vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
nhấn mạnh, mỗi người phụ nữ Việt Nam là một bông hoa đẹp, lan tỏa tình yêu thương, nhân ái, sự ấm áp và khát vọng cống hiến trong gia đình và xã hội.
Sáng 15/10, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị đối thoại với phụ nữ Việt Nam với chủ đề “Thúc đẩy bình đẳng giới và phát huy vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế- xã hội”.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng gửi tới các mẹ, các bà, các chị và tất cả phụ nữ Việt Nam lời chào trân trọng, lời thăm hỏi ân cần và lời chúc tốt đẹp nhất nhân dịp Ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10).
Thủ tướng nhấn mạnh, mỗi người phụ nữ Việt Nam là một bông hoa đẹp, lan tỏa tình yêu thương, nhân ái, sự ấm áp và khát vọng cống hiến trong gia đình và xã hội. Trong đó, hình ảnh người mẹ là biểu tượng cao đẹp nhất của phụ nữ Việt Nam, là người nuôi dưỡng, dẫn dắt cảm xúc, hành động và là tượng đài của mỗi chúng ta.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đối thoại với phụ nữ Việt Nam nhân ngày 20/10
Đó là biểu tượng của đức hy sinh, sự hiền hậu, đảm đang như câu nói đầy ý nghĩa: “Vì con sống, mẹ suốt đời lam lũ – Vì con vui, mẹ gánh hết đau buồn”. Truyền thống tốt đẹp đó luôn được gìn giữ, phát huy qua các thế hệ phụ nữ Việt Nam.
Nói về vấn đề bình đẳng giới, Thủ tướng nêu, Đảng, Nhà nước luôn nhất quán quan điểm xuyên suốt là bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chiến lược, chính sách quan trọng thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự phát triển của phụ nữ.
Các chính sách về bình đẳng giới và vì sự phát triển của phụ nữ thời gian qua góp phần tăng cường nhận thức về vai trò, vị trí của phụ nữ; tạo môi trường để phụ nữ khẳng định mình; công tác phụ nữ và bình đẳng giới có chuyển biến tích cực; phụ nữ ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có những hạn chế, vì thế Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành liên quan tổng hợp đầy đủ các ý kiến, rà soát lại toàn bộ chính sách về bình đẳng giới, chính sách đối với phụ nữ để tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Phạm vi chính sách nào thuộc thẩm quyền, Chính phủ sẽ giải quyết; nếu vượt thẩm quyền, Chính phủ sẽ đề xuất với các cơ quan chức năng liên quan.
Thủ tướng khẳng định, Chính phủ sẽ nghiên cứu, xây dựng chính sách để đảm bảo an sinh xã hội cho phụ nữ, nhất là các nhóm phụ nữ đặc thù, phụ nữ làm việc ở khu vực phi chính thức, làm việc tại các khu công nghiệp, trong đó, có chính sách về lao động, đào tạo, bảo hiểm, nhà ở, nhà trẻ, trường học…
Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tăng cường các giải pháp để đảm bảo các chỉ tiêu, mục tiêu về công tác cán bộ nữ; cơ chế đặc thù cho cán bộ ở các thành phố lớn, nhất là những nơi thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị.
Thủ tướng giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hỗ trợ các thủ tục để công nhận và ghi danh
áo dài Việt Nam
vào danh mục văn hóa phi vật thể quốc gia.
Văn Kiên
|
Prime Minister Pham Minh Chinh
Emphasizing that every Vietnamese woman is a beautiful flower, spreading love, kindness, warmth and the desire to contribute in family and society.
On the morning of October 15, Prime Minister Pham Minh Chinh chaired a dialogue conference with Vietnamese women with the theme "Promoting gender equality and promoting the role of women in socio-economic development".
On behalf of the Party and State leaders, the Prime Minister sends respectful greetings, warm greetings and best wishes to mothers, grandmothers, sisters and all Vietnamese women on the occasion of Vietnamese Women's Day. Nam (October 20).
The Prime Minister emphasized that every Vietnamese woman is a beautiful flower, spreading love, kindness, warmth and the desire to contribute in family and society. In particular, the image of the mother is the most beautiful symbol of Vietnamese women, the one who nurtures, guides emotions, actions and is a monument to each of us.
Prime Minister Pham Minh Chinh dialogues with Vietnamese women on October 20
It is a symbol of sacrifice, gentleness, and courage like the meaningful saying: "Because you live, I work hard all my life - Because you are happy, I bear all the sadness." That fine tradition has always been preserved and promoted through generations of Vietnamese women.
Speaking about the issue of gender equality, the Prime Minister stated that the Party and State are always consistent in their view of ensuring substantive equality between men and women in terms of opportunities, participation and benefits in political fields. , economic, cultural, social. The Party and State have issued many important guidelines, strategies and policies to promote gender equality and for the development of women.
Policies on gender equality and women's development in recent times have contributed to increasing awareness of the role and position of women; create an environment for women to assert themselves; Women's work and gender equality have had positive changes; Women are increasingly making important contributions to their families, communities and society.
However, there are still limitations, so the Prime Minister requested relevant ministries and branches to fully synthesize opinions and review all policies on gender equality and policies for women. women to continue researching, amending, supplementing and perfecting. The Government will resolve which policy areas fall within its authority; If it exceeds its authority, the Government will propose to the relevant authorities.
The Prime Minister affirmed that the Government will research and develop policies to ensure social security for women, especially specific groups of women, women working in the informal sector, working in rural areas. industrial park, which has policies on labor, training, insurance, housing, kindergarten, school...
The Ministry of Home Affairs and the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs strengthen solutions to ensure targets and goals on female cadre work; Specific mechanisms for officials in big cities, especially places where urban government models are piloted.
The Prime Minister assigned the Ministry of Culture, Sports and Tourism to support procedures for recognition and registration
AO dai
on the national intangible culture list.
Van Kien
|
Lý Bí xuất thân từ một hào trưởng địa phương. Theo sử cũ, quê ông ở huyện Thái Bình (có lẽ ở phía trên thị xã Sơn Tây,
trên hai bờ sông Hồng)
. Một thời, ông có ra làm việc với chính quyền đô hộ, nhận một chức quan nhỏ: giám quận (kiểm soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu (
Đức Thọ
,
Hà Tĩnh
). Yêu nước, thương dân, bất bình với bè lũ đô hộ, ông sớm bỏ quan, về quê ở
Thái Bình
. Vùng quê ông có
Tinh Thiều,
giỏi văn chương, lặn lội sang kinh đô nhà Lương (Nam Kinh) xin bổ một chức quan (trước năm 521). Nam triều Trung Quốc cho đến thời Lương, phân biệt tôn ti chặt chẽ giữa quý tộc và bình dân. Lại bộ thượng thư nhà Lương là Sái Tôn bảo họ Tinh là hàn môn, không có tiên hiền, chỉ cho Thiều làm Quảng Dương môn lang tức là chân canh cổng thành phía tây kinh đô Kiến Khang. Tinh Thiều lấy thế làm xấu hổ, không nhận chức về quê, cùng Lý Bí mưu tính việc khởi nghĩa, chiêu tập hiền tài.
Lý Bí, nhân lòng oán hận của dân, đã liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền đất Giao Châu nước ta (Việt Nam xưa), đồng thời nổi dậy chống Lương. Theo sử cũ Việt Nam, thủ lĩnh Chu Diên (vùng Đan Hoài, nay thuộc ngoại thành Hà Nội) là
Triệu Túc
và con là
Triệu Quang Phục,
phục tài đức Lý Bí đã đem quân theo trước tiên,
Phạm Tu
cũng là một tướng tài của Lý Bí từ buổi đầu khởi nghĩa.
Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh. Đứng trước cuộc khởi nghĩa lớn, có sự liên kết giữa các địa phương Tiêu Tư thứ sử Giao Châu khiếp hãi, không dám chống cự chạy trốn về Việt Châu (bắc Hợp Phố) và Quảng Châu.
Nổi dậy từ tháng 1 năm 542, không quá 3 tháng nghĩa quân đã chiếm được châu thành Long Biên (Bắc Ninh).
Sau những giờ phút kinh hoàng buổi đầu, chính quyền nhà Lương lập tức có phản ứng đối phó. Tháng 4 năm 542 vua Lương sai thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, thứ sử La Châu là Nịnh Cư, thứ sử An Châu là Lý Trí, thứ sử ái Châu là Nguyễn Hán, từ 2 phía bắc nam Giao Châu cùng tiến đánh nghĩa quân Lý Bí. Cuộc phản kích này của giặc Lương đã hoàn toàn thất bại. Nghĩa quân thắng lớn và nắm quyền làm chủ đất nước. Từ đồng bằng Bắc Bộ, Lý Bí đã kiểm soát được tới vùng Đức Châu (Hà Tĩnh) ở phía nam và vùng bán đảo Hợp Phố ở phía bắc.
Thua đau, vua Lương lại sai thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng điều khiển binh mã đi đánh Lý Bí vào mùa đông năm ấy. Bọn này dùng dằng không chịu tiến quân, lấy cớ mùa xuân lam chướng, xin đợi mùa thu hẵng khởi binh song vẫn bất đắc dĩ phải động binh (tháng 1 năm 543).
Chủ động đánh giặc, nghĩa quân Lý Bí tổ chức một trận tiêu diệt lớn ngay trên miền cực bắc Châu Giao. Cuộc chiến diễn ra ở
Hợp Phố.
Quân giặc, 10 phần chết tới 7,8 phần, bọn sống sót đều tan vỡ cả, tướng sĩ ngăn cấm cũng không được. Bọn Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng phải dẫn tàn binh quay về Quảng Châu. Tiêu Tư dâng tờ khải về triều, vu cho Tôn Quýnh, Tử Hùng “giao thông với giặc, dùng dằng không tiến quân”. Thấy quân lính bị thiệt hại quá nặng, Lương Vũ Đế xuống chiếu bắt cả 2 tên tướng cầm đầu bị tội chết ở Quảng Châu.
Sau những thắng lợi cả hai chiến trường biên giới Bắc, Nam. Mùa Xuân, tháng Giêng theo lịch Trăng (2-544), Lý Bí dựng lên một nước mới, với quốc hiệu
Vạn Xuân,
đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (
Hà Nội
). Sử cũ (
Đại Việt sử ký)
đã bình luận rằng, với quốc hiệu mới, người đứng đầu nhà nước Vạn Xuân có “ý mong xã tắc được bền vững muôn đời”.
Đền thờ Lý Nam Đế tại Xã Vạn Xuân- Huyện Tam Nông
Lý Bí là người Việt Nam đầu tiên tự xưng
hoàng đế, Việt đế
theo sử Bắc (
Tự trị thông giám)
hay
Nam đế
theo sử Nam. Và bãi bỏ chính sóc (lịch) của Trung Quốc, ông cũng đặt cho Vạn Xuân và triều đại mới một niên hiệu riêng,
Đại Đức
theo sử Bắc hay
Thiên Đức
theo sử Nam (Thiên Đức phải hơn, vì khảo cổ học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý Nam Đế).
Xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm “bá chủ toàn thiên hạ” của hoàng đế phương bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.
Lý Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước của miền sông nước Tô Lịch. Hà Nội cổ, từ giữa thế kỷ 6, bước lên hàng đầu của lịch sử đất nước.
Cơ cấu triều đình mới, hẳn còn sơ sài, nhưng ngoài hoàng đế đứng đầu, bên dưới đã có hai ban văn võ. Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, Triệu Túc làm thái phó, Lý Phục Man được cử làm tướng quân coi giữ một miền biên cảnh, từ Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Sơn Bình) đến Đường Lâm (Ba Vì) “để phòng ngừa Di Lão” Triều đình Vạn Xuân là mô hình, lần đầu tiên, được Việt Nam thâu hóa và áp dụng của một cơ cấu nhà nước mới, theo chế độ tập quyền trung ương. Lý Nam Đế cho xây một
đài Vạn Xuân
để làm nơi văn võ bá quan triều hội.
Nhà nước Vạn Xuân, dù mới dựng, cũng bỏ tiền xây một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Việt Nam. Đó là chùa
Khai Quốc,
tiền thân của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày nay. Ngay cái tên,
“chùa Mở Nước”
cũng đã hàm chứa nhiều ý nghĩa!
Đầu năm 545, nhà Lương bắt đầu tổ chức cuộc xâm lược Vạn Xuân nhằm chinh phục lại châu Giao, “thuộc quốc” cũ. Dương Phiêu được cử làm thứ sử châu Giao. Trần Bá Tiên, viên tướng vũ dũng xuất thân “hàn môn” nhưng có công đánh dẹp châu Quảng, được cử làm tư mã Giao Châu, lĩnh thái thú Vũ Bình, cùng Dương Phiêu tổ chức cuộc chinh phục Vạn Xuân.
Quân Vạn Xuân có khoảng vài vạn người giữ
thành ở cửa sông Tô Lịch,
chiến đấu chống giặc.
Thành đất, lũy tre gỗ, không mấy kiên cố, bị Trần Bá Tiên thúc giục quân vũ dũng công thành ráo riết. Lý Nam Đế buộc phải lui binh ngược sông Hồng, về giữ
thành Gia Ninh
trên miền đồi núi trung du vùng ngã ba sông Trung Hà – Việt Trì.
Cục diện cố thủ của Lý Nam Đế ở thành Gia Ninh kéo dài suốt mùa khô năm 545. Sang tháng 2 năm 546, quân vũ dũng của Bá Tiên, có hậu quân Dương Phiêu tới phối hợp, bao vây và công phá, cuối cùng đã hạ được thành Gia Ninh vào ngày 25. Nhưng Lý Nam Đế cùng một số binh tướng đã thoát chạy được vào miền động Lão ở Tân Xương (miền đồi núi Vĩnh Phú trên lưu vực sông Lô). Chiến tranh giữ nước chuyển sang một hình thái khác. Lý Nam Đế vào vùng núi rừng Việt Bắc, ngoài số binh tướng còn lại sau trận thất thủ Gia Ninh, đã mộ thêm được nhiều nghĩa quân. Nghĩa quân dựng lán trại trong rừng, hạ nhiều cây rừng, xẻ ván đóng thuyền bè.
Sau một thời gian chỉnh đốn lại lực lượng, tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế lại kéo quân từ trong núi rừng “Di Lão” ra hạ thủy trại ở vùng
hồ Điển Triệt
(tên nôm là Đầm Miêng) thuộc xã Tứ Yên huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú, nằm bên bờ sông Lô, cách Bạch Hạc khoảng 15 km về phía bắc. Tuy nhiên, những trận mưa lũ cuối mùa đã khiến cho nước sông Lô đột nhiên lên to, tràn vào vùng chằm ao và ruộng trũng, nước ngập tràn, chảy như rót vào hồ, thuyền lớn có thể đi lại tha hồ mà khu căn cứ nghĩa quân trở thành một vùng cô đảo giữa biển nước mênh mông… Lợi dụng nước lớn, Trần Bá Tiên xua chiến thuyền xông trận, đánh trống reo hò mà tiến vào Điển Triệt. Lý Nam Đế và nghĩa quân bị địch tập kết bất ngờ, không kịp phòng bị, không sao chống đỡ nổi.
Đây là trận đánh lớn cuối cùng của Lý Nam Đế. Sau lần thất bại lớn thứ ba này, ông phải vào nương náu trong
động Khuất Lão
(Tam Nông, Vĩnh Phú).
Tương truyền, về cuối đời, Lý Nam Đế bị mù. Thần thành hoàng Danh Hựu vẫn được các làng chung quan gọi là “Vua mù” và khi tế lễ, phải xướng tên các vật phẩm để thần biết.
Theo sử cũ của Việt Nam, từ sau khi rút về động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị đau yếu luôn. Hai năm sau ông mất (548).
Cuộc kháng chiến chống ách Bắc thuộc của người Việt sau đó được tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Triệu Quang Phục, một tướng cũ của Lý Bí với căn cứ khởi nghĩa tại đầm Dạ Trạch.
Giáo sư TRẦN QUỐC VƯỢNG
|
Lý Bí xuất thân từ một hào trưởng địa phương. Theo sử cũ, quê ông ở huyện Thái Bình (có lẽ ở phía trên thị xã Sơn Tây,
trên hai bờ sông Hồng)
. Một thời, ông có ra làm việc với chính quyền đô hộ, nhận một chức quan nhỏ: giám quận (kiểm soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu (
Đức Thọ
,
Hà Tĩnh
). Yêu nước, thương dân, bất bình với bè lũ đô hộ, ông sớm bỏ quan, về quê ở
Thái Bình
. Vùng quê ông có
Tinh Thiều,
giỏi văn chương, lặn lội sang kinh đô nhà Lương (Nam Kinh) xin bổ một chức quan (trước năm 521). Nam triều Trung Quốc cho đến thời Lương, phân biệt tôn ti chặt chẽ giữa quý tộc và bình dân. Lại bộ thượng thư nhà Lương là Sái Tôn bảo họ Tinh là hàn môn, không có tiên hiền, chỉ cho Thiều làm Quảng Dương môn lang tức là chân canh cổng thành phía tây kinh đô Kiến Khang. Tinh Thiều lấy thế làm xấu hổ, không nhận chức về quê, cùng Lý Bí mưu tính việc khởi nghĩa, chiêu tập hiền tài.
Lý Bí, nhân lòng oán hận của dân, đã liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền đất Giao Châu nước ta (Việt Nam xưa), đồng thời nổi dậy chống Lương. Theo sử cũ Việt Nam, thủ lĩnh Chu Diên (vùng Đan Hoài, nay thuộc ngoại thành Hà Nội) là
Triệu Túc
và con là
Triệu Quang Phục,
phục tài đức Lý Bí đã đem quân theo trước tiên,
Phạm Tu
cũng là một tướng tài của Lý Bí từ buổi đầu khởi nghĩa.
Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh. Đứng trước cuộc khởi nghĩa lớn, có sự liên kết giữa các địa phương Tiêu Tư thứ sử Giao Châu khiếp hãi, không dám chống cự chạy trốn về Việt Châu (bắc Hợp Phố) và Quảng Châu.
Nổi dậy từ tháng 1 năm 542, không quá 3 tháng nghĩa quân đã chiếm được châu thành Long Biên (Bắc Ninh).
Sau những giờ phút kinh hoàng buổi đầu, chính quyền nhà Lương lập tức có phản ứng đối phó. Tháng 4 năm 542 vua Lương sai thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, thứ sử La Châu là Nịnh Cư, thứ sử An Châu là Lý Trí, thứ sử ái Châu là Nguyễn Hán, từ 2 phía bắc nam Giao Châu cùng tiến đánh nghĩa quân Lý Bí. Cuộc phản kích này của giặc Lương đã hoàn toàn thất bại. Nghĩa quân thắng lớn và nắm quyền làm chủ đất nước. Từ đồng bằng Bắc Bộ, Lý Bí đã kiểm soát được tới vùng Đức Châu (Hà Tĩnh) ở phía nam và vùng bán đảo Hợp Phố ở phía bắc.
Thua đau, vua Lương lại sai thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng điều khiển binh mã đi đánh Lý Bí vào mùa đông năm ấy. Bọn này dùng dằng không chịu tiến quân, lấy cớ mùa xuân lam chướng, xin đợi mùa thu hẵng khởi binh song vẫn bất đắc dĩ phải động binh (tháng 1 năm 543).
Chủ động đánh giặc, nghĩa quân Lý Bí tổ chức một trận tiêu diệt lớn ngay trên miền cực bắc Châu Giao. Cuộc chiến diễn ra ở
Hợp Phố.
Quân giặc, 10 phần chết tới 7,8 phần, bọn sống sót đều tan vỡ cả, tướng sĩ ngăn cấm cũng không được. Bọn Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng phải dẫn tàn binh quay về Quảng Châu. Tiêu Tư dâng tờ khải về triều, vu cho Tôn Quýnh, Tử Hùng “giao thông với giặc, dùng dằng không tiến quân”. Thấy quân lính bị thiệt hại quá nặng, Lương Vũ Đế xuống chiếu bắt cả 2 tên tướng cầm đầu bị tội chết ở Quảng Châu.
Sau những thắng lợi cả hai chiến trường biên giới Bắc, Nam. Mùa Xuân, tháng Giêng theo lịch Trăng (2-544), Lý Bí dựng lên một nước mới, với quốc hiệu
Vạn Xuân,
đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (
Hà Nội
). Sử cũ (
Đại Việt sử ký)
đã bình luận rằng, với quốc hiệu mới, người đứng đầu nhà nước Vạn Xuân có “ý mong xã tắc được bền vững muôn đời”.
Đền thờ Lý Nam Đế tại Xã Vạn Xuân- Huyện Tam Nông
Lý Bí là người Việt Nam đầu tiên tự xưng
hoàng đế, Việt đế
theo sử Bắc (
Tự trị thông giám)
hay
Nam đế
theo sử Nam. Và bãi bỏ chính sóc (lịch) của Trung Quốc, ông cũng đặt cho Vạn Xuân và triều đại mới một niên hiệu riêng,
Đại Đức
theo sử Bắc hay
Thiên Đức
theo sử Nam (Thiên Đức phải hơn, vì khảo cổ học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý Nam Đế).
Xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm “bá chủ toàn thiên hạ” của hoàng đế phương bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.
Lý Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước của miền sông nước Tô Lịch. Hà Nội cổ, từ giữa thế kỷ 6, bước lên hàng đầu của lịch sử đất nước.
Cơ cấu triều đình mới, hẳn còn sơ sài, nhưng ngoài hoàng đế đứng đầu, bên dưới đã có hai ban văn võ. Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, Triệu Túc làm thái phó, Lý Phục Man được cử làm tướng quân coi giữ một miền biên cảnh, từ Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Sơn Bình) đến Đường Lâm (Ba Vì) “để phòng ngừa Di Lão” Triều đình Vạn Xuân là mô hình, lần đầu tiên, được Việt Nam thâu hóa và áp dụng của một cơ cấu nhà nước mới, theo chế độ tập quyền trung ương. Lý Nam Đế cho xây một
đài Vạn Xuân
để làm nơi văn võ bá quan triều hội.
Nhà nước Vạn Xuân, dù mới dựng, cũng bỏ tiền xây một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Việt Nam. Đó là chùa
Khai Quốc,
tiền thân của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày nay. Ngay cái tên,
“chùa Mở Nước”
cũng đã hàm chứa nhiều ý nghĩa!
Đầu năm 545, nhà Lương bắt đầu tổ chức cuộc xâm lược Vạn Xuân nhằm chinh phục lại châu Giao, “thuộc quốc” cũ. Dương Phiêu được cử làm thứ sử châu Giao. Trần Bá Tiên, viên tướng vũ dũng xuất thân “hàn môn” nhưng có công đánh dẹp châu Quảng, được cử làm tư mã Giao Châu, lĩnh thái thú Vũ Bình, cùng Dương Phiêu tổ chức cuộc chinh phục Vạn Xuân.
Quân Vạn Xuân có khoảng vài vạn người giữ
thành ở cửa sông Tô Lịch,
chiến đấu chống giặc.
Thành đất, lũy tre gỗ, không mấy kiên cố, bị Trần Bá Tiên thúc giục quân vũ dũng công thành ráo riết. Lý Nam Đế buộc phải lui binh ngược sông Hồng, về giữ
thành Gia Ninh
trên miền đồi núi trung du vùng ngã ba sông Trung Hà – Việt Trì.
Cục diện cố thủ của Lý Nam Đế ở thành Gia Ninh kéo dài suốt mùa khô năm 545. Sang tháng 2 năm 546, quân vũ dũng của Bá Tiên, có hậu quân Dương Phiêu tới phối hợp, bao vây và công phá, cuối cùng đã hạ được thành Gia Ninh vào ngày 25. Nhưng Lý Nam Đế cùng một số binh tướng đã thoát chạy được vào miền động Lão ở Tân Xương (miền đồi núi Vĩnh Phú trên lưu vực sông Lô). Chiến tranh giữ nước chuyển sang một hình thái khác. Lý Nam Đế vào vùng núi rừng Việt Bắc, ngoài số binh tướng còn lại sau trận thất thủ Gia Ninh, đã mộ thêm được nhiều nghĩa quân. Nghĩa quân dựng lán trại trong rừng, hạ nhiều cây rừng, xẻ ván đóng thuyền bè.
Sau một thời gian chỉnh đốn lại lực lượng, tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế lại kéo quân từ trong núi rừng “Di Lão” ra hạ thủy trại ở vùng
hồ Điển Triệt
(tên nôm là Đầm Miêng) thuộc xã Tứ Yên huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú, nằm bên bờ sông Lô, cách Bạch Hạc khoảng 15 km về phía bắc. Tuy nhiên, những trận mưa lũ cuối mùa đã khiến cho nước sông Lô đột nhiên lên to, tràn vào vùng chằm ao và ruộng trũng, nước ngập tràn, chảy như rót vào hồ, thuyền lớn có thể đi lại tha hồ mà khu căn cứ nghĩa quân trở thành một vùng cô đảo giữa biển nước mênh mông… Lợi dụng nước lớn, Trần Bá Tiên xua chiến thuyền xông trận, đánh trống reo hò mà tiến vào Điển Triệt. Lý Nam Đế và nghĩa quân bị địch tập kết bất ngờ, không kịp phòng bị, không sao chống đỡ nổi.
Đây là trận đánh lớn cuối cùng của Lý Nam Đế. Sau lần thất bại lớn thứ ba này, ông phải vào nương náu trong
động Khuất Lão
(Tam Nông, Vĩnh Phú).
Tương truyền, về cuối đời, Lý Nam Đế bị mù. Thần thành hoàng Danh Hựu vẫn được các làng chung quan gọi là “Vua mù” và khi tế lễ, phải xướng tên các vật phẩm để thần biết.
Theo sử cũ của Việt Nam, từ sau khi rút về động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị đau yếu luôn. Hai năm sau ông mất (548).
Cuộc kháng chiến chống ách Bắc thuộc của người Việt sau đó được tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Triệu Quang Phục, một tướng cũ của Lý Bí với căn cứ khởi nghĩa tại đầm Dạ Trạch.
Giáo sư TRẦN QUỐC VƯỢNG
|
Di sản văn chương về
biển đảo Việt Nam
đã một lần nữa được khảo chú, bổ sung lên đến gần 350 tác phẩm thời trung – cận đại và gần 100 tác phẩm dân gian (ca dao, tục ngữ, hò vè) tại cuốn sách ‘Hải quốc từ chương – Tùng thư văn học biển đảo’ (NXB Khoa học xã hội) của PGS, TS Trần Trọng Dương. Không chỉ đồ sộ về mặt số lượng, mà từ góc tiếp cận đối tượng khảo cứu, độc giả sẽ thấy những gợi ý thú vị từ kho tàng của cải ông cha để lại cho con cháu hôm nay.
Tiếng Việt trong mỗi người
Tiếng Việt
giàu thanh điệu biểu cảm, tiếng Việt mang giá trị tinh thần Việt, tiếng Việt ngoài chức năng thông tin ngôn ngữ, còn mang hồn quê hương. Tìm về cái hay cái đẹp của tiếng Việt là hành trình “tơ lụa” của biết bao thế hệ người Việt. “Hải quốc từ chương” ra đời trên hành trình đó, từ tâm thế của tác giả, từ tâm trạng của người hôm nay trước một thực tại luôn biến đổi không ngừng, dựa vào cội nguồn để vững, để mà chắc dạ, yên tâm. Sẽ thanh thản, từ tâm thôi, khi học được từ tiền nhân cái ung dung tự tại: “Sáng leo lên đỉnh mây trời/Tối về vụng biển nằm ngơi trang vàng” (trích trong bài thơ “Hạnh An Bang phủ” của vua Trần Thánh Tông (1240-1290).
Tác giả cuốn sách đã tìm lại và đưa đến cho người đọc những giá trị văn chương trung – cận đại hữu ích cho đời sống hiện đại. Như chính anh đã bộc bạch: Các sáng tác văn học biển của các tác giả nổi tiếng, phần lớn là các nhà nho, nhà văn hóa, hoàng đế, như Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông
, Trần Minh Tông, Lê Thánh Tông,
Nguyễn Trãi
,
Nguyễn Bỉnh Khiêm
…, là những tác phẩm tạo nên sự phong phú về nội dung và nghệ thuật. Từ không khí chung là vẻ đẹp non sông, gắn với các chiến tích lẫy lừng thủy chiến, cùng những đau xót phận người trước thiên tai… “Không thể nghi ngờ rằng, văn học biển đảo chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Những tác phẩm này, ngoài giá trị như những sử liệu, còn mang nhiều giá trị về mặt nghệ thuật”, Trần Trọng Dương nhấn mạnh.
Những áng văn chương về biển Việt trong quá khứ cũng như thực tại, luôn khiến người đọc mênh mang, được tiếp sức từ đó nguồn truyền thống mặn mòi, sâu lắng, bao la, một truyền thống đầy hảo cảm tự hào: “Biển đông vạn dặm giang tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững trị bình” (Trích trong bài thơ “Cự Ngao đới”, Nguyễn Bỉnh Khiêm), từ hàng trăm năm trước, tiền nhân vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay.
Văn chương về biển từ không gian văn hóa
Trước nay, nghĩ đến văn học, chúng ta thường đặt tác phẩm vào phân kỳ
lịch sử
, gắn với những sự kiện chính trị xã hội của thời đại mà tác phẩm ra đời, để hiểu hơn, để dễ cảm nhận hơn. Ở đây, những tác phẩm văn học biển Việt còn được tác giả khảo chú từ góc nhìn không gian địa lý lịch sử. Theo Trần Trọng Dương: “Các văn liệu Hán Nôm thời trung đại, một cách khách quan, đã phản ánh quá trình đông tiến của các cửa sông/cửa biển và của con người. Vì thế, khi tiến hành sưu tầm các văn liệu biển đảo, đề tài còn chú ý đến tính
lịch sử
của các địa danh này. Ở một chừng mực nào đó, các văn liệu này còn có thể coi như những sử liệu quý giá cung cấp cho khoa địa lý học lịch sử”.
Với tâm niệm này, chắc chắn, bên cạnh việc thưởng thức, cảm nhận lại những áng văn chương biển đảo, người đọc còn được gợi mở tri thức về những địa danh lịch sử, những phong tục tập quán vùng miền, những ứng xử văn hóa biển đảo giàu bản sắc… từ phần chú giải tác phẩm. Góc nhìn văn chương từ không gian địa lý lịch sử còn mở ra hướng tư duy, ngõ hầu gợi ý cho những người làm lịch sử hôm nay, một hướng tiếp cận liên ngành.
Cũng giống như những ấn phẩm trước của Trần Trọng Dương, “Hải quốc từ chương” với hàm lượng khoa học đã được các nhà chuyên môn đánh giá nghiệm thu, cùng diện đối tượng văn chương anh quan tâm khảo cứu, chúng ta có ngay một hình dung: đây là kết quả của cả một quá trình nghiêm ngắn chuyên tâm từ trẻ. Với những cuốn sách lần lượt ra đời, Trần Trọng Dương được ví như một gạch nối giữa truyền thống (Hán Nôm) và hiện đại. Anh đưa đến những mã thông tin văn hóa Việt tin cậy hữu ích cho chúng ta trong sáng tạo, trong đời sống.
Đặc biệt, đối với những người trẻ quan tâm đến văn hóa truyền thống, “Hải quốc từ chương” chính là một tập hợp
tư liệu
ngồn ngộn hình tượng văn hóa biển và “ký hiệu” ngôn từ đã được thuần Việt trong không gian và thời gian qua văn chương, đó là những gợi ý quý báu.
Bài và ảnh: DƯƠNG XUÂN
|
Literary heritage about
Vietnamese sea and island
has once again been examined and supplemented with nearly 350 medieval and early modern works and nearly 100 folk works (folk songs, proverbs, rhymes) in the book 'Hai Quoc Tu Chuong - Tung Thu Van Studying the sea and islands' (Social Science Publishing House) by Associate Professor, Dr. Tran Trong Duong. Not only is it massive in terms of quantity, but from the perspective of approaching the research object, readers will see interesting suggestions from the treasure trove of wealth left by their ancestors to their descendants today.
Vietnamese in everyone
Vietnamese
Rich in expressive tones, Vietnamese carries Vietnamese spiritual values. Vietnamese language, in addition to its linguistic information function, also carries the soul of the homeland. Finding the beauty of the Vietnamese language is the "silk" journey of many generations of Vietnamese people. "Hai Quoc Tu Chuong" was born on that journey, from the author's mindset, from the mood of today's people facing a reality that is constantly changing, relying on roots to be stable, to be confident, to be at peace. heart. You will be at peace and benevolent when you learn from your predecessors the ease and freedom: "In the morning, climb to the top of the clouds in the sky/In the evening, return to the seaside and lie down with golden pages" (quoted in the poem "Hanh An Bang Phu" by the king). Tran Thanh Tong (1240-1290).
The author of the book has rediscovered and brought to readers medieval and modern literary values useful for modern life. As he himself confided: Maritime literary works by famous authors, mostly Confucian scholars, cultural scholars, and emperors, such as Tran Thanh Tong,
Tran Nhan Tong
, Tran Minh Tong, Le Thanh Tong,
Nguyen Trai
,
Nguyen Binh Khiem
…, are works that create richness in content and art. From the general atmosphere of the beauty of the mountains and rivers, associated with the glorious victories of naval battles, and the pain of human fate before natural disasters... "There is no doubt that island literature occupies an important position in history. Vietnamese literature. These works, in addition to being valuable as historical records, also have many artistic values," Tran Trong Duong emphasized.
Literary works about the Vietnamese sea in the past as well as in the present always leave readers fascinated, inspired by the source of a salty, deep, vast tradition, a tradition full of affection and pride: "The sea Thousands of miles away, we extend our hands to hold / Long live the Vietnamese land in peace" (Excerpt from the poem "Cu Ngao Doi", Nguyen Binh Khiem), hundreds of years ago, our ancestors are still speaking to us today.
Literature about the sea from the cultural space
Until now, when thinking about literature, we often put works into periods
history
, associated with the socio-political events of the era in which the work was created, to better understand and to feel more easily. Here, Vietnamese maritime literary works are also examined by the author from the perspective of historical geographical space. According to Tran Trong Duong: "Medieval Sino-Nom documents, objectively, reflected the progress of estuaries/estuaries and people. Therefore, when collecting marine and island documents, the topic also pays attention to nature
history
of these locations. To some extent, these documents can also be considered as valuable historical documents for historical geography."
With this in mind, certainly, in addition to enjoying and re-embracing island literature, readers will also be inspired to gain knowledge about historical places, regional customs, and behaviors. Sea and island culture is rich in identity... from the work's annotation. The literary perspective from the historical geographical space also opens up a direction of thinking, to suggest to those doing history today, an interdisciplinary approach.
Just like Tran Trong Duong's previous publications, "Hai Quoc Tu Chu Chuong" with scientific content has been evaluated and accepted by experts, and with the literary subjects he is interested in researching, we immediately have Imagine: this is the result of a short, dedicated process from a young age. With the books released one after another, Tran Trong Duong is considered a link between tradition (Han Nom) and modernity. He brings us reliable Vietnamese cultural information codes that are useful for us in creativity and in life.
Especially, for young people interested in traditional culture, "Hai Quoc Tu Chuong" is a collection of
Data
The abundance of maritime cultural images and verbal "symbols" that have been domesticated in Vietnamese space and time through literature are valuable suggestions.
Article and photos: DUONG XUAN
|
Nhắc đến
Tây Nguyên
, người ta hay nghĩ đến một vùng đất hoang sơ, đầy nắng và gió, với những con đường đất đỏ khúc khuỷu, hiểm trở. Nhưng vùng đất này còn có nhiều điều thú vị, đủ sức hấp dẫn những bước chân du khách ưa chinh phục và khám phá. Trong bài viết sau đây hãy cùng khám phá vị trí địa lý, đặc điểm thời tiết, khí hậu và điều kiện tự nhiên của Tây Nguyên nhé!
Tây Nguyên
Tây Nguyên là một trong 3 tiểu vùng thuộc miền Trung Việt Nam, cùng với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ hợp thành
vùng Nam Trung Bộ
.
Tây Nguyên vùng cao nguyên với vị trí tiếp giáp phía bắc là
tỉnh Quảng Nam
, phía đông giáp các tỉnh
Quảng Ngãi
,
Bình Định
,
Phú Yên
,
Khánh Hòa
,
Ninh Thuận
,
Bình Thuận
, phía nam giáp các tỉnh
Đồng Nai
,
Bình Phước
, phía tây giáp với các tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia); gần với “tam giác phát triển”
Việt Nam
–
Lào
–
Campuchia
.
Vị trí địa lý của Tây Nguyên
Vùng Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh xếp theo thứ tự từ Bắc xuống Nam gồm:
Kon Tum
,
Gia Lai
,
Đắk Lắk
,
Đắk Nông
,
Lâm Đồng
và chia thành ba tiểu vùng địa hình: Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Nếu xét diện tích Tây Nguyên bằng tổng diện tích của 5 tỉnh ở đây, thì vùng Tây Nguyên rộng khoảng 54.7 nghìn km².
Tây Nguyên nằm trong vùng Nhiệt đới Xavan, gồm nhiều tiểu vùng nhưng khí hậu phổ biến là nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Khí hậu ở đây được chia thành hai mùa rõ rệt :
Đường Tây Nguyên mùa mưa
Nhiệt độ trung bình năm là 24
o
C trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.900 mm – 2.000 mm, tập trung chủ yếu vào mùa mưa.
Do sự khác biệt về độ cao, khí hậu ở cao nguyên nên khi đạt độ cao khoảng 500m sẽ tương đối mát mẻ và có mưa, ở vị trí cao hơn như cao nguyên với độ cao 1000m là thời tiết Đà Lạt thì mát mẻ quanh năm, đặc trưng của vùng có khí hậu núi cao. Trung Tây Nguyên như thời tiết Đắk Lắk và thời tiết Đắk Nông thì có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
Tây Nguyên không phải là cao nguyên duy nhất mà là vùng cao nguyên gồm 9 cao nguyên liền kề. Đó là cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 mét, cao nguyên Kon Plông, Kon Hà Nừng, Pleiku cao khoảng 800 m, cao nguyên M’Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500m, cao nguyên Mơ Nông cao khoảng 800–1000m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900–1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao chính là Trường Sơn Nam.
Vẻ đẹp của cao nguyên Lâm Viên ở Đà Lạt
Ở về phía Tây của dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ Đông sang Tây, đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đông Nam thổi vào. Địa hình chia cắt phức tạp có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm:
+ Địa hình cao nguyên là địa hình đặc trưng nhất của vùng, tạo lên bề mặt của vùng. Dạng địa hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với quy mô lớn.
+ Địa hình vùng núi.
+ Địa hình thung lũng chiếm diện tích không lớn; chủ yếu phát triển cây lương thực, thực phẩm và nuôi cá nước ngọt.
Tây Nguyên có mạng lưới sông ngòi dày đặc và cũng là nơi khởi nguồn của 4 hệ thống sông chính gồm :
+ Hệ thống sông Pô Kô – Sê San ở Kon Tum đổ vào sông Mê Kông
+ Hệ thống sông Ba – Ayun ở Gia Lai Hổ vào sông Đà Rằng chảy ra biển Đông
+ Hệ thống sông Sêrêpôk ở Đắk Lắk đổ vào sông Mê Kông
+ Hệ thống sông Đồng Nai ở Đắk Nông và Lâm Đồng chảy ra biển Đông
Ngoài ra còn có sông Ê Xan , Xrê Pốc … và nhiều thác ghềnh.
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ Bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ và đang tiến hành khai thác mỏ quặng Bô xít. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng, động vật quý hiếm như voi, bò tót, trâu rừng, hổ, gấu, công, gà lôi,.. Ngoài ra, nơi đây còn có trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn có thể coi là mái nhà của miền Trung, có chức năng phòng hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên nhiên và khai thác lâm sản bừa bãi chưa ngăn chặn được tại đây có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo kiệt rừng và thay đổi môi trường, sinh thái.
Lễ hội đua voi ở Tây Nguyên
Bài viết trên đây của chúng tôi đã tổng hợp đến các bạn đọc những thông tin về
vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên cũng như về thời tiết của vùng Tây Nguyên
. Hy vọng qua đây các bạn đã chắt lọc được cho mình những thông tin cần thiết và có thể lựa chọn cho mình thời điểm du lịch lý tưởng để đến cảm nhận và trải nghiệm trọn vẹn một Tây Nguyên hoang sơ và hùng vĩ.
|
Mentioned
Highlands
, people often think of a wild land, full of sun and wind, with winding and dangerous red dirt roads. But this land also has many interesting things, enough to attract the footsteps of tourists who like to conquer and explore. In the following article, let's explore the geographical location, weather characteristics, climate and natural conditions of the Central Highlands!
Highlands
The Central Highlands is one of three sub-regions in Central Vietnam, along with the South Central Coast region
South Central region
.
The Central Highlands is a highland region with an adjacent location to the north
Quang Nam Province
, bordering the provinces to the east
Quang Ngai
,
Pacify
,
Phu Yen
,
Khanh Hoa
,
Ninh Thuan
,
Binh Thuan
, bordering the provinces to the south
Dong Nai
,
Binh Phuoc
, bordered to the west by the provinces of Attapeu (Laos) and Ratanakiri and Mondulkiri (Cambodia); close to the "development triangle"
Vietnam
–
Laos
–
Cambodia
.
Geographical location of the Central Highlands
The Central Highlands region includes 5 provinces ranked in order from North to South including:
Kon Tum
,
Gia Lai
,
Dak Lak
,
Dak Nong
,
Lam Dong
and divided into three geographical sub-regions: Northern Central Highlands (corresponding to Kon Tum and Gia Lai provinces), Central Central Highlands (corresponding to Dak Lak and Dak Nong provinces), Southern Central Highlands (corresponding to Lam Dong province). Copper). If we consider the area of the Central Highlands equal to the total area of the 5 provinces here, the Central Highlands region is about 54.7 thousand km² wide.
The Central Highlands is located in the Tropical Savanna region, including many sub-regions but the common climate is the highland tropical monsoon. The climate here is divided into two distinct seasons:
Central Highlands Road in rainy season
The annual average temperature is 24
o
C in which March and April are the two hottest and driest months. The average annual rainfall is about 1,900 mm - 2,000 mm, concentrated mainly in the rainy season.
Due to the difference in altitude and climate in the plateau, when it reaches an altitude of about 500m it will be relatively cool and rainy. At higher locations such as the plateau with an altitude of 1000m, the weather in Da Lat is cool around year, typical of high mountain climate regions. The Central Highlands, such as Dak Lak weather and Dak Nong weather, has lower altitudes and higher temperatures than the Northern and Southern sub-regions.
The Central Highlands is not the only plateau but is a highland region consisting of 9 adjacent plateaus. These are the Kon Tum plateau about 500 meters high, the Kon Plong, Kon Ha Nung, Pleiku plateaus about 800 meters high, the M'Drak plateau about 500 meters high, the Buon Ma Thuot plateau about 500 meters high, the Mo Nong plateau about 500 meters high. about 800–1000m, Lam Vien plateau is about 1500m high and Di Linh plateau is about 900–1000 m high. All of these plateaus are surrounded to the East by mountain ranges and the high mountain massif is Truong Son Nam.
The beauty of Lam Vien plateau in Da Lat
To the west of the Truong Son range, the terrain surface slopes gradually from East to West, catching the West wind but preventing the Southeast wind from blowing in. Complex divided terrain with clear gradation, including:
+ Plateau terrain is the most characteristic terrain of the region, creating the surface of the region. This type of terrain is favorable for large-scale agriculture and forestry development.
+ Mountainous terrain.
+ The valley terrain does not occupy a large area; Mainly growing food crops and raising freshwater fish.
The Central Highlands has a dense river network and is also the origin of four main river systems including:
+ The Po Ko - Se San river system in Kon Tum flows into the Mekong River
+ The Ba - Ayun river system in Gia Lai Ho flows into the Da Rang river and flows into the East Sea
+ The Serepok River system in Dak Lak flows into the Mekong River
+ Dong Nai river system in Dak Nong and Lam Dong flows into the East Sea
There are also E Xan, Xre Poc rivers... and many rapids.
With basalt red soil characteristics at an altitude of about 500 m to 600 m above sea level, the Central Highlands is very suitable for industrial crops such as coffee, cocoa, pepper, and mulberry. Cashew trees and rubber trees are also being grown here. Coffee is the number one important industrial crop in the Central Highlands. The Central Highlands is the second largest rubber growing region after the Southeast and is exploiting bauxite ore. The Central Highlands is also an area in Vietnam with many forest areas with diverse biodiversity and rare animals such as elephants, gaurs, wild buffalos, tigers, bears, peacocks, pheasants, etc. In addition, this place There are also rich mineral reserves that are almost untapped and great tourism potential, which can be considered the roof of the Central region, with a great protective function. However, deforestation, destruction of natural resources and indiscriminate exploitation of forest products have not been stopped here, which can lead to the risk of deforestation and environmental and ecological changes.
Elephant racing festival in the Central Highlands
Our above article has compiled information for readers
geographical location, natural conditions as well as weather of the Central Highlands region
. Hopefully, through this, you have filtered the necessary information for yourself and can choose for yourself the ideal travel time to fully feel and experience the wild and majestic Central Highlands.
|
Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám vừa giới thiệu đến công chúng một trưng bày mang tên “Bia đá kể chuyện”. Đây là lần đầu tiên những hoa văn, họa tiết, hàng chữ trên 82 tấm bia tiến sĩ tại đây được dịch từ chữ Hán – Nôm sang chữ Việt, cung cấp thông tin cho công chúng về các khoa thi thời xưa cùng tên tuổi những người đỗ đạt.
Trải qua những tháng năm thăng trầm của lịch sử, hiện chỉ còn 82 tấm bia được bảo tồn tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Chuyện tuyển chọn và trọng dụng nhân tài
Ngay từ những ngày đầu xây dựng nền quân chủ độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam đã chú trọng tới việc tuyển chọn và trọng dụng nhân tài. Từ khoa thi đầu tiên được tổ chức năm 1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông cho đến khoa thi cuối cùng năm 1919 dưới triều vua Khải Định, lịch sử khoa cử Việt Nam đã trải qua hơn 800 năm với hàng trăm khoa thi được tổ chức và sự xuất hiện của nhiều bậc hiền tài, góp phần đảm bảo cho sự thịnh vượng của biết bao triều đại. Những người đỗ đại khoa không chỉ được triều đình trọng dụng mà kể từ khoa thi năm 1442, họ còn được khắc tên trên bia tiến sỹ đặt tại Văn Miếu ở kinh đô để lưu truyền danh thơm đến muôn đời sau.
Cuộc trưng bày “Bia đá kể chuyện” với chủ đề “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” được thể hiện qua các nội dung như: “Chiêu mộ hiền tài” – giới thiệu một số nét chính về khoa cử của nước ta giai đoạn 1442 -1529. “Con đường khoa cử” – giới thiệu thông tin về thi cử và chế độ đãi ngộ dành cho những người đỗ đạt. “Gương sáng tiền nhân” – giới thiệu một số danh nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho giáo dục nước nhà và một số lĩnh vực khác. “Lưu danh muôn thuở” – giới thiệu những câu trích dẫn nổi tiếng về giá trị của đào tạo và sử dụng nhân tài. Trưng bày lựa chọn giới thiệu 14 bia tiến sĩ đầu tiên có liên quan đến các khoa thi trong giai đoạn 1442 – 1529, tương ứng với những khoa thi được tổ chức dưới triều Lê sơ và kết thúc bằng khoa thi đầu tiên của nhà Mạc.
Theo Tiến sĩ Lê Xuân Kiêu – Giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trải qua những tháng năm thăng trầm của lịch sử, một số tấm bia tiến sĩ của Văn Miếu Thăng Long xưa đã bị mất hoặc thất lạc, hiện nay chỉ còn 82 tấm bia được bảo tồn tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Có một thực tế là, hiện tại, việc tiếp cận nội dung trên bia tiến sĩ lại không hề dễ dàng với công chúng, với khách tham quan. Xuất phát từ mong muốn 82 bia tiến sĩ phải đến được gần hơn với công chúng, thông qua đó quảng bá, phát huy giá trị di sản, nên Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám tổ chức trưng bày “Bia đá kể chuyện” như một cách để những tấm bia nằm im lìm suốt thời gian qua sẽ kể câu chuyện về những danh nhân, những bậc hiền tài của đất nước. Bởi lẽ, những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của 82 bia tiến sĩ không chỉ được thể hiện đơn thuần qua những hàng chữ Nho hay hoa văn trang trí trên mặt bia. Ẩn sau lớp mặt đá là hàng ngàn câu chuyện thú vị về cuộc đời và sự nghiệp của hơn 1.300 vị tiến sĩ.
Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên đá từ mấy trăm năm trước cho đến tận bây giờ.
Nguồn sử liệu quan trọng
82 tấm bia hiện còn được dựng theo lệnh của các vị vua triều Lê – Mạc để tôn vinh các vị đỗ đại khoa từ năm 1442 đến 1779. Văn bia ghi lại họ tên, quê quán của những người đỗ đạt, đồng thời cung cấp những thông tin quan trọng khác như ngày, tháng, năm dựng bia, họ tên và chức vụ của những người soạn văn bia, người “nhuận sắc”, người viết chữ, người chế tác bia. Chữ viết trên bia cùng các hoa văn trang trí, phong cách tạo dáng bia mang dấu ấn thời đại.
Bia tiến sĩ với các bài văn trên đó chính là nguồn sử liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử dân tộc, mà nổi bật là nền giáo dục khoa cử Việt Nam trong suốt 300 năm. Đó là triết lý giáo dục coi trọng hiền tài – “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” – được nhắc đi, điểm lại trong hầu hết các bài văn bia, thể hiện tinh thần nhất quán trong các triều vua thời Lê – Mạc. Triết lý giáo dục này đã tạo nên sự thành công trong việc phát triển giáo dục của đất nước qua con số 1.307 lượt người đỗ của 82 khoa Đại khoa trong thời gian 300 năm. Văn bia cũng cho biết số Hương cống (đỗ Trung khoa) dự thi Đại khoa từ 450 đến 6.000 người. Và, cứ mỗi khoa thi có từ 3 đến 62 người đỗ đạt. Phần lớn những người đỗ Đại khoa được ghi danh trên 82 bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám sau này đều trở thành những danh nhân văn hóa vì những đóng góp to lớn của họ đối với đất nước trên nhiều lĩnh vực chính trị, văn hóa, quân sự, kinh tế, giáo dục…
Theo thống kê, trong số 1.304 tiến sĩ đỗ đạt được khắc tên trên bia đá thì có tới 225 vị từng được cử đi sứ Trung Quốc vào các triều Minh, Thanh. Cá biệt, có những vị đi sứ tới 2 – 3 lần như Nguyễn Như Đổ (1424-1525),
Lê Quý Đôn
(1726-1784) và Lương Như Hộc (?-?)… Vì thế, đây cũng là những tư liệu có giá trị để tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của các sứ thần Việt Nam cùng lịch sử mối giao bang giữa các nước vùng Đông Bắc Á.
Bên cạnh đó, mỗi tấm bia không đơn thuần chỉ là một văn bản mà còn là một tác phẩm nghệ thuật với những hoa văn trang trí cầu kỳ, tính cách điệu cao với nhiều chủ đề hoa lá, mây, trăng, long, ly, quy, phượng. Nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật đã coi đây như một tư liệu quan trọng trong quá trình nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật và điêu khắc Việt Nam từ thế kỷ XV đến XVIII. Hầu hết những bài ký của bia đều tập trung ca ngợi vai trò của Nho giáo trong đời sống chính trị xã hội, ca ngợi chế độ và đề cao nhà vua. Nhưng điều đặc biệt, trong những bài văn bia đó còn đề cập đến những vấn đề mà ngay cả ở thời điểm hiện tại vẫn cần coi trọng như “dựng xây nghiệp lớn, diệt trừ tàn bạo, cứu dân lầm than” hoặc “mở mang văn đức, thu nạp anh tài, đổi mới chính trị…” (bia tiến sĩ năm 1442 khắc năm 1484).
Trong bia khoa thi 1463 do Đào Cử soạn, bên cạnh những dòng ca ngợi triều Lê cùng vua Lê Thái Tổ còn đề cao việc “mở cửa cầu hiền, sửa sang nền đức, cổ vũ lòng dân” hoặc “đem lòng nhân hậu vun bồi cho mệnh mạch nhà nước”. Các bài ký trong bia đề danh tiến sĩ còn giúp chúng ta hiểu được chính sách phát triển giáo dục của các triều đại quân chủ tập quyền Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc chăm lo đào tạo nhân tài cho đất nước. Ví như, trong bia khoa thi tiến sĩ năm 1442 khắc năm 1484 viết: “Nghĩ việc đặt khoa thi, kén kẻ sĩ là chính sự cần làm trước nhất. Tô điểm cơ đồ, khôi phục mở mang trị hóa chính là ở đây, sửa sang chính sự, sắp đặt công việc, giáo hóa dân phong mỹ tục là ở đây, các bậc đế vương đời xưa làm nên trị bình đời nào cũng theo thế”.
Những áng văn bất hủ trên dù đã được khắc trên bia nhiều thế kỷ qua nhưng tinh thần và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự.
Vấn đề coi trọng hiền tài tiếp tục được nhấn mạnh: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi trọng việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”. Bia khoa thi Tiến sĩ năm 1448 cũng đề cập tới vấn đề này: “Sự lớn lao của nền chính trị, của bậc đế vương không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài. Việc cai trị mà không lấy nhân tài làm gốc thì đều bị coi là thiếu đường hướng phát triển”.
Không chỉ thể hiện đường lối trọng dụng nhân tài, nội dung những bài ký trên bia còn là những bài học răn dạy, nhắc nhở trách nhiệm của những người đỗ đạt đối với đất nước: “Kẻ sĩ được khắc tên vào tấm đá này thật may mắn biết bao, nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau ” (văn bia khoa thi năm 1487). Và kẻ sĩ trên cơ sở đó “Hãy làm mây lành, sao tỏ, nêu điểm tốt cho đời, làm ngọc sang, vàng ròng để làm kho báu cho nước” (văn bia khoa thi năm 1514); hoặc “thảng hoặc có kẻ mượn khoa danh để làm kế ấm no, mượn đường ấy để được giới sĩ hoạn kính trọng, người đời sau tất sẽ nhìn vào họ tên mà nói, kẻ kia là hạng tiểu nhân gian tà, làm xấu lây cho khoa mục” (văn bia khoa thi năm 1577).
Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên đá từ mấy trăm năm trước cho đến tận bây giờ vẫn còn nguyên giá trị và mang đậm tính thời sự. Những áng văn bất hủ được người xưa khắc ghi vẫn khẳng định, điều quan trọng nhất đối với một quốc gia chính là đào tạo, bồi dưỡng được hiền tài, không chỉ bồi đắp hiền tài cho thế hệ mình, mà còn phải nghĩ đến thế hệ sau, tương lai của đất nước. Những áng văn bất hủ trên dù đã được khắc trên bia nhiều thế kỷ qua nhưng tinh thần và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự. Những vấn đề như chính sách phát triển giáo dục, trọng dụng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực luôn là chính sách hàng đầu, cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ thời đại nào trong quá trình xây dựng và phát triển.
Yên Minh
|
Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám vừa giới thiệu đến công chúng một trưng bày mang tên “Bia đá kể chuyện”. Đây là lần đầu tiên những hoa văn, họa tiết, hàng chữ trên 82 tấm bia tiến sĩ tại đây được dịch từ chữ Hán – Nôm sang chữ Việt, cung cấp thông tin cho công chúng về các khoa thi thời xưa cùng tên tuổi những người đỗ đạt.
Trải qua những tháng năm thăng trầm của lịch sử, hiện chỉ còn 82 tấm bia được bảo tồn tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Chuyện tuyển chọn và trọng dụng nhân tài
Ngay từ những ngày đầu xây dựng nền quân chủ độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam đã chú trọng tới việc tuyển chọn và trọng dụng nhân tài. Từ khoa thi đầu tiên được tổ chức năm 1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông cho đến khoa thi cuối cùng năm 1919 dưới triều vua Khải Định, lịch sử khoa cử Việt Nam đã trải qua hơn 800 năm với hàng trăm khoa thi được tổ chức và sự xuất hiện của nhiều bậc hiền tài, góp phần đảm bảo cho sự thịnh vượng của biết bao triều đại. Những người đỗ đại khoa không chỉ được triều đình trọng dụng mà kể từ khoa thi năm 1442, họ còn được khắc tên trên bia tiến sỹ đặt tại Văn Miếu ở kinh đô để lưu truyền danh thơm đến muôn đời sau.
Cuộc trưng bày “Bia đá kể chuyện” với chủ đề “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” được thể hiện qua các nội dung như: “Chiêu mộ hiền tài” – giới thiệu một số nét chính về khoa cử của nước ta giai đoạn 1442 -1529. “Con đường khoa cử” – giới thiệu thông tin về thi cử và chế độ đãi ngộ dành cho những người đỗ đạt. “Gương sáng tiền nhân” – giới thiệu một số danh nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho giáo dục nước nhà và một số lĩnh vực khác. “Lưu danh muôn thuở” – giới thiệu những câu trích dẫn nổi tiếng về giá trị của đào tạo và sử dụng nhân tài. Trưng bày lựa chọn giới thiệu 14 bia tiến sĩ đầu tiên có liên quan đến các khoa thi trong giai đoạn 1442 – 1529, tương ứng với những khoa thi được tổ chức dưới triều Lê sơ và kết thúc bằng khoa thi đầu tiên của nhà Mạc.
Theo Tiến sĩ Lê Xuân Kiêu – Giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trải qua những tháng năm thăng trầm của lịch sử, một số tấm bia tiến sĩ của Văn Miếu Thăng Long xưa đã bị mất hoặc thất lạc, hiện nay chỉ còn 82 tấm bia được bảo tồn tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Có một thực tế là, hiện tại, việc tiếp cận nội dung trên bia tiến sĩ lại không hề dễ dàng với công chúng, với khách tham quan. Xuất phát từ mong muốn 82 bia tiến sĩ phải đến được gần hơn với công chúng, thông qua đó quảng bá, phát huy giá trị di sản, nên Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám tổ chức trưng bày “Bia đá kể chuyện” như một cách để những tấm bia nằm im lìm suốt thời gian qua sẽ kể câu chuyện về những danh nhân, những bậc hiền tài của đất nước. Bởi lẽ, những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của 82 bia tiến sĩ không chỉ được thể hiện đơn thuần qua những hàng chữ Nho hay hoa văn trang trí trên mặt bia. Ẩn sau lớp mặt đá là hàng ngàn câu chuyện thú vị về cuộc đời và sự nghiệp của hơn 1.300 vị tiến sĩ.
Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên đá từ mấy trăm năm trước cho đến tận bây giờ.
Nguồn sử liệu quan trọng
82 tấm bia hiện còn được dựng theo lệnh của các vị vua triều Lê – Mạc để tôn vinh các vị đỗ đại khoa từ năm 1442 đến 1779. Văn bia ghi lại họ tên, quê quán của những người đỗ đạt, đồng thời cung cấp những thông tin quan trọng khác như ngày, tháng, năm dựng bia, họ tên và chức vụ của những người soạn văn bia, người “nhuận sắc”, người viết chữ, người chế tác bia. Chữ viết trên bia cùng các hoa văn trang trí, phong cách tạo dáng bia mang dấu ấn thời đại.
Bia tiến sĩ với các bài văn trên đó chính là nguồn sử liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử dân tộc, mà nổi bật là nền giáo dục khoa cử Việt Nam trong suốt 300 năm. Đó là triết lý giáo dục coi trọng hiền tài – “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” – được nhắc đi, điểm lại trong hầu hết các bài văn bia, thể hiện tinh thần nhất quán trong các triều vua thời Lê – Mạc. Triết lý giáo dục này đã tạo nên sự thành công trong việc phát triển giáo dục của đất nước qua con số 1.307 lượt người đỗ của 82 khoa Đại khoa trong thời gian 300 năm. Văn bia cũng cho biết số Hương cống (đỗ Trung khoa) dự thi Đại khoa từ 450 đến 6.000 người. Và, cứ mỗi khoa thi có từ 3 đến 62 người đỗ đạt. Phần lớn những người đỗ Đại khoa được ghi danh trên 82 bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám sau này đều trở thành những danh nhân văn hóa vì những đóng góp to lớn của họ đối với đất nước trên nhiều lĩnh vực chính trị, văn hóa, quân sự, kinh tế, giáo dục…
Theo thống kê, trong số 1.304 tiến sĩ đỗ đạt được khắc tên trên bia đá thì có tới 225 vị từng được cử đi sứ Trung Quốc vào các triều Minh, Thanh. Cá biệt, có những vị đi sứ tới 2 – 3 lần như Nguyễn Như Đổ (1424-1525),
Lê Quý Đôn
(1726-1784) và Lương Như Hộc (?-?)… Vì thế, đây cũng là những tư liệu có giá trị để tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của các sứ thần Việt Nam cùng lịch sử mối giao bang giữa các nước vùng Đông Bắc Á.
Bên cạnh đó, mỗi tấm bia không đơn thuần chỉ là một văn bản mà còn là một tác phẩm nghệ thuật với những hoa văn trang trí cầu kỳ, tính cách điệu cao với nhiều chủ đề hoa lá, mây, trăng, long, ly, quy, phượng. Nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật đã coi đây như một tư liệu quan trọng trong quá trình nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật và điêu khắc Việt Nam từ thế kỷ XV đến XVIII. Hầu hết những bài ký của bia đều tập trung ca ngợi vai trò của Nho giáo trong đời sống chính trị xã hội, ca ngợi chế độ và đề cao nhà vua. Nhưng điều đặc biệt, trong những bài văn bia đó còn đề cập đến những vấn đề mà ngay cả ở thời điểm hiện tại vẫn cần coi trọng như “dựng xây nghiệp lớn, diệt trừ tàn bạo, cứu dân lầm than” hoặc “mở mang văn đức, thu nạp anh tài, đổi mới chính trị…” (bia tiến sĩ năm 1442 khắc năm 1484).
Trong bia khoa thi 1463 do Đào Cử soạn, bên cạnh những dòng ca ngợi triều Lê cùng vua Lê Thái Tổ còn đề cao việc “mở cửa cầu hiền, sửa sang nền đức, cổ vũ lòng dân” hoặc “đem lòng nhân hậu vun bồi cho mệnh mạch nhà nước”. Các bài ký trong bia đề danh tiến sĩ còn giúp chúng ta hiểu được chính sách phát triển giáo dục của các triều đại quân chủ tập quyền Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc chăm lo đào tạo nhân tài cho đất nước. Ví như, trong bia khoa thi tiến sĩ năm 1442 khắc năm 1484 viết: “Nghĩ việc đặt khoa thi, kén kẻ sĩ là chính sự cần làm trước nhất. Tô điểm cơ đồ, khôi phục mở mang trị hóa chính là ở đây, sửa sang chính sự, sắp đặt công việc, giáo hóa dân phong mỹ tục là ở đây, các bậc đế vương đời xưa làm nên trị bình đời nào cũng theo thế”.
Những áng văn bất hủ trên dù đã được khắc trên bia nhiều thế kỷ qua nhưng tinh thần và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự.
Vấn đề coi trọng hiền tài tiếp tục được nhấn mạnh: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi trọng việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”. Bia khoa thi Tiến sĩ năm 1448 cũng đề cập tới vấn đề này: “Sự lớn lao của nền chính trị, của bậc đế vương không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài. Việc cai trị mà không lấy nhân tài làm gốc thì đều bị coi là thiếu đường hướng phát triển”.
Không chỉ thể hiện đường lối trọng dụng nhân tài, nội dung những bài ký trên bia còn là những bài học răn dạy, nhắc nhở trách nhiệm của những người đỗ đạt đối với đất nước: “Kẻ sĩ được khắc tên vào tấm đá này thật may mắn biết bao, nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau ” (văn bia khoa thi năm 1487). Và kẻ sĩ trên cơ sở đó “Hãy làm mây lành, sao tỏ, nêu điểm tốt cho đời, làm ngọc sang, vàng ròng để làm kho báu cho nước” (văn bia khoa thi năm 1514); hoặc “thảng hoặc có kẻ mượn khoa danh để làm kế ấm no, mượn đường ấy để được giới sĩ hoạn kính trọng, người đời sau tất sẽ nhìn vào họ tên mà nói, kẻ kia là hạng tiểu nhân gian tà, làm xấu lây cho khoa mục” (văn bia khoa thi năm 1577).
Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên đá từ mấy trăm năm trước cho đến tận bây giờ vẫn còn nguyên giá trị và mang đậm tính thời sự. Những áng văn bất hủ được người xưa khắc ghi vẫn khẳng định, điều quan trọng nhất đối với một quốc gia chính là đào tạo, bồi dưỡng được hiền tài, không chỉ bồi đắp hiền tài cho thế hệ mình, mà còn phải nghĩ đến thế hệ sau, tương lai của đất nước. Những áng văn bất hủ trên dù đã được khắc trên bia nhiều thế kỷ qua nhưng tinh thần và giá trị của nó vẫn vẹn nguyên tính thời sự. Những vấn đề như chính sách phát triển giáo dục, trọng dụng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực luôn là chính sách hàng đầu, cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ thời đại nào trong quá trình xây dựng và phát triển.
Yên Minh
|
Những âm điệu quê hương chảy trong người miền Tây thành “máu đờn ca”. Người sông nước hay “lận lưng” mấy câu vọng cổ vừa làm vốn giao lưu vừa thổ lộ nỗi lòng.
Giữa rất nhiều lựa chọn khám phá sôi nổi, ở các địa điểm check-in quen thuộc với giới trẻ, chuyến tìm về nơi giúp mình hiểu sâu được cái đẹp của bộ môn nghệ thuật dân tộc vẫn là hành trình đáng nhớ với chúng tôi.
“Hơi thở” đờn ca tài tử
Không có gì lạ cảnh xe đò chở khách bật bản “
Dạ cổ hoài lang
“, vài người cùng ngân nga “Đường dầu xa ong bướm. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang”… Những ca từ quen thuộc thôi thúc chúng tôi tìm về Khu Lưu niệm “Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu” (phường 2,
TP Bạc Liêu
).
Vừa đặt chân vào đây đã có thể cảm nhận “hơi thở” của nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ và hoàn cảnh lịch sử của bản “Dạ cổ hoài lang”. Đài ống tre nằm giữa khu lưu niệm chính là chiếc đàn kìm được cách điệu từ đốt tre. Các bậc thang dẫn lên đài được bố trí theo bậc số 2, 4, 6, 8, 16, 32 và 64 tượng trưng cho nhịp vọng cổ tương ứng với từng nghệ nhân sáng tác. Nếu thời kỳ phôi thai, bản “Dạ cổ hoài lang” được hát theo nhịp 2/2 thì theo thời gian, những bản đờn ca tài tử phát triển thành những bản dài biến tấu mềm mại. Điều đó làm đờn ca tài tử trở nên chân phương và rất “Nam Bộ”.
Nơi đây tập trung nhiều hiện vật liên quan đến đời sống, sáng tác của nhạc sĩ Cao Văn Lầu, nhiều tư liệu quý cùng những tham luận về việc bảo tồn và phát huy giá trị bản “Dạ cổ hoài lang”; sự ra đời và phát triển của nghệ thuật đờn ca tài tử, hệ thống 20 bản Tổ; mô hình tượng sáp của cố nhạc sĩ; phục trang sân khấu của các nghệ sĩ nổi tiếng…
Nơi đây bao hàm nét văn hóa đặc thù, không những làm say mê du khách mà còn là tiền đề cho những nghiên cứu văn hóa.
Sống lại giai điệu hoài lang
“Dạ cổ hoài lang” (“Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng”) được viết khi nhạc sĩ Cao Văn Lầu và vợ buộc phải xa cách sau 3 năm chung sống mà không có con. Nỗi nhớ nhung cùng giây phút suy tư trước nhân tình thế thái khiến ông bật lên âm điệu buồn. Và ông hiểu thấu nỗi khắc khoải của người vợ tri âm, tri kỷ, vẹn nghĩa thủy chung nên bản nhạc có tên là “hoài lang”. Khúc nhạc trỗi lên chuyên chở tiếng lòng, lay động tâm can người nghe.
Không dừng lại ở nguyên dạng như các bản nhạc cổ khác, “Dạ cổ hoài lang” dần biến đổi hình thức, từ một sáng tác cá nhân trở thành sáng tác tập thể, được phát triển thành bản vọng cổ, làm thay đổi phần lớn bộ mặt cải lương Nam Bộ. Đã hơn 100 năm từ khi “Dạ cổ hoài lang” ra đời nhưng nguồn cội tinh túy của 20 câu hát vẫn vẹn nguyên. Cứ thế, theo cung bậc mềm mại, những bản đờn ca tài tử viết ra dựa trên tình cảm chân phương, truyền tải cách đối nhân xử thế, uốn nắn cho cuộc sống lấp lánh nhân văn.
Cũng tại đây, cô hướng dẫn viên “thết đãi” nhóm bạn trẻ chúng tôi bản “Dạ cổ hoài lang” và có lẽ, khi nghe “Dạ cổ hoài lang” ở Bạc Liêu càng thấm thía được cái chất đờn ca tài tử. Dẫu có một danh phận sáng chói – di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, đờn ca tài tử vẫn ngày ngày vang trên những dòng sông, con đò, vào đêm trăng sáng hay bữa cơm đãi khách đến chơi. Chỉ cần cất lời lên là hiểu tính cách người miền Tây, hào sảng mà đong đầy tình cảm…
Vẫn cập nhật đều các bài nhạc rap, lofi, indie… trên nền tảng số nhưng sau chuyến đi về, mấy đứa sinh viên chúng tôi thấy gần gũi hơn những bài ca cổ. Hiểu gốc tích của “đặc sản” đậm phong vị phương Nam này rồi thì chẳng còn thắc mắc về sở thích của thế hệ ông bà, cha mẹ mà trước đây mình tưởng như chẳng có gì thức thời, hấp dẫn. Nét mộc mạc của giai điệu và tiếng ca tha thiết mênh mông tình sông nước.
Bài và ảnh: Nguyễn Thành Trung
|
The melodies of the homeland flow through Westerners into "musical music". River people often "cheat" on Vong Co sentences to both communicate and express their feelings.
Among many exciting discovery options, at check-in locations familiar to young people, the trip to find a place that helps us deeply understand the beauty of the national art is still a memorable journey for us. .
"Breath" amateur music
It's not uncommon to see passenger buses playing "
Da Co Hoai Lang
", several people hummed together, "The oil road is far from butterflies and butterflies. Please don't betray Tao Khang"... Familiar lyrics urged us to find the Memorial Area "Southern Don Ca Tai Tu Art and Musician Cao Van Lau" (Ward 2,
Bac Lieu City
).
As soon as you set foot here, you can feel the "breath" of Southern amateur music art and the historical context of "Da Co Hoai Lang". The bamboo tube station located in the middle of the memorial area is a pliers stylized from bamboo burning. The steps leading up to the platform are arranged in steps numbered 2, 4, 6, 8, 16, 32 and 64, symbolizing the Vong Co rhythm corresponding to each artist. If in its infancy, "Da Co Hoai Lang" was sung in 2/2 time, then over time, amateur folk songs developed into long, soft variations. That makes amateur music become more authentic and very "Southern".
This place gathers many artifacts related to the life and compositions of musician Cao Van Lau, many precious documents and presentations on preserving and promoting the value of "Da Co Hoai Lang"; the birth and development of the art of Don Ca Tai Tu, the system of 20 Patriarchs; wax model of the late musician; Stage costumes of famous artists…
This place contains unique cultural features that not only fascinate tourists but also serve as a premise for cultural research.
Relive the nostalgic melody
“Da Co Hoai Lang” (“At night, listening to the sound of drums, missing my husband”) was written when musician Cao Van Lau and his wife were forced to separate after 3 years of living together without children. The nostalgia and moments of reflection before the situation made him turn into a sad tone. And he understood the anxiety of his devoted, confidant, and faithful wife, so the song was called "hoai lang". The rising music carries the sound of the heart, touching the listener's heart.
Not staying in its original form like other ancient music, "Da Co Hoai Lang" gradually changed form, from an individual composition to a collective composition, and was developed into a Vong Co song, changing the part. Great face of Southern reform. It has been more than 100 years since "Da Co Hoai Lang" was born, but the essence of the 20 verses of the song is still intact. Just like that, in a soft tone, amateur folk songs are written based on sincere feelings, conveying how to treat people, shaping a sparkling humane life.
Also here, the tour guide "treated" our group of young people to the song "Da Co Hoai Lang" and perhaps, when listening to "Da Co Hoai Lang" in Bac Lieu, we were more able to understand the quality of amateur folk music. Despite its brilliant status - an intangible cultural heritage of humanity, amateur music still resonates every day on rivers and boats, on moonlit nights or during meals to entertain guests. Just speak up to understand the personality of Westerners, generous and full of affection...
Still regularly updating rap, lofi, indie songs... on digital platforms, but after the trip, we students felt closer to the old songs. Once you understand the origin of this "specialty" with a strong Southern flavor, you will no longer wonder about the preferences of your grandparents and parents' generation, which you previously thought were not trendy or attractive. The simplicity of the melody and the passionate singing express the immense love of the river.
Article and photos: Nguyen Thanh Trung
|
Khi những dòng sông đã hóa tâm hồn (*)
( Nhân đọc ” Những thanh âm bên bờ sông lấp ” thi phẩm của
Nguyễn Nhã Tiên
NXB Hội Nhà văn, thánh 7/2022 )
Nguyên Cẩn
Có những nơi chốn qua đi trong suốt hành trình đời người nhưng không để lại trong ta điều gì vì chúng ta đến và đi như những lữ khách vô tâm, gót chân phiêu du cũng không còn ghi dấu . Nhưng với
Nguyễn Nhã Tiên
(NNT) chúng ta có cảm giác nơi nào anh qua cũng ít nhiều để lại trong anh những xao xuyến, những rung động dù ở tuổi nào chăng nữa. Và trong bước đường lang thang ấy, anh đã kịp ghi lại những xúc cảm từ bao cuộc phối ngẫu với thiên nhiên – nhất là những dòng sông chảy qua địa lý đất đai thổ nhưỡng hay bất ngờ một con sông xuất hiện gọi tên trong ký ức.
Nhà em bên kia sông – suốt đời nhà em bên kia sông
Nơi hạt cát cũng biết phúng dụ mình làm mây trắng
Theo Isamu Kurita: ” thiên nhiên mang một ý nghĩa huyền bí và sâu thẳm đối vói người Nhật , tương tự giống với Hy Lạp cổ đại xem thiên nhiên như một năng lực sáng tạo “(*). Gần gũi với ta,
nhà văn Nhật Chiêu
cũng đã khám phá cái năng lực sâu thẳm ấy: “ Bốn mùa nằm trong hoa nở lá rơi. Đó là điệu luân vũ của thời gian, hiển hiện trước tấm gương trong trẻo của tâm hồn thi nhân ẩn chứa muôn nghìn xao động.
Diệp lạc hoa khai mãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như
(Hoa nở lá rơi đầy trước mắt
Bốn mùa tâm kính vẫn như như )
(Nguyễn Du )
Như vậy cái đẹp của thiên nhiên đã liên kết con người với con người trong tình bạn, đưa đến một niềm giao cảm thâm sâu .
Nhà văn Nguyễn Nhã Tiên
Nguyễn Nhã Tiên hẳn đã đi qua nhiều nơi, thế giới vây quanh anh không chỉ là thế giới. Bởi hơn ai hết, cái giọt máu đa đoan thi sĩ kia ngộ ra một lý lẽ hằng cửu: tôi hiện hữu tức là tôi tại thế. Ví như, một chiều nào đó trên cao nguyên
Đà Lạt
, anh phát hiện ra những quãng vắng lấp đầy mưa. Mà không chỉ ngần ấy mưa đâu, nó còn thông vi vu, gió bạn đường, còn mây trắng đồi hoang… Mỗi một sự vật là một tiếng nói hiện hữu để từ đấy mà thành siêu thực, thành huyền thoại, hoặc có khi là tình trạng phóng thể dẫn dắt mà khai sinh ra truyền thuyết…
Chiều Đà Lạt mưa lấp đầy quãng vắng
ngàn thông vi vu tiếng gió bạn đường
nhà em ở phía đồi hoang mây trắng
tiếng suối ngoài ngàn huyền thoại những yêu đương
Nhà triết học David Hume từng nói: “Thức là một tia sáng hay một chuỗi những tri giác khác nhau diễn ra liên tục với một tốc độ phi thường.” Các tâm hành biểu hiện và tiếp nối nhau như một dòng sông. Khi nhìn vào dòng sông, chúng ta nghĩ rằng dòng sông là một thực thể không bao giờ thay đổi, nhưng đó là do tâm thức của chúng ta tạo ra. Khi ngồi trên bờ sông, chúng ta thấy rằng dòng sông mà chúng ta đang quan sát bây giờ không giống với dòng sông mà chúng ta vừa mới xuống bơi lội. Đó cũng là cái lý do để Heraclitus thể nghiệm rốt ráo cái ý niệm: không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông.
Cầm cành hoa hồng ngơ ngác tháng ba
chạy xuống chạy lên tìm người để gửi
hay là tôi gửi cho gió thổi
hay gửi cho sông thưa lại với … ngàn trùng
Nói như
Bùi Giáng
:
Dòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
Rằng biển rộng không bến bờ em ạ !
Một lần nào đó ghé qua
Hội An
, Nguyễn Nhã Tiên tự nhủ :
Trường giang cứ rót về vô tận
ta Cửa Đợi hoài còn em cứ xa
Là bởi anh nhận ra các con sông đều có một linh hồn, gìn giữ quá khứ, lưu ảnh lại trong không gian vô tận mà thời gian thì cứ biền biệt trôi đi.
Có gì mờ tỏ trên sông
ai như tóc
thả theo dòng nước xuôi
Đừng trôi đi hết
đừng trôi
trả tôi sông cất tiếng cưới giòn tan
Áp tai vào nước nghe non
ơ hay!
sông có linh hồn em ơi!
Nhà văn Nguyễn Nhã Tiên
Quả thật, phải có ánh nhìn từ một thị lực viên thông, cái nhãn quan xuyên suốt trong tận đáy tâm hồn thi nhân mới cảm nhận được và rung động theo dòng chảy miên viễn ấy.
Và rồi cũng chính từ dòng chảy đó ta nghe ra tiếng thời gian vang dội những âm thanh. Cho dù có khi chỉ là tiếng gàu múc nước giếng khuya
Em va gàu vào giếng khuya gọi ngàn đêm thức giấc.
Vâng, trong một sát na sinh diệt vẫn vọng về từ ” đáy giếng rêu xanh” gọi tên bao kỷ niệm buổi đầu.
Ngàn tiếng gàu rơi thẳm đáy giếng rêu xanh
ngàn hò hẹn bồi con sông đầy khói
ngàn chuyến đò khẳm tương lai đôi lứa
buổi trở về bến lở gọi tìm nhau
“Tiếng gàu” vọng động thời gian thế kia sẽ còn trở lại nhiều lần trong thơ anh, âm thanh của ngày thơ ấu, gắn chặt với nơi anh sinh ra lớn lên, đã trở thành dư vang, thành một thứ hồi quang lung linh trong tiềm thức.
Đọc trong phần ” Lời thưa” của tập thơ, đoạn nói về thời gian Nguyễn Nhã Tiên đã viết: “ Vâng hai mươi năm ấy là một thực thể , nó vừa trừu tượng nhưng cũng vừa cụ thể . Nó vô cùng mười mươi hiện thực nhưng lại vừa như giấc mơ đồng hành, phơi mở trước nhật nguyệt sự minh nhiên vượt lên trên những biến dịch không cùng, và chính sự tương quan ấy xây thành những hiện hữu , những cuộc hội ngộ tưởng như ẩn chứa bao niềm bí mật, mà thực ra trong triết lý nhà Phật đã tường minh: Mọi yếu tố tương thuộc nhau viên thành những hiện hữu đó gọi là duyên , sự làm nên ( hiện hữu ) từ các duyên gọi là duyên sinh hay duyên khởi.
Chúng ta tạm nhắc lại duyên thứ nhất là nhân duyên (seed condition), tiếng Phạn gọi là hetu.Không có hạt giống đó thì không có gì có thể hình thành được.Không có hạt bắp, cây bắp không thể nảy mầm, niềm tin ấy đã đắp bồi từ buổi ra đi dù sông cạn đá mòn.
Dù có muốn níu kéo như Lamartine ” Hỡi thời gian , mi hãy dừng cánh lại ” ( Ô temps , suspends ton vol!)
Thôi sông đừng trôi nữa
chân mây mắt mỏi rồi
về đây nghe hoa cải
kể từng nỗi vàng rơi
…
Chừ còn tôi với sông
sóng vỗ tràn thương nhớ
hai linh hồn cổ độ
vàng hoe phơi nắng chiều …
Cảm thức của xưa – nay, cái không còn trong cái thường hằng, cái hôm qua gợi lại hôm nay, cái tịch diệt trong lòng bất diệt …Ví như qua Hồ Tây còn bắt gặp chút dư ba ” Mộng đắc thái liên” của Nguyễn Du ngày xưa còn nghe ra sóng vỗ tận bây giờ.
Thăm thẳm ánh nhìn mênh mông
hoa khói đầy tay tôi nhặt
cô gái hái sen ngày ấy
thả sóng bây giờ Hồ Tây.
Ngay cả ở nơi phồn hoa bậc nhất như Sài Gòn, anh vẫn thấy:
Sông đầy trắng xóa trôi trăm nhánh
một ngả về xưa mây gió không …
…
Sài Gòn mênh mông xa vắng con đường
chở giùm em nhé con thuyền giấy
một chút em mà trăm mến thương
Cũng viết về quá khứ, về hoài niệm đấy thôi, nhưng dường như thơ Nguyễn Nhã Tiên là cách thế để anh tạo dựng lại một xứ sở, một cõi – miền thanh tịnh . Một ốc đảo rêu xanh bất sá dâu bể thời gian .
Trưa vườn chùa bình yên như vườn mẹ
bước chân về gặp quê quán tôi xưa
tia nắng rót
mênh mông
trời phương ngoại
ngói đỏ tịch ngôn rêu biếc ngỏ lời.
Niềm khao khát chân thành ấy cũng chính là niềm cô đơn trong một hành trình không mệt mỏi, mà dường như thơ anh đã dự cảm vẽ đường cho định mệnh thi sĩ của mình:
Tràn giấc mơ tôi một dòng sông lũ
phù sa bồi lấp tôi thành cây sậy mọc đơn côi
chẳng phải sậy tư tưởng gì đâu, cũng giống loài
cỏ dại hoa hoang
yêu cuồng tín ngọn gió thu hoài cổ
thổi vô tận bến bờ cổ độ
ngàn mây siêu hình đàn cò trắng qua sông.
Nhà văn Nguyễn Nhã Tiên
Cho dù một nhận định như thế này chưa hẳn đã là cái mốc cho một kết thúc, bởi lẽ
” Những thanh âm bên dòng sông lấp” còn là một tiếp nối, một hành trình thơ mở ra, tuy vậy ta cũng có thể khẳng định ở vào lớp tuổi đang chiều, những định hình cho sáng tạo anh đã thể hiện khá rõ:
Chừ tôi với một sông dài/ nối câu hát dạo ra ngoài chân mây.
Chính cái phía ” ngoài chân mây” đó, thế giới ấy ta dễ bắt gặp một Nguyễn Nhã Tiên táo bạo, phá bỏ những qui phạm ngôn từ, như dùng danh từ làm động từ, biến tĩnh thành động.
Chập chùng tôi lau lách
bầu bạn đường lên non
Đông Bắc rồi Tây Bắc
mỗi núi một linh hồn
hoặc là
Giờ hai tay hoàng hôn
em gom chiều nắng úa
chưa đốt mà tôi khói
giữa trời bay lang thang
Có thể còn trưng ra nhiều hơn thế nữa, nhưng chung qui lại, nếu hiểu mỗi cuộc đời nhà thơ là một dòng sông, thì với
Nguyễn Nhã Tiên
, con sông đời anh là dòng thác lũ, hoặc chi ít cũng là dòng sông không chịu trôi êm bình lặng.
Nước một dòng trôi ngàn lời khắc khoải
Bến quê nhà vọng động tóc tơ bay
Và từ
ngàn lời khắc khoải ấy,
từ cả quê xứ hoang vu
không một bóng người mà ngực nhói âm vang
ấy, từ đó thi sĩ tạo dựng một cõi thơ riêng xác lập con đường cho mình.
Tôi muốn mượn lời thi sĩ Du Tử Lê ( lúc sinh thời) đã nhận định về thơ Nguyễn Nhã Tiên như là lời kết cho bài viêt này: ” Tôi vẫn có xu hướng trân trọng những tác giả, càng lớn tuổi, thì độ chín chữ, nghĩa, khả năng sáng tạo càng mạnh mẽ. Họ là những người có được cả hai thành tố đáng quí: độ bền và đường trường. Với tôi, Nguyễn Nhã Tiên nằm trong số này” (***)
Hãy đọc trong tâm thức ấy, ta sẽ cảm nhận được sức sống của một tâm hồn, bởi đó mới là chiều kích vô tận trong hành trình của một đời sông, một đời thơ!
Thì thôi chiều đã chiều rồi
mênh mông tôi chảy mù khơi cuối ngàn .
Nguyên Cẩn
—————–
(*) Đọc Tập thơ ” Những thanh âm bên bờ sông lấp” thơ Nguyễn Nhã Tiên. NXB Hội Nhà Văn. Tháng 6/2022
Ghi chú
(*)
Nhật Chiêu
, Cảm thức thiên nhiên của người Việt và người Nhật , trong Thơ , Nghiên cứu lý luận phê bình , NXB Đại học Quốc Gia , 2004
(**)
Thích Nhất Hạnh
, Bụt là hình hài , Bụt là tâm thức ,
(***) Du Tử Lê” Những thanh âm bên bờ sông lấp” Tr 186. NXB Hội Nhà văn 2022
|
Khi những dòng sông đã hóa tâm hồn (*)
( Nhân đọc ” Những thanh âm bên bờ sông lấp ” thi phẩm của
Nguyễn Nhã Tiên
NXB Hội Nhà văn, thánh 7/2022 )
Nguyên Cẩn
Có những nơi chốn qua đi trong suốt hành trình đời người nhưng không để lại trong ta điều gì vì chúng ta đến và đi như những lữ khách vô tâm, gót chân phiêu du cũng không còn ghi dấu . Nhưng với
Nguyễn Nhã Tiên
(NNT) chúng ta có cảm giác nơi nào anh qua cũng ít nhiều để lại trong anh những xao xuyến, những rung động dù ở tuổi nào chăng nữa. Và trong bước đường lang thang ấy, anh đã kịp ghi lại những xúc cảm từ bao cuộc phối ngẫu với thiên nhiên – nhất là những dòng sông chảy qua địa lý đất đai thổ nhưỡng hay bất ngờ một con sông xuất hiện gọi tên trong ký ức.
Nhà em bên kia sông – suốt đời nhà em bên kia sông
Nơi hạt cát cũng biết phúng dụ mình làm mây trắng
Theo Isamu Kurita: ” thiên nhiên mang một ý nghĩa huyền bí và sâu thẳm đối vói người Nhật , tương tự giống với Hy Lạp cổ đại xem thiên nhiên như một năng lực sáng tạo “(*). Gần gũi với ta,
nhà văn Nhật Chiêu
cũng đã khám phá cái năng lực sâu thẳm ấy: “ Bốn mùa nằm trong hoa nở lá rơi. Đó là điệu luân vũ của thời gian, hiển hiện trước tấm gương trong trẻo của tâm hồn thi nhân ẩn chứa muôn nghìn xao động.
Diệp lạc hoa khai mãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như
(Hoa nở lá rơi đầy trước mắt
Bốn mùa tâm kính vẫn như như )
(Nguyễn Du )
Như vậy cái đẹp của thiên nhiên đã liên kết con người với con người trong tình bạn, đưa đến một niềm giao cảm thâm sâu .
Nhà văn Nguyễn Nhã Tiên
Nguyễn Nhã Tiên hẳn đã đi qua nhiều nơi, thế giới vây quanh anh không chỉ là thế giới. Bởi hơn ai hết, cái giọt máu đa đoan thi sĩ kia ngộ ra một lý lẽ hằng cửu: tôi hiện hữu tức là tôi tại thế. Ví như, một chiều nào đó trên cao nguyên
Đà Lạt
, anh phát hiện ra những quãng vắng lấp đầy mưa. Mà không chỉ ngần ấy mưa đâu, nó còn thông vi vu, gió bạn đường, còn mây trắng đồi hoang… Mỗi một sự vật là một tiếng nói hiện hữu để từ đấy mà thành siêu thực, thành huyền thoại, hoặc có khi là tình trạng phóng thể dẫn dắt mà khai sinh ra truyền thuyết…
Chiều Đà Lạt mưa lấp đầy quãng vắng
ngàn thông vi vu tiếng gió bạn đường
nhà em ở phía đồi hoang mây trắng
tiếng suối ngoài ngàn huyền thoại những yêu đương
Nhà triết học David Hume từng nói: “Thức là một tia sáng hay một chuỗi những tri giác khác nhau diễn ra liên tục với một tốc độ phi thường.” Các tâm hành biểu hiện và tiếp nối nhau như một dòng sông. Khi nhìn vào dòng sông, chúng ta nghĩ rằng dòng sông là một thực thể không bao giờ thay đổi, nhưng đó là do tâm thức của chúng ta tạo ra. Khi ngồi trên bờ sông, chúng ta thấy rằng dòng sông mà chúng ta đang quan sát bây giờ không giống với dòng sông mà chúng ta vừa mới xuống bơi lội. Đó cũng là cái lý do để Heraclitus thể nghiệm rốt ráo cái ý niệm: không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông.
Cầm cành hoa hồng ngơ ngác tháng ba
chạy xuống chạy lên tìm người để gửi
hay là tôi gửi cho gió thổi
hay gửi cho sông thưa lại với … ngàn trùng
Nói như
Bùi Giáng
:
Dòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
Rằng biển rộng không bến bờ em ạ !
Một lần nào đó ghé qua
Hội An
, Nguyễn Nhã Tiên tự nhủ :
Trường giang cứ rót về vô tận
ta Cửa Đợi hoài còn em cứ xa
Là bởi anh nhận ra các con sông đều có một linh hồn, gìn giữ quá khứ, lưu ảnh lại trong không gian vô tận mà thời gian thì cứ biền biệt trôi đi.
Có gì mờ tỏ trên sông
ai như tóc
thả theo dòng nước xuôi
Đừng trôi đi hết
đừng trôi
trả tôi sông cất tiếng cưới giòn tan
Áp tai vào nước nghe non
ơ hay!
sông có linh hồn em ơi!
Nhà văn Nguyễn Nhã Tiên
Quả thật, phải có ánh nhìn từ một thị lực viên thông, cái nhãn quan xuyên suốt trong tận đáy tâm hồn thi nhân mới cảm nhận được và rung động theo dòng chảy miên viễn ấy.
Và rồi cũng chính từ dòng chảy đó ta nghe ra tiếng thời gian vang dội những âm thanh. Cho dù có khi chỉ là tiếng gàu múc nước giếng khuya
Em va gàu vào giếng khuya gọi ngàn đêm thức giấc.
Vâng, trong một sát na sinh diệt vẫn vọng về từ ” đáy giếng rêu xanh” gọi tên bao kỷ niệm buổi đầu.
Ngàn tiếng gàu rơi thẳm đáy giếng rêu xanh
ngàn hò hẹn bồi con sông đầy khói
ngàn chuyến đò khẳm tương lai đôi lứa
buổi trở về bến lở gọi tìm nhau
“Tiếng gàu” vọng động thời gian thế kia sẽ còn trở lại nhiều lần trong thơ anh, âm thanh của ngày thơ ấu, gắn chặt với nơi anh sinh ra lớn lên, đã trở thành dư vang, thành một thứ hồi quang lung linh trong tiềm thức.
Đọc trong phần ” Lời thưa” của tập thơ, đoạn nói về thời gian Nguyễn Nhã Tiên đã viết: “ Vâng hai mươi năm ấy là một thực thể , nó vừa trừu tượng nhưng cũng vừa cụ thể . Nó vô cùng mười mươi hiện thực nhưng lại vừa như giấc mơ đồng hành, phơi mở trước nhật nguyệt sự minh nhiên vượt lên trên những biến dịch không cùng, và chính sự tương quan ấy xây thành những hiện hữu , những cuộc hội ngộ tưởng như ẩn chứa bao niềm bí mật, mà thực ra trong triết lý nhà Phật đã tường minh: Mọi yếu tố tương thuộc nhau viên thành những hiện hữu đó gọi là duyên , sự làm nên ( hiện hữu ) từ các duyên gọi là duyên sinh hay duyên khởi.
Chúng ta tạm nhắc lại duyên thứ nhất là nhân duyên (seed condition), tiếng Phạn gọi là hetu.Không có hạt giống đó thì không có gì có thể hình thành được.Không có hạt bắp, cây bắp không thể nảy mầm, niềm tin ấy đã đắp bồi từ buổi ra đi dù sông cạn đá mòn.
Dù có muốn níu kéo như Lamartine ” Hỡi thời gian , mi hãy dừng cánh lại ” ( Ô temps , suspends ton vol!)
Thôi sông đừng trôi nữa
chân mây mắt mỏi rồi
về đây nghe hoa cải
kể từng nỗi vàng rơi
…
Chừ còn tôi với sông
sóng vỗ tràn thương nhớ
hai linh hồn cổ độ
vàng hoe phơi nắng chiều …
Cảm thức của xưa – nay, cái không còn trong cái thường hằng, cái hôm qua gợi lại hôm nay, cái tịch diệt trong lòng bất diệt …Ví như qua Hồ Tây còn bắt gặp chút dư ba ” Mộng đắc thái liên” của Nguyễn Du ngày xưa còn nghe ra sóng vỗ tận bây giờ.
Thăm thẳm ánh nhìn mênh mông
hoa khói đầy tay tôi nhặt
cô gái hái sen ngày ấy
thả sóng bây giờ Hồ Tây.
Ngay cả ở nơi phồn hoa bậc nhất như Sài Gòn, anh vẫn thấy:
Sông đầy trắng xóa trôi trăm nhánh
một ngả về xưa mây gió không …
…
Sài Gòn mênh mông xa vắng con đường
chở giùm em nhé con thuyền giấy
một chút em mà trăm mến thương
Cũng viết về quá khứ, về hoài niệm đấy thôi, nhưng dường như thơ Nguyễn Nhã Tiên là cách thế để anh tạo dựng lại một xứ sở, một cõi – miền thanh tịnh . Một ốc đảo rêu xanh bất sá dâu bể thời gian .
Trưa vườn chùa bình yên như vườn mẹ
bước chân về gặp quê quán tôi xưa
tia nắng rót
mênh mông
trời phương ngoại
ngói đỏ tịch ngôn rêu biếc ngỏ lời.
Niềm khao khát chân thành ấy cũng chính là niềm cô đơn trong một hành trình không mệt mỏi, mà dường như thơ anh đã dự cảm vẽ đường cho định mệnh thi sĩ của mình:
Tràn giấc mơ tôi một dòng sông lũ
phù sa bồi lấp tôi thành cây sậy mọc đơn côi
chẳng phải sậy tư tưởng gì đâu, cũng giống loài
cỏ dại hoa hoang
yêu cuồng tín ngọn gió thu hoài cổ
thổi vô tận bến bờ cổ độ
ngàn mây siêu hình đàn cò trắng qua sông.
Nhà văn Nguyễn Nhã Tiên
Cho dù một nhận định như thế này chưa hẳn đã là cái mốc cho một kết thúc, bởi lẽ
” Những thanh âm bên dòng sông lấp” còn là một tiếp nối, một hành trình thơ mở ra, tuy vậy ta cũng có thể khẳng định ở vào lớp tuổi đang chiều, những định hình cho sáng tạo anh đã thể hiện khá rõ:
Chừ tôi với một sông dài/ nối câu hát dạo ra ngoài chân mây.
Chính cái phía ” ngoài chân mây” đó, thế giới ấy ta dễ bắt gặp một Nguyễn Nhã Tiên táo bạo, phá bỏ những qui phạm ngôn từ, như dùng danh từ làm động từ, biến tĩnh thành động.
Chập chùng tôi lau lách
bầu bạn đường lên non
Đông Bắc rồi Tây Bắc
mỗi núi một linh hồn
hoặc là
Giờ hai tay hoàng hôn
em gom chiều nắng úa
chưa đốt mà tôi khói
giữa trời bay lang thang
Có thể còn trưng ra nhiều hơn thế nữa, nhưng chung qui lại, nếu hiểu mỗi cuộc đời nhà thơ là một dòng sông, thì với
Nguyễn Nhã Tiên
, con sông đời anh là dòng thác lũ, hoặc chi ít cũng là dòng sông không chịu trôi êm bình lặng.
Nước một dòng trôi ngàn lời khắc khoải
Bến quê nhà vọng động tóc tơ bay
Và từ
ngàn lời khắc khoải ấy,
từ cả quê xứ hoang vu
không một bóng người mà ngực nhói âm vang
ấy, từ đó thi sĩ tạo dựng một cõi thơ riêng xác lập con đường cho mình.
Tôi muốn mượn lời thi sĩ Du Tử Lê ( lúc sinh thời) đã nhận định về thơ Nguyễn Nhã Tiên như là lời kết cho bài viêt này: ” Tôi vẫn có xu hướng trân trọng những tác giả, càng lớn tuổi, thì độ chín chữ, nghĩa, khả năng sáng tạo càng mạnh mẽ. Họ là những người có được cả hai thành tố đáng quí: độ bền và đường trường. Với tôi, Nguyễn Nhã Tiên nằm trong số này” (***)
Hãy đọc trong tâm thức ấy, ta sẽ cảm nhận được sức sống của một tâm hồn, bởi đó mới là chiều kích vô tận trong hành trình của một đời sông, một đời thơ!
Thì thôi chiều đã chiều rồi
mênh mông tôi chảy mù khơi cuối ngàn .
Nguyên Cẩn
—————–
(*) Đọc Tập thơ ” Những thanh âm bên bờ sông lấp” thơ Nguyễn Nhã Tiên. NXB Hội Nhà Văn. Tháng 6/2022
Ghi chú
(*)
Nhật Chiêu
, Cảm thức thiên nhiên của người Việt và người Nhật , trong Thơ , Nghiên cứu lý luận phê bình , NXB Đại học Quốc Gia , 2004
(**)
Thích Nhất Hạnh
, Bụt là hình hài , Bụt là tâm thức ,
(***) Du Tử Lê” Những thanh âm bên bờ sông lấp” Tr 186. NXB Hội Nhà văn 2022
|
Bà Nguyễn Thị Bình tên thật là Nguyễn Châu Sa, sinh năm 1927 ở tỉnh
Sa Đéc
, Nam Bộ, là cháu ngoại chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 1948, hoạt động chống Pháp ở Sài Gòn, lấy bí danh là Yến Sa.
Bà Bình ký các văn bản tại Hội nghị Paris
Năm 1961, bà làm công tác đối ngoại của Ủy ban Thống nhất tại Hà Nội, đổi tên là Nguyễn Thị Bình để bảo đảm bí mật. Thân sinh làm trắc địa ở
Campuchia
, đưa cả gia đình sang sống ở Phnompenh. Vì vậy, Nguyễn Châu Sa học trường Lycée Sisowath, trường trung học lớn nhất của Campuchia nên rất thông thạo tiếng Pháp, lại có khuôn mặt xinh tươi, vóc dáng thon thả, hợp với nghề ngoại giao.
Suốt 14 năm làm công tác ngoại giao, Bà đã tham dự nhiều Hội nghị quốc tế quan trọng ở các nước châu Âu, trong đó có 5 năm là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris.
49 năm trước, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam
được ký kết sau 4 năm đàm phán. Trong khoảng thời gian đó, một nhân vật được báo chí phương Tây trân trọng ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ là bà Nguyễn Thị Bình, được gọi thân mật là “Madam Bình”.
Hai giờ chiều ngày 2-11-1968, bầu trời Paris u ám và giá lạnh, bà Nguyễn Thị Bình trong bộ áo dài màu hồng sậm, khoác măng tô xám với chiếc khăn quàng đen điểm hoa, cùng đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam bước xuống sân bay Bourget giữa đám đông người chào đón, trong đó có nhiều nhà báo. Máy ảnh chớp lia lịa.
Bước vào phòng khách danh dự, bà cố gắng nói to, dõng dạc 5 điểm giải pháp của Mặt trận, bà Bình Thanh (Thanh Vân, chị gái bà Bình), dịch rõ ràng mạch lạc. Cánh nhà báo ngạc nhiên, im lặng, rồi xung quanh vang tiếng bàn ghế gãy, kính vỡ loảng xoảng và cãi cọ om xòm vì ai cũng muốn đứng gần bà Bình để ghi hình, ghi tiếng tốt hơn.
Ông Xuân Thủy (Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) cùng bà Bình đi trên đoàn xe bóng loáng, phấp phới lá cờ nửa đỏ nửa xanh, có ô tô, mô tô của cảnh sát Pháp dẫn đường và hộ tống, bà con Việt kiều và người dân Paris đứng chật hai bên đường sững sờ, xúc động.
Madam Bình trả lời phỏng vấn của các nhà báo
Hôm sau tất cả các báo Pháp và báo của các nước phát hành ở Paris đều chạy tít lớn: “Đại diện của Việt cộng đã đến Paris” và những lời bình rất kêu: “Việt cộng đã thắng lớn qua cuộc đón tiếp Madam Bình ở Paris”; “Madam Bình như một bà hoàng được đón như một quốc trưởng với đủ nghi thức chính quy, lại được hoan nghênh nhiệt liệt”; “Madam Bình đã làm chấn động dư luận Paris và thế giới. Cờ Mặt trận đã tung bay ở Paris! Rất tuyệt! Thật hiếm có!”.
Nhiều nhà báo đeo bám đến nơi ở, có nhà báo leo qua tường, có người đặt máy ảnh giữa kẽ hở cánh cửa để bất chợt chụp được những tấm ảnh đặc biệt của “đoàn Việt cộng”, nhất là ảnh Madam Bình ở biệt thự Thévent.
Trong 4 năm đàm phán, bà Bình đi thăm nhiều nước để tranh thủ sự ủng hộ của họ. Tháng 4-1969, thăm Anh, một nước luôn ủng hộ Mỹ. Chuyến thăm tốt đẹp hơn cả mong đợi. Kết thúc buổi đón tiếp long trọng, Madam Bình từ trên đài cao bước xuống, đi diễu hành giữa hai hàng cảnh binh bảo vệ. Giữa quảng trường Trafalgar lớn, rừng người hô vang khẩu hiệu “Đoàn kết với Việt Nam!”, “Chấm dứt chiến tranh!”.
Chuyến thăm
Thụy Điển
năm 1970, được đích thân Thủ tướng Olof Palme (1927-1986) tiếp và cùng Madam Bình dẫn đầu cuộc biểu tình ủng hộ Việt Nam. Nữ nhà văn Sara Lidman (1923-1976) nổi tiếng ở Bắc Âu, tiếp và nói: “Chị Bình ơi, Việt Nam đang có một nền văn hóa dân tộc vô cùng quý giá…”.
Trong buổi trả lời phỏng vấn. Có nhà báo hỏi: “Có quân đội miền Bắc ở miền Nam không?”. Bà Bình trả lời: “Dân tộc Việt Nam là một, người Việt Nam ở Bắc cũng như ở Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống xâm lược”.
Nhà báo hỏi: “Vùng giải phóng ở đâu?” . Bà Bình dứt khoát: “Nơi nào Mỹ ném bom, bắn phá thì đó chính là vùng giải phóng của chúng tôi. Nếu không tại sao Mỹ lại phải ném bom?”.
Giữa năm 1971, truyền hình Pháp tổ chức cuộc họp báo ở hai đầu Paris và Washington, có 20 nhà báo tham gia, 10 người phần lớn là Mỹ bảo vệ lập trường của Mỹ, 10 người, phần lớn là Pháp trung lập. Bà Bình một mình giữa các nhà báo sừng sỏ, dưới ánh đèn sáng chói đã bình tĩnh đối đáp đàng hoàng, mạnh mẽ nhưng hòa nhã, nêu rõ thiện chí muốn tìm giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh. Ông Xuân Thủy gọi điện khen: “Cô rất dũng cảm”.
Bà Bình với các bạn Mỹ
Khi Mỹ huy động máy bay B52 ném bom Hà Nội, ai cũng hồi hộp, lo lắng. Bà Bình được gọi về. Giữa đêm 30-12, về đến
Hà Nội
, bà đi thăm phố Khâm Thiên bị B52 tàn phá tối 26-12 với nỗi căm giận kẻ thù tàn bạo. Thăm hai đứa con nhỏ thương yêu, sống xa mẹ nhiều năm, sơ tán ở thị xã Hưng Yên.
Ngày 21-1-1973, trở lại Paris, bà Bình mở ngay cuộc họp báo, tuyên bố: “Chỉ có một nước Việt Nam, chỉ có một dân tộc Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời là đại diện của nhân dân miền Nam!”.
Hãng AFP mô tả: “Madam Bình mặc áo dài truyền thống của Việt Nam bằng lụa vân màu xanh lá cây, trông rất thoải mái. Đôi lúc Madam Bình nở nụ cười làm khuôn mặt càng rạng rỡ, trả lời các nhà báo rõ ràng khúc chiết, làm cho người ta có cảm giác đứng trước một quý bà đầy bản lĩnh, đầy tự tin”.
Ngày 27-1-1973, họp phiên chính thức ký kết “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh Việt Nam”. Phóng viên hãng AP của Mỹ mô tả Trung tâm hội nghị Kléber tràn ngập biển người và cờ Việt Nam, cờ Mặt trận. Họ tung hô Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh và Nguyễn Thị Bình: “Hoan hô Việt Nam Dân chủ Cộng hòa! Hoan hô Chính phủ Cách mạng lâm thời!”.
Mỗi vị ký vào 32 văn bản của Hiệp định. Phóng viên UPI của Mỹ viết: “Buổi lễ ký kết hòa bình ở Việt Nam diễn ra trong khung cảnh huy hoàng tráng lệ của thế kỷ XIX và những biện pháp an ninh nghiêm ngặt nhất mà thế kỷ XX có thể tạo ra. Bốn Ngoại trưởng, 2.000 cảnh sát và an ninh bảo vệ nghiêm cẩn”.
Bà Bình nhớ rõ, với 174 phiên họp chính thức, hai đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tổ chức hơn 500 cuộc họp báo và 1000 lần trả lời phỏng vấn báo chí. Ngày 29-1-1973, hai đoàn Việt Nam tổ chức chiêu đãi các nhà báo.
Ông Lê Đức Thọ hoan nghênh và cảm ơn các nhà báo. Cả phòng họp với hơn 400 nhà báo quốc tế đứng dậy vỗ tay hồi lâu. Đó là một ngoại lệ chưa từng có trong các cuộc họp báo trước đó./.
Nguyễn Cúc
(Tổng hợp)
|
Ms. Nguyen Thi Binh's real name is Nguyen Chau Sa, born in 1927 in the province
Sa Dec
, Southern Vietnam, is the grandson of patriotic scholar Phan Chau Trinh. In 1948, he participated in anti-French activities in Saigon, using the alias Yen Sa.
Ms. Binh signed documents at the Paris Conference
In 1961, she worked in foreign affairs for the Unification Committee in Hanoi, changing her name to Nguyen Thi Binh to ensure confidentiality. I was born as a land surveyor
Cambodia
, took the whole family to live in Phnom Penh. Therefore, Nguyen Chau Sa studied at Lycée Sisowath, Cambodia's largest high school, so she is very fluent in French, has a pretty face, and a slim body, suitable for a diplomatic career.
During 14 years of diplomatic work, she attended many important international conferences in European countries, including 5 years as Minister of Foreign Affairs and Head of the delegation of the Provisional Revolutionary Government of the Republic. South Vietnam at the Paris Conference.
49 years ago, the Paris Agreement ended the war and restored peace
Vietnam
signed after 4 years of negotiations. During that time, a character whose memorable moments were respectfully recorded by the Western press was Ms. Nguyen Thi Binh, affectionately called "Madam Binh".
At two o'clock in the afternoon of November 2, 1968, the Paris sky was overcast and cold, Ms. Nguyen Thi Binh in a dark pink ao dai, a gray coat with a black scarf decorated with flowers, and the National Front team participated in the tournament. South Vietnamese reporters walked down to Bourget airport amid a crowd of welcoming people, including many journalists. The camera flashed rapidly.
Entering the honorary living room, she tried to say loudly and clearly the 5 points of the Front's solution, Mrs. Binh Thanh (Thanh Van, Mrs. Binh's sister), translated it clearly and coherently. The journalists were surprised and silent, then there was the sound of broken tables and chairs, clattering glass, and loud arguments because everyone wanted to stand close to Mrs. Binh to record better video and audio.
Mr. Xuan Thuy (Head of the delegation of the Democratic Republic of Vietnam) and Ms. Binh traveled in a shiny convoy, waving a half-red, half-green flag, with cars and motorbikes from the French police leading and escorting. Overseas Vietnamese and Parisians stood on both sides of the street, stunned and moved.
Madam Binh answered an interview with journalists
The next day, all French newspapers and newspapers of other countries published in Paris ran big headlines: "Representatives of the Viet Cong have arrived in Paris" and very loud comments: "The Viet Cong won a big victory by welcoming Madam Binh." in Paris”; "Madam Binh was like a queen, welcomed like a head of state with all the formal ceremonies, and was warmly welcomed"; “Madam Binh has shocked public opinion in Paris and the world. The Front flag is flying in Paris! Wonderful! How rare!”.
Many journalists followed them to their residence, some climbed over the wall, some placed their cameras between the gaps in the door to suddenly take special photos of the "Viet Cong group", especially the photo of Madam Binh in isolation. Thevent Palace.
During 4 years of negotiations, Ms. Binh visited many countries to enlist their support. In April 1969, he visited England, a country that always supported the United States. The visit was better than expected. At the end of the solemn reception, Madam Binh stepped down from the high platform and marched between two rows of police guards. In the middle of large Trafalgar Square, a forest of people chanted the slogans "Solidarity with Vietnam!", "Stop the war!".
Visit
Sweden
In 1970, he was personally received by Prime Minister Olof Palme (1927-1986) and led a protest in support of Vietnam with Madam Binh. Female writer Sara Lidman (1923-1976), famous in Northern Europe, continued and said: "Mrs. Binh, Vietnam has an extremely valuable national culture...".
During the interview. A journalist asked: "Are there Northern troops in the South?". Ms. Binh replied: "The Vietnamese people are one, Vietnamese people in the North as well as the South have the obligation to fight against invasion."
The journalist asked: "Where is the liberated area?" . Ms. Binh firmly said: "Wherever the US bombs and bombards, that is our liberated area. Otherwise, why would the US have to bomb?"
In mid-1971, French television held a press conference at both ends of Paris and Washington, with 20 journalists participating, 10 people, mostly Americans defending America's position, 10 people, mostly French neutrals. Ms. Binh, alone among the fierce journalists, under bright lights, calmly responded in a dignified, strong but gentle manner, stating her willingness to find a political solution to end the war. Mr. Xuan Thuy called and praised: "You are very brave."
Mrs. Binh with American friends
When the US mobilized B52 aircraft to bomb Hanoi, everyone was nervous and worried. Mrs. Binh was called back. At midnight on December 30, I arrived
Hanoi
, she visited Kham Thien street destroyed by B52 on the evening of December 26 with anger at the brutal enemy. Visiting my two beloved little children, who lived away from their mother for many years, evacuated in Hung Yen town.
On January 21, 1973, returning to Paris, Mrs. Binh immediately opened a press conference, declaring: "There is only one Vietnam, only one Vietnamese people and the Provisional Revolutionary Government is the representative of the people." southern!".
AFP describes: "Madam Binh wears a traditional Vietnamese ao dai made of green silk, looking very comfortable. Sometimes Madam Binh smiled, making her face even brighter, answering journalists clearly and concisely, making people feel like they were standing in front of a lady full of bravery and confidence."
On January 27, 1973, the meeting officially signed the "Agreement to end the Vietnam War". A US AP reporter described the Kléber Convention Center as filled with a sea of people and Vietnamese and Front flags. They hailed Foreign Minister Nguyen Duy Trinh and Nguyen Thi Binh: “Hooray for the Democratic Republic of Vietnam! Hail the Provisional Revolutionary Government!”.
Each signed 32 documents of the Agreement. The US UPI reporter wrote: "The peace signing ceremony in Vietnam took place in the magnificent scenery of the 19th century and the strictest security measures that the 20th century could create. Four Foreign Ministers, 2,000 police and security guards are strictly guarded."
Ms. Binh clearly remembers that with 174 official meetings, the two delegations of the Democratic Republic of Vietnam and the Provisional Revolutionary Government held more than 500 press conferences and 1,000 press interviews. On January 29, 1973, two Vietnamese delegations held a reception for journalists.
Mr. Le Duc Tho welcomed and thanked the journalists. The entire meeting room with more than 400 international journalists stood up and applauded for a long time. That is an unprecedented exception in previous press conferences./.
Nguyen Cuc
(Synthetic)
|
(Kỷ niệm 90 năm Phong trào Thơ Mới, 1932-2022)
Phong trào Thơ Mới nói riêng cũng như cuộc Cách mạng hiện đại hóa văn chương nói chung diễn ra sôi nổi hồi đầu thế kỷ XX đã đưa văn học Việt Nam từ trung đại sang giai đoạn hiện đại. Trong phong trào đó có rất nhiều tác giả xuất sắc xuất hiện. Nhân kỷ niệm 90 năm Phong trào Thơ Mới (1932-2022), xin trân trọng giới thiệu bài viết về nhà thơ
Hồ Dzếnh
của PGS-TS Nguyễn Thị Thu Trang như nén tâm hương tưởng nhớ đến ông!
Hồ Dzếnh là nhà thơ, nhà văn Việt Nam xuất hiện và nổi tiếng ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, khi cuộc Cách mạng hiện đại hóa văn chương nước nhà đang diễn ra sôi động. Các nhà nghiên cứu văn học xếp Hồ Dzếnh,
Thạch Lam
, Thanh Tịnh vào cùng một nhóm các cây bút hiện thực trữ tình. Tuy nhiên so với cả Thạch Lam, Thanh Tịnh; tên tuổi của Hồ Dzếnh vẫn ít được nhắc đến hơn. Thậm chí vào ngày 13/8/1991, khi nghe tin Hồ Dzếnh mất; nhiều người hơi ngỡ ngàng vì cứ nghĩ
người thơ
quá vãng đã lâu.
Nhà thơ Hồ Dzếnh (1916 – 1991)
Văn chương đôi khi cũng có số phận nghiệt ngã như con người. Nhưng thời gian sẽ thanh lọc và bù đắp công bằng cho những giá trị nghệ thuật chân chính. Hồ Dzếnh là trường hợp như vậy. Từ 1988 đến nay, tác phẩm của ông (cả thơ và văn xuôi) cùng với những công trình nghiên cứu về tác giả liên tục được in, xuất bản và tái bản.
Hồ Dzếnh xuất hiện trên văn đàn lặng lẽ nhưng rất ấn tượng với bút danh rất lạ, rất Tàu (Hồ Dzếnh theo giải thích là được phiên âm từ tên thật
Hà Triệu Anh
). Cha ông là người Trung Hoa ly hương, lúc nào cũng nhớ đến cội nguồn. Mẹ ông là cô lái đò trên sông Ghép ở
Quảng Xương
,
Thanh Hóa
. Và Hồ Dzếnh đã mang cái tuổi thơ u hoài với tâm hồn dịu dàng nhạy cảm của mình vào văn chương, trong những năm cảm hứng sáng tác như một dòng chảy mạnh trào dâng, lôi cuốn hầu hết mọi người trí thức trai trẻ.
Bắt đầu viết truyện ngắn và thơ đăng trên các báo như
Tiểu thuyết Thứ Bảy, Trung Bắc Chủ nhật
; đến 1940 trở đi, Hồ Dzếnh mới có những tác phẩm được in như:
–
Dĩ vãng
(truyện vừa), xb 1940.
–
Quê ngoại
(tập thơ), xb 1942.
–
Chân trời cũ
(tập truyện ngắn), xb 1943.
–
Một chuyện tình 15 năm về trước
(truyện dài), xb 1943.
–
Hoa xuân đất Việt
(tập thơ), xb 1945.
–
Cô gái Bình Xuyên
(truyện vừa), xb 1946…
Năm 1942, cuốn
Thi nhân Việt Nam
và bộ sách
Nhà văn hiện đại
ra đời. Đó là hai công trình nghiên cứu quan trọng, đã làm nhiệm vụ tổng kết đầu tiên quá trình hiện đại hóa văn học nước nhà diễn ra trong vòng 10 năm (đến 1941). Nhưng Hoài Thanh, Hoài Chân và cả Vũ Ngọc Phan; tác giả của những cuốn sách nêu trên đều chưa kịp ghi nhận tên tuổi Hồ Dzếnh!? Sau 1945, Hồ Dzếnh vẫn tiếp tục sáng tác; từ khoảng 1958 trở đi ông hầu như vắng bóng trên văn đàn, sống lặng lẽ với công việc của một người thợ cơ khí bình thường.
Chỉ có trong trái tim người đọc, những bài thơ, truyện ngắn của Hồ Dzếnh vẫn âm vang, nhớ thương.
Người ta nhớ nhiều nhất là bài Chiều với thể thơ năm chữ, nhẹ nhàng mà quyến rũ:
“Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng,
Ngỡ hồn mình là mây,
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây…”
Gần mười năm, sau khi ra đời, bài
Chiều
đã được nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc (năm 1950). Nhiều người cho rằng nhạc sĩ đã bắt trúng cái hồn của bài thơ, đã cộng hưởng với thi sĩ cùng tạo nên một bài hát mà giai điệu và ca từ đều đẹp, hờ hững mà da diết, vang vọng mãi đến tận ngày nay.
Chiều
(hay
Màu cây trong khói
) và nhiều bài thơ khác của Hồ Dzếnh cũng mang nỗi sầu đau lãng mạn chung của thời đại Thơ Mới, nhưng
Chiều
có một dáng vẻ rất lạ. Ông Hoàng Hưng bình: “
Ngay ở khổ thơ đầu, ba câu lẻ bất thường đã phóng một thế chênh vênh, mở ra một khoảng cộng hưởng mênh mông từ trời mây đến vạn cổ, để kết thúc với đốm thuốc đơn độc trên tay. Đó là phút cái cá thể lãng mạn thăng hoa để hòa với cái vô cùng. Nếu tôi không lầm trong thơ tiền chiến cái tôi chưa bao giờ có được một tư thế như vậy.
..”
(1)
.
Và từ đó người ta hay nhắc đến “
khói huyền Hồ Dzếnh”
như một ấn tượng khó phai về ông. Có lẽ vì xuất hiện muộn, khi phong trào Thơ Mới đã đi qua giai đoạn đỉnh cao, nên Hồ Dzếnh không tìm được những tha thiết cả trong buồn đau, nhớ mong như các thi sĩ ở buổi ban đầu.
Nỗi niềm hững hờ, xa cách đó đôi khi lại tạo nên một kiểu dáng riêng khó bắt chước. Có những câu rất Hồ Dzếnh như:
“Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân…
…Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở…”.
(Ngập ngừng)
“Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung…”.
(Màu thu năm ngoái)
Những câu thơ nhẹ như tơ trời ấy có sức ám ảnh ghê gớm. Nó dịu dàng mà trói buộc tâm hồn con người. Hồ Dzếnh dường như đã cảm nhận được nỗi cô đơn đầy bất an của con người hiện đại. Đã không còn những đắm đuối van xin kiểu
Xuân Diệu
hay hồn nhiên, nhí nhảnh như cô gái 15 tuổi của
Nguyễn Nhược Pháp
trong bài
Chùa Hương
. Những nghịch lý hay mâu thuẫn mà thơ ông hay nhắc (
hẹn nhưng đừng đến, thư viết đừng xong, tình dang dở
…) thực chất chính là biểu hiện của trạng thái tâm lý mới: con người vừa phải chấp nhận hiện thực vừa muốn thoát ly hiện thực. Nhu cầu giải phóng cá nhân để tự do yêu đương (thời kỳ đầu) đã không tìm ra ý nghĩa đích thực hạnh phúc! Hồ Dzếnh trong thơ không phải là tâm trạng thất bại chua cay mà là vẻ buồn đơn độc, lặng lẽ trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, đích thực nhưng mong manh.
Nhà phê bình Nguyễn Thị Thu Trang ở Phú Yên
Nhiều người nói Hồ Dzếnh gần với Nguyễn Bính vì cảm hứng của thi sĩ thường xuất phát từ những hoài niệm tha thiết. Bài
Trở lại
thuộc thể lục bát quen thuộc, vừa êm đềm nhớ nhung vừa xót xa nuối tiếc:
“Trời trong đến nỗi không mây
Cây im đến nỗi bóng đầy mặt sân
Tôi về giữa xứ bâng khuâng
Nghe thơ lục bát gieo vần nhớ xưa
Chạy dài lớp bí, dàn dưa
Vẳng nghe dấu cũ hồn mơ đang tàn
Mộng lòng xây giữa nhân gian
Một căn nhà nhỏ, mấy hàng trầu không
Những người tôi vẽ chưa xong
Thi nhau trên bức bình phong méo đầu
Phẳng lì ngõ trước, ao sau
Đêm đêm cá đớp trăng sầu đêm đêm.
Con người tôi gọi bằng em
Nhớ tôi nhưng cũng thành duyên lâu rồi
Mộng tàn nước chảy mây trôi
Tôi lui hồn lại, nhưng đời đã xa…”
Âm điệu, hình ảnh đều phảng phất bóng dáng
Nguyễn Bính
, cả cách vận dụng thể lục bát duyên dáng, uyển chuyển. Nhưng so với những trắc trở, thổn thức của Nguyễn Bính, thơ Hồ Dzếnh bình yên hơn. Đó là sự bình yên của một tâm hồn đã trải thương đau, không tuyệt vọng nhưng cũng không còn nhiều tin yêu, hy vọng:
“
Từ thuở ly hương ta vẫn nhớ
Nhưng tình…xa lắm, gió mây ơi!
“.
(Tư hương)
Đọc thơ Hồ Dzếnh mới hay ngôn ngữ mẹ đẻ đã thành máu thịt tâm hồn ông, giản dị mà diệu kỳ biết chừng nào! Nhà thơ đã từng xúc động nói: “…
Tôi yêu tiếng Việt lắm, tôi sung sướng thấy mình được tồn tại trong lòng tiếng Việt yêu thương
“. Tình yêu ấy đã dệt nên những trang thơ còn mãi với thời gian.
Cũng như Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh làm thơ và viết văn; và với cả hai, ông đều thành công. Tập truyện ngắn
Chân trời cũ
của Hồ Dzếnh không phải là hồi ký cũng không thuộc tác phẩm tự truyện, nhưng nó có sự cộng tác của cả hai thể loại này. Đọc những truyện viết trong đó như:
Ngày gặp gỡ, Người chị dâu tôi, Con ngựa trắng của ba tôi, Lòng mẹ, Chú Nhì, Hai anh em
v.v… ta vẫn mường tượng rất rõ những ngày thơ ấu của nhà văn. Văn xuôi Hồ Dzếnh không lạ bởi nó chỉ là những dòng kể chân thực về cuộc đời; nhưng nó cũng không mòn cũ với thời gian vì nó đánh thức lòng yêu thương trắc ẩn của con người. Mà tấm lòng của con người thì đời nào cũng vậy!
Hồ Dzếnh đến văn chương không mong kiếm tìm một chỗ đứng. Hồ Dzếnh lìa xa cuộc đời cũng không cần lưu lại tuổi tên. Nhưng suốt cuộc đời thực và suốt cuộc đời văn chương, ông đã thủy chung, chân thành trọn vẹn.
“
Mây nước vô tình, lãnh đạm trôi.
Tình không như nước, tình không xuôi.
Bao lần lá thắm xuôi dòng nước
Nước chảy, tình duyên ở với người
…”
(Nước chảy chân cầu).
Nước chảy, mây trôi chỉ còn niềm thương yêu ở lại! Nhà thơ dù đã đi vào sương khói, thì văn chương vẫn còn tiếp tục sự sống của ông. Và một buổi chiều tím, một đêm khuya; đọc thơ Hồ Dzếnh ta lại nghe nhớ thương dâng lên đến nghẹn ngào.
NGUY
ỄN TH
Ị THU TRANG
|
(Kỷ niệm 90 năm Phong trào Thơ Mới, 1932-2022)
Phong trào Thơ Mới nói riêng cũng như cuộc Cách mạng hiện đại hóa văn chương nói chung diễn ra sôi nổi hồi đầu thế kỷ XX đã đưa văn học Việt Nam từ trung đại sang giai đoạn hiện đại. Trong phong trào đó có rất nhiều tác giả xuất sắc xuất hiện. Nhân kỷ niệm 90 năm Phong trào Thơ Mới (1932-2022), xin trân trọng giới thiệu bài viết về nhà thơ
Hồ Dzếnh
của PGS-TS Nguyễn Thị Thu Trang như nén tâm hương tưởng nhớ đến ông!
Hồ Dzếnh là nhà thơ, nhà văn Việt Nam xuất hiện và nổi tiếng ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, khi cuộc Cách mạng hiện đại hóa văn chương nước nhà đang diễn ra sôi động. Các nhà nghiên cứu văn học xếp Hồ Dzếnh,
Thạch Lam
, Thanh Tịnh vào cùng một nhóm các cây bút hiện thực trữ tình. Tuy nhiên so với cả Thạch Lam, Thanh Tịnh; tên tuổi của Hồ Dzếnh vẫn ít được nhắc đến hơn. Thậm chí vào ngày 13/8/1991, khi nghe tin Hồ Dzếnh mất; nhiều người hơi ngỡ ngàng vì cứ nghĩ
người thơ
quá vãng đã lâu.
Nhà thơ Hồ Dzếnh (1916 – 1991)
Văn chương đôi khi cũng có số phận nghiệt ngã như con người. Nhưng thời gian sẽ thanh lọc và bù đắp công bằng cho những giá trị nghệ thuật chân chính. Hồ Dzếnh là trường hợp như vậy. Từ 1988 đến nay, tác phẩm của ông (cả thơ và văn xuôi) cùng với những công trình nghiên cứu về tác giả liên tục được in, xuất bản và tái bản.
Hồ Dzếnh xuất hiện trên văn đàn lặng lẽ nhưng rất ấn tượng với bút danh rất lạ, rất Tàu (Hồ Dzếnh theo giải thích là được phiên âm từ tên thật
Hà Triệu Anh
). Cha ông là người Trung Hoa ly hương, lúc nào cũng nhớ đến cội nguồn. Mẹ ông là cô lái đò trên sông Ghép ở
Quảng Xương
,
Thanh Hóa
. Và Hồ Dzếnh đã mang cái tuổi thơ u hoài với tâm hồn dịu dàng nhạy cảm của mình vào văn chương, trong những năm cảm hứng sáng tác như một dòng chảy mạnh trào dâng, lôi cuốn hầu hết mọi người trí thức trai trẻ.
Bắt đầu viết truyện ngắn và thơ đăng trên các báo như
Tiểu thuyết Thứ Bảy, Trung Bắc Chủ nhật
; đến 1940 trở đi, Hồ Dzếnh mới có những tác phẩm được in như:
–
Dĩ vãng
(truyện vừa), xb 1940.
–
Quê ngoại
(tập thơ), xb 1942.
–
Chân trời cũ
(tập truyện ngắn), xb 1943.
–
Một chuyện tình 15 năm về trước
(truyện dài), xb 1943.
–
Hoa xuân đất Việt
(tập thơ), xb 1945.
–
Cô gái Bình Xuyên
(truyện vừa), xb 1946…
Năm 1942, cuốn
Thi nhân Việt Nam
và bộ sách
Nhà văn hiện đại
ra đời. Đó là hai công trình nghiên cứu quan trọng, đã làm nhiệm vụ tổng kết đầu tiên quá trình hiện đại hóa văn học nước nhà diễn ra trong vòng 10 năm (đến 1941). Nhưng Hoài Thanh, Hoài Chân và cả Vũ Ngọc Phan; tác giả của những cuốn sách nêu trên đều chưa kịp ghi nhận tên tuổi Hồ Dzếnh!? Sau 1945, Hồ Dzếnh vẫn tiếp tục sáng tác; từ khoảng 1958 trở đi ông hầu như vắng bóng trên văn đàn, sống lặng lẽ với công việc của một người thợ cơ khí bình thường.
Chỉ có trong trái tim người đọc, những bài thơ, truyện ngắn của Hồ Dzếnh vẫn âm vang, nhớ thương.
