh chịu những hậu quả nào? Và ngược lại, khi ta nhường nhịn cho kẻ ác lấn tới làm điều xằng bậy có phải là ta quá nhu nhược hay không?
– Cảm nghĩ của em về hai khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Tranh giành và nhường nhịn là hai trong số những tính cách của con người. Đó là mặt tốt và mặt chưa tốt. Nếu như sự nhường nhịn là biểu hiện của đức tính vị tha, khoan dung thì tranh giành là sự biểu hiện của lòng đố kị.
– Vậy tranh giành và nhường nhịn có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tranh giành là gì? => Tranh nhau để giành lấy.
– Nhường nhịn là gì? => Chịu nhận phần kém, phần thiệt về mình, để cho người khác được hưởng phần hơn trong quan hệ đối xử.
b. Đưa ra các biểu hiện:
1. Tại sao chúng ta nên nhường nhịn trong cuộc sống?
+ Đó là một trong những phẩm chất tốt của con người.
+ Cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, thắt chặt tình cảm giữa con người với con người hơn.
– Dẫn chứng: Câu chuyện “Dê đen và Dê trắng” khi tranh nhau qua cầu, vì không ai chịu nhường nhịn ai nên cuối cùng cả hai đều rơi xuống sông.
2. Tranh giành có mang lại lợi ích gì cho con người không?
– Làm xấu đi mối quan hệ, tình cảm giữa con người với nhau.
– Thể hiện mình là kẻ ích kỉ, không biết nghĩ đến những người xung quanh mình.
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
Có phải nhường nhịn mãi sẽ trở thành hèn nhát không?
– Đó là cách xử sự khôn khéo trong giao tiếp ứng xử cùa con người.
– Giúp cho ta dễ thành công hơn trong cuộc sống.
III. KẾT BÀI
– Tranh giành và nhường nhịn là hai phẩm chất đạo đức của con người.
– Cần đề cao đức tính tốt: nhường nhịn.
– Tránh xa đức tính chưa tốt: tranh giành.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong cuộc sống xã hội đầy bộn bề như ngày nay thì tính cách của con người cũng theo đó mà có sự biến chuyển rất rõ rệt. Trong vô vàn những tính cách của con người thì dường như sự tranh giành và nhường nhịn là hai trong số những tính cách có mối quan hệ khắng khít với nhau. Nếu như sự nhường nhịn là biểu hiện của đức tính vị tha, khoan dung thì tranh giành là sự biểu hiện của lòng đố kị.
Vậy tranh giành và nhường nhịn đã được thể hiện như thế nào trong cuộc sống của chúng ta? Và chúng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực nào trong xã hội?
Trước hết ta phải hiểu rõ tranh giành là gì? Đó là tranh nhau để giành lấy điều gì đó về phía mình bất chấp tất cả. Thế còn nhường nhịn nghĩa là gì? Là chúng ta chịu nhận phần kém, phần thiệt về mình, để cho người khác được hưởng phần hơn trong quan hệ đối xử với nhau. Với cách chúng ta vừa định nghĩa thì hai khái niệm này một bên thì thể hiện cái tốt và một bên thể hiện cái chưa tốt.
Vậy thì tại sao chúng ta nên nhường nhịn nhau trong cuộc sống? Bởi vì đó là một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người. Cuộc sống của chúng ta sẽ dễ dàng hơn, thắt chặt được mối quan hệ, tình cảm giữa con người với con người với nhau hơn. Trong kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian, chúng ta chắc ai cũng đã từng đọc qua câu chuyện “Dê trắng và Dê đen”. Khi hai con dê tranh nhau qua cầu, do không ai chịu nhường nhịn ai nên cả hai cuối cùng đều rớt xuống sông. Nội dung câu chuyện trên cũng minh chứng phần nào cho việc nếu chúng ta trong cuộc sông không biết nhường nhịn lẫn nhau thì cả hai sẽ phải chịu những hậu quả nặng nề.
Hay trong cuộc sống, tìm hiểu tình huống trong siêu thị có hàng người đang xếp hàng để tính tiền phần hàng mình vừa mua, thế nhưng bỗng có một người chen ngang chạy lên đứng đầu hàng để tính tiền, những người đứng đợi khá lâu trước đó rất bức xúc và bắt đầu đôi bên gây ra cãi vã, dẫn đến đánh nhau rất đáng tiếc. Trong tình huống này, ta thấy người chen ngang đã thể hiện mình là một người vừa không có ý thức xếp hàng, vừa thể hiện mình là một người rất bất lịch sự. Nếu như hai bên mỗi bên nhường nhịn nhau một tiếng, và xếp hàng một cách trật tự thì sẽ không có chuyện gì xảy đến.
Nhưng trong xã hội đầy rối ren, xô bồ thì có phải nhường nhịn mãi sẽ trở nên hèn nhát không? Xin thưa mọi người là không. Bởi vì khi ta nhường nhịn, điều đó đã thể hiện cách xử sự khôn khéo trong giao tiếp ứng xử của con người với nhau. Nó giúp cho ta đạt được dễ dàng những thành quả trong cuộc sống. Ví dụ như trong gia đinh chúng ta, nếu anh chị em trên thuận dưới hoà, mỗi người đều biết nhường nhịn lẫn nhau sẽ tạo nên một đại gia đình hạnh phúc và yên vui, làm ấm lòng những người làm cha, làm mẹ. Còn ngoài xã hội, nếu như ai ai cũng biết tâm niệm “Một câu nhịn, chín sự lành” thì xã hội của chúng ta sẽ đẹp đẽ biết bao. Còn nếu như ai ai cũng chi biết nghĩ đến bản thân mình, ích kỉ mà không quan tâm đến mọi người thì chắc chắn những người đó sẽ dễ gặp trắc trở và thất bại trong cuộc sống sau này của mình.
Nói tóm lại, tranh giành và nhường nhịn luôn tồn tại trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Vì vậy, chúng ta cần phải mở rộng lòng mình, luôn lấy sự nhường nhịn làm kim chỉ nam trong cuộc sống cùa bản thân. Từ đó khắc phục dần thói xấu tranh giành lẫn nhau.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong cuộc sống diễn ra hằng ngày, ta luôn nhìn thấy xung quanh ta những con người tranh giành nhau những quyền lợi về bản thân và những con người nhường nhịn, giúp đỡ người khác không tính toán. Tranh giành và nhường nhịn là hai đức tính tồn tại song song trong mỗi con người. Vậy việc tranh giành và nhường nhịn dã ảnh hưởng như thế nào trong cuộc sống xã hội của chúng ta?
Tranh giành là giành, giựt, cướp đoạt từ người khác những gì mà họ có, những quyền lợi của họ đem về cho bản thân mình. Việc tranh giành xảy ra hằng ngày trong cuộc sống từ thời vua chúa đến chúng ta ngày hôm nay, việc tranh giành diễn ra trong các cung điện, những thê thiếp của vua tranh giành nhau, thậm chí là hãm hại nhau để tranh giành ngôi vị hoàng hậu. Đức tính tranh giành xuất phát từ lòng đố kỵ, ghen ghét của một con người. Từ việc cảm thấy mình thiệt thòi, thua kém một người nào đó, bản tính xấu trong ta nổi dậy. Ta sẽ hãm hại, tranh giành quyền lợi của người đó về bản thân mình bằng mọi thủ đoạn.
Mặt khác, nếu ta sống với trái tim biết yêu thương và nhường nhịn ta sẽ được mọi người ngưỡng mộ và yêu mến còn việc sống nham hiểm, chỉ nghĩ đến việc tranh giành quyền lợi về bản thân tự khắc sẽ bị mọi người xung quanh xa lánh. Đức tính nhường nhịn rất tốt, cần phải có ở mỗi người để tránh việc tranh giành và đố kị với người khác.
Tóm lại, qua vấn đề chúng ta vừa bàn luận, tôi thấy việc tranh giành và nhường nhịn xảy ra thường xuyên trong cuộc sống xã hội. Riêng tôi sẽ luôn sống với trái tim biết yêu thương và nhường nhịn cho người khác đúng lúc, đúng chỗ và không tính toán bất cứ điều gì.
(Bài làm cùa HS)
>> Xem thêm Đề 43: Trình bày suy nghĩ của em về tự tin tại đây.
Tags:Đề 42 · Tranh giành và nhường nhịn · Văn chọn lọc 9
|
Đề 42 – Suy nghĩ của em về mối quan hệ giữa tranh giành và nhường nhịn – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Tranh giành và nhường nhịn
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội đung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tướng đạo lí (tranh giành và nhường nhịn)
– Giải thích hai khái niệm tranh giành và nhường nhịn có nghĩa là gì?
– Đưa ra các biếu hiện của hai khái niệm trên được thể hiện như thế nào trong cuộc sống?
– Mối quan hệ giữa hai khái niệm tranh giành và nhường nhịn?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi chúng ta cố gắng tranh giành một điều gì đó về mình cho dù đó là điều tiêu cực, có ảnh hưởng không tốt thì người đó sẽ gánh chịu những hậu quả nào? Và ngược lại, khi ta nhường nhịn cho kẻ ác lấn tới làm điều xằng bậy có phải là ta quá nhu nhược hay không?
– Cảm nghĩ của em về hai khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Tranh giành và nhường nhịn là hai trong số những tính cách của con người. Đó là mặt tốt và mặt chưa tốt. Nếu như sự nhường nhịn là biểu hiện của đức tính vị tha, khoan dung thì tranh giành là sự biểu hiện của lòng đố kị.
– Vậy tranh giành và nhường nhịn có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tranh giành là gì? => Tranh nhau để giành lấy.
– Nhường nhịn là gì? => Chịu nhận phần kém, phần thiệt về mình, để cho người khác được hưởng phần hơn trong quan hệ đối xử.
b. Đưa ra các biểu hiện:
1. Tại sao chúng ta nên nhường nhịn trong cuộc sống?
+ Đó là một trong những phẩm chất tốt của con người.
+ Cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, thắt chặt tình cảm giữa con người với con người hơn.
– Dẫn chứng: Câu chuyện “Dê đen và Dê trắng” khi tranh nhau qua cầu, vì không ai chịu nhường nhịn ai nên cuối cùng cả hai đều rơi xuống sông.
2. Tranh giành có mang lại lợi ích gì cho con người không?
– Làm xấu đi mối quan hệ, tình cảm giữa con người với nhau.
– Thể hiện mình là kẻ ích kỉ, không biết nghĩ đến những người xung quanh mình.
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
Có phải nhường nhịn mãi sẽ trở thành hèn nhát không?
– Đó là cách xử sự khôn khéo trong giao tiếp ứng xử cùa con người.
– Giúp cho ta dễ thành công hơn trong cuộc sống.
III. KẾT BÀI
– Tranh giành và nhường nhịn là hai phẩm chất đạo đức của con người.
– Cần đề cao đức tính tốt: nhường nhịn.
– Tránh xa đức tính chưa tốt: tranh giành.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong cuộc sống xã hội đầy bộn bề như ngày nay thì tính cách của con người cũng theo đó mà có sự biến chuyển rất rõ rệt. Trong vô vàn những tính cách của con người thì dường như sự tranh giành và nhường nhịn là hai trong số những tính cách có mối quan hệ khắng khít với nhau. Nếu như sự nhường nhịn là biểu hiện của đức tính vị tha, khoan dung thì tranh giành là sự biểu hiện của lòng đố kị.
Vậy tranh giành và nhường nhịn đã được thể hiện như thế nào trong cuộc sống của chúng ta? Và chúng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực nào trong xã hội?
Trước hết ta phải hiểu rõ tranh giành là gì? Đó là tranh nhau để giành lấy điều gì đó về phía mình bất chấp tất cả. Thế còn nhường nhịn nghĩa là gì? Là chúng ta chịu nhận phần kém, phần thiệt về mình, để cho người khác được hưởng phần hơn trong quan hệ đối xử với nhau. Với cách chúng ta vừa định nghĩa thì hai khái niệm này một bên thì thể hiện cái tốt và một bên thể hiện cái chưa tốt.
Vậy thì tại sao chúng ta nên nhường nhịn nhau trong cuộc sống? Bởi vì đó là một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người. Cuộc sống của chúng ta sẽ dễ dàng hơn, thắt chặt được mối quan hệ, tình cảm giữa con người với con người với nhau hơn. Trong kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian, chúng ta chắc ai cũng đã từng đọc qua câu chuyện “Dê trắng và Dê đen”. Khi hai con dê tranh nhau qua cầu, do không ai chịu nhường nhịn ai nên cả hai cuối cùng đều rớt xuống sông. Nội dung câu chuyện trên cũng minh chứng phần nào cho việc nếu chúng ta trong cuộc sông không biết nhường nhịn lẫn nhau thì cả hai sẽ phải chịu những hậu quả nặng nề.
Hay trong cuộc sống, tìm hiểu tình huống trong siêu thị có hàng người đang xếp hàng để tính tiền phần hàng mình vừa mua, thế nhưng bỗng có một người chen ngang chạy lên đứng đầu hàng để tính tiền, những người đứng đợi khá lâu trước đó rất bức xúc và bắt đầu đôi bên gây ra cãi vã, dẫn đến đánh nhau rất đáng tiếc. Trong tình huống này, ta thấy người chen ngang đã thể hiện mình là một người vừa không có ý thức xếp hàng, vừa thể hiện mình là một người rất bất lịch sự. Nếu như hai bên mỗi bên nhường nhịn nhau một tiếng, và xếp hàng một cách trật tự thì sẽ không có chuyện gì xảy đến.
Nhưng trong xã hội đầy rối ren, xô bồ thì có phải nhường nhịn mãi sẽ trở nên hèn nhát không? Xin thưa mọi người là không. Bởi vì khi ta nhường nhịn, điều đó đã thể hiện cách xử sự khôn khéo trong giao tiếp ứng xử của con người với nhau. Nó giúp cho ta đạt được dễ dàng những thành quả trong cuộc sống. Ví dụ như trong gia đinh chúng ta, nếu anh chị em trên thuận dưới hoà, mỗi người đều biết nhường nhịn lẫn nhau sẽ tạo nên một đại gia đình hạnh phúc và yên vui, làm ấm lòng những người làm cha, làm mẹ. Còn ngoài xã hội, nếu như ai ai cũng biết tâm niệm “Một câu nhịn, chín sự lành” thì xã hội của chúng ta sẽ đẹp đẽ biết bao. Còn nếu như ai ai cũng chi biết nghĩ đến bản thân mình, ích kỉ mà không quan tâm đến mọi người thì chắc chắn những người đó sẽ dễ gặp trắc trở và thất bại trong cuộc sống sau này của mình.
Nói tóm lại, tranh giành và nhường nhịn luôn tồn tại trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Vì vậy, chúng ta cần phải mở rộng lòng mình, luôn lấy sự nhường nhịn làm kim chỉ nam trong cuộc sống cùa bản thân. Từ đó khắc phục dần thói xấu tranh giành lẫn nhau.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong cuộc sống diễn ra hằng ngày, ta luôn nhìn thấy xung quanh ta những con người tranh giành nhau những quyền lợi về bản thân và những con người nhường nhịn, giúp đỡ người khác không tính toán. Tranh giành và nhường nhịn là hai đức tính tồn tại song song trong mỗi con người. Vậy việc tranh giành và nhường nhịn dã ảnh hưởng như thế nào trong cuộc sống xã hội của chúng ta?
Tranh giành là giành, giựt, cướp đoạt từ người khác những gì mà họ có, những quyền lợi của họ đem về cho bản thân mình. Việc tranh giành xảy ra hằng ngày trong cuộc sống từ thời vua chúa đến chúng ta ngày hôm nay, việc tranh giành diễn ra trong các cung điện, những thê thiếp của vua tranh giành nhau, thậm chí là hãm hại nhau để tranh giành ngôi vị hoàng hậu. Đức tính tranh giành xuất phát từ lòng đố kỵ, ghen ghét của một con người. Từ việc cảm thấy mình thiệt thòi, thua kém một người nào đó, bản tính xấu trong ta nổi dậy. Ta sẽ hãm hại, tranh giành quyền lợi của người đó về bản thân mình bằng mọi thủ đoạn.
Mặt khác, nếu ta sống với trái tim biết yêu thương và nhường nhịn ta sẽ được mọi người ngưỡng mộ và yêu mến còn việc sống nham hiểm, chỉ nghĩ đến việc tranh giành quyền lợi về bản thân tự khắc sẽ bị mọi người xung quanh xa lánh. Đức tính nhường nhịn rất tốt, cần phải có ở mỗi người để tránh việc tranh giành và đố kị với người khác.
Tóm lại, qua vấn đề chúng ta vừa bàn luận, tôi thấy việc tranh giành và nhường nhịn xảy ra thường xuyên trong cuộc sống xã hội. Riêng tôi sẽ luôn sống với trái tim biết yêu thương và nhường nhịn cho người khác đúng lúc, đúng chỗ và không tính toán bất cứ điều gì.
(Bài làm cùa HS)
>> Xem thêm Đề 43: Trình bày suy nghĩ của em về tự tin tại đây.
Tags:Đề 42 · Tranh giành và nhường nhịn · Văn chọn lọc 9
|
Đề 43 – Trình bày suy nghĩ của em về tự tin – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ của em về tự tin
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí
– Giải thích khái niệm “tự tin”?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho sự tự tin?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một con người không có sự tự tin thì có làm nên việc không?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Tự tin luôn là một trong những đức tính cần thiết khi ta mong muốn thành công trong công việc.
– Vậy tự tin có giá trị như thế nào trong xã hội của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tự tin là gì? => Nghĩa là tin vào chính bản thân mình. Dù cho thất bại có trước mắt nhưng vẫn dấn thân tới vì tin chắc rằng mình sẽ thành công.
b. Đưa ra các biếu hiện: (Đặt câu hỏi: Như thế nào? Tại sao? Vì sao?)
• Người tự tin là người như thế nào?
– Là người không bao giờ ngần ngại trước bất kì khó khăn, thử thách nào. Dù là thất bại nhưng họ vẫn xem đó là cơ hội để dẫn đến thành công.
• Tại sao chúng ta phải có sự tự tin trong công việc?
+ Là yếu tố đầu tiên dẫn đến mọi thành công trong công việc.
+ Sự tự tin giúp cho bản thân chúng ta thêm vững tin vào cuộc sống, thêm yêu đời hơn, giúp ta vượt qua nỗi sợ hãi, bi quan, chán nản.
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Phê phán, lên án những con người thiếu tự tin dẫn đến tự ti, mặc cảm dễ thất bại trong cuộc sống.
– Phê phán những con người quá tự tin dẫn đến kiêu căng, ngạo mạn dễ gây mất tình cảm ở mọi người xung quanh.
– Dẫn chứng: trong lớp học, trong cuộc sống hàng ngày, trong gia đình…
III. KẾT BÀI
– Tự tin là đức tính tốt, rất cần thiết cho con người.
– Luôn mạnh dạn đối đầu, đón nhận những thách thức, khó khăn trong cuộc sống để rèn luyện sự tự tin cho bản thân.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Có thể nói, trong vô vàn những đức tính quý báu của con người thì tự tin luôn luôn là đức tính cần thiết khi ta mong muốn thành công trong công việc. Vậy tự tin là đức tính có giá trị như thế nào trong xã hội của chúng ta?
Ta cần hiểu tự tin nghĩa là gì? Tự tin nghĩa là phải biết tin tưởng vào chính bản
thân mình, dù cho ta có thất bại trước mắt nhưng vẫn cố gắng dấn thân tới vì ta tin chắc rằng mình sẽ thành công. Vậy người tự tin là con người như thế nào? Đó là những con người không bao giờ ngần ngại trước bất kì khó khăn, thử thách nào. Dù là thất bại họ vẫn xem đó là cơ hội để dẫn đến con đường thành công. Là người trong tình huống khó khăn nào cũng xem đó là một cơ hội to lớn cho mình tiến dần đến con đường thành công.
Tuy vậy, trong cuộc sống cũng tồn tại không ít những con người thiếu tự tin dẫn đến mặc cảm, tự ti. Biểu hiện của những con người này chính là khi làm bất cứ việc gì, họ cũng rụt rè, e ngại, sợ hãi không dám làm hết sức mình vì sợ người khác dòm ngó, dè bỉu, nhận xét. Mặc dù họ thừa khả năng để làm nhưng vì vấn đề tâm lí e dè như vậy cũng khiến cho họ không thể thành công trong cuộc sống. Mặt khác, trái lại với loại người e dè, mặc cảm, tự ti về bản thân mình thì cũng có một loại người tự tin một cách thái quá dẫn đến kiêu căng, ngạo mạn, chẳng xem ai ra gì cả. Những con người này rất tài giỏi, rất có năng lực nhưng về mặt phẩm chất thì hay coi thường người khác, xem mình là cái rốn của vũ trụ. Những người này rất dễ gây mất tình cảm ở mọi người xung quanh họ. Ví dụ như, trong lớp học, nếu một em học sinh học rất giỏi nhưng có tính kiêu căng, ngạo mạn, tự tin thái quá sẽ luôn xem những bạn học yếu là con giun, con dế còn mình là người đứng trên thiên hạ và lúc nào cũng dè bỉu các bạn khi các bạn làm bài sai hay không hiểu bài. Còn mình thì vênh váo tự đắc khi làm được bài và đạt điểm cao. Những người như vậy, chúng ta cần phải phê phán, lên án mạnh mẽ để mang tính giáo dục, răn đe kẻ khác sống tốt hơn với con đường đúng đắn của cuộc sống.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 44: Trình bày suy nghĩ của em về tính tự lập tại đây.
Tags:Đề 43 · Tự tin · Văn chọn lọc 9
|
Topic 43 – Present your thoughts about self-confidence – Developing selected essay writing skills 9
Instruct
My thoughts on confidence
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what type of topic this is: moral ideology
– Explain the concept of “confidence”?
– What specific expressions demonstrate confidence?
– Discuss and expand the issue: can a person without confidence be able to do anything?
– What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– Confidence is always one of the necessary qualities when we want to succeed at work.
– So how valuable is confidence in our society?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What is confidence? => It means believing in yourself. Even though failure is in front of you, you still commit to it because you firmly believe that you will succeed.
b. Give expressions: (Ask questions: How? Why? Why?)
• What kind of person is a confident person?
– A person who never hesitates before any difficulty or challenge. Even though it is a failure, they still see it as an opportunity to lead to success.
• Why must we have confidence at work?
+ Is the first factor leading to all success at work.
+ Confidence helps us become more confident in life, love life more, and helps us overcome fear, pessimism, and depression.
c. Discuss and expand the issue
– Criticizing and condemning people who lack confidence leads to low self-esteem and a sense of failure in life.
– Criticizing people who are too confident leads to arrogance and arrogance, which easily causes loss of affection in everyone around them.
– Evidence: in the classroom, in daily life, in the family...
III. END
– Confidence is a good virtue, very necessary for humans.
– Always boldly confront and accept challenges and difficulties in life to practice self-confidence.
REFERENCE ESSAY
It can be said that among the countless valuable human qualities, confidence is always a necessary quality when we want to succeed at work. So how valuable is confidence as a virtue in our society?
We need to understand what confidence means? Confidence means knowing to believe in yourself
ourselves, even if we fail in front of us, we still try our best because we firmly believe that we will succeed. So what kind of person is a confident person? These are people who never hesitate before any difficulty or challenge. Even if they fail, they still see it as an opportunity to lead the path to success. As a person, in any difficult situation, I see it as a great opportunity for me to gradually progress on the path to success.
However, in life there are also many people who lack confidence, leading to guilt and low self-esteem. The manifestation of these people is that when they do anything, they are timid, afraid, and afraid to do their best because they are afraid of others watching, criticizing, and commenting. Even though they have the ability to do it, due to such psychological shyness, they cannot succeed in life. On the other hand, in contrast to the type of person who is shy, self-conscious, and has low self-esteem, there is also a type of person who is overly confident, leading to arrogance, arrogance, and no regard for anyone else. These people are very talented, very capable, but in terms of quality, they often look down on others, considering themselves the center of the universe. These people can easily cause loss of affection in everyone around them. For example, in the classroom, if a student is very good at studying but has arrogance, arrogance, and overconfidence, he will always see his weak classmates as worms and crickets while he is the one standing above the world. and always makes fun of you when you do your homework wrong or don't understand it. As for me, I feel proud and proud when I complete the test and get a high score. We need to strongly criticize and condemn such people in order to educate and deter others from living better on the right path of life.
(Students' work)
>> See more Topic 44: Present your thoughts about independence here.
Tags: Topic 43 · Confidence · Selected literature 9
|
Đề 44 – Trình bày suy nghĩ của em về tính tự lập – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ của em về tính tự lập
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí
– Giải thích khái niệm “tính tự lập”?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho tính tự lập?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một con người không có tính tự lập thì dễ gặp những vấn đề nào trong cuộc sống?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Một trong những đức tính cao quý quyết định sự thành công đó là tính tự lập.
– Vậy đức tính tự lập có giá trị tinh thần như thế nào trong xã hội của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tính tự lập có nghĩa là gì? => Có khả năng tự xây dựng lấy cuộc sống cho mình, không ỷ lại, không nhờ vả người khác.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Tại sao chúng ta phải có tính tự lập?
+ Bởi vì nó thể hiện sự tự tin của bản thân.
+ Tự mình rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp khác như: cần cù, chịu khó, kiên nhẫn…
+ Tạo cho bản thân nhũng thử thách mới lạ tạo niềm vui trong cuộc sống.
+ Có tính tự lập thì sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Cần rèn luyện tính tự lập như thế nào?
– Tự mình làm lấy những việc mà mình có thể làm được không được nhờ vả người khác.
– Tự lập cũng đồng nghĩa với việc không sợ thất bại, khi vấp ngã ta cần đứng lên một cách tự tin và bằng sự quyết tâm.
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Phê phán những học sinh không có tính tự lập. Mỗi khi làm bài kiểm tra đều dựa dẫm vào bạn bè, thầy cô, cha mẹ.
III. KẾT BÀI
– Đức tính tự lập là một đức tính tốt, quý báu.
– Cần rèn luyện, trau dồi, bồi dưỡng tính tự lập để có thể đương đầu một cách tự tin trước cuộc đời đầy bon chen này.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Một trong những đức tính quyết định thành công cho mỗi con người chính là đức tính tự lập. Vậy tự lập có nghĩa là gì, và nó giúp ích gì cho chúng ta đế đạt được thành công?
Tính tự tập có nghĩa là gì? Tính tự lập có nghĩa là chúng ta có khả năng tự xây dựng lấy cuộc sống cho mình, không ỷ lại, không nhờ vả người khác. Vậy thì tại sao chúng ta cần phải có tính tự lập? Bởi vì nó thể hiện sự tự tin của bản thân ta. Trong cuộc sống, có những giai đoạn chúng ta cần phải tự mình lo liệu không phải lúc nào cũng cần đến ba mẹ nâng đỡ ta mãi. Tính tự lập còn giúp cho ta rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp khác nữa như cần cù, chịu khó, kiên nhẫn,… giúp cho ta dần dần hoàn thiện trong cuộc sống. Bên cạnh đó, tính tự lập còn tạo cho bản thân những thử thách mới lạ tạo niềm vui trong cuộc sống. Có tính tự lập thì chúng ta sẽ có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Dẫn chứng là các bạn sinh viên khi lên thành phố học tập đều phải xa nhà, tự mình bươn chải kiếm sống, tự lo liệu học tập, ba mẹ chỉ ủng hộ về mặt tinh thần và phần nào vật chất. Các anh chị sinh viên ấy phải tự mình thuê nhà trọ, tự mình kiếm việc làm để trang trải cuộc sống cho bốn năm đại học trên thành phố đầy bon chen và cạm bẫy. Chính nhờ sự tự lập như vậy mà các anh chị đó sau khi học xong thì rất vững vàng về mặt kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống. Bởi vì trong thời gian các anh chị làm việc đã giúp cho các anh chị có sự cọ xát thực tế cuộc sống. Trau dồi cho bản thân mình những đức tính tốt đẹp khác như kiên trì, nhẫn nại, chịu khó,…Với sự rèn luyện như vậy chắc chắn những anh chị sinh viên này sẽ dễ dàng thành công trong công việc ở tương lai.
Trong cuộc sống ta vẫn còn bắt gặp đâu đó những người không có tính tự lập, lúc nào cũng có tư tường dựa dẫm vào người khác mà bản thân lại không biết phấn đấu vươn lên. Ví dụ như trong các lần kiểm tra, những người không có ý thức tự giác, tự lập, tự mình học tập thì lúc nào cũng nghĩ đến việc nhờ người khác giúp đỡ, chỉ bài cho mình. Những con người này cần phải bị phê phán và lên án mạnh mẽ.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 45: Trình bày suy nghĩ của em về tình yêu thương con người tại đây.
Tags:Đề 44 · Tính tự lập · Văn chọn lọc 9
|
Topic 44 – Present your thoughts about independence – Developing selected essay writing skills 9
Instruct
My thoughts on independence
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what type of topic this is: moral ideology
– Explain the concept of “autonomy”?
– What specific manifestations demonstrate independence?
– Discuss and expand the problem: What problems in life are a person who is not independent likely to encounter?
– What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– One of the noble qualities that determines success is independence.
– So what spiritual value does the virtue of independence have in our society?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What does independence mean? => Ability to build your own life, not relying on or asking for help from others.
b. Give expressions: (Ask questions: Why? Why?)
Why must we be independent?
+ Because it shows self-confidence.
+ Train yourself in other good qualities such as diligence, perseverance, patience...
+ Create new challenges for yourself that create joy in life.
+ Being independent will lead to a better life.
How to practice independence?
– Do what you can do yourself, don't ask for help from others.
– Being independent also means not being afraid of failure. When we fall, we need to stand up confidently and with determination.
c. Discuss and expand the issue
– Criticize students who are not independent. Every time I take a test, I rely on my friends, teachers, and parents.
III. END
– The virtue of independence is a good and precious virtue.
– Need to practice, cultivate, and foster independence to be able to confidently cope with this busy life.
REFERENCE ESSAY
One of the qualities that determines success for every person is the virtue of independence. So what does being independent mean, and how does it help us achieve success?
What does self-practice mean? Independence means we have the ability to build our own lives, without relying on or asking for help from others. So why do we need to be independent? Because it shows our self-confidence. In life, there are times when we need to take care of ourselves and not always need our parents to support us. Independence also helps us practice other good moral qualities such as diligence, perseverance, patience,... helping us gradually improve in life. Besides, independence also creates new challenges for yourself that create joy in life. If we are independent, we will have a better life. For example, when students go to the city to study, they have to leave home, struggle to make a living, and take care of their own studies. Their parents only support them mentally and somewhat materially. These students have to rent their own accommodation and find jobs to cover their four years of college in a city full of hustle and bustle. Thanks to such independence, after completing their studies, they are very stable in terms of knowledge and life experience. Because during the time you worked, it helped you have real-life experience. Cultivate for yourself other good qualities such as perseverance, patience, hard work, etc. With such training, these students will definitely succeed in their future jobs.
In life, we still come across people who are not independent, who always rely on others but do not know how to strive to improve themselves. For example, during tests, people who do not have a sense of self-awareness, independence, and self-study always think about asking others for help and instructions. These people need to be strongly criticized and condemned.
(Students' work)
>> See more Topic 45: Present your thoughts about love for people here.
Tags: Topic 44 · Independence · Selected literature 9
|
Đề 45 – Trình bày suy nghĩ của em về tình yêu thương con người – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Tình yêu thương con người
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí
– Giải thích khái niệm “tình yêu thương con người”?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho tình yêu thương con người?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một con người không có tình yêu thương con người thì sẽ trở thành loại người như thế nào?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Một trong những phẩm chất cao quý của con người đó là tình yêu thương.
– Vậy tình yêu thương có giá trị tinh thần như thế nào trong xã hội của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tình yêu thương có nghĩa là gì? => Đó là tình cảm thiêng liêng, quý báu là sự quan tâm giữa con người và con người với nhau.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Tại sao chúng ta phải có tình yêu thương?
+ Bởi vì nó thể hiện phẩm chất cao quý của một con người.
+ Có tình yêu thương, con người trở nên tốt đẹp hơn trong tâm hồn.
+ Có tình yêu thương, xã hội ngày càng phát triển tốt hơn.
+ Dẫn chứng: giúp đỡ những đồng bào miền Trung bị lũ lụt hàng năm, vùng đồng bằng sông Cửu Long bị thiên tai tàn phá, bản thân em giúp đỡ những người xung quanh mình như thế nào, khi Nhật Bản bị sóng thần hủy hoại, các quốc gia trên thế giới đã có sự chung lòng giúp sức ra sao?
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Phê phán những kẻ thờ ơ, ghẻ lạnh, vô tâm trước sự đau khổ, vất vả của những người xung quanh mình.
– Dẫn chứng: trong xã hội có những con người vô tâm như thế nào? (Khi thấy người bị tai nạn, những kẻ vô tâm thường thờ ơ mà nhìn rồi đi mà không có sự giúp sức cho người bị nạn…)
III. KẾT BÀI
– Tình yêu thương là một phẩm chất tốt, quý báu.
– Cần rèn luyện, trau dồi, bồi dưỡng đức tính này để cuộc sống tâm hồn của mình ngày càng tốt đẹp hơn.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Một trong những phẩm chất cao quý của con người đó là lòng yêu thương. Tình yêu thương dường như là sợi dây vô hình, nối kết những trái tim yêu thương lẫn nhau giữa con người và con người với nhau. Vậy tình yêu thương còn có những giá trị tinh thần nào khác?
Tình yêu thương có nghĩa là gì? Đó là thứ tình cảm thiêng liêng, quý báu là sự quan tâm giữa con người và con người với nhau. Vậy tại sao chúng ta cần phải có tình yêu thương? Bởi vì nó thể hiện phẩm chất cao quý của một con người. Có tình yêu thương, con người bỗng trở nên tốt đẹp hơn trong tâm hồn. Nó nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nhân cách, nhân phẩm, đạo đức. Nhờ có tình yêu thương mà những nỗi đau, vết thương trong tâm hồn dường như được hàn gắn, khiến cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn, phát triển tốt hơn. Dẫn chứng mà chúng ta dễ dàng thấy được đó chính là những phong trào kêu gọi sự giúp đỡ đồng bào miền Trung bị lũ lụt hàng năm hoành hành, vùng đồng bằng Sông Cửu Long bị thiên tai tàn phá nặng nề,… Khi đất nước Nhật Bản bị sóng thần ập vào tàn phá đã để lại biết bao hậu quả đau thương về người, về của cho đất nước này. Tình yêu thương đã được nhân rộng khắp thế giới khi mà phong trào ủng hộ giúp đỡ nhân dân Nhật Bản khắc phục phần nào nỗi đau thương, mất mát này được nở rộ và mạnh mẽ. Những sự việc nêu trên thể hiện tình yêu thương con người luôn luôn sẵn có trong trái tim của mỗi con người nhưng khi có dịp thì tấm lòng yêu thượng ấy bỗng trỗi dậy mạnh mẽ như đợt sóng trào dâng. Ngoài những hoạt động, phong trào lớn đó thì ở ngay tại trường lớp tôi cũng có những bạn có gia đình rất nghèo khó cần được giúp đỡ, vì gia đình quá khốn khó mà nhiều bạn phải nghỉ học để phụ giúp gia đình mưu sinh. Chúng tôi là học sinh, tuy không có nhiều tiền nhưng mỗi người một chút, mỗi ngày góp chút ít thì sau một khoảng thời gian chúng tôi vẫn có thể giúp đỡ những bạn nghèo khó này đi học dưới sự giúp đỡ của quý thầy cô trong nhà trường. Những biểu hiện đó phần nào nói lên tình yêu thương luôn có mặt ở khắp mọi nơi.
Tóm lại, có lòng yêu thương chính là một phẩm chất tốt đẹp, quý báu mà chúng ta cần gìn giữ và phát huy. Chúng ta là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, ta cần rèn luyện, trau dồi, bồi dưỡng phẩm chất này để cuộc sống tâm hồn của mình ngày càng tốt đẹp hơn.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 46: Trình bày suy nghĩ của em về tinh thần tự học tại đây.
Tags:Đề 45 · Tình yêu thương con người · Văn chọn lọc 9
|
Topic 45 – Presenting your thoughts about human love – Developing selected essay writing skills 9
Instruct
Human love
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what type of topic this is: moral ideology
– Explain the concept of "love for people"?
– What specific expressions demonstrate human love?
– Discuss and expand the issue: What kind of person will a person become without love for others?
– What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– One of the noble qualities of humans is love.
– So what spiritual value does love have in our society?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What does love mean? => It is a sacred, precious feeling of concern between people and each other.
b. Give expressions: (Ask questions: Why? Why?)
Why must we have love?
+ Because it shows the noble qualities of a person.
+ With love, people become better in their souls.
+ With love, society develops better and better.
+ Evidence: helping people in the Central region who suffer from annual floods, the Mekong Delta region devastated by natural disasters, how I personally helped people around me when Japan was destroyed by a tsunami. destruction, how have countries around the world united to help?
c. Discuss and expand the issue
– Criticizing those who are indifferent, estranged, and indifferent to the suffering and hardship of those around them.
– Evidence: What kind of heartless people are there in society? (When they see someone in an accident, heartless people often look indifferently and then leave without helping the victim...)
III. END
– Love is a good and precious quality.
– You need to practice, cultivate, and foster this virtue to make your spiritual life better and better.
REFERENCE ESSAY
One of the noble qualities of humans is love. Love seems to be an invisible string, connecting the hearts of people who love each other. So what other spiritual values does love have?
What does love mean? It is a sacred, precious feeling of concern between people and each other. So why do we need to have love? Because it shows the noble qualities of a person. With love, people suddenly become better in their souls. It nurtures our souls to become more and more perfect in terms of personality, dignity, and morality. Thanks to love, the pain and wounds in the soul seem to be healed, making society better and better developed. The evidence that we can easily see is the movements calling for help for people in the Central region suffering from annual floods, the Mekong Delta region being severely devastated by natural disasters,... When the country Japan was devastated by the tsunami, leaving many painful consequences for people and property in this country. Love has been replicated around the world as the support movement to help the Japanese people overcome some of this pain and loss has flourished and grown strong. The events mentioned above demonstrate that human love is always present in the heart of every human being, but when the opportunity arises, that loving heart suddenly rises strongly like a surging wave. In addition to those great activities and movements, right at my school there are also people whose families are very poor and need help. Because their families are so miserable, many of them have to drop out of school to help their families make a living. . We are students, although we don't have a lot of money, but if we each contribute a little, every day, after a period of time we can still help these poor students go to school with the help of the teachers. in school. Those expressions partly show that love is always present everywhere.
In short, having love is a good and precious quality that we need to preserve and promote. We are students still in school, we need to practice, cultivate and foster this quality to make our spiritual life better and better.
(Students' work)
>> See more Topic 46: Present your thoughts about the spirit of self-study here.
Tags: Topic 45 · Love for people · Selected literature 9
|
Đề 47 – Trình bày suy nghĩ của em về tinh thần đoàn kết – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ của em về tinh thần đoàn kết
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí
– Giải thích khái niệm “tinh thần đoàn kết”?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho tinh thần đoàn kết?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một người lúc nào cũng có suy nghĩ cá nhân, ích kỉ một mình thì liệu họ có thành công trong cuộc sống được hay không?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Đôi khi để thành công trong công việc không thể chỉ dựa vào sức mạnh của cá nhân mà phải cần đến sức mạnh của tập thể, của sự đoàn kết.
– Vậy đoàn kết có giá trị, như thế nào trong xã hội của chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Đoàn kết là gì? => Nghĩa là những cá nhân riêng lẻ cùng nhau hợp sức lại, tạo nên một sức mạnh vững chắc giải quyết tốt vấn đề mà tập thể đang muốn làm.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Như thế nào? Tại sao? Vì sao?)
+ Là yếu tố đi đầu dẫn đến mọi thành công trong công việc.
+ Tình đoàn kết tạo nên một sức mạnh lớn lao, vĩ đại.
+ Dẫn chứng: Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết được thể hiện thông qua các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
Một số câu tục ngữ, ca dao tham khảo:
+ Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.
+ Vì đồng lòng mà việc nhỏ thành lớn; vì bất hoà mà việc lớn thành tan vỡ. (Sallust)
+ Bẻ đũa chẳng bẻ được cả nắm.
+ Chết cả đổng còn hơn sống một người.
+ Dân ta nhớ lấy chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.
+ Chung lưng đấu cật.
+ Nhiều tay vỗ nên kêu.
+ Góp gió thành bão.
+ Một hòn đắp chẳng nên non
Ba hòn đắp lại nên cồn Thái Sơn.
+ Kề vai sát cánh.
+ Đồng tâm hiệp lực.
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Phê phán, lên án những con người đoàn kết lại để làm việc xấu, gây phương hại đến những người khác.
– Trong trường học, nhiều học sinh tự chia nhau thành các nhóm riêng rẽ, gây mất đoàn kết trong lớp. Có học sinh chỉ vì lợi ích cá nhân bàn ra tán vào gây ảnh hưởng nặng nề đến tinh thần đoàn kết của cả lớp…
– Dẫn chứng: trong lớp học, trong cuộc sống hàng ngày, trong gia đình…
III. KẾT BÀI
– Tinh thần đoàn kết là đức tính tốt, rất cần thiết cho con người.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống của chúng ta, tinh thần đoàn kết là một trong những đức tính tốt mà chúng ta cần phải trang bị cho mình. Nó giúp cho chúng ta vượt qua bao phong ba bão táp của cuộc đời. Đôi khi trong công việc để thành công chúng ta không thể dựa vào sức mạnh của cá nhân mà phải cần đến sức mạnh của tập thể, của sự đoàn kết. Vậy đoàn kết có giá trị như thế nào trong xã hội của chúng ta?
Vậy đoàn kết là gì? Nghĩa là những cá nhân riêng lẻ cùng nhau hợp sức lại, tạo nên một sức mạnh vững chắc giải quyết tốt vấn đề mà tập thể đang muốn thực hiện. Tại sao chúng ta phải có tinh thần đoàn kết trong mọi việc thì sẽ dễ dẫn đến thành công? Trước hết, tinh thần đoàn kết thể hiện phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi chúng ta. Đó chính là yếu tố hàng đầu dẫn đến thành công trong mọi công việc. Ví như khi ta đang cần giải quyết một bài toán, nhưng ta không thể giải quyết được nó vì nó quá khó cho nên nếu họp nhóm lại thì mỗi người thêm một suy nghĩ thì chắc chắn đáp án sẽ được giải quyết nhanh gọn thôi. Đó là thể hiện của sự đoàn kết trong học tập. Trong lịch sử xa xưa, nếu nhân dân ta không trên dưới một lòng, không đoàn kết, nắm tay lại với nhau thì không thể nào đánh đuổi được giặc ngoại xâm hung tàn, ác bá. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ ông bà ta cũng có những câu thể hiện nội dung của sự đoàn kết như “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, “Chung lưng đấu cật”, “Nhiều tay vỗ nên kêu”, “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Góp gió thành bão”,…
Tinh thần đoàn kết là một trong những đức tính tốt và quý báu mà ta cần gìn giữ và phát huy, nhân rộng đến mọi người xung quanh. Bản thân em cũng sẽ luôn gắn kết, hoà hợp với mọi người xung quanh tạo nên tính đoàn kết theo đúng nghĩa vốn có của nó.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 48: Trình bày suy nghĩ của em về lòng tự trọng tại đây.
Tags:Đề 47 · Tinh thần đoàn kết · Văn chọn lọc 9
|
Topic 47 – Present your thoughts about the spirit of solidarity – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
My thoughts on solidarity
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what type of topic this is: moral ideology
– Explain the concept of “solidarity”?
– What specific manifestations demonstrate the spirit of solidarity?
– Discuss and expand the issue: if a person always has personal and selfish thoughts, can they be successful in life?
– What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– Sometimes to be successful at work cannot rely solely on individual strength but requires the strength of the collective and solidarity.
– So how valuable is solidarity in our society?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What is solidarity? => It means that individual individuals join forces together, creating a solid strength to solve the problem that the collective wants to solve.
b. Give expressions: (Ask questions: How? Why? Why?)
+ Is the leading factor leading to all success at work.
+ Solidarity creates a great and great strength.
+ Evidence: In the history of building and defending the country, the spirit of solidarity was expressed through resistance wars against foreign invaders.
Some proverbs and folk songs for reference:
+ United we live, divided we die.
+ Because of unity, small things become big; Because of discord, great things fall apart. (Sallust)
+ Breaking chopsticks cannot break a whole handful.
+ It is better to die as a whole than to live as one person.
+ Our people remember the word bronze:
Agree, join forces, agree, ally.
+ Let's fight together.
+ Many hands clapped and cried.
+ Contributes wind into a storm.
+ A built-up rock should not be small
Three islands were built up to form Thai Son dunes.
+ Shoulder to shoulder.
+ Synergize together.
c. Discuss and expand the issue
– Criticize and condemn people who unite to do bad things, causing harm to others.
– In school, many students divide themselves into separate groups, causing disunity in the class. There are students who only discuss and argue for personal gain, seriously affecting the solidarity of the whole class...
– Evidence: in the classroom, in daily life, in the family...
III. END
– The spirit of solidarity is a good virtue, very necessary for humans.
REFERENCE ESSAY
In our lives, the spirit of solidarity is one of the good virtues that we need to equip ourselves with. It helps us overcome the storms of life. Sometimes, in order to succeed at work, we cannot rely on individual strength but need the strength of the collective and solidarity. So how valuable is solidarity in our society?
So what is solidarity? It means that individual individuals come together to create a solid strength to solve the problem that the collective wants to solve. Why do we have to have a spirit of solidarity in everything to easily lead to success? First of all, the spirit of solidarity demonstrates the moral qualities needed in each of us. That is the leading factor that leads to success in every job. For example, when we need to solve a problem, but we cannot solve it because it is too difficult, so if we gather in groups and each person adds a thought, the answer will definitely be solved quickly. It is an expression of solidarity in learning. In ancient history, if our people were not of the same mind, united, and holding hands together, it would be impossible to expel the cruel and evil foreign invaders. In the treasury of folk songs and proverbs of our ancestors, there are also sentences expressing the content of solidarity such as "United we live, divided we die", "Working together together", "Many hands clap so we cry" , "One tree cannot make a mountain / Three trees gathered together can make a high mountain", "Contributing the wind into a storm",...
The spirit of solidarity is one of the good and precious virtues that we need to preserve, promote, and spread to everyone around us. I myself will always be connected and in harmony with everyone around me, creating solidarity in its true sense.
(Students' work)
>> See more Topic 48: Present your thoughts about self-esteem here.
Tags: Topic 47 · Spirit of solidarity · Selected literature 9
|
Đề 5 – Một kỷ niệm đáng nhớ với một vật nuôi mà em yêu thích – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Đề 5 – Kỉ niệm đáng nhớ với vật nuôi
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
– Em cần xác định, con vật nuôi mà em yêu thích là con vật nào (chó, mèo, gà, vịt,…)?
– Con vật nuôi đó từ đâu em có? (đưa ra một hoàn cảnh cụ thể)
– Hình dáng, tính nết, hành động, và những kỉ niệm liên quan đến con vật nuôi ấy và em là những điều gì?
– Trong vô số những điều về hình dáng, tính nết, hành động liên quan đến con vật nuôi ấy thì em thấy đặc điểm nào là nổi bật, gây ấn tượng mạnh đối với em?
– Cảm nhận của em khi có con vật nuôi này bên cạnh?
DÀN Ý CHI TIẾT
Lấy ví dụ là CON CHÓ
I. MỞ BÀI
Dần dắt vào hoàn cảnh nào em có được chú chó? (được tặng nhân dịp sinh nhật, nhặt ngoài đường đem về nuôi,…)
Chú chó này tên Mi Lu, trông chú rất dễ thương, lanh lẹ.
II. THÂN BÀI
1. Miêu tả CON CHÓ
Vóc dáng, ngoại hình:
Thân hình: nhỏ gọn.
Bộ lông: màu trắng có đốm đen.
Đôi mắt: tinh anh, long lanh.
Hàm răng: những chiếc răng sắc nhọn, trông rất đáng sợ khi mà nó nhe ra.
Cái mũi: hay hếch lên, ướt ướt để ngửi mùi xung quanh nó.
Đôi tai: hay vểnh như nghe ngóng điều gì đó.
Khả năng, tính cách:
Là một con vật trung thành, dễ mến của loài người.
Giữ nhà: mỗi khi có vị khách lạ là nó sủa um lên để báo hiệu cho chủ nhà biết.
Bắt chuột và côn trùng rất giỏi.
2. Kể một kỉ niệm sâu sắc giữa em và chú chó
Một ngày, do tôi bận tập trung cho việc làm bài tập nên ít đế ý đến chú chó.
Cửa nhà thì mở nên chú chó vì tò mò mà chạy ra đường chơi.
Không may là chú bị một chiếc xe gắn máy va quẹt, chú nằm một chỗ và rên lên ư ử.
Tôi làm xong bài tập thỉ gọi nó ra để vuốt ve như mọi ngày thì không thấy nó xuất hiện.
Tôi vội vàng chạy đi kiếm nó, một hồi sau mới thấy nó nằm bên vệ đường.
Chân nó đầy máu vì vết xe tông phải.
Tôi xót thương và khóc rất nhiều, bế nó trên tay mà trong lòng tôi hứa rằng sẽ luôn quan tâm đến nó.
Tôi ẵm nó ra trạm thú y để băng bó. Nó nhìn tôi đầy niềm vui vì được chủ quan tâm đến mình.
Tôi cũng nhìn nó đầy vẻ yêu thương.
Sau lần đó, tôi lại càng thương yêu nó nhiều hơn nữa.
3. Cảm nhận về CHÚ CHÓ
Chú chó là một con vật rất đáng yêu và là con vật trung thành với chủ của nó.
Trong cuộc sống của tôi, nó luôn mang lại cho tôi biết bao niềm vui và hạnh phúc.
III. KẾT BÀI
Ngoài những người bạn của mình thì chú chó cũng là một người bạn thân thiết của tôi.
Tôi hứa rằng sẽ luôn yêu thương và chăm sóc cho nó chu đáo.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Thấm thoắt đã một năm trôi qua kể từ khi chị tôi mang “Cà phê” về nhà. Cả nhà tôi ai cũng yêu quý nó cả.
Khi mới được đem về, chú còn rất nhỏ. Lúc đầu, chú còn nhút nhát, đi lại trong nhà hơi mất thăng bằng với bốn cái chân mập mạp. Nhìn chú cứ như một trái banh lông vậy đấy. Chú có đôi mắt nâu nhạt, to tròn như hai hòn bi ve và cái mũi lúc nào cũng ươn ướt. Hai tai chú vểnh lên như đang nghe ngóng chuyện gì vậy. Điều đặc biệt tôi thích nhất ở cà phê là cái bụng căng tròn mỗi lúc ăn no, nó được bao phủ bởi một lóp lông trắng toát và mềm mại. Khi còn nhỏ, bốn chân chú rất mập mạp và hơi ngắn nên cứ thường hay loạng choạng. Nhưng bây giờ, chúng đã được thay bằng bốn chân rắn chắc, khỏe mạnh có thể phóng lên vai tôi nữa đấy.
Gia đình tôi quý chú lắm! Chú chó này rất háu ăn. Cứ mỗi lần tới bữa ăn chính hay nhẹ, hễ tôi cho ăn gì chú đều chén sạch hết mọi thứ. Ăn xong rồi lại kiếm chỗ để nằm nên hàng xóm của chúng tôi gọi chú với biệt danh là “Sữa béo”. Cái tên dễ thương quá đúng không! Từ nhỏ, chú đã rất khôn, tôi đã huấn luyện chú rất tốt từ khi chú được mang vào nhà. Mỗi khi có khách đến nhà là chú sủa vài tiếng rồi đi lại gần ngửi thử mùi. Nếu nhận ra mùi lạ thì chú lại sủa nhưng còn người quen thì chú lại vẫy đuôi và chạy xồng xộc qua lại như muốn đâm vào họ vậy. Mỗi khi tôi đi học về là cu cậu lại từ trong nhà chạy ra và nhảy phốc lên vai tôi như muốn nói: “Chào chị mới về” rồi nó cứ liếm liếm mặt tôi vài cái như thể đó là cử chỉ thân thiện vậy. Tôi sờ vào cái bụng trắng toát của chủ rồi hỏi: “Đói bụng rồi phải không?”. Như hiểu được ý tôi vậy, chú vẫy đuôi và mắt sáng lên chạy thẳng vào kế bên cái tủ lạnh. Cà phê luôn là người bạn thân thiết của tôi. Mỗi khi vui, chú cứ như muốn chia vui cùng với tôi vậy. Có nhũng lúc tôi buồn, cu cậu lại lăn ra làm trò làm tôi quên mất đi nỗi buồn và chơi cùng cu cậu.
Từ khi có chú, tôi không còn cô đơn nữa. Cà phê luôn mang lại tiếng cười cho gia đình tôi. Cà phê không chỉ là một chú cún mà còn là một người bạn, một thành viên và còn là một người gác cổng của gia đình tôi nữa. Gia đình tôi quý chú vô cùng.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 6: Một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy, cô giáo buồn tại đây.
Tags:Đề 5 · Văn chọn lọc 9
|
Topic 5 – A memorable memory with a pet you love – Developing selective essay writing skills 9
Instruct
Topic 5 – Memorable memories with pets
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
– You need to determine which animal is your favorite pet (dog, cat, chicken, duck,...)?
– Where did you get that pet from? (give a specific situation)
– What are the appearance, personality, actions, and memories related to that pet and you?
– Among the countless things about the pet's appearance, personality, and actions, which characteristics do you find stand out and make a strong impression on you?
– How do you feel when you have this pet by your side?
DETAILED OUTLINE
Take DOG for example
I. OPEN LESSON
Under what circumstances did I get the dog? (given as a birthday gift, picked up on the street and brought home, etc.)
This dog's name is Mi Lu, he looks very cute and agile.
II. BODY OF ARTICLE
1. Describe the DOG
Body and appearance:
Body: compact.
Plumage: white with black spots.
Eyes: clear, sparkling.
Teeth: sharp teeth, looks very scary when bared.
Nose: often upturned, wet to smell the smell around it.
Ears: often perked up as if listening for something.
Abilities and personality:
Is a loyal, lovable animal of humans.
Keep the house: every time there is a strange guest, it barks loudly to signal to the homeowner.
Very good at catching mice and insects.
2. Tell a profound memory between you and your dog
One day, because I was busy focusing on doing homework, I paid little attention to the dog.
The house door was open so the dog, out of curiosity, ran into the street to play.
Unfortunately, he was hit by a motorbike, he lay down and groaned.
I finished my homework and called it out to pet it like every other day, but it didn't appear.
I quickly ran to look for it, and after a while I saw it lying on the side of the road.
His leg was covered in blood from the car he hit.
I felt sorry for him and cried a lot, holding him in my arms and promising in my heart that I would always care for him.
I took it to the veterinary station to get it bandaged. It looked at me with joy because its owner cared about it.
I also looked at it with love.
After that time, I loved it even more.
3. Feelings about DOG
The dog is a very lovable animal and is loyal to its owner.
In my life, it always brings me so much joy and happiness.
III. END
Besides my friends, the dog is also a close friend of mine.
I promise that I will always love and take good care of it.
REFERENCE ESSAY
A year has passed since my sister brought "Coffee" home. My whole family loves it.
When he was first brought home, he was still very young. At first, he was shy, walking around the house was a bit unbalanced with his four stubby legs. You look like a ball of fur. He has light brown eyes, as big and round as two marbles, and his nose is always wet. His ears perked up as if he was listening for something. The special thing I like most about coffee is the round belly every time I eat a full meal, it is covered with a layer of white and soft hair. When he was young, his four legs were very chubby and a bit short, so he often wobbled. But now, they have been replaced by four sturdy, strong legs that can jump onto my shoulders.
My family loves you very much! This dog is very gluttonous. Every time it comes to a main or light meal, whatever I give him to eat, he eats everything. After eating, he then looked for a place to lie down, so our neighbors called him the nickname "Fat Milk". The name is so cute, isn't it! Since childhood, he has been very smart, I have trained him very well since he was brought into the house. Every time a guest comes to the house, he barks a few times and then walks closer to smell the scent. If he recognizes a strange smell, he barks, but when it comes to familiar people, he wags his tail and rushes back and forth as if he wants to crash into them. Every time I come home from school, he runs out of the house and jumps on my shoulder as if to say, "Hello, new sister" and then he licks my face a few times as if it were a friendly gesture. I touched the owner's white belly and asked: "Are you hungry?". As if he understood what I meant, he wagged his tail and his eyes lit up and ran straight next to the refrigerator. Coffee has always been my close friend. Every time he's happy, it's like he wants to share his joy with me. There were times when I was sad and he would do tricks to make me forget my sadness and play with him.
Since having you, I am no longer lonely. Coffee always brings laughter to my family. Coffee is not only a dog but also a friend, a member and a gatekeeper of my family. My family loves you very much.
(Students' work)
>> See more Topic 6: One time I made a mistake that made my teacher sad here.
Tags: Topic 5 · Selected literature 9
|
Đề 5 – Đề bài luyện tập – Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
Hướng dẫn
Đề 5 bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5
1. Tìm các cặp từ trái nghĩa trong những câu thơ sau:
a)
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
(Nguyễn Du)
b)
Sao đang vui vẻ ra buồn bã
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
(Trần Tế Sương)
c)
Đắng cay mới biết ngọt bùi
Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau.
(Tố Hữu)
2. Tìm từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để hoàn chỉnh các câu tục ngữ dưới đây:
a) Chết đứng còn hơn sống …
b) Chết … còn hơn sống đục.
c) Chết vinh còn hơn sống …
d) Chết môt đống còn hơn sống …
3. Trong bài Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà, nhà thơ Quang Huy đã miêu tả một đêm trăng vừa tĩnh mịch vừa sinh động trên công trường sông Đà như sau:
Lúc ấy
Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông
Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ
Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ
Chỉ còn tiếng đàn ngân nga
Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà.
Khổ thơ trên có hình ảnh nào đẹp nhất? Hình ảnh đó cho ta thấy ý nghĩa gì sâu sắc?
4. Tả cảnh một đêm trăng đẹp trên quê hương (hoặc ở nơi khác) từng để lại cho em những ấn tượng khó phai.
|
Topic 5 – Practice topics – Fostering excellent students in Vietnamese 5
Instruct
Topic 5 fosters excellent students in Vietnamese 5
1. Find pairs of antonyms in the following verses:
a)
As clear as the sound of a crane flying by
Cloudy like half-dried spring water.
The sound of drilling was like the wind blowing outside
The sound quickly collapsed like the sky was pouring rain.
(Nguyen Du)
b)
Why are you sad when you're happy?
Just getting to know each other was strange
(Tran Te Suong)
c)
Only when it's bitter do you know how sweet it is
The journey has many miles to come.
(To Huu)
2. Find suitable words to fill in the blanks to complete the proverbs below:
a) Dying standing is better than living...
b) Death... is better than a miserable life.
c) Dying is better than living...
d) It's better to be dead than alive...
3. In the article The sound of ba-la-la-ca on the Da River, poet Quang Huy described a moonlit night that was both quiet and lively on the Da River construction site as follows:
Then
The whole construction site was sleeping next to the river
Drilling towers jut into the sky, contemplating
Bulldozers and dump trucks rest shoulder to shoulder
Only the sound of the piano remained
With a stream of moonlight glistening on the Da River.
Which stanza above has the most beautiful image? What profound meaning does that image show us?
4. Describe a scene of a beautiful moonlit night in your hometown (or elsewhere) that left you with unforgettable impressions.
|
Đề 5 – Đề kiểm tra học kì II – Tiếng Việt 4
Hướng dẫn
I.Em đọc thầm bài Cửa Tùng.
Cửa tùng
Trên sông Bến Hải – con sông nằm ngang vĩ tuyến mười bảy ghi dấu ấn lịch sử một thời chống Mĩ cứu nước ròng rã suốt hơn hai mươi năm – thuyền chúng tôi đang xuôi dòng, trôi. Đôi bờ thôn xóm mướt màu xanh lũy tre làng và những rặng phi lao rì rào gió thổi.
Từ cầu Hiền Lương, thuyền xuôi khoảng sáu cây số nữa là đã gặp biển cả mênh mông. Nơi dòng Bến Hải gặp sóng biển khơi ấy chính là Cửa Tùng. Bãi cát từng được ngợi ca là “Bà Chúa của bãi tắm”. Diệu kì thay, trong một ngày, Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh, Mặt Trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì biển đổi sang màu xanh lục. Đồng bào nơi đây nhận xét: “Nước biển đổi màu từng giờ dưới ánh mặt trời”. Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
(Thụy Chương)
II.Làm bài tập
Khoanh vào ý đúng nhất trong các câu trả lời dưới đây:
1.Hai bên bờ sông Bến Hải có những cảnh đẹp gì?
A.Con sông in đậm dấu ấn lịch sử.
B. Thuyền xuôi khoảng sáu cây số nữa là gặp biển cả mênh mông.
2.Bãi tắm Cửa Tùng được coi là “Bà Chúa của bãi tắm” vì sao?
A.Bãi tắm ở đây vốn là nơi tắm của vua chúa thời xưa.
B.Vì cạnh bãi tắm là một làng chài có tên là Bà Chúa.
C.Vì đây là bãi tắm đẹp và kì vĩ nhất trong tất cả các bãi tắm.
3.Người xưa đã so sánh bờ biển Cửa Tùng với cái gì?
A.Chiếc lược ngà cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
B.Chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc xanh của sóng biển.
C.Chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
4.Sắc màu nước biển biến đổi trong một ngày như thế nào?
A.Bình minh nước biển màu hồng nhạt
B.Trưa, nước biển xanh lục.
C. Chiều tà, biển màu xanh lơ.
5.Câu “Nước biển đổi màu từng giờ dưới ánh mặt trời”, chủ ngữ là gì?
A.Nước biển.
B.Ánh mặt trời.
C.Nước biển đổi màu.
6.Khi muốn mượn bạn quyển truyện, em chọn cách nói nào?
A.Cho mượn quyển truyện một tí!
B. Đưa tớ quyển truyện!
C.Cậu cho tớ mượn quyển truyện này nhé!
7.Chuyển câu kể sau thành câu cảm:
a.Bạn Tuấn Anh hát hay.
b.Con chó này khôn.
8.Đặt một câu có trạng ngữ chỉ thời gian.
III.Tập làm văn
Đề bài: Tả một con vật em gặp trên đường.
Bài làm
>>XEM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TẠI ĐÂY
|
Topic 5 – Semester II test – Vietnamese 4
Instruct
I. I silently read the song Cua Tung.
Spare door
On the Ben Hai River - a river located across the seventeenth parallel, marking the history of a time when we fought against America to save the country for more than twenty years - our boat was drifting downstream. The banks of the village are lush green with bamboo clumps and casuarina trees whispering in the wind.
From Hien Luong bridge, the boat sailed about six kilometers further and encountered the immense sea. Where the Ben Hai stream meets the ocean waves is Cua Tung. The sandy beach was once praised as the "Queen of beaches". Miraculously, in one day, Cua Tung has three colors of seawater. At dawn, the Sun shines like a red bronze basin onto the sea surface, the sea water is dyed pale pink. At noon, the sea water is blue and at dusk the sea changes to green. People here commented: "The sea water changes color every hour under the sun." Ancient people compared Cua Tung beach to a tortoiseshell comb placed in the platinum hair of ocean waves.
(Thuy Chuong)
II. Do the exercises
Circle the most correct answer in the answers below:
1.What beautiful scenes are there on both sides of Ben Hai River?
A.The river is marked by history.
B. The boat sailed about six more kilometers until it encountered the vast ocean.
2. Why is Cua Tung beach considered the "Queen of beaches"?
A.The beach here was originally the bathing place of ancient kings.
B. Because next to the beach is a fishing village called Ba Chua.
C. Because this is the most beautiful and majestic beach of all the beaches.
3.What did ancient people compare Cua Tung beach to?
A. The ivory comb is placed in the platinum hair of beach waves.
B.A tortoiseshell comb is placed in the blue hair of ocean waves.
C.A tortoiseshell comb is placed in the platinum hair of beach waves.
4. How does the color of sea water change in a day?
A.Light pink sea water at dawn
B. Noon, the sea water is green.
C. Late afternoon, the sea is blue.
5. In the sentence "The sea water changes color every hour under the sun", what is the subject?
A. Sea water.
B. Sunlight.
C. Sea water changes color.
6.When you want to borrow a storybook from a friend, what way do you choose to say it?
A.Let me borrow the storybook for a bit!
B. Give me the story book!
C.Can you lend me this book?
7.Change the following sentence into an emotional sentence:
a. Tuan Anh sings well.
b.This dog is smart.
8.Make a sentence with an adverbial of time.
III.Practice writing
Topic: Describe an animal you meet on the road.
Assignment
>>SEE ANALYSIS GUIDE HERE
|
Đề 55 – Bàn về vấn đề tự giáo dục – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Bàn về vấn đề tự giáo dục
ĐỀ 55: Có ý kiến cho rằng: “Mọi người nhận hai thứ giáo dục, một thứ là do người khác truyền cho và một thứ quan trọng hơn nhiều là do chính mình tự tạo. Bàn về vấn đề tự giáo dục.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí thông qua một câu nhận định (Mỗi người nhận hai thứ giáo dục, một thứ là do người khác truyền cho và một thứ quan trọng hơn nhiều là do chính mình tự tạo)
– Giải thích khái niệm “tự giáo dục”: nghĩa đen, nghĩa bóng?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho tự giáo dục?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một con người không có giáo dục cũng như không biết tự trui rèn đạo đức, phẩm chất của bản thân thì con người ấy sẽ như thế nào?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Kiến thức của nhân loại là vô bờ bến, chúng ta tiếp thu những kiến thức ấy không chỉ nhờ giáo viên truyền cho ta mà còn do ta phải tự mình kiếm lấy bằng cách tích luỹ từ nhũng thất bại.
– Vậy tự giáo dục có giá trị như thế nào đối với chúng ta?
– Trích dẫn câu nhận định.
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Tự giáo dục có nghĩa là gì? => Đó là chúng ta tự mình đúc kết những kinh nghiệm từ những lần thất bại, hoặc tự mình đọc thêm sách báo, tham khảo thêm nhiều nguồn kiến thức khác nhau. Và vấn đề tự giáo dục quan trọng hơn cả việc người khác truyền kiến thức cho ta.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Người luôn luôn có tinh thần tự giáo dục là người như thế nào?
Đó là người có sự phấn đấu, nỗ lực trong cuộc sống. Biết vươn lên sau khi thất bại. Biết rút kinh nghiệm và tự mình hoàn thiện không chỉ về mặt kiến thức mà còn về mặt tinh thần, tư tưởng.
Tại sao chúng ta phải tự giáo dục?
+ Bởi vì kiến thức nhân loại và hiểu biết đời sống là bao la, không có giới hạn nào cả.
Nếu như ta không tự giáo dục lấy bản thân thì ta sẽ theo sau thời đại, sẽ là người lỗi thời.
+ Tự giáo dục còn giúp cho ta rèn luyện những đức tính tốt khác như: kiên tri, nhẫn nại, tinh thần ham học hỏi.
+ Dẫn chứng: Trong việc học tập, ngoài kiến thức ở lớp, chúng ta còn phải đọc thêm sách báo, xem ti vi để biết thêm nhiều kiến thức hơn. Trong cuộc sống, mỗi khi ta vấp ngã, sai lầm cần phải biết rút kinh nghiệm, bài học cho bản thân để từ đó mà hoàn thiện nhân cách đạo đức cùa mình.
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Có những con người luôn có tư tưởng “ếch ngồi đáy giếng” tự cho là mình là người hiểu biết, biết hết kiến thức của thiên hạ. Hoặc có những người hay ỷ lại vào thầy cô là người truyền đạt kiến thức và như thế là đủ nhưng họ đâu biết rằng kiến thức nhân loại là bao la, không bao giờ chúng ta học hết đưọc.
– Tự giáo dục là đức tính tốt và ta cần duy trì nó thường xuyên.
– Riêng bản thân em sẽ luôn phấn đấu, nỗ lực để tự trau dồi, học hỏi thêm nhiều kiến thức hơn không chỉ trong sách vở mà còn ngoài thực tế cuộc sống.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Mỗi chúng ta ai cũng được giáo dục, được học hỏi nhiều điều hay từ thầy cô, bạn bè và có thể học từ chính bản thân chúng ta. Vì vậy có ý kiến cho rằng: “Mỗi người nhận hai thứ giáo dục, một thứ là do người khác truyền cho và một thứ quan trọng hơn là do chính mình tự tạo”. Vậy ta hiểu “tự giáo dục” là như thế nào?
Quả đúng như vậy, tự giáo dục là tự mình dạy bản thân, rút ra bài học từ chính con người mình hay được chỉ dạy những điều tốt, hay, dở từ người khác và đó cũng chính là sự tự nhận thức, có cái nhìn về những vấn đề có sự ảnh hưởng đến sự phát triển của bản thân. Vậy tại sao chúng ta cần được giáo dục?
Một xã hội muốn phát triển tiến bộ phải có nhiều nhân tài, mà nhân tài phải là người thực học, được tiếp thu những kiến thức và các phẩm chất đạo đức tinh hoa của nhân loại và dân tộc thông qua sự giáo dục của cộng đồng. Chính sách giáo dục là điểm bắt đầu, là nơi sản sinh ra nguồn lực cho sự cường thịnh cùa một nước. Vì thế mà chúng ta cần phải được giáo dục toàn diện. Cũng giống như anh trai tôi, anh ấy đã được nhận và tiếp thu những kiến thức chuyên môn để giờ đây anh ấy trở thành tổng giám đốc của một công ti phần mềm và không ngừng ở đó, anh ấy còn tự giáo dục bản thân về nhiều mặt khác.
Bên cạnh đó còn có những thành phần xã hội không được giáo dục, họ cũng không thể tự nhận thức được chính bản thân, có những gia đình cha mẹ không được giáo dục đủ trình độ và khi có con thì không đủ kinh phí để cho con cái đi học và vì thế những đứa con ấy đã trở thành thành phần xấu của xã hội, bị mọi người chê bai, xa lánh.
Tóm lại, đất nước chúng ta có cường thịnh hay không tuỳ thuộc vào việc nền giáo dục của chúng ta có đổi mới để có thể sinh ra những nhân tài thực sự hay không. Đó không phải là một việc khó, nhưng chắc chắn cũng không dễ dàng gì hơn.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 56: Bàn về lời khuyên” Có chí thì nên” tại đây.
Tags:Đề 55 · Tự giáo dục
|
Topic 55 – Discussing the issue of self-education – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Discuss the issue of self-education
TOPIC 55: There is an opinion that: "People receive two types of education, one is given to them by others and the other, much more important, is created by themselves. Discuss the issue of self-education.
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what kind of topic this is: moral ideology through a statement (Each person receives two types of education, one is given to them by others and the other, much more important, is given to them by themselves). created by myself)
– Explain the concept of "self-education": literal meaning, figurative meaning?
– What specific manifestations demonstrate self-education?
– Discuss and expand the issue: a person who is not educated and does not know how to cultivate his own morality and qualities, what will that person be like?
– What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– Human knowledge is boundless, we acquire that knowledge not only thanks to teachers passing it on to us, but also because we have to earn it ourselves by accumulating from failures.
– So how valuable is self-education for us?
– Quote statement.
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What does self-education mean? => That is, we draw our own experiences from failures, or read more books and newspapers ourselves, refer to many different sources of knowledge. And the issue of self-education is more important than others imparting knowledge to us.
b. Give expressions: (Ask questions: Why? Why?)
What kind of person is a person who always has the spirit of self-education?
That is a person who strives and makes efforts in life. Know how to rise after failure. Know how to learn from experience and improve yourself not only in terms of knowledge but also in terms of spirit and ideology.
Why must we educate ourselves?
+ Because human knowledge and understanding of life is vast, there is no limit at all.
If we do not educate ourselves, we will follow the times and become outdated.
+ Self-education also helps us practice other good qualities such as: perseverance, patience, and eagerness to learn.
+ Evidence: In studying, in addition to knowledge in class, we also have to read more books and newspapers, watch TV to learn more knowledge. In life, every time we stumble or make mistakes, we need to learn from experience and lessons for ourselves so that we can perfect our moral personality.
c. Discuss and expand the issue
- There are people who always have the "frog at the bottom of the well" mindset, thinking that they are knowledgeable and know all the knowledge of the world. Or there are people who rely on teachers to impart knowledge and that is enough, but they do not know that human knowledge is vast and we can never learn it all.
– Self-education is a good virtue and we need to maintain it regularly.
– Personally, I will always strive and make efforts to improve myself and learn more knowledge not only in books but also in real life.
REFERENCE ESSAY
Each of us is educated, learns many good things from teachers, friends and can learn from ourselves. Therefore, there is an opinion that: "Each person receives two types of education, one given by others and one more important one created by oneself." So what do we understand by "self-education"?
That's right, self-education is teaching yourself, drawing lessons from yourself or being taught good, good, bad things from others and that is also self-awareness, having Look at issues that affect your own development. So why do we need to be educated?
A society that wants to develop and progress must have many talented people, and talented people must be real learners, absorbing knowledge and the quintessential moral qualities of humanity and the nation through community education. copper. Education policy is the starting point, where resources for a country's prosperity are produced. That's why we need to be comprehensively educated. Just like my brother, he received and absorbed professional knowledge so that he is now the general manager of a software company and not only that, he also educates himself. in many other aspects.
Besides, there are also social segments that are not educated, they cannot be self-aware, there are families whose parents are not educated enough and when they have children they do not have enough money to support them. send their children to school and therefore those children have become bad members of society, criticized and shunned by everyone.
In short, whether our country is prosperous or not depends on whether our education system is innovative enough to produce real talents. It's not a difficult task, but it certainly isn't any easier either.
(Students' work)
>> See more Topic 56: Discussing the advice "If there's a will, there's a way" here.
Tags: Topic 55 · Self-education
|
Đề 56 – Bàn về lời khuyên “Có chí thì nên” – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Lời khuyên “Có chí thì nên”
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trưóc hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí thông qua một câu tục ngữ (Có chí thì nên)
– Giải thích khái niệm kiên trì, quyết tâm, bền ý chí được chứa trong câu tục ngữ: nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa toàn câu?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho sự kiên trì, quyết tâm?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một con người không có kiên trì, quyết tâm thì có làm được những việc mà mình mong muốn hay không?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Dẫn dắt: “Trong kho tàng ca dao, tục ngữ của ông cha ta đã đúc kết biết bao kinh nghiệm sống quý báu…”
– Nêu nội dung câu tục ngữ.
– Trích dẫn câu tục ngữ.
– Chuyển ý bằng cách đặt câu hỏi để tạo sự liên kết (Ra sao? Như thế nào?)
II. THÂN BÀI
– Từ ngữ liên kết: Thật vậy, Quả đúng như vậy.
– Lời dẫn.
1. Giải thích từ ngữ trọng tâm trong câu tục ngữ (Nghĩa đen => Nghĩa bóng)
+ Chí là gì?
– Là ý muốn bền bỉ theo đuổi một mục đích, hoặc điều gì tốt đẹp.
+ Nên là gì?
– Là thành ra được, là kết quả cuối cùng.
+ Có chí thì nên nghĩa là như thế nào?
– Bền chí ắt có ngày sẽ tạo dựng nên những việc lớn mà mình hằng ao ước.
2. Đưa ra các nguồn dẫn chứng
a. Trong thời đại lịch sử xa xưa
– Nguyễn Hiền, đỗ Trạng Nguyên năm 12 tuổi là nhờ vào lòng quyết tâm, bền chí trong việc tự học mà thành tài.
– Cao Bá Quát, từ một người viết chữ không đọc được đến chỗ kiên trì, rèn luyện mà chữ viết đã được cải thiện và tên tuổi Cao Bá Quát văn hay chữ đẹp nổi tiếng khắp vùng.
b. Trong thời đại hiện nay
– Thầy Nguyễn Ngọc Ký bị liệt hai tay từ nhỏ nhưng vẫn quyết tâm, nhẫn nại luyện viết chữ bằng chân của mình và ông đã thành công, trở thành một tấm gương sáng muôn đời về ý chí, về nghị lực vượt qua nghịch cảnh.
– Giáo sư Ngô Bảo Châu với sự kiên trì nghiên cứu Toán học và cuối cùng cũng đã mang vinh dự về cho nước nhà Việt Nam thân yêu cùng với giải thưởng Fiels danh giá.
c. Trong thơ văn
– Có công mài sắt có ngày nên kim.
– Thất bại là mẹ thành công.
– Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên. (Bác Hồ)
– Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.
– Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
– Nước chảy đá mòn.
– Ngữ liên kết: Những điều vừa phân tích trên cho ta thấy,
– Khẳng định lại ý nghĩa của câu tục ngữ: Trong bất cứ công việc nào nếu ta có sự kiên trì, bền chí sẽ thành công tất cả.
– Liên hệ bản thân: Luôn phấn đấu, nỗ lực, quyết tâm nhiều hơn trong học tập và trong cuộc sống.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta có một số người chỉ mới gặp khó khăn một chút mà đã nản chí không thực hiện nữa. Mặt khác, một số người họ phải gặp rất nhiều khó khăn trên con đường đạt tới mục đích, thành công cùa họ, nhưng họ vẫn không vội nản lòng mà họ còn kiên quyết, quyết tâm làm sao đạt được mục đích đó. Những người đó đã làm theo câu tục ngữ: “Có chí thì nên” của cha ông tự bao đời nay. Nó cho thấy được sự quyết tâm, kiên trì, không bao giờ nản lòng trước khó khăn của con người Việt Nam ta qua bao thế hệ. Chúng ta cần hiểu rõ về câu tục ngữ “Có chí thì nên” như thế nào?
Thật vậy, câu tục ngữ “Có chí thì nên” là một trong những câu tục ngữ rất bổ ích vì nó giúp cho ta có được sự kiên trì khi làm một việc gì đó trong cuộc sống của mình. Theo cách hiểu của ta thì câu tục ngữ “có chí thì nên” có ngụ ý gì? Chúng ta hiểu được chữ “chí” tượng trưng cho ý chí, nghị lực, sự kiên quyết. Chữ “nên” thể hiện được sự thành công, sự thành đạt, kết quả. Vậy ngụ ý của nguyên câu tục ngữ “có chí thì nên” cho ta thấy được sự chủ động, quyết chí làm một việc gì đó, tuy gặp nhiều trở ngại, khó khăn nhưng vẫn không nản lòng, thì mới đạt được kết quả mà mình mong muốn.
Câu tục ngữ “Có chí thì nên” giúp ta có được sự quyết tâm, nghị lực trong cuộc sống, vì thế ta cần phải chia sẻ câu tục ngữ này cho các bạn trẻ, tất cả những người gặp khó khăn trong cuộc sống, để họ vươn lên vượt khó và trở thành những người có ích trong xã hội. Bên cạnh đó có một số người chỉ mới đụng phải khó khăn mà đã vội nản lòng, không làm nữa. Đó là những người không có ý chí luôn luôn ở dưới mọi người, không bao giờ thành công trong mọi việc.
Qua đó chúng ta hiểu rõ được sự quan trọng của sự nỗ lực quyết tâm trong cuộc sống để đạt được kết quả tốt. Riêng bản thân tôi, tôi vẫn đang cố gắng để có thể đạt được những kết quả mà mình mong muốn.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 57: Thói dối trá là biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức trong đời sống xã hội tại đây.
Tags:”Có chì thì nên” · Đề 56
|
Topic 56 – Discussing the advice “If there is a will, there is a way” – Developing selective essay writing skills 9
Instruct
Advice "If there is a will, there is a way"
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what kind of topic this is: moral thought through a proverb (If there is a will, there is a way).
– Explain the concepts of perseverance, determination, and willpower contained in the proverb: literal meaning, figurative meaning, meaning of the whole sentence?
– What specific manifestations demonstrate perseverance and determination?
– Discuss and expand the issue: Can a person without perseverance and determination be able to do the things they want?
– What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– Guide: "In the treasure trove of folk songs and proverbs of our ancestors, many valuable life experiences have been summarized..."
– State the content of the proverb.
– Quote proverbs.
– Change ideas by asking questions to create connections (How? How?)
II. BODY OF ARTICLE
– Linking words: Indeed, That's true.
- Introduction.
1. Explain the key words in the proverb (Literal meaning => Figurative meaning)
+ What is lice?
– Is the persistent desire to pursue a goal, or something good.
+ What should it be?
– It is the outcome, the final result.
+ What does it mean to have will?
- Persevere and one day you will create the great things you always desire.
2. Provide sources of evidence
a. In ancient historical times
– Nguyen Hien, passed the exam at the age of 12 thanks to his determination and perseverance in self-study to become talented.
– Cao Ba Quat, from being an illegible writer, through perseverance and practice, his writing improved and Cao Ba Quat's name for his beautiful writing was famous throughout the region.
b. In modern times
- Teacher Nguyen Ngoc Ky had both arms paralyzed since childhood but still determined and patiently practiced writing with his feet and he succeeded, becoming an eternal shining example of will and determination to overcome adversity. .
– Professor Ngo Bao Chau with his perseverance in studying Mathematics finally brought honor to his beloved country Vietnam with the prestigious Fields Award.
c. In poetry
- Has iron grinding makes perfect.
- Failure is mother's success.
- Nothing is difficult
Only fear unstable heart
Digging up mountains and filling in seas
Surely made a firm decision. (Uncle Ho)
– Don't look at the waves and stop rowing.
– The nest is full of ants for a long time.
– Flowing water erodes rocks.
– Linking language: What the above analysis shows us,
- Reaffirming the meaning of the proverb: In any job, if we have perseverance, we will succeed in everything.
– Contact yourself: Always strive, make efforts, and be more determined in study and in life.
REFERENCE ESSAY
In our current life, there are some people who just encounter a little difficulty and are discouraged from doing it anymore. On the other hand, some people have to face many difficulties on the way to achieving their goals and success, but they are not in a hurry to get discouraged, they are still determined and determined to achieve that goal. Those people have followed the proverb: "If there is a will, there is a way" from their ancestors for many generations. It shows the determination, perseverance, and never being discouraged by difficulties of Vietnamese people through many generations. How do we need to clearly understand the proverb "Where there is a will there is a way"?
Indeed, the proverb "If there is a will, there is a way" is one of the very useful proverbs because it helps us have perseverance when doing something in our lives. According to our understanding, what does the proverb "where there is a will there is a way" mean? We understand that the word "will" symbolizes will, energy, and determination. The word “should” represents success, success, and results. So the implication of the original proverb "if there is a will, there is a way" shows us that being proactive and determined to do something, despite facing many obstacles and difficulties but still not being discouraged, can achieve results. that I want.
The proverb "If there is a will, there is a way" helps us gain determination and strength in life, so we need to share this proverb with young people, all those facing difficulties in life, so that they can overcome difficulties and become useful people in society. Besides, there are some people who just encounter difficulties and quickly get discouraged and stop doing it. Those are people who have no will and are always below everyone, never succeeding in everything.
Thereby we clearly understand the importance of determined efforts in life to achieve good results. As for myself, I'm still trying to achieve the results I want.
(Students' work)
>> See more Topic 57: The habit of lying is a sign of moral decline in social life here.
Tags:"If you have lead, you should" · Topic 56
|
Đề 57 – Thói dối trá là biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức trong đời sống xã hội – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Thói dối trá và suy thoái đạo đức
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tường đạo lí.
– Giải thích khái niệm thói dối trá có nghĩa là gì?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho sự dối trá?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một con người luôn dối trá thì có nhận được sự tin yêu, tin cậy của mọi người xung quanh hay không?
– Cảm nghĩ cùa em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Thói dối trá được xem là một thói xấu mà chúng ta cần phải tránh.
– Vậy thói dối trá đã có ảnh hưởng như thế nào đối với chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Thói dối trá có nghĩa là gì? => Dối trá là không trung thực, lừa dối người khác, tạo ra cái ảo để gây điều tin tưởng cho người khác nhằm mục đích vụ lợi, làm mất đi chuẩn mực của đạo đức.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Người có thói dối trá là người như thế nào?
Đó là người luôn thích nói sai sự thật ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Dường như việc nói dối là một việc thường ngày của họ khiến cho mọi người không thể tin tưởng được.
Tại sao chúng ta phải loại bỏ thói dối trá này?
+ Vì nỏ là một thói quen rất xấu, một tính nết xấu làm suy đồi về mặt đạo đức của chúng ta.
+ Bởi vì nó khiến cho mọi người xung quanh có cái nhìn không tốt về ta.
+ Làm mất đi tình cảm quý báu của con người với nhau.
+ Dẫn chứng: Trong việc học tập, mặc dù được điểm 10 đỏ chói nhưng thực chất là do quay bài, chép bài của bạn mà có. Hay trong công việc, ta thường làm qua loa, sơ sài cho xong việc một cách gian dối,…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Để khắc phục được thói dối trá này, ta cần phải giáo dục các em từ nhỏ về đức tính trung thực. Người lớn cần làm điều tốt, điều đúng để làm gương cho các em. Dạy các em những bài học đạo đức đúng đắn.
– Thói dối trá là đức tính xấu cần loại bỏ.