Người ta nhớ nhiều nhất là bài Chiều với thể thơ năm chữ, nhẹ nhàng mà quyến rũ:
“Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng,
Ngỡ hồn mình là mây,
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây…”
Gần mười năm, sau khi ra đời, bài
Chiều
đã được nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc (năm 1950). Nhiều người cho rằng nhạc sĩ đã bắt trúng cái hồn của bài thơ, đã cộng hưởng với thi sĩ cùng tạo nên một bài hát mà giai điệu và ca từ đều đẹp, hờ hững mà da diết, vang vọng mãi đến tận ngày nay.
Chiều
(hay
Màu cây trong khói
) và nhiều bài thơ khác của Hồ Dzếnh cũng mang nỗi sầu đau lãng mạn chung của thời đại Thơ Mới, nhưng
Chiều
có một dáng vẻ rất lạ. Ông Hoàng Hưng bình: “
Ngay ở khổ thơ đầu, ba câu lẻ bất thường đã phóng một thế chênh vênh, mở ra một khoảng cộng hưởng mênh mông từ trời mây đến vạn cổ, để kết thúc với đốm thuốc đơn độc trên tay. Đó là phút cái cá thể lãng mạn thăng hoa để hòa với cái vô cùng. Nếu tôi không lầm trong thơ tiền chiến cái tôi chưa bao giờ có được một tư thế như vậy.
..”
(1)
.
Và từ đó người ta hay nhắc đến “
khói huyền Hồ Dzếnh”
như một ấn tượng khó phai về ông. Có lẽ vì xuất hiện muộn, khi phong trào Thơ Mới đã đi qua giai đoạn đỉnh cao, nên Hồ Dzếnh không tìm được những tha thiết cả trong buồn đau, nhớ mong như các thi sĩ ở buổi ban đầu.
Nỗi niềm hững hờ, xa cách đó đôi khi lại tạo nên một kiểu dáng riêng khó bắt chước. Có những câu rất Hồ Dzếnh như:
“Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân…
…Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở…”.
(Ngập ngừng)
“Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung…”.
(Màu thu năm ngoái)
Những câu thơ nhẹ như tơ trời ấy có sức ám ảnh ghê gớm. Nó dịu dàng mà trói buộc tâm hồn con người. Hồ Dzếnh dường như đã cảm nhận được nỗi cô đơn đầy bất an của con người hiện đại. Đã không còn những đắm đuối van xin kiểu
Xuân Diệu
hay hồn nhiên, nhí nhảnh như cô gái 15 tuổi của
Nguyễn Nhược Pháp
trong bài
Chùa Hương
. Những nghịch lý hay mâu thuẫn mà thơ ông hay nhắc (
hẹn nhưng đừng đến, thư viết đừng xong, tình dang dở
…) thực chất chính là biểu hiện của trạng thái tâm lý mới: con người vừa phải chấp nhận hiện thực vừa muốn thoát ly hiện thực. Nhu cầu giải phóng cá nhân để tự do yêu đương (thời kỳ đầu) đã không tìm ra ý nghĩa đích thực hạnh phúc! Hồ Dzếnh trong thơ không phải là tâm trạng thất bại chua cay mà là vẻ buồn đơn độc, lặng lẽ trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, đích thực nhưng mong manh.
Nhà phê bình Nguyễn Thị Thu Trang ở Phú Yên
Nhiều người nói Hồ Dzếnh gần với Nguyễn Bính vì cảm hứng của thi sĩ thường xuất phát từ những hoài niệm tha thiết. Bài
Trở lại
thuộc thể lục bát quen thuộc, vừa êm đềm nhớ nhung vừa xót xa nuối tiếc:
“Trời trong đến nỗi không mây
Cây im đến nỗi bóng đầy mặt sân
Tôi về giữa xứ bâng khuâng
Nghe thơ lục bát gieo vần nhớ xưa
Chạy dài lớp bí, dàn dưa
Vẳng nghe dấu cũ hồn mơ đang tàn
Mộng lòng xây giữa nhân gian
Một căn nhà nhỏ, mấy hàng trầu không
Những người tôi vẽ chưa xong
Thi nhau trên bức bình phong méo đầu
Phẳng lì ngõ trước, ao sau
Đêm đêm cá đớp trăng sầu đêm đêm.
Con người tôi gọi bằng em
Nhớ tôi nhưng cũng thành duyên lâu rồi
Mộng tàn nước chảy mây trôi
Tôi lui hồn lại, nhưng đời đã xa…”
Âm điệu, hình ảnh đều phảng phất bóng dáng
Nguyễn Bính
, cả cách vận dụng thể lục bát duyên dáng, uyển chuyển. Nhưng so với những trắc trở, thổn thức của Nguyễn Bính, thơ Hồ Dzếnh bình yên hơn. Đó là sự bình yên của một tâm hồn đã trải thương đau, không tuyệt vọng nhưng cũng không còn nhiều tin yêu, hy vọng:
“
Từ thuở ly hương ta vẫn nhớ
Nhưng tình…xa lắm, gió mây ơi!
“.
(Tư hương)
Đọc thơ Hồ Dzếnh mới hay ngôn ngữ mẹ đẻ đã thành máu thịt tâm hồn ông, giản dị mà diệu kỳ biết chừng nào! Nhà thơ đã từng xúc động nói: “…
Tôi yêu tiếng Việt lắm, tôi sung sướng thấy mình được tồn tại trong lòng tiếng Việt yêu thương
“. Tình yêu ấy đã dệt nên những trang thơ còn mãi với thời gian.
Cũng như Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh làm thơ và viết văn; và với cả hai, ông đều thành công. Tập truyện ngắn
Chân trời cũ
của Hồ Dzếnh không phải là hồi ký cũng không thuộc tác phẩm tự truyện, nhưng nó có sự cộng tác của cả hai thể loại này. Đọc những truyện viết trong đó như:
Ngày gặp gỡ, Người chị dâu tôi, Con ngựa trắng của ba tôi, Lòng mẹ, Chú Nhì, Hai anh em
v.v… ta vẫn mường tượng rất rõ những ngày thơ ấu của nhà văn. Văn xuôi Hồ Dzếnh không lạ bởi nó chỉ là những dòng kể chân thực về cuộc đời; nhưng nó cũng không mòn cũ với thời gian vì nó đánh thức lòng yêu thương trắc ẩn của con người. Mà tấm lòng của con người thì đời nào cũng vậy!
Hồ Dzếnh đến văn chương không mong kiếm tìm một chỗ đứng. Hồ Dzếnh lìa xa cuộc đời cũng không cần lưu lại tuổi tên. Nhưng suốt cuộc đời thực và suốt cuộc đời văn chương, ông đã thủy chung, chân thành trọn vẹn.
“
Mây nước vô tình, lãnh đạm trôi.
Tình không như nước, tình không xuôi.
Bao lần lá thắm xuôi dòng nước
Nước chảy, tình duyên ở với người
…”
(Nước chảy chân cầu).
Nước chảy, mây trôi chỉ còn niềm thương yêu ở lại! Nhà thơ dù đã đi vào sương khói, thì văn chương vẫn còn tiếp tục sự sống của ông. Và một buổi chiều tím, một đêm khuya; đọc thơ Hồ Dzếnh ta lại nghe nhớ thương dâng lên đến nghẹn ngào.
NGUY
ỄN TH
Ị THU TRANG
|
Công trình đường dây 220 kV Kiên Bình – Phú Quốc dài 80,4 km với 117 trụ tháp vượt biển, tổng đầu tư hơn 2.200 tỷ đồng được đóng điện, vận hành ngày 14/10.
Đây là công trình đường dây vượt biển trên không cấp điện áp 220 kV dài nhất khu vực Đông Nam Á, được triển khai lần đầu tại Việt Nam, do Tổng Công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC) tiến hành hơn ba năm trước.
Đường điện 220 kV Kiên Bình – Phú Quốc dài 80,4 km là đường dây vượt biển dài nhất Đông Nam Á. Ảnh: EVN
Móng trụ điện trên biển được thiết kế với hệ cọc bêtông ly tâm dự ứng lực, đúc sẵn chống nhiễm mặn, liên kết với hệ đài móng rộng 400 m2. Mỗi cột cao 55-87m, khoảng cách giữa các cột trung bình 560 m. Đường dây đảm bảo tĩnh không hàng hải và có hệ thống cảnh báo an toàn hàng không theo quy định.
Ông Nguyễn Phước Đức, Tổng giám đốc EVNSPC, cho biết việc đóng điện, vận hành cấp điện áp 110 kV sẽ giúp cải thiện chất lượng cấp điện cho
TP Phú Quốc
, giảm tổn thất điện, đồng thời san tải cho đường dây cáp ngầm 110 kV đang vận hành ở mức rất cao. “Năng lực cung cấp điện cho đảo
Phú Quốc
tăng khoảng 6 lần và có thể đáp ứng nhu cầu điện trên đảo đến năm 2035″, ông nói.
Đồng bộ với công trình Đường dây 220 kV Kiên Bình – Phú Quốc giai đoạn 1, còn có công trình Trạm biến áp 110 kV Nam Phú Quốc.
Trụ điện trên biển, móng trụ thiết kế với hệ cọc bêtông ly tâm dự ứng lực, đúc sẵn chống nhiễm mặn. Ảnh: EVN
Ông Huỳnh Quang Hưng, Chủ tịch UBND TP Phú Quốc cho biết công trình có ý nghĩa to lớn, không chỉ cung cấp điện cho nhân dân sử dụng mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội cho thành phố.
Cách đây 8 năm, lần đầu tiên nguồn điện lưới Quốc gia được đưa ra Phú Quốc bằng đường cáp ngầm xuyên biển 110 kV Hà Tiên – Phú Quốc dài nhất Đông Nam Á, thay thế hoàn toàn nguồn điện diesel tại chỗ. Từ đó đến nay, nhu cầu phụ tải sử dụng điện trên đảo liên tục tăng nhanh với mức tăng trưởng bình quân trên 35% mỗi năm.
|
The Kien Binh - Phu Quoc 220 kV line project, 80.4 km long with 117 towers across the sea, with a total investment of more than 2,200 billion VND, was energized and put into operation on October 14.
This is the longest 220kV overhead line project in Southeast Asia, deployed for the first time in Vietnam by the Southern Power Corporation (EVNSPC) more than three years ago.
The 80.4 km long Kien Binh - Phu Quoc 220 kV power line is the longest sea-crossing line in Southeast Asia. Photo: EVN
The marine electric pylon foundation is designed with a pre-stressed, precast centrifugal concrete pile system to prevent saline intrusion, linked to a 400 m2 foundation system. Each column is 55-87m high, the average distance between columns is 560 m. The line ensures maritime clearance and has an aviation safety warning system according to regulations.
Mr. Nguyen Phuoc Duc, General Director of EVNSPC, said that energizing and operating the 110 kV voltage level will help improve the quality of power supply for
Phu Quoc City
, reducing power loss, and at the same time leveling the load for the 110 kV underground cable line that is operating at a very high level. “The capacity to supply electricity to the island
Phu Quoc
increased about 6 times and can meet the island's electricity demand until 2035," he said.
In sync with the Kien Binh - Phu Quoc 220kV Transmission Line phase 1 project, there is also the 110kV Southern Phu Quoc Transformer Station project.
Electric poles at sea and pier foundations are designed with a pre-stressed, pre-cast centrifugal concrete pile system to prevent salinity. Photo: EVN
Mr. Huynh Quang Hung, Chairman of Phu Quoc City People's Committee, said the project has great significance, not only providing electricity for people to use but also promoting the socio-economic development of the city.
Eight years ago, for the first time, the national grid power source was brought to Phu Quoc by the longest 110 kV Ha Tien - Phu Quoc sea-crossing submarine cable in Southeast Asia, completely replacing the on-site diesel power source. Since then, the demand for electricity on the island has continuously increased rapidly with an average growth rate of over 35% per year.
|
Đề xuất tăng lương cơ sở lên mức 1,8 triệu đồng từ 1.7.2023 đang thu hút nhiều sự quan tâm của bạn đọc. Vậy lương cơ sở có điểm khác gì với lương cơ bản?
Hiện, lương cơ sở được quy định rõ ràng trong Nghị định số 38/2019/NĐ-CP của Chính phủ (quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang). Nghị định này có hiệu lực từ ngày 1.7.2019. Ngoài ra, mức lương qua các giai đoạn cũng được xác định bằng con số cụ thể. Hiện nay, mức lương cơ sở vẫn áp dụng theo Nghị định 38/2019/NĐ-CP là 1.490.000 đồng/tháng.
Trong khi đó, lương cơ bản không được quy định trong bất cứ văn bản pháp luật nào, mà chỉ là cách gọi của mức lương thấp nhất mà lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận.
Về đối tượng áp dụng, mức lương cơ sở được áp dụng cho công nhân viên chức, cán bộ Nhà nước, người lao động, người hưởng chế độ thuộc khu vực Nhà nước: cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang, đơn vị hoạt động được Nhà nước hỗ trợ kinh phí… Mức lương cơ sở không được áp dụng trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài khu vực Nhà nước.
Trong khi đó, mức lương cơ bản được áp dụng cho cả khu vực trong và ngoài Nhà nước. Hay nói cách khác, lương cơ bản là khái niệm được sử dụng phổ biến cho tất cả các đơn vị sử dụng lao động và người lao động.
Vì mức lương cơ sở đã được quy định bằng con số rõ ràng trong các văn bản pháp luật nên mang tính cố định. Ngược lại, để xác định lương cơ bản, đơn vị cần phải xác định dựa vào nhiều yếu tố. Vì lương cơ bản được áp dụng cho cả khu vực doanh nghiệp và khu vực Nhà nước nên cách thức tính toán cũng có sự khác nhau.
Cách tính lương cơ bản cho cán bộ, công nhân viên chức thuộc khu vực Nhà nước: Lương cơ bản = Lương cơ sở x hệ số lương.
Cách tính lương cơ bản cho các doanh nghiệp, tổ chức ngoài khu vực Nhà nước:
Đối với những lao động làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài khu vực Nhà nước, mức lương cơ bản được xác định dựa trên mức lương tối thiểu vùng.
Theo Nghị định số 38/2022/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 1.7.2022, quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động), lương tối thiểu hiện nay như sau: Vùng I là 4.680.000 đồng/tháng; vùng II là 4.160.000 đồng/tháng; vùng III là 3.640.000 đồng/tháng và vùng IV là 3.250.000 đồng/tháng.
Doanh nghiệp thuộc vùng nào thì sẽ tính lương cơ bản dựa vào lương tối thiểu vùng của khu vực đó. Doanh nghiệp cần lưu ý mức lương cơ bản không được nhỏ hơn lương tối thiểu vùng.
Ngoài ra, theo hướng dẫn tại Công văn 2086/BLĐTBXH-TLĐLĐVN năm 2022 thì chế độ tiền lương trả cho
người lao động
làm công việc hoặc chức danh đòi hỏi qua học nghề, đào tạo nghề cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu thì tiếp tục thực hiện.
BẢO HÂN (T/H)
|
The proposal to increase the base salary to 1.8 million VND from July 1, 2023 is attracting a lot of attention from readers. So what is the difference between base salary and base salary?
Currently, the base salary is clearly regulated in Decree Không. 38/2019/ND-CP of the Government (regulating the base salary for officials, civil servants, public employees and the armed forces). This Decree takes effect from July 1, 2019. In addition, salary levels through stages are also determined by specific numbers. Currently, the base salary still applies according to Decree 38/2019/ND-CP which is 1,490,000 VND/month.
Meanwhile, the basic salary is not regulated in any legal documents, but is just the name for the lowest salary agreed upon by the employee and the employer.
Regarding the subjects of application, the base salary is applied to public employees, State officials, employees, and beneficiaries in the State sector: State agencies, socio-political organizations. , armed forces, units operating with financial support from the State... The base salary is not applied in businesses and organizations outside the State sector.
Meanwhile, the basic salary applies to both internal and external sectors. In other words, basic salary is a commonly used concept for all employers and employees.
Because the base salary has been specified in clear numbers in legal documents, it is fixed. On the contrary, to determine the basic salary, the unit needs to determine it based on many factors. Because the basic salary is applied to both the corporate sector and the State sector, the calculation method is also different.
How to calculate basic salary for officials and employees in the State sector: Basic salary = Base salary x salary coefficient.
How to calculate basic salary for businesses and organizations outside the state sector:
For employees working in businesses and organizations outside the state sector, the basic salary is determined based on the regional minimum wage.
According to Decree Không. 38/2022/ND-CP (effective from July 1, 2022, regulating the minimum salary for employees working under labor contracts), the current minimum salary is as follows: Region I is 4,680,000 VND/month; Region II is 4,160,000 VND/month; Region III is 3,640,000 VND/month and Region IV is 3,250,000 VND/month.
Whichever region an enterprise belongs to, the basic salary will be calculated based on the regional minimum wage of that region. Enterprises need to note that the basic salary cannot be less than the regional minimum wage.
In addition, according to the instructions in Official Dispatch 2086/BLDTBXH-TLLDLDVN in 2022, the salary regime paid to
workers
If you do a job or title that requires vocational training or vocational training that is at least 7% higher than the minimum wage, you will continue to do so.
BAO HAN (T/H)
|
Lạng Sơn
– Miền biên cương nơi địa đầu Tổ Quốc, là mảnh đất hội tụ được khá đầy đủ các giá trị di sản văn hóa (cả vật thể lẫn phi vật thể), đa dạng sinh học và địa chất, khá khác biệt so với các vùng khác ở
Việt Nam
. Trong đó, sơn khối đá vôi Bắc Sơn với diện tích 1.500ha là một trong số sơn khối Karste điển hình nhất của nước ta.
Vùng núi đá vôi Bắc Sơn hay còn gọi là: Cánh cung Bắc Sơn, Nếp lồi Bắc Sơn, nằm giữa trung lưu sông Cầu và trung lưu sông Thương, độ cao trung bình cả vùng là 400-500m, cao ở phía Tây Bắc và thấp ở phía Đông Nam.
Sơn khối đá vôi Bắc Sơn nằm trên địa phận 3 tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên và Bắc Giang. Trong đó,
huyện Bình Gia
(Lạng Sơn) ở phía Bắc,
thành phố Lạng Sơn
ở phía Đông Bắc, Thị trấn Kép (
Bắc Giang
) ở phía Nam và
Thái Nguyên
ở phía Tây Nam của sơn khối đã vôi này. Vùng sơn khối đã vôi thuộc địa phận tỉnh Lạng Sơn còn hàng loạt các hang động chứa vết tích của người tiền sử.
Trong vùng đá rộng lớn này, quá trình Cát-tơ (karst) diễn ra ở những mức độ khác nhau: ở phần trung tâm, quá trình cát-tơ diễn ra mạnh mẽ để lộ ra những đồi lượn sóng được cấu tạo bới phiến sét màu đen hoặc vàng sáng. Những giai đoạn địa hình trẻ hơn lại tạo ra những thung karst cánh nếp lồi. Hay những cánh đồng ngoại vi karst rộng lớn ở ven rìa các khối đã vôi có quá trình karst phát triển cao.
Vùng núi đá vôi Bắc Sơn có nhiều hang động lớn bậc nhất nước ta như: Bình Long, Kéo Phầy, Thẩm Khách…54 hang trong số đó các nhà khảo cổ học đã phát hiện được di tích người tiền sử, với nhiều sọ người cổ, đồ đá mài nhẵn, đồ trang sức bằng xương và nhiều mảnh đồ gốm…Đó là dấu tích của nền văn hóa của cư dân sơ kỳ thời đá mới, cách đây từ 1 vạn đến trên 7500 năm. Nền văn hóa này, cư dân còn ở hang, săn bắt- hái lượm, bước đầu biết đến nông nghiệp sơ khai. Đây là những điểm sáng về mặt sáng tạo to lớn của nhân loại về mặt kỹ thuật văn hóa, những điểm du lịch kỳ thú cả về thiên nhiên hang động vùng karst.
Nhận thấy những tiềm năng, lợi thế về Văn hóa, Di sản địa chất, trong quý I và II năm 2021, Lạng Sơn đã có những bước triển khai để xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận dãy núi đá vôi và thung lũng Bắc Sơn là công viên địa chất toàn cầu nhằm bảo tồn và phát huy giá trị về di sản, cũng là cơ hội để nâng tầm du lịch Xứ Lạng.
|
Lang Son
– The border region at the beginning of the country is a land that converges quite a lot of cultural heritage values (both tangible and intangible), biodiversity and geology, quite different from other countries. another area
Vietnam
. Among them, Bac Son limestone block paint with an area of 1,500 hectares is one of the most typical Karste block paint blocks in our country.
Bac Son limestone mountain area, also known as: Bac Son bow, Bac Son anticline, is located between the middle reaches of the Cau River and the middle reaches of the Thuong river, the average altitude of the whole area is 400-500m, high in the Northwest and low in the Southeast.
Bac Son limestone massif is located in the three provinces of Lang Son, Thai Nguyen and Bac Giang. In there,
Binh Gia district
(Lang Son) in the North,
Lang Son city
in the Northeast, Kep Town (
Bac Giang
) in the South and
Thai Nguyen
in the southwest of this calcareous mass paint. The limestone mountain area in Lang Son province also has a series of caves containing traces of prehistoric people.
In this large rock area, the karst process takes place at different levels: in the central part, the karst process takes place strongly, revealing wavy hills composed of slabs. black or bright yellow clay. Younger topographic stages create anticline-wing karst valleys. Or large peripheral karst fields at the edges of calcareous blocks with highly developed karst processes.
Bac Son limestone mountain region has many of the largest caves in our country such as: Binh Long, Keo Phay, Tham Khach... 54 caves among which archaeologists have discovered prehistoric human remains, with many human skulls. ancient, polished stone objects, bone jewelry and many pieces of pottery... These are traces of the culture of early Neolithic residents, from 10,000 to over 7,500 years ago. In this culture, the inhabitants still lived in caves, hunted and gathered, and initially learned about primitive agriculture. These are bright spots in terms of humanity's great creativity in terms of cultural technology, and interesting tourist attractions in terms of natural caves in the karst region.
Realizing the potential and advantages of Culture and Geological Heritage, in the first and second quarters of 2021, Lang Son has taken steps to build a dossier to request UNESCO recognition of limestone mountains and valleys. Bac Son is a global geopark aimed at preserving and promoting heritage values, and is also an opportunity to enhance tourism in Lang Land.
|
Nhận lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nguyễn Xuân Phúc
, Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob và Phu quân sẽ thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 16-20/10/2022.
Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN
Đây là chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên của một nguyên thủ nước ngoài tới Việt Nam kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ XIII và là chuyến công du nước ngoài đầu tiên của Tổng thống Singapore kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh hai nước hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược vào năm 2023.
Quan hệ Đối tác chiến lược phát triển tốt đẹp
Trong những năm qua, quan hệ Đối tác Chiến lược
Việt Nam
–
Singapore
phát triển tốt đẹp. Trong bối cảnh COVID-19 diễn biến phức tạp, hai bên vẫn duy trì trao đổi đoàn, thư/điện mừng/thăm hỏi, tiếp xúc cấp cao và các cấp.
Bộ Ngoại giao đã chủ trì thu xếp nhiều cuộc hội đàm trực tuyến giữa lãnh đạo hai bên. Hợp tác kênh Đảng, Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội không ngừng được mở rộng. Hai bên phát huy hiệu quả các cơ chế hợp song phương, trong đó có cơ chế Hội nghị Bộ trưởng về kết nối hai nền kinh tế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, Tham khảo chính trị cấp Thứ trưởng Ngoại giao.
Năm 2022, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 được kiểm soát, nền kinh tế hai nước bước vào giai đoạn phục hồi và tăng trưởng, hai bên trao đổi nhiều đoàn cấp cao và các cấp; trong đó, nổi bật là chuyến thăm cấp Nhà nước đến Singapore của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (từ 24-26/2/2022) với nhiều kết quả thực chất. Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên đã ra Tuyên bố báo chí chung về “Tăng cường quan hệ Đối tác Chiến lược và hợp tác cùng phục hồi”; ký kết 5 văn kiện hợp tác cấp Trung ương về quốc phòng, thương mại, kinh tế số,
sở hữu trí tuệ
, giao lưu nhân dân. Cùng với đó là 28 hợp đồng, bản ghi nhớ, thỏa thuận hợp tác giữa các hiệp hội, địa phương, doanh nghiệp Việt Nam với đối tác Singapore, tổng trị giá trên 11 tỷ USD trong các lĩnh vực thương mại, đổi mới sáng tạo, phát triển khu công nghiệp thông minh, hạ tầng sân bay, logistics, năng lượng tái tạo, xây dựng trường học, môi trường…).
Ngoài ra còn nhiều chuyến thăm cấp cao đem lại hiệu quả đáng kể cho quan hệ hai nước như: Chủ tịch Quốc hội Singapore Tan Chuan-Jin thăm chính thức Việt Nam từ 18-20/5/2022; Phó Thủ tướng Singapore Vương Thụy Kiệt thăm chính thức Việt Nam từ 11-15/9/2022.
Hợp tác giữa hai Quốc hội Việt Nam-Singapore thời gian qua được đẩy mạnh. Chủ tịch Quốc hội hai bên đã tổ chức Hội đàm trực nhằm thảo luận thực chất về hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp. Hai bên đã ký biên bản ghi nhớ về hợp tác giữa hai Quốc hội dịp Chủ tịch Quốc hội Singapore thăm chính thức Việt Nam vào tháng 5/2022.
Bên cạnh hợp tác chính trị với sự tin cậy cao, hợp tác kinh tế tiếp tục được coi là điểm sáng trong quan hệ hai nước. Ngay khi cơ bản kiểm soát được đại dịch COVID-19, từ tháng 3/2022, Việt Nam và Singapore đã sớm dỡ bỏ các hạn chế đi lại với nhau, nối lại đường bay thương mại. Mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước vẫn đạt 8,3 tỷ USD năm 2021; trong đó, xuất khẩu đạt mức 4 tỷ USD, nhập khẩu đạt mức 4,3 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2020. Kim ngạch thương mại tính đến hết tháng 9/2022 đạt 6,9 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ.
Singapore duy trì vị trí nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN vào Việt Nam, đứng thứ 2/139 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam). Tính đến 20/8/2022, các nhà đầu tư Singapore có 2.974 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 69,9 tỷ USD, chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư. Theo lĩnh vực, Singapore đã đầu tư vào 18 ngành, trong đó tập trung chủ yếu vào công nghiệp chế biến, chế tạo; kinh doanh bất động sản; sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa. Theo địa bàn, Singapore có dự án đầu tư tại 50/63 tỉnh, thành của Việt Nam; dẫn đầu là
Thành phố Hồ Chí Minh
với 1.561 dự án,
Hà Nội
đứng hai với 471 dự án, thứ ba là
Bình Dương
với 278 dự án, tiếp theo là
Bắc Ninh
,
Long An
,
Quảng Nam
.
Tính đến cuối năm 2021, các nhà đầu tư Singapore đã tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho 11 Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore (VSIP) ở Việt Nam, với tổng diện tích khoảng 7.517 ha. Các khu công nghiệp có vốn đầu tư của Singapore đều đi vào hoạt động, có tỷ lệ lấp đầy khoảng 83,2%, thu hút được gần 1.000 dự án với hơn 80% là dự án đầu tư nước ngoài; tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 18,1 tỷ USD, tạo việc làm cho gần 300.000 lao động trực tiếp.
Về phía Việt Nam, tính đến tháng 7/2022, Việt Nam có 136 dự án đầu tư sang Singapore còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 538 triệu USD. Các dự án tập trung vào các lĩnh vực: Khoa học công nghệ; bán buôn bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy; thông tin truyền thông; công nghiệp chế biến, chế tạo…
Về giao thông vận tải, Singapore là một trong những thị trường hàng không có tầm quan trọng đặc biệt với Việt Nam với dung lượng hành khách đến Việt Nam đứng thứ 6 theo số liệu năm 2019. Hiện nay các hãng hàng không Việt Nam – Singapore đã cơ bản khôi phục chuyến bay thương mại thường lệ chở khách giữa hai nước. Hợp tác trên các lĩnh vực khác như an ninh – quốc phòng, tài chính – ngân hàng, giáo dục – đào tạo, tài nguyên – môi trường, pháp luật – tư pháp giữa hai nước tiếp tục được tăng cường.
Trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, hai bên phối hợp chặt chẽ trong hợp tác phòng, chống dịch. Ngay từ khi dịch bệnh bùng phát, Singapore là một trong những nước ASEAN đầu tiên hỗ trợ trang thiết bị, vật tư y tế cho Việt Nam. Tháng 9/2021, Singapore đã tặng Việt Nam nhiều trang thiết bị y tế quan trọng. Tháng 3/2022, Chính phủ Singapore viện trợ 122.400 liều vaccine cho Việt Nam.
Hiện nay, cộng đồng người Việt tại Singapore có khoảng 13.000 người, trong đó có khoảng 7 nghìn học sinh, sinh viên; hơn 1 nghìn nghiên cứu sinh, trí thức; hơn 2,5 nghìn cô dâu Việt; hơn 2,5 nghìn lao động (khoảng 2.500). Nhìn chung người Việt tại Singapore là cộng đồng trí thức, tuân thủ tốt luật lệ sở tại, hướng về quê hương đất nước.
Cụ thể hóa kết quả hợp tác Việt Nam – Singapore
Đánh giá về mục đích, ý nghĩa chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Singapore Halimah Yacob, Đại sứ Việt Nam tại Singapore Mai Phước Dũng cho biết: Chuyến thăm nhằm làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược đã được hai nước ký kết cách đây hơn 9 năm; đồng thời, cụ thể hóa kết quả hợp tác giữa nước trong thời gian qua.
Đánh giá về triển vọng hợp tác giữa hai nước sau chuyến thăm, Đại sứ Mai Phước Dũng bày tỏ kỳ vọng, trong khuôn khổ chuyến thăm, hai nước sẽ ký kết hiệp định về đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực năng lượng tái tạo do Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng đối với lĩnh vực này, trong khi đó Singapore đang tìm kiếm nguồn cung trong khu vực.
Trong khuôn khổ chuyến thăm, theo chương trình, Tổng thống Singapore Halimah Yacob sẽ đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, dự lễ đón chính thức, hội đàm với Chủ tịch nước và chứng kiến lễ ký kết; chào xã giao Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.
Cùng với đó, Tổng thống Singapore Halimah Yacob sẽ tiếp Bí thư Thành ủy Hà Nội; thăm Khu công nghiệp VSIP1, làm việc với lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh và một số hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Singapore Halimah Yacob sẽ góp phần củng cố tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác nhiều mặt như chính trị-ngoại giao, quốc phòng-an ninh, kinh tế, đầu tư, lao động, công nghệ…; đặc biệt là đưa hợp tác kết nối hai nền kinh tế Việt Nam -Singapore hướng tới tầm cao mới là “kết nối hai nền kinh tế trên nền tảng số”.
|
Nhận lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nguyễn Xuân Phúc
, Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob và Phu quân sẽ thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 16-20/10/2022.
Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN
Đây là chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên của một nguyên thủ nước ngoài tới Việt Nam kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ XIII và là chuyến công du nước ngoài đầu tiên của Tổng thống Singapore kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh hai nước hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược vào năm 2023.
Quan hệ Đối tác chiến lược phát triển tốt đẹp
Trong những năm qua, quan hệ Đối tác Chiến lược
Việt Nam
–
Singapore
phát triển tốt đẹp. Trong bối cảnh COVID-19 diễn biến phức tạp, hai bên vẫn duy trì trao đổi đoàn, thư/điện mừng/thăm hỏi, tiếp xúc cấp cao và các cấp.
Bộ Ngoại giao đã chủ trì thu xếp nhiều cuộc hội đàm trực tuyến giữa lãnh đạo hai bên. Hợp tác kênh Đảng, Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội không ngừng được mở rộng. Hai bên phát huy hiệu quả các cơ chế hợp song phương, trong đó có cơ chế Hội nghị Bộ trưởng về kết nối hai nền kinh tế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, Tham khảo chính trị cấp Thứ trưởng Ngoại giao.
Năm 2022, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 được kiểm soát, nền kinh tế hai nước bước vào giai đoạn phục hồi và tăng trưởng, hai bên trao đổi nhiều đoàn cấp cao và các cấp; trong đó, nổi bật là chuyến thăm cấp Nhà nước đến Singapore của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (từ 24-26/2/2022) với nhiều kết quả thực chất. Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên đã ra Tuyên bố báo chí chung về “Tăng cường quan hệ Đối tác Chiến lược và hợp tác cùng phục hồi”; ký kết 5 văn kiện hợp tác cấp Trung ương về quốc phòng, thương mại, kinh tế số,
sở hữu trí tuệ
, giao lưu nhân dân. Cùng với đó là 28 hợp đồng, bản ghi nhớ, thỏa thuận hợp tác giữa các hiệp hội, địa phương, doanh nghiệp Việt Nam với đối tác Singapore, tổng trị giá trên 11 tỷ USD trong các lĩnh vực thương mại, đổi mới sáng tạo, phát triển khu công nghiệp thông minh, hạ tầng sân bay, logistics, năng lượng tái tạo, xây dựng trường học, môi trường…).
Ngoài ra còn nhiều chuyến thăm cấp cao đem lại hiệu quả đáng kể cho quan hệ hai nước như: Chủ tịch Quốc hội Singapore Tan Chuan-Jin thăm chính thức Việt Nam từ 18-20/5/2022; Phó Thủ tướng Singapore Vương Thụy Kiệt thăm chính thức Việt Nam từ 11-15/9/2022.
Hợp tác giữa hai Quốc hội Việt Nam-Singapore thời gian qua được đẩy mạnh. Chủ tịch Quốc hội hai bên đã tổ chức Hội đàm trực nhằm thảo luận thực chất về hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp. Hai bên đã ký biên bản ghi nhớ về hợp tác giữa hai Quốc hội dịp Chủ tịch Quốc hội Singapore thăm chính thức Việt Nam vào tháng 5/2022.
Bên cạnh hợp tác chính trị với sự tin cậy cao, hợp tác kinh tế tiếp tục được coi là điểm sáng trong quan hệ hai nước. Ngay khi cơ bản kiểm soát được đại dịch COVID-19, từ tháng 3/2022, Việt Nam và Singapore đã sớm dỡ bỏ các hạn chế đi lại với nhau, nối lại đường bay thương mại. Mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước vẫn đạt 8,3 tỷ USD năm 2021; trong đó, xuất khẩu đạt mức 4 tỷ USD, nhập khẩu đạt mức 4,3 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2020. Kim ngạch thương mại tính đến hết tháng 9/2022 đạt 6,9 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ.
Singapore duy trì vị trí nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN vào Việt Nam, đứng thứ 2/139 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam). Tính đến 20/8/2022, các nhà đầu tư Singapore có 2.974 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 69,9 tỷ USD, chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư. Theo lĩnh vực, Singapore đã đầu tư vào 18 ngành, trong đó tập trung chủ yếu vào công nghiệp chế biến, chế tạo; kinh doanh bất động sản; sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa. Theo địa bàn, Singapore có dự án đầu tư tại 50/63 tỉnh, thành của Việt Nam; dẫn đầu là
Thành phố Hồ Chí Minh
với 1.561 dự án,
Hà Nội
đứng hai với 471 dự án, thứ ba là
Bình Dương
với 278 dự án, tiếp theo là
Bắc Ninh
,
Long An
,
Quảng Nam
.
Tính đến cuối năm 2021, các nhà đầu tư Singapore đã tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho 11 Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore (VSIP) ở Việt Nam, với tổng diện tích khoảng 7.517 ha. Các khu công nghiệp có vốn đầu tư của Singapore đều đi vào hoạt động, có tỷ lệ lấp đầy khoảng 83,2%, thu hút được gần 1.000 dự án với hơn 80% là dự án đầu tư nước ngoài; tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 18,1 tỷ USD, tạo việc làm cho gần 300.000 lao động trực tiếp.
Về phía Việt Nam, tính đến tháng 7/2022, Việt Nam có 136 dự án đầu tư sang Singapore còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 538 triệu USD. Các dự án tập trung vào các lĩnh vực: Khoa học công nghệ; bán buôn bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy; thông tin truyền thông; công nghiệp chế biến, chế tạo…
Về giao thông vận tải, Singapore là một trong những thị trường hàng không có tầm quan trọng đặc biệt với Việt Nam với dung lượng hành khách đến Việt Nam đứng thứ 6 theo số liệu năm 2019. Hiện nay các hãng hàng không Việt Nam – Singapore đã cơ bản khôi phục chuyến bay thương mại thường lệ chở khách giữa hai nước. Hợp tác trên các lĩnh vực khác như an ninh – quốc phòng, tài chính – ngân hàng, giáo dục – đào tạo, tài nguyên – môi trường, pháp luật – tư pháp giữa hai nước tiếp tục được tăng cường.
Trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, hai bên phối hợp chặt chẽ trong hợp tác phòng, chống dịch. Ngay từ khi dịch bệnh bùng phát, Singapore là một trong những nước ASEAN đầu tiên hỗ trợ trang thiết bị, vật tư y tế cho Việt Nam. Tháng 9/2021, Singapore đã tặng Việt Nam nhiều trang thiết bị y tế quan trọng. Tháng 3/2022, Chính phủ Singapore viện trợ 122.400 liều vaccine cho Việt Nam.
Hiện nay, cộng đồng người Việt tại Singapore có khoảng 13.000 người, trong đó có khoảng 7 nghìn học sinh, sinh viên; hơn 1 nghìn nghiên cứu sinh, trí thức; hơn 2,5 nghìn cô dâu Việt; hơn 2,5 nghìn lao động (khoảng 2.500). Nhìn chung người Việt tại Singapore là cộng đồng trí thức, tuân thủ tốt luật lệ sở tại, hướng về quê hương đất nước.
Cụ thể hóa kết quả hợp tác Việt Nam – Singapore
Đánh giá về mục đích, ý nghĩa chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Singapore Halimah Yacob, Đại sứ Việt Nam tại Singapore Mai Phước Dũng cho biết: Chuyến thăm nhằm làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược đã được hai nước ký kết cách đây hơn 9 năm; đồng thời, cụ thể hóa kết quả hợp tác giữa nước trong thời gian qua.
Đánh giá về triển vọng hợp tác giữa hai nước sau chuyến thăm, Đại sứ Mai Phước Dũng bày tỏ kỳ vọng, trong khuôn khổ chuyến thăm, hai nước sẽ ký kết hiệp định về đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực năng lượng tái tạo do Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng đối với lĩnh vực này, trong khi đó Singapore đang tìm kiếm nguồn cung trong khu vực.
Trong khuôn khổ chuyến thăm, theo chương trình, Tổng thống Singapore Halimah Yacob sẽ đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, dự lễ đón chính thức, hội đàm với Chủ tịch nước và chứng kiến lễ ký kết; chào xã giao Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.
Cùng với đó, Tổng thống Singapore Halimah Yacob sẽ tiếp Bí thư Thành ủy Hà Nội; thăm Khu công nghiệp VSIP1, làm việc với lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh và một số hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Singapore Halimah Yacob sẽ góp phần củng cố tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác nhiều mặt như chính trị-ngoại giao, quốc phòng-an ninh, kinh tế, đầu tư, lao động, công nghệ…; đặc biệt là đưa hợp tác kết nối hai nền kinh tế Việt Nam -Singapore hướng tới tầm cao mới là “kết nối hai nền kinh tế trên nền tảng số”.
|
Tập du khảo
Triệu dấu chân qua những cửa ô
của Nguyễn Trương Quý chọn vẽ chân dung Hà Nội qua những dấu chân đi về. Cuốn sách quan sát, trong khoảng một trăm năm qua, những đường đi lối lại của của người Hà Nội, những phương tiện họ sử dụng, những chốn ở và đi quen thuộc cả trong đời thường và trong vọng tưởng. Và trong cuộc đi lại mải miết ấy, theo vòng quay lịch sử, không gian và sự vật đổi thay, kéo theo sự đổi thay của tâm tình người Hà Nội.
Chiều 7/10/2022, trong khuôn khổ Hội sách Hà Nội, Nhã Nam đã ra mắt cuốn sách du khảo
Triệu dấu chân qua những cửa ô
của nhà văn Nguyễn Trương Quý. Buổi giới thiệu sách có Tiến sĩ văn học Phạm Xuân Thạch, biên tập viên Nguyễn Hoàng Diệu Thuỷ.
“Tôi bắt đầu mạch những khảo cứu này ở tâm thế kẻ lang thang trên những con đường cũ mới, trong những trang viết, bài thơ hay câu hát về chúng, rồi đến một lúc lan rộng ra những ngã rẽ hay dừng chân ở những khoảng không gian mà tôi ví chúng như quảng trường, ngã tư. Tập khảo cứu này, thực sự là một hành trình được thuật lại”. – Nguyễn Trương Quý.
Triệu dấu chân qua những cửa ô
là cuốn sách đầu tiên vẽ chân dung Hà Nội qua những bước chân đi về. Cuốn sách là một cuộc lãng du chầm chậm theo cả hai chiều không gian – thời gian, hấp dẫn bởi vị sâu lắng ngậm ngùi pha lẫn nét hài hước ý nhị, bởi cho ta nhận thức về việc ta có kết nối gì với quá khứ và vì sao ta ở đây.
Nhà văn Nguyễn Trương Quý chia sẻ: đây cuốn sách thứ 12 anh viết về
Hà Nội
nhưng vẫn không thể tự tin khi nói về nó, bởi viết nhiều và theo thời gian sợ rằng sẽ thiếu đi sự mộng mơ lãng mạn như ngày đầu (cuốn sách đầu tiên về Hà Nội anh viết năm 2004). Thêm nữa là, đời sống và hiện thực Hà Nội cũng đã khác đi nhiều so với thuở ấy, và chúng ta cũng khác đi. Tuy nhiên, anh là người con của phố, ở trong thành phố từ nhỏ, được lang thang qua mọi nơi. Đó là may mắn của một người viết. Anh cũng được đọc những trước tác kinh điển, và nhận ra mọi thay đổi của con người đến nhiều từ việc đi lại. Phương tiện thay đổi cũng như sự dịch chuyển của con người trong tâm tưởng về thời cuộc, không gian sống. Nó là câu chuyện đương đại chứ không cũ. Trong mắt anh, Hà Nội là một đô thị đầy biến ảo trong một khuôn khổ nhất định nào đó.
Khi tìm hiểu những không gian, sự vật, sự kiện, nhân vật trong câu chuyện đi lại này, Nguyễn Trương Qúy luôn đào sâu xuống dưới những mô tả bề mặt, những con số khô khan, để đưa ra những nhận xét, phán đoán sâu sắc, thú vị hoặc gây bất ngờ. Điều ấy làm cho cuốn sách một mặt có sức nặng của khảo cứu, mặt khác không thiếu đi sự duyên dáng, nhịp nhàng, thơ mộng của văn chương.
Tiến sĩ văn học Phạm Xuân Thạch cho rằng, có những thành phố như được ban phước khi được nhiều người viết về, trong đó phải nhắc đến Hà Nội. Nhà văn Nguyễn Trương Quý đã tìm được cách để kể câu chuyện về Hà Nội theo một cách rất riêng. Tên cuốn sách cũng đã thể hiện được điều đó, như cuộc hành trình tìm về một không gian đô thị giàu truyền thống và cũng không ngừng thay đổi để trở nên hiện đại hơn mỗi ngày. Anh đã tìm cách giải thích các ý nghĩa của huyền thoại thay vì tiếp tục tạo nên các huyền thoại cho Hà Nội. Chúng ta gặp sự hoà hợp giữa yếu tố khảo cứu và chất văn chương vô cùng hấp dẫn. Cuốn sách là chân dung về thành phố với mọi dáng vẻ.
Huyền thoại về Hà Nội đã chắt lọc hiện thực để tạo ra những giá trị ý nghĩa khác. Điều này được Nguyễn Trương Quý viết rất cuốn hút trong cuốn sách. Tiêu biểu chính là câu chuyện về năm cửa ô. Vì sao Hà Nội có năm cửa ô? Năm 1945 trở về trước, theo như tư liệu thì Hà Nội có đến 21 cửa ô. Đến cách mạng, qua một số tác phẩm nghệ thuật như bài hát
Tiến về Hà Nội
của
Văn Cao
, hay qua tranh
Bùi Xuân Phái
, Tạ Tỵ… thì Hà Nội được nhắc đến với năm cửa ô như năm cánh sao. Từ đó, năm cửa ô đã trở thành kí ức đẹp, ý niệm đẹp về Hà Nội. Một biểu tượng mới đã được tạo nên từ nghệ thuật, lung linh hơn, màu sắc hơn…
Cũng trong cuốn sách, chúng ta thấy được người Hà Nội những năm 1930 – 1940 cũng khao khát lạc thú, giải phóng bản ngã, cho dù xã hội khi ấy còn nhiều bảo thủ. Hay những câu chuyện về các nghệ sĩ Hà Nội, họ tha hương như thế nào và sẽ thấy Hà Nội đẹp hơn khi họ đi và về. Sự đi qua của họ khiến Hà Nội trở nên khắc khoải hơn trong nghệ thuật.
Tại công viên Lý Thái Tổ, bên bờ Hồ Gươm, rất nhiều bạn đọc yêu những trang viết về Hà Nội của nhà văn Nguyễn Trương Quý đã đến dự buổi ra mắt sách.
Biên tập viên Nguyễn Hoàng Diệu Thuỷ thấy được cuốn sách này phảng phất một nụ cười. Nụ cười đó đến từ việc, sau những khảo cứu công phu, nhà văn được thấy cái sự giao thoa giữa cũ và mới. Đó là cái cười duyên dáng, thú vị của người nhiều trải nghiệm và hiểu biết.
Nguyễn Trương Quý là người làm việc nghiêm túc, say mê, và luôn lựa chọn những hướng đi nhiều thử thách trong nghề viết. Vốn là kiến trúc sư nên anh có cái nhìn sâu về kiến trúc, cũng như không gian đô thị của Hà Nội theo một cách riêng khác. Đọc
Triệu dấu chân qua những cửa ô
chúng ta cũng có những trải nghiệm thú vị với những loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, mĩ thuật và những câu chuyện xung quanh nó.
Trong lời giới thiệu cuốn sách, Nguyễn Trương Quý có viết: … Hà Nội có nhiều cửa ô, tôi chọn biểu tượng này vì lẽ chúng là tên gọi gợi nhớ ngay đến Hà Nội, và cửa ô trong tâm tưởng là những lối nhập thành, tìm hiểu những câu chuyện của đời phố. Trên hành trình ấy, những chuyến tàu xe theo dọc dài lịch sử cận và hiện đại lại chở những nhân vật văn hóa. Mỗi người trong số họ cũng có cuộc hành trình riêng, nhưng đều đi trên một chuyến chuyển dịch lớn của xã hội Việt Nam trong thế kỉ nhiều biến động…” Những chia sẻ này cũng gợi đến bài hát nổi tiếng
Nhớ về Hà Nội
của nhạc sĩ Hoàng Hiệp: Nhớ những con đê thành lối xe, bước chân năm tháng đi về… Cuốn sách sẽ giúp chúng ta chạm sâu hơn vào từng lớp thời gian để hiểu thêm Hà Nội với những gì đang còn và đã mất.
HOÀI PHƯƠNG
|
Travel guide
Millions of footprints through the doors
by Nguyen Truong Quy chose to paint a portrait of Hanoi through the footprints going back and forth. The book observes, over the past hundred years, the paths of Hanoi people, the means they use, and familiar places to stay and go both in everyday life and in fantasy. And in that endless travel, following the cycle of history, spaces and things change, leading to changes in the sentiments of Hanoi people.
On the afternoon of October 7, 2022, within the framework of the Hanoi Book Fair, Nha Nam launched a travel reference book
Millions of footprints through the doors
by writer Nguyen Truong Quy. The book introduction was attended by Doctor of Literature Pham Xuan Thach and editor Nguyen Hoang Dieu Thuy.
“I started these researches with the mind of a wanderer on old and new roads, in the pages, poems or songs about them, then at some point spread out to different turns or stopped at different places. a space that I compare to a square or intersection. This volume of research is truly a narrated journey.” – Nguyen Truong Quy.
Millions of footprints through the doors
is the first book to paint a portrait of Hanoi through its footsteps. The book is a slow travel in both dimensions of space and time, captivating by its profound sadness mixed with subtle humor, because it gives us an awareness of how we are connected to the past. and why are we here?
Writer Nguyen Truong Quy shared: this is the 12th book he has written about
Hanoi
but still can't be confident when talking about it, because I write a lot and over time I'm afraid that I will lack the romantic dreaminess like the first day (he wrote his first book about Hanoi in 2004). In addition, life and reality in Hanoi are much different than they were then, and we are also different. However, he is a child of the street, has lived in the city since he was young, and wandered everywhere. That's a writer's luck. He also read classic works, and realized that many changes in people come from traveling. Means of change as well as people's movement in thinking about times and living spaces. It is a contemporary story, not an old one. In his eyes, Hanoi is a city full of virtual reality within a certain framework.
When studying the spaces, objects, events, and characters in this travel story, Nguyen Truong Quy always digs deep below the surface descriptions and dry numbers to make comments and judgments. insightful, interesting, or surprising. That makes the book, on the one hand, have the weight of research, but on the other hand, it does not lack the grace, rhythm, and poetry of literature.
Doctor of literature Pham Xuan Thach said that there are cities that are blessed when many people write about them, including Hanoi. Writer Nguyen Truong Quy has found a way to tell the story of Hanoi in a very unique way. The name of the book also shows that, like the journey to find an urban space rich in tradition and constantly changing to become more modern every day. He sought to explain the meanings of the legend instead of continuing to create legends for Hanoi. We encounter an extremely attractive harmony between research elements and literary quality. The book is a portrait of the city in all its appearances.
The legend of Hanoi has filtered reality to create other meaningful values. This is written very attractively by Nguyen Truong Quy in the book. A typical example is the story of the five doors. Why does Hanoi have five gates? In 1945 and before, according to documents, Hanoi had 21 gates. To the revolution, through some works of art such as songs
Head to Hanoi
belong to
Van Cao
, or through paintings
Bui Xuan Phai
, Ta Ty... then Hanoi is mentioned with five gates like five stars. Since then, the five doors have become beautiful memories and beautiful ideas about Hanoi. A new symbol has been created from art, more sparkling, more colorful...
Also in the book, we see that Hanoi people in the 1930s and 1940s also yearned for pleasure and self-liberation, even though society at that time was still very conservative. Or stories about Hanoi artists, how they went abroad and found Hanoi more beautiful when they left and returned. Their passing made Hanoi more restless in art.
At Ly Thai To Park, on the banks of Hoan Kiem Lake, many readers who loved the pages about Hanoi by writer Nguyen Truong Quy attended the book launch.
Editor Nguyen Hoang Dieu Thuy saw this book and smiled. That smile comes from the fact that, after meticulous research, the writer saw the intersection between old and new. That is the charming, interesting smile of someone with a lot of experience and understanding.
Nguyen Truong Quy is a serious and passionate worker, and always chooses challenging directions in his writing career. Being an architect, he has a deep insight into architecture, as well as Hanoi's urban space in a unique way. Read
Millions of footprints through the doors
We also have interesting experiences with other forms of art such as music, fine arts and the stories surrounding it.
In the introduction to the book, Nguyen Truong Quy wrote: ... Hanoi has many doorways, I chose this symbol because they are names that immediately remind of Hanoi, and doorways in the mind are ways to enter the city. , learn stories of street life. On that journey, the trains along recent and modern history carry cultural figures. Each of them has their own journey, but they are all on a major transformation of Vietnamese society in a turbulent century..." These shares also remind of the famous song
Remember Hanoi
by musician Hoang Hiep: Remember the dikes that became the driveway, the steps of the years going back and forth... The book will help us touch deeper into each layer of time to better understand Hanoi with what is still and what has been lost.
HOAI PHUONG
|
Trong buổi trò chuyện với các nhà nghiên cứu Việt Nam, GS Oded Galor – tác giả sách “Hành trình nhân loại” – đã chỉ ra những khía cạnh Việt Nam có thể tập trung phát triển.
GS Kinh tế Oded Galor. Ảnh:
PlanetadeLibros
.
Tối 14/10, cuộc đối thoại giữa GS Oded Galor – tác giả sách
Hành trình nhân loại: Nguồn gốc của thịnh vượng và bất bình đẳng
– và TS Vũ Thành Tự Anh – Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, TS Đào Nguyễn Thắng – Viện nghiên cứu Xã hội và Kinh tế, Đại học Osaka, Nhật Bản được phát trên nền tảng mạng xã hội.
Với tư cách là một trong những nhà kinh tế có ảnh hưởng trong lĩnh vực tăng trưởng và phát triển, vị giáo sư đã bàn luận và diễn giải quan điểm của mình về các vấn đề đặt ra trong
Hành trình nhân loại: Nguồn gốc của thịnh vượng và bất bình đẳng
, đồng thời nói thêm về chặng đường phát triển của
Việt Nam
.
“Xuyên suốt quá trình tồn tại của nhân loại, chúng ta sống trong sự đình trệ như trong lý thuyết của Malthus; trong thời gian đó, sự phát triển hợp tự nhiên là gia tăng số lượng chứ không phải sự thịnh vượng”, GS Oded Galor nhận định.
Nhưng rồi, tiến trình phát triển bắt đầu tăng tốc, đòi hỏi việc phát triển công nghệ cần đi đôi với nhu cầu phát triển vốn nhân lực. Từ đó, sự dịch chuyển nhân khẩu học và những bước tiến vào thời kỳ phát triển ổn định dần được hình thành.
Nhưng khi những bước tiến này xảy ra, nó không bắt đầu vào cùng một khoảng thời gian trên khắp thế giới. Một số xã hội đạt được bước tiến này sớm hơn những xã hội khác và từ sau những bước tiến đó, thu nhập bình quân đầu người đã tăng trung bình 14 lần – một bước tiến vượt bậc trong nền kinh tế của toàn thế giới.
Ông lấy ví dụ về khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ là những nơi đã đạt được bước tiến khoảng thế kỷ XVIII-XIX, trong khu khu vực Hạ Sahara ở châu Phi thì có bước tiến vào khoảng cuối thế kỷ XX.
Tại một số quốc gia phát triển hiện nay, thu nhập bình quân đầu người có thể cao gấp 15-20 lần, thậm chí 100 lần so với quốc gia kém phát triển hơn.
“Sự bất bình đẳng kinh tế đang xảy ra ở cấp độ toàn cầu trong vòng 200 năm qua”, GS Galor nói. Ông cho rằng một phần của sự bất bình đẳng toàn cầu ngày nay chủ yếu do sự chênh lệch về thời gian chuyển đổi kinh tế của mỗi quốc gia. Thời gian chuyển đổi kinh tế này liên quan đến những rào cản mà các quốc gia phải đối mặt trong quá trình tích lũy và trong quá trình tiến bộ công nghệ của họ.
Ở một số xã hội, trong suốt quá trình lịch sử, các thể chế và đặc điểm văn hóa đã phát triển theo hướng thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, ở một số xã hội khác thì không. Ông cho rằng những đặc điểm về văn hóa, địa lý và sự đa dạng của yếu tố con người, những thứ được hình thành từ lâu trong quá khứ quyết định thời điểm chuyển đổi của mỗi quốc gia.
Sách
Hành trình nhân loại: Nguồn gốc của thịnh vượng và bất bình đẳng
. Ảnh:
Omega+
Khi nhận được câu hỏi của tiến sĩ kinh tế học Vũ Thành Tự Anh về các cách mà Việt Nam có thể phát triển, GS Oded Galor đã trả lời rằng có 4 yếu tố Việt Nam nên tập trung cải thiện: giáo dục, tỷ lệ sinh, bình đẳng giới và đa dạng xã hội.
Việt Nam nên đầu tư vào giáo dục, sự đầu tư này nên hướng đến một nền giáo dục linh hoạt, một nền giáo dục cho phép người lao động linh hoạt chuyển đổi từ ngành này sang ngành khác, không nhấn mạnh vào đào tạo nghề cứng nhắc mà phải đào tạo nguồn nhân lực nói chung.
Điều này sẽ nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong môi trường công nghệ thay đổi nhanh chóng này. Nhờ đó, người lao động có thể dễ thích nghi hơn để đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp khác nhau và trở nên kiên cường trước một môi trường đầy biến động.
Buổi trò chuyện được phát tối 14/10.
Điểm thứ hai liên quan đến việc duy trì tỷ lệ sinh thấp. “Tôi nhận ra thời gian qua tỷ lệ sinh ở Việt Nam đã giảm một cách đáng kinh ngạc”, GS Oded Galor nói. Tuy nhiên, ông cho rằng một số tiến bộ đạt được về công nghệ vẫn đang bị kìm hãm lại bởi sự gia tăng dân số. Đây lại là một yếu tố quan trọng khác trong quá trình phát triển.
Yếu tố thứ ba cũng là một yếu tố quan trọng không kém, đó là thúc đẩy bình đẳng giới. Bình đẳng giới có hai khía cạnh quan trọng. Đầu tiên là cho phép phụ nữ tham gia lực lượng lao động sẽ nâng cao năng suất một cách tự nhiên và nâng cao tính đa dạng của các ý tưởng đột phá trong lực lượng lao động. Ngoài ra điều này cũng giúp giảm thiểu cơ hội có con, giúp giảm thiểu tỷ lệ sinh nở xuống sâu hơn nữa.
Cuối cùng, ông cho rằng với một xã hội có tính đồng đều cao như Việt Nam, điều quan trọng là thiết kế một chương trình giáo dục thúc đẩy sự đa dạng trong xã hội. Khi không có sự đa dạng và linh hoạt văn hóa, các xã hội sẽ không thể phát triển thịnh vượng trong thời kỳ kinh tế hiện nay. Môi trường đang thay đổi đòi hỏi sự thích nghi ở cả cấp độ cá nhân đến toàn xã hội. Chỉ khi một xã hội cung cấp cho các cá nhân quyền tự do để thách thức hiện trạng, thách thức những lẽ thường, xã hội đó mới có thể thịnh vượng về lâu về dài.
Minh Hùng
|
In a conversation with Vietnamese researchers, Professor Oded Galor - author of the book "Humanity's Journey" - pointed out aspects that Vietnam can focus on developing.
Professor of Economics Oded Galor. Image:
PlanetadeLibros
.
On the evening of October 14, a conversation between Professor Oded Galor - the author of the book
The Human Journey: The Origins of Prosperity and Inequality
– and Dr. Vu Thanh Tu Anh - Director of Fulbright School of Public Policy and Management, Dr. Dao Nguyen Thang - Institute for Social and Economic Research, Osaka University, Japan broadcast on social networking platforms.
As one of the influential economists in the field of growth and development, the professor discussed and explained his views on the issues raised in
The Human Journey: The Origins of Prosperity and Inequality
, and talked more about the development path of
Vietnam
.
“Throughout human existence, we have lived in Malthusian stagnation; During that time, natural development was an increase in quantity, not prosperity," said Professor Oded Galor.
But then, the development process began to accelerate, requiring technological development to go hand in hand with the need to develop human capital. Since then, the demographic shift and steps into a period of stable development have gradually taken shape.
But when these advances happen, they don't start at the same time around the world. Some societies achieved this progress earlier than others, and since then, per capita income has increased an average of 14 times – a remarkable advance in the world's economy.
He gave the example of Western Europe and North America, where progress was made around the 18th and 19th centuries, and in Sub-Saharan Africa, progress was made around the end of the 20th century.
In some developed countries today, per capita income can be 15-20 times, even 100 times higher than in less developed countries.
“Economic inequality has been occurring at the global level for the past 200 years,” Professor Galor said. He believes that part of today's global inequality is mainly due to differences in the timing of each country's economic transition. This time of economic transition is related to the barriers that countries face in their accumulation and in their technological advancement.
In some societies, over the course of history, institutions and cultural characteristics have evolved in ways that promote growth. However, in some other societies it is not. He believes that the characteristics of culture, geography and the diversity of human factors, which were formed long ago in the past, determine the time of transition for each country.
Book
The Human Journey: The Origins of Prosperity and Inequality
. Image:
Omega+
When receiving a question from economist Dr. Vu Thanh Tu Anh about ways that Vietnam can develop, Professor Oded Galor answered that there are 4 factors that Vietnam should focus on improving: education, education rate, etc. fertility, gender equality and social diversity.
Vietnam should invest in education, this investment should be directed towards a flexible education, an education that allows workers to flexibly move from one industry to another, without emphasizing vocational training. rigid but must train human resources in general.
This will improve the quality of human resources in this rapidly changing technological environment. As a result, workers can be more adaptable to meet the needs of different industries and become resilient in a volatile environment.
The talk was broadcast on the evening of October 14.
The second point concerns maintaining a low birth rate. "I realized that recently the birth rate in Vietnam has decreased incredibly," said Professor Oded Galor. However, he said some technological advances are still being held back by population growth. This is another important factor in the development process.
The third factor is also an equally important factor, which is promoting gender equality. Gender equality has two important aspects. The first is that allowing women into the workforce will naturally increase productivity and increase the diversity of groundbreaking ideas in the workforce. In addition, this also helps reduce the chance of having children, helping to reduce the birth rate even further.
Finally, he believes that with a highly uniform society like Vietnam, it is important to design an educational program that promotes diversity in society. Without cultural diversity and flexibility, societies will not be able to prosper in today's economic times. The changing environment requires adaptation at both the individual and societal levels. Only when a society provides individuals with the freedom to challenge the status quo, challenge common sense, can that society prosper in the long run.
Minh Hung
|
Nguyễn Tuân
là nhà văn tài hoa và có sức ảnh hưởng lớn của nền văn học Việt Nam đương đại. Ông cũng là người đầy cá tính với những giai thoại thú vị, được bạn bè nể trọng.
Nhà văn Nguyễn Tuân
Từ lúc
Nguyễn Tuân
còn sống đã có rất nhiều bài viết về con người và tác phẩm của ông. Cuốn sách
Nguyễn Tuân – Chuyện văn chuyện đời
do TS – nhà thơ Phạm Đình Ân sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn, Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành là tác phẩm công phu và giá trị, một lần nữa góp phần tôn vinh cuộc đời và sự nghiệp của tác giả
Vang bóng một thời
.
Sách dày 366 trang với 87 bài viết được chia làm 3 phần, trong đó phần I với gần 30 bài viết về nhà văn Nguyễn Tuân qua hồi ức, góc nhìn của các cây bút tên tuổi nhiều thế hệ trong lẫn ngoài nước.
Cả đời gắn bó với Hà Nội, Nguyễn Tuân sinh ngày 10/7/1910 và mất ngày 28/7/1987. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Marian Tcasov của Liên Xô trong bài viết của mình đã có phát hiện thú vị rằng cuộc đời cụ Nguyễn gắn liền với con số 7. Ông sinh tháng 7, mất tháng 7/1987 và hưởng thọ 77 tuổi.
Là con người lãng tử, thích xê dịch,
Nguyễn Tuân
từng sang Hong Kong, Trung Quốc đóng phim, rồi phiêu du thăm thú Lào, Thái Lan… Về sau, ông còn được mời đi nhiều nước, nhất là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đối với nền văn học Xô Viết, nhà văn Nguyễn Tuân được nhiều tên tuổi lớn cảm phục, yêu mến như Evtusenko, Solokhin, Arkanov, Tchasev…
Khi không quân Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt, Hội Nhà văn Liên Xô đã mời Nguyễn Tuân sang “trú ẩn” vì sợ mất tài năng lớn nhưng ông cảm ơn và từ chối khéo. Ông muốn ở lại “chia lửa” với đồng bào, đất nước mình.
Sách
Nguyễn Tuân – Chuyện văn chuyện đời.
Nguồn:
binhbooks.
Bấy giờ,
Hà Nội
có lệnh sơ tán triệt để nhưng ông vẫn cương quyết ở lại thành phố trong căn hầm dã chiến bên cạnh Đại sứ quán Pháp và tập bút ký vang dội
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi
của ông đã ra đời ngay sau chiến dịch “12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không”.
Cũng trong cuốn sách
Nguyễn Tuân – Chuyện văn chuyện đời
, hình ảnh bậc thầy
Nguyễn Tuân
cao đẹp còn hiện lên từ tấm lòng quý trọng của các đồng nghiệp như: Nguyên Hồng, Lan Khai,
Văn Cao
,
Tô Hoài
, Vũ Bằng, Kim Lân, Nguyễn Xuân Sanh,
Lê Trí Viễn
, Bùi Hiển,
Hoàng Cầm
, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu, Bảo Định Giang, Đào Vũ, Phạm Tường Hạnh, Vũ Quần Phương, Phan Quang, Đoàn Minh Tuấn, Nguyễn Thị Ngọc Trai, Phan Hồng Giang… và của bà Vũ Thị Tuệ, người bạn đời chung thủy của ông qua những kỷ niệm xúc động trong bài
Chồng tôi – Nhà văn Nguyễn Tuân!
Các nhà văn gốc Nam bộ cũng dành nhiều thiện cảm cho cụ Nguyễn. “Nguyễn Tuân là một nhà văn luôn luôn muốn đi đến tận cùng từng tiếng, từng chữ, từng nghĩa của ngôn ngữ Việt Nam. Mọi chuyện động tĩnh của con người, của trời đất đều xúc động đến anh. Tâm hồn anh như sợi dây đàn căng thẳng, gió thoảng qua cũng vang lên thành tiếng!”, nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết.
|
Nguyen Tuan
is a talented and influential writer of contemporary Vietnamese literature. He is also a person full of personality with interesting anecdotes, respected by his friends.
Writer Nguyen Tuan
Since
Nguyen Tuan
While he was still alive, there were many articles written about the man and his works. Book
Nguyen Tuan – Literary stories and life stories
Collected, selected and compiled by Dr. - poet Pham Dinh An, published by the Writers' Association Publishing House, it is an elaborate and valuable work, once again contributing to honoring the author's life and career.
Glowing for a while
.
The book has 366 pages with 87 articles divided into 3 parts, of which part I has nearly 30 articles about writer Nguyen Tuan through the memories and perspectives of famous writers of many generations at home and abroad.
Being attached to Hanoi all his life, Nguyen Tuan was born on July 10, 1910 and died on July 28, 1987. Therefore, it is no coincidence that Soviet writer Marian Tcasov in her article made an interesting discovery that Mr. Nguyen's life was closely associated with the number 7. He was born in July, died in July 1987 and enjoyed 77 years old.
A romantic person who likes to travel,
Nguyen Tuan
He went to Hong Kong and China to film, then traveled to Laos and Thailand... Later, he was invited to many countries, especially the Soviet Union and other socialist countries. Regarding Soviet literature, writer Nguyen Tuan is admired and loved by many big names such as Evtusenko, Solokhin, Arkanov, Tchasev...
When the US air force fiercely attacked the North, the Soviet Union of Writers invited Nguyen Tuan to "take refuge" for fear of losing his great talent, but he thanked him and politely refused. He wanted to stay and "share the fire" with his people and country.
Book
Nguyen Tuan – Life stories.
Source:
binhbooks.
At that time,
Hanoi
There was a complete evacuation order, but he was still determined to stay in the city in a makeshift bunker next to the French Embassy and his notes resounded.
In Hanoi, we fought the Americans well
His work was born right after the campaign "12 days and nights of Dien Bien Phu in the air".
Also in the book
Nguyen Tuan – Life stories
, master image
Nguyen Tuan
Beauty also emerges from the respectful hearts of colleagues such as: Nguyen Hong, Lan Khai,
Van Cao
,
To Hoai
, Vu Bang, Kim Lan, Nguyen Xuan Sanh,
Le Tri Vien
, Bui Hien,
Hoang Cam
, Nguyen Van Bong, Nguyen Quang Sang, Nguyen Minh Chau, Bao Dinh Giang, Dao Vu, Pham Tuong Hanh, Vu Quan Phuong, Phan Quang, Doan Minh Tuan, Nguyen Thi Ngoc Trai, Phan Hong Giang... and Ms. Vu Thi Tue , his faithful life partner through the emotional memories in the article
My husband - Writer Nguyen Tuan!
Writers of Southern origin also have a lot of sympathy for Mr. Nguyen. “Nguyen Tuan is a writer who always wants to get to the bottom of every sound, every word, every meaning of the Vietnamese language. Every movement of people, of heaven and earth touches him. His soul is like a tense string, even the slightest breeze makes a sound!", writer Nguyen Quang Sang wrote.
|
Nhan đề “Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn” của cuốn sách là một câu thơ trong bài “Có một thời như thế” của
Xuân Quỳnh
, gợi nhớ đến những điều có giá trị và vĩnh viễn như những tác phẩm xuất sắc Xuân Quỳnh đã để lại cho nền văn học nước nhà.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh của Xuân Quỳnh (6/10/1942-6/10/2022), cùng với sự kiện Đêm thơ – nhạc – kịch “Hoa cúc xanh” (diễn ra vào 20 giờ ngày 5-6/10/2022), gia đình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ cùng với Nhã Nam cho ra mắt cuốn sách
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
nhằm tưởng nhớ và tri ân nữ thi sĩ tài hoa đã có những đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
Tập di cảo quý giá đã hé lộ những chất liệu cuộc sống đã góp phần làm nên những “cái tình” của nhà thơ. Lật giở từng trang sách, ta bắt gặp một Xuân Quỳnh quá đỗi đời thường và đầy giản dị. Đong đầy ở đây là hình ảnh của người mẹ với tình mẫu tử thiêng liêng.
Những trang nhật ký chi tiết, tỉ mỉ, ghi lại quá trình sinh ra và lớn lên trong những năm đầu đời của con trai đầu lòng Lưu Tuấn Anh, đã thể hiện được tình thương yêu hết lòng và sự hy sinh vô bờ bến của nữ nhà thơ khi nuôi con trong những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt.
Xuân Quỳnh cũng là một người rất chịu khó đi thực tế và sẵn sàng nhập cuộc. Thu xếp tạm ổn việc gia đình, con cái là sửa soạn hành trang để lên đường, không ngại ngần đi đến những vùng đất trọng điểm, đầy khó khăn nguy hiểm để sống, làm việc, trải nghiệm với quân và dân vùng đất lửa
Quảng Trị
.
Phần hai của cuốn sách cung cấp những tư liệu là nhật ký ghi chép những sự việc, ấn tượng đặc biệt, những chân dung tiểu biểu… Được biên soạn bởi Phó Giáo sư Lưu Khánh Thơ (em gái Lưu Quang Vũ), cùng với nhiều tư liệu được cung cấp từ gia đình, Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn lần đầu tiên công bố: một số bức thư Xuân Quỳnh và
Lưu Quang Vũ
gửi cho nhau trong những năm cuối đời, thư Xuân Quỳnh gửi cho con trai út Lưu Quỳnh Thơ (Mí) khi đi công tác tại Liên Xô. Một vài kỷ niệm về những năm đầu yêu nhau nhiều trắc trở của cặp vợ chồng tài hoa cũng được PSG Lưu Khánh Thơ chia sẻ.
Nhan đề “Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn” của cuốn sách là một câu thơ trong bài “Có một thời như thế” của Xuân Quỳnh, gợi nhớ đến những điều có giá trị và vĩnh viễn như những tác phẩm xuất sắc Xuân Quỳnh đã để lại cho nền văn học nước nhà.
“Có một thời vừa mới bước ra
Mùa xuân đã gọi mời trước cửa
Chẳng ngoái lại vết chân trên cỏ
Vườn hoa nào cũng ở phía mình đi.
Đường chẳng xa, núi không mấy cách chia
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
Trang nhật ký xé trăm lần lại viết
Tình yêu nào cũng tha thiết như nhau.
Có một thời ngay cả nỗi đau
Cũng mạnh mẽ ồn ào không giấu nổi
Mơ ước viển vông, niềm vui thơ dại
Tuổi xuân mình tưởng vẫn mãi tươi xanh…”.
Miên Thảo
|
The book's title "In the eyes of the blue sky is forever" is a verse from the poem "There was a time like that" by
Xuan Quynh
, reminiscent of valuable and eternal things like the excellent works Xuan Quynh left behind for the country's literature.
On the occasion of the 80th anniversary of Xuan Quynh's birth (October 6, 1942 - October 6, 2022), along with the event "Blue Chrysanthemum" Poetry - Music - Drama Night (taking place at 8pm on June 5 October 2022), the family Xuan Quynh - Luu Quang Vu together with Nha Nam launched the book
In the depths of your eyes, the blue sky is eternal
to commemorate and pay tribute to the talented female poet who made great contributions to modern Vietnamese literature.
The precious posthumous collection reveals the life materials that contributed to the poet's "loves". Flipping through each page of the book, we encounter a very ordinary and simple Xuan Quynh. Filled here is the image of a mother with sacred motherly love.
The detailed and meticulous diary pages, recording the birth and growing up process in the first years of his first son Luu Tuan Anh's life, demonstrate his wholehearted love and boundless sacrifice. The female poet raised her children during the years of the fierce anti-American war.
Xuan Quynh is also a person who is very hard-working and willing to participate. Temporarily arranging family and children's affairs means preparing your luggage to leave, not hesitating to go to key lands full of difficulties and dangers to live, work, and experience with the soldiers and people of the land of fire.
Quang Tri
.
Part two of the book provides documents such as diaries recording special events, impressions, representative portraits... Compiled by Associate Professor Luu Khanh Tho (Luu Quang Vu's younger sister), along with Many documents were provided by the family. In the eyes of the blue sky is forever published for the first time: some letters from Xuan Quynh and
Luu Quang Vu
sent to each other in the last years of their lives, a letter Xuan Quynh sent to his youngest son Luu Quynh Tho (Mi) while on a business trip to the Soviet Union. Some memories of the talented couple's difficult first years of love were also shared by PSG Luu Khanh Tho.
The book's title "In the eyes of the blue sky is eternity" is a verse from the poem "There was a time like that" by Xuan Quynh, reminiscent of valuable and eternal things like Xuan Quynh's excellent works. Quynh left behind her country's literature.
“There was a time when I just came out
Spring is calling at the door
Don't look back for footprints in the grass
Every flower garden is on my side.
The road is not far, the mountains are not very divided
In the depths of your eyes, the blue sky is eternal
The diary page was torn a hundred times and rewritten
Every love is equally passionate.
There was a time when even the pain
Also strong and noisy, unable to hide it
Unrealistic dreams, childlike joy
I thought my youth would always be green...".
Mien Thao
|
Tọa lạc trên khoảng đất rộng rãi với địa thế cao ráo tại gò Cổ Bồng, xã Vạn Xuân,
huyện Tam Nông
,
tỉnh Phú Thọ
, Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế gồm nhiều hạng mục kiến trúc như: Nghi môn, đền thờ, sân vườn,… Với vị trí cách không xa Đền Hùng, đây hứa hẹn là một địa điểm du lịch tâm linh độc đáo tại Phú Thọ.
Theo lịch sử, vua Lý Nam Đế tên thật là
Lý Bí
, là người có tài văn võ. Từ nhỏ đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, tư chất khác người. Ông được một vị Pháp tổ thiền sư nhận nuôi và cho học. Nhờ có văn võ song toàn, Lý Bí sớm được tôn lên làm thủ lĩnh một vùng. Có thời ông từng làm quan cho nhà Lương, nhưng rất bất bình với bọn quan lại đô hộ tàn ác bóc lột và đàn áp dân chúng, ông đã bỏ quan về chiêu binh, liên kết với nhiều hào kiệt, tù trưởng giỏi khác khởi nghĩa chống lại quan quân đô hộ nhà Lương tại Giao Châu.
Nhân dân địa phương tham quan Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế.
Cuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương. Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tháng Giêng năm 544, Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ,
Đan Phượng
,
Hà Nội
), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Di tích thờ Lý Nam Đế hiện nằm rải rác trên địa bàn các tỉnh:
Thái Bình
,
Thái Nguyên
, Hà Nội,
Vĩnh Phúc
, Phú Thọ… nhưng chỉ duy nhất ở Phú Thọ có đền thờ tại nơi Ngài mất và lăng mộ của nhà vua.
Mới đây, trong buổi lễ trao bằng công nhận Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế là khu di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh, đồng chí Nguyễn Đắc Thủy, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ khẳng định, Khu di tích đền thờ vua lý Nam Đế có ý nghĩa văn hóa, lịch sử quan trọng, tái hiện lại một phần quá khứ hào hùng của cha ông ta. Đây xứng đáng là một điểm du lịch tâm linh cho du khách thập phương khi về với mảnh đất Tam Nông, Phú Thọ.
Một góc Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.
Dù nằm khá gần với Khu di tích lịch sử Đền Hùng, nhưng hiện nay, đền thờ vua Lý Nam Đế chưa được nhiều du khách biết tới mà chỉ có nhân dân địa phương qua lại thăm viếng. Vì thế, trong tương lai, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa đến công tác lập quy hoạch tổng thể khu di tích, tập trung huy động mọi nguồn lực để đầu tư tu bổ, tôn tạo khu di tích trở thành quần thể kiến trúc, văn hóa tâm linh xứng tầm với giá trị lịch sử, văn hóa vốn có. Thêm vào đó, cần đầu tư quảng bá hình ảnh, tạo thành điểm, tuyến du lịch hấp dẫn, thu hút khách du lịch, đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
Theo Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ, địa phương cần tiếp tục nghiên cứu tổng thể các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, sưu tầm các nguồn tư liệu liên quan đến nhân vật lịch sử vua Lý Nam Đế, phục dựng lễ hội truyền thống tại di tích, tiến tới xây dựng hồ sơ khoa học trình các cấp có thẩm quyền xem xét, xếp hạng Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế trở thành di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia, nằm trong hệ thống các di tích tiêu biểu của Việt Nam.
HỒNG UYÊN
|
Located on spacious land with high terrain at Co Bong mound, Van Xuan commune,
Tam Nong district
,
Phu Tho province
, The King Ly Nam De temple relic area includes many architectural items such as: Ritual gate, temple, garden, etc. With a location not far from Hung Temple, this promises to be a unique spiritual tourist destination. in Phu Tho.
According to history, King Ly Nam De's real name was
Ly Bi
, is a talented person in literature and martial arts. From a young age, he proved to be an intelligent boy with unusual qualities. He was adopted by a Dharma Zen master and allowed him to study. Thanks to his excellent martial arts skills, Ly Bi was soon promoted to be the leader of a region. At one time, he was an official for the Luong Dynasty, but was very dissatisfied with the cruel colonial officials who exploited and oppressed the people, so he left the official position to recruit soldiers, and associated with many other great heroes and talented chiefs to start a military campaign. rebellion against the Luong Dynasty's colonial rulers in Giao Chau.
Local people visit the relics of King Ly Nam De's temple.
At the end of 541, Ly Bi officially started an army against the Liang dynasty. With the support of many people, Ly Bi's force grew stronger. In January 544, Ly Bi proclaimed himself Ly Nam De, ascended the throne, named the reign Thien Duc, established a hundred mandarins, named the country Van Xuan, and established the capital in O Dien (now Ha Mo commune,
Dan Phuong
,
Hanoi
), built Van Tho Palace as a meeting place. Relics worshiping Ly Nam De are currently scattered across the provinces:
peaceful
,
Thai Nguyen
, Hanoi,
Vinh Phuc
, Phu Tho... but only in Phu Tho is there a temple at the place where he died and the king's tomb.
Recently, at the certificate awarding ceremony recognizing the King Ly Nam De Temple Relic Area as a provincial-level historical and cultural relic site, comrade Nguyen Dac Thuy, Director of the Department of Culture, Sports and Tourism of Phu province Tho affirmed that the relics of King Ly Nam De's temple have important cultural and historical significance, recreating part of his father's heroic past. This deserves to be a spiritual tourist destination for tourists from all over when returning to the land of Tam Nong, Phu Tho.
A corner of the relics of King Ly Nam De's temple in Tam Nong district, Phu Tho province.
Although located quite close to the Hung Temple Historical Relic Area, currently, the temple worshiping King Ly Nam De is not known to many tourists and is only visited by local people. Therefore, in the future, Party committees and local authorities at all levels need to pay more attention to the overall planning of the relic site, focusing on mobilizing all resources to invest in repairing and embellishing the relic site. The area becomes an architectural and spiritual cultural complex worthy of its inherent historical and cultural value. In addition, it is necessary to invest in promoting the image, creating attractive tourist spots and routes, attracting tourists, contributing to local socio-economic development.
According to the Director of the Department of Culture, Sports and Tourism of Phu Tho province, the locality needs to continue comprehensive research in the fields of history and culture, and collect documents related to the historical figure of King Ly Nam. Emperor, restore traditional festivals at the relic, proceed to build scientific dossiers to submit to competent authorities for consideration and rank the King Ly Nam De temple relic site as a level historical and cultural relic. national, located in the system of typical monuments of Vietnam.
HONG UYEN
|
Khác với Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, ngày 20/10 chỉ tổ chức kỷ niệm dành cho
phụ nữ Việt Nam
trong và ngoài nước.
Ngày 20/10/1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
) chính thức được thành lập.
Ngày 20/10 hàng năm là ngày truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Để đánh dấu sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20/10 hàng năm làm ngày truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Đây cũng là ngày kỷ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là “Ngày Phụ nữ Việt Nam”.
Trải qua nhiều thăng trầm, người phụ nữ Việt đã và đang khẳng định được vị thế trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Chị em ngày càng năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, quan tâm tới lợi ích xã hội và cộng đồng.
Phụ nữ Việt Nam cũng luôn thể hiện vai trò tích cực, đảm đang, đóng góp nhiều công sức cho sự nghiệp ổn định gia đình, phát triển đất nước.
Vào ngày 20/10 hàng năm, nhiều hoạt động chào mừng diễn ra nhằm vinh danh nữ giới. Nhiều cơ quan cũng như công ty tổ chức các lễ trao giải thưởng cho những phụ nữ xuất sắc hoặc đạt thành tích trong một số lĩnh vực.
Ngày 20/10 không phải là ngày Quốc tế Phụ nữ. Ngày Quốc tế Phụ nữ hay còn gọi là Ngày Liên Hợp Quốc vì Nữ quyền và Hòa bình Quốc tế được tổ chức vào ngày 8/3 hàng năm.
Ngày 20/10 chỉ tổ chức kỷ niệm dành cho phụ nữ Việt Nam trong và ngoài nước.
Dịp lễ 20/10 cũng là cơ hội cho nam giới thể hiện tình cảm, gửi gắm yêu thương vào những món quà ý nghĩa dành cho mẹ, vợ, con gái…
Vịnh Nhi
(tổng hợp)
|
Unlike International Women's Day on March 8, October 20 is only celebrated for women
Vietnamese women
domestically and internationally.
On October 20, 1930, the Vietnam Anti-Imperialist Women's Association (now renamed
Vietnam Women's Union
) was officially established.
October 20 every year is a traditional day for Vietnamese women.
To mark this event, the Communist Party of Vietnam decided to choose October 20 every year as a traditional day for Vietnamese women. This is also a day to celebrate and honor Vietnamese women, named "Vietnamese Women's Day".
Through many ups and downs, Vietnamese women have been affirming their position in the cause of building and developing the country. Women are increasingly active, creative, have a cultural lifestyle, are kind-hearted, and care about social and community benefits.
Vietnamese women also always play an active and responsible role, contributing a lot to the cause of family stability and national development.
On October 20 every year, many welcoming activities take place to honor women. Many agencies and companies organize award ceremonies for women who excel or achieve achievements in certain fields.
October 20 is not International Women's Day. International Women's Day, also known as the United Nations Day for Women's Rights and International Peace, is held on March 8 every year.
October 20 is only celebrated for Vietnamese women at home and abroad.
The October 20 holiday is also an opportunity for men to express their feelings and send their love into meaningful gifts for mothers, wives, daughters...
Vinh Nhi
(synthetic)
|
Có một vùng đất nằm ngang trên tuyến đường 279 huyết mạch nối liền 6 tỉnh biên giới phía Bắc từng là căn cứ địa cách mạng thời kỳ chống Pháp – Nhật và ghi danh với khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940. Trong khi các khu vực cửa khẩu thông thương với nước bạn Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, thì thung lũng Bắc Sơn (
huyện Bắc Sơn
,
tỉnh Lạng Sơn
) lại bị chìm khuất đi sau những dãy núi đá vôi trùng điệp, cho đến khi trào lưu du lịch khám phá tìm ra vùng đất nhiều vẻ đẹp tàng ẩn này.
Bình yên thung lũng Bắc Sơn. Ảnh: TTH
Không có được tuyến đường giao thông thuận tiện, cơ sở lưu trú phong phú hay là địa danh du lịch nổi tiếng, Bắc Sơn nằm giữa một thung lũng dãy núi đá vôi bủa vây, các lối ra ngoài đều phải đi qua đèo cao, quanh co. Vùng quê nghèo chầm chậm kết nối với sự phát triển ở bên ngoài, nhưng lại bảo tồn rất tốt căn cốt văn hóa gốc.
Đây vốn là vùng đất định cư lâu đời của người Tày, Nùng, còn nguyên các nếp nhà sàn cũ nhiều đời. Các làng nhà sàn cổ đều quay về hướng Nam, làm theo kiểu dáng cũ là nhà 3 gian, 2 chái có sàn cao và lợp ngói âm dương. Ở Bắc Sơn còn tồn tại một làng nghề truyền thống là nơi sản xuất ngói âm dương lợp nhà ở xã Quỳnh Sơn của huyện Bắc Sơn.
Ngày nay, tưởng như không ai còn dùng ngói âm dương để lợp nhà, nhưng làng nghề Quỳnh Sơn lại có vẻ như được hồi sinh trở lại. Ở vùng Quỳnh Sơn, Long Đống có một mỏ đất sét có thể chế tác thành vật liệu xây dựng, vì vậy, làng mới có nghề làm ngói và nghề truyền thống hóa ra không dễ mai một, mà nó tồn tại mãi ở đó đầy tự hào, khi nào có điều kiện hồi sinh thì làng nghề lại nhộn nhịp làm nghề.
Ngói âm dương Quỳnh Sơn bây giờ không còn đơn giản là vật liệu xây dựng mà dùng cho các công trình nghệ thuật, tái thiết các di tích, hoặc phục vụ cho các gia chủ hoài cổ, quý trọng văn hóa dân tộc mua về xây dựng nhà ở, công trình. Nhu cầu ngày càng tăng thì lò nung càng nhanh nổi lửa. Trong làng, vài gia đình đốt lò chung một mẻ ngói, không khí nhộn nhịp hẳn khi có hoạt động du lịch. Khi Quỳnh Sơn trở thành làng du lịch văn hóa cộng đồng thì càng nhiều ngôi nhà ở của người dân quay trở lại làm ngói cũ, làm nhà kiểu truyền thống. Vì vậy, ngôi làng càng có vẻ xưa cũ, như một bức tranh thủy mặc ở giữa miền sơn cước hoang dã.
Ông Dương Văn Vấn, ở Quỳnh Sơn chia sẻ về ý định biến ngôi nhà ở của mình thành nơi lưu trú cho khách du lịch: “Khách du lịch chỉ thích những gì càng thấm đẫm văn hóa dân tộc bản địa thì càng tốt, nên đánh mất văn hóa dân tộc rồi thì chẳng biết lấy gì mà làm du lịch”. Cộng đồng người Tày ở Bắc Sơn vốn có nếp ăn ở sinh hoạt rất sạch sẽ, khoa học. Họ nấu ăn ngon, nhiều mẹo chế biến thực phẩm rất thú vị và duy trì nhiều phong tục tập quán riêng có. Những món ăn của người Tày ở đây đều khiến du khách nhớ mãi như món bánh giầy ngải cứu, bánh chưng gio, bánh cẩm, lạp xưởng gác bếp, thịt quay lá móc mật…
Bữa cơm ở homestay luôn khiến du khách nhớ mãi vì mùi vị của rượu hương rừng, cất bằng nước suối tinh khiết, đọng cả sương buổi sớm và khí núi trong lành. Món ăn của người Tày chế biến cầu kỳ, dậy mùi thơm và nguyên liệu tươi ngon. Tất cả đều là yếu tố đặc sắc làm nên một làng văn hóa du lịch cộng đồng hấp dẫn.
Thung lũng Bắc Sơn hình lòng chảo và muốn phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh non thanh, thủy tú thì không gì tốt hơn là leo hơn một ngàn bậc đá lên đỉnh núi Nà Lay. Rất nhiều bức ảnh thung lũng Bắc Sơn tuyệt đẹp được các nhiếp ảnh gia chụp từ đỉnh núi này. Các dãy núi xếp xen kẽ, chồng lớp bên nhau và ở giữa là một cánh đồng canh tác lúa nước chia ô như một tấm thảm lụa. Những dòng suối men theo khe đá và các dãy núi đều ẩn chứa những hang động kỳ bí mà ngay cả người dân bản địa cũng chưa hề đặt chân tới, chưa khám phá ra. Chính vì địa hình hiểm trở, núi đá xếp thành lũy như thế mà con đèo Tam Canh đã đi vào lịch sử, nơi có trận đánh vũ trang đầu tiên của du kích Bắc Sơn do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo diễn ra làm quân thù khiếp sợ.
Nơi ghi danh Di tích lịch sử Bắc Sơn tại đèo Tam Canh, Bắc Sơn, Lạng Sơn. Ảnh: TTH
Hiện nay, đỉnh đèo Tam Canh có bia ghi danh di tích lịch sử Bắc Sơn, nơi du khách có thể nghỉ chân, tham quan và tìm hiểu về sự kiện lịch sử này. Vượt qua đèo Tam Canh, men theo dãy núi Bắc Sơn còn có hệ thống các hang động lớn, diện tích rộng mà trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, quân và dân ta đã sử dụng làm nơi cất giấu vũ khí, khí tài, xây dựng doanh trại quân đội và cơ sở y tế, chữa bệnh.
Chính vì
Bắc Sơn
nằm bên cạnh tuyến đường 279 nên nhiều di tích kháng chiến vẫn còn dấu tích đến ngày nay, được đồng bào địa phương gìn giữ, bảo vệ, không có dấu hiệu xâm phạm. Đặc biệt là Bảo tàng lịch sử Bắc Sơn, nơi lưu giữ những kỷ vật quý giá của cuộc khởi nghĩa đầy tự hào của dân tộc. Ngay cả dân du lịch khám phá đến những nơi này cũng có ý thức không quay phim, chụp ảnh những địa điểm đã từng là căn cứ quân sự. Dường như Bắc Sơn luôn hoang dã, bí hiểm và luôn là căn cứ kháng chiến trong trái tim những người dân ở đây.
Và cũng chỉ đến tận bây giờ, khi trào lưu du lịch cộng đồng, tìm về những tuyệt cảnh tự nhiên của Việt Nam, giới trẻ mới biết đến Bắc Sơn và để ý đến cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng dưới chân đèo Tam Canh. Một vài người dân bắt đầu xây dựng các cơ sở lưu trú mới, tu bổ, cải tạo vườn tược, nhà ở để làm làng văn hóa du lịch cộng đồng. Một vài người dùng đất nông nghiệp để trồng hoa, hình thành các vườn hoa để khách du lịch đến chơi, chụp ảnh…
Còn lại, Bắc Sơn vẫn dựa vào những cảnh đẹp có sẵn, núi đá hang động và thác nước – cảnh vật đặc trưng của miền sơn cước, ngoài ra, có các làng nghề cổ, các bản làng người Tày với đặc trưng canh tác lúa nước và ở nhà sàn. Bắc Sơn nhỏ bé, dung dị và hoang dã lắm, nhưng lại có sức hút và tiềm năng du lịch không nhỏ.
Hải Ninh
|
There is a horizontal area of land on arterial route 279 connecting the 6 northern border provinces that was once a revolutionary base during the anti-French - Japanese period and registered with the Bac Son uprising in 1940. While the border areas Trade with China has developed strongly, and the Bac Son valley (
Bac Son district
,
Lang Son province
) was hidden behind the rolling limestone mountains, until the tourism trend discovered this land of hidden beauty.
Peaceful Bac Son valley. Photo: TTH
Without convenient transportation routes, abundant accommodation facilities or a famous tourist destination, Bac Son is located in the middle of a valley surrounded by limestone mountains, all exits must go through high passes, winding. The poor countryside slowly connects with outside development, but preserves its original cultural core very well.
This was originally a land of long-standing settlements of the Tay and Nung people, with many generations of old stilt houses intact. The ancient stilt house villages all face south, following the old style of 3-compartment, 2-wing houses with high floors and yin-yang tile roofs. In Bac Son, there still exists a traditional craft village that produces yin-yang roofing tiles in Quynh Son commune of Bac Son district.
Nowadays, it seems like no one uses yin and yang tiles to roof their houses, but Quynh Son craft village seems to be revived again. In the Quynh Son and Long Dong areas, there is a clay mine that can be processed into construction materials. Therefore, the village has a new profession of tile making and the traditional profession does not easily disappear, but it exists there forever. Proudly, when there are conditions for revival, the craft village will be bustling with work again.
Quynh Son yin and yang tiles are no longer simply construction materials but are used for works of art, reconstruction of monuments, or serving nostalgic homeowners who appreciate national culture to buy and build. Build houses and buildings. As demand increases, the kiln burns faster. In the village, several families burn kilns with the same batch of tiles. The atmosphere is bustling with tourism activities. When Quynh Son became a community cultural tourism village, more and more people's houses returned to the old tile and traditional style houses. Therefore, the village seems even more ancient, like a watercolor painting in the middle of a wild mountainous region.
Mr. Duong Van Van, in Quynh Son, shared about his intention to turn his house into a place to stay for tourists: "Tourists only like things that are as imbued with the indigenous culture as possible, so Once we lose our national culture, we don't know what to do with tourism." The Tay community in Bac Son has a very clean and scientific lifestyle. They cook deliciously, have many interesting food preparation tips and maintain many unique customs and traditions. The dishes of the Tay people here always make visitors remember such as wormwood cake, chung gio cake, cam cake, kitchen sausage, roasted meat with hook honey leaves...
Meals at the homestay always make visitors remember forever because of the taste of forest-flavored wine, distilled with pure spring water, condensed with morning dew and fresh mountain air. Tay people's dishes are meticulously prepared, fragrant and have fresh ingredients. All are unique elements that make an attractive community tourism cultural village.
Bac Son Valley is shaped like a basin and if you want to see a panoramic view of the mountains and water, there is nothing better than climbing more than a thousand stone steps to the top of Na Lay Mountain. Many beautiful photos of Bac Son valley were taken by photographers from the top of this mountain. The mountain ranges are arranged alternately, overlapping each other, and in the middle is a paddy rice field divided into squares like a silk carpet. The streams along the rocks and the mountains all contain mysterious caves that even indigenous people have never set foot on or discovered. Because of the rugged terrain and rocky mountains lined with ramparts like that, Tam Canh Pass has gone down in history, where the first armed battle of Bac Son guerrillas led by the Communist Party of Vietnam took place. terrified enemy.
Place to register Bac Son Historical Relics at Tam Canh Pass, Bac Son, Lang Son. Photo: TTH
Currently, the top of Tam Canh Pass has a stele registering the Bac Son historical site, where visitors can rest, visit and learn about this historical event. Crossing Tam Canh Pass, along the Bac Son mountain range, there is also a system of large caves with large areas that during the two long resistance wars, our army and people used as a place to hide weapons and equipment. Build military barracks and medical and treatment facilities.
Because
Bac Son
Located next to route 279, many resistance relics still remain today, preserved and protected by local people, with no signs of violation. Especially the Bac Son Historical Museum, which preserves precious memorabilia of the nation's proud uprising. Even tourists exploring these places are conscious of not filming or taking photos of places that were once military bases. It seems that Bac Son is always wild, mysterious and always a resistance base in the hearts of the people here.
And only now, with the trend of community tourism, looking for the natural wonders of Vietnam, have young people learned about Bac Son and paid attention to the Tay and Nung ethnic communities at the foot of Tam Pass. Soup. Some people began to build new accommodation facilities, renovate and renovate gardens and houses to become community cultural tourism villages. Some people use agricultural land to grow flowers, form flower gardens for tourists to visit, take pictures...
For the rest, Bac Son still relies on the existing beautiful scenery, rocky mountains, caves and waterfalls - typical landscapes of the mountainous region. In addition, there are ancient craft villages and Tay ethnic villages with farming characteristics. wet rice and living in stilt houses. Bac Son is small, simple and wild, but has great attraction and tourism potential.
Hai Ninh
|
Bắc Giang
là một tỉnh miền núi, có diện tích tự nhiên 3.822km2, gồm 9 huyện và 01 thành phố, dân số trên 1,8 triệu người, gồm 26 dân tộc, trong đó các dân tộc chính là: Kinh, Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu, Dao, Hoa… Mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán, ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực riêng biệt, với bản sắc và truyền thống văn hoá khác nhau. Tuy nhiên, đồng bào các dân tộc sống xen canh, xen cư, ít có những bản làng chỉ có một dân tộc sống độc lập như trước. Chính yếu tố này đã tạo nên Bắc Giang có một nền văn hóa đan xen vừa phong phú vừa đa dạng.
Nghệ thuật thư pháp Thổ Hà.
Nhìn lại tiến trình lịch sử cho thấy, con người cư trú ở Bắc Giang từ rất sớm, các công cụ bằng đá thời đại đồ đá cũ cách ngày nay chừng 2 vạn năm được tìm thấy ở Bắc Giang. Điều đó chứng tỏ Bắc Giang là một trong những điểm tụ cư sớm của loài người. Trải qua các thời đại, cộng đồng dân cư Bắc Giang đã tụ họp thành các làng xã và ổn định cuộc sống đến ngày nay. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, Bắc Giang từng được coi là “phên dậu”, là một trong “tứ trấn” trọng yếu của đất nước. Chính điều này đã tạo cho người dân Bắc Giang bản lĩnh kiên cường, anh dũng trong các cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, tham gia vào các cuộc chiến tranh vệ quốc đánh đuổi kẻ thù dân tộc, như: Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Pháp, Nhật, Mỹ… giành lại nền độc lập tự do cho dân tộc.
Bên cạnh truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm; Bắc Giang còn có truyền thống hiếu học và khoa cử; truyền thống đoàn kết thượng võ…Những truyền thống này bắt nguồn từ tình yêu nước, yêu quê hương và tinh thần ấy được thể hiện qua các di vật: Trống đồng, cung nỏ, đao, kiếm; qua các bức chạm ở đình, chùa, đền, miếu,…, qua các truyền tích, các lò võ…. Ngoài ra, Bắc Giang cũng nổi tiếng với những di tích lịch sử gắn với các lễ hội văn hóa, tín ngưỡng dân gian. Theo số liệu thống kê năm 2007, Bắc Giang hiện có trên 2.237 di tích, các di tích đa dạng các loại hình (đền, nghè, đình, chùa, miếu, lăng mộ, nhà thờ, từ chỉ, từ vũ, thành lũy, địa điểm lịch sử), với lối kiến trúc độc đáo, cùng với các pho tượng, các di vật thể hiện những dấu ấn đặc sắc về kiến trúc, nghệ thuật, hội họa và điêu khắc của người Bắc Giang được ghi dấu qua từng thời kỳ lịch sử. Mỗi di tích đều mang dấu ấn của một thời kỳ lịch sử. Đây cũng là một bộ phận quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc. Cũng chính bởi số lượng di tích dày đặc và phong phú, Bắc Giang đã trở thành vùng đất văn vật, vùng đất của văn hóa dân gian, vùng đất của hội hè… Trong số trên 2237 di tích ấy, đã có 736 di tích và cụm di tích đã được Nhà nước xếp hạng, trong đó có 05 di tích quốc gia đặc biệt (bao gồm 34 di tích đơn lẻ), 94 di tích quốc gia, 608 di tích cấp tỉnh.
Vật cầu bùn làng Vân.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 779 lễ hội, chủ yếu là lễ hội truyền thống. Lễ hội của Bắc Giang phổ biến ở hầu khắp 10 huyện, thành phố trong tỉnh. Phần lớn lễ hội có tính chất và quy mô hội làng, nhiều hội mang tầm cỡ của hội vùng, liên vùng. Nhiều lễ hội được tổ chức có quy mô lớn, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh tham dự như: Lễ hội Xương Giang (
thành phố Bắc Giang
); Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (
huyện Yên Dũng
); Lễ hội Tây Yên Tử (
huyện Sơn Động
); Lễ hội Đình Vồng (
huyện Tân Yên
); lễ hội Đền Suối Mỡ (
huyện Lục Nam
); Lễ hội Thổ Hà, Lễ hội chùa Bổ Đà (
huyện Việt Yên
); Lễ hội Yên Thế (
huyện Yên Thế
); Lễ hội Y Sơn (
huyện Hiệp Hòa
); Lễ hội Tiên Lục (
huyện Lạng Giang
)… Điều này đã góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, làm phong phú và đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
Ở Bắc Giang, lễ hội thường được diễn ra vào hai mùa quan trọng nhất của một chu kỳ sản xuất nông nghiệp còn gọi là dịp Xuân-Thu nhị kỳ (đầu mùa khi gieo cấy và cuối mùa khi thu hoạch) phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của những cư dân trồng lúa nước. Lễ hội ở Bắc Giang là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, ra đời và gắn bó với cuộc sống của con người, trở thành một môi trường văn hóa vừa gần gũi, vừa thiêng liêng; nơi bảo lưu, nuôi dưỡng và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của con người, của cộng đồng làng xã và của dân tộc. Trong các lễ hội còn lưu giữ nhiều nét đặc trưng văn hoá cộng đồng như các trò chơi dân gian và những làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc khác nhau bao gồm: Quan họ, ca trù, chèo, then, sli, lượn, soong hao.Dù ở tầm cỡ nào, lễ hội ở Bắc Giang cũng đem đến cho người dân niềm tin và niềm vui sống.
Bắc Giang còn có những làng nghề truyền thống lâu đời như: Gốm Thổ Hà, rượu Làng Vân, mây tre đan Tăng Tiến (huyện Việt Yên); bánh Đa Kế (thành phố Bắc Giang), rèn sắt Đức Thắng, Ninh Khánh… Những mặt hàng thủ công của Bắc Giang rất nổi tiếng, không chỉ cung cấp cho nhân dân trong vùng mà còn có mặt ở nhiều nơi trong cả nước. Văn hóa ẩm thực của Bắc Giang đã đi vào ngạn ngữ dân gian như: Bánh đa làng Kế, chả chó làng Dền, cải Tiếu Mai, bún Đa Mai, rượu Vân Hà… Ngày lễ, ngày hội, ngày tết còn có nhiều món ăn truyền thống: Bánh chưng, bánh mật, bánh dày, khâu nhục, gỏi cá… Những món ăn ấy mang đặc trưng rõ rệt của từng dân tộc. Văn hóa dân gian của Bắc Giang cũng rất phong phú, đa dạng. Loại hình văn hóa này được thể hiện trong các tập tục, lễ nghi tốt đẹp, trong các môn thể thao truyền thống; các trò chơi dân gian; trong văn hóa ẩm thực. Đó là các tập tục gọi gạo ở Phúc Lễ, thi nói khoác ở Hòa Làng, nói tức ở Đông Loan, thi dệt vải ở Song Khê thi làm bún ở Đa Mai; các lễ trình nghề ở Thắng, Thổ Hà; tục cướp cầu nước, cướp cầu gỗ ở các làng xã; tục thi cỗ, thi kéo lửa nấu cơm; đặc biệt là tục cướp chạ, kết giao, kết nghĩa giữa các làng với nhau… Đó là những nét đẹp cổ truyền có các làng xã trong tỉnh rất cần được quan tâm khôi phục, bảo tồn và phát triển.
Trong những năm gần đây, công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh Bắc Giang được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm. Ngay sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 05/02/2015 về việc “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội”, Tỉnh Bắc Giang đã xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tiễn của ngành, địa phương, đơn vị; các cơ quan chuyên môn chủ động tham mưu xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo tăng cường công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh; quan tâm bảo tồn di sản văn hoá, khôi phục các nghi lễ, trò chơi dân gian đặc sắc, độc đáo trong các lễ hội truyền thống. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 41-CT/TW gắn với thực hiện các Chỉ thị, Kết luận, nghị định, văn bản quản lý nhà nước về lễ hội của Trung ương, của tỉnh như: Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội”; Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 20/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh công tác quản lý, tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm; Quyết định số 74/2013/QĐ-UBND ngày 15/3/2013 của UBND tỉnh ban hành Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và một số lễ nghi, sinh hoạt cộng đồng khác trên địa bàn tỉnh Bắc Giang…; gắn với Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc tại các lễ hội gắn với phát triển kinh tế, du lịch địa phương là một trong những nội dung quan trọng được cấp ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh trú trọng. Hằng năm, Sở VHTTDL lập hồ sơ di sản văn hóa tiêu biểu đề nghị Bộ VHTTDL đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có 07 lễ hội tiêu biểu đã được đưa vào danh mục, gồm: Lễ hội Thổ Hà (huyện Việt Yên), Lễ hội Yên Thế; Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng); Lễ hội Đình Vồng (huyện Tân Yên); Lễ hội Y Sơn (huyện Hiệp Hòa); Lễ hội Đền Suối Mỡ (huyện Lục Nam); Lễ hội chùa Bổ Đà (huyện Việt Yên). Đã thực hiện 07 chương trình về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể: Bảo tồn lễ hội bơi chải làng Mai, xã Mai Đình; lễ hội Y Sơn (Hiệp Hoà); lễ hội Tòng Lệnh, lễ hội Đền Suối Mỡ (Lục Nam); lễ hội bơi chải An Châu (Sơn Động); lễ hội Đình Vồng (Tân Yên); lễ hội Từ Hả (xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn). Việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo việc quản lý và tổ chức lễ hội theo đúng quy định của pháp luật, thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; đồng thời phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần lành mạnh của Nhân dân./.
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Giang
|
Bắc Giang
là một tỉnh miền núi, có diện tích tự nhiên 3.822km2, gồm 9 huyện và 01 thành phố, dân số trên 1,8 triệu người, gồm 26 dân tộc, trong đó các dân tộc chính là: Kinh, Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu, Dao, Hoa… Mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán, ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực riêng biệt, với bản sắc và truyền thống văn hoá khác nhau. Tuy nhiên, đồng bào các dân tộc sống xen canh, xen cư, ít có những bản làng chỉ có một dân tộc sống độc lập như trước. Chính yếu tố này đã tạo nên Bắc Giang có một nền văn hóa đan xen vừa phong phú vừa đa dạng.
Nghệ thuật thư pháp Thổ Hà.
Nhìn lại tiến trình lịch sử cho thấy, con người cư trú ở Bắc Giang từ rất sớm, các công cụ bằng đá thời đại đồ đá cũ cách ngày nay chừng 2 vạn năm được tìm thấy ở Bắc Giang. Điều đó chứng tỏ Bắc Giang là một trong những điểm tụ cư sớm của loài người. Trải qua các thời đại, cộng đồng dân cư Bắc Giang đã tụ họp thành các làng xã và ổn định cuộc sống đến ngày nay. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, Bắc Giang từng được coi là “phên dậu”, là một trong “tứ trấn” trọng yếu của đất nước. Chính điều này đã tạo cho người dân Bắc Giang bản lĩnh kiên cường, anh dũng trong các cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, tham gia vào các cuộc chiến tranh vệ quốc đánh đuổi kẻ thù dân tộc, như: Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Pháp, Nhật, Mỹ… giành lại nền độc lập tự do cho dân tộc.
Bên cạnh truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm; Bắc Giang còn có truyền thống hiếu học và khoa cử; truyền thống đoàn kết thượng võ…Những truyền thống này bắt nguồn từ tình yêu nước, yêu quê hương và tinh thần ấy được thể hiện qua các di vật: Trống đồng, cung nỏ, đao, kiếm; qua các bức chạm ở đình, chùa, đền, miếu,…, qua các truyền tích, các lò võ…. Ngoài ra, Bắc Giang cũng nổi tiếng với những di tích lịch sử gắn với các lễ hội văn hóa, tín ngưỡng dân gian. Theo số liệu thống kê năm 2007, Bắc Giang hiện có trên 2.237 di tích, các di tích đa dạng các loại hình (đền, nghè, đình, chùa, miếu, lăng mộ, nhà thờ, từ chỉ, từ vũ, thành lũy, địa điểm lịch sử), với lối kiến trúc độc đáo, cùng với các pho tượng, các di vật thể hiện những dấu ấn đặc sắc về kiến trúc, nghệ thuật, hội họa và điêu khắc của người Bắc Giang được ghi dấu qua từng thời kỳ lịch sử. Mỗi di tích đều mang dấu ấn của một thời kỳ lịch sử. Đây cũng là một bộ phận quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc. Cũng chính bởi số lượng di tích dày đặc và phong phú, Bắc Giang đã trở thành vùng đất văn vật, vùng đất của văn hóa dân gian, vùng đất của hội hè… Trong số trên 2237 di tích ấy, đã có 736 di tích và cụm di tích đã được Nhà nước xếp hạng, trong đó có 05 di tích quốc gia đặc biệt (bao gồm 34 di tích đơn lẻ), 94 di tích quốc gia, 608 di tích cấp tỉnh.
Vật cầu bùn làng Vân.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 779 lễ hội, chủ yếu là lễ hội truyền thống. Lễ hội của Bắc Giang phổ biến ở hầu khắp 10 huyện, thành phố trong tỉnh. Phần lớn lễ hội có tính chất và quy mô hội làng, nhiều hội mang tầm cỡ của hội vùng, liên vùng. Nhiều lễ hội được tổ chức có quy mô lớn, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh tham dự như: Lễ hội Xương Giang (
thành phố Bắc Giang
); Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (
huyện Yên Dũng
); Lễ hội Tây Yên Tử (
huyện Sơn Động
); Lễ hội Đình Vồng (
huyện Tân Yên
); lễ hội Đền Suối Mỡ (
huyện Lục Nam
); Lễ hội Thổ Hà, Lễ hội chùa Bổ Đà (
huyện Việt Yên
); Lễ hội Yên Thế (
huyện Yên Thế
); Lễ hội Y Sơn (
huyện Hiệp Hòa
); Lễ hội Tiên Lục (
huyện Lạng Giang
)… Điều này đã góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, làm phong phú và đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
Ở Bắc Giang, lễ hội thường được diễn ra vào hai mùa quan trọng nhất của một chu kỳ sản xuất nông nghiệp còn gọi là dịp Xuân-Thu nhị kỳ (đầu mùa khi gieo cấy và cuối mùa khi thu hoạch) phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của những cư dân trồng lúa nước. Lễ hội ở Bắc Giang là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, ra đời và gắn bó với cuộc sống của con người, trở thành một môi trường văn hóa vừa gần gũi, vừa thiêng liêng; nơi bảo lưu, nuôi dưỡng và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống của con người, của cộng đồng làng xã và của dân tộc. Trong các lễ hội còn lưu giữ nhiều nét đặc trưng văn hoá cộng đồng như các trò chơi dân gian và những làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc khác nhau bao gồm: Quan họ, ca trù, chèo, then, sli, lượn, soong hao.Dù ở tầm cỡ nào, lễ hội ở Bắc Giang cũng đem đến cho người dân niềm tin và niềm vui sống.
Bắc Giang còn có những làng nghề truyền thống lâu đời như: Gốm Thổ Hà, rượu Làng Vân, mây tre đan Tăng Tiến (huyện Việt Yên); bánh Đa Kế (thành phố Bắc Giang), rèn sắt Đức Thắng, Ninh Khánh… Những mặt hàng thủ công của Bắc Giang rất nổi tiếng, không chỉ cung cấp cho nhân dân trong vùng mà còn có mặt ở nhiều nơi trong cả nước. Văn hóa ẩm thực của Bắc Giang đã đi vào ngạn ngữ dân gian như: Bánh đa làng Kế, chả chó làng Dền, cải Tiếu Mai, bún Đa Mai, rượu Vân Hà… Ngày lễ, ngày hội, ngày tết còn có nhiều món ăn truyền thống: Bánh chưng, bánh mật, bánh dày, khâu nhục, gỏi cá… Những món ăn ấy mang đặc trưng rõ rệt của từng dân tộc. Văn hóa dân gian của Bắc Giang cũng rất phong phú, đa dạng. Loại hình văn hóa này được thể hiện trong các tập tục, lễ nghi tốt đẹp, trong các môn thể thao truyền thống; các trò chơi dân gian; trong văn hóa ẩm thực. Đó là các tập tục gọi gạo ở Phúc Lễ, thi nói khoác ở Hòa Làng, nói tức ở Đông Loan, thi dệt vải ở Song Khê thi làm bún ở Đa Mai; các lễ trình nghề ở Thắng, Thổ Hà; tục cướp cầu nước, cướp cầu gỗ ở các làng xã; tục thi cỗ, thi kéo lửa nấu cơm; đặc biệt là tục cướp chạ, kết giao, kết nghĩa giữa các làng với nhau… Đó là những nét đẹp cổ truyền có các làng xã trong tỉnh rất cần được quan tâm khôi phục, bảo tồn và phát triển.
Trong những năm gần đây, công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh Bắc Giang được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm. Ngay sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 05/02/2015 về việc “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội”, Tỉnh Bắc Giang đã xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tiễn của ngành, địa phương, đơn vị; các cơ quan chuyên môn chủ động tham mưu xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo tăng cường công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh; quan tâm bảo tồn di sản văn hoá, khôi phục các nghi lễ, trò chơi dân gian đặc sắc, độc đáo trong các lễ hội truyền thống. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 41-CT/TW gắn với thực hiện các Chỉ thị, Kết luận, nghị định, văn bản quản lý nhà nước về lễ hội của Trung ương, của tỉnh như: Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội”; Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 20/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh công tác quản lý, tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm; Quyết định số 74/2013/QĐ-UBND ngày 15/3/2013 của UBND tỉnh ban hành Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và một số lễ nghi, sinh hoạt cộng đồng khác trên địa bàn tỉnh Bắc Giang…; gắn với Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc tại các lễ hội gắn với phát triển kinh tế, du lịch địa phương là một trong những nội dung quan trọng được cấp ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh trú trọng. Hằng năm, Sở VHTTDL lập hồ sơ di sản văn hóa tiêu biểu đề nghị Bộ VHTTDL đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có 07 lễ hội tiêu biểu đã được đưa vào danh mục, gồm: Lễ hội Thổ Hà (huyện Việt Yên), Lễ hội Yên Thế; Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng); Lễ hội Đình Vồng (huyện Tân Yên); Lễ hội Y Sơn (huyện Hiệp Hòa); Lễ hội Đền Suối Mỡ (huyện Lục Nam); Lễ hội chùa Bổ Đà (huyện Việt Yên). Đã thực hiện 07 chương trình về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể: Bảo tồn lễ hội bơi chải làng Mai, xã Mai Đình; lễ hội Y Sơn (Hiệp Hoà); lễ hội Tòng Lệnh, lễ hội Đền Suối Mỡ (Lục Nam); lễ hội bơi chải An Châu (Sơn Động); lễ hội Đình Vồng (Tân Yên); lễ hội Từ Hả (xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn). Việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo việc quản lý và tổ chức lễ hội theo đúng quy định của pháp luật, thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; đồng thời phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần lành mạnh của Nhân dân./.
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Giang
|
Huế
đã hấp dẫn những người bạn quốc tế bởi vẻ êm đềm, trầm lắng của thành phố bên dòng
sông Hương
, bởi con người dễ thương, thân thiện và bởi những nét văn hóa đặc sắc đậm chất cổ kính.
Check-in tại cổng Hòa Bình.
Hấp dẫn bởi văn hóa Huế
Vào những ngày giao mùa, tôi có dịp theo chân đoàn sinh viên đến từ Trường đại học Seika (Kyoto,
Nhật Bản
) trong chuyến giao lưu giữa Trường đại học Seika và Khoa Kiến trúc, Trường đại học Khoa học, Đại học Huế. Dịp này, các bạn sinh viên đến từ nước Nhật đã có dịp trải nghiệm ẩm thực, văn hóa của mảnh đất thần kinh.
Buổi sáng đầu tiên ở Huế, những người bạn đến từ phương xa đặt chân ghé thăm nhà vườn An Hiên. Lối vào nhà vườn là một cổng vòm nhỏ được xây dựng bằng gạch vôi vữa. Dọc theo lối đi là hai dãy cây mận trắng đan tầng vào nhau, tỏa bóng mát cả một vùng. Bên trái là hồ nước hình chữ nhật được bao phủ hoàn toàn bởi hoa súng và hoa sen. Những người bạn Nhật không khỏi trầm trồ, thích thú trước khung cảnh nên thơ, yên bình và cũng không kém phần cổ kính của nhà vườn với những họa tiết, hoa văn được chạm khắc tinh tế. Vốn là một sinh viên chuyên ngành mỹ thuật, Sana Koyama tỏ ra khá am hiểu về kiến trúc nhà vườn.
“Tôi đã tìm hiểu và biết rằng nhà vườn là một loại hình kiến trúc đặc trưng của xứ Huế, nó vừa có dáng vẻ quý tộc lại vừa có màu sắc dân gian truyền thống. Tuy đã xem rất nhiều hình ảnh trên mạng internet nhưng tôi vẫn cảm thấy rất thích thú và ấn tượng bởi kiến trúc nhà vườn Huế”, Sana chia sẻ. Cô liên tục thốt lên “tuyệt quá” bằng tiếng Nhật.
Trải nghiệm chèo sup tại phá Tam Giang.
Buổi chiều, các bạn được trải nghiệm du thuyền, chèo sup, chơi những trò chơi team building cũng như thưởng thức ẩm thực tại làng bích họa Ngư Mỹ Thạnh và đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Sự thân thiện, hòa đồng của các bạn sinh viên Việt Nam khiến Misaki và các bạn người Nhật vơi bớt đi cảm giác bỡ ngỡ. Mặc dù có những bất đồng về ngôn ngữ khi không phải ai cũng nói tốt tiếng Anh, nhưng bằng ngôn ngữ cơ thể cùng trợ giúp của “chị Google”, nhóm sinh viên của hai trường vẫn giao lưu một cách rất thoải mái. “Tôi rất ấn tượng về ẩm thực Huế. Nước mắm của các bạn rất ngon, mặc dù người Nhật chúng tôi không ăn cay như người Huế, nhưng hương vị đậm đà ấy rất thích hợp với những món hải sản, đặc biệt là mực”, Tatsuya Imizu, nam sinh viên của Trường đại học Seika cho biết.
Sau ngày trải nghiệm đầu tiên, các bạn sinh viên từ hai trường được chia thành những nhóm nhỏ để thực hiện khảo sát, tìm hiểu và lên ý tưởng phát triển tuyến phố đi bộ Hoàng thành trong vòng ba ngày. Các bạn sinh viên Nhật Bản đã có dịp tham quan phố đi bộ Hoàng thành về đêm cũng như được vào thăm Đại Nội. Lần đầu được đến Đại Nội, Sana choáng ngợp bởi vẻ đẹp tráng lệ và nét kiến trúc độc đáo của nơi đây. Với kiến trúc “nhà kép”, nghĩa là nhà nối liền nhà, mái nối liền mái, sử dụng gỗ lim để xây dựng, mái điện, cột điện, tường… đều được điêu khắc hình rồng uốn lượn, điện Thái Hòa hiện lên với vẻ uy nghiêm, là nơi diễn ra các buổi thượng triều giữa vua và triều thần. Và không thể không nhắc đến cung Trường Sanh, cung Diên Thọ hay vườn Cơ Hạ và các kiến trúc khác.
Ban ngày mang nét đẹp cổ kính, còn khi màn đêm buông xuống, Đại Nội hiện lên với vẻ lung linh, huyền ảo khiến Sana thích thú vô cùng. Cô nữ sinh được mở mang tầm mắt khi đến thăm Kinh thành Huế. Tham quan trong Đại Nội, cô và các bạn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đi thăm và nghe thuyết minh từ các hướng dẫn viên đã giúp Sana cùng các bạn hình dung ra cuộc sống của vua chúa Việt Nam ngày xưa, hiểu về cách mà người xưa làm việc, bảo vệ quốc gia, cũng như biết thêm quan niệm của người xưa về thiên nhiên và con người.
Đến Huế vào thời điểm giao mùa, những người bạn đến từ Nhật cũng được trải nghiệm “đặc sản” mưa Huế. “Những ngày trời nắng, Huế hiện lên là một thành phố năng động, không quá nhộn nhịp như TP. Hồ Chí Minh nhưng cũng mang dáng dấp hiện đại. Tuy vậy, khi trời mưa, Huế lại mang vẻ thâm trầm, qua làn mưa, những bức tường thành, những lăng đài một thời uy vệ càng rêu phong quá đỗi. Mưa cũng cho Huế một gam màu trầm lạnh, trầm vang từ những phố nhỏ, những ngôi nhà thấp, những hàng cây lặng lẽ, và những bước chân người cũng lặng lẽ. Được chứng kiến cảnh vật và con người nơi đây thay đổi theo thời tiết thật sự là một điều rất lý thú với sinh viên nghệ thuật, kiến trúc chúng tôi”, Tatsuya phấn khích.
Những kỷ niệm đẹp
Trong những ngày lưu lại mảnh đất Cố đô, những bạn sinh viên Nhật cảm nhận được sự thân thiện, vui tươi của các bạn sinh viên Việt Nam. “Các bạn đưa chúng tôi đi thăm các danh lam thắng cảnh như Đại Nội, chùa Thiên Mụ, Bảo tàng Hồ Chí Minh. Nhưng tôi nhớ nhất lần đầu được ăn món chè Huế. Vốn là người thích đồ ngọt nên khi được các bạn dẫn đi ăn chè, tôi đã bị hấp dẫn bởi những nồi chè đầy màu sắc tại một gánh hàng rong ở gần Đại Nội. Hôm ấy, thứ chè bột lọc thịt quay được giới thiệu là đặc sản chỉ Huế mới có đã khiến tôi phải thốt lên: ngon tuyệt. Vị ngọt của nước đường, chút mặn của thịt quay và dai dai của bột bánh khiến tôi nhớ mãi”, Sana bộc bạch.
Ngày chia tay nhau, các bạn sinh viên Huế đến sân bay tiễn những người bạn ngoại quốc. Họ trao cho nhau những món quà, tranh thủ kết bạn trên mạng xã hội để vẫn có thể theo dõi nhau. “Chuyến đi này với tôi thật sự ý nghĩa, không chỉ hiểu biết thêm về văn hóa, con người của đất nước các bạn mà chúng tôi cũng có thêm những người bạn, mặc dù không dùng chung ngôn ngữ nhưng lại cùng một đam mê về mỹ thuật, kiến trúc và hội họa. Tôi sẽ còn trở lại Việt Nam để thăm các bạn”, Tatsuya nói rồi chia tay chúng tôi để bước vào sân bay cùng nụ cười tươi thắm.
Bài, ảnh: ĐĂNG TRÌNH
|
Hue
has attracted international friends because of the peaceful, quiet look of the riverside city
Huong river
, because of the cute, friendly people and because of the unique and ancient cultural features.
Check-in at Hoa Binh gate.
Fascinated by Hue culture
During the changing seasons, I had the opportunity to follow a group of students from Seika University (Kyoto,
Japan
) during an exchange trip between Seika University and the Faculty of Architecture, College of Sciences, Hue University. On this occasion, students from Japan had the opportunity to experience the cuisine and culture of this magical land.
On the first morning in Hue, friends from far away visited An Hien garden house. The entrance to the garden house is a small archway built of bricks, lime and mortar. Along the path are two rows of white plum trees intertwined, shading the entire area. On the left is a rectangular lake completely covered with water lilies and lotus flowers. Japanese friends could not help but admire and enjoy the poetic, peaceful and equally ancient scenery of the garden house with delicately carved motifs and patterns. Originally a student majoring in fine arts, Sana Koyama proved to be quite knowledgeable about garden architecture.
“I researched and learned that the garden house is a typical architectural form of Hue, it has both aristocratic appearance and traditional folk colors. Although I have seen many pictures on the internet, I still feel very interested and impressed by the architecture of Hue garden houses," Sana shared. She repeatedly exclaimed "so great" in Japanese.
Experience rowing at Tam Giang lagoon.
In the afternoon, you can experience yachting, rowing, play team building games as well as enjoy cuisine at Ngu My Thanh mural village and Tam Giang - Cau Hai lagoon. The friendliness and sociability of the Vietnamese students made Misaki and her Japanese friends feel less confused. Although there are language disagreements when not everyone speaks English well, with body language and the help of "Ms. Google", the student groups of the two schools still interact very comfortably. “I am very impressed with Hue cuisine. Your fish sauce is very delicious, although we Japanese do not eat spicy food like Hue people, the rich flavor is very suitable for seafood dishes, especially squid", Tatsuya Imizu, male student of the University Seika University said.
After the first day of experience, students from the two schools were divided into small groups to conduct surveys, learn and come up with ideas for developing the Imperial Citadel walking street within three days. Japanese students had the opportunity to visit the Imperial Citadel walking street at night as well as visit the Imperial Citadel. The first time she came to the Citadel, Sana was overwhelmed by the magnificent beauty and unique architecture of this place. With the "dual house" architecture, meaning house connected to house, roof connected to roof, using ironwood for construction, the roof, electric poles, walls... are all sculpted with curving dragon shapes, Thai Hoa Palace appears. with majesty, it is the place where court meetings between the king and courtiers take place. And it is impossible not to mention Truong Sanh palace, Dien Tho palace or Co Ha garden and other architectures.
During the day, it has ancient beauty, but when night falls, the Citadel appears with a shimmering, magical look that makes Sana extremely excited. The female student's eyes were opened when she visited the Imperial City of Hue. Visiting the Citadel, she and her friends went from one surprise to another. Visiting and listening to explanations from the tour guides helped Sana and her friends visualize the lives of ancient Vietnamese kings, understand how the ancients worked, protected the country, as well as learn more concepts. of the ancients about nature and humans.
Coming to Hue at the time of changing seasons, friends from Japan can also experience the "specialty" of Hue rain. “On sunny days, Hue appears as a dynamic city, not too bustling like Ho Chi Minh City. Ho Chi Minh but also has a modern look. However, when it rains, Hue looks profound. Through the rain, the city walls and once-mighty mausoleums become even more mossy. The rain also gives Hue a cold, deep color tone echoing from the small streets, low houses, quiet trees, and quiet human footsteps. Seeing the scenery and people here change with the weather is truly a very interesting thing for us art and architecture students," Tatsuya was excited.
Beautiful memories
During their stay in the ancient capital, Japanese students felt the friendliness and joy of Vietnamese students. “You took us to visit scenic spots such as the Citadel, Thien Mu Pagoda, Ho Chi Minh Museum. But I remember most the first time I ate Hue sweet soup. As a person who likes sweets, when my friends took me to eat sweet soup, I was attracted by the colorful pots of sweet soup at a street vendor near the Citadel. That day, roasted meat sweet soup was introduced as a specialty that only Hue has, making me exclaim: delicious. The sweetness of the sugar water, the saltiness of the roasted meat and the chewiness of the cake dough make me remember it forever," Sana confided.
On the day of farewell, Hue students went to the airport to see off their foreign friends. They give each other gifts and make friends on social networks so they can still follow each other. “This trip was truly meaningful to me. Not only did we learn more about the culture and people of your country, but we also made new friends. Even though we don't speak the same language, we have the same passion. about fine arts, architecture and painting. I will come back to Vietnam to visit you guys", Tatsuya said and said goodbye to us to enter the airport with a bright smile.
Articles and photos: SUBMIT
|
Trải dài dọc bờ biển đất nước hình chữ S của chúng ta có rất nhiều địa danh du lịch quyến rũ mà bất cứ ai cũng muốn “xách va li lên và đến” ngay. Xu hướng du lịch nội địa vẫn sẽ tiếp tục chiếm ưu thế hậu COVID-19, mang đến cơ hội khám phá đầy lý thú các trải nghiệm ngay tại
Việt Nam
.
Đảo ngọc Phú Quốc
Thành phố đảo đầu tiên của Việt Nam thật sự xứng đáng là điểm đến an toàn nhất trong suốt thời gian dịch với số ca nghi nhiễm thấp kỷ lục và tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt. Trong đó, những khu vực biệt lập như vùng Bắc đảo, mũi Gành Dầu luôn thu hút du khách bởi vẻ đẹp thanh bình, phát triển hài hòa cùng hoang sơ.
Quang cảnh đảo Phú Quốc.
Phú Quốc
được ưu ái bởi địa hình độc đáo có sông – núi – biển – đảo trập trùng, bởi thiên nhiên tuyệt sắc của những bãi biển hoang sơ đẹp bậc nhất hành tinh như Bãi Dài, hệ sinh thái nguyên sinh vườn quốc gia Phú Quốc…
Đặc biệt hấp dẫn là công viên bảo tồn động vật bán hoang dã quy mô hàng đầu châu Á Vinpearl Safari. Đây là nơi đang chăm sóc và bảo tồn gần 200 loài động vật và đa dạng hệ sinh thái thực vật, giúp du khách tìm hiểu và làm quen rất nhiều loài thú quý hiếm đến từ khắp nơi trên thế giới trong môi trường sinh sống gần giống với tự nhiên nhất.