– Riêng bản thân em sẽ luôn phấn đấu, trau dồi rèn luyện thêm về đức tính trung thực.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong đời sống hiện nay, có rất nhiều đức tính không tốt đang tồn tại ở trong mỗi con người chúng ta mà nổi bật trong đó là thói dối trá, được xem là biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức trong đời sống xã hội. Vậy ta hiểu “dối trá” là như thế nào?
Quả đúng như vậy, dối trá là không trung thực, lừa dối người khác, tạo ra cái ảo để gây điều tin tưởng cho người khác nhằm mục đích vụ lợi, làm mất đi chuẩn mực của đạo đức. Thói dối trá đang tồn tại trong các lĩnh vực cùa đời sống như trong công việc thì lừa gạt, khoét tiền của công ty và trong trường lớp thì coi tài liệu, chép bài của bạn để nộp cho thầy cô. Thói dối trá làm thiệt hại đến vật chất và tinh thần của xã hội.
Nguyên nhân có sự tồn tại của thói dối trá ở con người là trình độ học vấn không đủ để lo cho bản thân, những thói xấu từ cha mẹ truyền qua con cái, từ môi trường xung quanh tác động đến mỗi người từ đó mà sinh ra những thói hư, tật xấu. Cho nên dối trá nhằm mục đích gì đều là tội lỗi, vô đạo đức.
Hậu quả của thói dối trá là khi đi đâu cũng bị người khác chê bai, coi thường, xa lánh, mất đi sự tin tưởng của mọi người, xem mình như kẻ tội đồ, rác rưởi. Từ một người có đạo đức, trở thành một người vô đạo đức. Không còn ai quan tâm và họ xem như mình không hề tồn tại trong xã hội.
Chính vì thế chúng ta cần có những biện pháp khắc phục để xã hội không còn những thành phần xấu gây ảnh hưởng không tốt đến mọi người xung quanh. Chúng ta nên giáo dục thói quen trung thực cho con em từ nhỏ, đặc biệt là những mầm non của tương lai, cho chúng biết thế nào là những đức tính tốt cần phải học, những tính cách xấu nên tránh xa và tự khắc phục; cho chúng xem hay đọc những bộ phim hay truyện cố tích mang tính giáo dục cao. Còn người lớn thì phải biết suy nghĩ điều gì hay/ dở; điều gì tốt hoặc xấu trước khi làm và cũng để làm gương cho thế hệ sau này.
Tóm lại, thói dổi trá là một đức tính xấu của con người. Người có thói dối trá là một con người vô đạo đức, bất chấp thủ đoạn để lấy cái lợi về cho bản thân, làm cho con người mất đi sự tin tưởng lẫn nhau.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong cuộc sống hiện nay, dối trá không chỉ là một thói xấu mà nó đã lan ra thành một dịch bệnh nguy hiểm khó chữa, gây ra những tác hại nghiêm trọng trong nhiều lĩnh vực. Vì vậy có nhận định cho rằng: “Thói dối trá là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức trong đời sống xã hội”. Vậy qua câu nói trên, ta rút ra được bài học gì?
Quả thật vậy, thói dối trá là một biểu hiện sự suy đồi của đạo đức. Dối trá là không trung thực, không thành thật, hành động và lời nói không ăn khớp với nhau. Còn suy đồi về đạo đức là không tuân theo những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Ta hiểu cả câu nói này có ý nghĩa là khi ta nhiễm phải thói dối trá thì nhân cách, đạo đức của chúng ta cũng bị lây nhiễm bởi cái xấu và chắc chắn đó là điều không tốt.
Thói dối trá quả là một biểu hiện của suy đồi đạo đức bời vì nó đã làm cho mọi người nhìn nhận không đúng với ý đồ của mình, khiến cho họ làm sai. Đây quả là một hành động sai trái gây hậu quả đáng tiếc, gây ra nhiều tác hại nguy hiểm về mặt đạo đức, làm cho cuộc sống không ổn định, mất thăng bằng. Nó còn tạo ra sự căm ghét, trong lòng người khác khi những người đó biết mình bị lừa dối, tạo ra những suy nghĩ và hành động đáng tiếc của những người bị lừa dối với những người lừa dối họ. Dối trá cũng gây ra nhiều thiệt hại trong nhiều lĩnh vực như kinh tế có vụ việc Vinashin đã lừa dối mọi người ăn chặn hàng trăm ngàn tỷ đồng, gây thiệt hại to lớn. Hoặc là vụ việc bệnh viện Đa khoa Hoài Đức đã “nhân bản” hàng loạt bảng xét nghiệm, làm cho bệnh nhân hiểu sai về bệnh của họ, gây ra phương pháp chữa trị sai, khiến cho nhiều chuyện đáng tiếc xảy ra.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những lời nói dối mang tính nhân đạo, nhằm mục đích giúp đỡ người khác, đặc biệt là trong các trường hợp những người bệnh nan y hoặc khi muốn giấu đi một sự thật có thể gây nguy hiểm cho ai khác. Mặc dù vậy sống trung thực là một biểu hiện của người có nhân cách cao đẹp, nhưng người nói dối thì có đầy vì vậy chúng ta cần phải kiên quyết đấu tranh để loại bỏ thói nói dối trong bản thân chúng ta.
Tóm lại, thói dối trá quả là một biểu hiện của sự suy đồi đạo đức. Và tôi cũng phải rèn luyện bản thân, kiên quyết và đấu tranh cho sự thật góp phần xây dựng xã hội phát triển và văn minh hơn.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 58: Suy nghĩ về lời dạy của Bác “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” tại đây.
Tags:Đề 57 · suy thoái đạo đức · Thói dối trá
|
Đề 57 – Thói dối trá là biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức trong đời sống xã hội – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Thói dối trá và suy thoái đạo đức
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tường đạo lí.
– Giải thích khái niệm thói dối trá có nghĩa là gì?
– Những biểu hiện nào cụ thể minh chứng cho sự dối trá?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một con người luôn dối trá thì có nhận được sự tin yêu, tin cậy của mọi người xung quanh hay không?
– Cảm nghĩ cùa em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Thói dối trá được xem là một thói xấu mà chúng ta cần phải tránh.
– Vậy thói dối trá đã có ảnh hưởng như thế nào đối với chúng ta?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Thói dối trá có nghĩa là gì? => Dối trá là không trung thực, lừa dối người khác, tạo ra cái ảo để gây điều tin tưởng cho người khác nhằm mục đích vụ lợi, làm mất đi chuẩn mực của đạo đức.
b. Đưa ra các biểu hiện: (Đặt câu hỏi: Tại sao? Vì sao?)
Người có thói dối trá là người như thế nào?
Đó là người luôn thích nói sai sự thật ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Dường như việc nói dối là một việc thường ngày của họ khiến cho mọi người không thể tin tưởng được.
Tại sao chúng ta phải loại bỏ thói dối trá này?
+ Vì nỏ là một thói quen rất xấu, một tính nết xấu làm suy đồi về mặt đạo đức của chúng ta.
+ Bởi vì nó khiến cho mọi người xung quanh có cái nhìn không tốt về ta.
+ Làm mất đi tình cảm quý báu của con người với nhau.
+ Dẫn chứng: Trong việc học tập, mặc dù được điểm 10 đỏ chói nhưng thực chất là do quay bài, chép bài của bạn mà có. Hay trong công việc, ta thường làm qua loa, sơ sài cho xong việc một cách gian dối,…
c. Bàn bạc, mở rộng vấn đề
– Để khắc phục được thói dối trá này, ta cần phải giáo dục các em từ nhỏ về đức tính trung thực. Người lớn cần làm điều tốt, điều đúng để làm gương cho các em. Dạy các em những bài học đạo đức đúng đắn.
– Thói dối trá là đức tính xấu cần loại bỏ.
– Riêng bản thân em sẽ luôn phấn đấu, trau dồi rèn luyện thêm về đức tính trung thực.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong đời sống hiện nay, có rất nhiều đức tính không tốt đang tồn tại ở trong mỗi con người chúng ta mà nổi bật trong đó là thói dối trá, được xem là biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức trong đời sống xã hội. Vậy ta hiểu “dối trá” là như thế nào?
Quả đúng như vậy, dối trá là không trung thực, lừa dối người khác, tạo ra cái ảo để gây điều tin tưởng cho người khác nhằm mục đích vụ lợi, làm mất đi chuẩn mực của đạo đức. Thói dối trá đang tồn tại trong các lĩnh vực cùa đời sống như trong công việc thì lừa gạt, khoét tiền của công ty và trong trường lớp thì coi tài liệu, chép bài của bạn để nộp cho thầy cô. Thói dối trá làm thiệt hại đến vật chất và tinh thần của xã hội.
Nguyên nhân có sự tồn tại của thói dối trá ở con người là trình độ học vấn không đủ để lo cho bản thân, những thói xấu từ cha mẹ truyền qua con cái, từ môi trường xung quanh tác động đến mỗi người từ đó mà sinh ra những thói hư, tật xấu. Cho nên dối trá nhằm mục đích gì đều là tội lỗi, vô đạo đức.
Hậu quả của thói dối trá là khi đi đâu cũng bị người khác chê bai, coi thường, xa lánh, mất đi sự tin tưởng của mọi người, xem mình như kẻ tội đồ, rác rưởi. Từ một người có đạo đức, trở thành một người vô đạo đức. Không còn ai quan tâm và họ xem như mình không hề tồn tại trong xã hội.
Chính vì thế chúng ta cần có những biện pháp khắc phục để xã hội không còn những thành phần xấu gây ảnh hưởng không tốt đến mọi người xung quanh. Chúng ta nên giáo dục thói quen trung thực cho con em từ nhỏ, đặc biệt là những mầm non của tương lai, cho chúng biết thế nào là những đức tính tốt cần phải học, những tính cách xấu nên tránh xa và tự khắc phục; cho chúng xem hay đọc những bộ phim hay truyện cố tích mang tính giáo dục cao. Còn người lớn thì phải biết suy nghĩ điều gì hay/ dở; điều gì tốt hoặc xấu trước khi làm và cũng để làm gương cho thế hệ sau này.
Tóm lại, thói dổi trá là một đức tính xấu của con người. Người có thói dối trá là một con người vô đạo đức, bất chấp thủ đoạn để lấy cái lợi về cho bản thân, làm cho con người mất đi sự tin tưởng lẫn nhau.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong cuộc sống hiện nay, dối trá không chỉ là một thói xấu mà nó đã lan ra thành một dịch bệnh nguy hiểm khó chữa, gây ra những tác hại nghiêm trọng trong nhiều lĩnh vực. Vì vậy có nhận định cho rằng: “Thói dối trá là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức trong đời sống xã hội”. Vậy qua câu nói trên, ta rút ra được bài học gì?
Quả thật vậy, thói dối trá là một biểu hiện sự suy đồi của đạo đức. Dối trá là không trung thực, không thành thật, hành động và lời nói không ăn khớp với nhau. Còn suy đồi về đạo đức là không tuân theo những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Ta hiểu cả câu nói này có ý nghĩa là khi ta nhiễm phải thói dối trá thì nhân cách, đạo đức của chúng ta cũng bị lây nhiễm bởi cái xấu và chắc chắn đó là điều không tốt.
Thói dối trá quả là một biểu hiện của suy đồi đạo đức bời vì nó đã làm cho mọi người nhìn nhận không đúng với ý đồ của mình, khiến cho họ làm sai. Đây quả là một hành động sai trái gây hậu quả đáng tiếc, gây ra nhiều tác hại nguy hiểm về mặt đạo đức, làm cho cuộc sống không ổn định, mất thăng bằng. Nó còn tạo ra sự căm ghét, trong lòng người khác khi những người đó biết mình bị lừa dối, tạo ra những suy nghĩ và hành động đáng tiếc của những người bị lừa dối với những người lừa dối họ. Dối trá cũng gây ra nhiều thiệt hại trong nhiều lĩnh vực như kinh tế có vụ việc Vinashin đã lừa dối mọi người ăn chặn hàng trăm ngàn tỷ đồng, gây thiệt hại to lớn. Hoặc là vụ việc bệnh viện Đa khoa Hoài Đức đã “nhân bản” hàng loạt bảng xét nghiệm, làm cho bệnh nhân hiểu sai về bệnh của họ, gây ra phương pháp chữa trị sai, khiến cho nhiều chuyện đáng tiếc xảy ra.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những lời nói dối mang tính nhân đạo, nhằm mục đích giúp đỡ người khác, đặc biệt là trong các trường hợp những người bệnh nan y hoặc khi muốn giấu đi một sự thật có thể gây nguy hiểm cho ai khác. Mặc dù vậy sống trung thực là một biểu hiện của người có nhân cách cao đẹp, nhưng người nói dối thì có đầy vì vậy chúng ta cần phải kiên quyết đấu tranh để loại bỏ thói nói dối trong bản thân chúng ta.
Tóm lại, thói dối trá quả là một biểu hiện của sự suy đồi đạo đức. Và tôi cũng phải rèn luyện bản thân, kiên quyết và đấu tranh cho sự thật góp phần xây dựng xã hội phát triển và văn minh hơn.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 58: Suy nghĩ về lời dạy của Bác “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” tại đây.
Tags:Đề 57 · suy thoái đạo đức · Thói dối trá
|
Đề 58 – Bàn về lời dạy của Bác Hồ – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Bàn về lời dạy của Bác về đức và tài
ĐỀ 58: Trong một cuộc nói chuyện với học sinh, Bác Hồ có dạy: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nêu suy nghĩ của em về lời dạy trên.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí thông qua một câu câu nhận định (Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó)
– Giải thích khái niệm tài và đức có nghĩa là gì?
– Mối quan hệ giữa tài và đức được thể hiện như thế nào trong cuộc sống?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: một con người có tài nhưng không có đức thì như thế nào? Và một con người có đức độ tốt mà lại không có năng lực thì sẽ như thể nào?
– Cảm nghĩ của em về hai khái niệm trên? (chúng bổ trợ cho nhau hay bài trừ lẫn nhau?)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Tài và đức được xem là hai mặt để tạo nên thành công của một con người. Bác Hồ có dạy: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Có tài mà không có đức là người vô dụng có nghĩa là gì? => Nghĩa là một người tuy có tài năng thật sự nhưng về mặt đạo đức không có thì cũng trở thành một kẻ vô dụng, không được mọi người trọng dụng.
– Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó có nghĩa là gì? => Nghĩa là một người có đức độ, có phẩm chất đạo đức tốt đẹp nhưng lại không có năng lực trong công việc thì khi làm việc gì cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn và không thuyết phục được mọi người.
b. Đưa ra mối quan bệ giữa đức và tài
+ Đức và tài có thể nói có mối quan hệ qua lại với nhau. Nếu như một người có đức nhưng không có năng lực làm việc thì rất khó để hoàn thành công việc được giao. Còn người có năng lực, tài năng nhưng đức độ, đạo đức, phẩm chất không có thì dù tài giỏi mấy cũng không được mọi người hưởng ứng, ủng hộ.
+ Do vậy, theo lời dạy của Bác nếu chúng ta có tài năng thực sự thì cần phải trau dồi, rèn luyện thêm về mặt phẩm chất, đạo đức. Rèn luyện thêm về cách cư xử, giao tiếp với mọi người xung quanh. Còn đối với người có phẩm chất đạo đức tốt thì cần phải tự mình học hỏi, trau dồi thêm về chuyên môn, năng lực cùa mình để đáp ứng nhu cầu của công việc.
III. KẾT BÀI
– Nói chung, đức và tài là hai mặt chúng ta cần phấn đấu hướng đến để đạt được cả hai để dần dần hoàn thiện bản thân.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Hiện nay trong cuộc sống của chúng ta, thanh niên học sinh có suy nghĩ rằng chỉ cần đạt mục đích duy nhất là cố học thành tài, xem nhẹ việc rèn luyện đạo đức. Còn có người học chưa tốt mà không chịu rèn luyện và cố gắng học tập để phục vụ cho xã hội. Để khuyên dạy học sinh phải chú trọng trau dồi cả tài lẫn đức, Bác Hồ dạy rằng: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Vì vậy ta hiểu “tài” và “đức” là như thế nào?
Quả đúng như vậy, có tài là có đầu óc, có kiến thức, kinh nghiệm và có bản lĩnh để hoàn thành tốt công việc với hiệu quả cao. Cũng có thể giải quyết tất cả những vấn đề với một kết quả tốt nhờ có nhiều phương pháp hiệu quả, sáng tạo. Còn có đức là có thái độ, ý thức làm chủ bản thân, tôn trọng và trung thực với mọi người. Kính trọng người lớn hơn, nhường nhịn kẻ thấp hơn mình, yêu thương, đóng góp phần sức để giúp đỡ mọi người, tận tuỵ phục vụ cho quê hương, đất nước.
Vậy thì tại sao thanh niên phải có cả tài lẫn đức? Vì thanh niên dù có tài giỏi đến mức nào mà lương tâm, đạo đức không có thì cũng sẽ trở thành thành phần xấu của xã hội, là người vô dụng. Còn chỉ có đức thì được mọi người yêu mến, quý trọng nhưng không có tài năng gì thì không thể giúp được cho người khác mà còn khiến mình trở nên khó khăn trong công việc, khó mà giải quyết tốt và có kết quả không như mong muốn. Một học sinh có hạnh kiểm tốt nhưng học lực lại đạt trung bình, một cán bộ quản lí có nhiệt huyết nhưng trình độ văn hoá, chuyên môn kém thì sẽ sai sót, dẫn đến thất bại.
Tóm lại, thanh niên học sinh cần trau dồi cả đức lẫn tài để trở thành công dân tốt, góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp, phồn vinh.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 59: Suy nghĩ của em về hiện tượng: ” Học sinh hiện nay không thích đọc sách” tại đây.
Tags:Đề 58 · Đức và tài · Lời dạy của Bác
|
Topic 58 – Discussing Uncle Ho's teachings – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Discuss Uncle Ho's teachings on virtue and talent
TOPIC 58: In a conversation with students, Uncle Ho taught: "If you have talent but no virtue, you are useless. If you have virtue but no talent, it is difficult to do anything." Please give me your thoughts on the above teachings.
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what kind of topic this is: moral thought through a sentence (If you have talent without virtue, you are useless; if you have virtue without talent, it is difficult to do anything).
– Explain what the concepts of talent and virtue mean?
– How is the relationship between talent and virtue expressed in life?
– Discuss and expand the issue: what is a person who has talent but no virtue? And what happens to a person with good virtue but no ability?
– What are your thoughts on the above two concepts? (do they complement each other or exclude each other?)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– Talent and virtue are considered two aspects that create a person's success. Uncle Ho taught: "If you have talent but no virtue, you are useless. If you have virtue but no talent, it is difficult to do anything."
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What does it mean to have talent without virtue? What does it mean to be a useless person? => Meaning that even though a person has real talent, if he doesn't have it in terms of morality, he becomes a useless person, not respected by everyone.
– What does it mean if you have virtue but no talent, doing anything is difficult? => This means that a person who is virtuous and has good moral qualities but is incompetent at work will encounter many difficulties when doing anything and will not be able to convince people.
b. Proposing the important relationship between virtue and talent
+ Virtue and talent can be said to have an interrelated relationship. If a person has virtue but does not have the ability to work, it is very difficult to complete the assigned work. As for people who have the ability and talent but do not have virtue, ethics, or qualities, no matter how talented they are, they will not be responded to and supported by everyone.
+ Therefore, according to Uncle Ho's teachings, if we have real talent, we need to cultivate and practice more in terms of quality and morality. Practice more how to behave and communicate with people around you. As for people with good moral qualities, they need to learn and improve their expertise and abilities to meet the needs of the job.
III. END
– In general, virtue and talent are two aspects we need to strive towards to achieve both to gradually improve ourselves.
REFERENCE ESSAY
Nowadays, in our lives, young students think that the only goal is to achieve academic success, disregarding moral training. There are also people who have not studied well but do not practice and try to study to serve society. To advise students to focus on cultivating both talent and virtue, Uncle Ho taught: "If you have talent but no virtue, you are useless; if you have virtue but no talent, it is difficult to do anything." So how do we understand "talent" and "virtue"?
That's right, having talent means having the mind, knowledge, experience and bravery to complete the job well and with high efficiency. It is also possible to solve all problems with a good result thanks to many effective, creative methods. Having virtue means having an attitude, a sense of self-control, respect and honesty with everyone. Respect those who are older than you, give in to those who are lower than you, love, contribute your strength to help everyone, and dedicate yourself to serving your homeland and country.
So why must young people have both talent and virtue? Because no matter how talented a young man is, if he doesn't have conscience or morality, he will become a bad part of society and a useless person. If you only have virtue, you will be loved and respected by everyone, but without any talent, you cannot help others, but it also makes it difficult for you to work, difficult to solve well, and the results will not be as expected. desire. A student with good behavior but average academic performance, a manager with enthusiasm but poor cultural and professional qualifications will make mistakes, leading to failure.
In short, young students need to cultivate both virtue and talent to become good citizens, contributing to building a rich, beautiful and prosperous country.
(Students' work)
>> See more Topic 59: My thoughts on the phenomenon: "Students today do not like reading" here.
Tags: Topic 58 · Virtue and talent · Uncle Ho's teachings
|
Đề 59 – Hiện tượng: “Học sinh hiện nay không thích đọc sách” – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Hiện tượng không thích đọc sách
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Ngưòi học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: hiện tượng đời sống xã hội (Học sinh hiện nay không thích đọc sách)
– Giải thích khái niệm sách có nghĩa là gì?
– Giải thích hiện tượng: Học sinh không thích đọc sách.
– Nguyên nhân nào dẫn đến việc học sinh không thích đọc sách, (mất thời gian, không thú vị, hấp dẫn; bị các trò chơi giải trí internet lôi cuốn,…)
– Đưa ra các biện pháp khắc phục?
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Có thể nói, việc đọc một quyển sách giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong việc tiếp thu kiến thức của nhân loại. Tuy nhiên, thời gian gần đây xuất hiện một hiện tượng đó là học sinh hiện nay không thích đọc sách.
Vậy hiện tượng trên có ý nghĩa như thế nào?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Sách có nghĩa là gì? => Sách là hình thức ghi chép để lưu trữ kiến thức của nhân loại.
– Hiện tượng học sinh không thích đọc sách nghĩa là như thế nào? => Nghĩa là phần lớn học sinh hiện nay chỉ thích những thú vui giải trí khác đặc biệt là game Online, trò chơi điện tử mà ít khi đọc sách để bồi dưỡng tâm hồn hay nâng cao kiến thức.
– Hậu quả dẫn đến của việc không đọc sách là gì? => Điều đó khiến cho các em không có vốn hiểu biết và kiến thức cần thiết, rất dễ sa vào những con đường tối tăm, dốt nát, tù tội. Không có sách thì sự hiểu biết đó trở nên tầm thường, lạc hậu, kiến thức nông cạn và không thể theo kịp với những sự tliay đổi tiên tiến của thế giới
b. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là gì?
+ Công nghệ hiện đại được ra đời và đang có chiều hướng phát triển sâu rộng như máy tính, điện thoại, ti-vi, nhũng máy móc có độ xử lí và tính năng giải trí cao làm cho học sinh thích thú và bị hấp dẫn.
+ Tâm lí ngại đi xa để mua một cuốn sách với số tiền vài chục ngàn mà chỉ cần ngồi ở nhà mở internet là có tất cả.
c. Biện pháp khắc phục hiện tượng này là gì?
+ Quản lí chặt chẽ việc chơi game Online của các em để tránh gây nghiện.
+ Dắt các em đến tham gia các buổi hội thảo, giới thiệu sách mới để khơi dậy niềm yêu thích sách ở các em.
III. KẾT BÀI
– Nói chung, việc đọc sách là tốt cho chúng ta trong việc nâng cao tri thức, trí tuệ của bản thân.
– Riêng bản thân em sẽ đặt ra mục tiêu cho mình trong việc đọc sách để kiến thức mà mình đang tiếp nhận ngày càng được nâng cao.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong cuộc sống hiện đại và công nghệ như ngày nay, việc đọc sách, theo dõi những thông tin cần thiết và bổ ích là điều hết sức quan trọng đối với mỗi chúng ta. Nhưng đối tượng không thích đọc sách nhiều nhất đó là học sinh. Vậy việc đọc sách có vai trò quan trọng như thế nào đối với học sinh?
Thật vậy, học sinh là thế hệ có trí tuệ, đạo đức, năng lực chất xám của đất nước, là những nhân tài được đào tạo từ môi trường giáo dục có tố chất để sau này phục vụ cho đất nước. Còn đọc sách là đọc một vật mà trong đó có chứa nhiều thông tin, nhũng điều sâu rộng mà ta chưa từng được thấy, cảm nhận, nhũng thứ vượt ngoài tầm hiếu biết và cũng có thể là những điều mới mẻ mà ta không được học ở trường, lớp. Ta dùng nó để học tập khoa học kĩ thuật hiện đại. Việc không đọc sách có những ảnh hưởng tiêu cực ra sao?
Tác hại của việc học sinh ngày nay không thích đọc sách là sẽ khiến cho các em không có vốn hiểu biết và kiến thức cần thiết, rất dễ sa vào những con đường tối tăm, dốt nát, tù tội. Không có sách thì sự hiểu biết đó trở nên tầm thường, lạc hậu, kiến thức nông cạn và không thể theo kịp với những sự thay đổi tiên tiến của thế giới. Học sinh sẽ không bao giờ biết được có những sự việc nóng bỏng xảy ra ngoài sự hiểu biết của mình.
Nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không thích đọc sách là vì hiện nay nhiều công nghệ hiện đại được ra đời và đang có chiều hướng sâu rộng như máy tính, điện thoại, ti-vi, những máy móc có độ xử lí và tính năng giải trí cao làm cho học sinh dành hầu hết thời gian vào đó và đánh mất di thời gian đọc sách của mình mặc dù họ biết rằng những thông tin đó có thể được truyền tải từ sách thông qua vật dụng công nghệ bằng internet. Chỉ vì họ ngại đi xa mua một cuốn sách với số tiền vài chục ngàn mà chỉ cần ngồi ở nhà mở internet là có tất cả. Chính vì thế mà giờ đây sách rất ít được quan tâm sử dụng.
Tóm lại, việc đọc sách phải gắn liền với việc học tập của học sinh hiện nay. Đọc sách là để học những kiến thức sâu rộng của nhân loại. Để trở thành người lao động có văn hoá, có kĩ thuật để đem tài năng góp phần xây dựng quê hương, đất nước mãi mãi phát triển và bền vũng.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Từ lâu, con người đã biết sách là một báu vật kì diệu do nhân loại tạo nên. Từ ngàn năm trước, khi con người chưa phát minh ra máy in, thì những cuốn sách đó đã được viết bằng tay. Sách là nơi lưu trữ những kiến thức, ý tưởng, khái niệm mà ông cha ta đã dạy, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vậy còn học sinh hiện nay nên có thái độ như thế nào về việc đọc sách?
Từ hàng ngàn năm xưa, việc đọc sách rất quan trọng, nhất là thời còn vua, còn trường học Quốc Tử Giám. Khi đó, việc đọc sách cực kì quan trọng. Còn hiện nay, thời đại công nghệ thông tin phát triển, đất nước đã và đang phát triển thì con người không chú tâm đến việc đọc sách. Có một thời, người Việt Nam rất chú trọng đến việc đọc sách, bất cứ lúc nào rảnh rỗi, họ đều đem sách ra mà đọc, họ yêu thích đến nỗi đi đâu họ cũng mang sách theo mà đọc. khi đi chợ xếp hàng mua rau, khi đợi bạn bè,… Đọc sách giúp chúng ta tăng cưòng khả năng giao tiếp, giúp chúng ta tự tin hon khi giao tiếp mà không bị ấp a ấp úng đối với mọi người.
Việc học sinh hiện nay không thích đọc sách có rất nhiều nguyên nhân. Ngày xưa chỉ có ai biết chữ thì mới tự mình đọc sách, còn nhũng người không biết chữ thì không. Sang thời hiện đại, sự phát triển của khoa học đã tạo ra một cách đọc khác khiến chúng ta lười biếng đi. Đó là cách đọc nhờ vào phương tiện nghe, nhìn. Chỉ cần một cái máy đọc chữ thôi thì toàn bộ không cần huy động, trí tưởng tưởng của cá nhân. Việc học đã mang tính chất giải trí thay cho tính chất suy ngẫm. Lâu ngày, tính chất đọc sách sẽ mất dần đi, thay vào đó là thú vui hưởng thụ việc “đọc” theo kiểu tập thể và dễ dãi hơn. Đó là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng học kém Văn và không thích học Văn.
Chừng nào học sinh chưa thấy sự hấp dẫn của việc đọc sách, chừng đó hãy đừng nói đến việc bồi dưỡng tâm hồn con người. Nhưng quan trọng nhất là niềm đam mê, yêu thích của họ mới quyết định được thái độ với việc đọc sách. Như vậy, việc học sinh hiện nay không thích đọc sách là một hiện tượng xấu đối với giới trẻ, cần phải có giải pháp để khắc phục ngay.
Tóm lại những điều chúng ta nói ở trên, việc học sinh không thích đọc sách hiện nay cho ta thấy đã có những tác hại đáng kể và đã nêu ra tác hại của việc không đọc sách. Để khuyên họ cần hãy tự đọc sách và suy ngẫm nhiều hơn, chúng ta sẽ biết được sách rất có nhiều thú vui trong đó.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 60: Suy nghĩ của em về vấn đề” Vì cái gì ta sống trên đời?” tại đây.
Tags:Đề 59 · Hiện tượng lười đọc sách · Văn chọn lọc 9
|
Đề 59 – Hiện tượng: “Học sinh hiện nay không thích đọc sách” – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Hiện tượng không thích đọc sách
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Ngưòi học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: hiện tượng đời sống xã hội (Học sinh hiện nay không thích đọc sách)
– Giải thích khái niệm sách có nghĩa là gì?
– Giải thích hiện tượng: Học sinh không thích đọc sách.
– Nguyên nhân nào dẫn đến việc học sinh không thích đọc sách, (mất thời gian, không thú vị, hấp dẫn; bị các trò chơi giải trí internet lôi cuốn,…)
– Đưa ra các biện pháp khắc phục?
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Có thể nói, việc đọc một quyển sách giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong việc tiếp thu kiến thức của nhân loại. Tuy nhiên, thời gian gần đây xuất hiện một hiện tượng đó là học sinh hiện nay không thích đọc sách.
Vậy hiện tượng trên có ý nghĩa như thế nào?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Sách có nghĩa là gì? => Sách là hình thức ghi chép để lưu trữ kiến thức của nhân loại.
– Hiện tượng học sinh không thích đọc sách nghĩa là như thế nào? => Nghĩa là phần lớn học sinh hiện nay chỉ thích những thú vui giải trí khác đặc biệt là game Online, trò chơi điện tử mà ít khi đọc sách để bồi dưỡng tâm hồn hay nâng cao kiến thức.
– Hậu quả dẫn đến của việc không đọc sách là gì? => Điều đó khiến cho các em không có vốn hiểu biết và kiến thức cần thiết, rất dễ sa vào những con đường tối tăm, dốt nát, tù tội. Không có sách thì sự hiểu biết đó trở nên tầm thường, lạc hậu, kiến thức nông cạn và không thể theo kịp với những sự tliay đổi tiên tiến của thế giới
b. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là gì?
+ Công nghệ hiện đại được ra đời và đang có chiều hướng phát triển sâu rộng như máy tính, điện thoại, ti-vi, nhũng máy móc có độ xử lí và tính năng giải trí cao làm cho học sinh thích thú và bị hấp dẫn.
+ Tâm lí ngại đi xa để mua một cuốn sách với số tiền vài chục ngàn mà chỉ cần ngồi ở nhà mở internet là có tất cả.
c. Biện pháp khắc phục hiện tượng này là gì?
+ Quản lí chặt chẽ việc chơi game Online của các em để tránh gây nghiện.
+ Dắt các em đến tham gia các buổi hội thảo, giới thiệu sách mới để khơi dậy niềm yêu thích sách ở các em.
III. KẾT BÀI
– Nói chung, việc đọc sách là tốt cho chúng ta trong việc nâng cao tri thức, trí tuệ của bản thân.
– Riêng bản thân em sẽ đặt ra mục tiêu cho mình trong việc đọc sách để kiến thức mà mình đang tiếp nhận ngày càng được nâng cao.
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong cuộc sống hiện đại và công nghệ như ngày nay, việc đọc sách, theo dõi những thông tin cần thiết và bổ ích là điều hết sức quan trọng đối với mỗi chúng ta. Nhưng đối tượng không thích đọc sách nhiều nhất đó là học sinh. Vậy việc đọc sách có vai trò quan trọng như thế nào đối với học sinh?
Thật vậy, học sinh là thế hệ có trí tuệ, đạo đức, năng lực chất xám của đất nước, là những nhân tài được đào tạo từ môi trường giáo dục có tố chất để sau này phục vụ cho đất nước. Còn đọc sách là đọc một vật mà trong đó có chứa nhiều thông tin, nhũng điều sâu rộng mà ta chưa từng được thấy, cảm nhận, nhũng thứ vượt ngoài tầm hiếu biết và cũng có thể là những điều mới mẻ mà ta không được học ở trường, lớp. Ta dùng nó để học tập khoa học kĩ thuật hiện đại. Việc không đọc sách có những ảnh hưởng tiêu cực ra sao?
Tác hại của việc học sinh ngày nay không thích đọc sách là sẽ khiến cho các em không có vốn hiểu biết và kiến thức cần thiết, rất dễ sa vào những con đường tối tăm, dốt nát, tù tội. Không có sách thì sự hiểu biết đó trở nên tầm thường, lạc hậu, kiến thức nông cạn và không thể theo kịp với những sự thay đổi tiên tiến của thế giới. Học sinh sẽ không bao giờ biết được có những sự việc nóng bỏng xảy ra ngoài sự hiểu biết của mình.
Nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không thích đọc sách là vì hiện nay nhiều công nghệ hiện đại được ra đời và đang có chiều hướng sâu rộng như máy tính, điện thoại, ti-vi, những máy móc có độ xử lí và tính năng giải trí cao làm cho học sinh dành hầu hết thời gian vào đó và đánh mất di thời gian đọc sách của mình mặc dù họ biết rằng những thông tin đó có thể được truyền tải từ sách thông qua vật dụng công nghệ bằng internet. Chỉ vì họ ngại đi xa mua một cuốn sách với số tiền vài chục ngàn mà chỉ cần ngồi ở nhà mở internet là có tất cả. Chính vì thế mà giờ đây sách rất ít được quan tâm sử dụng.
Tóm lại, việc đọc sách phải gắn liền với việc học tập của học sinh hiện nay. Đọc sách là để học những kiến thức sâu rộng của nhân loại. Để trở thành người lao động có văn hoá, có kĩ thuật để đem tài năng góp phần xây dựng quê hương, đất nước mãi mãi phát triển và bền vũng.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Từ lâu, con người đã biết sách là một báu vật kì diệu do nhân loại tạo nên. Từ ngàn năm trước, khi con người chưa phát minh ra máy in, thì những cuốn sách đó đã được viết bằng tay. Sách là nơi lưu trữ những kiến thức, ý tưởng, khái niệm mà ông cha ta đã dạy, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vậy còn học sinh hiện nay nên có thái độ như thế nào về việc đọc sách?
Từ hàng ngàn năm xưa, việc đọc sách rất quan trọng, nhất là thời còn vua, còn trường học Quốc Tử Giám. Khi đó, việc đọc sách cực kì quan trọng. Còn hiện nay, thời đại công nghệ thông tin phát triển, đất nước đã và đang phát triển thì con người không chú tâm đến việc đọc sách. Có một thời, người Việt Nam rất chú trọng đến việc đọc sách, bất cứ lúc nào rảnh rỗi, họ đều đem sách ra mà đọc, họ yêu thích đến nỗi đi đâu họ cũng mang sách theo mà đọc. khi đi chợ xếp hàng mua rau, khi đợi bạn bè,… Đọc sách giúp chúng ta tăng cưòng khả năng giao tiếp, giúp chúng ta tự tin hon khi giao tiếp mà không bị ấp a ấp úng đối với mọi người.
Việc học sinh hiện nay không thích đọc sách có rất nhiều nguyên nhân. Ngày xưa chỉ có ai biết chữ thì mới tự mình đọc sách, còn nhũng người không biết chữ thì không. Sang thời hiện đại, sự phát triển của khoa học đã tạo ra một cách đọc khác khiến chúng ta lười biếng đi. Đó là cách đọc nhờ vào phương tiện nghe, nhìn. Chỉ cần một cái máy đọc chữ thôi thì toàn bộ không cần huy động, trí tưởng tưởng của cá nhân. Việc học đã mang tính chất giải trí thay cho tính chất suy ngẫm. Lâu ngày, tính chất đọc sách sẽ mất dần đi, thay vào đó là thú vui hưởng thụ việc “đọc” theo kiểu tập thể và dễ dãi hơn. Đó là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng học kém Văn và không thích học Văn.
Chừng nào học sinh chưa thấy sự hấp dẫn của việc đọc sách, chừng đó hãy đừng nói đến việc bồi dưỡng tâm hồn con người. Nhưng quan trọng nhất là niềm đam mê, yêu thích của họ mới quyết định được thái độ với việc đọc sách. Như vậy, việc học sinh hiện nay không thích đọc sách là một hiện tượng xấu đối với giới trẻ, cần phải có giải pháp để khắc phục ngay.
Tóm lại những điều chúng ta nói ở trên, việc học sinh không thích đọc sách hiện nay cho ta thấy đã có những tác hại đáng kể và đã nêu ra tác hại của việc không đọc sách. Để khuyên họ cần hãy tự đọc sách và suy ngẫm nhiều hơn, chúng ta sẽ biết được sách rất có nhiều thú vui trong đó.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 60: Suy nghĩ của em về vấn đề” Vì cái gì ta sống trên đời?” tại đây.
Tags:Đề 59 · Hiện tượng lười đọc sách · Văn chọn lọc 9
|
Đề 6 – Kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy, cô giáo buồn – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Đề 6 – Một lần em mắc khuyết điểm
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
– Em cần xác định, lần mắc khuyết điểm ấy là khuyết điểm gì (bị điểm kém khiến thầy, cô giáo buồn phiền; quậy phá, chửi thề; đánh bạn, học hành không nghiêm túc,…)?
– Tâm trạng, cảm xúc của thầy, cô giáo khi phát hiện khuyết điểm của em gây hậu quả nghiêm trọng là cảm xúc gì?
– Tâm trạng, cảm xúc của em lúc đó ra sao?
– Em đã đấu tranh tư tưởng như thế nào để có thể nói lên lời xin lỗi và lời hứa hẹn sẽ không tái phạm trực tiếp bằng lời trước thầy, cô giáo?
DÀN Ý CHI TIẾT
Lấy ví dụ là Sửa điểm trong số điểm của cô giáo
I. MỞ BÀI
Là học sinh chắc hẳn ai cũng đã từng có lỗi lầm khiến thầy cô giáo phải buồn. Lần mắc khuyết điểm mà tôi mắc phải đó là lần tôi sửa điểm trong sổ điểm của cô giáo.
II. THÂN BÀI
1. Hoàn cảnh
Lần đó, tôi bị điểm kém môn Toán bài 1 tiết. Đây là bài quan trọng mà tôi chỉ được có 3 điểm.
Tôi bị quê mặt trước mặt bạn bè vì con điểm ấy nên tôi đã nảy ra ý nghĩ xấu là tìm mọi cách để thay đổi con điểm ấy.
2. Trong giờ ra choi
Trong giờ ra chơi, tất cả mọi người đều ra chơi. Riêng tôi thì ngồi trong lớp buồn rầu vì con điểm 3 ấy.
Cô giáo cũng đi tới chỗ tôi ngồi để an ủi tôi lần sau cố gắng nhiều hơn.
Tôi cám ơn cô vì điều đó. Cô giáo bảo tôi coi sóc đồ đạc của cô trên bàn vì cô có chút công chuyện bên nhà trường.
Khi nhìn thấy quyển sổ điểm của cô trên bàn, tôi chợt nảy ra ý nghĩ xấu là sẽ sửa điểm.
Nếu con 3 điểm ấy mà ba mẹ tôi biết được thì ăn roi mây là cái chắc.
Nhưng làm như vậy thật không hay chút nào!
Tôi suy nghĩ, đắn đo một hồi. Thế là tôi quyết định, tôi sẽ lên sửa điểm.
Tôi nhìn dáo dác xung quanh mình xem coi có người nào không.
Tôi chạy lên bàn, lật quyển sổ đến trang điểm của lóp mình. Tôi dùng bút xanh tô lên nét chữ số từ số 3 sang số 8.
Sau đó, tôi cẩn thận để quyển sổ lại như cũ. Nhưng tôi lại không ngờ rằng, khi tôi sửa điểm đã bị bạn lớp trưởng nhìn thấy.
Bạn chạy đi gặp cô để trình báo sự việc. Nhưng cô không nói gì.
Về lớp dọn dẹp lại đồ đạc và cám ơn tôi đã trông coi đồ giúp.
Tôi hí hửng vì tưởng rằng sự việc đã êm xuôi.
Nhưng sáng hôm sau, trong giờ ra chơi tôi được thầy giám thị gọi loa cho cô chủ nhiệm gặp (cô dạy toán đồng thời cũng là giáo viên chủ nhiệm của tôi).
Khi lên gặp, tôi đã bắt gặp ánh nhìn nghi ngờ của cô. Cô hỏi tôi: “Con sửa điểm trong sổ của cô phải không?”. Tôi im lặng, cúi đầu.
“Cô hiểu rằng bị điểm kém, con sẽ buồn và lo lắng nhiều lắm. Nhưng việc làm như vậy là sai rồi, con hiểu không? Cô rất buồn vì điều đó. Lần này tạm thời cô không truy cứu nhưng con phải khắc phục sửa chữa. Không được tái phạm nữa!”.
Tôi “dạ” rõ nhẹ nhàng và nói “Con thành thật xin lỗi cô, con sẽ không bao giờ làm như vậy nữa”.
Không dám ngẩng mặt cao đầu, lòng biết bao tủi hổ, sự ăn năn hối lỗi dâng lên trong lòng tôi.
III. KẾT BÀI
Đó là lần mắc khuyết điểm sâu sắc trong cuộc đời tôi.
Tôi tự hứa với lòng sẽ cố gắng chăm ngoan, học giỏi nhiều hơn nữa để không làm cho thầy cô, cha mẹ phải buồn lòng.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống, chắc hẳn ai cũng có những lỗi lầm và khuyết điểm. Tôi cũng vậy! Tôi đã phạm phải một lỗi lầm mà tôi không bao giờ quên được, nó dường như đã in sâu trong kí ức của tôi khi tôi còn là một đứa trẻ lớp hai ở trường Phạm Hồng Thái.
Hồi xưa tôi nhớ, tôi đã có một lần làm cho cô Ánh buồn vì đã làm hư một cây bút máy mà cô rất quý và giữ gìn nó cẩn thận suốt bao nhiêu năm vì đó là vật kỉ niệm của cô và người mẹ đã mất rất lâu. Lúc ấy tôi làm rớt nhưng sợ cô sẽ la và phát hiện ra điều đó. Cô cho tôi mượn để đi thi “Viết chữ đẹp”. Qua ngày thi và những ngày kế tiếp đến khi cô hỏi tôi: “Ngân ơi! Cây bút máy cô cho con mượn đâu rồi?”. Tôi sợ hãi và ấp úng không biết trả lời như thế nào và cuối cùng tôi đã nhận lỗi. Tôi nói với cô: “Con xin lỗi cô ạ! Hôm trước con đã làm rớt và không dùng được nữa. Con xin lỗi và mong cô tha thứ cho con. Vì con sợ cô la và buồn nên mấy ngày nay con không dám nói với cô.”. Cô nhìn tôi với ánh mắt thân thương và trìu mến nhưng tôi biết trong ánh mắt ấy có pha lẫn chút buồn phiền, một chút nuối tiếc. Cô bảo: “Thôi, không sao đâu con. Dù gì thì chuyện cũng đã lỡ rồi và con cũng không cố ý. Cô sẽ không trách con đâu.”. Nghe xong câu nói ấy của cô, tôi không còn thấy sợ nữa nhưng thay vào đó tôi càng cảm thấy có lỗi và muốn làm điều gì đó cho cô vui. Qua ngày tôi nhận lỗi với cô, khuôn mặt thanh tao và vui vẻ như ngày nào dường như đã không còn mà hàng ngày tôi thấy trên đôi môi đỏ hồng của cô. Tôi càng cảm thấy có lỗi và ân hận vì việc tôi đã mắc phải. Ngày qua ngày, tôi không được nhìn thấy nụ cười của cô, tôi nói với cô: “Cô ơi, chuyện con làm hư cây bút máy của cô hôm trước, con hứa sẽ cố gắng sửa sai ạ. Con không muốn chính bản thân con đã cướp mất nụ cười của cô! Kì thi “Viết chữ đẹp” vừa qua con đã rất cố gắng ạ. Con sẽ đạt giải cao cho cô vui. Con xin lỗi cô. Cô đừng buồn cô ạ”. Sau đó, cô Ánh cười với tôi và tôi rất vui vì đã thấy nụ cười của cô. Cô bảo: “Thôi, chuyện đó đã qua rồi con, sẽ không sao đâu. Con ra chơi vói các bạn đi. Cô sẽ chờ và tin vào kết quả thi viết chữ của con”. Tôi đáp: “Vâng ạ, con chào cô”.
về sau, mọi chuyện như bình thường. Tôi thấy gần gũi và thương cô nhiều hơn. Đây là lỗi mà tôi mắc phải và là bài học đầu tiên mà tôi phải rút kinh nghiệm cho mình. Nhưng trên hơn cả nó còn là kỉ niệm giữa hai cô trò chúng tôi.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 7: Kể lại một việc em làm khiến bố mẹ vui lòng tại đây.
Tags:Đề 6 · Một lần mắc khuyết điểm · Văn chọn lọc 9
|
Topic 6 – Tell about a time when you made a mistake that made your teacher sad – Developing skills in writing selective essays 9
Instruct
Topic 6 – One time I made a mistake
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
– You need to determine, what was that weakness (getting a bad grade made the teacher sad; being disruptive, swearing, hitting a friend, not studying seriously,...)?
– What are the feelings and emotions of the teacher when discovering that your child's shortcomings cause serious consequences?
– What were your moods and emotions at that time?
– How did you struggle mentally to be able to express your apology and promise not to repeat the mistake verbally directly in front of your teacher?
DETAILED OUTLINE
Take, for example, correcting points in the teacher's score
I. OPEN LESSON
As a student, everyone must have made mistakes that made their teachers sad. The time I made a mistake was when I corrected the grade in the teacher's grade book.
II. BODY OF ARTICLE
1. Circumstances
That time, I got a bad grade in Math lesson 1 period. This is an important lesson and I only get 3 points.
I was humiliated in front of my friends because of that score, so I had the bad idea of finding ways to change that score.
2. During recess
During recess, everyone plays. As for me, I sat in class sad because of that 3-point score.
The teacher also came to where I sat to comfort me to try harder next time.
I thank you for that. The teacher told me to take care of her belongings on the desk because she had some business at the school.
When I saw her grade book on the table, I suddenly had the bad idea of changing my grades.
If my parents found out about that 3-point child, they would definitely be beaten with a rattan whip.
But doing so is not good at all!
I thought and hesitated for a while. So I decided, I will go up and correct my score.
I looked around me frantically to see if there was anyone there.
I ran up to the table, flipped through the notebook to my class's makeup page. I used a blue pen to paint the digits from 3 to 8.
After that, I carefully put the notebook back as before. But I didn't expect that when I corrected my grade, my class monitor would see it.
You run to see her to report the incident. But she said nothing.
Go back to class, clean up your things and thank me for taking care of them.
I was elated because I thought things had gone smoothly.
But the next morning, during recess, the supervisor called the homeroom teacher on loudspeaker (the math teacher is also my homeroom teacher).
When I went up to meet her, I caught her suspicious look. She asked me: "Did you correct the points in my book?". I remained silent, bowing my head.
“I understand that if you get bad grades, you will be very sad and worried. But doing so is wrong, do you understand? She was very sad about that. This time, I won't prosecute you for now, but you have to fix it. Don't do it again!”.
I said "yes" gently and said "I'm truly sorry, I will never do that again".
Not daring to raise my head high, so much shame and remorse welled up in my heart.
III. END
That was a profound flaw in my life.
I promised myself that I would try to be more obedient and study better so as not to make my teachers and parents sad.
REFERENCE ESSAY
In life, everyone certainly has mistakes and shortcomings. Me too! I made a mistake that I will never forget, it seems to be imprinted in my memory when I was a second grader at Pham Hong Thai school.
In the past, I remember, I once made Ms. Anh sad because she damaged a fountain pen that she treasured and kept carefully for many years because it was a keepsake of her and her deceased mother. very long. At that time, I dropped it but was afraid she would yell and find out. She let me borrow it to take the "Beautiful handwriting" exam. After the exam day and the following days, she asked me: "Ngan! Where is the fountain pen I lent you?" I was scared and hesitated, not knowing how to answer, and in the end I admitted my mistake. I told her: “I'm sorry, miss! I dropped it the other day and can't use it anymore. I'm sorry and hope you forgive me. Because I was afraid of her yelling and being sad, I didn't dare to talk to her these past few days." She looked at me with loving and affectionate eyes, but I knew that her eyes were mixed with a bit of sadness and a bit of regret. She said: “Okay, it's okay. Anyway, it happened and I didn't mean it. I won't blame you." After hearing her words, I no longer felt scared but instead I felt even more guilty and wanted to do something to make her happy. As the day passed, I admitted my mistake to her. The elegant and cheerful face seemed to no longer exist that I saw every day on her red lips. I feel even more guilty and regretful for what I did. Day after day, I didn't get to see her smile. I told her: "Miss, about what I broke your fountain pen the other day, I promise to try to make it right." I don't want to steal your smile myself! In the recent "Beautiful Handwriting" exam, I tried very hard. I will win a high prize to make you happy. I'm sorry. Don't be sad, ma'am." Then, Ms. Anh smiled at me and I was happy to see her smile. She said: "Okay, that's over, it'll be okay. Go play with your friends. I will wait and believe in the results of your writing test." I replied: "Yes, hello."
After that, everything was as usual. I feel closer and love her more. This is the mistake I made and the first lesson I had to learn from it. But above all, it is also a memory between the two of us.
(Students' work)
>> See more Topic 7: Tell me about something you did to make your parents happy here.
Tags: Topic 6 · One mistake · Selected literature 9
|
Đề 6 – Đề kiểm tra học kì II – Tiếng Việt 4
Hướng dẫn
I.Em đọc thầm bài Vườn vải Côn Sơn.
Vườn vải Côn Sơn
Lên núi Côn Sơn, chúng ta nhìn thấy một cảnh đẹp mới của miền di tích lịch sử này: “Vườn quả Bác Hồ”. Mùa này, vải thiều được mưa xuân đang rộ hoa. Những cây vải thiều, trông trên núi xuống, giống như những mâm xôi. Nhìn từ trên cao xuống, thấy những mâm xôi màu xanh ấy nở đầy hoa và điểm những lá non mới bật lên sau những trận mưa xuân đầu năm.
Hễ có chim tu hú về kêu là cùng lúc thời kì vải thiều ra mã. Thời kì ấy, quả vải bắt đầu chín, cứ đỏ dần từ cuống, cho đến toàn quả vải. Vườn vải lúc ấy đỏ ối, đỏ tím, đủ các sắc độ của màu đỏ… nói không tả hết vẻ đẹp của ba nghìn cây cùng đỏ chín dưới nắng tháng năm.
Mùa vải ra hoa, từ mờ sáng đã có hàng ngàn vạn con ong bay đến vườn vải. Hương vải lan tỏa lâng lâng thấm vào hồn người. Thật kì lạ, ở đầu những chùm hoa vải, có nhiều giọt nước long lanh, tưởng như đấy là những giọt nước mưa. Mà đúng buổi đêm có chút mưa bụi thật. Nhưng chính đây là những giọt nước đã ngọt chất mật của vải rồi… Ta đưa lưỡi nhấp thử, thấy những giọt ấy ngọt và thơm, thơm mùi vị của quả vải thiều đang làm mật…
(Theo Quang Dũng, về Côn Sơn)
II.Làm bài tập
Khoanh vào ô trống trước ý trả lời đúng.
1.“Vườn quả Bác Hồ” ở núi Côn Sơn là một cảnh đẹp mới của cái gì?
A. Miền di tích lịch sử Côn Sơn.
B. Một danh lam thắng cảnh Côn Sơn.
C.Khu bảo tồn di sản thiên nhiên Côn Sơn,
2.Vì sao nói không thể tả hết vẻ đẹp của ba nghìn cây cùng đỏ chín dưới nắng tháng năm?
A. Vì từ mờ sáng đã có hàng ngàn, hàng vạn con ong bay lượn trên các quả vải đang đỏ dần.
B.Vì chim tu hú bay về kêu vang khi vườn vải bắt đầu chín đỏ.
C.Vì các quả vải lúc ấy đỏ ối, đỏ tím… đủ các sắc độ của màu đỏ.
3.Vải thiều trồng ở Côn Sơn được miêu tả đặc biệt như thế nào?
A.Vườn vải ra hoa giống như những mâm xôi màu xanh, quả vải bắt đầu chín, cứ đỏ dần dần từ cuống.
C.Cả 2 ý trên đều đúng.
4.Cụm từ nhìn từ trên cao xuống trong câu “Nhìn từ trên cao xuống, thấy những mâm xôi màu xanh ấy nở đầy hoa.” là gì?
A.trạng ngữ chỉ thời gian.
B. trạng ngữ chỉ nơi chốn.
C.trạng ngữ chỉ nguyên nhân.
5.Chuyển câu kể sau thành câu cảm:
“Những cây vải thiều, trông trên núi xuống, giống như những mâm xôi”.
Câu cảm:………………………………..
6.Xếp các từ có tiếng “quan” vào cùng nhóm nghĩa:
a.“quan” có nghĩa là “quan lại”.
b.“quan” có nghĩa là “nhìn, xem”.
c.“quan” có nghĩa là “liên hệ, gắn bó”.
(quan sát, quan võ, quan tâm, chủ quan, lạc quan, sĩ quan, khách quan, quan hệ, tham quan, quan quân).
a………………………………………………………………………………
b…………………………………………………………………………………
c…………………………………………………………………………………
III.Tập làm văn
Đề bài: Tả một con vật em thấy trên truyền hình.
Bài làm
>>XEM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TẠI ĐÂY
|
Topic 6 – Semester II test – Vietnamese 4
Instruct
I.I silently read the article Con Son Lychee Garden.
Con Son lychee garden
Going up Con Son mountain, we see a new beautiful scene of this historical relic region: "Uncle Ho's fruit garden". This season, lychee is in full bloom with spring rain. The lychee trees, looking down from the mountains, look like raspberries. Looking down from above, we see those blue raspberries blooming with flowers and dotted with new young leaves emerging after the first spring rains of the year.
Whenever there is a howling bird calling, it is the same time that the lychee blooms. During that period, the lychee fruit begins to ripen, gradually reddening from the stem, until the whole fruit. The lychee garden at that time was red, purple, all shades of red... words cannot describe the beauty of three thousand red trees ripening under the May sun.
In the lychee flowering season, from dawn, thousands of bees fly to the lychee garden. The scent of lychee spreads and penetrates into the soul. Strangely enough, at the top of the lychee flower clusters, there were many glittering drops of water, as if they were raindrops. But at night there was a bit of dust and rain. But these are the drops of water that have already sweetened the honey of the lychee... I took a sip of my tongue and found that the drops were sweet and fragrant, fragrant with the taste of the lychee fruit making honey...
(According to Quang Dung, about Con Son)
II. Do the exercises
Circle the blank box next to the correct answer.
1. "Uncle Ho's fruit garden" in Con Son mountain is a new beautiful scene of what?
A. Con Son historical relic area.
B. A scenic spot in Con Son.
C. Con Son Natural Heritage Reserve,
2.Why can't words describe the beauty of three thousand red trees ripening under the May sun?
A. Because since early morning, there have been thousands, tens of thousands of bees flying above the gradually red lychees.
B. Because the howler bird flies home and makes a loud noise when the lychee garden begins to ripen.
C. Because the lychees at that time were red, purple... all shades of red.
3. How is lychee grown in Con Son specifically described?
A. The lychee garden blooms like green raspberries. The lychee fruit begins to ripen, gradually reddening from the stem.
C. Both of the above ideas are correct.
4.The phrase looking down from above in the sentence "Looking down from above, seeing those blue raspberries blooming with flowers." What is that?
A. adverbial of time.
B. adverbs of place.
C.adverbial indicating cause.
5.Change the following sentence into an emotional sentence:
"The lychee trees, looking down from the mountains, look like raspberries."
Sentence:………………………………..
6. Put words with the sound "quan" into the same meaning group:
a. "quan" means "mandarin".
b. "quan" means "to look, to see".
c. "quan" means "contact, attachment".
(observer, military officer, interested, subjective, optimistic, officer, objective, relationship, sightseeing, military officer).
a……………………………………………………………………
b……………………………………………………………………….
c………………………………………………………………………………………………………………
III.Practice writing
Topic: Describe an animal you see on television.
Assignment
>>SEE ANALYSIS GUIDE HERE
|
Đề 60 – Về vấn đề ” Vì cái gì ta sống trên đời?” – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Vì cái gì ta sống trên đời?
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí (Vì cái gì ta sống trên đời)
– Giải thích khái niệm mục đích sống có nghĩa là gì?
– Đưa ra các biểu hiện của một con người khi sống có mục đích, có lí tưởng.
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người sống; mà không có mục đích sống rõ ràng, có lí tưởng thì con người ấy sẽ là một gánh nặng như thế nào đối với gia đình, xã hội?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Trong cuộc đời của mỗi con người, chúng ta tồn tại được là nhờ vào mục đích sống của chúng ta. Có mục tiêu của cuộc đời, dường như chúng ta sống có ý nghĩa hơn rất nhiều. Nhiều người trong xã hội thường hay có suy nghĩ “Vì cái gì ta sống trên đời?”.
Vậy câu hỏi trên có ý nghĩa như thế nào?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Mục đích sống có ý nghĩa là gì? => Nghĩa là một cái đích đến của con người trên bước đường tồn tại trong cuộc đời của người đó. Nó hướng con người luôn phấn đấu, nỗ lực để vươn lên.
+ Luôn luôn phấn đấu vì một mục tiêu mà mình đã đề ra. Từ đó phát huy được những năng lực tiềm ẩn trong chúng ta.
+ Khi đã có mục đích sống, con người sẽ dần dần hoàn thiện được nhân cách, đạo đức của bản thân mình.
+ Khi họ đã đạt được mục tiêu của cuộc đời mình thì họ sẽ tiếp tục đặt ra những mục tiêu mới mẻ hơn, lớn lao hơn.
+ Dẫn chứng: Bác Hồ vĩ đại với mục đích sống của mình đó là tìm ra con đường giải phóng đất nước.
c. Bàn luận, mở rộng vấn đề
+ Trong cuộc sống vẫn còn tồn tại không ít kẻ sống không có mục đích. Cuộc đời họ bỗng trở nên vô vị, nhàm chán. Cuộc sống dường như là sự lay lắt, vật vờ.
+ Những kẻ sống không mục đích sẽ là gánh nặng của xã hội và gia đình.
+ Mặt khác có những kẻ khi đã hoàn thành một mục tiêu của cuộc đời đã vội vàng tự đắc không tiếp tục phấn đấu vươn lên, chỉ biết dặm chân tại chỗ, chắc chắn dạng người này sẽ luôn bị tụt lại phía sau của xã hội.
III. KẾT BÀI
– Nói chung, trong cuộc sống của mỗi con người, chúng ta cần phải đặt ra cho mình một mục đích sống cao đẹp.
– Riêng em còn là học sinh trên ghế nhà trường cũng sẽ tự đặt ra cho mình một mục tiêu cuộc sống để từ đó mà phấn đấu vươn lên.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống của mỗi con người thì ai cũng cần phải có một lí tưởng, một mục đích sống của riêng mình. Vì thế mà có câu nói cho rằng: “Vì cái gì mà ta sống trên đời”. Vậy ta hiểu như thế nào về câu nói trên?
Tóm lại, qua câu nói trên, mọi người cần tìm một mục đích sống của riêng mình để góp phần phát triển xã hội và đất nước thêm giàu mạnh.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 61: Suy nghĩ của em về nhận định: ” Sự học không có quê hương nhưng người có học vấn phải có Tổ quốc ” tại đây.
Tags:Đề 60 · Văn chọn lọc 9 · Vì cái gì ta sống trên đời?
|
Topic 60 - About the issue "Why do we live in this world?" – Develop skills in writing selective essays 9
Instruct
Why do we live in this world?
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what kind of topic this is: moral ideology (Why do we live in this world)
– Explain what the concept of life purpose means?
– Show the manifestations of a person living with purpose and ideals.
– Discuss and expand the issue: when a person lives; Without a clear and ideal life purpose, what kind of burden will that person be to his family and society?
– What are your thoughts on the above concept? (is good or not good)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– In the life of every human being, we exist thanks to our life purpose. Having a goal in life makes our lives seem much more meaningful. Many people in society often think "Why do we live in this world?".
So what does the above question mean?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What is the meaningful purpose of life? => It means a person's destination on the path of existence in that person's life. It directs people to always strive and strive to improve.
+ Always strive for a goal that you have set. From there, we can develop our hidden abilities.
+ When people have a purpose in life, they will gradually perfect their personality and morality.
+ When they have achieved their life goals, they will continue to set new, bigger goals.
+ Evidence: Great Uncle Ho's purpose in life was to find a way to liberate the country.
c. Discuss and expand the issue
+ In life, there still exist many people who live without purpose. Their lives suddenly become tasteless and boring. Life seems to be a struggle and a struggle.
+ Those who live aimlessly will be a burden to society and their families.
+ On the other hand, there are people who, when they have accomplished a goal in life, quickly become complacent and do not continue to strive to rise, only know how to stagnate in place. Surely this type of person will always fall behind in society. festival.
III. END
– In general, in the life of every human being, we need to set for ourselves a noble life purpose.
– If you are still a student at school, you will also set yourself a life goal from which to strive.
REFERENCE ESSAY
In every person's life, everyone needs to have an ideal and a life purpose of their own. That's why there is a saying: "For what do we live in this world?" So how do we understand the above statement?
In short, through the above statement, everyone needs to find their own purpose in life to contribute to the development of society and the country to become richer and stronger.
(Students' work)
>> See more Topic 61: My thoughts on the statement: "Education has no homeland but educated people must have a homeland" here.
Tags: Topic 60 · Selected text 9 · Why do we live in this world?
|
Đề 61 – Về nhận định “Sự học không có quê hương nhưng người có học vấn phải có Tổ quốc” – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về nhận định về việc học
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: hiện tượng đời sống thông qua một câu nhận định (Sự học không có quê hương nhưng người có học vấn phải có Tổ quốc)
– Giải thích khái niệm sự học có nghĩa là gì?
– Giải thích người có học vấn là người như thế nào?
– Giải thích hiện tượng: Việc học không chỉ gói gọn trong đất nước của mình mà nên mở rộng ra bên ngoài thế giới nhưng người có học luôn ghi nhớ về quê hương, đất nước của mình, đem những kiến thức học được phục vụ cho Tổ quốc.
– Nguyên nhân nào dẫn đến: một số người khi đã tiếp thu được kiến thức của nhân loại và ở lại các đất nước đó để làm việc và sinh sống, chúng ta cần phải hạn chế tình trạng này như thế nào?
– Đưa ra biện pháp khắc phục: đưa ra các chính sách tốt để thu hút nhân tài, tạo điều kiện tốt để họ phát huy được năng lực nghiên cứu của mình…
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Trong quá trình chúng ta tiếp nhận tri thức của nhân loại, chúng ta nên có sự mở rộng kiến thức ra bên ngoài. Sau này thành tài ta sẽ dùng những kiến thức đó để xây dựng nước nhà ngày càng phồn vinh.
Trích dẫn câu nhận định.
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Sự học có ý nghĩa là gì? => Nghĩa là việc chúng ta tiếp thu kiến thức của nhân loại bằng nhiều con đường khác nhau. Có thể do người khác truyền lại hoặc do ta tự tim hiểu.
– Người có học vấn phải có Tổ quốc có nghĩa là gì? => Nghĩa là dù chúng ta mở rộng ra kiến thức bên ngoài như thế nào thì trong tim ta lúc nào cũng luôn nhớ đến cội nguồn, quê hương, Tổ quốc của mình. Bản thân phải biết đem tài năng mà chúng ta học hỏi được để phục vụ, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.
– Một lời khuyên đúng đắn: Dù ta tài giỏi nhờ vào việc tiếp thu kiến thức thế giới nhưng cần phải biết sử dụng tài năng, kiến thức ấy vào việc xây dựng đất nước.
b. Nguyên nhân nào dẫn đến việc một số người khi đã tiếp thu được kiến thức của nhân loại đã ở lại các đất nước đó để làm việc và sinh sống?
+ Đó là do chính sách ưu đãi nhân tài của các đất nước đó đã thu hút được nguồn nhân tài mà họ có được.
+ Điều kiện tại các đất nước này giúp cho những người có kiến thức uyên bác để phát huy, không chỉ vậy, những nhân tài này còn được ưu đãi những điều khác như: chốn ăn, chốn ở, vật chất,…
c. Làm thế nào để khắc phục được tình trạng này?
+ Nhà nước ta cần phải có những chính sách thu hút nhân tài.
+ Tạo mọi điều kiện để họ được phát huy khả năng nghiên cứu của mình.
III. KẾT BÀI
– Nói chung, kiến thức nhân loại là vô bờ bến, ta cần phải luôn ý thức tự trau dồi, học hỏi thêm từ nhiều nguồn khác nhau.
– Khi đã học hỏi được những điều hay, chúng ta hãy cống hiến hết mình để Tô quốc, quê hương của mình ngày càng giàu đẹp và phát triển.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống, mỗi con người dù đang học tập ờ bất cứ nơi nào, hay dù có xa xôi như thể nào đi chăng nữa đều có một quê hương, một tố quốc để nhớ, để làm chỗ dựa tinh thần vững chắc. Vì vậy có câu nói cho rằng “Sự học không có quê hương nhưng người có học vấn phải có Tổ quốc”. Vậy qua câu nói trên ta rút ra được những điều gì?
Câu nói trên quả là một lời nhận định đúng đắn. “Sự học không có quê hương” là bởi vì kiến thức là vô bờ, không có giới hạn, chúng ta không thể nào học được hết tất cả kiến thức của nhân loại do vậy ta phải biết mở rộng việc học ra bên ngoài thế giới, “nhưng người có học vấn phải có Tổ quốc” ý muốn nhấn mạnh những con người dù học rộng và xa xôi phải luôn nhớ về quê hương, đất nước để hướng về. Đó là nơi mọi người sinh ra và lớn lên, là nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi người. Câu nói trên ý muốn nhắn nhủ con người dù đi xa vẫn phải nhớ về quê hương về tổ quốc vì đây là thước đo cho nhân cách của mỗi con người.
Quả đúng như vậy, tổ quốc, quê hương là bệ phóng để con người vươn tới bầu trời của kiến thức, giúp cho con người bay lượn trên không gian rộng lớn đó; vì tổ quốc, quê hương đã có công nuôi dạy ta, là nơi chứa đựng mỗi con người, giúp ta lớn lên nên ta phải luôn nhớ về Tổ quốc; vì con người và đất nước là một phần không thể tách rời nhau được, đất nước quê hương đã có sẵn trong máu thịt của mỗi chúng ta. Để thể hiện tình yêu quê hương, không cần chúng ta phải đầu tư những dự án bạc tỷ vào quê hương, đất nước làm những điều lớn lao mà thật ra chỉ là những việc giản dị, đơn sơ. Yêu quê hương là luôn nhớ về quê hương, luôn hướng về nó cho dù có ở nơi xa xôi nào đi nữa. Tình yêu quê hương còn là việc nhớ về những truyền thống của dân tộc ta ở quê hương. Những người đi hải ngoại vẫn luôn nhớ về truyền thống của dân tộc ta đó là việc gói bánh chưng, bánh tét mỗi lần Tết cổ truyền đến. Cũng có rất nhiều người con đất Việt luôn hướng về đất nước. Tiêu biểu mới đây nhất là vụ việc Trung Quốc đặt giàn khoan ở vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, tất cả những người Việt Nam trên toàn thế giới đều hướng về biển đảo và phản đối Trung Quốc ở khắp mọi nơi. Điều đó đã cho thấy tình yêu đất nước sâu đậm của người dân Việt Nam.
Tóm lại, câu nói trên dạy ta phải biết yêu thương và hướng về quê hương không được một phút nào quên. Và bản thân tôi cũng phải luôn yêu quê hương và chung tay góp phần xây dựng quê hương và đất nước ngày càng phát triển.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 62: Suy nghĩ của em về vai trò của quê hương đối với đời sống tâm hồn của mỗi người tại đây.
Tags:Đề 61 · Văn chọn lọc 9
|
Topic 61 - Regarding the statement "Education has no homeland, but educated people must have a homeland" - Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Think about your statements about learning
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what kind of topic this is: a life phenomenon through a statement (Education has no homeland, but educated people must have a homeland).
– Explain what the concept of learning means?
– Explain what kind of person an educated person is?
– Explanation of the phenomenon: Learning should not be confined to one's own country but should be expanded to the outside world, but educated people always remember their homeland and country, and bring the knowledge they have learned to serve. for the Fatherland.
– What causes: some people have acquired human knowledge and stayed in those countries to work and live, how do we need to limit this situation?
– Offer remedial measures: offer good policies to attract talented people, create good conditions for them to develop their research capacity...
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– In the process of receiving human knowledge, we should expand our knowledge outward. When we become talented, we will use that knowledge to build an increasingly prosperous country.
Quote statement.
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What is meaningful learning? => This means that we acquire human knowledge in many different ways. It may be passed down by others or we understand it ourselves.
– What does it mean that an educated person must have a Fatherland? => Meaning that no matter how we expand our knowledge outside, in our hearts we always remember our roots, our homeland, our Fatherland. We must know how to use the talents we learn to serve and build a stronger and richer country.
– A sound advice: Although we are talented thanks to absorbing world knowledge, we need to know how to use that talent and knowledge to build the country.
b. What causes some people, after acquiring human knowledge, to stay in those countries to work and live?
+ That is because the preferential talent policies of those countries have attracted the talented resources they have.
+ Conditions in these countries help people with profound knowledge to develop, not only that, these talents are also given other incentives such as: food, accommodation, material,...
c. How to fix this situation?
+ Our state needs to have policies to attract talented people.
+ Create all conditions for them to develop their research abilities.
III. END
– In general, human knowledge is boundless, we need to always consciously cultivate ourselves and learn more from many different sources.
– Once we have learned good things, let us devote ourselves to making our country, our homeland, increasingly rich, beautiful and developed.
REFERENCE ESSAY
In life, every person, no matter where they are studying, or no matter how far away they are, has a homeland, a country to remember, to serve as a solid spiritual support. Therefore, there is a saying that "Education has no homeland, but educated people must have a homeland." So what can we learn from the above statement?
The above statement is indeed a correct statement. "Learning has no homeland" is because knowledge is boundless, has no limits, we cannot learn all of humanity's knowledge, so we must know how to expand our learning to the outside world. world, "but those who have education must have a homeland" wants to emphasize that people, even though they are widely educated and far away, must always remember their homeland and country to look forward to. It is where everyone was born and raised, where each person's umbilical cord is buried. The above saying wants to remind people that even when they are far away, they must still remember their homeland because this is a measure of each person's personality.
That's right, the homeland is a launching pad for people to reach the sky of knowledge, helping people fly in that vast space; Because our country and homeland have raised us, are the places that contain every human being, and help us grow up, we must always remember our Fatherland; Because people and country are inseparable parts of each other, the homeland is already in the flesh and blood of each of us. To show love for the homeland, we do not need to invest billions in projects in the homeland, the country does great things that are actually just simple, simple things. Loving one's homeland means always remembering one's homeland, always looking towards it no matter how far away it is. Love for the homeland also means remembering the traditions of our people in the homeland. People who go abroad still remember our nation's tradition of wrapping banh chung and banh tet every time the traditional New Year comes. There are also many Vietnamese people who always look towards their country. The most recent example is the case of China placing an oil rig in our country's exclusive economic zone. All Vietnamese people around the world turned to the islands and protested against China everywhere. That shows the deep love for the country of the Vietnamese people.
In short, the above quote teaches us to love and look forward to our homeland without forgetting it for a moment. And I myself must always love my homeland and join hands to contribute to building my homeland and the increasingly developing country.
(Students' work)
>> See more Topic 62: My thoughts on the role of homeland in each person's spiritual life here.
Tags: Topic 61 · Selected literature 9
|
Đề 63 – Bàn luận về mối quan hệ giữa học và hành – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Mối quan hệ giữa học và hành
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí (Học và Hành)
– Giải thích hai khái niệm Học và Hành có nghĩa là gì?
– Đưa ra các biểu hiện của hai khái niệm trên được thể hiện như thế nào trong cuộc sống?
– Mối quan hệ giữa hai khái niệm Học và Hành?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi chúng ta học lí thuyết không thôi thì có tốt không? Hay nếu chúng ta chỉ thực hành không thôi mà không áp dụng lí thuyết thì có giải quyết được công việc hay không?
– Cảm nghĩ của em về hai khái niệm trên? (là có ích hay không có ích)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Trong công việc học tập của một con người, thành công hay không là nhờ vào khả năng biết kết hợp giữa lí thuyết và thực hành.
– Vậy thì theo em, mối quan hệ giữa học và hành là gì?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Học có ý nghĩa là gì? => Học có nghĩa là chúng ta tiếp thu kiến thức của nhân loại
– Hành có ý nghĩa là gì? => Hành có nghĩa là chúng ta dựa trên phần lí thuyết để thực hiện bài học lí thuyết ấy ngày càng sống động để việc tiếp thu kiến thức của chúng ta được tốt hơn.
+ Nếu một người chỉ chăm chăm học lí thuyết vậy thì khi đụng tới thực tế của bài học thì ta khó mà thực hiện tốt được. Bởi vì ta chưa thực hành qua mà những kiến thức mà chúng ta tiếp thu chỉ đơn thuần là phần lí thuyết suông mà thôi.
+ Còn nếu một người chỉ lo thực hành, nhưng việc thực hành ấy không dựa trên một cơ sở lí thuyết nào thì chắc chắn việc thực hành ấy cũng không đạt được thành công tốt đẹp.
+ Vì vậy, để việc học tập đạt kết quả tối ưu, chúng ta cần phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí thuyết và thực hành.
+ Dẫn chứng: Trong học tập, khi học tập bộ môn Sinh, chúng ta không chỉ học lí thuyết đơn thuần về cấu tạo của một loài vật nào đó, mà chúng ta còn hay được thực hành mổ thí nghiệm trên con vật để tìm hiểu rõ hơn về loài vật đó. Hay trong bộ môn Hoá học, nếu như chúng ta chỉ biết lí thuyết đơn thuần các chất hoá học thông qua các kí hiệu thì chúng ta sẽ không hiểu rõ sự tuyệt vời của sự kết họp các chất hoá học với nhau nếu như chúng ta không thực hành thông qua các bài thí nghiệm,…
III. KẾT BÀI
– Nói tóm lại, học và hành có mối quan hệ với nhau hết sức chặt chẽ.
– Riêng em, em sẽ luôn kết hợp cả hai cách học này để việc học tập của mình đạt được kết quả tốt hơn.
Từ xưa đến nay, không một quốc gia nào thờ ơ với giáo dục. Nhiều thời đại rạng danh biết bao tên tuổi của các bậc kì tài. La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là một trong số đó. Con người “Thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu” này đã dâng lên vua Quang Trung một bài tấu bày tỏ ý kiến nghị về việc chấn chỉnh sự học của quốc gia vì sự hưng thịnh của đất nước. Đoạn trích “Bàn luận về phép học” đã thể hiện rõ quan niệm cùa ông về mục đích của việc học và cách học. “Theo điều học mà làm”, ngày nay chúng ta gọi đó là học gắn với hành. Vậy học và hành có mối quan hệ như thế nào?
Quả đủng như vậy, học thì luôn đi chung với hành. Vậy học là gì? Hành là gì? Tại sao học phải gắn liền với hành? Trước hết chúng ta cần biết, học là thu nhận kiến thức và kĩ năng mọi mặt từ trong sách vở và thực tiễn. Còn hành ở đây là thực hành, là áp dụng những tri thức đã học được vào công việc thuộc ngành nghề cụ thể. Học và hành là hai mặt của vấn đề học tập. Đó là học để biết và để làm. Mục đích chân chính của việc học là có đủ tài, đức để làm việc, khẳng định bản thân và cống hiến cho đất nước. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hiệp quốc (UNESCO) xác định nhiệm vụ học tập trong thế kỉ XXI là “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình”. Trong quan điểm trên, “Học để biết” gắn liền với “Học để làm”. Học để biết là nắm những công cụ dễ hiểu. Học để làm là có những khả năng hoạt động sáng tạo tác động vào môi trường sống của mình. Hai mặt này gắn bó với nhau, như chúng ta thường nói: “Học” đi đôi với “Hành”.
Thời đại hiện nay, học càng phải gắn liền với hành, tức là học để đáp ứng yêu cầu của đời sống. Do đó, học không chỉ là chủ động tiếp nhận kiến thức, mà còn thành thạo về kĩ năng giải quyết những vấn đề khoa học và thực tiễn, đồng thời học để làm người hữu ích, chung sống với mọi người.
Nói tóm lại, học phải gắn liền với hành. Học mà không hành thì sẽ không biết vận dụng nhũng kiến thức đã học của mình vào việc gì, còn hành mà không học sẽ không có những kiến thức để thực hành. Vì thế, học phải đi đôi với hành.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 64: Trình bày quan niệm của em về vấn đề thế nào là sống có ích tại đây.
Tags:Đề 63 · Học và hành · Văn chọn lọc 9
|
Topic 63 – Discussing the relationship between learning and practice – Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
The relationship between learning and practice
ASSIGNMENT INSTRUCTIONS
* Key content: Learners need to pay attention to the following main ideas:
First of all, you need to determine what type of topic this is: moral ideology (Study and Practice).
– Explain what the two concepts Learning and Practicing mean?
– Give the manifestations of how the above two concepts are expressed in life?
– What is the relationship between the two concepts of Study and Practice?
– Discuss and expand the issue: Is it good when we only learn theory? Or if we just practice without applying theory, will we be able to solve the job?
– What are your thoughts on the above two concepts? (is it useful or not useful)
– What lessons have you learned for yourself?
DETAILED OUTLINE
I. OPEN LESSON
– In a person's academic work, success or not depends on the ability to combine theory and practice.
– So in your opinion, what is the relationship between learning and practicing?
II. BODY OF ARTICLE
a. Explanation: (Ask question: what is it?)
– What is meaningful learning? => Learning means we absorb human knowledge
– What does onion mean? => Practicing means we rely on the theory to make that theoretical lesson more and more vivid so that our knowledge acquisition is better.
+ If a person only focuses on learning theory, then when it comes to the reality of the lesson, it will be difficult to do well. Because we have not practiced it yet, the knowledge we have acquired is merely theoretical.
+ If a person only focuses on practice, but that practice is not based on any theoretical basis, then that practice will certainly not achieve good success.
+ Therefore, for learning to achieve optimal results, we need to have a smooth combination of theory and practice.
+ Evidence: In studying, when studying Biology, we not only learn simple theory about the structure of a certain animal, but we also often practice performing experiments on animals to find understand more about that animal. Or in Chemistry, if we only know the simple theory of chemical substances through symbols, we will not understand the wonderfulness of combining chemicals together if we No practice through experiments, etc.
III. END
– In short, learning and practicing have a very close relationship with each other.
– As for me, I will always combine both of these learning methods to achieve better results in my studying.
From past to present, no country has been indifferent to education. In many eras, many names of geniuses have been famous. La Son Phu Tu Nguyen Thiep is one of them. This man of "bright genius, wide learning and deep understanding" presented a song to King Quang Trung expressing his suggestions on correcting the nation's education for the prosperity of the country. The excerpt "Discussion on learning" clearly shows his concept of the purpose of learning and how to learn. "According to what you learn and do", today we call it learning associated with practice. So how are learning and practice related?
That's true, learning always goes together with practice. So what is learning? What are onions? Why must learning be associated with practice? First of all, we need to know that learning is acquiring knowledge and skills in all aspects from books and practice. And practice here is practice, is to apply the knowledge learned to work in a specific profession. Learning and practicing are two sides of the problem of learning. It is learning to know and to do. The true purpose of studying is to have enough talent and virtue to work, assert yourself and contribute to the country. The United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO) defines the learning task in the 21st century as "Learning to know, learning to do, learning to live together, learning to assert oneself". In the above perspective, "Learning to know" is closely linked to "Learning to do". Learning to know means mastering tools that are easy to understand. Learning to do means having creative activities that impact your living environment. These two aspects are intertwined, as we often say: "Learning" goes hand in hand with "Practice".
In the current era, learning must be closely linked to practice, that is, learning to meet the requirements of life. Therefore, learning is not only about actively receiving knowledge, but also about mastering the skills to solve scientific and practical problems, and at the same time learning to be a useful person and live with everyone.
In short, learning must be associated with practice. If you study without practicing, you won't know how to apply the knowledge you've learned, and if you practice without studying, you won't have the knowledge to practice. Therefore, learning must go hand in hand with practice.
(Students' work)
>> See more Topic 64: Present your concept of what a useful life is here.
Tags: Topic 63 · Study and practice · Selected literature 9
|
Đề 64 – Trình bày quan niệm của em về vấn đề thế nào là sống có ích – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Thế nào là sống có ích
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí (Sống có ích)
– Giải thích khái niệm sống có ích có nghĩa là gì?
– Đưa ra các biểu hiện của khái niệm trên được thể hiện như thế nào trong cuộc sống?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người sống mà không có mục đích, không có lí tưởng sống đúng đắn thì con người ấy có phải đang là gánh nặng của gia đình và xã hội không?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là có ích hay không có ích, là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, việc sống sao cho có ý nghĩa là một trong những mục tiêu của cuộc đời mỗi người.
– Vậy theo em, thế nào là sống có ích?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Sống có ích có ý nghĩa là gì? => Nghĩa là bản thân ta sống sao cho có ý nghĩa, sống có mục tiêu, mục đích rõ ràng.
b. Tại sao chúng ta phải sống có ích?
+ Bởi vì nó là biểu hiện của phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta cần có.
+ Chúng ta sống có ích vì khi chúng ta sống có ích chúng ta có thể tìm được mục đích của mình và chịu trách nhiệm những gì do chính mình gây ra.
c. Bàn luận, mở rộng vấn đề
+ Trong cuộc sống vẫn còn rất nhiều người sống không có mục đích, mục tiêu cuộc đời.
+ Những kẻ này chỉ biết sống dựa dẫm vào người khác.
+ Bản thân họ cũng không biết sống có ích cho cuộc đời là như thế nào.
+ Dẫn chứng: Tham gia các hoạt động tình nguyện, mùa hè xanh,… giúp đỡ cho những người còn nghèo khó trong cuộc sống. Thấy người gặp nạn thì phải giúp đỡ họ vượt qua cơn khốn khó,…
III. KẾT BÀI
– Nói tóm lại, sống có ích là lối sống tích cực, có ích cho bản thân và cho mọi người xung quanh.
– Riêng em, em sẽ luôn trau dồi, rèn luyện cách sống sao cho có ý nghĩa và tốt đẹp hơn.
BÀI VĂN 1
Từ ngàn xưa, ông cha ta đã có những lối sống nề nếp truyền dạy cho con cháu ta đến ngày nay. Để có được một lối sống có ích con người chúng ta phải rèn luyện qua bao nhiêu năm tháng. Chúng ta đã phải trải qua rất nhiều thử thách trong cuộc sống mới có thể tìm ra một lối sống có ích hoàn thiện. Vậy sống có ích là sống như thế nào?
Quả đúng như vậy, để tìm ra một lối sống có ích hoàn thiện ông cha ta đã vượt qua rất nhiều thử thách mới có thể truyền dạy cho con cháu đời sau sống có ích là lối sống tích cực luôn làm những điều đúng đắn, phải biết kỷ luật mình không cho phép mình vượt qua giới hạn của nhà trường, vừa cố gắng làm đẹp cho bản thân nhưng cũng đồng thời phải phù hợp với đa số những người sống xung quanh, được nhiều người thừa nhận, sống có ích phải được thể hiện cụ thể thông qua những hoạt động vật chất và tinh thần có ích cho bản thân gia đình và xã hội. Khi sống có ích chúng ta có thể sống thanh thản hơn không phải nghĩa đến những việc không tốt.
Thật vậy, chúng ta có thể tạo cho mình một cuộc sống có ích nhưng thực sự có ích hay không là do mỗi con người tự chọn. Tại sao chúng ta phải sống có ích? Chúng ta sống có ích vì khi chúng ta sống có ích chúng ta có thể tìm được mục đích của mình và chịu trách nhiệm những gì do chính mình gây ra. Con người chúng ta có hai loại được ví như hai loài động vật đó chính là cừu và đại bàng. Cừu là con vật đại diện cho những người hèn nhát hay đỗ lỗi, than phiền và theo đuôi những người khác. Hiện nay họ không chịu bỏ công sức của mình ra làm việc mà thích đua đòi nếu không được như ý muốn thì họ than phiền trách mắng ba mẹ mình. Thứ hai là đại bàng một loài chim sống rất có trách nhiệm và chịu hoàn toàn trách nhiệm của chính mình và sống có mục đích, nó thể hiện những người con người ít ỏi còn sót lại trong xã hội ngày nay, những con người này biết đặt ra mục tiêu của chính mình. Họ nỗ lực phấn đấu để vươn lên tạo dựng cho mình một cuộc sống tốt đẹp và có ích. Trong cuộc sống, không phải điều gì cũng dễ dàng vượt qua nhưng nhờ có quyết tâm họ có thể làm được và cuộc sống này chính là do họ góp phần lớn tạo dựng nên.