Mới đây,
Phú Quốc
lần đầu tiên được Tạp chí Time danh tiếng vinh danh là 1 trong “100 điểm đến tuyệt vời nhất thế giới 2021”. Giữa bối cảnh Covid-19 vẫn đang tiếp tục ảnh hưởng đến du lịch toàn cầu, đảo Ngọc vẫn khẳng định được vị thế của thành phố du lịch sở hữu vẻ đẹp thanh bình, có triển vọng phục hồi và thích nghi tốt trong đại dịch.
Đặc biệt, được gợi ý trong lời giới thiệu của Time là “điểm đến mới của thế giới” – siêu quần thể mới Phú Quốc United Center với chuỗi trải nghiệm độc nhất vô nhị tại “thành phố không ngủ”. Nơi đây sở hữu những kiến trúc lộng lẫy, tráng lệ, những dãy phố thương mại sầm uất, thời thượng, không gian tiệc tùng sôi động cùng những tâm điểm vui chơi giải trí náo nhiệt của Venice, phố mua sắm Thượng Hải, Chợ đêm Việt Nam…
Từ những công trình kỷ lục như nhà tre lớn nhất Việt Nam, kinh thành cổ “Tinh hoa Việt Nam”… cho đến 1.000 dãy shophouse hiện đại đa phong cách… trong giai đoạn bình thương luôn sôi động các hoạt động mua sắm, giải trí, văn hóa đời sống náo nhiệt không ngừng nghỉ ngày đêm.
Sự hiện diện của những hạ tầng dịch vụ kinh tế đêm đẳng cấp như Phú Quốc United Center tại Bắc đảo hứa hẹn sẽ thổi bùng sức nóng của thành phố đảo tương lai.
Thành phố biển Nha Trang
Nha Trang
luôn là điểm hẹn của tất cả những du khách yêu thích những bãi biển nhiệt đới đầy sôi động. Vẻ đẹp hài hòa giữa một bên là phố biển, một bên là Vịnh Nha Trang top vịnh biển đẹp nhất thế giới với hơn 20 đảo lớn nhỏ đầy phóng khoáng. Nơi đây từ lâu đã trở thành một đô thị du lịch rực rỡ như “Hồng Kông phiên bản Việt”. Nét hấp dẫn thâm trầm của vùng “đảo yến, xứ trầm” còn là sự hài hòa giữa những chứng tích của vương quốc Champa độc đáo nơi Tháp Po Nagar, đến công trình lịch sử như thành cổ Diên Khánh…
Vẻ đẹp của vịnh Nha Trang nhìn từ đảo Hòn Tre.
Với thế mạnh của địa phương du lịch hàng đầu, Nha Trang sở hữu những quần thể nghỉ dưỡng – giải trí qui mô mang đến cho du khách cả thiên đường trải nghiệm cho gia đình, bạn bè hay các Hội nghị, sự kiện tầm quốc tế.
Đặc biệt nhất chính là đảo Hòn Tre, được xem là điểm nhất định phải đến khi du khách đặt chân tới Nha Trang. Trên hòn đảo du lịch nổi tiếng này, các khách sạn và biệt thự nghỉ dưỡng kiến trúc khoáng đạt nằm giữa những hàng dừa xanh mát và con đường hoa giấy rực rỡ đều sở hữu tầm nhìn tuyệt đẹp hướng ra đại dương với dịch vụ đẳng cấp.
Du khách lớn tuổi có thể vãn cảnh trên Đồi vạn hoa giữa đại dương, thăm Thiền viện Trúc Lâm… Đôi lứa hẹn hò ở wave bar hay chơi chèo thuyền kayak, “bay zipline” xuyên đảo sành điệu, chia sẻ liệu trình chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp cặp đôi trên những chòi spa vươn ra giữa đại dương… Giới trẻ thỏa thích với thánh địa mỗi mét vuông nghìn trải nghiệm trên trời dưới biển tại VinWonders: Dù lượn, đứng nước, tàu lượn siêu tốc, xe trượt núi Alpine Coaster, Vịnh phao nổi, lặn biển…
Và đêm tới, những buổi diễn thực cảnh kết hợp nghệ thuật mapping 3D hiện đại của Tata Show hoành tráng luôn làm choáng ngợp mọi du khách trong không gian rực rỡ tới mê hoặc của ánh sáng và nghệ thuật.
Cung đường di sản ven biển Đà Nẵng – Hội An
Miền đất di sản nối dài từ
Đà Nẵng
đến
Hội An
từ xưa đến nay vẫn đầy sức hút nhờ vẻ đẹp độc đáo đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Sau khoảng hơn một thập niên lột xác, Đà Nẵng – Hội An đã sở hữu những điểm đến du lịch xứng tầm quốc tế.
Quần thể du lịch Vinpearl Nam Hội An
Dừng chân tại quần thể du lịch Vinpearl Nam Hội An với kiến trúc độc đáo kiêu hãnh vươn mình trước biển, du khách có thể vừa thảnh thơi tận hưởng vẻ đẹp hoài cổ và nguyên sơ của vùng đất đặc biệt này vừa dễ dàng khám phá trải nghiệm du lịch đẳng cấp.
Những công trình lộng lẫy mới lạ vẫn ẩn chứa những giá trị cũ xưa độc đáo tại VinWonders Nam Hội An với đôi bờ thương cảng một bên tái hiện phố Hội cổ kính, một bên là kiến trúc, cửa hàng mô phỏng hình ảnh châu Âu tráng lệ.
Đặc biệt được yêu thích và thu hút cả du khách trong và ngoài nước là Đảo Văn Hóa dân gian hội đủ kiến trúc nhà ba miền, các làng nghề truyền thống: dệt tằm, giấy gió, giấy trúc chỉ, tranh Đông Hồ… được phục hiện với các hoạt động đời sống hấp dẫn. Trong đó, chương trình biểu diễn thực cảnh “Về bến” đặc sắc tạo nên những dấu ấn khó quên.
Nơi đây cũng nổi tiếng với chuỗi trải nghiệm du khảo hoang dã trên sông River Safari, Lễ hội diều rực rỡ…
Đi dọc theo khắp các vùng miền đất nước Việt Nam luôn có rất nhiều điểm đến hấp dẫn sánh ngang với các địa danh nổi tiếng hàng đầu thế giới. Những tín đồ du lịch chắc hẳn không có lý do gì để chần chờ mà sẽ bắt tay lên ngay một “wishlist” khám phá mọi miền vẻ đẹp quên hương ngay khi dịch bệnh được đẩy lùi./.
|
Stretching along the coast of our S-shaped country, there are many attractive tourist destinations that anyone wants to "pack their suitcases and go to" right away. The domestic tourism trend will continue to dominate after COVID-19, providing opportunities to explore exciting experiences right here.
Vietnam
.
Phu Quoc pearl island
Vietnam's first island city truly deserves to be the safest destination during the epidemic with a record low number of suspected cases and a well-controlled epidemic situation. Among them, isolated areas such as the North Island and Ganh Dau cape always attract tourists because of their peaceful beauty, harmonious development and wildness.
View of Phu Quoc island.
Phu Quoc
Favored by the unique terrain of rolling rivers - mountains - seas - islands, by the beautiful nature of the most beautiful pristine beaches on the planet such as Bai Dai, the primeval ecosystem of Phu Quoc National Park...
Particularly attractive is Asia's leading semi-wild animal conservation park Vinpearl Safari. This is a place that cares for and preserves nearly 200 species of animals and diverse plant ecosystems, helping visitors learn and get acquainted with many rare animals from all over the world in a close living environment. most similar to nature.
Recently,
Phu Quoc
for the first time honored by the famous Time Magazine as one of the "100 best destinations in the world 2021". In the context of Covid-19 continuing to affect global tourism, Ngoc Island still affirms its position as a tourist city possessing peaceful beauty, with good prospects for recovery and adaptation during the pandemic. .
In particular, suggested in Time's introduction is "the world's new destination" - the new super complex Phu Quoc United Center with a series of unique experiences in the "city that never sleeps". This place possesses splendid and magnificent architecture, bustling and trendy commercial streets, vibrant party spaces, and bustling entertainment centers of Venice, Shanghai shopping streets, and Market. Vietnamese night…
From record-breaking projects such as the largest bamboo house in Vietnam, the "Essence of Vietnam" ancient citadel... to 1,000 rows of modern multi-style shophouses... in normal times, shopping and entertainment activities are always vibrant. The bustling entertainment, culture, and life do not stop day and night.
The presence of high-class night economic service infrastructure such as Phu Quoc United Center in the North Island promises to ignite the heat of the future island city.
Nha Trang coastal city
Nha Trang
always a meeting point for all tourists who love vibrant tropical beaches. The harmonious beauty between one side is the coastal city and the other side is Nha Trang Bay, one of the most beautiful bays in the world with more than 20 large and small islands full of freedom. This place has long become a brilliant tourist city like "Vietnamese version of Hong Kong". The deep charm of the "swallow island, land of agarwood" is also the harmony between the evidence of the unique Champa kingdom in Po Nagar Tower, to historical works such as Dien Khanh ancient citadel...
The beauty of Nha Trang Bay seen from Hon Tre island.
With the strength of a leading tourist destination, Nha Trang owns large-scale resort and entertainment complexes that bring visitors a paradise of experiences for family, friends or national conferences and events. international.
The most special is Hon Tre Island, considered a must-visit destination when tourists set foot in Nha Trang. On this famous tourist island, hotels and resort villas with spacious architecture located among green coconut trees and colorful bougainvillea streets all possess beautiful views of the ocean and top-notch service. grant.
Older tourists can enjoy the scenery on Kaleidoscope Hill in the middle of the ocean, visit Truc Lam Zen Monastery... Couples can go on dates at the wave bar or play kayaking, "zipline" across the island in style, and share care treatments. health and beauty couples on spa huts reaching out into the ocean... Young people enjoy the sanctuary of every square meter, thousands of experiences in the sky and under the sea at VinWonders: Paragliding, water skiing, roller coaster, sled Alpine Coaster mountain, floating bay, scuba diving...
And next night, the spectacular Tata Show's real-life shows combining modern 3D mapping art always overwhelm all visitors in the enchanting brilliant space of light and art.
Danang - Hoi An coastal heritage road
The heritage land extends from
Danang
arrive
Hoi An
From ancient times until now, it is still full of attraction thanks to its unique beauty that blends tradition and modernity. After more than a decade of transformation, Da Nang - Hoi An now possesses international-worthy tourist destinations.
Vinpearl Nam Hoi An tourist complex
Stopping at the Vinpearl Nam Hoi An tourist complex with its unique architecture proudly stretching out in front of the sea, visitors can leisurely enjoy the nostalgic and pristine beauty of this special land while easily exploring. Experience luxury travel.
New and splendid buildings still contain unique old values at VinWonders Nam Hoi An with the banks of the commercial port on one side recreating ancient Hoi An town, on the other side is architecture and shops simulating European images. magnificent.
Particularly popular and attractive to both domestic and foreign tourists is Folk Culture Island, which has the architecture of houses from three regions, traditional craft villages: silk weaving, wind paper, bamboo paper, Dong Ho paintings... Restore with attractive life activities. In particular, the unique real-life performance program "Returning to the dock" created unforgettable impressions.
This place is also famous for its series of wild travel experiences on the River Safari, the brilliant Kite Festival...
Traveling along all regions of Vietnam, there are always many attractive destinations comparable to the world's top famous landmarks. Travel enthusiasts surely have no reason to hesitate and will immediately embark on a "wishlist" to explore every region of unforgettable beauty as soon as the epidemic is repelled./.
|
Sáng 17-10, tại Phủ Chủ tịch,
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc
đã chủ trì lễ đón Tổng thống Singapore Halimah Yacob. Đây là chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên của một nguyên thủ quốc gia đến Việt Nam kể từ Đại hội XIII của Đảng năm 2021.
Trước khi bắt đầu lễ đón tại Phủ Chủ tịch, Tổng thống Halimah Yacob đã đến đặt vòng hoa và vào lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh – Ảnh: TTXVN
Nhận lời mời của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Tổng thống Singapore Halimah Yacob và phu quân thăm cấp nhà nước đến Việt Nam từ ngày 16 đến 20-10. Chuyên cơ chở nhà lãnh đạo Singapore hạ cánh xuống sân bay Nội Bài chiều tối 16-10.
Chuyến thăm diễn ra gần 8 tháng sau chuyến thăm của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (tháng 2-2022) và không lâu sau chuyến đi của Phó thủ tướng, Bộ trưởng điều phối chính sách kinh tế Singapore Vương Thụy Kiệt (tháng 9-2022).
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Singapore Halimah Yacob làm lễ chào cờ và quốc thiều hai nước – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Singapore Halimah Yacob duyệt đội danh dự tại lễ đón chính thức – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Singapore Halimah Yacob bắt tay trước khi bước vào cuộc hội đàm chính thức – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và phu nhân cùng Tổng thống Singapore Halimah Yacob và phu quân chụp ảnh lưu niệm trước khi bắt đầu hội đàm – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Sau lễ đón, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Singapore Halimah Yacob đã tiến hành hội đàm.
Chủ tịch nước nhấn mạnh chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh hai nước hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược vào năm 2023.
Đây là chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên của một nguyên thủ nước ngoài tới Việt Nam kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ XIII.
Về phần mình, Tổng thống Singapore Halimah Yacob nhấn mạnh việc Chủ tịch nước chọn Singapore cho chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên sau dịch COVID-19 và ngược lại cho thấy sự coi trọng của hai nước đối với quan hệ song phương.
Toàn cảnh hội đàm giữa hai nhà lãnh đạo – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Phát biểu tại hội đàm, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc hoan nghênh Tổng thống Singapore Halimah Yacob đến Việt Nam, nhấn mạnh đây là chuyến thăm Việt Nam cấp nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Singapore sau gần 10 năm – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Về phần mình, Tổng thống Hamilah Yacob bày tỏ vui mừng gặp lại Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, chia sẻ đây là chuyến công du nước ngoài đầu tiên của bà kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát – Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Sau hội đàm, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Halimah Yacob đã cùng chứng kiến lễ ký kết các văn kiện, biên bản ghi nhớ hợp tác giữa bộ ngành hai bên trong linh vực an ninh mạng, dữ liệu mạng và phòng chống tội phạm mạng, năng lượng, tín chỉ carbon giáo dục nghề nghiệp…
Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng trao quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Vĩnh Thạnh (giai đoạn 1),
thành phố Cần Thơ
, cho ông Kelvin Teo, chủ tịch Sempcorp Development và đồng chủ tịch VSIP Group Việt Nam.
Theo Đại sứ Việt Nam tại Singapore Mai Phước Dũng, trong chuyến thăm lần này của Tổng thống Halimah Yacob, hai nước sẽ thúc đẩy hợp tác trong một lĩnh vực mới nữa là năng lượng tái tạo.
Theo chương trình dự kiến, bà Halimah Yacob sẽ đến chào xã giao Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ trong chiều 17-10.
Trong thời gian còn lại ở Việt Nam, Tổng thống Singapore Halimah Yacob sẽ gặp bí thư Thành ủy Hà Nội, thăm Khu công nghiệp VSIP1, làm việc với lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh và một số hoạt động tại TP.HCM.
Singapore là đối tác đầu tư, thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực. Tổng kim ngạch thương mại song phương tính đến tháng 8-2022 đạt 6,3 tỉ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Singapore tiếp tục là nhà đầu tư vào Việt Nam lớn nhất trong khối ASEAN và thứ hai trong số 139 quốc gia/vùng lãnh thổ với 2.959 dự án còn hiệu lực.
Các khu công nghiệp
Việt Nam
–
Singapore
(VSIP) là biểu tượng hợp tác kinh tế song phương với kim ngạch xuất khẩu đạt 32 tỉ USD, tạo việc làm cho gần 300.000 lao động trực tiếp.
|
On the morning of October 17, at the Presidential Palace,
President Nguyen Xuan Phuc
chaired the welcoming ceremony for Singapore President Halimah Yacob. This is the first state-level visit by a head of state to Vietnam since the 13th Party Congress in 2021.
Before starting the welcoming ceremony at the Presidential Palace, President Halimah Yacob laid a wreath and visited President Ho Chi Minh's mausoleum - Photo: TTXVN
Accepting the invitation of President Nguyen Xuan Phuc, Singapore President Halimah Yacob and her husband paid a state visit to Vietnam from October 16 to 20. The plane carrying the Singaporean leader landed at Noi Bai airport on the evening of October 16.
The visit took place nearly 8 months after the visit of President Nguyen Xuan Phuc (February 2022) and not long after the trip of Singapore's Deputy Prime Minister and Coordinating Minister of Economic Policy Vuong Thuy Kiet (September 2022). 2022).
President Nguyen Xuan Phuc and Singapore President Halimah Yacob held a ceremony to salute the flags and national anthems of the two countries - Photo: NGUYEN KHANH
President Nguyen Xuan Phuc and Singapore President Halimah Yacob inspect the honor guard at the official welcoming ceremony - Photo: NGUYEN KHANH
President Nguyen Xuan Phuc and Singapore President Halimah Yacob shake hands before entering the official talks - Photo: NGUYEN KHANH
President Nguyen Xuan Phuc and his wife and Singapore President Halimah Yacob and her husband took souvenir photos before starting the talks - Photo: NGUYEN KHANH
After the welcoming ceremony, President Nguyen Xuan Phuc and Singapore President Halimah Yacob held talks.
The President emphasized that the visit takes place in the context of the two countries aiming to celebrate 50 years of establishing diplomatic relations and 10 years of establishing strategic partnership in 2023.
This is the first state-level visit of a foreign head of state to Vietnam since the 13th Party Congress.
For his part, Singapore President Halimah Yacob emphasized that the President chose Singapore for his first state visit after the COVID-19 epidemic and vice versa, showing the two countries' regard for bilateral relations.
Overview of the talks between the two leaders - Photo: NGUYEN KHANH
Speaking at the talks, President Nguyen Xuan Phuc welcomed Singapore President Halimah Yacob to Vietnam, emphasizing that this is Singapore's first head of state-level visit to Vietnam in nearly 10 years - Photo: NGUYEN KHANH
For his part, President Hamilah Yacob expressed his joy in meeting President Nguyen Xuan Phuc again, sharing that this was her first foreign trip since the outbreak of the COVID-19 pandemic - Photo: NGUYEN KHANH
After the talks, President Nguyen Xuan Phuc and President Halimah Yacob witnessed the signing of documents and memorandums of understanding on cooperation between ministries and branches of the two sides in the fields of cyber security, cyber data and prevention. Cybercrime, energy, vocational education carbon credits…
Ms. Nguyen Thi Bich Ngoc, Deputy Minister of Planning and Investment, also handed over the decision approving the investment policy of the Vinh Thanh Industrial Park infrastructure construction and business project (phase 1),
Can Tho city
, to Mr. Kelvin Teo, chairman of Sempcorp Development and co-chairman of VSIP Group Vietnam.
According to Vietnamese Ambassador to Singapore Mai Phuoc Dung, during this visit of President Halimah Yacob, the two countries will promote cooperation in another new field, renewable energy.
According to the expected program, Ms. Halimah Yacob will pay a courtesy visit to General Secretary Nguyen Phu Trong, Prime Minister Pham Minh Chinh and National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue on the afternoon of October 17.
During the remaining time in Vietnam, Singapore President Halimah Yacob will meet with the Secretary of the Hanoi Party Committee, visit VSIP1 Industrial Park, work with leaders of Bac Ninh province and some activities in Ho Chi Minh City.
Singapore is Vietnam's leading investment and trade partner in the region. Total bilateral trade turnover as of August 2022 reached 6.3 billion USD, up 16.8% over the same period last year.
Singapore continues to be the largest investor in Vietnam in ASEAN and second among 139 countries/territories with 2,959 valid projects.
Industry zones
Vietnam
–
Singapore
(VSIP) is a symbol of bilateral economic cooperation with export turnover reaching 32 billion USD, creating jobs for nearly 300,000 direct workers.
|
Tạp chí Chân Trời Mới của Lào nhận định qua 60 năm, tinh thần đoàn kết đấu tranh, tình cảm gắn bó anh em giữa nhân dân hai nước
Lào
–
Việt Nam
luôn được thắt chặt và không ngừng đơm hoa kết trái.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Lào Phankham Viphavanh. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)
Tạp chí Chân Trời Mới (Anou Mai) của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào vừa có bài viết “60 năm quan hệ Lào-Việt Nam, Việt Nam-Lào.”
Theo bài viết này, Lào hiện có quan hệ ngoại giao với 143 nước trên thế giới, tuy nhiên, quan hệ giữa hai nước Lào-Việt Nam là mối quan hệ đặc biệt có một không hai.
Được ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Chủ tịch Kaysone Phomvihane và Chủ tịch Souphanouvong kính yêu tạo dựng và đặt nền móng, được các lãnh đạo cấp cao khác của hai nước Lào-Việt Nam và người dân hai nước dầy công vun đắp, quan hệ Lào-Việt Nam ngày nay đã trở thành mối quan hệ hợp tác mà khó có thể tìm thấy trong lịch sử quan hệ quốc tế.
Theo bài viết, Lào và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 5/9/1962, trải qua 60 năm, tinh thần đoàn kết đấu tranh, tình cảm gắn bó anh em giữa nhân dân hai nước Lào-Việt Nam luôn được thắt chặt và không ngừng đơm hoa kết trái.
Thể hiện từ trong đấu tranh đã luôn kề vai sát cánh bên nhau chống kẻ thù chung, trong hòa bình thì chung lưng đấu cật cùng bảo vệ và xây dựng chế độ mới.
Sau ngày đất nước được giải phóng, tuy hai nước còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Lào-Việt Nam đã tiếp nối mối quan hệ thân thiết, dành cho nhau những tình cảm, cùng giúp đỡ lẫn nhau và hợp tác chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực.
Trong tình hình đất nước Lào vừa mới được giải phóng, các thế lực chống đối và quân phản động không ngừng ra sức đánh phá và bao vây, ngày 18/7/1977, Lào-Việt Nam đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác.
Kể từ ngày đó, quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước Lào-Việt Nam, Việt Nam-Lào bước sang trang sử mới trong điều kiện mới.
Năm 1986, hai nước Lào-Việt Nam đều tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, hai Đảng, hai Nhà nước đã cùng trao đổi và phối hợp trên nhiều nhiều lĩnh vực khác nhau, từ đó rút ra kinh nghiệm để cùng giúp đỡ nhau trong tình hình thực tế.
Chính nhờ vậy, mối quan hệ đặc biệt giữa Lào và Việt Nam ngày càng phát triển và đi vào chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực.
Ngày nay, hai nước vẫn tiếp tục tăng cường mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu từ cấp trung ương đến địa phương nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Hợp tác chính trị-ngoại giao ngày càng được củng cố và tăng cường, điều này giúp thắt chặt hơn niềm tin lẫn nhau giữa các lãnh đạo và nhân dân hai nước.
Nhiều bộ, ban, ngành, cơ quan tổ chức cũng như các địa phương của hai nước đã có những cuộc gặp trao đổi kinh nghiệm, phối hợp mở rộng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, thiết thực và hiệu quả.
Dự án bộ sách lịch sử quan hệ đặc biệt Lào-Việt Nam (1930-2007) đã được hoàn thành vào năm 2011 và thống nhất lấy năm 2012 là Năm đoàn kết hữu nghị Lào-Việt Nam.
Hằng năm hai nước đều tăng cường gặp gỡ và trao đổi các bài học kinh nghiệm, thường xuyên phối hợp trong công tác đảng, công tác chính trị trong các hoạt động của hai đất nước trong khu vực và trên thế giới nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân hai nước.
Hợp tác phát triển nguồn nhân lực đã được mở rộng trên nhiều phương diện nhằm đáp ứng yêu cầu trong việc bảo vệ và xây dựng phát triển của mỗi nước.
Hai bên đã ký và triển khai nhiều kế hoạch tổng thể, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong lĩnh vực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2021-2030.
Hợp tác quốc phòng-an ninh tiếp tục có sự phối hợp chặt chẽ nhằm đảm bảo ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở mỗi nước, củng cố vững chắc đường biên giới giữa hai nước hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, nhờ đó, tăng cường sự giao lưu, gắn bó, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương biên giới giữa hai nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư, Việt Nam hiện có 424 dự án đầu tư tại Lào với tổng số vốn đạt 3,57 tỷ USD, đứng thứ 3 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Lào.
Chương trình nghệ thuật tại Lễ khai mạc Ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng biên giới Việt Nam-Lào. (Ảnh: Xuân Tư/TTXVN)
Về thương mại, hai bên tiếp tục thực hiện cơ chế ưu tiên, giảm thuế suất nhập khẩu hàng hóa của mối nước, tiếp tục phối hợp nghiên cứu mở rộng danh mục hàng hóa được hưởng thuế suất nhập khẩu 0%.
Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội, Lào đã xây dựng tượng đài tưởng niệm Liên minh chiến đấu Việt Nam-Lào ở nhiều tỉnh như Xiengkhuang, Oudomxay, Attapeu, Savannakhet, Champasack…để tri ân các chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam sang làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào trong giai đoạn giải phóng dân tộc; Xây dưng khu đền thờ tưởng niệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại bản Siengvang, tỉnh Khammoune, Trung Lào.
Trong lĩnh vực y tế, hai bên đã hợp tác trong việc kiểm soát và phòng chống dịch bệnh, cung cấp lương thực và thuốc men, chữa trị và đào tạo các cán bộ trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và trao đổi kinh nghiệm giữa các bệnh viện của hai nước.
Theo Tạp chí Chân Trời Mới, mối quan hệ Lào-Việt Nam là mối quan hệ đặc biệt, khác với mối quan hệ của các nước khác, hai bên luôn giúp đỡ nhau bằng lòng chân thành, vô điều kiện.
Những chiến sỹ cách mạng và nhân dân hai nước đã từng kề vai sát cánh chống kẻ thù chung. Máu của các chiến sỹ và nhân dân hai nước Lào-Việt Nam đã hòa vào nhau trong các trận chiến để có thể giành độc lập cho mỗi dân tộc.
Do vậy, đây là mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và đã trở thành quan hệ kiểu mẫu trong sáng trong quan hệ quốc tế và được lãnh đạo của hai nước đánh giá “là mối quan hệ hiếm có và là tài sản vô giá của hai dân tộc, là quy luật phát triển chung của hai nước trên con đường phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.”
Bài viết khẳng định mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Lào-Việt Nam không phải ngẫu nhiên mà có và do
Chủ tịch Hồ Chí Minh
, Chủ tịch Kaysone Phomvihane, Chủ tịch Souphanouvong và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp.
Như Chủ tịch Kaysone Phomvihane từng khẳng định: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào-Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”./.
Phạm Kiên-Bá Thành (TTXVN/Vietnam+)
|
Laos' New Horizon magazine commented that after 60 years, the spirit of solidarity and struggle and the fraternal bond between the two peoples have emerged.
Laos
–
Vietnam
always tightened and constantly bearing fruit.
Prime Minister Pham Minh Chinh and Lao Prime Minister Phankham Viphavanh. (Photo: Duong Giang/TTXVN)
New Horizons magazine (Anou Mai) of the Lao People's Revolutionary Party has just published an article "60 years of relations between Laos-Vietnam and Vietnam-Laos."
According to this article, Laos currently has diplomatic relations with 143 countries around the world, however, the relationship between Laos and Vietnam is a unique and special relationship.
Born in special historical circumstances, created and laid the foundation by the great President Ho Chi Minh, beloved President Kaysone Phomvihane and President Souphanouvong, and supported by other senior leaders of the two countries Laos and Vietnam. With the efforts of the two countries and the people of the two countries to cultivate, the Laos-Vietnam relationship today has become a cooperative relationship that is hard to find in the history of international relations.
According to the article, Laos and Vietnam established diplomatic relations on September 5, 1962, after 60 years, the spirit of solidarity in struggle and brotherly affection between the people of Laos and Vietnam has always been present. is tightened and constantly bears fruit.
Demonstrating that in the struggle, we have always stood side by side against the common enemy, and in peace, we have worked hard together to protect and build a new regime.
After the country was liberated, although the two countries still encountered many difficulties, Laos and Vietnam continued their close relationship, giving each other affection, helping each other and cooperating closely on many fields. field.
In the situation where Laos had just been liberated, opposing forces and reactionary troops were constantly trying to attack and besiege them. On July 18, 1977, Laos and Vietnam signed the Treaty of Friendship and Cooperation. work.
Since that day, the comprehensive cooperative relationship between Laos-Vietnam and Vietnam-Laos entered a new chapter of history under new conditions.
In 1986, the two countries Laos and Vietnam both carried out the process of national reform, the two Parties and the two States exchanged and coordinated in many different fields, thereby drawing experience to help each other. each other in real situations.
Thanks to that, the special relationship between Laos and Vietnam is increasingly developing and deepening in all fields.
Today, the two countries continue to strengthen their great friendship, special solidarity and comprehensive cooperation in both breadth and depth from the central to local levels to bring practical benefits to each other. people of the two countries.
Political-diplomatic cooperation is increasingly consolidated and strengthened, which helps tighten mutual trust between the leaders and people of the two countries.
Many ministries, departments, branches, agencies and organizations as well as localities of the two countries have had meetings to exchange experiences and coordinate to expand cooperation and help each other, practically and effectively.
The project on the history of special relations between Laos and Vietnam (1930-2007) was completed in 2011 and 2012 was agreed to be the Year of Solidarity and Friendship between Laos and Vietnam.
Every year, the two countries increase meetings and exchange lessons and experiences, regularly coordinate in party work and political work in the activities of the two countries in the region and the world to bring benefits. benefit the people of both countries.
Cooperation in human resource development has been expanded in many aspects to meet the requirements of protecting and building development of each country.
The two sides signed and implemented many master plans, improving quality and efficiency in the field of training and human resource development for the period 2021-2030.
Defense-security cooperation continues to have close coordination to ensure political stability, social order and safety in each country, and firmly consolidate the border between the two countries of peace, friendship, and cooperation. cooperation and development, thereby enhancing exchanges and attachment, making an important contribution to promoting socio-economic development in border localities between the two countries.
In the fields of economics, trade and investment, Vietnam currently has 424 investment projects in Laos with a total capital of 3.57 billion USD, ranking 3rd among countries and territories investing in Laos.
Art program at the Opening Ceremony of the Cultural, Sports and Tourism Exchange Festival in the Vietnam-Laos border region. (Photo: Xuan Tu/TTXVN)
Regarding trade, the two sides continue to implement priority mechanisms, reduce import tax rates on each country's goods, and continue to coordinate research to expand the list of goods eligible for 0% import tax rate.
In the field of culture and society, Laos has built monuments commemorating the Vietnam-Laos Fighting Alliance in many provinces such as Xiengkhuang, Oudomxay, Attapeu, Savannakhet, Champasack... to pay tribute to Vietnamese volunteer soldiers. went to work on an international mission in Laos during the period of national liberation; Construction of a memorial temple
Ho Chi Minh president
in Siengvang village, Khammoune province, Central Laos.
In the health sector, the two sides have cooperated in disease control and prevention, providing food and medicine, treatment and training of staff in research, technology transfer and exchange of experience. between hospitals of the two countries.
According to New Horizons Magazine, the Laos-Vietnam relationship is a special relationship, different from the relationships of other countries, the two sides always help each other with sincerity and unconditionality.
Revolutionary soldiers and people of the two countries once stood shoulder to shoulder against a common enemy. The blood of the soldiers and people of Laos and Vietnam mixed together in battles to win independence for each nation.
Therefore, this is a relationship of great friendship and special solidarity and has become a pure model relationship in international relations and is assessed by the leaders of the two countries as "a rare relationship and a priceless assets of the two peoples, is the common law of development of the two countries on the path of developing a prosperous country and a prosperous and happy people."
The article affirms that the great friendship, special solidarity and comprehensive cooperation between Laos and Vietnam does not exist by chance and is due to
Ho Chi Minh president
, Chairman Kaysone Phomvihane, Chairman Souphanouvong and generations of leaders of the two Parties, two States, and people of the two countries have worked hard to build it.
As President Kaysone Phomvihane once affirmed: "Mountains may erode, rivers may dry up, but the Laos-Vietnam friendship will forever be stronger than mountains and rivers."/.
Pham Kien-Ba Thanh (VNA/Vietnam+)
|
Trước bà, chưa có người phụ nữ nào tham gia cách mạng được phong hàm tướng. Năm 1965, khi bà được phong hàm Thiếu tướng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: Phó Tổng tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định với tên tuổi gắn liền cùng sự ra đời và trưởng thành của Đội quân tóc dài Bến Tre. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Nữ tướng Nguyễn Thị Định mất ngày này cách đây 30 năm – ngày 26/8/1992.
Vị tướng huyền thoại của “Đội quân tóc dài”
Nữ tướng Nguyễn Thị Định (người dân vẫn trìu mến gọi Cô Ba Định) sinh ngày 15/2/1920 tại xã Lương Hòa,
huyện Giồng Trôm
,
tỉnh Bến Tre
. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, bà sớm giác ngộ và lựa chọn con đường đi theo cách mạng.
Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, Nguyễn Thị Định đảm nhận nhiệm vụ giao liên, rải truyền đơn và tham gia vận động quần chúng đấu tranh. Hai năm sau bà được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích – Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Nhưng không lâu sau đó, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Gửi con còn nhỏ cho mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia hoạt động cách mạng tại tỉnh nhà.
Năm 1940, đến lượt bà bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8/1945.
Tuy ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn là người phụ nữ đầu tiên của Đoàn cán bộ Nam Bộ vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Bà cũng là người duy nhất trong phái đoàn 4 người trở về Bến Tre với chiếc thuyền chở đầy vũ khí. Vượt qua mạng lưới bố phòng dày đặc của địch, con tàu “không số” chở 12 tấn vũ khí đã cập bến an toàn, kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ; trở thành một trong những người góp phần quan trọng cho việc hình thành “Đường Hồ Chí Minh trên biển” ngay từ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển rực rỡ sau này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bến Tre là một trong những chiến trường ác liệt, là nơi Mỹ – Ngụy thí điểm áp dụng các chiến thuật và thủ đoạn quân sự mới với chiêu bài “tố cộng, diệt cộng”, đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, biến cả miền Nam thành nhà tù, trại tập trung dưới cái tên “ấp chiến lược”.
Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời và đến với tỉnh Bến Tre như “nắng hạn gặp mưa rào”. Theo đó, Đảng chủ trương sử dụng vũ trang để hỗ trợ đấu tranh chính trị, điều này cũng đáp ứng được nhu cầu tình thế và sự mong ước của Đảng bộ và nhân dân xứ dừa. Nguyễn Thị Định sau khi được quán triệt Nghị quyết số 15, trở về cùng lãnh đạo Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị cán bộ vào đêm 2/1/1960, tại Mỏ Cày. Tại đây, bà và các đồng chí trong Tỉnh ủy bàn kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm.
Do lực lượng quân địch ở Bến Tre đông và ngoan cố, lại được sự chi viện của chính quyền bù nhìn Sài Gòn, cuộc nổi dậy bước đầu gặp rất nhiều khó khăn. Nguyễn Thị Định đã dũng cảm, mưu trí, sáng tạo ra những cách đánh phù hợp với tình hình. Quân ta thua thiệt về súng đạn, thì kết hợp thêm vũ khí thô sơ, giáo mác, gậy gộc. Khi thua thiệt về quân số thì hoạt động nghi binh, giả làm bộ đội chủ lực để gây hoang mang cho địch… Bằng sự khéo léo, tài tình, bà cùng các Tỉnh ủy viên đã lãnh đạo cuộc nổi dậy Bến Tre thành công ngoài mong đợi, tạo tiếng vang và hiệu ứng lan tỏa khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam.
Khả năng lãnh đạo của bà còn được thể hiện qua việc gắn kết các tầng lớp xã hội, bà truyền lửa, tạo ra sức mạnh vô hình cho ngay cả những lực lượng vốn gọi là chân yếu, tay mềm.
Lần đầu tiên, hơn năm nghìn phụ nữ gồm cả thanh niên, bà già, trẻ em của xã Phước Hiệp, Bình Khánh, Thành Thới… họp thành một đoàn lớn, đầu đội khăn tang, mặc áo rách bồng con kéo vào quận Mỏ Cày, đòi chấm dứt khủng bố, trừng trị bọn ác ôn ở Phước Hiệp. Giằng co với địch suốt mấy ngày đêm, mỗi ngày lại có thêm lực lượng đến chi viện, khí thế của ta càng sôi sục.
Cuối cùng, tên quận trưởng đã phải chịu rút hết lính khỏi xã Phước Hiệp. Từ đây, một hình thức đấu tranh mới của Bến Tre ra đời, độc đáo và hiệu quả, khiến bè lũ quân địch khiếp sợ và gọi với cái tên “Đội quân tóc dài”.
Từ chiếc nôi Đồng Khởi, “Đội quân tóc dài” đã phát triển lan rộng toàn miền Nam. Sự ra đời của “Đội quân tóc dài” đã làm cho sức mạnh của phong trào phụ nữ miền Nam được nhân lên gấp nhiều lần. Trong đấu tranh chính trị, các chị em làm tốt công tác địch vận, vận động chồng, con, em mình bỏ ngũ, giải thích chính nghĩa cho binh lính, làm cho họ hạ súng, bỏ đồn, cao hơn là giác ngộ cách mạng, xây dựng tổ chức ngay trong lòng địch…
Từ đó, “Đội quân tóc dài” đã phát triển rộng khắp và đóng một vai trò quan trọng, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng miền Nam, kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước; làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của người Phụ nữ Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tự hào nói về nữ tướng Nguyễn Thị Định “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy”. Ảnh tư liệu.
Nữ tướng trong lòng dân
Sau cuộc Đồng khởi thắng lợi vang dội, bà được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1961, bà là Khu ủy viên Khu 8. Năm 1964, bà được bầu là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà được bầu là Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam.
Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt ấy, rừng miền Đông vẫn thấy nữ tướng không mặc quân phục, không đeo quân hàm khi ra trận nhưng tài chỉ huy, lòng trách nhiệm, sự dũng cảm, sự thấu đáo của bà đã góp phần xoay chuyển tình hình từ bị động chuyển sang phòng ngự và chủ động tấn công.
Năm 1965, bà Nguyễn Thị Định được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam, và được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đến năm 1975.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào nói về nữ tướng Nguyễn Thị Định: “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
Sau khi miền Nam được giải phóng, non sông thống nhất, bà chuyển về Thủ đô Hà Nội công tác, đảm đương nhiều vị trí, chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Tháng 6/1987, Nguyễn Thị Định được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, bà cũng là nữ Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên những cương vị mới, bà tiếp tục thể hiện bản lĩnh của một người lãnh đạo uy tín, quan tâm, chỉ đạo, xử lý công việc kịp thời trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Về ngoại giao, với sự khéo léo, mềm mỏng, nhưng đầy bản lĩnh, bà được nhiều bạn bè, cũng như người dân trên thế giới biết đến, ngưỡng mộ. Với bạn bè thế giới, bà là biểu tượng của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, đoàn kết, hữu nghị của các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Bà từng được Liên đoàn Phụ nữ dân chủ thế giới bầu vào cương vị Phó Chủ tịch Liên đoàn. Bài phát biểu của đại diện phụ nữ Anbani có đoạn: “Chúng tôi vô cùng tự hào có người bạn chiến đấu là chị Nguyễn Thị Định. Chị đã thay mặt cho phụ nữ chúng ta giương cao chủ nghĩa anh hùng cao cả và cổ vũ cho hàng triệu phụ nữ yêu tự do, vì hòa bình và tiến bộ xã hội”.
Có thể nói, từ trong muôn vàn gian khổ, bao lần vào sinh ra tử, trải qua 2 cuộc kháng chiến, cho đến khi giữ cương vị cao trong bộ máy Nhà nước, bà Nguyễn Thị Định luôn giữ phẩm chất nhân ái, rộng lượng, bao dung, sống chan hòa, gần gũi, chân tình với mọi người. Vì thế cái tên chị Ba, cô Ba, bà Ba thân thương, không chỉ sống mãi trong lòng nhân dân quê hương Bến Tre và cả nước, mà còn sống mãi với bạn bè năm châu.
Ngày 26/8/1992, trái tim của vị nữ tướng huyền thoại Nguyễn Thị Định ngừng đập. Bà đã sống một cuộc đời trọn vẹn với non sông, đất nước, đã có nhiều đóng góp lớn lao với Tổ quốc, với nhân dân. Bà được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và nhiều huân chương cao quý khác./.
|
Trước bà, chưa có người phụ nữ nào tham gia cách mạng được phong hàm tướng. Năm 1965, khi bà được phong hàm Thiếu tướng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: Phó Tổng tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định với tên tuổi gắn liền cùng sự ra đời và trưởng thành của Đội quân tóc dài Bến Tre. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Nữ tướng Nguyễn Thị Định mất ngày này cách đây 30 năm – ngày 26/8/1992.
Vị tướng huyền thoại của “Đội quân tóc dài”
Nữ tướng Nguyễn Thị Định (người dân vẫn trìu mến gọi Cô Ba Định) sinh ngày 15/2/1920 tại xã Lương Hòa,
huyện Giồng Trôm
,
tỉnh Bến Tre
. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, bà sớm giác ngộ và lựa chọn con đường đi theo cách mạng.
Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, Nguyễn Thị Định đảm nhận nhiệm vụ giao liên, rải truyền đơn và tham gia vận động quần chúng đấu tranh. Hai năm sau bà được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích – Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Nhưng không lâu sau đó, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Gửi con còn nhỏ cho mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia hoạt động cách mạng tại tỉnh nhà.
Năm 1940, đến lượt bà bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8/1945.
Tuy ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn là người phụ nữ đầu tiên của Đoàn cán bộ Nam Bộ vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Bà cũng là người duy nhất trong phái đoàn 4 người trở về Bến Tre với chiếc thuyền chở đầy vũ khí. Vượt qua mạng lưới bố phòng dày đặc của địch, con tàu “không số” chở 12 tấn vũ khí đã cập bến an toàn, kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ; trở thành một trong những người góp phần quan trọng cho việc hình thành “Đường Hồ Chí Minh trên biển” ngay từ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển rực rỡ sau này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bến Tre là một trong những chiến trường ác liệt, là nơi Mỹ – Ngụy thí điểm áp dụng các chiến thuật và thủ đoạn quân sự mới với chiêu bài “tố cộng, diệt cộng”, đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, biến cả miền Nam thành nhà tù, trại tập trung dưới cái tên “ấp chiến lược”.
Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời và đến với tỉnh Bến Tre như “nắng hạn gặp mưa rào”. Theo đó, Đảng chủ trương sử dụng vũ trang để hỗ trợ đấu tranh chính trị, điều này cũng đáp ứng được nhu cầu tình thế và sự mong ước của Đảng bộ và nhân dân xứ dừa. Nguyễn Thị Định sau khi được quán triệt Nghị quyết số 15, trở về cùng lãnh đạo Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị cán bộ vào đêm 2/1/1960, tại Mỏ Cày. Tại đây, bà và các đồng chí trong Tỉnh ủy bàn kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm.
Do lực lượng quân địch ở Bến Tre đông và ngoan cố, lại được sự chi viện của chính quyền bù nhìn Sài Gòn, cuộc nổi dậy bước đầu gặp rất nhiều khó khăn. Nguyễn Thị Định đã dũng cảm, mưu trí, sáng tạo ra những cách đánh phù hợp với tình hình. Quân ta thua thiệt về súng đạn, thì kết hợp thêm vũ khí thô sơ, giáo mác, gậy gộc. Khi thua thiệt về quân số thì hoạt động nghi binh, giả làm bộ đội chủ lực để gây hoang mang cho địch… Bằng sự khéo léo, tài tình, bà cùng các Tỉnh ủy viên đã lãnh đạo cuộc nổi dậy Bến Tre thành công ngoài mong đợi, tạo tiếng vang và hiệu ứng lan tỏa khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam.
Khả năng lãnh đạo của bà còn được thể hiện qua việc gắn kết các tầng lớp xã hội, bà truyền lửa, tạo ra sức mạnh vô hình cho ngay cả những lực lượng vốn gọi là chân yếu, tay mềm.
Lần đầu tiên, hơn năm nghìn phụ nữ gồm cả thanh niên, bà già, trẻ em của xã Phước Hiệp, Bình Khánh, Thành Thới… họp thành một đoàn lớn, đầu đội khăn tang, mặc áo rách bồng con kéo vào quận Mỏ Cày, đòi chấm dứt khủng bố, trừng trị bọn ác ôn ở Phước Hiệp. Giằng co với địch suốt mấy ngày đêm, mỗi ngày lại có thêm lực lượng đến chi viện, khí thế của ta càng sôi sục.
Cuối cùng, tên quận trưởng đã phải chịu rút hết lính khỏi xã Phước Hiệp. Từ đây, một hình thức đấu tranh mới của Bến Tre ra đời, độc đáo và hiệu quả, khiến bè lũ quân địch khiếp sợ và gọi với cái tên “Đội quân tóc dài”.
Từ chiếc nôi Đồng Khởi, “Đội quân tóc dài” đã phát triển lan rộng toàn miền Nam. Sự ra đời của “Đội quân tóc dài” đã làm cho sức mạnh của phong trào phụ nữ miền Nam được nhân lên gấp nhiều lần. Trong đấu tranh chính trị, các chị em làm tốt công tác địch vận, vận động chồng, con, em mình bỏ ngũ, giải thích chính nghĩa cho binh lính, làm cho họ hạ súng, bỏ đồn, cao hơn là giác ngộ cách mạng, xây dựng tổ chức ngay trong lòng địch…
Từ đó, “Đội quân tóc dài” đã phát triển rộng khắp và đóng một vai trò quan trọng, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng miền Nam, kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước; làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của người Phụ nữ Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tự hào nói về nữ tướng Nguyễn Thị Định “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy”. Ảnh tư liệu.
Nữ tướng trong lòng dân
Sau cuộc Đồng khởi thắng lợi vang dội, bà được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1961, bà là Khu ủy viên Khu 8. Năm 1964, bà được bầu là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà được bầu là Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam.
Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt ấy, rừng miền Đông vẫn thấy nữ tướng không mặc quân phục, không đeo quân hàm khi ra trận nhưng tài chỉ huy, lòng trách nhiệm, sự dũng cảm, sự thấu đáo của bà đã góp phần xoay chuyển tình hình từ bị động chuyển sang phòng ngự và chủ động tấn công.
Năm 1965, bà Nguyễn Thị Định được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam, và được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đến năm 1975.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào nói về nữ tướng Nguyễn Thị Định: “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
Sau khi miền Nam được giải phóng, non sông thống nhất, bà chuyển về Thủ đô Hà Nội công tác, đảm đương nhiều vị trí, chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Tháng 6/1987, Nguyễn Thị Định được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, bà cũng là nữ Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên những cương vị mới, bà tiếp tục thể hiện bản lĩnh của một người lãnh đạo uy tín, quan tâm, chỉ đạo, xử lý công việc kịp thời trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Về ngoại giao, với sự khéo léo, mềm mỏng, nhưng đầy bản lĩnh, bà được nhiều bạn bè, cũng như người dân trên thế giới biết đến, ngưỡng mộ. Với bạn bè thế giới, bà là biểu tượng của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, đoàn kết, hữu nghị của các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Bà từng được Liên đoàn Phụ nữ dân chủ thế giới bầu vào cương vị Phó Chủ tịch Liên đoàn. Bài phát biểu của đại diện phụ nữ Anbani có đoạn: “Chúng tôi vô cùng tự hào có người bạn chiến đấu là chị Nguyễn Thị Định. Chị đã thay mặt cho phụ nữ chúng ta giương cao chủ nghĩa anh hùng cao cả và cổ vũ cho hàng triệu phụ nữ yêu tự do, vì hòa bình và tiến bộ xã hội”.
Có thể nói, từ trong muôn vàn gian khổ, bao lần vào sinh ra tử, trải qua 2 cuộc kháng chiến, cho đến khi giữ cương vị cao trong bộ máy Nhà nước, bà Nguyễn Thị Định luôn giữ phẩm chất nhân ái, rộng lượng, bao dung, sống chan hòa, gần gũi, chân tình với mọi người. Vì thế cái tên chị Ba, cô Ba, bà Ba thân thương, không chỉ sống mãi trong lòng nhân dân quê hương Bến Tre và cả nước, mà còn sống mãi với bạn bè năm châu.
Ngày 26/8/1992, trái tim của vị nữ tướng huyền thoại Nguyễn Thị Định ngừng đập. Bà đã sống một cuộc đời trọn vẹn với non sông, đất nước, đã có nhiều đóng góp lớn lao với Tổ quốc, với nhân dân. Bà được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và nhiều huân chương cao quý khác./.
|
Một ấn bản tiểu thuyết của Jane Austen đã trở thành tác phẩm đắt giá nhất của tác giả khi được bán với giá 375.000 bảng Anh và sẽ được trưng bày lần đầu tiên tại
Vương quốc Anh
.
Ấn bản tiểu thuyết đầu tiên và duy nhất được ghi thông điệp viết tay từ tác giả. Ảnh: Will Dax / Solent News & Photo Agency.
Peter Harrington, cửa hiệu buôn bán sách hiếm ở London, cho biết đây là ấn bản đầu tiên, duy nhất của Jane Austen có thông điệp của tác giả. Theo thông lệ, cuốn sách do nhà xuất bản in chứ không phải do chính Jane Austen viết và được tặng cho bạn của cô Anne Sharp, người quản lí các con của Edward.
Pom Harrington, chủ sở hữu của Peter Harrington, cho biết: “Người mua ấn bản Emma của Jane Austen bày tỏ mong muốn tác phẩm sẽ được giữ lại ở Vương quốc Anh”.
Do vậy sách đã được gửi tại Chawton House, Hampshire, ngôi nhà cũ của anh trai nhà văn, Edward, hiện trở là cơ quan chuyên về nghiên cứu những sáng tác của phụ nữ.
“Chúng tôi ngay lập tức nghĩ đến Chawton House – vì mối liên hệ của cuốn sách với nhà văn và anh trai Edward của cô ấy. Sự ủng hộ của Chawton House đối với văn học của phụ nữ thời kì đầu đã khiến nơi này trở thành lựa chọn hoàn hảo, và cũng vì Anne Sharp từng là người bạn tâm giao, người cổ vũ và đôi khi là nhà phê bình các tác phẩm của Austen.
Mặt sau của bìa tác phẩm.
Emma Yandle, người phụ trách Chawton House cho biết: “Khi nghe tin cuốn sách được bán cho một độc giả Mĩ, chúng tôi đã lo lắng rằng sách sẽ sang Mĩ và biến mất”.
Katie Childs, giám đốc điều hành của Chawton House, cho biết: “Chúng tôi rất vui khi một tác phẩm quan trọng của Jane Austen sẽ chiếm một vị trí trong kho tàng văn học của chúng tôi.”
Cuốn sách sẽ được trưng bày tại Chawton House vào đầu năm sau.
BÌNH NGUYÊN
dịch
|
An edition of Jane Austen's novel has become the author's most expensive work when it sold for £375,000 and will go on display for the first time at the
UK
.
The first and only edition of the novel to be inscribed with a handwritten message from the author. Photo: Will Dax / Solent News & Photo Agency.
Peter Harrington, a rare book dealer in London, said this is the first and only edition of Jane Austen with a message from the author. As was customary, the book was printed by the publisher, not written by Jane Austen herself, and was given to her friend Anne Sharp, who managed Edward's children.
Pom Harrington, owner of Peter Harrington, said: “Buyers of the Jane Austen edition of Emma have expressed a wish that the work will remain in the UK.”
So the book was deposited at Chawton House, Hampshire, the former home of the writer's brother, Edward, now an institution specializing in the study of women's writing.
“We immediately thought of Chawton House – because of the book's connection to the writer and her brother Edward. Chawton House's support of early women's literature made it the perfect choice, and also because Anne Sharp had been a confidant, cheerleader and sometimes critic of the literature. Austen's works.
Back of the cover of the work.
"When we heard the book was being sold to an American audience, we were worried that the book would go to America and disappear," said Emma Yandle, curator of Chawton House.
Katie Childs, chief executive of Chawton House, said: “We are delighted that an important work by Jane Austen will take a place in our literary repertoire.”
The book will be displayed at Chawton House early next year.
BINH NGUYEN
pandemic
|
Chiều 17-10, tại trụ sở Trung ương Đảng,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã tiếp Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob nhân dịp thăm cấp nhà nước tới Việt Nam.
Tổng thống Halimah Yacob bày tỏ vui mừng được đến thăm Việt Nam trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên tới một nước Đông Nam Á kể từ đại dịch Covid-19; chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp và dành cho đoàn những tình cảm thân thiết.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob. Ảnh: TTXVN.
Tổng thống Halimah Yacob đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam, sự thay đổi mạnh mẽ, vượt bậc so với cách đây 30 năm khi bà có dịp đến thăm Việt Nam. Tổng thống Halimah Yacob chúc mừng những thành công của Việt Nam trong phát triển kinh tế-xã hội, vượt qua khó khăn do dịch Covid-19 gây ra và duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao, cho rằng đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Tổng thống Halimah Yacob thông tin với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về kết quả cuộc hội đàm với Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, trong đó có việc hai bên đã ký kết các bản ghi nhớ về hợp tác trên nhiều lĩnh vực; nhấn mạnh quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước phát triển mạnh mẽ và sâu rộng.
Singapore
luôn coi trọng phát triển quan hệ với
Việt Nam
, phát huy những thành tựu đã đạt được cũng như mở rộng hợp tác trong giai đoạn mới trên các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, an ninh mạng, thương mại và đầu tư, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có chương trình đào tạo dành cho cán bộ cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Singapore; mong muốn hai bên phối hợp chặt chẽ để triển khai có hiệu quả các thỏa thuận hợp tác, đưa quan hệ hai nước phát triển thực chất và hiệu quả, đem lại lợi ích cho nhân dân hai nước, trở thành hình mẫu hợp tác trong các nước ASEAN.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob. Ảnh: TTXVN
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh Tổng thống Halimah Yacob và đoàn đại biểu cấp cao Singapore thăm cấp nhà nước tới Việt Nam; cho rằng chuyến thăm là biểu hiện sinh động của mối quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và Singapore, đặt dấu mốc mới đưa quan hệ giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu trong bối cảnh hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2023.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng quan hệ đối tác chiến lược với Singapore; đề nghị hai nước phát huy hiệu quả tiềm năng hợp tác to lớn thông qua tăng cường trao đổi, tiếp xúc cấp cao và các cấp trên tất cả các kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân; nâng cao hiệu quả hợp tác thương mại, đầu tư, tạo điều kiện cho phục hồi kinh tế sau đại dịch. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng giao các cơ quan hữu quan của Việt Nam phối hợp chặt chẽ với các đối tác Singapore để hiện thực hóa các thỏa thuận đạt được trong chuyến thăm của Tổng thống Halimah Yacob, vì lợi ích của nhân dân hai nước.
Nhân dịp này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi lời chào và thăm hỏi thân tình đến Thủ tướng Lý Hiển Long và các nhà lãnh đạo Singapore; chúc nhân dân và đất nước Singapore ngày càng phát triển phồn vinh và hạnh phúc.
HOÀNG VŨ
|
On the afternoon of October 17, at the Party Central Committee headquarters,
General Secretary Nguyen Phu Trong
received President of the Republic of Singapore Halimah Yacob on the occasion of his state visit to Vietnam.
President Halimah Yacob expressed his joy to visit Vietnam on his first foreign trip to a Southeast Asian country since the Covid-19 pandemic; Sincerely thank General Secretary Nguyen Phu Trong for receiving and giving the delegation close feelings.
General Secretary Nguyen Phu Trong and President of the Republic of Singapore Halimah Yacob. Photo: TTXVN.
President Halimah Yacob highly appreciated Vietnam's achievements, the strong and outstanding changes compared to 30 years ago when she had the opportunity to visit Vietnam. President Halimah Yacob congratulated Vietnam's successes in socio-economic development, overcoming difficulties caused by the Covid-19 epidemic and maintaining high economic growth, saying it was thanks to its leadership. wisdom of the Communist Party of Vietnam, headed by General Secretary Nguyen Phu Trong.
President Halimah Yacob informed General Secretary Nguyen Phu Trong about the results of the talks with President Nguyen Xuan Phuc, including that the two sides signed memoranda of understanding on cooperation in many fields; emphasizing the strong and deep development of the strategic partnership between the two countries.
Singapore
always attach importance to developing relationships with
Vietnam
, promoting achieved achievements as well as expanding cooperation in the new period in fields such as renewable energy, cyber security, trade and investment, human resource training cooperation, including training program for senior officials of the Communist Party of Vietnam in Singapore; We hope that the two sides will coordinate closely to effectively implement cooperation agreements, bring the two countries' relations to real and effective development, bring benefits to the two peoples, and become a model of cooperation in the future. ASEAN countries.
General Secretary Nguyen Phu Trong receives President of the Republic of Singapore Halimah Yacob. Photo: TTXVN
General Secretary Nguyen Phu Trong welcomed President Halimah Yacob and the high-ranking Singapore delegation to pay a state visit to Vietnam; said that the visit is a vivid expression of the good friendship and cooperation between Vietnam and Singapore, setting a new milestone to deepen the relationship between the two countries in the context of the 50th anniversary. year of establishing diplomatic relations and 10 years of establishing strategic partnership by 2023.
General Secretary Nguyen Phu Trong affirmed that Vietnam attaches great importance to the strategic partnership with Singapore; suggested that the two countries effectively promote their great cooperation potential through increased exchanges and contacts at high levels and at all levels across all channels of the Party, Government, National Assembly and people; improve the effectiveness of trade and investment cooperation, creating conditions for economic recovery after the pandemic. General Secretary Nguyen Phu Trong assigned relevant Vietnamese agencies to coordinate closely with Singaporean partners to realize the agreements reached during the visit of President Halimah Yacob, for the benefit of the two peoples. .
On this occasion, General Secretary Nguyen Phu Trong sent warm greetings and greetings to Prime Minister Lee Hsien Loong and Singapore leaders; Wishing the people and country of Singapore increasingly prosperous and happy development.
HOANG VU
|
Tuyển Việt Nam và ông thầy người Hàn Quốc sẽ nói lời chia tay sau AFF Cup 2022. Di sản mà HLV Park Hang Seo để lại rất lớn, đủ thách thức những người kế nhiệm nhưng cũng chẳng ít kỳ vọng,
1. Tương lai của HLV Park Hang Seo rốt cuộc cũng đã chốt lại với thông báo từ VFF bằng việc chiến lược gia người Hàn Quốc chia tay tuyển Việt Nam sau AFF Cup 2022.
Ông thầy người Hàn Quốc có thể mang về chức vô địch cho bóng đá Việt Nam hay không chưa cần phải bàn, chỉ riêng những gì để lại trong 5 năm gắn bó vừa qua thực sự rất hoành tráng.
Hàng loạt chiến tích lớn và lần đầu tiên bóng đá Việt Nam giành được phần nhiều tới từ quãng thời gian HLV Park Hang Seo đến cầm quân như danh hiệu á quân U23 châu Á, vòng loại thứ 3 World Cup 2022, HCV SEA Games…
Dù cũng có những thất bại, nhưng rõ ràng di sản mà ông Park để lại cho bóng đá Việt Nam quá nhiều, và đương nhiên chúng ta phải cảm ơn về điều này.
Những chiến tích mà HLV Park Hang Seo mang về cho bóng đá Việt Nam là thách thức lớn với người kế nhiệm.
2. Những gì HLV Park Hang Seo đã làm được trong suốt 5 năm qua bất luận thế nào cũng là thách thức đối với người kế nhiệm chiếc ghế thuyền trưởng tuyển Việt Nam sau AFF Cup 2022.
Thách thức là chắc chắn, bởi ngoài việc phải thành công hơn hoặc chí ít tương tự về mặt thành tích thực sự không đơn giản trong bối cảnh mà bóng đá Việt Nam có phần chững lại, ít nhất trong vấn đề con người.
Nói thế không có nghĩa tuyển Việt Nam yếu đi, nhưng thực tế cần phải xác định rằng khi hàng loạt danh hiệu cần thiết đã được chinh phục, khát vọng của các cầu thủ chủ chốt chưa chắc đã còn như thời điểm cần khẳng định bản thân.
Bên cạnh đó, mục tiêu vươn xa hơn những gì mà HLV Park Hang Seo đã đi trong suốt 5 năm qua chẳng hề đơn giản, chính vì thế người đi sau sẽ nhận áp lực rất lớn là điều chắc chắn. Nhưng suy cho cùng, HLV Park Hang Seo bên cạnh tài năng còn cần đến thời vận để hy vọng người kế nhiệm sẽ thành công.
3. Bên cạnh thách thức, người kế nhiệm cũng có những thuận lợi không kém khi 5 năm qua HLV Park Hang Seo đã xây dựng một lộ trình, nền tảng tương đối chắc chắn cho tuyển Việt Nam về vị thế, sự tự tin… khi ra sân chơi lớn.
Không chỉ có vậy, một vài điều mà HLV Park Hang Seo chưa làm được hay dang dở như lối chơi cũng là một yếu tố giúp tân thuyền trưởng thành công nếu giải quyết được phần việc của người đi trước để lại.
Một ví dụ rất rõ, dù không đạt được chiến tích như ông Park từng làm với U23 Việt Nam tại Thường Châu, nhưng sự tươi mới trong lối chơi dưới thời HLV Gong Oh Kyun cũng mang đến sự hứng khởi, hy vọng chẳng hạn.
Di sản, thách thức mà ông Park để lại có thể là rất lớn nhưng khi bóng đá Việt Nam đã vào guồng, ổn định thì người đến sau cứ yên tâm mà làm. Và biết đâu sẽ thành công hơn không biết chừng, vì thực ra HLV Park Hang Seo cũng là người chứ chẳng phải thánh thần, bên cạnh đó bóng đá suy cho cùng cũng cần đến thời vận nữa.
Duy Nguyễn
|
The Vietnamese team and the Korean teacher will say goodbye after the AFF Cup 2022. The legacy that coach Park Hang Seo leaves behind is very big, enough to challenge his successors but also has many expectations.
1. Coach Park Hang Seo's future has finally ended with the announcement from VFF that the Korean strategist said goodbye to the Vietnamese team after the 2022 AFF Cup.
Whether the Korean teacher can bring back the championship to Vietnamese football or not is not up for debate, the legacy of the past 5 years of association is truly magnificent.
A series of great achievements and the first time Vietnamese football won many came from the time coach Park Hang Seo took charge such as the Asian U23 runner-up title, the 3rd qualifying round of the 2022 World Cup, the SEA Games gold medal...
Although there were also failures, it is clear that the legacy that Mr. Park left behind for Vietnamese football is too much, and of course we have to thank him for this.
The achievements that Coach Park Hang Seo brought to Vietnamese football are a big challenge for his successor.
2. Whatever Coach Park Hang Seo has done over the past 5 years, no matter what, is a challenge for the successor to the Vietnam captain's chair after the 2022 AFF Cup.
The challenge is certain, because in addition to having to be more successful or at least similar in terms of achievements, it is not really simple in a context where Vietnamese football is somewhat stagnant, at least in human matters.
Saying that does not mean that the Vietnamese team is weak, but in fact it must be determined that when a series of necessary titles have been conquered, the aspirations of key players may not still be the same as when they need to assert themselves. close.
Besides, the goal of reaching further than what Coach Park Hang Seo has gone through in the past 5 years is not simple, so it is certain that those who follow will receive great pressure. But in the end, coach Park Hang Seo, in addition to talent, also needs luck to hope that his successor will succeed.
3. Besides challenges, the successor also has equally advantages as in the past 5 years Coach Park Hang Seo has built a relatively solid roadmap and foundation for the Vietnamese team in terms of position, confidence... when going to the big playground.
Not only that, some things that coach Park Hang Seo has not done or are unfinished, such as playing style, are also a factor to help the new captain succeed if he can solve the work left by his predecessor.
A very clear example, although he did not achieve the same feat as Mr. Park did with U23 Vietnam in Changzhou, the freshness in the playing style under coach Gong Oh Kyun also brought excitement and hope, for example.
The legacy and challenges that Mr. Park leaves behind may be huge, but when Vietnamese football is on track and stable, those who come later can rest assured. And who knows, maybe it will be more successful, because coach Park Hang Seo is actually a human being, not a god, besides, football ultimately needs luck.
Duy Nguyen
|
“Em ơi đừng khóc nữa. Chiều nay Tuy Hòa mưa”. Đội mưa lũ, đội câu thơ của Lô Ca, thi sĩ núi Nhạn sông Ba, chúng tôi ngắm mây phủ Đá Bia, Vũng Rô – một thời “với Tàu không số” huyền thoại, vượt đèo Cả qua Ninh Hòa quê hương nhà thơ Giang Nam về khu vực chợ Đầm Nha Trang thăm và thắp hương cố thi sĩ Quách Tấn – tác giả nổi tiếng với tác phẩm
Nước Non Bình Định
và
Khánh Hòa xứ trầm hương
.
Vợ chồng nhà văn, nhà nghiên cứu Quách Giao trước chân dung và thư pháp viết về cha mình Quách Tấn.
Khánh Hòa
là xứ trầm hương. Non cao biển rộng người thương đi về” Ngỡ đây là hai câu ca dao mà thực ra chính là thơ ca ngợi Khánh Hòa xứ sở trầm hương của cố thi sĩ Quách Tấn… Vùng đất đặc biệt lắm mới gắn với chữ Xứ – xứ sở như xứ Lạng, xứ Đoài, xứ Nghệ, xứ Huế, xứ Quảng. Khánh Hòa gắn với hai xứ: Xứ sở loài chim yến và Xứ trầm hương. Ở vùng đất có biển Nha Trang, nhiều đảo lớn nhỏ, có sông… một thiên đường du lịch. Chính xứ sở hồn thiêng sông núi biên đảo địa linh này đã hút hồn thi sĩ Quách Tấn một trong 4 thành viên Bàn thành tứ hữu (
Quách Tấn
,
Hàn Mặc Tử
,
Xuân Diệu
,
Chế Lan Viên
), quê ở
Bình Định
“đất võ trời văn” chọn nơi đây là quê hương thứ hai định danh và định cư. Tại nơi thờ phụng Quách Tấn, người con của ông là nhà văn, nhà nghiên cứu Quách Giao tay bắt mặt mừng tiếp chúng tôi. Tôi thân thiết với vợ chồng ông khi cùng nhau thả hoa đăng, hương đăng trên chùa đảo Từ Tôn Hòn Đỏ Nha Trang cầu nguyện cho các anh hùng liệt sĩ ở Trường Sa, Hoàng Sa. Ông tặng cho tôi cuốn sách “Gánh nước tưới sông” và tôi kính tặng lại tập thơ “Bóng núi bóng sông” của tôi cho ông. Và tình đạo hữu, tình bạn hữu thân thiết gắn bó đến bây giờ. Qua báo Văn nghệ, ông gởi lời cảm ơn tạp chí
Xưa và nay
và nhà báo Nguyễn Hạnh có nhã ý kết hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa tổ chức hội thảo Quách Tấn hơn 100 năm nhìn lại. Đánh giá những cống hiến của Quách Tấn về thơ, văn, dịch thuật, khảo cứu, dư địa chí, du lịch, lịch sử các tỉnh miền Trung nói chung, Khánh Hòa nói riêng. Ở tuổi gần bước qua ngưỡng cửa Chín Mươi, nhưng nhà văn, nhà nghiên cứu Quách Giao, con của cố thi sĩ Quách Tấn nhớ vanh vách các tác phẩm của cha mình. Về thơ, có
Một tấm lòng, Mùa cổ điển, Giọt trăng, Mộng ngân sơn
. Về văn, có
Nước non Bình Định, Xứ trầm hương, Bước lãng du
, về dịch, có
Nghìn lẻ một đêm
(cả bộ),
Trăng ma lầu Việt, Ngục trung nhật ký, Tố Như thi, Thái Thuận
. Về hồi ký, có
Bóng ngày qua
(4 tập). Về khảo cứu, có
Thi pháp thơ Đường, Thi thoại
(toàn bộ):
Hương vườn cũ, Hưng phấn nâng hương, Trăng vườn hoa thơ, Những bức thư thơ
. Bộ Thi thoại này có giá trị vì có phê bình thơ, sưu tập thơ, giới thiệu thơ khoảng 1.600 trang A4. Ngoài ra thi sĩ Quách Tấn còn có tập thơ
Vui với trẻ em
, viết về thiếu nhi ở xứ sở Bình Định, Khánh Hòa từ những năm ông đi dạy học từ 1937 đến 1954. Đặc biệt Quách Tấn có những cuốn sách có giá trị lịch sử như:
Nhà Tây Sơn, Phong trào Cần Vương Bình Định, Phong trào Cần Vương Phú Yên, Phong trào Cần Vương tỉnh Khánh Hòa
. Cống hiến lớn nhất của Quách Tấn cho xứ sở về thơ là giữ lại được vị thế của thơ Đường cho Việt Nam; quy hoạch được luật thơ Đường cho thế hệ sau học về văn, ông viết hay nhất về địa phương chí cho các tỉnh
Thừa Thiên Huế
,
Quảng Nam
,
Quảng Ngãi
,
Phú Yên
, Ninh Thuận, nhất là
Non nước Bình Định, Xứ trầm hương
. Trao đổi tâm đắc với báo Văn nghệ, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Nguyễn Đắc Xuân về Quách Tấn là: phần lớn các đề tài, công trình của mình đều dựa vào nhiều tác phẩm, tác giả về dư địa chí, văn hóa, văn nghệ, lịch sử, truyền thống của Quách Tấn. Tôi sẽ nói hết về giá trị của Quách Tấn trong tham luận
Hồi ức về người anh lớn Quách Tấn
tại hội thảo 112 năm ngày sinh, 30 năm ngày mất của Quách Tấn… Một đóng góp lớn lao của Quách Tấn là năm 1964, ông được mời làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc thành phố Nha Trang ủng hộ cuộc đấu tranh đả đảo chính phủ Việt Nam cộng hòa Nguyễn Khánh. Nhà văn nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân một nhân chứng lịch sử kể lại: với tư cách Ủy viên Hội đồng nhân dân cứu quốc của Trung ương ở Thừa Thiên Huế nhận lệnh bác sĩ Chủ tịch Lê Khắc Quyến bạn của Quách Tấn đi vận động xây dựng Quách Tấn là Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc thành Nha Trang, bác sĩ Nguyễn Thạch là Chủ tịch… Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên lan rộng khắp miền Trung. Quách Tấn là nhân sĩ trí thức là người hưởng ứng hoạt động nhiệt thành. Tác động mạnh mẽ và hưởng ứng tích cực hội thảo sắp đến với tiêu đề ban đầu mình đưa ra Quách Tấn – Hơn 100 năm nhìn lại, nhà sử học Dương Trung Quốc là người phát hiện đầu tiên thi sĩ Quách Tấn đã yêu thích và kính trọng người tù cộng sản yêu nước cao cả nên say mê, “chú tâm dịch
Ngục trung nhật ký
từ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1963, khi người chị con bác ruột là Quách Thị Nhược gửi vòng từ Pháp về cho ông” Riêng.tôi còn nhớ tại chùa Từ Tôn, Hòn Đỏ, Nha Trang trong lễ dâng hương cho Bác Hồ, anh hùng liệt sĩ, trong đó có chí sĩ Trần Quý Cáp và anh hùng liệt sĩ ” tàu không số” Nguyễn Phan Vinh, nhà thơ Giang Nam rất kính phục và ngưỡng mộ việc nhà thơ, dịch giả Quách Tấn đã dám vượt qua rào cản có thể đánh đổi bằng sinh mệnh chính trị nếu bị chính quyền tay sai địch phát hiện tàng trữ hoặc tuyên truyền cho lãnl tụ cộng sản là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh. Nhà thơ nổi tiếng với bài thơ
Quê hương
và
Nghe em vào đại học
đã xúc động nói với tôi, cựu đại tá nhà báo Quân đội nhân dân Nguyễn Đức Toại và đạo diễn điện ảnh Phạm Việt Tùng rằng, nhờ đọc nghiên cứu và sử dụng thông tin trong nhiều tác phẩm tác giả của Quách Tấn, mà khi làm Phó Chủ tịch văn xã Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã “thông đồng bén giọt” nhiều vấn đề để chỉ đạo, hướng dẫn và làm sáng tỏ về văn hóa, du lịch, truyền thống lịch sử và thắng cảnh, sản vật đẹp, quý của xứ trầm hương.
Nhà thơ Giang Nam nói chuyện với các nhà báo, nhà văn quân đội và đạo diễn truyền hình về ảnh hưởng sâu rộng của nhà thơ Quách Tấn với Xứ trầm hương Khánh Hòa
Cảm kích trước những cống hiến phụng sự của Quách Tấn, Thượng tọa Thích Chúc Minh chùa Từ Tôn Hòn Đỏ sẵn sàng dành một gian thờ trân trọng chân dung và trước tác của tác giả
Xứ trầm hương
và
Nước non Bình Định
ở ngôi chùa đảo của mình. Thỉnh một hồi chuông và thành kính dâng hương cố thi sĩ, dịch giả, nhà nghiên cứu Quách Tấn tại ngôi nhà cổ hơn 100 năm chật chội, ẩm thấp ở gần chợ Đầm, tôi hỏi mong mỏi nhất của bác Quách Giao, con trai ông thì được nghe một nỗi niềm: “Vợ chồng già chúng tôi, chẳng đặng đừng, đành đoạn lên kế hoạch bán ngôi nhà cổ này để mua đất nơi cao ráo, sạch sẽ để thờ phụng cha tôi, đồng thời sẽ in sách những di cảo quý báu, tái bản những cuốn sách hiện không còn sách lưu trữ. Nhìn đôi mắt bác nhà văn tuổi cửu thập đỏ ươn ướt, mắt tôi cũng cay xè. Tôi muốn qua hội thảo Quách Tấn – hương xứ trầm (chữ dùng rất ý nghĩa của nhà văn Quách Giao), đề nghị với hai tỉnh Khánh Hòa – xứ trầm hương, xứ sở loài chim yến và Bình Định xứ nẫu “đất võ trời văn” nên trân trọng đặt tên đường, tên trường, xây nhà lưu niệm cho danh sĩ Quách Tấn. Còn
nhà văn Thái Bá Lợi
, Giám đốc Chi nhánh Nhà xuất bản Hội Nhà văn các tỉnh miền Trung hứa sẽ sẵn sàng hợp tác với gia đình và cơ quan tài trợ tổ chức lại toàn bộ bản thảo để xuất bản toàn tập Quách Tấn.
Đêm 15/10/2022
L.A.D
|
“Em ơi đừng khóc nữa. Chiều nay Tuy Hòa mưa”. Đội mưa lũ, đội câu thơ của Lô Ca, thi sĩ núi Nhạn sông Ba, chúng tôi ngắm mây phủ Đá Bia, Vũng Rô – một thời “với Tàu không số” huyền thoại, vượt đèo Cả qua Ninh Hòa quê hương nhà thơ Giang Nam về khu vực chợ Đầm Nha Trang thăm và thắp hương cố thi sĩ Quách Tấn – tác giả nổi tiếng với tác phẩm
Nước Non Bình Định
và
Khánh Hòa xứ trầm hương
.
Vợ chồng nhà văn, nhà nghiên cứu Quách Giao trước chân dung và thư pháp viết về cha mình Quách Tấn.
Khánh Hòa
là xứ trầm hương. Non cao biển rộng người thương đi về” Ngỡ đây là hai câu ca dao mà thực ra chính là thơ ca ngợi Khánh Hòa xứ sở trầm hương của cố thi sĩ Quách Tấn… Vùng đất đặc biệt lắm mới gắn với chữ Xứ – xứ sở như xứ Lạng, xứ Đoài, xứ Nghệ, xứ Huế, xứ Quảng. Khánh Hòa gắn với hai xứ: Xứ sở loài chim yến và Xứ trầm hương. Ở vùng đất có biển Nha Trang, nhiều đảo lớn nhỏ, có sông… một thiên đường du lịch. Chính xứ sở hồn thiêng sông núi biên đảo địa linh này đã hút hồn thi sĩ Quách Tấn một trong 4 thành viên Bàn thành tứ hữu (
Quách Tấn
,
Hàn Mặc Tử
,
Xuân Diệu
,
Chế Lan Viên
), quê ở
Bình Định
“đất võ trời văn” chọn nơi đây là quê hương thứ hai định danh và định cư. Tại nơi thờ phụng Quách Tấn, người con của ông là nhà văn, nhà nghiên cứu Quách Giao tay bắt mặt mừng tiếp chúng tôi. Tôi thân thiết với vợ chồng ông khi cùng nhau thả hoa đăng, hương đăng trên chùa đảo Từ Tôn Hòn Đỏ Nha Trang cầu nguyện cho các anh hùng liệt sĩ ở Trường Sa, Hoàng Sa. Ông tặng cho tôi cuốn sách “Gánh nước tưới sông” và tôi kính tặng lại tập thơ “Bóng núi bóng sông” của tôi cho ông. Và tình đạo hữu, tình bạn hữu thân thiết gắn bó đến bây giờ. Qua báo Văn nghệ, ông gởi lời cảm ơn tạp chí
Xưa và nay
và nhà báo Nguyễn Hạnh có nhã ý kết hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa tổ chức hội thảo Quách Tấn hơn 100 năm nhìn lại. Đánh giá những cống hiến của Quách Tấn về thơ, văn, dịch thuật, khảo cứu, dư địa chí, du lịch, lịch sử các tỉnh miền Trung nói chung, Khánh Hòa nói riêng. Ở tuổi gần bước qua ngưỡng cửa Chín Mươi, nhưng nhà văn, nhà nghiên cứu Quách Giao, con của cố thi sĩ Quách Tấn nhớ vanh vách các tác phẩm của cha mình. Về thơ, có
Một tấm lòng, Mùa cổ điển, Giọt trăng, Mộng ngân sơn
. Về văn, có
Nước non Bình Định, Xứ trầm hương, Bước lãng du
, về dịch, có
Nghìn lẻ một đêm
(cả bộ),
Trăng ma lầu Việt, Ngục trung nhật ký, Tố Như thi, Thái Thuận
. Về hồi ký, có
Bóng ngày qua
(4 tập). Về khảo cứu, có
Thi pháp thơ Đường, Thi thoại
(toàn bộ):
Hương vườn cũ, Hưng phấn nâng hương, Trăng vườn hoa thơ, Những bức thư thơ
. Bộ Thi thoại này có giá trị vì có phê bình thơ, sưu tập thơ, giới thiệu thơ khoảng 1.600 trang A4. Ngoài ra thi sĩ Quách Tấn còn có tập thơ
Vui với trẻ em
, viết về thiếu nhi ở xứ sở Bình Định, Khánh Hòa từ những năm ông đi dạy học từ 1937 đến 1954. Đặc biệt Quách Tấn có những cuốn sách có giá trị lịch sử như:
Nhà Tây Sơn, Phong trào Cần Vương Bình Định, Phong trào Cần Vương Phú Yên, Phong trào Cần Vương tỉnh Khánh Hòa
. Cống hiến lớn nhất của Quách Tấn cho xứ sở về thơ là giữ lại được vị thế của thơ Đường cho Việt Nam; quy hoạch được luật thơ Đường cho thế hệ sau học về văn, ông viết hay nhất về địa phương chí cho các tỉnh
Thừa Thiên Huế
,
Quảng Nam
,
Quảng Ngãi
,
Phú Yên
, Ninh Thuận, nhất là
Non nước Bình Định, Xứ trầm hương
. Trao đổi tâm đắc với báo Văn nghệ, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Nguyễn Đắc Xuân về Quách Tấn là: phần lớn các đề tài, công trình của mình đều dựa vào nhiều tác phẩm, tác giả về dư địa chí, văn hóa, văn nghệ, lịch sử, truyền thống của Quách Tấn. Tôi sẽ nói hết về giá trị của Quách Tấn trong tham luận
Hồi ức về người anh lớn Quách Tấn
tại hội thảo 112 năm ngày sinh, 30 năm ngày mất của Quách Tấn… Một đóng góp lớn lao của Quách Tấn là năm 1964, ông được mời làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc thành phố Nha Trang ủng hộ cuộc đấu tranh đả đảo chính phủ Việt Nam cộng hòa Nguyễn Khánh. Nhà văn nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân một nhân chứng lịch sử kể lại: với tư cách Ủy viên Hội đồng nhân dân cứu quốc của Trung ương ở Thừa Thiên Huế nhận lệnh bác sĩ Chủ tịch Lê Khắc Quyến bạn của Quách Tấn đi vận động xây dựng Quách Tấn là Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc thành Nha Trang, bác sĩ Nguyễn Thạch là Chủ tịch… Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên lan rộng khắp miền Trung. Quách Tấn là nhân sĩ trí thức là người hưởng ứng hoạt động nhiệt thành. Tác động mạnh mẽ và hưởng ứng tích cực hội thảo sắp đến với tiêu đề ban đầu mình đưa ra Quách Tấn – Hơn 100 năm nhìn lại, nhà sử học Dương Trung Quốc là người phát hiện đầu tiên thi sĩ Quách Tấn đã yêu thích và kính trọng người tù cộng sản yêu nước cao cả nên say mê, “chú tâm dịch
Ngục trung nhật ký
từ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1963, khi người chị con bác ruột là Quách Thị Nhược gửi vòng từ Pháp về cho ông” Riêng.tôi còn nhớ tại chùa Từ Tôn, Hòn Đỏ, Nha Trang trong lễ dâng hương cho Bác Hồ, anh hùng liệt sĩ, trong đó có chí sĩ Trần Quý Cáp và anh hùng liệt sĩ ” tàu không số” Nguyễn Phan Vinh, nhà thơ Giang Nam rất kính phục và ngưỡng mộ việc nhà thơ, dịch giả Quách Tấn đã dám vượt qua rào cản có thể đánh đổi bằng sinh mệnh chính trị nếu bị chính quyền tay sai địch phát hiện tàng trữ hoặc tuyên truyền cho lãnl tụ cộng sản là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh. Nhà thơ nổi tiếng với bài thơ
Quê hương
và
Nghe em vào đại học
đã xúc động nói với tôi, cựu đại tá nhà báo Quân đội nhân dân Nguyễn Đức Toại và đạo diễn điện ảnh Phạm Việt Tùng rằng, nhờ đọc nghiên cứu và sử dụng thông tin trong nhiều tác phẩm tác giả của Quách Tấn, mà khi làm Phó Chủ tịch văn xã Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã “thông đồng bén giọt” nhiều vấn đề để chỉ đạo, hướng dẫn và làm sáng tỏ về văn hóa, du lịch, truyền thống lịch sử và thắng cảnh, sản vật đẹp, quý của xứ trầm hương.
Nhà thơ Giang Nam nói chuyện với các nhà báo, nhà văn quân đội và đạo diễn truyền hình về ảnh hưởng sâu rộng của nhà thơ Quách Tấn với Xứ trầm hương Khánh Hòa
Cảm kích trước những cống hiến phụng sự của Quách Tấn, Thượng tọa Thích Chúc Minh chùa Từ Tôn Hòn Đỏ sẵn sàng dành một gian thờ trân trọng chân dung và trước tác của tác giả
Xứ trầm hương
và
Nước non Bình Định
ở ngôi chùa đảo của mình. Thỉnh một hồi chuông và thành kính dâng hương cố thi sĩ, dịch giả, nhà nghiên cứu Quách Tấn tại ngôi nhà cổ hơn 100 năm chật chội, ẩm thấp ở gần chợ Đầm, tôi hỏi mong mỏi nhất của bác Quách Giao, con trai ông thì được nghe một nỗi niềm: “Vợ chồng già chúng tôi, chẳng đặng đừng, đành đoạn lên kế hoạch bán ngôi nhà cổ này để mua đất nơi cao ráo, sạch sẽ để thờ phụng cha tôi, đồng thời sẽ in sách những di cảo quý báu, tái bản những cuốn sách hiện không còn sách lưu trữ. Nhìn đôi mắt bác nhà văn tuổi cửu thập đỏ ươn ướt, mắt tôi cũng cay xè. Tôi muốn qua hội thảo Quách Tấn – hương xứ trầm (chữ dùng rất ý nghĩa của nhà văn Quách Giao), đề nghị với hai tỉnh Khánh Hòa – xứ trầm hương, xứ sở loài chim yến và Bình Định xứ nẫu “đất võ trời văn” nên trân trọng đặt tên đường, tên trường, xây nhà lưu niệm cho danh sĩ Quách Tấn. Còn
nhà văn Thái Bá Lợi
, Giám đốc Chi nhánh Nhà xuất bản Hội Nhà văn các tỉnh miền Trung hứa sẽ sẵn sàng hợp tác với gia đình và cơ quan tài trợ tổ chức lại toàn bộ bản thảo để xuất bản toàn tập Quách Tấn.
Đêm 15/10/2022
L.A.D
|
Đường biên giới giữa
Phần Lan
và
Thụy Điển
là một trong những đường phân tách lạ lùng nhất thế giới khi cứ 25 năm được khảo sát một lần để thay đổi.
Cứ 25 năm một lần, đường biên giới sẽ được đánh dấu lại cho phù hợp. (Nguồn: Amusingplanet)
Nằm ở trong đoạn nối từ vịnh Bothnia đến biển Balti giữa Thụy Điển và Phần Lan, đảo Märket vốn là hòn đảo biển nhỏ nhất thế giới được chia sẻ giữa hai quốc gia Phần Lan và Thụy Điển. Dù chỉ rộng chưa tới 100 m nhưng đường biên giới trên đảo uốn lượn thành hình chữ S dài hơn 1 km để phân cách hai đất nước này.
Được biết, đảo Märket được hình thành từ thế kỷ XVI do mực nước biển thay đổi. Do nằm ở vị trí trung tâm hành lang hẹp lại thấp nên nơi này trở thành địa điểm rất nguy hiểm nếu neo đậu tàu thuyền. Vào năm 1873 đã ghi nhận liên tiếp 8 chiếc tàu bị chìm khi cố hoạt động tại khu vực xung quanh đảo.
Đảo Märket. (Nguồn: Wikipedia)
Để ngăn chặn điều này, Nga hoàng Alexander III (thời điểm Đế quốc Nga trị vì Phần Lan thời đó) đã cho xây dựng một ngọn hải đăng trên đảo, qua đó giúp cảnh báo tàu thuyền không đâm vào những bãi đá ngầm nguy hiểm.
Ngọn hải đăng do kiến trúc sư trẻ tuổi người Phần Lan có tên George Schreck thiết kế và xây dựng. Từ những năm 1970, công trình hoạt động bằng hệ thống điện tự động. Những người gác đèn được chuyển đi nơi khác và nó còn hoạt động tới ngày nay.
Nhưng “éo le” ở chỗ, công trình này lại được dựng lên ở phía Thụy Điển của hòn đảo. Nguyên nhân do thời điểm thi công chưa hề có bản đồ chính xác về sự tồn tại của đảo Märket. Chính điều này đã dẫn tới những câu chuyện thú vị sau này.
Ngọn hải đăng trên đảo Märket. (Nguồn: Wikipedia)
Suốt gần 100 năm trôi qua kể từ ngày xây dựng, ngọn hải đăng vẫn hiên ngang trên đảo mà không có sự can thiệp bởi chính quyền hai nước. Tới tận năm 1981, khi một nhóm các nhà điều tra đến từ Thụy Điển và Phần Lan tiến hành cuộc khảo sát mới bắt đầu điều chỉnh lại đường biên giới.
Đó là đường biên hình chữ S ngược nằm ngoằn nghoèo nhưng đưa ngọn hải đăng quay lại lãnh thổ Phần Lan như nó vốn thuộc về, nhưng lại cho phép người Thụy Điển giữ lại phần đất của quốc gia mình.
Chính sự “bẻ cong” này đã khiến đường biên giới nằm uốn lượn độc đáo. Sự điều chỉnh này được đánh giá không làm thay đổi đường bờ biển nên không ảnh hưởng tới chủ quyền đánh bắt hải sản ở mỗi quốc gia.
Ngoài ra, đường biên được đánh dấu bằng một loạt 10 lỗ khoan vào đá do bất cứ biên giới nào trên mặt đất đều có thể bị những cơn bão dữ dội hay sóng biển thổi bay. Thật vậy, thời tiết và sóng biển ở đảo Märket quá mạnh nên hình dáng đảo đôi lúc bị thay đổi đáng kể.
Đường biên giới trên đảo phân tách hai nước có hình chữ S ngược. (Nguồn: Amusingplanet)
Nhằm khắc phục điều này, cứ 25 năm một lần, chuyên gia đến từ hai nước lại tiến hành một cuộc khảo sát chung trên đảo để thực hiện những thay đổi biên giới sao cho phù hợp khi cần thiết.
Đảo Märket có diện tích khiêm tốn chỉ khoảng 0,03 km2. Đây là nơi đóng vai trò phân cách hai quốc gia từ năm 1809 khi Thụy Điển và Nga – quốc gia cai trị Phần Lan thời điểm đó ký thỏa thuận hiệp ước Fredrikshamn để xác định biên giới của nhau. Khi được thiết lập, đường biên giới này lại chạy ngay qua lãnh thổ trên đảo.
Hòn đảo này do nằm ở giữa hành lang Understen – Märket rộng 11 km và dài 27 km nên đóng vai trò như dấu mốc giúp ích cho người đi biển. Chính vì điều này, nó được đặt tên gọi như hiện tại (có ý nghĩa “điểm đánh dấu” trong tiếng Thụy Điển) hoặc “The Mark”.
|
Middle border
Finland
and
Sweden
is one of the strangest dividing lines in the world when surveyed every 25 years for changes.
Every 25 years, the border will be re-marked accordingly. (Source: Amusingplanet)
Located in the passage from the Gulf of Bothnia to the Balti Sea between Sweden and Finland, Märket Island is the world's smallest sea island shared between the two countries of Finland and Sweden. Although only less than 100 m wide, the border on the island curves into an S shape more than 1 km long to separate these two countries.
It is known that Märket Island was formed in the 16th century due to sea level changes. Because it is located in the center of a narrow and low corridor, this place becomes a very dangerous place to anchor boats. In 1873, eight consecutive ships were recorded sinking while trying to operate in the area around the island.
Märket Island. (Source: Wikipedia)
To prevent this, Tsar Alexander III (when the Russian Empire ruled Finland at that time) built a lighthouse on the island, thereby helping to warn ships not to crash into dangerous reefs. .
The lighthouse was designed and built by a young Finnish architect named George Schreck. Since the 1970s, the project has operated using an automatic electrical system. The lightkeepers were transferred to another place and it is still in operation today.
But the "twist" is that this project was built on the Swedish side of the island. The reason is that at the time of construction, there was no accurate map of the existence of Märket Island. This has led to interesting stories later.
Lighthouse on Märket Island. (Source: Wikipedia)
Nearly 100 years have passed since its construction, the lighthouse still stands tall on the island without interference from the two countries' governments. It was not until 1981, when a group of investigators from Sweden and Finland conducted a survey that they began to readjust the border.
It is an upside-down S-shaped border that zigzags but brings the lighthouse back to Finnish territory where it belongs, but allows the Swedes to retain their national land.
It is this "bending" that causes the border to curve uniquely. This adjustment is estimated to not change the coastline so it does not affect fishing sovereignty in each country.
In addition, the border is marked by a series of 10 holes drilled into the rock because any border on the ground can be blown away by fierce storms or ocean waves. Indeed, the weather and waves on Märket Island are so strong that the shape of the island sometimes changes significantly.
The border on the island separating the two countries is shaped like an inverted S. (Source: Amusingplanet)
To overcome this, every 25 years, experts from the two countries conduct a joint survey on the island to make appropriate border changes when necessary.
Märket Island has a modest area of only about 0.03 km2. This is the place that has served as a separation between the two countries since 1809 when Sweden and Russia - the country that ruled Finland at that time - signed the Fredrikshamn treaty to determine each other's borders. When established, this border ran right through the island's territory.
This island is located in the middle of the Understen - Märket corridor, which is 11 km wide and 27 km long, so it serves as a useful landmark for mariners. Because of this, it was given its current name (which means “marker” in Swedish) or “The Mark”.
|
Cảnh sắc Hà Nội, lịch sử Hà Nội, văn hóa Hà Nội, con người Hà Nội từ lâu đã là đề tài được yêu thích. Hơn nửa thế kỷ sống trong lòng Hà Nội và có hơn bốn mươi năm theo sát tiến trình văn học Việt Nam đương đại, nhà nghiên cứu, phê bình Bùi Việt Thắng chọn “lối Hà Nội” của riêng mình qua lăng kính văn chương.
Văn chương Hà Nội xưa nay vô cùng phong phú, đa dạng. Trong công việc giảng dạy, nghiên cứu, phê bình văn học mấy mươi năm qua, tác giả Bùi Việt Thắng đã nhiều lần “chạm bút đến các nhà văn gốc gác Hà Nội, hoặc các nhà văn viết về
Hà Nội
bằng một tâm cảm sâu thẳm”. Cuốn sách “Hà Nội từ góc nhìn văn chương” là tập hợp những tiểu luận – phê bình – hỏi chuyện – chân dung nhà văn; ở mỗi bài viết, tác giả luôn “cố gắng nương theo đối tượng cho phù hợp”. Chắt lọc kỹ càng 35 bài viết trải dài suốt hơn một phần tư thế kỷ, tác giả Bùi Việt Thắng đem đến cho bạn đọc những lát cắt về một số tác giả nổi tiếng từng sinh sống và làm việc tại
Hà Nội
.
Đó là khi nhìn lại “một sự nghiệp văn chương” của nhà văn Hoàng Ngọc Phách qua “Tố Tâm”, tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định, dù hiện nay “có thể người ta gọi “Tố Tâm là tiểu thuyết ngôn tình”, nhưng tác phẩm ấy vẫn là “một cột mốc, một dấu ấn ghi nhận bước ngoặt trên chặng đường một thế kỷ của nền tiểu thuyết Việt Nam”. Viết về “duyên văn” của Nguyễn Công Hoan, tác giả nghiên cứu về tiếng cười đặc sắc mà nhà văn đã cất lên, qua tác phẩm của mình, vẫn còn ngân rung, dư ba, vang vọng đến tận bây giờ. Hay khi đọc lại
Thạch Lam
, tác giả cho rằng đó là một thứ văn xuôi giàu chất thơ, có nhịp điệu, không gấp gáp, xô bồ mà tự tại, “có khả năng tái tạo những rung động tâm hồn con người nhiều khi chỉ “khẽ như cánh bướm”…
Ngoài viết về
Vũ Trọng Phụng
,
Nguyễn Tuân
,
Vũ Bằng
,
Nguyễn Huy Tưởng
,
Tô Hoài
,
Nguyễn Đình Thi
,
Lưu Quang Vũ
,
Nguyễn Xuân Khánh
…, tác giả Bùi Việt Thắng cũng dành mối quan tâm tới nhiều cây viết nổi tiếng khác như Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Khuê,
Hữu Thỉnh
,
Nguyễn Quang Thiều
… Độc giả cũng “gặp” trong cuốn sách của ông góc nhìn độc đáo như “Phố Thúy” khi viết về Đỗ Bích Thúy và tác phẩm “Cửa hiệu giặt là”, như “Ký ức lương thiện” khi nhắc đến Trung Sỹ và hồi ức “Chuyện lính Tây Nam”, hay “Hiện tượng Phạm Quang Long” – người luôn “hướng ngòi bút của mình tới các giá trị văn hóa, văn chương”…
Mỗi tác giả, bằng tác phẩm độc đáo của mình, bằng chất văn riêng, đã góp thêm mảng màu vào bức tranh sinh động của văn chương Hà Nội. Và, nhà nghiên cứu, phê bình Bùi Việt Thắng, từ góc nhìn của mình, giúp độc giả nhìn nhận rõ hơn hình khối, đường nét, sắc màu của bức tranh ấy, dù ông tâm sự rằng “trong khuôn khổ hạn hẹp của một cuốn sách khó có thể giới thiệu được nhiều hơn các tác giả đại diện cùng các tác phẩm tiêu biểu cho phẩm chất người Hà Nội”. Bởi thế, tác giả hy vọng, cuốn sách như “một gợi ý về cách tiếp cận văn chương Thủ đô nhìn từ phương diện văn hóa”.
Tác phẩm “Hà Nội từ góc nhìn văn chương” của nhà nghiên cứu, phê bình Bùi Việt Thắng đã được tặng Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2019. Gần đây, cuốn sách đã được NXB Hà Nội tái bản.
VÂN LAM
|
Hanoi's scenery, Hanoi's history, Hanoi's culture, and Hanoi's people have long been favorite topics. For more than half a century living in the heart of Hanoi and more than forty years of closely following the process of contemporary Vietnamese literature, researcher and critic Bui Viet Thang chooses his own "Hanoi way" through the lens of literature.
Hanoi's literature has always been extremely rich and diverse. In his work of teaching, researching, and criticizing literature over the past decades, author Bui Viet Thang has many times "touched writers originating from Hanoi, or writers writing about Hanoi".
Hanoi
with a deep feeling." The book "Hanoi from a literary perspective" is a collection of essays - criticism - questions - portraits of writers; In each article, the author always "tries to adapt to the subject accordingly". Carefully filtering 35 articles spanning more than a quarter of a century, author Bui Viet Thang brings readers slices of some famous authors who lived and worked in Vietnam.
Hanoi
.
That is when looking back at "a literary career" of writer Hoang Ngoc Phach through "To Tam", author Bui Viet Thang affirmed, although nowadays "people may call "To Tam a love novel" , but that work is still "a milestone, a mark marking a turning point on the century-long journey of Vietnamese fiction". Writing about the "charm" of Nguyen Cong Hoan, the author researches the unique laughter that the writer raised through his work, which still vibrates, reverberates, and echoes until now. Or when re-reading it
Heather
, the author believes that it is a type of prose rich in poetry, rhythm, not rushed, but free, "capable of recreating the vibrations of the human soul that are sometimes as gentle as a butterfly's wings." ”…
Besides writing about
Vu Trong Phung
,
Nguyen Tuan
,
Vu Bang
,
Nguyen Huy Tuong
,
To Hoai
,
Nguyen Dinh Thi
,
Luu Quang Vu
,
Nguyen Xuan Khanh
…, author Bui Viet Thang also paid attention to many other famous writers such as Nguyen Huy Thiep, Ma Van Khang, Nguyen Minh Khue,
Huu Thinh
,
Nguyen Quang Thieu
... Readers also "meet" in his books unique perspectives such as "Pho Thuy" when writing about Do Bich Thuy and the work "Laundry Shop", such as "Honest Memory" when mentioning Trung Sy and Memories of "The Story of a Southwestern Soldier", or "The Phenomenon of Pham Quang Long" - who always "directed his pen towards cultural and literary values"...
Each author, with his unique work and his own literary quality, has added color to the vivid picture of Hanoi literature. And, researcher and critic Bui Viet Thang, from his perspective, helps readers see more clearly the shapes, lines, and colors of that painting, even though he confides that "within the narrow framework of It is difficult for a book to introduce more representative authors and works that represent the qualities of Hanoi people." Therefore, the author hopes that the book will serve as "a suggestion on how to approach the Capital's literature from a cultural perspective".
The work "Hanoi from a literary perspective" by researcher and critic Bui Viet Thang was awarded the Hanoi Writers Association Award in 2019. Recently, the book was republished by Hanoi Publishing House.
VAN LAM
|
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ bắc xuống nam gồm
Kon Tum
,
Gia Lai
,
Đắk Lắk
,
Đắk Nông
và
Lâm Đồng
với diện tích tự nhiên là 54.474 km2 chiếm 16,8% diện tích tự nhiên cả nước.
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp
tỉnh Quảng Nam
, phía đông giáp các tỉnh
Quảng Ngãi
,
Bình Định
,
Phú Yên
,
Khánh Hòa
,
Ninh Thuận
,
Bình Thuận
, phía nam giáp các tỉnh
Đồng Nai
,
Bình Phước
, phía tây giáp với các tỉnh Attapeu (
Lào
) và Ratanakiri và Mondulkiri (
Campuchia
). Trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế.
Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M’Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800-1000 m, cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900-1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn Nam).
Tây Nguyên lại có thể chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các
tỉnh Kon Tum
và
Gia Lai
, trước là một tỉnh), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các
tỉnh Đắk Lắk
và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Cà phê là cây công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao su lớn thứ hai sau Đông Nam Bộ. Và đang tiến hành khai thác Bô xít. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên có thể coi là mái nhà của miền trung, có chức năng phòng hộ rất lớn. Tuy nhiên, nạn phá rừng, hủy diệt tài nguyên thiên nhiên và khai thác lâm sản bừa bãi chưa ngăn chận được tại đây có thể dẫn đến nguy cơ làm nghèo kiệt rừng và thay đổi môi trường sinh thái.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Địa hình
:
– Ở về phía Tây của dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ Đông sang Tây, đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đông Nam thổi vào. Địa hình chia cắt phức tạp có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm:
+ Địa hình cao nguyên là địa hình đặc trưng nhất của vùng, tạo lên bề mặt của vùng. Dạng địa hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với qui mô lớn.
+ Địa hình vùng núi.
+ Địa hình thung lũng chiếm diện tích không lớn; chủ yếu phát triển cây lương thực, thực phẩm và nuôi cá nước ngọt.
Khí hậu:
– Chịu ảnh hưởng của khí hậu cận xích đạo; nhiệt độ trung bình năm khoảng 20 0C điều hoà quanh năm biên độ nhiệt ngày và đêm chênh lệch cao trên 5,5 0C.
– Khí hậu Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt mùa khô và mùa mưa. Mùa khô nóng hạn, thiếu nước trầm trọng, mùa mưa nóng ẩm, tập trung 85-90% lượng mưa của cả năm.
Tài nguyên nước
:
– Tây Nguyên có 4 hệ thống sông chính: Thượng sông Xê Xan, thượng sông Srêpok, thượng sông Ba và sông Đồng Nai. Tổng lưu lượng nước mặt là 50 tỷ mét khối. Chế độ dòng chảy chịu tác động của khí hậu. Nguồn nước ngầm tương đối lớn nhưng nằm sâu, giếng khoan trên 100 mét.
Đất đai
:
– Đất đai được coi là tài nguyên cơ bản của vùng, thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp. Diện tích đất chủ yếu là đất đỏ bazan, tầng phong hoá dày, địa hình lượn sóng nhẹ tạo thành các cao nguyên đất đỏ như cao nguyên Buôn Ma Thuột, Plâycu, Đăk Nông, Kon Tum chiếm diện tích khoảng 1 triệu ha, thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây cao su, cà phê, chè, hồ tiêu, điều… và rừng; Đất đỏ vàng diện tích khoảng 1,8 triệu ha, kém màu mỡ hơn đất đỏ bazan nhưng giữ ẩm tốt và tơi xốp nên thích hợp với nhiều loại cây trồng. Ngoài ra còn có đất xám phân bố trên các sườn đồi thoải phía Tây Nam và trong các thung lũng, đất phù sa ven sông, thích hợp cho trồng cây lương thực.
– Tuy nhiên diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm tới 1,4 triệu ha và đang bị thoái hoá nghiêm trọng (đất bazan thoái hoá tới 71,7%; diện tích đất bị thoái hoá nặng chiếm tới 20%).
Tài nguyên rừng
:
– Tây nguyên là một trong những vùng có tính đa dạng sinh học rất cao của Việt Nam. Rừng Tây Nguyên giàu về trữ lượng, đa dạng về chủng loại Trữ lượng rừng gỗ chiếm tới 45% tổng trữ lượng rừng gỗ của cả nước. Diện tích rừng Tây Nguyên là 3.015,5 nghìn ha chiếm 35,7% diện tích rừng cả nước. Các cây dược liệu quí được tìm thấy ở đây như sâm bổ chỉnh, sa nhân, địa liền, thiên niên kiện, hà thủ ô trắng,… và các cây thuốc quí có thể trồng được ở đây như atisô, bạch truật, tô mộc, xuyên khung…
– Hệ động vật hoang dã cũng rất phong phú có ý nghĩa kinh tế và khoa học. Có tới 32 loài động vật quí hiếm như voi, bò tót, trâu rừng, hổ, gấu, công, gà lôi…
Tài nguyên khoáng sản
:
– Chủng loại khoáng sản ít. Đáng kể nhất là quặng bôxit với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỷ tấn, chiếm 90% trữ lượng bôxit cả nước, phân bố chủ yếu ở Đắc Nông, Gia Lai Kon Tum. Việc khai thác quặng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp của vùng.
– Vàng có 21 điểm vàng trữ lượng khoảng 8,82 tấn phân bố ở Kon Tum, Gia Lai. Ngoài ra còn các loại đá quí, các mỏ sét gạch ngói phân bố ở Chưsê – Gia Lai và Bản Đôn – Đắc Lắc, than bùn và than nâu phân bố ở Biển Hồ, làng Bua, làng Vệ – Gia Lai, Chư Đăng – Đắc Lắc.
|
The Central Highlands consists of 5 provinces, arranged in order of geographical location from north to south
Kon Tum
,
Gia Lai
,
Dak Lak
,
Dak Nong
and
Lam Dong
with a natural area of 54,474 km2, accounting for 16.8% of the country's natural area.
The Central Highlands is a highland region, bordered to the north
Quang Nam Province
, bordering the provinces to the east
Quang Ngai
,
Pacify
,
Phu Yen
,
Khanh Hoa
,
Ninh Thuan
,
Binh Thuan
, bordering the provinces to the south
Dong Nai
,
Binh Phuoc
, bordered to the west by Attapeu provinces (
Laos
) and Ratanakiri and Mondulkiri (
Cambodia
). While Kon Tum has a western border with both Laos and Cambodia, Gia Lai, Dak Lak and Dak Nong only share a border with Cambodia. And Lam Dong has no international border.
In fact, the Central Highlands is not a single plateau but a series of adjacent plateaus. These are the Kon Tum plateau about 500 m high, the Kon Plong plateau, the Kon Ha Nung plateau, the Playku plateau about 800 m high, the M'Drăk plateau about 500 m high, the Buon Ma Thuot plateau about 500 m high, the Mo Nong is about 800-1000 m high, Lam Vien plateau is about 1500 m high and Di Linh plateau is about 900-1000 m high. All of these plateaus are surrounded to the East by high mountain ranges and massifs (the Southern Truong Son).
The Central Highlands can be divided into three geographical sub-regions and three climatic sub-regions, including the Northern Central Highlands (corresponding to the
Kon Tum province
and
Gia Lai
, formerly a province), Central Highlands (corresponding to the
Dak Lak province
and Dak Nong), Southern Central Highlands (corresponding to Lam Dong province). The Central Highlands has lower altitudes and higher temperatures than the Northern and Southern sub-regions.
With soil characteristics of basalt red soil at an altitude of about 500 m to 600 m above sea level, the Central Highlands is very suitable for industrial crops such as coffee, cocoa, pepper, and mulberry. Cashew trees and rubber trees are also being grown here. Coffee is the number one important industrial crop in the Central Highlands. The Central Highlands is also the second largest rubber growing region after the Southeast. And bauxite mining is underway. The Central Highlands is also an area in Vietnam that still has many forest areas with diverse biological mats, rich mineral reserves that are almost unexploited and great tourism potential. The Central Highlands can be considered the roof of the Central region. , has a great protective function. However, deforestation, destruction of natural resources and indiscriminate exploitation of forest products have not been stopped here, which can lead to the risk of deforestation and changes in the ecological environment.
Natural conditions and natural resources
Topographic
:
- To the west of the Truong Son range, the terrain surface slopes gradually from East to West, catching the West wind but preventing the Southeast wind from blowing in. Complex divided terrain with clear gradation, including:
+ Plateau terrain is the most characteristic terrain of the region, creating the surface of the region. This type of terrain is favorable for large-scale agriculture and forestry development.
+ Mountainous terrain.
+ The valley terrain does not occupy a large area; Mainly growing food crops and raising freshwater fish.
Climate:
– Influenced by the sub-equatorial climate; The average annual temperature is about 20 0C, with a year-round temperature difference of over 5.5 0C.
– The Central Highlands climate has two distinct seasons: dry and rainy. The dry season is hot and droughty, with severe water shortages, and the rainy season is hot and humid, with 85-90% of the year's rainfall concentrated.
Water Resources
:
– The Central Highlands has 4 main river systems: Upper Xe Xan River, Upper Srepok River, Upper Ba River and Dong Nai River. The total surface water flow is 50 billion cubic meters. Flow regime is influenced by climate. The underground water source is relatively large but located deep, the well is over 100 meters deep.
Land
:
– Land is considered a basic resource of the region, favorable for agricultural and forestry development. The land area is mainly basalt red soil, thick weathered layer, slightly wavy terrain forming red soil plateaus such as Buon Ma Thuot, Playcu, Dak Nong, Kon Tum plateaus occupying an area of about 1 million hectares, suitable Suitable for many types of crops, especially rubber trees, coffee, tea, pepper, cashew... and forests; Yellow red soil covers an area of about 1.8 million hectares. It is less fertile than basalt red soil but retains moisture well and is loose, so it is suitable for many types of crops. There is also gray soil distributed on gentle hillsides in the southwest and in valleys, alluvial soil along rivers, suitable for growing food crops.
– However, the area of bare land, bare hills and mountains accounts for 1.4 million hectares and is seriously degraded (basalt soil degrades up to 71.7%; severely degraded land area accounts for up to 20%).
Forest resources
:
– The Central Highlands is one of the regions with very high biodiversity in Vietnam. Forests in the Central Highlands are rich in reserves and diverse in types. Wood forest reserves account for 45% of the total wood forest reserves of the country. The Central Highlands forest area is 3,015.5 thousand hectares, accounting for 35.7% of the country's forest area. Precious medicinal plants are found here such as ginseng tonic, amomum, dia dan, millennium, white multiflora,... and precious medicinal plants that can be grown here such as artichoke, atractylodes, and toxium. , through frame…
– The wildlife system is also very rich and has economic and scientific significance. There are up to 32 rare animal species such as elephants, gaur, wild buffalo, tiger, bear, peacock, pheasant...
Natural resources
:
– Few types of minerals. The most significant is bauxite ore with forecast reserves of about 10 billion tons, accounting for 90% of the country's bauxite reserves, mainly distributed in Dak Nong and Gia Lai Kon Tum. Ore mining will greatly affect agricultural and forestry production in the region.
– Gold has 21 gold reserves of about 8.82 tons distributed in Kon Tum, Gia Lai. In addition, there are precious stones, brick and tile clay mines distributed in Chuse - Gia Lai and Ban Don - Dak Lak, peat and brown coal distributed in Bien Ho, Bua village, Ve village - Gia Lai, Chu Dang - Dak Lak.
|
Mục tiêu chính là xây dựng
TP. Tuy Hòa
trở thành đô thị hướng biển của quốc gia, trung tâm du lịch, giáo dục, đào tạo của vùng Nam Trung Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên…
Tuy Hòa đang kiến nghị tỉnh Phú Yên bàn giao di tích Tháp Nhạn (Núi Nhạn) về cho thành phố.
Ngày 17/10/2022, ông Trần Hữu Thế, Chủ tịch tỉnh Phú Yên, đã phê duyệt chủ trương lập đề án, đề nghị công nhận TP. Tuy Hòa và khu vực phụ cận đạt tiêu chí đô thị loại 1, trực thuộc tỉnh.
Theo quyết định này, phạm vi nghiên cứu lập đề án là toàn bộ địa giới hành chính TP. Tuy Hòa hiện nay với 16 xã, phường và mở rộng khu vực lân cận đến các xã An Chấn, An Mỹ –
huyện Tuy An
; xã Hòa Thành,
thị xã Đông Hòa
; xã Hòa An và một phần xã Hòa Trị,
huyện Phú Hòa
.
Ranh giới: phía Bắc giáp xã An Hòa Hải (huyện Tuy An); Phía Nam giáp thị xã Đông Hòa; phía Tây giáp xã Hòa Trị (huyện Phú Hòa); phía Đông giáp biển Đông.
Theo UBND tỉnh Phú Yên, các nội dung nghiên cứu được đặt ra trong đề án là sự cần thiết, quá trình hình thành và phát triển đô thị, cũng như đánh giá hiện trạng phát triển đô thị và chất lượng công trình hạ tầng độ thị, tổng hợp và đánh giá theo các tiêu chí, tiêu chuẩn đã được quy định trong Nghị quyết 1210 (ngày 25/5/2016) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phân loại đô thị; tóm tắt chương trình phát triển đô thị và kế hoạch nâng cao chất lượng đô thị trong giai đoạn tiếp theo.
Thời gian lập đề án được thực hiện trong năm 2022 và nằm trong Chương trình hành động số 04 (ngày 30/5/2022) của UBND tỉnh Phú Yên về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 09 (ngày 18/8/2021) của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về lãnh đạo xây dựng, nâng cấp TP. Tuy Hòa đạt tiêu chí đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh Phú Yên vào năm 2025.
Trước đó, Hội đồng thẩm định Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng TP. Tuy Hòa và khu vực phụ cận tỉnh này đến năm 2040 do Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên Trần Hữu Thế chủ trì.
Hội đồng thẩm định nêu rõ, việc điều chỉnh quy hoạch nhằm cụ thể hóa đồ án Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Phú Yên đến năm 2030 đã được phê duyệt, đảm bảo cân bằng phát triển kinh tế đô thị và bảo tồn, phát huy được truyền thống, văn hóa, di sản, cảnh quan sinh thái tự nhiên.
Đồng thời, nâng cao vai trò vị thế của TP. Tuy Hòa, phát triển theo hướng bền vững, phù hợp với yêu cầu tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Mục tiêu chính là xây dựng TP. Tuy Hòa trở thành đô thị hướng biển của quốc gia, trung tâm du lịch, giáo dục, đào tạo của vùng Nam Trung Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.
Định hướng quy hoạch hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội nhằm khai thác hết tiềm năng vốn có của TP. Tuy Hòa, xây dựng một đô thị có bản sắc riêng, giảm thiểu tối đa ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và hướng đến phát triển TP. Tuy Hòa đạt tiêu chí đô thị loại 1 vào năm 2025.
Ông Trần Hữu Thế, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên, cho rằng TP. Tuy Hòa đạt được đến ngày nay là nhờ giữ gìn và bảo vệ được quy hoạch. Do vậy, thành phố Tuy Hòa tiếp tục cố gắng bám sát quy hoạch sau khi được phê duyệt để mang lại lợi ích lớn hơn trong tương lai.
Từ năm 2013,
TP. Tuy Hòa
được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại 2 trực thuộc tỉnh Phú Yên, có đầy đủ các loại hình giao thông như quốc lộ 1A, quốc lộ 25, quốc lộ 29, đường sắt, đường thủy, đường hàng không, có dải bờ biển dài trên 20 km, có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, rất thuận lợi cho phát triển du lịch, dịch vụ.
Theo Nghị quyết 09 (ngày 18/8/2021) của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên, Tuy Hòa sẽ được xây dựng thành đô thị loại 1 vào năm 2025, trong đó có nội dung rất mới so với trước đây là phát triển thành đô thị sạch nhất nước.
Ông Huỳnh Lữ Tân, Bí thư Thành ủy TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, cho biết có thể Tuy Hòa chưa có những ấn tượng về sự sang trọng, nhưng môi trường sạch là tiêu chí phát triển bền vững. Thành phố đang nỗ lực hoàn thành 14 tiêu chí để đạt được đô thị loại 1.
Thành phố đang xây dựng, nâng cấp hệ thống cây xanh cảnh quan và trang trí; khu dân cư tự quản… để cụ thể hóa các tiêu chí sạch và phát triển du lịch xanh, sạch, cũng như từng bước nâng chất hình ảnh du lịch (giải trí cao cấp, dịch vụ đi kèm các điểm du lịch nổi tiếng…).
Tuy Hòa cũng đang kiến nghị
tỉnh Phú Yên
bàn giao di tích Tháp Nhạn (Núi Nhạn) về cho thành phố. Sau đó, Tuy Hòa sẽ có đề án cụ thể để khai thác điểm di tích này.
Ban Mai
|
The main goal is construction
City. Tuy Hoa
becoming the nation's sea-facing urban area, the center of tourism, education and training of the South Central region, Central Coast and Central Highlands...
Tuy Hoa is proposing that Phu Yen province hand over the Nhan Tower (Nhan Mountain) relic to the city.
On October 17, 2022, Mr. Tran Huu The, Chairman of Phu Yen province, approved the policy of establishing a project and requesting recognition of the city. Tuy Hoa and surrounding areas meet the criteria of a class 1 urban area, directly under the province.
According to this decision, the scope of research and development of the project is the entire administrative boundary of the city. Tuy Hoa currently has 16 communes and wards and expands the surrounding area to An Chan and An My communes.
Tuy An district
; Hoa Thanh commune,
Dong Hoa town
; Hoa An commune and part of Hoa Tri commune,
Phu Hoa district
.
Boundary: North borders An Hoa Hai commune (Tuy An district); The South borders Dong Hoa town; The West borders Hoa Tri commune (Phu Hoa district); East sea bordering the east.
According to the People's Committee of Phu Yen province, the research contents set out in the project are the necessity and process of urban formation and development, as well as assessing the current status of urban development and the quality of high-level infrastructure works. urban areas, synthesize and evaluate according to the criteria and standards specified in Resolution 1210 (May 25, 2016) of the National Assembly Standing Committee on urban classification; summarizes the urban development program and plan to improve urban quality in the next period.
The project preparation time is implemented in 2022 and is included in Action Program Không. 04 (May 30, 2022) of Phu Yen Provincial People's Committee on implementing Resolution Không. 09 (August 18, 2021). ) of the Provincial Party Committee's Standing Committee on leadership in building and upgrading the city. Tuy Hoa will reach the criteria of a class 1 urban area under Phu Yen province by 2025.
Previously, the Council appraised the project to adjust the general construction planning of the city. Tuy Hoa and the surrounding area of this province until 2040 is chaired by Chairman of Phu Yen Provincial People's Committee Tran Huu The.
The appraisal council clearly stated that the planning adjustment aims to concretize the approved Phu Yen province regional construction planning project to 2030, ensuring balance in urban economic development and conservation and promotion. tradition, culture, heritage, natural ecological landscape.
At the same time, enhance the role and position of the city. Tuy Hoa, developing in a sustainable direction, in accordance with the requirements of green growth and adaptation to climate change.
The main goal is to build the city. Tuy Hoa becomes the nation's sea-facing urban area, the center of tourism, education and training of the South Central region, Central Coast and Central Highlands.
Orientation for planning the system of technical and social infrastructure works to fully exploit the inherent potential of the city. Tuy Hoa, building an urban area with its own identity, minimizing the impact of climate change and aiming to develop the city. Tuy Hoa will meet the criteria for a class 1 urban area by 2025.
Mr. Tran Huu The, Chairman of Phu Yen Provincial People's Committee, said that the city. Tuy Hoa has achieved today thanks to preserving and protecting the planning. Therefore, Tuy Hoa city continues to try to closely follow the planning after it is approved to bring greater benefits in the future.
Since 2013,
City. Tuy Hoa
recognized by the Prime Minister as a class 2 urban area under Phu Yen province, with all types of transportation such as national highway 1A, national highway 25, national highway 29, railway, waterway, airway, The coastal strip is over 20 km long, has many beautiful natural landscapes, very convenient for tourism and service development.
According to Resolution 09 (August 18, 2021) of the Standing Committee of Phu Yen Provincial Party Committee, Tuy Hoa will be built into a class 1 urban area by 2025, which has very new content compared to the past, which is development. into the cleanest urban area in the country.
Mr. Huynh Lu Tan, Secretary of the City Party Committee. Tuy Hoa, Phu Yen province, said Tuy Hoa may not have the impression of luxury, but a clean environment is a criterion for sustainable development. The city is trying to complete 14 criteria to achieve a class 1 urban area.
The city is building and upgrading landscape and decorative tree systems; self-managed residential areas... to concretize clean criteria and develop clean, green tourism, as well as gradually improve the quality of tourism image (high-end entertainment, services accompanying famous tourist destinations... ).
Tuy Hoa is also proposing
Phu Yen province
hand over the Nhan Tower (Nhan Mountain) relic to the city. After that, Tuy Hoa will have a specific project to exploit this relic site.
Dawn
|
Trong lịch sử đánh giặc ngoại xâm, gìn giữ đất nước
Việt Nam
có nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu chống ngoại xâm, bảo vệ và thống nhất đất nước, trong đó nổi bật là cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng.
Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi, con gái quan Lạc tướng Mê Linh (miền Sơn Tây cũ và
tỉnh Vĩnh Phúc
ngày nay), thuộc dòng dõi Hùng Vương. Mẹ là bà Man Thiện, người làng Nam Nguyễn – Ba Vì – Sơn Tây – Hà Nội. Chồng mất sớm, bà Man Thiện một mình nuôi dạy hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị; bà dạy cho con nghề trồng dâu, nuôi tằm; dạy con lòng yêu nước, rèn luyện sức khỏe và võ nghệ.
Trưng Trắc là một phụ nữ đảm đang, dũng cảm, mưu trí. Chồng bà là Thi Sách, con trai quan Lạc tướng huyện Chu Diên (Hà Nội). Gia đình Thi Sách là một gia đình yêu nước, có thế lực ở đất Chu Diên.
Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn được nhân dân Mê Linh tin phục. Từ lâu, hai chị em bà vẫn căm thù cuộc sống bạo ngược của viên thái thú nhà Đông Hán là Tô Định. Chính sách bạo ngược này thực ra là chính sách áp bức, bóc lột của nhà Đông Hán với toàn bộ người Âu Lạc, từ lạc tướng cho đến nô lệ.
Cuộc hôn nhân giữa Trưng Trắc và Thi Sách làm cho thế lực của bà – thế lực đối lập với chính quyền do Tô Định là đại biểu – lại càng lớn mạnh. Để tước bớt thế lực của gia đình Trưng Trắc đã lan ra khắp miền đất Vĩnh Phúc, Tô Định đã tìm cách giết chết Thi Sách. Hành vi bạo ngược của Tô Định không làm cho Trưng Trắc sờn lòng, mà trái lại càng làm cho bà thêm quyết tâm tiến hành cuộc khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ, áp bức của nhà Đông Hán, khôi phục độc lập, “đền nợ nước, trả thù nhà”.
Bà Trưng đã đặt nợ nước lên trên thù chồng. Trên dàn thề trước ba quân, bà nêu rõ 4 mục tiêu của cuộc khởi nghĩa:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này
Tháng 2 năm Canh Tý (năm 40), Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát (thuộc địa phận
huyện Phúc Thọ
–
Hà Nội
). Những người yêu nước khắp nơi rầm rập kéo về tụ nghĩa ở Mê Linh. Từ Mê Linh, nghĩa quân tiến về xuôi, tiến đánh Luy Lâu (
Thuận Thành
–
Bắc Ninh
) – thủ phủ của chính quyền nhà Đông Hán ở Giao Chỉ. Chế độ áp bức của nhà Hán bị quật đổ, Luy Lâu được giải phóng.
Lược đồ đường tiến quân của Hai Bà Trưng
Từ lâu người Việt Nam và các tộc người khác ở quận Giao Chỉ, quận Cửu Chân (nay là
Thanh Hóa
,
Nghệ An
,
Hà Tĩnh
), quận Nhật Nam (nay là miền đất từ dãy Hoành Sơn đến
Quảng Nam
) vô cùng căm giận chế độ áp bức, bóc lột tàn tệ của nhà Đông Hán. Cho nên khi chính quyền nhà Đông Hán bị đánh đổ ở Luy Lâu thì nhân dân trong các quận này hào hứng tham gia cầm vũ khí chống lại lũ quan lại và quân lính nhà Đông Hán.
Được nhân dân khắp nơi ủng hộ, hưởng ứng, nghĩa quân của Hai Bà Trưng đi đến đâu, chính quyền và quân đội nhà Đông Hán tan vỡ đến đấy. Các dân tộc Mán, Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố (nay thuộc Quảng Đông) đều hưởng ứng. Bọn Tô Định, Thứ sử, Thái thú của nhà Đông Hán thấy nghĩa quân nổi lên như vũ bão, đều hoảng sợ và theo nhau bỏ chạy về Trung Quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, các cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành một phong trào nổi dậy rộng lớn của quần chúng ở khắp nơi, từ miền xuôi đến miền ngược, bao gồm cả người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã giải phóng được 65 huyện thành, nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Việt hồi đó. Cuộc khởi nghĩa thành công, đất nước được hoàn toàn độc lập. Trưng Trắc được suy tôn làm vua (Trưng Vương), đóng đô ở Mê Linh:
Đô Kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Hiểu rõ sự thống khổ của nhân dân nên khi lên ngôi vua, mặc dù chỉ trong thời gian ngắn nhưng Trưng Vương đã có những quyết sách quan trọng như: ra lệnh miễn thuế khóa cho nhân dân trong hai năm, xóa bỏ chế độ lao dịch và binh pháp cũ… Anh hùng dân tộc Trưng Vương đã lập nên và giữ vững nền độc lập, quyền tự chủ dân tộc trong gần 3 năm.
Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã lật nhào chính quyền nhà Đông Hán ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Tin này đưa về triều đình nhà Hán. Vua Quang Vũ nhà Hán chuẩn bị cuộc phản công. Năm 42, Quang Vũ sai Phục ba tướng quân là Mã Viện, Lâu thuyền tướng quân là Đoàn Chí đem quân ở các miền Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô sang nước Âu Lạc đánh Trưng Vương.
Lược đồ khởi nghĩa Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán (40-43)
Bộ binh của Mã Viện và thủy binh của Đoàn Chí gặp nhau ở Hợp Phố. Ở đây Đoàn Chí mắc bệnh rồi chết, Mã Viện thống suất cả thủy binh của Đoàn Chí. Mã Viện cùng quân đội men theo bờ biển tiến vào Âu Lạc. Đầu tiên quân Hán vào miền đất là tỉnh Hồng Quảng.Từ Hồng Quảng, quân Hán ngược sông Bạch Đằng tiến đến Lục đầu, sau đó tiến vào Lãng Bạc – Tiên Du – Bắc Ninh.
Được tin quân xâm lược nhà Hán do Mã Viện chỉ huy tiến vào Lãng Bạc, Trưng Vương cùng em là Trưng Nhị đem quân từ Mê Linh đánh Mã Viện. Tại đây đã diễn ra một cuộc chiến đấu ác liệt giữa quân ta và bè lũ xâm lược. Quân của Trưng Vương chiến đấu rất dũng cảm, song do thế yếu nên bị thua, phải lui về Cẩm Khê (Yên Lạc – Vĩnh Phúc). Mã Viện đem quân đuổi theo. Sau gần 1 năm anh dũng chống địch, cuối cùng vì sức yếu, quân ta tan vỡ. Hai Bà Trưng về Hát Môn (Phúc Thọ – Hà Nội) rồi gieo mình xuống dòng Hát giang tự tận. Đến đây cuộc kháng chiến do Hai Bà Trưng lãnh đạo về căn bản đã thất bại, nhưng ở nhiều nơi nhân dân và nghĩa quân vẫn tiếp tục chống giặc. Ở quận Cửu Chân, một bộ phận của nghĩa quân do Đô Đương chỉ huy vẫn tiếp tục chiến đấu chống quân xâm lược nhà Đông Hán.
Tháng 11/43, Mã Viện mở đường qua Tạc Khẩu (Yên Mô – Ninh Bình) tiến quân vào Cửu Chân đàn áp nghĩa quân. Các thủ lĩnh địa phương cùng nhân dân nơi đây tiếp tục chiến đấu anh dũng. Hàng trăm thủ lĩnh, hàng ngàn nghĩa quân bị Mã Viện tàn sát. Đất nước ta lại mất quyền độc lập.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng tuy chỉ đưa lại độc lập cho đất nước trong gần 3 năm nhưng ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa ấy lại vô cùng vĩ đại, tiếng vang của nó đời đời bất diệt.
Hai Bà Trưng là biểu tượng của ý chí hiên ngang và khí phách quật cường của dân tộc ta; thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn của phụ nữ Việt Nam “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” trong những năm 40 sau Công nguyên. Phụ nữ Việt Nam ngay từ thời cổ đại không những khẳng khái, bất khuất mà còn có khả năng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Đền thờ Hai Bà Trưng ở Mê Linh – Vĩnh Phúc
Cuộc khởi nghĩa của hai Bà là cuộc khởi nghĩa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do phụ nữ lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa nổ ra làm chấn động cả cõi Nam. Từ trong ngọn lửa của cuộc nổi dậy oanh liệt ấy tỏa ra chân lý lịch sử “Một dân tộc dù nhỏ bé nhưng tự mình đã dựng nên, làm chủ đất nước và số phận mình. Không một sức mạnh nào tiêu diệt được nó”. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là kết tinh của cả một quá trình đấu tranh, khi âm thầm, lúc công khai của nhân dân Việt Nam. Đấy là một phong trào nổi dậy của toàn dân, vừa quy tụ vào cuộc khởi nghĩa ở Hát Môn do Hai Bà Trưng đề xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ.