Tuy nhiên, không phải điều gì cũng hoàn hảo. Chúng ta có những con đại bàng để dựa dẫm nhưng còn có những con cừu, những con cừu này làm cho xã hội không thể phát triển và làm phiền lòng những người đã sinh ra mình. Nhưng họ vẫn có thể biến thành đại bàng và tung cánh trên bầu trời tự do nhờ chính bản thân họ, họ có thể sửa đổi mình vì mỗi con người đều có quyền lựa chọn, lựa chọn bản thân mình sẽ trở thành như thế nào. Còn đối với những con người không sửa đổi mà chỉ mơ mộng thì cả đời họ vẫn sẽ không thành công.
Nói tóm lại, sống có ích là lối sống tích cực, sống có mục tiêu cho chính mình để mình có thể tự nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu của mình đặt ra, không vì chùn bước mà bỏ cuộc. Riêng tôi, mười bốn năm qua tôi chính là một con cừu làm phiền lòng ba mẹ đua đòi theo những người không tốt, than phiền vì không vừa ý mình nhưng tôi đã thay đổi, thay đổi về mọi mặt biết quan tâm ba mẹ mình và quý trọng những thứ mình đang có.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong cuộc sống hiện nay những khó khăn, thử thách luôn xuất hiện để cản trở chúng ta đến bước đường thành công. Ta thường tự hỏi, những lúc như vậy chúng ta cần làm những điều gì để có thể vượt qua chông gai của cuộc đời. Chẳng khác hơn, đó chính là chúng ta cần phải sống có ích từng ngày, từng giờ, từng phút. Vậy sống có ích mang những ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống của chúng ta?
Quả đúng như vậy, sống có ích là sống sao cho có ý nghĩa, có mục tiêu, mục đích rõ ràng. Vậy làm cách nào để sống có ích? Muốn sống có ích chúng ta phải tiến hành hoạt động có ích cho bản thân và cho xã hội; phải quan tâm, chia sẻ với cộng đồng nhiều hơn. Ta có thể tham gia đóng góp cứu trợ người dân bị lũ lụt, đóng góp xây dựng trại trẻ mồ côi, đóng góp xây dựng viện dưỡng lão,… Những hành động ấy tuy nhỏ bé nhưng giàu ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
“Sống có ích” không phải là điều dễ dàng nhưng cũng không thực sự là khó khăn. Mấu chốt của việc sống có ích chính là từ ý thức của bản thân môi người. Ắt hẳn sẽ có nhiều người băn khoăn về lối sống có ích, sống có ích chính là lối sống phù hợp với thời đại, làm đẹp cho cuộc sống bản thân, sống hoà hợp với mọi người xung quanh, được nhiều người thừa nhận, sống có ích phải có những hành động, việc làm, những tình cảm tốt đẹp đem lại hiệu quả thiết thực cho cá nhân cũng như cho cộng đồng. Cuộc sống không phải lúc nào cũng là màu hồng thắm tươi, đôi khi sẽ có những giọt nước mắt, những đổ vỡ, những cuộc chia ly, những nỗi đau, vết thương không bao giờ lành được. Đến khi đó, chúng ta hãy cố gắng sống có ích mỗi ngày để tìm được giá trị thực sự của cuộc sống chứ đừng nên bỏ cuộc. Cuộc sống tuy có nhiều khó khăn nhưng nếu ta có ý chí thì có thể biến màu tăm tối trong cuộc sống thành màu hồng tươi thắm, sống có ích có một sức mạnh mãnh liệt giúp tâm hồn ta thanh thản sau những lần vấp ngã, khó khăn và thử thách mà ta phải trải qua.
Sống có ích đến từ những hành động thiết thực nhất: sống thật với bản thân, biết cách đối nhân xử thế với mọi người, giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn, lắng nghe và chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh… Sẽ không khó nếu chúng ta dẹp qua cái tôi và lắng nghe tiếng nói từ bên trong mình.
Nói tóm lại, sống có ích là lối sống tích cực và là lối sống rất cần thiết với mỗi người chúng ta.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 65: Suy nghĩ của em về hai câu thơ của Tố Hữu tại đây.
Tags:Đề 64 · Thế nào là sống có ích
|
Đề 64 – Trình bày quan niệm của em về vấn đề thế nào là sống có ích – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Thế nào là sống có ích
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí (Sống có ích)
– Giải thích khái niệm sống có ích có nghĩa là gì?
– Đưa ra các biểu hiện của khái niệm trên được thể hiện như thế nào trong cuộc sống?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người sống mà không có mục đích, không có lí tưởng sống đúng đắn thì con người ấy có phải đang là gánh nặng của gia đình và xã hội không?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là có ích hay không có ích, là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
– Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, việc sống sao cho có ý nghĩa là một trong những mục tiêu của cuộc đời mỗi người.
– Vậy theo em, thế nào là sống có ích?
II. THÂN BÀI
a. Giải thích: (Đặt câu hỏi: là gì?)
– Sống có ích có ý nghĩa là gì? => Nghĩa là bản thân ta sống sao cho có ý nghĩa, sống có mục tiêu, mục đích rõ ràng.
b. Tại sao chúng ta phải sống có ích?
+ Bởi vì nó là biểu hiện của phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta cần có.
+ Chúng ta sống có ích vì khi chúng ta sống có ích chúng ta có thể tìm được mục đích của mình và chịu trách nhiệm những gì do chính mình gây ra.
c. Bàn luận, mở rộng vấn đề
+ Trong cuộc sống vẫn còn rất nhiều người sống không có mục đích, mục tiêu cuộc đời.
+ Những kẻ này chỉ biết sống dựa dẫm vào người khác.
+ Bản thân họ cũng không biết sống có ích cho cuộc đời là như thế nào.
+ Dẫn chứng: Tham gia các hoạt động tình nguyện, mùa hè xanh,… giúp đỡ cho những người còn nghèo khó trong cuộc sống. Thấy người gặp nạn thì phải giúp đỡ họ vượt qua cơn khốn khó,…
III. KẾT BÀI
– Nói tóm lại, sống có ích là lối sống tích cực, có ích cho bản thân và cho mọi người xung quanh.
– Riêng em, em sẽ luôn trau dồi, rèn luyện cách sống sao cho có ý nghĩa và tốt đẹp hơn.
BÀI VĂN 1
Từ ngàn xưa, ông cha ta đã có những lối sống nề nếp truyền dạy cho con cháu ta đến ngày nay. Để có được một lối sống có ích con người chúng ta phải rèn luyện qua bao nhiêu năm tháng. Chúng ta đã phải trải qua rất nhiều thử thách trong cuộc sống mới có thể tìm ra một lối sống có ích hoàn thiện. Vậy sống có ích là sống như thế nào?
Quả đúng như vậy, để tìm ra một lối sống có ích hoàn thiện ông cha ta đã vượt qua rất nhiều thử thách mới có thể truyền dạy cho con cháu đời sau sống có ích là lối sống tích cực luôn làm những điều đúng đắn, phải biết kỷ luật mình không cho phép mình vượt qua giới hạn của nhà trường, vừa cố gắng làm đẹp cho bản thân nhưng cũng đồng thời phải phù hợp với đa số những người sống xung quanh, được nhiều người thừa nhận, sống có ích phải được thể hiện cụ thể thông qua những hoạt động vật chất và tinh thần có ích cho bản thân gia đình và xã hội. Khi sống có ích chúng ta có thể sống thanh thản hơn không phải nghĩa đến những việc không tốt.
Thật vậy, chúng ta có thể tạo cho mình một cuộc sống có ích nhưng thực sự có ích hay không là do mỗi con người tự chọn. Tại sao chúng ta phải sống có ích? Chúng ta sống có ích vì khi chúng ta sống có ích chúng ta có thể tìm được mục đích của mình và chịu trách nhiệm những gì do chính mình gây ra. Con người chúng ta có hai loại được ví như hai loài động vật đó chính là cừu và đại bàng. Cừu là con vật đại diện cho những người hèn nhát hay đỗ lỗi, than phiền và theo đuôi những người khác. Hiện nay họ không chịu bỏ công sức của mình ra làm việc mà thích đua đòi nếu không được như ý muốn thì họ than phiền trách mắng ba mẹ mình. Thứ hai là đại bàng một loài chim sống rất có trách nhiệm và chịu hoàn toàn trách nhiệm của chính mình và sống có mục đích, nó thể hiện những người con người ít ỏi còn sót lại trong xã hội ngày nay, những con người này biết đặt ra mục tiêu của chính mình. Họ nỗ lực phấn đấu để vươn lên tạo dựng cho mình một cuộc sống tốt đẹp và có ích. Trong cuộc sống, không phải điều gì cũng dễ dàng vượt qua nhưng nhờ có quyết tâm họ có thể làm được và cuộc sống này chính là do họ góp phần lớn tạo dựng nên.
Tuy nhiên, không phải điều gì cũng hoàn hảo. Chúng ta có những con đại bàng để dựa dẫm nhưng còn có những con cừu, những con cừu này làm cho xã hội không thể phát triển và làm phiền lòng những người đã sinh ra mình. Nhưng họ vẫn có thể biến thành đại bàng và tung cánh trên bầu trời tự do nhờ chính bản thân họ, họ có thể sửa đổi mình vì mỗi con người đều có quyền lựa chọn, lựa chọn bản thân mình sẽ trở thành như thế nào. Còn đối với những con người không sửa đổi mà chỉ mơ mộng thì cả đời họ vẫn sẽ không thành công.
Nói tóm lại, sống có ích là lối sống tích cực, sống có mục tiêu cho chính mình để mình có thể tự nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu của mình đặt ra, không vì chùn bước mà bỏ cuộc. Riêng tôi, mười bốn năm qua tôi chính là một con cừu làm phiền lòng ba mẹ đua đòi theo những người không tốt, than phiền vì không vừa ý mình nhưng tôi đã thay đổi, thay đổi về mọi mặt biết quan tâm ba mẹ mình và quý trọng những thứ mình đang có.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 2
Trong cuộc sống hiện nay những khó khăn, thử thách luôn xuất hiện để cản trở chúng ta đến bước đường thành công. Ta thường tự hỏi, những lúc như vậy chúng ta cần làm những điều gì để có thể vượt qua chông gai của cuộc đời. Chẳng khác hơn, đó chính là chúng ta cần phải sống có ích từng ngày, từng giờ, từng phút. Vậy sống có ích mang những ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống của chúng ta?
Quả đúng như vậy, sống có ích là sống sao cho có ý nghĩa, có mục tiêu, mục đích rõ ràng. Vậy làm cách nào để sống có ích? Muốn sống có ích chúng ta phải tiến hành hoạt động có ích cho bản thân và cho xã hội; phải quan tâm, chia sẻ với cộng đồng nhiều hơn. Ta có thể tham gia đóng góp cứu trợ người dân bị lũ lụt, đóng góp xây dựng trại trẻ mồ côi, đóng góp xây dựng viện dưỡng lão,… Những hành động ấy tuy nhỏ bé nhưng giàu ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
“Sống có ích” không phải là điều dễ dàng nhưng cũng không thực sự là khó khăn. Mấu chốt của việc sống có ích chính là từ ý thức của bản thân môi người. Ắt hẳn sẽ có nhiều người băn khoăn về lối sống có ích, sống có ích chính là lối sống phù hợp với thời đại, làm đẹp cho cuộc sống bản thân, sống hoà hợp với mọi người xung quanh, được nhiều người thừa nhận, sống có ích phải có những hành động, việc làm, những tình cảm tốt đẹp đem lại hiệu quả thiết thực cho cá nhân cũng như cho cộng đồng. Cuộc sống không phải lúc nào cũng là màu hồng thắm tươi, đôi khi sẽ có những giọt nước mắt, những đổ vỡ, những cuộc chia ly, những nỗi đau, vết thương không bao giờ lành được. Đến khi đó, chúng ta hãy cố gắng sống có ích mỗi ngày để tìm được giá trị thực sự của cuộc sống chứ đừng nên bỏ cuộc. Cuộc sống tuy có nhiều khó khăn nhưng nếu ta có ý chí thì có thể biến màu tăm tối trong cuộc sống thành màu hồng tươi thắm, sống có ích có một sức mạnh mãnh liệt giúp tâm hồn ta thanh thản sau những lần vấp ngã, khó khăn và thử thách mà ta phải trải qua.
Sống có ích đến từ những hành động thiết thực nhất: sống thật với bản thân, biết cách đối nhân xử thế với mọi người, giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn, lắng nghe và chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh… Sẽ không khó nếu chúng ta dẹp qua cái tôi và lắng nghe tiếng nói từ bên trong mình.
Nói tóm lại, sống có ích là lối sống tích cực và là lối sống rất cần thiết với mỗi người chúng ta.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 65: Suy nghĩ của em về hai câu thơ của Tố Hữu tại đây.
Tags:Đề 64 · Thế nào là sống có ích
|
Đề 65: Suy nghĩ về hai câu thơ của Tố Hữu:” Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?…”- Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn
——————–~*~————————-
ĐỀ 65: Suy nghĩ của em về hai câu thơ của Tố Hữu:
“Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí (sống đẹp)
– Giải thích khái niệm Sống đẹp có nghĩa là gì?
– Đưa ra các biểu hiện của khái niệm trên được thể hiện như thế nào trong cuộc sống?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người sống mà không có mục đích, không có lí tưởng sống đúng đắn, chỉ thích phá hoại cuộc đời, trả thù cuộc sống thì con người ấy có phải đang là gánh nặng của gia đình và xã hội không? Và bản thân người đó có phải đã tự đánh mất chính mình hay không?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là có ích hay không có ích, là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
(Tham khảo đề “Sống có ích”)
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong cuộc sống, dù là trẻ hay già thì ai cũng có quan niệm sống của riêng mình. Đối với nhà thơ Tố Hữu thi quan niệm sống của ông được thể hiện rõ trong các câu thơ sau, được trích trong bài thơ “Một khúc ca xuân”.
“Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”
Chúng ta có suy nghĩ như thế nào về quan niệm sống của nhà thơ Tố Hữu chứa đựng trong các câu thơ trên?
Vậy thế nào là sống đẹp? Sống đẹp là sống với những đức tính tốt đẹp, những nhân đức mà mỗi con người cần có. Ở nhà thơ Tố Hữu, cách sống đẹp của ông là “sống là cho”. Cuộc đời phải có vay, có trả “sống là cho” là cống hiến, dâng tặng những gì tốt đẹp nhất của mình cho gia đình, cho quê hương, đất nước, chứ đâu cả đời chỉ biết có nhận, chỉ biết có hưởng những điều tốt đẹp cho riêng mình. Vì vậy, quan niệm “sống là cho” của nhà thơ trong các câu thơ trên là vô cùng đúng đắn, đẹp đẽ. Bởi mỗi con người được sinh ra là thành quả hoàn hảo nhất của cha mẹ, của ông bà, tổ tiên. Nếu như không có những người đi trước thì làm sao ta có mặt trên cõi đời này? Công lao nuôi dưỡng, giáo dục tận tụy của ông bà, cha mẹ, thầy cô và biết bao người xung quanh là vô cùng lớn lao, nhờ công lao ấy mà ta được nên người, trở thành những người công dân tốt. Hơn nữa, được sống trong một đất nước độc lập, tự do, hòa bình như hôm nay là nhờ công ơn của các bậc cha anh đi trước, các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh bao nhiêu máu xương để bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì thế, việc vay trả là vô cùng tất yếu bởi mỗi người chúng ta đã vay quá nhiều của đất nước, xã hội. Triết lí “sống là cho” của Tố Hữu cũng chính là lối sống của ông cha ta từ xưa, như Nguyễn Công Trứ đã nói trong bài thơ “Chí anh hùng”.
Nợ tang bồng vay trả trả vay ”
Qua đó, ta thấy được rằng sống là vay, là trả. Đó là nhiệm vụ của mỗi chúng ta và cũng là lẽ công bằng, hợp lý. Là học sinh, khi còn nhỏ, việc sống là vay, là trả, là cống hiến được thể hiện ở tinh thần chăm chỉ, cố gắng học tập, rèn luyện đạo đức, giúp đỡ ông bà, cha mẹ những công việc nhà vừa sức. Đến khi lớn lên, ta phải luôn phấn đấu, nỗ lực vượt qua khó khăn, gian nan, vượt lên chính mình để cống hiến cho đất nước, cho xã hội. Trong thực tế cuộc sống cũng như trong văn học có nhiều tấm gương đáng khâm phục, điển hình như anh thanh niên, cô kĩ sư trẻ trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống tiện nghi, đầy đủ ở thành phố để hưởng ứng phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, lên công tác ở nơi xa xôi, khó khăn nhất của tổ quốc. Có một quan niệm sống đúng đắn như tác giả sẽ làm cho cuộc sống của ta được nên tốt đẹp và tràn đầy ý nghĩa.
Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống vẫn có không ít những kẻ ích kỷ, lười biếng, những kẻ cơ hội, luôn dựa dẫm vào người khác, là “con sâu làm rầu nồi canh”, là những ung nhọt mà xã hội đã và đang lên án. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì thế mỗi người phải tự xác định cho mình thái độ sống đúng đắn. sống phải biết cống hiến, đóng góp cho đất nước và cần biết rằng cống hiến là niềm hạnh phúc của mỗi con người.
Quan niệm “sống là cho” của nhà thơ Tố Hữu trong các câu thơ trên là rất đúng đắn và chúng ta cần noi theo. Là học sinh, tôi sẽ luôn biết sống đẹp, sống cống hiến cho gia đình, cho đất nước, cho xã hội qua việc cần cù học tập và giúp đỡ mọi người xung quanh.
BÀI VĂN 2
Quan niệm “sống đẹp” đối với mỗi người chúng ta rất quan trọng. Do đó, xã hội chúng ta ngày nay luôn đề cao lối sống đẹp. Vậy “sống đẹp” là lối sống như thế nào?
Chúng ta có thể hiểu “sống đẹp” là sống có mục đích, có lí tưởng, có quan niệm sống đúng đắn, đem lại sự thoải mái, niềm vui cho con người. Người nào biết sống đẹp là người biết quan tâm, chia sẻ với người khác. Ngược lại đó là con người xấu. Do đó, đây là bài học vô cùng quý giá. Nếu mỗi cá nhân chúng ta biết cách sống đẹp thì sẽ hình thành được nhân cách con người tốt hơn, nhận được sự thành công trong cuộc sống. Không những thế, nó còn giúp con người phát triển trí tuệ, hoàn thiện bản thân, giúp con người tự tin, lạc quan hơn.
Chúng ta cũng có thể thấy trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Từ những anh chiến sĩ, bộ đội cho tới các thi sĩ, nhạc sĩ và các vị lãnh tụ đều mang trên mình một quan niệm sống đẹp. Bác Hồ cũng là một trong những người như thế. Bác đã phải lặn lội tới các nước phương Tây để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Các anh hùng trẻ tuổi như Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng… đã hi sinh tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Ngày nay, chúng ta cũng có thể thấy những anh lính cứu hỏa sẵn sàng xông vào vùng lửa ác liệt để cứu lấy tính mạng con người. Đó chính là nền tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc, đất nước yên bình. Nhưng bên cạnh đó lại có những người luôn “sống tệ”. Họ không học hành nghiêm túc, kết bè kết phái, đạo đức tác phong không tốt, để rồi sa vào những tệ nạn xã hội như rượu chè, ma túy, hút chích,… Họ là những con người thật đáng phê phán, là gánh nặng của xã hội. Tóm lại, người sống đẹp luôn được mọi người yêu quý, trân trọng. Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, tôi luôn hứa sẽ cố gắng học hành thật chăm chỉ để rồi mai sau có thể giúp các anh chiến sĩ thực hiện ước mơ của mình.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 3
Sống ở trên đời, mỗi người chúng ta phải sống sao cho sự hiện diện của mình không là sự vô nghĩa. Vì lẽ đó, chúng ta cần phải sống đẹp. Thế thì, tại sao chúng ta lại cần phải sống đẹp?
Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn những người sống thiếu trách nhiệm, dễ dàng từ bỏ và sống ích kỷ, nhỏ nhen lúc nào cũng muốn chuộc lợi cho bản thân. Điều đó thật đáng phê phán biết nhường nào. Ngoài sống đẹp cho người khác trước hết chúng ta cũng cần biết sống đẹp cho bản thân từ đó mới có thể sống tốt, sống có ích được.
Nói tóm lại, ai cũng phải tự trang bị cho mình lối sống đẹp để có một tương lai tốt đẹp hơn, được mọi người quý mến và tôn trọng.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 66: Suy nghĩ của em về nạn ùn tắc giao thông hiện nay tại đây.
Tags:Đề 65 · Sống đẹp · Tố Hữu
|
Đề 65: Suy nghĩ về hai câu thơ của Tố Hữu:” Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?…”- Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn
——————–~*~————————-
ĐỀ 65: Suy nghĩ của em về hai câu thơ của Tố Hữu:
“Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
Trước hết, em cần xác định đây là dạng đề bài: tư tưởng đạo lí (sống đẹp)
– Giải thích khái niệm Sống đẹp có nghĩa là gì?
– Đưa ra các biểu hiện của khái niệm trên được thể hiện như thế nào trong cuộc sống?
– Bàn luận, mở rộng vấn đề: khi một con người sống mà không có mục đích, không có lí tưởng sống đúng đắn, chỉ thích phá hoại cuộc đời, trả thù cuộc sống thì con người ấy có phải đang là gánh nặng của gia đình và xã hội không? Và bản thân người đó có phải đã tự đánh mất chính mình hay không?
– Cảm nghĩ của em về khái niệm trên? (là có ích hay không có ích, là tốt hay không tốt)
– Bản thân em đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm nào?
DÀN Ý CHI TIẾT
(Tham khảo đề “Sống có ích”)
BÀI VĂN THAM KHẢO
BÀI VĂN 1
Trong cuộc sống, dù là trẻ hay già thì ai cũng có quan niệm sống của riêng mình. Đối với nhà thơ Tố Hữu thi quan niệm sống của ông được thể hiện rõ trong các câu thơ sau, được trích trong bài thơ “Một khúc ca xuân”.
“Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”
Chúng ta có suy nghĩ như thế nào về quan niệm sống của nhà thơ Tố Hữu chứa đựng trong các câu thơ trên?
Vậy thế nào là sống đẹp? Sống đẹp là sống với những đức tính tốt đẹp, những nhân đức mà mỗi con người cần có. Ở nhà thơ Tố Hữu, cách sống đẹp của ông là “sống là cho”. Cuộc đời phải có vay, có trả “sống là cho” là cống hiến, dâng tặng những gì tốt đẹp nhất của mình cho gia đình, cho quê hương, đất nước, chứ đâu cả đời chỉ biết có nhận, chỉ biết có hưởng những điều tốt đẹp cho riêng mình. Vì vậy, quan niệm “sống là cho” của nhà thơ trong các câu thơ trên là vô cùng đúng đắn, đẹp đẽ. Bởi mỗi con người được sinh ra là thành quả hoàn hảo nhất của cha mẹ, của ông bà, tổ tiên. Nếu như không có những người đi trước thì làm sao ta có mặt trên cõi đời này? Công lao nuôi dưỡng, giáo dục tận tụy của ông bà, cha mẹ, thầy cô và biết bao người xung quanh là vô cùng lớn lao, nhờ công lao ấy mà ta được nên người, trở thành những người công dân tốt. Hơn nữa, được sống trong một đất nước độc lập, tự do, hòa bình như hôm nay là nhờ công ơn của các bậc cha anh đi trước, các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh bao nhiêu máu xương để bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì thế, việc vay trả là vô cùng tất yếu bởi mỗi người chúng ta đã vay quá nhiều của đất nước, xã hội. Triết lí “sống là cho” của Tố Hữu cũng chính là lối sống của ông cha ta từ xưa, như Nguyễn Công Trứ đã nói trong bài thơ “Chí anh hùng”.
Nợ tang bồng vay trả trả vay ”
Qua đó, ta thấy được rằng sống là vay, là trả. Đó là nhiệm vụ của mỗi chúng ta và cũng là lẽ công bằng, hợp lý. Là học sinh, khi còn nhỏ, việc sống là vay, là trả, là cống hiến được thể hiện ở tinh thần chăm chỉ, cố gắng học tập, rèn luyện đạo đức, giúp đỡ ông bà, cha mẹ những công việc nhà vừa sức. Đến khi lớn lên, ta phải luôn phấn đấu, nỗ lực vượt qua khó khăn, gian nan, vượt lên chính mình để cống hiến cho đất nước, cho xã hội. Trong thực tế cuộc sống cũng như trong văn học có nhiều tấm gương đáng khâm phục, điển hình như anh thanh niên, cô kĩ sư trẻ trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống tiện nghi, đầy đủ ở thành phố để hưởng ứng phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, lên công tác ở nơi xa xôi, khó khăn nhất của tổ quốc. Có một quan niệm sống đúng đắn như tác giả sẽ làm cho cuộc sống của ta được nên tốt đẹp và tràn đầy ý nghĩa.
Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống vẫn có không ít những kẻ ích kỷ, lười biếng, những kẻ cơ hội, luôn dựa dẫm vào người khác, là “con sâu làm rầu nồi canh”, là những ung nhọt mà xã hội đã và đang lên án. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì thế mỗi người phải tự xác định cho mình thái độ sống đúng đắn. sống phải biết cống hiến, đóng góp cho đất nước và cần biết rằng cống hiến là niềm hạnh phúc của mỗi con người.
Quan niệm “sống là cho” của nhà thơ Tố Hữu trong các câu thơ trên là rất đúng đắn và chúng ta cần noi theo. Là học sinh, tôi sẽ luôn biết sống đẹp, sống cống hiến cho gia đình, cho đất nước, cho xã hội qua việc cần cù học tập và giúp đỡ mọi người xung quanh.
BÀI VĂN 2
Quan niệm “sống đẹp” đối với mỗi người chúng ta rất quan trọng. Do đó, xã hội chúng ta ngày nay luôn đề cao lối sống đẹp. Vậy “sống đẹp” là lối sống như thế nào?
Chúng ta có thể hiểu “sống đẹp” là sống có mục đích, có lí tưởng, có quan niệm sống đúng đắn, đem lại sự thoải mái, niềm vui cho con người. Người nào biết sống đẹp là người biết quan tâm, chia sẻ với người khác. Ngược lại đó là con người xấu. Do đó, đây là bài học vô cùng quý giá. Nếu mỗi cá nhân chúng ta biết cách sống đẹp thì sẽ hình thành được nhân cách con người tốt hơn, nhận được sự thành công trong cuộc sống. Không những thế, nó còn giúp con người phát triển trí tuệ, hoàn thiện bản thân, giúp con người tự tin, lạc quan hơn.
Chúng ta cũng có thể thấy trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Từ những anh chiến sĩ, bộ đội cho tới các thi sĩ, nhạc sĩ và các vị lãnh tụ đều mang trên mình một quan niệm sống đẹp. Bác Hồ cũng là một trong những người như thế. Bác đã phải lặn lội tới các nước phương Tây để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Các anh hùng trẻ tuổi như Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng… đã hi sinh tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Ngày nay, chúng ta cũng có thể thấy những anh lính cứu hỏa sẵn sàng xông vào vùng lửa ác liệt để cứu lấy tính mạng con người. Đó chính là nền tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc, đất nước yên bình. Nhưng bên cạnh đó lại có những người luôn “sống tệ”. Họ không học hành nghiêm túc, kết bè kết phái, đạo đức tác phong không tốt, để rồi sa vào những tệ nạn xã hội như rượu chè, ma túy, hút chích,… Họ là những con người thật đáng phê phán, là gánh nặng của xã hội. Tóm lại, người sống đẹp luôn được mọi người yêu quý, trân trọng. Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, tôi luôn hứa sẽ cố gắng học hành thật chăm chỉ để rồi mai sau có thể giúp các anh chiến sĩ thực hiện ước mơ của mình.
(Bài làm của HS)
BÀI VĂN 3
Sống ở trên đời, mỗi người chúng ta phải sống sao cho sự hiện diện của mình không là sự vô nghĩa. Vì lẽ đó, chúng ta cần phải sống đẹp. Thế thì, tại sao chúng ta lại cần phải sống đẹp?
Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn những người sống thiếu trách nhiệm, dễ dàng từ bỏ và sống ích kỷ, nhỏ nhen lúc nào cũng muốn chuộc lợi cho bản thân. Điều đó thật đáng phê phán biết nhường nào. Ngoài sống đẹp cho người khác trước hết chúng ta cũng cần biết sống đẹp cho bản thân từ đó mới có thể sống tốt, sống có ích được.
Nói tóm lại, ai cũng phải tự trang bị cho mình lối sống đẹp để có một tương lai tốt đẹp hơn, được mọi người quý mến và tôn trọng.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 66: Suy nghĩ của em về nạn ùn tắc giao thông hiện nay tại đây.
Tags:Đề 65 · Sống đẹp · Tố Hữu
|
Đề 67: Cảm nhận về hình ảnh “sóng” trong hai khổ thơ bài “Tổ quốc nhìn từ biển” của Nguyễn Việt Chiến – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Hình ảnh sóng trong Tổ quốc nhìn từ biển
ĐỀ 67:
... Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển,
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng.
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa.
Trong hôn người có ngọn sóng nào không?
Nên Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo,
Lạc Long cha nay chưa thấy về.
Lời cha dặn phải giữ tìm tấc đất.
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi.
(Tổ quốc nhìn từ biển – Nguyễn Việt Chiến)
Cảm nhận của em về hình ảnh “sóng” trong khổ thơ trên.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Từ bao đời nay, yêu nước đã trở thành một truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trải qua bao thế hệ, bao nhiêu cuộc đấu tranh anh dũng là biết bao nhiêu con người đã ngã xuống vì công cuộc giải phóng dân tộc, để mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc như bây giờ. Nhưng liệu truyền thống ấy có còn nguyên vẹn hay đã mai một theo thời gian? Liệu con người ta có còn nhớ đến những hy sinh, gian truân mà ông cha ta đã phải trải qua để mang lại cuộc sống đầy đủ, ấm no như bây giờ?
“…Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không? ”
(Nguyễn Việt Chiến – Tổ quốc nhìn từ biển )
Vâng. “Liệu trong hồn người có ngọn sóng nào không?”. “Sóng” ở đây không phải là những con sóng bình thường, không đơn thuần chỉ là những gợn nước xô vào bờ. Nếu như “sóng” ở câu thơ thứ ba nghĩa là những thách thức, những áp lực về việc giữ vững nền hòa bình dân tộc khi tình hình chiến sự đang căng thẳng thỉ “sóng” ở câu thơ thứ tư chính là những suy nghĩ bất bình, là tinh thần bất khuất, là những hành động thiết thực và ý nghĩa để đánh tan cơn sóng trên tinh thần yêu nước. Nhưng liệu tinh thần yêu nước của dân tộc ta nói chung và của từng cá nhân nói riêng có còn mãnh liệt như “sóng” kia? Có người nghĩ rằng: “Hòa bình rồi, độc lập rồi thì cần yêu nước để làm gì nữa?” Đúng. Nước ta đã giành được chủ quyền qua nghìn năm đô hộ nhưng đâu thể để tinh thần ấy bị mai một.Yêu nước đâu phải chỉ để giải phóng dân tộc! Yêu nước đâu phải để đánh thắng quân thù! Và yêu nước đâu thể chỉ nói suông bằng lời! Yêu nước là cơ sở để xã hội phát triển như tia sáng dẫn lối ta thoát khỏi hang động tăm tối.
“Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt ”
Việt Nam ta đẹp vô cùng! Việt Nam ta giàu thắng cảnh, Việt Nam ta giàu khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên và ta còn giàu hơn cả ở đời sống tinh thần, ở những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ở những trang sử vẻ vang mang dấu ấn của những chiến tích hào hùng. Vậy từ đâu mà ta lại giàu hơn về mặt tinh thần? Chẳng phải phân lớn là nhờ vào “sóng” trong hồn của mỗi con người hay sao? Chẳng phải chính nó đã đóng những dấu son chói lọi vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc hay sao? Phải chăng những chiến tích hào hùng của dân tộc đều chỉ là lý thuyết? Tại sao chúng ta không thể nhìn thấy được cơ sở chính của những bài học lịch sử “vô vị” ấy? Tại sao chúng ta lại không nhìn thấy tinh thần yêu nước vượt thời gian, vượt qua bao gian lao thử thách nhưng vẫn trọn vẹn, chẳng những không mất đi mà còn được phát huy và nhân rộng?
Xã hội được phát triển không chỉ dựa vào con người. Đất nước thanh bình không thể dựa vào một cá nhân. Có ai lại không muốn sống trong hòa bình? Có ai lại muốn chiến tranh hay xung đột vũ trang? Chẳng ai muốn điều ấy cả. Ấy thế mà “đại cường quốc” Trung Quốc kia lại muốn thế kia chứ. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có vùng lãnh thổ riêng của minh. Ấy vậy mà Trung Quốc cứ một mực giành Hoàng Sa với ta. Ấy vậy mà cứ muốn xâm chiếm lãnh thổ ta như ông đưa “hắn” đã đặt ách đô hộ lên Việt Nam ta cả nghìn năm, dàn khoan Hải Dương vào địa phận nước ta để “mặt dày” lấy dầu mà không biết “ngượng” là gì. Như thế là đã quá lắm rồi! Vậy mà ngư dân Trung Quốc còn lên mặt phá tàu bè của ta, bắt ngư dân ta thật quá đáng! Trước tình hình căng thẳng nói trên, nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp để giành lại chủ quyền biển đảo trong khi Trung Quốc vẫn đưa dân ra quần đảo Hoàng Sa và dần lấn chiếm địa phận lãnh thổ của nước ta.
“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo,
Lạc Long cha nay chưa thấy về.
Lời cha dặn phải giữ từng tấc đất.
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi. “
(Tổ quốc nhìn từ biển)
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 68: Viết một bài văn trình bày những suy nghĩ của em về ý nghĩa của bản Quốc ca của cố nhạc sĩ Văn Cao. Cảm xúc của em như thế nào khi tham dự những buổi chào cờ đầu tuần trong trường? tại đây.
Tags:Nguyễn Việt Chiến · Tổ quốc nhìn từ biển · Văn chọn lọc 9
|
Topic 67: Feelings about the image of "waves" in two stanzas of the poem "The Fatherland viewed from the sea" by Nguyen Viet Chien - Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Image of waves in the Fatherland viewed from the sea
TOPIC 67:
... If the Fatherland today looks from the sea,
Au Co's mother must not be able to rest assured.
Waves pile up on the continental shelf.
Is there any wave in a kiss?
So the Fatherland looks from many archipelagos,
Father Lac Long has not returned yet.
Father's advice is to keep every inch of land.
Children and grandchildren still remember this blood and bones.
(Fatherland seen from the sea – Nguyen Viet Chien)
What are your thoughts on the image of "waves" in the above poem?
REFERENCE WORK
For many generations, patriotism has become a fine cultural tradition of the Vietnamese people. Through so many generations, so many heroic struggles, so many people have fallen for the cause of national liberation, to bring about a prosperous and happy life like now. But is that tradition still intact or has it disappeared over time? Do people still remember the sacrifices and hardships that our ancestors had to go through to bring about a full and prosperous life like now?
“…If the Fatherland today looks from the sea
Au Co's mother must not be able to rest assured
Waves pile up on the continental shelf
In the soul who does not have waves? ”
(Nguyen Viet Chien – Fatherland seen from the sea)
Yes. "Is there any wave in the human soul?". The "waves" here are not ordinary waves, not simply ripples of water rushing to the shore. If the "wave" in the third verse means the challenges and pressures of maintaining national peace when the war situation is tense, then the "wave" in the fourth verse is the thoughts. discontent, is an indomitable spirit, practical and meaningful actions to dispel the wave of patriotism. But is the patriotic spirit of our nation in general and of each individual in particular still as strong as that "wave"? Some people think: "If there is peace and independence, then why do we need to be patriotic?" Correct. Our country has gained sovereignty through thousands of years of domination, but we cannot let that spirit be lost. Patriotism is not just about national liberation! Patriotism is not about defeating the enemy! And patriotism cannot just be expressed in words! Patriotism is the basis for social development, like a ray of light leading us out of a dark cave.
“Incredibly beautiful, my Fatherland!
Palm forests, tea hills, sweet green fields"
Vietnam is extremely beautiful! Our Vietnam is rich in landscapes, our Vietnam is rich in minerals and natural resources, and we are even richer in spiritual life, in the good traditions of the nation, in glorious pages of history bearing the mark of heroic victories. So where do we get spiritually richer? Isn't much of the difference due to the "waves" in each person's soul? Hasn't it made brilliant marks in the nation's work of building and protecting the country? Are the nation's heroic achievements just theoretical? Why can't we see the main basis of those "tasteless" historical lessons? Why don't we see the patriotic spirit that transcends time, overcomes many hardships and challenges but is still complete, not only not lost but also promoted and multiplied?
Society is developed not only based on people. A peaceful country cannot rely on one individual. Who doesn't want to live in peace? Who wants war or armed conflict? No one wants that. Yet that "great power" China wants that. Each nation and each country has its own territory. Yet China keeps claiming Hoang Sa from us. Yet, he wants to invade our territory like you did, "he" has placed a yoke of domination on our Vietnam for thousands of years, the Hai Duong oil rig entered our country's territory to "have a thick skin" to take oil without knowing "embarrassment". " What is that. That's too much! Yet Chinese fishermen still show up to destroy our ships and arrest our fishermen, which is outrageous! Faced with the above tense situation, our state has taken many measures to regain sovereignty over the islands while China is still sending people to the Hoang Sa archipelago and gradually encroaching on our country's territory.
“If the Fatherland looks from many archipelagos,
Father Lac Long has not returned yet.
My father told me to protect every inch of land.
Children and grandchildren still remember this blood and bones. “
(Fatherland seen from the sea)
(Students' work)
>> See more Topic 68: Write an essay presenting your thoughts about the meaning of the National Anthem by the late musician Van Cao. How do you feel when attending the flag-raising ceremonies at the beginning of the week at school? here.
Tags:Nguyen Viet Chien · Fatherland seen from the sea · Selected literature 9
|
Đề 68: Viết một bài văn trình bày những suy nghĩ của em về ý nghĩa của bản Quốc ca của cố nhạc sĩ Văn Cao – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về ý nghĩa của bản Quốc ca
ĐỀ 68:
TIẾN QUÂN CA
Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang lên trên đường gập ghềnh xa
Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước,
Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca.
Đường vinh quang xây xác quân thù,
Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu.
Vì nhân dân chiến đấu không ngừng,
Tiến mai ra sa trường,
Tiến lên, cùng tiến lên.
Nước non Việt Nam ta vững bền.
Tiến quân ca do cố nhạc sĩ Văn Cao sáng tác vào năm 1944. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt Tiến quân ca là Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Viết một bài văn trình bày những suy nghĩ của em về ý nghĩa của bản Quốc ca. Cảm xúc của em như thế nào khi tham dự những buổi chào cờ đầu tuần trong trường?
————————–
BÀI LÀM THAM KHẢO
Có nơi nào trên vũ trụ kia bảo vệ sự sống bằng máu và xương nhiều hơn nơi đây không? Bầu trời hòa bình ngày nay, trong trẻo và xanh biếc, có phải tự dưng mà có đâu? Hình ảnh trong đêm tối xa xôi ấy, hình ảnh những người anh hùng chiến đấu mạnh mẽ, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc. Trên mảnh đất mấy nghìn năm kiên cường, Việt Nam bây giờ, vẫn in dấu bước chân ấy, bước chân ra đi tìm đường cứu nước của vị lãnh tụ vĩ đại, tài ba Hồ Chí Minh. Bác Hồ với bước chân rạo rực lòng yêu nước trong trái tim, sức mạnh đoàn kết, cùng chung lòng chiến đấu của nhân dân ta. Vì tinh thần sâu sắc ấy, vì đã trải qua biết bao chiến thắng cùng chính nghĩa, trong tiếng trống hào hùng, cố nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài “Tiến quân ca” như muốn khẳng định giá trị lòng yêu nước, ghi nhận lại những chiến thắng lẫy lừng của dân tộc và hơn tất thảy cảm nhận niềm hạnh phúc và tự hào dành cho đất nước. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt Tiến quân ca làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bạn đã từng dâng trào cảm xúc khi hát bài hát ấy chưa, ngay lần đầu tiên và bây giờ, hẳn chúng ta đã hiểu hết ý nghĩa trong nó?
“Tiến lên, cùng tiến lên
Nước non Việt Nam ta vững bền
Bài “Tiến quân ca” được duyệt làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 13 tháng 8 năm 1944. Vậy đã mấy chục năm trôi qua, hưởng ứng nền tự do độc lập của nước ta, khi tham dự những buổi chào cờ đầu tuần cảm xúc của mọi người thế nào? Riêng tôi, đầu tiên là một sự biết ơn rất sâu sắc và lớn lao, bởi đó là Quốc ca của đất nước, bởi mỗi đầu tuần đều được cất tiếng ca rộn rã của riêng mảnh đất này, hơn hết, mỗi ngày trôi qua là cảm giác tự do, độc lập. Thế nhưng hiện nay, các bạn học sinh khi hát Quốc ca lại đùa giỡn, không nghiêm túc. Tại sao vậy, các bạn có cảm nhận được chăng niềm thương của người chiến sĩ dành cho Tổ quốc này, dành cho các bạn người nắm giữ chìa khóa cánh cổng tương lai? Họ đã hy sinh thân mình để giành lấy cuộc sống cho mọi người, cho các bạn. Có thể bây giờ họ còn sống, nhưng lại không trọn vẹn do di chứng của chiến tranh để lại. Có thể họ vẫn còn sống khỏe mạnh, nhưng cũng có thể đã ra đi về một miền xa xôi nơi chiến trường, không thể chăm sóc gia đình mình, người thân của họ giờ đây họ phải cô đơn một mình để sống tiếp quãng đời còn lại. Họ nhường quyền sống cho mọi người, để lại cho gia đình họ một nỗi đau xót xa, vết thương lòng qua thời gian cũng không thể chữa kịp.
“Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc”.
Điều chúng ta cảm động, không chỉ là sự đánh mất máu và xương của người chiến sĩ đế giành lấy một nền hòa bình đất nước như bấy giờ mà là một suy nghĩ sâu sắc của họ, suy nghĩ mạnh mẽ không run sợ với cái chết đang đối đầu vì tương lai của toàn thể nhân dân Việt Nam. Bác Hồ đã nói: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”, chúng ta giờ đây nên ra sức học tập, để mai sau bảo vệ và đưa đất nước Việt Nam lên một tầm cao mới. Ý nghĩa của bản Quốc ca là lòng yêu nước, đoàn kết cho chiến thắng của nhân dân, ghi nhận nền hòa bình hôm nay và cả mai sau.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 69: Suy nghĩ về câu chuyện anh Hai của Lý Thanh Thảo, Trích” Bốn mươi truyện rất ngắn” tại đây.
|
Topic 68: Write an essay presenting your thoughts about the meaning of the National Anthem by the late musician Van Cao - Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Think about the meaning of the National Anthem
TOPIC 68:
TIEN QUAN CA
Vietnam troops go
Together to save the country
Footsteps echoed on the bumpy road far away
The flag printed with the blood of victory carries the soul of the country,
Guns in the distance interrupted the marching song.
The road to glory is built on the corpses of enemies,
Overcoming hardships and forming a war zone together.
Because the people fight endlessly,
Going forward to the battlefield,
Move forward, move forward.
Our young country in Vietnam is sustainable.
Tien Quan Ca was composed by the late musician Van Cao in 1944. On August 13, 1945, President Ho Chi Minh officially approved Tien Quan Ca as the National Anthem of the Democratic Republic of Vietnam.
Write an essay presenting your thoughts about the meaning of the National Anthem. How do you feel when attending the flag-raising ceremonies at the beginning of the week at school?
————————–
REFERENCE WORK
Is there any place in the universe that protects life with more blood and bones than here? Today's peaceful sky, clear and blue, did it suddenly come about? Images in that distant dark night, images of heroes fighting strongly, ready to sacrifice for their country. On the land of thousands of years of resilience, Vietnam today still imprints those footsteps, stepping out to find a way to save the country of the great and talented leader Ho Chi Minh. Uncle Ho with his footsteps filled with patriotism in his heart, the strength of solidarity and fighting together of our people. Because of that profound spirit, because he had experienced so many victories and justice, in the sound of heroic drums, the late musician Van Cao composed the song "Tien Quan Ca" as if to affirm the value of patriotism, recording Receiving the nation's glorious victories and, above all, feeling the happiness and pride for the country. On August 13, 1945, President Ho Chi Minh officially approved Tien Quan Ca as the National Anthem of the Democratic Republic of Vietnam. Have you ever felt a surge of emotion when singing that song, the first time and now, we must understand all its meaning?
"Move forward, move forward
Our young country in Vietnam is sustainable
The song "Tien Quan Ca" was approved as the National Anthem of the Democratic Republic of Vietnam on August 13, 1944. So several decades have passed, in response to the freedom and independence of our country, when attending events How did everyone feel at the flag-raising session at the beginning of the week? As for me, first of all, I have a very deep and great gratitude, because it is the National Anthem of the country, because every beginning of the week is filled with the bustling singing of this land, and most of all, every day that passes. is a feeling of freedom and independence. But nowadays, when students sing the National Anthem, they joke around and are not serious. Why is that, can you feel the soldier's love for this Fatherland, for you who hold the key to the future gate? They sacrificed themselves to save lives for everyone, for you. Maybe they are still alive now, but not completely due to the legacy of war. They may still be alive and healthy, but they may also have gone to a remote area on a battlefield, unable to take care of their family, their loved ones now having to live alone to continue their lives. remaining. They gave up the right to live for everyone, leaving their families with a heartache that cannot be healed over time.
"Vietnam troops go
Let's join together to save the country."
What touches us is not only the loss of blood and bones of the soldiers trying to win the country's peace at that time, but also their deep thoughts, strong thoughts that do not tremble with fear. Death is confronting the future of all Vietnamese people. Uncle Ho said: "When you are young, do small things, depending on your strength", we should now try our best to study, so that in the future we can protect and bring Vietnam to a new level. The meaning of the National Anthem is patriotism, solidarity for the people's victory, and recognition of peace today and in the future.
(Students' work)
>> See more Topic 69: Thinking about the story of Mr. Hai by Ly Thanh Thao, Excerpt from "Forty very short stories" here.
|
Đề 69: Suy nghĩ về câu chuyện anh Hai của Lý Thanh Thảo, Trích” Bốn mươi truyện rất ngắn” – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về câu chuyện anh Hai
ĐỀ 69
ANH HAI
– Ăn thêm cái nữa đi con!
– Ngán quá, con không ăn đâu!
– Ráng ăn thêm một cái, má thương. Ngoan đi cưng!
– Con nói là không ăn mà. Vứt đi! Vứt nó đi!
Thằng bé lắc đầu nguầy nguậy, gạt mạnh tay. Chiếc bánh kem văng qua cửa xe rơi xuống đường sát mép cổng. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy đì.
Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng chơ xô đến nhặt. Mắt hai đứa sáng rực lên, dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy bánh lấm láp, đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai:
– Anh Hai thổi sạch rồi mình ăn.
Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính, chăng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm bánh rơi tõm xuống cống hôi hám, chìm hẳn.
– Ai biểu anh Hai thổi chi cho mạnh – Con bé nói rồi thút thít.
– Ừa. Tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!
(Lý Thanh Thảo, Trích “Bốn mươi truyện rất ngắn ”, NXB Hội nhà văn 1994)
Câu chuyện trên gợi cho em suy nghĩ gì?
BÀI LÀM THAM KHẢO
“Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”.
Đúng thật như vậy, ở một giây phút nào đó trong cuộc đời, ta sẽ thấy được rằng cuộc sống không bao giờ suôn sẻ, con đường mà ta đang và sắp phải đi qua không bao giờ bằng phẳng và trải đầy hoa hồng. Những va vấp và sự cố trên đường đi có thể sẽ làm ta nản lòng và tuyệt vọng. Những lúc ấy, ta sẽ cần lắm một bờ vai để dựa vào, một nơi để sẻ chia những nỗi niềm, một vòng tay âu yếm đế chở che. Khi đó, người anh và người chị sẽ luôn sẵn sàng ở bên ta, nâng đỡ ta, che chở cho ta, thương yêu ta, sưởi ấm con tim và chữa lành vết thương cho ta. Thông điệp yêu thương ấy lại một lần nữa được gửi gắm trong câu chuyện “Anh Hai”.
Trong thực tế hàng ngày, ta có thể thấy trên ti vi hay sách báo, ở những vùng quê nghèo, gia đình không đủ chi phí để nuôi cả hai anh em hay chị em ăn học. Người anh hoặc người chị sẽ luôn luôn hi sinh cho em ăn học, còn mình thì đi làm để kiếm tiền phụ giúp gia đình nuôi em ăn học. Chính mẹ của tôi là một minh chứng. Ngày xưa khi còn nhỏ như tôi, vì gia đình nghèo, đông con nên mẹ tôi đã nghỉ học, ngày ngày phải đội mưa, đội nắng đi chẻ cùi, đi bán hàng rong để kiếm tiền nuôi sống cả gia đình. Mẹ tôi đã nhường tấm vé đi tới tương lai cho những đứa em của mình… Thể nhưng có những người anh, người chị xem em mình như một gánh nặng, luôn ghét bỏ và xua đuổi em của mình. Như bạn của tôi tên T, mỗi khi tôi đến nhà nó là nhìn thấy anh nó mắng chửi, đánh nó. Mặc dù nó khóc rất nhiều và đã nói xin lỗi cả trăm lần nhưng anh nó vẫn tiếp tục đánh nó.
Trong một gia đình, nếu như anh em hòa thuận, sống vui vẻ và thương yêu lẫn nhau thì tổ ấm của mình sẽ luôn tràn ngập niềm vui, tiếng cười và hạnh phúc. Giống như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Có gì đẹp hơn trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau”.
Và nếu trên Trái Đất này tràn ngập niềm yêu thương và niềm hạnh phúc, ánh nắng ấm áp bao trùm cả Trái Đất, thì trên đời này sẽ không còn chiến tranh, không còn những xung đột, bất hòa. Vậy nên tình anh em trong mỗi gia đình là rất quan trọng. Nhưng ngược lại, nếu anh em trong gia đình bất hòa, ngày nào cũng gây gổ, chiến tranh lạnh với nhau thì bóng tối u ám sẽ bao trùm lấy cả Trái Đất này. Chúng ta sẽ phải ngày ngày sống trong chiến tranh, bất hòa, những cuộc cãi vã không có điểm dừng. Xã hội sẽ ngày càng đi xuống, an ninh trật tự trong xã hội sẽ bị rối loạn.
Trong xã hội ngày nay, tầng lớp nào cũng có, thành phần nào cũng có, đặc biệt là những người bị tê liệt cảm xúc, không có trái tim, không biết yêu thương người thân nhất là anh em của mình. Còn có những người còn tệ hại hơn nữa, những thành phần sống dưới đáy xã hội, là cặn bã của xã hội. Họ làm những chuyện đồi bại, hãm hại chính anh em của mình. Trong tầng lớp thượng lưu, ta có thể thấy rất rõ, vì tranh chấp tài sản, mà ngay cả anh em mình cũng hãm hại lẫn nhau. Chỉ vì bị vật chất và đồng tiền làm lu mờ mà “anh em tương tàn”, trở mặt với nhau. Những người đó đáng bị xã hội lên án và trừng trị.
Hiểu rõ và cảm nhận được sâu sắc sự quan trọng của tình anh em, chúng ta phải làm thế nào? Những ai đã xây dựng được tình anh em trong gia đình thì hãy trân trọng nó, hãy tiếp tục yêu thương, tiếp tục vun đắp cho nó thật vững chắc để ngọn gió nào cũng không thể đánh gục nó. Còn những người chưa yêu thương anh em của mình, hãy để tình yêu làm tan chảy trái tim băng giá của mình, đừng để mất rồi lại hối hận thì đã muộn. Và riêng những người hay ghen ghét, đố kị với anh em của mình thì “Đừng để con rắn ghen tị luồn vào trong tim. Nó là con rắn độc. Nó gặm mòn khối óc và làm đồi bại trái tim”. Hãy tập sống vị tha và bao dung, đừng bao giờ sinh lòng đố kị với anh em của mình. Nó sẽ che mắt mình dẫn mình vào con đường tăm tối và lạc lối. Hãy luôn nhớ sống trên đời là để yêu thương, nếu không biết yêu thương thì xem như ta đã “chết khi còn sống”.
Tình yêu thương không cần thể hiện qua một cái gì đó lớn lao. Tình yêu thương có thể là thầm lặng. Tình yêu thương thể hiện qua những điều nhỏ nhặt và tầm thường nhất trong cuộc sống như hai anh em nhường nhau một mẩu bánh trong câu chuyện “Anh Hai” hay là một bàn tay nâng đỡ khi thấy người khác gặp hoạn nạn khó khăn. Tình anh em cũng thế, không cần thể hiện ra cho mọi người thấy, chỉ cần trong tim mỗi người đều có ngọn lửa yêu thương thì có thể sưởi ấm khắp cả thế gian.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 70 tại đây.
(Nguồn: Em có suy nghĩ gì sau khi xem hình ảnh trên?
Tags:anh Hai · Đề 69 · Văn chọn lọc 9
|
Topic 69: Thinking about the story of Mr. Hai by Ly Thanh Thao, Excerpt from "Forty very short stories" - Developing skills in writing selected essays 9
Instruct
Think about Mr. Hai's story
TOPIC 69
BROTHER
- Eat more, son!
- I'm so bored, I won't eat!
– Try to eat one more, I love you. Be good, baby!
– You said you wouldn't eat. Throw away! Throw it away!
The boy shook his head vigorously and shook his hand vigorously. The cake flew through the car door and fell onto the road next to the edge of the gate. The shiny car was running smoothly.
Two children were digging through a pile of trash nearby when they saw a cake lying there and rushed to pick it up. Their eyes lit up, glued to the delicious cake. Seeing the dirty cake, the girl swallowed her saliva and told the boy:
– Mr. Hai blew it clean and then we ate.
He puffed his cheeks blowing. The dust of life has stuck, can you please let go? The younger brother impatiently leaned forward to blow again. Its hungry mouth caused the cake to fall into the smelly sewer and sink completely.
– Who told Hai to blow harder? – The girl said and then whimpered.
– Yeah. Because of you! But the cream still sticks to my hands. Give me three fingers, I'll only lick two!
(Ly Thanh Thao, Excerpt from "Forty very short stories", Writers' Association Publishing House, 1994)
What does the above story remind you of?
REFERENCE WORK
"Brothers like hands and feet
Whether the wound heals or covers the bad, it helps."
It's true, at a certain moment in life, we will see that life is never smooth, the road we are and are about to go through is never flat and full of roses. Bumps and incidents along the way can make us discouraged and hopeless. At those times, we will need a shoulder to lean on, a place to share our feelings, and a loving embrace to protect us. At that time, our brother and sister will always be ready to be by our side, support us, protect us, love us, warm our hearts and heal our wounds. That message of love is once again conveyed in the story "Brother Hai".
In everyday reality, we can see on television or in books and newspapers that in poor rural areas, families do not have enough money to feed both brothers or sisters. The older brother or sister will always sacrifice for the younger sibling's education, while he or she will work to earn money to help the family support the younger sibling's education. My own mother is a testament. In the past, when I was young, because my family was poor and had many children, my mother dropped out of school and had to brave the rain and the sun every day to split leeks and sell street food to earn money to feed the whole family. My mother gave the ticket to the future to her younger siblings... However, there are brothers and sisters who see their younger siblings as a burden, always hate and chase them away. Like my friend named T, every time I go to his house, I see his brother scolding and hitting him. Even though he cried a lot and said sorry a hundred times, his brother continued to beat him.
In a family, if brothers get along, live happily and love each other, their home will always be filled with joy, laughter and happiness. Like poet To Huu once wrote:
“There is nothing more beautiful in life than that
Humans live to love each other".
And if this Earth is filled with love and happiness, and warm sunlight covers the whole Earth, then in this world there will be no more wars, no more conflicts and discord. So brotherhood in every family is very important. But on the contrary, if family members are in discord, fighting every day, and fighting a cold war with each other, darkness and gloom will cover the whole Earth. We will have to live every day in war, discord, and endless quarrels. Society will increasingly decline, security and order in society will be disturbed.
In today's society, there are people from all classes and all groups, especially those who are emotionally paralyzed, have no heart, and do not know how to love their closest relatives, their brothers. There are people who are even worse, those living at the bottom of society, the dregs of society. They do depraved things and harm their own brothers. In the upper class, we can see clearly that, because of property disputes, even brothers harm each other. Just because they are overshadowed by material things and money, "brothers are fractious" and turn against each other. Those people deserve to be condemned and punished by society.
Understanding and deeply feeling the importance of brotherhood, what should we do? Those who have built brotherhood in the family should cherish it, continue to love, continue to build it firmly so that no wind can knock it down. As for those who do not love their brothers, let love melt their icy hearts. Don't lose them and regret it when it's too late. And especially for those who are jealous and envious of their brothers, "Don't let the snake of jealousy creep into your heart. It is a poisonous snake. It corrodes the mind and corrupts the heart.” Practice being altruistic and tolerant, never be jealous of your brothers. It will cover your eyes and lead you down a dark and lost path. Always remember that living in this world is to love. If you don't know how to love, it's as if you're "dead while you're alive."
Love doesn't need to be expressed through something big. Love can be silent. Love is expressed through the smallest and most trivial things in life, like two brothers giving each other a piece of cake in the story "Second Brother" or a helping hand when they see others in trouble. Brotherly love is the same, it doesn't need to be shown to everyone, as long as everyone has a fire of love in their heart, it can warm the whole world.
(Students' work)
>> See more Topic 70 here.
(Source: What do you think after seeing the image above?
Tags: Mr. Hai · Topic 69 · Selected literature 9
|
Đề 7 – Kể lại một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Một việc em làm khiến bố mẹ vui lòng
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
– Em cần xác định, việc làm tốt khiến cho bố mẹ vui lòng đó là việc gì (giúp đỡ một cụ bà qua đường, đem trả lại tiền nhặt được cho người bị đánh rơi, giúp đỡ bạn bè trong học tập, trong cuộc sống…)?
– Tâm trạng, cảm xúc của ba mẹ khi em kể lại câu chuyện đó cho ba mẹ nghe là những cảm xúc gì?
– Tâm trạng, cảm xúc của em lúc đó ra sao? (hạnh phúc, tự hào, hứa hẹn trong lòng những niềm tin mới,…)
– Em đã có những lời nói, hứa hẹn như thế nào đối với ba mẹ của em trong tương lai sẽ làm thêm thật nhiều việc tốt nữa?
DÀN Ý CHI TIẾT
Lấy ví dụ là TRẢ VÍ TIỀN LẠI CHO NGƯỜI BỊ MẤT
I. MỞ BÀI
Làm việc tốt chắc chấn sẽ mang đến niềm vui cho cha mẹ, thầy cô và mọi người xung quanh.
Tôi đã làm được rất nhiều việc tốt nhưng việc mà tôi nhớ nhất là có lần tôi nhặt được một chiếc ví tiền đem trả lại cho người bị mất.
II. THÂN BÀI
1. Hoàn cảnh
Hôm ấy, đám bạn học rủ tôi đi xem phim.
Trong rạp xem phim, tôi tình cờ nhặt được một ví tiền có rất nhiều tiền trong đó.
Tôi đã đắn đo rất nhiều và cuối cùng quyết định trả lại ví tiền cho người bị mất.
2. Quá trình nhặt và trả lại ví tiền
Tôi đi xem phim với các bạn.
Khi tới chỗ bán vé, tôi tình cờ thấy được một cái ví bị đánh rơi gần đó.
Tôi giả bộ tới đó ngắm mấy bức tranh và nhặt ngay chiếc ví.
Tôi vội vàng quay sang bảo với lũ bạn là mình quên đem theo tiền.
Trong đám bạn có một vài đứa nói rằng sẽ cho mình mượn tiền.
Tôi lần lữa không chịu, nói là bạn bè ai lại mượn của nhau mắc công không hay. Tôi chạy thật nhanh về nhà.
Thế nhưng, trên đường chạy về, tôi suy nghĩ bần thần rằng nếu cái ví tiền này là của một người mới mượn được tiền về để chạy chữa bệnh tật cho con cái thì sao?
Hay số tiền này là tài sản duy nhất của một người nghèo khổ nào đó thì sao?
Tôi đắn đo, suy nghĩ với số tiền này, mình có thể mua thật nhiều đồ chơi và quà cho gia đình.
Cuối cùng tôi cũng quyết định đem cái ví đến cho các chú công an để tìm lại người bị mất.
Do chạy tới đồn công an hơi vội vã nên tôi mệt mỏi và ngồi nghỉ, uống nước. Một lát sau có một người trông cũng khá lớn tuổi, nhìn từ xa là như vậy.
Tôi trả lời rồi nói rằng tôi nhìn thấy nó xung quanh chỗ bán vé nên đem tới công an để tìm người bị mất.
Ông sau khi nhận được ví thì cảm ơn tôi rối rít. Mong muốn đền ơn tôi bằng một tờ bạc lớn.
Tuy vậy, tôi không nhận và nói rằng đó là việc tôi nên làm. Ba mẹ, thầy cô đã dạy tôi rằng “nhặt được của rơi phải trả cho người bị mất”.
Tôi chạy tới chỗ xem phim để cùng hòa nhịp vui với các bạn của mình.
Ngày hôm sau, tôi được nhà trường gọi lên sân trường để tuyên dương trước trường là học sinh trung thực, gương mẫu trong việc làm việc tốt “nhặt được của rơi, trả người bị mất”. Tôi cảm thấy mình thật vui sướng và hạnh phúc vì điều đó.
Về sau tôi mới hiểu là người đàn ông ấy chính là em trai của thầy hiệu trưởng trường tôi.
Ông đã về nói lại và đề nghị thầy hiệu trưởng tuyên dương tôi trước trường để làm gương cho những em học sinh khác.
III. KẾT BÀI
Làm được một việc tốt thật sự là một niềm vui sướng, hạnh phúc biết bao.
Tôi luôn tự hứa với bản thân mình rằng sẽ luôn luôn phấn đấu làm thật nhiều việc tốt hơn nữa để không làm phụ lòng thầy cô và cha mẹ đã tin yêu.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống văn minh hiện đại với những bộn bề công việc, có bao giờ bạn ngồi ngẫm lại có bao lần bạn làm được việc nào tốt chưa? Tôi đã làm được rất nhiều việc tốt nhưng việc mà tôi nhớ nhất là có lần tôi nhặt được một chiếc ví tiền đem trả lại cho người bị mất. Chuyện là như thế này:
Hôm đó là một buổi sáng chủ nhật tuyệt đẹp. Bầu trời trong xanh, quang đãng, những chị mây trôi bồng bềnh trên bầu trời như những chiếc thuyền trôi lững lờ trên làn nước trong xanh, êm dịu. Ông mặt trời từ từ ló dạng với những tia nắng ban mai đang nhảy múa tung tăng trên mặt đường tấp nập xe cộ qua lại. Vào lúc tám giờ, tôi đang ngồi xem ti-vi cùng với gia đình bỗng một tiếng kêu phát ra từ dưới lầu vang lên: “Quốc ơi! Đi xem phim cùng với bọn này không?”. Tôi liền nhận ra đó là tiếng của bạn Hiếu, tôi lật đật chạy ra mở cửa sổ và nói: “Chờ tôi một chút”. Tôi liền xin phép bố mẹ cho đi xem phim, bố mẹ tôi gật đầu đồng ý và thế là tôi sửa soạn quần áo và chạy xuống cùng với các bạn của mình. Vừa xuống nhà chúng tôi bắt đầu đi với những câu chuyện tán dóc rất hài hước. Đi được một quãng đường tôi mới hỏi: “Bây giờ chúng mình đi xem phim gì?”. Tài nói: “Đi xem “Turbo – ốc sên siêu tốc”, nghe nói phim này hay lắm!”. Tôi liền đáp lại: “ừ”. Tôi nghĩ trong đầu: “Đây là một bộ phim mà mình đã đợi lâu lắm rồi”. Tới nơi, các bạn rất háo hức muốn xem bộ phim này không chỉ riêng tôi. Đứng trước rạp phim, tôi thấy rạp rất đẹp với những ánh đèn chiếu lấp lánh xuống đường. Thì ra đó là rạp “BHD Star”. Không gian chỗ rạp này rất rộng rãi và thoáng mát với những hàng cây xanh tạo nên bầu không khí trong lành. Ngó qua ngó lại thì bỗng nhiên tôi thấy có một cái gì đó rơi ở đằng kia. Sự tò mò của tôi lại trỗi lên. Tôi liền nghĩ ra một kế và nói: “Chết chưa. Mình quên tiền ở nhà rồi, để tôi chạy về nhà lấy”. Quyên nói: “Để tôi cho bạn mượn”. Tôi liền nói: “Thôi mình không muốn mượn tiền của ai cả”. Vừa dứt lời, tôi liền chạy về và núp vào vách tường kề bên rạp. Các bạn lúc đó cũng đã vào rạp. Thừa lúc các bạn vào, tôi liền chạy tới chỗ đồ vật khi nãy. Thì ra đó là một chiếc ví da cá sấu rất đắt tiền. Chiếc ví màu đen viền màu vàng đất nhìn rất sang trọng và nghĩ: “Chắc trong đây có nhiều tiền lắm đây!”. Tôi liền mở ví ra thì thấy rất nhiều tiền trong ví, có cả tiền đô trong đó nữa. Lúc ấy, mọi điều ước bấy lâu nay tôi mong muốn bỗng dần hiện ra một cách rõ ràng mồn một. “Đây là một số tiền lớn, mình có thể mua cho ba một chiếc điện thoại để làm quà sinh nhật cho ba. Hay cũng có thể mua một chiếc Iphone mà mẹ mình luôn mong đợi. Hoặc một bộ đồ chơi siêu nhân cho đứa em ở nhà. Còn tiền đóng học phí cho ba mẹ bớt vất vả. Số tiền này mình cũng có thể bao các bạn đi ăn kem, xem phim”. Thế nhưng, bên cạnh những điều ấy cũng là những chất vấn của bản thân tôi: “Mình lấy số tiền này, người bị mất sẽ rất buồn và lo lắng. Người đó đã làm việc rất cực nhọc để có được số tiền này. Hay người đó đã vay tiền nóng để đóng phí cho con cái chẳng hạn. Mình phải làm sao đây?”. Tôi đứng lưỡng lự và ra quyết định cuối cùng đó là đến đồn công an gần nhất để đưa cho chú công an gửi lại người bị mất. Chút nữa tôi lại tiếp tục nghĩ: “Chắc không sao đâu, mình lấy tiền này đâu có ai biết, mình cứ giữ lấy”. Lại một ý kiến khác chợt xuất hiện: “Lỡ người ấy rất buồn và đang đau khổ vì đã đánh rơi nó thì sao?”. Thế là tôi vẫn giữ lập trường là đem đến đồn công an. Tôi không biết đường nên đã hỏi bác xe ôm gần đó. Cuối cùng, tôi cũng đã đến được đồn công an. Tôi liền chạy vào và nói: “Chú ơi! Con đã nhặt được cái ví này, chú hãy giúp con trả lại cho người bị mất”. Chú công an liền hỏi thăm tôi tên tôi, trường lớp tôi học nhưng tôi không biết để làm gì. Tôi ngồi nghỉ ngơi một chút trong đồn. Một lúc sau, bỗng nhiên có một chú trạc tuổi bố tôi đi vào với vẻ mặt lo lắng và hớt hải: “Anh công an ơi, anh có nhận được một chiếc ví tiền da cá sấu màu đen viền vàng đất không”. Chú công an mỉm cười và nói: “Tôi có nhận được chiếc ví đó của anh từ một chú bé đang ngồi nghỉ ở đằng kia”. Chú ấy chạy lại và nói: “Có phải con đã nhặt được chiếc ví của chú phải không?”. Tôi thẳng thắn trả lời: “Dạ phải ạ”. Chú đó liền móc trong túi ra một số tiền gửi cho tôi, tôi liền từ chối không nhận. Chú cảm ơn tôi rối rít vì đó là số tiền mà chú mới vay của người bạn để lo cho công việc gia đình. Tôi cảm thấy rất vui và hạnh phúc vì mình vừa làm được một việc tốt. Về đến rạp, bộ phim cũng đã kết thúc. Tôi đi về nhà và kể lại toàn bộ câu chuyện cho bố mẹ nghe. Bố mẹ nghe xong liền ôm tôi vào lòng và khen rằng tôi rất ngoan và tốt bụng vì đã giúp chú ấy. Tôi nhận ra được một điều rằng, khi ta làm việc tốt thì niềm vui và hạnh phúc còn lớn lao hơn rất nhiều số tiền mà ta nhặt được. Vào thứ hai đầu tuần, giờ chào cờ bỗng nhiên tôi được gọi lên giữa sân trường để tuyên dương và được trao tặng một phần quà vì đã làm được một việc tốt. Bây giờ tôi mói hiểu ra tại sao chú công an lại xin tên, trường lớp nơi mình đang học.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 8: “Tôi thấy mình đã khôn lớn” tại đây.
Tags:Đề 7 · Văn chọn lọc 9
|
Đề 7 – Kể lại một việc em đã làm khiến bố mẹ vui lòng – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Một việc em làm khiến bố mẹ vui lòng
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú ý những ý chính sau:
– Em cần xác định, việc làm tốt khiến cho bố mẹ vui lòng đó là việc gì (giúp đỡ một cụ bà qua đường, đem trả lại tiền nhặt được cho người bị đánh rơi, giúp đỡ bạn bè trong học tập, trong cuộc sống…)?
– Tâm trạng, cảm xúc của ba mẹ khi em kể lại câu chuyện đó cho ba mẹ nghe là những cảm xúc gì?
– Tâm trạng, cảm xúc của em lúc đó ra sao? (hạnh phúc, tự hào, hứa hẹn trong lòng những niềm tin mới,…)
– Em đã có những lời nói, hứa hẹn như thế nào đối với ba mẹ của em trong tương lai sẽ làm thêm thật nhiều việc tốt nữa?
DÀN Ý CHI TIẾT
Lấy ví dụ là TRẢ VÍ TIỀN LẠI CHO NGƯỜI BỊ MẤT
I. MỞ BÀI
Làm việc tốt chắc chấn sẽ mang đến niềm vui cho cha mẹ, thầy cô và mọi người xung quanh.
Tôi đã làm được rất nhiều việc tốt nhưng việc mà tôi nhớ nhất là có lần tôi nhặt được một chiếc ví tiền đem trả lại cho người bị mất.
II. THÂN BÀI
1. Hoàn cảnh
Hôm ấy, đám bạn học rủ tôi đi xem phim.
Trong rạp xem phim, tôi tình cờ nhặt được một ví tiền có rất nhiều tiền trong đó.
Tôi đã đắn đo rất nhiều và cuối cùng quyết định trả lại ví tiền cho người bị mất.
2. Quá trình nhặt và trả lại ví tiền
Tôi đi xem phim với các bạn.
Khi tới chỗ bán vé, tôi tình cờ thấy được một cái ví bị đánh rơi gần đó.
Tôi giả bộ tới đó ngắm mấy bức tranh và nhặt ngay chiếc ví.
Tôi vội vàng quay sang bảo với lũ bạn là mình quên đem theo tiền.
Trong đám bạn có một vài đứa nói rằng sẽ cho mình mượn tiền.
Tôi lần lữa không chịu, nói là bạn bè ai lại mượn của nhau mắc công không hay. Tôi chạy thật nhanh về nhà.
Thế nhưng, trên đường chạy về, tôi suy nghĩ bần thần rằng nếu cái ví tiền này là của một người mới mượn được tiền về để chạy chữa bệnh tật cho con cái thì sao?
Hay số tiền này là tài sản duy nhất của một người nghèo khổ nào đó thì sao?
Tôi đắn đo, suy nghĩ với số tiền này, mình có thể mua thật nhiều đồ chơi và quà cho gia đình.
Cuối cùng tôi cũng quyết định đem cái ví đến cho các chú công an để tìm lại người bị mất.
Do chạy tới đồn công an hơi vội vã nên tôi mệt mỏi và ngồi nghỉ, uống nước. Một lát sau có một người trông cũng khá lớn tuổi, nhìn từ xa là như vậy.
Tôi trả lời rồi nói rằng tôi nhìn thấy nó xung quanh chỗ bán vé nên đem tới công an để tìm người bị mất.
Ông sau khi nhận được ví thì cảm ơn tôi rối rít. Mong muốn đền ơn tôi bằng một tờ bạc lớn.
Tuy vậy, tôi không nhận và nói rằng đó là việc tôi nên làm. Ba mẹ, thầy cô đã dạy tôi rằng “nhặt được của rơi phải trả cho người bị mất”.
Tôi chạy tới chỗ xem phim để cùng hòa nhịp vui với các bạn của mình.
Ngày hôm sau, tôi được nhà trường gọi lên sân trường để tuyên dương trước trường là học sinh trung thực, gương mẫu trong việc làm việc tốt “nhặt được của rơi, trả người bị mất”. Tôi cảm thấy mình thật vui sướng và hạnh phúc vì điều đó.
Về sau tôi mới hiểu là người đàn ông ấy chính là em trai của thầy hiệu trưởng trường tôi.
Ông đã về nói lại và đề nghị thầy hiệu trưởng tuyên dương tôi trước trường để làm gương cho những em học sinh khác.
III. KẾT BÀI
Làm được một việc tốt thật sự là một niềm vui sướng, hạnh phúc biết bao.
Tôi luôn tự hứa với bản thân mình rằng sẽ luôn luôn phấn đấu làm thật nhiều việc tốt hơn nữa để không làm phụ lòng thầy cô và cha mẹ đã tin yêu.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Trong cuộc sống văn minh hiện đại với những bộn bề công việc, có bao giờ bạn ngồi ngẫm lại có bao lần bạn làm được việc nào tốt chưa? Tôi đã làm được rất nhiều việc tốt nhưng việc mà tôi nhớ nhất là có lần tôi nhặt được một chiếc ví tiền đem trả lại cho người bị mất. Chuyện là như thế này:
Hôm đó là một buổi sáng chủ nhật tuyệt đẹp. Bầu trời trong xanh, quang đãng, những chị mây trôi bồng bềnh trên bầu trời như những chiếc thuyền trôi lững lờ trên làn nước trong xanh, êm dịu. Ông mặt trời từ từ ló dạng với những tia nắng ban mai đang nhảy múa tung tăng trên mặt đường tấp nập xe cộ qua lại. Vào lúc tám giờ, tôi đang ngồi xem ti-vi cùng với gia đình bỗng một tiếng kêu phát ra từ dưới lầu vang lên: “Quốc ơi! Đi xem phim cùng với bọn này không?”. Tôi liền nhận ra đó là tiếng của bạn Hiếu, tôi lật đật chạy ra mở cửa sổ và nói: “Chờ tôi một chút”. Tôi liền xin phép bố mẹ cho đi xem phim, bố mẹ tôi gật đầu đồng ý và thế là tôi sửa soạn quần áo và chạy xuống cùng với các bạn của mình. Vừa xuống nhà chúng tôi bắt đầu đi với những câu chuyện tán dóc rất hài hước. Đi được một quãng đường tôi mới hỏi: “Bây giờ chúng mình đi xem phim gì?”. Tài nói: “Đi xem “Turbo – ốc sên siêu tốc”, nghe nói phim này hay lắm!”. Tôi liền đáp lại: “ừ”. Tôi nghĩ trong đầu: “Đây là một bộ phim mà mình đã đợi lâu lắm rồi”. Tới nơi, các bạn rất háo hức muốn xem bộ phim này không chỉ riêng tôi. Đứng trước rạp phim, tôi thấy rạp rất đẹp với những ánh đèn chiếu lấp lánh xuống đường. Thì ra đó là rạp “BHD Star”. Không gian chỗ rạp này rất rộng rãi và thoáng mát với những hàng cây xanh tạo nên bầu không khí trong lành. Ngó qua ngó lại thì bỗng nhiên tôi thấy có một cái gì đó rơi ở đằng kia. Sự tò mò của tôi lại trỗi lên. Tôi liền nghĩ ra một kế và nói: “Chết chưa. Mình quên tiền ở nhà rồi, để tôi chạy về nhà lấy”. Quyên nói: “Để tôi cho bạn mượn”. Tôi liền nói: “Thôi mình không muốn mượn tiền của ai cả”. Vừa dứt lời, tôi liền chạy về và núp vào vách tường kề bên rạp. Các bạn lúc đó cũng đã vào rạp. Thừa lúc các bạn vào, tôi liền chạy tới chỗ đồ vật khi nãy. Thì ra đó là một chiếc ví da cá sấu rất đắt tiền. Chiếc ví màu đen viền màu vàng đất nhìn rất sang trọng và nghĩ: “Chắc trong đây có nhiều tiền lắm đây!”. Tôi liền mở ví ra thì thấy rất nhiều tiền trong ví, có cả tiền đô trong đó nữa. Lúc ấy, mọi điều ước bấy lâu nay tôi mong muốn bỗng dần hiện ra một cách rõ ràng mồn một. “Đây là một số tiền lớn, mình có thể mua cho ba một chiếc điện thoại để làm quà sinh nhật cho ba. Hay cũng có thể mua một chiếc Iphone mà mẹ mình luôn mong đợi. Hoặc một bộ đồ chơi siêu nhân cho đứa em ở nhà. Còn tiền đóng học phí cho ba mẹ bớt vất vả. Số tiền này mình cũng có thể bao các bạn đi ăn kem, xem phim”. Thế nhưng, bên cạnh những điều ấy cũng là những chất vấn của bản thân tôi: “Mình lấy số tiền này, người bị mất sẽ rất buồn và lo lắng. Người đó đã làm việc rất cực nhọc để có được số tiền này. Hay người đó đã vay tiền nóng để đóng phí cho con cái chẳng hạn. Mình phải làm sao đây?”. Tôi đứng lưỡng lự và ra quyết định cuối cùng đó là đến đồn công an gần nhất để đưa cho chú công an gửi lại người bị mất. Chút nữa tôi lại tiếp tục nghĩ: “Chắc không sao đâu, mình lấy tiền này đâu có ai biết, mình cứ giữ lấy”. Lại một ý kiến khác chợt xuất hiện: “Lỡ người ấy rất buồn và đang đau khổ vì đã đánh rơi nó thì sao?”. Thế là tôi vẫn giữ lập trường là đem đến đồn công an. Tôi không biết đường nên đã hỏi bác xe ôm gần đó. Cuối cùng, tôi cũng đã đến được đồn công an. Tôi liền chạy vào và nói: “Chú ơi! Con đã nhặt được cái ví này, chú hãy giúp con trả lại cho người bị mất”. Chú công an liền hỏi thăm tôi tên tôi, trường lớp tôi học nhưng tôi không biết để làm gì. Tôi ngồi nghỉ ngơi một chút trong đồn. Một lúc sau, bỗng nhiên có một chú trạc tuổi bố tôi đi vào với vẻ mặt lo lắng và hớt hải: “Anh công an ơi, anh có nhận được một chiếc ví tiền da cá sấu màu đen viền vàng đất không”. Chú công an mỉm cười và nói: “Tôi có nhận được chiếc ví đó của anh từ một chú bé đang ngồi nghỉ ở đằng kia”. Chú ấy chạy lại và nói: “Có phải con đã nhặt được chiếc ví của chú phải không?”. Tôi thẳng thắn trả lời: “Dạ phải ạ”. Chú đó liền móc trong túi ra một số tiền gửi cho tôi, tôi liền từ chối không nhận. Chú cảm ơn tôi rối rít vì đó là số tiền mà chú mới vay của người bạn để lo cho công việc gia đình. Tôi cảm thấy rất vui và hạnh phúc vì mình vừa làm được một việc tốt. Về đến rạp, bộ phim cũng đã kết thúc. Tôi đi về nhà và kể lại toàn bộ câu chuyện cho bố mẹ nghe. Bố mẹ nghe xong liền ôm tôi vào lòng và khen rằng tôi rất ngoan và tốt bụng vì đã giúp chú ấy. Tôi nhận ra được một điều rằng, khi ta làm việc tốt thì niềm vui và hạnh phúc còn lớn lao hơn rất nhiều số tiền mà ta nhặt được. Vào thứ hai đầu tuần, giờ chào cờ bỗng nhiên tôi được gọi lên giữa sân trường để tuyên dương và được trao tặng một phần quà vì đã làm được một việc tốt. Bây giờ tôi mói hiểu ra tại sao chú công an lại xin tên, trường lớp nơi mình đang học.
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 8: “Tôi thấy mình đã khôn lớn” tại đây.
Tags:Đề 7 · Văn chọn lọc 9
|
Đề 7 – Đề kiểm tra học kì II – Tiếng Việt 4
Hướng dẫn
I.Em đọc thầm bài Ăn “mầm đá” (Tiếng Việt 4, Tập II, trang 157, 158).
II.Làm bài tập
1.Dựa vào nội dung bài đọc thầm “Ăn mầm đá” khoanh vào ô trống trước câu trả lời đúng.
A.Vì sao Chúa Trịnh bảo Trạng Quỳnh mách cho món ăn ngon?
B.Vì Chúa chưa bao giờ được ăn các món ăn ngon.
C.Vì Chúa ăn gì cũng không thấy ngon miệng
D. Vì Chúa biết Trạng Quỳnh rất thông minh.
2.Trạng Quỳnh giới thiệu món ăn gì với Chúa?
A.Món mầm đá.
B. Món tương.
C.Món mầm đá và món tương.
3.Vì sao Trạng Quỳnh không dâng Chúa món mầm đá?
A.Vì Chúa đã đói mà món mầm đá chưa kịp chín.
B. Vì món mầm đá phải ninh thật kĩ, không thì khó tiêu.
C.Vì thật ra không có món mầm đá.
4.Trạng Quỳnh đề hai chữ “đại phong” ở lọ tương dâng Chúa để làm gì?
A. Để Chúa tưởng đó là một món ăn lạ.
B. Để Chúa nghĩ rằng đó là món mầm đá.
C.Để bày cho Chúa cách nói lái.
5.Vì sao chúa Trịnh ăn cơm với tương vẫn thấy ngon miệng?
A.Vì tương là món ăn rất ngon.
B.Vì Chúa tưởng đó là một món ăn lạ.
C.Vì đang đói thì ăn gì cũng thấy ngon.
6.Trong câu “Vào thời vua Lê – chúa Trịnh, có ông Trạng Quỳnh là người rất thông minh”, có mấy danh từ riêng?
B. Hai danh từ riêng. Đó là:………………..
C.Ba danh từ riêng. Đó là:………………..
7.Ở cuối câu “Ngươi biết thứ gì ngon thì mách cho ta.”, có thể đặt dấu chấm hỏi không? Vì sao?
A. Có, vì đó là câu hỏi.
B.Không, vì đó không phải là câu hỏi.
C.Thế nào cũng được, vì câu ấy có thể dùng để bày tỏ mong muốn hay để hỏi.
8.Trạng Quỳnh nói lái “tượng lo” thành “lọ tương” bằng cách nào?
A.Đảo vị trí hai tiếng “tượng” và “lo” cho nhau.
B.Đổi thanh của hai tiếng “tượng” và “lo” cho nhau,
C.Dùng cả hai cách trên.
9. A Sắp xếp các từ phức có chứa tiếng “vui” vào cùng nhóm:
Vui chơi, vui tính, vui vẻ, vui tai, vui lòng, chia vui, vui sướng, vui thích, góp vui, vui nhộn, vui mừng, mua vui, vui thú, vui mắt.
a.Chỉ hoạt động:………………………………………………………………….
b.Chỉ cảm giác:……………………………………………………………………
c.Chỉ tính tình:……………………………………………………………………..
B.Đặt câu:
Mỗi loại đặt một câu:
III.Tập làm văn
Đề bài: Tả một con vật nuôi ở nhà (hoặc ở nhà bạn em) mà em thích
Bài làm
>>XEM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TẠI ĐÂY
|
Topic 7 – Semester II test – Vietnamese 4
Instruct
I.I silently read the article Eating "stone sprouts" (Vietnamese 4, Volume II, pages 157, 158).
II. Do the exercises
1. Based on the content of the silent reading "Eating stone sprouts" circle the blank box before the correct answer.
A. Why did Lord Trinh ask Trang Quynh to recommend delicious dishes?
B.Because God has never eaten delicious food.
C. Because no matter what God eats, he has no appetite
D. Because God knows Trang Quynh is very smart.
2.What dish does Trang Quynh recommend to God?
A. Stone sprouts.
B. Soy sauce dish.
C. Stone sprout dish and soy sauce dish.
3.Why did Trang Quynh not offer God the stone sprouts?