Cuộc khởi nghĩa của hai Bà tiêu biểu cho ý chí vươn lên của dân tộc ta, khai mào cho xu thế phát triển của lịch sử Việt Nam. Nó có tác dụng mở đường, đặt phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sau này. Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo là một trang sử vô cùng đẹp đẽ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nó làm rạng rỡ dân tộc ta nói chung và làm vẻ vang cho phụ nữ nói riêng. Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về Hai Bà Trưng!
————————
Nguồn tham khảo:
– Minh Hà, “Trưng Trắc và Trưng Nhị”, Hai Bà Trưng và Bà Triệu, H.: Phụ nữ, 1962, tr. 3 – 14.
– Đào Duy Anh, “Cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc”, Lịch sử cổ đại Việt Nam giai đoạn quá độ sang chế độ phong kiến, H., 1957, tr. 54-73.
– Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, “Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43 sau công nguyên”, Lịch sử Việt Nam, Tập 1, H.: KHXH, 1971, tr. 80-84.
|
Trong lịch sử đánh giặc ngoại xâm, gìn giữ đất nước
Việt Nam
có nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu chống ngoại xâm, bảo vệ và thống nhất đất nước, trong đó nổi bật là cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng.
Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi, con gái quan Lạc tướng Mê Linh (miền Sơn Tây cũ và
tỉnh Vĩnh Phúc
ngày nay), thuộc dòng dõi Hùng Vương. Mẹ là bà Man Thiện, người làng Nam Nguyễn – Ba Vì – Sơn Tây – Hà Nội. Chồng mất sớm, bà Man Thiện một mình nuôi dạy hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị; bà dạy cho con nghề trồng dâu, nuôi tằm; dạy con lòng yêu nước, rèn luyện sức khỏe và võ nghệ.
Trưng Trắc là một phụ nữ đảm đang, dũng cảm, mưu trí. Chồng bà là Thi Sách, con trai quan Lạc tướng huyện Chu Diên (Hà Nội). Gia đình Thi Sách là một gia đình yêu nước, có thế lực ở đất Chu Diên.
Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn được nhân dân Mê Linh tin phục. Từ lâu, hai chị em bà vẫn căm thù cuộc sống bạo ngược của viên thái thú nhà Đông Hán là Tô Định. Chính sách bạo ngược này thực ra là chính sách áp bức, bóc lột của nhà Đông Hán với toàn bộ người Âu Lạc, từ lạc tướng cho đến nô lệ.
Cuộc hôn nhân giữa Trưng Trắc và Thi Sách làm cho thế lực của bà – thế lực đối lập với chính quyền do Tô Định là đại biểu – lại càng lớn mạnh. Để tước bớt thế lực của gia đình Trưng Trắc đã lan ra khắp miền đất Vĩnh Phúc, Tô Định đã tìm cách giết chết Thi Sách. Hành vi bạo ngược của Tô Định không làm cho Trưng Trắc sờn lòng, mà trái lại càng làm cho bà thêm quyết tâm tiến hành cuộc khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ, áp bức của nhà Đông Hán, khôi phục độc lập, “đền nợ nước, trả thù nhà”.
Bà Trưng đã đặt nợ nước lên trên thù chồng. Trên dàn thề trước ba quân, bà nêu rõ 4 mục tiêu của cuộc khởi nghĩa:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này
Tháng 2 năm Canh Tý (năm 40), Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát (thuộc địa phận
huyện Phúc Thọ
–
Hà Nội
). Những người yêu nước khắp nơi rầm rập kéo về tụ nghĩa ở Mê Linh. Từ Mê Linh, nghĩa quân tiến về xuôi, tiến đánh Luy Lâu (
Thuận Thành
–
Bắc Ninh
) – thủ phủ của chính quyền nhà Đông Hán ở Giao Chỉ. Chế độ áp bức của nhà Hán bị quật đổ, Luy Lâu được giải phóng.
Lược đồ đường tiến quân của Hai Bà Trưng
Từ lâu người Việt Nam và các tộc người khác ở quận Giao Chỉ, quận Cửu Chân (nay là
Thanh Hóa
,
Nghệ An
,
Hà Tĩnh
), quận Nhật Nam (nay là miền đất từ dãy Hoành Sơn đến
Quảng Nam
) vô cùng căm giận chế độ áp bức, bóc lột tàn tệ của nhà Đông Hán. Cho nên khi chính quyền nhà Đông Hán bị đánh đổ ở Luy Lâu thì nhân dân trong các quận này hào hứng tham gia cầm vũ khí chống lại lũ quan lại và quân lính nhà Đông Hán.
Được nhân dân khắp nơi ủng hộ, hưởng ứng, nghĩa quân của Hai Bà Trưng đi đến đâu, chính quyền và quân đội nhà Đông Hán tan vỡ đến đấy. Các dân tộc Mán, Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố (nay thuộc Quảng Đông) đều hưởng ứng. Bọn Tô Định, Thứ sử, Thái thú của nhà Đông Hán thấy nghĩa quân nổi lên như vũ bão, đều hoảng sợ và theo nhau bỏ chạy về Trung Quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, các cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành một phong trào nổi dậy rộng lớn của quần chúng ở khắp nơi, từ miền xuôi đến miền ngược, bao gồm cả người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã giải phóng được 65 huyện thành, nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Việt hồi đó. Cuộc khởi nghĩa thành công, đất nước được hoàn toàn độc lập. Trưng Trắc được suy tôn làm vua (Trưng Vương), đóng đô ở Mê Linh:
Đô Kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta
Hiểu rõ sự thống khổ của nhân dân nên khi lên ngôi vua, mặc dù chỉ trong thời gian ngắn nhưng Trưng Vương đã có những quyết sách quan trọng như: ra lệnh miễn thuế khóa cho nhân dân trong hai năm, xóa bỏ chế độ lao dịch và binh pháp cũ… Anh hùng dân tộc Trưng Vương đã lập nên và giữ vững nền độc lập, quyền tự chủ dân tộc trong gần 3 năm.
Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã lật nhào chính quyền nhà Đông Hán ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Tin này đưa về triều đình nhà Hán. Vua Quang Vũ nhà Hán chuẩn bị cuộc phản công. Năm 42, Quang Vũ sai Phục ba tướng quân là Mã Viện, Lâu thuyền tướng quân là Đoàn Chí đem quân ở các miền Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô sang nước Âu Lạc đánh Trưng Vương.
Lược đồ khởi nghĩa Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán (40-43)
Bộ binh của Mã Viện và thủy binh của Đoàn Chí gặp nhau ở Hợp Phố. Ở đây Đoàn Chí mắc bệnh rồi chết, Mã Viện thống suất cả thủy binh của Đoàn Chí. Mã Viện cùng quân đội men theo bờ biển tiến vào Âu Lạc. Đầu tiên quân Hán vào miền đất là tỉnh Hồng Quảng.Từ Hồng Quảng, quân Hán ngược sông Bạch Đằng tiến đến Lục đầu, sau đó tiến vào Lãng Bạc – Tiên Du – Bắc Ninh.
Được tin quân xâm lược nhà Hán do Mã Viện chỉ huy tiến vào Lãng Bạc, Trưng Vương cùng em là Trưng Nhị đem quân từ Mê Linh đánh Mã Viện. Tại đây đã diễn ra một cuộc chiến đấu ác liệt giữa quân ta và bè lũ xâm lược. Quân của Trưng Vương chiến đấu rất dũng cảm, song do thế yếu nên bị thua, phải lui về Cẩm Khê (Yên Lạc – Vĩnh Phúc). Mã Viện đem quân đuổi theo. Sau gần 1 năm anh dũng chống địch, cuối cùng vì sức yếu, quân ta tan vỡ. Hai Bà Trưng về Hát Môn (Phúc Thọ – Hà Nội) rồi gieo mình xuống dòng Hát giang tự tận. Đến đây cuộc kháng chiến do Hai Bà Trưng lãnh đạo về căn bản đã thất bại, nhưng ở nhiều nơi nhân dân và nghĩa quân vẫn tiếp tục chống giặc. Ở quận Cửu Chân, một bộ phận của nghĩa quân do Đô Đương chỉ huy vẫn tiếp tục chiến đấu chống quân xâm lược nhà Đông Hán.
Tháng 11/43, Mã Viện mở đường qua Tạc Khẩu (Yên Mô – Ninh Bình) tiến quân vào Cửu Chân đàn áp nghĩa quân. Các thủ lĩnh địa phương cùng nhân dân nơi đây tiếp tục chiến đấu anh dũng. Hàng trăm thủ lĩnh, hàng ngàn nghĩa quân bị Mã Viện tàn sát. Đất nước ta lại mất quyền độc lập.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng tuy chỉ đưa lại độc lập cho đất nước trong gần 3 năm nhưng ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa ấy lại vô cùng vĩ đại, tiếng vang của nó đời đời bất diệt.
Hai Bà Trưng là biểu tượng của ý chí hiên ngang và khí phách quật cường của dân tộc ta; thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn của phụ nữ Việt Nam “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” trong những năm 40 sau Công nguyên. Phụ nữ Việt Nam ngay từ thời cổ đại không những khẳng khái, bất khuất mà còn có khả năng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Đền thờ Hai Bà Trưng ở Mê Linh – Vĩnh Phúc
Cuộc khởi nghĩa của hai Bà là cuộc khởi nghĩa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do phụ nữ lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa nổ ra làm chấn động cả cõi Nam. Từ trong ngọn lửa của cuộc nổi dậy oanh liệt ấy tỏa ra chân lý lịch sử “Một dân tộc dù nhỏ bé nhưng tự mình đã dựng nên, làm chủ đất nước và số phận mình. Không một sức mạnh nào tiêu diệt được nó”. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là kết tinh của cả một quá trình đấu tranh, khi âm thầm, lúc công khai của nhân dân Việt Nam. Đấy là một phong trào nổi dậy của toàn dân, vừa quy tụ vào cuộc khởi nghĩa ở Hát Môn do Hai Bà Trưng đề xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ.
Cuộc khởi nghĩa của hai Bà tiêu biểu cho ý chí vươn lên của dân tộc ta, khai mào cho xu thế phát triển của lịch sử Việt Nam. Nó có tác dụng mở đường, đặt phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sau này. Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo là một trang sử vô cùng đẹp đẽ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nó làm rạng rỡ dân tộc ta nói chung và làm vẻ vang cho phụ nữ nói riêng. Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về Hai Bà Trưng!
————————
Nguồn tham khảo:
– Minh Hà, “Trưng Trắc và Trưng Nhị”, Hai Bà Trưng và Bà Triệu, H.: Phụ nữ, 1962, tr. 3 – 14.
– Đào Duy Anh, “Cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc”, Lịch sử cổ đại Việt Nam giai đoạn quá độ sang chế độ phong kiến, H., 1957, tr. 54-73.
– Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, “Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43 sau công nguyên”, Lịch sử Việt Nam, Tập 1, H.: KHXH, 1971, tr. 80-84.
|
Kiểm tra chỉ đạo công tác khắc phục thiệt hại mưa lũ tại Nghĩa trang Hòa Sơn, sáng 18/10, ông Nguyễn Văn Quảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng yêu cầu Ban Quản lý Nghĩa trang và các ngành chức năng phối hợp với thân nhân gia đình chủ mộ trong quá trình khắc phục thiệt hại.
Đợt mưa rất lớn trong ngày và đêm 14/10 đã gây sạt lở một vệt dài từ chân núi Sọ xuống các khu mộ ở phía dưới trong Nghĩa trang Hòa Sơn nằm trên địa bàn
huyện Hòa Vang
,
TP. Đà Nẵng
. Trước đó, trong quá trình khai thác keo lá tràm, người dân đã phát quang tạo những đường mòn nhỏ đi lại. Khi mưa lớn, nước từ trên đỉnh núi đổ về các đường mòn này tạo nên dòng nước chảy xiết, gây sạt lở đất đá. Trong đợt mưa lớn vừa qua, tại đây xảy ra 6 điểm sạt lở với diện tích khoảng 2,7 héc ta, trong đó hơn 1 ha có mộ và 1,7 héc ta là đường giao thông, chiếm 0,7% tổng diện tích Nghĩa trang Hòa Sơn.
Sạt lở vùi lấp mộ phần tại Nghĩa trang Hòa Sơn.
Khối lượng đất đá tràn lấp các ngôi mộ phải xử lý hơn 6 ngàn mét khối; Khối lượng đất đá sát lở xuống đường giao thông gần 10 ngàn mét khối. Qua kiểm đếm cho thấy, hơn 600 ngôi mộ bị sạt lở, đất đá vùi lấp và cuốn trôi. TP. Đà Nẵng huy động lực lượng Bộ đội, Dân quân tự vệ cùng với nhân dân địa phương thực hiện việc tận dụng đá mồ côi để xếp thành rọ đá và bố trí theo bậc cấp tại những vị trí dòng chảy chính để xử lý tiêu năng cho những trận mưa sắp tới nhằm hạn chế tối đa khả năng sạt lở có thể xảy ra. Sau đó, dùng phương tiện xúc và vận chuyển đất đá sạt lở trong khu vực có mộ ra ngoài đường giao thông. Lực lượng Quân đội phối hợp các đơn vị liên quan dùng máy đào và xe ôtô tự đổ xúc và vận chuyển đất đá sạt lở trên đường giao thông trong phạm vi rộng 6m để thông tuyến cho phương tiện và người dân đi lại khắc phục hư hỏng mộ.
Đại tá Nguyễn Quang Vinh, Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự TP. Đà Nẵng cho biết: “ Cần khảo sát khối lượng công việc làm, tính chất khối lượng công việc làm. Thứ 2 là khảo sát vị trí ăn ở cho bộ đội ở ngoài và các Nhà văn hoá của 2 xã Hoà Ninh và Hoà Sơn còn nếu mà thiếu nữa thì đưa vào một số công sở”.
Mưa lũ tạo thành dòng chảy cuốn trôi nhiều ngôi mộ.
Để kịp thời xử lý tình trạng sạt lở đất, đá tại Nghĩa trang Hòa Sơn, sớm trả lại hiện trạng phục vụ nhu cầu thăm viếng của người dân thành phố và hạn chế mức độ ảnh hưởng của những trận mưa sắp tới, UBND TP. Đà Nẵng huy động lực lượng Bộ đội, Dân quân tự vệ địa phương và người dân thực hiện vận chuyển đất, đá ra khỏi khu vực mộ và tập kết trên đường giao thông; kết hợp hỗ trợ xếp rọ đá tại những vị trí dòng chảy chính; Thuê đơn vị có chức năng thực hiện việc xúc và vận chuyển đất đá sạt lở trên đường giao thông đến các vị trí phù hợp và xếp rọ đá tại những vị trí dòng chảy chính.
Ông Lê Quang Nam, Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng cho biết: “Giải pháp khắc phục giao Sở xây dựng tính toán phương án cơ giới, dùng rọ đá 2 mét và chiều cao 0,5, thứ nhất chống tiêu năng, thứ 2 chống sạt lở. Tất cả đá đưa vào rọ theo kỷ thuật để làm, tảng đá to chúng ta chẻ ra đưa vào thôi. Về cơ bản đường này phải giải phóng bằng cơ giới cho nhanh kịp, thứ 2 mộ khoảng 6.000 khối và diện tích 1 héc ta thống nhất với quân đội sử dụng bằng tay thủ công chứ không thể thiết bị được”.
Ông Nguyễn Văn Quảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng thống nhất với việc thành lập Tổ công tác gồm các ngành liên quan để xử lý, khắc phục thật nhanh; UBND huyện Hòa Vang làm chủ đầu tư dự án khắc phục sạt lở. Việc khắc phục sạt lở thực hiện trong thời gian từ nay đến cuối tháng 10. Ban Cán sự Đảng UBND thành phố giao UBND thành phố thực hiện dự án khắc phục trong tình trạng khẩn cấp theo tinh thần là hạn chế di chuyển đá đi nơi khác mà phải trả lại cho núi đá. Ban Quản lý Nghĩa trang tổ chức người thường trực khu vực này.
Ông Nguyễn Văn Quảng (đội nón cối giữa) yêu cầu phải tạo sự đồng thuận đối với thân nhân trong quá trình khắc phục hậu quả sạt lở.
Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Văn Quảng đề nghị, đây là vấn đề tâm linh nên nhất thiết phải tìm được người thân để phối hợp với gia đình trong quá trình khắc phục thiệt hại: “Chúng ta phải chịu trách nhiệm nhưng cần sự phối hợp của người dân của những gia đình có mộ phần ở đây là quan trọng nhất. Trong quá trình làm chúng ta có thể đề xuất thêm một số phương án. Ví dụ không tìm thấy thì sẽ giải quyết như thế nào, câu chuyện làm các lễ cầu siêu… cũng cần có đề xuất giải quyết một cách tốt nhất, tư tưởng tâm lý cho gia đình, thể hiện một cách đầy đủ nhất của chính quyền trong việc khắc phục hậu quả”./.
Thanh Hà
|
Inspecting and directing the work of overcoming flood damage at Hoa Son Cemetery, on the morning of October 18, Mr. Nguyen Van Quang, Secretary of the Da Nang City Party Committee, requested the Cemetery Management Board and functional agencies to coordinate with the body. the tomb owner's family during the process of repairing the damage.
The very heavy rain during the day and night of October 14 caused a long landslide from the foot of Cal Mountain to the graves below in Hoa Son Cemetery located in the area.
Hoa Vang district
,
City. Danang
. Previously, during the process of exploiting acacia leaves, people cleared the land to create small walking trails. When it rains heavily, water from the top of the mountain flows onto these trails, creating a fast-flowing stream, causing landslides. During the recent heavy rain, 6 landslides occurred here with an area of about 2.7 hectares, of which more than 1 hectare has graves and 1.7 hectares are roads, accounting for 0.7% of the total area. Hoa Son Cemetery.
Landslide buried graves at Hoa Son Cemetery.
The volume of soil and rock filling the graves that had to be treated was more than 6,000 cubic meters; The volume of soil and rock falling onto the road was nearly 10,000 cubic meters. Through counting, more than 600 graves were eroded, buried and swept away by rocks and soil. City. Da Nang mobilized the Army, Militia and Self-Defense Forces along with local people to make use of orphaned rocks to form gabions and arrange them according to levels at main flow locations to handle energy loss. for upcoming rains to minimize the possibility of landslides. Then, use vehicles to excavate and transport landslides and rocks in the area where the grave is located to the road. The Army forces coordinated with relevant units to use excavators and dump trucks to scoop and transport landslides and rocks on the road within a 6m wide area to clear the route for vehicles and people to travel and overcome the damage. broken grave.
Colonel Nguyen Quang Vinh, Deputy Commander of the City Military Command. Da Nang said: "It is necessary to survey the volume of work and the nature of the work volume. The second is to survey the accommodation positions for soldiers outside and the Cultural Houses of Hoa Ninh and Hoa Son communes, and if there are any more, put them in some offices."
Floods create currents that wash away many graves.
In order to promptly handle the situation of landslides and rocks at Hoa Son Cemetery, quickly return the status quo to serve the visiting needs of city residents and limit the impact of upcoming rains, the City People's Committee . Da Nang mobilized the Army, local militia and self-defense forces and people to transport soil and stones out of the grave area and gather them on the roads; Combined with gabion support at main flow locations; Hire a unit with the function of excavating and transporting landslides and rocks on roads to suitable locations and placing gabions at main flow locations.
Mr. Le Quang Nam, Vice Chairman of the City People's Committee. Da Nang said: "The solution is to assign the Department of Construction to calculate a mechanical plan, using gabions of 2 meters and a height of 0.5, first to prevent energy loss, second to prevent landslides. All the rocks are put into the basket according to the technique used to make them. We just split the big rocks and put them in. Basically, this road must be cleared mechanically to quickly catch up. Second, the grave is about 6,000 blocks and an area of 1 hectare, which is agreed to be used by the military manually, not by equipment."
Mr. Nguyen Van Quang, Secretary of the Da Nang City Party Committee, agreed with the establishment of a Working Group including related sectors to handle and overcome quickly; Hoa Vang District People's Committee is the investor in the landslide recovery project. The landslide recovery will be carried out from now until the end of October. The Party Committee of the City People's Committee assigned the City People's Committee to implement the recovery project in a state of emergency in the spirit of limiting the movement of rocks to other places. otherwise it must be returned to the rocky mountain. The Cemetery Management Board organizes permanent staff in this area.
Mr. Nguyen Van Quang (in middle helmet) requested to create consensus with relatives in the process of overcoming landslide consequences.
Secretary of the Da Nang City Party Committee Nguyen Van Quang suggested that this is a spiritual issue, so it is necessary to find relatives to coordinate with the family in the process of repairing the damage: "We must take responsibility but need help." The coordination of the people of the families with graves here is the most important. During the process, we can suggest some additional options. For example, if they can't be found, how will they solve it? The story of making requiem ceremonies... also needs to have a proposal for the best solution, psychological ideas for the family, and the most complete expression of the true self. the right to remedy the consequences"./.
Thanh Ha
|
Tại buổi tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Park Jin sáng 18/10, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị
Việt Nam
và
Hàn Quốc
thúc đẩy hợp tác thương mại, nâng kim ngạch thương mại song phương lên 100 tỷ USD vào năm 2023 và 150 tỷ USD vào năm 2030 theo hướng cân bằng.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Park Jin. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
Hoan nghênh Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Park Jin sang thăm Việt Nam, chuyến thăm nước Đông Nam Á đầu tiên ngay sau khi nhậm chức, Chủ tịch nước đánh giá cao kết quả thành công hội đàm giữa Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam.
Chủ tịch nước
chúc mừng Hàn Quốc đạt nhiều thành tựu kinh tế-xã hội và đã trở thành quốc gia phát triển, có nền kinh tế lớn thứ 4 châu Á, lớn thứ 10 trên thế giới; đồng thời đạt nhiều thành tựu về quốc phòng, khoa học, công nghệ, văn hóa.
Năm nay, hai nước kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Chủ tịch nước nhấn mạnh, đây là chặng đường hai nước hợp tác hiệu quả trên các lĩnh vực và hướng tới đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược phát triển lên tầm cao mới. Chính vì vậy, Chủ tịch nước khẳng định, chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc có ý nghĩa trong thúc đẩy quan hệ giữa hai nước.
Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Park Jin cảm ơn Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dành thời gian tiếp, bày tỏ chia sẻ với người dân Việt Nam về những mất mát do bão lụt gây ra. Với những thành tựu đạt được, Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc tin tưởng Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030.
Mặc dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, Bộ trưởng Ngoại giao Park Jin cho biết, kim ngạch thương mại song phương vẫn tăng cao. Hiện có một số lượng rất lớn doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư tại Việt Nam và Hàn Quốc luôn coi Việt Nam là đối tác chiến lược về hỗ trợ phát triển ODA.
Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc cũng chia sẻ, ngay sau khi đại dịch được kiểm soát, số lượng người dân Việt Nam sang Hàn Quốc du lịch cũng tăng nhanh và khẳng định Chính phủ Hàn Quốc có chính sách bảo đảm an toàn cho người dân Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc và lao động, có trung tâm hỗ trợ các gia đình đa văn hóa. Bộ trưởng Ngoại giao Park Jin cũng đề nghị Việt Nam ủng hộ Hàn Quốc đăng cai tổ chức World Expo 2030.
Đánh giá cao nỗ lực của Hàn Quốc thúc đẩy hợp tác song phương, Chủ tịch nước nêu rõ, trong bối cảnh tình hình quốc tế còn nhiều diễn biến phức tạp, hai nước vẫn có sự hợp tác chặt chẽ như duy trì thường xuyên giao lưu, tiếp xúc cấp cao để tăng cường tin cậy chính trị-ngoại giao, thực hiện định kỳ các cơ chế đối thoại, hợp tác, đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Nhấn mạnh hợp tác kinh tế luôn là trụ cột quan trọng của quan hệ hai nước, Chủ tịch nước đề nghị hai bên quan tâm thúc đẩy hiệu quả, thực chất hơn với khai thác hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, phấn đấu đạt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên 100 tỷ USD vào năm 2023 và 150 tỷ USD vào năm 2030 theo hướng cân bằng. Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư Hàn Quốc mở rộng quy mô đầu tư vào Việt Nam, hiện là 80 tỷ USD, nhất là công nghệ số, điện tử, năng lượng tái tạo, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các Khu tổ hợp công nghệ chuyên sâu, khu công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao…
Chủ tịch nước khẳng định, Việt Nam luôn là điểm đến an toàn, ổn định, và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp Hàn Quốc yên tâm đầu tư lâu dài, cùng hợp tác, cùng phát triển.
Chủ tịch nước cũng mong muốn, Hàn Quốc tiếp tục hỗ trợ ODA với quy mô lớn hơn cho Việt Nam. Cùng với đó là thúc đẩy giao lưu nhân dân, giao lưu văn hóa, giúp người dân hai nước hiểu hơn về văn hóa của mỗi nước.
Tin: TUẤN ANH; Ảnh: TTXVN
|
At a meeting with Korean Foreign Minister Park Jin on the morning of October 18, President Nguyen Xuan Phuc proposed
Vietnam
and
Korea
Promote trade cooperation, increasing bilateral trade turnover to 100 billion USD by 2023 and 150 billion USD by 2030 in a balanced direction.
President Nguyen Xuan Phuc receives Korean Foreign Minister Park Jin. (Photo: Thong Nhat/TTXVN)
Welcoming Korean Foreign Minister Park Jin's visit to Vietnam, his first visit to a Southeast Asian country right after taking office, the President highly appreciated the successful results of the talks between the Korean Foreign Minister and the Ministry of Foreign Affairs. Minister of Foreign Affairs of Vietnam.
President
congratulate Korea for its many socio-economic achievements and for becoming a developed country, with the 4th largest economy in Asia and the 10th largest in the world; At the same time, it achieved many achievements in national defense, science, technology, and culture.
This year, the two countries celebrate the 30th anniversary of establishing diplomatic relations. The President emphasized that this is a journey for the two countries to cooperate effectively in all fields and aim to develop a strategic cooperative partnership. to new heights. Therefore, the President affirmed that the visit to Vietnam by the Korean Foreign Minister is meaningful in promoting relations between the two countries.
Korean Foreign Minister Park Jin thanked President Nguyen Xuan Phuc for taking the time to receive and expressed his sympathies with the Vietnamese people about the losses caused by storms and floods. With the achievements, the Korean Foreign Minister believes that Vietnam will become a developing country with modern industry and high average income by 2030.
Despite being affected by the Covid-19 pandemic, Foreign Minister Park Jin said that bilateral trade turnover still increased. There are currently a very large number of Korean businesses investing in Vietnam and Korea always considers Vietnam a strategic partner in ODA development support.
The Korean Foreign Minister also shared that immediately after the pandemic was controlled, the number of Vietnamese people traveling to Korea also increased rapidly and affirmed that the Korean Government has a policy to ensure safety for its people. Vietnamese people go to Korea to work and labor, and there is a center to support multicultural families. Foreign Minister Park Jin also asked Vietnam to support Korea in hosting the 2030 World Expo.
Appreciating Korea's efforts to promote bilateral cooperation, the President stated that in the context of complicated international developments, the two countries still have close cooperation such as maintaining regular exchanges. high-level contacts and exchanges to enhance political-diplomatic trust, periodically implement dialogue and cooperation mechanisms, and promote cooperation in many fields.
Emphasizing that economic cooperation is always an important pillar of the two countries' relationship, the President asked both sides to pay attention to promoting more efficiency and substance by effectively exploiting the Vietnam-Vietnam Free Trade Agreements. Korea, Regional Comprehensive Economic Partnership Agreement, strives to achieve the goal of increasing bilateral trade turnover to 100 billion USD by 2023 and 150 billion USD by 2030 in a balanced direction. Vietnam welcomes Korean investors to expand the scale of investment in Vietnam, currently 80 billion USD, especially in digital technology, electronics, renewable energy, infrastructure development, and construction of Intensive technology complex, industrial park, high-tech agriculture...
The President affirmed that Vietnam is always a safe, stable destination, and creates a favorable environment for Korean businesses to feel secure in long-term investment, cooperation, and development.
The President also hopes that Korea will continue to support ODA on a larger scale for Vietnam. Along with that, it is promoting people-to-people and cultural exchanges, helping people of the two countries better understand each other's culture.
News: TUAN ANH; Photo: TTXVN
|
Năm 1962, để bảo vệ
Cuba
và răn đe Mỹ, Liên Xô lặng lẽ chuẩn bị điều tên lửa hạt nhân đến quốc gia Caribe này. Phát hiện ra điều đó,
Mỹ
đứng ngồi không yên, phản ứng gay gắt với Liên Xô và cấp tốc thực hiện biện pháp ngăn chặn.
Thế đối đầu nguy hiểm đó kéo dài trong 13 ngày vào tháng 10/1962. Thảm họa hạt nhân được tránh vào phút chót nhờ vào các động thái ngoại giao quyết liệt và thận trọng vào những thời điểm quyết định. Tháng 10/2022 này là tròn 60 năm sự kiện đó.
Tầm bắn của tên lửa hạt nhân bố trí trên lãnh thổ Cuba năm 1962. Đồ họa: Thư viện JFK.
Bối cảnh
Căng thẳng bắt đầu leo thang giữa Mỹ và Cuba vào thập niên 1950 sau khi nhà cách mạng Fidel Castro lật đổ nhà độc tài Fulgencio Batista rồi đánh bại lực lượng lưu vong đổ bộ lên Vịnh Con Lợn năm 1961.
Khi ấy, các phần tử lưu vong, với sự hậu thuẫn của CIA, nỗ lực đánh chiếm Vịnh Con Lợn với mục tiêu chế áp và lật đổ chính quyền cách mạng của Cuba. Tuy nhiên họ đã bị các lực lượng vũ trang Cuba đè bẹp trong vài ngày.
Sau đó, Lãnh tụ Cuba Fidel Castro đã ký một thỏa thuận ngầm vào tháng 7/1962 với Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev mà theo đó, các tên lửa hạt nhân của Liên Xô sẽ được bố trí trên lãnh thổ Cuba.
Động thái trên của Liên Xô có 2 mục đích. Thứ nhất, Liên Xô muốn ngăn Mỹ thực hiện một cuộc xâm chiếm nữa nhằm vào Cuba. Thứ hai, Liên Xô muốn mở rộng năng lực răn đe hạt nhân của mình.
Hoạt động xây dựng điểm bố trí tên lửa hạt nhân khởi động vào mùa hè 1962.
Tình báo Mỹ mau chóng phát hiện ra bằng chứng về việc Liên Xô bố trí vũ khí ở Cuba, bao gồm cả hệ thống phòng không.
Tổng thống Mỹ John F. Kennedy vào ngày 4/9 năm đó ra thông cáo lên án nỗ lực của Liên Xô tăng cường sức mạnh quân sự cho Cuba và tuyên bố “những vấn đề nghiêm trọng nhất sẽ phát sinh” nếu Cuba có được năng lực tiến công.
Ông Kennedy nói: “Chính sách của Mỹ tiếp tục không cho phép chính quyền Castro xuất khẩu các giá trị của mình thông qua vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Các biện pháp cần thiết sẽ được áp dụng để ngăn họ thực hiện bất cứ hành động nào chống lại bất cứ nơi nào của Tây Bán cầu”.
Diễn biến ban đầu
Ngày 14/10/1962, một máy bay trinh sát của Mỹ chụp được các bức ảnh cho thấy các công trường xây dựng ở Cuba, nơi sẽ đặt tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm trung và tầm xa.
Cuộc đối đầu Mỹ – Xô chính thức bắt đầu vào ngày 16/10 khi Tổng thống Kennedy được báo cáo vắn tắt về các bức ảnh đó.
Ông Kennedy lo lắng tìm cách duy trì trạng thái bề ngoài bình thường như mọi khi tại Nhà Trắng. Ông giữ nguyên lịch trình chính thức của mình nhưng thường xuyên gặp gỡ với các cố vấn đề xây dựng chiến lược đối phó.
Các tham mưu trưởng của Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân quân đội Mỹ hối thúc Tổng thống Mỹ Kennedy tiến hành một cuộc không kích mở màn cho cuộc xâm lược đầy đủ nhằm vào Cuba, nhưng những người khác kêu gọi chỉ phong tỏa Cuba bằng hải quân.
Ngày 17/10, có thêm các bức ảnh trinh sát ghi lại bằng chứng về các địa điểm mới bố trí tên lửa và khoảng 16-32 tên lửa trên lãnh thổ Cuba.
Các đơn vị quân sự Mỹ bắt đầu di chuyển sang các căn cứ quân sự ở Đông Nam nước này.
Trong khi đó, Tổng thống Kennedy vẫn duy trì lịch trình bình thường, dự lễ nhà thờ, ăn trưa với Thái tử Libya và di chuyển tới Connecticut để vận động tranh cử quốc hội.
Ngoại trưởng Liên Xô Andrei Gromyko thăm Tổng thống Kennedy tại Nhà Trắng vào ngày 18/10 và tuyên bố rằng viện trợ của Liên Xô cho Cuba không tạo ra mối đe dọa cho Mỹ, chỉ mang tính phòng thủ. Ông Kennedy không tiết lộ mức độ xây dựng, bố trí vũ khí hạt nhân ở Cuba. Ông lặp lại cảnh báo ông đưa ra vào ngày 4/9 trước đó, khi ông tuyên bố “các vấn đề nghiêm trọng nhất sẽ phát sinh” nếu phát hiện ra các vũ khí hạt nhân tiến công trên đất Cuba.
Mỹ phản ứng gay gắt và thực hiện cách ly hải quân
Vào ngày 20/10, Tổng thống Kennedy và các cố vấn của mình quyết định tiến trình hành động sau: Thực hiện cách ly hải quân nhằm ngăn Liên Xô giao vũ khí khí tài cho Cuba.
Về mặt chính thức, chính quyền Kennedy sử dụng thuật ngữ “cách ly” thay cho “phong tỏa” vì thuật ngữ “phong tỏa” sẽ đồng nghĩa về pháp lý với trạng thái chiến tranh. Một cuộc cách ly sẽ cho phép Mỹ tiếp tục nhận được ủng hộ từ Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ (gồm 35 thành viên).
Ngày 22/10, Tổng thống Kennedy thông báo cho nội các, quốc hội và công chúng các bằng chứng về tên lửa Liên Xô ở Cuba rồi tuyên bố cách ly hải quân.
Trong chương trình truyền hình buổi tối, ông Kennedy mạnh mẽ phát biểu với công chúng, khẳng định rằng lệnh cách ly này sẽ được áp dụng đến khi các điểm tên lửa được dỡ bỏ và Liên Xô ngừng cung cấp vũ khí cho Cuba.
Nhà lãnh đạo Kennedy nói thêm rằng bất cứ cuộc tấn công nào bằng tên lửa từ Cuba sẽ được giải thích là một cuộc tấn công từ Liên Xô và khi ấy Liên Xô sẽ đáng bị “trả đũa đầy đủ”.
Theo ông Kennedy, việc Liên Xô bí mật triển khai tên lửa nói trên vi phạm các cam kết của Liên Xô cũng như thách thức chính sách của Mỹ và Tây Bán cầu. Ông Kennedy coi Cuba là một nơi có mối quan hệ đặc biệt và lịch sử với Mỹ và các nước Tây Bán cầu.
Tổng thống Kennedy đánh giá, động thái triển khai vũ khí chiến lược đầu tiên bên ngoài lãnh thổ Liên Xô là một sự thay đổi hiện trạng mà Mỹ không thể chấp nhận được.
Nhà lãnh đạo Kennedy cũng gửi thư cho nhà lãnh đạo Xô viết Khrushchev, hối thúc chính quyền Liên Xô không thực hiện hành động có thể “mở rộng hoặc làm sâu sắc cuộc khủng hoảng vốn đã nghiêm trọng này”.
Bức thư của Tổng thống Kennedy có đoạn: “Trong các cuộc thảo luận và trao đổi của chúng tôi…, điều khiến tôi quan tâm nhất là khả năng chính phủ của ngài sẽ không hiểu đúng ý chí và quyết tâm của Mỹ trong bất kỳ tình huống nào đưa ra, bởi lẽ tôi không cho rằng ngài và bất cứ người có lý trí nào khác sẽ cố tình đẩy
thế giới
vào một cuộc chiến tranh mà trong đó rõ ràng không nước nào sẽ chiến thắng và có thể dẫn tới các hậu quả thảm họa cho toàn thế giới, bao gồm cả bên tấn công”.
Tổng thống Kennedy ngày 23/10 chính thức ký Tuyên cáo 3504 cho phép cách ly hải quân. Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ phê chuẩn bản tuyên bố này.
Sau đó, Tổng thống Kennedy yêu cầu nhà lãnh đạo Xô viết Khrushchev ngừng bất cứ chuyến tàu thủy nào của Liên Xô trên hành trình tới Cuba vì khi đó Mỹ sẽ buộc phải khai hỏa và phát động chiến tranh giữa hai quốc gia./.
(Còn nữa)
|
In 1962, for protection
Cuba
and deter the US, the Soviet Union quietly prepared to send nuclear missiles to this Caribbean country. Discovering that,
America
stood still, reacted harshly to the Soviet Union and quickly took preventive measures.
That dangerous confrontation lasted for 13 days in October 1962. Nuclear disaster was avoided at the last minute thanks to decisive and cautious diplomatic moves at decisive moments. This October 2022 will be the 60th anniversary of that event.
Range of nuclear missiles deployed on Cuban territory in 1962. Graphic: JFK Library.
Background
Tensions began to escalate between the US and Cuba in the 1950s after revolutionary Fidel Castro overthrew dictator Fulgencio Batista and defeated exile forces who landed at the Bay of Pigs in 1961.
At that time, exiles, with the support of the CIA, attempted to capture the Bay of Pigs with the goal of suppressing and overthrowing Cuba's revolutionary government. However, they were crushed by the Cuban armed forces within a few days.
Then, Cuban Leader Fidel Castro signed a tacit agreement in July 1962 with Soviet Premier Nikita Khrushchev under which Soviet nuclear missiles would be placed on Cuban territory.
The Soviet Union's above move had two purposes. First, the Soviet Union wanted to prevent the United States from carrying out another invasion of Cuba. Second, the Soviet Union wanted to expand its nuclear deterrence capacity.
Construction of the nuclear missile site began in the summer of 1962.
US intelligence quickly discovered evidence of the Soviet Union placing weapons in Cuba, including air defense systems.
US President John F. Kennedy on September 4 of that year issued a statement condemning the Soviet Union's efforts to strengthen Cuba's military power and declared that "the most serious problems will arise" if Cuba gets offensive capacity.
“U.S. policy continues to disallow the Castro regime from exporting its values through force or the threat of force,” Mr. Kennedy said. Necessary measures will be taken to prevent them from taking any action against any part of the Western Hemisphere.”
Initial developments
On October 14, 1962, a US reconnaissance plane took photos showing construction sites in Cuba where medium- and long-range nuclear ballistic missiles would be placed.
The US-Soviet confrontation officially began on October 16 when President Kennedy was briefed on the photos.
Mr. Kennedy worriedly sought to maintain a normal appearance as usual at the White House. He kept his official schedule but met regularly with advisers to develop coping strategies.
The chiefs of staff of the US Army's Joint Chiefs of Staff urged US President Kennedy to launch an air strike to launch a full invasion of Cuba, but others called for a blockade of Cuba only by navy.
On October 17, more reconnaissance photos recorded evidence of new missile locations and about 16-32 missiles on Cuban territory.
US military units began moving to military bases in the Southeast of the country.
Meanwhile, President Kennedy maintained his normal schedule, attending church, having lunch with the Libyan Crown Prince and traveling to Connecticut to campaign for congressional elections.
Soviet Foreign Minister Andrei Gromyko visited President Kennedy at the White House on October 18 and declared that Soviet aid to Cuba did not pose a threat to the United States, only defensive in nature. Mr. Kennedy did not reveal the extent of construction and placement of nuclear weapons in Cuba. He repeated the warning he issued on September 4, when he declared that "the most serious problems will arise" if nuclear weapons are discovered on Cuban soil.
The US reacted harshly and implemented a naval quarantine
On October 20, President Kennedy and his advisors decided on the following course of action: Implement a naval quarantine to prevent the Soviet Union from delivering weapons and equipment to Cuba.
Officially, the Kennedy administration used the term “quarantine” instead of “blockade” because the term “blockade” would be legally synonymous with a state of war. A quarantine would allow the US to continue to receive support from the Organization of American States (35 members).
On October 22, President Kennedy informed the cabinet, Congress and the public of evidence of Soviet missiles in Cuba and then announced a naval quarantine.
On the evening television program, Mr. Kennedy strongly spoke to the public, affirming that this quarantine order would be applied until the missile sites were removed and the Soviet Union stopped supplying weapons to Cuba.
President Kennedy added that any missile attack from Cuba would be interpreted as an attack from the Soviet Union and that the Soviet Union would then deserve “full retaliation.”
According to Mr. Kennedy, the Soviet Union's secret deployment of the above missile violates Soviet commitments as well as challenges US and Western Hemisphere policies. Mr. Kennedy considered Cuba a place with special and historical relationships with the United States and Western Hemisphere countries.
President Kennedy assessed that the first move to deploy strategic weapons outside the territory of the Soviet Union was a change in the status quo that the United States could not accept.
Leader Kennedy also sent a letter to Soviet leader Khrushchev, urging the Soviet government not to take action that could "widen or deepen this already serious crisis."
President Kennedy's letter read: "In our discussions and exchanges..., what concerns me most is the possibility that your government will not properly understand the will and determination of the United States in any any given situation, because I don't think you or any other reasonable person would intentionally push
world
into a war in which it is clear that no country will win and which could lead to catastrophic consequences for the entire world, including the attacker.”
President Kennedy on October 23 officially signed Proclamation 3504 authorizing the quarantine of the navy. The Organization of American States ratified this declaration.
After that, President Kennedy asked Soviet leader Khrushchev to stop any Soviet ships on the journey to Cuba because then the United States would be forced to open fire and start a war between the two countries./.
(There's more)
|
Những thành quả, kinh nghiệm trong thực hiện chính sách tăng trưởng xanh của Hàn Quốc bổ ích cho Việt Nam, có thể tận dụng, giúp giảm ô nhiễm môi trường, tái cơ cấu nền kinh tế, phát triển bền vững.
Tại Diễn đàn kinh tế và thương mại
Việt Nam
–
Hàn Quốc
năm 2022 diễn ra ngày 18/10, các chuyên gia đã cùng thảo luận về bức tranh kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc và sự chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế hướng tới nền kinh tế xanh và sáng tạo.
PGS.TS Nguyễn An Thịnh – Giảng viên cao cấp, Trưởng Khoa Kinh tế phát triển, Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) – nhận định Việt Nam là nước đang phát triển nên mục tiêu phát triển kinh tế được đặt hàng đầu. Trong đó, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh là nhiệm vụ được ưu tiên để phát triển kinh tế, ai cũng có thể nhận thức được.
Về vấn đề phát triển xanh, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu tại Việt Nam và Hàn Quốc, những thành quả và kinh nghiệm trong thực hiện Chính sách tăng trưởng xanh của Hàn Quốc bổ ích cho các nước đang phát triển như Việt Nam, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển bền vững.
Ông Nguyễn An Thịnh nhắc lại việc Việt Nam đặt mục tiêu đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Chính sách tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển xanh của Hàn Quốc mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế, đạt được kế hoạch đặt ra, đồng thời thúc đẩy mối quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc.
Quang cảnh diễn đàn do Đại học Kinh tế – ĐHQGHN phối hợp với Hội hữu nghị Việt Nam – Hàn Quốc, Đại học Quốc gia Pusan, Hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam tổ chức (Ảnh: UEB).
Theo ông Thịnh, cần xác định chuyển đổi số là động lực chuyển đổi xanh. Bởi đại đa số
doanh nghiệp
Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp Việt kiều trên thế giới, phần nhiều cũng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó đặt ra một rào cản là phải làm sao để những doanh nghiệp Việt đáp ứng nhu cầu về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh chứ không chỉ doanh nghiệp lớn.
Ông Thịnh lưu ý vai trò của Nhà nước quan trọng trong vấn đề chuyển đổi số cũng như chuyển đổi xanh. Ngoài ra, Việt Nam cần hoàn thiện các tiêu chuẩn về môi trường, mức phát thải và cân đối dựa trên đặc thù mỗi địa phương, doanh nghiệp…
“Có những địa phương cần đặt ra nhu cầu phát thải cao hơn. Có những doanh nghiệp có thể đáp ứng quy chuẩn khắt khe hơn”, ông nói.
Tiến sĩ kinh tế Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định trung tâm chuyển đổi số vẫn là để phát triển bền vững. “Đây không chỉ là xu thế thời đại mà là xu thế bắt buộc. Việt Nam là một trong những nước có chiến lược phát triển Quốc gia về kinh tế số sớm”.
Theo ông Đạt, Hàn Quốc và nước đi trước có nhiều kinh nghiệm, Việt Nam không chỉ học được bài học về thương mại đầu tư mà còn là hợp tác đầu tư.
GS.TS Lee Keunjae đến từ Đại học Quốc gia Pusan (Hàn Quốc) nhận định chuyển đổi số là một trong những mảng mà quốc gia nào cũng nỗ lực hoàn thành tốt.
Ông cho rằng mặc dù về chuyển đổi số, Hàn Quốc chưa phải là nước dẫn đầu nhưng bài học chuyển đổi số của Hàn Quốc phù hợp cho Việt Nam tham khảo. “Cần xác định có thể mở rộng chuyển đổi số tới mức nào, xác định phạm vi, mức độ, tiêu chuyển đổi số gắn với từng mảng, lĩnh vực”, ông nói.
Hàn Quốc và Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao 30 năm và là đối tác chiến lược toàn diện. Các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam đóng góp khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu quốc gia, hơn 1/2 trong tổng số là các mặt hàng điện tử và khoảng 1/4 là của doanh nghiệp đến từ Hàn Quốc (trong đó có Samsung Việt Nam).
Doanh nghiệp Hàn Quốc cũng tạo việc làm cho khoảng 700.000 lao động địa phương. Hàn Quốc hiện đã đầu tư tại 59 tỉnh, thành phố của Việt Nam.
Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Hàn Quốc (Ảnh: EUB).
Việt Nam và Hàn Quốc cũng đang hợp tác và trao đổi kinh nghiệm về thúc đẩy tăng trưởng xanh. Tháng 5/2021, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đã công bố kế hoạch tăng cường hỗ trợ các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, bằng cách tăng vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) tới năm 2025 cho các dự án thân thiện môi trường và bảo vệ khí hậu.
Theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Hàn Quốc (VIKOFA), quan hệ kinh tế – thương mại Việt – Hàn không chỉ lớn về quy mô, có thể tính ra bằng số công ăn việc làm hay đóng góp cho tăng trưởng, mà còn lớn hơn ở giá trị vô hình như văn hóa, công nghệ, mô hình phát triển và điều hành…
“Việt Nam tham khảo và học hỏi kinh nghiệm của cả thế giới, nhưng kinh nghiệm của Hàn Quốc với “kỳ tích sông Hàn” có lẽ là mô hình tương đối phù hợp với khát vọng “kỳ tích sông Hồng” của Việt Nam”, ông Lộc nói.
Thảo Thu
|
Korea's achievements and experiences in implementing green growth policies are useful for Vietnam and can be utilized to help reduce environmental pollution, restructure the economy, and develop sustainably.
At the Economic and Trade Forum
Vietnam
–
Korea
2022 takes place on October 18, experts discussed the economic picture of Vietnam - Korea and the transformation of the economic development model towards a green and creative economy.
Associate Professor, Dr. Nguyen An Thinh - Senior Lecturer, Head of the Department of Development Economics, University of Economics (Hanoi National University) - commented that Vietnam is a developing country, so economic development goals are set. Top. Among them, digital transformation and green transformation are priority tasks for economic development, and everyone can be aware of them.
Regarding green development, environmental protection, and climate change response in Vietnam and Korea, the achievements and experiences in implementing Korea's Green Growth Policy are useful for developing countries. like Vietnam, contributing to reducing environmental pollution, restructuring the economy and sustainable development.
Mr. Nguyen An Thinh reiterated that Vietnam aims to bring net emissions to zero by 2050. Korea's policy of strengthening international cooperation on green development opens up many opportunities for economic development, achieving plan set out, while promoting the cooperative relationship between Vietnam and Korea.
Scene of the forum organized by the University of Economics - VNU in collaboration with the Vietnam - Korea Friendship Association, Pusan National University, and the Korean Business Association in Vietnam (Photo: UEB).
According to Mr. Thinh, it is necessary to identify digital transformation as the driving force for green transformation. By the vast majority
enterprise
Vietnam is a small business. Overseas Vietnamese businesses in the world are mostly small and medium enterprises. That poses a barrier for Vietnamese businesses to meet the needs of digital transformation and green transformation, not just large enterprises.
Mr. Thinh noted the important role of the State in digital transformation as well as green transformation. In addition, Vietnam needs to improve environmental standards, emission levels and balance them based on the characteristics of each locality and business...
“There are localities that need to set higher emission demands. There are businesses that can meet more stringent standards,” he said.
Doctor of Economics Tran Tho Dat, Chairman of the Council of Science and Training, National Economics University, said that the center of digital transformation is still for sustainable development. “This is not just a trend of the times but a mandatory trend. Vietnam is one of the countries with an early national development strategy for the digital economy."
According to Mr. Dat, Korea and the previous country have a lot of experience, Vietnam has not only learned lessons about trade and investment but also investment cooperation.
Prof. Dr. Lee Keunjae from Pusan National University (Korea) commented that digital transformation is one of the areas that every country strives to complete well.
He said that although in terms of digital transformation, Korea is not a leading country, Korea's digital transformation lessons are suitable for Vietnam to refer to. "It is necessary to determine how much digital transformation can be expanded, determine the scope, level, and digital transformation goals associated with each segment and field," he said.
Korea and Vietnam have established diplomatic relations for 30 years and are comprehensive strategic partners. FDI enterprises investing in Vietnam contribute about 70% of national export turnover, more than half of the total is electronic products and about one-quarter is from enterprises from Korea (of which there is Samsung Vietnam).
Korean businesses also create jobs for about 700,000 local workers. Korea has currently invested in 59 provinces and cities of Vietnam.
Mr. Vu Tien Loc, Chairman of Vietnam - Korea Friendship Association (Photo: EUB).
Vietnam and Korea are also cooperating and exchanging experiences on promoting green growth. In May 2021, Korean President Moon Jae-in announced a plan to increase support for developing countries, including Vietnam, by increasing official development assistance (ODA) until 2021. 2025 for environmentally friendly and climate-protective projects.
According to Mr. Vu Tien Loc, Chairman of the Vietnam - Korea Friendship Association (VIKOFA), Vietnam - Korea economic and trade relations are not only large in scale, but can be calculated by the number of jobs or contributions. for growth, but also greater in intangible values such as culture, technology, development and operating models...
"Vietnam consults and learns from the experiences of the whole world, but Korea's experience with the "Miracle of the Han River" is probably a relatively suitable model for Vietnam's aspirations of the "Miracle of the Red River"" , Mr. Loc said.
Thao Thu
|
Trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu ngày một rõ rệt, giải pháp phát triển hạ tầng xanh tại các đô thị lớn của Việt Nam trong đó có
Hà Nội
là vô cùng cần thiết.
Khi có một hệ thống hạ tầng “khỏe mạnh”, các đô thị sẽ có sức chống chịu, thích ứng hướng đến phát triển bền vững và nâng cao chất lượng sống.
Chưa dành sự quan tâm đầu tư đúng mức
Trận lụt lịch sử ở
TP Đà Nẵng
vào ngày 14/10 vừa qua chắc chắn là bài học để các đô thị lớn tại Việt Nam, trong đó có Hà Nội quan tâm đến việc đầu tư về hạ tầng thiết yếu, nhằm đáp ứng trước biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan cũng như bảo đảm chất lượng, môi trường sống của người dân. Nguyên nhân của những trận ngập lụt tại nhiều TP trong thời gian qua, ngoài yếu tố mưa lớn do thời tiết cực đoan còn là câu chuyện về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật của đô thị chưa được quan tâm dành nguồn lực đầu tư tương xứng so với tốc độ phát triển đô thị.
Đánh giá thực trạng phát triển hạ tầng đô thị xanh ở Việt Nam, Cục Hạ tầng kỹ thuật (Bộ Xây dựng) cho biết, tỷ lệ cây xanh trên mỗi người dân tại các đô thị của Việt Nam ở mức thấp, chỉ từ 2 – 3m2/người, trong khi chỉ tiêu xanh tối thiểu của Liên Hợp quốc là 10m2 và chỉ tiêu của các TP hiện đại trên thế giới từ 20 – 25m2. Như vậy, tỷ lệ cây xanh đô thị của Việt Nam chỉ bằng 1/5 – 1/10 của thế giới.
Phát triển hạ tầng xanh tại các khu đô thị là vô cùng cần thiết. Ảnh: Lê Việt
Cho đến nay, tổng diện tích đất cây xanh đô thị theo quy hoạch khoảng trên 70.000ha, chiếm tỷ lệ hơn 1,2% diện tích đất xây dựng đô thị, đây là một con số quá nhỏ. Đất dành cho cây xanh đã eo hẹp, còn dành cho giao thông cũng đang quá thấp, hầu hết mới chỉ đạt dưới 10% đất xây dựng đô thị, trong khi đó tỷ lệ này phải đạt khoảng 20 – 26%. Mật độ đường giao thông thấp và phân bổ không đều, ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đạt khoảng 2 – 4km/km2, trong khi chỉ tiêu quy định từ 4 – 6km/km2.
Diện tích dành cho giao thông tĩnh cũng thấp, hầu hết chưa đạt đến 1% đất xây dựng đô thị, trong khi đó theo quy định phải đạt từ 3 – 5% đất xây dựng đô thị. Giao thông công cộng chưa đáp ứng yêu cầu khi Hà Nội và
TP Hồ Chí Minh
khối lượng vận tải hành khách công cộng mới chỉ đáp ứng khoảng 10%.
Từ thực tế đó, nhiều chuyên gia đô thị cho rằng, giải pháp phát triển hạ tầng xanh an toàn và bền vững là vô cùng cần thiết đối với các đô thị trong giai đoạn hiện nay, cần được đối xử như một thành phần quan trọng trong quy hoạch đô thị.
Phát triển hạ tầng đô thị xanh là mạng lưới các công trình hạ tầng kỹ thuật (gồm giao thông, chiếu sáng, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải…) và công trình hạ tầng xã hội (gồm công viên, cây xanh…) trong đô thị theo hướng xanh, an toàn, bền vững.
Hạ tầng xanh không chỉ đơn giản là trồng nhiều cây xanh hay xây dựng các không gian xanh đô thị mà còn rất nhiều giải pháp phải được thực hiện đồng thời và trên tất cả các quy mô, từ nhà ở, đơn vị ở, đô thị đến quy mô vùng, bằng các giải pháp khá đa dạng với những đặc trưng tự nhiên hoặc dưới dạng nhân tạo.
Những không gian xanh này được quy hoạch, liên kết thành một mạng lưới nhằm bảo tồn các giá trị và chức năng của hệ sinh thái, đồng thời mang lại lợi ích đa dạng đối với người dân, cộng đồng.
Sớm xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc
Tại Hà Nội, theo báo cáo của Sở Xây dựng về xây dựng đô thị tăng trưởng xanh, các chỉ tiêu về phát triển hạ tầng xanh còn nhiều hạn chế. Trong giai đoạn 2015 – 2020, diện tích mặt nước tự nhiên đô thị giảm 203,63ha, nhiều ao hồ đã được san lấp để làm quỹ đất phát triển đô thị, chưa kể đến tình trạng người lấn chiếm diện tích mặt nước để kinh doanh khai thác…
Cùng đó, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hóa nhanh. Quỹ đất dành cho tăng tỷ lệ diện tích cây xanh hạn chế. Nhiều công viên, vườn hoa được quản lý hiện nay đều đã hình thành từ lâu, trải qua nhiều thời kỳ với kiến trúc cảnh quan, hạ tầng kỹ thuật xuống cấp.
Trong lĩnh vực giao thông, báo cáo cũng chỉ ra việc chưa triển khai đồng bộ Quy hoạch giao thông vận tải và các kế hoạch phát triển vận tải hành khách công cộng, giảm thiểu phương tiện cá nhân của TP. Việc rà soát, quy hoạch đồng bộ mạng lưới vận tải hành khách công cộng, bao gồm hệ thống các phương tiện, khu vực hạ tầng bến đỗ, trạm gửi xe cá nhân, khu vực để xe cho thuê… chưa được thực hiện.
Kế hoạch giảm thiểu các phương tiện giao thông cá nhân chưa được thực hiện hiệu quả. Số lượng phương tiện giao thông cá nhân vẫn tăng với tốc độ lớn, gây áp lực đến hạ tầng giao thông. Đặc biệt, trong quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ đô thị chưa chú trọng đến hạ tầng dành riêng cho loại phương tiện giao thông xanh là xe đạp.
Để duy trì, phát triển hệ thống hạ tầng xanh của TP một cách bền vững, đáp ứng mục tiêu quy hoạch và tạo bản sắc đô thị, các chuyên gia đô thị cho rằng, Hà Nội cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp.
Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, KTS Trần Ngọc Chính nêu, cần phải hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về quản lý hồ và cây xanh; xây dựng luật về cây xanh đô thị; hạn chế những yếu kém quản lý cây xanh đô thị bằng cách đánh giá lại công tác quy hoạch cây xanh trong đô thị.
Bên cạnh đó, hệ thống hồ cần được nghiên cứu theo định hướng tạo cảnh quan và điều hòa thoát nước, nhất là có sự kết nối điều hòa giữa các hồ thuộc đô thị trung tâm với đô thị vệ tinh, đô thị sinh thái. Phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp, sinh thái rừng và làng nghề gắn với bảo vệ phát huy giá trị văn hóa truyền thống, di tích lịch sử, di sản văn hóa, cảnh quan sinh thái núi, sông, hồ, đầm, nông – lâm nghiệp…
Đặc biệt, công tác quy hoạch, bảo vệ và bảo tồn cây xanh, mặt nước cần có sự tham gia của cộng đồng.
Chung quan điểm, TS Lê Thu Trang – Khoa Kiến trúc & Quy hoạch, Đại học Xây dựng cho rằng, trước hết cần xây dựng khung pháp lý về hạ tầng xanh để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đáp ứng yêu cầu phát triển hạ tầng xanh.
Thứ hai, quy hoạch, xây dựng, vận hành và duy trì hạ tầng xanh phải dựa trên sự tham gia của nhiều bên liên quan, đặc biệt của cộng đồng dân cư. Sự tham gia và tham vấn của cộng đồng là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng các chính sách hạ tầng xanh cụ thể không chỉ phù hợp với mong muốn của người dân mà còn đảm bảo phương hướng phát triển của đô thị và môi trường bền vững.
Mặc dù việc quy hoạch và phát triển hạ tầng xanh phải đối mặt với nhiều thách thức nhưng lại vô cùng cần thiết nhằm xây dựng các đô thị chống chịu thích ứng hướng đến phát triển bền vững. Đặc biệt, đối với các đô thị lớn, nơi hiện tượng ngập lụt dưới tác động của quá trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu đang là vấn đề nan giải.
Thùy Anh
|
Trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu ngày một rõ rệt, giải pháp phát triển hạ tầng xanh tại các đô thị lớn của Việt Nam trong đó có
Hà Nội
là vô cùng cần thiết.
Khi có một hệ thống hạ tầng “khỏe mạnh”, các đô thị sẽ có sức chống chịu, thích ứng hướng đến phát triển bền vững và nâng cao chất lượng sống.
Chưa dành sự quan tâm đầu tư đúng mức
Trận lụt lịch sử ở
TP Đà Nẵng
vào ngày 14/10 vừa qua chắc chắn là bài học để các đô thị lớn tại Việt Nam, trong đó có Hà Nội quan tâm đến việc đầu tư về hạ tầng thiết yếu, nhằm đáp ứng trước biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan cũng như bảo đảm chất lượng, môi trường sống của người dân. Nguyên nhân của những trận ngập lụt tại nhiều TP trong thời gian qua, ngoài yếu tố mưa lớn do thời tiết cực đoan còn là câu chuyện về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật của đô thị chưa được quan tâm dành nguồn lực đầu tư tương xứng so với tốc độ phát triển đô thị.
Đánh giá thực trạng phát triển hạ tầng đô thị xanh ở Việt Nam, Cục Hạ tầng kỹ thuật (Bộ Xây dựng) cho biết, tỷ lệ cây xanh trên mỗi người dân tại các đô thị của Việt Nam ở mức thấp, chỉ từ 2 – 3m2/người, trong khi chỉ tiêu xanh tối thiểu của Liên Hợp quốc là 10m2 và chỉ tiêu của các TP hiện đại trên thế giới từ 20 – 25m2. Như vậy, tỷ lệ cây xanh đô thị của Việt Nam chỉ bằng 1/5 – 1/10 của thế giới.
Phát triển hạ tầng xanh tại các khu đô thị là vô cùng cần thiết. Ảnh: Lê Việt
Cho đến nay, tổng diện tích đất cây xanh đô thị theo quy hoạch khoảng trên 70.000ha, chiếm tỷ lệ hơn 1,2% diện tích đất xây dựng đô thị, đây là một con số quá nhỏ. Đất dành cho cây xanh đã eo hẹp, còn dành cho giao thông cũng đang quá thấp, hầu hết mới chỉ đạt dưới 10% đất xây dựng đô thị, trong khi đó tỷ lệ này phải đạt khoảng 20 – 26%. Mật độ đường giao thông thấp và phân bổ không đều, ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đạt khoảng 2 – 4km/km2, trong khi chỉ tiêu quy định từ 4 – 6km/km2.
Diện tích dành cho giao thông tĩnh cũng thấp, hầu hết chưa đạt đến 1% đất xây dựng đô thị, trong khi đó theo quy định phải đạt từ 3 – 5% đất xây dựng đô thị. Giao thông công cộng chưa đáp ứng yêu cầu khi Hà Nội và
TP Hồ Chí Minh
khối lượng vận tải hành khách công cộng mới chỉ đáp ứng khoảng 10%.
Từ thực tế đó, nhiều chuyên gia đô thị cho rằng, giải pháp phát triển hạ tầng xanh an toàn và bền vững là vô cùng cần thiết đối với các đô thị trong giai đoạn hiện nay, cần được đối xử như một thành phần quan trọng trong quy hoạch đô thị.
Phát triển hạ tầng đô thị xanh là mạng lưới các công trình hạ tầng kỹ thuật (gồm giao thông, chiếu sáng, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải…) và công trình hạ tầng xã hội (gồm công viên, cây xanh…) trong đô thị theo hướng xanh, an toàn, bền vững.
Hạ tầng xanh không chỉ đơn giản là trồng nhiều cây xanh hay xây dựng các không gian xanh đô thị mà còn rất nhiều giải pháp phải được thực hiện đồng thời và trên tất cả các quy mô, từ nhà ở, đơn vị ở, đô thị đến quy mô vùng, bằng các giải pháp khá đa dạng với những đặc trưng tự nhiên hoặc dưới dạng nhân tạo.
Những không gian xanh này được quy hoạch, liên kết thành một mạng lưới nhằm bảo tồn các giá trị và chức năng của hệ sinh thái, đồng thời mang lại lợi ích đa dạng đối với người dân, cộng đồng.
Sớm xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc
Tại Hà Nội, theo báo cáo của Sở Xây dựng về xây dựng đô thị tăng trưởng xanh, các chỉ tiêu về phát triển hạ tầng xanh còn nhiều hạn chế. Trong giai đoạn 2015 – 2020, diện tích mặt nước tự nhiên đô thị giảm 203,63ha, nhiều ao hồ đã được san lấp để làm quỹ đất phát triển đô thị, chưa kể đến tình trạng người lấn chiếm diện tích mặt nước để kinh doanh khai thác…
Cùng đó, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hóa nhanh. Quỹ đất dành cho tăng tỷ lệ diện tích cây xanh hạn chế. Nhiều công viên, vườn hoa được quản lý hiện nay đều đã hình thành từ lâu, trải qua nhiều thời kỳ với kiến trúc cảnh quan, hạ tầng kỹ thuật xuống cấp.
Trong lĩnh vực giao thông, báo cáo cũng chỉ ra việc chưa triển khai đồng bộ Quy hoạch giao thông vận tải và các kế hoạch phát triển vận tải hành khách công cộng, giảm thiểu phương tiện cá nhân của TP. Việc rà soát, quy hoạch đồng bộ mạng lưới vận tải hành khách công cộng, bao gồm hệ thống các phương tiện, khu vực hạ tầng bến đỗ, trạm gửi xe cá nhân, khu vực để xe cho thuê… chưa được thực hiện.
Kế hoạch giảm thiểu các phương tiện giao thông cá nhân chưa được thực hiện hiệu quả. Số lượng phương tiện giao thông cá nhân vẫn tăng với tốc độ lớn, gây áp lực đến hạ tầng giao thông. Đặc biệt, trong quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ đô thị chưa chú trọng đến hạ tầng dành riêng cho loại phương tiện giao thông xanh là xe đạp.
Để duy trì, phát triển hệ thống hạ tầng xanh của TP một cách bền vững, đáp ứng mục tiêu quy hoạch và tạo bản sắc đô thị, các chuyên gia đô thị cho rằng, Hà Nội cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp.
Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, KTS Trần Ngọc Chính nêu, cần phải hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về quản lý hồ và cây xanh; xây dựng luật về cây xanh đô thị; hạn chế những yếu kém quản lý cây xanh đô thị bằng cách đánh giá lại công tác quy hoạch cây xanh trong đô thị.
Bên cạnh đó, hệ thống hồ cần được nghiên cứu theo định hướng tạo cảnh quan và điều hòa thoát nước, nhất là có sự kết nối điều hòa giữa các hồ thuộc đô thị trung tâm với đô thị vệ tinh, đô thị sinh thái. Phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp, sinh thái rừng và làng nghề gắn với bảo vệ phát huy giá trị văn hóa truyền thống, di tích lịch sử, di sản văn hóa, cảnh quan sinh thái núi, sông, hồ, đầm, nông – lâm nghiệp…
Đặc biệt, công tác quy hoạch, bảo vệ và bảo tồn cây xanh, mặt nước cần có sự tham gia của cộng đồng.
Chung quan điểm, TS Lê Thu Trang – Khoa Kiến trúc & Quy hoạch, Đại học Xây dựng cho rằng, trước hết cần xây dựng khung pháp lý về hạ tầng xanh để tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đáp ứng yêu cầu phát triển hạ tầng xanh.
Thứ hai, quy hoạch, xây dựng, vận hành và duy trì hạ tầng xanh phải dựa trên sự tham gia của nhiều bên liên quan, đặc biệt của cộng đồng dân cư. Sự tham gia và tham vấn của cộng đồng là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng các chính sách hạ tầng xanh cụ thể không chỉ phù hợp với mong muốn của người dân mà còn đảm bảo phương hướng phát triển của đô thị và môi trường bền vững.
Mặc dù việc quy hoạch và phát triển hạ tầng xanh phải đối mặt với nhiều thách thức nhưng lại vô cùng cần thiết nhằm xây dựng các đô thị chống chịu thích ứng hướng đến phát triển bền vững. Đặc biệt, đối với các đô thị lớn, nơi hiện tượng ngập lụt dưới tác động của quá trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu đang là vấn đề nan giải.
Thùy Anh
|
Nhà xuất bản Fitzcarraldo Editions chưa tròn 10 năm tuổi, có sáu nhân viên toàn thời gian. Nhưng từ khi thành lập, họ đã làm việc cùng ba tác giả sau này đoạt giải Nobel.
Không gian làm việc nhỏ của Fitzcarraldo Editions. Ảnh:
NY Times
.
Khi Jacques Testard, hiện 37 tuổi, thành lập nhà xuất bản của riêng mình vào năm 2014, anh muốn nhà xuất bản của mình có một chút điên rồ và khác biệt. Tám năm sau, Fitzcarraldo Editions đã nổi tiếng và đạt được thành công vượt xa hơn ý tưởng ban đầu. Fitzcarraldo Editions đang là một trong những nhà xuất bản được nhắc đến nhiều nhất ở Anh và trở thành nhà xuất bản tiếng Anh được những người đoạt giải Nobel lựa chọn.
Nhà văn Pháp Annie Ernaux được trao giải Nobel văn học 2022 vào tuần trước, bà trở thành tác giả thứ ba của Fitzcarraldo đạt được vinh dự này kể từ khi nhà xuất bản được thành lập. Bà đã tiếp nối tên tuổi của nhà văn Olga Tokarczuk, người Ba Lan, vào năm 2019 và Svetlana Alexievich, một nhà báo kiêm nhà văn người Belarus, đoạt giải năm 2015.
Và Fitzcarraldo không chỉ tạo nên tiếng vang với giải Nobel Văn học. Kể từ năm 2017, hàng chục cuốn sách của nhà xuất bản này, trong đó có cuốn
Hurrican Season
của Fernanda Melchor
và In Memory of Memor
y của Maria Stepanova, đã được đề cử cho giải thưởng Booker, một trong những giải thưởng cao quý dành cho các tác phẩm dịch. Vào năm 2018, cuốn
Flights
của Tokarczuk cũng đã giành được giải thưởng này.
Chia sẻ về sự thành công với giải Nobel, Testard nói rằng: “Chúng tôi không có chiến lược gì để tranh giải hay giành chiến thắng” và chỉ đơn giản là “khẩu vị” sách của anh phù hợp với “những chuyên gia Thụy Điển lớn tuổi”, những người quyết định giải Nobel mỗi năm.
Tuy nhiên, giới văn học Anh nói rằng thành công của Fitzcarraldo không thể chỉ giải thích bằng may mắn. Paul Keegan, một cựu biên tập viên tại nhà xuất bản Penguin Classics, người đã giao cho Testard công việc đầu tiên trong ngành xuất bản vào năm 2012, nói rằng hầu như toàn ngành xuất bản Anh đều bất ngờ trước thành công của Fitzcarraldo.
Gaby Wood, giám đốc của Quỹ trao giải Booker (Booker Prize Foundation), cũng cho biết bà hiểu nhiều nhà xuất bản đang cảm thấy “ghen tị” với Fitzcarraldo. “Testard đang trở nên nổi bật trong một ngành công nghiệp xuất bản có thái độ ‘hơi coi thường’ các tác phẩm không viết bằng tiếng Anh”, bà nói thêm. Năm 2018, chỉ khoảng 6% tiểu thuyết xuất bản ở
Anh
và
Ireland
được dịch từ một ngôn ngữ khác.
Gu thẩm định sách đặc biệt phần nào giúp Jacques Testard thành công. Ảnh:
NY Times.
Và theo Keegan, khả năng đọc hiểu tiểu thuyết bằng tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh của Testard có thể giúp anh phát hiện ra những tác giả và tác phẩm bị các biên tập viên tiếng Anh bỏ lỡ.
Testard, người sinh ra ở Pháp nhưng học tập ở Anh và Ireland, nói rằng anh đã đi một con đường vòng để tới được với thế giới xuất bản.
Khi còn là sinh viên tại Đại học Oxford, anh đã theo đuổi việc học lấy bằng tiến sĩ lịch sử cho đến khi anh tham gia một cuộc hội thảo. Lúc đó, anh nhận ra rằng mình cần phải thay đổi con đường.
Tiếp đó, anh làm việc tại
The Sunday Times of London
trong vài tháng, sau đó đi thực tập tại các nhà xuất bản ở
Pháp
, Anh và
Mỹ
. Và khi ở New York vào khoảng năm 2010, Testard đã bị ấn tượng bởi số lượng tạp chí văn học sôi động đang được xuất bản ở Mỹ. Cùng người bạn Ben Eastham, anh quyết định ra mắt tạp chí của riêng mình ở Anh.
Được gọi là
The White Review
, tạp chí này nổi tiếng khi giới thiệu tác phẩm của nhiều tác giả văn học sau này trở thành nhà văn nặng ký, bao gồm Sally Rooney và Joshua Cohen, hai tác giả người Mỹ đã giành giải Pulitzer cho thể loại tiểu thuyết.
Tuy nhiên, Testard có tham vọng lớn hơn. Anh ra mắt Fitzcarraldo Editions vào tháng 2 năm 2014, sau khi vay đủ tiền từ một thành viên trong gia đình để bảo đảm trả tiền thuê nhà trong hai năm và xuất bản được ít nhất 10 cuốn sách. Ngay từ đầu, anh đã xác định rằng hơn phân nửa danh mục của Fitzcarraldo Editions sẽ là sách dịch và tất cả đầu sách sẽ “có nét hiện đại hơn nền văn học hiện tại”, đồng thời xóa mờ ranh giới hình thức và thể loại.
Chiến lược này của Testard trên thực tế không mới. Anh chia sẻ rằng đã nhận được lời khuyên từ các biên tập viên tại nhiều nhà xuất bản trên khắp châu Âu và ở Mỹ, cũng như từ các dịch giả và tác giả anh tin tưởng. Tuy nhiên, Testard có lợi thế từ quan niệm truyền thống của hầu hết nhà xuất bản Anh và Mỹ rằng tiếp cận tiểu thuyết nước ngoài quá đắt hoặc quá khó.
Vào năm 2014, tại Hội chợ sách Frankfurt, Testard chia sẻ rằng đã hỏi mua bản quyền tiếng Anh đối với cuốn một sách của Alexievich và rất ngạc nhiên khi biết rằng không ai hỏi mua nó. Trong khi đó, cuốn sách này đã bán được hàng trăm nghìn bản ở Pháp.
Thiết kế đồng điệu của các tác phẩm giúp Fitzcarraldo Editions tạo được dấu ấn. Ảnh:
NY Times
Người đại diện của Alexievich ban đầu từ chối bán bản quyền cho Testard vì Fitzcarraldo mới chỉ xuất bản được hai cuốn sách vào thời điểm đó nhưng sau đó ý định đã được thay đổi.
Trong một ví dụ khác, Jennifer Croft, một trong những dịch giả của Tokarczuk, nói rằng bà đã gửi cho Testard một đoạn trích trong cuốn
Flights
– gồm một loạt bài viết suy ngẫm về du lịch, với hy vọng ban đầu là có thể đăng nó trên
The White Review
.
Nhưng sau đó tác phẩm này đã được Fitzcarraldo xuất bản, cùng nhiều cuốn khác của Tokarczuk – sau khi chúng đã bị khoảng 15 nhà xuất bản Mỹ từ chối, Croft chia sẻ.
Tất cả tác phẩm được Fitzcarraldo xuất bản đều có cùng một kiểu trang bìa đơn giản, tên tác phẩm và tên tác giả được in màu trắng trên nền xanh lam còn các tác phẩm phi hư cấu thì được in bìa màu trắng làm nền cho chữ màu xanh lam.
Testard nói rằng thiết kế của họ bị ảnh hưởng bởi phong cách của các nhà xuất bản châu Âu như Nhà xuất bản Gallimard ở Pháp khi sử dụng vẻ ngoài tối giản để mang lại nét đặc trưng cho nhà xuất bản
Vào năm 2020,
The Face
, một tạp chí phong cách của Anh, đã gọi các ấn bản của Fitzcarraldo là “những cuốn sách đẹp nhất trên giá” và thông tin thêm rằng những cuốn sách này đang được chọn để độc giả thể hiện sự tinh tế với văn học khi đi lại trên phương tiện công cộng hay tạo dáng trên Instagram.
Testard nói rằng mỗi lần một tác giả được giải Nobel thì đều tạo nên một bước nhảy vọt về doanh thu. Sau khi Alexievich đoạt giải Nobel 2015, Testard đã bán bản quyền xuất bản tại Mỹ tác phẩm của Alexievich cho nhà xuất bản lớn Random House với số tiền là sáu con số và từ đó cho phép anh thuê thêm nhân viên đầu tiên.
Một ngày sau khi bà Ernaux giành được giải thưởng Nobel, Testard nói anh đã quyết định tái bản 65.000 tác phẩm đoạt giải của bà để theo kịp nhu cầu thị trường. Đây là một con số khổng lồ đối với Fitzcarraldo khi doanh số cả năm 2021 của họ với tất cả đầu sách cũng chỉ vào khoảng 135.000 cuốn.
Fitzcarraldo hiện có sáu nhân viên toàn thời gian và dự kiến xuất bản 24 cuốn sách vào năm tới, trong đó có
Porn: An Oral History
của nhà văn người Anh Polly Barton,
The Long Form
– một cuốn tiểu thuyết đầu tay về tình mẫu tử của dịch giả Kate Briggs và
Owlish
– một câu chuyện cổ tích nhiều bước ngoặt tác giả Hong Kong (Trung Quốc) Dorothy Tse.
Bên cạnh các tác phẩm trên, nhiều đầu sách được lên kế hoạch là các cuốn sách mới của tác giả mà Fitzcarraldo từng làm việc. Hiện có tám đầu sách của Ernaux đang nằm trong danh mục xuất bản của họ. Testard nói rằng việc tiếp tục làm việc cùng các tác giả bất kể họ ra mắt tác phẩm gì là một cách khác để khiến anh trở nên nổi bật. Đây là một cách tiếp cận khác biệt khi các nhà xuất bản Anh thường chỉ tập trung vào tác phẩm và tác giả thành công.
Minh Hoa
|
Nhà xuất bản Fitzcarraldo Editions chưa tròn 10 năm tuổi, có sáu nhân viên toàn thời gian. Nhưng từ khi thành lập, họ đã làm việc cùng ba tác giả sau này đoạt giải Nobel.
Không gian làm việc nhỏ của Fitzcarraldo Editions. Ảnh:
NY Times
.
Khi Jacques Testard, hiện 37 tuổi, thành lập nhà xuất bản của riêng mình vào năm 2014, anh muốn nhà xuất bản của mình có một chút điên rồ và khác biệt. Tám năm sau, Fitzcarraldo Editions đã nổi tiếng và đạt được thành công vượt xa hơn ý tưởng ban đầu. Fitzcarraldo Editions đang là một trong những nhà xuất bản được nhắc đến nhiều nhất ở Anh và trở thành nhà xuất bản tiếng Anh được những người đoạt giải Nobel lựa chọn.
Nhà văn Pháp Annie Ernaux được trao giải Nobel văn học 2022 vào tuần trước, bà trở thành tác giả thứ ba của Fitzcarraldo đạt được vinh dự này kể từ khi nhà xuất bản được thành lập. Bà đã tiếp nối tên tuổi của nhà văn Olga Tokarczuk, người Ba Lan, vào năm 2019 và Svetlana Alexievich, một nhà báo kiêm nhà văn người Belarus, đoạt giải năm 2015.
Và Fitzcarraldo không chỉ tạo nên tiếng vang với giải Nobel Văn học. Kể từ năm 2017, hàng chục cuốn sách của nhà xuất bản này, trong đó có cuốn
Hurrican Season
của Fernanda Melchor
và In Memory of Memor
y của Maria Stepanova, đã được đề cử cho giải thưởng Booker, một trong những giải thưởng cao quý dành cho các tác phẩm dịch. Vào năm 2018, cuốn
Flights
của Tokarczuk cũng đã giành được giải thưởng này.
Chia sẻ về sự thành công với giải Nobel, Testard nói rằng: “Chúng tôi không có chiến lược gì để tranh giải hay giành chiến thắng” và chỉ đơn giản là “khẩu vị” sách của anh phù hợp với “những chuyên gia Thụy Điển lớn tuổi”, những người quyết định giải Nobel mỗi năm.
Tuy nhiên, giới văn học Anh nói rằng thành công của Fitzcarraldo không thể chỉ giải thích bằng may mắn. Paul Keegan, một cựu biên tập viên tại nhà xuất bản Penguin Classics, người đã giao cho Testard công việc đầu tiên trong ngành xuất bản vào năm 2012, nói rằng hầu như toàn ngành xuất bản Anh đều bất ngờ trước thành công của Fitzcarraldo.
Gaby Wood, giám đốc của Quỹ trao giải Booker (Booker Prize Foundation), cũng cho biết bà hiểu nhiều nhà xuất bản đang cảm thấy “ghen tị” với Fitzcarraldo. “Testard đang trở nên nổi bật trong một ngành công nghiệp xuất bản có thái độ ‘hơi coi thường’ các tác phẩm không viết bằng tiếng Anh”, bà nói thêm. Năm 2018, chỉ khoảng 6% tiểu thuyết xuất bản ở
Anh
và
Ireland
được dịch từ một ngôn ngữ khác.
Gu thẩm định sách đặc biệt phần nào giúp Jacques Testard thành công. Ảnh:
NY Times.
Và theo Keegan, khả năng đọc hiểu tiểu thuyết bằng tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh của Testard có thể giúp anh phát hiện ra những tác giả và tác phẩm bị các biên tập viên tiếng Anh bỏ lỡ.
Testard, người sinh ra ở Pháp nhưng học tập ở Anh và Ireland, nói rằng anh đã đi một con đường vòng để tới được với thế giới xuất bản.
Khi còn là sinh viên tại Đại học Oxford, anh đã theo đuổi việc học lấy bằng tiến sĩ lịch sử cho đến khi anh tham gia một cuộc hội thảo. Lúc đó, anh nhận ra rằng mình cần phải thay đổi con đường.
Tiếp đó, anh làm việc tại
The Sunday Times of London
trong vài tháng, sau đó đi thực tập tại các nhà xuất bản ở
Pháp
, Anh và
Mỹ
. Và khi ở New York vào khoảng năm 2010, Testard đã bị ấn tượng bởi số lượng tạp chí văn học sôi động đang được xuất bản ở Mỹ. Cùng người bạn Ben Eastham, anh quyết định ra mắt tạp chí của riêng mình ở Anh.
Được gọi là
The White Review
, tạp chí này nổi tiếng khi giới thiệu tác phẩm của nhiều tác giả văn học sau này trở thành nhà văn nặng ký, bao gồm Sally Rooney và Joshua Cohen, hai tác giả người Mỹ đã giành giải Pulitzer cho thể loại tiểu thuyết.
Tuy nhiên, Testard có tham vọng lớn hơn. Anh ra mắt Fitzcarraldo Editions vào tháng 2 năm 2014, sau khi vay đủ tiền từ một thành viên trong gia đình để bảo đảm trả tiền thuê nhà trong hai năm và xuất bản được ít nhất 10 cuốn sách. Ngay từ đầu, anh đã xác định rằng hơn phân nửa danh mục của Fitzcarraldo Editions sẽ là sách dịch và tất cả đầu sách sẽ “có nét hiện đại hơn nền văn học hiện tại”, đồng thời xóa mờ ranh giới hình thức và thể loại.
Chiến lược này của Testard trên thực tế không mới. Anh chia sẻ rằng đã nhận được lời khuyên từ các biên tập viên tại nhiều nhà xuất bản trên khắp châu Âu và ở Mỹ, cũng như từ các dịch giả và tác giả anh tin tưởng. Tuy nhiên, Testard có lợi thế từ quan niệm truyền thống của hầu hết nhà xuất bản Anh và Mỹ rằng tiếp cận tiểu thuyết nước ngoài quá đắt hoặc quá khó.
Vào năm 2014, tại Hội chợ sách Frankfurt, Testard chia sẻ rằng đã hỏi mua bản quyền tiếng Anh đối với cuốn một sách của Alexievich và rất ngạc nhiên khi biết rằng không ai hỏi mua nó. Trong khi đó, cuốn sách này đã bán được hàng trăm nghìn bản ở Pháp.
Thiết kế đồng điệu của các tác phẩm giúp Fitzcarraldo Editions tạo được dấu ấn. Ảnh:
NY Times
Người đại diện của Alexievich ban đầu từ chối bán bản quyền cho Testard vì Fitzcarraldo mới chỉ xuất bản được hai cuốn sách vào thời điểm đó nhưng sau đó ý định đã được thay đổi.
Trong một ví dụ khác, Jennifer Croft, một trong những dịch giả của Tokarczuk, nói rằng bà đã gửi cho Testard một đoạn trích trong cuốn
Flights
– gồm một loạt bài viết suy ngẫm về du lịch, với hy vọng ban đầu là có thể đăng nó trên
The White Review
.
Nhưng sau đó tác phẩm này đã được Fitzcarraldo xuất bản, cùng nhiều cuốn khác của Tokarczuk – sau khi chúng đã bị khoảng 15 nhà xuất bản Mỹ từ chối, Croft chia sẻ.
Tất cả tác phẩm được Fitzcarraldo xuất bản đều có cùng một kiểu trang bìa đơn giản, tên tác phẩm và tên tác giả được in màu trắng trên nền xanh lam còn các tác phẩm phi hư cấu thì được in bìa màu trắng làm nền cho chữ màu xanh lam.
Testard nói rằng thiết kế của họ bị ảnh hưởng bởi phong cách của các nhà xuất bản châu Âu như Nhà xuất bản Gallimard ở Pháp khi sử dụng vẻ ngoài tối giản để mang lại nét đặc trưng cho nhà xuất bản
Vào năm 2020,
The Face
, một tạp chí phong cách của Anh, đã gọi các ấn bản của Fitzcarraldo là “những cuốn sách đẹp nhất trên giá” và thông tin thêm rằng những cuốn sách này đang được chọn để độc giả thể hiện sự tinh tế với văn học khi đi lại trên phương tiện công cộng hay tạo dáng trên Instagram.
Testard nói rằng mỗi lần một tác giả được giải Nobel thì đều tạo nên một bước nhảy vọt về doanh thu. Sau khi Alexievich đoạt giải Nobel 2015, Testard đã bán bản quyền xuất bản tại Mỹ tác phẩm của Alexievich cho nhà xuất bản lớn Random House với số tiền là sáu con số và từ đó cho phép anh thuê thêm nhân viên đầu tiên.
Một ngày sau khi bà Ernaux giành được giải thưởng Nobel, Testard nói anh đã quyết định tái bản 65.000 tác phẩm đoạt giải của bà để theo kịp nhu cầu thị trường. Đây là một con số khổng lồ đối với Fitzcarraldo khi doanh số cả năm 2021 của họ với tất cả đầu sách cũng chỉ vào khoảng 135.000 cuốn.
Fitzcarraldo hiện có sáu nhân viên toàn thời gian và dự kiến xuất bản 24 cuốn sách vào năm tới, trong đó có
Porn: An Oral History
của nhà văn người Anh Polly Barton,
The Long Form
– một cuốn tiểu thuyết đầu tay về tình mẫu tử của dịch giả Kate Briggs và
Owlish
– một câu chuyện cổ tích nhiều bước ngoặt tác giả Hong Kong (Trung Quốc) Dorothy Tse.
Bên cạnh các tác phẩm trên, nhiều đầu sách được lên kế hoạch là các cuốn sách mới của tác giả mà Fitzcarraldo từng làm việc. Hiện có tám đầu sách của Ernaux đang nằm trong danh mục xuất bản của họ. Testard nói rằng việc tiếp tục làm việc cùng các tác giả bất kể họ ra mắt tác phẩm gì là một cách khác để khiến anh trở nên nổi bật. Đây là một cách tiếp cận khác biệt khi các nhà xuất bản Anh thường chỉ tập trung vào tác phẩm và tác giả thành công.
Minh Hoa
|
Thơ ca Việt Nam thời hiện đại đã có tới 2 bài thơ rất đặc biệt về đề tài căn nhà chật. Đó là “Nhà chật” của
Lưu Quang Vũ
và “Viết tặng em trong ngôi nhà chật” của Trần Quang Quý.
Có lẽ với mỗi chúng ta, ai cũng mơ ước có được một mái nhà cho riêng mình. Mái nhà vừa là tài sản vật chất lớn mà có thể phải dành dụm cả đời mới có được, bởi một trong ba việc lớn của đời người như các cụ đã dạy, chính là: tậu trâu – lấy vợ – làm nhà. Mái nhà lại cũng mang giá trị tinh thần, được coi là tổ ấm cho mỗi gia đình, là nơi các thành viên trở về sum họp đoàn tụ sau những ngày làm việc vất vả. Mái nhà là không gian đầm ấm luôn rộng mở để đón con người tìm về, xoa dịu những buồn đau.
Thế nhưng, không phải mấy ai cũng sớm có căn nhà ưng ý của đời mình. Khi còn trẻ, không ít người trong số chúng ta phải đi thuê nhà, trải qua cuộc sống tạm bợ, cơm niêu nước lọ. Rồi đến khi có một không gian riêng của mình, dù là chật hẹp, thì đã đủ lấy làm mừng rỡ, hạnh phúc hơn biết bao người khác.
Thế nhưng, rõ ràng một căn nhà rộng rãi thoải mái vẫn khác biệt hẳn với một căn nhà chật chội, nơi mà mọi sinh hoạt hàng ngày diễn ra gặp phải rất nhiều hạn chế, có ở trong đó mới biết được. Quan trọng là mỗi người đã đối mặt với không gian ấy của mình ra sao và thậm chí, có thể biến nó thành thơ.
Thì đây, trong lịch sử thơ ca Việt Nam thời hiện đại đã có tới 2 bài thơ rất đặc biệt về đề tài căn nhà chật. Đó là bài thơ
Nhà chật
của nhà thơ Lưu Quang Vũ và bài
Viết tặng em trong ngôi nhà chật
của nhà thơ Trần Quang Quý.
Nhà thơ Lưu Quang Vũ và vợ nhà thơ Xuân Quỳnh.
Cả hai bài thơ đều được ra đời trong những thập niên 80 của thế kỷ trước, khi đời sống của đất nước ta còn vô vàn khó khăn. Cho tới 1986, bước sang thời kỳ Đổi Mới, nhưng vẫn còn phải trải qua mấy năm bị cấm vận. Bài thơ của Lưu Quang Vũ ra đời trước, viết về chính căn phòng nhỏ ở phố Huế, là mái ấm của ông với nữ sĩ
Xuân Quỳnh
:
Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi
Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo
Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo
Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình
Nhà chật như khoang thuyền hẹp nhỏ giữa sông
Vừa căng buồm để đi, vừa nấu cơm để sống
Phải bỏ hết những gì không cần thiết
Ta chỉ có mấy thước vuông cho hành lý của mình
Khoảng không gian của anh và em
Khi buồn bã em không thể quay mặt đi nơi khác
Anh không giấu em một nghĩ lo nào được
Ta chỉ có mấy thước vuông để cùng khổ cùng vui
Anh ngẩng lên là ở cạnh em rồi
Bạn thuyền ơi, ngoài kia chiều lộng gió
Bên cửa sổ của gian phòng nhỏ
Mắt em xanh thăm thẳm những chân trời.
Chỉ qua vài nét phác ngay trong hai câu thơ đầu tiên, người đọc đã cảm nhận được những khó khăn vất vả, nỗi bức bí vì cả gia đình phải sinh tồn trong một không gian quá chật hẹp. Nhiều độc giả của thời nay đọc những câu thơ này có khi ngỡ ngàng khó tin, có khi cười ra nước mắt: “sách vở xếp cạnh nồi, nằm mơ quờ tay là chạm vào thùng gạo”.
Hiện thực thì khó khăn như vậy nhưng tâm hồn con người không bao giờ thiếu đi phần lãng mạn. Những mảng đối lập vì thế cứ song hành với nhau trong những câu thơ: “Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo”, “Vừa căng buồm để đi, vừa nấu cơm để sống”. Căn nhà chật được ví như khoang thuyền giữa lòng sông, tuy là nhỏ hẹp đấy nhưng tràn đầy những hứa hẹn, hoài bão ở phía trước.
Nhà thơ nói tiếp với chúng ta những cái “lợi ích” của nhà chật, đó là khi buồn cũng như khi vui, hai vợ chồng không thể giấu giếm nhau điều gì. Suy rộng ra, trong đời sống sinh hoạt thường ngày, nhà chật cũng trở thành “điều kiện tích cực” để nhanh chóng xóa tan mọi hờn giận, để vợ chồng thuận hòa sau những tình huống… “xô bát xô đũa”. Vậy là người lạc quan luôn nhìn ra những điều đẹp đẽ, đầy hy vọng ngay cả trong những tình huống xấu nhất.
Khổ thơ cuối bỗng mở rộng không gian của bài thơ đến vô vàn, bắt đầu từ một điểm nhìn qua ô cửa nhỏ: “Bạn thuyền ơi ngoài kia chiều lộng gió”, “Mắt em xanh thăm thẳm những chân trời”. Câu thơ cho con người thêm sức mạnh và niềm tin. Gia đình ấy như con thuyền nhỏ sẽ còn căng buồm lướt sóng để ra biển lớn, để thực hiện những ước mơ tươi đẹp. Và cho dù sau này, tai nạn giao thông ngang trái đã cướp đi sinh mệnh của cả gia đình, song Lưu Quang Vũ vẫn kịp để lại cho đời rất nhiều kiệt tác, cũng từ căn phòng nhỏ 6 m2 ấy.
Nhà thơ Trần Quang Quý và vợ.
Bài thơ của Trần Quang Quý xuất hiện sau bài thơ của Lưu Quang Vũ một chút, đồng thời cũng được chọn làm tên cho tập thơ đầu tay của ông in năm 1990. Theo nhiều bạn bè của Trần Quang Quý kể lại, căn nhà đầu tiên của vợ chồng nhà thơ Trần Quang Quý ở mạn Đê La Thành, gần Đại học Văn hóa, là nơi nhà thơ Trần Quang Quý đi học Trường Viết văn Nguyễn Du, đúng là một ngôi nhà… chật, một mái nhà cấp 4 trông giống như một túp lều. Và chính ở đây, một bài thơ độc đáo đã ra đời:
Lối về nhỏ căn nhà ta bé nhỏ
Một tiếng guốc khua cũng đủ chật rồi
Em nấu bếp nhìn anh trong mắt ướt
Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang…
Gió ơi gió
Chiều nay thôi đừng rủ
Cây ơi cây
Thôi rụng lá im lìm
Cuộc đời thật mỗi ngày reo quanh bếp
Cứ chập chờn ngay cả lúc yêu em…
Đâu những tầng lầu sang, ánh đèn cao áp
Mái nhà con vừa khép đủ chúng mình
Ta bỗng thấy thương hơn từng con nhện
Đi suốt đời một mảnh tơ riêng…
Em vất vả gầy hơn đêm ít ngủ
Lo cho anh chi chút lúc lên đường
Một viên thuốc đến năm ba lần dặn
Ốm đau tan từ một lời thương…
Anh nghèo lắm có gì đâu ngoài sách
Có gì đâu gia tài chẳng ngoài em
Ô cửa hẹp mà trời thăm thẳm quá
Một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ
Anh bất chợt nhìn em bất chợt
Ô cửa này rộng mở anh đi…
Nỗi chật chội trong căn nhà của thơ Trần Quang Quý cũng hiện lên từ góc bếp với ánh mắt ướt của người vợ hiền, sự quan tâm chăm sóc chồng, từng con nhện đương giăng tơ. Khác với Lưu Quang Vũ, Trần Quang Quý không ngần ngại nói thẳng về những vất vả nhọc nhằn của vợ: “
Em vất vả gầy hơn đêm ít ngủ / Lo cho anh chi chút lúc lên đường
“.
Những câu thơ chân thật làm chúng ta cảm động đến rưng rưng: “
Ốm đau tan từ một lời thương”, “Anh nghèo lắm có gì đâu ngoài sách
“. Không cần phải nhiều lời, người đọc cảm nhận ngay được tình yêu vợ tha thiết, sự trân trọng hạnh phúc có thật dù rất đỗi đơn sơ trong từng ngày sống: “
Có gì đâu gia tài chẳng ngoài em”
.
Cũng giống với Lưu Quang Vũ, khép lại bài thơ của Trần Quang Quý cũng là hình ảnh một ô cửa hẹp nhưng hướng đến bầu trời thăm thẳm. Bài thơ của Lưu Quang Vũ kết thúc bằng thời gian nghệ thuật buổi chiều thì bài thơ của Trần Quang Quý kết thúc bằng thời gian nghệ thuật đêm khuya qua hình ảnh “
một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ
“. Ngôi sao ấy phải chăng chính là niềm tin mãnh liệt, là ước mơ không bao giờ lụi tắt.
Sau này, như chúng ta đều biết, nhà thơ Trần Quang Quý đã có nhiều thành tựu văn học được ghi nhận, in dấu tên tuổi mình trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại qua nhiều tập tác phẩm được công bố. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2017. Trần Quang Quý cũng là người khai sinh ra trường phái Thơ Năm Câu (thơ namkau) qua hai tập thơ xuất bản năm 2016 và 2019, được nhiều người hưởng ứng và phát triển, thành lập cả một câu lạc bộ riêng với số thành viên lên tới hàng trăm người.
Cả hai bài thơ về căn nhà chật của Lưu Quang Vũ và Trần Quang Quý đã ra đời cách đây trên 30 năm nhưng vẫn làm lay động người đọc hôm nay bởi sự chân thực và cảm động, bởi những hình tượng thơ tràn đầy cảm xúc và hơn thế nữa là một tinh thần đẹp đẽ, lạc quan của con người luôn vượt lên hoàn cảnh khó khăn để hướng về tương lai tươi sáng. Nhà thơ Lưu Quang Vũ đã đi xa 34 năm.
Còn nhà thơ Trần Quang Quý vừa từ giã chúng ta đúng vào sáng ngày Tết Trung thu sau mấy năm trời kiên cường chống chọi với bạo bệnh. Bài viết này của tôi vì thế, cũng như nén hương nhỏ tưởng nhớ nhà thơ Trần Quang Quý, một tấm gương về sự miệt mài sáng tạo nghệ thuật cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
|
Thơ ca Việt Nam thời hiện đại đã có tới 2 bài thơ rất đặc biệt về đề tài căn nhà chật. Đó là “Nhà chật” của
Lưu Quang Vũ
và “Viết tặng em trong ngôi nhà chật” của Trần Quang Quý.
Có lẽ với mỗi chúng ta, ai cũng mơ ước có được một mái nhà cho riêng mình. Mái nhà vừa là tài sản vật chất lớn mà có thể phải dành dụm cả đời mới có được, bởi một trong ba việc lớn của đời người như các cụ đã dạy, chính là: tậu trâu – lấy vợ – làm nhà. Mái nhà lại cũng mang giá trị tinh thần, được coi là tổ ấm cho mỗi gia đình, là nơi các thành viên trở về sum họp đoàn tụ sau những ngày làm việc vất vả. Mái nhà là không gian đầm ấm luôn rộng mở để đón con người tìm về, xoa dịu những buồn đau.
Thế nhưng, không phải mấy ai cũng sớm có căn nhà ưng ý của đời mình. Khi còn trẻ, không ít người trong số chúng ta phải đi thuê nhà, trải qua cuộc sống tạm bợ, cơm niêu nước lọ. Rồi đến khi có một không gian riêng của mình, dù là chật hẹp, thì đã đủ lấy làm mừng rỡ, hạnh phúc hơn biết bao người khác.
Thế nhưng, rõ ràng một căn nhà rộng rãi thoải mái vẫn khác biệt hẳn với một căn nhà chật chội, nơi mà mọi sinh hoạt hàng ngày diễn ra gặp phải rất nhiều hạn chế, có ở trong đó mới biết được. Quan trọng là mỗi người đã đối mặt với không gian ấy của mình ra sao và thậm chí, có thể biến nó thành thơ.
Thì đây, trong lịch sử thơ ca Việt Nam thời hiện đại đã có tới 2 bài thơ rất đặc biệt về đề tài căn nhà chật. Đó là bài thơ
Nhà chật
của nhà thơ Lưu Quang Vũ và bài
Viết tặng em trong ngôi nhà chật
của nhà thơ Trần Quang Quý.
Nhà thơ Lưu Quang Vũ và vợ nhà thơ Xuân Quỳnh.
Cả hai bài thơ đều được ra đời trong những thập niên 80 của thế kỷ trước, khi đời sống của đất nước ta còn vô vàn khó khăn. Cho tới 1986, bước sang thời kỳ Đổi Mới, nhưng vẫn còn phải trải qua mấy năm bị cấm vận. Bài thơ của Lưu Quang Vũ ra đời trước, viết về chính căn phòng nhỏ ở phố Huế, là mái ấm của ông với nữ sĩ
Xuân Quỳnh
:
Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi
Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo
Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo
Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình
Nhà chật như khoang thuyền hẹp nhỏ giữa sông
Vừa căng buồm để đi, vừa nấu cơm để sống
Phải bỏ hết những gì không cần thiết
Ta chỉ có mấy thước vuông cho hành lý của mình
Khoảng không gian của anh và em
Khi buồn bã em không thể quay mặt đi nơi khác
Anh không giấu em một nghĩ lo nào được
Ta chỉ có mấy thước vuông để cùng khổ cùng vui
Anh ngẩng lên là ở cạnh em rồi
Bạn thuyền ơi, ngoài kia chiều lộng gió
Bên cửa sổ của gian phòng nhỏ
Mắt em xanh thăm thẳm những chân trời.
Chỉ qua vài nét phác ngay trong hai câu thơ đầu tiên, người đọc đã cảm nhận được những khó khăn vất vả, nỗi bức bí vì cả gia đình phải sinh tồn trong một không gian quá chật hẹp. Nhiều độc giả của thời nay đọc những câu thơ này có khi ngỡ ngàng khó tin, có khi cười ra nước mắt: “sách vở xếp cạnh nồi, nằm mơ quờ tay là chạm vào thùng gạo”.
Hiện thực thì khó khăn như vậy nhưng tâm hồn con người không bao giờ thiếu đi phần lãng mạn. Những mảng đối lập vì thế cứ song hành với nhau trong những câu thơ: “Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo”, “Vừa căng buồm để đi, vừa nấu cơm để sống”. Căn nhà chật được ví như khoang thuyền giữa lòng sông, tuy là nhỏ hẹp đấy nhưng tràn đầy những hứa hẹn, hoài bão ở phía trước.
Nhà thơ nói tiếp với chúng ta những cái “lợi ích” của nhà chật, đó là khi buồn cũng như khi vui, hai vợ chồng không thể giấu giếm nhau điều gì. Suy rộng ra, trong đời sống sinh hoạt thường ngày, nhà chật cũng trở thành “điều kiện tích cực” để nhanh chóng xóa tan mọi hờn giận, để vợ chồng thuận hòa sau những tình huống… “xô bát xô đũa”. Vậy là người lạc quan luôn nhìn ra những điều đẹp đẽ, đầy hy vọng ngay cả trong những tình huống xấu nhất.
Khổ thơ cuối bỗng mở rộng không gian của bài thơ đến vô vàn, bắt đầu từ một điểm nhìn qua ô cửa nhỏ: “Bạn thuyền ơi ngoài kia chiều lộng gió”, “Mắt em xanh thăm thẳm những chân trời”. Câu thơ cho con người thêm sức mạnh và niềm tin. Gia đình ấy như con thuyền nhỏ sẽ còn căng buồm lướt sóng để ra biển lớn, để thực hiện những ước mơ tươi đẹp. Và cho dù sau này, tai nạn giao thông ngang trái đã cướp đi sinh mệnh của cả gia đình, song Lưu Quang Vũ vẫn kịp để lại cho đời rất nhiều kiệt tác, cũng từ căn phòng nhỏ 6 m2 ấy.
Nhà thơ Trần Quang Quý và vợ.
Bài thơ của Trần Quang Quý xuất hiện sau bài thơ của Lưu Quang Vũ một chút, đồng thời cũng được chọn làm tên cho tập thơ đầu tay của ông in năm 1990. Theo nhiều bạn bè của Trần Quang Quý kể lại, căn nhà đầu tiên của vợ chồng nhà thơ Trần Quang Quý ở mạn Đê La Thành, gần Đại học Văn hóa, là nơi nhà thơ Trần Quang Quý đi học Trường Viết văn Nguyễn Du, đúng là một ngôi nhà… chật, một mái nhà cấp 4 trông giống như một túp lều. Và chính ở đây, một bài thơ độc đáo đã ra đời:
Lối về nhỏ căn nhà ta bé nhỏ
Một tiếng guốc khua cũng đủ chật rồi
Em nấu bếp nhìn anh trong mắt ướt
Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang…
Gió ơi gió
Chiều nay thôi đừng rủ
Cây ơi cây
Thôi rụng lá im lìm
Cuộc đời thật mỗi ngày reo quanh bếp
Cứ chập chờn ngay cả lúc yêu em…
Đâu những tầng lầu sang, ánh đèn cao áp
Mái nhà con vừa khép đủ chúng mình
Ta bỗng thấy thương hơn từng con nhện
Đi suốt đời một mảnh tơ riêng…
Em vất vả gầy hơn đêm ít ngủ
Lo cho anh chi chút lúc lên đường
Một viên thuốc đến năm ba lần dặn
Ốm đau tan từ một lời thương…
Anh nghèo lắm có gì đâu ngoài sách
Có gì đâu gia tài chẳng ngoài em
Ô cửa hẹp mà trời thăm thẳm quá
Một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ
Anh bất chợt nhìn em bất chợt
Ô cửa này rộng mở anh đi…
Nỗi chật chội trong căn nhà của thơ Trần Quang Quý cũng hiện lên từ góc bếp với ánh mắt ướt của người vợ hiền, sự quan tâm chăm sóc chồng, từng con nhện đương giăng tơ. Khác với Lưu Quang Vũ, Trần Quang Quý không ngần ngại nói thẳng về những vất vả nhọc nhằn của vợ: “
Em vất vả gầy hơn đêm ít ngủ / Lo cho anh chi chút lúc lên đường
“.
Những câu thơ chân thật làm chúng ta cảm động đến rưng rưng: “
Ốm đau tan từ một lời thương”, “Anh nghèo lắm có gì đâu ngoài sách
“. Không cần phải nhiều lời, người đọc cảm nhận ngay được tình yêu vợ tha thiết, sự trân trọng hạnh phúc có thật dù rất đỗi đơn sơ trong từng ngày sống: “
Có gì đâu gia tài chẳng ngoài em”
.
Cũng giống với Lưu Quang Vũ, khép lại bài thơ của Trần Quang Quý cũng là hình ảnh một ô cửa hẹp nhưng hướng đến bầu trời thăm thẳm. Bài thơ của Lưu Quang Vũ kết thúc bằng thời gian nghệ thuật buổi chiều thì bài thơ của Trần Quang Quý kết thúc bằng thời gian nghệ thuật đêm khuya qua hình ảnh “
một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ
“. Ngôi sao ấy phải chăng chính là niềm tin mãnh liệt, là ước mơ không bao giờ lụi tắt.
Sau này, như chúng ta đều biết, nhà thơ Trần Quang Quý đã có nhiều thành tựu văn học được ghi nhận, in dấu tên tuổi mình trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại qua nhiều tập tác phẩm được công bố. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2017. Trần Quang Quý cũng là người khai sinh ra trường phái Thơ Năm Câu (thơ namkau) qua hai tập thơ xuất bản năm 2016 và 2019, được nhiều người hưởng ứng và phát triển, thành lập cả một câu lạc bộ riêng với số thành viên lên tới hàng trăm người.
Cả hai bài thơ về căn nhà chật của Lưu Quang Vũ và Trần Quang Quý đã ra đời cách đây trên 30 năm nhưng vẫn làm lay động người đọc hôm nay bởi sự chân thực và cảm động, bởi những hình tượng thơ tràn đầy cảm xúc và hơn thế nữa là một tinh thần đẹp đẽ, lạc quan của con người luôn vượt lên hoàn cảnh khó khăn để hướng về tương lai tươi sáng. Nhà thơ Lưu Quang Vũ đã đi xa 34 năm.
Còn nhà thơ Trần Quang Quý vừa từ giã chúng ta đúng vào sáng ngày Tết Trung thu sau mấy năm trời kiên cường chống chọi với bạo bệnh. Bài viết này của tôi vì thế, cũng như nén hương nhỏ tưởng nhớ nhà thơ Trần Quang Quý, một tấm gương về sự miệt mài sáng tạo nghệ thuật cho đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
|
Ngày 12/10, học giả, nhà nghiên cứu, nhà phê bình nổi tiếng An Chi đã qua đời tại nhà riêng vì tuổi cao sức yếu. Ông hưởng thọ 88 tuổi.
Học giả An Chi
tên thật là Võ Thiện Hoa, là một học giả, nhà nghiên cứu từ nguyên học nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh ngày 27/11/1935 và lớn lên ở xã Bình Hòa, Gia Định (nay thuộc
quận Bình Thạnh
,
TP. Hồ Chí Minh
) trong một gia đình cơ sở kháng chiến. Ông bảo: “Do đó, từ sớm, khoảng mười ba, mười bốn tuổi, tôi đã thích sách thân kháng chiến hoặc có nội dung chống Pháp”. Ngoài bút danh An Chi, ông còn được biết tới với những bút danh khác là Huệ Thiên, Huyện Thê, Viễn Thọ. Thời niên thiếu, ông từng theo học tại trường Chasseloup-Laubat (nay là trường THPT Lê Quý Đôn).
Học giả An Chi ra đi ở tuổi 88 vào ngày 12/10.
Năm 1956, ông đi tập kết ra miền Bắc. Tại đây, ông đã tham gia lực lượng thanh niên xung phong, xây dựng một số công trình như tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai, Nhà máy chè Phú Thọ,… Sau đó, ông theo học tại trường Trung cấp Sư phạm Trung ương rồi đi dạy ở một trường cấp 2 tại
Thái Bình
. Ngoài ra, học giả An Chi còn từng làm thêm nhiều công việc khác như thợ máy, phụ trách thư viện, tạp vụ,… Sau này khi đất nước đã được thống nhất, ông trở lại miền Nam và công tác tại Sở Giáo dục TP. Hồ Chí Minh.
Năm 2016, khi học giả An Chi 82 tuổi, ông đã cho ra mắt cuốn sách “Rong chơi miền chữ nghĩa”, đưa độc giả “rong chơi” qua đủ loại kiến thức kim cổ, đông tây khác nhau dưới ngòi bút khoa học tài tình của học giả An Chi. “Tôi vốn sinh ra học giỏi toán nên từng theo học bộ môn này ở trường Sư phạm. Sau này bạn bè khuyên tôi học mấy môn khoa học xã hội tốt nghiệp dễ xin việc làm nên tôi mới chuyển hướng qua văn học. Nhờ có vốn ngoại ngữ:
Anh
,
Pháp
,
Tây Ban Nha
và chữ Hán nên tôi có thể đọc nhiều loại sách khác nhau”, học giả An Chi hào hứng kể lại.
“Năm 9 tuổi, loạn lạc xảy ra liên miên nên gia đình cho tôi về Chợ Lớn học ở mấy trường người Tàu dạy nên tôi có bạn bè là người Hoa nhiều. Mấy tiệm gần nhà mua sách báo cân ký về gói hàng nên tôi hay qua chơi lùng đọc, nhờ vậy mà trao dồi, biết thêm nhiều kiến thức. Phía trước nhà, ba má tôi cho chị bán tạp hóa người Quảng Đông hành nghề nên rảnh rỗi tôi lại thọ giáo chị về cách phát âm chuẩn nhất. Sau này mới có điều kiện và vốn liếng từ ngữ để viết lách tranh luận với các cây đa cây đề trong lĩnh vực này”, ông nói thêm.
Cũng trong buổi giới thiệu cuốn sách này tại NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, nhà thơ Phan Hoàng – Phó chủ tịch Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh đã bày tỏ lòng kính trọng đối với “bậc thầy chữ nghĩa”. “Bằng tình yêu nước mãnh liệt, thời trẻ ông An Chi tự mình vượt tuyến ra Bắc mang theo lá thư giới thiệu của một cán bộ cấp cao gửi giới thiệu cho một cán bộ cấp cao khác nhưng vì lòng tự trọng ông đã không đưa lá thư ấy mà chấp nhận những ngày tháng cơ cực tự khẳng định mình, như đi làm công nhân, dạy học rồi khi có thời gian lại mày mò nghiên cứu chữ nghĩa. Ở ông luôn hội tụ đầy đủ tính cách của người Nam bộ hào sảng và giản dị. Những vấn đề học thuật ông đưa ra đôi khi xảy ra tranh cãi gay gắt nhưng đều xuất phát từ sự nghiên cứu, đối sánh nghiêm cẩn, được trình bày khúc chiết, khoa học, “nói có sách, mách có chứng”, với một phong cách “rất An Chi” – thẳng thắn, không khoan nhượng, giàu cảm xúc”.
“Có thể nói, sự vượt khó tự học, niềm đam mê chữ nghĩa, nghiên cứu khoa học, tinh thông nhiều ngoại ngữ, đã đưa con người nhỏ thó, rắn rỏi, điềm đạm này từ vô danh, không học vị học hàm, trở thành tên tuổi quen thuộc đáng kính”, nhà thơ Phan Hoàng viết về học giả An Chi trong cuốn “Sài Gòn đất lành chim đậu”.
Học giả An Chi là một trong những nhà nghiên cứu tiếng Việt kỹ lưỡng với những chứng cứ, lý lẽ vững chãi và tranh biện đến cùng những vấn đề mà ông cho rằng mình đúng. Trong cuốn “Sài Gòn đất lành chim đậu” tập 1, viết về học giả An Chi, nhà thơ Phan Hoàng nhận định: “Ông không ngại đụng chạm đến những kiến giải sai lầm của các “cây đa cây đề” mà trước đó khá lâu giới nghiên cứu dường như tránh đề cập đến. Bản lĩnh hiếm có ấy của An Chi cùng kiến thức sâu rộng, luận chứng cụ thể, được trình bày logic và khúc chiết, dễ hiểu đã được đông đảo bạn đọc cùng giới nghiên cứu đồng tình”.
Ông từng chỉ ra những chỗ sai trong Từ điển Truyện Kiều của GS. Đào Duy Anh và cả những điểm mà GS. Phan Ngọc sửa chữa “nâng cấp” không đúng về cuốn từ điển này. Rồi trong 2 cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Từ điển từ và ngữ Việt Nam đều của GS. Nguyễn Lân, ông cũng chỉ ra chính xác những “chỗ sai khó ngờ”.
Đối với việc biên soạn từ điển, học giả An Chi cho rằng: “Từ điển phải là khuôn vàng thước ngọc. Dứt khoát phải như thế. Nhưng đó chỉ là nguyên tắc chứ trong thực tiễn thì, nói chung, từ điển, dù có hoành tráng đến đâu, cũng khó lòng có thể tránh được sai sót một cách tuyệt đối”.
Trong quá trình nghiên cứu về tiếng Việt, học giả An Chi tâm đắc nhất là “từ láy”. Ông đã lật lại, đi tận cùng vấn đề về “từ láy” trong tiếng Việt. An Chi đặt ra câu hỏi liệu quan niệm về “từ láy” xưa nay đã đúng? Học giả An Chi chia sẻ: “Tôi đọc Chánh tả Việt ngữ, bộ sách 2 quyển của Lê Ngọc Trụ (do nhà Nam Việt ở Sài Gòn xuất bản) năm 15 tuổi rồi từ đó mê luôn tiếng Việt, chữ Hán và từ nguyên. Thực ra, khi bắt đầu công việc nghiên cứu, tôi lại đi vào ngữ pháp tiếng Việt và đã có nhiều điều ghi chép mà tôi rất lấy làm tâm đắc, đặc biệt là về từ láy. Nhưng cũng chính khi đưa ra cách giải thích riêng về “nguyên lý” của từ láy thì tôi lại thấy phải đi vào từ nguyên”.
Say mê với chữ nghĩa khiến ông luôn không ngừng nghiên cứu, tìm tòi thêm nhiều tài liệu để củng cố vốn kiến thức sâu rộng của mình. Từ năm 1992- 2007, học giả An Chi cộng tác với Tạp chí Kiến thức Ngày nay và phụ trách chuyên mục “Chuyện Đông, chuyện Tây” cùng nhà thơ Phan Hoàng, nhà báo Lê Khắc Cường. Đây là chuyên mục thu hút rất nhiều người đọc, nhưng cũng gây dậy sóng dư luận bởi lối suy nghĩ khác, cách phân tích, giải thích khác các học giả tiền bối và đụng chạm tới các tượng đài ngôn ngữ thời đó trong bài viết đăng tải trên Tạp chí. Điều này đã khiến ông bị buộc ngưng chuyên mục phụ trách trong 5 kỳ. Về hưu non ở tuổi 45, ông trở về với thú vui nuôi chim kiểng và tập trung viết sách.
Bộ sách “Chuyện Đông Chuyện Tây” đã đoạt Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ hai.
Sau này, những kiến thức và giải thưởng của ông đã được tập hợp lại thành các tác phẩm nổi tiếng: “Chuyện Đông chuyện Tây”, “Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm”, “Từ Thập Nhị Chi đến 12 con giáp”, “Câu chữ Truyện Kiều”, bộ sách “Rong chơi miền chữ nghĩa”… Đặc biệt bộ sách “Chuyện Đông chuyện Tây” đã đem tới cho người đọc nhiều kiến thức từ Đông sang Tây bằng những lý giải khoa học thuyết phục. Bộ sách đã đoạt Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ hai.
Là người viết lời tựa cho bộ sách “Chuyện Đông chuyện Tây”, sinh thời Giáo sư Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao học giả An Chi. Nói về học giả An Chi, Giáo sư Cao Xuân Hạo dành nhiều tình cảm: “Quả có nhiều người hình dung An Chi là một cụ già đầu bạc trán hói, thông kim bác cổ, suốt ngày vùi đầu trong những đống sách cũ kỹ. Trong trí tưởng tượng của họ, An Chi gần như là một nhân vật huyền thoại, khó lòng có thật trong cuộc sống còn nhiều hàng dỏm, sách dỏm và trí thức dỏm này”. Những cống hiến khoa học của An Chi cũng được các nhà ngữ học nổi tiếng như Nguyễn Đức Dương, Hoàng Dũng, Lý Việt Dũng trân trọng.
Những năm gần đây, dù tuổi ngày càng cao nhưng hàng ngày học giả An Chi vẫn hăng say, miệt mài làm việc. Ngày 12/10, ông đã dừng cuộc rong chơi chữ nghĩa ở nhân gian để về cõi khác nhưng di sản kiến thức của học giả An Chi vẫn sẽ còn nguyên giá trị, sống mãi đối với các thế hệ sau. Xin vĩnh biệt ông – một nhà giáo, bậc thầy về chữ nghĩa, người đã dành cả một đời cống hiến cho tiếng Việt, vì tiếng Việt./.
|
Ngày 12/10, học giả, nhà nghiên cứu, nhà phê bình nổi tiếng An Chi đã qua đời tại nhà riêng vì tuổi cao sức yếu. Ông hưởng thọ 88 tuổi.
Học giả An Chi
tên thật là Võ Thiện Hoa, là một học giả, nhà nghiên cứu từ nguyên học nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh ngày 27/11/1935 và lớn lên ở xã Bình Hòa, Gia Định (nay thuộc
quận Bình Thạnh
,
TP. Hồ Chí Minh
) trong một gia đình cơ sở kháng chiến. Ông bảo: “Do đó, từ sớm, khoảng mười ba, mười bốn tuổi, tôi đã thích sách thân kháng chiến hoặc có nội dung chống Pháp”. Ngoài bút danh An Chi, ông còn được biết tới với những bút danh khác là Huệ Thiên, Huyện Thê, Viễn Thọ. Thời niên thiếu, ông từng theo học tại trường Chasseloup-Laubat (nay là trường THPT Lê Quý Đôn).
Học giả An Chi ra đi ở tuổi 88 vào ngày 12/10.
Năm 1956, ông đi tập kết ra miền Bắc. Tại đây, ông đã tham gia lực lượng thanh niên xung phong, xây dựng một số công trình như tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai, Nhà máy chè Phú Thọ,… Sau đó, ông theo học tại trường Trung cấp Sư phạm Trung ương rồi đi dạy ở một trường cấp 2 tại
Thái Bình
. Ngoài ra, học giả An Chi còn từng làm thêm nhiều công việc khác như thợ máy, phụ trách thư viện, tạp vụ,… Sau này khi đất nước đã được thống nhất, ông trở lại miền Nam và công tác tại Sở Giáo dục TP. Hồ Chí Minh.
Năm 2016, khi học giả An Chi 82 tuổi, ông đã cho ra mắt cuốn sách “Rong chơi miền chữ nghĩa”, đưa độc giả “rong chơi” qua đủ loại kiến thức kim cổ, đông tây khác nhau dưới ngòi bút khoa học tài tình của học giả An Chi. “Tôi vốn sinh ra học giỏi toán nên từng theo học bộ môn này ở trường Sư phạm. Sau này bạn bè khuyên tôi học mấy môn khoa học xã hội tốt nghiệp dễ xin việc làm nên tôi mới chuyển hướng qua văn học. Nhờ có vốn ngoại ngữ:
Anh
,
Pháp
,
Tây Ban Nha
và chữ Hán nên tôi có thể đọc nhiều loại sách khác nhau”, học giả An Chi hào hứng kể lại.
“Năm 9 tuổi, loạn lạc xảy ra liên miên nên gia đình cho tôi về Chợ Lớn học ở mấy trường người Tàu dạy nên tôi có bạn bè là người Hoa nhiều. Mấy tiệm gần nhà mua sách báo cân ký về gói hàng nên tôi hay qua chơi lùng đọc, nhờ vậy mà trao dồi, biết thêm nhiều kiến thức. Phía trước nhà, ba má tôi cho chị bán tạp hóa người Quảng Đông hành nghề nên rảnh rỗi tôi lại thọ giáo chị về cách phát âm chuẩn nhất. Sau này mới có điều kiện và vốn liếng từ ngữ để viết lách tranh luận với các cây đa cây đề trong lĩnh vực này”, ông nói thêm.
Cũng trong buổi giới thiệu cuốn sách này tại NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, nhà thơ Phan Hoàng – Phó chủ tịch Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh đã bày tỏ lòng kính trọng đối với “bậc thầy chữ nghĩa”. “Bằng tình yêu nước mãnh liệt, thời trẻ ông An Chi tự mình vượt tuyến ra Bắc mang theo lá thư giới thiệu của một cán bộ cấp cao gửi giới thiệu cho một cán bộ cấp cao khác nhưng vì lòng tự trọng ông đã không đưa lá thư ấy mà chấp nhận những ngày tháng cơ cực tự khẳng định mình, như đi làm công nhân, dạy học rồi khi có thời gian lại mày mò nghiên cứu chữ nghĩa. Ở ông luôn hội tụ đầy đủ tính cách của người Nam bộ hào sảng và giản dị. Những vấn đề học thuật ông đưa ra đôi khi xảy ra tranh cãi gay gắt nhưng đều xuất phát từ sự nghiên cứu, đối sánh nghiêm cẩn, được trình bày khúc chiết, khoa học, “nói có sách, mách có chứng”, với một phong cách “rất An Chi” – thẳng thắn, không khoan nhượng, giàu cảm xúc”.
“Có thể nói, sự vượt khó tự học, niềm đam mê chữ nghĩa, nghiên cứu khoa học, tinh thông nhiều ngoại ngữ, đã đưa con người nhỏ thó, rắn rỏi, điềm đạm này từ vô danh, không học vị học hàm, trở thành tên tuổi quen thuộc đáng kính”, nhà thơ Phan Hoàng viết về học giả An Chi trong cuốn “Sài Gòn đất lành chim đậu”.
Học giả An Chi là một trong những nhà nghiên cứu tiếng Việt kỹ lưỡng với những chứng cứ, lý lẽ vững chãi và tranh biện đến cùng những vấn đề mà ông cho rằng mình đúng. Trong cuốn “Sài Gòn đất lành chim đậu” tập 1, viết về học giả An Chi, nhà thơ Phan Hoàng nhận định: “Ông không ngại đụng chạm đến những kiến giải sai lầm của các “cây đa cây đề” mà trước đó khá lâu giới nghiên cứu dường như tránh đề cập đến. Bản lĩnh hiếm có ấy của An Chi cùng kiến thức sâu rộng, luận chứng cụ thể, được trình bày logic và khúc chiết, dễ hiểu đã được đông đảo bạn đọc cùng giới nghiên cứu đồng tình”.
Ông từng chỉ ra những chỗ sai trong Từ điển Truyện Kiều của GS. Đào Duy Anh và cả những điểm mà GS. Phan Ngọc sửa chữa “nâng cấp” không đúng về cuốn từ điển này. Rồi trong 2 cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Từ điển từ và ngữ Việt Nam đều của GS. Nguyễn Lân, ông cũng chỉ ra chính xác những “chỗ sai khó ngờ”.
Đối với việc biên soạn từ điển, học giả An Chi cho rằng: “Từ điển phải là khuôn vàng thước ngọc. Dứt khoát phải như thế. Nhưng đó chỉ là nguyên tắc chứ trong thực tiễn thì, nói chung, từ điển, dù có hoành tráng đến đâu, cũng khó lòng có thể tránh được sai sót một cách tuyệt đối”.
Trong quá trình nghiên cứu về tiếng Việt, học giả An Chi tâm đắc nhất là “từ láy”. Ông đã lật lại, đi tận cùng vấn đề về “từ láy” trong tiếng Việt. An Chi đặt ra câu hỏi liệu quan niệm về “từ láy” xưa nay đã đúng? Học giả An Chi chia sẻ: “Tôi đọc Chánh tả Việt ngữ, bộ sách 2 quyển của Lê Ngọc Trụ (do nhà Nam Việt ở Sài Gòn xuất bản) năm 15 tuổi rồi từ đó mê luôn tiếng Việt, chữ Hán và từ nguyên. Thực ra, khi bắt đầu công việc nghiên cứu, tôi lại đi vào ngữ pháp tiếng Việt và đã có nhiều điều ghi chép mà tôi rất lấy làm tâm đắc, đặc biệt là về từ láy. Nhưng cũng chính khi đưa ra cách giải thích riêng về “nguyên lý” của từ láy thì tôi lại thấy phải đi vào từ nguyên”.
Say mê với chữ nghĩa khiến ông luôn không ngừng nghiên cứu, tìm tòi thêm nhiều tài liệu để củng cố vốn kiến thức sâu rộng của mình. Từ năm 1992- 2007, học giả An Chi cộng tác với Tạp chí Kiến thức Ngày nay và phụ trách chuyên mục “Chuyện Đông, chuyện Tây” cùng nhà thơ Phan Hoàng, nhà báo Lê Khắc Cường. Đây là chuyên mục thu hút rất nhiều người đọc, nhưng cũng gây dậy sóng dư luận bởi lối suy nghĩ khác, cách phân tích, giải thích khác các học giả tiền bối và đụng chạm tới các tượng đài ngôn ngữ thời đó trong bài viết đăng tải trên Tạp chí. Điều này đã khiến ông bị buộc ngưng chuyên mục phụ trách trong 5 kỳ. Về hưu non ở tuổi 45, ông trở về với thú vui nuôi chim kiểng và tập trung viết sách.
Bộ sách “Chuyện Đông Chuyện Tây” đã đoạt Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ hai.
Sau này, những kiến thức và giải thưởng của ông đã được tập hợp lại thành các tác phẩm nổi tiếng: “Chuyện Đông chuyện Tây”, “Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm”, “Từ Thập Nhị Chi đến 12 con giáp”, “Câu chữ Truyện Kiều”, bộ sách “Rong chơi miền chữ nghĩa”… Đặc biệt bộ sách “Chuyện Đông chuyện Tây” đã đem tới cho người đọc nhiều kiến thức từ Đông sang Tây bằng những lý giải khoa học thuyết phục. Bộ sách đã đoạt Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ hai.
Là người viết lời tựa cho bộ sách “Chuyện Đông chuyện Tây”, sinh thời Giáo sư Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao học giả An Chi. Nói về học giả An Chi, Giáo sư Cao Xuân Hạo dành nhiều tình cảm: “Quả có nhiều người hình dung An Chi là một cụ già đầu bạc trán hói, thông kim bác cổ, suốt ngày vùi đầu trong những đống sách cũ kỹ. Trong trí tưởng tượng của họ, An Chi gần như là một nhân vật huyền thoại, khó lòng có thật trong cuộc sống còn nhiều hàng dỏm, sách dỏm và trí thức dỏm này”. Những cống hiến khoa học của An Chi cũng được các nhà ngữ học nổi tiếng như Nguyễn Đức Dương, Hoàng Dũng, Lý Việt Dũng trân trọng.
Những năm gần đây, dù tuổi ngày càng cao nhưng hàng ngày học giả An Chi vẫn hăng say, miệt mài làm việc. Ngày 12/10, ông đã dừng cuộc rong chơi chữ nghĩa ở nhân gian để về cõi khác nhưng di sản kiến thức của học giả An Chi vẫn sẽ còn nguyên giá trị, sống mãi đối với các thế hệ sau. Xin vĩnh biệt ông – một nhà giáo, bậc thầy về chữ nghĩa, người đã dành cả một đời cống hiến cho tiếng Việt, vì tiếng Việt./.
|
Ngày 19/10, tại Nhà hát Ca múa nhạc dân gian Việt Bắc, Thành ủy – HĐND – UBND – Ủy ban MTTQ
thành phố Thái Nguyên
,
tỉnh Thái Nguyên
long trọng tổ chức kỷ niệm 60 năm ngày thành lập (19/10/1962 – 19/10/2022) và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất.