A. Because God was hungry but the stone sprouts had not yet cooked.
B. Because the dish must be simmered thoroughly, otherwise it will be difficult to digest.
C. Because there is actually no such thing as stone sprouts.
4.What is the purpose of Trang Quynh putting the word "great wind" in the jar of soy sauce offered to God?
A. Let God think it's a strange dish.
B. Let God think that it is a dish of stone sprouts.
C.To show God how to speak nonsense.
5.Why did Lord Trinh still feel delicious when eating rice with soy sauce?
A. Because soy sauce is a very delicious dish.
B.Because God thought it was a strange dish.
C. Because when you're hungry, anything you eat feels delicious.
6.In the sentence "During the reign of King Le - Lord Trinh, there was Mr. Trang Quynh who was very intelligent", how many proper nouns are there?
B. Two proper nouns. That is:………………..
C.Three proper nouns. That is:………………..
7. At the end of the sentence "If you know something delicious, please tell me.", can you put a question mark? Why?
A. Yes, because that was the question.
B.No, because that's not the question.
C.Anything is fine, because that sentence can be used to express a wish or to ask a question.
8.How does Trang Quynh say "tuong lo" into "bottle of soy sauce"?
A. Reverse the positions of the two words "image" and "lo" to each other.
B.Change the tone of the two words "tuong" and "lo" for each other,
C. Use both methods above.
9. A Arrange complex words containing the word “fun” into the same group:
Have fun, be funny, have fun, be fun, please, share joy, be happy, enjoy, entertain, be fun, be happy, entertain, have fun, be pleasing to the eye.
a.Only activities:………………………………………………………………….
b.Feeling only:………………………………………………………………………………………………
c. Personality only:………………………………………………………………………………………………..
B. Make sentences:
Each type asks a question:
III.Practice writing
Topic: Describe a pet at home (or at your friend's house) that you like
Assignment
>>SEE ANALYSIS GUIDE HERE
|
Đề 70 – Suy nghĩ về hình ảnh cho dưới đây – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9
Hướng dẫn
Suy nghĩ về hình ảnh cho dưới đây
Đề 70:
(Nguồn: Em có suy nghĩ gì sau khi xem hình ảnh trên?
—————————————————-
BÀI LÀM THAM KHẢO
“Đất nước cong hình cung mũi nỏ
Núi thâm trầm nghe biển hát ru
Khi giặc đến, núi vươn thành lá chắn
Biên trào sôi, dâng kiếm sóng ngăn thù
Bao xương máu những người con của Mẹ
Lặng lẽ vào dòng biển kết san hô… ”
Từ rất lâu rồi, lãnh thổ nước Việt Nam đã bao gồm phần đất liền và hải đảo. Qua bao năm tháng lịch sử thăng trầm, ngày hôm nay, nước ta đã được hưởng bầu trời tự do, độc lập. Hải đảo cũng như phần đất liền, là máu thịt của mỗi con người nước Nam, được mọi người vô cùng yêu thương và ra sức gìn giữ. Ở đó, nơi cơn gió mang hơi muối vẫn có những con người thầm lặng giữ lấy mảnh đất quê hương, trong đất liền ấm áp vẫn có những trái tim đang hướng về phía Đông Tổi quốc – biến đảo chủ quyền của nước ta.
Vùng biển nước ta nằm trong biển Đông, thuộc Thái Bình Dương. Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3000 km cùng diện tích biển trên 1 triệu. Ẩn sâu dưới lòng đại dương là biết bao tài nguyên vô giá. Biển đảo nước ta có nguồn hải sản dồi dào, sinh vật đa dạng, có nhiều loại hình khoáng sản,… Bên cạnh đó, trên vùng biển Việt Nam còn có khá nhiều đảo gần bờ và hai quần đảo xa bờ đó là Hoàng Sa và Trường Sa. Các đảo và quần đảo này có vị trí chiến lược và tiềm năng trong việc khai thác du lịch, trở thành các khu bảo tồn, khu nghỉ dưỡng,… Biển Việt Nam là nguồn lực lớn trong việc phát triển kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi trong việc khai thác hải sản, khoáng sản và giao thông hàng hải, du lịch,… Chính vì thế vùng biển này được nhân dân cả nước dành trọn tình yêu thương và sự bảo bọc.
“Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn thể không yên lòng
Sóng lớp lớp xô lên thềm lục địa
Trong hồn người có con sóng nào không? ”
Giữa muôn trùng đại dương sâu thẳm ấy, không phải lúc nào thiên nhiên cũng tươi đẹp, thời tiết cũng trong lành. Mà đôi lúc nơi biển đảo cũng phải hứng chịu những đợt sóng dữ dội. Trong tâm hồn người Việt Nam cũng thế, lúc nào cũng tồn tại những “làn sóng”. Đó là những “cơn bão” lòng, lo toan cho sự an nguy của đất nước, thôi thúc lòng yêu thương dành cho biển đảo quê hương. Và “cơn bão” ấy thật sự dữ dội hơn, mãnh liệt hơn khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD981 trên hải phận Việt Nam với mục đích thăm dò dầu khí và khoáng sản trên Biển Đông của Việt Nam. Nhưng có lẽ không chỉ vì lí do đó. Việc vi phạm luật pháp quốc tế về Luật biển năm 1982 này có thể là còn để thăm dò sức chịu đựng, lòng yêu nước của toàn dân Việt Nam. Trước tình hình ấy, nhân dân cả nước đã có những hành động vô cùng thiết thực.
“Cuộc sống nơi đây tháng ngày dài thể kỳ
Sáng, trưa, chiều, tối chi từng ấy bước chân…
Các anh là những anh hùng trong thời kì đổi mới
Nhận hi sinh cho Tổ quốc yên bình”.
Khi Trung Quốc có những hành động sai trái, các anh đã tiếp cận giàn khoan HD981. Nhưng Trung Quốc không thừa nhận hành vi của mình mà còn phun vòi rồng vào thuyền của các chiến sĩ. Tuy bị thương nhưng các anh vẫn bất chấp nguy hiểm, trụ vững trên vùng biển, quyết “Một tấc không đi, một li không rời” để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của dân tộc. Cám ơn các anh! Các anh là những người anh hùng của nước Việt ta. Dù có khó khăn đến mấy các anh vẫn luôn hiên ngang cầm chắc súng trong tay đế bảo vệ cho đất nước, sẵn sàng hi sinh thân mình khi Tổ quốc cần đến. Em vô cùng khâm phục và tự hào khi Việt Nam ta có những người con vô cùng dũng cảm. Chính sự dũng cảm và những hành động của các anh đã tiếp thêm lòng yêu quê hương đất nước, yêu vùng biển quê nhà cho chúng em, làm chúng em thêm yêu các anh – những người lính nơi hải đảo xa xôi ấy. Xin cảm ơn các anh!
“Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đấy
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi”.
Chúng ta, tôi và bạn – những người con đất Việt – dù sinh ra trong thời bình nhưng lúc nào ta cũng phải có một trái tim tràn ngập tình yêu dành cho Tổ quốc. Chúng ta phải tiếp nối đàn anh đi trước, các anh đã hy sinh ước mơ, hoài bão để đi theo tiếng gọi của con tim, của lý tưởng. Tuổi trẻ hôm nay là tương lai của đất nước. Tôi và bạn hãy cố hết sức làm việc và lao động, học tập thật tốt. Khi Tổ quốc cần đến, chúng ta phải hiến dâng sức lực, tài năng để làm giàu, để bảo vệ đất nước. Ta phải có những hành động thiết thực để xây dựng và giữ gìn vùng biển đảo. “Tổ quốc gọi, chúng tôi sẵn sàng!”. Chúng ta phải học theo những tấm gương cao cả ấy và phải phê phán những kẻ làm trái đạo lý. Đó là những con người thờ ơ với vận mệnh đất nước, bàng quang với tình hình quốc gia, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ biết hưởng thụ, những người này là những gánh nặng cho xã hội, đất nước. Bên cạnh đó, có một số người yêu nước không đúng cách. Ở Bình Dương, Hà Tĩnh, họ tổ chức đập phá các công ty nước ngoài. Vì học thức kém, họ cứ nghĩ biển hiệu của các công ty đó có chữ Trung Quốc nhưng thực ra đó là công ty của Nhật và Đài Loan. Ngay khi ở khơi xa, tình hình quốc phòng đang căng thẳng, những người ở đất liền lại có những hành động như thế. Những hành động đó không phải là yêu nước đúng pháp luật. Thật đáng xử phạt!
(Bài làm của HS)
>> Xem thêm Đề 71: “Đánh giá, đối xử với bản thân thì bằng lí trí. Đánh giá, đối xử người khác thì bằng tấm lòng. “(Ngạn ngữ phương Tây). Trình bày ý kiến của em về vấn đề trên tại đây.
Tags:Đề 70 · Hình ảnh · Văn chọn lọc 9
|
Topic 70 – Think about the image given below – Developing selective essay writing skills 9
Instruct
Think about the image given below
Topic 70:
(Source: What do you think after seeing the image above?
—————————————————-
REFERENCE WORK
“The country is curved in the shape of a crossbow
The mountains are deep and the sea sings a lullaby
When the enemy comes, the mountains rise up to become a shield
The tide boiled, raising swords and waves to stop the enemy
So many bones and blood of my children
Quietly entering the coral-studded sea..."
For a long time, Vietnam's territory has included mainland and islands. Through many years of ups and downs in history, today, our country enjoys a sky of freedom and independence. The islands, as well as the mainland, are the flesh and blood of every person in the South, deeply loved and tried hard to preserve by everyone. There, where the salt wind blows, there are still people silently holding on to their homeland, in the warm mainland there are still hearts looking towards the East of the Fatherland - transforming the sovereignty of our country.
Our country's waters are located in the East Sea, in the Pacific Ocean. Vietnam has a coastline of more than 3,000 km and a sea area of over 1 million. Hidden deep beneath the ocean are countless priceless resources. Our country's sea and islands have abundant seafood resources, diverse creatures, many types of minerals, etc. Besides, in Vietnam's waters there are also many near-shore islands and two offshore archipelagos, namely Hoang Sa. and Truong Sa. These islands and archipelagos have a strategic location and potential in exploiting tourism, becoming conservation areas, resorts, etc. Vietnam's sea is a great resource in developing the marine economy, creating favorable conditions for tourism. Favorable conditions for exploiting seafood, minerals, maritime traffic, tourism, etc. That is why this sea area is loved and protected by the people of the whole country.
“If the Fatherland today looks from the sea
Au Co's mother must not have felt reassured
Wave after wave rushed up the continental shelf
Is there any wave in the human soul? ”
In the midst of all those deep oceans, nature is not always beautiful and the weather is clear. But sometimes the sea and islands also suffer from fierce waves. In the soul of Vietnamese people, too, there always exist "waves". Those are "storms" of the heart, worrying about the safety of the country, inspiring love for the homeland's islands and islands. And that "storm" was truly more intense and intense when China illegally placed the rig HD981 in Vietnamese waters for the purpose of exploring for oil, gas and minerals in Vietnam's East Sea. But maybe not just for that reason. This violation of international law on the 1982 Law of the Sea may still test the endurance and patriotism of the entire Vietnamese people. Faced with that situation, people across the country have taken extremely practical actions.
“Life here is extremely long
Morning, noon, afternoon, evening, so many steps...
You are heroes in the reform period
Accept sacrifices for the peaceful Fatherland."
When China took wrong actions, you approached the rig HD981. But China did not admit its actions and also sprayed water cannons at the soldiers' boats. Even though they were injured, they still ignored the danger and stood firm on the sea, determined "Not one inch to go, not one inch to leave" to protect the sacred sovereignty of the nation. Thank you guys! You are the heroes of our country, Vietnam. No matter how difficult it is, you always hold your gun firmly in hand to protect the country, ready to sacrifice yourself when the Fatherland needs it. I am extremely admired and proud that Vietnam has extremely brave children. It is your courage and actions that have given us more love for our homeland, our love for our home sea, and made us love you more - the soldiers on that remote island. Thank you guys!
“If the Fatherland looks from many archipelagos
Lac Long's father has not returned yet
My father told me to keep every measure
Children and grandchildren still remember this blood and bones."
We, you and I - the people of Vietnam - even though we were born in a time of peace, we must always have a heart filled with love for the Fatherland. We must continue to follow our predecessors, who sacrificed their dreams and ambitions to follow the call of their hearts and ideals. Today's youth is the future of the country. You and I should try our best to work, study and study well. When the Fatherland needs us, we must devote our strength and talent to get rich and protect the country. We must take practical actions to build and preserve the sea and islands. "The motherland is calling, we are ready!". We must learn from those noble examples and criticize those who violate morality. These are people who are indifferent to the fate of the country, indifferent to the national situation, who only think of themselves, who only know how to enjoy themselves. These people are a burden to society and the country. Besides, there are some people who are not patriotic in the right way. In Binh Duong and Ha Tinh, they organized to destroy foreign companies. Because of their poor education, they thought the signs of those companies had Chinese characters, but in fact they were Japanese and Taiwanese companies. Even when offshore, the national defense situation is tense, people on the mainland take such actions. Those actions are not legally patriotic. It's worthy of punishment!
(Students' work)
>> See more Topic 71: “Evaluate and treat yourself using reason. Evaluate and treat others with your heart. “(Western proverb). Present your opinion on the above issue here.
Tags: Topic 70 · Image · Selected text 9
|
Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres khẳng định Liên Hợp Quốc (LHQ) sẽ tiếp tục quan tâm, hỗ trợ các ưu tiên phát triển của
Việt Nam
theo hướng xanh, bền vững, chuyển đổi công bằng, nhất là về khả năng tiếp cận tài chính.
Ngày 23/9, tiếp tục các hoạt động của đoàn Việt Nam tham dự Phiên thảo luận cấp cao Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (ĐHĐ LHQ) khóa 77 tại New York (
Mỹ
), Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh có các cuộc tiếp xúc với Tổng Thư ký LHQ và Chủ tịch ĐHĐ LHQ.
Gặp Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres, Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh bày tỏ tình cảm chân thành và sự tri ân sâu sắc của Việt Nam tới LHQ – người bạn, đối tác tin cậy luôn đồng hành với Việt Nam qua các giai đoạn phát triển, cũng như tới cá nhân Tổng Thư ký Guterres.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh Việt Nam luôn ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa đa phương và vai trò trung tâm của LHQ trong quản trị toàn cầu và điều phối các nỗ lực, giải quyết các thách thức chung; cho rằng cần nỗ lực xây dựng LHQ hoạt động hiệu quả hơn nữa và với đầy đủ nguồn lực để đáp ứng tốt nhất nhu cầu và mong mỏi của các quốc gia thành viên.
Phó Thủ tướng tái khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc cùng các nước thành viên và lãnh đạo LHQ thúc đẩy chương trình nghị sự chung quan trọng, từ thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững cho đến gìn giữ hòa bình tại các khu vực trên thế giới.
Phó Thủ tướng cũng nhấn mạnh việc Việt Nam đang tích cực triển khai cam kết tại Hội nghị COP26 về đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, đề nghị LHQ hỗ trợ tích cực trong quá trình xây dựng Quan hệ Đối tác Chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP).
Về phần mình, Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres bày tỏ những tình cảm đặc biệt dành cho Việt Nam, ấn tượng trước những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, và đánh giá cao những đóng góp tích cực, có trách nhiệm của Việt Nam trong thời gian qua đối với công việc chung của LHQ.
Tổng Thư ký khẳng định LHQ sẽ tiếp tục quan tâm, hỗ trợ các ưu tiên phát triển của Việt Nam theo hướng xanh, bền vững, chuyển đổi công bằng, nhất là về khả năng tiếp cận tài chính; đồng thời kỳ vọng Việt Nam phát huy mạnh mẽ vai trò hơn nữa, đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu.
An ninh nguồn nước
Cùng ngày, tại cuộc gặp Chủ tịch ĐHĐ LHQ khóa 77 Csaba Korosi, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh chúc mừng ông Korosi được các nước tín nhiệm bầu chọn để đảm nhiệm cương vị Chủ tịch ĐHĐ LHQ khóa 77.
Phó Thủ tướng đánh giá cao lựa chọn chủ đề khóa họp và các ưu tiên của ông Korosi, đồng thời khẳng định Việt Nam sẽ hỗ trợ tích cực và đóng góp cho thành công của khóa họp.
Chủ tịch ĐHĐ LHQ Csaba Korosi khẳng định LHQ trân trọng những đóng góp của Việt Nam, cho rằng Việt Nam là hình mẫu của tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường.
Chủ tịch ĐHĐ chia sẻ ưu tiên về quản lý nguồn nước và mong muốn hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực này; cho rằng cần thúc đẩy các biện pháp ngăn ngừa khủng hoảng nước, xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu về nước ở cấp độ khu vực và toàn cầu; gắn kết các chính sách quốc gia về nước và biến đổi khí hậu; mong muốn Việt Nam sẽ tích cực tham gia, chia sẻ kinh nghiệm tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về Nước trong tháng 3/2023.
Đáp lại, Phó Thủ tướng bày tỏ ủng hộ các sáng kiến, đề xuất của Chủ tịch ĐHĐ; chia sẻ quan tâm đặc biệt trong quản lý nguồn nước, cho biết Việt Nam coi nước là vấn đề an ninh quan trọng do phải chịu nhiều tác động của hạn hán, lũ lụt, nước biển dâng và việc phát triển, khai thác quá mức nguồn nước; khẳng định Việt Nam luôn xác định không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà cần có sự cân bằng giữa việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Bình Giang
|
United Nations Secretary General Antonio Guterres affirmed that the United Nations (UN) will continue to pay attention and support the development priorities of the United Nations.
Vietnam
towards green, sustainable, equitable transition, especially in terms of financial access.
On September 23, continued activities of the Vietnamese delegation attending the high-level discussion session of the 77th session of the United Nations General Assembly (UNGA) in New York (
America
), Permanent Deputy Prime Minister Pham Binh Minh had meetings with the UN Secretary General and the President of the UN General Assembly.
Meeting with UN Secretary General Antonio Guterres, Permanent Deputy Prime Minister Pham Binh Minh expressed Vietnam's sincere feelings and deep gratitude to the UN - a friend and trusted partner who has always accompanied Vietnam through all stages. development phase, as well as to Secretary General Guterres personally.
The Deputy Prime Minister emphasized that Vietnam always strongly supports multilateralism and the central role of the United Nations in global governance and coordination of efforts to solve common challenges; believes that efforts are needed to build the UN to operate more effectively and with sufficient resources to best meet the needs and expectations of member countries.
The Deputy Prime Minister reaffirmed Vietnam's commitment to working with member countries and UN leaders to promote important common agendas, from implementing the Sustainable Development Goals to preserving peace in regional areas. area in the world.
The Deputy Prime Minister also emphasized that Vietnam is actively implementing its commitment at COP26 to achieve net zero emissions by 2050, requesting the UN to actively support the process of building the Transition Partnership. Just Energy Exchange (JETP).
For his part, UN Secretary General Antonio Guterres expressed his special feelings for Vietnam, was impressed by Vietnam's socio-economic development achievements, and appreciated its positive contributions. Vietnam's responsibilities in recent times for the common work of the United Nations.
The Secretary General affirmed that the UN will continue to pay attention and support Vietnam's development priorities towards green, sustainable, and equitable transition, especially in terms of access to finance; At the same time, we expect Vietnam to strongly promote its role and contribute to solving global problems.
Water security
On the same day, at the meeting with President of the 77th United Nations General Assembly Csaba Korosi, Deputy Prime Minister Pham Binh Minh congratulated Mr. Korosi on being elected by countries to hold the position of President of the 77th United Nations General Assembly.
The Deputy Prime Minister highly appreciated Mr. Korosi's choice of meeting topics and priorities, and affirmed that Vietnam will actively support and contribute to the success of the meeting.
UN General Assembly President Csaba Korosi affirmed that the UN appreciates Vietnam's contributions, saying that Vietnam is a model of economic growth coupled with environmental protection.
The Chairman of the General Assembly shares the priority of water resource management and wishes to cooperate with Vietnam in this field; believes that it is necessary to promote measures to prevent water crises and build a water data information system at the regional and global levels; aligning national water and climate change policies; We hope that Vietnam will actively participate and share experiences at the United Nations Conference on Water in March 2023.
In response, the Deputy Prime Minister expressed his support for the initiatives and proposals of the Chairman of the General Assembly; shared special interest in water resource management, saying that Vietnam considers water an important security issue due to the many impacts of drought, floods, rising sea levels and overdevelopment and exploitation. water source; affirmed that Vietnam is always determined not to sacrifice the environment in exchange for economic growth alone, but needs to have a balance between economic development and environmental protection.
Binh Giang
|
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
nêu rõ nội dung trên tại Hội nghị ‘Phát triển thị trường khoa học và công nghệ đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập’.
Hội nghị được tổ chức tại điểm cầu Văn phòng Chính phủ, kết nối với các điểm cầu địa phương có lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các sở ngành liên quan.
Sau khi lắng nghe báo cáo và các ý kiến của các đại biểu dự họp, kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Bộ KH&CN chủ trì, phối hợp với VPCP và các cơ quan liên quan tiếp thu nghiêm túc các ý kiến, sớm hoàn thiện và trình ban hành văn bản chỉ đạo phù hợp về một số định hướng, giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm phát triển thị trường KHCN.
KHCN còn chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc
Thủ tướng cơ bản nhất trí với các đánh giá về hạn chế của thị trường KHCN như đã nêu trong Báo cáo của Bộ và lưu ý thêm:
So với nhu cầu thực tiễn và các thị trường khác, đặc biệt là so với các nước phát triển và một số nước trong khu vực, thị trường KHCN còn chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, nhiều nơi còn hình thức, thiếu thực chất.
Thể chế, chính sách phát triển thị trường KHCN còn bất cập, thiếu đồng bộ làm cho việc hợp tác giữa các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học… gặp nhiều khó khăn, thậm chí ách tắc, nhất là trong bối cảnh tình hình có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ như hiện nay.
Việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ của các viện nghiên cứu, trường đại học, các nhà khoa học còn hạn chế, làm khan hiếm nguồn cung hàng hóa KHCN trên thị trường.
Việc giao dịch mua bán công nghệ chủ yếu dưới hình thức hợp đồng mua sắm máy móc, thiết bị, vật tư. Việc chuyển giao công nghệ còn rất hạn chế.
Các tổ chức trung gian về chuyển đổi công nghệ còn yếu về năng lực, chưa đủ uy tín và chưa có thương hiệu để thúc đẩy giao dịch công nghệ; chưa có các tổ chức trung gian chuyên ngành trong các lĩnh vực, ngành hàng quan trọng. Chưa hình thành được mạng lưới các tổ chức trung gian trong nước, kết nối với thị trường khu vực và quốc tế.
Hệ thống hạ tầng quốc gia của thị trường KHCN còn yếu kém, lạc hậu, thiếu khả năng liên thông và tương tác giữa các chủ thể tham gia. Cổng thông tin quốc gia, cơ sở dữ liệu và nền tảng kỹ thuật số về thị trường KHCN chưa được đầu tư phát triển.
Cho rằng những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, Thủ tướng nêu rõ, chúng ta đang tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, hướng tới sở hữu những ngành công nghiệp phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, sở hữu những phát minh, sáng chế mới, những công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, theo Lê-nin, nếu “không xây dựng công nghệ, thì không giữ được địa vị độc lập của nước mình”.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định 3 đột phá chiến lược, trong đó: “Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam”; “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ”.
Quan điểm và các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường KHCN thời gian tới, Thủ tướng cơ bản nhất trí với Báo cáo và ý kiến phát biểu của các đại biểu dự Hội nghị. Thủ tướng nhấn mạnh một số nội dung về quan điểm chung:
Thị trường KHCN là một bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hàng hóa, dịch vụ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát triển thị trường KHCN phải lấy khoa học là nền tảng, nhà khoa học là động lực, doanh nghiệp là trung tâm, phù hợp với bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Huy động tối đa nguồn lực từ khu vực tư nhân và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tốc độ đổi mới sản phẩm và dịch vụ có độ tích hợp cao về công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhanh chóng gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu và chiếm lĩnh thị trường quốc tế.
Phát triển thị trường KHCN cần có chính sách đồng bộ, phù hợp, sự sẵn sàng của các nguồn cung cầu công nghệ, hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại cùng năng lực, uy tín và thương hiệu của các tổ chức trung gian.
Phát triển thị trường KHCN cần được đặt trong bối cảnh và mối quan hệ biện chứng, liên thông, đồng bộ với phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, tài chính và các thị trường khác; gắn kết thị trường trong nước với thị trường toàn cầu và khu vực, phù hợp với cam kết quốc tế của
Việt Nam
và thông lệ quốc tế.
Phát triển thị trường KHCN phải tuân thủ các quy luật thị trường (quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh (cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, bền vững để giảm giá thành, chất lượng cao, thanh toán thuận lợi).
Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, Thủ tướng nêu rõ:
Thứ nhất
, nâng cao nhận thức về thị trường KHCN. Tập trung rà soát, tháo gỡ các khó khăn, điểm nghẽn về thể chế, cơ chế, chính sách để thị trường KHCN phát triển đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ.
Các bộ, ngành, cơ quan, địa phương xây dựng và lồng ghép kế hoạch phát triển thị trường KHCN vào kế hoạch phát triển KTXH 5 năm và hằng năm.
Thứ hai
, triển khai hiệu quả 2 mục tiêu lớn và 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại Chương trình Phát triển thị trường KHCN quốc gia đến năm 2030 theo Quyết định số 1158/QĐ-TTg ngày 13/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó:
Thúc đẩy phát triển nguồn cung và cầu của thị trường KHCN, nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và viện nghiên cứu, trường đại học. Đẩy mạnh kết nối cung cầu, người mua và người bán, sản xuất và tiêu dùng.
Nâng cao năng lực hoạt động các tổ chức trung gian, nhất là các tổ chức lớn, đa ngành và gắn với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Khuyến khích, hỗ trợ phát triển tổ chức trung gian thuộc khu vực tư nhân. Phát triển mạnh mạng lưới tổ chức trung gian trên cơ sở kết nối các sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức dịch vụ KHCN tại các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp với các trung tâm ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN.
Đầu tư phát triển các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại một số thành phố lớn và khu vực kinh tế trọng điểm đã được quy hoạch phê duyệt liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới.
Tăng cường xúc tiến thị trường KHCN tại các địa bàn có nhiều nguồn cung công nghệ cao, tiên tiến và thân thiện môi trường, các thị trường tiềm năng mà Việt Nam có lợi thế thông qua các hiệp định thương mại tự do. Đẩy mạnh tổ chức các sự kiện xúc tiến thị trường KHCN quy mô vùng, quốc gia và quốc tế; quảng bá thị trường KHCN và đổi mới sáng tạo; lồng ghép, phối hợp với các sự kiện xúc tiến thương mại và đầu tư.
Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng quốc gia của thị trường KHCN. Từng bước liên thông, tích hợp với các nền tảng kỹ thuật số về thị trường KHCN trong nước và quốc tế.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực KHCN. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của thị trường KHCN và phát triển thị trường KHCN. Phát triển các doanh nghiệp tiên phong trong mua bán công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn.
Thứ ba
, đẩy mạnh kết nối liên thông, tiến tới đồng bộ hóa thị trường KHCN với các thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động và tài chính. Đẩy mạnh hợp tác công tư, huy động nguồn lực xã hội trong phát triển thị trường KHCN.
Thứ tư
, tập trung xây dựng và triển khai thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa, sớm đưa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được tạo ra từ ngân sách nhà nước, từ hợp tác công tư và nghiên cứu của tư nhân vào sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm
, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ lõi thông qua các viện nghiên cứu, trường đại học để giải mã, hấp thụ và làm chủ công nghệ, đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Thứ sáu
, xây dựng chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo, xây dựng, chia sẻ cơ sở dữ liệu lớn để phát triển trí tuệ nhân tạo. Đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái KHCN, thị trường KHCN đồng bộ, toàn diện hơn nữa.
Xuân Lan
|
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
nêu rõ nội dung trên tại Hội nghị ‘Phát triển thị trường khoa học và công nghệ đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập’.
Hội nghị được tổ chức tại điểm cầu Văn phòng Chính phủ, kết nối với các điểm cầu địa phương có lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các sở ngành liên quan.
Sau khi lắng nghe báo cáo và các ý kiến của các đại biểu dự họp, kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Bộ KH&CN chủ trì, phối hợp với VPCP và các cơ quan liên quan tiếp thu nghiêm túc các ý kiến, sớm hoàn thiện và trình ban hành văn bản chỉ đạo phù hợp về một số định hướng, giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm phát triển thị trường KHCN.
KHCN còn chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc
Thủ tướng cơ bản nhất trí với các đánh giá về hạn chế của thị trường KHCN như đã nêu trong Báo cáo của Bộ và lưu ý thêm:
So với nhu cầu thực tiễn và các thị trường khác, đặc biệt là so với các nước phát triển và một số nước trong khu vực, thị trường KHCN còn chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, nhiều nơi còn hình thức, thiếu thực chất.
Thể chế, chính sách phát triển thị trường KHCN còn bất cập, thiếu đồng bộ làm cho việc hợp tác giữa các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học… gặp nhiều khó khăn, thậm chí ách tắc, nhất là trong bối cảnh tình hình có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ như hiện nay.
Việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ của các viện nghiên cứu, trường đại học, các nhà khoa học còn hạn chế, làm khan hiếm nguồn cung hàng hóa KHCN trên thị trường.
Việc giao dịch mua bán công nghệ chủ yếu dưới hình thức hợp đồng mua sắm máy móc, thiết bị, vật tư. Việc chuyển giao công nghệ còn rất hạn chế.
Các tổ chức trung gian về chuyển đổi công nghệ còn yếu về năng lực, chưa đủ uy tín và chưa có thương hiệu để thúc đẩy giao dịch công nghệ; chưa có các tổ chức trung gian chuyên ngành trong các lĩnh vực, ngành hàng quan trọng. Chưa hình thành được mạng lưới các tổ chức trung gian trong nước, kết nối với thị trường khu vực và quốc tế.
Hệ thống hạ tầng quốc gia của thị trường KHCN còn yếu kém, lạc hậu, thiếu khả năng liên thông và tương tác giữa các chủ thể tham gia. Cổng thông tin quốc gia, cơ sở dữ liệu và nền tảng kỹ thuật số về thị trường KHCN chưa được đầu tư phát triển.
Cho rằng những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, Thủ tướng nêu rõ, chúng ta đang tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, hướng tới sở hữu những ngành công nghiệp phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, sở hữu những phát minh, sáng chế mới, những công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, theo Lê-nin, nếu “không xây dựng công nghệ, thì không giữ được địa vị độc lập của nước mình”.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định 3 đột phá chiến lược, trong đó: “Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam”; “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ”.
Quan điểm và các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường KHCN thời gian tới, Thủ tướng cơ bản nhất trí với Báo cáo và ý kiến phát biểu của các đại biểu dự Hội nghị. Thủ tướng nhấn mạnh một số nội dung về quan điểm chung:
Thị trường KHCN là một bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hàng hóa, dịch vụ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát triển thị trường KHCN phải lấy khoa học là nền tảng, nhà khoa học là động lực, doanh nghiệp là trung tâm, phù hợp với bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Huy động tối đa nguồn lực từ khu vực tư nhân và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tốc độ đổi mới sản phẩm và dịch vụ có độ tích hợp cao về công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhanh chóng gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu và chiếm lĩnh thị trường quốc tế.
Phát triển thị trường KHCN cần có chính sách đồng bộ, phù hợp, sự sẵn sàng của các nguồn cung cầu công nghệ, hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại cùng năng lực, uy tín và thương hiệu của các tổ chức trung gian.
Phát triển thị trường KHCN cần được đặt trong bối cảnh và mối quan hệ biện chứng, liên thông, đồng bộ với phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, tài chính và các thị trường khác; gắn kết thị trường trong nước với thị trường toàn cầu và khu vực, phù hợp với cam kết quốc tế của
Việt Nam
và thông lệ quốc tế.
Phát triển thị trường KHCN phải tuân thủ các quy luật thị trường (quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh (cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, bền vững để giảm giá thành, chất lượng cao, thanh toán thuận lợi).
Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, Thủ tướng nêu rõ:
Thứ nhất
, nâng cao nhận thức về thị trường KHCN. Tập trung rà soát, tháo gỡ các khó khăn, điểm nghẽn về thể chế, cơ chế, chính sách để thị trường KHCN phát triển đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ.
Các bộ, ngành, cơ quan, địa phương xây dựng và lồng ghép kế hoạch phát triển thị trường KHCN vào kế hoạch phát triển KTXH 5 năm và hằng năm.
Thứ hai
, triển khai hiệu quả 2 mục tiêu lớn và 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại Chương trình Phát triển thị trường KHCN quốc gia đến năm 2030 theo Quyết định số 1158/QĐ-TTg ngày 13/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó:
Thúc đẩy phát triển nguồn cung và cầu của thị trường KHCN, nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và viện nghiên cứu, trường đại học. Đẩy mạnh kết nối cung cầu, người mua và người bán, sản xuất và tiêu dùng.
Nâng cao năng lực hoạt động các tổ chức trung gian, nhất là các tổ chức lớn, đa ngành và gắn với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Khuyến khích, hỗ trợ phát triển tổ chức trung gian thuộc khu vực tư nhân. Phát triển mạnh mạng lưới tổ chức trung gian trên cơ sở kết nối các sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức dịch vụ KHCN tại các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp với các trung tâm ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN.
Đầu tư phát triển các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại một số thành phố lớn và khu vực kinh tế trọng điểm đã được quy hoạch phê duyệt liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới.
Tăng cường xúc tiến thị trường KHCN tại các địa bàn có nhiều nguồn cung công nghệ cao, tiên tiến và thân thiện môi trường, các thị trường tiềm năng mà Việt Nam có lợi thế thông qua các hiệp định thương mại tự do. Đẩy mạnh tổ chức các sự kiện xúc tiến thị trường KHCN quy mô vùng, quốc gia và quốc tế; quảng bá thị trường KHCN và đổi mới sáng tạo; lồng ghép, phối hợp với các sự kiện xúc tiến thương mại và đầu tư.
Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng quốc gia của thị trường KHCN. Từng bước liên thông, tích hợp với các nền tảng kỹ thuật số về thị trường KHCN trong nước và quốc tế.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực KHCN. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của thị trường KHCN và phát triển thị trường KHCN. Phát triển các doanh nghiệp tiên phong trong mua bán công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn.
Thứ ba
, đẩy mạnh kết nối liên thông, tiến tới đồng bộ hóa thị trường KHCN với các thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động và tài chính. Đẩy mạnh hợp tác công tư, huy động nguồn lực xã hội trong phát triển thị trường KHCN.
Thứ tư
, tập trung xây dựng và triển khai thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa, sớm đưa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được tạo ra từ ngân sách nhà nước, từ hợp tác công tư và nghiên cứu của tư nhân vào sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm
, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ lõi thông qua các viện nghiên cứu, trường đại học để giải mã, hấp thụ và làm chủ công nghệ, đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Thứ sáu
, xây dựng chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo, xây dựng, chia sẻ cơ sở dữ liệu lớn để phát triển trí tuệ nhân tạo. Đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái KHCN, thị trường KHCN đồng bộ, toàn diện hơn nữa.
Xuân Lan
|
Qua nhiều lần thăm dò, khai quật khảo cổ, đến nay thành cổ Châu Sa, ở xã Tịnh Châu (
TP.Quảng Ngãi
) vẫn còn nhiều điều bí ẩn nằm sâu trong lòng đất. Điều này thôi thúc ngành văn hóa, các nhà khảo cổ học tiếp tục thăm dò, khai quật để vén màn bí ẩn từ thành cổ cách đây hàng nghìn năm.
Bộ VH-TT&DL đã cho phép Sở VH-TT&DL
tỉnh Quảng Ngãi
tiến hành thăm dò khảo cổ tại khu vực nội thành di tích thành Châu Sa. Thời gian thăm dò từ ngày 12/9 – 12/10/2022, do Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi – Phó Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp tỉnh, chủ trì thực hiện.
Giải mã bí ẩn từ lòng đất
Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi cho biết, việc thăm dò khảo cổ lần này là cơ sở để thực hiện đợt khai quật tiếp theo. Đợt này sẽ tiến hành thăm dò 3 hố ở nội thành thuộc xã Tịnh Châu, mỗi hố rộng 5m2. Qua thăm dò sẽ tiếp tục đánh giá về di sản kiến trúc thành Châu Sa, giá trị của những di tích hiện còn nằm trong lòng đất, những di vật liên quan, từ đó nhận định rõ hơn vai trò của thành Châu Sa trong lịch sử Chămpa, Đại Việt; xác định tầm quan trọng của thành Châu Sa trong không gian giao thương với bên ngoài thông qua hệ thống đường sông và cửa biển… Ngoài ra, qua thăm dò khảo cổ sẽ xác định được những giá trị khác của thành Châu Sa, từ đó xây dựng phương án để tôn tạo, phát huy giá trị di tích, gắn với phát triển du lịch.
Gần đây nhất là năm 2006, các nhà khảo cổ đã tiến hành thăm dò tại thành cổ Châu Sa và đã phát hiện dấu tích lò nung gốm, sản xuất vật liệu kiến trúc của các đền tháp, đồ gốm… Đồng thời, phát hiện chân bờ thành Châu Sa, những vết tích kiến trúc, các cửa thành và đồ gốm liên quan trong thành. Năm 1924, nhà khảo cổ học người Pháp Henri Parmentier, công bố thành Châu Sa chỉ có thành nội và một cạnh càng cua. Đến năm 1988, Viện Khảo cổ học tiến hành khảo sát và phát hiện thêm một cạnh càng cua nữa của thành nội thành Châu Sa, như vậy những phát hiện cho thấy đã hoàn chỉnh thành nội.
Trong quá trình xây dựng hồ sơ đề nghị công nhận di tích quốc gia đối với thành Châu Sa vào năm 1994, Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi đã khảo sát tổng thể và phát hiện thành ngoại của thành Châu Sa. Như vậy, thành Châu Sa có hai vòng thành, gồm thành nội (vị trí trung tâm), thành ngoại (vòng thành bao quanh bên ngoài để bảo vệ vòng thành trung tâm).
Diện tích thành Châu Sa thuộc địa phận các xã Tịnh An, Tịnh Châu, Tịnh Thiện, Tịnh Khê, một phần của xã Tịnh Long (TP.Quảng Ngãi). Lúc đó, Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi đã phát hiện thêm một hệ thống đường sông nối ra cửa biển. Điều này cho thấy vai trò của thành Châu Sa trong việc kết nối với tuyến hải thương trên biển, đóng vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế của khu vực.
Năm 1998, Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi đã tiến hành đào thăm dò tại tháp Gò Phố ở nội thành Châu Sa. Năm 2000, Viện Khảo cổ học khai quật lò gốm của người Việt, ở xã Tịnh Thiện… Như vậy, qua nhiều lần thăm dò, khai quật khảo cổ, các nhà khảo cổ học lần lượt phát lộ, giải mã nhiều bí ẩn từ trong lòng đất ở thành cổ Châu Sa.
Thành cổ hiếm có
Ở khu vực miền Trung từ
Quảng Bình
trở vào đến
Bình Thuận
, có rất nhiều di tích thành của người Chămpa, nhưng di tích kiến trúc còn tương đối nguyên vẹn là thành Châu Sa. Thành Châu Sa được xây dựng vào khoảng thế kỷ VIII – IX.
Bờ tường thành cổ Châu Sa, ở xã Tịnh Châu (TP.Quảng Ngãi) vẫn còn nguyên vẹn. Ảnh: ĐĂNG SƯƠNG.
Thành Châu Sa là tòa thành được đắp bằng đất sét pha sỏi đá ong nên màu đất ửng đỏ. Thành nội gần như hình vuông, có một cạnh 580m, một cạnh 560m, có 4 cạnh thành và có 4 cửa (cửa nam, cửa bắc, cửa tây và cửa đông). Chiều cao của bờ thành khoảng 4,5 – 5m. Ngoài bờ thành có đường taluy dài khoảng 20m, hết bờ taluy là đến hào thành bao quanh thành nội, hào thành khoảng 40m. Hào thành là hào nước rất sâu, nối ra dòng sông Trà Khúc phía nam và ra sông Hàm Giang phía bắc để xuống cửa Sa Kỳ. Quy mô của thành nội tương đối lớn và hiện còn nguyên 4 bờ thành và các cửa thành.
Vòng thành ngoại nằm bao quanh thành nội, nhưng chỉ có 3 cạnh (phía tây, phía bắc và phía đông). Cạnh phía nam lấy dòng sông Trà Khúc làm dòng chảy tự nhiên để bảo vệ. Điều đặc biệt là thành Châu Sa đi bằng đường nước, đi ra hào thành, ra các sông, ra biển. Chính vì vậy, theo các nhà nghiên cứu, xưa kia khu vực thành Châu Sa rất năng động trong giao thương. Thành Châu Sa nằm phía gần biển, do vậy tập trung hàng hóa từ biển vào, hàng hóa từ vùng đồng bằng và vùng núi cao chuyển xuống. Theo Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi, ở đây cần nhận thức rõ thành Châu Sa và Cổ Lũy liên hoàn nhau, ở phía nam và phía bắc sông Trà Khúc, trở thành di tích kiến trúc rất quy mô của
Chămpa
, kéo dài từ thế kỷ thứ III sau Công Nguyên mãi đến thế kỷ thứ XV.
Ở Quảng Ngãi, Cổ Lũy, Châu Sa là nơi đầu tiên hình thành một tiểu quốc của người Chăm, nguồn lực kinh tế rất giàu có. Vai trò của thành Châu Sa với Cổ Lũy vừa là thủ phủ, trung tâm chính trị của một tiểu quốc Chămpa, là nơi phát triển về mặt kinh tế, trung tâm tôn giáo… Qua đợt thăm dò năm 1998 đã tìm thấy nơi sản xuất các tiểu phẩm Phật giáo ở trên núi Chồi, xã Tịnh Châu.
Tiểu phẩm Phật giáo bằng đất nung được phát hiện tại núi Chồi, xã Tịnh Châu. Ảnh: NK
Các tiểu phẩm Phật giáo tìm thấy rải rác ở miền Trung Việt Nam và tìm thấy ở vùng đông bắc Thái Lan… nhưng điều đặc biệt là chỉ có hai nơi sản xuất ra tiểu phẩm Phật giáo, đó là ở vùng đông bắc Thái Lan và ở Châu Sa. Như vậy, rõ ràng Châu Sa gắn liền với một trung tâm Phật giáo sớm. Niên đại của các tiểu phẩm Phật giáo ở
Thái Lan
được xác định ở thế kỷ thứ V sau Công Nguyên. Do vậy, có thể nhận định lò sản xuất tiểu phẩm Phật giáo tại Châu Sa có niên đại khoảng thế kỷ thứ V – VI sau Công Nguyên. Điều này cho thấy thành Châu Sa rất quan trọng trong vấn đề tiếp thu văn hóa Phật giáo… Rõ ràng, thành Châu Sa còn có nhiều vấn đề để các nhà nghiên cứu tìm hiểu, làm rõ.
PHƯƠNG LÝ – ĐĂNG SƯƠNG
|
Through many explorations and archaeological excavations, up to now Chau Sa ancient citadel, in Tinh Chau commune (
Quang Ngai City
) there are still many mysteries deep underground. This urges the cultural industry and archaeologists to continue exploration and excavation to reveal the mystery of the ancient citadel thousands of years ago.
The Ministry of Culture, Sports and Tourism has given permission to the Department of Culture, Sports and Tourism
Quang Ngai province
Conduct archaeological exploration in the inner city area of Chau Sa citadel. The exploration period is from September 12 to October 12, 2022, chaired by Dr. Doan Ngoc Khoi - Deputy Director of the Provincial General Museum.
Decoding the mystery from underground
Dr. Doan Ngoc Khoi said that this archaeological exploration is the basis for the next round of excavations. This phase will explore 3 holes in the inner city of Tinh Chau commune, each hole is 5m2 wide. Through exploration, we will continue to evaluate the architectural heritage of Chau Sa citadel, the value of relics still underground, and related relics, thereby better identifying the role of Chau Sa citadel in history. History of Champa, Dai Viet; determine the importance of Chau Sa citadel in the space of trade with the outside through the river and estuary system... In addition, through archaeological exploration, other values of Chau Sa citadel will be determined, from which Develop plans to restore and promote the value of monuments, associated with tourism development.
Most recently in 2006, archaeologists conducted exploration in Chau Sa ancient citadel and discovered traces of ceramic kilns, producing architectural materials for temples, towers, ceramics... At the same time, discovered foot of Chau Sa citadel, architectural traces, citadel gates and related ceramics in the citadel. In 1924, French archaeologist Henri Parmentier announced that Chau Sa citadel only had an inner citadel and one side of the claw. In 1988, the Institute of Archeology conducted a survey and discovered another corner of the inner citadel of Chau Sa, thus the findings showed that the inner citadel was complete.
During the process of building a dossier to request recognition as a national monument for Chau Sa citadel in 1994, Dr. Doan Ngoc Khoi conducted a comprehensive survey and discovered the outer citadel of Chau Sa citadel. Thus, Chau Sa citadel has two citadels, including the inner citadel (central location), outer citadel (citadel surrounding the outside to protect the central citadel).
The area of Chau Sa citadel belongs to the communes of Tinh An, Tinh Chau, Tinh Thien, Tinh Khe, part of Tinh Long commune (Quang Ngai city). At that time, Dr. Doan Ngoc Khoi discovered another river system connecting to the estuary. This shows the role of Chau Sa citadel in connecting with the maritime trade route, playing a huge role in the economic development of the region.
In 1998, Dr. Doan Ngoc Khoi conducted exploratory digging at Go Pho tower in the inner city of Chau Sa. In 2000, the Institute of Archeology excavated a Vietnamese pottery kiln in Tinh Thien commune... Thus, through many archaeological explorations and excavations, archaeologists in turn revealed and decoded many mysteries from underground in Chau Sa ancient citadel.
Rare ancient citadel
In the Central region from
Quang Binh
come back in
Binh Thuan
, there are many Champa citadel relics, but the relatively intact architectural relic is Chau Sa citadel. Chau Sa Citadel was built around the 8th - 9th centuries.
The wall of Chau Sa ancient citadel, in Tinh Chau commune (Quang Ngai city) is still intact. Photo: DANG SUONG.
Chau Sa Citadel is a citadel built with clay mixed with laterite gravel, so the soil color is red. The inner citadel is almost square, with one side 580m, one side 560m, 4 sides and 4 gates (south gate, north gate, west gate and east gate). The height of the rampart is about 4.5 - 5m. Outside the wall of the citadel, there is a slope about 20m long. At the end of the slope is the moat surrounding the inner citadel, the moat is about 40m long. The citadel moat is a very deep moat, connecting to the Tra Khuc river in the south and Ham Giang river in the north to Sa Ky estuary. The scale of the inner citadel is relatively large and the four walls and gates of the citadel still remain intact.
The outer citadel surrounds the inner citadel, but has only 3 edges (west, north and east). The southern edge takes the Tra Khuc river as a natural flow for protection. The special thing is that Chau Sa citadel goes by water, going out to the citadel moat, to the rivers, and to the sea. Therefore, according to researchers, in the past, Chau Sa citadel area was very active in trade. Chau Sa Citadel is located near the sea, so it concentrates goods coming in from the sea and goods moving down from the plains and high mountains. According to Dr. Doan Ngoc Khoi, here it is necessary to clearly realize that Chau Sa and Co Luy citadels are interconnected, in the south and north of Tra Khuc river, becoming very large-scale architectural relics of
Champa
, lasting from the 3rd century AD until the 15th century.
In Quang Ngai, Co Luy, Chau Sa was the first place to form a small country of the Cham people, with very rich economic resources. The role of Chau Sa citadel and Co Luy is both the capital and political center of a Champa state, an economically developed place, and a religious center... Through exploration in 1998, the production site was found. Buddhist skits on Choi Mountain, Tinh Chau commune.
Terracotta Buddhist miniatures were discovered at Choi Mountain, Tinh Chau commune. Photo: NK
Buddhist skits are found scattered in Central Vietnam and found in northeastern Thailand... but the special thing is that there are only two places that produce Buddhist skits, which are in northeastern Thailand and in Chau Sa. Thus, it is clear that Chau Sa is associated with an early Buddhist center. Chronology of Buddhist works in
Thailand
dated to the 5th century AD. Therefore, it can be said that the kiln producing Buddhist miniatures in Chau Sa dates back to around the 5th - 6th centuries AD. This shows that Chau Sa citadel is very important in the matter of absorbing Buddhist culture... Clearly, Chau Sa citadel still has many issues for researchers to learn and clarify.
METHOD – DANG SUONG
|
MĂNG ĐEN – NƠI TÔI ĐÃ ĐẾN
Tản văn: Nguyễn Thị Vân Ngà
Tôi đến Tây nguyên dịp này vào đầu thu, những vạt cây hoa dã quỳ đang chắt chiu hết sức bình sinh để ươm nụ cho vài tháng nữa lại bung mình một mùa toả sắc khoe hương. Mùa cây là thế, mùa người cũng trải qua hai phần của một năm đủ đến võ vàng, cũng đủ để thơ mộng gom những dải mây kia buộc vào nỗi nhớ một sáng, một chiều Măng Đen.
Ngược con đèo Violac ước tính chừng 50 km thuộc địa phận vùng núi
Quảng Ngãi
, tôi đưa mắt tìm màu hoa violet mà tôi từng xao xuyến thời mới lớn, giơ trên các dải đồi chỉ còn màu tím hoang hoải đó ghim hình trong truyền thuyết hay còn đợi vào mùa nào khác chăng?.
Trong một trưa cái nắng cuối thu vắt mình trên từng khúc cua tay áo, xe đoàn chúng tôi đi qua từng vạt rừng nguyên sinh, từng đồi sắn( trong nam gọi củ mì) sum súp búp non nâu đỏ chúm chím đáng yêu lạ. Violac với vẻ đẹp vừa huyền ảo nên thơ, vừa bí hiểm khôn lường cho người lần đầu đặt chân tới nơi đây. Xe chạy lên đèo tôi hình dung như đang đi trên đỉnh Mã Pì Lèng, chỉ khác là nơi đây đèo đất nhiều hơn đèo đá tai mèo lởm chởm của
Hà Giang
. Xe ngược đèo giữa trưa. Anh chị em chúng tôi đã đặt chân tới đỉnh bằng Măng Đen có độ cao 1300m so với mực nước biển, buôn Tà Ê xã Pờ Ê,
huyện Kon plong
xưa tôi chỉ được xem trong các phim tài liệu và một số hình ảnh xen kẽ trong các phim đồng bào Tây Nguyên được chiếu trong các bãi rạp phim màn ảnh rộng vào thập niên 70-80 mà trẻ con chúng tôi thời đó có nhiệm vụ mang ghế ra bãi phim để xếp chỗ từ khi hoàng hôn đang xuống để buổi tối cả nhà háo hức ăn tối xong là chen chân chen người vào chỗ đã xí phần xem các bác các chú đeo khố thổ cẩm,người đen trùng trục cưỡi voi. Đến vùng đất này giờ hoàn toàn không còn hình ảnh trong tiềm thức nữa, những nhà hàng, khách sạn, các ngôi biệt thự và các Resot được xây dựng bám theo các trục các con lộ phục vụ khách lữ hành được đến nơi đây. Đức Mẹ vẫn giữ được màu xanh của núi rừng, giữ được cái không khí mát dịu như Đà Lạt, Sapa, Tam Đảo, Phai Khao…nương dưỡng món quà thiên nhiên ban tặng cho loài người là không thay đổi. Phải chăng là điểm phân chia thời tiết giữa vùng Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn nên thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này một khí hậu quanh năm mát dịu ôn hoà để dành cho con người mọi miền hội tụ về đây nghỉ dưỡng, an hoà trời mây.
Bao đêm mơ tới nơi đây
Được hoà quyện bởi trời mây êm đềm
Kon Tum như miếng trầu têm
Cuộn vào nỗi nhớ hun thêm tháng ngày.
Anh chị em chúng tôi được tỉnh uỷ bố trí cho nghỉ ở Homestay T&T Măng Đen, có lẽ nơi này cũng là nơi nghỉ thanh lịch nhất ở vùng này bởi tôi nhìn những thương hiệu các xe và những người khách nghỉ thì đoán chủ nhà vậy.
Ăn trưa xong mấy chị em chúng tôi như những con bướm vàng la đà trên vườn xuân để tranh thủ có được nhưng thước phim của vùng đất Ba zan này mang về làm kỷ niệm cho chuyến đi, buổi chiều xe đưa anh chị em đi thăm Hồ Dak De, thăm rừng thông Măng Đen như món quà tặng của đại ngàn cùng không quên đến dâng lễ vật tới Đức Mẹ Sầu Bi Măng Đen cho kịp hết buổi chiều, như một linh ứng kì lạ hoà quyện tâm giao và trời đất. Chị em chúng tôi vừa kịp thỉnh cầu xong thì một cơn mưa rừng trắng trời trên hành trình trên đường về hoàng hôn nhập nhẹm tối. Tôi có cảm giác như Đức mẹ thấu đạt lòng nguyện cầu của đứa con trẻ như chúng tôi vui mừng tấu trời cho cơn mưa để gột rửa đi nhiều lam lũ, nhiều trở trăn của kiếp người để được thanh bạch nhân sinh , an hoà thế thái hơn.
Bữa cơm tối ở một nhà hàng cơ man là gỗ, gà đồi nướng và cơm Lam nơi này thực sự cho du khách ấm lòng cảm nhận như là gia đình thực thụ, không phải hỏi trả giá trước và chủ khách có được câu” Vui lòng khách đến, hài lòng khách đi” để Măng Đen hứa hẹn khi du khách sẽ lưu lại ấn tượng lưu luyến cho dịp sau sẽ đưa người thân của mình ghé lại nơi này.
1. Homestay T&T có khuân viên cho du khách đốt lửa trại, mâm bia có những nụ cười viên mãn bên ánh lửa bập bùng cùng lời hát,tiếng cười của các ca sĩ không chuyên được găm vào vách núi nơi đây. Rừng thông sau nhà hôm tôi đến không có tiếng chim “ Bắt cô trói cột, ba cô một cột…” như các vùng núi cao đêm lắng nghe tôi hay gặp. Nhưng câu chuyện về truyền thuyết có bác Ba đi ở cho Phú ông nghe xót xa oan khiên bao giờ cũng thuộc về kẻ yếu, hàng lao công và những người có quá nhiều tiền từ cổ trí kim dù nụ cười tươi rói nhưng vẫn trực hữu những hà hiếp và trà đạp dân lành… tiếng chim trong cổ tích ấy du dỗ dần giấc ngủ bởi chị em dậy sớm để đi trên xe cùng 20 h trong ngày chưa hề chợp mắt để giờ vui mấy thì vui ai cũng thấm mệt can co giấc ngủ lấy lại năng lượng cho ngày mai đi tiếp hành trình.
Một dịp thật ấn tượng khi xe rời xa nơi này trong mù sương để xuống đèo chia tay Măng Đen. Măng Đen vẫn trong tôi từng kỉ niệm ngọt ngào hẹn ngày trở lại.
Sắc trời quyện giữa Măng Đen
Em hoà dòng chảy đáp đền khát khao.
Thanh Hoá 22/9/2022
Nguyễn Thị Vân Ngà
|
BLACK MANPADS – WHERE I HAVE BEEN
Text: Nguyen Thi Van Nga
I came to the Central Highlands on this occasion in early autumn, the patches of wild sunflowers were working hard to nurture buds so that in a few months they would burst into bloom and show off their fragrance. The season of trees is like that, the season of people also goes through two parts of a year, enough to be golden, also enough to poetically gather those strips of clouds and tie them to the nostalgia of a morning and an afternoon of Mang Den.
Upwards of Violac Pass is estimated to be about 50 km in a mountainous area
Quang Ngai
, I looked for the color of violets that I was so excited about when I was growing up, holding them up on the hillsides, only that wild purple color remained, pinned in legends or was it waiting for another season?
In the afternoon, the late autumn sun shone on every bend of the sleeve, our group of vehicles passed through each patch of primeval forest, each hill of cassava (called cassava in the south) sumptuously filled with red-brown bud soup filled with strangely lovely birds. Violac has a beauty that is both magical and poetic, yet mysterious and unpredictable for those who first set foot here. Driving up the pass, I imagined it was like going on the top of Ma Pi Leng, the only difference is that this place has more dirt passes than the jagged, cat-eared rocky passes of Ha Noi.
Ha Giang
. The car went up the pass at noon. Our brothers and sisters have reached the summit of Mang Den at an altitude of 1300m above sea level, Ta E village, Po E commune,
Kon Plong district
In the past, I only saw it in documentaries and some interspersed images in movies of the Central Highlands people shown in big screen theaters in the 70s and 80s, which our children at that time had the responsibility to do. Bring chairs to the movie theater to arrange seats from sunset so that in the evening the whole family will be excited to finish dinner and squeeze into the reserved seats to watch uncles wearing brocade loincloths and black people riding elephants. . Coming to this land, there are now completely no subconscious images anymore, restaurants, hotels, villas and resorts are built along the roads to serve travelers coming here. Our Lady still retains the green color of the mountains and forests, retains the cool air like Da Lat, Sapa, Tam Dao, Phai Khao...nourishing the gift of nature given to humanity that does not change. Is it true that as the weather dividing point between the East Truong Son and West Truong Son regions, nature bestows this land with a cool and temperate climate all year round for people from all over the world to gather here for relaxation and peace? mixed with clouds.
Many nights I dreamed of this place
Blended by the calm cloudy sky
Kon Tum is like a piece of betel
Scroll into nostalgia for more days.
We were arranged by the Provincial Party Committee to stay at Homestay T&T Mang Den, perhaps this place is also the most elegant place to stay in this area because I looked at the brands of cars and guests and guessed the owner. .
After lunch, we sisters, like yellow butterflies, floated in the spring garden to take advantage of the footage of this Bazan land to bring back as souvenirs of the trip. In the afternoon, the car took us to visit. Dak De Lake, visit Mang Den pine forest as a gift from the great thousands and don't forget to make offerings to Our Lady of Sorrows in Mang Den in time for the afternoon, like a strange inspiration that blends soul and heaven and earth. As soon as our sisters and I finished our request, there was a white forest rain in the sky on the journey back to dusk and darkness. I feel like the Virgin Mother understands the wishes of young children like us and happily sends rain to wash away the many hardships and troubles of human life so that we can live a pure and peaceful life. more elegant.
Dinner at a restaurant filled with wood, grilled hill chicken and Lam rice, this place really makes visitors feel like they are a real family, without having to ask for a price in advance and the host can say "Happy". "Please come, please, leave" so Mang Den promises that visitors will leave a lasting impression for the next occasion when they will bring their relatives to visit this place again.
1. Homestay T&T has a garden for visitors to make a campfire, a beer tray with full smiles next to the flickering firelight and the singing and laughter of amateur singers embedded in the cliffs here. The pine forest behind the house the day I arrived did not have the sound of birds "Tie a girl to a pole, three girls to a pole..." like the high mountains that listen to me at night. But the story of the legend of Uncle Ba going to live for the rich man, hearing the pain and injustice, always belongs to the weak, the laborers and those who have too much money from ancient times, even though they have a bright smile, they are still present. the oppression and trampling of innocent people... the sound of birds in that fairy tale gradually lulled sleep because the women woke up early to go on the bus and spent 20 hours a day without sleeping so no matter how happy the hour was, everyone was tired. Sleep regains energy for the next day's journey.
It was an impressive occasion when the car left this place in the mist to go down the pass to say goodbye to Mang Den. Mang Den still has sweet memories in me and I hope to return someday.
The color of the sky blends between Mang Den
I join the flow to repay the desire.
Thanh Hoa September 22, 2022
Nguyen Thi Van Nga
|
Dự kiến tối và đêm nay, siêu bão Noru sẽ đi vào Biển Đông và tiếp tục di chuyển rất nhanh hướng về đất liền các tỉnh Trung Trung Bộ. Các tỉnh dự kiến bão đổ bộ từ
Thừa Thiên Huế
–
Quảng Ngãi
sẵn sàng phương án sơ tán hơn 93.000 hộ/368.000 dân.
Chiều 25-9, Phó thủ tướng Lê Văn Thành – trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng chống thiên tai – chủ trì họp với các bộ, ngành và 16 địa phương để ứng phó siêu bão Noru.
Phát biểu mở đầu cuộc họp, Phó thủ tướng nhấn mạnh dự báo bão Noru (bão số 4) với tốc độ di chuyển nhanh, đây là cơn bão mạnh, ảnh hưởng trên phạm vi rất rộng.
Theo ông, những cơn bão có cường độ lớn cấp 13 đến cấp 16 thì ảnh hưởng rất lớn, thiệt hại tới tài sản, tính mạng của nhân dân. Qua thống kê năm 2017 có 2 cơn bão mạnh cấp 12 và cấp 13. Cơn bão số 12 năm 2017 làm 107 người chết và mất tích, thiệt hại hàng chục nghìn tỉ đồng.
Với siêu bão Noru, ông nhấn mạnh tinh thần tập trung, lãnh đạo chỉ đạo từ sớm, từ trung ương tới địa phương.
“Dự kiến bão mạnh cấp 13, giật cấp 16 ảnh hưởng rất lớn, rất khó để triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn. Trên cơ sở tình hình thực tiễn tại địa phương, phải rà soát kỹ tất cả cơ sở vật chất, cơ sở xung yếu, có giải pháp để thống nhất trước khi bão đổ bộ” – ông nói.
Siêu bão Noru đang chuẩn bị đổ bộ vào đảo Luzon (Philippines) – Ảnh: NCHMF
Ông Phạm Đức Luận, phó chánh văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng chống thiên tai, cho biết đến trưa 25-9 đã tổ chức kêu gọi, kiểm đếm, hướng dẫn cho hơn 57.800 tàu/300.000 lao động.
Trong đó, hoạt động trong khu vực bắc Biển Đông, giữa Biển Đông (bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là 739 tàu/7.455 người.
Hiện còn 127 tàu (nhiều nhất là Bình Định 100 tàu) đang ở trong vùng nguy hiểm, trong 24 giờ tới cần phải kêu gọi vào bờ.
Các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Ninh đến Bình Thuận đã ban hành công điện, văn bản chỉ đạo sẵn sàng các biện pháp ứng phó với bão gần Biển Đông.
Các tỉnh từ Quảng Bình – Bình Thuận rà soát phương án sơ tán dân với tổng số 213.914 hộ/868.230 người, trong đó các tỉnh trọng tâm dự kiến bão đổ bộ từ Thừa Thiên Huế – Quảng Ngãi sẵn sàng phương án sơ tán 93.312 hộ/368.878 người tùy theo diễn biến của bão.
Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, các tỉnh trọng tâm dự kiến bão đổ bộ từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Ngãi có 16.600ha và 3.185 lồng, bè nuôi trồng thủy sản.
Trên các tuyến đê biển, đê cửa sông từ Thanh Hóa đến Quảng Ngãi hiện có 40 trọng điểm, vị trí xung yếu và 3 công trình đê biển, đê cửa sông đang thi công dở dang.
Về trồng trọt, tại các tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ còn hơn 110.000ha lúa chuẩn bị hoặc chưa thu hoạch, khoảng 1 triệu ha lúa đang trong giai đoạn trổ và vào chắc.
Từ Thanh Hóa đến Bình Thuận hiện có gần 8,2 triệu gia súc và 108 triệu gia cầm, 248 trang trại quy mô lớn.
“Các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Ngãi khẩn trương tổ chức cắt tỉa cành cây chằng chống, gia cố biển hiệu, nhà ở, các công trình công cộng, khu công nghiệp, nhà máy, kho tàng, các dự án đang thi công ven biển, các công trình cột tháp cao xong trước ngày 26-9” – ông Luận nói.
CHÍ TUỆ
|
It is expected that this evening and tonight, super storm Noru will enter the East Sea and continue to move very quickly towards the mainland of the Central Central provinces. The provinces are expected to make landfall from the storm
Hue
–
Quang Ngai
ready to evacuate more than 93,000 households/368,000 people.
On the afternoon of September 25, Deputy Prime Minister Le Van Thanh - head of the National Steering Committee for Natural Disaster Prevention - chaired a meeting with ministries, branches and 16 localities to respond to super storm Noru.
Speaking at the opening of the meeting, the Deputy Prime Minister emphasized the forecast that Typhoon Noru (Storm Không. 4) has a fast moving speed, this is a strong storm, affecting a very wide area.
According to him, storms with high intensity levels 13 to 16 have a great impact, causing damage to people's property and lives. According to statistics in 2017, there were 2 strong storms at level 12 and level 13. Storm number 12 in 2017 left 107 people dead and missing, causing tens of thousands of billions of dong in damage.
With super typhoon Noru, he emphasized the spirit of focus and early leadership, from central to local levels.
“It is expected that strong storms at level 13 and level 16 will have a huge impact, making it very difficult to implement safety measures. Based on the actual situation in the locality, we must carefully review all facilities and essential facilities and have a unified solution before the storm hits" - he said.
Super storm Noru is preparing to land on Luzon island (Philippines) - Photo: NCHMF
Mr. Pham Duc Luan, deputy chief of staff of the National Steering Committee for Natural Disaster Prevention, said that by noon on September 25, he had organized calls, counted and guided more than 57,800 ships/300,000 workers.
Of which, operating in the northern region of the East Sea and the middle of the East Sea (including the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos) are 739 ships/7,455 people.
There are currently 127 ships (the most in Binh Dinh is 100 ships) in the danger zone and need to be called to shore within the next 24 hours.
Coastal provinces and cities from Quang Ninh to Binh Thuan have issued dispatches and documents directing readiness for measures to respond to storms near the East Sea.
Provinces from Quang Binh - Binh Thuan review plans to evacuate people with a total of 213,914 households/868,230 people, of which the key provinces expected to have storms land from Thua Thien Hue - Quang Ngai are ready to evacuate 93,312 households /368,878 people depending on the progress of the storm.
According to a report from the Directorate of Fisheries, the key provinces expected to make landfall from Thua Thien Hue to Quang Ngai have 16,600 hectares and 3,185 aquaculture cages and rafts.
On the sea dykes and estuary dikes from Thanh Hoa to Quang Ngai, there are currently 40 key points and critical positions and 3 sea dykes and estuary dykes under construction.
Regarding cultivation, in the Northern, North Central, and South Central provinces, there are more than 110,000 hectares of rice ready to be harvested or not yet harvested, about 1 million hectares of rice are in the flowering and firm stages.
From Thanh Hoa to Binh Thuan, there are currently nearly 8.2 million cattle and 108 million poultry, 248 large-scale farms.
“Provinces from Thua Thien Hue to Quang Ngai urgently organize pruning of tree branches, reinforcement of signs, houses, public works, industrial parks, factories, warehouses, and ongoing projects. Coastal construction and high tower constructions will be completed before September 26" - Mr. Luan said.
CHI TUE
|
Thảm hoạ tự nhiên như cháy rừng, bão lũ là những nguyên nhân tự nhiên gây ra nhiều thiệt hại cho con người nhất trong lịch sử.
Trong lịch sử loài người, bão lũ là thế lực tự nhiên gây ra nhiều thiệt hại nặng nề nhất. Dưới đây là danh sách 5 cơn bão gây ra nhiều thiệt hại nhất cho con người tại nơi chúng đi qua, theo xếp hạng của
5. Bão Mitch
Vào ngày 26.10.1998, trong vòng vài ngày ngắn ngủi sau khi hình thành ở Caribe, bão Mitch lao vào bờ biển phía đông bắc của Honduras với sức mạnh của một cơn bão cấp 5. Không lâu sau đó, nó suy yếu và dừng lại trên bờ biển và gây ra lượng mưa khủng khiếp trong khu vực.
Trong thời gian này, cơn bão đạt được sức gió cực đại lên đến 290km/h và chia cắt phần lớn Trung Mỹ, gây ra lũ quét, tuyết lở và lở bùn phá hủy các vùng ven biển, đặc biệt là ở Honduras. Sau khi mạnh lên một lần nữa, bão tấn công Florida (
Mỹ
) vào ngày 5.11.1998, rồi tan trên Đại Tây Dương.
Lũ lụt, lở đất và gió của cơn bão Mitch đã phá hủy mùa màng và xóa sổ các trung tâm dân cư trên khắp khu vực Honduras và các khu vực của Nicaragua, Belize, El Salvador, Guatemala và Mexico. Bão phá hủy hàng trăm nghìn ngôi nhà, thổi bay và cuốn trôi cư dân, đồng thời hủy hoại mùa màng. Hơn 11.000 người đã mất mạng, hầu hết ở Honduras và Nicaragua, và hàng nghìn người khác mất tích.
4. The Great Hurricane (Trận bão lớn) năm 1780
Số người chết kinh hoàng của cơn bão lớn năm 1780 thậm chí còn vượt xa cả cơn bão Mitch. Ước tính có khoảng 22.000 người đã thiệt mạng trong khoảng thời gian từ ngày 10 đến 16.10.1780 ở phía đông Caribe, hầu hết trong số họ ở Lesser Antilles, với thiệt hại nặng nề nhất xảy ra trên các đảo Martinique, St. Eustatius và Barbados. Ngoài số thương vong này, ước tính hàng nghìn thủy thủ
Pháp
và
Anh
thiệt mạng khi thời tiết khắc nghiệt làm ảnh hưởng đến tàu của họ.
Mặc dù sức mạnh chính xác của nó vẫn chưa được xác định, nhưng từ những giai thoại, các nhà nghiên cứu hiện đại kết luận rằng Great Hurricane là cơn bão cấp 5 với sức gió vượt quá 320km/h. Một số nhân chứng đã chứng thực sự đổ nát hoàn toàn của các tòa nhà và pháo đài bằng đá kiên cố, những khẩu pháo hạng nặng bị ném xa hàng trăm mét và cây cối bị xé toạc vỏ.
3. Bi kịch Vargas
Thảm kịch do mưa gây ra xảy ra ở bờ biển Vargas ở
Venezuela
vào tháng 12.1999 cho thấy lượng mưa quá lớn có thể tạo ra một chuỗi tàn phá nghiêm trọng. Từ ngày 14 đến ngày 16.12.1999, cơn bão đã trút lượng nước bằng với lượng cả năm xuống các sườn thẳng đứng của Dãy núi Sierra de Avila ở phía bắc Caracas, gây ra lũ lụt và một số vụ lở đất lớn nhất trong lịch sử thế giới.
Những cơn mưa lũ này sau đó đã phá hủy hơn 8.000 ngôi nhà và 700 tòa nhà chung cư. Nó cũng phá hủy các con đường, đường dây điện thoại, đường dây điện, nước và hệ thống thoát nước, khiến tổng thiệt hại lên tới khoảng 1,79 tỉ USD. Ước tính thảm hoạ này đã khiến khoảng 30.000 người chết, nhưng chỉ có khoảng 1.000 thi thể được tìm thấy; lũ lụt và núi lở đã chôn vùi hoặc cuốn phần lớn nạn nhân ra biển.
2. Bão Bhola
Một năm trước khi
Bangladesh
trở thành một quốc gia độc lập khi ly khai khỏi
Pakistan
, nước này đã phải hứng chịu một cơn bão hoành hành gây ra hỗn loạn trên vùng đồng bằng ven biển trũng thấp.
Sức tàn phá của bão Bhola. Ảnh chụp màn hình
Bão tấn công Bangladesh có xu hướng gây ra sự tàn phá lớn vì địa hình của đất nước khuếch đại tác động của chúng. Vì vậy, cơn bão năm 1970, có biệt danh là Cơn bão Bhola, đã được chứng minh là một trong những thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử được ghi lại, mặc dù nó chỉ là cơn bão cấp 3. Ước tính số người tử vong dao động từ 300.000 đến 1 triệu người, một con số quá khủng khiếp.
Khu vực đồng bằng của Bangladesh là một trong những vùng đất trồng trọt màu mỡ nhất trên thế giới, với một số con sông đổ phù sa và chất dinh dưỡng bồi đắp cho đất đai tại đây. Do đó, khu vực này được xếp hạng trong số những nơi có mật độ dân cư đông đúc nhất trên thế giới, bất chấp những hiểm họa về địa hình vốn có khi sống ở đó.
1. Siêu bão Nina
Từ buổi bình minh của nền văn minh cho đến ngày nay, lũ lụt đã gây ra nhiều cái chết cho con người và gây tàn phá nhiều hơn bất kỳ yếu tố tự nhiên nào. Cũng chính những dòng sông mang lại sự sống và đầy hứa hẹn có thể quét sạch những người sống phụ thuộc vào chúng.
Hình ảnh bão Nina. Ảnh: AFP
Sức mạnh hủy diệt vô song của siêu bão Nina năm 1975 không phải đến từ những cơn gió mà từ trận lũ lụt thảm khốc mà nó gây ra. Cơn bão đã dành phần lớn sức mạnh để vượt qua dãy núi trung tâm của Đài Loan (Trung Quốc) và đã suy yếu thành bão nhiệt đới vào thời điểm nó tấn công Trung Quốc đại lục. Khi gặp đất liền, bão Nina tạo ra lượng mưa lớn tới 1.060 mm trong 24 giờ – lượng mưa tương đương một năm ở miền Trung Trung Quốc. Trận đại hồng thủy này đã làm sập đập Bản Kiều và phá hủy hơn 60 con đập khác.
Khi các con đập bị xô lệch, đợt sóng rộng 10km, cao 3-7 mét tràn qua các vùng đất thấp với tốc độ gần 50km/h, phá hủy một khu vực dài 55km và rộng 15km. Lũ cuốn trôi hàng chục nghìn người sống sót xuống hạ lưu và nhấn chìm hàng nghìn km vuông đất, khiến 26.000 người thiệt mạng. Thêm 145.000 người sau đó chết vì bệnh tật và đói kém (một số ước tính đưa ra con số thiệt mạng gần 230.000 người).
Tổng cộng, Nina đã làm sập gần 6 triệu tòa nhà và ảnh hưởng đến 11 triệu người, gây thiệt hại kinh tế 1,2 tỉ USD cho
Trung Quốc.
|
Natural disasters such as forest fires and floods are the natural causes that cause the most damage to humans in history.
In human history, storms and floods are the natural forces that cause the most severe damage. Below is a list of the 5 storms that cause the most damage to people in the places they pass through, according to rankings by
5. Hurricane Mitch
On October 26, 1998, within a few short days of forming in the Caribbean, Hurricane Mitch slammed into the northeast coast of Honduras with the force of a Category 5 hurricane. Not long after, it weakened and stopped. on the coast and caused terrible rainfall in the area.
During this time, the storm achieved peak winds of up to 290 km/h and cut off much of Central America, causing flash floods, avalanches and mudslides that destroyed coastal areas, especially in Honduras. After strengthening again, the storm struck Florida (
America
) on November 5, 1998, then dissipated over the Atlantic Ocean.
Hurricane Mitch's floods, landslides and winds destroyed crops and wiped out population centers across Honduras and parts of Nicaragua, Belize, El Salvador, Guatemala and Mexico. The storm destroyed hundreds of thousands of homes, blew away and swept away residents, and destroyed crops. More than 11,000 people have lost their lives, most in Honduras and Nicaragua, and thousands more are missing.
4. The Great Hurricane of 1780
The horrifying death toll of the great storm of 1780 even exceeded that of Hurricane Mitch. An estimated 22,000 people died between October 10 and 16, 1780 in the eastern Caribbean, most of them in the Lesser Antilles, with the heaviest losses occurring on the islands of Martinique, St. Eustatius and Barbados. In addition to these casualties, thousands of sailors were estimated
France
and
Older brother
died when severe weather affected their ship.
Although its exact strength remains unknown, from anecdotal accounts, modern researchers conclude that the Great Hurricane was a Category 5 storm with winds exceeding 320km/h. Several witnesses attested to the complete ruin of fortified stone buildings and forts, heavy artillery being thrown hundreds of meters away, and trees having their bark torn off.
3. Vargas Tragedy
The tragedy caused by the rain occurred on the Vargas beach in
Venezuela
in December 1999 showed that too much rain could create a devastating chain of events. From December 14 to 16, 1999, the storm dumped a year's worth of water down the vertical slopes of the Sierra de Avila Mountains north of Caracas, causing flooding and some of the largest landslides in history. world history.
These floods later destroyed more than 8,000 homes and 700 apartment buildings. It also destroyed roads, telephone lines, power lines, water and sewer systems, causing total damage of about $1.79 billion. It is estimated that this disaster left about 30,000 people dead, but only about 1,000 bodies were found; Floods and landslides buried or swept most of the victims out to sea.
2. Cyclone Bhola
One year before
Bangladesh
become an independent country when it secedes from
Pakistan
, the country was hit by a raging storm that caused chaos across the low-lying coastal plain.
The destructive power of storm Bhola. Screenshots
Cyclones that strike Bangladesh tend to cause great destruction because the country's terrain amplifies their impact. Thus, the 1970 cyclone, nicknamed the Bhola Cyclone, proved to be one of the worst natural disasters in recorded history, even though it was only a Category 3 storm. Estimate The number of deaths ranges from 300,000 to 1 million people, a terrible number.
The delta region of Bangladesh is some of the most fertile arable land in the world, with several rivers dumping silt and nutrients on the soil. As a result, the region ranks among the most densely populated places in the world, despite the topographic hazards inherent in living there.
1. Superstorm Nina
From the dawn of civilization to the present day, floods have caused more human deaths and more destruction than any other natural factor. The same life-giving and promising rivers can wipe out those who depend on them.
Image of storm Nina. Photo: AFP
The unparalleled destructive power of superstorm Nina in 1975 did not come from the winds but from the catastrophic floods it caused. The storm spent most of its strength crossing the central mountain range of Taiwan (China) and had weakened to a tropical storm by the time it hit mainland China. When it reached land, Typhoon Nina produced up to 1,060 mm of rain in 24 hours – an amount of rain equivalent to a year in Central China. This cataclysm collapsed the Ban Kieu dam and destroyed more than 60 other dams.
When the dams buckled, waves 10km wide and 3-7 meters high swept across the lowlands at a speed of nearly 50km/h, destroying an area 55km long and 15km wide. The flood swept tens of thousands of survivors downstream and submerged thousands of square kilometers of land, killing 26,000 people. An additional 145,000 people later died of disease and starvation (some estimates put the death toll closer to 230,000).
In total, Nina collapsed nearly 6 million buildings and affected 11 million people, causing economic losses of $1.2 billion.
China.
|
Ngày 24-9-2022, tại TP Cần Thơ, ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT); bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam; ông Benoit Bosquet, Giám đốc Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương về Phát triển bền vững (Ngân hàng Thế giới) đồng chủ trì Hội thảo “Chống chịu khí hậu tổng hợp và phát triển bền vững vùng ĐBSCL”. Ông Lê Quang Mạnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Cần Thơ; ông Trần Việt Trường, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ; đại diện các cơ quan Trung ương và địa phương trong vùng, các đối tác phát triển, các viện nghiên cứu, học viện, các nhà khoa học, chuyên gia trong nước và quốc tế dự hội thảo.
Tại hội thảo, các báo cáo, tham luận được trình bày xoay quanh vấn đề về khung tích hợp dài hạn cho phát triển bền vững và chống chịu với khí hậu của vùng
ĐBSCL
; các biện pháp can thiệp chính trong khung tích hợp (cơ sở hạ tầng, hệ sinh thái, con người và sinh kế) và cơ chế điều phối, phát triển vùng; công bố báo cáo của Ngân hàng Thế giới về hướng tới chuyển đổi nông nghiệp xanh ở Việt Nam – chuyển sang mô hình lúa gạo carbon thấp… Theo đó, các vấn đề được nhấn mạnh là chuyển sang trồng lúa carbon thấp sẽ có tiềm năng cao nhất để Việt Nam đạt mục tiêu cắt giảm 30% lượng khí mê-tan vào năm 2030, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của ngành hàng xuất khẩu chiến lược này. Báo cáo với tiêu đề “Hướng tới chuyển đổi nông nghiệp xanh ở Việt Nam – chuyển sang mô hình lúa gạo carbon thấp” đã gợi ý rằng Việt Nam có thể chuyển đổi ngành lúa gạo bằng việc cắt giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên và tăng sản lượng, tăng cường khả năng chống chịu và đa dạng hóa sản xuất. Việc chuyển đổi này đòi hỏi đầu tư đáng kể và cải cách chính sách lớn để điều chỉnh các biện pháp khuyến khích cũng như phối hợp hành động của các bên liên quan ở tất cả các cấp. Nhiều đại biểu đã chỉ ra những tồn tại của sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh khí hậu biến đổi, cần giải pháp chuyển đổi phương thức sản xuất theo hướng chuyên nghiệp, “thuận thiên” theo từng vùng sinh thái của
ĐBSCL
…
Bà Carolyn Turk phát biểu tại hội thảo.
Theo bà Carolyn Turk, ngành nông nghiệp dù đạt rất nhiều thành tựu, nhưng vẫn là nhân tố đóng góp quan trọng vào việc phát thải khí nhà kính ở Việt Nam. Đã đến lúc bắt buộc phải chuyển đổi sang phương thức canh tác carbon thấp hơn. Kinh nghiệm cho thấy chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh. Ngân hàng Thế giới đã đồng ý phát triển một dự án mới ở
ĐBSCL
nhằm hỗ trợ giải quyết các thách thức về quản lý tài nguyên nước và xây dựng sinh kế nông nghiệp trong thời kỳ biến đổi khí hậu (BĐKH); đồng thời tiếp tục hỗ trợ thông qua việc huy động kiến thức hiện đại, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để thực hiện tầm nhìn và mục tiêu phát triển bền vững ĐBSCL…
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan phát biểu tại hội thảo
Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, Bộ sẽ ghi nhận các ý kiến tại hội thảo và sẽ xây dựng, triển khai thực hiện khung quy hoạch tích hợp dài hạn cho phát triển bền vững và chống chịu với biến đổi khí hậu của vùng
ĐBSCL
thời gian tới. Bộ trưởng nhấn mạnh, trong tương lai ĐBSCL chú trọng chuyển đổi mô hình sản xuất, thích ứng biến đổi khí hậu, đáp ứng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tích hợp là tập trung thực hiện các quy hoạch, sáng kiến nhằm tạo ra giá trị sản xuất nông nghiệp cao hơn trên một không gian diện tích, trong đó chính quyền, nhà khoa học, nông dân là lực lượng nòng cốt thực hiện quy hoạch tích hợp này…
Tin, ảnh:
H.VĂN
|
On September 24, 2022, in Can Tho City, Mr. Le Minh Hoan, Minister of Agriculture and Rural Development (MARD); Ms. Carolyn Turk, World Bank Country Director for Vietnam; Mr. Benoit Bosquet, Regional Director for East Asia and the Pacific for Sustainable Development (World Bank) co-chaired the Workshop "Integrated climate resilience and sustainable development in the Mekong Delta". Mr. Le Quang Manh, Member of the Party Central Committee, Secretary of Can Tho City Party Committee; Mr. Tran Viet Truong, Deputy Secretary of the City Party Committee, Chairman of Can Tho City People's Committee; Representatives of central and local agencies in the region, development partners, research institutes, academies, domestic and international scientists and experts attended the conference.
At the conference, reports and presentations were presented around the issue of a long-term integrated framework for sustainable and climate-resilient development of the region.
Mekong Delta
; key interventions within the integrated framework (infrastructure, ecosystems, people and livelihoods) and regional coordination and development mechanisms; announced the World Bank's report on moving towards green agricultural transformation in Vietnam - switching to a low-carbon rice model... Accordingly, the issues highlighted are that switching to low-carbon rice farming will have potential. highest for Vietnam to achieve its goal of cutting methane emissions by 30% by 2030, while increasing the competitiveness of this strategic export industry. The report titled “Towards a green agricultural transformation in Vietnam – moving to a low-carbon rice model” suggested that Vietnam could transform the rice industry by cutting greenhouse gas emissions, improving Improve resource use efficiency and increase output, enhance resilience and diversify production. This transformation requires significant investment and major policy reforms to align incentives and coordinate actions by stakeholders at all levels. Many delegates pointed out the shortcomings of agricultural production in the context of climate change, requiring solutions to transform production methods in a professional, "favorable" direction according to each ecological region of the country.
Mekong Delta
…
Ms. Carolyn Turk spoke at the conference.
According to Ms. Carolyn Turk, although the agricultural sector has achieved many achievements, it is still an important contributor to greenhouse gas emissions in Vietnam. It is time to force a transition to lower carbon farming practices. Experience shows that governments play an important role in promoting the green transition. The World Bank has agreed to develop a new residential project
Mekong Delta
to support solving challenges of water resources management and building agricultural livelihoods in the era of climate change; At the same time, continue to support through mobilizing modern knowledge, technical and financial support to realize the vision and goals of sustainable development of the Mekong Delta...
Minister of Agriculture and Rural Development Le Minh Hoan spoke at the conference
Minister Le Minh Hoan said that the Ministry will take note of the opinions at the workshop and will build and implement a long-term integrated planning framework for sustainable development and resilience to climate change in the region.
Mekong Delta
next time. The Minister emphasized that in the future, the Mekong Delta will focus on converting production models, adapting to climate change, and meeting product consumption markets. Integration is focusing on implementing plans and initiatives to create higher agricultural production value over an area of space, in which the government, scientists, and farmers are the core forces implementing the regulations. This integration plan…
News and photos:
H. VAN
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.