Các đại biểu dự buổi lễ..Ảnh: Quân Trang/TTXVN
Dự Lễ kỷ niệm có Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; đại diện Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Công an, lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; Tư lệnh Quân khu 1; Thường trực Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; đại diện Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; lãnh đạo thành phố Thái Nguyên; đại diện Hiệp hội Các đô thị Việt Nam…
Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thành phố Thái Nguyên vinh dự được đón nhận lẵng hoa chúc mừng của các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Đại tướng Phan Văn Giang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phát biểu tại buổi lễ. Ảnh: Quân Trang/TTXVN
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, Ủy viên Bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang biểu dương những thành tựu to lớn mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Thái Nguyên đạt được trong 60 năm qua, đồng thời nhấn mạnh với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, y tế của tỉnh Thái Nguyên và vùng trung du miền núi Bắc Bộ, thành phố Thái Nguyên cần tập trung vào việc củng cố, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ, triển khai nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết của Đảng. Cùng với đó, thành phố cần chú trọng xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng đô thị thông minh, hiện đại, có tính chất liên vùng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn tiêu chí đô thị loại I, tập trung đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vũng, phát huy tốt lợi thế các ngành, sản phẩm thế mạnh; thực hiện có hiệu quả chương trình chuyển đổi số; triển khai các giải pháp xây dựng, phát triển văn hóa, con người thành phố Thái Nguyên văn minh, thanh lịch; thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị…
Bà Nguyễn Thanh Hải, Bí thư Tỉnh uỷ Thái Nguyên phát biểu tại buổi lễ.
Tại buổi lễ, Chủ tịch UBND thành phố Thái Nguyên Nguyễn Linh ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang cũng như những thành tựu 60 năm xây dựng và phát triển của thành phố Thái Nguyên anh hùng. Ngày 19/10/1962, Hội đồng Chính phủ đã có Quyết định số 114-CP về việc thành lập thành phố Thái Nguyên trực thuộc tỉnh Thái Nguyên, đánh dấu mốc son quan trọng trong chặng đường lịch sử phát triển của thành phố. Trong những năm chiến tranh, thành phố Thái Nguyên là trọng điểm đánh phá ác liệt của giặc Mỹ. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhân dân các dân tộc thành phố Thái Nguyên đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho miền Nam. Nơi đây đã ghi dấu sự hy sinh anh dũng của 60 thanh niên xung phong Đại đội 915, Đội 91 Bắc Thái trong đêm Noel năm 1972, khi đang làm nhiệm vụ giải tỏa hàng hóa chi viện cho chiến trường miền Nam. Hàng vạn người con Thái Nguyên lên đường nhập ngũ và có mặt chiến đấu khắp các chiến trường, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 2002, thành phố Thái Nguyên được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II; năm 2010, được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh. Những năm qua, kinh tế thành phố tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2016-2021 đạt trên 15%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, trong đó thương mại-dịch vụ và công nghiệp chiếm vai trò chủ đạo. Không gian đô thị thành phố được mở rộng và ngày càng khang trang, kết cấu hạ tầng đô thị thành phố được đầu tư ngày càng đồng bộ, hiện đại, sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng phát triển ứng dụng công nghệ cao, trong đó cây chè là cây trồng chủ lực với thương hiệu chè “Tân Cương Thái Nguyên” nức tiếng trên cả nước, các lĩnh vực văn hóa-xã hội có nhiều tiến bộ, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị tiếp tục được tăng cường…
Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân trao Huân chương Lao động hạng Nhất cho Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân thành phố Thái Nguyên. Ảnh: Quân Trang/TTXVN
Phát huy truyền thống vẻ vang 60 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Thái Nguyên tiếp tục đoàn kết, phấn đấu triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lần thứ XVIII và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh ủy.
Dịp này, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân đã trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Thái Nguyên.
|
October 19, at Viet Bac Folk Music and Dance Theater, City Party Committee - People's Council - People's Committee - Fatherland Front Committee
Thai Nguyen City
,
Thai Nguyen province
solemnly celebrated the 60th anniversary of its founding (October 19, 1962 - October 19, 2022) and received the First Class Labor Medal.
Delegates attending the ceremony..Photo: Quan Trang/TTXVN
Attending the celebration were General Phan Van Giang, Politburo member, Minister of National Defense; Vice President Vo Thi Anh Xuan; representatives of the National Assembly Standing Committee, Ministry of Public Security, leaders of central departments, ministries and branches; Commander of Military Region 1; Standing Provincial Party Committee, People's Council, Provincial People's Committee; representative of the Heroic Mother Vietnam, Hero of the People's Armed Forces, Hero of Labor; Thai Nguyen city leaders; Representative of the Vietnam Association of Cities...
The Party Committee, government and people of Thai Nguyen city were honored to receive congratulatory flower baskets from leaders and former leaders of the Party and State.
General Phan Van Giang, Member of the Politburo, Minister of National Defense spoke at the ceremony. Photo: Quan Trang/TTXVN
Speaking at the Celebration, Politburo member and Minister of National Defense Phan Van Giang praised the great achievements that the Party Committee, government and people of Thai Nguyen city have achieved over the past 60 years, and at the same time emphasized that as the center of politics, economics, culture, education, science and technology, and health of Thai Nguyen province and the Northern midland and mountainous region, Thai Nguyen city needs to focus on consolidating Strengthen and maintain solidarity and unity within the Party Committee, seriously and effectively implement the Party's resolutions. Along with that, the city needs to focus on building and developing smart, modern, and highly inter-regional urban infrastructure, increasingly meeting the criteria for grade I urban areas, focusing on investment. develop and grow the economy in a sustainable direction, promoting the advantages of strong industries and products; effectively implement the digital transformation program; Deploying solutions to build and develop culture and people in a civilized and elegant Thai Nguyen city; Effectively carry out the work of building and rectifying the Party and political system...
Ms. Nguyen Thanh Hai, Secretary of Thai Nguyen Provincial Party Committee, spoke at the ceremony.
At the ceremony, Chairman of Thai Nguyen City People's Committee Nguyen Linh reviewed the glorious historical tradition as well as the achievements of 60 years of construction and development of the heroic Thai Nguyen city. On October 19, 1962, the Government Council issued Decision Không. 114-CP on the establishment of Thai Nguyen city under Thai Nguyen province, marking an important milestone in the historical development of the city. During the war years, Thai Nguyen city was the focus of fierce raids by the American enemy. With the slogan "Everything for the front line, everything to defeat the American invaders", the people of Thai Nguyen city of all ethnic groups spared no effort in supporting the South. This place marked the heroic sacrifice of 60 young volunteers from Company 915, Team 91 North Thai on Christmas Eve 1972, while on duty to relieve supplies to support the Southern battlefield. Tens of thousands of Thai Nguyen's children enlisted in the army and fought on all battlefields, making a worthy contribution to the glorious victory of the cause of fighting against America, saving the country, liberating the South, and reunifying the country.
In 2002, Thai Nguyen city was recognized by the Prime Minister as a class II urban area; In 2010, it was recognized as a class I urban area under the province. In recent years, the city's economy has grown steadily with the average growth rate in the period 2016-2021 reaching over 15%/year, the economic structure has shifted in the right direction, in which trade-services and industry Industry plays a leading role. The city's urban space is expanding and becoming more spacious, the city's urban infrastructure is increasingly invested synchronously and modernly, agricultural production is shifting towards developing high-tech applications, In which tea is the main crop with the famous "Tan Cuong Thai Nguyen" tea brand across the country, many advances have been made in the socio-cultural fields, Party building work, and political system building. continues to be enhanced…
Vice President Vo Thi Anh Xuan awarded the First Class Labor Medal to the Party Committee, Government and People of Thai Nguyen city. Photo: Quan Trang/TTXVN
Promoting the glorious tradition of 60 years of construction and growth, the Party Committee, government and people of Thai Nguyen city continue to unite and strive to effectively implement the Resolution of the 13th Party Congress, Resolution Không. 11-NQ/TW of the Politburo on socio-economic development directions, ensuring national defense and security in the Northern midlands and mountainous regions; Resolution of the 20th Thai Nguyen Provincial Party Congress, Resolution of the 18th Thai Nguyen City Party Congress and resolutions and directives of the Central Committee and the Provincial Party Committee.
On this occasion, on behalf of the Party and State leaders, Vice President Vo Thi Anh Xuan awarded the First Class Labor Medal to the Party Committee, government and people of Thai Nguyen city.
|
Với chủ đề “Nhân phẩm thật sự cho tất cả” của Ngày Quốc tế xóa nghèo năm nay, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã gửi thông điệp kêu gọi nỗ lực làm mới cam kết vì một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Người đứng đầu tổ chức đa phương lớn nhất hành tinh hối thúc hành động khẩn cấp cho các giải pháp lấy con người làm trung tâm, hỗ trợ các nước đang phát triển chuyển đổi sang năng lượng sạch, trong bối cảnh bất bình đẳng gia tăng, giá lương thực và năng lượng tăng cao cùng với nguy cơ suy thoái toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng đại dịch Covid-19, khí hậu và các cuộc xung đột đang gây tác động nghiêm trọng tới đời sống của những người nghèo nhất. Theo thống kê của Liên hợp quốc, hiện có khoảng 1,3 tỷ người, trong đó một nửa là trẻ em và người trẻ tuổi, trên thế giới sống trong tình trạng nghèo đói, mất an ninh lương thực, thu nhập bấp bênh. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), đại dịch đẩy thêm khoảng 143-163 triệu người trên thế giới vào tình trạng nghèo khó trong năm 2021; tỷ lệ người nghèo tăng khoảng 8,1% năm 2020 so với năm 2019.
Gần 50% người bị đẩy vào diện nghèo tập trung ở các nước Nam Á, hơn 30% ở khu vực miền nam sa mạc Sahara ở châu Phi. Sau khi nghiên cứu dữ liệu từ 22 quốc gia, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) đã đưa ra kết luận rằng, những hệ lụy của xung đột đối với các nền kinh tế đã đẩy hàng triệu trẻ em ở Đông Âu và Trung Á rơi vào cảnh nghèo đói. Trẻ em là đối tượng chịu gánh nặng lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế do xung đột. Xung đột cùng với lạm phát leo thang đã đẩy thêm 4 triệu trẻ em ở Đông Âu và Trung Á rơi vào cảnh nghèo túng, tăng 19% so với năm 2021. Một hộ gia đình nghèo đồng nghĩa là phần thu nhập mà gia đình đó phải chi tiêu nhiều hơn cho thực phẩm và nhiên liệu, trong khi cắt giảm phần chi vào chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em.
Những tác động tiêu cực từ đại dịch, xung đột, biến đổi khí hậu càng làm gia tăng khoảng cách giàu-nghèo và sự bất bình đẳng. Các nước đang phát triển mặc dù không phải đóng vai trò tác nhân chính gây biến đổi khí hậu song đang hứng chịu nhiều thiệt hại nhất của tình trạng này. Sự bất bình đẳng đang là vấn đề hiện hữu, gây ra nhiều hệ lụy khi nhiều người bị gạt ra ngoài lề xã hội, chịu sự phân biệt đối xử và bị tước đi những quyền cơ bản của con người. Những người sống trong cảnh đói nghèo là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất.
Họ không được hưởng các lợi ích của giáo dục, dịch vụ y tế chất lượng. Tình trạng bất bình đẳng, đói nghèo gia tăng cản trở tiến bộ xã hội, là vật cản lớn trong lộ trình thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Trong bối cảnh năm 2023 là năm Liên hợp quốc thực hiện đánh giá giữa kỳ về việc thực hiện các mục tiêu này, đây là cơ hội cho các chính phủ khẳng định quyết tâm thực hiện Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030 và cam kết tìm kiếm những giải pháp bền vững để xóa nghèo, tạo cơ hội việc làm cho tất cả mọi người, xây dựng xã hội bình đẳng và bác ái hơn.
Chủ đề của Ngày Quốc tế xóa nghèo năm nay là thông điệp kêu gọi xóa nghèo dưới mọi hình thức. Đó không chỉ là mục tiêu cần ưu tiên trong các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, mà còn là nhân tố cần thiết để xây dựng cuộc sống bền vững, phúc lợi và bảo vệ phẩm giá cho tất cả mọi người. Nhằm thể hiện sự chia sẻ khó khăn, chung tay cứu giúp hàng triệu người đang phải vật lộn để duy trì cuộc sống mỗi ngày, nhân Ngày Quốc tế xóa nghèo năm nay, Liên hợp quốc kêu gọi thế giới đoàn kết để cùng nhau hoàn thành mục tiêu xóa đói nghèo.
Trong lộ trình thực hiện mục tiêu này, cần hơn bao giờ hết sự hợp tác chặt chẽ của các chính phủ, các tổ chức quốc tế và mọi người dân nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách, bảo đảm an ninh lương thực, sinh kế bền vững và công bằng xã hội.
|
With the theme "True Dignity for All" of this year's International Day for the Eradication of Poverty, United Nations Secretary-General Antonio Guterres sent a message calling for efforts to renew commitment to a better world for all. everyone. The head of the planet's largest multilateral organization urges urgent action for people-centred solutions to help developing countries transition to clean energy, amid rising inequality. , rising food and energy prices along with the risk of a global recession.
The Covid-19 crisis, climate and conflicts are having a serious impact on the lives of the poorest people. According to United Nations statistics, there are currently about 1.3 billion people, of which half are children and young people, in the world living in poverty, food insecurity, and unstable income. According to the World Bank (WB), the pandemic pushes about 143-163 million more people around the world into poverty in 2021; The poverty rate increased by about 8.1% in 2020 compared to 2019.
Nearly 50% of people pushed into poverty are concentrated in South Asian countries, more than 30% in the southern Sahara desert region in Africa. After studying data from 22 countries, the United Nations Children's Fund (UNICEF) concluded that the impact of conflict on economies has pushed millions of children in Eastern Europe and Central Asia fell into poverty. Children are the ones bearing the greatest burden of the economic crisis caused by conflict. Conflict and escalating inflation have pushed an additional 4 million children in Eastern Europe and Central Asia into poverty, an increase of 19% compared to 2021. A poor household means the portion of that family's income. must spend more on food and fuel, while cutting back on health care and child education.
Negative impacts from pandemics, conflicts, and climate change further widen the rich-poor gap and inequality. Although developing countries are not the main contributors to climate change, they are suffering the most damage from this situation. Inequality is an existing problem, causing many consequences when many people are marginalized, subjected to discrimination and deprived of basic human rights. People living in poverty are the most vulnerable group.
They do not enjoy the benefits of quality education and health services. Increasing inequality and poverty hinder social progress and are a major obstacle in the path to implementing the United Nations' Sustainable Development Goals. In the context that 2023 is the year the United Nations conducts a mid-term review of the implementation of these goals, this is an opportunity for governments to affirm their determination to implement the 2030 Sustainable Development Agenda. and commit to finding sustainable solutions to eradicate poverty, create job opportunities for all, and build a more equal and charitable society.
The theme of this year's International Day for the Eradication of Poverty is a message calling for the eradication of poverty in all forms. It is not only a priority goal in the United Nations Sustainable Development Goals, but also a necessary factor in building sustainable lives, well-being and protecting dignity for all. In order to show the sharing of difficulties and join hands to help millions of people who are struggling to maintain their lives every day, on this year's International Day for Poverty Eradication, the United Nations calls on the world to unite to complete poverty together. the goal of eradicating poverty.
In the roadmap to achieving this goal, close cooperation between governments, international organizations and all people is needed more than ever to solve urgent problems and ensure food security and living standards. sustainable design and social justice.
|
Chiều 19-10, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
Nguyễn Xuân Phúc
đã có buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng, nhằm đánh giá tình hình công tác triển khai công tác khắc phục hậu quả do bão số 5 gây ra trên địa bàn.
Ủy viên Trung ương Đảng, phó thủ tướng Chính Phủ Lê Văn Thành và Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Văn Quảng đồng chủ trì buổi làm việc.
Chủ tịch nước phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh Công Hạnh
Báo cáo với Chủ tịch nước, Chủ tịch UBND thành phố Lê Trung Chinh cho biết: Trong trận
lụt lịch sử
vừa qua, 52/56 xã, phường thuộc các quận huyện và hầu hết các tuyến đường đều bị ngập, nhiều tuyến đường, tầng hầm một số trụ sở công trình quan trọng của nhà nước, doanh nghiệp và nhà dân ngập từ 0,5 – 1,0 m, có nơi ngập đến 2,0 m, tổng số nhà bị ngập gần 70.000 nhà. Trước khi lụt xảy ra, toàn thành phố đã sơ tán, cứu hộ cứu nạn đảm bảo an toàn cho hơn 14.000 người.
Về tình hình thiệt hại, có 04 người chết, 1 nhà sụp hoàn toàn; sập một phần 28 nhà. Đa số các hộ dân trên địa bàn bị ngập nước đều hư hỏng các thiết bị dân dụng như tivi, tủ lạnh, máy quạt, bàn ghế, giường, tủ…; nhiều tài sản có giá trị như xe ô tô, xe máy của người dân bị ngập nước, hư hỏng; hư hỏng hàng hóa của tiểu thương trong các chợ, bến xe và hộ buôn bán tạp hóa, thực phẩm, áo quần, vải, rau củ quả… và hư hỏng máy móc trang thiết bị sản xuất của nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Rau màu các loại bị ngập úng khoảng 74,22 ha; nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại nặng; gia súc gia cầm trôi, chết gần 60.000 con. Về điện lực 130 vụ sự cố về điện do ảnh hưởng của bão và mưa lũ lớn; 2.631 trạm biến áp bị mất điện và 207.705 khách hàng bị mất điện. Về giáo dục, văn hóa, 14 trường học trên địa bàn bị ngập, thiệt hại hư hỏng sổ sách, thiết bị điện tử và dụng cụ dạy học.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm hỏi, động viên bà con bị thiệt hại do mua lũ tại H. Hòa Vang. Ảnh Hồng Thanh
Giao thông nhiều tuyến đường trên địa bàn thành phố bị sạt lở, hư, hỏng.
Nghĩa trang Hòa Sơn
,
huyện Hòa Vang
bị vùi lấp do bị sạt lở núi với khối lượng đất đá lớn, trong đó, khối lượng đất đá sạt lở xuống khu vực có mộ là ước 6.120m3, khối lượng đất đá sạt lở xuống đường giao thông ước 9.635 m3); số lượng mộ bị vùi lấp đến nay chưa thống kê được. Trong khi đó, thiệt hại tài sản trong dân, doanh nghiệp trên 2000 xe ô tô và trên 30 ngàn xe máy bị ngập nước; các hộ dân trên địa bàn bị ngập nước bị hư hỏng các thiết điện tử, dân dụng… Theo Chủ tịch UBND thành phố, ước thiệt hại sơ bộ ban đầu khoảng 1.486,505 tỷ đồng.
Chủ tịch thành phố Lê Trung Chinh phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh Công Hạnh
Sau lũ, Thường trực Thành ủy đã tổ chức cuộc họp khẩn cấp và ban hành Công văn số 2438-CV/TU ngày 15/10/2022; Chủ tịch UBND thành phố ban hành Công văn 5663/UBND-PCTT ngày 15/10/2022 chỉ đạo các sở, ban ngành và địa phương khẩn trương triển khai các biện pháp khắc phục hậu quả bão số 5 và mưa lũ gây ra, ổn định cuộc sống cho nhân dân.
Phát biểu tại buổi làm việc, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc biểu dương chính quyền thành phố, các sở ngành, quận huyện, lực lượng vũ trang và nhân dân thành phố đã có nhiều nỗ lực trong công tác phòng ngừa, khắc phục hậu quả trận lũ lụt lớn vừa qua xảy ra tại Đà Nẵng nói riêng, các tỉnh miền Trung nói chung, đồng thời chuyển lời thăm hỏi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng, đại biểu Quốc hội đơn vị Đà Nẵng đến Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh miền Trung. Trong đó, bao gồm các địa phương
Quảng Bình
,
Quảng Trị
,
Thừa Thiên Huế
,
thành phố Đà Nẵng
,
Quảng Nam
,
Quảng Ngãi
và
tỉnh Bình Định
.
Chủ tịch nước kiểm tra hiện trường về công tác khắc phục sạt lở tại khu vực núi Sơn Trà. Ảnh Lê Anh Tuấn
Đặc biệt là chia sẻ với thành phố Đà Nẵng, địa phương bị ngập sâu nhất thiệt hại lớn nhất về người và tài sản trong phạm vi rộng lớn của thành phố. “Trung ương Đảng, Nhà nước các cơ quan chức năng của Trung ương chia sẻ sâu sắc những khó khăn của người dân miền Trung nói chung, TP Đà Nẵng nói riêng bị thiệt hại trọng trận lụt lịch sử hàng trăm năm mới có, nhất là gia đình người bị tử nạn. Đồng thời Trung ương cũng biểu dương, đánh giá cao hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, cấp ủy, chính quyền, nhân dân, các lực lượng vũ trang đã chủ động nhanh chóng, kịp thời ứng phó với mưa lũ, trận lũ lịch sử hàng trăm năm chưa có. Chúng ta đã hạn chế tối đa số người bị nạn. Đây là một cố gắng rất lớn mag chính quyền và nhân dân thành phố đã nỗ lực vượt qua”, Chủ tịch nước nói.
Công Hạnh
|
On the afternoon of October 19, Politburo member, President of the Socialist Republic of Vietnam
Nguyen Xuan Phuc
had a working session with the Standing Committee of the Da Nang City Party Committee to evaluate the situation of implementing work to overcome the consequences caused by Storm Không. 5 in the area.
Member of the Party Central Committee, Deputy Prime Minister Le Van Thanh and Member of the Party Central Committee, Secretary of the Da Nang City Party Committee Nguyen Van Quang co-chaired the meeting.
The President spoke at the working session. Cong Hanh's photo
Reporting to the President, Chairman of the City People's Committee Le Trung Chinh said: During the battle
historic flood
Recently, 52/56 communes and wards of districts and most roads were flooded, many roads and basements of some important state construction headquarters, businesses and people's houses were flooded from 0, 5 - 1.0 m, some places flooded up to 2.0 m, the total number of houses flooded was nearly 70,000. Before the flood happened, the entire city was evacuated and rescue operations ensured the safety of more than 14,000 people.
Regarding the damage situation, 04 people died, 1 house completely collapsed; 28 houses partially collapsed. Most households in flooded areas have damaged household appliances such as televisions, refrigerators, fans, tables, chairs, beds, cabinets, etc.; Many valuable assets such as cars and motorbikes of people were flooded and damaged; damage to goods of small traders in markets, bus stations and households selling groceries, food, clothes, fabrics, vegetables and fruits... and damage to production machinery and equipment of many businesses and production facilities business. About 74.22 hectares of vegetables of all kinds were flooded; Aquaculture suffered heavy damage; Nearly 60,000 livestock and poultry died. Regarding electricity, 130 electrical incidents due to the impact of storms and heavy rains and floods; 2,631 substations lost power and 207,705 customers lost power. Regarding education and culture, 14 schools in the area were flooded, with damage to books, electronic equipment and teaching tools.
President Nguyen Xuan Phuc visited and encouraged people who suffered damage due to floods in Hoa Vang District. Hong Thanh's photo
Many traffic routes in the city were eroded, damaged, and damaged.
Hoa Son Cemetery
,
Hoa Vang district
buried due to mountain landslides with a large volume of soil and rock, of which, the volume of soil and rock eroded into the grave area is estimated at 6,120 m3, the volume of soil and rock collapsed onto the road is estimated at 9,635 m3); The number of buried graves has not yet been quantified. Meanwhile, property damage among people and businesses was over 2,000 cars and over 30,000 motorbikes flooded; Households in the flooded area suffered damage to electronic and civil equipment... According to the Chairman of the City People's Committee, the initial preliminary damage estimate was about 1,486.505 billion VND.
City Chairman Le Trung Chinh spoke at the meeting. Cong Hanh's photo
After the flood, the Standing Committee of the City Party Committee held an emergency meeting and issued Official Dispatch Không. 2438-CV/TU dated October 15, 2022; The Chairman of the City People's Committee issued Official Dispatch 5663/UBND-PCTT dated October 15, 2022 directing departments, branches and localities to urgently deploy measures to overcome the consequences of Storm Không. 5 and floods caused, stabilize life for the people.
Speaking at the meeting, President Nguyen Xuan Phuc praised the city government, departments, districts, armed forces and people of the city for their efforts in preventing and overcoming consequences. the results of the recent major flood that occurred in Da Nang in particular and the Central provinces in general, and at the same time conveyed the greetings of Comrade General Secretary Nguyen Phu Trong, Comrade Prime Minister Pham Minh Chinh, Chairman National Assembly member Vuong Dinh Hue, Standing Committee of the Secretariat Vo Van Thuong, National Assembly delegate from Da Nang to the Party Committee, government and people of the Central provinces. Which includes localities
Quang Binh
,
Quang Tri
,
Hue
,
Da Nang city
,
Quang Nam
,
Quang Ngai
and
pacify the province
.
The President inspected the scene of landslide recovery work in the Son Tra mountain area. Photo by Le Anh Tuan
Especially shared with Da Nang city, the locality that was flooded the deepest and caused the greatest damage to people and property within a large area of the city. “The Party Central Committee, the State, and the Central functional agencies deeply share the difficulties of the people of the Central region in general, and Da Nang City in particular, who suffered serious damage from a historic flood that has not happened in hundreds of years, especially is the family of the deceased. At the same time, the Central Committee also praised and highly appreciated the political system under the leadership of the Party, Party committees, authorities, people, and armed forces for proactively and promptly responding to floods and rains. A historic flood has not happened in hundreds of years. We have minimized the number of victims. This is a great effort that the city government and people have tried to overcome," the President said.
Cong Hanh
|
“Hậu tố nữ” xem ra vẫn là nỗi băn khoăn của nhiều người mỗi khi nghĩ về thơ nữ. Nhưng, xét một cách nghiêm khắc, thơ trước hết đáp ứng các yêu cầu về mỹ học, sau đó mới đến những truy xét trên góc độ giới tính hay thời đại. Chính vì thế, bàn về thơ nữ Việt Nam đương đại, chúng tôi nghĩ đến hai câu chuyện: Thơ (do tác giả nữ viết) và sắc thái nữ tính trong thơ nữ.
Thơ là tiếng nói thu hút để người đọc nhận ra vẻ đẹp của đời sống này.
Tranh “Thiếu nữ Hà Nội” – sơn dầu của Nguyễn Hồng Lê
1.
Câu hỏi của nhà báo, nhà văn Betty Friedan trong “Bí ẩn nữ tính” – cuốn sách “bom tấn” của dòng sách nữ quyền – đã khiến những mô tả về câu chuyện này không thể hời hợt: Bản sắc nữ tính – Có đúng như vậy không? Có thật thế không? Còn gì nữa?
Thơ nữ Việt Nam đương đại nếu phải làm một cuộc kiểm kê về lực lượng và thành tựu, đến giờ cũng không phải là quá mờ nhạt, thậm chí cần phải có những nghiên cứu dài hơi, kỹ lưỡng và đầy đủ về họ. Từ
Xuân Quỳnh
, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Mây, Bùi Kim Anh… cho đến thế hệ trẻ hơn như Phan Ngọc Thường Đoan, Nguyễn Phan Quế Mai, Tuyết Nga, Trần Kim Hoa,
Đinh Thị Như Thúy
, Nguyễn Bảo Chân, Hàm Anh, Đinh Hoàng Anh, Đào Phong Lan, Bạch Diệp, Nguyễn Thúy Quỳnh, Ly Hoàng Ly, Thụy Anh, Vi Thùy Linh, Bình Nguyên Trang, Trần Lê Sơn Ý, La Mai Thi Gia, Lữ Mai, Nguyễn Thị Thúy Hạnh, Nguyễn Thị Kim Nhung, Phùng Thị Hương Ly, Trương Thị Bách Mỵ, Nguyễn Thị Hải, Như Quỳnh de Prelle, Nguyễn Thiên Ngân, Hương Giang, Ngô Gia Thiên An… vẫn cho thấy thơ từ giới nữ đã và đang hiện diện một cách mạnh mẽ. Nhưng, chúng ta sẽ nói gì về họ, để có thể gọi là bản sắc thơ nữ Việt Nam từ sau năm 1975? Câu hỏi đó không hề dễ trả lời. Bài viết này chỉ nói đến một khía cạnh rất nhỏ: Tâm thức nữ giới trong sáng tác của các nhà thơ nữ.
2.
Trong khoảng 15 – 17 năm, từ 1988 đến những năm đầu thế kỷ XXI, thơ nữ mạnh lên bởi những tiếng nói táo bạo, những khát khao, những đòi hỏi được sống với nhu cầu của cái tôi toàn nguyên. Bức tranh nữ tính vốn được ghép bởi những mảng màu từ phía nam giới, được tạo dựng bởi ý thức nam quyền, giờ có hy vọng được lắp đúng bằng mảnh ghép của người nữ qua một số tác giả… Câu hỏi của nhà báo, nhà văn Betty Friedan được trả lời từ chính thơ của các tác giả nữ, khi họ mạnh dạn bộc lộ cái tôi cá nhân bản thể, văn hóa và sinh học của mình. Dù báo chí và giới phê bình cũng như công chúng từng rộ lên, người khen, người chê, kẻ lưỡng lự âm thầm, nhưng không thể chối bỏ rằng từ sau Đổi mới đến những năm đầu thế kỷ XXI, trong thơ của các tác giả nữ, sắc màu giới đậm lên, sắc gắt hơn từ chính tiếng nói táo bạo mang ý thức về mình của người phụ nữ.
Sẽ đi qua những sắc thái ấy, thơ nữ trở về với những suy tư, xúc cảm mang đậm dấu ấn của trái tim, tinh thần nữ giới. Dường như, sau những bung phá, kiếm tìm; sau những thét gào đòi hỏi; sau những quyết liệt tỏ bày, trái tim người phụ nữ vẫn hiện ra rõ nhất ở sự nhạy cảm, sâu đằm, bao dung, vị tha của họ:
“Anh đưa em về/ Căn nhà lộng gió/ Mẹ chờ ngoài ngõ/ Tóc vương mây chiều/ Em nghe thương yêu/ Dâng đầy mắt mẹ/ Căn nhà nhỏ bé/ Nơi anh lớn lên/ Nắng ngủ bên thềm/ Cỏ vườn rượi mát/ Đón chân em bước/ Tiếng chim chuyền cành/ Để rơi tiếng hót/ Lên bầu trời xanh”
(“Viết ở nhà anh” – Nguyễn Phan Quế Mai).
Nghĩa là, một lúc nào đó, sau những bứt phá quyết liệt, sau những tỏ bày táo bạo, người nữ lại trở về với bản sắc thực sự của họ là một trái tim bao dung, một cõi lòng mềm mại, một yêu thương đợi chờ, một niềm vun vén đủ đầy:
“Lục lọi ban mai, lục lọi khát khao kiếm điều đã mất/ lục lọi chiêm bao, lục lọi lãng quên tìm điều đã khuất/ mùa muộn màng/ Tìm trong bóng mây, tìm nơi sóng cây tóc xanh mơ ngủ/ tìm trong lòng ai, tìm nơi khói sương những lời đã ngỏ/ mùa nồng nàn”
(“Mùa nồng nàn” – Tuyết Nga);
“Em mưa cho anh ngủ/ ngoài kia đương mùa xuân/ những cây bàng trỗi lá/ xanh non đến ngại ngần/ em mưa cho anh ngủ/ mưa dịu vết thời gian/ mưa giăng mù thương nhớ/ mưa xanh anh dịu dàng”
(“Ngủ mưa” – Hàm Anh).
Thơ của các tác giả nữ với những suy tư, xúc cảm mang đậm dấu ấn của trái tim, tinh thần nữ giới.
Ảnh mang tính minh họa.
Nếu ai để ý đến tiến trình thơ Việt Nam, đặc biệt là sự vận động của thơ nữ, sẽ thấy bước chuyển khá rõ trong tâm thức sáng tạo của họ. Có thể hình dung, sau quãng khá dài, thơ ca nói chung và thơ nữ nói riêng, tạm gác lại tiếng nói cá thể để hòa mình vào dàn đồng ca của văn học dân tộc trong sứ mệnh chính trị cao cả; đất nước giải phóng và đổi mới; văn học, thơ ca và người nữ có cơ hội được tỏ bày. Thế nên, tiếng nói sâu thẳm nhất, những khát khao thầm kín nhất, những lo âu cấm kỵ nhất có dịp được xuất hiện như một chủ đề, một cảm hứng, một phạm vi đời sống bình đẳng với các chủ đề, cảm hứng khác. Văn đàn đã có một phen sững sờ với dáng hình nàng thơ trong niềm hưng cảm giới tính và bản sắc, nhất là sự cổ vũ của các quan điểm nữ quyền.
Nhưng, mọi lý thuyết hay những tô vẽ bên ngoài, cả những o bế tạo dựng, cả những chê bai lườm nguýt, đều không làm thay đổi được điều căn bản nhất trong trái tim người phụ nữ. Đó là tình yêu thương và sự bao dung, bàn tay mềm mại và che chở, phẩm tính chịu đựng và hy sinh… Thơ nữ đương đại, ở những động thái gần nhất, vẫn hiện lên sắc thái ấy. Quanh đây thôi, những La Mai Thi Gia, Lữ Mai, Nguyễn Thị Thúy Hạnh, Nguyễn Thị Kim Nhung, Trương Thị Bách Mỵ, Nguyễn Thiên Ngân… vẫn mang đến cho chúng ta cảm xúc thật dịu dàng (không phải là thứ dịu dàng mà người đàn ông và ý thức nam quyền quy chiếu):
“Ta vẫn muốn nhớ người/ Sau muôn đêm sâu nữa/ Ta muốn nhớ người khi tơ tóc rồi phai/ Ta muốn nhớ người dẫu qua tháng năm dài/ Chúng ta đều chẳng còn là nhau của thời ước mơ nào cũng lung linh, khoảng trời nào cũng chật chội/ Mắt xa vắng kể nhau nghe chuyện mới/ Ta vẫn muốn nhớ người dẫu tan nát rồi đây”
(“Vẫn muốn cầm bàn tay ấy và mơ” – Nguyễn Thiên Ngân). “Ta muốn” của Nguyễn Thiên Ngân là một ý muốn dịu dàng, một yêu thương, dẫu đầy đau lòng. Điều đó khác hẳn với các quan điểm về thiên chức mà phần nhiều trong đó mang ý thức nam quyền.
3.
Bây
giờ, nếu các nhà thơ nữ lại làm thơ với những gào thét bản năng, những táo bạo, mãnh liệt…, tôi e là sẽ không còn mấy hấp dẫn, mới mẻ nữa. Nhìn từ thơ nữ, sau chặng đường hơn 30 năm Đổi mới, chúng ta nhận ra sự trở về với “ngôi nhà bản thể” mang tên người nữ. Ai đó bảo rằng, nếu trái tim trống rỗng thì mọi nỗ lực của lý trí là vô nghĩa. Thiết tưởng, vượt lên những định hình sinh học hay xã hội, trái tim của người phụ nữ vẫn nhắc nhở họ biết phải làm gì. Bản sắc nữ giới, lối viết nữ, lối sống – phong cách nữ tính, nữ quyền… sẽ rơi vào chủ quan, định kiến nếu không thực sự nhìn nhận đến tâm thức người nữ, xuất phát từ trái tim của họ.
LÊ PHONG
|
“Hậu tố nữ” xem ra vẫn là nỗi băn khoăn của nhiều người mỗi khi nghĩ về thơ nữ. Nhưng, xét một cách nghiêm khắc, thơ trước hết đáp ứng các yêu cầu về mỹ học, sau đó mới đến những truy xét trên góc độ giới tính hay thời đại. Chính vì thế, bàn về thơ nữ Việt Nam đương đại, chúng tôi nghĩ đến hai câu chuyện: Thơ (do tác giả nữ viết) và sắc thái nữ tính trong thơ nữ.
Thơ là tiếng nói thu hút để người đọc nhận ra vẻ đẹp của đời sống này.
Tranh “Thiếu nữ Hà Nội” – sơn dầu của Nguyễn Hồng Lê
1.
Câu hỏi của nhà báo, nhà văn Betty Friedan trong “Bí ẩn nữ tính” – cuốn sách “bom tấn” của dòng sách nữ quyền – đã khiến những mô tả về câu chuyện này không thể hời hợt: Bản sắc nữ tính – Có đúng như vậy không? Có thật thế không? Còn gì nữa?
Thơ nữ Việt Nam đương đại nếu phải làm một cuộc kiểm kê về lực lượng và thành tựu, đến giờ cũng không phải là quá mờ nhạt, thậm chí cần phải có những nghiên cứu dài hơi, kỹ lưỡng và đầy đủ về họ. Từ
Xuân Quỳnh
, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Mây, Bùi Kim Anh… cho đến thế hệ trẻ hơn như Phan Ngọc Thường Đoan, Nguyễn Phan Quế Mai, Tuyết Nga, Trần Kim Hoa,
Đinh Thị Như Thúy
, Nguyễn Bảo Chân, Hàm Anh, Đinh Hoàng Anh, Đào Phong Lan, Bạch Diệp, Nguyễn Thúy Quỳnh, Ly Hoàng Ly, Thụy Anh, Vi Thùy Linh, Bình Nguyên Trang, Trần Lê Sơn Ý, La Mai Thi Gia, Lữ Mai, Nguyễn Thị Thúy Hạnh, Nguyễn Thị Kim Nhung, Phùng Thị Hương Ly, Trương Thị Bách Mỵ, Nguyễn Thị Hải, Như Quỳnh de Prelle, Nguyễn Thiên Ngân, Hương Giang, Ngô Gia Thiên An… vẫn cho thấy thơ từ giới nữ đã và đang hiện diện một cách mạnh mẽ. Nhưng, chúng ta sẽ nói gì về họ, để có thể gọi là bản sắc thơ nữ Việt Nam từ sau năm 1975? Câu hỏi đó không hề dễ trả lời. Bài viết này chỉ nói đến một khía cạnh rất nhỏ: Tâm thức nữ giới trong sáng tác của các nhà thơ nữ.
2.
Trong khoảng 15 – 17 năm, từ 1988 đến những năm đầu thế kỷ XXI, thơ nữ mạnh lên bởi những tiếng nói táo bạo, những khát khao, những đòi hỏi được sống với nhu cầu của cái tôi toàn nguyên. Bức tranh nữ tính vốn được ghép bởi những mảng màu từ phía nam giới, được tạo dựng bởi ý thức nam quyền, giờ có hy vọng được lắp đúng bằng mảnh ghép của người nữ qua một số tác giả… Câu hỏi của nhà báo, nhà văn Betty Friedan được trả lời từ chính thơ của các tác giả nữ, khi họ mạnh dạn bộc lộ cái tôi cá nhân bản thể, văn hóa và sinh học của mình. Dù báo chí và giới phê bình cũng như công chúng từng rộ lên, người khen, người chê, kẻ lưỡng lự âm thầm, nhưng không thể chối bỏ rằng từ sau Đổi mới đến những năm đầu thế kỷ XXI, trong thơ của các tác giả nữ, sắc màu giới đậm lên, sắc gắt hơn từ chính tiếng nói táo bạo mang ý thức về mình của người phụ nữ.
Sẽ đi qua những sắc thái ấy, thơ nữ trở về với những suy tư, xúc cảm mang đậm dấu ấn của trái tim, tinh thần nữ giới. Dường như, sau những bung phá, kiếm tìm; sau những thét gào đòi hỏi; sau những quyết liệt tỏ bày, trái tim người phụ nữ vẫn hiện ra rõ nhất ở sự nhạy cảm, sâu đằm, bao dung, vị tha của họ:
“Anh đưa em về/ Căn nhà lộng gió/ Mẹ chờ ngoài ngõ/ Tóc vương mây chiều/ Em nghe thương yêu/ Dâng đầy mắt mẹ/ Căn nhà nhỏ bé/ Nơi anh lớn lên/ Nắng ngủ bên thềm/ Cỏ vườn rượi mát/ Đón chân em bước/ Tiếng chim chuyền cành/ Để rơi tiếng hót/ Lên bầu trời xanh”
(“Viết ở nhà anh” – Nguyễn Phan Quế Mai).
Nghĩa là, một lúc nào đó, sau những bứt phá quyết liệt, sau những tỏ bày táo bạo, người nữ lại trở về với bản sắc thực sự của họ là một trái tim bao dung, một cõi lòng mềm mại, một yêu thương đợi chờ, một niềm vun vén đủ đầy:
“Lục lọi ban mai, lục lọi khát khao kiếm điều đã mất/ lục lọi chiêm bao, lục lọi lãng quên tìm điều đã khuất/ mùa muộn màng/ Tìm trong bóng mây, tìm nơi sóng cây tóc xanh mơ ngủ/ tìm trong lòng ai, tìm nơi khói sương những lời đã ngỏ/ mùa nồng nàn”
(“Mùa nồng nàn” – Tuyết Nga);
“Em mưa cho anh ngủ/ ngoài kia đương mùa xuân/ những cây bàng trỗi lá/ xanh non đến ngại ngần/ em mưa cho anh ngủ/ mưa dịu vết thời gian/ mưa giăng mù thương nhớ/ mưa xanh anh dịu dàng”
(“Ngủ mưa” – Hàm Anh).
Thơ của các tác giả nữ với những suy tư, xúc cảm mang đậm dấu ấn của trái tim, tinh thần nữ giới.
Ảnh mang tính minh họa.
Nếu ai để ý đến tiến trình thơ Việt Nam, đặc biệt là sự vận động của thơ nữ, sẽ thấy bước chuyển khá rõ trong tâm thức sáng tạo của họ. Có thể hình dung, sau quãng khá dài, thơ ca nói chung và thơ nữ nói riêng, tạm gác lại tiếng nói cá thể để hòa mình vào dàn đồng ca của văn học dân tộc trong sứ mệnh chính trị cao cả; đất nước giải phóng và đổi mới; văn học, thơ ca và người nữ có cơ hội được tỏ bày. Thế nên, tiếng nói sâu thẳm nhất, những khát khao thầm kín nhất, những lo âu cấm kỵ nhất có dịp được xuất hiện như một chủ đề, một cảm hứng, một phạm vi đời sống bình đẳng với các chủ đề, cảm hứng khác. Văn đàn đã có một phen sững sờ với dáng hình nàng thơ trong niềm hưng cảm giới tính và bản sắc, nhất là sự cổ vũ của các quan điểm nữ quyền.
Nhưng, mọi lý thuyết hay những tô vẽ bên ngoài, cả những o bế tạo dựng, cả những chê bai lườm nguýt, đều không làm thay đổi được điều căn bản nhất trong trái tim người phụ nữ. Đó là tình yêu thương và sự bao dung, bàn tay mềm mại và che chở, phẩm tính chịu đựng và hy sinh… Thơ nữ đương đại, ở những động thái gần nhất, vẫn hiện lên sắc thái ấy. Quanh đây thôi, những La Mai Thi Gia, Lữ Mai, Nguyễn Thị Thúy Hạnh, Nguyễn Thị Kim Nhung, Trương Thị Bách Mỵ, Nguyễn Thiên Ngân… vẫn mang đến cho chúng ta cảm xúc thật dịu dàng (không phải là thứ dịu dàng mà người đàn ông và ý thức nam quyền quy chiếu):
“Ta vẫn muốn nhớ người/ Sau muôn đêm sâu nữa/ Ta muốn nhớ người khi tơ tóc rồi phai/ Ta muốn nhớ người dẫu qua tháng năm dài/ Chúng ta đều chẳng còn là nhau của thời ước mơ nào cũng lung linh, khoảng trời nào cũng chật chội/ Mắt xa vắng kể nhau nghe chuyện mới/ Ta vẫn muốn nhớ người dẫu tan nát rồi đây”
(“Vẫn muốn cầm bàn tay ấy và mơ” – Nguyễn Thiên Ngân). “Ta muốn” của Nguyễn Thiên Ngân là một ý muốn dịu dàng, một yêu thương, dẫu đầy đau lòng. Điều đó khác hẳn với các quan điểm về thiên chức mà phần nhiều trong đó mang ý thức nam quyền.
3.
Bây
giờ, nếu các nhà thơ nữ lại làm thơ với những gào thét bản năng, những táo bạo, mãnh liệt…, tôi e là sẽ không còn mấy hấp dẫn, mới mẻ nữa. Nhìn từ thơ nữ, sau chặng đường hơn 30 năm Đổi mới, chúng ta nhận ra sự trở về với “ngôi nhà bản thể” mang tên người nữ. Ai đó bảo rằng, nếu trái tim trống rỗng thì mọi nỗ lực của lý trí là vô nghĩa. Thiết tưởng, vượt lên những định hình sinh học hay xã hội, trái tim của người phụ nữ vẫn nhắc nhở họ biết phải làm gì. Bản sắc nữ giới, lối viết nữ, lối sống – phong cách nữ tính, nữ quyền… sẽ rơi vào chủ quan, định kiến nếu không thực sự nhìn nhận đến tâm thức người nữ, xuất phát từ trái tim của họ.
LÊ PHONG
|
Kỷ niệm Ngày phụ nữ Việt Nam 20/10, Ban Nhà văn nữ, Hội nhà văn Việt Nam đã tổ chức tọa đàm
Thơ nữ: sống, viết và hy vọng
. Tọa đàm diễn ra tại 70 Nguyễn Du – Hà Nội với sự tham dự của
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
, Chủ tịch, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng, TS Văn học Đỗ Anh Vũ cùng các nhà văn, nhà thơ nữ thuộc Ban nhà văn nữ Hội Nhà văn Việt Nam.
Trải qua hai năm Covid 19, sự hiện diện, gặp gỡ tại tọa đàm được xem là một điểm nhấn trong chuỗi hoạt động của các nhà văn nữ trong năm.
Các nhà văn tham dự tọa đàm
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã gửi những lời chúc tốt đẹp nhất tới các nhà văn nữ nhân ngày 20/10. Đồng thời bày tỏ sự trân trọng, cảm ơn khi được nghe những chia sẻ của các nhà văn nữ về cuộc sống và về những trăn trở trong lao động văn chương của các nhà văn nữ. Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, dù phải đối mặt với những khó khăn, những phiền muộn kéo dài dằng dặc, thậm chí nhấn chìm cả những khát vọng lớn lao, thì trong mỗi trang sách của các nhà văn nữ, vẫn luôn là một một thế giới khác. Đó là thế giới mang lại niềm hy vọng, mở ra những ô cửa lớn cho tâm hồn con người.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Cuộc sống dù khó khăn, nhưng mỗi trang viết phải lành lặn, phải lan tỏa cuộc sống đẹp đẽ. Cảm ơn những nhà văn nữ, những nhà lý luận phê bình nữ – những biểu trưng của cái đẹp, của sự sẻ chia, nhẫn nại, vị tha và lòng nhân ái…
( Nhà văn Nguyễn Quang Thiều)
Cho biết, trong thời gian tới Hội Nhà văn Việt Nam sẽ mở “Quỹ Văn học thiếu nhi” để làm sách cho trẻ em, Chủ tịch Hội tin rằng Quỹ sẽ được ủng hộ. Và kỳ vọng các nhà văn nữ sẽ đồng hành với dự án “sách miễn phí cho trẻ em miền núi và vùng sâu, vùng xa” và Quỹ Văn học thiếu nhi.
Trước đó, tọa đàm đã lắng nghe tham luận và những chia sẻ tâm huyết của các nhà lý luận phê bình, nhà văn, nhà thơ nữ. Đa phần những chia sẻ của họ, dù được tiếp cận ở những khía cạnh khác nhau, nhưng đều cho thấy sự nghiêm túc trong lao động văn chương, sự hy sinh thầm lặng và năng lượng sáng tạo rất đáng được trân trọng.
Nhờ sát sao với đời sống Văn học, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng đã chia đội ngũ sáng tác văn học thành 4 lớp khác nhau và ở mỗi lớp lại có những gương mặt nổi trội. Đáng chú ý, ở lớp 7X, 8 X cứ 50 cây bút nổi tiếng thì có 35 cây bút là phụ nữ. Nhà văn nữ viết đằm xong luôn có lửa sau mỗi trang viết. Và ông luôn hy vọng sẽ có những tác phẩm đột phá trong văn thơ nữ.
Với nhà phê bình Đỗ Anh Vũ, với văn thơ nữ, tình mẫu tử luôn là vấn đề được quan tâm. Sáng tác của các chị đi vào những vấn đề cụ thể, chi tiết hơn nam giới. Nhà văn nữ gửi gắm vào con chữ những tâm tư tình cảm của mình, ở đó có sự day dứt, có tâm sự và cũng có cả những kinh nghiệm sống…trao gửi cho những đứa con. Và những trang viết của họ luôn để lại những rung cảm ấm áp.
Với nhà lý luận phê bình Vũ Nho, sự quan tâm của ông về văn chương nữ lại chính là lĩnh vực Lý luận phê bình. Theo ông, viết lý luận phê bình là công việc khó khăn, kén người, nhưng các nhà văn nữ đã dấn thân và đóng góp vai trò rất quan trọng cho công tác lý luận phê bình VHNT hiện nay. Những gương mặt phê bình nữ như : Trần Thị Trâm; Lưu Khánh Thơ, PGS,TS Nguyễn Thị Minh Thái; PGS, TS Lý Hoài Thu… đã để lại những dấu ấn nhất định trên văn đàn. Hiện hội nhà văn Việt Nam có hơn 200 nhà văn nữ ( 20 nhà văn làm lý luận phê bình), trong tổng số 1200 nhà văn cả nước. Do đó, những sáng tác của nhà văn nữ khá hùng hậu. Và nhà Lý luận phê bình Vũ Nho khẳng định, trong thời gian tới, ông sẽ viết về những nhà phê bình nữ ra tấm ra món.
Chia sẻ về những sáng tác nữ, nhà văn, nhà lý luận phê bình Trần Thị Trâm cho rằng, văn học nữ có những đặc sắc riêng. Ở sáng tác của họ có sự khác ở điểm nhìn nghệ thuật, cách tiếp cận thế giới. Họ hay viết về những điểm rất khác trong tình yêu, cuộc sống. Ví dụ ở thơ, thường hay viết về sự cô đơn, sự dịu dàng…. Với những câu thơ chạm vào trái tim người đọc. Và như vậy, văn thơ nữ có nhiều đóng góp cho văn học đương đại. Song, để có những tác phẩm đỉnh cao, văn thơ nữ cần phải đổi mới, cần có tính triết lý nhân sinh sâu sắc.
Bàn đến chữ Duyên và chữ Tình trong sáng tác văn chương, nhà văn Lê Phương Liên cho rằng, để những sáng tác của mình đến được với bạn đọc nhà văn nữ cần có cái Duyên và cái Tình, cái duyên với người đọc tác phẩm và cái Tình để lưu lại những tác phẩm của mình. Trong suốt 50 năm sáng tác, nhà văn Lê Phương Liên luôn có may mắn hạnh ngộ chữ Duyên và chữ Tình, đây là động lực để bà bền bì sáng tác.
Nhà văn nữ sống rất nhiều vai, họ không chỉ tròn vai người vợ, người mẹ, người bà, nhà văn nữ còn là những người hoạt động xã hội năng động. Dù ở vai trò nào, độ tuổi nào, họ cũng đều sống hết mình, nhất là trong sáng tác văn học, họ luôn cháy hết mình với văn chương. Đặc biệt với nhà văn Võ Thị Xuân Hà, lao động văn chương luôn đòi hỏi sự sắp xếp khoa học, sự tập trung cao độ, năng lượng sống và sống hết mình với những đam mê của mình.
Nhà văn Trần Thị Trường, người được biết đến là một nhà văn, họa sĩ, tự cho rằng mình chưa qua trường lớp dạy viết văn, hội họa, nhưng lại có thừa đam mê. Ở tuổi 70 nữ nhà văn, họa sĩ cho biết, chữ nghĩa, văn chương vẫn luôn có một sức hút mạnh mẽ và tháng 11 tới đây, bà sẽ cho ra mắt cuốn “Chân dung 60 nhà văn Việt Nam” và sẽ còn có tập hai để bổ sung những gương mặt nhà văn khác trong Hội Nhà văn Việt Nam.
Được biết đến với những bài phê bình văn học có sức lan tỏa mạnh mẽ – nhà lý luận phê bình Tôn Phương Lan cũng đã có những chia sẻ về công việc phê bình khá nặng nhọc nhưng đầy đam mê trong suốt nhiều năm qua của mình. Mặc dù không được nhiều người biết đến như các nhà văn, nhà thơ thông qua sáng tác, nhưng ở góc độ người làm phê bình văn học, bà cho rằng, những bài phê bình đã góp phần nâng tầm tác phẩm, khẳng định giá trị tác phẩm. Cảm ơn những nhà văn, nhà thơ, bằng sự cố gắng của mình đã lao động sáng tạo ra những tác phẩm văn chương, đưa lại cảm hứng cho những người làm công tác phê bình. Bà cũng hy vọng sau cuộc tọa đàm sẽ được gặp gỡ được nhiều hơn những tác phẩm văn học có giá trị.
Đến với tọa đàm, nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy cũng có những chia sẻ về vùng đất, vùng văn hóa Hà Giang, nơi chi sinh ra và lớn lên. Nữ nhà văn cho biết, trong suốt hành trình sống và viết, chị luôn muốn ngoái lại để tri ân vùng đất ấy. Bởi đây chính là vỉa quặng mà có lẽ sẽ không bao giờ cạn trên con đường sáng tác của chị . Với chị văn chương là công việc cá nhân, nhà văn luôn lao động trong sự cô độc, nhưng đổi lại có bạn đọc, có đồng nghiệp cùng hiểu và thông cảm cho nhau. Nhà văn gánh trên vai nhiều trách nhiệm, và những tác phẩm của họ sẽ làm vợi bớt những nhọc nhằn và giúp họ có thêm năng lượng sống.
Cũng có những chia sẻ về công việc sáng tác, gương mặt trẻ, nhà văn Di Li thừa nhận mình không thể làm nhiều công việc một lúc. Và để hoàn thành công việc của mình, chị phải sắp sếp thời gian hợp lý, tập trung cao độ cho từng công việc cụ thể của mình. Thậm chí “Cảm xúc lên đến 100%” để hoàn thành công việc.
Các nhà văn Nguyễn Thị Hải Yến, Cao Thị Hồng, … cũng có những chia sẻ về công việc thực tế song hành với nghề viết văn. Trong vai trò là một nhà văn – nhà giáo, những đau đáu về nghề đã được chuyển tải lên trang văn. Vì vậy, qua những công việc thầm lặng, các chị đã thắp lửa cho các học trò của mình.
Sau buổi tọa đàm. Ban nhà văn nữ tiếp tục tổ chức đêm giao lưu thơ nhạc “ Quà tặng mùa thu”. Cùng chung vui với các nhà văn nữ, Báo Văn nghệ xin chức mừng các nhà văn, nhà thơ nữ bút lực dồi dào và hạnh phúc trong ngày 20/10.
|
Kỷ niệm Ngày phụ nữ Việt Nam 20/10, Ban Nhà văn nữ, Hội nhà văn Việt Nam đã tổ chức tọa đàm
Thơ nữ: sống, viết và hy vọng
. Tọa đàm diễn ra tại 70 Nguyễn Du – Hà Nội với sự tham dự của
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
, Chủ tịch, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng, TS Văn học Đỗ Anh Vũ cùng các nhà văn, nhà thơ nữ thuộc Ban nhà văn nữ Hội Nhà văn Việt Nam.
Trải qua hai năm Covid 19, sự hiện diện, gặp gỡ tại tọa đàm được xem là một điểm nhấn trong chuỗi hoạt động của các nhà văn nữ trong năm.
Các nhà văn tham dự tọa đàm
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã gửi những lời chúc tốt đẹp nhất tới các nhà văn nữ nhân ngày 20/10. Đồng thời bày tỏ sự trân trọng, cảm ơn khi được nghe những chia sẻ của các nhà văn nữ về cuộc sống và về những trăn trở trong lao động văn chương của các nhà văn nữ. Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, dù phải đối mặt với những khó khăn, những phiền muộn kéo dài dằng dặc, thậm chí nhấn chìm cả những khát vọng lớn lao, thì trong mỗi trang sách của các nhà văn nữ, vẫn luôn là một một thế giới khác. Đó là thế giới mang lại niềm hy vọng, mở ra những ô cửa lớn cho tâm hồn con người.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Cuộc sống dù khó khăn, nhưng mỗi trang viết phải lành lặn, phải lan tỏa cuộc sống đẹp đẽ. Cảm ơn những nhà văn nữ, những nhà lý luận phê bình nữ – những biểu trưng của cái đẹp, của sự sẻ chia, nhẫn nại, vị tha và lòng nhân ái…
( Nhà văn Nguyễn Quang Thiều)
Cho biết, trong thời gian tới Hội Nhà văn Việt Nam sẽ mở “Quỹ Văn học thiếu nhi” để làm sách cho trẻ em, Chủ tịch Hội tin rằng Quỹ sẽ được ủng hộ. Và kỳ vọng các nhà văn nữ sẽ đồng hành với dự án “sách miễn phí cho trẻ em miền núi và vùng sâu, vùng xa” và Quỹ Văn học thiếu nhi.
Trước đó, tọa đàm đã lắng nghe tham luận và những chia sẻ tâm huyết của các nhà lý luận phê bình, nhà văn, nhà thơ nữ. Đa phần những chia sẻ của họ, dù được tiếp cận ở những khía cạnh khác nhau, nhưng đều cho thấy sự nghiêm túc trong lao động văn chương, sự hy sinh thầm lặng và năng lượng sáng tạo rất đáng được trân trọng.
Nhờ sát sao với đời sống Văn học, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng đã chia đội ngũ sáng tác văn học thành 4 lớp khác nhau và ở mỗi lớp lại có những gương mặt nổi trội. Đáng chú ý, ở lớp 7X, 8 X cứ 50 cây bút nổi tiếng thì có 35 cây bút là phụ nữ. Nhà văn nữ viết đằm xong luôn có lửa sau mỗi trang viết. Và ông luôn hy vọng sẽ có những tác phẩm đột phá trong văn thơ nữ.
Với nhà phê bình Đỗ Anh Vũ, với văn thơ nữ, tình mẫu tử luôn là vấn đề được quan tâm. Sáng tác của các chị đi vào những vấn đề cụ thể, chi tiết hơn nam giới. Nhà văn nữ gửi gắm vào con chữ những tâm tư tình cảm của mình, ở đó có sự day dứt, có tâm sự và cũng có cả những kinh nghiệm sống…trao gửi cho những đứa con. Và những trang viết của họ luôn để lại những rung cảm ấm áp.
Với nhà lý luận phê bình Vũ Nho, sự quan tâm của ông về văn chương nữ lại chính là lĩnh vực Lý luận phê bình. Theo ông, viết lý luận phê bình là công việc khó khăn, kén người, nhưng các nhà văn nữ đã dấn thân và đóng góp vai trò rất quan trọng cho công tác lý luận phê bình VHNT hiện nay. Những gương mặt phê bình nữ như : Trần Thị Trâm; Lưu Khánh Thơ, PGS,TS Nguyễn Thị Minh Thái; PGS, TS Lý Hoài Thu… đã để lại những dấu ấn nhất định trên văn đàn. Hiện hội nhà văn Việt Nam có hơn 200 nhà văn nữ ( 20 nhà văn làm lý luận phê bình), trong tổng số 1200 nhà văn cả nước. Do đó, những sáng tác của nhà văn nữ khá hùng hậu. Và nhà Lý luận phê bình Vũ Nho khẳng định, trong thời gian tới, ông sẽ viết về những nhà phê bình nữ ra tấm ra món.
Chia sẻ về những sáng tác nữ, nhà văn, nhà lý luận phê bình Trần Thị Trâm cho rằng, văn học nữ có những đặc sắc riêng. Ở sáng tác của họ có sự khác ở điểm nhìn nghệ thuật, cách tiếp cận thế giới. Họ hay viết về những điểm rất khác trong tình yêu, cuộc sống. Ví dụ ở thơ, thường hay viết về sự cô đơn, sự dịu dàng…. Với những câu thơ chạm vào trái tim người đọc. Và như vậy, văn thơ nữ có nhiều đóng góp cho văn học đương đại. Song, để có những tác phẩm đỉnh cao, văn thơ nữ cần phải đổi mới, cần có tính triết lý nhân sinh sâu sắc.
Bàn đến chữ Duyên và chữ Tình trong sáng tác văn chương, nhà văn Lê Phương Liên cho rằng, để những sáng tác của mình đến được với bạn đọc nhà văn nữ cần có cái Duyên và cái Tình, cái duyên với người đọc tác phẩm và cái Tình để lưu lại những tác phẩm của mình. Trong suốt 50 năm sáng tác, nhà văn Lê Phương Liên luôn có may mắn hạnh ngộ chữ Duyên và chữ Tình, đây là động lực để bà bền bì sáng tác.
Nhà văn nữ sống rất nhiều vai, họ không chỉ tròn vai người vợ, người mẹ, người bà, nhà văn nữ còn là những người hoạt động xã hội năng động. Dù ở vai trò nào, độ tuổi nào, họ cũng đều sống hết mình, nhất là trong sáng tác văn học, họ luôn cháy hết mình với văn chương. Đặc biệt với nhà văn Võ Thị Xuân Hà, lao động văn chương luôn đòi hỏi sự sắp xếp khoa học, sự tập trung cao độ, năng lượng sống và sống hết mình với những đam mê của mình.
Nhà văn Trần Thị Trường, người được biết đến là một nhà văn, họa sĩ, tự cho rằng mình chưa qua trường lớp dạy viết văn, hội họa, nhưng lại có thừa đam mê. Ở tuổi 70 nữ nhà văn, họa sĩ cho biết, chữ nghĩa, văn chương vẫn luôn có một sức hút mạnh mẽ và tháng 11 tới đây, bà sẽ cho ra mắt cuốn “Chân dung 60 nhà văn Việt Nam” và sẽ còn có tập hai để bổ sung những gương mặt nhà văn khác trong Hội Nhà văn Việt Nam.
Được biết đến với những bài phê bình văn học có sức lan tỏa mạnh mẽ – nhà lý luận phê bình Tôn Phương Lan cũng đã có những chia sẻ về công việc phê bình khá nặng nhọc nhưng đầy đam mê trong suốt nhiều năm qua của mình. Mặc dù không được nhiều người biết đến như các nhà văn, nhà thơ thông qua sáng tác, nhưng ở góc độ người làm phê bình văn học, bà cho rằng, những bài phê bình đã góp phần nâng tầm tác phẩm, khẳng định giá trị tác phẩm. Cảm ơn những nhà văn, nhà thơ, bằng sự cố gắng của mình đã lao động sáng tạo ra những tác phẩm văn chương, đưa lại cảm hứng cho những người làm công tác phê bình. Bà cũng hy vọng sau cuộc tọa đàm sẽ được gặp gỡ được nhiều hơn những tác phẩm văn học có giá trị.
Đến với tọa đàm, nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy cũng có những chia sẻ về vùng đất, vùng văn hóa Hà Giang, nơi chi sinh ra và lớn lên. Nữ nhà văn cho biết, trong suốt hành trình sống và viết, chị luôn muốn ngoái lại để tri ân vùng đất ấy. Bởi đây chính là vỉa quặng mà có lẽ sẽ không bao giờ cạn trên con đường sáng tác của chị . Với chị văn chương là công việc cá nhân, nhà văn luôn lao động trong sự cô độc, nhưng đổi lại có bạn đọc, có đồng nghiệp cùng hiểu và thông cảm cho nhau. Nhà văn gánh trên vai nhiều trách nhiệm, và những tác phẩm của họ sẽ làm vợi bớt những nhọc nhằn và giúp họ có thêm năng lượng sống.
Cũng có những chia sẻ về công việc sáng tác, gương mặt trẻ, nhà văn Di Li thừa nhận mình không thể làm nhiều công việc một lúc. Và để hoàn thành công việc của mình, chị phải sắp sếp thời gian hợp lý, tập trung cao độ cho từng công việc cụ thể của mình. Thậm chí “Cảm xúc lên đến 100%” để hoàn thành công việc.
Các nhà văn Nguyễn Thị Hải Yến, Cao Thị Hồng, … cũng có những chia sẻ về công việc thực tế song hành với nghề viết văn. Trong vai trò là một nhà văn – nhà giáo, những đau đáu về nghề đã được chuyển tải lên trang văn. Vì vậy, qua những công việc thầm lặng, các chị đã thắp lửa cho các học trò của mình.
Sau buổi tọa đàm. Ban nhà văn nữ tiếp tục tổ chức đêm giao lưu thơ nhạc “ Quà tặng mùa thu”. Cùng chung vui với các nhà văn nữ, Báo Văn nghệ xin chức mừng các nhà văn, nhà thơ nữ bút lực dồi dào và hạnh phúc trong ngày 20/10.
|
Kỉ niệm 80 năm ngày sinh của nữ thi sĩ
Xuân Quỳnh
, mới đây tập di cảo
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
đã được ra mắt đông đảo bạn đọc bao gồm nhật kí, ghi chép cũng như thư từ chưa từng công bố. Qua tác phẩm này, bạn đọc có thêm cơ hội tiếp xúc với một Xuân Quỳnh trong vai trò là một người mẹ, người vợ và là nhà văn thời chiến vô cùng xông xáo.
Được tuyển chọn bởi PGS.TS, nhà phê bình Lưu Khánh Thơ – em gái của nhà thơ, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ, tác phẩm gồm 3 phần chính. Phần đầu là nhật kí viết trong tháng ngày mang thai người con đầu lòng –
Lưu Tuấn Anh
. Phần hai là những ghi chép mà rất có thể sẽ là chất liệu cho các tác phẩm về sau của bà trong thời chiến. Cuối cùng là những bức thư qua lại giữa bà và Lưu Quang Vũ cũng như con trai Mí (
Lưu Quỳnh Thơ
) khi có dịp đi học hơn 3 tháng ở Liên Xô.
NHẬT KÍ CỦA TÌNH MẪU TỬ
Trong chương đoạn này, một Xuân Quỳnh khác của những hiện thực và nỗi trăn trở đã được hiện lên. Khởi viết từ năm 1965 khi mang thai con trai đầu lòng, Xuân Quỳnh cho thấy trạng thái bấp bênh của mình trong giai đoạn này. Chân ướt chân ráo bước vào làng báo, bà bị từ chối ở mọi tòa soạn bởi đang mang thai, cùng như lo sợ về lần đầu tiên có một sinh linh cựa quậy trong mình.
Trong những trang viết đậm tính cá nhân, bà đầy lo lắng khi mình bị cúm, khi phải dùng thuốc kháng sinh… nhưng cũng vui vẻ khi thấy cậu đạp và cứng cáp hơn. Xuân Quỳnh theo sát Tuấn Anh, để nhận thấy hành trình lớn lên của cậu, từ từng cái răng cậu mọc cho đến khi biết lẫy, biết làm nũng, tập đứng lên và cầm nắm đồ vật đầu tiên…
Những trang viết tay của Xuân Quỳnh.
Tuy thế tràn ngập trang viết là nỗi buồn thương. Ở thời điểm đó Xuân Quỳnh dường như cô độc, khi chồng thì ở quá xa, thiếu sự quan tâm, còn mẹ chồng thì không thoát cảnh “mẹ chồng nàng dâu”. Chính những áp lực phải gánh chịu trên, cũng như “cái quan tâm chung chung” không có tình cảm của chồng mà cuộc hôn nhân đầu tiên sau đó đã phải tan vỡ.
Trong giai đoạn này, Xuân Quỳnh gián tiếp cho thấy một sự khó khăn bao trùm lên cả xã hội miền Bắc trên đà giải phóng. Rất nhiều lần trạng thái ngơ ngẩn, tủi thân, lầm lũi… được bà tái hiện trong vô số lần di chuyển giữa Hà Nội và vùng sơ tán. Những năm tháng ấy đất nước eo hẹp vì cảnh chiến tranh, trong khi thiếu nước, thiếu điện, thiếu ăn, thiếu sống… con người “héo hắt chết dần”, “u uất mãi thôi”.
Xuân Quỳnh đau đớn vì cách xa con. Bà thể hiện được sự cô độc khi bất lực không thể mua cho con trai mình dù là một món đồ chơi nhỏ bé nhất, hay là trái quýt, trái chanh… thay nhau lạm phát ở cảnh chợ đen. Mùa đông phát điên vì lạnh, mùa hạ phát cuồng vì nóng… đã khiến tình cảnh lúc đó “sao mà buồn đến thế”.
Dẫu thế tình mẹ bao la vẫn khiến Xuân Quỳnh cố gắng bên cạnh con trai nhiều nhất có thể. Đạp xe mấy mươi cây số từ Hà Nội đến vùng sơ tán, bà “sống chết thì cũng phải về” thăm con dù chỉ là vài ba phút, để rồi sau đó lại tối mắt tối mũi quay lại cơ quan. Ở giai đoạn đó, Xuân Quỳnh gần như đóng băng sự nghiệp sáng tác để lo cho con, và khi con trai cứng cáp hơn một chút xíu, bà phải cố gắng quay lại những nơi chiến trường, tham gia thực địa, và lấy tư liệu dùng cho sau này.
NHÀ VĂN XÔNG XÁO
Giai đoạn kháng chiến chống Mĩ 1967 -1973, Xuân Quỳnh là một tác giả vô cùng năng động không ngại lăn xả vào những vùng đất Vĩnh Linh, Quảng Bình, Quảng Trị, Cồn Cỏ… để thật sự sống cũng như trải nghiệm, làm việc với quân và dân đang xả thân cho cuộc kháng chiến. Được viết như những ghi chú về số liệu, chân dung và những mẩu chuyện trong giờ giải lao… Đây không chỉ là những tư liệu cho việc sáng tạo, mà còn cho thấy một sự tươi nguyên và đầy chân thật của bối cảnh thời ấy.
Được viết mở đầu bằng tên nhân vật, ngày tháng, địa điểm và những nơi chốn, Xuân Quỳnh thực hiện một cuộc “khảo sát” thật sự để nắm bắt được những gì nổi cộm và những con người chìm trong khói lửa. Trong những ghi chép của bà có những người lính anh hùng hi sinh đào hầm, có những số liệu chiến đấu với B-52, có những người mẹ Việt Nam anh hùng cầm súng chiến đấu dẫu đã 50 tuổi…
Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú và nhà thơ Xuân Quỳnh bên dòng Thạch Hãn năm 1972.
Tuy được viết lại dưới dạng liệt kê, thế nhưng bằng sự khốc liệt cũng như đau đớn, người đọc như được sống lại khoảng thời gian đó, với sự thôi thúc, với những nỗi đau và sự mất mát. Chính trong phần này, một Xuân Quỳnh năng động và không đứng im trong dòng lịch sử cũng đã hiện lên một cách sáng rõ và đầy độc đáo.
Cũng như thơ ca, những quan sát của bà phần lớn là rất kín đáo, và được ghi lại vô cùng khác biệt dưới một góc nhìn đầy nữ tính, mà ta ít thấy trong những cuốn khác. Những ghi chép này là nguồn tài liệu vô cùng quý giá về các chân dung anh hùng cũng như những mảnh ghép nhỏ, đan dệt nên một bức tranh về đất nước trong thời lịch sử đã qua.
NGƯỜI VỢ THẤU HIỂU
Cho đến ngày nay, mối tình giữa Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh vẫn còn được nhiều độc giả quan tâm chú ý. Trong di cảo này, Lưu Khánh Thơ cũng đã tiết lộ những sự khó khăn mà cặp đôi Vũ – Quỳnh đã từng gặp phải khi định tiến đến hôn nhân.
Đều là những người đã lỡ một bước cũng như có tình trạng con riêng – con chung; nên cả hai người ban đầu không được ủng hộ một cách nhiệt thành. Tuy thế chính bằng tình yêu, sự đồng cảm và những ngưỡng mộ, cả hai đã cùng để lại những bài thơ hay và những trao đổi vô cùng lãng mạn.
Bao gồm thư từ được viết trong 3 tháng Xuân Quỳnh đi học cũng như giao lưu văn hóa tại Liên Xô, có thể thấy được tình cảm chìm đắm của cả hai người thông qua bức thư. Trong một lá thư được viết vào năm 1978, Xuân Quỳnh đã có trải lòng vô cùng phức tạp về tình cảm của mình dành riêng cho
Lưu Quang Vũ
.
Theo đó, bà viết:
“Lắm lúc em thấy em không xứng đáng với anh không phải về tình yêu mà về trí tuệ”,
và trong một bức thư khác, bà cũng chép lại bài
Hoa cúc xanh
như một món quà gửi tặng sinh nhật cho chồng, và nhờ ông chữa cho những chỗ chưa chuẩn.
Tập di cảo
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
của Xuân Quỳnh, do PGS.TS. Lưu Khánh Thơ biên soạn, Nhã Nam và Nxb Hội Nhà Văn liên kết ấn hành. Ảnh Ngô Vinh.
Thông qua những dòng chữ này, có thể thấy rằng cả Vũ và Quỳnh đều dành cho nhau một sự trân trọng. Không những là sự đồng cảm của hai con người chịu cảnh bất hạnh chung trong hôn nhân, mà còn là tình nghệ sĩ, là những người bạn, những người sẻ chia chung nhau hoàn cảnh túng thiếu cơm áo gạo tiền, nơi những bữa ăn không được đảm bảo bằng tiền nhuận bút, bởi vì vật giá từng ngày sẽ lại tăng lên. Tình cảm đầm ấm của hai người họ vừa là hi vọng, vừa là ủi an cho người còn lại, với một tình yêu có phần thuần nguyên và đầy đẹp đẽ.
Trong lá thư khác, bà viết:
“Hiểu tính tình, công việc của anh lắm lúc thương anh xót cả ruột. Lắm khi em cứ nghĩ: em sẵn sàng sống cuộc đời đạm bạc để anh đỡ phải nhọc nhằn. Đối với em, em chẳng có nhu cầu gì nhiều, chỉ cần lo liệu cho con cái”.
Hình bóng của bà hiện lên là người phụ nữ chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con một cách hết mực, nhưng vẫn cảm thấy đời sống còn nhiều khó khăn, còn nhiều chông gai đang ở phía trước.
Nên Vũ cũng đáp lại rằng:
“Mùa đông này, về với anh, đi bên anh, nằm bên anh trong căn phòng đầy tranh của chúng ta […] Nếu chúng ta là kẻ không có tài chi lắm, không viết được điều gì to tát, thì cũng sẽ viết được những trang sách về những năm tháng ta sống, về những cay đắng và những niềm yêu thương đơn giản của con người”.
Với hai người họ, chỉ cần có nhau là đủ. Thông qua
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
, một Xuân Quỳnh khác đã được hiện lên trên những khó khăn trong cuộc đời bà. Thế nhưng với tình yêu và sự đồng cảm dành cho gia đình… bà đã mạnh mẽ vượt lên tất cả để dâng cho đời những vầng thơ sống mãi với thời gian.
NGÔ TUẤN ANH
|
Kỉ niệm 80 năm ngày sinh của nữ thi sĩ
Xuân Quỳnh
, mới đây tập di cảo
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
đã được ra mắt đông đảo bạn đọc bao gồm nhật kí, ghi chép cũng như thư từ chưa từng công bố. Qua tác phẩm này, bạn đọc có thêm cơ hội tiếp xúc với một Xuân Quỳnh trong vai trò là một người mẹ, người vợ và là nhà văn thời chiến vô cùng xông xáo.
Được tuyển chọn bởi PGS.TS, nhà phê bình Lưu Khánh Thơ – em gái của nhà thơ, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ, tác phẩm gồm 3 phần chính. Phần đầu là nhật kí viết trong tháng ngày mang thai người con đầu lòng –
Lưu Tuấn Anh
. Phần hai là những ghi chép mà rất có thể sẽ là chất liệu cho các tác phẩm về sau của bà trong thời chiến. Cuối cùng là những bức thư qua lại giữa bà và Lưu Quang Vũ cũng như con trai Mí (
Lưu Quỳnh Thơ
) khi có dịp đi học hơn 3 tháng ở Liên Xô.
NHẬT KÍ CỦA TÌNH MẪU TỬ
Trong chương đoạn này, một Xuân Quỳnh khác của những hiện thực và nỗi trăn trở đã được hiện lên. Khởi viết từ năm 1965 khi mang thai con trai đầu lòng, Xuân Quỳnh cho thấy trạng thái bấp bênh của mình trong giai đoạn này. Chân ướt chân ráo bước vào làng báo, bà bị từ chối ở mọi tòa soạn bởi đang mang thai, cùng như lo sợ về lần đầu tiên có một sinh linh cựa quậy trong mình.
Trong những trang viết đậm tính cá nhân, bà đầy lo lắng khi mình bị cúm, khi phải dùng thuốc kháng sinh… nhưng cũng vui vẻ khi thấy cậu đạp và cứng cáp hơn. Xuân Quỳnh theo sát Tuấn Anh, để nhận thấy hành trình lớn lên của cậu, từ từng cái răng cậu mọc cho đến khi biết lẫy, biết làm nũng, tập đứng lên và cầm nắm đồ vật đầu tiên…
Những trang viết tay của Xuân Quỳnh.
Tuy thế tràn ngập trang viết là nỗi buồn thương. Ở thời điểm đó Xuân Quỳnh dường như cô độc, khi chồng thì ở quá xa, thiếu sự quan tâm, còn mẹ chồng thì không thoát cảnh “mẹ chồng nàng dâu”. Chính những áp lực phải gánh chịu trên, cũng như “cái quan tâm chung chung” không có tình cảm của chồng mà cuộc hôn nhân đầu tiên sau đó đã phải tan vỡ.
Trong giai đoạn này, Xuân Quỳnh gián tiếp cho thấy một sự khó khăn bao trùm lên cả xã hội miền Bắc trên đà giải phóng. Rất nhiều lần trạng thái ngơ ngẩn, tủi thân, lầm lũi… được bà tái hiện trong vô số lần di chuyển giữa Hà Nội và vùng sơ tán. Những năm tháng ấy đất nước eo hẹp vì cảnh chiến tranh, trong khi thiếu nước, thiếu điện, thiếu ăn, thiếu sống… con người “héo hắt chết dần”, “u uất mãi thôi”.
Xuân Quỳnh đau đớn vì cách xa con. Bà thể hiện được sự cô độc khi bất lực không thể mua cho con trai mình dù là một món đồ chơi nhỏ bé nhất, hay là trái quýt, trái chanh… thay nhau lạm phát ở cảnh chợ đen. Mùa đông phát điên vì lạnh, mùa hạ phát cuồng vì nóng… đã khiến tình cảnh lúc đó “sao mà buồn đến thế”.
Dẫu thế tình mẹ bao la vẫn khiến Xuân Quỳnh cố gắng bên cạnh con trai nhiều nhất có thể. Đạp xe mấy mươi cây số từ Hà Nội đến vùng sơ tán, bà “sống chết thì cũng phải về” thăm con dù chỉ là vài ba phút, để rồi sau đó lại tối mắt tối mũi quay lại cơ quan. Ở giai đoạn đó, Xuân Quỳnh gần như đóng băng sự nghiệp sáng tác để lo cho con, và khi con trai cứng cáp hơn một chút xíu, bà phải cố gắng quay lại những nơi chiến trường, tham gia thực địa, và lấy tư liệu dùng cho sau này.
NHÀ VĂN XÔNG XÁO
Giai đoạn kháng chiến chống Mĩ 1967 -1973, Xuân Quỳnh là một tác giả vô cùng năng động không ngại lăn xả vào những vùng đất Vĩnh Linh, Quảng Bình, Quảng Trị, Cồn Cỏ… để thật sự sống cũng như trải nghiệm, làm việc với quân và dân đang xả thân cho cuộc kháng chiến. Được viết như những ghi chú về số liệu, chân dung và những mẩu chuyện trong giờ giải lao… Đây không chỉ là những tư liệu cho việc sáng tạo, mà còn cho thấy một sự tươi nguyên và đầy chân thật của bối cảnh thời ấy.
Được viết mở đầu bằng tên nhân vật, ngày tháng, địa điểm và những nơi chốn, Xuân Quỳnh thực hiện một cuộc “khảo sát” thật sự để nắm bắt được những gì nổi cộm và những con người chìm trong khói lửa. Trong những ghi chép của bà có những người lính anh hùng hi sinh đào hầm, có những số liệu chiến đấu với B-52, có những người mẹ Việt Nam anh hùng cầm súng chiến đấu dẫu đã 50 tuổi…
Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú và nhà thơ Xuân Quỳnh bên dòng Thạch Hãn năm 1972.
Tuy được viết lại dưới dạng liệt kê, thế nhưng bằng sự khốc liệt cũng như đau đớn, người đọc như được sống lại khoảng thời gian đó, với sự thôi thúc, với những nỗi đau và sự mất mát. Chính trong phần này, một Xuân Quỳnh năng động và không đứng im trong dòng lịch sử cũng đã hiện lên một cách sáng rõ và đầy độc đáo.
Cũng như thơ ca, những quan sát của bà phần lớn là rất kín đáo, và được ghi lại vô cùng khác biệt dưới một góc nhìn đầy nữ tính, mà ta ít thấy trong những cuốn khác. Những ghi chép này là nguồn tài liệu vô cùng quý giá về các chân dung anh hùng cũng như những mảnh ghép nhỏ, đan dệt nên một bức tranh về đất nước trong thời lịch sử đã qua.
NGƯỜI VỢ THẤU HIỂU
Cho đến ngày nay, mối tình giữa Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh vẫn còn được nhiều độc giả quan tâm chú ý. Trong di cảo này, Lưu Khánh Thơ cũng đã tiết lộ những sự khó khăn mà cặp đôi Vũ – Quỳnh đã từng gặp phải khi định tiến đến hôn nhân.
Đều là những người đã lỡ một bước cũng như có tình trạng con riêng – con chung; nên cả hai người ban đầu không được ủng hộ một cách nhiệt thành. Tuy thế chính bằng tình yêu, sự đồng cảm và những ngưỡng mộ, cả hai đã cùng để lại những bài thơ hay và những trao đổi vô cùng lãng mạn.
Bao gồm thư từ được viết trong 3 tháng Xuân Quỳnh đi học cũng như giao lưu văn hóa tại Liên Xô, có thể thấy được tình cảm chìm đắm của cả hai người thông qua bức thư. Trong một lá thư được viết vào năm 1978, Xuân Quỳnh đã có trải lòng vô cùng phức tạp về tình cảm của mình dành riêng cho
Lưu Quang Vũ
.
Theo đó, bà viết:
“Lắm lúc em thấy em không xứng đáng với anh không phải về tình yêu mà về trí tuệ”,
và trong một bức thư khác, bà cũng chép lại bài
Hoa cúc xanh
như một món quà gửi tặng sinh nhật cho chồng, và nhờ ông chữa cho những chỗ chưa chuẩn.
Tập di cảo
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
của Xuân Quỳnh, do PGS.TS. Lưu Khánh Thơ biên soạn, Nhã Nam và Nxb Hội Nhà Văn liên kết ấn hành. Ảnh Ngô Vinh.
Thông qua những dòng chữ này, có thể thấy rằng cả Vũ và Quỳnh đều dành cho nhau một sự trân trọng. Không những là sự đồng cảm của hai con người chịu cảnh bất hạnh chung trong hôn nhân, mà còn là tình nghệ sĩ, là những người bạn, những người sẻ chia chung nhau hoàn cảnh túng thiếu cơm áo gạo tiền, nơi những bữa ăn không được đảm bảo bằng tiền nhuận bút, bởi vì vật giá từng ngày sẽ lại tăng lên. Tình cảm đầm ấm của hai người họ vừa là hi vọng, vừa là ủi an cho người còn lại, với một tình yêu có phần thuần nguyên và đầy đẹp đẽ.
Trong lá thư khác, bà viết:
“Hiểu tính tình, công việc của anh lắm lúc thương anh xót cả ruột. Lắm khi em cứ nghĩ: em sẵn sàng sống cuộc đời đạm bạc để anh đỡ phải nhọc nhằn. Đối với em, em chẳng có nhu cầu gì nhiều, chỉ cần lo liệu cho con cái”.
Hình bóng của bà hiện lên là người phụ nữ chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con một cách hết mực, nhưng vẫn cảm thấy đời sống còn nhiều khó khăn, còn nhiều chông gai đang ở phía trước.
Nên Vũ cũng đáp lại rằng:
“Mùa đông này, về với anh, đi bên anh, nằm bên anh trong căn phòng đầy tranh của chúng ta […] Nếu chúng ta là kẻ không có tài chi lắm, không viết được điều gì to tát, thì cũng sẽ viết được những trang sách về những năm tháng ta sống, về những cay đắng và những niềm yêu thương đơn giản của con người”.
Với hai người họ, chỉ cần có nhau là đủ. Thông qua
Trong đáy mắt trời xanh là vĩnh viễn
, một Xuân Quỳnh khác đã được hiện lên trên những khó khăn trong cuộc đời bà. Thế nhưng với tình yêu và sự đồng cảm dành cho gia đình… bà đã mạnh mẽ vượt lên tất cả để dâng cho đời những vầng thơ sống mãi với thời gian.
NGÔ TUẤN ANH
|
Sau 30 năm miệt mài, dịch giả Nguyễn Hữu Dũng đã hoàn thành việc chuyển ngữ tác phẩm kinh điển
Hiệp sĩ Thánh chiến
của nhà văn Ba Lan Henryk Sienkiewicz, chủ nhân của giải Nobel Văn học năm 1905. Tác phẩm cũng vừa được Đông A liên kết với NXB Văn học giới thiệu đến bạn đọc Việt Nam.
Ngày 17-10, tại hội trường Hội Nhà văn TPHCM đã diễn ra buổi giao lưu và trò chuyện với dịch giả Nguyễn Hữu Dũng nhân dịp ra mắt tác phẩm
Hiệp sĩ Thánh chiến
của nhà văn Ba Lan Henryk Sienkiewicz (1846-1916).
Nhà văn Henryk Sienkiewicz sinh ra tại Wola Okrzejska (
Ba Lan
) trong một gia đình gốc quý tộc. Ông từng theo học luật, y học trước khi chuyên tâm vào sự nghiệp viết lách.
Các tác phẩm của nhà văn Henryk Sienkiewicz do Đông A xuất bản thời gian qua
Độc giả Việt Nam từng biết đến tài năng của Henryk Sienkiewicz qua các kiệt tác:
Quo vadis, Trên sa mạc và trong rừng thẳm, Hania, Trên bờ biển sáng
… Tuy nhiên, trong cuộc đời sáng tác văn học của ông, không tác phẩm nào được thai nghén lâu như tiểu thuyết lịch sử Hiệp sĩ Thánh chiến (Krzyżacy).
Ngay từ năm 1865, trong lòng chàng sinh viên Henryk Sienkiewicz 19 tuổi đã nảy mầm ý định xây dựng một tiểu thuyết xứng tầm với cuộc đụng đầu lịch sử xảy ra hồi đầu thế kỷ XV giữa liên minh Ba Lan – Litva với Giáo đoàn Thánh chiến.
Sau
Quo vadis
, ông dồn hết tâm huyết vào viết
Hiệp sĩ Thánh chiến
. Công việc sáng tác kéo dài ròng rã bốn năm trời, và nhà văn đã cho đăng dần tác phẩm trên các tờ báo Ba Lan, mãi đến năm 1900 mới in thành sách.
Dịch giả Nguyễn Hữu Dũng (thứ 2 từ trái qua) cùng hai biên tập viên của Đông A
Sách có dung lượng khá lớn, chia thành 2 tập với hơn 600 trang mỗi tập, có các minh họa đẹp mắt giúp độc giả dễ theo dõi diễn biến truyện. Được biên tập chỉn chu, cuốn sách cũng được thiết kế bìa mềm, thuận tiện cho người đọc và góp phần giảm giá thành sách để ai cũng có thể tiếp cận với tác phẩm đầy ý nghĩa này.
Dịch giả Nguyễn Hữu Dũng là PGS-TS về động lực học, chuyên ngành động cơ đốt trong, từng có nhiều năm giảng dạy ở Trường Đại học Thủy sản và công tác tại Vụ Khoa học Công nghệ Bộ Thủy sản. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, ông đã được bạn đọc biết đến trong vai trò dịch giả – người có công giới thiệu nhiều tác phẩm Ba Lan đến với độc giả Việt Nam, tiêu biểu như T
rên sa mạc và trong rừng thẳm, Đường công danh của Nikodem Dyzma, Con hủi…
Dịch giả Nguyễn Hữu Dũng đã dành ròng rã 30 năm để hoàn thành việc chuyển ngữ tác phẩm “Hiệp sĩ Thánh chiến”
Theo chia sẻ của dịch giả Nguyễn Hữu Dũng, tác phẩm
Hiệp sĩ Thánh chiến
đã được dịch ra trên bốn mươi thứ tiếng, được dựng thành bộ phim dài hai tập rất công phu, chiếm được sự hâm mộ của nhiều thế hệ người đọc và người xem khắp thế giới.
“Tôi đã dành thời gian suốt 30 năm (1990 – 2020) để dịch tác phẩm kinh điển này từ ấn bản toàn tập tác phẩm Henryk Sienkiewicz do Panstwowy Instyut Wydawniczy xuất bản năm 1948 tại Warszawa, giáo sư Julian Krzyanowski chủ biên”.
Có mặt tại chương trình giao lưu, ông Alexander Nowakowski, Bí thứ thứ 3, Đại sứ quán Ba Lan, trân trọng và đánh giá cao nỗ lực và tâm huyết của dịch giả Nguyễn Hữu Dũng cũng như các dịch giả đã chuyển ngữ nhiều tác phẩm văn học Ba Lan sang tiếng Việt.
Theo ông, sau năm 1905, khi nhà văn Henryk Sienkiewicz đoạt giải Nobel Văn học, phong trào văn học ở Ba Lan phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, nhiều tác giả Ba Lan nổi tiếng đã viết nên những tác phẩm có giá trị, được vinh danh tại giải Nobel Văn học như: Władysław Reymont (1924), Isaac Bashevis Singer (1978, Yiddish), Czesław Miłosz (1980), Wisława Szymborska (1996) và Olga Tokarczuk (2018, 2019).
Ông Alexander Nowakowski, Bí thứ thứ ba, Đại sứ quán Ba Lan đánh giá cao tâm huyết và sự nỗ lực của các dịch giả trong việc vun đắp cho tình hữu nghị giữa hai nước Việt Nam và Ba Lan
Ngoài ra, cũng có nhiều tác giả Ba Lan khác mà người Việt Nam biết đến và được đọc rất nhiều. Ông Alexander Nowakowski cho rằng, hiện nay, trong giới trẻ Việt Nam có nhiều người thích đọc tác phẩm văn học Ba Lan được dịch ra tiếng Anh, vậy nên, sẽ rất là tiện nếu độc giả được tiếp cận những tác phẩm đó thông qua tiếng Việt.
“Việc chuyển ngữ các tác phẩm văn học Ba Lan sang tiếng Việt cũng là nền tảng để xây dựng mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai quốc gia. 70 năm quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Ba Lan và Việt Nam sẽ không thể nào hoàn chỉnh nếu không nhờ những bản dịch, những tiếp cận đến những tác phẩm văn học Ba Lan như hiện tại”, ông Alexander Nowakowski cho biết.
Nhà văn Bích Ngân chia sẻ tại chương trình
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TPHCM, cho rằng, việc giới thiệu tác giả tác phẩm văn học có giá trị của nhân loại cho độc giả Việt Nam là hoạt động hết sức sôi động của nhiều dịch giả, các công ty sách, nhà xuất bản, nhà đầu tư, nhằm đem lại không chỉ tri thức mà còn là cầu nối cảm xúc về các giá trị nhân văn giữa các nền văn học, các nền văn minh của nhân loại.
HỒ SƠN
|
After 30 years of hard work, translator Nguyen Huu Dung has completed the translation of the classic work
Holy War Knight
by Polish writer Henryk Sienkiewicz, winner of the Nobel Prize for Literature in 1905. The work has also just been introduced to Vietnamese readers by Dong A in association with the Literature Publishing House.
On October 17, at the hall of the Ho Chi Minh City Writers' Association, an exchange and conversation with translator Nguyen Huu Dung took place on the occasion of the work's launch.
Holy War Knight
by Polish writer Henryk Sienkiewicz (1846-1916).
Writer Henryk Sienkiewicz was born in Wola Okrzejska (
Poland
) in a family of noble origin. He studied law and medicine before focusing on his writing career.
The works of writer Henryk Sienkiewicz were recently published by Dong A
Vietnamese readers have known Henryk Sienkiewicz's talent through his masterpieces:
Quo vadis, In the desert and in the deep forest, Hania, On the bright shore
… However, in his literary life, no work was conceived as long as the historical novel The Holy Knight (Krzyżacy).
As early as 1865, in the heart of 19-year-old student Henryk Sienkiewicz, the idea of building a novel worthy of the historical confrontation that occurred in the early 15th century between the Polish-Lithuanian alliance and the Holy Congregation was born. war.
After
Quo vadis
, he put all his heart and soul into writing
Holy War Knight
. The work of writing lasted four years, and the writer gradually published his work in Polish newspapers, until 1900 when it was published as a book.
Translator Nguyen Huu Dung (second from left) with two editors of Dong A
The book has quite a large capacity, divided into 2 volumes with more than 600 pages each, with beautiful illustrations to help readers easily follow the story's progress. Carefully edited, the book is also designed with a soft cover, convenient for readers and contributing to reducing book prices so that everyone can access this meaningful work.
Translator Nguyen Huu Dung is an Associate Professor-PhD in dynamics, majoring in internal combustion engines, and has taught for many years at the University of Fisheries and worked at the Department of Science and Technology of the Ministry of Fisheries. Since the 80s of the twentieth century, he has been known to readers as a translator - the person who was instrumental in introducing many Polish works to Vietnamese readers, typically T
In the desert and in the deep forest, Nikodem Dyzma's career path, The leper...
Translator Nguyen Huu Dung spent 30 years completing the translation of the work "Holy Knight"
According to translator Nguyen Huu Dung, the work
Holy War Knight
has been translated into more than forty languages, made into a very elaborate two-episode film, winning the admiration of many generations of readers and viewers around the world.
"I spent 30 years (1990 - 2020) translating this classic work from the complete edition of Henryk Sienkiewicz's works published by Panstwowy Instyut Wydawniczy in 1948 in Warsaw, edited by Professor Julian Krzyanowski."
Present at the exchange program, Mr. Alexander Nowakowski, 3rd Secretary, Polish Embassy, appreciated and appreciated the efforts and enthusiasm of translator Nguyen Huu Dung as well as the translators who have translated many works. Polish literary works into Vietnamese.
According to him, after 1905, when writer Henryk Sienkiewicz won the Nobel Prize for Literature, the literary movement in Poland developed strongly. In particular, many famous Polish authors have written valuable works and were honored with the Nobel Prize in Literature such as: Władysław Reymont (1924), Isaac Bashevis Singer (1978, Yiddish), Czesław Miłosz (1980) , Wisława Szymborska (1996) and Olga Tokarczuk (2018, 2019).
Mr. Alexander Nowakowski, Third Secretary, Polish Embassy highly appreciated the enthusiasm and efforts of the translators in cultivating the friendship between Vietnam and Poland.
In addition, there are also many other Polish authors that Vietnamese people know and read a lot. Mr. Alexander Nowakowski said that currently, many Vietnamese youth like to read Polish literary works translated into English, so it would be very convenient if readers could access those works through English translation. Vietnamese.
“The translation of Polish literary works into Vietnamese is also the foundation for building a friendly and cooperative relationship between the two countries. 70 years of friendly and cooperative relations between Poland and Vietnam would not be complete without the current translations and access to Polish literary works," said Mr. Alexander Nowakowski.
Writer Bich Ngan shared at the program
Writer Bich Ngan, Chairman of the Ho Chi Minh City Writers Association, said that introducing authors of valuable literary works of humanity to Vietnamese readers is a very exciting activity of many translators and companies. Books, publishers, investors, to bring not only knowledge but also an emotional bridge about human values between literatures and civilizations of humanity.
HO SON
|
Việt Nam
được độc giả tạp chí du lịch danh tiếng The Travel của
Canada
vinh danh là một trong những quốc gia có nền văn hóa ẩm thực tuyệt vời nhất thế giới.
The Travel nhận định: “Mặc dù có nhiều làng chài và hải sản cực phổ biến nhưng du khách có thể tìm thấy nhiều hơn thế khi tới Việt Nam. Trên thực tế, sự đa dạng của các món ăn sẽ khiến nhiều người bối rối”.
Du khách không nên bỏ qua cơ hội thưởng thức một tô phở ngay tại chính quê hương của nó. Ảnh: Vietnam Guide
Tạp chí đề xuất với những du khách lần đầu tới Việt Nam không thể bỏ qua việc thưởng thức một tô phở trứ danh. Phở được bán trên khắp mọi miền của dải đất hình chữ S. Du khách có thể lựa chọn ăn phở gà hoặc phở bò với giá dao động khoảng 30.000 đến 50.000 đồng.
Ngoài ra, The Travel còn gợi ý du khách có thể thưởng thức thêm nem (chả giò) và bánh mì trong thời gian ở Việt Nam.
Ngoài phở, nem và bánh mì cũng là hai món ăn được The Travel đề xuất.
Thái Lan
và
Philippines
là hai quốc gia Đông Nam Á khác cũng có mặt trong danh sách. Bảy quốc gia còn lại là:
Mỹ
,
Đức
,
Italy
,
Hy Lạp
,
Mexico
,
Tây Ban Nha
và
Ấn Độ
.
Ẩm thực Việt Nam đã được thế giới biết đến nhiều hơn trong vài thập kỷ qua, được nhiều đầu bếp quốc tế và các tạp chí ẩm thực uy tín ca ngợi những món ăn mang đậm hương vị. Mới đây, tạp chí ẩm thực danh tiếng Tasting Table cũng đã có bài giới thiệu về bánh xèo và nem lụi Huế, hai đặc sản Việt mà chưa nhiều du khách biết tới.
Đỗ An
(Theo The Travel)
|
Vietnam
recognized by readers of The Travel's prestigious travel magazine
Canada
honored as one of the countries with the best culinary cultures in the world.
The Travel commented: “Although there are many fishing villages and extremely popular seafood, tourists can find much more when coming to Vietnam. In fact, the variety of dishes will confuse many people."
Tourists should not miss the opportunity to enjoy a bowl of pho right in its homeland. Photo: Vietnam Guide
The magazine recommends that first-time visitors to Vietnam not to miss enjoying a bowl of famous pho. Pho is sold in all parts of the S-shaped strip of land. Visitors can choose to eat chicken pho or beef pho with prices ranging from 30,000 to 50,000 VND.
In addition, The Travel also suggests that visitors can enjoy spring rolls and banh mi during their time in Vietnam.
Besides pho, spring rolls and banh mi are also two dishes recommended by The Travel.
Thailand
and
Philippines
are two other Southeast Asian countries also on the list. The remaining seven countries are:
America
,
Virtue
,
Italy
,
Greek
,
Mexico
,
Spain
and
India
.
Vietnamese cuisine has become more known to the world in the past few decades, with many international chefs and prestigious culinary magazines praising its flavorful dishes. Recently, the famous culinary magazine Tasting Table also had an article introducing Hue banh xeo and spring rolls, two Vietnamese specialties that not many tourists know about.
Do An
(According to The Travel)
|
Trưa 20/10, Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob cùng đoàn đại biểu cấp cao
Singapore
đã rời
TP Hồ Chí Minh
, kết thúc tốt đẹp chuyến thăm cấp Nhà nước tới
Việt Nam
từ ngày 16 đến 20/10/2022.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Tổng thống Cộng hòa Singapore Halimah Yacob, chiều 17/10. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Trong khuôn khổ chuyến thăm, Tổng thống Singapore Halimah Yacob đã có nhiều hoạt động quan trọng: Đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, dự lễ đón chính thức, hội đàm với Chủ tịch nước và chứng kiến lễ ký kết; chào xã giao Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; hội kiến Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.
Cùng với đó, Tổng thống Singapore Halimah Yacob đã tiếp Bí thư Thành ủy Hà Nội, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh; thăm Khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh.
Tại buổi tiếp Tổng thống Singapore Halimah Yacob đến chào xã giao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh Tổng thống Halimah Yacob và Đoàn đại biểu cấp cao Singapore thăm chính thức cấp Nhà nước đến Việt Nam, cho rằng chuyến thăm là biểu hiện sinh động của mối quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và Singapore, đặt dấu dấu mốc mới đưa quan hệ giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu trong bối cảnh tiến tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược vào năm 2023.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, Việt Nam hết sức coi trọng quan hệ Đối tác chiến lược với Singapore, đề nghị hai nước phát huy hiệu quả tiềm năng hợp tác to lớn thông qua tăng cường trao đổi, tiếp xúc cấp cao và các cấp trên tất cả các kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân; nâng cao hiệu quả hợp tác thương mại, đầu tư, tạo điều kiện cho phục hồi kinh tế sau đại dịch.
Hội kiến với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, các lãnh đạo đều bày tỏ vui mừng trước sự phát triển mạnh mẽ, năng động của hai nước, đặc biệt là trong hợp tác kinh tế; nhất trí tăng cường trao đổi đoàn cấp cao. Các nhà lãnh đạo chia sẻ ý kiến về hai lĩnh vực hợp tác có nhiều cơ hội, cùng những thách thức hiện nay, đó là chuyển đổi năng lượng và chuyển đổi số; về việc làm sao để cân bằng lợi ích của chuyển đổi năng lượng với chi phí mà nền kinh tế, người dân, doanh nghiệp phải bỏ ra.
Tại hội đàm giữa Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thống Singapore Halimah Yacob diễn ra sáng 17/10, hai nhà lãnh đạo bày tỏ hài lòng về những bước phát triển mạnh mẽ, năng động trong quan hệ song phương, nhất là về hợp tác kinh tế. Cùng với đó, hợp tác quốc phòng-an ninh, văn hóa, giáo dục, giao lưu nhân dân… phát triển tích cực.
Trao đổi về phương hướng hợp tác lớn trong thời gian tới, hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường trao đổi đoàn cấp cao, duy trì hiệu quả các cơ chế hợp tác quan trọng trên các kênh Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và giao lưu nhân dân, hợp tác doanh nghiệp; phối hợp triển khai tốt các hoạt động kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm thiết lập Đối tác chiến lược vào năm 2023; không ngừng mở rộng trụ cột hợp tác kinh tế; thúc đẩy hợp tác quốc phòng, an ninh, trong đó có triển khai hiệu quả Hiệp định về hợp tác quốc phòng song phương ký tháng 2/2022 và Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực an ninh mạng ký kết nhân chuyến thăm này.
Hai bên đánh giá cao việc ký kết Bản ghi nhớ Hợp tác theo Điều 6 Thỏa thuận Paris nhân chuyến thăm này, giúp gửi thông điệp mạnh mẽ tới Hội nghị COP 27 về cam kết của hai nước phát triển kinh tế xanh, bền vững. Nhân dịp này, hai bên nhất trí nghiên cứu xây dựng “Quan hệ Đối tác kinh tế số – kinh tế xanh Việt Nam – Singapore” trong thời gian tới.
Trao đổi về tình hình khu vực và quốc tế, hai nhà lãnh đạo tái khẳng định lập trường nhất quán của ASEAN về Biển Đông và tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; giải quyết hòa bình các tranh chấp, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982.
Sau hội đàm, hai nhà lãnh đạo đã chứng kiến Lễ ký kết một số văn kiện hợp tác gồm: Bản ghi nhớ về Hợp tác năng lượng, Bản ghi nhớ về hợp tác theo Điều 6 Thỏa thuận Paris, Bản ghi nhớ về hợp tác an ninh mạng, phòng chống tội phạm mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân và Bản ghi nhớ về hợp tác kỹ thuật và giáo dục, đào tạo nghề; Lễ trao Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Vĩnh Thạnh (giai đoạn 1), thành phố Cần Thơ.
Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Singapore Halimah Yacob là chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên của một nguyên thủ nước ngoài tới Việt Nam kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ XIII và là chuyến công du nước ngoài đầu tiên của Tổng thống Singapore kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Chuyến thăm góp phần củng cố tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác nhiều mặt như chính trị-ngoại giao, quốc phòng-an ninh, kinh tế, đầu tư, lao động, công nghệ…; đặc biệt là đưa hợp tác kết nối hai nền kinh tế Việt Nam-Singapore hướng tới tầm cao mới là “kết nối hai nền kinh tế trên nền tảng số”.
|
On the afternoon of October 20, President of the Republic of Singapore Halimah Yacob and a high-ranking delegation
Singapore
has left
Ho Chi Minh City
, successfully ending the upcoming State visit
Vietnam
from October 16 to October 20, 2022.
Prime Minister Pham Minh Chinh received President of the Republic of Singapore Halimah Yacob on the afternoon of October 17. Photo: Duong Giang/TTXVN
During the visit, Singapore President Halimah Yacob had many important activities: Laying a wreath and visiting President Ho Chi Minh's Mausoleum, attending the official welcoming ceremony, holding talks with the President and witnessing the signing ceremony. ; paid a courtesy visit to General Secretary Nguyen Phu Trong; Meeting with Prime Minister Pham Minh Chinh and Chairman of the National Assembly Vuong Dinh Hue.
Along with that, Singapore President Halimah Yacob received the Secretary of the Hanoi Party Committee and the Secretary of the Ho Chi Minh City Party Committee; Visit VSIP Bac Ninh Industrial Park.
At the meeting with Singapore President Halimah Yacob to pay a courtesy visit, General Secretary Nguyen Phu Trong welcomed President Halimah Yacob and the high-ranking Singapore delegation to pay an official state-level visit to Vietnam, saying that the visit was a sign of life. of the good friendship and cooperation between Vietnam and Singapore, marking a new milestone to deepen the relationship between the two countries in the context of the 50th anniversary of establishing diplomatic relations. and 10 years of establishing a strategic partnership by 2023.
General Secretary Nguyen Phu Trong affirmed that Vietnam attaches great importance to the strategic partnership with Singapore, suggesting that the two countries effectively promote their great cooperation potential through increased exchanges and high-level contacts. at all levels across all channels of the Party, Government, National Assembly and people; improve the effectiveness of trade and investment cooperation, creating conditions for economic recovery after the pandemic.
Meeting with Prime Minister Pham Minh Chinh and National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue, the leaders all expressed their joy at the strong and dynamic development of the two countries, especially in economic cooperation; agreed to increase the exchange of high-level delegations. The leaders shared their opinions on two areas of cooperation with many opportunities and current challenges, which are energy transition and digital transformation; about how to balance the benefits of energy transition with the costs that the economy, people and businesses have to pay.
At the talks between President Nguyen Xuan Phuc and Singapore President Halimah Yacob held on the morning of October 17, the two leaders expressed satisfaction with the strong and dynamic developments in bilateral relations, especially in economic Cooperation. Along with that, defense-security cooperation, culture, education, people-to-people exchanges... develop positively.
Discussing major cooperation directions in the coming time, the two sides agreed to continue increasing the exchange of high-level delegations, effectively maintaining important cooperation mechanisms across Party, State, Government, and International channels. associations and people-to-people exchanges, business cooperation; coordinate well to implement activities commemorating the 50th anniversary of establishing diplomatic relations and 10 years of establishing a strategic partnership in 2023; constantly expand the pillars of economic cooperation; promoting defense and security cooperation, including effectively implementing the Agreement on bilateral defense cooperation signed in February 2022 and the Memorandum of Understanding on cooperation in the field of cybersecurity signed during this visit .
The two sides highly appreciated the signing of the Memorandum of Cooperation under Article 6 of the Paris Agreement during this visit, helping to send a strong message to COP 27 about the two countries' commitment to green, sustainable economic development. On this occasion, the two sides agreed to research and build the "Digital Economy - Green Economy Partnership between Vietnam and Singapore" in the near future.
Discussing the regional and international situation, the two leaders reaffirmed ASEAN's consistent stance on the East Sea and the importance of maintaining peace, security, stability, safety, and freedom of navigation. maritime and aviation; peacefully resolve disputes in accordance with international law, including the 1982 United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS).
After the talks, the two leaders witnessed the signing ceremony of a number of cooperation documents including: Memorandum of Understanding on Energy Cooperation, Memorandum of Cooperation under Article 6 of the Paris Agreement, Memorandum of Understanding on Cooperation cybersecurity, cybercrime prevention, personal data protection and a Memorandum of Understanding on technical cooperation and vocational education and training; Awarding ceremony of Decision approving the investment policy of the project to build and operate infrastructure of Vinh Thanh industrial park (phase 1), Can Tho city.
Singapore President Halimah Yacob's visit to Vietnam is the first state-level visit by a foreign head of state to Vietnam since the 13th Party Congress and the first foreign trip of a Singapore President since then. since the COVID-19 pandemic broke out. The visit contributes to strengthening political trust, promoting cooperation in many aspects such as politics-diplomacy, defense-security, economics, investment, labor, technology...; especially bringing cooperation to connect the two economies of Vietnam and Singapore towards a new level of "connecting the two economies on a digital platform".
|
Báo cáo tiêu chí của COP27 về cung cấp tài chính cho hành động khí hậu dự kiến sẽ hỗ trợ cho các hoạt động, lĩnh vực và quốc gia đang có nhu cầu cấp thiết nhất.
Ông Mahmoud Mohieldin thông báo COP27 đang chuẩn bị báo cáo về cung cấp tài chính cho hành động khí hậu thuộc khu vực công và tư. (Nguồn: Climate Champions)
Ngày 19/10, ông Mahmoud Mohieldin, Đại diện cấp cao về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (LHQ) tại
Ai Cập
, cho biết Hội nghị lần thứ 27 Các bên tham gia Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu (COP27) đang chuẩn bị một tài liệu về các tiêu chí cung cấp tài chính cho hành động khí hậu thuộc khu vực công và tư.
Phát biểu tại một hội nghị thường niên của Đại học Benha (Ai Cập), ông Mohieldin thông báo, các tiêu chí này của COP27 dự kiến sẽ xác định các khoản đầu tư vào các hoạt động, lĩnh vực và quốc gia đang có nhu cầu cấp thiết nhất, đồng thời thúc đẩy các nước công nghiệp phát triển thực hiện các cam kết của mình.
Theo ông Mohieldin – người đồng thời là Đặc phái viên LHQ về tài trợ cho Chương trình phát triển bền vững 2030, những sáng kiến và dự án khí hậu tốt nhất sẽ được hưởng lợi từ quỹ tài chính 130.000 tỷ USD, theo cam kết với liên minh Tài chính Glasgow về cân bằng khí thải.
Trước đó, vào đầu tháng 10, ông Wael Aboulmagd, Đại diện đặc biệt của Ai Cập – nước Chủ tịch COP27, tiết lộ hơn 90 nguyên thủ quốc gia đã xác nhận tham dự hội nghị này. Sự kiện dự kiến diễn ra vào tháng 11 tới, tại thành phố Sharm El-Sheikh bên bờ Biển Đỏ.
Ngoài ra, ông Aboulmagd cũng cho biết, trong ngày 7-8/11, hội nghị bàn tròn các nhà lãnh đạo sẽ thảo luận về các chủ đề như việc phát triển hydro xanh, vấn đề nước và an ninh lương thực, chuyển đổi năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo và các cộng đồng dễ bị tổn thương.
Các chủ đề bao gồm một số ưu tiên của Ai Cập, khi Cairo cố gắng đảm bảo nguồn tài chính của các nước đang phát triển trong việc thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu.
(theo Egypt Today)
|
The COP27 Criteria Report on Financing Climate Action is expected to support the activities, sectors and countries with the most urgent need.
Mr. Mahmoud Mohieldin announced that COP27 is preparing a report on financing climate action in the public and private sectors. (Source: Climate Champions)
On October 19, Mr. Mahmoud Mohieldin, High Representative on Climate Change of the United Nations (UN) in
Egypt
, said the 27th Conference of the Parties to the UN Framework Convention on Climate Change (COP27) is preparing a document on the criteria for financing climate action in the public and private sectors .
Speaking at an annual conference of Benha University (Egypt), Mr. Mohieldin announced that these COP27 criteria are expected to identify investments in activities, fields and countries in need. the most urgent needs, while at the same time encouraging industrialized countries to implement their commitments.
According to Mr. Mohieldin - who is also the UN Special Envoy on financing the 2030 Sustainable Development Agenda, the best climate initiatives and projects will benefit from the 130,000 billion USD financial fund, as committed to Glasgow Finance Alliance on emissions balancing.
Previously, in early October, Mr. Wael Aboulmagd, Special Representative of Egypt - COP27 President, revealed that more than 90 heads of state had confirmed their attendance at this conference. The event is scheduled to take place next November, in the city of Sharm El-Sheikh on the Red Sea coast.
In addition, Mr. Aboulmagd also said that on November 7-8, the roundtable of leaders will discuss topics such as green hydrogen development, water and food security issues, and transformation. fossil energy to renewable energy and vulnerable communities.
Topics include some of Egypt's priorities, as Cairo tries to secure developing countries' financing in adapting to the impacts of climate change.
(according to Egypt Today)
|
Nghị quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển
tỉnh Khánh Hòa
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định mục tiêu đến năm 2030 Khánh Hòa trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch biển quốc tế; là một cực tăng trưởng, trung tâm của khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và cả nước. Tỉnh Khánh Hòa đang tập trung thực hiện nhiều nhóm giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, du lịch biển; bảo đảm môi trường phát triển du lịch bền vững.
Một góc Khu kinh tế Vân Phong – nơi được quy hoạch là trung tâm dịch vụ du lịch và vui chơi giải trí tổng hợp cao cấp.
Nha Trang-Khánh Hòa là địa chỉ được khách du lịch trong và ngoài nước quan tâm với những tua du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí gắn liền với biển, đảo, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cơ sở nghiên cứu khoa học… Cùng với đó, khí hậu ôn hòa, cảnh quan tươi đẹp và con người thân thiện đã tạo cho du lịch biển, đảo Nha Trang-Khánh Hòa một nét sắc thái độc đáo, riêng biệt.
Từng bước khẳng định thương hiệu
Tại Nghị quyết số 09-NQ/TW, Bộ Chính trị đánh giá, thời gian gần đây, Khánh Hòa đã khai thác và phát huy tương đối tốt các tiềm năng, lợi thế, nhất là lợi thế về biển trong phát triển kinh tế-xã hội. Với hệ thống đô thị ven biển được hình thành tương đối hiện đại, du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Khánh Hòa đang trở thành trung tâm du lịch biển quốc gia, có thương hiệu quốc tế, từng bước trở thành một cực tăng trưởng trong khu vực. Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, kết quả mang lại từ dịch vụ, du lịch biển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế to lớn của Khánh Hòa. Sản phẩm du lịch biển chưa đa dạng; quy hoạch của một số bãi biển đẹp, danh lam thắng cảnh chưa thật sự phù hợp; kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu, chưa đồng bộ; chưa hình thành được một hệ thống kinh tế biển liên hoàn, hiệu quả… Cũng tại Nghị quyết số 09-NQ/TW nêu trên, về điểm yếu, Bộ Chính trị đánh giá vắn tắt: Du lịch Khánh Hòa phát triển chưa bền vững.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Khánh Hòa ban hành chương trình hành động, trong đó, xác định: Về phát triển dịch vụ, du lịch, tỉnh tập trung phát triển ngành dịch vụ theo hướng đa dạng; có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; là điểm tựa vững chắc cho sản xuất, trong đó chú trọng phát triển dịch vụ logistics, kinh tế số theo hướng đổi mới sáng tạo và số hóa, công nghệ hóa phương thức kinh doanh.
Đồng chí Nguyễn Tấn Tuân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa cho biết, tỉnh tập trung đầu tư mạnh để khu vực dịch vụ có khả năng tiếp cận với trình độ hiện đại, bảo đảm hội nhập quốc tế và khu vực. Cụ thể là hình thành các trung tâm thương mại tầm cỡ quốc gia, quốc tế; đầu tư, xây dựng hệ thống kho vận, hệ thống logistics, trong đó đẩy nhanh tiến độ đầu tư mở rộng và khai thác có hiệu quả Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh, cảng hàng hóa, cảng tổng hợp, cảng du lịch chuyên dụng… Để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hướng tới đẳng cấp quốc tế, tỉnh chú trọng các sản phẩm du lịch có đẳng cấp, chất lượng cao, đa dạng, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc gắn với du lịch biển, đảo, du lịch núi rừng, sinh thái cộng đồng, du lịch di sản văn hóa, tâm linh và du lịch chăm sóc sức khỏe.
Thực tế cho thấy, dịch vụ, du lịch biển Nha Trang-Khánh Hòa gắn với các khu vực vịnh Cam Ranh, vịnh Nha Trang và vịnh Vân Phong. Từ nhiều năm nay, xác định các khu vực này là vùng động lực phát triển của tỉnh, Khánh Hòa đã tập trung xây dựng, ban hành nhiều cơ chế, chính sách, bố trí nguồn lực và thu hút đầu tư để đẩy mạnh phát triển. Đến nay, ba khu vực này đang từng bước thể hiện được vị thế của mình trong phát triển kinh tế-xã hội.
Riêng khu vực vịnh Vân Phong, đồng chí Nguyễn Trọng Hoàng, Trưởng ban Quản lý Khu kinh tế Vân Phong cho biết, hiện Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa đang trình Thủ tướng Chính phủ thẩm định, phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050 với tính chất là trung tâm dịch vụ du lịch và vui chơi giải trí tổng hợp cao cấp, có những sản phẩm dịch vụ, du lịch độc đáo, khác biệt, hiện đại với chất lượng cao, có thương hiệu và khả năng cạnh tranh quốc tế.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng duyên hải Nam Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thành phố Nha Trang là Đô thị du lịch, Khu du lịch Bắc Bán đảo Cam Ranh là Khu du lịch quốc gia, Trường Sa là Điểm du lịch quốc gia. Mới đây, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị cho phép tỉnh Khánh Hòa được thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc thù, trong đó có cơ chế khuyến khích và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực du lịch biển đảo, dịch vụ vận tải biển, đô thị ven biển. Đây được coi là bước ngoặt mới trong phát triển dịch vụ, du lịch biển, đảo của Khánh Hòa.
Khu du lịch bắc bán đảo Cam Ranh – được xác định trở thành Khu du lịch quốc gia.
Nhiều việc phải làm
Đồng chí Nguyễn Thị Lệ Thanh, Giám đốc Sở Du lịch tỉnh Khánh Hòa cho biết, Khánh Hòa phát triển mạnh các loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo chất lượng cao kết hợp vui chơi giải trí, tham quan, thể thao mạo hiểm và khám phá đại dương ở không gian ven biển. Đặc biệt, trong những năm gần đây, du lịch sinh thái ở khu vực phía tây
Nha Trang
được quan tâm đầu tư khai thác, kết nối với du lịch biển, đảo đã và đang tạo nên một diện mạo mới cho phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa. Thực hiện mục tiêu định hướng đến năm 2030 đưa Khánh Hòa trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch biển mang tầm vóc quốc tế, ngành du lịch tập trung các giải pháp như: ưu tiên đầu tư và khuyến khích mọi nguồn lực tham gia đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; khuyến khích phát triển sản phẩm mới, sản phẩm đặc thù, sản phẩm dịch vụ mang tính độc đáo, bền vững; xây dựng và triển khai thu hút đầu tư các dự án có quy mô lớn phù hợp quy hoạch tại khu kinh tế Vân Phong, tạo sức lan tỏa của cả tỉnh, khu vực cũng như cả nước.
“Chúng tôi tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp: quy hoạch, phát triển hạ tầng; cải thiện môi trường đầu tư, nhằm huy động mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế biển theo hướng ưu tiên trước hết cho dịch vụ du lịch biển, đảo chất lượng cao, hướng tới sự chọn lọc, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, từ đó từng bước chủ động cơ cấu được các dòng khách đến với Nha Trang-Khánh Hòa; tập trung bảo đảm môi trường phát triển du lịch bền vững”, đồng chí Nguyễn Thị Lệ Thanh nhấn mạnh.
Tỉnh Khánh Hòa đang kiến nghị Chính phủ xem xét, có cơ chế hỗ trợ thu hút đầu tư phát triển hạ tầng giao thông kết nối để tạo động lực thu hút đầu tư du lịch tại ba vùng động lực phát triển của tỉnh; xem xét bổ sung Khánh Hòa vào danh mục các địa phương được phép thí điểm kéo dài thời gian tổ chức các hoạt động ban đêm đến 6 giờ sáng hôm sau theo đề án phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam.
Hiện nay, bảo vệ môi trường biển đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Mới đây, tại Hội thảo Báo chí truyền thông về phát triển kinh tế biển bền vững tại Nha Trang, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi khuyến nghị, để phát triển bền vững kinh tế biển, trước hết cần duy trì được nguồn vốn tự nhiên biển. Nhằm phát triển bền vững du lịch biển, hướng tới đẳng cấp quốc tế, trong các nhóm giải pháp của mình, Khánh Hòa chú trọng gắn phát triển du lịch với bảo tồn các giá trị thiên nhiên, xã hội của biển, đảo.
Bài và ảnh: PHONG NGUYÊN
|
Nghị quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển
tỉnh Khánh Hòa
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định mục tiêu đến năm 2030 Khánh Hòa trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch biển quốc tế; là một cực tăng trưởng, trung tâm của khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và cả nước. Tỉnh Khánh Hòa đang tập trung thực hiện nhiều nhóm giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, du lịch biển; bảo đảm môi trường phát triển du lịch bền vững.
Một góc Khu kinh tế Vân Phong – nơi được quy hoạch là trung tâm dịch vụ du lịch và vui chơi giải trí tổng hợp cao cấp.
Nha Trang-Khánh Hòa là địa chỉ được khách du lịch trong và ngoài nước quan tâm với những tua du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí gắn liền với biển, đảo, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cơ sở nghiên cứu khoa học… Cùng với đó, khí hậu ôn hòa, cảnh quan tươi đẹp và con người thân thiện đã tạo cho du lịch biển, đảo Nha Trang-Khánh Hòa một nét sắc thái độc đáo, riêng biệt.
Từng bước khẳng định thương hiệu
Tại Nghị quyết số 09-NQ/TW, Bộ Chính trị đánh giá, thời gian gần đây, Khánh Hòa đã khai thác và phát huy tương đối tốt các tiềm năng, lợi thế, nhất là lợi thế về biển trong phát triển kinh tế-xã hội. Với hệ thống đô thị ven biển được hình thành tương đối hiện đại, du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Khánh Hòa đang trở thành trung tâm du lịch biển quốc gia, có thương hiệu quốc tế, từng bước trở thành một cực tăng trưởng trong khu vực. Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, kết quả mang lại từ dịch vụ, du lịch biển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế to lớn của Khánh Hòa. Sản phẩm du lịch biển chưa đa dạng; quy hoạch của một số bãi biển đẹp, danh lam thắng cảnh chưa thật sự phù hợp; kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu, chưa đồng bộ; chưa hình thành được một hệ thống kinh tế biển liên hoàn, hiệu quả… Cũng tại Nghị quyết số 09-NQ/TW nêu trên, về điểm yếu, Bộ Chính trị đánh giá vắn tắt: Du lịch Khánh Hòa phát triển chưa bền vững.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Khánh Hòa ban hành chương trình hành động, trong đó, xác định: Về phát triển dịch vụ, du lịch, tỉnh tập trung phát triển ngành dịch vụ theo hướng đa dạng; có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; là điểm tựa vững chắc cho sản xuất, trong đó chú trọng phát triển dịch vụ logistics, kinh tế số theo hướng đổi mới sáng tạo và số hóa, công nghệ hóa phương thức kinh doanh.
Đồng chí Nguyễn Tấn Tuân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa cho biết, tỉnh tập trung đầu tư mạnh để khu vực dịch vụ có khả năng tiếp cận với trình độ hiện đại, bảo đảm hội nhập quốc tế và khu vực. Cụ thể là hình thành các trung tâm thương mại tầm cỡ quốc gia, quốc tế; đầu tư, xây dựng hệ thống kho vận, hệ thống logistics, trong đó đẩy nhanh tiến độ đầu tư mở rộng và khai thác có hiệu quả Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh, cảng hàng hóa, cảng tổng hợp, cảng du lịch chuyên dụng… Để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hướng tới đẳng cấp quốc tế, tỉnh chú trọng các sản phẩm du lịch có đẳng cấp, chất lượng cao, đa dạng, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc gắn với du lịch biển, đảo, du lịch núi rừng, sinh thái cộng đồng, du lịch di sản văn hóa, tâm linh và du lịch chăm sóc sức khỏe.
Thực tế cho thấy, dịch vụ, du lịch biển Nha Trang-Khánh Hòa gắn với các khu vực vịnh Cam Ranh, vịnh Nha Trang và vịnh Vân Phong. Từ nhiều năm nay, xác định các khu vực này là vùng động lực phát triển của tỉnh, Khánh Hòa đã tập trung xây dựng, ban hành nhiều cơ chế, chính sách, bố trí nguồn lực và thu hút đầu tư để đẩy mạnh phát triển. Đến nay, ba khu vực này đang từng bước thể hiện được vị thế của mình trong phát triển kinh tế-xã hội.
Riêng khu vực vịnh Vân Phong, đồng chí Nguyễn Trọng Hoàng, Trưởng ban Quản lý Khu kinh tế Vân Phong cho biết, hiện Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa đang trình Thủ tướng Chính phủ thẩm định, phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050 với tính chất là trung tâm dịch vụ du lịch và vui chơi giải trí tổng hợp cao cấp, có những sản phẩm dịch vụ, du lịch độc đáo, khác biệt, hiện đại với chất lượng cao, có thương hiệu và khả năng cạnh tranh quốc tế.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng duyên hải Nam Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thành phố Nha Trang là Đô thị du lịch, Khu du lịch Bắc Bán đảo Cam Ranh là Khu du lịch quốc gia, Trường Sa là Điểm du lịch quốc gia. Mới đây, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị cho phép tỉnh Khánh Hòa được thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc thù, trong đó có cơ chế khuyến khích và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực du lịch biển đảo, dịch vụ vận tải biển, đô thị ven biển. Đây được coi là bước ngoặt mới trong phát triển dịch vụ, du lịch biển, đảo của Khánh Hòa.
Khu du lịch bắc bán đảo Cam Ranh – được xác định trở thành Khu du lịch quốc gia.
Nhiều việc phải làm
Đồng chí Nguyễn Thị Lệ Thanh, Giám đốc Sở Du lịch tỉnh Khánh Hòa cho biết, Khánh Hòa phát triển mạnh các loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo chất lượng cao kết hợp vui chơi giải trí, tham quan, thể thao mạo hiểm và khám phá đại dương ở không gian ven biển. Đặc biệt, trong những năm gần đây, du lịch sinh thái ở khu vực phía tây
Nha Trang
được quan tâm đầu tư khai thác, kết nối với du lịch biển, đảo đã và đang tạo nên một diện mạo mới cho phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa. Thực hiện mục tiêu định hướng đến năm 2030 đưa Khánh Hòa trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch biển mang tầm vóc quốc tế, ngành du lịch tập trung các giải pháp như: ưu tiên đầu tư và khuyến khích mọi nguồn lực tham gia đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; khuyến khích phát triển sản phẩm mới, sản phẩm đặc thù, sản phẩm dịch vụ mang tính độc đáo, bền vững; xây dựng và triển khai thu hút đầu tư các dự án có quy mô lớn phù hợp quy hoạch tại khu kinh tế Vân Phong, tạo sức lan tỏa của cả tỉnh, khu vực cũng như cả nước.
“Chúng tôi tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp: quy hoạch, phát triển hạ tầng; cải thiện môi trường đầu tư, nhằm huy động mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế biển theo hướng ưu tiên trước hết cho dịch vụ du lịch biển, đảo chất lượng cao, hướng tới sự chọn lọc, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, từ đó từng bước chủ động cơ cấu được các dòng khách đến với Nha Trang-Khánh Hòa; tập trung bảo đảm môi trường phát triển du lịch bền vững”, đồng chí Nguyễn Thị Lệ Thanh nhấn mạnh.
Tỉnh Khánh Hòa đang kiến nghị Chính phủ xem xét, có cơ chế hỗ trợ thu hút đầu tư phát triển hạ tầng giao thông kết nối để tạo động lực thu hút đầu tư du lịch tại ba vùng động lực phát triển của tỉnh; xem xét bổ sung Khánh Hòa vào danh mục các địa phương được phép thí điểm kéo dài thời gian tổ chức các hoạt động ban đêm đến 6 giờ sáng hôm sau theo đề án phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam.
Hiện nay, bảo vệ môi trường biển đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Mới đây, tại Hội thảo Báo chí truyền thông về phát triển kinh tế biển bền vững tại Nha Trang, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi khuyến nghị, để phát triển bền vững kinh tế biển, trước hết cần duy trì được nguồn vốn tự nhiên biển. Nhằm phát triển bền vững du lịch biển, hướng tới đẳng cấp quốc tế, trong các nhóm giải pháp của mình, Khánh Hòa chú trọng gắn phát triển du lịch với bảo tồn các giá trị thiên nhiên, xã hội của biển, đảo.
Bài và ảnh: PHONG NGUYÊN
|
Tưởng như chỉ dành riêng cho nam giới nhưng nhiều phụ nữ H’re ở
huyện Ba Tơ
(
tỉnh Quảng Ngãi
) lại say mê và sử dụng thành thạo chiêng Ba. Dưới bàn tay họ, tiếng chiêng vẫn vang lên trầm hùng giữa mênh mông rừng núi, tựa như âm thanh từ ngàn xưa vọng về.
Phụ nữ túc chinh
Bước vào tuổi 82 tuổi, sức yếu, bà Phạm Thị Sỹ (xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi) đã nghỉ hẳn chuyện nương rẫy. Phần lớn thời gian bà Sỹ chỉ ở nhà, quẩn quanh trên căn nhà sàn nhỏ.
Bà Phạm Thị Sỹ đánh chiêng Ba cùng ông Phạm Văn Nhót và anh Phạm Văn Rôm
Thấy khách đến nhà, rồi con trai bày biện bộ chiêng ra mà thiếu người chơi, bà Sỹ dùng tiếng H’re, nói với con trai là Phạm Văn Rôm đưa chiêng cho bà trong sự bất ngờ của nhiều người.
Dưới những nắm tay hằn đầy vết thời gian nhưng vung lên, hạ xuống đầy dứt khoát, tiếng chiêng Vông của bà Phạm Thị Sỹ hòa nhịp cùng tiếng chiêng Túc, chiêng Tum của Phạm Văn Rôm và người hàng xóm là Phạm Văn Nhót. Bộ chiêng Ba có đủ 3 người chơi phát ra những âm thanh trầm bổng, ngân vang giữa núi rừng.
Bà Phạm Thị Sỹ là một trong những phụ nữ hiếm hoi biết đánh chiêng.
“Đàn bà ở xóm này chỉ còn mỗi mẹ tôi là đánh được chiêng thôi, giờ không còn ai nữa. Họ già, chết hết rồi”- ông Rôm nói, giọng pha lẫn tự hào.
Chiêng Ba là nhạc cụ phổ biến nhất và mang tính đặc trưng tiêu biểu của của người H’re ở huyện Ba Tơ. Theo dân làng, gọi là chiêng Ba bởi lẽ bộ chiêng này có 3 chiếc. Ba chiếc chiêng (còn gọi là chinh) có kích cỡ không bằng nhau. Chiếc lớn có tên là chiêng Vông, chiếc nhỏ hơn là chiêng Tum, chiếc nhỏ nhất là chiêng Túc. Đánh chiêng thì gọi là túc chinh.
Khi trình diễn, chiêng Vông được để nghiêng, chiêng Tum để nằm, chiêng Túc treo trên dây. Chiêng Tum đóng vai trò giữ nhịp, chiêng Vông và chiêng Túc theo giai điệu. Chiêng Vông và chiêng Tum đánh bằng nắm tay trần, chiêng Túc đánh bằng nắm tay có quấn khăn để tiếng chiêng được ấm. Người đánh chiêng giỏi nhất sẽ đánh chiêng Túc, dẫn dàn chiêng diễn tấu theo đúng bài bản và nhịp điệu. Khi diễn tấu dàn chiêng 3 chiếc, người đánh chiêng ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển.
Người đánh chiêng ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển.
Được đúc bằng đồng, các chiếc chiêng đều khá nặng, nên việc đánh chiêng thường do đàn ông đảm nhận. Thế nhưng, vì say mê thứ âm thanh huyền bí và gắn bó máu thịt với dân tộc mình, nhiều người phụ nữ H’re vẫn tìm tòi, học cách sử dụng.
“Ngay từ nhỏ đã thuộc lòng nhiều làn điệu ta lêu, ca choi của người H’re, cứ mỗi dịp lễ hội, đám cưới…, hòa cùng tiếng chiêng Ba và các nhạc cụ khác, dân làng lại cùng nhau ca múa. Chiêng Ba làm nhiều người say mê, cả người đánh lẫn người nghe. Khi đánh chiêng thấy lòng vui sướng, quên hết mệt nhọc, lo âu. Ông chồng lúc còn sống cũng biết đánh chiêng”- bà Sỹ nói.
Bà Sỹ nhớ như in, thời niên thiếu, dẫu cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng nghe tiếng chiêng là lòng rộn ràng, háo hức, mọi người tập trung tìm đến. Thời gian, không gian đánh chiêng tùy thuộc vào gia chủ nhưng có lẽ thú vị nhất là khi đêm xuống.
Giữa bóng tối, người làng tập trung bên bếp lửa bập bùng trước sân nhà sàn, trai tráng có cơ bắp khỏe mạnh đánh chiêng Ba, các cô gái hát múa ta lêu, ca choi. Người làng cũng thả hồn theo tiếng chiêng ngân. Tập tục của đồng bào H’re là ăn Tết theo làng, theo xóm. Hôm nay có thể làng này, ngày mai làng khác. Tiếng chiêng theo đó cũng rộn vang khắp núi đồi.
“Chiêng Ba có từ rất lâu rồi, từ lúc sinh ra đã thấy. Chiêng Ba là độc nhất vô nhị của người H’re là vì nó đắt tiền. Nó đổi được bằng tiền, bạc, trâu, bò Chiêng được dùng trong dịp tết, cúng, dịp lễ tết, nói chung là ngày vui. Cha mẹ đều biết đánh chiêng. Khi cha mất có để lại cho 5 anh em mỗi người mỗi bộ chiêng, trai hay gái đều có. Con gái nếu không chơi thì để lại cho chồng, con, không được bán”- ông Phạm Văn Rôm kể.
Ngoài bà Sỹ, còn một số phụ nữ khác ở Ba Tơ cũng biết đánh chiêng Ba, nhưng phần lớn họ đều đã lớn tuổi. Bà Phạm Thị Đệ (xã Ba Thành), cứ nhớ về những đêm trăng sáng bàng bạc khắp núi rừng. Khi tiếng chiêng cất lên, bà lại hát điệu ca choi. Lời hát là tấm lòng của người con gái vừa trong lành vừa tha thiết, để những chàng trai rung động, ngỏ lời yêu. Thỉnh thoảng có dịp, bà Đệ cũng đánh chiêng, say mê và tự hào.
Gìn giữ cho mai sau
Người H’re ở Quảng Ngãi sinh sống chủ yếu ở các huyện Ba Tơ,
Sơn Hà
và
Minh Long
. Tuy nhiên, chỉ có người H’re ở huyện Ba Tơ mới biết trình diễn chiêng Ba và trở thành nét sinh hoạt văn hóa truyền thống. Tuyệt đại đa số chiêng của người H’re là dàn chiêng Ba chiếc được các gia đình lưu truyền, gìn giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác như báu vật của gia đình. Trải qua hàng trăm năm, tiếng chiêng Ba trở thành âm thanh quen thuộc và gắn bó với lớp lớp người H’re.
Chiêng Ba là tài sản quý đối với mỗi gia đình người H’re.
Theo quan niệm của người H’re, chiêng là vật thiêng. Họ không sử dụng chiêng trong đám tang. Những người trong năm gặp rủi ro, thì không được đánh chiêng trong những ngày vui của dân làng. Nếu được mời đánh chiêng, họ cũng từ chối… Khi sử dụng chiêng phải thực hiện nhiều nghi thức tín ngưỡng, đặc biệt là nghi thức cúng chiêng.
Chiêng Ba của người H’re ở Ba Tơ có âm thanh hoang sơ rất lạ, rất riêng. Từ tiết tấu, nhịp điệu đến sự phối âm, phối bè, sử dụng công phu tài tình, tinh tế của người đánh chiêng, có khởi đầu, có cao trào, có kết thúc, khi trầm hùng khi náo nức khi rạo rực thổn thức, lúc cao trào mạnh mẽ, dồn dập, thôi thúc. Ngày xưa, những bộ chiêng Ba quý hiếm có giá trị hàng chục con trâu, tiếng không chỉ thanh mà còn trầm ấm, tạo nên âm thanh nghe sang trọng, mạnh mẽ, náo nức lòng người.
Tấu chiêng Ba hấp dẫn và khiến nhiều người say mê đến vậy, nhưng rồi, cũng như các loại hình văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở nhiều nơi trên cả nước, hoạt động này đã bị thách thức bởi sự hòa nhập giữa văn hóa vùng cao với vùng đồng bằng.
“Phần lớn đánh chiêng là đàn ông, còn đàn bà biết đánh chiêng đều đã lớn tuổi. Mẹ tôi cũng biết, nhưng ít chơi. Bây giờ lớp trẻ ít người biết lắm, như tôi cũng chỉ biết sơ sơ thôi”- chị Phạm Thị Sung (xã Ba Thành) chia sẻ.
Phụ nữ H’re đánh chiêng Ba
Những năm gần đây, chính quyền địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc phục hồi và giữ gìn văn hóa của người H’re, trong đó có có chiêng Ba. Hiện nay, ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện Ba Tơ đều duy trì được nghệ thuật trình diễn chiêng ba, tiêu biểu nhất là ở xã Ba Vinh.
Người H’re huyện Ba Tơ rất coi trọng bộ chiêng Ba và cất giữ như tài sản quý. Hiện trên địa bàn huyện có khoảng 890 hộ gia đình có chiêng, với trên 900 bộ chiêng Ba và 740 người biết sử dụng. Năm 2021, nghệ thuật trình diễn chiêng Ba của người H’re ở Ba Tơ được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia
.
Theo ông Lê Cao Đỉnh- Phó Trưởng Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Ba Tơ, nghệ thuật trình diễn chiêng Ba của người H’re không chỉ là sinh hoạt văn hóa mà quan trọng hơn chính là lưu giữ những giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
“Thường ngày, họ bận rộn với ruộng đồng, nương rẫy cùng bao việc mưu sinh, nhưng sẵn lòng tham gia khi nghe lời mời đánh chiêng, tham dự các hội diễn văn nghệ quần chúng quảng bá chiêng Ba. Họ yêu nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình và mến người thích nghe tiếng chiêng. Tuy nhiên, vấn đề đáng lo ngại hiện nay là lớp trẻ ít quan tâm, trong khi đó những người am hiểu lại ngày càng già đi, nhiều người đã mất. Địa phương đã và đang nỗ lực tìm cách giữ gìn văn hóa quý giá này”- ông Đỉnh chia sẻ.
Đỗ Quyên
|
Tưởng như chỉ dành riêng cho nam giới nhưng nhiều phụ nữ H’re ở
huyện Ba Tơ
(
tỉnh Quảng Ngãi
) lại say mê và sử dụng thành thạo chiêng Ba. Dưới bàn tay họ, tiếng chiêng vẫn vang lên trầm hùng giữa mênh mông rừng núi, tựa như âm thanh từ ngàn xưa vọng về.
Phụ nữ túc chinh
Bước vào tuổi 82 tuổi, sức yếu, bà Phạm Thị Sỹ (xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi) đã nghỉ hẳn chuyện nương rẫy. Phần lớn thời gian bà Sỹ chỉ ở nhà, quẩn quanh trên căn nhà sàn nhỏ.
Bà Phạm Thị Sỹ đánh chiêng Ba cùng ông Phạm Văn Nhót và anh Phạm Văn Rôm
Thấy khách đến nhà, rồi con trai bày biện bộ chiêng ra mà thiếu người chơi, bà Sỹ dùng tiếng H’re, nói với con trai là Phạm Văn Rôm đưa chiêng cho bà trong sự bất ngờ của nhiều người.
Dưới những nắm tay hằn đầy vết thời gian nhưng vung lên, hạ xuống đầy dứt khoát, tiếng chiêng Vông của bà Phạm Thị Sỹ hòa nhịp cùng tiếng chiêng Túc, chiêng Tum của Phạm Văn Rôm và người hàng xóm là Phạm Văn Nhót. Bộ chiêng Ba có đủ 3 người chơi phát ra những âm thanh trầm bổng, ngân vang giữa núi rừng.
Bà Phạm Thị Sỹ là một trong những phụ nữ hiếm hoi biết đánh chiêng.
“Đàn bà ở xóm này chỉ còn mỗi mẹ tôi là đánh được chiêng thôi, giờ không còn ai nữa. Họ già, chết hết rồi”- ông Rôm nói, giọng pha lẫn tự hào.
Chiêng Ba là nhạc cụ phổ biến nhất và mang tính đặc trưng tiêu biểu của của người H’re ở huyện Ba Tơ. Theo dân làng, gọi là chiêng Ba bởi lẽ bộ chiêng này có 3 chiếc. Ba chiếc chiêng (còn gọi là chinh) có kích cỡ không bằng nhau. Chiếc lớn có tên là chiêng Vông, chiếc nhỏ hơn là chiêng Tum, chiếc nhỏ nhất là chiêng Túc. Đánh chiêng thì gọi là túc chinh.
Khi trình diễn, chiêng Vông được để nghiêng, chiêng Tum để nằm, chiêng Túc treo trên dây. Chiêng Tum đóng vai trò giữ nhịp, chiêng Vông và chiêng Túc theo giai điệu. Chiêng Vông và chiêng Tum đánh bằng nắm tay trần, chiêng Túc đánh bằng nắm tay có quấn khăn để tiếng chiêng được ấm. Người đánh chiêng giỏi nhất sẽ đánh chiêng Túc, dẫn dàn chiêng diễn tấu theo đúng bài bản và nhịp điệu. Khi diễn tấu dàn chiêng 3 chiếc, người đánh chiêng ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển.
Người đánh chiêng ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển.
Được đúc bằng đồng, các chiếc chiêng đều khá nặng, nên việc đánh chiêng thường do đàn ông đảm nhận. Thế nhưng, vì say mê thứ âm thanh huyền bí và gắn bó máu thịt với dân tộc mình, nhiều người phụ nữ H’re vẫn tìm tòi, học cách sử dụng.
“Ngay từ nhỏ đã thuộc lòng nhiều làn điệu ta lêu, ca choi của người H’re, cứ mỗi dịp lễ hội, đám cưới…, hòa cùng tiếng chiêng Ba và các nhạc cụ khác, dân làng lại cùng nhau ca múa. Chiêng Ba làm nhiều người say mê, cả người đánh lẫn người nghe. Khi đánh chiêng thấy lòng vui sướng, quên hết mệt nhọc, lo âu. Ông chồng lúc còn sống cũng biết đánh chiêng”- bà Sỹ nói.
Bà Sỹ nhớ như in, thời niên thiếu, dẫu cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng nghe tiếng chiêng là lòng rộn ràng, háo hức, mọi người tập trung tìm đến. Thời gian, không gian đánh chiêng tùy thuộc vào gia chủ nhưng có lẽ thú vị nhất là khi đêm xuống.
Giữa bóng tối, người làng tập trung bên bếp lửa bập bùng trước sân nhà sàn, trai tráng có cơ bắp khỏe mạnh đánh chiêng Ba, các cô gái hát múa ta lêu, ca choi. Người làng cũng thả hồn theo tiếng chiêng ngân. Tập tục của đồng bào H’re là ăn Tết theo làng, theo xóm. Hôm nay có thể làng này, ngày mai làng khác. Tiếng chiêng theo đó cũng rộn vang khắp núi đồi.
“Chiêng Ba có từ rất lâu rồi, từ lúc sinh ra đã thấy. Chiêng Ba là độc nhất vô nhị của người H’re là vì nó đắt tiền. Nó đổi được bằng tiền, bạc, trâu, bò Chiêng được dùng trong dịp tết, cúng, dịp lễ tết, nói chung là ngày vui. Cha mẹ đều biết đánh chiêng. Khi cha mất có để lại cho 5 anh em mỗi người mỗi bộ chiêng, trai hay gái đều có. Con gái nếu không chơi thì để lại cho chồng, con, không được bán”- ông Phạm Văn Rôm kể.
Ngoài bà Sỹ, còn một số phụ nữ khác ở Ba Tơ cũng biết đánh chiêng Ba, nhưng phần lớn họ đều đã lớn tuổi. Bà Phạm Thị Đệ (xã Ba Thành), cứ nhớ về những đêm trăng sáng bàng bạc khắp núi rừng. Khi tiếng chiêng cất lên, bà lại hát điệu ca choi. Lời hát là tấm lòng của người con gái vừa trong lành vừa tha thiết, để những chàng trai rung động, ngỏ lời yêu. Thỉnh thoảng có dịp, bà Đệ cũng đánh chiêng, say mê và tự hào.
Gìn giữ cho mai sau
Người H’re ở Quảng Ngãi sinh sống chủ yếu ở các huyện Ba Tơ,
Sơn Hà
và
Minh Long
. Tuy nhiên, chỉ có người H’re ở huyện Ba Tơ mới biết trình diễn chiêng Ba và trở thành nét sinh hoạt văn hóa truyền thống. Tuyệt đại đa số chiêng của người H’re là dàn chiêng Ba chiếc được các gia đình lưu truyền, gìn giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác như báu vật của gia đình. Trải qua hàng trăm năm, tiếng chiêng Ba trở thành âm thanh quen thuộc và gắn bó với lớp lớp người H’re.
Chiêng Ba là tài sản quý đối với mỗi gia đình người H’re.
Theo quan niệm của người H’re, chiêng là vật thiêng. Họ không sử dụng chiêng trong đám tang. Những người trong năm gặp rủi ro, thì không được đánh chiêng trong những ngày vui của dân làng. Nếu được mời đánh chiêng, họ cũng từ chối… Khi sử dụng chiêng phải thực hiện nhiều nghi thức tín ngưỡng, đặc biệt là nghi thức cúng chiêng.
Chiêng Ba của người H’re ở Ba Tơ có âm thanh hoang sơ rất lạ, rất riêng. Từ tiết tấu, nhịp điệu đến sự phối âm, phối bè, sử dụng công phu tài tình, tinh tế của người đánh chiêng, có khởi đầu, có cao trào, có kết thúc, khi trầm hùng khi náo nức khi rạo rực thổn thức, lúc cao trào mạnh mẽ, dồn dập, thôi thúc. Ngày xưa, những bộ chiêng Ba quý hiếm có giá trị hàng chục con trâu, tiếng không chỉ thanh mà còn trầm ấm, tạo nên âm thanh nghe sang trọng, mạnh mẽ, náo nức lòng người.
Tấu chiêng Ba hấp dẫn và khiến nhiều người say mê đến vậy, nhưng rồi, cũng như các loại hình văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở nhiều nơi trên cả nước, hoạt động này đã bị thách thức bởi sự hòa nhập giữa văn hóa vùng cao với vùng đồng bằng.
“Phần lớn đánh chiêng là đàn ông, còn đàn bà biết đánh chiêng đều đã lớn tuổi. Mẹ tôi cũng biết, nhưng ít chơi. Bây giờ lớp trẻ ít người biết lắm, như tôi cũng chỉ biết sơ sơ thôi”- chị Phạm Thị Sung (xã Ba Thành) chia sẻ.
Phụ nữ H’re đánh chiêng Ba
Những năm gần đây, chính quyền địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc phục hồi và giữ gìn văn hóa của người H’re, trong đó có có chiêng Ba. Hiện nay, ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện Ba Tơ đều duy trì được nghệ thuật trình diễn chiêng ba, tiêu biểu nhất là ở xã Ba Vinh.
Người H’re huyện Ba Tơ rất coi trọng bộ chiêng Ba và cất giữ như tài sản quý. Hiện trên địa bàn huyện có khoảng 890 hộ gia đình có chiêng, với trên 900 bộ chiêng Ba và 740 người biết sử dụng. Năm 2021, nghệ thuật trình diễn chiêng Ba của người H’re ở Ba Tơ được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia
.
Theo ông Lê Cao Đỉnh- Phó Trưởng Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Ba Tơ, nghệ thuật trình diễn chiêng Ba của người H’re không chỉ là sinh hoạt văn hóa mà quan trọng hơn chính là lưu giữ những giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
“Thường ngày, họ bận rộn với ruộng đồng, nương rẫy cùng bao việc mưu sinh, nhưng sẵn lòng tham gia khi nghe lời mời đánh chiêng, tham dự các hội diễn văn nghệ quần chúng quảng bá chiêng Ba. Họ yêu nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình và mến người thích nghe tiếng chiêng. Tuy nhiên, vấn đề đáng lo ngại hiện nay là lớp trẻ ít quan tâm, trong khi đó những người am hiểu lại ngày càng già đi, nhiều người đã mất. Địa phương đã và đang nỗ lực tìm cách giữ gìn văn hóa quý giá này”- ông Đỉnh chia sẻ.
Đỗ Quyên
|
Vị chủ soái của Tự Lực văn đoàn – nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) – ngoài tài văn chương và làm báo, ông còn là một họa sĩ, từng là thủ khoa trường Mỹ thuật Đông Dương.
Tranh vẽ nhà văn Nhất Linh của họa sĩ Nguyễn Gia Trí.
Sau gần 60 năm “chủ soái” của Tự Lực văn đoàn – nhà văn Nhất Linh – từ giã cõi đời (1963), nhiều người vẫn không biết ngoài thân phận nhà văn, ông còn là một họa sĩ tài danh. Năm 2021, tác phẩm mỹ thuật của ông được gõ búa trong phiên đấu tại Pháp.
Tiến tới kỷ niệm 90 năm phong trào Thơ mới và Tự Lực văn đoàn, giới nghiên cứu quan tâm bàn luận nhiều hơn về Nhất Linh – vị “chủ soái” đã làm nên thành công của Thơ mới giữa buổi giao thời.
Nhà văn Nhất Linh (giữa) đi dạo với các cháu. Ảnh tư liệu của bà Trương Kim Anh.
Nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) là con thứ 3 trong một gia đình 7 anh chị em. Nhất Linh thành lập Tự Lực văn đoàn gồm 7 thành viên. Nghiệp văn của ông cũng gắn liền với 7 truyện dài tiêu biểu:
Nắng thu, Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Bướm trắng, Lạnh lùng, Xóm cầu mới
và
Dòng sông thanh thủy
. […]
Ít ai biết rằng, Nhất Linh từng là thủ khoa của khóa học đầu tiên (1925-1930) Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ông học cùng khóa với Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Vũ Cao Đàm… Tất cả những người này sau đó đều trở thành danh họa của Việt Nam.
Nguyễn Tường Tam cũng là cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa) tốt nghiệp tại Pháp. Năm 1932, ông mua lại tờ tuần báo
Phong hóa,
trở thành Giám đốc kể từ số 14, ra ngày 22/9/1932. Năm 1934, anh em ông và một số văn nhân thành lập Tự Lực văn đoàn trên nguyên tắc “dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà”. […]
Không chỉ là một văn nhân nổi tiếng, Nhất Linh còn là một nhà thơ, một họa sĩ tài năng. Với báo
Phong hóa
và
Ngày nay
, trước kia ông ký tên Ðông Sơn và sau này với
Văn hóa Ngày nay
, ông ký tên Nhất Linh trên những bức vẽ. Có một số bức họa rất nổi tiếng của ông như:
Cảnh phố chợ Đông Dương
hay
Cúc xưa…
Năm 2010, một họa phẩm của Nhất Linh, bức
Cảnh phố chợ Đông Dương
vẽ trên lụa vào khoảng 1926-1929 đã được bán đấu giá tại Hong Kong,
Trung Quốc
với giá gõ búa
75.000 USD
.
Cuối năm 2021, giới sưu tầm hội họa lại xôn xao khi thấy một tác phẩm mang tên Nguyễn Tường Tam xuất hiện trong phiên đấu Peintres & Arts du Vietnam tại
Pháp
của nhà đấu giá Aguttes.
Một phần của Bức họa
Những lời khuyên của ni cô
do Nguyễn Tường Tam vẽ khoảng năm 1926.
Bức tranh khắc gỗ trên giấy dó được gõ búa thành công với giá 8.000 euro. Nếu tính cả các loại chi phí, cộng 29% thuế phí thì tác phẩm có giá tương đương 279 triệu đồng.
Nhà nghiên cứu mỹ thuật Ngô Kim Khôi cho rằng người sở hữu bức tranh sau đấu giá đã quá may mắn có được tác phẩm cực kỳ quý hiếm với mức giá hời.
Cũng theo ông Khôi, trong danh sách các tác phẩm gửi đi triển lãm thuộc địa Paris năm 1931, tranh khắc gỗ của Nguyễn Tường Tam có tên
Les conseils de la bonzesse
(Những lời khuyên của ni cô); Lưu trữ “Victor Tardieu”, Viện Lịch sử Nghệ thuật Quốc gia Pháp.
Bức tranh có lẽ được vẽ khi Nguyễn Tường Tam còn học tại Trường Mỹ thuật Đông Dương, nghĩa là khoảng 1925-1926. Trên tranh, bên góc dưới phía trái có hai triện và dòng chữ ký bằng tiếng Hán. Triện chữ nhật màu đen có dòng chữ “Đại Nam Cao đẳng Mỹ thuật học đường”, là triện của Trường Mỹ thuật Đông Dương. Dưới triện đen là triện đỏ hình vuông, có 4 chữ “Nguyễn Tường Tam ấn”.
Cạnh bên triện là hàng chữ “Nam dân họa ý/Bức vẽ người dân Nam”. Đồng thời cũng thêm một hàng chữ rất nhỏ “Đệ tam chi bách bản / Bức thứ 3 trong 100 bức”.
Trên góc phải phía trên có hai dòng lạc khoản viết bằng chữ Nôm. Sau một thời gian nghiên cứu kỹ và nhờ sự giúp đỡ của những người sành chữ Nôm như Lâm Hán Thành và Lam Điền tra cứu, dịch ra một bài thơ, đại ý: “Việc chi mưa Sở gió Tần / Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng / Trăm năm cho vẹn chữ tòng / Lòng nào lòng nỡ phụ lòng ấy vay”.
Họa sĩ – nhà văn Nhất Linh đã sử dụng kỹ thuật khắc gỗ cổ truyền của Việt Nam để thực hiện tác phẩm. Bối cảnh chung của bức tranh là làng quê yên bình, bên cạnh cái ao làng có hai người phụ nữ một trẻ một già mang phong thái đặc trưng Bắc Bộ.
Phác thảo
Hoa phong lan
trong sổ tay của Nhất Linh (28/10/1957).
Người phụ nữ trẻ mặc áo tứ thân đội nón quai thao truyền thống đang ẵm em bé. Đứng cạnh đó là phụ nữ lớn tuổi trong trang phục tôn giáo (ni cô/vãi), đầu đội khăn, tay cầm trượng gỗ. Biểu cảm của người phụ nữ lớn hơn như đang khuyên nhủ, còn người phụ nữ trẻ thì chăm chú lắng nghe.
Đáng chú ý là bức tranh có lời đề tặng viết tay và chữ ký của ông Victor Tardieu – Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Nhà nghiên cứu Lý Đợi cho rằng: Dù tranh có dùng câu
Kiều
và
Lục Vân Tiên
trong lạc khoản, nhưng vì trường đoạn Kiều gặp Giác Duyên (Tam Hợp đạo cô) không có em bé. Kiều Nguyệt Nga cũng không có em bé. Vì vậy, nên có thể đoán là tranh lấy cảm hứng từ truyện thơ
Quan âm Thị Kính
Trần Hòa
/
Giáo dục Thủ đô – Giáo dục & Thời đại
|
The commander of the Tu Luc Van Doan - writer Nhat Linh (Nguyen Tuong Tam) - in addition to his literary and journalistic talents, he was also a painter, once the valedictorian of the Indochina Fine Arts School.
Painting of writer Nhat Linh by artist Nguyen Gia Tri.
After nearly 60 years, the "commander" of Tu Luc Van Doan - writer Nhat Linh - passed away (1963), many people still do not know that in addition to being a writer, he was also a talented painter. In 2021, his fine art work was hammered at the auction in France.
Approaching the 90th anniversary of the New Poetry movement and Tu Luc Van Doan, researchers are interested in discussing more about Nhat Linh - the "commander" who made the success of New Poetry in the midst of the transition.
Writer Nhat Linh (middle) walks with his grandchildren. Documentary photo of Ms. Truong Kim Anh.
Writer Nhat Linh (Nguyen Tuong Tam) is the third child in a family of 7 siblings. Nhat Linh founded Tu Luc Van Group with 7 members. His literary career is also associated with 7 typical long stories:
Autumn sunshine, Break up, Couple, White butterfly, Cold, New bridge village
and
Serene river
. […]
Few people know that Nhat Linh was the valedictorian of the first course (1925-1930) at the Indochina College of Fine Arts. He studied in the same course as Nguyen Phan Chanh, Mai Trung Thu, Le Pho, To Ngoc Van, Vu Cao Dam... All of these people later became famous painters of Vietnam.
Nguyen Tuong Tam is also a bachelor of Science Education (Physics, Chemistry) graduated in France. In 1932, he bought the weekly newspaper
Weathered,
became Director since issue #14, dated September 22, 1932. In 1934, his brothers and a number of writers founded Tu Luc Van Doan on the principle of "relying on one's own strength, following the spirit of brotherhood". […]
Not only is he a famous writer, Nhat Linh is also a talented poet and painter. With newspaper
Weathered
and
Nowadays
, previously he signed the name Dong Son and later with
Culture Today
, he signed the name Nhat Linh on the drawings. There are some very famous paintings of him such as:
Indochina market street scene
nice
Ancient chrysanthemum…
In 2010, a painting by Nhat Linh, painting
Indochina market street scene
painted on silk around 1926-1929 was auctioned in Hong Kong,
China
at hammer prices
75,000 USD
.
At the end of 2021, the art collectors were excited again when they saw a work named Nguyen Tuong Tam appear in the Peintres & Arts du Vietnam auction in Vietnam.
France
of Aguttes auction house.
Part of the Painting
Advice from nuns
painted by Nguyen Tuong Tam around 1926.
The wood carving on Do paper was successfully hammered for 8,000 euros. If all costs are included, plus 29% tax, the work's price is equivalent to 279 million VND.
Art researcher Ngo Kim Khoi believes that the owner of the painting after the auction was very lucky to have an extremely rare work at a bargain price.
Also according to Mr. Khoi, in the list of works sent to the Paris colonial exhibition in 1931, Nguyen Tuong Tam's wood carving was named
Les conseils de la bonzesse
(The advice of nuns); “Victor Tardieu” Archive, French National Institute of Art History.
The painting was probably painted when Nguyen Tuong Tam was still studying at the Indochina School of Fine Arts, meaning around 1925-1926. On the painting, in the lower left corner, there are two seals and a signature line in Chinese. The black rectangular seal has the words "Dai Nam College of Fine Arts", which is the seal of the Indochina School of Fine Arts. Below the black seal is a square red seal with 4 words "Nguyen Tuong Tam Seal".
Next to the seal are the words "Southern People's Drawings/Paintings of Southern People". At the same time, a very small line of text was added: "Third hundred copies / 3rd painting in 100 paintings".
On the upper right corner are two stray lines written in Nom. After a period of careful research and thanks to the help of Nom connoisseurs like Lam Han Thanh and Lam Dien, I looked up and translated a poem with the general idea: "If you get married, you will have to bear the burden." Painting my husband's house / A hundred years to be completely obedient / No heart can bear to betray that heart.
Artist and writer Nhat Linh used traditional Vietnamese wood carving techniques to create the work. The general background of the painting is a peaceful village, next to the village pond there are two women, one young and one old, with a typical Northern style.
Outline
orchids
in Nhat Linh's notebook (October 28, 1957).
A young woman wearing a four-piece dress and a traditional hat is holding a baby. Standing next to it is an older woman in religious clothing (nun/vāt), wearing a turban, holding a wooden staff in her hand. The older woman's expression seemed to be advising, while the younger woman listened attentively.
Notably, the painting has a handwritten dedication and signature of Mr. Victor Tardieu - the first Principal of the Indochina College of Fine Arts.
Researcher Ly Doi said: Although paintings use sentences
Kieu
and
Luc Van Tien
In the story, but because of the scene where Kieu meets Giac Duyen (Tam Hop Dao Co), there is no baby. Kieu Nguyet Nga also does not have a baby. Therefore, it can be guessed that the painting was inspired by poetic stories
Quan Am Thi Kinh
Tran Hoa
/
Capital Education – Education & Times
|
NASA
vừa công bố các bức ảnh ngoạn mục chụp thứ được gọi là “những cột trụ sáng tạo”, nơi các thế giới mới đang ra đời – theo nghĩa đen.
Những bức ảnh được chụp bởi Kính viễn vọng không gian James Webb do NASA điều hành chính, bên cạnh sự hỗ trợ của ESA và CSA (cơ quan vũ trụ của châu Âu và
Canada
).
Trong ảnh, một tinh vân khổng lồ, ma quái hiện ra như một bàn tay thần thánh vươn thẳng lên bầu trời, các ngón tay to khỏe như những cây cột trụ. Đó là Tinh vân Đại Bàng, một vùng hình thành sao vĩ đại nằm trong chòm sao Cự Xà.
Bức ảnh mới nhất từ James Webb – Ảnh: NASA/ ESA/ CSA/ STScI
“Tôi đã nghiên cứu Tinh vân Đại bàng từ giữa những năm 1990, cố gắng nhìn thấy ‘bên trong’ những cột trụ dài hàng năm ánh sáng mà Hubble cho thấy, tìm kiếm những ngôi sao trẻ bên trong chúng. Tôi luôn biết rằng khi James Webb chụp ảnh nó, chúng sẽ thật tuyệt vời” – đài BBC dẫn lời Giáo sư Mark McCaughrean, cố vấn cấp cao về khoa học tại ESA.
Theo NASA, thứ nổi bật nhất trong hình ảnh từ Máy ảnh hồng ngoại gần (NIRCam) của James Webb chính là những ngôi sao mới hình thành, vẫn còn ở giai đoạn “tiền sao”, màu đỏ tươi có gai nhiễm xạ, nằm bên ngoài một trong những cột trụ – vốn làm bằng khí và bụi.
Hai hình ảnh khá khác biệt về độ nét được chụp bởi kính viễn vọng không gian Hubble (trái) và James Webb – Ảnh: NASA/ESA/CSA/STScI
Khi các quả cầu đỏ tươi này có khối lượng đủ lớn bên trong các cột khí và bụi, chúng bắt đầu sụp đổ dưới lực hấp dẫn của chính chúng, từ từ nóng lên và thành những ngôi sao sơ sinh thực thụ. Những thế giới mới này khi lớn lên sẽ dần hình thành những hành tinh quay quanh nó, nơi rất có thể người ngoài hành tinh ra đời và ngự trị trong hàng tỉ năm nữa.
Những đường gợn sóng như dung nham ở cạnh của một số cột trụ chính là những vụ phóng năng lượng và vật chất mạnh mẽ từ những ngôi sao trẻ tuổi, đang bắn ra các luồng phản lực siêu thanh định kỳ, va chạm với các đám mây vật chất xung quanh và tạo nên cảnh tượng kỳ thú. Những ngôi sao trẻ này mới khoảng vài trăm ngàn năm tuổi.
Quan sát các thế giới mới “chập chững” chào đời này đem đến dữ liệu tuyệt vời để các nhà khoa học tìm hiểu về cách các ngôi sao và hành tinh hình thành, từ đó giải mã phần nào những bí mật muôn đời về cách mà chúng ta đang hiện diện trong vũ trụ.
Anh Thư
|
NASA
has released breathtaking photos of what it calls “pillars of creation,” where new worlds are being born – literally.
The photos were taken by the James Webb Space Telescope, operated by NASA, with support from ESA and CSA (the European space agency).
Canada
).
In the photo, a giant, ghostly nebula appears like a divine hand reaching straight into the sky, its fingers as big and strong as pillars. That's the Eagle Nebula, a great star-forming region located in the constellation Serpent.
Latest photo from James Webb - Photo: NASA/ ESA/ CSA/ STScI
“I have been studying the Eagle Nebula since the mid-1990s, trying to see 'inside' the light-year-long pillars that Hubble reveals, looking for young stars within them. I always knew that when James Webb took pictures of it, they would be amazing" - the BBC quoted Professor Mark McCaughrean, senior science advisor at ESA.
According to NASA, the most striking thing in images from James Webb's Near Infrared Camera (NIRCam) are newly formed stars, still in the "protostar" stage, bright red with radioactive spikes, located outside one of the pillars – which were made of gas and dust.
Two quite different images in sharpness taken by the Hubble space telescope (left) and James Webb - Photo: NASA/ESA/CSA/STScI
When these bright red spheres gain enough mass within columns of gas and dust, they begin to collapse under their own gravity, slowly heating up and becoming true newborn stars. These new worlds, as they grow, will gradually form planets orbiting them, where aliens are likely to be born and reign for billions of years.
The lava-like ridges on the edges of some of the pillars are powerful ejections of energy and matter from young stars, which are firing periodic supersonic jets, colliding with the clusters. Clouds of matter surround and create an amazing scene. These young stars are only a few hundred thousand years old.
Observing these newly born worlds provides great data for scientists to learn about how stars and planets form, thereby decoding some of the eternal secrets of how stars and planets form. that we are present in the universe.
Heroine
|
Trưa nay 21-10,
Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres
đã đến sân bay Nội Bài, bắt đầu chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 21 đến 22-10 theo lời mời của
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc
.
Đây là chuyến thăm quan trọng của người đứng đầu tổ chức đa phương lớn nhất thế giới, như phát biểu của ông António Guterres trước chuyến thăm, đó là thể hiện thông điệp mạnh mẽ về sự coi trọng của Liên Hiệp Quốc (LHQ) đối với quan hệ đối tác Việt Nam-LHQ trong 45 năm qua, khẳng định Việt Nam là một trong những thành viên không thể thiếu của LHQ, đã, đang và sẽ có những đóng góp ý nghĩa cho công việc chung của LHQ trong giải quyết các thách thức toàn cầu, vì hòa bình và phát triển trên thế giới.
Tổng thư ký Guterres sau khi rời máy bay tại sân bay Nội Bài trưa 21/10. Ảnh:
Giang Huy
.
Chuyến thăm cũng diễn ra trong bối cảnh
Việt Nam
vừa hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020 – 2021; được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023 – 2025.
Tháp tùng Tổng Thư ký LHQ thăm chính thức Việt Nam có bà Armida Salsiah Alisjahbana, Thư ký điều hành Ủy ban Kinh tế – Xã hội châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP); ông Selwin Hart, Trợ lý Tổng Thư ký và Cố vấn đặc biệt của Tổng Thư ký về hành động khí hậu, cam kết chuyển đổi xanh; bà Pauline Tamesis, Điều phối viên thường trú của LHQ tại Việt Nam cùng một số quan chức LHQ.
Tổng Thư ký LHQ António Guterres sinh ngày 30-4-1949; quốc tịch: Bồ Đào Nha.
Đầu thập niên 1970, ông là người sáng lập ra Hội đồng Người tị nạn Tây Ban Nha, Hiệp hội Người tiêu dùng Tây Ban Nha (DECO).
Từ 1976 – 1993, ông là thành viên Quốc hội Bồ Đào Nha; Chủ tịch Ủy ban Nghị viện Kinh tế, Tài chính, Kế hoạch; Ủy ban Nghị viện Hành chính lãnh thổ, Đô thị và Môi trường.
Từ 1981 – 1983, ông là thành viên của Hội đồng Nghị viện Hội đồng châu Âu, Chủ tịch Ủy ban Dân số, di cư và người tị nạn.
Từ 1991 – 2002, ông là thành viên của Hội đồng Nhà nước Bồ Đào Nha.
Từ 1992 – 1999, ông là Phó Chủ tịch Tổ chức Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế, kiêm đồng Chủ tịch của Ủy ban châu Phi và sau đó là Ủy ban Phát triển của Tổ chức này.
Từ 1995 – 2002, ông được bầu làm Thủ tướng Bồ Đào Nha. Từ 1999 – 2005, ông là Chủ tịch Tổ chức Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế (một tổ chức của các đảng chính trị dân chủ xã hội trên thế giới).
Năm 2000, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng châu Âu. Từ 2002 – nay, ông là thành viên Câu lạc bộ Madrid (một liên minh lãnh đạo dân chủ của các cựu Tổng thống, Thủ tướng của các nước trên thế giới).
Từ 2005 – 2015, ông là Cao ủy LHQ về người tị nạn (UNHCR).
Từ 2017 – nay, ông là Tổng Thư ký của LHQ (người thứ chín giữ vị trí này kể từ khi LHQ được thành lập).
Ông António Guterres có bằng Kỹ sư, Học viện Instituto Superior Tecnico. Ông biết 4 ngoại ngữ: Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và Tây Ban Nha.
Dự kiến, trong khuôn khổ chuyến thăm, theo chương trình, Tổng Thư ký LHQ António Guterres sẽ đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, dự lễ đón chính thức, hội đàm với
Chủ tịch nước
; đến chào
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
; hội kiến
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
và
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
. Cùng với đó, Tổng Thư ký LHQ sẽ cùng Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đồng chủ trì Lễ kỷ niệm 45 năm Việt Nam – LHQ cùng một số hoạt động khác.
Dương Ngọc
|
This afternoon, October 21,
United Nations Secretary General António Guterres
arrived at Noi Bai airport, starting an official visit to Vietnam from October 21 to 22 at the invitation of
President Nguyen Xuan Phuc
.
This is an important visit by the head of the world's largest multilateral organization. As Mr. António Guterres said before the visit, it shows a strong message about the importance of the United Nations (UN) to with the Vietnam-UN partnership over the past 45 years, affirming that Vietnam is one of the indispensable members of the UN, has been and will be making meaningful contributions to the common work of the UN in solving problems. global challenges, for peace and development in the world.
Secretary General Guterres after leaving the plane at Noi Bai airport on the afternoon of October 21. Image:
Giang Huy
.
The visit also took place in context
Vietnam
just successfully completed the role of non-permanent member of the UN Security Council for the 2020 - 2021 term; Elected as a member of the UN Human Rights Council for the term 2023 - 2025.
Accompanying the UN Secretary General on his official visit to Vietnam were Ms. Armida Salsiah Alisjahbana, Executive Secretary of the Economic and Social Commission for Asia and the Pacific (ESCAP); Mr. Selwin Hart, Assistant Secretary-General and Special Advisor to the Secretary-General on climate action, committed to green transition; Ms. Pauline Tamesis, UN Resident Coordinator in Vietnam and a number of UN officials.
UN Secretary General António Guterres was born on April 30, 1949; Nationality: Portuguese.
In the early 1970s, he was the founder of the Spanish Refugee Council, the Spanish Consumer Association (DECO).
From 1976 – 1993, he was a member of the Portuguese Parliament; Chairman of the Parliamentary Committee on Economy, Finance and Planning; Parliamentary Committee on Territorial Administration, Urban Affairs and Environment.
From 1981 to 1983, he was a member of the Parliamentary Assembly of the Council of Europe, Chairman of the Committee on Population, Migration and Refugees.
From 1991 – 2002, he was a member of the Portuguese Council of State.
From 1992 – 1999, he was Vice President of the International Socialist Organization, and co-Chair of the Africa Committee and later of the Organization's Development Committee.
From 1995 to 2002, he was elected Prime Minister of Portugal. From 1999 to 2005, he was President of the International Socialist Organization (an organization of social democratic political parties around the world).
In 2000, he became President of the European Council. From 2002 to present, he is a member of the Madrid Club (a democratic leadership alliance of former Presidents and Prime Ministers of countries around the world).
From 2005 to 2015, he was the United Nations High Commissioner for Refugees (UNHCR).
From 2017 - present, he is the Secretary General of the UN (the ninth person to hold this position since the UN was established).
Mr. António Guterres holds an Engineering degree from Instituto Superior Tecnico. He knows 4 foreign languages: Portuguese, English, French and Spanish.
It is expected that, within the framework of the visit, according to the program, UN Secretary General António Guterres will lay a wreath and visit President Ho Chi Minh's Mausoleum, attend the official welcoming ceremony, and hold talks with President Ho Chi Minh.
President
; come say hello
General Secretary Nguyen Phu Trong
; audience
Prime Minister Pham Minh Chinh
and
Chairman of the National Assembly Vuong Dinh Hue
. Along with that, the UN Secretary General and President Nguyen Xuan Phuc will co-chair the 45th Anniversary of Vietnam - UN along with a number of other activities.
Duong Ngoc
|
Ngày 19-20/10, Hội nghị Bộ trưởng tài chính APEC đã diễn ra tại Băng Cốc,
Thái Lan
.
Tham dự hội nghị có các bộ trưởng tài chính và đại diện cấp cao từ 21 nền kinh tế thành viên APEC. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh môi trường toàn cầu bất lợi – nơi phục hồi sau đại dịch vẫn còn mong manh và lạm phát gia tăng đòi hỏi thắt chặt tài chính trên toàn thế giới – và nguy cơ ngày càng tăng của khí hậu biến đổi. Với chủ đề “Thúc đẩy số hóa, đạt được sự bền vững”, Bộ trưởng Bộ Tài chính Thái Lan Arkhom Termpittayapaisith và là Chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC 2022, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cân bằng giữa tăng trưởng và chăm sóc môi trường, nhấn mạnh rằng số hóa và tính bền vững “sẽ là chìa khóa cho sự thịnh vượng của APEC.”
Số hóa đã được chứng minh là động lực chính của tăng trưởng, đặc biệt là trong môi trường toàn cầu hóa ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, sự tăng trưởng như vậy sẽ không phải trả giá bằng một môi trường xấu đi đáng kể, đó là lý do tại sao tính bền vững vẫn cao trong chương trình nghị sự toàn cầu, bao gồm cả
APEC
. Trong khi triển vọng kinh tế vẫn chưa chắc chắn, có một số xu hướng đáng khích lệ có thể thúc đẩy một chu kỳ tăng trưởng mới.
Bên cạnh số hóa và tính bền vững, sự hồi sinh trong lĩnh vực du lịch và lữ hành, cũng như các hoạt động kinh tế khác, phản ánh nhu cầu bị dồn nén. APEC cần tăng cường hợp tác trong việc phát triển các phản ứng mang tính chiến lược, đo lường và đổi mới nhằm giữ cho nền kinh tế thế giới ổn định và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đặc biệt là trong các lĩnh vực đòi hỏi hành động chung, chẳng hạn như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững và kết nối kỹ thuật số.
Hội nghị diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Queen Sirikit, nơi sẽ tổ chức Tuần lễ các nhà lãnh đạo kinh tế APEC vào tháng 11, các bộ trưởng tài chính đã thảo luận về áp lực lạm phát và, cùng với những điều khác, làm thế nào để chuyển hướng các biện pháp kích thích từ COVID-19 sang các động lực tăng trưởng dài hạn trong khi duy trì sự bền vững về tài khóa. Các Bộ trưởng đã tính đến các biện pháp và hành động chính sách nhằm thúc đẩy hơn nữa số hóa và tính bền vững để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bao gồm thông qua các chính sách tài khóa, chế độ thuế, chương trình phân phối lại, khuyến khích đầu tư, đòn bẩy kỹ thuật số và theo đuổi phát triển bền vững.
Các bộ trưởng cũng đã nghe chia sẻ của Ban Hỗ trợ Chính sách APEC và đại diện của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á về triển vọng kinh tế khu vực và toàn cầu. IMF đã hạ mức tăng trưởng kinh tế của APEC xuống 2,5% trong năm nay, tương tự như dự báo của Ban Hỗ trợ chính sách APEC. Nhận thức được rủi ro chưa từng có ở phía trước, các bộ trưởng tài chính cam kết hạn chế lạm phát để giảm thiểu chi phí sinh hoạt và nghèo đói ngày càng tăng. Họ cũng cam kết giữ cho thương mại cởi mở trong khi bảo vệ mọi người khỏi sự bùng phát trở lại của COVID-19 hoặc bất kỳ đại dịch nào trong tương lai.
Các bộ trưởng APEC cũng bày tỏ quan điểm của mình về những thách thức kinh tế vĩ mô ngày càng cao và tác động đối với sự biến động giá năng lượng và lương thực. Bộ trưởng Arkhom kết luận: Những khó khăn chính trị hiện tại có thể dẫn đến quan điểm trái ngược nhau giữa các nền kinh tế thành viên. Tuy nhiên, APEC thể hiện tinh thần hợp tác quốc tế là trọng tâm của những thành công của APEC trong những năm qua, gắn kết với nhau một cách hiệu quả và xây dựng, vì điều này sẽ dẫn đến sự thịnh vượng chung mà tất cả mọi người đều có thể trân trọng.
Duy Hưng
|
On October 19-20, the APEC Finance Ministers' Meeting took place in Bangkok,
Thailand
.
Attending the conference were finance ministers and senior representatives from 21 APEC member economies. The conference takes place against the backdrop of an adverse global environment – where post-pandemic recovery remains fragile and rising inflation requires fiscal tightening worldwide – and the growing risk of climate change. change. With the theme "Promoting digitalization, achieving sustainability", Thai Minister of Finance Arkhom Termpittayapaisith and Chairman of the APEC 2022 Finance Ministers' Meeting, emphasized the importance of balancing growth and environmental care, emphasizing that digitalization and sustainability “will be key to APEC's prosperity.”
Digitalization has proven to be a key driver of growth, especially in an increasingly globalized environment. However, such growth should not come at the cost of a significantly worsening environment, which is why sustainability remains high on the global agenda, including
APEC
. While the economic outlook remains uncertain, there are some encouraging trends that could spur a new cycle of growth.
Besides digitalization and sustainability, the revival in the travel and tourism sector, as well as other economic activities, reflects pent-up demand. APEC needs to strengthen cooperation in developing strategic, measured and innovative responses to keep the world economy stable and promote economic development, especially in areas requiring economic growth. ask for collective action, such as on climate change, sustainable development and digital connectivity.
The conference took place at the Queen Sirikit National Convention Center, which will host APEC Economic Leaders' Week in November, and finance ministers discussed inflationary pressures and, along with other Another, how to redirect COVID-19 stimulus to longer-term growth drivers while maintaining fiscal sustainability. Ministers considered policy measures and actions to further promote digitalization and sustainability to boost economic growth, including through fiscal policies, tax regimes, distribution programs remix, encourage investment, leverage digital and pursue sustainable development.
The ministers also heard from the APEC Policy Support Committee and representatives of the International Monetary Fund (IMF), World Bank and Asian Development Bank on regional and global economic prospects. The IMF has lowered APEC's economic growth to 2.5% this year, similar to the forecast of the APEC Policy Support Board. Aware of unprecedented risks ahead, finance ministers pledged to limit inflation to mitigate rising costs of living and poverty. They are also committed to keeping trade open while protecting people from a resurgence of COVID-19 or any future pandemic.
APEC ministers also expressed their views on growing macroeconomic challenges and the impact on energy and food price fluctuations. Minister Arkhom concluded: Current political difficulties may lead to conflicting views among member economies. However, APEC demonstrates the spirit of international cooperation that has been at the heart of APEC's successes over the years, engaging with each other effectively and constructively, as this will lead to the shared prosperity that all everyone can appreciate.
Duy Hung
|
Đây là thành phố có vị trí đặc biệt thuận lợi xét về cả nội địa và các nước trong khu vực, quốc tế.
Thành phố Hạ Long
được thành lập tháng 12/1993 trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Gai cũ. Đầu năm 2020, sau khi sáp nhập với huyện Hoành Bồ, Hạ Long trở thành thành phố thuộc tỉnh có diện tích lớn nhất với 1.119 km2.
Thành phố Hạ Long nằm tại điểm tây bắc của Vịnh Bắc Bộ. Phía Đông giáp
thành phố Cẩm Phả
; phía Tây giáp
thành phố Uông Bí
và
thị xã Quảng Yên
; phía Nam giáp
huyện Cát Hải
,
thành phố Hải Phòng
và Vịnh Hạ Long; phía Bắc giáp
huyện Sơn Động
,
Bắc Giang
và
huyện Ba Chẽ
. Diện tích tự nhiên của thành phố bao gồm phần diện tích trên đất liền và hàng trăm đảo đá vôi trên các vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long và vịnh Lan Hạ.
Về hành chính, Thành phố Hạ Long gồm 33 đơn vị hành chính gồm 21 phường, 12 xã:
– 21 phường: Hà Khánh, Hà Lầm, Hà Trung, Hà Phong, Hà Tu, Hồng Hải, Cao Thắng, Cao Xanh, Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo, Bạch Đằng, Hồng Gai, Bãi Cháy, Hồng Hà, Hà Khẩu, Giếng Đáy, Hùng Thắng, Tuần Châu, Việt Hưng, Đại Yên, Hoành Bồ.
– 12 xã: Bằng Cả, Dân Chủ, Đồng Lâm, Đồng Sơn, Hòa Bình, Kỳ Thượng, Lê Lợi, Quảng La, Sơn Dương, Tân Dân, Thống Nhất, Vũ Oai.
Là thủ phủ tập trung các cơ quan đầu não của
tỉnh Quảng Ninh
, Thành phố Hạ Long được xác định là một trong ba đỉnh của tam giác tăng trưởng kinh tế vùng đồng bằng Bắc Bộ: Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh.
Thành phố Hạ Long có vị trí đặc biệt thuận lợi. Với nội địa, đây là một cửa ngõ quan trọng hướng ra biển của vùng đồng bằng Bắc Bộ và cả vùng trung du và miền núi Đông Bắc – Việt Bắc. Với các nước trong khu vực và quốc tế, thành phố Hạ Long nằm liền kề vùng phát triển Nam Trung Hoa và xa hơn là cả khu vực kinh tế châu Á – Thái Bình Dương rộng lớn đang phát triển năng động.
Thành phố Hạ Long là vùng đất được thiên nhiên ban tặng nhiều nguồn tài nguyên quý giá, đặc biệt là kỳ quan Vịnh Hạ Long. Nếu ven biển là những cảng nước sâu thuận lợi cho tàu thuyền cập bến thì trong lòng đất lại có than, đất sét, đá vôi… Thành phố vừa có ngư trường lại vừa có lâm trường với trữ lượng và tiềm năng khai thác dồi dào, phong phú.
Hạ Long là một thành phố du lịch với trên 670 cơ sở lưu trú du lịch các loại (trong đó 7 khách sạn 5 sao; 15 khách sạn 4 sao; 26, khách sạn 3 sao; 34 khách sạn 2 sao; 27 khách sạn 1 sao; 86 khách sạn đạt tiêu chuẩn; 425 nhà nghỉ; 50 Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê); 86 khách sạn đạt tiêu chuẩn; trên 425 nhà nghỉ; 50 nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê), với trên 18.000 phòng; có 504 tàu du lịch, trong đó 187 tàu lưu trú và 317 tàu tham quan; 5 bãi tắm đạt tiêu chuẩn; Thành phố có 5 tuyến du lịch trên bờ và 5 tuyến du lịch dưới Vịnh với 37 điểm du lịch được UBND tỉnh công nhận.
Hạ Long có hệ thống nhà hàng phục vụ ăn uống, các trung tâm thương mại, điểm mua sắm đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch với nhiều hàng hóa chất lượng… đảm bảo phục vụ được nhu cầu đa dạng của các đối tượng khách du lịch.
|
This is a city with a particularly favorable location in terms of both domestic and regional and international countries.
Ha Long City
was established in December 1993 based on the entire area and population of the old Hong Gai town. In early 2020, after merging with Hoanh Bo district, Ha Long became the city in the province with the largest area with 1,119 km2.
Ha Long City is located at the northwest point of the Gulf of Tonkin. Bordered to the East
Cam Pha city
; bordered to the west
Uong Bi city
and
Quang Yen town
; bordered to the south
Cat Hai district
,
Hai Phong city
and Ha Long Bay; bordering the North
Son Dong district
,
Bac Giang
and
Ba Che district
. The city's natural area includes the mainland area and hundreds of limestone islands on Ha Long Bay, Bai Tu Long Bay and Lan Ha Bay.
Administratively, Ha Long City consists of 33 administrative units including 21 wards and 12 communes:
– 21 wards: Ha Khanh, Ha Lam, Ha Trung, Ha Phong, Ha Tu, Hong Hai, Cao Thang, Cao Xanh, Yet Kieu, Tran Hung Dao, Bach Dang, Hong Gai, Bai Chay, Hong Ha, Ha Khau, Day Well, Hung Thang, Tuan Chau, Viet Hung, Dai Yen, Hoanh Bo.
– 12 communes: Bang Ca, Dan Chu, Dong Lam, Dong Son, Hoa Binh, Ky Thuong, Le Loi, Quang La, Son Duong, Tan Dan, Thong Nhat, Vu Oai.
Is the capital and headquarters of the headquarters
Quang Ninh Province
, Ha Long City is identified as one of the three vertices of the economic growth triangle in the Northern Delta: Hanoi - Hai Phong - Quang Ninh.
Ha Long city has a particularly favorable location. For the inland, this is an important gateway to the sea of the Northern Delta and the midland and mountainous regions of the Northeast - Viet Bac. With regional and international countries, Ha Long city is located adjacent to the development region of South China and beyond, the large and dynamically developing Asia-Pacific economic region.
Ha Long City is a land blessed with many valuable natural resources, especially the wonder of Ha Long Bay. If the coast has deep water ports that are convenient for ships to dock, then underground there is coal, clay, limestone... The city has both fishing grounds and forestry with abundant reserves and exploitation potential. , abundant.
Ha Long is a tourist city with over 670 tourist accommodation establishments of all types (including 7 5-star hotels; 15 4-star hotels; 26, 3-star hotels; 34 2-star hotels; 27 hotels 1 star; 86 standard hotels; 50 houses with rooms for tourists to rent); 86 hotels meet standards; over 425 motels; 50 houses with rooms for rent to tourists), with over 18,000 rooms; There are 504 cruise ships, including 187 accommodation ships and 317 sightseeing ships; 5 standard beaches; The city has 5 tourist routes on the shore and 5 tourist routes under the Bay with 37 tourist destinations recognized by the Provincial People's Committee.
Ha Long has a system of restaurants serving food, shopping centers, and shopping spots that meet standards to serve tourists with many quality goods... ensuring to serve the diverse needs of customers. tourism.
|
Ngày 20.10, trình bày báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – văn hoá, xã hội năm 2022; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế – văn hoá, xã hội năm 2023,
Thủ tướng Phạm Minh Chính
đã ghi nhận những đóng góp, cũng như chỉ rõ những vấn đề đang đặt ra đối với ngành văn hoá. Tâm trạng của tôi đối với nội dung về văn hóa trong báo cáo lần này là thực sự hạnh phúc bởi nhiều tín hiệu tích cực.
Thông điệp về văn hoá trong bài phát biểu của Thủ tướng
Thứ nhất đó là dung lượng nội dung dành cho văn hóa đã có sự cải thiện tích cực. Nếu như trong nhiều báo cáo, phần viết về văn hóa quá ngắn gọn, thậm chí rất lạc lõng trong tổng thể các vấn đề kinh tế – xã hội, chủ yếu nhìn nhận ở việc tổ chức các sự kiện, lễ hội thì lần này báo cáo của Chính phủ đã dành một phần thích đáng cho văn hóa với 10 dòng viết về kết quả đạt được, 1 dòng viết về tồn tại, hạn chế, và đặc biệt là cả một mục với 16 dòng cho nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Dù số lượng chưa phải là tất cả nhưng việc Chính phủ dành nhiều nội dụng cho văn hóa đã chứng minh sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực này, cũng như sức lan tỏa từ Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021.
Thứ hai là những vấn đề lớn, mới, phức tạp của văn hóa được chỉ rõ và đề cập cả những giải pháp khắc phục. Nhìn nhận thẳng thắn phát triển văn hóa chưa tương xứng, ngang tầm với phát triển kinh tế, bên cạnh những giải pháp đối với các vấn đề lớn như phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với văn hóa, quan tâm đến bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản, văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng miền, tôi rất tâm đắc với những giải pháp tạo đột phá của Chính phủ như ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp và cải tạo hệ thống thiết chế văn hóa; tập trung xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn hóa công sở, đặc biệt là đạo đức công vụ; xây dựng môi trường văn hóa số, thị trường văn hóa lành mạnh và phát triển nền tảng công nghiệp văn hóa.
Phải nói rằng, từ khá lâu rồi, tôi mới có cảm giác một báo cáo của Chính phủ đã có được một cách đánh giá bao quát về những vấn đề của văn hóa. Báo cáo đã đem đến nhiều niềm tin và hy vọng, tâm trạng tích cực cho những người làm và yêu văn hóa nghệ thuật. Đặc biệt là khi lĩnh vực đặc biệt quan trọng và tinh tế này đang có nhiều xung lực phát triển từ sự ủng hộ của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân. Chúng ta hoàn toàn có hy vọng rằng, từ báo cáo có nhiều nội dung và thông điệp này, văn hóa sẽ được quan tâm nhiều hơn, thực sự đóng vai trò là hệ điều tiết cho sự phát triển đất nước.
PGS.TS BÙI HOÀI SƠN
|
On October 20, presented the Government's report on the results of implementing the economic, cultural and social development plan for 2022; Expected economic, cultural and social development plan for 2023,
Prime Minister Pham Minh Chinh
recognized the contributions, as well as clearly pointed out the problems facing the cultural industry. My mood regarding the cultural content in this report is really happy because of many positive signals.
Cultural message in the Prime Minister's speech
Firstly, the amount of content devoted to culture has had a positive improvement. If in many reports, the section on culture is too brief, even very lost in the overall socio-economic issues, mainly looking at the organization of events and festivals, then this time The Government's report devoted an appropriate part to culture with 10 lines about achieved results, 1 line about problems and limitations, and especially a section with 16 lines for tasks and solutions. primarily. Although quantity is not everything, the fact that the Government devotes a lot of content to culture has proven its special interest in this field, as well as the spillover from the 2021 National Cultural Conference.
Second, major, new, and complex cultural problems are clearly pointed out and solutions mentioned. Frankly recognizing that cultural development is not commensurate and on par with economic development, in addition to solutions to major problems such as comprehensive and synchronous development of cultural fields, harmonious connection between economic development with culture, paying attention to preserving, embellishing and promoting heritage values, national culture, tangible and intangible cultural values of regions, I am very interested in The Government's breakthrough solutions such as prioritizing investment in building, upgrading and renovating the system of cultural institutions; Focus on building a healthy cultural environment, office culture, especially public service ethics; build a digital cultural environment, a healthy cultural market and develop a cultural industry foundation.
It must be said that it has been a long time since I felt like a Government report had a comprehensive assessment of cultural issues. The report has brought a lot of confidence, hope, and positive mood to those who work and love arts and culture. Especially when this extremely important and delicate field is having many development impulses from the support of the Party leaders, the State and the entire people. We absolutely have hope that, from this report with a lot of content and messages, culture will receive more attention, truly acting as a regulating system for the country's development.
Associate Professor, Dr. BUI HOAI SON
|
Sáng 21-10,
Tổng Thư ký Liên hiệp quốc (LHQ) António Guterres
đến
thủ đô Hà Nội
, bắt đầu chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 21 đến 22-10 theo lời mời của
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc
, nhân dịp kỷ niệm 45 năm Việt Nam tham gia LHQ.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres. Ảnh: VIẾT CHUNG
Chiều cùng ngày, tại trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp Tổng Thư ký LHQ António Guterres.
Tại buổi tiếp,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đánh giá cao chuyến thăm của Tổng Thư ký LHQ António Guterres, đặc biệt đúng vào dịp kỷ niệm 45 năm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của LHQ (20-9-1977 – 20-9-2022).
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao vai trò quan trọng của LHQ trong đời sống quốc tế; là tổ chức toàn cầu lớn nhất, hoạt động trong nhiều lĩnh vực như bảo vệ hòa bình, an ninh, hợp tác phát triển, thúc đẩy hợp tác bảo đảm quyền con người, là trung tâm của hoạt động hợp tác quốc tế. Việt Nam luôn coi LHQ là đối tác quốc tế quan trọng và hợp tác với LHQ là một trong những ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Tổng Bí thư khẳng định, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; là thành viên tích cực có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Nhân dịp này, Tổng Bí thư bày tỏ đánh giá cao và cảm ơn sự hợp tác giúp đỡ mà các cơ quan LHQ dành cho Việt Nam; trân trọng tình cảm, sự quan tâm của ngài António Guterres trên cương vị Tổng Thư ký LHQ và sự ủng hộ nhân dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến.
Tổng Thư ký LHQ António Guterres cho rằng, Việt Nam đã luôn thể hiện lập trường nguyên tắc trên những vấn đề về bảo vệ hòa bình, phát triển bền vững, đề cao Hiến chương LHQ, luật pháp quốc tế, nhất là những nguyên tắc cơ bản nhất và tích cực hợp tác cùng LHQ, cùng các đối tác quốc tế ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt.
Tổng Thư ký LHQ António Guterres cũng đánh giá cao những nỗ lực to lớn của Việt Nam trong vượt qua những khó khăn sau chiến tranh, đạt được những thành tựu phát triển to lớn, đặc biệt là sự phát triển đi cùng với việc thúc đẩy bình đẳng và phát triển bao trùm. Việt Nam đã có nhiều hoạt động tích cực và đa dạng, từ việc chia sẻ kinh nghiệm phát triển, đóng góp vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ, là sứ giả của hòa bình, là một quốc gia luôn phấn đấu vì sự đoàn kết.
Tổng Thư ký LHQ António Guterres nhấn mạnh và mong muốn Việt Nam tiếp tục đóng góp vai trò tích cực với những thành công, những bài học kinh nghiệm của mình không chỉ trong đấu tranh vì độc lập, vì các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, trong tái thiết, trong phát triển mà còn trong thực hiện các mục tiêu chung của cộng đồng quốc tế; đồng thời có những chính sách và biện pháp để tiếp tục thể hiện vai trò đi đầu trong ứng phó với vấn đề biến đổi khí hậu. Về phần mình, LHQ sẽ tiếp tục hợp tác tích cực và chặt chẽ với Việt Nam.
Chiều cùng ngày, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chủ trì lễ đón Tổng Thư ký LHQ António Guterres.
Thiếu nhi Hà Nội tặng hoa Tổng Thư ký LHQ António Guterres tại lễ đón do Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chủ trì.
Sau lễ đón, hai bên đã tiến hành hội đàm. Đây là chuyến thăm quan trọng của người đứng đầu tổ chức đa phương lớn nhất thế giới, thể hiện thông điệp mạnh mẽ về sự coi trọng của LHQ đối với quan hệ đối tác Việt Nam – LHQ trong 45 năm qua; khẳng định Việt Nam là một trong những thành viên không thể thiếu của LHQ, đã, đang và sẽ có những đóng góp ý nghĩa cho công việc chung của LHQ trong giải quyết các thách thức toàn cầu, vì hòa bình và phát triển trên thế giới.
Chuyến thăm cũng diễn ra trong bối cảnh Việt Nam vừa hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, nhiệm kỳ 2020-2021; được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025. Sau 45 năm gia nhập LHQ, Việt Nam ngày càng khẳng định là thành viên năng động, trách nhiệm và uy tín của LHQ nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung, tham gia đóng góp chủ động, tích cực, hiệu quả vào công việc chung của thế giới. Điều này đã góp phần tạo nên vị thế mới của Việt Nam.
Chiều cùng ngày, Tổng Thư ký LHQ António Guterres đã đến đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh; thăm Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.
Chiều tối 21-10, tại Hà Nội, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng Thư ký LHQ António Guterres đã chủ trì Lễ kỷ niệm 45 năm Việt Nam gia nhập LHQ (20-9-1977 – 20-9-2022).
TRẦN BÌNH – QUỐC HÙNG
|
On the morning of October 21,
Secretary General of the United Nations (UN) António Guterres
arrive
Ha Noi capital
, began his official visit to Vietnam from October 21 to 22 at the invitation of Mr
President Nguyen Xuan Phuc
, on the occasion of Vietnam's 45th anniversary of joining the UN.
General Secretary Nguyen Phu Trong receives UN Secretary General Antonio Guterres. Photo: WRITING GENERAL
On the same afternoon, at the headquarters of the Party Central Committee, General Secretary Nguyen Phu Trong received UN Secretary General António Guterres.
At the reception,
General Secretary Nguyen Phu Trong
highly appreciated the visit of UN Secretary General António Guterres, especially on the occasion of the 45th anniversary of Vietnam becoming an official member of the UN (September 20, 1977 - September 20, 2022).
General Secretary Nguyen Phu Trong highly appreciated the important role of the UN in international life; is the largest global organization, operating in many fields such as protecting peace, security, development cooperation, promoting cooperation to ensure human rights, and is the center of international cooperation activities. Vietnam always considers the UN an important international partner and cooperation with the UN is one of the priorities in Vietnam's foreign policy.
The General Secretary affirmed that Vietnam consistently implements the foreign policy of independence, self-reliance, peace, friendship, cooperation and development, diversification and multilateralization of foreign relations; Be an active and responsible member of the international community.
On this occasion, the General Secretary expressed his appreciation and thanks for the cooperation and assistance that UN agencies provide to Vietnam; We appreciate the affection and concern of Mr. António Guterres as Secretary General of the United Nations and his support for the Vietnamese people during the resistance period.
UN Secretary General António Guterres said that Vietnam has always demonstrated a principled stance on issues of peace protection, sustainable development, upholding the UN Charter, international law, especially the principles of peace and sustainable development. most basic and actively cooperate with the UN and international partners to respond to increasingly severe non-traditional security issues.
UN Secretary General António Guterres also appreciated Vietnam's great efforts in overcoming post-war difficulties and achieving great development achievements, especially the development that comes with promoting equality and inclusive development. Vietnam has had many positive and diverse activities, from sharing development experiences, contributing to UN peacekeeping activities, being a messenger of peace, and being a country that always strives for peace. the United.
UN Secretary General António Guterres emphasized and hoped that Vietnam would continue to contribute an active role with its successes and lessons learned not only in the fight for independence, for the principles of international law. economy, in reconstruction, in development but also in implementing the common goals of the international community; At the same time, there are policies and measures to continue to demonstrate its leading role in responding to climate change. For its part, the UN will continue to cooperate actively and closely with Vietnam.
On the same afternoon, at the Presidential Palace, President Nguyen Xuan Phuc chaired a welcoming ceremony for UN Secretary General António Guterres.
Hanoi children give flowers to UN Secretary General António Guterres at the welcoming ceremony chaired by President Nguyen Xuan Phuc.
After the welcoming ceremony, the two sides held talks. This is an important visit by the head of the world's largest multilateral organization, demonstrating a strong message about the UN's regard for the Vietnam - UN partnership over the past 45 years; Affirming that Vietnam is one of the indispensable members of the UN, has been and will be making meaningful contributions to the common work of the UN in solving global challenges, for peace and development in the world. gender.
The visit also took place in the context that Vietnam has just successfully completed its role as a non-permanent member of the UN Security Council, term 2020-2021; Elected as a member of the UN Human Rights Council for the 2023-2025 term. After 45 years of joining the UN, Vietnam has increasingly affirmed its position as a dynamic, responsible and prestigious member of the UN in particular and the international community in general, participating proactively, positively and effectively in public works. common affairs of the world. This has contributed to creating a new position for Vietnam.
On the same afternoon, UN Secretary General António Guterres laid a wreath and entered the Mausoleum to pay his respects to President Ho Chi Minh; Visit President Ho Chi Minh's relic site at the Presidential Palace.
On the evening of October 21, in Hanoi, President Nguyen Xuan Phuc and UN Secretary General António Guterres chaired the 45th anniversary of Vietnam joining the UN (September 20, 1977 - September 20, 2022).
TRAN BINH – QUOC HUNG
|
Cách Trái Đất 580 năm ánh sáng, một hành tinh lớn hơn cả Sao Mộc, mềm mại như những viên kẹo dẻo marshmallow đang tắm trong ánh sáng đỏ hồng từ một ngôi sao lùn đỏ.
Nghiên cứu dẫn đầu bởi nhà thiên văn học hành tinh Shubham Kanodia từ Phòng thí nghiệm
Trái Đất
và hành tinh của Viện Carnegie ở Washington DC –
Mỹ
đã tìm thấy hành tinh “ngọt ngào” mang tên TOI-3757b từ kho dữ liệu không lồ của Vệ tinh Khảo sát ngoại hành tinh TESS của NASA.
Theo tờ
Space
, “mẹ” của hành tinh là ngôi sao lùn đỏ TOI-3757, nằm cách Trái Đất 580 năm ánh sáng trong chòm sao Ngự Phu. Điều này làm cho TOI-3757b trở nên độc nhất vô nhị.
Ảnh đồ họa mô tả hành tinh kẹo dẻo (phảo) sáng lên với ánh màu hồng cam do được chiếu sáng bởi một ngôi sao lùn đỏ – Ảnh: NOIRLab/NSF/AURA
Theo tiến sĩ Kanodia, các hành tinh khổng lồ rất khó hình thành xung quanh các ngôi sao lùn đỏ, một vài cái hiếm hoi từng được quan sát thì ở rất xa sao
mẹ
. Đây là hành tinh khí gần đầu tiên được quan sát quanh loại sao này, cho dù sao lùn đỏ là loại sao nhiều nhất trong thiên hà chứa Trái Đất Milky Way (
Ngân Hà
), tỉ lệ có thể lên tới 73%.
Nguyên nhân của điều này là do sao lùn đỏ với bức xạ mạnh mẽ có thể tước bỏ bầu khí quyển bất kỳ gã khổng lồ khí nào ở xung quanh nó. Bất chấp tất cả, TOI-3757 tồn tại, nhưng tất nhiên với những tính chất đặc biệt.
Theo tờ
Science Alert
, nó to hơn Sao Mộc – hành tinh lớn nhất hệ Mặt Trời – một chút nhưng lại có khối lượng rất thấp, chỉ khoảng 85 lần Trái Đất. Để so sánh, Sao Mộc có khối lượng gấp 318 lần Trái Đất.
Mật độ của hành tinh này là 0,27 gam trên một cm khối. Đó là một hành tinh cực kỳ mềm mại – mềm mại đến mức không rõ bằng cách nào nó có thể hình thành rất gần với ngôi sao của nó: chỉ mất 3,43 ngày để quay hết một vòng quanh sao mẹ.
Tiến sĩ Kanodia và các đồng nghiệp cho rằng có thể có 2 yếu tố tác động đến việc nó nhẹ như kẹo dẻo.
Thứ nhất, khối khí khổng lồ hình thành với một lõi đá, xung quanh đó khí tích tụ để tạo thành một bầu khí quyển dày và mở rộng. Vì sao lùn đỏ này chứa ít nguyên tố nặng so với các sao lùn đỏ khác, lõi đá hình thành chậm hơn một chút, điều này sẽ làm trì hoãn quá trình tích tụ khí và ảnh hưởng đến mật độ của thế giới.
Thứ hai, quỹ đạo dường như hơi hình bầu dục, có nghĩa là khoảng cách của nó với ngôi sao thay đổi. Có lẽ khi nó đến gần hơn, bầu không khí nóng lên và bị phồng ra.
Nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ tìm thấy thêm nhiều thế giới marshmallow khác như vậy ngoài kia, để giúp tìm ra cách chúng hình thành và tồn tại ở một nơi mà lẽ ra chúng không thể xuất hiện.
Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học
The Astronomical Journal.
Anh Thư
|
580 light years from Earth, a planet larger than Jupiter, as soft as marshmallows, is bathed in the rosy red light from a red dwarf star.
The research was led by planetary astronomer Shubham Kanodia from the Laboratory
Earth
and Planet of the Carnegie Institution in Washington DC –
America
found the "sweet" planet named TOI-3757b from the huge data warehouse of NASA's TESS Exoplanet Survey Satellite.
According to the sheet
Space
, the planet's "mother" is the red dwarf star TOI-3757, located 580 light-years from Earth in the constellation Ngu Phu. This makes TOI-3757b unique.
Graphic image depicting the marshmallow planet glowing with orange-pink light due to being illuminated by a red dwarf star - Photo: NOIRLab/NSF/AURA
According to Dr. Kanodia, giant planets are very difficult to form around red dwarf stars, the few that have been observed are very far away from the star.
Mom
. This is the first nearby gas planet observed around this type of star, even though red dwarfs are the most abundant type of star in the galaxy containing Earth, the Milky Way (
Galaxy
), the rate can be up to 73%.
The reason for this is that a red dwarf with its powerful radiation can strip the atmosphere of any gas giants in its vicinity. Despite everything, TOI-3757 exists, but of course with special properties.
According to the sheet
Science Alert
, it is slightly larger than Jupiter - the largest planet in the solar system - but has a very low mass, only about 85 times that of Earth. For comparison, Jupiter has 318 times the mass of Earth.
The density of this planet is 0.27 grams per cubic centimeter. It's an extremely soft planet – so soft that it's unclear how it could have formed so close to its star: it takes just 3.43 days to orbit its parent star.
Dr. Kanodia and colleagues suggest that there may be two factors at play that make it as light as a marshmallow.
First, gas giants form with a rocky core, around which gas accumulates to form a thick, expanding atmosphere. Because this red dwarf contains few heavy elements compared to other red dwarfs, the rocky core forms a bit more slowly, which would delay the accumulation of gas and affect the density of the world.
Second, the orbit appears to be somewhat oval, meaning its distance from the star varies. Perhaps as it got closer, the atmosphere heated up and swelled.
The team hopes to find many more such marshmallow worlds out there, to help figure out how they form and survive in a place where they wouldn't otherwise appear.
The research was just published in a scientific journal
The Astronomical Journal.
Heroine
|
Trong cuộc hội đàm với Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc ngày 21/10, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc (LHQ) António Guterres khẳng định LHQ sẽ tiếp tục quan tâm, hỗ trợ các ưu tiên phát triển của
Việt Nam
; kỳ vọng Việt Nam phát huy hơn nữa vai trò, vị thế của mình.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Tổng thư ký LHQ António Guterres chụp ảnh chung trước hội đàm ngày 21/10. (Ảnh: Như Ý)
Trong cuộc hội đàm sau lễ đón, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhiệt liệt chào mừng Tổng Thư ký LHQ António Guterres đến thăm Việt Nam, khẳng định chuyến thăm thực sự có ý nghĩa, đúng vào dịp kỷ niệm 45 năm Việt Nam gia nhập LHQ và là sự kiện tạo dấu ấn mạnh mẽ trong quan hệ Việt Nam – LHQ.
Chủ tịch nước bày tỏ tình cảm chân thành và sự tri ân sâu sắc của Việt Nam tới LHQ, người bạn tin cậy, gắn bó, hỗ trợ Việt Nam trong tái thiết đất nước khó khăn sau chiến tranh trước đây và trong đổi mới, hội nhập quốc tế ngày nay, cũng như tới cá nhân Tổng Thư ký António Guterres đã luôn quan tâm, ủng hộ tăng cường hợp tác Việt Nam – LHQ.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh những thành tựu nổi bật, có ý nghĩa lịch sử của Việt Nam trong phát triển đất nước; khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Chủ tịch nước nhấn mạnh Việt Nam cam kết mạnh mẽ đối với chủ nghĩa đa phương, ủng hộ vai trò trung tâm của LHQ trong quản trị toàn cầu và điều phối dẫn dắt các nỗ lực đa phương, giải quyết các thách thức chung; khẳng định Việt Nam sẵn sàng đóng góp hết sức mình cho công việc chung của LHQ và vì hòa bình, an ninh và phát triển bền vững trên thế giới.
Tối 21/10, Tổng Thư ký LHQ António Guterres dự Lễ kỷ niệm 45 năm Việt Nam – LHQ do Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chủ trì
Trao đổi về các vấn đề hợp tác cụ thể, Chủ tịch nước đề nghị LHQ tiếp tục quan tâm, hỗ trợ Việt Nam ứng phó với đại dịch COVID-19, tư vấn xây dựng chính sách huy động nguồn lực quốc tế trong triển khai chiến lược phục hồi dài hạn theo hướng xanh, bền vững, tự cường hơn, thực hiện hiệu quả các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), xây dựng nhà nước pháp quyền.
Chủ tịch nước nhấn mạnh Việt Nam đang tích cực triển khai cam kết khí hậu về đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và đề nghị LHQ hỗ trợ tích cực trong quá trình này.
Các lãnh đạo và quan chức Việt Nam – LHQ tại cuộc hội đàm ngày 21/10. (Ảnh: Như Ý)
Đề cao luật pháp quốc tế
Ông António Guterres bày tỏ vui mừng khi lần đầu tiên đến thăm Việt Nam trên cương vị Tổng Thư ký LHQ. Ông bày tỏ tình cảm ngưỡng mộ đặc biệt dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và cho Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và tái thiết đất nước, chúc mừng những thành tựu quan trọng của Việt Nam trong phòng chống dịch bệnh COVID-19, phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội; tin tưởng Việt Nam sẽ tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, lấy người dân làm trung tâm, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, trở thành mô hình thành công để các quốc gia khác học tập.
Tổng Thư ký đánh giá cao những đóng góp tích cực, nổi bật của Việt Nam trong thời gian qua đối với công việc chung của LHQ trên tất cả các lĩnh vực trụ cột, trong đó có việc đảm nhiệm thành công cương vị Ủy viên Không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020-2021 và triển khai lực lượng tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ.
Tổng Thư ký khẳng định LHQ sẽ tiếp tục quan tâm, hỗ trợ các ưu tiên phát triển của Việt Nam; kỳ vọng Việt Nam phát huy hơn nữa vai trò, vị thế của mình tại LHQ, đóng góp trong giải quyết các vấn đề toàn cầu; ủng hộ Việt Nam sẵn sàng tiếp tục đóng vai trò chủ nhà, chủ trì tổ chức các sự kiện, hội nghị quốc tế lớn về biển và đại dương thời gian tới.
Trong trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực, hai bên nhất trí cần tiếp tục củng cố chủ nghĩa đa phương với LHQ đóng vai trò trung tâm, đề cao tuân thủ luật pháp quốc tế, tinh thần đoàn kết, hợp tác trong bối cảnh tình hình an ninh – chính trị thế giới và khu vực có nhiều biến động khó lường.
Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác LHQ – ASEAN và phát huy vai trò của ASEAN trong giải quyết vấn đề khu vực, ủng hộ các nỗ lực của ASEAN và các nước liên quan trong triển khai Đồng thuận 5 điểm để hỗ trợ Myanmar ổn định tình hình, duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982.
Bình Giang
|
In a meeting with President Nguyen Xuan Phuc on October 21, United Nations (UN) Secretary General António Guterres affirmed that the UN will continue to pay attention and support the development priorities of the United Nations.
Vietnam
; Expect Vietnam to further promote its role and position.
President Nguyen Xuan Phuc and UN Secretary General António Guterres took a group photo before the talks on October 21. (Photo: Nhu Y)
During the talks after the welcoming ceremony, President Nguyen Xuan Phuc warmly welcomed UN Secretary General António Guterres to visit Vietnam, affirming that the visit was truly meaningful, right on the occasion of the 45th anniversary of Vietnam's accession. UN and is an event that creates a strong mark in Vietnam - UN relations.
The President expressed Vietnam's sincere feelings and deep gratitude to the United Nations, a trusted, loyal friend who supported Vietnam in rebuilding the difficult country after the previous war and in innovation, international integration today, as well as Secretary General António Guterres, who has always paid attention to and supported strengthening cooperation between Vietnam and the UN.
President Nguyen Xuan Phuc emphasized Vietnam's outstanding and historically significant achievements in national development; Affirming Vietnam's foreign policy of independence, self-reliance, multilateralization, diversification, proactive and active international integration.
The President emphasized that Vietnam is strongly committed to multilateralism, supports the central role of the UN in global governance and coordinates and leads multilateral efforts to address common challenges; affirmed that Vietnam is ready to contribute its best to the common work of the United Nations and for peace, security and sustainable development in the world.
On the evening of October 21, UN Secretary General António Guterres attended the 45th anniversary of Vietnam - UN chaired by President Nguyen Xuan Phuc.
Discussing specific cooperation issues, the President asked the UN to continue to pay attention and support Vietnam in responding to the COVID-19 pandemic, and advise on the development of policies to mobilize international resources in implementation. long-term recovery strategy in a green, sustainable, more self-reliant direction, effectively implementing the Sustainable Development Goals (SDGs), building a rule of law state.
The President emphasized that Vietnam is actively implementing its climate commitment to achieve net zero emissions by 2050 and asked the UN for active support in this process.
Vietnam - UN leaders and officials at the meeting on October 21. (Photo: Nhu Y)
Promote international law
Mr. António Guterres expressed his joy when he visited Vietnam for the first time as Secretary General of the United Nations. He expressed special admiration for President Ho Chi Minh and for Vietnam in the struggle for national liberation and national reconstruction, and congratulated Vietnam's important achievements in disease prevention. COVID-19, socio-economic recovery and development; We believe that Vietnam will continue to effectively implement macroeconomic stability policies, put people at the center, protect the environment, and respond to climate change, becoming a successful model for other countries. study.
The Secretary General highly appreciated Vietnam's positive and outstanding contributions in recent times to the common work of the United Nations in all pillar areas, including successfully assuming the position of Air Commissioner. permanent member of the UN Security Council for the 2020-2021 term and deploying forces to participate in UN peacekeeping activities.
The Secretary General affirmed that the UN will continue to pay attention and support Vietnam's development priorities; Expects Vietnam to further promote its role and position at the UN, contributing to solving global problems; Support Vietnam's readiness to continue to play the role of host and host major international events and conferences on the seas and oceans in the coming time.
In discussions on international and regional issues, the two sides agreed to continue strengthening multilateralism with the UN playing a central role, promoting compliance with international law, solidarity and cooperation. in the context of many unpredictable fluctuations in the world and regional political and security situation.
The two sides agreed to strengthen UN-ASEAN cooperation and promote ASEAN's role in resolving regional issues, supporting the efforts of ASEAN and related countries in implementing the 5-point Consensus to support Myanmar's stability. determine the situation, maintain peace, stability, security, safety and freedom of navigation and aviation in the East Sea, and peacefully resolve disputes on the basis of international law, especially the UN Convention on the Law of the Sea 1982.
Binh Giang
|
Theo tin từ gia đình, Giáo sư Nguyễn Văn Trung, nguyên Khoa trưởng Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, do tuổi cao sức yếu, đã qua đời ở Brossard, Québec,
Canada
, lúc 21 giờ 30 ngày 19-10-2022, hưởng thọ 92 tuổi.
GS Nguyễn Văn Trung (còn có bút danh Phan Mai, Hoàng Thái Linh) sinh ngày 26-9-1930, quê ở làng Thanh Hương,
huyện Thanh Liêm
,
tỉnh Hà Nam
.
Sau khi học trung học Chu Văn An ở Hà Nội, từ 1950-1955, ông du học tại Pháp và Bỉ, đậu cử nhân triết học. Từ 1955-1960, ông về miền Nam mở trường mẫu giáo, dạy trung học ở Sài Gòn, rồi Đại học Huế. Năm 1961, ông trở lại Bỉ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Louvain. Về nước, ông dạy đại học ở Sài Gòn và Đà Lạt, từng làm Khoa trưởng (tương đương hiệu trưởng ngày nay) Đại học Văn khoa Sài Gòn, sau đó làm Trưởng ban (tương đương Trưởng khoa ngày nay) Triết học Tây phương thuộc trường này.
Sau 1975, ông tiếp tục nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP HCM. Từ cuối năm 1993, sau khi về hưu, ông cùng gia đình định cư tại Montréal, Québec, Canada.
GS Nguyễn Văn Trung
Sau khi học trung học Chu Văn An ở Hà Nội, từ 1950-1955, ông du học tại
Pháp
và Bỉ, đậu cử nhân triết học. Từ 1955-1960, ông về miền Nam mở trường mẫu giáo, dạy trung học ở Sài Gòn, rồi Đại học Huế. Năm 1961, ông trở lại Bỉ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Louvain. Về nước, ông dạy đại học ở Sài Gòn và Đà Lạt, từng làm Khoa trưởng (tương đương hiệu trưởng ngày nay) Đại học Văn khoa Sài Gòn, sau đó làm Trưởng ban (tương đương Trưởng khoa ngày nay) Triết học Tây phương thuộc trường này.
Sau 1975, ông tiếp tục nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP HCM. Từ cuối năm 1993, sau khi về hưu, ông cùng gia đình định cư tại Montréal, Québec, Canada.
Nhà giáo uyên bác và dấn thân
Ở miền Nam giai đoạn 1955-1975, Nguyễn Văn Trung không chỉ là một nhà giáo, nhà nghiên cứu trong phạm vi học đường mà còn là một nhà báo, nhà bình luận chính trị, nhà hoạt động xã hội với quan niệm “tri hành hiệp nhất”. Ông tham gia sáng lập các tạp chí
Đại Học, Hành Trình, Đất Nước và cộng tác với nhiều tờ báo như Sáng Tạo, Bách Khoa, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn, Văn Học, Nghiên Cứu Văn Học, Thái Độ, Đối Diện, Trình Bầy, Tin Sáng, Sống Đạo, Dân Chủ Mới
… Ông cũng là thành viên ban chủ trương các nhà xuất bản Nam Sơn và Trình Bầy.
Nguyễn Văn Trung cùng với Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trương Bá Cần, Nguyễn Huy Lịch, Thiện Cẩm, Thế Nguyên, Diễm Châu… được xem như những trí thức Công giáo tiêu biểu dấn thân vào những hoạt động chống Mỹ, kêu gọi hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Ông khuyến khích sinh viên bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc, đồng thời tìm hiểu triết học Marx thời trẻ trong khía cạnh nhân bản của nó. Ông cùng một số đồng nghiệp tham gia tuyệt thực trước Hạ nghị viện, đòi chính quyền Việt Nam Cộng hòa trả tự do cho các sinh viên tranh đấu và từng được cử làm Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam (1970).
Nguyễn Văn Trung có một sự nghiệp trước tác phong phú gồm nhiều thể loại. Về biên khảo triết học, ngoài những sách giáo khoa bậc trung học, ông đã biên soạn các công trình
Triết học tổng quát
(1957),
Danh từ triết học
(đồng tác giả, 1958),
Ca tụng thân xác
(1967),
Ngôn ngữ và thân xác
(1968),
Hành trình trí thức của Karl Marx
(1969),
Đưa vào triết học
(1970),
Nhận diện Marx
(1974),
Triết lý văn nghệ
(1974).
Về nghiên cứu văn học, ông cho xuất bản
Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết
(1962),
Lược khảo văn học
(ba tập, 1963-1968),
Nhà văn – người là ai, với ai
? (1965),
Vụ án Truyện Kiều
(1972),
Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc
(1974),
Trường hợp Phạm Quỳnh
(1974),
Chủ đích Nam Phong
(1975),
Câu đố Việt Nam
(1986),
Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản
(1987).
Trên lĩnh vực văn hóa – lịch sử, ông công bố các tác phẩm
Biện chứng giải thoát trong Phật giáo
(1958),
Người Công giáo trước thời đại
(đồng tác giả, 1961),
Lương tâm Công giáo và công bằng xã hội
(đồng tác giả, 1963),
Nhận định
(6 tập viết và in trước 1975, 4 tập sau 1975),
Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại
(1963),
Góp phần phê phán giáo dục và đại học
(1967),
Trương Vĩnh Ký – nhà văn hóa
(1993),
Về sách báo của tác giả Công giáo thế kỷ XVIII-XIX
(1993),
Hồ sơ Lục châu học: Tìm hiểu con người ở vùng đất mới
(2015).
Là người được đào tạo trong môi trường văn minh phương Tây, Nguyễn Văn Trung có điều kiện đi sâu tìm hiểu và quảng bá các trào lưu tư tưởng triết học và mỹ học hiện đại: phân tâm học, hiện tượng luận, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, tiểu thuyết mới, phê bình mới, lý thuyết tiếp nhận.
Ông giúp độc giả làm quen với quan niệm của những tác gia nổi tiếng: F. de Saussure, R. Jakobson, G. Lanson, M. Heidegger, J.-P. Sartre, P. Valéry, A. Robbe-Grillet, N. Sarraute, Ch. Mauron, G. Bachelard, L. Goldmann, R. Barthes… Vào lúc ra mắt, bộ
Lược khảo văn học
gồm ba tập “Những vấn đề tổng quát”, “Ngôn ngữ văn chương và kịch”, “Nghiên cứu và phê bình văn học” có thể xem là bộ sách lý luận văn học cập nhật những tư tưởng hiện đại một cách hệ thống nhất ở nước ta. Sau khi được tái bản, bộ sách này đoạt Giải thưởng Sách quốc gia năm 2020. Trước đó hai cuốn
Ca tụng thân xác, Hành trình trí thức của Karl Marx,
và gần đây cuốn
Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại
cũng được in lại.
Người trí thức gắn bó với văn hóa dân tộc
Nguyễn Văn Trung không phải là nhà nghiên cứu thuần túy lý thuyết. Có thiên hướng xã hội và tinh thần dân tộc, ông luôn gắn liền những suy tưởng của mình với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và bị lệ thuộc.
Trong ý hướng góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
Việt Nam
, ông liên hệ lý thuyết với lịch sử văn học dân tộc và bước đầu đưa ra những gợi ý cho người sáng tác, phê bình. Ông góp tiếng nói phân tích và bình luận những hiện tượng văn học phức tạp của dân tộc từ cổ điển (
Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương
…) đến hiện đại (Trương Vĩnh Ký, Tự Lực Văn đoàn, văn chương Nam bộ…). Hiếm thấy nhà nghiên cứu triết học nào có tầm nhìn sâu rộng về văn học Việt Nam như ông. Có thể xem ông là nhà trí thức từ bỏ tháp ngà để nhập cuộc với đời sống, theo tinh thần của Jean-Paul Sartre, triết gia hiện sinh mà ông chịu nhiều ảnh hưởng.
Với Nguyễn Văn Trung, Sartre không chỉ là một hiện tượng văn hóa mà còn là một chỗ dựa tinh thần, một nguồn chia sẻ và lời giải đáp cho những vấn đề của con người tại thế, trong hoàn cảnh sống cụ thể. Trong bài
Sartre trong đời tôi
, ông viết: “Chúng ta không có thời đại nào khác, ngoài thời đại hiện nay của chúng ta. Có thể có thời đại khác thanh bình hơn, đẹp hơn, nhưng đó không phải thời đại của ta, thời đại có chiến tranh nóng lạnh giữa hai khối, thời đại có mối đe dọa thường xuyên của bom nguyên tử, thời đại đế quốc chủ nghĩa, thực dân xâm lăng… Chúng ta không có quyền lựa chọn hoàn cảnh, thời đại, nhưng chỉ có thể lựa chọn trong hoàn cảnh, thời đại của ta” (
Nhận định V
, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, 1969, tr. 249).
Ở miền Nam trước 1975, ngòi bút Nguyễn Văn Trung có ảnh hưởng nhất định đến công chúng, nhất là trí thức trẻ, sinh viên học sinh. Một phần vì ông thể hiện quan niệm xem triết học, văn học không chỉ như một đối tượng khảo sát mà quan trọng hơn, là một cách thế sống và một thái độ làm người ở đời. Phần khác vì văn phong của ông không tư biện, lý thuyết suông mà vừa khúc chiết, mạch lạc, vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống và giàu yếu tố thời sự.
Hình ảnh người trí thức băn khoăn, thao thức nơi Nguyễn Văn Trung từng gợi cảm hứng cho Ngô Thế Vinh xây dựng nhân vật Hoàng Thái Trung trong tiểu thuyết
Vòng đai xanh
: “Dưới con mắt của đám sinh viên trẻ, ông Trung được coi như thần tượng, một trí thức dấn thân, chữ của ông Trung. Vậy mà ông cũng có những nỗi băn khoăn thất vọng. Ông Trung cô đơn trong sự yêu mến của nhiều người khác. Đôi mắt sáng và buồn của ông soi qua một làn kính trắng dày, trông ông Trung trơ trọi như một ảnh tượng đẫm nét bơ vơ trong một không gian bạc màu”.
Người tìm đường, hay tra vấn và đặt lại vấn đề thường là người cô đơn. Trong nghiên cứu những hiện tượng nhân văn, không hiếm trường hợp sự phê phán nồng nhiệt có thể dẫn đến chỗ không thấu tình đạt lý, nhất là khi chưa bao quát toàn diện và thấu đáo những tình thế của người cầm bút. Nguyễn Văn Trung từng có dịp nhìn lại những đánh giá của mình trước đây, lúc ông viết những lời lẽ nặng nề và không thỏa đáng về một số hiện tượng văn học sử như
Đông Dương Tạp Chí
và
Nam Phong Tạp Chí
.
Trong tinh thần đó, những ý kiến của ông cần được xem xét một cách khách quan như một bài học kinh nghiệm về ý thức trách nhiệm của người cầm bút không xem mình là người phát ngôn sau cùng cho chân lý mà chỉ là tiếng nói đóng góp vào cuộc đối thoại dân chủ không ngưng nghỉ trên con đường đi tìm sự thật. Trên tất cả những điều đó, nhớ đến GS Nguyễn Văn Trung là nhớ đến hình ảnh một người trí thức không bao giờ thờ ơ với vận mệnh Tổ quốc, luôn trăn trở và ưu tư với văn hóa dân tộc, đồng thời không ngần ngại đón nhận cái mới vì sự phát triển của đất nước trong một thế giới đang chuyển biến.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
|
Theo tin từ gia đình, Giáo sư Nguyễn Văn Trung, nguyên Khoa trưởng Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, do tuổi cao sức yếu, đã qua đời ở Brossard, Québec,
Canada
, lúc 21 giờ 30 ngày 19-10-2022, hưởng thọ 92 tuổi.
GS Nguyễn Văn Trung (còn có bút danh Phan Mai, Hoàng Thái Linh) sinh ngày 26-9-1930, quê ở làng Thanh Hương,
huyện Thanh Liêm
,
tỉnh Hà Nam
.
Sau khi học trung học Chu Văn An ở Hà Nội, từ 1950-1955, ông du học tại Pháp và Bỉ, đậu cử nhân triết học. Từ 1955-1960, ông về miền Nam mở trường mẫu giáo, dạy trung học ở Sài Gòn, rồi Đại học Huế. Năm 1961, ông trở lại Bỉ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Louvain. Về nước, ông dạy đại học ở Sài Gòn và Đà Lạt, từng làm Khoa trưởng (tương đương hiệu trưởng ngày nay) Đại học Văn khoa Sài Gòn, sau đó làm Trưởng ban (tương đương Trưởng khoa ngày nay) Triết học Tây phương thuộc trường này.
Sau 1975, ông tiếp tục nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP HCM. Từ cuối năm 1993, sau khi về hưu, ông cùng gia đình định cư tại Montréal, Québec, Canada.
GS Nguyễn Văn Trung
Sau khi học trung học Chu Văn An ở Hà Nội, từ 1950-1955, ông du học tại
Pháp
và Bỉ, đậu cử nhân triết học. Từ 1955-1960, ông về miền Nam mở trường mẫu giáo, dạy trung học ở Sài Gòn, rồi Đại học Huế. Năm 1961, ông trở lại Bỉ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Louvain. Về nước, ông dạy đại học ở Sài Gòn và Đà Lạt, từng làm Khoa trưởng (tương đương hiệu trưởng ngày nay) Đại học Văn khoa Sài Gòn, sau đó làm Trưởng ban (tương đương Trưởng khoa ngày nay) Triết học Tây phương thuộc trường này.
Sau 1975, ông tiếp tục nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP HCM. Từ cuối năm 1993, sau khi về hưu, ông cùng gia đình định cư tại Montréal, Québec, Canada.
Nhà giáo uyên bác và dấn thân
Ở miền Nam giai đoạn 1955-1975, Nguyễn Văn Trung không chỉ là một nhà giáo, nhà nghiên cứu trong phạm vi học đường mà còn là một nhà báo, nhà bình luận chính trị, nhà hoạt động xã hội với quan niệm “tri hành hiệp nhất”. Ông tham gia sáng lập các tạp chí
Đại Học, Hành Trình, Đất Nước và cộng tác với nhiều tờ báo như Sáng Tạo, Bách Khoa, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn, Văn Học, Nghiên Cứu Văn Học, Thái Độ, Đối Diện, Trình Bầy, Tin Sáng, Sống Đạo, Dân Chủ Mới
… Ông cũng là thành viên ban chủ trương các nhà xuất bản Nam Sơn và Trình Bầy.
Nguyễn Văn Trung cùng với Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trương Bá Cần, Nguyễn Huy Lịch, Thiện Cẩm, Thế Nguyên, Diễm Châu… được xem như những trí thức Công giáo tiêu biểu dấn thân vào những hoạt động chống Mỹ, kêu gọi hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Ông khuyến khích sinh viên bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc, đồng thời tìm hiểu triết học Marx thời trẻ trong khía cạnh nhân bản của nó. Ông cùng một số đồng nghiệp tham gia tuyệt thực trước Hạ nghị viện, đòi chính quyền Việt Nam Cộng hòa trả tự do cho các sinh viên tranh đấu và từng được cử làm Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam (1970).
Nguyễn Văn Trung có một sự nghiệp trước tác phong phú gồm nhiều thể loại. Về biên khảo triết học, ngoài những sách giáo khoa bậc trung học, ông đã biên soạn các công trình
Triết học tổng quát
(1957),
Danh từ triết học
(đồng tác giả, 1958),
Ca tụng thân xác
(1967),
Ngôn ngữ và thân xác
(1968),
Hành trình trí thức của Karl Marx
(1969),
Đưa vào triết học
(1970),
Nhận diện Marx
(1974),
Triết lý văn nghệ
(1974).
Về nghiên cứu văn học, ông cho xuất bản
Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết
(1962),
Lược khảo văn học
(ba tập, 1963-1968),
Nhà văn – người là ai, với ai
? (1965),
Vụ án Truyện Kiều
(1972),
Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc
(1974),
Trường hợp Phạm Quỳnh
(1974),
Chủ đích Nam Phong
(1975),
Câu đố Việt Nam
(1986),
Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản
(1987).
Trên lĩnh vực văn hóa – lịch sử, ông công bố các tác phẩm
Biện chứng giải thoát trong Phật giáo
(1958),
Người Công giáo trước thời đại
(đồng tác giả, 1961),
Lương tâm Công giáo và công bằng xã hội
(đồng tác giả, 1963),
Nhận định
(6 tập viết và in trước 1975, 4 tập sau 1975),
Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại
(1963),
Góp phần phê phán giáo dục và đại học
(1967),
Trương Vĩnh Ký – nhà văn hóa
(1993),
Về sách báo của tác giả Công giáo thế kỷ XVIII-XIX
(1993),
Hồ sơ Lục châu học: Tìm hiểu con người ở vùng đất mới
(2015).
Là người được đào tạo trong môi trường văn minh phương Tây, Nguyễn Văn Trung có điều kiện đi sâu tìm hiểu và quảng bá các trào lưu tư tưởng triết học và mỹ học hiện đại: phân tâm học, hiện tượng luận, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, tiểu thuyết mới, phê bình mới, lý thuyết tiếp nhận.
Ông giúp độc giả làm quen với quan niệm của những tác gia nổi tiếng: F. de Saussure, R. Jakobson, G. Lanson, M. Heidegger, J.-P. Sartre, P. Valéry, A. Robbe-Grillet, N. Sarraute, Ch. Mauron, G. Bachelard, L. Goldmann, R. Barthes… Vào lúc ra mắt, bộ
Lược khảo văn học
gồm ba tập “Những vấn đề tổng quát”, “Ngôn ngữ văn chương và kịch”, “Nghiên cứu và phê bình văn học” có thể xem là bộ sách lý luận văn học cập nhật những tư tưởng hiện đại một cách hệ thống nhất ở nước ta. Sau khi được tái bản, bộ sách này đoạt Giải thưởng Sách quốc gia năm 2020. Trước đó hai cuốn
Ca tụng thân xác, Hành trình trí thức của Karl Marx,
và gần đây cuốn
Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại
cũng được in lại.
Người trí thức gắn bó với văn hóa dân tộc
Nguyễn Văn Trung không phải là nhà nghiên cứu thuần túy lý thuyết. Có thiên hướng xã hội và tinh thần dân tộc, ông luôn gắn liền những suy tưởng của mình với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và bị lệ thuộc.
Trong ý hướng góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
Việt Nam
, ông liên hệ lý thuyết với lịch sử văn học dân tộc và bước đầu đưa ra những gợi ý cho người sáng tác, phê bình. Ông góp tiếng nói phân tích và bình luận những hiện tượng văn học phức tạp của dân tộc từ cổ điển (
Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương
…) đến hiện đại (Trương Vĩnh Ký, Tự Lực Văn đoàn, văn chương Nam bộ…). Hiếm thấy nhà nghiên cứu triết học nào có tầm nhìn sâu rộng về văn học Việt Nam như ông. Có thể xem ông là nhà trí thức từ bỏ tháp ngà để nhập cuộc với đời sống, theo tinh thần của Jean-Paul Sartre, triết gia hiện sinh mà ông chịu nhiều ảnh hưởng.
Với Nguyễn Văn Trung, Sartre không chỉ là một hiện tượng văn hóa mà còn là một chỗ dựa tinh thần, một nguồn chia sẻ và lời giải đáp cho những vấn đề của con người tại thế, trong hoàn cảnh sống cụ thể. Trong bài
Sartre trong đời tôi
, ông viết: “Chúng ta không có thời đại nào khác, ngoài thời đại hiện nay của chúng ta. Có thể có thời đại khác thanh bình hơn, đẹp hơn, nhưng đó không phải thời đại của ta, thời đại có chiến tranh nóng lạnh giữa hai khối, thời đại có mối đe dọa thường xuyên của bom nguyên tử, thời đại đế quốc chủ nghĩa, thực dân xâm lăng… Chúng ta không có quyền lựa chọn hoàn cảnh, thời đại, nhưng chỉ có thể lựa chọn trong hoàn cảnh, thời đại của ta” (
Nhận định V
, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, 1969, tr. 249).
Ở miền Nam trước 1975, ngòi bút Nguyễn Văn Trung có ảnh hưởng nhất định đến công chúng, nhất là trí thức trẻ, sinh viên học sinh. Một phần vì ông thể hiện quan niệm xem triết học, văn học không chỉ như một đối tượng khảo sát mà quan trọng hơn, là một cách thế sống và một thái độ làm người ở đời. Phần khác vì văn phong của ông không tư biện, lý thuyết suông mà vừa khúc chiết, mạch lạc, vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống và giàu yếu tố thời sự.
Hình ảnh người trí thức băn khoăn, thao thức nơi Nguyễn Văn Trung từng gợi cảm hứng cho Ngô Thế Vinh xây dựng nhân vật Hoàng Thái Trung trong tiểu thuyết
Vòng đai xanh
: “Dưới con mắt của đám sinh viên trẻ, ông Trung được coi như thần tượng, một trí thức dấn thân, chữ của ông Trung. Vậy mà ông cũng có những nỗi băn khoăn thất vọng. Ông Trung cô đơn trong sự yêu mến của nhiều người khác. Đôi mắt sáng và buồn của ông soi qua một làn kính trắng dày, trông ông Trung trơ trọi như một ảnh tượng đẫm nét bơ vơ trong một không gian bạc màu”.
Người tìm đường, hay tra vấn và đặt lại vấn đề thường là người cô đơn. Trong nghiên cứu những hiện tượng nhân văn, không hiếm trường hợp sự phê phán nồng nhiệt có thể dẫn đến chỗ không thấu tình đạt lý, nhất là khi chưa bao quát toàn diện và thấu đáo những tình thế của người cầm bút. Nguyễn Văn Trung từng có dịp nhìn lại những đánh giá của mình trước đây, lúc ông viết những lời lẽ nặng nề và không thỏa đáng về một số hiện tượng văn học sử như
Đông Dương Tạp Chí
và
Nam Phong Tạp Chí
.
Trong tinh thần đó, những ý kiến của ông cần được xem xét một cách khách quan như một bài học kinh nghiệm về ý thức trách nhiệm của người cầm bút không xem mình là người phát ngôn sau cùng cho chân lý mà chỉ là tiếng nói đóng góp vào cuộc đối thoại dân chủ không ngưng nghỉ trên con đường đi tìm sự thật. Trên tất cả những điều đó, nhớ đến GS Nguyễn Văn Trung là nhớ đến hình ảnh một người trí thức không bao giờ thờ ơ với vận mệnh Tổ quốc, luôn trăn trở và ưu tư với văn hóa dân tộc, đồng thời không ngần ngại đón nhận cái mới vì sự phát triển của đất nước trong một thế giới đang chuyển biến.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
|
Ý NIỆM – THUẬT NGỮ – PHÁN ĐOÁN – MỆNH ĐỀ
ÉMILE DURKHEIM
(1857-1917)
ĐINH HỒNG PHÚC
dịch
Bất cứ chân lý nào cũng được biểu đạt bằng một phán đoán, và bất cứ phán đoán nào cũng được phát biểu ra bằng một
mệnh đề
. Phán đoán được tạo thành từ
các ý niệm
, mệnh đề được tạo thành từ
các thuật ngữ.
Ý niệm là
một hành vi của tinh thần biểu thị một sự vật xác định;
ý niệm nào cũng là một
sự biểu thị
. Thuật ngữ là cái biểu đạt ý niệm, do đó, bất cứ điều gì đúng với một thuật ngữ thì cùng đúng với ý niệm mà nó biểu đạt; nhưng vì thuật ngữ có thể chỉ biểu đạt một phần của ý niệm, cho nên không phải
lúc nào cái gì đúng với ý niệm thì cũng đúng với thuật ngữ biểu đạt nó
.
Các thuật ngữ là chung (généraux) khi chúng biểu đạt một ý niệm chung và là
riêng
(
particuliers)
trong trường hợp ngược lại.
Ở các thuật ngữ chung, có hai đặc điểm:
nội hàm (compréhension)
, tức tập hợp các đặc điểm phân biệt ý niệm được biểu đạt với tất cả những ý niệm khác, và trái lại,
ngoại diên
(extension)
là tập hợp các sự vật mà thuật ngữ ấy chỉ đến.
Ngoại diên và nội hàm tuân theo quy luật mà ta phát biểu như sau: “Ngoại diên tỷ lệ nghịch với nội hàm.”
Thực vậy, nếu các đặc điểm phân biệt thuật ngữ này với mọi thuật ngữ khác càng nhiều thì số lượng các đối tượng mà chúng biểu thị sẽ càng ít. Trái lại, nếu thuật ngữ ấy chỉ tới nhiều đối tượng thì đó là vì nó có ít đặc điểm phân biệt hơn.
Giới hạn trên của nội hàm là cái vô hạn, giới hạn dưới của ngoại diên là
đơn vị
. Thực vậy, khi một ý niệm có nội hàm vô hạn, tức là nó biểu thị một lượng vô hạn các đặc điểm, nó chỉ áp dụng cho một sự vật duy nhất: không thể có hai đối tượng riêng biệt cùng có chung một lượng vô hạn các đặc điểm.
Phán đoán là
mối quan hệ giữa hai ý niệm
. Mệnh đề phát biểu mối quan hệ này ra bằng ngôn từ. Mọi phán đoán được tạo thành từ ba ý niệm, do đó mọi mệnh đề được tạo thành từ ba thuật ngữ:
1.
Chủ từ
2.
Thuộc từ
, hay
vị từ
,
cái được khẳng định của chủ từ
3.
Hệ từ
, dùng để nối kết hai thuật ngữ [chủ từ và thuộc từ] với nhau, bằng cách biểu thị thuật ngữ trước thích hợp với thuật ngữ sau. Hệ từ được dùng bao giờ cũng là động từ “là”.
Nói chính xác thì hệ từ có nghĩa là gì? Người ta thường tự hỏi động từ “là” được dùng làm hệ từ có mang tính
khách quan
không hay chỉ là một ý kiến chủ quan. Nhưng
mọi phán đoán đều mang tính chủ quan.
Khi tôi nói “Thượng đế là tốt lành” tôi chỉ muốn khẳng định rằng vị từ “tốt lành” thích hợp với chủ từ “Thượng đế” chứ không phải nói đến ý niệm về sự tồn tại nào cả. Cho nên hệ từ bao giờ cũng chỉ biểu thị một mối quan hệ phù hợp hay không phù hợp giữa hai ý niệm, chứ không khẳng định gì về sự hiện hữu khách quan của nối quan hệ này [Xem thêm:
Tâm lý học,
XXIX, B. tr.].
Các phán đoán có thể được xem xét hoặc từ điểm nhìn
chất
hoặc từ điểm nhìn
lượng
.
Lượng
của một phán đoán là cái cho biết phán đoán ấy là
chung
(universel) hay
riêng
(particulier). Mệnh đề chung là mệnh đề mà chủ từ của nó được nói tới trong toàn bộ ngoại diên của từ này: “Mọi người đều là hữu tử.” — “Không có người nào là bất tử.” Trong cả hai trường hợp, chữ “người” được nói tới trong ngoại diên rộng lớn nhất của nó. Mệnh đề riêng là mệnh đề trong đó chủ từ được nói tới chỉ trong một phần ngoại diên của từ này: “Một vài người là thông minh”. Thuật ngữ “mệnh đề đơn nhất” (proposition singulière) thường được dùng để chỉ nhiều mệnh đề chung, tức mệnh đề ở đó chủ từ của nó là một danh từ riêng.
Từ điểm nhìn chất, người ta phân biệt các mệnh đề là
khẳng định
hay
phủ định
. “Con người là thực thể hữu tử.” “Con người không phải là thực thể hữu tử.
Bất cứ mệnh đề nào cũng đều có cùng một lúc cả chất lẫn lượng. Kết hợp các dữ kiện này lại, ta có bốn loại mệnh đề, mà các nhà kinh viện gọi bằng các ký tự A, E, I, O, sau đây:
1. Mệnh đề khẳng định chung A
2. Mệnh đề phủ định chung E
3. Mệnh đề khẳng định riêng I
4. Mệnh đề phủ định riêng O
Cách phân loại này thuận tiện đối với lý thuyết tam đoạn luận. Nó được diễn tả bằng hai câu thơ:
Asserit A, negat E, verum generaliter ambo ;
Asserit I, negat O, sed particulariter ambo.[1]
Ta gọi nghịch đảo một mệnh đề là hoán đổi vị trí của chủ từ và thuộc từ, mệnh đề vẫn đúng, chẳng hạn: “Con người là động vật = một số động vật là con người.”
Đây là các quy tắc xác định lượng mới của mệnh đề khi ta nghịch đảo:
Mệnh đề
khẳng định chung
trở thành mệnh đề
khẳng định riêng.
Vì thuộc từ ở trường hợp đầu có ngoại diên lớn hơn chủ từ nên trong trường hợp sau nó phải nhỏ lại.
Mệnh đề
riêng không đổi
về lượng. “Một số người là thực thể hữu tử” = “một số thực thể hữu tử là người”. Cả thuộc từ lẫn chủ từ đều có ngoại diên bị thu hẹp nên không có những sự thay đổi nào xảy ra.
Mệnh đề
phủ định chung
không thay đổi
cả lượng lẫn chất: “Động vật không phải là hòn đá” “Hòn đá không phải là động vật”.
Cuối cùng, mệnh đề phủ định riêng là
không thể nghịch đảo
: “Một số kẻ ăn chơi trụy lạc không phải là người giàu” không thể đảo thành “một số người giàu không phải là những kẻ ăn chơi trụy lạc.”
[1] Tiếng Latinh:
A khẳng định, E phủ định một mệnh đề chung nào đó; I khẳng định và O phủ định nhưng một mệnh đề riêng nào đó.
|
CONCEPTS – TERMS – JUDGMENT – CLAUSE
ÉMILE DURKHEIM
(1857-1917)
DINH HONG PHUC
pandemic
Any truth is expressed by a judgment, and any judgment is expressed by a statement.
clause
. Judgments are made up of words
ideas
, clauses are made up of words
terms.
The idea is
an act of the mind that represents a definite thing;
Every concept is the same
presentment
. A term is a signifier of an idea, so whatever is true of a term is true of the idea it represents; but since the term can express only part of the idea, it is not
Whenever something is true of the concept, it is also true of the term expressing it
.
Terms are general (généraux) when they express a common idea and are
private
(
particuliers)
In the opposite case.
In general terms, there are two characteristics:
compréhension
, that is, the set of characteristics that distinguish the idea expressed from all other ideas, and vice versa,
extension
(extension)
is the set of things to which that term refers.
External appearance and internal meaning follow the rule that we state as follows: "External appearance is inversely proportional to internal meaning."
Indeed, the more numerous the features that distinguish this term from every other term, the smaller will be the number of objects they represent. On the contrary, if the term refers to more than one object, it is because it has fewer distinguishing characteristics.
The upper limit of internal meaning is the infinite, the lower limit of external meaning is
unit
. Indeed, when a concept has infinite connotation, that is, it represents an infinite number of characteristics, it applies to only one thing: there cannot be two separate objects that share the same quantity. infinite features.
Judgment is
relationship between two concepts
. The clause states this relationship in words. Every judgment is made up of three ideas, so every proposition is made up of three terms:
first.
Subject
2.
Belongs to words
, nice
predicate
,
the asserted thing of the subject
3.
Magnetic system
, used to connect two terms [subject and predicate] together, by indicating that the former term is compatible with the latter term. The noun used is always the verb "to be".
What exactly does the word system mean? People often wonder if the verb "is" is used as a subjective noun
objective
Whether or not it's just a subjective opinion. But
All judgments are subjective.
When I say “God is good” I only want to assert that the predicate “good” is consistent with the subject “God” and not to refer to any idea of existence. Therefore, the noun system always only represents a suitable or inappropriate relationship between two concepts, but does not confirm anything about the objective existence of this relationship [See more:
Psychology,
XXIX, B. p.].
Judgments can be considered or from point of view
matter
or from point of view
quantity
.
Quantity
of a judgment is what indicates that judgment is
shared
(universe) good
private
(particulier). A general proposition is a proposition whose subject is said throughout the entire exterior of the word: “All men are mortal.” — “No one is immortal.” In both cases, the word “person” is spoken of in its broadest expression. A proper clause is a clause in which the subject is mentioned only in the external part of the word: “Some people are intelligent.” The term “single proposition” (proposition singulière) is often used to refer to many general propositions, that is, clauses in which the subject is a proper noun.
From the point of view of quality, people distinguish between is propositions
confirm
nice
negative
. “Human beings are mortal entities.” “Human beings are not mortal entities.
Any proposition has both quality and quantity at the same time. Combining these facts, we have four types of propositions, which scholastics call by the letters A, E, I, O, as follows:
1. General affirmative clause A
2. General negative clause E
3. Separate affirmative clause I
4. Private negative clause O
This classification is convenient for syllogistic theory. It is described in two verses:
Asserit A, negat E, verum generaliter ambo ;
Asserit I, negat O, sed particulariter ambo.[1]
We call inversion of a clause exchanging the positions of the subject and predicate, the clause is still true, for example: “Humans are animals = some animals are humans.”
These are the rules for determining the new quantity of the clause when we invert:
Clause
general assertion
becomes a proposition
separate assertion.
Because the predicate in the first case has a larger externalization than the subject, in the following case it must be smaller.
Clause
private remains unchanged
in quantity. “Some people are mortal entities” = “some mortal entities are people.” Both the predicate and the subject have a narrowed appearance, so no changes occur.
Clause
general negation
constant
both quantity and quality: "Animals are not stones" "Stones are not animals".
Finally, the proper negative clause is
cannot be inverted
: “Some debauchees are not rich people” cannot be changed to “some rich people are not debauchees.”
[1] Latin:
A affirms, E denies a certain general proposition; I affirms and O negates a particular clause.
|
“Hoàng đế chi bảo” là chiếc ấn biểu tượng quyền lực vua triều Nguyễn, từng được trao cho đại diện cách mạng trong lễ thoái vị của Bảo Đại nhưng bị quân Pháp chiếm được.
Ngày 20-10, ông Hoàng Việt Trung, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, cho biết nhiều nguồn thông tin khẳng định vào ngày 31-10 tới đây, tại sàn Drouot (Pháp) sẽ tổ chức đấu giá chiếc ấn “Hoàng đế chi bảo” niên đại triều vua Minh Mạng.
Trên trang đấu giá “Hoàng đế chi bảo” có giá dự kiến từ 2 – 3 triệu EUR. Thông tin việc đưa “Hoàng đế chi bảo” ra đấu giá thu hút sự quan tâm giới sưu tầm đồ cổ bởi đây là cổ vật Việt Nam có giá trị nhất từ trước đến nay được đưa ra đấu giá.
Mặt trước của “Hoàng đế chi bảo”. Ảnh do ông Hoàng Việt Trung cung cấp.
“Hoàng đế chi bảo” có nghĩa là ấn của hoàng đế, một trong những chiếc ấn có ý nghĩa quan trọng nhất của triều Nguyễn, chỉ được sử dụng cho các sắc phong và văn bản quan trọng nhất. Đây là chiếc kim bảo lớn và đẹp nhất của triều Nguyễn, được đúc vào năm thứ 4 đời vua Minh Mạng (năm 1823), chất liệu bằng vàng, nặng 10,78 kg. Ấn được truyền từ đời vua này đến đời vua cuối cùng nhà Nguyễn là Bảo Đại.
Mặt bên của “Hoàng đế chi bảo”. Ảnh do ông Hoàng Việt Trung cung cấp.
Các nhà nghiên cứu cho biết “Hoàng đế chi bảo” có hình vuông, quai ấn là một con rồng uốn khúc (rồng đoanh), đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước. Đỉnh đầu rồng khắc hình chữ vương; kỳ (vây lưng) và đuôi dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước; 4 chân rồng đúc rõ 5 móng, tư thế chống chân xuống mặt ấn rất vững vàng. Mặt dưới của ấn khắc 4 chữ triện “Hoàng đế chi bảo”. Mặt trên của ấn, phía 2 bên quai khắc nổi 2 dòng chữ: “Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo” (đúc vào giờ tốt ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4). “Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân” – (Đúc bằng vàng, trọng lượng 280 lạng 9 chỉ 2 phân).
“Hoàng đế chi bảo” nhìn từ trên xuống. Ảnh do ông Hoàng Việt Trung cung cấp
Việc tham gia đấu giá để đưa cổ vật này hồi hương, theo ông Trung thì vượt quá khả năng của Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế vì giá quá cao.
Tiến sĩ Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao
tỉnh Thừa Thiên – Huế
, Ủy viên Hội đồng di sản văn hóa quốc gia, cho biết “Hoàng đế chi bảo” được cựu hoàng Bảo Đại trao cho đại diện cách mạng cùng với cây kiếm trong lễ tuyên bố thoái vị của mình vào chiều 30-8-1945 tại Đại nội Huế.
Thông tin đấu giá trên DROUOT.
Hôm sau, bộ ấn kiếm được đem ra
Hà Nội
để kịp dự lễ độc lập vào ngày 2-9-1945. Cuối năm 1946, khi Pháp quay trở lại Việt Nam và đưa quân vào Hà Nội, đơn vị làm nhiệm vụ cất giữ bộ ấn kiếm trên trước khi rút lên Việt Bắc đã đem giấu chúng vào vách một ngôi chùa cổ ở ngoại thành Hà Nội.
Tuy nhiên, điều không thể ngờ là khi lính Pháp đập phá chùa để lấy gạch xây đồn bốt đã phát hiện ra bộ ấn kiếm này. Ngày 3-3-1952, Pháp đã tổ chức một nghi lễ khá long trọng trao lại ấn kiếm cho Bảo Đại, khi đó với tư cách “Quốc trưởng” của một chính phủ mới được dựng nên vội vã.
Năm 1953, Bảo Đại đã ủy quyền cho bà Mộng Điệp mang sang Pháp rồi trao cho Hoàng hậu Nam Phương và Hoàng Thái tử Bảo Long. Sau khi bà Nam Phương mất năm 1963, bộ ấn kiếm này do Bảo Long quản lý và ông đã gửi ân kiếm vào két sắt của Ngân hàng Châu Âu. Sau khi Bảo Đại qua đời năm 1997, chiếc ấn “Hoàng đế chi bảo” do bà Monique Baudot (vợ Bảo Đại cưới năm 1982) cất giữ.
|
"Emperor Chi Bao" is a seal symbolizing the power of the Nguyen Dynasty king, which was given to the revolutionary representative during Bao Dai's abdication ceremony but was captured by the French army.
On October 20, Mr. Hoang Viet Trung, Director of the Hue Monuments Conservation Center, said many sources of information confirmed that on October 31, at Drouot (France) there will be an auction of the vehicle. The "Emperor Chi Bao" seal dates back to the reign of King Minh Mang.
On the auction site, "Emperor Chi Bao" has an expected price of 2 - 3 million EUR. The news of putting "The Emperor's Chi Bao" up for auction attracted the attention of antique collectors because this is the most valuable Vietnamese antique ever put up for auction.
The front of the "Emperor's Treasure". Photo provided by Mr. Hoang Viet Trung.
“Emperor chi bao” means the emperor's seal, one of the most important seals of the Nguyen Dynasty, used only for the most important ordinations and documents. This is the largest and most beautiful golden jewel of the Nguyen Dynasty, cast in the 4th year of King Minh Mang's reign (1823), made of gold, weighing 10.78 kg. The seal was passed down from one king to the last king of the Nguyen Dynasty, Bao Dai.
Side view of "The Emperor's Treasure". Photo provided by Mr. Hoang Viet Trung.
Researchers said that the "Emperor's Treasure" has a square shape, the handle of the seal is a winding dragon, head held high, eyes looking straight ahead. The top of the dragon's head is engraved with the word king; period (dorsal fin) and tail erect, caudal fin bent forward; The dragon's 4 legs clearly depict 5 claws, the posture of resting the feet on the face is very stable. The underside of the seal is engraved with 4 words "The Emperor's Treasure". The top of the seal, on both sides of the handle, is embossed with two words: "Minh Mang's fourth year, second moon, fourth day, sand and blessings of the uncle's time" (cast at an auspicious hour on the 4th day of the second month, the 4th year of Minh Mang's reign). “Ten pieces of gold, weighing two hundred taels and nine taels of two coins” – (Cast in gold, weight 280 taels 9 cubits 2 centimeters).
"The Emperor's Treasure" viewed from above. Photo provided by Mr. Hoang Viet Trung
Participating in the auction to repatriate this antique, according to Mr. Trung, is beyond the capacity of the Hue Monuments Conservation Center because the price is too high.
Dr. Phan Thanh Hai, Director of the Department of Culture and Sports
Thua Thien Hue province
, Member of the National Cultural Heritage Council, said that the "Emperor's Treasure" was given to the revolutionary representative along with the sword by former Emperor Bao Dai during his abdication ceremony on the afternoon of August 30, 1945. at Hue Citadel.
Auction information on DROUOT.
The next day, the sword seal set was brought out
Hanoi
in time to attend the independence ceremony on September 2, 1945. At the end of 1946, when France returned to Vietnam and sent troops into Hanoi, the unit in charge of storing the above set of sword seals before withdrawing to Viet Bac hid them in the wall of an ancient pagoda on the outskirts of Hanoi. .
However, what was unexpected was that when French soldiers destroyed the pagoda to get bricks to build a post, they discovered this set of sword seals. On March 3, 1952, France held a rather solemn ceremony to hand over the sword seal to Bao Dai, then in the capacity of "Chief of State" of a hastily established new government.
In 1953, Bao Dai authorized Mrs. Mong Diep to bring it to France and then give it to Queen Nam Phuong and Crown Prince Bao Long. After Ms. Nam Phuong died in 1963, this set of sword seals was managed by Bao Long and he deposited the sword in the safe of the European Bank. After Bao Dai passed away in 1997, the "Emperor's treasure" seal was kept by Ms. Monique Baudot (Bao Dai's wife married in 1982).
|
Theo PGS.TS. Lê Bắc Huỳnh, dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) hiện tại hoàn toàn thiếu các quy định nhằm nhìn nhận tài nguyên nước là một loại tài sản công.
Ngày 21/10, phát biểu tham luận tại tọa đàm góp ý dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức, PGS.TS. Lê Bắc Huỳnh – nguyên Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước (Bộ TN&MT) đã nêu một số bất cập trong việc quản lý tài nguyên nước hiện nay và những vấn đề đặt ra cho việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước.
Theo đó, vấn đề quản lý nhà nước về tài nguyên nước hiện nay còn chồng chéo, trùng lặp, có khi bỏ trống; lực lượng thực thi còn yếu, phân tán.
Đặc biệt còn thiếu cơ chế, chính sách và còn nhiều bất cập để thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông; thiếu nội dung quy định về tham gia quản lý các lưu vực sông quốc tế, nguồn nước liên quốc gia.
Do đó, ông Huỳnh đề xuất sửa đổi, bổ sung điều 5 Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) để bổ sung và cụ thể hóa để thực hiện một số chính sách lớn liên quan đến tài nguyên nước.
PGS.TS. Lê Bắc Huỳnh – nguyên Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước, Bộ TN&MT. (Ảnh: Hữu Thắng)
Bên cạnh đó, PGS.TS. Lê Bắc Huỳnh nhấn mạnh cần nhìn nhận tài nguyên nước là một loại tài sản công. Theo đó, theo Hiến pháp 2013 quy định tại điều 53, tài nguyên nước là tài nguyên quan trọng thiết yếu, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý, cần phải được sử dụng, quản lý một cách bền vững, chia sẻ công bằng và cùng có lợi, phù hợp với luật pháp Việt Nam và cam kết quốc tế.
Tuy nhiên tại dự thảo Luật hiện tại hoàn toàn thiếu các quy định về nội dung này. Việc xác định nội dung để bổ sung các quy định là cần thiết.
Do đó chuyên gia này đề xuất bổ sung mới vào Chương 1 “Quy định chung” các quy định về sở hữu, chuyển nhượng… tài sản là sản phẩm từ nước, từ tài nguyên nước; quyền tiếp cận nguồn nước như quyền cơ bản của quyền con người.
“Phải xác định tài nguyên nước đặc biệt quan trọng, thiết yếu, phải là cốt lõi trong hoạch định chiến lược phát triển đất nước, xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch dân cư, phát triển các ngành, lĩnh vực có khai thác và sử dụng nước; việc khai thác, sử dụng nước phải theo quy định về quản lý, sử dụng tài sản công và phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, hài hòa các lợi ích và giá trị của nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt, lâu dài”, ông Huỳnh đánh giá.
Từ việc nhìn nhận tài nguyên nước là một loại tài sản, nguyên Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước cho rằng cần quan tâm đúng mức đến kinh tế, tài chính nước.
Theo đó, dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) còn thiếu, chưa đầy đủ các quy định cụ thể về vấn đề này.
Do đó, cần bổ sung các quy định để hoàn thiện các quy định về việc xem nước là hàng hóa thiết yếu cần được quản lý, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; khuyến khích, thu hút các nguồn lực xã hội, thành phần kinh tế đầu tư vào ngành nước nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng, được chia sẻ công bằng và cùng có lợi, phù hợp với luật pháp và cam kết quốc tế.
Việt Nam có nguy cơ cao mất an ninh nguồn nước
Về vấn đề an ninh nguồn nước quốc gia, PGS.TS. Lê Bắc Huỳnh đánh giá nước ta có nguy cơ cao mất an ninh nguồn nước do hơn 63% tài nguyên nước
Việt Nam
hình thành từ nước ngoài chảy vào. Trong khi đó, tài nguyên nước biến động rất mạnh theo không gian, thời gian trong năm và từ năm này sang năm khác, dưới tác động của biến đổi khí hậu thì ngày càng diễn biến bất thường và với nhiều cực đoan (cả quá thừa và quá thiếu);
Đặc biệt, tài nguyên nước đang bị suy thoái, ô nhiễm, cạn kiệt do việc quản lý, bảo vệ, phát triển, phục hồi các nguồn nước còn yếu kém; việc khai thác, sử dụng chưa hợp lý, còn thất thoát, lãng phí, chưa hiệu quả, tiết kiệm, chưa đa mục tiêu…
Theo đó, dự thảo Luật đã bổ sung một số quy định bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm;
Bổ sung mới quy định về phân vùng chức năng nguồn nước, nội dung giám sát, trách nhiệm giám sát và kết nối dữ liệu giám sát của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước theo hướng tự động liên tục hoặc định kỳ nhằm kiểm soát các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông, giảm nguy cơ mất an ninh nguồn nước; quy định rõ về bảo vệ nguồn nước cấp cho sinh hoạt; về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí.
Đặc biệt, dự thảo Luật đã quy định trách nhiệm của Bộ Tài nguyên & môi trường, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện xây dựng kịch bản ứng phó, điều hoà, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước nghiêm trọng, mất an ninh nguồn nước.
Toàn cảnh tọa đàm
Tuy nhiên, PGS.TS. Lê Bắc Huỳnh đề xuất cần có quy định cụ thể các nội hàm của “an ninh nguồn nước”, bao gồm nguyên tắc, phương thức xác định, thực hiện ứng phó, chỉ số an ninh nước…
Thêm nữa là vấn đề quản lý nhà nước trong phòng ngừa mất an ninh, khi xảy ra trường hợp mất an ninh nguồn nước; các biện pháp phải thực hiện trong trường hợp mất an ninh nguồn nước.
Bên cạnh đó, theo ông Huỳnh, quy định về duy trì “dòng chảy tối thiểu” sau công trình hồ đập là bất cập, đã lỗi thời, nó đang hủy hoại các dòng sông, làm suy kiệt các hệ sinh thái thủy sinh và hệ sinh thái ven sông. Hơn nữa, quy định về “dòng chảy tối thiểu” gây bất lợi cho việc đấu tranh để duy trì dòng chảy hợp lý trên các nguồn nước liên quốc gia.
Do đó, cần bãi bỏ khái niệm “dòng chảy tối thiểu” trong Luật tài nguyên nước; bổ sung bằng khái niệm “dòng chảy môi trường” và xác định nội dung của khái niệm “dòng chảy môi trường” tại Luật Tài nguyên nước.
Lê Mạnh Quốc
|
According to Associate Professor, PhD. Le Bac Huynh, the current draft Law on Water Resources (amended) completely lacks regulations to recognize water resources as a type of public asset.
On October 21, speaking at the discussion to comment on the draft Law on Water Resources (amended) organized by the Vietnam Lawyers Association, Associate Professor, PhD. Le Bac Huynh - former Deputy Director of the Department of Water Resources Management (Ministry of Natural Resources and Environment) pointed out some inadequacies in current water resources management and issues raised for amending the Water Resources Law.
Accordingly, the current state management of water resources is still overlapping, duplicated, and sometimes vacant; Enforcement forces are still weak and scattered.
In particular, there is a lack of mechanisms and policies and many inadequacies to implement integrated management of water resources in the river basin; lack of regulations on participation in the management of international river basins and transnational water sources.
Therefore, Mr. Huynh proposed to amend and supplement Article 5 of the Draft Law on Water Resources (amended) to supplement and concretize to implement a number of major policies related to water resources.
Associate Professor, PhD. Le Bac Huynh - former Deputy Director of the Department of Water Resources Management, Ministry of Natural Resources and Environment. (Photo: Huu Thang)
Besides, Associate Professor, PhD. Le Bac Huynh emphasized the need to recognize water resources as a type of public asset. Accordingly, according to the 2013 Constitution stipulated in Article 53, water resources are an important and essential resource, a public asset owned by the entire people and uniformly managed by the State, and must be used and managed. in a sustainable, fair and mutually beneficial manner, in accordance with Vietnamese law and international commitments.
However, the current draft Law completely lacks regulations on this content. Determining content to supplement regulations is necessary.
Therefore, this expert proposes to add new regulations to Chapter 1 "General Regulations" on ownership, transfer... of assets that are products from water and water resources; The right to access water is a basic human right.
“It is necessary to determine that water resources are particularly important and essential, and must be the core in planning the country's development strategy, building socio-economic development planning, population planning, and industry development. , the field of water exploitation and use; The exploitation and use of water must comply with regulations on the management and use of public assets and must be managed, protected, exploited, and used reasonably, economically, effectively, and in harmony with the interests and benefits of water. the value of water, meeting immediate and long-term needs," Mr. Huynh assessed.
From seeing water resources as a type of asset, the former Deputy Director of the Department of Water Resources Management believes that it is necessary to pay due attention to water economics and finance.
Accordingly, the draft Law on Water Resources (amended) is lacking and incomplete with specific regulations on this issue.
Therefore, it is necessary to supplement regulations to complete the regulations on considering water as an essential commodity that needs to be managed and operated according to the market mechanism with regulation by the State; Encourage and attract social resources and economic sectors to invest in the water sector to improve exploitation and use efficiency, be shared fairly and mutually beneficial, in accordance with laws and international commitments. international.
Vietnam is at high risk of losing water source security
Regarding national water security, Assoc.Prof.Dr. Le Bac Huynh assessed that our country is at high risk of losing water security because more than 63% of water resources are
Vietnam
formed from foreign flows. Meanwhile, water resources fluctuate greatly over space, time of year and from year to year. Under the impact of climate change, they are increasingly changing irregularly and with many extremes (including past and present). excess and deficiency);
In particular, water resources are being degraded, polluted, and exhausted due to poor management, protection, development, and restoration of water sources; Exploitation and use are not reasonable, there is loss, waste, not effective, economical, not multi-purpose...
Accordingly, the draft Law has added a number of regulations to ensure national water source security, reduce dependence on foreign water sources and the effects of climate change; focus on preventing, controlling and restoring degraded, depleted and polluted water sources;
Newly supplemented regulations on functional zoning of water sources, monitoring content, monitoring responsibilities and connecting monitoring data of organizations and individuals exploiting and using water automatically continuously or periodically. to control activities that risk causing pollution, degradation, and depletion of water sources to protect the quantity and quality of water sources and protect rivers, reducing the risk of water source insecurity; Clear regulations on protection of water sources for daily use; on using water economically and effectively, avoiding waste.
In particular, the draft Law stipulates the responsibilities of the Ministry of Natural Resources and Environment, ministries, local branches, organizations and individuals in developing scenarios to respond to, regulate and allocate water sources when faced with natural disasters. Severe drought and water shortage occur, causing loss of water source security.
Overview of the discussion
However, Associate Professor, PhD. Le Bac Huynh proposed that there should be specific regulations on the connotations of "water security", including principles, methods of determination, implementation of response, water security index...
In addition, there is the issue of state management in preventing insecurity, when water source insecurity occurs; measures to be taken in case of water insecurity.
Besides, according to Mr. Huynh, the regulations on maintaining "minimum flow" behind dams are inadequate, outdated, and are destroying rivers, depleting aquatic and ecological ecosystems. riverside ecosystem. Furthermore, “minimum flow” regulations are detrimental to the struggle to maintain fair flows across transnational water resources.
Therefore, it is necessary to abolish the concept of "minimum flow" in the Law on Water Resources; supplemented by the concept of "environmental flow" and defining the content of the concept of "environmental flow" in the Law on Water Resources.
Le Manh Quoc
|
TX Đông Hòa có 5 lăng thờ cá Ông, trong đó lăng Ông ở khu phố Phú Lạc (phường Hòa Hiệp Nam) là di tích lưu giữ nhiều sắc phong nhất
tỉnh Phú Yên
.
Sắc phong di sản Hán Nôm có giá trị lịch sử, văn hóa
Lăng Phú Lạc nằm trên ngọn núi nhỏ gọi là núi Miếu, núi này sát sông Bàn Thạch gần cửa Đà Nông. Lăng nằm trên khuôn viên nhỏ, xung quanh không có tường bao, quay mặt về hướng đông, cổng phía trước rộng 2,5m, cao 2,5m, trụ cổng kiểu trụ vuông, đầu trụ có đặt tượng nghê đá quay về phía trước, trên cổng đề Lăng Nam Hải. Lăng chính diện tích 7mx5m, gồm ba gian, xây kiểu nhà cấp bốn tường gạch, mái lợp ngói, trên bờ nóc đắp hình Lưỡng Long Chầu Nguyệt.
Sắc phong thần Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân chi thần năm Đồng Khánh thứ 2 (1887). Ảnh: HOÀI SƠN
Trong lăng có 3 bàn thờ, bàn thờ gian giữa thờ thần, trên bàn thờ có đặt các hộp đựng sắc phong, gian phía hữu đặt bàn thờ bà Thủy Long, gian phía phải đặt bàn thờ ông Nam Hải, phía sau bàn thờ đặt 3 hòm đựng cốt Ông. Phía trái của lăng còn có thêm nhà nhỏ tiếp khách khi tổ chức cúng lăng, nhà có diện tích 5mx4m, mái lợp ngói. Hiện tại lăng Phú Lạc bảo lưu được 10 sắc phong của các vua Triều Nguyễn. Trong đó có 4 sắc phong của vua Tự Đức, 2 sắc phong của vua Đồng Khánh, 2 sắc phong của vua Duy Tân và 2 sắc phong của vua Khải Định. Sắc phong có niên đại sớm nhất là năm Tự Đức thứ 5 (1852), muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1909).
Ông Nguyễn Hữu An, Giám đốc Bảo tàng tỉnh cho biết: Trên địa bàn tỉnh hiện có 53 lăng thờ cá Ông. Trong đó,
TX Sông Cầu
26
,
huyện Tuy An
19
,
TP Tuy Hòa
3
và
TX Đông Hòa
5
. Tuy số lượng lăng thờ cá Ông trên địa bàn Đông Hòa chỉ đứng vị trí thứ ba, nhưng lăng Phú Lạc là di tích thờ cá Ông lưu giữ được số lượng sắc phong nhiều nhất trong tỉnh. 10 sắc phong lưu giữ tại lăng Phú Lạc là di sản Hán Nôm có giá trị lịch sử, văn hóa được các vua Triều Nguyễn ban tặng các thần Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân, Tứ Dương Thành Quốc, Thủy Long Thần Nữ. Đây là những vị thần liên quan đến tín ngưỡng của cư dân làm nghề đánh bắt cá trên biển.
Phát huy giá trị di sản để phát triển du lịch
Sắc phong lưu giữ tại lăng Phú Lạc đã trải qua gần 200 năm đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn, điều này nói lên từ rất sớm, các bậc tiền nhân đã ý thức rõ tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản văn hóa cho thế hệ mai sau. TS Sử học Đào Nhật Kim, Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế Trường đại học Phú Yên nhận định: Các loại hình văn hóa Hán Nôm như văn tế sắc phong, văn bia, gia phả… và các văn bản khác như bằng cấp, hoành phi, câu đối… được lưu giữ ở Phú Yên nói chung đã trở thành một bộ phận rất quan trọng trong di sản văn hóa dân tộc. Các tư liệu Hán Nôm này chứa đựng rất nhiều thông tin quý giá về lịch sử, văn hóa cũng như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục của từng khu vực, của từng địa phương. Qua đó giúp chúng ta hình dung và nắm bắt được bối cảnh, tình hình lịch sử, văn hóa ở một thời kỳ khá dài trong lịch sử Phú Yên. Di sản Hán Nôm còn chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa dân gian và phản ánh đời sống tinh thần người dân qua từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử.
Phát huy giá trị di sản để phát triển du lịch là hướng đi mà TX Đông Hòa đang thực hiện có hiệu quả. Lăng Phú Lạc có lợi thế bảo lưu được số lượng sắc phong nhiều nhất tỉnh lại duy trì được lễ hội cầu ngư mỗi năm một lần vào ngày 25/5 (âm lịch). Đây là sự kiện văn hóa – tín ngưỡng lớn của ngư dân địa phương thu hút hàng ngàn người tham dự.
Mở đầu lễ hội cầu ngư lăng Phú Lạc là lễ rước sắc. Sau đó là lễ nghinh thủy về chánh điện để cùng hưởng lộc Ông. Khi chủ tế cúng trong lăng theo nghi thức cổ truyền thì ở ngoài sân có rạp che, đoàn hát bả trạo bắt đầu hát. Vào phần tế lễ có tế sanh, tế đình, tế Bà Thiên Y A Na và cuối cùng là ông Nam Hải. Vật phẩm dâng cúng gồm các loại đặc sản địa phương và hương hoa. Lễ đọc văn tế, nội dung ca ngợi công đức các vị tiền hiền, các vị thủy thần phù hộ cho ngư dân thuận buồm xuôi gió, lưới nặng cá đầy, làm ăn thuận lợi, cuộc sống ngày một ấm no đủ đầy.
Phần hội là những sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tiêu biểu nhất là hát tuồng. Hát tuồng phục vụ lễ hội cầu ngư gọi là hát án. Hát án thường là những vở tuồng có chọn lọc, nội dung chính nghĩa thắng gian tà, phù hợp với tâm tư nguyện vọng được gặp nhiều may mắn của ngư dân tổ chức lễ hội. Trong lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc còn có màn múa siêu rất độc đáo. Võ sư Kim Yên, người đã nhiều năm tham dự lễ cầu ngư ở lăng Phú Lạc cho biết: “Múa siêu trong lễ hội cầu ngư là nội dung hết sức độc đáo có sức lôi cuốn người xem ở nhiều lứa tuổi, giới tính khác nhau, với nội dung là biểu diễn bài võ Siêu Đao tuyệt kỷ trong thời gian hơn một giờ đồng hồ. Bài võ Siêu Đao, dân trong vùng quen gọi bằng Siêu Ông, được trình bày bởi 4 võ sĩ mặc võ phục oai phong như 4 mãnh tướng múa 4 cây đại đao, cùng 24 võ sinh cầm trường côn (tượng trưng cho đội hùng binh) mặc trang phục cổ. Chưa kể một vị tổng tràng điều khiển bằng những hồi trống giục giòn giã. Bằng những chiêu thức đao pháp vừa uyển chuyển, vừa uy vũ của tinh hoa võ Việt ngày xưa truyền lại, bài võ Siêu Đao đã tái hiện tính cách mạnh mẽ, hào khí và cũng rất trí tuệ của các bậc tiền nhân đi khai phá vùng đất hoang sơ mưu cầu cuộc sống tốt đẹp, mang lại hình tượng và tăng khí thế hứng khởi cho người xem. Đặc biệt, với cách sắp xếp cho đoàn tướng binh dịch chuyển theo mô hình Bát Quái, bài võ vừa thể hiện tính biến hóa, vừa nói lên ý nghĩa thâm sâu của triết học phương Đông…”.
Phần biểu diễn của bài võ Siêu Đao đã góp phần lớn làm cho chương trình lễ hội mang tính hấp dẫn. Hàng nghìn người từ các nơi trong và ngoài tỉnh đã không quản ngại xa xôi về lăng Phú Lạc tham dự, thưởng thức cũng như tìm hiểu lễ hội một cách hứng thú. Rất nhiều người dân TX Đông Hòa cho biết họ nhiều lần tham gia lễ hội cầu ngư, nhưng không hề thấy nhàm chán, mà ngược lại luôn cảm thấy hết sức hào hứng.
Lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc không khác mấy so với các vạn chài lân cận. Trong yếu tố tương đồng, biểu tượng cá voi được ngư dân miền biển tôn sùng là linh thiêng, thờ cúng trang nghiêm được tôn xưng là cá Ông; được các vua Triều Nguyễn phong làm “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân tôn thần”. Tất cả các làng ven biển hoặc làng nghề cá đều được ban sắc thần này để phụng thờ. Lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc sắc của ngư dân miền sông nước Đà Nông. Lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc còn là dịp thăm viếng lẫn nhau giữa chủ ghe và bạn chài, giữa chủ vạn với ngư dân để tình làng nghĩa xóm được thắt chặt. Khai thác giá trị các sắc phong, di sản Hán Nôm ở lăng Phú Lạc với lợi thế biển đảo kết hợp với phát huy giá trị quần thể danh thắng núi Đá Bia – Đèo Cả – Vũng Rô – Bãi Môn – Mũi Điện cùng lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc và Hội thao sông nước Đà Nông là hướng đi mới tạo bước đột phá cho ngành Du lịch TX Đông Hòa phát triển.
Báo Phú Yên
|
TX Đông Hòa có 5 lăng thờ cá Ông, trong đó lăng Ông ở khu phố Phú Lạc (phường Hòa Hiệp Nam) là di tích lưu giữ nhiều sắc phong nhất
tỉnh Phú Yên
.
Sắc phong di sản Hán Nôm có giá trị lịch sử, văn hóa
Lăng Phú Lạc nằm trên ngọn núi nhỏ gọi là núi Miếu, núi này sát sông Bàn Thạch gần cửa Đà Nông. Lăng nằm trên khuôn viên nhỏ, xung quanh không có tường bao, quay mặt về hướng đông, cổng phía trước rộng 2,5m, cao 2,5m, trụ cổng kiểu trụ vuông, đầu trụ có đặt tượng nghê đá quay về phía trước, trên cổng đề Lăng Nam Hải. Lăng chính diện tích 7mx5m, gồm ba gian, xây kiểu nhà cấp bốn tường gạch, mái lợp ngói, trên bờ nóc đắp hình Lưỡng Long Chầu Nguyệt.
Sắc phong thần Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân chi thần năm Đồng Khánh thứ 2 (1887). Ảnh: HOÀI SƠN
Trong lăng có 3 bàn thờ, bàn thờ gian giữa thờ thần, trên bàn thờ có đặt các hộp đựng sắc phong, gian phía hữu đặt bàn thờ bà Thủy Long, gian phía phải đặt bàn thờ ông Nam Hải, phía sau bàn thờ đặt 3 hòm đựng cốt Ông. Phía trái của lăng còn có thêm nhà nhỏ tiếp khách khi tổ chức cúng lăng, nhà có diện tích 5mx4m, mái lợp ngói. Hiện tại lăng Phú Lạc bảo lưu được 10 sắc phong của các vua Triều Nguyễn. Trong đó có 4 sắc phong của vua Tự Đức, 2 sắc phong của vua Đồng Khánh, 2 sắc phong của vua Duy Tân và 2 sắc phong của vua Khải Định. Sắc phong có niên đại sớm nhất là năm Tự Đức thứ 5 (1852), muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1909).
Ông Nguyễn Hữu An, Giám đốc Bảo tàng tỉnh cho biết: Trên địa bàn tỉnh hiện có 53 lăng thờ cá Ông. Trong đó,
TX Sông Cầu
26
,
huyện Tuy An
19
,
TP Tuy Hòa
3
và
TX Đông Hòa
5
. Tuy số lượng lăng thờ cá Ông trên địa bàn Đông Hòa chỉ đứng vị trí thứ ba, nhưng lăng Phú Lạc là di tích thờ cá Ông lưu giữ được số lượng sắc phong nhiều nhất trong tỉnh. 10 sắc phong lưu giữ tại lăng Phú Lạc là di sản Hán Nôm có giá trị lịch sử, văn hóa được các vua Triều Nguyễn ban tặng các thần Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân, Tứ Dương Thành Quốc, Thủy Long Thần Nữ. Đây là những vị thần liên quan đến tín ngưỡng của cư dân làm nghề đánh bắt cá trên biển.
Phát huy giá trị di sản để phát triển du lịch
Sắc phong lưu giữ tại lăng Phú Lạc đã trải qua gần 200 năm đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn, điều này nói lên từ rất sớm, các bậc tiền nhân đã ý thức rõ tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản văn hóa cho thế hệ mai sau. TS Sử học Đào Nhật Kim, Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế Trường đại học Phú Yên nhận định: Các loại hình văn hóa Hán Nôm như văn tế sắc phong, văn bia, gia phả… và các văn bản khác như bằng cấp, hoành phi, câu đối… được lưu giữ ở Phú Yên nói chung đã trở thành một bộ phận rất quan trọng trong di sản văn hóa dân tộc. Các tư liệu Hán Nôm này chứa đựng rất nhiều thông tin quý giá về lịch sử, văn hóa cũng như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục của từng khu vực, của từng địa phương. Qua đó giúp chúng ta hình dung và nắm bắt được bối cảnh, tình hình lịch sử, văn hóa ở một thời kỳ khá dài trong lịch sử Phú Yên. Di sản Hán Nôm còn chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa dân gian và phản ánh đời sống tinh thần người dân qua từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử.
Phát huy giá trị di sản để phát triển du lịch là hướng đi mà TX Đông Hòa đang thực hiện có hiệu quả. Lăng Phú Lạc có lợi thế bảo lưu được số lượng sắc phong nhiều nhất tỉnh lại duy trì được lễ hội cầu ngư mỗi năm một lần vào ngày 25/5 (âm lịch). Đây là sự kiện văn hóa – tín ngưỡng lớn của ngư dân địa phương thu hút hàng ngàn người tham dự.
Mở đầu lễ hội cầu ngư lăng Phú Lạc là lễ rước sắc. Sau đó là lễ nghinh thủy về chánh điện để cùng hưởng lộc Ông. Khi chủ tế cúng trong lăng theo nghi thức cổ truyền thì ở ngoài sân có rạp che, đoàn hát bả trạo bắt đầu hát. Vào phần tế lễ có tế sanh, tế đình, tế Bà Thiên Y A Na và cuối cùng là ông Nam Hải. Vật phẩm dâng cúng gồm các loại đặc sản địa phương và hương hoa. Lễ đọc văn tế, nội dung ca ngợi công đức các vị tiền hiền, các vị thủy thần phù hộ cho ngư dân thuận buồm xuôi gió, lưới nặng cá đầy, làm ăn thuận lợi, cuộc sống ngày một ấm no đủ đầy.
Phần hội là những sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tiêu biểu nhất là hát tuồng. Hát tuồng phục vụ lễ hội cầu ngư gọi là hát án. Hát án thường là những vở tuồng có chọn lọc, nội dung chính nghĩa thắng gian tà, phù hợp với tâm tư nguyện vọng được gặp nhiều may mắn của ngư dân tổ chức lễ hội. Trong lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc còn có màn múa siêu rất độc đáo. Võ sư Kim Yên, người đã nhiều năm tham dự lễ cầu ngư ở lăng Phú Lạc cho biết: “Múa siêu trong lễ hội cầu ngư là nội dung hết sức độc đáo có sức lôi cuốn người xem ở nhiều lứa tuổi, giới tính khác nhau, với nội dung là biểu diễn bài võ Siêu Đao tuyệt kỷ trong thời gian hơn một giờ đồng hồ. Bài võ Siêu Đao, dân trong vùng quen gọi bằng Siêu Ông, được trình bày bởi 4 võ sĩ mặc võ phục oai phong như 4 mãnh tướng múa 4 cây đại đao, cùng 24 võ sinh cầm trường côn (tượng trưng cho đội hùng binh) mặc trang phục cổ. Chưa kể một vị tổng tràng điều khiển bằng những hồi trống giục giòn giã. Bằng những chiêu thức đao pháp vừa uyển chuyển, vừa uy vũ của tinh hoa võ Việt ngày xưa truyền lại, bài võ Siêu Đao đã tái hiện tính cách mạnh mẽ, hào khí và cũng rất trí tuệ của các bậc tiền nhân đi khai phá vùng đất hoang sơ mưu cầu cuộc sống tốt đẹp, mang lại hình tượng và tăng khí thế hứng khởi cho người xem. Đặc biệt, với cách sắp xếp cho đoàn tướng binh dịch chuyển theo mô hình Bát Quái, bài võ vừa thể hiện tính biến hóa, vừa nói lên ý nghĩa thâm sâu của triết học phương Đông…”.
Phần biểu diễn của bài võ Siêu Đao đã góp phần lớn làm cho chương trình lễ hội mang tính hấp dẫn. Hàng nghìn người từ các nơi trong và ngoài tỉnh đã không quản ngại xa xôi về lăng Phú Lạc tham dự, thưởng thức cũng như tìm hiểu lễ hội một cách hứng thú. Rất nhiều người dân TX Đông Hòa cho biết họ nhiều lần tham gia lễ hội cầu ngư, nhưng không hề thấy nhàm chán, mà ngược lại luôn cảm thấy hết sức hào hứng.
Lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc không khác mấy so với các vạn chài lân cận. Trong yếu tố tương đồng, biểu tượng cá voi được ngư dân miền biển tôn sùng là linh thiêng, thờ cúng trang nghiêm được tôn xưng là cá Ông; được các vua Triều Nguyễn phong làm “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân tôn thần”. Tất cả các làng ven biển hoặc làng nghề cá đều được ban sắc thần này để phụng thờ. Lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc sắc của ngư dân miền sông nước Đà Nông. Lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc còn là dịp thăm viếng lẫn nhau giữa chủ ghe và bạn chài, giữa chủ vạn với ngư dân để tình làng nghĩa xóm được thắt chặt. Khai thác giá trị các sắc phong, di sản Hán Nôm ở lăng Phú Lạc với lợi thế biển đảo kết hợp với phát huy giá trị quần thể danh thắng núi Đá Bia – Đèo Cả – Vũng Rô – Bãi Môn – Mũi Điện cùng lễ hội cầu ngư ở lăng Phú Lạc và Hội thao sông nước Đà Nông là hướng đi mới tạo bước đột phá cho ngành Du lịch TX Đông Hòa phát triển.
Báo Phú Yên
|
Giới thiệu khái quát huyện Thủy Nguyên
Thủy Nguyên là một huyện lớn nằm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Phía Bắc, Đông Bắc giáp
tỉnh Quảng Ninh
; phía Tây Nam giáp
huyện An Dương
và nội thành Hải Phòng; phía Đông Nam là cửa biển Nam Triệu. Địa hình Thuỷ Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc xuống Đông Nam, vừa có núi đất, núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống sông hồ dày đặc. Đây chính là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để huyện Thuỷ Nguyên phát triển một nền kinh tế đa dạng về ngành nghề bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thuỷ sản và du lịch.
– Diện tích tự nhiên: 242,7 km2
– Dân số: trên 31 vạn người
– Đơn vị hành chính: 35 xã, 2 thị trấn, trong đó có 7 xã miền núi
Trở về Thuỷ Nguyên, không chỉ với những người con xa quê lâu ngày mà ngay chính những người dân nơi đây cũng cảm thấy ngỡ ngàng trước sự đổi thay, phát triển nhanh chóng của vùng đất này. Nhiều công trình công nghiệp, dân dụng mọc lên san sát, đường sá được nâng cấp, mở rộng, đời sống nhân dân ngày một cải thiện. Một chiếc áo với những gam màu mới đang khoác lên mình huyện Thuỷ Nguyên, mở ra một hướng phát triển mới, một diện mạo mới với vị thế của một trong những trung tâm đô thị hành chính của thành phố Cảng trong tương lai không xa theo quy hoạch điều chỉnh của thành phố Hải Phòng đến năm 2020.
Tận dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thuỷ Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, đàn lợn, gia cầm tăng theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển mạnh về số lượng và quy mô. Bên cạnh chăn nuôi, huyện đã tiến hành quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản, lập các dự án nuôi tập trung theo phương pháp bán thâm canh và công nghiệp.
Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Hiện nay, trên địa bàn huyện có hơn 20 xí nghiệp, nhà máy, hàng trăm cơ sở sản xuất – kinh doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động đã tạo lập môi trường sản xuất – kinh doanh sôi động, cạnh tranh lành mạnh, góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, tăng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng trên địa bàn huyện. Cùng với những thành tựu đạt được, Thuỷ Nguyên còn đón nhận nhiều dự án lớn đang được đầu tư trên địa bàn như: tuyến Quốc lộ 10 từ Bến Kiền, Đá Bạc sang Quảng Ninh; nhà máy nhiệt điện 600 MW (xã Tam Hưng); Nhà máy Xi măng Hải Phòng (thị trấn Minh Đức); mở rộng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Nam Triệu…. Đây sẽ là những nền tảng cơ bản cho sự phát triển của Thuỷ Nguyên trong tương lai.
Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thuỷ Nguyên có điều kiện phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ Sông Giá, hang Lương, hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh… và nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những lễ hội truyền thống độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc.
Có thể nói, bức tranh kinh tế Thuỷ Nguyên trong giai đoạn gần đây đã có những gam màu sáng, hoạt động kinh tế sôi động hơn đã mang lại hơi thở mới trong cuộc sống của người dân nơi đây. Đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Thuỷ Nguyên được cải thiện rõ rệt nhờ các biện pháp chăm lo đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoá giáo dục.
Công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được quan tâm, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Đến nay, huyện đã hoàn thành chương trình đưa bác sỹ về cơ sở, sửa chữa các trạm y tế xã, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh. Đặc biệt, công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ trẻ em được quan tâm thường xuyên bằng hành động thiết thực như duy trì tốt hoạt động giảng dạy ở các lớp học tình thương, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hoà nhập cộng đồng.
Các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng phát triển mạnh mẽ. Công tác xã hội hoá thể thao được đẩy mạnh từ cấp huyện đến cơ sở, góp phần rèn luyện sức khoẻ nhân dân. Các môn bơi lặn, bóng đá thiếu niên nhi đồng, điền kinh trong sân đều đạt thành tích cao.
Về xây dựng cơ bản, huyện chỉ đạo các ban ngành thực hiện xong quy hoạch chi tiết thị trấn Núi Đèo, thị trấn Minh Đức, khu đô thị Bắc Sông Cấm và lập dự án khai thác tài nguyên hồ Sông Giá. Ngoài ra, huyện còn tiến hành xây dựng 2 nhà máy nước loại nhỏ ở xã Tân Dương, Lập Lễ, hệ thống cấp nước ở Lại Xuân, xây dựng 60 bể xử lý chất thải chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường.
Hệ thống giao thông vận tải phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý phương tiện, giải toả hành lang an toàn giao thông được tăng cường, thường xuyên thực hiện chế độ duy tu, sửa chữa hệ thống đường sá. Đến nay, huyện Thuỷ Nguyên đã cơ bản hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp ở các xã, thị trấn, đưa vào sử dụng 5 công trình bằng nguồn vốn phụ thu và một phần đóng góp của nhân dân trị giá 644 triệu đồng. Bênh cạnh đó, ngành Bưu điện Thuỷ Nguyên cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc
Thuỷ Nguyên – khởi nguồn của dựng xây, của những tín hiệu mới đang ngày một khởi sắc. Mảnh đất này, chẳng bao lâu nữa, sẽ trở thành một trung tâm đô thị hành chính của Thành phố Cảng. Trong thời gian tới, khi quy hoạch của thành phố được triển khai, Thuỷ Nguyên sẽ hứa hẹn nhiều điều bất ngờ, đột phá trong tốc độ phát triển kinh tế và văn hoá – xã hội./.
|
General introduction of Thuy Nguyen district
Thuy Nguyen is a large district located on the historic Bach Dang river. Bordered to the North and Northeast
Quang Ninh Province
; bordered to the southwest
An Duong district
and inner city of Hai Phong; To the southeast is Nam Trieu seaport. The terrain of Thuy Nguyen is quite diverse, sloping from the Northwest to the Southeast, with both soil mountains, limestone mountains, plains and a dense system of rivers and lakes. These are favorable natural conditions for Thuy Nguyen district to develop a diverse economy in industries including agriculture, industry, handicrafts, fisheries and tourism.
– Natural area: 242.7 km2
– Population: over 31 thousand people
– Administrative units: 35 communes, 2 towns, including 7 mountainous communes
Returning to Thuy Nguyen, not only the children who have been away from home for a long time but also the people here themselves are surprised by the rapid change and development of this land. Many industrial and civil projects have sprung up nearby, roads have been upgraded and expanded, and people's lives are improving day by day. A shirt with new colors is wearing Thuy Nguyen district, opening a new direction of development, a new look with the position of one of the administrative urban centers of the Port city in the near future. according to the adjusted planning of Hai Phong city until 2020.
Taking full advantage of the strengths of a land rich in economic potential and diverse industries, Thuy Nguyen has seized the opportunity and exploited the available potential to the fullest. On that basis, quickly identify key economic sectors for investment and development, actively transform the economic structure, and promote the process of industrialization and modernization of rural areas. The policy of economic restructuring towards industrialization and modernization has initially achieved good results.
Cattle and poultry farming is emphasized, the herd of pigs and poultry increases in the direction of commodity production, developing strongly in quantity and scale. Besides livestock farming, the district has planned aquaculture areas and established concentrated farming projects using semi-intensive and industrial methods.
In the field of industry, handicrafts - construction and services. Currently, in the district there are more than 20 enterprises, factories, hundreds of production and business establishments, and limited liability companies operating, creating a vibrant production and business environment with healthy competition. strong, contributing to creating jobs for thousands of workers, rapidly increasing the value of industrial and construction production in the district. Along with the achievements, Thuy Nguyen also welcomes many large projects being invested in the area such as: National Highway 10 from Ben Kien, Da Bac to Quang Ninh; 600 MW thermal power plant (Tam Hung commune); Hai Phong Cement Factory (Minh Duc town); Expanding Nam Trieu Shipbuilding Industry Company.... These will be the basic foundations for Thuy Nguyen's development in the future.
Besides, promoting the advantages of the peri-urban area adjacent to the port, Thuy Nguyen has conditions to develop tourism, trade and services with many beautiful landscapes such as: Song Gia lake, Luong cave, Vua cave, etc. Trang Kenh Mountain... and many unique architectural works, temples, shrines have been recognized and ranked by the State along with unique traditional festivals, imbued with national identity.
It can be said that the economic picture of Thuy Nguyen in recent times has had bright colors and more vibrant economic activities have brought new breath into the lives of people here. The material and spiritual lives of Thuy Nguyen people have been significantly improved thanks to measures to invest in infrastructure and develop culture and education.
Health, population and community health care receive attention, especially in remote communes. To date, the district has completed the program to bring doctors back to the facility, repair commune health stations, invest in modern equipment systems, and better serve medical examination and treatment. In particular, the work of educating, caring for, and protecting children is regularly paid attention to through practical actions such as maintaining good teaching activities in compassion classes and helping children in special circumstances. enter the community.
Mass cultural and sports activities develop strongly. The socialization of sports is promoted from district to grassroots level, contributing to improving people's health. Swimming and diving, youth football, and field athletics all achieved high results.
Regarding basic construction, the district directed departments to complete the detailed planning of Nui Deo town, Minh Duc town, Bac Song Cam urban area and set up a project to exploit Song Gia lake resources. In addition, the district also built 2 small water plants in Tan Duong and Lap Le communes, a water supply system in Lai Xuan, and built 60 livestock waste treatment tanks to ensure environmental hygiene.
The transportation system is strongly developed in quantity and quality, meeting the needs of transporting goods and serving the travel needs of the people. In addition, vehicle management and traffic safety corridor clearance have been strengthened, and road system maintenance and repair are regularly implemented. Up to now, Thuy Nguyen district has basically completed the handover of medium voltage power grids in communes and towns, putting into use 5 projects using surcharge capital and a portion of people's contributions worth 644 million VND. . Besides, Thuy Nguyen Post Office industry also achieved many great strides
Thuy Nguyen - the origin of construction, of new signs that are increasingly flourishing. This land, soon, will become an administrative urban center of the Port City. In the coming time, when the city's planning is implemented, Thuy Nguyen will promise many surprises and breakthroughs in economic, cultural and social development./.
|
Mảnh ghép cuối cùng hoàn chỉnh chuỗi cao tốc của khu vực phía Bắc từ Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Móng Cái (Quảng Ninh) đã hoàn thiện. Cao tốc Vân Đồn-Móng Cái là niềm tự hào của người dân Quảng Ninh, với những giá trị khác biệt.
Cao tốc Vân Đồn-Móng Cái đấu nối vào tuyến cao tốc Hạ Long – Vân Đồn, góp phần tạo đột phá trong không gian phát triển của tỉnh Quảng Ninh. (Nguồn: Đỗ Phương).
Ngày 1/9 vừa qua, cao tốc Vân Đồn-Móng Cái chính thức thông xe, sau hơn 2 năm xây dựng.
Tuyến cao tốc này có tổng chiều dài trên 80km, với tổng vốn đầu tư 14.225 tỷ đồng, trong đó Dự án cao tốc Vân Đồn-Tiên Yên dài hơn 16km do ngân sách
tỉnh Quảng Ninh
đầu tư 3.658 tỷ đồng; Dự án cao tốc Tiên Yên-Móng Cái dài trên 63km được đầu tư theo hình thức BOT, tổng mức trên 9.113 tỷ đồng; Tiểu dự án GPMB kinh phí 1.454 tỷ đồng.
Cao tốc Vân Đồn-Móng Cái là mảnh ghép cuối cùng hoàn chỉnh chuỗi cao tốc của khu vực phía Bắc từ Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Móng Cái (Quảng Ninh). Công trình đã nhận được rất nhiều tình cảm, sự quan tâm, đánh giá của nhân dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư, các cơ quan quản lý… và là niềm tự hào của người dân Quảng Ninh với những giá trị khác biệt.
Cao tốc Vân Đồn- Móng Cái kết nối đồng bộ với cao tốc Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Hạ Long-Vân Đồn tạo thành tuyến cao tốc dài nhất Việt Nam (gần 600km) và Quảng Ninh là tỉnh có số km cao tốc lớn nhất cả nước (176km/1.046km tính đến 9/2022); nguồn lực đầu tư hoàn toàn bằng vốn ngân sách địa phương và chủ yếu huy động từ nguồn vốn xã hội.
Phát biểu tại lễ khánh thành cao tốc Vân Đồn-Móng Cái, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Tường Văn nhận định, cao tốc Vân Đồn- Móng Cái là công trình giao thông trọng điểm, có ý nghĩa động lực, quan trọng đối với tỉnh Quảng Ninh, quốc gia và khu vực; đáp ứng năng lực vận tải lớn, tốc độ cao và an toàn; kết nối các trung tâm kinh tế-xã hội các tỉnh ven biển và các tỉnh miền núi phía Bắc với các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, cảng biển, cảng hàng không, các khu du lịch vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng, các khu danh lam thắng cảnh, khu di tích văn hóa tâm linh… trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, tuyến cao tốc này sẽ tăng sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế -xã hội; tạo động lực phát triển toàn diện của Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, thúc đẩy và tăng cường kết nối giao thương với ASEAN và Trung Quốc; giảm tải lưu lượng giao thông trên QL18; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh khu vực.
Điểm cuối tại Km176+00, đấu nối với đường dẫn cầu Bắc Luân 2 (TP Móng Cái) – cửa khẩu thông thương với thị trường Trung Quốc.(Nguồn: Báo Đầu tư)
Đặc biệt, theo ông Nguyễn Tường Văn, đường cao tốc Vân Đồn-Móng Cái được đưa vào sử dụng đã tạo nên những giá trị khác biệt.
Thứ nhất,
đây là con đường của niềm tin và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân bằng sự đồng thuận, ủng hộ, hiến đất, hoàn thành giải phóng mặt bằng nhanh nhất.
Thứ hai,
đây là con đường của khát vọng, đổi mới, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, vượt lên mạnh mẽ và bền vững của nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh: được xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách địa phương và đầu tư theo phương thức đối tác công-tư (PPP).
Thứ ba,
con đường mang tầm nhìn mở ra cửa ngõ giao thương của Việt Nam, Đông Á-Đông Nam Á, ASEAN với Trung Quốc, Khu vực hợp tác “hai hành lang một vành đai kinh tế” Việt-Trung; thúc đẩy liên kết vùng, nội vùng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh giữa vùng núi, biên giới Đông – Tây Bắc với vùng Duyên hải và Đồng bằng sông Hồng…
Thứ tư
, con đường của kết nối đồng bộ, hợp tác hóa lãnh thổ, liên thông giữa các vùng kinh tế trọng điểm, các cực tăng trưởng kinh tế, tam giác, tứ giác phát triển; nâng cao hiệu quả khai thác các hệ thống giao thông vận tải cảng biển, cảng hàng không và các tuyến cao tốc phía Bắc.
Thứ năm
, con đường của trách nhiệm với sự nỗ lực vượt bậc của chủ đầu tư; cường độ làm việc không ngừng nghỉ của hàng nghìn kỹ sư, kỹ thuật viên, cán bộ, công nhân viên và máy móc thiết bị để hoàn thành trên 80km đường cao tốc, với 35 cây cầu trong vòng 500 ngày đêm trong điều kiện đại dịch Covid-19 bùng phát, địa hình phức tạp và thời tiết khắc nghiệt.
Thứ sáu
, con đường thân thiện chào đón bạn bè trong, ngoài nước tới các vùng Di sản.
Thủ tướng Phạm Minh Chính (đứng giữa) cắt băng khánh thành cao tốc Vân Đồn-Móng Cái, sáng 1/9. (Ảnh: Lê Tân).
Cũng tại lễ khánh thành cao tốc Vân Đồn-Móng Cái, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho hay, tuyến đường cao tốc kết nối vùng dài nhất Việt Nam đưa Quảng Ninh ngày càng trở thành điểm trung chuyển chiến lược trong khu vực Đông Á-Đông Nam Á, ASEAN – Trung Quốc, Khu vực hợp tác “hai hành lang một vành đai kinh tế” Việt-Trung, hợp tác liên vùng Vịnh Bắc Bộ mở rộng, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy liên kết vùng của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Vùng đồng bằng sông Hồng.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh 9 ý nghĩa quan trọng từ việc hoàn thành tuyến đường kết nối vùng. Đó là góp phần hiện thực hóa chủ trương, đường lối của đảng về phát triển cơ sở hạ tầng; tạo động lực không gian phát triển vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng Bằng sông Hồng; thực hiện thành công mô hình hợp tác công tư PPP; thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ, tạo ra không gian phát triển mới, mang lại đời sống hạnh phúc ấm no cho nhân dân.
Phục vụ tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư công; góp phần nâng cao năng lực quản lý điều hành của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức có liên quan; góp phần xây dựng khu vực phòng thủ hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế.
Thủ tướng nhấn mạnh: “Cao tốc Vân Đồn-Móng Cái là con đường của khát vọng và niềm tin bởi đã phá thế độc đạo về giao thông của tỉnh. Giờ Quảng Ninh có cao tốc, có đường ven biển, có sân bay”.
Có thể khẳng định rằng, tuyến cao tốc Vân Đồn-Móng Cái hoàn thành nối liền mạnh với cao tốc Hạ Long-Vân Đồn, Hạ Long-Hải Phòng, Hải Phòng-Hà Nội-Lào Cai tạo thành tuyến cao tốc dài nhất Việt Nam, sẽ tạo ra nhiều vận hội, động lực, không gian phát triển mới, đột phá không chỉ cho Quảng Ninh mà còn cả khu vực phía Bắc trong thời gian tới.
GIA THÀNH
|
The final piece of the puzzle to complete the highway chain of the Northern region from Lao Cai-Hanoi-Hai Phong-Mong Cai (Quang Ninh) has been completed. Van Don-Mong Cai Expressway is the pride of the people of Quang Ninh, with different values.
Van Don-Mong Cai Expressway connects to the Ha Long - Van Don Expressway, contributing to creating a breakthrough in the development space of Quang Ninh province. (Source: Do Phuong).
On September 1, the Van Don-Mong Cai expressway officially opened to traffic, after more than 2 years of construction.
This expressway has a total length of over 80km, with a total investment of 14,225 billion VND, of which the Van Don-Tien Yen Expressway Project is longer than 16km due to the budget.
Quang Ninh Province
investment 3,658 billion VND; The Tien Yen-Mong Cai expressway project, over 63km long, is invested in the BOT form, with a total cost of over VND 9,113 billion; Land clearance sub-project costs 1,454 billion VND.
Van Don-Mong Cai Expressway is the final piece to complete the northern region's expressway chain from Lao Cai-Hanoi-Hai Phong-Mong Cai (Quang Ninh). The project has received a lot of love, attention, and evaluation from people, businesses, investors, management agencies... and is the pride of the people of Quang Ninh with its different values.
Van Don-Mong Cai Expressway connects synchronously with Lao Cai-Hanoi-Hai Phong-Ha Long-Van Don Expressway, creating the longest expressway in Vietnam (nearly 600km) and Quang Ninh is a province with a high number of kilometers. fastest speed in the country (176km/1,046km as of September 2022); Investment resources are entirely from local budget capital and mainly mobilized from social capital.
Speaking at the inauguration ceremony of Van Don-Mong Cai Expressway, Chairman of Quang Ninh Provincial People's Committee Nguyen Tuong Van commented that Van Don-Mong Cai Expressway is a key traffic project, with motivational and important significance for with Quang Ninh province, country and region; Meet large transport capacity, high speed and safety; Connecting socio-economic centers of coastal provinces and northern mountainous provinces with economic zones, industrial parks, border gate economic zones, seaports, airports, and tourist and entertainment areas entertainment, recreation, scenic areas, spiritual cultural relics... in the province.
In addition, this expressway will increase the attractiveness of domestic and foreign investors, creating conditions to attract investment resources for socio-economic development; create momentum for comprehensive development of the Northern Key Economic Region, promote and strengthen trade connections with ASEAN and China; Reduce traffic flow on National Highway 18; Strengthen national defense and regional security.
End point at Km176+00, connecting to Bac Luan 2 bridge access road (Mong Cai city) - border gate for trade with the Chinese market. (Source: Investment Newspaper)
In particular, according to Mr. Nguyen Tuong Van, the Van Don-Mong Cai Expressway being put into use has created different values.
The first,
This is the path of faith and strength to unite the entire people through consensus, support, land donation, and complete land clearance as quickly as possible.
Monday,
This is the path of strong and sustainable aspiration, innovation, creativity, self-reliance and self-reliance of the people of all ethnic groups in Quang Ninh province: built with local budget capital and investment in the public-private partnership (PPP) mode.
Tuesday,
The road has a vision of opening up the trade gateway of Vietnam, East Asia-Southeast Asia, ASEAN with China, the Vietnam-China "two corridors, one economic belt" cooperation area; promoting regional and intra-regional linkages for socio-economic development, ensuring national defense and security between mountainous areas, the East-Northwest border with the Coastal region and the Red River Delta...
Wednesday
, the path of synchronous connection, territorial cooperation, connectivity between key economic regions, economic growth poles, development triangles and quadrilaterals; Improve the efficiency of the transportation systems of seaports, airports and northern highways.
Thursday
, the path of responsibility with outstanding efforts of the investor; The relentless work of thousands of engineers, technicians, officers, workers and machinery and equipment to complete over 80km of highway, with 35 bridges within 500 days and nights under extreme conditions. Covid-19 outbreak, complex terrain and harsh weather.
Friday
, a friendly road that welcomes domestic and foreign friends to Heritage areas.
Prime Minister Pham Minh Chinh (standing in the middle) cut the ribbon to inaugurate the Van Don-Mong Cai expressway, on the morning of September 1. (Photo: Le Tan).
Also at the inauguration ceremony of Van Don-Mong Cai Expressway, Prime Minister Pham Minh Chinh said that the longest expressway connecting the region in Vietnam makes Quang Ninh increasingly become a strategic transit point in the East Asia region. Southeast Asia, ASEAN - China, Vietnam-China "two corridors, one economic belt" cooperation area, expanded Gulf of Tonkin inter-regional cooperation, creating a strong driving force to promote regional connectivity of the Economic Zone. Northern key economic region, Red River Delta region.
Prime Minister Pham Minh Chinh emphasized 9 important implications from the completion of the regional connection route. That is to contribute to realizing the party's policies and guidelines on infrastructure development; create spatial momentum for the development of the Northern midland and mountainous region and the Red River Delta; Successfully implementing the PPP public-private partnership model; promoting production, business, trade and services, creating new development space, bringing a happy and prosperous life to the people.
Serving economic restructuring and public investment restructuring; contribute to improving the management capacity of relevant civil servants and public employees; contributing to building a cooperative defense area and international economic competition.
The Prime Minister emphasized: "The Van Don-Mong Cai Expressway is a road of aspiration and belief because it has broken the province's traffic monopoly. Now Quang Ninh has a highway, a coastal road, and an airport."
It can be affirmed that the completed Van Don-Mong Cai expressway strongly connects with Ha Long-Van Don, Ha Long-Hai Phong, Hai Phong-Hanoi-Lao Cai expressways, creating the longest expressway in Vietnam. South, will create many opportunities, driving forces, new and breakthrough development spaces not only for Quang Ninh but also the Northern region in the coming time.
GIA THANH
|
Với vẻ đẹp tao nhã và hương thơm thanh khiết, hoa mai không những mang lại đời sống tinh thần đầy ý nghĩa cho người thưởng lãm mà còn là nguồn thực phẩm độc đáo, dược liệu quý đối với sức khỏe con người.
Hoa mai vàng là biểu tượng truyền thống của sự may mắn, tốt đẹp, của sự khởi đầu hoàn hảo và thịnh vượng cho một năm mới. Hoa mai còn có ý nghĩa xua đuổi điều xấu, mang đến điều tốt đẹp cho gia chủ trong một năm. Ngoài vẻ đẹp mỹ miều và những ý nghĩa nêu trên, mai vàng còn có nhiều công dụng khác. Đây là điểm đặc biệt để người trồng mai có thể phát triển nhằm nâng cao giá trị kinh tế cho cây mai vàng.
Giá trị dược liệu ít người biết
Ngoài sắc vàng tươi, nhụy hoa ngát hương, cây mai còn chứa tinh dầu: cineole, borneol, linalool, benzyl alcohol, farnesol, terpineol, indol… và một số chất khác: meratin, calycanthine, caroten…, có tác dụng thúc đẩy bài tiết dịch mật và ức chế một số loại vi khuẩn.
Theo dược học cổ truyền, hoa mai vị ngọt hơi đắng, tính ấm, không độc nên được sử dụng trong rất nhiều bài thuốc chữa bệnh. Lá mai non có thể được dùng làm rau xanh. Vỏ cây mai được sử dụng ngâm rượu và có tác dụng như một loại thuốc bổ, lợi cho tiêu hóa, kích thích cảm giác ngon miệng. Rễ cây mai cũng được sử dụng làm thuốc như hoa mai, nhất là dùng để xổ sán lãi, trị hỗn loạn bạch huyết.
Thu hoạch hoa mai để chế biến sản phẩm Hương mai tửu của Công ty TNHH Mai Vàng Tết. Ảnh: NGỌC ĐỨC
Ngoài ra, trong ẩm thực cổ truyền, hoa mai còn được cổ nhân sử dụng như một loại nguyên liệu để chế biến những món ăn có công dụng bổ dưỡng cường thân cùng với các loại thực phẩm khác như thịt heo, thịt dê, hải sâm, trứng gà, cá chép, nấm hương…
Như vậy, cây mai không chỉ được sử dụng để làm cảnh, trưng bày vào dịp Tết đến Xuân về mà còn có rất nhiều công dụng trong lĩnh vực ẩm thực và chăm sóc sức khỏe con người.
Tiềm năng phát triển kinh tế
Khu vực
huyện Bình Chánh
,
TP HCM
hay các tỉnh lân cận như Long An, Bến Tre… đang phát triển mô hình trồng hoa mai làm kiểng, phục vụ làm thuốc và “rượu mai”. Mô hình này đang được nhân lên với quy mô lớn vì lợi ích kinh tế cũng như tiềm năng mà nó mang lại.
Với điều kiện thổ nhưỡng cũng như khí hậu thích hợp, cây mai được trồng ở những khu vực nêu trên phát triển tươi tốt và hoa nở quanh năm. Bởi vậy, người trồng có thể thu hoạch hoa để làm rượu hay làm thuốc như ý muốn.
Theo ông Hoàng Hải, Phó trưởng Phòng Kinh tế huyện Bình Chánh, do khí hậu khu vực này nóng, tầng đất thích hợp phát triển mai vàng nên huyện vận động người dân tập trung trồng cây này như loại cây trồng chủ lực. Khi số lượng cây lớn, nhận thấy hoa mai có thể phát triển thêm những sản phẩm khác như
rượu
, mứt hay bào chế một số loại thuốc, UBND huyện đã lên kế hoạch phát triển, nhân rộng mô hình trồng loại cây này để làm cảnh, bào chế dược liệu và chế biến thực phẩm, nhằm tăng thêm giá trị cho mai vàng.
Bình Chánh coi đây là một mô hình phát triển kinh tế trong toàn huyện và tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ nông dân; gắn kết với các công ty sản xuất sản phẩm từ hoa mai để phân phối trên thị trường trong nước và mục tiêu chính là xuất khẩu. UBND huyện cũng đang hỗ trợ người dân và các công ty hoàn thiện công nghệ sản xuất để nhanh chóng đạt chuẩn sản phẩm, làm chủ thị trường.
Ông Bùi Ngọc Đức, Giám đốc Công ty TNHH Mai Vàng Tết (xã Bình Lợi, huyện Bình Chánh), cho biết trước đây, địa phương này chủ yếu trồng mía. Tuy nhiên, thu nhập từ trồng mía không cao do không cạnh tranh giá được với các vùng nguyên liệu khác nên người dân muốn chuyển đổi cây trồng. Nắm bắt được nhu cầu của người chơi mai – hoa to, hoa nhiều, đậm sắc, giá rẻ… – nông dân Bình Lợi lấy giống mai ghép hoa to, nhiều cánh và cấy giống trên đất nên cây phát triển nhanh, ít tốn công chăm sóc.
Mỗi mùa
Tết
, công ty của ông Đức xuất bán được hơn 50.000 gốc mai với giá từ 500.000 đồng đến hàng chục triệu đồng mỗi gốc, tùy vào kích thước và độ tuổi. “Sau Tết, thấy mai vẫn tiếp tục ra hoa nên chúng tôi nghĩ đến cách tận dụng làm thuốc và thực phẩm. Sản phẩm mứt hoa mai và Hương mai tửu của công ty đã chào bán ra thị trường và được người tiêu dùng đón nhận. Các công đoạn sản xuất Hương mai tửu cũng rất tinh tế nhằm bảo đảm mùi vị và tính độc đáo của sản phẩm” – ông tiết lộ.
Theo ông Đức, khi sản xuất Hương mai tửu, hoa mai phải được hái từ 6-9 giờ sáng để giữ hương, sau đó rửa sạch, phơi nắng nhẹ và đưa vào bình ngâm với rượu 50 độ. Hương mai tửu được hạ thổ 1-2 năm để rượu ngấm vị và ngon hơn. Quy trình trồng và chăm sóc cây mai để lấy hoa làm rượu cũng phải được chăm chút, theo dõi kỹ càng mới bảo đảm chất lượng và yêu cầu.
Với vẻ đẹp tao nhã và hương thơm thanh khiết, hoa mai không những mang lại đời sống tinh thần đầy ý nghĩa cho người thưởng lãm mà còn là nguồn thực phẩm độc đáo, là dược liệu quý đối với sức khỏe con người. Việc trồng mai có thể giúp phát triển kinh tế địa phương, làm giàu cho các hộ dân. Các công ty cũng nắm bắt được cơ hội, đẩy nhanh phát triển vùng nguyên liệu cũng như chế biến đa dạng sản phẩm để phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.
Hiện nay, mai thường được sử dụng làm cây cảnh, cây phong thủy với giá bán khá cao. Trung bình một chậu mai vàng cao khoảng 50 cm và có hoa được bán với giá 300.000-500.000 đồng. Mai cổ thụ lâu năm, cao và có hình dáng đẹp thường được bán với giá từ vài chục triệu đồng đến vài tỉ đồng.
Tuy nhiên, sau mùa chưng Tết thì giá mai cũng giảm. Để tận dụng những giá trị của cây mai, chúng ta có thể khai thác làm dược liệu hoặc thực phẩm.
Mộc Lan
|
With its elegant beauty and pure fragrance, apricot flowers not only bring a meaningful spiritual life to those who enjoy them, but are also a unique food source and precious medicinal herbs for human health.
Yellow apricot flowers are a traditional symbol of luck, goodness, of a perfect and prosperous start to a new year. Apricot flowers also have the meaning of repelling bad things and bringing good things to the homeowner for a year. In addition to the beautiful beauty and meanings mentioned above, yellow apricot also has many other uses. This is a special point for apricot growers to develop to increase the economic value of yellow apricot trees.
Few people know the medicinal value
In addition to the bright yellow color and fragrant pistils, the apricot tree also contains essential oils: cineole, borneol, linalool, benzyl alcohol, farnesol, terpineol, indole... and some other substances: meratin, calycanthine, carotene..., which have a stimulating effect. secretes bile and inhibits some types of bacteria.
According to traditional medicine, apricot flowers have a slightly bitter sweet taste, warm properties, and are non-toxic, so they are used in many medicinal remedies. Young apricot leaves can be used as green vegetables. Apricot tree bark is used to soak wine and acts as a tonic, beneficial for digestion, and stimulates appetite. Apricot tree roots are also used as medicine like apricot flowers, especially used to flush out tapeworms and treat lymphatic disorders.
Harvesting apricot blossoms to process apricot wine flavor products of Apricot Tet Co., Ltd. Photo: NGOC DUC
In addition, in traditional cuisine, apricot flowers were also used by ancient people as an ingredient to prepare nutritious dishes to strengthen the body along with other foods such as pork, goat meat, seafood. ginseng, chicken eggs, carp, shiitake mushrooms...
Thus, apricot trees are not only used for decoration and display during Tet and Spring, but also have many uses in the field of cuisine and human health care.
Economic development potential
Area
Binh Chanh district
,
Ho Chi Minh City
or neighboring provinces such as Long An, Ben Tre... are developing models of growing apricot blossoms as ornamental plants, serving as medicine and "apricot wine". This model is being replicated on a large scale because of the economic benefits and potential it brings.
With suitable soil and climate conditions, apricot trees grown in the above areas grow lushly and bloom all year round. Therefore, growers can harvest flowers to make wine or medicine as desired.
According to Mr. Hoang Hai, Deputy Head of the Economic Department of Binh Chanh district, because the climate in this area is hot and the soil layer is suitable for growing yellow apricot, the district encourages people to focus on growing this tree as a main crop. When the number of trees is large, it is realized that apricot flowers can develop other products such as
alcohol
, jam or preparing some medicines, the District People's Committee has planned to develop and replicate the model of growing this tree for ornamental purposes, medicinal preparation and food processing, in order to add value to yellow apricot.
Binh Chanh considers this an economic development model throughout the district and focuses on promoting economic development of farmer households; Collaborating with companies that produce products from apricot flowers to distribute on the domestic market and the main goal is export. The District People's Committee is also supporting people and companies to perfect production technology to quickly meet product standards and dominate the market.
Mr. Bui Ngoc Duc, Director of Mai Vang Tet Company Limited (Binh Loi commune, Binh Chanh district), said that previously, this locality mainly grew sugarcane. However, the income from growing sugarcane is not high because the price cannot compete with other raw material areas, so people want to change crops. Grasping the needs of apricot gardeners - big flowers, many flowers, bold colors, cheap prices... - Binh Loi farmers take apricot varieties, graft large flowers with many petals and transplant the seeds on the ground so the trees grow quickly, requiring little effort. take care of.
Every season
Tet
, Mr. Duc's company sold more than 50,000 apricot roots at prices ranging from 500,000 VND to tens of millions of VND per root, depending on size and age. “After Tet, seeing that apricot flowers continued to bloom, we thought of ways to use them to make medicine and food. The company's products of apricot jam and apricot wine have been offered to the market and have been well received by consumers. The stages of producing Huong Mai Tuu are also very delicate to ensure the taste and uniqueness of the product" - he revealed.
According to Mr. Duc, when producing apricot wine, apricot blossoms must be picked from 6-9 a.m. to preserve the scent, then washed, dried in the sun and put into a jar to soak with 50-degree alcohol. Apricot wine is left in the ground for 1-2 years so that the wine can absorb its flavor and become more delicious. The process of planting and caring for apricot trees to use flowers to make wine must also be carefully cared for and monitored to ensure quality and requirements.
With its elegant beauty and pure fragrance, apricot flowers not only bring a meaningful spiritual life to those who enjoy them, but are also a unique food source and valuable medicinal herb for human health. Growing apricot trees can help develop the local economy and enrich households. Companies also seize opportunities, accelerating the development of raw material areas as well as processing a variety of products to serve the domestic and export markets.
Currently, apricot trees are often used as ornamental plants and feng shui plants with quite high prices. On average, a yellow apricot pot about 50 cm high and with flowers is sold for 300,000-500,000 VND. Ancient apricots that are old, tall and have beautiful shapes are often sold for prices ranging from several tens of millions to several billion VND.
However, after the Tet season, apricot prices also decrease. To take advantage of the values of the apricot tree, we can exploit it as medicine or food.
Magnolia
|
Theo khảo sát của
huyện Kỳ Sơn
, khu vực khả dĩ nhất có thể bố trí tái định cư cho hàng trăm hộ dân vùng lũ quét là vùng đồi thấp nằm ở bản Cầu 8, xã Tà Cạ.
Sau trận lũ ống, lũ quét xảy ra tại 4 bản: Sơn Hà, Hòa Sơn, Bình Sơn 1, Bình Sơn 2 của xã Tà Cạ, hàng trăm hộ dân bị ảnh hưởng mất nhà và nằm trong vùng có nguy cơ cao sạt lở núi, cần phải di dời đến nơi ở an toàn.
Trong đó, bản Hòa Sơn, xã Tà Cạ có số hộ bị thiệt hại lớn nhất, một phần lớn mặt bằng của bản đã bị đất đá san phẳng, vì vậy hiện nay nhiều hộ dân không dám trở lại sinh sống, phải chờ Nhà nước bố trí khu tái định cư mới để làm nhà ổn định cuộc sống lâu dài.
Căn nhà chị Vi Thị Mai, xã Tà Cạ giờ chỉ còn là bãi đất trống. Ảnh: Xuân Hoàng
Gia đình chị Vi Thị Mai không may bị lũ cuốn trôi hoàn toàn nhà cửa, tài sản, do vậy các thành viên trong nhà phải đi ở nhờ nhà người thân lâu nay, cuộc sống bị đảo lộn. Gia đình chỉ mong Nhà nước sớm bố trí khu tái định cư để làm nhà và ổn định cuộc sống.
Ông Vi Văn Truyền – Trưởng bản Hòa Sơn cho biết, bản có 240 hộ, thì có tới 72 hộ thuộc diện mất nhà và nằm trong vùng có nguy cơ cao sạt lở đất, cần phải di dời ngay. Số hộ còn lại cũng đang sống trong nơm nớp lo sợ vì sạt lở, lũ quét vẫn còn có nguy cơ tái diễn nên nhu cầu về tái định cư sẽ rất lớn. Nhiều nhà dù không bị cuốn trôi nhà cửa nhưng những ngày qua chỉ dám trở về sinh hoạt vào ban ngày, ban đêm lại đi ở nhà người thân.
Toàn huyện có 621 ngôi nhà bị hư hỏng, trong đó 55 ngôi nhà bị sập, cuốn trôi hoàn toàn sau trận lũ vừa qua. Ảnh: Quang An
“Những hộ bị lũ cuốn trôi mất nhà, sập nhà và nhà bị hư hỏng nặng đến nay vẫn còn ngổn ngang chưa dọn dẹp hết đất đá, do vậy chưa biết khi nào mới sửa sang lại nhà để ở tạm. Trước thực trạng lũ ống, lũ quét và xuất hiện nhiều điểm sạt lở núi nghiêm trọng như vậy, rất mong Nhà nước sớm bố trí khu tái định cư mới để bà con ổn định cuộc sống”, ông Vi Văn Truyền chia sẻ.
Trước sự cấp thiết đó, những ngày qua, huyện Kỳ Sơn đã khẩn trương khảo sát chọn vị trí phù hợp để lập khu tái định cư cho bà con.
Ông Nguyễn Hữu Minh – Chủ tịch UBND huyện Kỳ Sơn cho biết: Sau khi trận lũ ống, lũ quét xảy ra, có tới trên 200 hộ dân trên địa bàn xã Tà Cạ buộc phải di dời đến nơi ở an toàn. Do vậy, sau khi UBND tỉnh đồng ý xây dựng tái định cư cho bà con, huyện đã khẩn trương tìm vị trí thuận lợi nhất để có kế hoạch xây dựng tái định cư cho người dân.
Theo khảo sát của huyện Kỳ Sơn, khu vực khả dĩ nhất có thể bố trí tái định cư cho hàng trăm hộ dân nằm ở bản Cầu 8, xã Tà Cạ. Ảnh: Xuân Hoàng
Tuy nhiên, đối với huyện miền núi cao Kỳ Sơn để khu đất tái định cư cho hàng trăm hộ dân không phải là dễ dàng, nhất là diện tích đồng bằng chỉ chiếm khoảng 1% diện tích toàn huyện. Dù vậy, huyện cũng đã nỗ lực khảo sát được 3 địa điểm trên địa bàn thị trấn Mường Xén và xã Tà Cạ, trong đó xét thấy khu vực đất tại bản Cầu 8 của xã Tà Cạ là có nhiều thuận lợi nhất về giao thông, điện, nước, trường học…
Theo khảo sát ban đầu huyện cho thấy, hiện trạng khu vực này chủ yếu là đất sản xuất của nhân dân trước đây, chỉ cách thị trấn Mường Xén khoảng 1km, với tổng diện tích khoảng 9ha, đủ để bố trí tái định cư cho trên 200 hộ.
Khu đất có nhiều thuận lợi, đó là mặt bằng thoải nên khối lượng san nền không nhiều, mái taluy sau khi san gạt không cao; khu đất nằm trên tuyến đường Tà Cạ – Hữu Kiệm đã được mở rộng và sẽ nhựa hóa; gần trường tiểu học và mầm non bản Sơn Thành. Địa điểm này cũng thuận lợi cho việc xây dựng công trình nước sinh hoạt tự chảy và xây dựng đường điện lưới quốc gia.
Đơn vị chức năng huyện Kỳ Sơn tiến hành đo đạc, khảo sát khu vực tái định cư cho người dân. Ảnh: Quang An
Xét thấy khu vực này có nhiều thuận lợi, tới đây huyện Kỳ Sơn sẽ xin chủ trương đầu tư của tỉnh. Sau khi UBND tỉnh cho chủ trương đầu tư xây dựng khu tái định cư, huyện sẽ thuê đơn vị tư vấn khảo sát thiết kế để lập phương án chi tiết một cách tối ưu nhất, trình UBND tỉnh phê duyệt.
Khi UBND tỉnh phê duyệt dự án, huyện Kỳ Sơn sẽ tiến hành xây dựng ngay các hạng mục cần thiết: xây dựng hệ thống nước sinh hoạt tự chảy; điện sinh hoạt; nhà văn hóa bản; đường nội bộ, mương thoát nước dọc, ngang… để sớm bố trí tái định cư cho bà con ổn định cuộc sống lâu dài.
Xuân Hoàng – Quang An
|
According to survey by
Ky Son district
, the most likely area to arrange resettlement for hundreds of households in flash flood areas is the low hills located in Cau 8 village, Ta Ca commune.
After the flood and flash flood occurred in 4 villages: Son Ha, Hoa Son, Binh Son 1, Binh Son 2 of Ta Ca commune, hundreds of affected households lost their homes and were located in areas at high risk of landslides. mountains, need to be relocated to a safe place.
Among them, Hoa Son village, Ta Ca commune has the largest number of damaged households. A large part of the village's ground has been flattened by rocks and soil, so currently many households do not dare to return to live and have to wait for the House of Representatives. The country arranges new resettlement areas to build houses for a stable, long-term life.
Ms. Vi Thi Mai's house in Ta Ca commune is now just an empty lot. Photo: Xuan Hoang
Ms. Vi Thi Mai's family unfortunately had their house and property completely swept away by the flood, so family members had to stay with relatives for a long time, and their lives were turned upside down. The family just hopes that the State will soon arrange a resettlement area to build a house and stabilize their life.
Mr. Vi Van Truyen - Head of Hoa Son village said that the village has 240 households, up to 72 households are losing their homes and are located in areas with high risk of landslides, needing to be relocated immediately. The remaining households are also living in fear because landslides and flash floods are still at risk of recurring, so the need for resettlement will be huge. Even though many houses were not swept away, in recent days they have only dared to return to their activities during the day and stay at relatives' houses at night.
In the entire district, 621 houses were damaged, of which 55 houses collapsed and were completely swept away after the recent flood. Photo: Quang An
“Households whose houses were swept away by the flood, collapsed and were severely damaged are still in disarray and have not had all the dirt and rocks removed, so it is unknown when the houses will be repaired for temporary accommodation. Faced with the current situation of floods, flash floods and the appearance of many serious mountain landslides, we hope that the State will soon arrange new resettlement areas for people to stabilize their lives," Mr. Vi Van Truyen shared.
Faced with that urgency, in recent days, Ky Son district has urgently surveyed and selected a suitable location to establish a resettlement area for people.
Mr. Nguyen Huu Minh - Chairman of Ky Son District People's Committee said: After the flood and flash flood occurred, over 200 households in Ta Ca commune were forced to relocate to safe places. Therefore, after the Provincial People's Committee agreed to build resettlement for people, the district urgently found the most favorable location to have a plan to build resettlement for people.
According to a survey by Ky Son district, the most likely area to arrange resettlement for hundreds of households is in Cau 8 village, Ta Ca commune. Photo: Xuan Hoang
However, for the high mountainous district of Ky Son, it is not easy to resettle land for hundreds of households, especially since the plain area only accounts for about 1% of the entire district's area. However, the district also made efforts to survey 3 locations in Muong Xen town and Ta Ca commune, in which it was found that the land area in Cau 8 village of Ta Ca commune has the most advantages in terms of traffic. , electricity, water, schools...
According to the initial survey of the district, the current status of this area is mainly former people's production land, only about 1km from Muong Xen town, with a total area of about 9 hectares, enough to arrange resettlement for over 200 households.
The land has many advantages: the ground is gentle so the amount of leveling is not much, the slope after leveling is not high; The land located on the Ta Ca - Huu Kiem route has been expanded and will be asphalted; Near primary school and kindergarten in Son Thanh village. This location is also convenient for the construction of self-flowing domestic water works and the construction of national power lines.
Ky Son district functional units conducted measurements and surveys of resettlement areas for people. Photo: Quang An
Considering that this area has many advantages, Ky Son district will soon apply for investment policy from the province. After the Provincial People's Committee approves the investment policy to build a resettlement area, the district will hire a design survey consulting unit to prepare the most optimal detailed plan and submit it to the Provincial People's Committee for approval.
When the Provincial People's Committee approves the project, Ky Son district will immediately begin construction of the necessary items: building a self-flowing domestic water system; electricity; village culture house; Internal roads, vertical and horizontal drainage ditches... to soon arrange resettlement for people to stabilize their lives long term.
Xuan Hoang – Quang An
|
Nếu Hà Nội 12 mùa hoa trải dài theo từng tháng của thời gian trong năm, trải rộng khắp không gian địa giới hành chính và trải sâu vào tâm hồn người Thủ đô thì Thăng Long 6 linh thú gắn liền với sự thăng khởi, hưng phát của mảnh đất ngàn năm văn hiến, ẩn huyền vào các sự tích, truyền thuyết của miền đất địa linh nhân kiệt và hào hoa thanh lịch này.
Mỗi linh thú với sở tính của mình đã xuất hiện, góp sức cho Thăng Long trong từng tao đoạn theo hành trình trầm thăng của vận đất và thịnh suy các triều đại…
Mảnh đất rồng thiêng
Ngay từ tên gọi của Hà Nội 1012 năm trước, khi lần đầu được cất lên đã chất chứa niềm tự hào và khát vọng bay cao: Thăng Long. Nhưng kể cả trước khi niềm kiêu hãnh đó ngân lên thì mảnh đất này đã được xác định là rốn rồng rồi, bởi vị thần bảo trợ cho thành Đại La chính là Thành hoàng Long Đỗ. Cuộc thiên di từ Hoa Lư, khi cập bến Hồng Hà, nhà vua khai sáng triều Lý, Công Uẩn, ngước nhìn bầu trời bắt gặp dáng rồng bay trong sắc vàng của mây, mà phong thủy gọi là thiên tượng ngàn năm mới có, đã chọn đất này để định đô. Ắt hẳn trong thời khắc lung linh đó, ánh mắt rồng bừng sáng như đôi tinh cầu về niềm phát khởi ngàn luân…
Rồng và mảnh đất
Hà Nội
nhuốm màu huyền sử như thế nhưng ước vọng hóa rồng là niềm tin có thật trong mỗi cư dân, từ thuở Thăng Long, khởi từ vị vua triều Lý cho đến quan quân và thường dân nơi đây. Khát vọng hóa rồng từ ngàn xa cho đến tận ngày nay vẫn được nuôi giữ trong tâm trí chính quyền và người dân Hà Thành, một niềm tin ngời sáng.
Hậu duệ thần Kim Quy
Hà Nội là trái tim của cả nước thì Hồ Gươm chính là trái tim của Thủ đô. Đây chính là cột mốc số 0 để tính khoảng cách địa lý đến các địa phương của nước Việt. Từ hồ nước xanh ngắt này tới muôn nơi, tọa độ huyền thoại này được chọn là điểm khởi đầu để tính dặm dài muôn phương. Sự tích Hồ Gươm hay truyền thuyết hồ Hoàn Kiếm gắn liền với loài vật xuất hiện trong Tứ linh của phương Đông: loài Rùa. Không những biểu thị cho sự trường thọ trong cát tường Á Đông, mà Rùa Hồ Gươm còn gánh vác trên mai sứ mệnh khải thị cho mong ước thái hòa lâu bền, một nền hòa bình thịnh trị cho bách tính.
Khi xưa, Thần Kim Quy hiện lên trên ngọn sóng triều biển Đông, chỉ cho An Dương Vương giặc sau lưng nhà vua đó. Giờ, khi bờ cõi đã sạch bóng giặc Minh, trong làn nước biếc xanh hồ Lục thủy, Thần lại hiện lên trong dáng vẻ của cụ Rùa, đón nhận Thuận Thiên kiếm, thanh gươm báu của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, trả lại nơi nó thuộc về.
Trâu vàng đáy nước Hồ Tây
Trong những làn hương sương huyền khói ảo ở đền Kim Ngưu, các tích điển hiện lên cũng sóng sánh mây nước quyện hòa. Vào triều Lý, có vị thiền sư họ Phương, pháp danh Không Lộ, rất giỏi y thuật đã sang sứ nhà Tống chữa bệnh cho Hoàng tộc. Để tỏ lòng tri ơn, vua Tống đặc ân cho sứ thần An Nam thích sản vật gì của Bắc quốc thì vua sẽ ban tặng. Thiền sư tâu xin một ít đồng đen về để đúc chuông. Chuông đúc xong, khi thỉnh lên, tiếng kêu như sấm, ngân vang sang tận Bắc quốc. Trâu vàng của vua Tống ngỡ tiếng mẹ gọi, liền cất vó cong sừng lồng lên phi thẳng sang nước Nam. Đến khu vực rừng lim ngoài kinh thành Thăng Long thì không còn tiếng ngân nữa. Mất phương hướng, trâu vàng đã quần thảo cả khu rừng lim làm nó sụt thành hố nước mênh mông, chính là Hồ Tây bây giờ. Còn đường chạy của trâu thì tạo thành sông Kim ngưu. E ngại có chuyện chẳng lành, nhà vua sai thả luôn quả chuông xuống lòng hồ để ngừa chuyện bất ổn có thể xảy ra. Trâu vàng định vị chỗ đó, liền nhảy xuống hồ…
Thế là đã gần nghìn năm, bao nhiêu mưa nắng trùng hằng, chuông đồng vẫn nằm nguyên yên vị trong lòng Hồ Tây. Cũng ngần ấy thời gian, bao nhiêu sương khói phủ lên mặt Hồ Tây, Trâu vàng vẫn yên ngủ bên cạnh chuông đồng chưa thức giấc. Có lúc nào đó nó mơ màng nghe nhịp thở của trâu mẹ vẳng lên từ một cõi hư hao miên thẳm. Liệu có còn một tiếng chuông như thuở xưa được thỉnh lên kích hoạt trâu vàng thức giấc không?
Ngựa trắng bay ngàn dặm thiên lý
Sự lựa chọn nào cho dải đất Thăng Long, ngựa sắt của cậu bé Phù Đổng Thiên Vương nhổ lũy tre đằng ngà đánh giặc Ân hay ngựa chín hồng mao tung bay trong sính lễ của Tản Viên sơn thánh hỏi cưới nàng Mỵ Nương công chúa. Có lẽ sự lựa chọn nào cũng là chưa thỏa. Cái tinh thần quật khởi trong ngựa sắt Sóc Sơn hay vẻ lộng phiêu của chín hồng mao, phẩm vật đặc biệt của Ba Vì mây trắng đã đủ toàn hảo cho một Hà Nội hào hoa chưa? Thực khó cho một câu trả lời đối với một câu hỏi cũng thật mỹ miều. Với tôi, đó chính là con ngựa trắng từ ngàn mây bay xuống nhẹ bước quanh Quốc đô rồi dừng chân ở lại đây, trong ngôi đền Bạch Mã, số 76 phố Hàng Buồm ngày nay.
Ngựa trắng là linh thú của vị Thần tướng trong giấc mơ Cao Biền, đạo sĩ được vua Đường Ý Tông bổ nhiệm An Nam Tiết độ sứ để sang trấn yểm long mạch nước Nam. Trong giấc mơ đó, vị Thần tướng nói rằng: “Ta là tinh anh Long Đỗ, ở đây đã lâu, nghe tin ông xây thành Đại La, nên đến để hội ngộ, cớ sao phải yểm bùa?”. Câu nói bắt bài ấy khiến Cao Biền phải kinh khiếp mà dựng đền ở cửa Đông năm 886 để thờ và sắc phong cho Ngài.
Ngựa trắng lại lần nữa xuất hiện trong giấc mộng vua Lý Thái Tổ khi Người bắt đầu công cuộc xây thành, nhưng cả ba lần thành đắp xong đều bị sụp đổ. Vua lập đàn tràng tế lễ ở chính ngôi đền kia. Đêm ấy, vua mơ thấy một con ngựa trắng từ đền bước ra, đi một vòng từ đông sang tây rồi quay về đền và biến mất. Trong giấc mơ, vua được Thần Long Đỗ căn dặn cứ theo dấu vó ngựa mà đắp thành, tất sẽ được. Sớm hôm sau, vua lần theo vết chân ngựa in trên mặt đất, vẽ đồ án xây thành đắp lũy, từ đó thành mới đứng vững.
Vậy là, dấu chân ngựa trắng đã vẽ lên diện mạo của kinh thành ngàn năm với ba vòng La thành, Kinh thành, Hoàng thành mà đến nay vẫn còn dấu tích trong tên gọi và tâm thức người Hà Nội. Và đền Bạch Mã đã trở thành một trong “Thăng Long tứ trấn” của kinh thành.
“Trấn Tây có Voi phục, muôn thuở vững miếu thờ”
Nếu đền Bạch Mã là trấn Đông, đền Kim Liên là trấn Nam, đền Quán Thánh là trấn Bắc thì đền Voi phục là trấn Tây của Thăng Long. Đền thờ hoàng tử Linh Lang, con thứ tư, người đã giúp vua cha Lý Thánh Tông dẹp giặc Tống, và nhiều lần âm phù giúp nhà Trần trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, giúp nhà Lê trong công cuộc phục hưng.
Sau khi nhận được đồ vật vua ban để đánh giặc, gồm: một lá cờ hồng, một cây giáo dài, một thớt voi, Hoàng tử Linh Lang liền thét lên một cách hân hoan và hào sảng: “Ta là thiên tướng!”. Con voi nghe tiếng thét bèn phủ phục xuống để Hoàng tử ngự lên. Trên lưng voi, chàng thống lĩnh hơn năm ngàn binh mã đánh thẳng vào nơi giặc đồn trú và đã ca khúc khải hoàn. Từ đấy ngôi đền được gọi là đền Voi phục. Ngày nay, trước cửa đền vẫn còn nguyên hai bức tượng voi chầu phục hai bên.
Vậy là, con voi thiên binh đã ứng cảm với tiếng thét của thiên tướng mà xung trận đánh thắng giặc giòn giã, nay lại từ hòa phủ phục bên chủ lĩnh, rất mực trung trinh…
Cẩu nhi hồ Trúc Bạch
Những câu chuyện mang đầy màu sắc huyền sử bắt nguồn từ hoặc có liên quan đến những chú chó và triều đại nhà Lý đến nay vẫn được lưu truyền trong nhân gian, phảng phất nét sáng tạo yêu mến của ông cha ta.
Dã sử kể rằng: Năm Giáp Tuất 974, khi Lý Công Uẩn sinh ra, ở quê ông có con chó mẹ đẻ ra con chó con có bộ lông trắng và đốm lông vàng hình chữ “Vương” trên lưng, ứng với điềm báo năm Tuất sinh người làm vua. Quả thực, sau này Lý Công Uẩn lên ngôi rồng. Năm Canh Tuất 1010, khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, cũng có một con chó bụng chửa từ núi Ba Tiêu, châu Bắc Giang, bơi qua sông Cái rồi lên núi Nùng đẻ được một con chó con. Đến năm Nhâm Tuất 1022, hai mẹ con chó đều hóa đá. Nơi này sau dựng Chính điện đài và lập điện thờ chó mẹ và chó con, về sau mới dời ra ngoài Hoàng thành, dựng trên gò trong hồ Trúc Bạch như hiện nay. Sự tích đền Cẩu nhi ấy đã biểu đạt về sự thịnh vượng của một triều đại mới trên đất Hà Nội xưa, phải vậy không?
Nếu sự linh thiêng của Hà Nội gắn với Rồng vàng, sự trường cửu của Hà Nội gắn với Rùa thần, sự hào hoa của Hà Nội song hành cùng Ngựa trắng, sự quyến rũ của Hà Nội ẩn trú trong biểu tượng trâu vàng, sự cuốn hút của Hà Nội có trong hình ảnh voi phục, sự thăng khởi rực rỡ triều đại đầu tiên trên mảnh đất này có ân tình với những chú chó nhỏ thì sự thanh lịch của Hà Nội gắn với mùi hương của hoa Bảo tiên (cách điệu từ tổ hợp hoa sen, hoa cúc và mẫu đơn).
Nếu Hà Nội 12 mùa hoa là vẻ đẹp bên ngoài hiện hữu theo chiều dài 12 tháng trong năm thì hoa Bảo tiên là ẩn dụ của cái đẹp bên trong ẩn tàng vào chiều sâu tâm linh của Thăng Long. Nếu 12 mùa hoa trải dài khắp không gian Hà Nội thì hoa Bảo tiên chỉ có ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trên trán các văn bia được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu văn hóa thế giới, biểu tượng cho tinh hoa dải đất ngàn năm văn vật này.
Rồng vàng khởi tạo một Thăng Long linh phiêu và kiêu tráng. Rùa huyền triện ấn một Thăng Long trầm mặc và hoài nhớ. Ngựa trắng mang đến một Thăng Long thảo mặc. Trâu vàng đem tới một Thăng Long hổ phách. Voi phục cảm ứng với Thăng Long quật khởi. Chó nhỏ cho Thăng Long nét khói huyền sương ảo… Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!
Lê Bảo Âu Long
|
Nếu Hà Nội 12 mùa hoa trải dài theo từng tháng của thời gian trong năm, trải rộng khắp không gian địa giới hành chính và trải sâu vào tâm hồn người Thủ đô thì Thăng Long 6 linh thú gắn liền với sự thăng khởi, hưng phát của mảnh đất ngàn năm văn hiến, ẩn huyền vào các sự tích, truyền thuyết của miền đất địa linh nhân kiệt và hào hoa thanh lịch này.
Mỗi linh thú với sở tính của mình đã xuất hiện, góp sức cho Thăng Long trong từng tao đoạn theo hành trình trầm thăng của vận đất và thịnh suy các triều đại…
Mảnh đất rồng thiêng
Ngay từ tên gọi của Hà Nội 1012 năm trước, khi lần đầu được cất lên đã chất chứa niềm tự hào và khát vọng bay cao: Thăng Long. Nhưng kể cả trước khi niềm kiêu hãnh đó ngân lên thì mảnh đất này đã được xác định là rốn rồng rồi, bởi vị thần bảo trợ cho thành Đại La chính là Thành hoàng Long Đỗ. Cuộc thiên di từ Hoa Lư, khi cập bến Hồng Hà, nhà vua khai sáng triều Lý, Công Uẩn, ngước nhìn bầu trời bắt gặp dáng rồng bay trong sắc vàng của mây, mà phong thủy gọi là thiên tượng ngàn năm mới có, đã chọn đất này để định đô. Ắt hẳn trong thời khắc lung linh đó, ánh mắt rồng bừng sáng như đôi tinh cầu về niềm phát khởi ngàn luân…
Rồng và mảnh đất
Hà Nội
nhuốm màu huyền sử như thế nhưng ước vọng hóa rồng là niềm tin có thật trong mỗi cư dân, từ thuở Thăng Long, khởi từ vị vua triều Lý cho đến quan quân và thường dân nơi đây. Khát vọng hóa rồng từ ngàn xa cho đến tận ngày nay vẫn được nuôi giữ trong tâm trí chính quyền và người dân Hà Thành, một niềm tin ngời sáng.
Hậu duệ thần Kim Quy
Hà Nội là trái tim của cả nước thì Hồ Gươm chính là trái tim của Thủ đô. Đây chính là cột mốc số 0 để tính khoảng cách địa lý đến các địa phương của nước Việt. Từ hồ nước xanh ngắt này tới muôn nơi, tọa độ huyền thoại này được chọn là điểm khởi đầu để tính dặm dài muôn phương. Sự tích Hồ Gươm hay truyền thuyết hồ Hoàn Kiếm gắn liền với loài vật xuất hiện trong Tứ linh của phương Đông: loài Rùa. Không những biểu thị cho sự trường thọ trong cát tường Á Đông, mà Rùa Hồ Gươm còn gánh vác trên mai sứ mệnh khải thị cho mong ước thái hòa lâu bền, một nền hòa bình thịnh trị cho bách tính.
Khi xưa, Thần Kim Quy hiện lên trên ngọn sóng triều biển Đông, chỉ cho An Dương Vương giặc sau lưng nhà vua đó. Giờ, khi bờ cõi đã sạch bóng giặc Minh, trong làn nước biếc xanh hồ Lục thủy, Thần lại hiện lên trong dáng vẻ của cụ Rùa, đón nhận Thuận Thiên kiếm, thanh gươm báu của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, trả lại nơi nó thuộc về.
Trâu vàng đáy nước Hồ Tây
Trong những làn hương sương huyền khói ảo ở đền Kim Ngưu, các tích điển hiện lên cũng sóng sánh mây nước quyện hòa. Vào triều Lý, có vị thiền sư họ Phương, pháp danh Không Lộ, rất giỏi y thuật đã sang sứ nhà Tống chữa bệnh cho Hoàng tộc. Để tỏ lòng tri ơn, vua Tống đặc ân cho sứ thần An Nam thích sản vật gì của Bắc quốc thì vua sẽ ban tặng. Thiền sư tâu xin một ít đồng đen về để đúc chuông. Chuông đúc xong, khi thỉnh lên, tiếng kêu như sấm, ngân vang sang tận Bắc quốc. Trâu vàng của vua Tống ngỡ tiếng mẹ gọi, liền cất vó cong sừng lồng lên phi thẳng sang nước Nam. Đến khu vực rừng lim ngoài kinh thành Thăng Long thì không còn tiếng ngân nữa. Mất phương hướng, trâu vàng đã quần thảo cả khu rừng lim làm nó sụt thành hố nước mênh mông, chính là Hồ Tây bây giờ. Còn đường chạy của trâu thì tạo thành sông Kim ngưu. E ngại có chuyện chẳng lành, nhà vua sai thả luôn quả chuông xuống lòng hồ để ngừa chuyện bất ổn có thể xảy ra. Trâu vàng định vị chỗ đó, liền nhảy xuống hồ…
Thế là đã gần nghìn năm, bao nhiêu mưa nắng trùng hằng, chuông đồng vẫn nằm nguyên yên vị trong lòng Hồ Tây. Cũng ngần ấy thời gian, bao nhiêu sương khói phủ lên mặt Hồ Tây, Trâu vàng vẫn yên ngủ bên cạnh chuông đồng chưa thức giấc. Có lúc nào đó nó mơ màng nghe nhịp thở của trâu mẹ vẳng lên từ một cõi hư hao miên thẳm. Liệu có còn một tiếng chuông như thuở xưa được thỉnh lên kích hoạt trâu vàng thức giấc không?
Ngựa trắng bay ngàn dặm thiên lý
Sự lựa chọn nào cho dải đất Thăng Long, ngựa sắt của cậu bé Phù Đổng Thiên Vương nhổ lũy tre đằng ngà đánh giặc Ân hay ngựa chín hồng mao tung bay trong sính lễ của Tản Viên sơn thánh hỏi cưới nàng Mỵ Nương công chúa. Có lẽ sự lựa chọn nào cũng là chưa thỏa. Cái tinh thần quật khởi trong ngựa sắt Sóc Sơn hay vẻ lộng phiêu của chín hồng mao, phẩm vật đặc biệt của Ba Vì mây trắng đã đủ toàn hảo cho một Hà Nội hào hoa chưa? Thực khó cho một câu trả lời đối với một câu hỏi cũng thật mỹ miều. Với tôi, đó chính là con ngựa trắng từ ngàn mây bay xuống nhẹ bước quanh Quốc đô rồi dừng chân ở lại đây, trong ngôi đền Bạch Mã, số 76 phố Hàng Buồm ngày nay.
Ngựa trắng là linh thú của vị Thần tướng trong giấc mơ Cao Biền, đạo sĩ được vua Đường Ý Tông bổ nhiệm An Nam Tiết độ sứ để sang trấn yểm long mạch nước Nam. Trong giấc mơ đó, vị Thần tướng nói rằng: “Ta là tinh anh Long Đỗ, ở đây đã lâu, nghe tin ông xây thành Đại La, nên đến để hội ngộ, cớ sao phải yểm bùa?”. Câu nói bắt bài ấy khiến Cao Biền phải kinh khiếp mà dựng đền ở cửa Đông năm 886 để thờ và sắc phong cho Ngài.
Ngựa trắng lại lần nữa xuất hiện trong giấc mộng vua Lý Thái Tổ khi Người bắt đầu công cuộc xây thành, nhưng cả ba lần thành đắp xong đều bị sụp đổ. Vua lập đàn tràng tế lễ ở chính ngôi đền kia. Đêm ấy, vua mơ thấy một con ngựa trắng từ đền bước ra, đi một vòng từ đông sang tây rồi quay về đền và biến mất. Trong giấc mơ, vua được Thần Long Đỗ căn dặn cứ theo dấu vó ngựa mà đắp thành, tất sẽ được. Sớm hôm sau, vua lần theo vết chân ngựa in trên mặt đất, vẽ đồ án xây thành đắp lũy, từ đó thành mới đứng vững.
Vậy là, dấu chân ngựa trắng đã vẽ lên diện mạo của kinh thành ngàn năm với ba vòng La thành, Kinh thành, Hoàng thành mà đến nay vẫn còn dấu tích trong tên gọi và tâm thức người Hà Nội. Và đền Bạch Mã đã trở thành một trong “Thăng Long tứ trấn” của kinh thành.
“Trấn Tây có Voi phục, muôn thuở vững miếu thờ”
Nếu đền Bạch Mã là trấn Đông, đền Kim Liên là trấn Nam, đền Quán Thánh là trấn Bắc thì đền Voi phục là trấn Tây của Thăng Long. Đền thờ hoàng tử Linh Lang, con thứ tư, người đã giúp vua cha Lý Thánh Tông dẹp giặc Tống, và nhiều lần âm phù giúp nhà Trần trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, giúp nhà Lê trong công cuộc phục hưng.
Sau khi nhận được đồ vật vua ban để đánh giặc, gồm: một lá cờ hồng, một cây giáo dài, một thớt voi, Hoàng tử Linh Lang liền thét lên một cách hân hoan và hào sảng: “Ta là thiên tướng!”. Con voi nghe tiếng thét bèn phủ phục xuống để Hoàng tử ngự lên. Trên lưng voi, chàng thống lĩnh hơn năm ngàn binh mã đánh thẳng vào nơi giặc đồn trú và đã ca khúc khải hoàn. Từ đấy ngôi đền được gọi là đền Voi phục. Ngày nay, trước cửa đền vẫn còn nguyên hai bức tượng voi chầu phục hai bên.
Vậy là, con voi thiên binh đã ứng cảm với tiếng thét của thiên tướng mà xung trận đánh thắng giặc giòn giã, nay lại từ hòa phủ phục bên chủ lĩnh, rất mực trung trinh…
Cẩu nhi hồ Trúc Bạch
Những câu chuyện mang đầy màu sắc huyền sử bắt nguồn từ hoặc có liên quan đến những chú chó và triều đại nhà Lý đến nay vẫn được lưu truyền trong nhân gian, phảng phất nét sáng tạo yêu mến của ông cha ta.
Dã sử kể rằng: Năm Giáp Tuất 974, khi Lý Công Uẩn sinh ra, ở quê ông có con chó mẹ đẻ ra con chó con có bộ lông trắng và đốm lông vàng hình chữ “Vương” trên lưng, ứng với điềm báo năm Tuất sinh người làm vua. Quả thực, sau này Lý Công Uẩn lên ngôi rồng. Năm Canh Tuất 1010, khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, cũng có một con chó bụng chửa từ núi Ba Tiêu, châu Bắc Giang, bơi qua sông Cái rồi lên núi Nùng đẻ được một con chó con. Đến năm Nhâm Tuất 1022, hai mẹ con chó đều hóa đá. Nơi này sau dựng Chính điện đài và lập điện thờ chó mẹ và chó con, về sau mới dời ra ngoài Hoàng thành, dựng trên gò trong hồ Trúc Bạch như hiện nay. Sự tích đền Cẩu nhi ấy đã biểu đạt về sự thịnh vượng của một triều đại mới trên đất Hà Nội xưa, phải vậy không?
Nếu sự linh thiêng của Hà Nội gắn với Rồng vàng, sự trường cửu của Hà Nội gắn với Rùa thần, sự hào hoa của Hà Nội song hành cùng Ngựa trắng, sự quyến rũ của Hà Nội ẩn trú trong biểu tượng trâu vàng, sự cuốn hút của Hà Nội có trong hình ảnh voi phục, sự thăng khởi rực rỡ triều đại đầu tiên trên mảnh đất này có ân tình với những chú chó nhỏ thì sự thanh lịch của Hà Nội gắn với mùi hương của hoa Bảo tiên (cách điệu từ tổ hợp hoa sen, hoa cúc và mẫu đơn).
Nếu Hà Nội 12 mùa hoa là vẻ đẹp bên ngoài hiện hữu theo chiều dài 12 tháng trong năm thì hoa Bảo tiên là ẩn dụ của cái đẹp bên trong ẩn tàng vào chiều sâu tâm linh của Thăng Long. Nếu 12 mùa hoa trải dài khắp không gian Hà Nội thì hoa Bảo tiên chỉ có ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trên trán các văn bia được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu văn hóa thế giới, biểu tượng cho tinh hoa dải đất ngàn năm văn vật này.
Rồng vàng khởi tạo một Thăng Long linh phiêu và kiêu tráng. Rùa huyền triện ấn một Thăng Long trầm mặc và hoài nhớ. Ngựa trắng mang đến một Thăng Long thảo mặc. Trâu vàng đem tới một Thăng Long hổ phách. Voi phục cảm ứng với Thăng Long quật khởi. Chó nhỏ cho Thăng Long nét khói huyền sương ảo… Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!
Lê Bảo Âu Long
|
Sáng ngày 22/10, tại Văn phòng Chính phủ,
Thủ tướng Phạm Minh Chính
tiếp
Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres
hội kiến nhân chuyến thăm chính thức
Việt Nam
.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiếp Tổng thư ký Liên hợp quốc (LHQ) António Guterres đang có chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 21-22/10 theo lời mời của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, nhân dịp kỷ niệm 45 năm Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc (1977-2022).
Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh Việt Nam vừa hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, nhiệm kỳ 2020-2021; được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025.
Đây là chuyến thăm quan trọng của người đứng đầu tổ chức đa phương lớn nhất thế giới, thể hiện thông điệp mạnh mẽ về sự coi trọng của LHQ đối với quan hệ đối tác Việt Nam-LHQ trong 45 năm qua.
Trong chuyến thăm, Tổng thư ký LHQ António Guterres đã dự lễ đón chính thức và hội đàm với Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, dự lễ kỷ niệm 45 năm Việt Nam gia nhập LHQ. Tại các cuộc gặp, Tổng thư ký António Guterres đều đánh giá cao vai trò của Việt Nam, là một trong những thành viên không thể thiếu của LHQ, đã, đang và sẽ có những đóng góp ý nghĩa cho công việc chung của LHQ trong giải quyết các thách thức toàn cầu, vì hòa bình và phát triển trên thế giới.
Tại lễ kỷ niệm, Tổng thư ký LHQ António Guterres khẳng định, trong 45 năm qua, nhân dân Việt Nam đã viết nên câu chuyện về sự chuyển đổi mạnh mẽ và tràn đầy hy vọng.
Tại buổi tiếp, Thủ tướng Phạm Minh Chính chân thành cảm ơn những đóng góp, hỗ trợ quý báu của LHQ đã tích cực hỗ trợ Việt Nam tái thiết đất nước trong giai đoạn rất khó khăn sau chiến tranh cũng như trong công cuộc Đổi mới, hội nhập quốc tế toàn diện hiện nay.
Trong suốt chặng đường 45 năm qua, LHQ đã luôn là đối tác tin cậy hàng đầu và người bạn đồng hành, gắn bó lâu dài của Việt Nam trong mọi chặng đường phát triển đất nước.
Thủ tướng Phạm Minh Chính giới thiệu với Tổng thư ký LHQ António Guterres hình ảnh các Di sản văn hóa của Việt Nam đã được UNESCO công nhận. Tổng thư ký Guterres bày tỏ về những ấn tượng đối với những Di sản văn hóa của Việt Nam.
Tại buổi tiếp, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thư ký LHQ António Guterres trao đổi một số trọng tâm cụ thể trong hợp tác giữa Việt Nam với LHQ trong thời gian tới.
NGUYỄN HỒNG
|
On the morning of October 22, at the Government Office,
Prime Minister Pham Minh Chinh
next
United Nations Secretary General António Guterres
meeting on the occasion of the official visit
Vietnam
.
Prime Minister Pham Minh Chinh receives United Nations (UN) Secretary General António Guterres, who is on an official visit to Vietnam from October 21-22 at the invitation of President Nguyen Xuan Phuc, on the occasion of the 45th anniversary. the year Vietnam joined the United Nations (1977-2022).
The visit took place in the context that Vietnam has just successfully completed its role as a non-permanent member of the UN Security Council, term 2020-2021; Elected as a member of the UN Human Rights Council for the 2023-2025 term.
This is an important visit by the head of the world's largest multilateral organization, demonstrating a strong message about the UN's regard for the Vietnam-UN partnership over the past 45 years.
During the visit, UN Secretary General António Guterres attended the official welcoming ceremony and held talks with President Nguyen Xuan Phuc, met with General Secretary Nguyen Phu Trong, and attended the 45th anniversary of Vietnam's accession to the UN. At the meetings, Secretary General António Guterres highly appreciated the role of Vietnam, as one of the indispensable members of the United Nations, and has made and will make meaningful contributions to the common work of the United Nations in the United Nations. solve global challenges, for peace and development in the world.
At the celebration, UN Secretary General António Guterres affirmed that over the past 45 years, the Vietnamese people have written a story of strong and hopeful transformation.
At the meeting, Prime Minister Pham Minh Chinh sincerely thanked the valuable contributions and support of the United Nations for actively supporting Vietnam in rebuilding the country in the very difficult period after the war as well as in the Doi Moi process. , comprehensive international integration today.
During the past 45 years, the UN has always been a leading trusted partner and long-term companion of Vietnam in every step of the country's development.
Prime Minister Pham Minh Chinh introduced to UN Secretary General António Guterres images of Vietnam's cultural heritages recognized by UNESCO. Secretary General Guterres expressed his impressions of Vietnam's cultural heritage.
At the meeting, Prime Minister Pham Minh Chinh and UN Secretary General António Guterres discussed some specific focuses in cooperation between Vietnam and the UN in the coming time.
NGUYEN HONG
|
Ấn tượng mạnh mẽ nhất với
Tổng thư ký Liên Hiệp quốc António Guterres
chính là tinh thần tiên phong, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm và cam kết phụng sự của thanh niên Việt Nam.
Chiều ngày 22-10, tại Học viện Ngoại giao, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã chủ trì buổi nói chuyện với chủ đề “Đổi mới sáng tạo và sự tham gia của thanh niên vì một tương lai bền vững và bao trùm” giữa Tổng thư ký Liên Hiệp quốc (LHQ) António Guterres với gần 400 lãnh đạo trẻ, thanh niên Việt Nam đến từ các cơ quan Chính phủ, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực thanh niên, phát triển bền vững, biến đổi khí hậu, các lực lượng tham gia Gìn giữ hòa bình LHQ và sinh viên một số trường Đại học tại
Hà Nội
.
Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu mở đầu buổi nói chuyện. Ảnh: Hữu Hưng.
Phát biểu mở đầu buổi nói chuyện, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn khẳng định Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực không ngừng để đảm bảo sự tham gia và đóng góp của thanh niên trong quá trình hoạch định chính sách, phát triển kinh tế – xã hội và thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG); đồng thời đánh giá cao sự hợp tác chặt chẽ và hỗ trợ của LHQ trong quá trình này, đặc biệt là những dự án và sáng kiến thiết thực, sáng tạo phối hợp giữa LHQ với các Bộ, ngành, cơ quan và các tổ chức thanh niên Việt Nam, trong đó có Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Bộ trưởng nhận định mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt từ xung đột, biến đổi khí hậu đến tình trạng bất bình đẳng và dịch bệnh, song thế hệ trẻ ngày nay không hề bị động chấp nhận thực tại này, mà chính là lực lượng đi đầu thúc đẩy phát triển và tiến bộ ở mọi nơi trên thế giới. Bộ trưởng nhấn mạnh thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay luôn phát huy tinh thần xung kích, sáng tạo, dũng cảm, đoàn kết, nhiệt huyết, hướng đến phát triển bền vững ở mọi lĩnh vực, mọi phong trào xã hội, mọi vùng miền, cả trong và ngoài nước.
Tổng thư ký LHQ António Guterres trò chuyện với thanh niên, sinh viên. Ảnh: Hữu Hưng.
Trong chia sẻ của mình với thanh niên, sinh viên, Tổng thư ký LHQ António Guterres bày tỏ cảm kích trước tình cảm nồng ấm của nhân dân, đặc biệt là thanh niên, sinh viên Việt Nam dành cho ông và LHQ trong suốt chuyến thăm Việt Nam. Ấn tượng mạnh mẽ nhất với Tổng thư ký chính là tinh thần tiên phong, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm và cam kết phụng sự của thanh niên Việt Nam. Những tấm gương thanh niên Việt Nam tham gia gìn giữ hòa bình LHQ tạo dựng mối quan hệ gần gũi giữa các Phái bộ và các cộng đồng địa phương là hình mẫu để LHQ nhân rộng trong hoạt động quan trọng này.
Với sự ủng hộ của Nhà nước và cộng đồng, thanh niên Việt Nam cũng đã phát huy được tiếng nói, vai trò, mang lại nhiều sáng kiến, giải pháp cho các vấn đề chung của đất nước và của thế giới, từ phòng chống dịch và phục hồi sau dịch, ứng phó với biến đổi khí hậu, đến đẩy mạnh giáo dục chất lượng, bảo vệ các di sản thiên nhiên…
Tổng thư ký gửi gắm với thanh niên Việt Nam và thanh niên thế giới, trong quá trình tham gia, đóng góp, cần xây dựng và phát huy đoàn kết liên thế hệ, liên cộng đồng. “Nếu bạn được giáo dục tử tế thì bạn là một trong số ít người may mắn. Bạn có nghĩa vụ giúp đỡ những người kém may mắn trên trái đất này”- Tổng thư ký António Guterres nhắn nhủ.
Tổng Thư ký khẳng định LHQ, với Chiến lược về thanh niên “Youth2030”, sẽ tiếp tục đồng hành cùng thanh niên và hỗ trợ tăng cường vai trò, tiếng nói và sự tham gia của thanh niên trong mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
Sĩ quan Sa Minh Ngọc (Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam, thành viên Bệnh viện dã chiến đầu tiên của Việt Nam tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc năm 2018 -2019) trao đổi tại buổi nói chuyện.
Ảnh: Hữu Hưng
Tại buổi nói chuyện, đại diện thanh niên, sinh viên Việt Nam đã chia sẻ về những kinh nghiệm, trải nghiệm, suy nghĩ, cảm tưởng về sự tham gia của giới trẻ, thanh niên Việt Nam trong các hoạt động của LHQ như gìn giữ hòa bình, chăm sóc sức khỏe, chống biến đổi khí hậu, bảo tồn di sản… cũng như tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Các đại diện thanh niên đã nêu một số thuận lợi, thách thức đối với thanh niên và có những kiến nghị hết sức thiết thực đối với Tổng thư ký cũng như đề nghị LHQ tiếp tục quan tâm thúc đẩy sự tham gia của giới trẻ, nâng cao nhận thức của giới trẻ đối với việc đóng góp vào nỗ lực chung.
Trước đó, các thanh niên, sinh viên Việt Nam đã chào đón Tổng thư ký LHQ António Guterres một cách ấn tượng với màn văn nghệ ngắn ngay tại sân Học viện Ngoại giao. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã cùng Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tham gia điệu nhảy Bồ Đào Nha, quê hương ông, cùng sinh viên Việt Nam tại đây.
Tổng thư ký đã cùng Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn và Quyền Giám đốc Học viện Ngoại giao cắt băng khánh thành hành lang LHQ tại Học viện Ngoại giao, ghi sổ lưu niệm tại đây.
Sau trao đổi với thanh niên, sinh viên Việt Nam, Tổng thư ký LHQ đã trồng cây xoài lưu niệm tại Học viện Ngoại giao. “Hy vọng một ngày ông sẽ được thưởng thức trái ngọt của cây ông trồng ngày hôm nay”- Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhắn nhủ ông Guterres.
D.Ngọc – H.Hưng. Ảnh: Hữu Hưng
|
Strongest impression with
United Nations Secretary General António Guterres
is the pioneering, creative, responsible and committed spirit of Vietnamese youth.
On the afternoon of October 22, at the Diplomatic Academy, Minister of Foreign Affairs Bui Thanh Son chaired a talk with the topic "Innovation and youth participation for a sustainable and inclusive future" between Secretary General of the United Nations (UN) António Guterres and nearly 400 young leaders and Vietnamese youth from Government agencies, Ho Chi Minh Communist Youth Union Central Committee, political and social organizations , a non-governmental organization working in the fields of youth, sustainable development, climate change, forces participating in UN peacekeeping and students of some universities in Vietnam.
Hanoi
.
Minister of Foreign Affairs Bui Thanh Son spoke at the opening of the talk. Photo: Huu Hung.
Speaking at the opening of the talk, Minister Bui Thanh Son affirmed that the Party and State of Vietnam always make continuous efforts to ensure the participation and contribution of young people in the process of policy making and economic development. – society and implementation of the Sustainable Development Goals (SDG); At the same time, we highly appreciate the close cooperation and support of the UN in this process, especially the practical and creative projects and initiatives coordinated between the UN and ministries, branches, agencies and organizations. Vietnamese youth, including the Ho Chi Minh Communist Youth Union Central Committee.
The Minister commented that despite facing many severe challenges from conflict, climate change to inequality and epidemics, today's young generation does not passively accept this reality, but is the leading force promoting development and progress everywhere in the world. The Minister emphasized that today's Vietnamese youth generation always promotes the spirit of initiative, creativity, courage, solidarity, enthusiasm, aiming for sustainable development in all fields, all social movements, and all regions. regions, both domestically and internationally.
UN Secretary General António Guterres chats with young people and students. Photo: Huu Hung.
In his sharing with young people and students, UN Secretary General António Guterres expressed his appreciation for the warm feelings of the people, especially Vietnamese youth and students, for him and the UN during the visit. Vietnam. The strongest impression on the Secretary General is the pioneering spirit, creativity, dare to take responsibility and commitment to serve of Vietnamese youth. The examples of Vietnamese youth participating in UN peacekeeping, creating close relationships between Missions and local communities, are models for the UN to replicate in this important activity.
With the support of the State and the community, Vietnamese youth have also promoted their voice and role, bringing many initiatives and solutions to common problems of the country and the world, from prevention epidemic and post-epidemic recovery, responding to climate change, promoting quality education, protecting natural heritage...
The Secretary General conveyed to Vietnamese youth and the world's youth that in the process of participating and contributing, it is necessary to build and promote inter-generational and inter-community solidarity. “If you have a good education, you are one of the lucky few. You have an obligation to help the less fortunate on this earth" - Secretary General António Guterres reminded.
The Secretary General affirmed that the United Nations, with the Youth Strategy "Youth2030", will continue to accompany youth and support strengthening the role, voice and participation of youth in all aspects of economic life. , political, social.
Officer Sa Minh Ngoc (Vietnam Department of Peacekeeping, member of Vietnam's first Field Hospital to join the United Nations Peacekeeping Force in 2018 - 2019) discussed at the talk.
Photo: Huu Hung
At the talk, representatives of Vietnamese youth and students shared their experiences, experiences, thoughts and feelings about the participation of Vietnamese youth in UN activities such as preserving keeping peace, health care, combating climate change, preserving heritage... as well as progress in implementing sustainable development goals.
Youth representatives stated a number of advantages and challenges for young people and made very practical recommendations to the Secretary General as well as requested that the UN continue to pay attention to promoting youth participation, Raise youth awareness of contributing to common efforts.
Before that, Vietnamese young people and students impressively welcomed UN Secretary General António Guterres with a short musical performance right at the Diplomatic Academy yard. The United Nations Secretary General and Foreign Minister Bui Thanh Son participated in the dance of Portugal, his homeland, with Vietnamese students here.
The Secretary General, together with Foreign Minister Bui Thanh Son and the Acting Director of the Diplomatic Academy, cut the ribbon to inaugurate the UN corridor at the Diplomatic Academy and wrote a souvenir book here.
After discussions with Vietnamese youth and students, the UN Secretary General planted a souvenir mango tree at the Diplomatic Academy. "Hopefully one day you will enjoy the sweet fruit of the tree you planted today" - Foreign Minister Bui Thanh Son reminded Mr. Guterres.
D.Ngoc – H.Hung. Photo: Huu Hung
|
Di chỉ Cái Bèo được phát hiện năm 1938, vừa được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch cấp phép khai quật.
Mới đây, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đã ban hành quyết định cho phép Bảo tàng Hải Phòng phối hợp với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) và các chuyên gia của Đại học Quốc gia Úc khai quật khảo cổ tại di tích Cái Bèo thuộc thị trấn Cát Bà (
huyện Cát Hải
–
TP Hải Phòng
).
Toàn cảnh hố khai quật tại di chỉ Cái Bèo.
Cái nôi văn hóa biển Việt Nam
Theo quyết định, thời gian khai quật diễn ra từ ngày 16/11 đến ngày 23/12/2022, trên diện tích 50m2. Chủ trì khai quật là GS.TS Lâm Thị Mỹ Dung – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Trong thời gian khai quật, cơ quan được cấp giấy phép cần chú ý bảo vệ địa tầng của di tích. Có trách nhiệm tuyên truyền cho nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hóa ở địa phương, không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản văn hóa.
Hiện vật khai quật được tại di chỉ Cái Bèo.
“
Di chỉ Cái Bèo là linh hồn của văn hóa biển tiền sử Việt Nam, có giá trị quan trọng trong lịch sử – văn hóa biển của dân tộc. Cái Bèo cũng là một trong những di tích quý hiếm nhất của vùng duyên hải Bắc Bộ, là một làng chài ven biển cổ có quy mô lớn nhất hiện được biết ở Việt Nam” – PGS.TS Nguyễn Khắc Sử.
Những hiện vật thu thập được trong quá trình khai quật, Bảo tàng Hải Phòng, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hải Phòng có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tránh để hiện vật bị hư hỏng, thất lạc và báo cáo Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó.
Sau khi kết thúc đợt khai quật, Bảo tàng Hải Phòng và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) phải có báo cáo sơ bộ và đề xuất phương án quản lý, bảo vệ khu vực đã khai quật trong thời gian chậm nhất 1 tháng và báo cáo khoa học trong thời gian chậm nhất 1 năm, gửi về Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch.
Đồng thời, trước khi công bố kết quả của đợt khai quật, cơ quan được cấp giấy phép trao đổi, thống nhất với Cục Di sản văn hóa.
Theo câu truyện dân gian vùng Đông Bắc, đảo Cát Bà xưa kia vốn là hậu cung của một người đàn ông đầu tiên khai sơn, phá thạch ở vùng này. Khi ông phát hiện ra vịnh quý giá với nhiều hòn đảo đẹp mà sau này có tên là vịnh Hạ Long. Đây cũng là lúc ông phải cưu mang những nữ nhi đơn côi mà chồng của họ đã vĩnh viễn không trở về sau những chuyến đi biển đầy bất trắc.
Để rảnh tay khai phá những vùng đất lân cận tiếp theo, ông đã tập hợp tất cả các bà ra sinh sống tại hòn đảo xinh đẹp trù phú, biệt lập giữa biển khơi, nằm trong vịnh Lan Hạ. Vì thế, sau này vùng đất Bãi Cháy, Hòn Gai có tên là đất Cửa Ông, còn hòn đảo kia thì có tên là đảo Các Bà.
Trải bao biến đổi, thăng trầm còn lại hai địa danh Cửa Ông (
Quảng Ninh
) và Cát Bà (Hải Phòng) là do gọi chệch đi mà thành.
Đảo Cát Bà không chỉ được biết đến là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, có thể tham gia các chuyến thám hiểm mạo hiểm hang động, khu sinh thái rừng và đáy biển. Vì vậy, đảo ngọc còn nổi danh là “cái nôi văn hóa biển Việt Nam” với rất nhiều di tích cấp quốc gia – di chỉ Cái Bèo là một trong những di tích ngoài trời điển hình ấy.
Lần khai quật thứ 5
Làng chài Cái Bèo là làng lớn nhất ra đời cách đây 7.000 năm.
Theo tư liệu của PGS.TS Nguyễn Khắc Sử (Viện Khảo cổ học), di chỉ Cái Bèo nằm giữa thung lũng đá vôi, chạy dài theo hướng Bắc Nam dọc bờ biển, cách trung tâm thị trấn Cát Bà chừng 1,5 km về phía Đông Nam. Di chỉ nằm gần bến tàu Bến Bèo, diện tích khoảng 18.000m2, dốc thoải từ Nam ra Bắc, cao trung bình 4m so với mặt biển.
Năm 1938, di chỉ Cái Bèo lần đầu tiên được nhà khảo cổ học người Pháp M. Colani phát hiện và được các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục khai quật vào năm 1973, 1981, 1986, 2006. Lần khai quật đầu tiên kết quả cho thấy, Cái Bèo là nơi cư trú của quần thể ngư dân tại một làng chài biển cổ có quy mô lớn nhất nước ta cách đây 7.000 năm.
Các hiện vật khai quật được gồm nhiều bàn mài, rìu đá, nồi đất, vỏ sò, vỏ ốc hóa thạch. Cách di chỉ 200m là dãy núi Áng Thảm và Bù Nâu chạy vòng cung ôm lấy Cái Bèo, làm cho nơi đây kín gió, biển không ồn ào, phong cảnh hữu tình, thuận cho việc sinh sống và khai thác thủy sản.
Có lẽ vẻ đẹp thiên nhiên đã quy tụ cùng với thuận lợi về địa thế, phong phú về sản vật nên dân cư cổ Cái Bèo đã quần tụ lâu dài tại đây, tạo nên nền văn hóa đặc sắc của người Việt cổ.
Theo tài liệu nghiên cứu, di chỉ Cái Bèo được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 2009. Đây không chỉ là di sản văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của Việt Nam, mà còn là bảo tàng địa chỉ tuyệt vời về sự dao động mực nước biển đại dương. Sự tiếp nhận và thích ứng của con người trước hiện tượng biển tiến, biển thoái, là một bài học cho chúng ta hôm nay trước nguy cơ xâm thực của nước biển do biến đổi khí hậu.
Qua các cuộc khai quật tại di chỉ Cái Bèo, không những xác định những giá trị khoa học về khảo cổ cho đảo Cát Bà, mà còn góp phần soi sáng nhiều vấn đề của tiến trình phát triển tiền sử Việt Nam.
Đầu năm 2015, cơ quan chức năng tiến hành lập hồ sơ dự kiến triển khai xây dựng công trình tường rào và nhà quản lý di chỉ Cái Bèo nhằm bảo vệ phần diện tích quá ít ỏi còn lại của di chỉ.
Đồng thời, xây dựng kế hoạch thành lập một bảo tàng tại chỗ trưng bày và giới thiệu các di vật đã từng được khai quật hay phục dựng lại mô hình đời sống cổ xưa với phương thức kinh tế khai thác biển độc đáo của người Cái Bèo.
Trần Hòa
|
The Cai Beo site was discovered in 1938 and has just been licensed to be excavated by the Ministry of Culture, Sports and Tourism.
Recently, the Ministry of Culture, Sports and Tourism issued a decision allowing Hai Phong Museum to coordinate with the University of Social Sciences and Humanities (Hanoi National University) and experts from the University. Australian National University archaeological excavation at Cai Beo relic in Cat Ba town (
Cat Hai district
–
Hai Phong City
).
Panoramic view of the excavation pit at Cai Beo site.
Cradle of Vietnamese maritime culture
According to the decision, the excavation period will take place from November 16 to December 23, 2022, on an area of 50 square meters. The excavation chair is Prof. Dr. Lam Thi My Dung - University of Social Sciences and Humanities (Hanoi National University).
During excavation, the licensing agency needs to pay attention to protecting the stratigraphy of the monument. Responsible for propagating to the people about the protection of local cultural heritage, do not announce official conclusions without the agreement of the governing agency and the Department of Cultural Heritage.
Artifacts excavated at Cai Beo site.
“
Cai Beo site is the soul of Vietnam's prehistoric marine culture, with important value in the nation's maritime history and culture. Cai Beo is also one of the rarest relics of the Northern coastal region, the largest ancient coastal fishing village currently known in Vietnam" - Associate Professor, Dr. Nguyen Khac Su.
For the artifacts collected during the excavation process, Hai Phong Museum and the Department of Culture and Sports of Hai Phong city are responsible for preserving and preserving the artifacts to avoid being damaged or lost and reporting to the Minister. The Ministry of Culture, Sports and Tourism plans to protect and promote the value of those artifacts.
After finishing the excavation, Hai Phong Museum and the University of Social Sciences and Humanities (Hanoi National University) must have a preliminary report and propose a plan to manage and protect the area. Excavation within 1 month at the latest and a scientific report within 1 year, sent to the Ministry of Culture, Sports and Tourism.
At the same time, before announcing the results of the excavation, the licensed agency discussed and reached an agreement with the Department of Cultural Heritage.
According to folk tales of the Northeast, Cat Ba Island was once the harem of the first man to open mountains and break rocks in this area. When he discovered a precious bay with many beautiful islands, it was later named Ha Long Bay. This is also the time when he has to take care of lonely women whose husbands have never returned after uncertain sea voyages.
In order to have free time to explore the next neighboring lands, he gathered all the women to live on a beautiful and prosperous island, isolated in the middle of the sea, located in Lan Ha Bay. Therefore, later, the land of Bai Chay and Hon Gai was called Cua Ong land, and the other island was called Cac Ba island.
After many changes, ups and downs, there are still two places called Cua Ong (Cua Ong).
Quang Ninh
) and Cat Ba (Hai Phong) were formed due to different names.
Cat Ba Island is not only known as an attractive eco-tourism destination, you can participate in adventurous expeditions to caves, forest ecological areas and the seabed. Therefore, the pearl island is also famous as the "cradle of Vietnam's marine culture" with many national relics - Cai Beo relic is one of those typical outdoor relics.
The 5th excavation
Cai Beo fishing village is the largest village founded 7,000 years ago.
According to documents by Associate Professor, Dr. Nguyen Khac Su (Institute of Archeology), Cai Beo site is located in the middle of a limestone valley, running north-south along the coast, about 1.5 km from the center of Cat Ba town. to the Southeast. The site is located near Ben Beo wharf, with an area of about 18,000 square meters, sloping gently from South to North, with an average height of 4 meters above sea level.
In 1938, Cai Beo site was first discovered by French archaeologist M. Colani and continued to be excavated by Vietnamese archaeologists in 1973, 1981, 1986, 2006. The first excavation The results show that Cai Beo is the residence of a population of fishermen in the largest ancient fishing village in our country 7,000 years ago.
Excavated artifacts include many grinding tables, stone axes, clay pots, shells, and fossil snail shells. 200m from the site are the Ang Tham and Bu Nau mountains running in an arc embracing Cai Beo, making this place sheltered from the wind, the sea is not noisy, the scenery is charming, and is convenient for living and exploiting fisheries.
Perhaps the natural beauty combined with favorable terrain and abundance of products made the ancient population of Cai Beo gather here for a long time, creating a unique culture of the ancient Vietnamese people.
According to research documents, the Cai Beo site was ranked as a national relic in 2009. This is not only a typical and unique cultural heritage of Vietnam, but also a wonderful museum address about the evolution of Vietnam. ocean sea level fluctuations. Human acceptance and adaptation to the phenomenon of ocean advance and retreat is a lesson for us today against the risk of seawater erosion due to climate change.
Through excavations at the Cai Beo site, not only did it determine the scientific archaeological value of Cat Ba island, but it also contributed to illuminating many issues of Vietnam's prehistoric development process.
In early 2015, the authorities prepared documents to plan for the construction of a fence and a Cai Beo site management house to protect the small remaining area of the site.
At the same time, develop a plan to establish an on-site museum to display and introduce relics that have been excavated or reconstruct ancient life models with the unique economic method of exploiting the sea of the Cai people. Duckweed.
Tran Hoa
|
Để tạo điều kiện phát triển kinh tế, trong thời gian tới vùng Đông Nam bộ cần đầu tư mạnh hơn về cơ sở hạ tầng, có những đột phá về hạ tầng giao thông.
Nhiều tiềm năng phát triển
Vùng Đông Nam bộ hay vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm 6 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là
TP. Hồ Chí Minh
,
Đồng Nai
,
Bình Dương
,
Bà Rịa – Vũng Tàu
,
Bình Phước
và
Tây Ninh
. Khu vực kinh tế này xem như đầu tàu cả nước, với sự phát triển rất vượt trội ở nhiều mặt, từ dịch vụ, công nghiệp cho đến tài chính, nguồn nhân lực.
TS. Đinh Thế Hiển – Chuyên gia kinh tế đánh giá, nhiều năm qua, vùng Đông Nam bộ vẫn luôn giữ vị trí đứng đầu cả nước về quy mô GRDP và thu ngân sách nhà nước. Cụ thể vùng Đông Nam bộ đóng góp gần 45% GDP cả nước. Nhiều ngành công nghiệp phát triển vượt trội, số lượng khu công nghiệp chiếm trên 60 của cả nước với tỷ lệ lấp đầy khá là cao, khoảng gần 75%. Điều này cho thấy sự vượt trội trong đóng góp kinh tế, công nghiệp, dịch vụ của khu vực.
Thời gian qua, hàng loạt các hạ tầng giao thông, cảng biển, cảng sông đã dựng lên. Các khu công nghiệp với những nhà máy từ nghiêng về lắp ráp ở Bình Dương đến những nhà máy mang tính chất công nghiệp nặng ở Phú Mỹ. Khu vực cũng đã đầu tư nhiều về hệ thống cảng, trong đó có hệ thống cảng biển như cảng Cái Mép, Thị Vải cũng đã bắt đầu đi vào hoạt động.
Cùng với đó là hàng loạt các dự án hạ tầng giao thông đã, đang và sẽ được triển khai như đường Vành đai 3, Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh, các dự án đường bộ cao tốc: Bến Lức – Long Thành, Biên Hòa – Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh – Mộc Bài; đường sắt Biên Hòa – Vũng Tàu… sẽ tạo chuỗi kết nối với hệ thống cảng biển, các cửa khẩu quốc tế, các trung tâm tài chính, các đầu mối vận tải lớn trong khu vực Đông Nam Bộ và lớn hơn là châu Á – Thái Bình Dương và toàn thế giới.
Cải thiện hạ tầng giao thông giúp đẩy nhanh phát triển kinh tế vùng Đông Nam bộ
Mặc dù là vùng có nhiều tiềm năng và đạt được những kết quả đáng khích lệ trong thời gian qua nhưng trong quá trình phát triển, vùng Đông Nam Bộ còn bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế, nhất là trong đại dịch Covid-19 vừa qua. Nhiều chỉ tiêu đặt ra chưa đạt được, nhất là các chỉ tiêu quan trọng như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng đóng góp vào GDP của cả nước, tốc độ tăng năng suất lao động, thu ngân sách nhà nước…
Công nghiệp phát triển nhanh nhưng thiếu tính bền vững và đồng bộ; chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; phân bố các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa hợp lý; các ngành dịch vụ cao cấp, chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Kết cấu hạ tầng vùng, liên vùng còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, tính kết nối và đồng bộ còn yếu. Hệ thống giao thông quá tải, tắc nghẽn. Tình trạng ngập úng thường xuyên. Ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Một số công trình trọng điểm như sân bay Long Thành (giai đoạn 1), di dời cảng trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có… còn chậm tiến độ so với mục tiêu đề ra.
Hạ tầng xã hội chưa theo kịp sự phát triển, tình trạng quá tải ở hầu hết các trường học, cơ sở đào tạo, dạy nghề công lập, các cơ sở khám chữa bệnh ngày càng lớn. Thiếu nhà ở và các tiện nghi, tiện ích cho công nhân tại các khu công nghiệp. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa đạt mục tiêu, chưa thực sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội Vùng. Liên kết giữa các địa phương trong vùng chưa chặt chẽ, còn hình thức, liên kết nội vùng và liên vùng chưa có tính chiến lược, lâu dài để nâng cao năng lực cạnh tranh vùng…
Cải cách hành chính, cải thiện hạ tầng giao thông
Theo TS. Đinh Thế Hiển, để tạo điều kiện phát triển kinh tế vùng Đông Nam bộ, trong thời gian tới vùng cần có những đột phá về giao thông. Hiện nay chúng ta vẫn chưa hoàn thành đường vành đai 3, tuyến đường vành đai 4 vẫn còn đang trong kế hoạch. Chính vì vậy trong thời gian tới, vùng Đông Nam bộ cần được đầu tư mạnh về hạ tầng giao thông.
Đồng thời, cần tăng cường liên kết vùng trong vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ các hệ sông; xử lý chất thải công nghiệp, sinh hoạt; thích ứng với biến đổi khí hậu; liên kết phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thị trường lao động chung của vùng, gồm Trung tâm đại học – đào tạo nghề; trung tâm công nghiệp – dịch vụ nền tảng của thị trường lao động. Bên cạnh đó, vùng cần liên kết phát triển hạ tầng chuyển đổi số và xây dựng cơ sở dữ liệu vùng về kinh tế – xã hội, làm cơ sở hoạch định chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển và điều phối hoạt động liên kết .
Cùng với cải thiện hạ tầng giao thông, TS. Huỳnh Thanh Điền – Chuyên gia kinh tế cho rằng, Đông Nam bộ cần tiếp tục đi đầu trong việc cải cách hành chính để thu hút đầu tư, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh. Chú trọng rà soát, tiếp tục cắt giảm mạnh mẽ, phân cấp nhiều hơn và xây dựng chế tài, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc hành chính; chú trọng nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 ở hầu hết thủ tục, hướng đến phát triển chính quyền số, nhằm rút ngắn thời gian và tiết giảm thực chất chi phí cho doanh nghiệp, người dân, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và lợi thế thu hút đầu tư của các địa phương trong vùng.
“Một doanh nghiệp họ đến một địa phương để làm ăn thì họ xem xét nhiều yếu tố, thứ nhất là cơ sở hạ tầng, giao thông; thứ 2 là chính sách đội ngũ cán bộ công chức để giải quyết các thủ tục hành chính; thứ 3 là nguồn nguyên liệu, tiếp theo là thị trường. Nếu chúng ta giải quyết được những yếu tố này thì vùng Đông Nam bộ sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong tương lai”
, TS. Huỳnh Thanh Điền nhấn mạnh.
Hà Duyên
|
To facilitate economic development, in the coming time the Southeast region needs to invest more heavily in infrastructure and have breakthroughs in transportation infrastructure.
Lots of development potential
The Southeast region or the Southern key economic region includes 6 provinces and centrally run cities
City. Ho Chi Minh
,
Dong Nai
,
Binh Duong
,
BA Ria Vung Tau
,
Binh Phuoc
and
Tay Ninh
. This economic sector is considered the leading engine of the country, with outstanding development in many aspects, from services and industry to finance and human resources.
Dr. Dinh The Hien - Economic expert assessed that for many years, the Southeast region has always held the top position in the country in terms of GRDP scale and state budget revenue. Specifically, the Southeast region contributes nearly 45% of the country's GDP. Many industries have developed outstandingly, the number of industrial parks accounts for over 60 in the country with a quite high occupancy rate, about nearly 75%. This shows the superiority in economic, industrial and service contributions of the region.
Recently, a series of transportation infrastructure, seaports, and river ports have been built. Industrial parks with factories ranging from assembly-oriented factories in Binh Duong to heavy industrial factories in Phu My. The region has also invested a lot in the port system, including seaport systems such as Cai Mep and Thi Vai ports that have also begun to operate.
Along with that, a series of traffic infrastructure projects have been and will be implemented such as Ring Road 3 and Ring Road 4 of the city. Ho Chi Minh, expressway projects: Ben Luc - Long Thanh, Bien Hoa - Vung Tau, City. Ho Chi Minh – Moc Bai; Bien Hoa - Vung Tau railway... will create a chain of connections with the seaport system, international border gates, financial centers, and major transport hubs in the Southeast region and greater Asia - Pacific and worldwide.
Improving transportation infrastructure helps accelerate economic development in the Southeast region
Although the region has a lot of potential and has achieved encouraging results in recent times, during the development process, the Southeast region still exhibits many difficulties and limitations, especially during the Covid-19 pandemic. recently. Many set targets have not been achieved, especially important targets such as: Economic growth rate, contribution to the country's GDP, labor productivity growth rate, state budget revenue...
Industry develops rapidly but lacks sustainability and synchronization; Mainly processing and assembly, low added value; Unreasonable distribution of industrial parks and export processing zones; High-end, high-quality service industries have not met development requirements.
Regional and inter-regional infrastructure is lacking and weak, does not meet development needs, and connectivity and synchronization are still weak. The traffic system is overloaded and congested. Frequent flooding. Environmental pollution is increasingly serious. Some key projects such as Long Thanh airport (phase 1), port relocation in the Ho Chi Minh City area, upgrading existing railway lines... are still behind schedule compared to the set goals.
Social infrastructure has not kept up with development, the overload in most schools, public training and vocational establishments, and medical examination and treatment facilities is increasing. Lack of housing and amenities for workers in industrial zones. The quality of human resources does not meet the requirements of international integration.
The potential of science, technology and innovation has not yet reached its goals and has not really become a driving force to improve labor productivity, competitiveness, and promote regional socio-economic development. The connection between localities in the region is not tight, and the form and form of intra-regional and inter-regional links are not strategic and long-term to improve regional competitiveness...
Administrative reform and improvement of transport infrastructure
According to Dr. Dinh The Hien, to create conditions for economic development in the Southeast region, in the coming time the region needs to have breakthroughs in transportation. Currently, we have not yet completed Ring Road 3, Ring Road 4 is still in the planning stage. Therefore, in the coming time, the Southeast region needs to invest heavily in transportation infrastructure.
At the same time, it is necessary to strengthen regional connectivity in environmental protection and river systems; industrial and domestic waste treatment; adapt to climate change; linking human resource development and building the region's common labor market, including the University - Vocational Training Center; Industrial center - fundamental service of the labor market. In addition, the region needs to link to develop digital transformation infrastructure and build a regional socio-economic database, as a basis for planning strategies, plans, development policies and coordinating activities. link .
Along with improving transportation infrastructure, Dr. Huynh Thanh Dien - Economic expert said that the Southeast needs to continue to take the lead in administrative reform to attract investment and create a favorable environment for investment and business. Focus on reviewing, continuing to strongly reduce, decentralize more and build sanctions, individualize personal responsibility in handling administrative work; Focus on improving the efficiency of providing and using level 3 and level 4 online public services in most procedures, aiming to develop digital government, in order to shorten time and substantially reduce costs for businesses and people, contributing to improving the competitiveness and investment attraction advantages of localities in the region.
“When a business comes to a locality to do business, they consider many factors, first is infrastructure and traffic; The second is the policy of civil servants to handle administrative procedures; The third is the raw material source, followed by the market. If we can solve these factors, the Southeast region will continue to develop strongly in the future."
, PhD. Huynh Thanh Dien emphasized.
Ha Duyen
|
Lần đầu tiên lễ hội ‘Sắc thu Hồ Ba Bể’ sẽ được UBND
huyện Ba Bể
,
tỉnh Bắc Kạn
tổ chức từ ngày 4 đến 6-11 nhằm duy trì, giữ gìn các nét đẹp văn hóa dân tộc; đồng thời tuyên truyền, quảng bá vẻ đẹp miền đất, con người và các sản phẩm du lịch Ba Bể đến với du khách trong và ngoài nước.
Ba Bể là một trong những hồ nước ngọt lớn nhất thế giới và cũng là hồ nước ngọt thiên nhiên lớn nhất của Việt Nam, nằm trong vườn Quốc gia Ba Bể – nơi được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. Hồ thuộc xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, và cách
Hà Nội
230 km. Không chỉ được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho những những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp mà nơi đây còn sở hữu những giá trị địa chất, địa mạo độc đáo cùng sự đa dạng sinh học. Với diện tích mặt nước hơn 650 ha và chiều dài 8km, hồ được bao phủ bởi những dãy núi đá vôi sừng sững cùng nhiều mạch nước ngầm. Tất cả điều đó khiến cho Ba Bể trở thành địa điểm du lịch miền Bắc được yêu thích nhất.
Lễ hội “Sắc thu Hồ Ba Bể” chọn thời điểm đẹp nhất trong năm để tổ chức nhiều hoạt động ngoài trời như đua thuyền kayak, hành trình xe đạp, dù lượn.
Hồ Ba Bể ở thời điểm này được đánh giá đẹp nhất trong năm với nắng vàng trải nhẹ, làn nước hồ trong xanh và những thửa ruộng bậc thang vàng óng ả. Đây là thời điểm thuận tiện nhất để khám phá và chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên ban tặng cho vùng đất này.
Trong khuôn khổ lễ hội, huyện Ba Bể cũng tổ chức các hoạt động giới thiệu, tham quan các sản phẩm du lịch mới của địa phương như trải nghiệm mô hình du lịch cộng đồng tại xã Yên Dương (hái lúa nếp, giã bánh dày, tham quan rừng trúc Pù Lầu, thưởng thức ẩm thực bản địa); tham quan, trải nghiệm các mô hình du lịch cộng đồng tại các thôn ven Hồ Ba Bể, săn mây trên đỉnh Đồn Đèn, trải nghiệm mùa vàng tại xã Quảng Khê và các tuyến đi bộ trong vườn Quốc gia Ba Bể…
Đảo Bà Góa với những câu chuyện truyền thuyết gắn với sự ra đời của Hồ Ba Bể.
Nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, ở độ cao 500-1.000m so với mực nước biển, Hồ Ba Bể mang vẻ đẹp hoang sơ và thơ mộng với không khí mát lạnh, dễ chịu. Buổi sáng sớm ở đây thường có lớp sương bao phủ khiến mặt hồ mang một vẻ đẹp hữu tình, mặt nước phản chiếu bầu trời, in hình núi rừng, như tấm gương lớn phản chiếu mọi vật xung quanh.
Đến thăm Hồ Ba Bể, du khách không chỉ được tận mắt chiêm ngưỡng cảnh nước non xanh hùng vĩ, mà còn được trải nghiệm những hoạt động kỳ thú trên hồ như bơi lội, chèo thuyền, câu cá, chinh phục dòng thác cao, chạy xe đạp trên những con đường khúc khuỷu, quanh co…
Hồ Ba Bể thời điểm này được đánh giá là đẹp nhất trong năm với nắng vàng trải nhẹ, làn nước trong xanh và những thửa ruộng bậc thang vàng đậm màu chín… hứa hẹn là điểm đến hấp dẫn du khách.
Thú vị nhất có lẽ là trải nghiệm chèo thuyền mộc trên lòng hồ. Ngồi xuồng tham quan hồ, du khách có thể đến các điểm du lịch nằm trong khu vực hồ như đảo Bà Góa, Ao Tiên, đền An Mạ, động Puông… Không chỉ vậy, khách du lịch còn có thể ghé thăm động Hua Mạ với vô vàn nhũ đá nhiều hình dạng, hay Ao Tiên và dòng thác Đầu Đẳng kỳ vĩ uốn lượn qua các khe núi.
Dự kiến lễ hội “Mùa thu Hồ Ba Bể” sẽ trở thành hoạt động thường niên của địa phương này.
MAI AN
|
For the first time, the 'Autumn Colors of Ba Be Lake' festival will be organized by the People's Committee
Ba Be district
,
Bac Kan province
Held from November 4 to 6 to maintain and preserve the beauty of national culture; At the same time, propagate and promote the beauty of the land, people and Ba Be tourism products to domestic and foreign tourists.
Ba Be is one of the largest freshwater lakes in the world and also the largest natural freshwater lake in Vietnam, located in Ba Be National Park - which is recognized as Vietnam's national tourist area. The lake belongs to Nam Mau commune, Ba Be district, Bac Kan province, and Cach
Hanoi
230 km. Not only is nature blessed with beautiful natural scenery, but this place also possesses unique geological and geomorphological values and biodiversity. With a water surface area of more than 650 hectares and a length of 8km, the lake is covered by towering limestone mountains and many underground water circuits. All of that makes Ba Be the most popular tourist destination in the North.
The "Autumn Colors of Ba Be Lake" Festival chooses the most beautiful time of the year to organize many outdoor activities such as kayak racing, bicycle trips, and paragliding.
Ba Be Lake at this time is considered the most beautiful of the year with gentle golden sunshine, clear blue lake water and shiny golden terraced fields. This is the most convenient time to explore and admire the natural beauty bestowed on this land.
Within the framework of the festival, Ba Be district also organizes activities to introduce and visit new local tourism products such as experiencing the community tourism model in Yen Duong commune (picking sticky rice, pounding day cake). , visit Pu Lau bamboo forest, enjoy local cuisine); Visit and experience community tourism models in villages along Ba Be Lake, hunt clouds on the top of Don Den, experience the golden season in Quang Khe commune and walking routes in Ba Be National Park...
Ba Goa Island with legendary stories associated with the birth of Ba Be Lake.
Located in the tropical monsoon climate area, at an altitude of 500-1,000m above sea level, Ba Be Lake has a wild and poetic beauty with cool, pleasant air. Early mornings here are often covered with mist, making the lake surface have a charming beauty, the water surface reflects the sky, prints mountains and forests, like a large mirror reflecting everything around.
Visiting Ba Be Lake, visitors can not only admire the majestic green water, but also experience exciting activities on the lake such as swimming, boating, fishing, conquering high waterfalls, Cycling on curvy, winding roads...
Ba Be Lake at this time is considered the most beautiful of the year with gentle golden sunlight, clear blue water and ripe, dark yellow terraced fields... promising to be an attractive destination for tourists.
The most interesting experience is probably rowing a wooden boat on the lake. Sitting on a boat to visit the lake, visitors can go to tourist attractions located in the lake area such as Ba Goa island, Ao Tien, An Ma temple, Puong cave... Not only that, tourists can also visit Hua Ma cave. with countless stalactites in many shapes, or Fairy Pond and the majestic Dau Dang waterfall winding through the ravines.
It is expected that the "Autumn Festival of Ba Be Lake" festival will become an annual activity of this locality.
MAI AN
|
Được ví là “lá phổi xanh” giữa miền Ðông Nam bộ, Khu Dự trữ sinh quyển (DTSQ)
Đồng Nai
không chỉ có ý nghĩa về sự đa dạng sinh học với nhiều loài động, thực vật đặc hữu, quý hiếm… mà còn là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước
.
Du khách tham quan, trải nghiệm du lịch rừng tại Vườn quốc gia Cát Tiên (H.Tân Phú).
Ảnh: T.Mộc
Để gìn giữ không gian xanh cho cả vùng, thời gian qua, Ban Quản lý Khu DTSQ Đồng Nai đã nỗ lực phát huy vai trò, trách nhiệm để thực hiện các chương trình dự án theo đề án Bảo tồn và phát triển Khu DTSQ Đồng Nai giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Đồng thời, tích cực tham gia góp ý với những dự án, công trình có tác động tiêu cực đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học của khu DTSQ.
Khẳng định vị thế trong vùng
Được công nhận là khu DTSQ thế giới thứ 580 vào năm 2011, với 80% diện tích bảo tồn nằm trên địa bàn Đồng Nai, Khu DTSQ Đồng Nai gồm: vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp, trải rộng và tiếp giáp với các tỉnh: Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước và Đắk Nông. Với địa thế tiếp giáp nhiều địa phương trong vùng, công tác quản lý, bảo tồn và phát huy những giá trị của Khu DTSQ Đồng Nai cần nhiều sự cố gắng, nỗ lực từ đội ngũ Ban Quản lý.
Phó giám đốc Sở NN-PTNT, Phó trưởng ban Quản lý Khu DTSQ Đồng Nai Lê Văn Gọi cho hay, với chức năng, nhiệm vụ trong thực hiện bảo tồn, phát huy những giá trị đa dạng sinh học của rừng, gìn giữ các giá trị văn hóa – lịch sử, hỗ trợ nghiên cứu khoa học và nâng cao đời sống nhân dân địa phương, Ban Quản lý Khu DTSQ Đồng Nai đã có nhiều đóng góp đáng ghi nhận. Một trong những kết quả nổi bật gần đây là việc phản đối làm đường xuyên rừng nối liền 2 tỉnh Bình Phước và Đồng Nai đã được Ban quản lý mạnh mẽ lên tiếng, bảo vệ thành công diện tích rừng tự nhiên.
Nhằm khai thác các thế mạnh của Khu DTSQ Đồng Nai, Phó chủ tịch UBND tỉnh VÕ VĂN PHI, Trưởng ban Quản lý Khu DTSQ Đồng Nai đã yêu cầu các thành viên Ban Quản lý phải tập trung đẩy mạnh công tác truyền thông về các hoạt động của Khu DTSQ cần đa dạng hóa các đối tượng như: khách du lịch, học sinh, gắn kết vào các hoạt động về môi trường…
Ông Lê Văn Gọi chia sẻ: “Vị thế của Khu DTSQ Đồng Nai rất quan trọng với địa phương nói riêng và cả vùng Đông Nam bộ nói chung. Nếu Đồng Nai làm tốt công tác bảo vệ và phát huy giá trị của rừng là một minh chứng thuyết phục nhất cho thế giới thấy tiếng nói của Khu DTSQ Đồng Nai rất quan trọng. Để tạo tiếng vang xa hơn nữa cho Khu DTSQ Đồng Nai, thời gian tới Ban quản lý cần có những kế hoạch nâng cao mức truyền thông, vừa để quảng bá hình ảnh, vừa khẳng định tầm quan trọng đối với cả vùng”.
Ông Nguyễn Hoàng Hảo, Giám đốc Khu Bảo tồn thiên nhiên – văn hóa Đồng Nai, Phó trưởng ban Quản lý Khu DTSQ Đồng Nai cho biết, các hoạt động của Khu DTSQ Đồng Nai đã góp phần vào kết quả đạt được trong công tác bảo vệ rừng, bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống, phát triển bền vững kinh tế địa phương dựa vào tài nguyên đa dạng sinh học và các giá trị văn hóa truyền thống. Khu DTSQ Đồng Nai đang ngày càng được biết đến nhiều hơn và nhận sự quan tâm của cộng đồng trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, ông Hảo cũng cho biết, bên cạnh những thuận lợi, Khu DTSQ Đồng Nai vẫn còn những khó khăn do Khu DTSQ Đồng Nai nằm trên địa bàn 5 tỉnh, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện các hoạt động của khu DTSQ; sinh kế của cộng đồng trong Khu DTSQ Đồng Nai chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tính ổn định không cao đã phần nào gây áp lực đối với quản lý tài nguyên rừng và công tác bảo tồn đa dạng sinh học… Do đó, trong quá trình quản lý, điều hành Ban Quản lý Khu DTSQ Đồng Nai rất cần sự chung tay phối hợp từ các địa phương lân cận.
Bảo tồn và phát huy những giá trị của rừng
Khu DTSQ Đồng Nai được UNESCO công nhận là khu DTSQ thế giới thứ 580 vào năm 2011, với tổng diện tích gần 970 ngàn ha. Khu DTSQ Đồng Nai bao gồm những địa danh nổi tiếng như: Khu Bảo tồn thiên nhiên – văn hóa Đồng Nai, hồ thủy điện Trị An (hồ nhân tạo lớn nhất Việt Nam, tại H.Vĩnh Cửu); khu Ramsar Bàu Sấu, Vườn quốc gia Cát Tiên (
H.Tân Phú
). Đây cũng là nơi cư trú của hơn 1,4 ngàn loài thực vật, môi trường sống lý tưởng cho khoảng trên 1,7 ngàn loài động vật, nhất là động vật có vú, chim, bò sát, cá…
Ngoài sự đa dạng về sinh học, Khu DTSQ Đồng Nai còn là nơi lưu giữ những giá trị về văn hóa, lịch sử cách mạng của nhân dân miền Nam với các căn cứ cách mạng và các di tích văn hóa, lịch sử cấp quốc gia như: Căn cứ Khu ủy miền Đông Nam bộ, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam, địa đạo Suối Linh…
Học sinh tham gia buổi dã ngoại, tìm hiểu về lịch sử cách mạng tại Chiến khu Đ (H.Vĩnh Cửu)
Cùng với những giá trị lịch sử, vùng đất này còn ẩn chứa cả một “rừng” giá trị về văn hóa khá phong phú và đa dạng. Bởi nơi đây chính là mái nhà chung của hơn 13 dân tộc anh em đang sinh sống như: S’tiêng, Mạ, Tày, Chơro… góp phần tạo nên những nét độc đáo của Khu DTSQ Đồng Nai ở vùng Đông Nam bộ mà không thể lẫn với bất kỳ vùng miền khác.
Với sự phong phú cả về thiên nhiên lẫn những giá trị văn hóa, lịch sử, Khu DTSQ Đồng Nai trở thành điểm đến du lịch thu hút du khách trong và ngoài nước, các đoàn dã ngoại, tìm hiểu về lịch sử cách mạng… của học sinh, sinh viên.
Đến với Khu DTSQ Đồng Nai, khách du lịch có cơ hội tìm hiểu và trải nghiệm các phong tục, tập quán và lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc, được thưởng thức những âm thanh độc đáo từ các nhạc cụ truyền thống và tận hưởng hương vị các món ăn làm từ sản vật địa phương như: củ mài, bánh dày, cơm lam, thịt nướng, rau rừng và rượu cần…
Thủy Mộc
|
Considered a "green lung" in the Southeast region, the Biosphere Reserve (Biosphere Reserve)
Dong Nai
Not only is it significant in terms of biodiversity with many endemic and rare species of animals and plants... but is also an attractive destination for domestic and foreign tourists.
.
Tourists visit and experience forest tourism at Cat Tien National Park (Tan Phu District).
Photo: T. Moc
To preserve green space for the whole region, in recent times, the Management Board of Dong Nai Biosphere Reserve has made efforts to promote its role and responsibilities to implement programs and projects under the project of Conservation and Development of Dong Nai Biosphere Reserve. Nai period 2015-2020 and vision to 2030. At the same time, actively participate in giving comments on projects and works that have negative impacts on biodiversity conservation of the Biosphere Reserve.
Affirming position in the region
Recognized as the world's 580th Biosphere Reserve in 2011, with 80% of the conservation area located in Dong Nai, Dong Nai Biosphere Reserve includes: core zone, buffer zone and transition zone, spreading and adjacent to provinces: Lam Dong, Binh Duong, Binh Phuoc and Dak Nong. With a location adjacent to many localities in the region, the management, conservation and promotion of the values of Dong Nai Biosphere Reserve require a lot of effort from the Management Board team.
Deputy Director of the Department of Agriculture and Rural Development, Deputy Head of the Dong Nai Biosphere Reserve Management Board Le Van Goi said, with the functions and tasks of implementing conservation and promoting the biodiversity values of forests, preserving the cultural and historical values, supporting scientific research and improving local people's lives, the Dong Nai Biosphere Reserve Management Board has made many remarkable contributions. One of the recent outstanding results is that the Management Board strongly voiced the opposition to building a road through the forest connecting the two provinces of Binh Phuoc and Dong Nai, successfully protecting the natural forest area.
In order to exploit the strengths of Dong Nai Biosphere Reserve, Vice Chairman of the Provincial People's Committee VO VAN PHI, Head of the Management Board of Dong Nai Biosphere Reserve, has requested members of the Management Board to focus on promoting communication work on activities. Biosphere Reserve activities need to diversify objects such as tourists, students, engaging in environmental activities...
Mr. Le Van Call shared: "The position of Dong Nai Biosphere Reserve is very important for the locality in particular and the Southeast region in general. If Dong Nai does a good job of protecting and promoting the value of forests, it will be the most convincing proof to the world that the voice of Dong Nai Biosphere Reserve is very important. To create further resonance for the Dong Nai Biosphere Reserve, in the coming time, the Management Board needs to have plans to improve communication levels, both to promote the image and affirm its importance to the whole region."
Mr. Nguyen Hoang Hao, Director of Dong Nai Nature and Culture Conservation Area, Deputy Head of Dong Nai Biosphere Reserve Management Board, said that the activities of Dong Nai Biosphere Reserve have contributed to the results achieved in conservation work. protect forests, protect traditional cultural values, and sustainably develop the local economy based on biodiversity resources and traditional cultural values. Dong Nai Biosphere Reserve is becoming more and more known and receiving attention from the domestic and international community.
However, Mr. Hao also said that besides the advantages, Dong Nai Biosphere Reserve still has difficulties because Dong Nai Biosphere Reserve is located in 5 provinces, affecting the implementation of activities of the Biosphere Reserve. ; The livelihoods of the community in Dong Nai Biosphere Reserve mainly rely on agriculture, the low stability has partly put pressure on forest resource management and biodiversity conservation... Therefore, in the process of The management and operation of the Dong Nai Biosphere Reserve Management Board needs cooperation and coordination from neighboring localities.
Preserve and promote the values of forests
Dong Nai Biosphere Reserve was recognized by UNESCO as the world's 580th Biosphere Reserve in 2011, with a total area of nearly 970 thousand hectares. Dong Nai Biosphere Reserve includes famous landmarks such as: Dong Nai Nature - Culture Reserve, Tri An hydroelectric lake (the largest artificial lake in Vietnam, in Vinh Cuu district); Bau Sau Ramsar site, Cat Tien National Park (
H.Tan Phu
). This is also the habitat of more than 1.4 thousand species of plants, an ideal habitat for over 1.7 thousand species of animals, especially mammals, birds, reptiles, fish...
In addition to biological diversity, Dong Nai Biosphere Reserve is also a place to preserve cultural values and revolutionary history of the Southern people with revolutionary bases and national cultural and historical relics. such as: Base of the Southeast Regional Party Committee, Base of the Central Committee of the Southern Department, Suoi Linh Tunnels...
Students participate in a picnic and learn about revolutionary history at War Zone D (Vinh Cuu District)
Along with historical values, this land also contains a "forest" of cultural values that are quite rich and diverse. Because this place is the common home of more than 13 ethnic groups living like: S'tieng, Ma, Tay, Choro... contributing to creating the unique features of Dong Nai Biosphere Reserve in the Southeast region without Can be mixed with any other region.
With its richness in both nature and cultural and historical values, Dong Nai Biosphere Reserve has become a tourist destination attracting domestic and foreign tourists, picnic groups, and learning about revolutionary history... of pupils and students.
Coming to Dong Nai Biosphere Reserve, tourists have the opportunity to learn and experience the customs, traditions and traditional festivals of ethnic minorities, and enjoy the unique sounds of traditional musical instruments. and enjoy the flavors of dishes made from local products such as: tubers, day cakes, bamboo-tube rice, grilled meat, wild vegetables and can wine...
Thuy Moc
|
Là quốc gia ven bờ Thái Bình dương,
Việt Nam
chịu ảnh hưởng bởi những tác nhân thời tiết đến toàn bộ khu vực rộng lớn này, điển hình là hiện tượng El Nino và La Nina.
Mưa lớn tại nhiều tỉnh miền Trung đã khiến hàng nghìn ngôi nhà chìm sâu trong biển nước. Ảnh: Thanh Thủy-TTXVN
El Nino là từ được dùng để chỉ hiện tượng nóng lên dị thường của lớp nước biển bề mặt ở khu vực xích đạo trung tâm và Đông Thái Bình Dương, kéo dài 8 – 12 tháng, hoặc lâu hơn, thường xuất hiện 3 – 4 năm 1 lần, song cũng có khi dày hơn hoặc thưa hơn.
La Nina là hiện tượng lớp nước biển bề mặt ở khu vực nói trên lạnh đi dị thường, xảy ra với chu kỳ tương tự hoặc thưa hơn El Nino. Hiện tượng La Nina có thể xuất hiện ngay khi hiện tượng El Nino suy yếu, nhưng có khi không phải như vậy.
ENSO là chữ viết tắt của các từ ghép El Nino Southern Oscillation (El Nino – Dao động Nam) để chỉ cả 2 hai hiện tượng El Nino và La Nina và có liên quan với dao động của khí áp giữa 2 bờ phía Đông Thái Bình Dương với phía Tây Thái Bình Dương – Đông Ấn Độ Dương (Được gọi là Dao động Nam) để phân biệt với dao động khí áp ở Bắc Đại Tây Dương).
Thuật ngữ El Nino trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “Chúa hài đồng”, cách gọi này được đặt tên cho hiện tượng kỳ lạ xảy ra ở khu vực biển các nước
Peru
và
Chile
đó vào thời kỳ mùa đông có những năm nước biển ở khu vực này ấm lên, mưa nhiều, sinh vật phù du phát triển dẫn đến tôm cá khu vực này xuất hiện nhiều, trái với quy luật tự nhiên, hiện tượng này thường có chu kỳ từ 3 đến 10 năm, và xuất hiện trước ngày lễ Giáng sinh của năm đó, vì vậy mới có thuật ngữ El Nino – Chúa hài đồng.
Ngược lại với hiện tượng El Nino là hiện tượng La Nina, nhiều năm, nước biển khu vực trên trở nên lạnh đi, tôm cá ít hơn mọi năm và thuật ngữ La Nina được dùng để đặt tên cho hiện tượng này.
Hiện tượng El Nino và La Nina thể hiện sự biến động dị thường trong hệ thống khí quyển – đại dương với quy mô thời gian giữa các năm, có tính chu kỳ hoặc chuẩn chu kỳ.
Chu kỳ hoạt động của hiện tượng El Nino từ 2 đến 7 năm, có khi trên 10 năm. Thời gian xuất hiện trung bình của một hiện tượng El Nino là 11 tháng, dài nhất 18 tháng (El Nino 1982 – 1983).
Hiện tượng La Nina thường bắt đầu hình thành từ tháng Ba đến tháng Sáu hằng năm, và gây ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối năm cho tới tháng hai năm sau.
Chu kỳ của hiện tượng La Nina thường kéo dài hơn chu kỳ của hiện tượng El Nino. Thời gian trung bình của một lần xuất hiện hiện tượng La Nina là 14 tháng, nhiều nhất 24 tháng.
Hoạt động của El Nino
Dưới áp lực của gió tín phong (hay còn gọi là gió mậu dịch là gió thổi thường xuyên trong những miền Cận Xích đạo. Gió mậu dịch thổi từ những miền áp cao ở các vĩ độ ngựa về vùng áp thấp xung quanh xích đạo) lên mặt đại dương mà mực nước biển ở khu vực phía Tây Thái Bình Dương cao hơn phía Đông 30 – 70cm, khi gió tín phong suy yếu dẫn đến lượng nước trồi suy giảm, dòng nước ấm từ vùng bể nóng Tây Thái Bình Dương nhanh chóng dồn về phía Đông làm cho biển khu vực này nóng lên dị thường.
Do nhiệt độ bề mặt biển cao, lượng ẩm nhiều, gây mưa lớn cho khu vực phía Đông, lượng sinh vật phù du trong nước biển phát triển mạnh do điều kiện nước ấm kéo theo lượng tôm cá nhiều cho khu vực Peru, Chile.
Do sự dịch chuyển của lớp nước ấm bề mặt, dẫn đến lớp nêm nhiệt ở bờ Tây mỏng đi, nhiệt độ bề mặt biển ở đây lạnh đi dị thường dẫn đến ít mưa cho khu vực phía Tây Thái Bình Dương trong pha El Nino.
Hoạt động của La Nina
Khi gió tín phong mạnh lên, áp lực gió lên bề mặt tăng lên, hiện tượng nước trồi sẽ làm nhiệt độ bề mặt biển phía Đông lạnh đi dị thường, dòng chảy hướng Đông, do gió tín phong tạo ra sẽ đưa lượng nước ấm bề mặt dồn về phía Tây, lớp nêm nhiệt ở phía Tây dày lên, hoàn lưu Walker mạnh dần lên, nhiệt độ bề mặt biển cao hình thành dòng thăng ở phía Tây Thái Bình Dương gây mưa cho khu vực này, còn ở phía Đông, nước trồi mạnh làm bề mặt biển lạnh đi dẫn đến ít mưa, lượng sinh vật phù du suy giảm, tôm cá ít đi, tạo ra pha La Nina ngược lại với El Nino.
Sự chênh lệch khí áp giữa Đông (cao) và Tây (thấp) và nhiệt độ giữa (Đông) thấp và Tây (cao) trên khu vực xích đạo Thái Bình Dương dẫn đến chuyển động ngược chiều của không khí ở tầng thấp (gió Đông) trên cao (gió Tây); chuyển động giáng phía Đông và chuyển động thăng phía Tây tạo thành một hoàn lưu khép kin gọi là hoàn lưu Walker.
Những tác động của ENSO (Hiện tượng El Nino và La Nina)
ENSO chính là hệ quả của tương tác biển – khí quyển, sự dịch chuyển qua lại của vùng biển ấm và dịch chuyển vùng mưa trong hoàn lưu Walker đều tác động đến điều kiện thời tiết, khí hậu ở các quốc gia bị ảnh hưởng.
Đối với các quốc gia Tây Thái Bình Dương như:
Việt Nam,
Philipin
,
Malaixia
,
Indonexia
,
Thái Lan
,
Lào
,
Australia
, vào thời kì El Nino, thường xảy ra các hiện tượng hạn hán, nắng nóng kéo dài do vùng mưa trong hoàn lưu Walker dịch chuyển sang phía Đông Thái Bình Dương, ngược lại vào thời kỳ La Nina, khi vùng nước ấm và vùng mưa dịch chuyển về khu vực phía Tây thường gây ra mưa lớn, và ngập lụt ở các quốc gia trên.
Sự dịch chuyển vùng nước ấm sẽ làm thay đổi tần suất bão ở các trung tâm bão Đông và Tây Thái Bình Dương.
Vào thời kỳ El Nino vùng biển phía Đông ấm lên dị thường, tạo điều kiện thuận lợi cho bão hình thành và phát triển, ngược lại El Nino làm cho khu vực biển ở Tây Thái Bình Dương lạnh đi dẫn bão ít xuất hiện hơn so với trung bình năm.
Vào thời kỳ La Nina, điều ngược lại xảy ra, khu vực Tây Thái Bình Dương biển ấm lên, tạo điều kiện cho bão hình thành và phát triển, trong những năm có La Nina, bão thường xuất hiện nhiều hơn và có cường độ mạnh hơn, và trong năm La Nina, vùng Đông Thái Bình Dương ít bão hơn các năm không xuất hiện hiện tượng này.
|
As a country on the Pacific coast,
Vietnam
affected by weather factors throughout this large area, typically the El Nino and La Nina phenomena.
Heavy rain in many central provinces has caused thousands of houses to sink deep into the sea. Photo: Thanh Thuy-TTXVN
El Nino is the term used to refer to the phenomenon of abnormal warming of the surface ocean layer in the central equatorial region and the Eastern Pacific Ocean, lasting 8 - 12 months, or longer, usually appearing every 3 - 4 months. once a year, but sometimes thicker or sparser.
La Nina is a phenomenon in which the sea surface layer in the above area cools abnormally, occurring with a cycle similar to or less frequent than El Nino. The La Nina phenomenon can appear as soon as the El Nino phenomenon weakens, but sometimes that is not the case.
ENSO is the abbreviation of the compound words El Nino Southern Oscillation (El Nino - Southern Oscillation) to refer to both El Nino and La Nina phenomena and is related to fluctuations in air pressure between the two eastern shores of the Pacific. Ocean with the Western Pacific – Eastern Indian Ocean (Called the Southern Oscillation to distinguish it from the North Atlantic pressure oscillation).
The term El Nino in Spanish means "Baby Jesus", this name is given to the strange phenomenon that occurs in coastal areas of many countries.
Peru
and
Chile
During the winter period, there are years when the sea water in this area warms up, it rains a lot, plankton develops, leading to the appearance of many fish and shrimp in this area, contrary to natural laws, this phenomenon often occurs. The cycle lasts from 3 to 10 years, and appears before Christmas that year, hence the term El Nino - Baby Jesus.
The opposite of the El Nino phenomenon is the La Nina phenomenon. For many years, the sea water in the above area becomes colder, there are fewer fish and shrimp than usual and the term La Nina is used to name this phenomenon.
El Nino and La Nina phenomena represent anomalous fluctuations in the atmosphere-ocean system with interannual time scales, cyclical or quasi-cyclical.
The operating cycle of the El Nino phenomenon ranges from 2 to 7 years, sometimes over 10 years. The average duration of an El Nino phenomenon is 11 months, the longest being 18 months (El Nino 1982 - 1983).
The La Nina phenomenon usually begins to form from March to June every year, and has the strongest impact from the end of the year until February of the following year.
The cycle of the La Nina phenomenon is usually longer than the cycle of the El Nino phenomenon. The average duration of a La Nina phenomenon is 14 months, maximum 24 months.
El Nino activity
Under the pressure of wind winds (also known as trade winds, which are winds that blow regularly in the Near Equatorial regions. Trade winds blow from high pressure areas in the latitudes to low pressure areas around the equator). rising to the ocean surface, the sea level in the Western Pacific is 30 - 70cm higher than the East, when the wind weakens, leading to a decrease in upwelling water, and the flow of warm water from the Western Pacific hot basin is rapid. quickly pushed to the East, causing the sea in this area to heat up abnormally.
Due to high sea surface temperatures and high humidity, causing heavy rain in the Eastern region, the amount of plankton in sea water thrives due to warm water conditions, leading to a large amount of fish and shrimp in Peru and Chile.
Due to the movement of the warm surface water layer, leading to a thinning of the heat wedge on the West Coast, the sea surface temperature here is unusually cold, leading to less rain for the Western Pacific region during the El Nino phase.
La Nina activity
When the typhoon winds become stronger, the wind pressure on the surface increases, the upwelling phenomenon will make the surface temperature of the eastern sea unusually cold, the eastward flow created by the typhoon winds will bring warm water. The surface flows to the West, the heat wedge in the West thickens, the Walker circulation gradually strengthens, high sea surface temperatures form updrafts in the Western Pacific causing rain in this area, while in the East , strong upwelling makes the sea surface cold, leading to less rain, a decrease in plankton, and less fish and shrimp, creating a La Nina phase that is the opposite of El Nino.
The difference in pressure between East (high) and West (low) and temperature between (East) low and West (high) over the equatorial Pacific leads to the opposite movement of air at low levels (wind). East) high (west wind); The falling motion to the East and the rising motion to the West form a closed circulation called the Walker circulation.
Impacts of ENSO (El Nino and La Nina Phenomena)
ENSO is a consequence of sea-atmosphere interaction, the movement of warm seas and the movement of rain areas in the Walker circulation all impact weather and climate conditions in affected countries.
For Western Pacific countries such as:
Vietnam,
Philippines
,
Malaysia
,
Indonesia
,
Thailand
,
Laos
,
Australia
, during the El Nino period, droughts and prolonged heat often occur because the rain zone in the Walker circulation shifts to the Eastern Pacific Ocean, vice versa during the La Nina period, when the water area is warm and the region Rain moving to the West often causes heavy rain and flooding in the above countries.
The shift of warm water will change the frequency of storms in the Eastern and Western Pacific storm centers.
During the El Nino period, the East Sea warms up abnormally, creating favorable conditions for storms to form and develop. Conversely, El Nino makes the sea area in the Western Pacific cold, leading to fewer storms. with annual average.
During La Nina, the opposite happens, the Western Pacific Ocean warms up, creating conditions for storms to form and develop. In years with La Nina, storms often appear more often and are more intense. stronger, and in a La Niña year, the Eastern Pacific has fewer storms than in years where this phenomenon does not occur.
|
Được xem là “quốc bảo” của văn chương Ba Lan, mới đây cuốn tiểu thuyết
The book of Jacob
của bà một lần nữa lọt vào chung khảo giải Booker Quốc tế 2022, sau chiến thắng với
Bieguin Những người không ngừng chuyển động
vào năm 2018. Bài phỏng vấn sau đây xoay quanh gia đình, tư tưởng cũng như những suy ngẫm về văn chương càng làm rõ hơn nữa về một “bộ óc bách khoa toàn thư”.
+ Việc có cha mẹ đều là giáo viên đã ảnh hưởng thế nào đến bà?
– Đó thực sự là khởi đầu rất tốt đối với một nhà văn. Tôi nhớ sách vở có ở khắp nơi trong nhà chúng tôi. Ngay từ lúc nhỏ tôi đã thấy cách mà bố mẹ thảo luận về sách, đọc sách, mua sách; và tôi cũng đã dành nhiều thời gian với bố trong thư viện, điều mà tôi nhớ rất rõ. Những gì tôi nhớ nhất là nhà chúng tôi có một kệ sách với những tác phẩm thú vị nhất được đặt ở tầng thấp gần mặt đất. Vì vậy, tôi đã khám phá chúng rất sâu sắc và nghĩ đó là cách tôi thực sự tìm thấy thế giới, như một thế giới khác song song với đời thực.
Hẳn nhiên là trong số đó có rất nhiều truyện cổ tích và tôi thích chúng. Thậm chí gần đây tôi đã mua một tập
Truyện cổ Grimm
mới, và tôi vẫn đọc chúng gần như một loại thơ, nhưng sau này tôi nghĩ Jules Verne mới là người đã ảnh hưởng đến mình nhiều hơn cả. Vì vậy tôi bắt đầu nghĩ về việc vượt qua biên giới, nghĩ về các quốc gia khác và các nền văn hóa khác, mà việc không ngừng chuyển động là một ý tưởng rất mạnh mẽ đối với tôi.
+ Bà có thích đi học không?
– Tôi thích, nhưng quan trọng hơn là do có bạn bè và thời gian mà bọn tôi bên nhau. Nhưng tôi thuộc kiểu thích tự học hơn, vì vậy tôi có nhiều sở thích, và bị nhiều môn học hấp dẫn, như thiên văn chẳng hạn. Do đó, tôi thực sự đã dành rất nhiều thời gian cho việc học tập vì niềm vui của mình. Tôi nhớ rất rõ cô giáo của tôi hồi cấp hai. Cô ấy là nhà sinh vật học và đã mở mang tầm mắt tôi về khía cạnh tuyệt đẹp của sự tồn tại nơi mọi sinh vật.
Olga Tokarczuk, chủ nhân của giải Nobel Văn chương 2018.
+ Bà muốn trở thành ai khi còn trẻ?
– Khi còn rất nhỏ, tôi ước mình sẽ là một nữ diễn viên như mọi bé gái thời đó, nhưng sau này khi khoa học kỹ thuật phát triển quá nhanh, tôi nghĩ mình rất có thể là một nhà vật lý, nhưng là chuyên ngành vũ trụ, vì vậy tôi nghĩ về tương lai như một phần của vũ trụ lớn. Trời ơi, nói thế nào nhỉ, chắc là kiểu đi thám hiểm! Vì vậy, tôi nhớ mình đã từng mơ ước được trở thành một phần của chuyến thám hiểm vũ trụ và được làm việc trong ngành khoa học để kiểm tra xem cơ thể con người có mối liên hệ thế nào với không gian vũ trụ, đó là một ý tưởng rất tuyệt vời. Và rồi giờ đây nó đã trở thành chủ đề thường xuyên xuất hiện trong các cuốn sách của tôi.
+ Việc được đào tạo như một nhà tâm lý học đã ảnh hưởng thế nào đến cách mà bà kể chuyện?
– Tôi nghĩ tôi đã chọn đúng khi học tâm lý học. Tất nhiên, tôi đã bị
mẹ
“dụ” học văn ngay cả khi bà biết ngay từ đầu rằng tôi muốn viết văn, nhưng tâm lý học đã dạy tôi rất nhiều điều quan trọng. Tôi nghĩ điều đầu tiên và cũng quan trọng nhất, là chắc hẳn mỗi cá thể đều có thể là khởi nguồn của một cuốn tiểu thuyết, của nhiều câu chuyện. Vì vậy, chúng ta đang sống trong một thế giới với khoảng năm tỷ câu chuyện, năm tỉ tiểu thuyết, ở trạng thái tiềm tàng vẫn luôn tồn tại xung quanh chúng ta.
Nhưng lý do thứ hai, tại sao nghiên cứu tâm lý học là một lựa chọn rất tốt, đó là việc được đào tạo như một nhà trị liệu tâm lý đã dạy cho tôi cách lắng nghe mọi người. Đó là một loại khả năng bạn thực sự cần có để rèn luyện và sau đó bạn có thể cởi mở hơn với những gì mà mọi người đang nói với bạn.
+ Kinh nghiệm nào ảnh hưởng nhiều nhất đến việc viết của bà?
– Tôi nghĩ trải nghiệm có ảnh hưởng lớn nhất đến công việc của tôi là thời điểm tôi quyết định chuyển về vùng nông thôn. Bởi vì tôi lớn lên từ nhỏ ở nông thôn rồi sau đó mới đến các thành phố lớn và các kiểu cuộc sống bộn bề, nên giờ đây tôi được trở về với bản chất. Và sau đó tôi khám phá ra việc này tạo cho tôi một loại trạng thái tâm trí rất tốt cho việc viết lách, cũng như cho tôi một loại trạng thái tập trung, im lặng, tĩnh lặng nội tâm.
+ Bà thích nhất điều gì trong quá trình viết?
– Tôi nghĩ điều hài hước và bí ẩn nhất là việc tạo ra các nhân vật. Ban đầu, có vẻ như tôi đang thực sự sáng tạo bởi vì tôi cần một nhân vật, một cá tính cho cốt truyện, cho câu chuyện của tôi. Nhưng trên thực tế, có vẻ như những nhân vật đó đang đến từ bên ngoài câu chuyện, vì vậy, họ đã tồn tại ở đâu đó và mới đầu thì khá mơ hồ, chỉ như mây mù chứ không phải theo kiểu có đường nét rõ ràng, nhưng có một bước khác của quá trình này khi tôi có thể nghe thấy những gì họ nói với nhau hoặc khi trò chuyện với tôi.
Vì vậy, đây là thời điểm tốt nhất để viết. Đó không chỉ là mối liên hệ đặc biệt mà còn rất sâu sắc, mối quan hệ giữa tôi với tư cách là người kể chuyện, tôi với tư cách là tác giả và các nhân vật của mình; và chắc chắn rằng họ đang lấy đi của tôi nhiều thứ, nhưng tôi cũng vậy, tôi cũng học hỏi từ họ.
Đôi khi họ làm tôi ngạc nhiên vì điều gì đó mà tôi không biết về họ, vì vậy, nó thực sự rất bí ẩn. Tôi sẽ viết về nó. Và tất nhiên, có nhiều khía cạnh để viết bởi vì trước hết bạn cần phải nghiên cứu hoặc thậm chí là phát minh ra toàn bộ câu chuyện, tìm kiếm cảm hứng từ một cuốn sách khác, ý tưởng khác, nói chuyện với mọi người, để ghi lại một số ghi chú. Và sau đó là bắt đầu viết và điêu khắc toàn bộ câu chuyện. Vì vậy, nó có nhiều chiều kích đến nỗi không bao giờ thực sự nhàm chán, và tôi thích nó. Đây là nghề duy nhất của tôi, tôi không thể làm bất cứ điều gì khác nữa.
Tiểu thuyết Bieguni, Những người không ngừng chuyển động của bà đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt.
+ Bà có nghĩ rằng cần có những phẩm chất cụ thể để trở thành một nhà văn giỏi?
– Tôi đoán rằng cần có một điều, đó là khả năng sống trong một loại chế độ nào đó, một thói quen viết đều đặn, thói quen tỏ bày nào đó, để quản lý, loại quản lý thời gian mà chúng ta cần.
+ Ai đã ảnh hưởng đến bà nhiều nhất với tư cách là một nhà văn?
– Thật khó để trả lời, vì nó phụ thuộc vào thời điểm nào trong cuộc đời tôi. Có rất nhiều kiểu đam mê của tôi đối với một loại văn bản đặc biệt, nhất là tiểu thuyết. Vì vậy, tôi sẽ nói nó khá dễ dàng, nhưng chắc chắn rằng tôi thuộc về truyền thống viết, kể chuyện và khám phá ngôn ngữ của vùng Trung Âu. Và trong số những nhà văn đến từ Trung Âu, tôi sẽ nhắc đến Bruno Schulz, người rất quan trọng đối với tôi trong tư cách là một nhà văn Ba Lan, viết bằng tiếng Ba Lan, bởi vì anh ấy đã làm được những điều đáng kinh ngạc với ngôn ngữ Ba Lan.
Nhưng tôi cũng thích kiểu viết parabol, cũng bắt nguồn từ Trung Âu, như Franz Kafka chẳng hạn. Nhưng tất nhiên, khi tôi còn trẻ, trẻ hơn nhiều, ở tuổi thiếu niên, tôi đã bị cuốn hút bởi văn học Nam Mỹ. Tôi rất thích các nhà văn Nga, loại chủ nghĩa hiện thực có có phần trớ trêu. Vì vậy, nó có thể là một câu trả lời rất dài, cho đến tối.
+ Có thể nói rằng không ngừng chuyển động và di chuyển là chủ đề chính trong công việc của bà không?
– Đúng vậy. Tôi tin rằng chúng ta, tất cả chúng ta, đều có một nơi nào đó, có lẽ là ở trong gen hay tâm lý của chúng ta, một bản năng du mục tạo ra cuộc sống. Và ngay cả khi chúng ta đang sống cả đời ở một nơi nào đó, chúng ta vẫn đang nghĩ về việc vượt qua những nơi mà chúng ta được thiết kế để ở đó. Và nhu cầu sâu sắc này rất, cũng rất hiện hữu trong cuộc sống của tôi, vì vậy, khi viết
Bieguin Những người không ngừng chuyển động
, tôi đã cố gắng thể hiện lại loại chuyển động ở nhiều cấp độ như vậy.
Xê dịch hay đi đường hành hương, cái nào thì cũng là một loại tâm lý, bạn biết đấy, một sự thoải mái để đi đâu đó, kiểm tra một nơi nào đó, cũng như những nơi còn thiếu mà chúng ta chưa từng đến, điều này cũng tạo ra cuộc sống của chúng ta ở nơi từng rất hiện hữu. Vì vậy, tôi có thể nói cuốn sách này chỉ là sách chuyên khảo về các chuyển động, độc bản văn học về các chuyển động.
+ Một lời khuyên mà bà đưa ra cho các nhà văn trẻ đầy tham vọng là gì?
– Đó là một câu hỏi phức tạp. Tôi biết rằng có rất nhiều hình thức học tập, ví dụ như viết sáng tạo và mọi người sau đó cố gắng học cách viết, cách sống trong nghề viết, bởi vì đối với tôi, viết đúng hơn là một quá trình tâm lý, không chỉ là quá trình viết trên một tờ giấy, thậm chí không phải là sáng tạo ra một câu chuyện, nhưng là một thứ có liên hệ rất sâu sắc với khía cạnh tâm lý của chúng ta. Vì vậy, tôi nghĩ rằng chỉ có một lời khuyên, hãy đọc, đọc nhiều nữa. Tôi nghĩ rằng cứ mỗi một trang mà bạn viết được, nó sẽ luôn là một nghìn trang mà ta có được từ việc đọc.
NGÔ THUẬN PHÁT
dịch từ trang chủ của giải Nobel
|
Được xem là “quốc bảo” của văn chương Ba Lan, mới đây cuốn tiểu thuyết
The book of Jacob
của bà một lần nữa lọt vào chung khảo giải Booker Quốc tế 2022, sau chiến thắng với
Bieguin Những người không ngừng chuyển động
vào năm 2018. Bài phỏng vấn sau đây xoay quanh gia đình, tư tưởng cũng như những suy ngẫm về văn chương càng làm rõ hơn nữa về một “bộ óc bách khoa toàn thư”.
+ Việc có cha mẹ đều là giáo viên đã ảnh hưởng thế nào đến bà?
– Đó thực sự là khởi đầu rất tốt đối với một nhà văn. Tôi nhớ sách vở có ở khắp nơi trong nhà chúng tôi. Ngay từ lúc nhỏ tôi đã thấy cách mà bố mẹ thảo luận về sách, đọc sách, mua sách; và tôi cũng đã dành nhiều thời gian với bố trong thư viện, điều mà tôi nhớ rất rõ. Những gì tôi nhớ nhất là nhà chúng tôi có một kệ sách với những tác phẩm thú vị nhất được đặt ở tầng thấp gần mặt đất. Vì vậy, tôi đã khám phá chúng rất sâu sắc và nghĩ đó là cách tôi thực sự tìm thấy thế giới, như một thế giới khác song song với đời thực.
Hẳn nhiên là trong số đó có rất nhiều truyện cổ tích và tôi thích chúng. Thậm chí gần đây tôi đã mua một tập
Truyện cổ Grimm
mới, và tôi vẫn đọc chúng gần như một loại thơ, nhưng sau này tôi nghĩ Jules Verne mới là người đã ảnh hưởng đến mình nhiều hơn cả. Vì vậy tôi bắt đầu nghĩ về việc vượt qua biên giới, nghĩ về các quốc gia khác và các nền văn hóa khác, mà việc không ngừng chuyển động là một ý tưởng rất mạnh mẽ đối với tôi.
+ Bà có thích đi học không?
– Tôi thích, nhưng quan trọng hơn là do có bạn bè và thời gian mà bọn tôi bên nhau. Nhưng tôi thuộc kiểu thích tự học hơn, vì vậy tôi có nhiều sở thích, và bị nhiều môn học hấp dẫn, như thiên văn chẳng hạn. Do đó, tôi thực sự đã dành rất nhiều thời gian cho việc học tập vì niềm vui của mình. Tôi nhớ rất rõ cô giáo của tôi hồi cấp hai. Cô ấy là nhà sinh vật học và đã mở mang tầm mắt tôi về khía cạnh tuyệt đẹp của sự tồn tại nơi mọi sinh vật.
Olga Tokarczuk, chủ nhân của giải Nobel Văn chương 2018.
+ Bà muốn trở thành ai khi còn trẻ?
– Khi còn rất nhỏ, tôi ước mình sẽ là một nữ diễn viên như mọi bé gái thời đó, nhưng sau này khi khoa học kỹ thuật phát triển quá nhanh, tôi nghĩ mình rất có thể là một nhà vật lý, nhưng là chuyên ngành vũ trụ, vì vậy tôi nghĩ về tương lai như một phần của vũ trụ lớn. Trời ơi, nói thế nào nhỉ, chắc là kiểu đi thám hiểm! Vì vậy, tôi nhớ mình đã từng mơ ước được trở thành một phần của chuyến thám hiểm vũ trụ và được làm việc trong ngành khoa học để kiểm tra xem cơ thể con người có mối liên hệ thế nào với không gian vũ trụ, đó là một ý tưởng rất tuyệt vời. Và rồi giờ đây nó đã trở thành chủ đề thường xuyên xuất hiện trong các cuốn sách của tôi.
+ Việc được đào tạo như một nhà tâm lý học đã ảnh hưởng thế nào đến cách mà bà kể chuyện?
– Tôi nghĩ tôi đã chọn đúng khi học tâm lý học. Tất nhiên, tôi đã bị
mẹ
“dụ” học văn ngay cả khi bà biết ngay từ đầu rằng tôi muốn viết văn, nhưng tâm lý học đã dạy tôi rất nhiều điều quan trọng. Tôi nghĩ điều đầu tiên và cũng quan trọng nhất, là chắc hẳn mỗi cá thể đều có thể là khởi nguồn của một cuốn tiểu thuyết, của nhiều câu chuyện. Vì vậy, chúng ta đang sống trong một thế giới với khoảng năm tỷ câu chuyện, năm tỉ tiểu thuyết, ở trạng thái tiềm tàng vẫn luôn tồn tại xung quanh chúng ta.
Nhưng lý do thứ hai, tại sao nghiên cứu tâm lý học là một lựa chọn rất tốt, đó là việc được đào tạo như một nhà trị liệu tâm lý đã dạy cho tôi cách lắng nghe mọi người. Đó là một loại khả năng bạn thực sự cần có để rèn luyện và sau đó bạn có thể cởi mở hơn với những gì mà mọi người đang nói với bạn.
+ Kinh nghiệm nào ảnh hưởng nhiều nhất đến việc viết của bà?
– Tôi nghĩ trải nghiệm có ảnh hưởng lớn nhất đến công việc của tôi là thời điểm tôi quyết định chuyển về vùng nông thôn. Bởi vì tôi lớn lên từ nhỏ ở nông thôn rồi sau đó mới đến các thành phố lớn và các kiểu cuộc sống bộn bề, nên giờ đây tôi được trở về với bản chất. Và sau đó tôi khám phá ra việc này tạo cho tôi một loại trạng thái tâm trí rất tốt cho việc viết lách, cũng như cho tôi một loại trạng thái tập trung, im lặng, tĩnh lặng nội tâm.
+ Bà thích nhất điều gì trong quá trình viết?
– Tôi nghĩ điều hài hước và bí ẩn nhất là việc tạo ra các nhân vật. Ban đầu, có vẻ như tôi đang thực sự sáng tạo bởi vì tôi cần một nhân vật, một cá tính cho cốt truyện, cho câu chuyện của tôi. Nhưng trên thực tế, có vẻ như những nhân vật đó đang đến từ bên ngoài câu chuyện, vì vậy, họ đã tồn tại ở đâu đó và mới đầu thì khá mơ hồ, chỉ như mây mù chứ không phải theo kiểu có đường nét rõ ràng, nhưng có một bước khác của quá trình này khi tôi có thể nghe thấy những gì họ nói với nhau hoặc khi trò chuyện với tôi.
Vì vậy, đây là thời điểm tốt nhất để viết. Đó không chỉ là mối liên hệ đặc biệt mà còn rất sâu sắc, mối quan hệ giữa tôi với tư cách là người kể chuyện, tôi với tư cách là tác giả và các nhân vật của mình; và chắc chắn rằng họ đang lấy đi của tôi nhiều thứ, nhưng tôi cũng vậy, tôi cũng học hỏi từ họ.
Đôi khi họ làm tôi ngạc nhiên vì điều gì đó mà tôi không biết về họ, vì vậy, nó thực sự rất bí ẩn. Tôi sẽ viết về nó. Và tất nhiên, có nhiều khía cạnh để viết bởi vì trước hết bạn cần phải nghiên cứu hoặc thậm chí là phát minh ra toàn bộ câu chuyện, tìm kiếm cảm hứng từ một cuốn sách khác, ý tưởng khác, nói chuyện với mọi người, để ghi lại một số ghi chú. Và sau đó là bắt đầu viết và điêu khắc toàn bộ câu chuyện. Vì vậy, nó có nhiều chiều kích đến nỗi không bao giờ thực sự nhàm chán, và tôi thích nó. Đây là nghề duy nhất của tôi, tôi không thể làm bất cứ điều gì khác nữa.
Tiểu thuyết Bieguni, Những người không ngừng chuyển động của bà đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt.
+ Bà có nghĩ rằng cần có những phẩm chất cụ thể để trở thành một nhà văn giỏi?
– Tôi đoán rằng cần có một điều, đó là khả năng sống trong một loại chế độ nào đó, một thói quen viết đều đặn, thói quen tỏ bày nào đó, để quản lý, loại quản lý thời gian mà chúng ta cần.
+ Ai đã ảnh hưởng đến bà nhiều nhất với tư cách là một nhà văn?
– Thật khó để trả lời, vì nó phụ thuộc vào thời điểm nào trong cuộc đời tôi. Có rất nhiều kiểu đam mê của tôi đối với một loại văn bản đặc biệt, nhất là tiểu thuyết. Vì vậy, tôi sẽ nói nó khá dễ dàng, nhưng chắc chắn rằng tôi thuộc về truyền thống viết, kể chuyện và khám phá ngôn ngữ của vùng Trung Âu. Và trong số những nhà văn đến từ Trung Âu, tôi sẽ nhắc đến Bruno Schulz, người rất quan trọng đối với tôi trong tư cách là một nhà văn Ba Lan, viết bằng tiếng Ba Lan, bởi vì anh ấy đã làm được những điều đáng kinh ngạc với ngôn ngữ Ba Lan.
Nhưng tôi cũng thích kiểu viết parabol, cũng bắt nguồn từ Trung Âu, như Franz Kafka chẳng hạn. Nhưng tất nhiên, khi tôi còn trẻ, trẻ hơn nhiều, ở tuổi thiếu niên, tôi đã bị cuốn hút bởi văn học Nam Mỹ. Tôi rất thích các nhà văn Nga, loại chủ nghĩa hiện thực có có phần trớ trêu. Vì vậy, nó có thể là một câu trả lời rất dài, cho đến tối.
+ Có thể nói rằng không ngừng chuyển động và di chuyển là chủ đề chính trong công việc của bà không?
– Đúng vậy. Tôi tin rằng chúng ta, tất cả chúng ta, đều có một nơi nào đó, có lẽ là ở trong gen hay tâm lý của chúng ta, một bản năng du mục tạo ra cuộc sống. Và ngay cả khi chúng ta đang sống cả đời ở một nơi nào đó, chúng ta vẫn đang nghĩ về việc vượt qua những nơi mà chúng ta được thiết kế để ở đó. Và nhu cầu sâu sắc này rất, cũng rất hiện hữu trong cuộc sống của tôi, vì vậy, khi viết
Bieguin Những người không ngừng chuyển động
, tôi đã cố gắng thể hiện lại loại chuyển động ở nhiều cấp độ như vậy.
Xê dịch hay đi đường hành hương, cái nào thì cũng là một loại tâm lý, bạn biết đấy, một sự thoải mái để đi đâu đó, kiểm tra một nơi nào đó, cũng như những nơi còn thiếu mà chúng ta chưa từng đến, điều này cũng tạo ra cuộc sống của chúng ta ở nơi từng rất hiện hữu. Vì vậy, tôi có thể nói cuốn sách này chỉ là sách chuyên khảo về các chuyển động, độc bản văn học về các chuyển động.
+ Một lời khuyên mà bà đưa ra cho các nhà văn trẻ đầy tham vọng là gì?
– Đó là một câu hỏi phức tạp. Tôi biết rằng có rất nhiều hình thức học tập, ví dụ như viết sáng tạo và mọi người sau đó cố gắng học cách viết, cách sống trong nghề viết, bởi vì đối với tôi, viết đúng hơn là một quá trình tâm lý, không chỉ là quá trình viết trên một tờ giấy, thậm chí không phải là sáng tạo ra một câu chuyện, nhưng là một thứ có liên hệ rất sâu sắc với khía cạnh tâm lý của chúng ta. Vì vậy, tôi nghĩ rằng chỉ có một lời khuyên, hãy đọc, đọc nhiều nữa. Tôi nghĩ rằng cứ mỗi một trang mà bạn viết được, nó sẽ luôn là một nghìn trang mà ta có được từ việc đọc.
NGÔ THUẬN PHÁT
dịch từ trang chủ của giải Nobel
|
Chương trình nghiên cứu các vật thể và hiện tượng bay không xác định kéo dài 9 tháng sẽ được khởi động vào ngày 23-10, với một đội ngũ chuyên gia gồm 16 nhà khoa học hàng đầu.
Một hiện tượng trên không không xác định (UAP) được cảm biến của một máy bay phản lực Hải quân Hoa Kỳ chụp lại – Ảnh: DoD/US Navy
NASA công bố về chương trình nghiên cứu vật thể bay không xác định (UFO) lần đầu tiên vào tháng 6, tập trung vào các báo cáo và dữ liệu về UFO chưa được phân loại. Gần đây, chương trình được đổi tên thành “các hiện tượng trên không không xác định” (UAP).
Nhóm nghiên cứu được nhà vật lý, thiên văn và chủ tịch của tổ chức khoa học phi lợi nhuận Simons Foundation David Spergel dẫn đầu.
15 thành viên khác trong nhóm bao gồm cựu phi hành gia NASA Scott Kelly, nhà vật lý thiên văn Đại học California Shelley Wright, nhà báo khoa học Nadia Drake, nhà khoa học David Grinspoon, giám đốc công nghệ của Công ty vũ trụ Maxar Walter Scott và các nhà khoa học, các nhà quản lý của Cục Hàng không liên bang cùng nhiều chuyên gia trong ngành công nghiệp vũ trụ.
Các nghiên cứu về UAP của NASA sẽ có kinh phí từ vài chục đến hàng trăm nghìn USD.
Chương trình nghiên cứu được công bố sau các phiên điều trần đầu tiên của Quốc hội Hoa Kỳ về “Hiện tượng trên không không xác định – UAP” diễn ra. Trước đó vào tháng 5, các quan chức tình báo Mỹ đã báo cáo về hơn 140 lần nhìn thấy “vật thể không giải thích được” kể từ năm 2004, buộc Chính phủ Mỹ phải mở cuộc điều tra về hiện tượng này.
“Vì các vật thể và hiện tượng bay không xác định tiềm ẩn những rủi ro về an toàn bay và an ninh chung nên chúng tôi cam kết nỗ lực tập trung để xác định nguồn gốc của chúng”, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng về tình báo và an ninh Hoa Kỳ Ronald Moultrie nói vào thời điểm đó.
Theo các quan chức NASA, nghiên cứu sẽ xem xét các quan sát UAP đã thu thập trước đó mà chưa được phân loại, nhưng sẽ loại bỏ dữ liệu quân sự nhạy cảm.
“Việc hiểu được dữ liệu mà chúng ta có xung quanh các hiện tượng không xác định là rất quan trọng để đưa ra kết luận khoa học về những gì đang xảy ra trên bầu trời”, Thomas Zurbuchen, thành viên Ban giám đốc sứ mệnh khoa học (SMD) tại trụ sở NASA, cho biết.
Các phát hiện trong chương trình nghiên cứu sẽ được công bố rộng rãi với các nguyên tắc minh bạch, cởi mở và toàn vẹn khoa học vào giữa năm 2023, sau khi chương trình nghiên cứu này kết thúc.
MINH HẢI
(Theo Space)
|
The nine-month research program on unidentified flying objects and phenomena will be launched on October 23, with an expert team of 16 leading scientists.
An unidentified aerial phenomenon (UAP) was captured by the sensors of a US Navy jet – Photo: DoD/US Navy
NASA first announced its UFO research program in June, focusing on unclassified UFO reports and data. Recently, the program was renamed “unidentified aerial phenomena” (UAP).
The research team was led by physicist, astronomer and president of the nonprofit science organization Simons Foundation David Spergel.
The 15 other members of the team include former NASA astronaut Scott Kelly, University of California astrophysicist Shelley Wright, science journalist Nadia Drake, scientist David Grinspoon, chief technology officer of Maxar Space Company Walter Scott and scientists, managers of the Federal Aviation Administration and many experts in the space industry.
NASA's UAP studies will cost from a few tens to hundreds of thousands of dollars.
The research program was announced after the first US Congressional hearings on “Unidentified Aerial Phenomena – UAP” took place. Previously in May, US intelligence officials reported more than 140 sightings of "unexplained objects" since 2004, forcing the US Government to open an investigation into this phenomenon.
“Because unidentified flying objects and phenomena pose potential risks to flight safety and general security, we are committed to focusing efforts to determine their origin,” said Deputy Minister of Defense on the situation. US security and journalist Ronald Moultrie said at the time.
According to NASA officials, the study will look at previously collected UAP observations that have not been classified, but will exclude sensitive military data.
“Understanding the data we have around unidentified phenomena is critical to drawing scientific conclusions about what is happening in the sky,” said Thomas Zurbuchen, member of the Mission Directorate Science Department (SMD) at NASA headquarters, said.
The findings of the research program will be made publicly available with the principles of transparency, openness and scientific integrity in mid-2023, after the research program ends.
MINH HAI
(According to Space)
|
Ngày 23/10, tại Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc diễn ra Hội nghị văn hóa
tỉnh Bắc Ninh
năm 2022, theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị. Cùng dự có lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh, cùng 3.000 đại biểu tại 138 điểm cầu trên địa bàn tỉnh.
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh toàn diện
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh Nguyễn Anh Tuấn phát biểu tại hội nghị.
Trình bày Nghị quyết 71-NQ/TU, ngày 28/9/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh khóa XX về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững (gọi tắt là Nghị quyết 71), Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Quốc Chung khẳng định: Bắc Ninh – Kinh Bắc là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, giàu truyền thống lịch sử, văn hiến và cách mạng, cội nguồn dân tộc và văn hóa Việt Nam, nơi thờ thủy tổ dân tộc Việt – Kinh Dương Vương, quê hương nơi phát tích Vương triều Lý và nhiều danh nhân tiêu biểu, lãnh đạo cách mạng, tiền bối của Đảng, Nhà nước, nơi hội tụ của kho tàng văn hóa dân gian với nhiều công trình văn hóa nghệ thuật đặc sắc và Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Sau 25 năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, toàn diện trên các lĩnh vực, trong đó sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người trên địa bàn được quan tâm. Nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa, con người đối với sự phát triển có nhiều chuyển biến tích cực. Các hoạt động, sản phẩm văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng; hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được đầu tư bảo tồn, tôn tạo khoa học, từng bước phát huy giá trị.
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Quốc Chung phát biểu tại hội nghị.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Sự phát triển văn hóa, con người chưa đồng bộ, chưa ngang tầm với vai trò và tương xứng với tăng trưởng kinh tế; chưa phát huy tối đa lợi thế nguồn lực văn hóa, con người trong phát triển đô thị, kinh tế – xã hội của tỉnh. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, khu vui chơi giải trí ở cơ sở chưa đồng bộ, đặc biệt là trong các khu công nghiệp chưa được quan tâm đầu tư; việc phát triển các ngành dịch vụ trong đó có dịch vụ văn hóa còn chậm; chất lượng hoạt động văn học, nghệ thuật chưa cao. Vì vây, việc ra đời Nghị quyết 71 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Nghị quyết 71 đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo, 5 mục tiêu chung, với 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, bản sắc quê hương; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa các địa phương, khu vực và đối tượng dân cư. Xây dựng môi trường văn hóa trong từng gia đình, địa phương, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Bảo tồn, phát huy hiệu quả các di sản văn hóa, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa, sản phẩm du lịch có chất lượng cao mang đậm bản sắc Bắc Ninh – Kinh Bắc, phù hợp với xu thế thời đại. Tập trung đầu tư nguồn lực, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để văn hóa, con người Bắc Ninh phát triển toàn diện, trở thành mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh bền vững, hướng tới mục tiêu đưa Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
Địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa phát biểu chỉ đạo hội nghị.
Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương chúc mừng và biểu dương những cố gắng, nỗ lực phấn đấu, những kết quả, thành tựu mà Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã đạt được trong những năm qua, nhất là trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Để tạo sự đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, thực chất hơn nữa trong phát triển văn hóa, xây dựng con người, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa đề nghị, thời gian tới, tỉnh Bắc Ninh tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững; đồng thời tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Bắc Ninh – Kinh Bắc trong thời kỳ mới. Đây là một những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp quan trọng, có ý nghĩa nền tảng trong xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, con người, đáp ứng yêu cầu đối với sự phát triển bền vững của tỉnh.
Cùng với đó, tỉnh Bắc Ninh cần tập trung đầu tư các thiết chế văn hóa hiện đại, đồng bộ hóa hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở, tăng nguồn lực đầu tư từ ngân sách tỉnh, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích thành lập và tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ phát triển các thiết chế văn hóa ngoài công lập. Tỉnh xây dựng chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ văn hóa, nghệ thuật phù hợp, có trình độ chuyên môn, năng lực, khắc phục triệt để tình trạng chắp vá, bố trí cán bộ không đúng sở trường chuyên môn trong lĩnh vực văn hóa.
Cho rằng Bắc Ninh có nhiều thuận lợi trong việc hội nhập quốc tế về văn hóa, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa lưu ý, tỉnh cần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Bắc Ninh trở thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Để làm được điều này, Bắc Ninh cần nắm bắt cơ hội, phát huy lợi thế với 38 quốc gia và vùng lãnh thổ đang đầu tư trên địa bàn để chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, tăng cường giới thiệu các giá trị văn hóa đặc sắc của tỉnh đến với bạn bè quốc tế; đồng thời tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa của các nước, làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Kinh Bắc. Tỉnh chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa và con người Bắc Ninh; xây dựng Bắc Ninh trở thành điểm đến hấp dẫn, có tính kết nối cao, đóng vai trò là cửa ngõ trong xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài.
Với quyết tâm chính trị lớn, nhất là truyền thống văn hóa sâu dày của đất và người Kinh Bắc, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa tin tưởng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh sẽ đạt được những kết quả đột phá quan trọng trên lĩnh vực văn hóa, để tiếp tục đưa Bắc Ninh phát triển nhanh và bền vững, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược đã đề ra.
|
Ngày 23/10, tại Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc diễn ra Hội nghị văn hóa
tỉnh Bắc Ninh
năm 2022, theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị. Cùng dự có lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh, cùng 3.000 đại biểu tại 138 điểm cầu trên địa bàn tỉnh.
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh toàn diện
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh Nguyễn Anh Tuấn phát biểu tại hội nghị.
Trình bày Nghị quyết 71-NQ/TU, ngày 28/9/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh khóa XX về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững (gọi tắt là Nghị quyết 71), Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Quốc Chung khẳng định: Bắc Ninh – Kinh Bắc là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, giàu truyền thống lịch sử, văn hiến và cách mạng, cội nguồn dân tộc và văn hóa Việt Nam, nơi thờ thủy tổ dân tộc Việt – Kinh Dương Vương, quê hương nơi phát tích Vương triều Lý và nhiều danh nhân tiêu biểu, lãnh đạo cách mạng, tiền bối của Đảng, Nhà nước, nơi hội tụ của kho tàng văn hóa dân gian với nhiều công trình văn hóa nghệ thuật đặc sắc và Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Sau 25 năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, toàn diện trên các lĩnh vực, trong đó sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người trên địa bàn được quan tâm. Nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa, con người đối với sự phát triển có nhiều chuyển biến tích cực. Các hoạt động, sản phẩm văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng; hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được đầu tư bảo tồn, tôn tạo khoa học, từng bước phát huy giá trị.
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Quốc Chung phát biểu tại hội nghị.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Sự phát triển văn hóa, con người chưa đồng bộ, chưa ngang tầm với vai trò và tương xứng với tăng trưởng kinh tế; chưa phát huy tối đa lợi thế nguồn lực văn hóa, con người trong phát triển đô thị, kinh tế – xã hội của tỉnh. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao, khu vui chơi giải trí ở cơ sở chưa đồng bộ, đặc biệt là trong các khu công nghiệp chưa được quan tâm đầu tư; việc phát triển các ngành dịch vụ trong đó có dịch vụ văn hóa còn chậm; chất lượng hoạt động văn học, nghệ thuật chưa cao. Vì vây, việc ra đời Nghị quyết 71 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Nghị quyết 71 đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo, 5 mục tiêu chung, với 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, bản sắc quê hương; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa các địa phương, khu vực và đối tượng dân cư. Xây dựng môi trường văn hóa trong từng gia đình, địa phương, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Bảo tồn, phát huy hiệu quả các di sản văn hóa, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa, sản phẩm du lịch có chất lượng cao mang đậm bản sắc Bắc Ninh – Kinh Bắc, phù hợp với xu thế thời đại. Tập trung đầu tư nguồn lực, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để văn hóa, con người Bắc Ninh phát triển toàn diện, trở thành mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh bền vững, hướng tới mục tiêu đưa Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.
Địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa phát biểu chỉ đạo hội nghị.
Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương chúc mừng và biểu dương những cố gắng, nỗ lực phấn đấu, những kết quả, thành tựu mà Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã đạt được trong những năm qua, nhất là trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Để tạo sự đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, thực chất hơn nữa trong phát triển văn hóa, xây dựng con người, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa đề nghị, thời gian tới, tỉnh Bắc Ninh tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững; đồng thời tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Bắc Ninh – Kinh Bắc trong thời kỳ mới. Đây là một những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp quan trọng, có ý nghĩa nền tảng trong xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, con người, đáp ứng yêu cầu đối với sự phát triển bền vững của tỉnh.
Cùng với đó, tỉnh Bắc Ninh cần tập trung đầu tư các thiết chế văn hóa hiện đại, đồng bộ hóa hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở, tăng nguồn lực đầu tư từ ngân sách tỉnh, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích thành lập và tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ phát triển các thiết chế văn hóa ngoài công lập. Tỉnh xây dựng chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ văn hóa, nghệ thuật phù hợp, có trình độ chuyên môn, năng lực, khắc phục triệt để tình trạng chắp vá, bố trí cán bộ không đúng sở trường chuyên môn trong lĩnh vực văn hóa.
Cho rằng Bắc Ninh có nhiều thuận lợi trong việc hội nhập quốc tế về văn hóa, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa lưu ý, tỉnh cần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Bắc Ninh trở thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Để làm được điều này, Bắc Ninh cần nắm bắt cơ hội, phát huy lợi thế với 38 quốc gia và vùng lãnh thổ đang đầu tư trên địa bàn để chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, tăng cường giới thiệu các giá trị văn hóa đặc sắc của tỉnh đến với bạn bè quốc tế; đồng thời tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa của các nước, làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Kinh Bắc. Tỉnh chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa và con người Bắc Ninh; xây dựng Bắc Ninh trở thành điểm đến hấp dẫn, có tính kết nối cao, đóng vai trò là cửa ngõ trong xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài.
Với quyết tâm chính trị lớn, nhất là truyền thống văn hóa sâu dày của đất và người Kinh Bắc, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa tin tưởng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh sẽ đạt được những kết quả đột phá quan trọng trên lĩnh vực văn hóa, để tiếp tục đưa Bắc Ninh phát triển nhanh và bền vững, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược đã đề ra.
|
Với tốc độ gia tăng dân số như hiện nay, theo các chuyên gia, đến năm 2050, thế giới sẽ cần lượng lương thực tăng hơn 60% so với mức hiện nay.
Biến đổi khí hậu
sẽ ảnh hưởng đến năng suất, khi nhiệt độ gia tăng thêm 1 độ C, sản lượng lương thực sẽ giảm hơn 5%. Trong khi còn nhiều tranh cãi về cách không làm gia tăng nhiệt độ trên
Trái đất
, các chuyên gia không ngừng cải tiến, chuyển đổi công nghệ để tạo ra những nguồn thực phẩm bền vững hơn.
Ứng dụng các công nghệ mới giúp tạo ra các loại thực phẩm lành mạnh, thân thiện môi trường.
Trí tuệ nhân tạo trong hệ thống thực phẩm
Trí tuệ nhân tạo (AI) thực hiện các nhiệm vụ phức tạp nhanh hơn hàng trăm, thậm chí hàng nghìn lần so với bộ não con người. Trong công nghệ sản xuất thực phẩm, các nhà nghiên cứu đã ứng dụng AI ở nhiều lĩnh vực như: Điều hành trang trại tự động hoàn toàn, có khả năng chống chịu với môi trường bằng cách sử dụng cảm biến, robot và các ứng dụng thông minh khác. Nghiên cứu thời điểm sản phẩm đạt chất lượng tốt nhất để thu hoạch và chế biến với lượng chất thải ít nhất. Ứng dụng công nghệ mô phỏng các hoạt động chế biến thực phẩm để xác định nơi có thể phát sinh các vấn đề về an toàn thực phẩm. Tổng hợp và phân tích dữ liệu dinh dưỡng từ các nghiên cứu, dự đoán tác động của thực phẩm đến sức khỏe con người…
Tiến sĩ Todd Mockler tại Trung tâm Khoa học Thực vật Donald Danforth, Đại học Illinois (Mỹ) cho biết: “Trang trại tự động liên quan đến việc chuyển đổi những công nghệ như thị giác máy tính, sử dụng camera độ phân giải cao gắn trên máy bay không người lái, máy kéo hoặc robot để quan sát, thu thập hình ảnh cây trồng trên cánh đồng. Các kỹ sư của chúng tôi cũng đang phát triển các phương pháp tiếp cận AI mới để thu thập thông tin từ hình ảnh mà các camera thu thập được để xử lý. Không chỉ áp dụng trong lĩnh vực trồng trọt, dự án còn hướng đến lĩnh vực chăn nuôi, chẳng hạn, ứng dụng AI trong chăn nuôi lợn, sử dụng hình ảnh từ camera theo dõi hành vi của con vật, để biết được các dấu hiệu như lợn ốm hay đói…”.
Tạo ra các loại thực phẩm mới
Các chuyên gia coi các loại thực phẩm mới là một cách để nuôi sống con người trong tương lai, ứng dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm lành mạnh, bền vững hơn. Sinh học tổng hợp có vẻ giống như một thuật ngữ của tương lai, nhưng nếu bạn đã từng ăn bánh Hamburger của Công ty thực phẩm Impossible thì bạn đã được thử loại thực phẩm hoàn toàn mới. Loại bánh kẹp thịt chay được “trồng trong phòng thí nghiệm” này được làm từ các loại đậu. Các sản phẩm “trồng” trong phòng thí nghiệm được nghiên cứu để đạt được hương vị và kết cấu tương tự như các sản phẩm “họ hàng” thông thường của chúng, nhưng có thành phần dinh dưỡng lành mạnh hơn và bền vững hơn.
Công ty Incredo Sugar cũng sản xuất đường mía thật, nhưng nó được chế tạo để đạt được khẩu vị hiệu quả hơn nên chỉ cần lượng bằng một nửa so với loại đường thông thường. Hay như Công ty Aleph Farms sản xuất ra miếng thịt bò bít tết đầu tiên từ tế bào gốc trong phòng thí nghiệm. Tế bào bò đã phát triển thành mô cơ bằng cách sử dụng một phương pháp được gọi là “in 3D sinh học”, bắt chước quá trình tạo mô cơ trong cơ thể bò. Thành công này đánh dấu bước tiến ngành công nghiệp mới ra đời nhằm cung cấp cho con người sản phẩm thịt thật mà không tác động tới môi trường. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, việc giảm ăn thịt là cần thiết để cắt giảm khí thải nhà kính và góp phần làm giảm tác động gây biến đổi khí hậu nghiêm trọng. Một nghiên cứu khác cho rằng hạn chế dùng thịt và các sản phẩm từ sữa là cách hữu hiệu để con người giảm tác động lên môi trường Trái đất. Theo các chuyên gia, thịt được tạo ra trong phòng thí nghiệm có thể sẽ được bày bán trên các kệ hàng trong siêu thị trong vài năm tới.
Một ngày nào đó, bạn cũng sẽ có thể tự làm tại nhà các loại thực phẩm bằng công nghệ in 3D. Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tiềm năng của công nghệ này trong việc tái sử dụng thực phẩm. Vợ chồng doanh nhân người Hà Lan Elzelinde van Doleweerd và Vita Broeken đã tái sử dụng thực phẩm thành nguyên liệu được sử dụng để in 3D thành các loại thực phẩm mới. Công ty Upprinting Foods do hai vợ chồng sáng lập đã tạo ra một trải nghiệm ăn uống hấp dẫn từ những thực phẩm tái sử dụng. Chẳng hạn, từ những thức ăn thừa như bánh mì kết hợp với trái cây và rau quả, họ đã tạo ra một loại hỗn hợp có thể in thành những thực phẩm hấp dẫn.
Công nghệ đóng gói thông minh
Các loại thực phẩm bổ dưỡng, được sản xuất theo cách bền vững phải đảm bảo an toàn, không hư hỏng trước khi đến tay người sử dụng. Do vậy, về mặt kỹ thuật, những tiến bộ trong công nghệ sản xuất bao bì có tác động lớn đến tính bền vững và an toàn thực phẩm. Công nghệ đóng gói thông minh sử dụng các cảm biến sẽ cho biết khi nào thực phẩm không còn an toàn. Nó giúp kéo dài thời hạn sử dụng và ngăn ngừa lãng phí thực phẩm, bởi trên thực tế, một khối lượng không nhỏ thực phẩm bị vứt bỏ chỉ vì chúng đã quá hạn sử dụng in trên bao bì.
Ngoài ra, công nghệ cũng giúp bảo vệ người sử dụng khỏi bệnh tật do thực phẩm. Chẳng hạn, công nghệ Mimica Touch do nhà thiết kế công nghiệp có trụ sở tại London, Anh phát triển nhằm mục đích hạn chế vấn đề rác thải thực phẩm. Mimica Touch sử dụng công nghệ trên nắp hộp hoặc nhãn dán giúp người tiêu dùng bảo quản thực phẩm tốt hơn và biết được khi nào thực phẩm hỏng. Nó sẽ theo dõi nhiệt độ và khi thức ăn ở nhiệt độ có thể gây hỏng, trên nhãn hoặc nắp sẽ xuất hiện các dấu hiệu dễ dàng nhận biết như vết lồi. Hoặc chỉ cần một thao tác vuốt tay lên hộp sữa, bạn sẽ biết hộp sữa đó vẫn còn sử dụng được hay phải bỏ đi. Ngoài ra, còn nhiều phương pháp đóng gói thông minh khác sử dụng cảm biến để giúp người dùng nhận biết đồ ăn còn dùng được hay không, tránh lãng phí thực phẩm. Các loại nhãn dán thông minh hiện được sử dụng cho nhiều nhóm hàng thực phẩm khác nhau như nước trái cây, sữa, thịt…
(
Theo Planergy
)
Thu Nguyên
|
With the current population growth rate, according to experts, by 2050, the world will need 60% more food than the current level.
Climate Change
will affect productivity, when the temperature increases by 1 degree Celsius, food output will decrease by more than 5%. While there is still much debate about how not to increase the above temperature
Earth
, experts are constantly improving and converting technology to create more sustainable food sources.
Applying new technologies helps create healthy, environmentally friendly foods.
Artificial intelligence in the food system
Artificial intelligence (AI) performs complex tasks hundreds, even thousands of times faster than the human brain. In food production technology, researchers have applied AI in many areas such as: Operating fully automated farms, being able to withstand the environment using sensors, robots and other applications. Other smart uses. Research when the product is of the best quality to harvest and process with the least amount of waste. Applying technology to simulate food processing operations to identify where food safety issues may arise. Synthesize and analyze nutritional data from research, predict the impact of food on human health...
Dr. Todd Mockler at the Donald Danforth Plant Science Center, University of Illinois (USA) said: “Automated farms involve transforming technologies such as computer vision, using high-resolution cameras Mounted on drones, tractors or robots to observe and collect images of crops in the field. Our engineers are also developing new AI approaches to gather information from images collected by cameras for processing. Not only applied in the field of farming, the project also targets the field of animal husbandry, for example, applying AI in pig farming, using images from cameras to monitor the animal's behavior, to know the signs It looks like a sick or hungry pig...".
Create new foods
Experts see new foods as a way to feed people in the future, applying new technologies to create healthier, more sustainable products. Synthetic biology may seem like a futuristic term, but if you've ever eaten an Impossible Foods Hamburger, you've tried something completely new. This “lab-grown” veggie burger is made from beans. Lab-grown products are researched to achieve the same taste and texture as their conventional cousins, but with healthier and more sustainable nutritional profiles.
The Incredo Sugar Company also produces real cane sugar, but it is formulated to achieve a more efficient taste so it only requires half the amount of regular sugar. Or like Aleph Farms Company producing the first steak from stem cells in the laboratory. Cow cells were grown into muscle tissue using a method called “3D bioprinting,” which mimics the process of creating muscle tissue in a cow's body. This success marks the birth of a new industry aimed at providing people with real meat products without affecting the environment. Recent studies have shown that reducing meat consumption is necessary to cut greenhouse gas emissions and contribute to reducing the impact of severe climate change. Another study suggests that limiting the use of meat and dairy products is an effective way for people to reduce their impact on the Earth's environment. According to experts, meat created in a laboratory could be sold on supermarket shelves within the next few years.
One day, you will also be able to make your own foods at home using 3D printing technology. Researchers have seen the potential of this technology in reusing food. Dutch husband-and-wife entrepreneurs Elzelinde van Doleweerd and Vita Broeken have repurposed food into ingredients used to 3D print new foods. Upprinting Foods, founded by a husband and wife team, has created an engaging dining experience using repurposed food. For example, from leftovers like bread combined with fruits and vegetables, they created a mixture that can be printed into attractive foods.
Smart packaging technology
Nutritious foods, produced in a sustainable way, must be safe and non-perishable before reaching consumers. Therefore, technically, advances in packaging technology have a major impact on sustainability and food safety. Smart packaging technology uses sensors that will indicate when food is no longer safe. It helps extend shelf life and prevent food waste, because in fact, a large amount of food is thrown away just because it has passed the expiration date printed on the packaging.
In addition, technology also helps protect users from foodborne illnesses. For example, Mimica Touch technology was developed by an industrial designer based in London, England with the aim of limiting the problem of food waste. Mimica Touch uses technology on box lids or labels to help consumers preserve food better and know when food is spoiled. It will monitor the temperature and when food is at a temperature that could cause spoilage, easily identifiable signs such as bumps will appear on the label or lid. Or with just one swipe of your hand on the milk carton, you will know if the milk carton is still usable or must be thrown away. In addition, there are many other smart packaging methods that use sensors to help users recognize whether food is still usable or not, avoiding food waste. Smart stickers are currently used for many different food groups such as juice, milk, meat...
(
According to Planergy
)
Thu Nguyen
|
Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, ngày 24/10, chỉ số tia cực tím (UV) cực đại tại khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ có chỉ số UV ở mức nguy cơ gây hại trung bình đến cao (4.1-7.4). Khu vực Nam Bộ và
Nha Trang
(
Khánh Hòa
) ở ngưỡng nguy cơ gây hại cao đến rất cao (6.3-8.4).
Ảnh minh họa.
Cụ thể, chỉ số tia cực tím đạt mức cực đại tại các thành phố trong ngày 24/10 như sau: Hạ Long (Quảng Ninh), Hải Phòng, Hà Nội đều ở mức 7.4; Huế (Thừa Thiên – Huế) ở mức 5.9; Đà Nẵng ở mức 4.6; Hội An (Quảng Nam) mức 6.0; Nha Trang (Khánh Hòa) ở mức 8.6, Thành phố Hồ Chí Minh ở mức 8.4; Cần Thơ ở mức 8.2; Cà Mau (tỉnh Cà Mau) ở mức 6.7.
Ngày 24/10, chỉ số nóng bức cực đại (HI- Heat Index) tại Thủ đô Hà Nội, thành phố Hạ Long (Quảng Ninh), Hà Tĩnh (Hà Tĩnh), TP Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng, Phú Quốc (Kiên Giang) đạt mức 32-41 (mức đặc biệt cẩn trọng). Với mức nhiệt này, người dân có khả năng bị say nắng, chuột rút hoặc kiệt sức vì nóng khi tiếp xúc với nắng nóng hoặc hoạt động thể chất kéo dài.
Trong các ngày 25-27/10, chỉ số tia cực tím cực đại tại khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ được dự báo có chỉ số UV cực đại tiềm năng ở ngưỡng nguy cơ gây hại trung bình vào ngày 26/10 trước khi tăng lên mức cao trong hai ngày 26 và 27/10. Khu vực Nam Bộ tiếp tục duy trì chỉ số này ở mức cao đến rất cao (7.0 – 9.0).
Theo khuyến cáo của ngành Y tế, chỉ số tia UV ở mức an toàn là dưới 3, trên ngưỡng 3 là gây ra nhiều tác hại khôn lường với sức khỏe.
Để phòng tránh bệnh về da nói chung và ung thư da nói riêng do tác hại của tia cực tím, các bác sĩ khuyến cáo, người dân khi ra đường vào thời điểm chỉ số UV đạt đỉnh trong ngày (từ 11 – 15 giờ) cần đội mũ rộng vành, đeo mắt kính màu sậm, bịt kín khẩu trang và tránh nắng trong bóng râm, cây có bóng mát để hạn chế tác động từ tia UV. Cùng với đó, người dân nên bổ sung hoa quả tươi giàu vitamin C, giúp hạn chế tác động có hại từ tia cực tím; uống bù đủ nước khoảng 2 – 2,5 lít nước mỗi ngày; sử dụng kem chống nắng đều đặn mỗi khi ra ngoài, ngay cả khi trời nhiều mây.
Diệu Thúy
|
According to the National Center for Hydrometeorological Forecasting, on October 24, the maximum ultraviolet (UV) index in the Northern and Central regions had a UV index at the moderate to high harmful risk level ( 4.1-7.4). Southern region and
Nha Trang
(
Khanh Hoa
) at the threshold of high to very high risk of harm (6.3-8.4).
Illustration.
Specifically, the ultraviolet index reached its maximum level in the following cities on October 24: Ha Long (Quang Ninh), Hai Phong, and Hanoi were all at 7.4; Hue (Thua Thien – Hue) at 5.9; Da Nang at 4.6; Hoi An (Quang Nam) level 6.0; Nha Trang (Khanh Hoa) is at 8.6, Ho Chi Minh City is at 8.4; Can Tho at 8.2; Ca Mau (Ca Mau province) is at 6.7.
On October 24, the maximum heat index (HI - Heat Index) in Hanoi Capital, Ha Long City (Quang Ninh), Ha Tinh (Ha Tinh), Ho Chi Minh City and Da Nang City, Phu Quoc (Kien Giang) reached 32-41 (extremely cautious level). With this level of heat, people are likely to experience heatstroke, cramps or heat exhaustion when exposed to heat or prolonged physical activity.
During October 25-27, the maximum UV index in the Northern and Central regions is forecast to have a potential maximum UV index at the average harmful risk threshold on October 26. increased to a high level on October 26 and 27. The Southern region continues to maintain this index at a high to very high level (7.0 - 9.0).
According to recommendations of the Health sector, the safe level of UV rays is below 3, above the threshold 3 causes many unpredictable harmful effects on health.
To prevent skin diseases in general and skin cancer in particular due to the harmful effects of ultraviolet rays, doctors recommend that people go out at the time when the UV index peaks during the day (from 11 a.m. to 3 p.m.). You need to wear a wide-brimmed hat, dark glasses, a mask and avoid the sun in the shade or shade trees to limit the impact of UV rays. Along with that, people should supplement fresh fruits rich in vitamin C, which helps limit harmful effects from ultraviolet rays; Drink enough water about 2 - 2.5 liters of water per day; Use sunscreen regularly every time you go out, even when it's cloudy.
Dieu Thuy
|
Các nhà khoa học đã phát hiện sự thật gây sốc đằng sau những màn trình diễn ánh sáng ngoạn mục mỗi lần địa cầu hứng pháo vũ trụ từ ngôi sao mẹ cuồng nộ.
Theo tờ
Space,
một loại cực quang gọi là “cực quang proton cô lập” đã tiết lộ nguyên nhân gây ra sự suy giảm tầng ozone đến từ không gian. Chúng bắt nguồn từ những quả “pháo vũ trụ” bằng plasma mà
Mặt Trời
thường xuyên bắn ra và thỉnh thoảng lại nhắm trúng địa cầu.
Nhóm nghiên cứu quốc tế dẫn đầu bởi tiến sĩ Mitsunori Ozaki từ Trường Cao học Khoa học tự nhiên và công nghệ thuộc Đại học Kanazawa –
Nhật Bản
đã tìm hiểu những dòng plasma mạnh mẽ này và nhận thấy không chỉ tạo ra cực quang, chúng thỉnh thoảng còn “khoét thủng” lớp trên của tầng ozone Trái Đất.
Cực quang chụp từ Trạm Vũ trụ Quốc tế ISS – Ảnh: NASA
Các lỗ thủng này rộng tới 400 km, nằm trong tầng trung lưu của bầu khí quyển và thật may chúng không tồn tại vĩnh viễn. Tại các lỗ thủng, ozone hầu như biến mất hoàn toàn trong khoảng 1 giờ rưỡi, sau đó dẫn phục hồi.
Tuy tự liền lại nhanh hơn nhiều so với lỗ thủng ozone tầng bình lưu – do con người gây nên – nhưng tác động từ nó cũng đủ ảnh hưởng đến Trái Đất theo những cách khác.
Không còn lớp bảo vệ, những bức xạ có hại từ Mặt Trời sẽ có cơ hội đi xuống sâu hơn bên dưới, có thể gây ra trục trặc đối với cơ sở hạ tầng điện – viễn thông. Trước đó, các hạt tích điện trong các quả pháo vũ trụ này trên đường “hạ cánh” xuống bầu khí quyển cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các phi hành gia và vệ tinh làm nhiệm vụ ở khu vực cao hơn.
Theo các tác giả, những quả pháo plasma đã khoét thủng bầu trời theo cách đưa các hạt tích điện xâm nhập vào các đường sức từ trong từ quyển của Trái Đất. Các nitơ oxit và hydro oxit được giải phóng do tương tác của các hạt với khí quyển đã làm suy giảm tầng ozone.
Phát hiện này sẽ giúp các nhà khoa học có thêm cơ sở để dự đoán những biến động của thời tiết không gian, vốn rất quan trọng trong nhiều hoạt động công nghệ hiện đại, đặc biệt là ngành viễn thông – hàng không vũ trụ.
Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học
Scientific Reports.
Anh Thư
|
Scientists have discovered the shocking truth behind the spectacular light shows every time the Earth receives cosmic fireworks from its raging parent star.
According to the sheet
Space,
A type of aurora called “isolated proton aurora” has revealed that the cause of ozone depletion comes from space. They originate from plasma "cosmic cannons".
Sun
often fired and occasionally aimed at the earth.
The international research team led by Dr. Mitsunori Ozaki from the Graduate School of Natural Sciences and Technology of Kanazawa University –
Japan
studied these powerful plasma streams and found that not only do they create auroras, they also sometimes "hole" the upper layer of Earth's ozone layer.
Aurora taken from the International Space Station ISS - Photo: NASA
These holes are up to 400 km wide, located in the middle layer of the atmosphere and fortunately they do not last forever. At the holes, ozone almost completely disappeared in about 1 hour and a half, then recovered.
Although it heals itself much faster than the stratospheric ozone hole - caused by humans - its impact is enough to affect the Earth in other ways.
Without the protective layer, harmful radiation from the Sun will have the opportunity to go deeper below, possibly causing problems with electricity and telecommunications infrastructure. Previously, charged particles in these space cannons on the way to "land" in the atmosphere could also negatively affect astronauts and satellites on duty in higher areas.
According to the authors, the plasma cannons punctured the sky in a way that sent charged particles into magnetic field lines in the Earth's magnetosphere. Nitrogen oxides and hydrogen oxides released by particle interactions with the atmosphere have depleted the ozone layer.
This discovery will help scientists have more basis to predict fluctuations in space weather, which is very important in many modern technological activities, especially the telecommunications and aerospace industry.
The research was just published in a scientific journal
Scientific Reports.
Heroine
|
Ngày 20-21/10 tại Geneva đã diễn ra Phiên thảo luận cấp cao với chủ đề “Đưa nền kinh tế trở lại đúng quỹ đạo và giải quyết các thách thức cấp bách toàn cầu”.
Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai, Trưởng Phái đoàn đại diện Việt Nam bên cạnh LHQ, Tổ chức Thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva phát biểu tại Phiên họp ngày 21/10. Ảnh: TTXVN phát
Ngày 20-21/10 tại Geneva đã diễn ra Phiên thảo luận cấp cao với chủ đề “Đưa nền kinh tế trở lại đúng quỹ đạo và giải quyết các thách thức cấp bách toàn cầu”, trong khuôn khổ Khóa họp cấp cao lần thứ 72 của Ủy ban Thương mại và Phát triển của Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD).
Tham dự Phiên họp có Tổng thư ký UNCTAD bà Rebeca Grynspan, bà Mia Mottley Thủ tướng của Barbados – nước Chủ tịch UNCTAD, Phó Tổng thư ký LHQ bà Amina Mohammed và Phó Thủ tướng thứ nhất kiêm Bộ trưởng Tài chính Hà Lan bà Sigrid Kaag cùng đông đảo Đại sứ-Trưởng Phái đoàn và cán bộ ngoại giao các nước tại Geneva.
Về phía Việt Nam, Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai, Trưởng Phái đoàn đại diện Việt Nam tại Geneva và cán bộ của Phái đoàn đã tham dự Phiên họp và chia sẻ tầm nhìn của Việt Nam trong việc chung tay cùng thế giới ứng phó các thách thức toàn cầu.
Các nhà lãnh đạo và đại diện các nước tham dự Phiên họp nhấn mạnh, thế giới đang phải đối mặt với môi trường vô cùng phức tạp và đầy thách thức, trong đó các nước đang phát triển gặp phải những thách thức lớn hơn, không gian tài khóa bị thu hẹp, giá lương thực và năng lượng tăng cao và tình trạng nợ nần chồng chất. Đồng thời, những căng thẳng địa chính trị quốc tế gần đây đã gây sức ép lên hệ thống đa phương vốn đã có nhiều rạn nứt.
Các phát biểu đã chia sẻ lạc quan về hệ thống đa phương. Tổng thư ký UNCTAD Rebeca Grynspan cho rằng bất chấp những thách thức mà chủ nghĩa đa phương đang phải đối mặt, vẫn có lý do để lạc quan, thể hiện qua hoạt động của Nhóm ứng phó với khủng hoảng toàn cầu do
Tổng thư ký LHQ
lập ra.
Các phát biểu nhấn mạnh, việc giải quyết hàng loạt cuộc khủng hoảng hiện nay mà thế giới đang đối mặt và đưa nền kinh tế toàn cầu đi đúng hướng đòi hỏi phải có ý chí và hành động chính trị lớn hơn. Các giải pháp và khuyến nghị được đưa ra tại Phiên họp chú trọng vào: (i) mở rộng không gian tài khóa của các nước đang phát triển; (ii) cải cách hệ thống tài chính toàn cầu; và (iii) hồi sinh hệ thống đa phương.
Phó Tổng thư ký LHQ Amina Mohammed kêu gọi tăng tính thanh khoản cho các nước đang phát triển nhằm giúp họ đối phó với tình trạng lạm phát, nợ công và biến đổi khí hậu ví dụ như đề xuất phân bổ mới cũng như tái cấu trúc các quyền rút vốn đặc biệt (SDR, trong khuôn khổ Quỹ Tiền tệ quốc tế – IMF), thiết lập một cơ chế đình chỉ dịch vụ nợ mới với sự tham gia của các nước có thu nhập trung bình cũng như đầu tư nhiều hơn để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững. Bên cạnh đó, cần có thêm nguồn quỹ để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và Hội nghị COP27 sắp tới cần tập trung vào vấn đề tăng nguồn tài chính nhằm giúp các nước đang phát triển ứng phó với BĐKH.
Thủ tướng Barbados, bà Mia Mottley, cho rằng, các thiết chế tài chính toàn cầu cần được cải tổ để giải phóng hàng nghìn tỷ USD cho các nước đang phát triển cần thanh khoản nhiều hơn. Trong khi đó, Phó Thủ tướng thứ nhất kiêm Bộ trưởng Bộ Tài chính Hà Lan bà Sigrid Kaag nhấn mạnh, hệ thống đa phương cần được củng cố và hỗ trợ cho việc giải quyết những thách thức toàn cầu đang gia tăng.
Đa phần ý kiến phát biểu của các nước cũng cho rằng việc tăng cường tình đoàn kết quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương, thúc đẩy hợp tác Bắc-Nam, hợp tác Nam-Nam và hợp tác ba bên là chìa khóa để xây dựng tính tự cường của các nước và củng cố hệ thống đa phương nhằm ứng phó trước những thách thức đan xen hiện nay.
Đại diện Việt Nam phát biểu tại Phiên họp, Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai chia sẻ, Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ vai trò trung tâm của LHQ, bao gồm UNCTAD, trong quản trị toàn cầu nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu chung; đánh giá cao và ủng hộ việc thực hiện các tầm nhìn và lộ trình được nêu trong Thỏa ước Bridgetown, được các thành viên UNCTAD thông qua tại Hội nghị UNCTAD-15 tháng 10/2021, nhằm giúp các quốc gia vượt qua bất bình đẳng và tình trạng dễ bị tổn thương, hướng tới phục hồi toàn diện và bền vững sau đại dịch COVID-19, đồng thời chuyển đổi mô hình phát triển quốc gia và hợp tác quốc tế để mang lại thịnh vượng cho tất cả mọi người.
Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai cũng nhấn mạnh cần có những giải pháp và hành động phối hợp ở cả cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia để giải quyết các thách thức đan xen, tạo điều kiện cho tăng trưởng bao trùm và bền vững, trong đó người dân cần phải được đặt vào trung tâm của mọi chính sách và chiến lược phát triển.
Đại sứ nhấn mạnh, cần có sự hỗ trợ của các đối tác phát triển để có các giải pháp và hành động sáng tạo nhằm đảm bảo nguồn lực, tài chính, từ mọi nguồn để tăng cường hỗ trợ các nước thu nhập thấp, đặc biệt là các nước kém phát triển, trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu nhằm thúc đẩy thương mại và phát triển bền vững mang tính bao trùm.
Bên cạnh đó, Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai cũng chia sẻ thành công của Việt Nam trong kiểm soát đại dịch COVID-19 và thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, nhờ đó Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP khá trong giai đoạn 2020-2022 với tình hình kinh tế – xã hội ổn định, các cân đối kinh tế vĩ mô được đảm bảo, lạm phát được kiểm soát.
Việt Nam cũng đang thực hiện chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng kinh tế số, đổi mới sáng tạo, tăng trưởng xanh, bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và phúc lợi xã hội cho người dân.
Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai nhấn mạnh,
Việt Nam
tiếp tục đóng góp vào an ninh lương thực toàn cầu, duy trì thương mại mở trên cơ sở hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ với WTO làm trung tâm, đồng thời thúc đẩy nông nghiệp bền vững.
Là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, Việt Nam tiếp tục tham gia các sáng kiến và cam kết thích ứng với biến đổi khí hậu như mục tiêu trung hòa carbon (net zero) vào năm 2050 và mong tiếp tục nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan Liên hợp quốc và các đối tác khác trong thúc đẩy tài chính xanh và xây dựng Quan hệ Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP)./.
Tố Uyên – Xuân Hoàng (P/v TTXVN tại Geneva)
|
On October 20-21 in Geneva, a high-level discussion session took place with the theme "Getting the economy back on track and solving urgent global challenges".
Ambassador Le Thi Tuyet Mai, Head of the Vietnamese Delegation to the UN, World Trade Organization and other international organizations in Geneva, spoke at the meeting on October 21. Photo: Broadcast by VNA
On October 20-21 in Geneva, a high-level discussion session with the theme "Getting the economy back on track and solving urgent global challenges" took place within the framework of the 5th High-Level Meeting. 72 of the Trade and Development Committee of the United Nations Conference on Trade and Development (UNCTAD).
Attending the meeting were UNCTAD Secretary General Ms. Rebeca Grynspan, Ms. Mia Mottley Prime Minister of Barbados - UNCTAD's President country, UN Deputy Secretary General Ms. Amina Mohammed and First Deputy Prime Minister and Minister of Finance of the Netherlands Ms. Sigrid Kaag along with a large number of Ambassadors, Heads of Missions and diplomatic officials from other countries in Geneva.
On the Vietnamese side, Ambassador Le Thi Tuyet Mai, Head of the Vietnamese Delegation in Geneva and officials of the Delegation attended the meeting and shared Vietnam's vision in joining hands with the world to respond to the pandemic. global challenge.
Leaders and representatives of countries attending the meeting emphasized that the world is facing an extremely complex and challenging environment, in which developing countries face greater challenges, not The fiscal space is shrinking, food and energy prices are rising and debt is mounting. At the same time, recent international geopolitical tensions have put pressure on the already fractured multilateral system.
The statements shared optimism about the multilateral system. UNCTAD Secretary General Rebeca Grynspan said that despite the challenges facing multilateralism, there is still reason to be optimistic, demonstrated through the activities of the Global Crisis Response Group led by
Secretary General of the United Nations
create.
The statements emphasized that solving the current series of crises facing the world and putting the global economy on the right track requires greater political will and action. Solutions and recommendations presented at the Meeting focused on: (i) expanding the fiscal space of developing countries; (ii) reform of the global financial system; and (iii) revitalize the multilateral system.
UN Deputy Secretary-General Amina Mohammed called for increased liquidity for developing countries to help them cope with inflation, public debt and climate change, for example by proposing new allocations and restructuring. special drawing rights (SDR, within the framework of the International Monetary Fund – IMF), establishing a new debt service suspension mechanism with the participation of middle-income countries as well as greater investment to achieve the Sustainable Development Goals. In addition, more funds are needed to address climate change and the upcoming COP27 Conference needs to focus on increasing financial resources to help developing countries cope with climate change.
Barbados Prime Minister Mia Mottley said that global financial institutions need to be reformed to free up trillions of dollars for developing countries that need more liquidity. Meanwhile, First Deputy Prime Minister and Minister of Finance of the Netherlands Ms. Sigrid Kaag emphasized that the multilateral system needs to be strengthened and supported to solve growing global challenges.
Most of the opinions expressed by countries also said that strengthening international solidarity, promoting multilateralism, promoting North-South cooperation, South-South cooperation and trilateral cooperation is the key to building the resilience of countries and strengthening the multilateral system to respond to today's intertwined challenges.
Representative of Vietnam speaking at the Meeting, Ambassador Le Thi Tuyet Mai shared that Vietnam strongly supports the central role of the UN, including UNCTAD, in global governance to solve common global challenges. ; appreciate and support the implementation of the visions and roadmaps outlined in the Bridgetown Agreement, adopted by UNCTAD members at the UNCTAD-15 Conference in October 2021, to help countries overcome inequality and vulnerability, towards an inclusive and sustainable recovery from the COVID-19 pandemic, and transforming national development models and international cooperation to deliver prosperity for all.
Ambassador Le Thi Tuyet Mai also emphasized the need for coordinated solutions and actions at both the international, regional and national levels to address intertwined challenges, creating conditions for inclusive and sustainable growth. sustainability, in which people need to be placed at the center of all development policies and strategies.
The Ambassador emphasized that it is necessary to have the support of development partners to have creative solutions and actions to ensure resources, finance, from all sources to increase support for low-income countries, especially especially underdeveloped countries, in solving global problems to promote trade and inclusive sustainable development.
In addition, Ambassador Le Thi Tuyet Mai also shared Vietnam's success in controlling the COVID-19 pandemic and implementing the Socio-Economic Recovery and Development Program, thanks to which Vietnam has maintained GDP growth rate is quite good in the period 2020-2022 with a stable socio-economic situation, guaranteed macroeconomic balances, and controlled inflation.
Vietnam is also transforming its economic model towards a digital economy, innovation, green growth, sustainability, harmony between economic development, environmental protection and social welfare for the people. .
Ambassador Le Thi Tuyet Mai emphasized,
Vietnam
continue to contribute to global food security, maintain open trade on the basis of a rules-based multilateral trading system with the WTO at its core, and promote sustainable agriculture.
As one of the countries most vulnerable to the negative impacts of climate change, Vietnam continues to participate in climate change adaptation initiatives and commitments such as the carbon neutral goal (net zero) by 2050 and look forward to continuing to receive active support from United Nations agencies and other partners in promoting green finance and building the Just Energy Transition Partnership (JETP). ./.
To Uyen – Xuan Hoang (Reporting to VNA in Geneva)
|
Trong văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer, chiếc ghe ngo giữ vai trò, vị trí quan trọng, là tài sản quý giá và thiêng liêng, là bộ mặt của một ngôi chùa và bổn sóc. Vì vậy mỗi khi đến lễ hội, sư sãi, ban quản trị chùa và bà con phật tử rất hào hứng tham gia.
Ngày 7-8/11 tới đây sẽ diễn ra giải Đua ghe ngo truyền thống nằm trong khuôn khổ Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào Khmer Nam bộ lần thứ VIII và Lễ hội Oóc Om Bóc – Đua ghe Ngo Sóc Trăng lần thứ V, khu vực ĐBSCL, năm 2022. Những ngày này, các chùa đang khẩn trương sửa chữa, sơn phết, đóng mới chiếc ngo và tập hợp thanh niên trai tráng trong bổn sóc tập luyện chuẩn bị cho giải, làm không khí tại các chùa thêm rộn ràng, vui tươi và náo nhiệt.
Đua ghe Ngo là một trong những lễ hội lớn của đồng bào Khmer.
Có mặt tại chùa Tum Núp, xã An Ninh,
huyện Châu Thành
, không khí của buổi tập chuẩn bị cho giải đua ghe ngo năm nay thật đặc biệt và chu đáo. Tum Núp là ngôi chùa có đội ghe giành hạng nhất đối với ghe ngo nam và giải nhì đối với ghe ngo nữ vào năm 2020. Rất đông đảo phật tử, từ người già đến trẻ em tề tựu về ngôi chùa để xem vận động viên tập luyện. Còn các vận động viên cũng thể hiện rõ sự phấn khởi, quyết tâm tiếp tục giành thứ hạng cao ở mùa giải năm nay.
Trong văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer, chiếc ghe ngo giữ vai trò, vị trí quan trọng, là tài sản quý giá và thiêng liêng, là bộ mặt của một ngôi chùa và bổn sóc. Vì vậy mỗi khi đến lễ hội, sư sãi, ban quản trị chùa và bà con phật tử rất hào hứng tham gia.
Ghe Ngo của đồng bào Khmer.
Đại đức Lâm Hiệp, trụ trì chùa Tum Núp cho biết, năm nay, chùa Tum Núp có 3 ghe Ngo tham gia giải đua, với 2 ghe Ngo nam và 1 ghe ngo nữ: “Năm 2022, giải đua ghe ngo tiếp tục được tổ chức sau một năm tạm nghỉ vì dịch Covid-19. Vận động viên, rồi Ban tổ chức, Ban quản trị chùa có sự chuẩn bị, tổ chức tốt để tham gia giải đua sắp tới, giải đua ghe ngo truyền thống của đồng bào Khmer, mang tầm khu vực
ĐBSCL
, cũng như là muốn trình diễn, quảng bá văn hóa của đồng bào Khmer đến du khách đến với lễ hội”.
Ghe ngo của đồng bào Khmer có chiều dài khoảng 30m và có từ 55-60 tay bơi. Mũi và lái của ghe ngo đều cong, trên chiếc ghe ngo được trang trí hoa văn rất sặc sỡ. Năm nay, giải đua ghe Ngo càng quy mô và ý nghĩa hơn khi Lễ hội Oóc Om Bóc – Đua ghe ngo Sóc Trăng lần thứ V, khu vực ĐBSCL diễn ra song song với Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào Khmer Nam bộ lần thứ VIII tổ chức tại
Sóc Trăng
. Đến thời điểm này đã có 56 đội ghe ngo của Sóc Trăng và các tỉnh trong khu vực ĐBSCL đăng ký tham gia tranh tài.
Không khí tập luyện bơi đua ghe Ngo thật náo nhiệt.
Đến các chùa Khmer những ngày này, nhất là lúc chiều tối, sẽ dễ bắt gặp những tiếng còi, tiếng cổ vũ, cùng nhịp bơi đều đặn kéo nước cuồn cuộn của các vận động viên tập bơi đua. Đồng bào Khmer chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp. Sau một ngày lao động, chiều về, bà con tạm gác lại chuyện đồng án, gia đình để cùng tụ tập về chùa tập bơi ghe ngo.
Ông Lý Dách, Trưởng Ban Quản trị chùa Bưng Tróp (Kom Pong Tróp), xã An Hiệp, huyện Châu Thành cho biết, để tham gia lễ hội, ghe Ngo của chùa đã được sửa chữa và lên hoa văn từ rất sớm. Mỗi buổi chiều có khoảng 100 người gồm có cả đồng bào Kinh, Hoa của 7 ấp trong xã đến tham gia tập luyện; trong đó, nhiều nhất là phật tử 2 ấp Bưng Tróp A và Bưng Tróp B.
Ông Lý Dách nói: “Năm vừa rồi dịch bệnh bùng phát nên lễ hội không được tổ chức. Năm nay được tổ chức lại tôi thấy tinh thần của bàn con và anh em vận động viên thấy nôn nao hơn hằng năm rất là nhiều. Năm nay đội ghe Bưng Trop có sự tổ chức, chuẩn bị chu đáo hơn. Chúng tôi sửa chửa lại ghe cũng sớm, rồi tập luyện cũng sớm hơn hằng năm, tinh thần cao hơn hằng năm”.
Vận động viên ghe Ngo nam và nữ chùa Tum Núp (xã An Ninh, Châu Thành) đang tập luyện tham gia lễ hội.
Đua ghe ngo là lễ hội truyền thống, mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc của bà con Khmer. Trước giải đua ghe ngo, các chùa phải chuẩn bị cách đó cả tháng để tuyển chọn các tay bơi khỏe mạnh, dẻo dai tập dợt. Tiếng còi, tiếng nhịp dầm tập bơi ghe ngo của vận động viên, tiếng reo hò cổ vũ của người dân trong phum sóc xen lẫn tiếng nhạc ngũ âm, bài hát về ghe ngo làm không khí ở các chùa thật rộn ràng, náo nhiệt như báo hiệu một mùa lễ hội Oóc om bóc – đua ghe Ngo nữa lại sắp đến./.
|
In the traditional culture of the Khmer people, the boat plays an important role and position, is a valuable and sacred property, and is the face of a temple and temple. Therefore, every time the festival comes, monks, pagoda management boards and Buddhists are very excited to participate.
On November 7-8, the traditional Ngo boat racing tournament will take place within the framework of the 8th Southern Khmer Culture, Sports and Tourism Festival and the Ooc Om Boc Festival - Ngo Soc Boat Racing The 5th moon, the Mekong Delta region, 2022. These days, pagodas are urgently repairing, painting, building new temples and gathering young men and women to practice and prepare for the tournament. The atmosphere at the temples is more bustling, joyful and bustling.
Ngo boat racing is one of the major festivals of the Khmer people.
Present at Tum Nup pagoda, An Ninh commune,
Chau Thanh district
, the atmosphere of the training session to prepare for this year's boat racing tournament was very special and thoughtful. Tum Nup is the pagoda whose boat team won first place for men's boats and second prize for women's boats in 2020. A large number of Buddhists, from the elderly to children, gathered at the temple to watch the athletes. practice. The athletes also clearly expressed their excitement and determination to continue to win high rankings this season.
In the traditional culture of the Khmer people, the boat plays an important role and position, is a valuable and sacred property, and is the face of a temple and temple. Therefore, every time the festival comes, monks, pagoda management boards and Buddhists are very excited to participate.
Ngo boat of Khmer people.
Venerable Lam Hiep, abbot of Tum Nup Pagoda, said that this year, Tum Nup Pagoda has 3 Ngo boats participating in the race, with 2 male Ngo boats and 1 female Ngo boat race: "In 2022, the Ngo boat race will continue held after a year off due to the Covid-19 epidemic. Athletes, the Organizing Committee, and the Pagoda Management Board are well prepared and organized to participate in the upcoming race, the traditional boat racing of the Khmer people, at a regional level.
Mekong Delta
, as well as wanting to perform and promote the culture of the Khmer people to visitors to the festival."
The Khmer boat is about 30m long and has 55-60 swimmers. The bow and steering wheel of the ngo boat are both curved, and the boat is decorated with very colorful patterns. This year, the Ngo boat racing tournament is even larger and more meaningful when the 5th Ooc Om Boc Festival - Soc Trang Ngo Boat Racing, Mekong Delta region takes place in parallel with the Culture, Sports and Tourism Festival of the compatriots. The 8th Khmer Southern Region was held at
Soc Trang
. Up to this point, there have been 56 boat teams from Soc Trang and other provinces in the Mekong Delta region registered to participate in the competition.
The atmosphere of Ngo boat racing and swimming practice is very exciting.
Going to Khmer pagodas these days, especially in the evening, it is easy to see whistles, cheers, and the steady swimming rhythm of athletes practicing racing. Khmer people mainly make a living from agriculture. After a day of work, in the afternoon, people temporarily put aside farm work and family matters to gather at the temple to practice boat swimming.
Mr. Ly Dach, Head of the Management Board of Bung Trop Pagoda (Kom Pong Trop), An Hiep Commune, Chau Thanh District, said that to participate in the festival, the pagoda's Ngo boat was repaired and decorated very early. Every afternoon, about 100 people, including Kinh and Chinese people from 7 hamlets in the commune, come to practice; Among them, the most Buddhists are in the two hamlets of Bung Trop A and Bung Trop B.
Mr. Ly Dach said: "Last year, the epidemic broke out so the festival was not held. This year, when it was reorganized, I saw that the spirit of the children and the athletes was much more excited than every year. This year, the Bung Trop boat team is more organized and prepared. We repair the boat early, practice earlier every year, and our spirit is higher every year."
Male and female Ngo boat athletes at Tum Nup pagoda (An Ninh commune, Chau Thanh) are practicing to participate in the festival.
Boat racing is a traditional festival, imbued with the national cultural identity of the Khmer people. Before the boat race, pagodas have to prepare for a whole month to select healthy, flexible swimmers for practice. The sound of the whistle, the sound of athletes practicing swimming on boats, the cheers and cheers of people in Phum Soc mixed with five-syllable music and songs about boats make the atmosphere at the pagodas bustling and bustling. as if signaling another season of Ooc om boch festival - Ngo boat racing is coming soon./.
|
Kim sách ghi chép việc vua Gia Long lên ngôi hoàng đế hiện được trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Kim sách niên hiệu Gia Long thứ 5 (1806) trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Ảnh: Ý Yên
Kim sách bằng vàng Niên hiệu Gia Long thứ 5 (1806), với nội dung ghi lại việc lên ngôi hoàng đế của vua Gia Long. Đây là một trong bốn quyển sách vàng được đặc biệt quan tâm trong hòm rương 26 bản sách vàng của triều đình.
Ngày 28.6.1806, sau hai lần từ chối ngôi vương, do quần thần văn võ trong kinh thành và các trấn, thành khẩn khoản, Nguyễn Ánh cuối cùng lên ngôi xưng Hoàng đế An Nam, Hoàng đế Việt Nam.
Tờ biểu của các bề tôi dâng lên khẩn khoản xin vua Gia Long đăng quang là nội dung chính của quyển sách vàng được bảo tồn trong kho báu ở kinh thành Huế. Bản sách vàng này gồm 10 tấm vàng, cố định bằng các khoen tròn vàng.
Tên của sách là: Sách vàng nhân dịp lễ lên ngôi của Hoàng đế Gia Long. Trong sách ghi những lời thỉnh cầu của quần thần dâng lên vua. Mở đầu là một đoạn văn thể hiện sự khát khao tôn vua Gia Long lên ngôi, tiếp đó nhắc lại sự vinh quang của vương quốc An Nam.
“
Đất nước của chúng ta rộng lớn và nằm ở vùng thuận lợi xuống phương Nam. Các đấng tiên vương đã lập ra một giang sơn rộng lớn, tích luỹ được những công đức lớn lao xứng đáng với mệnh trời. Các quân vương kế vị đã tiếp tục nối được truyền thống tốt đẹp này nên đã thu được nhiều thành quả vẻ vang
”.
Cuốn sách tiếp tục kể lại những công lao của vua Gia Long, giành chiến thắng trong các cuộc chiến, thu phục thần dân để khôi phục và lập quốc. Nhiều lần, các quần thần đã khẩn khoản được tổ chức lễ lên ngôi, nhưng mỗi lần đó, vua Gia Long đều từ chối.
“
Chúng thần xin kính cẩn dâng tờ tấu biểu này và xin kính mong Thánh thượng chấp nhận tôn hiệu Hoàng đế để thể hiện cương vị nắm giữ vận mệnh của đất nước và nhận sự vinh quang với ngôi vị Hoàng đế
”.
Sự kiện Gia Long lên ngôi Hoàng đế được ghi chép trong cuốn
Đại Nam thực lục.
“
Bính Dần, Gia Long năm thứ 5 (1806), mùa hạ, tháng 5, ngày Kỉ Mùi, vua lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái Hòa
”.
Kim sách hiện được trưng bày cùng Kim bảo Quốc gia tín bảo. Ảnh: Ý Yên
Hiện du khách có thể chiêm ngưỡng kim sách tại khu trưng bày thường xuyên các bảo vật hoàng cung triều Nguyễn ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở số 1 Tràng Tiền. Vé vào cửa 40.000 đồng/lượt với người lớn, 20.000 đồng/lượt với sinh viên, 10.000 đồng/lượt với học sinh.
Ý YÊN
|
The book recording King Gia Long's accession to the throne is currently on display in the National History Museum.
Golden book of Gia Long's 5th year (1806) in the National History Museum. Photo: Y Yen
Golden book of Gia Long's 5th year (1806), with content recording King Gia Long's accession to the throne. This is one of four golden books of special interest in the royal chest of 26 golden books.
On June 28, 1806, after refusing the throne twice, at the request of civil and military officials in the capital and towns, Nguyen Anh finally ascended the throne and proclaimed himself Emperor of An Nam, Emperor of Vietnam.
The petition submitted by the servants imploring King Gia Long to be crowned is the main content of the golden book preserved in the treasury in Hue citadel. This golden book includes 10 gold plates, fixed with gold rings.
The name of the book is: Golden Book on the occasion of Emperor Gia Long's enthronement ceremony. The book records the requests of the courtiers to the king. The beginning is a passage expressing the desire to crown King Gia Long, then recalling the glory of the An Nam kingdom.
“
Our country is large and located in a favorable area to the South. The ancestors established a vast country and accumulated great merits worthy of the destiny of heaven. Successive monarchs have continued this fine tradition and have achieved many glorious results
”.
The book continues to recount the merits of King Gia Long, winning wars and winning over his subjects to restore and establish the country. Many times, the courtiers begged to hold an enthronement ceremony, but each time, King Gia Long refused.
“
We respectfully present this petition and respectfully hope that His Majesty accepts the title of Emperor to demonstrate his position in charge of the country's destiny and receive the glory of the Emperor.
”.
The event of Gia Long ascending the throne as Emperor is recorded in the book
Dai Nam Thuc Luc.
“
Binh Dan, Gia Long in the 5th year (1806), summer, May, Ky Mui day, the king was crowned Emperor at Thai Hoa Palace
”.
The Golden Book is currently on display with the National Golden Treasure. Photo: Y Yen
Currently, visitors can admire golden books at the permanent display of royal treasures of the Nguyen Dynasty at the National Museum of History at Không. 1 Trang Tien. Entrance ticket is 40,000 VND/time for adults, 20,000 VND/time for students, 10,000 VND/time for students.
Y YEN
|
Ở đâu đó, đôi lúc con người cảm thấy bất an, thì ở đây là sự bình an, ấm áp. Cảm giác dường như sống giữa thiên nhiên khoáng đạt, được giao hòa với thiên nhiên…
Con người được thiên nhiên yêu thương
Ai từng sống ở khu đô thị Ecopark đều có chung cảm nhận: Ecopark là không gian xanh, không gian của thiên nhiên ngự trị, không gian đánh thức, khơi dậy ước mơ và đam mê, không gian của yên bình, của tình người ấm áp. Ecopark làm giàu đời sống tinh thần, tình cảm; làm giàu tâm hồn, xúc cảm của những con người sống ở đây.
Màu xanh đặc trưng tại Khu đô thị Ecopark
Đô thị Ecopark là một mảnh rừng, một vạt rừng xinh xắn. Con người sống trong sự bao bọc, chở che của thiên nhiên xanh tươi cỏ cây hoa lá. Cỏ cây là người bạn gần gũi, giao hoà, giao cảm với con người. Cỏ cây là những sinh thể lạ lùng, cũng buồn vui hỉ nộ ái ố…
Có một lần, khi mới chuyển đến sống ở Ecopark, tôi chậm rãi thả bộ trên một con đường nhỏ xa khuất, một bên là hồ nước, trước mặt và bên kia là xùm xoà cây cối. Bất chợt, tôi thấy một tấm biển chữ xanh nền trắng thật dễ thương: “Hãy yên lặng để thiên nhiên lên tiếng!”. Tôi dõi nhìn và lắng nghe. Trong không gian tĩnh lặng, lời của cây là mươn mướt xanh tươi, sum sê bóng mát. Lời của hoa là phảng phất hương thơm, đa dạng sắc màu. Lời của gió là xào xạc lá rơi, rì rào sóng vỗ mặt hồ, thấp thoáng cành cây, cành hoa rập rờn chao lượn. Đó đây còn là tiếng lích rích của mấy chú chim nhỏ chuyền cành… Đó là nhịp thở, nhịp sống, là bước đi của thiên nhiên gần gũi quanh ta. Con người hãy lắng nghe, thấu cảm, nâng niu, trân trọng.
Con người sống gần gũi với thiên nhiên
“Xanh, sạch, đẹp”… không phải là sáo ngữ
Xanh tươi rời rợi, mướt mát là đặc trưng của đô thị Ecopark. Hình ảnh biểu trưng, biểu tượng của Ecopark là một chiếc lá xanh cách điệu. Ở đây, mọi thứ đều được khoác lên mình một màu xanh mát mắt: những ngả đường, những con phố, ngôi nhà, quán cà phê… Ngay cả những chiếc xe buýt ngày ngày toả về các ngả đường, kết nối Ecopark với trung tâm Hà Nội… cũng phủ lên mình lớp sơn màu xanh lá cây dịu nhẹ.
Không chỉ xanh mà còn sạch. Ai từng đến Ecopark đều nhận thấy điều này. Ở đây, những con đường, phố xá đều sạch sẽ. Người ta phun nước cọ rửa thường xuyên không chỉ con đường lớn mà cả những con đường nhỏ. Trên những ngả đường nội khu, lúc nào cũng thấy thấp thoáng những chị lao công miệt mài quét từng cọng rác, nhặt từng chiếc lá… Lòng đường, vỉa hè luôn thanh sạch, êm mát, nhẹ nhàng nâng những bước chân.
“Những đời thường cũng có bóng hoa che”…
Khu Rừng Cọ, Ecopark nơi tôi ở là một nơi đầy ắp thiên nhiên. Sáng sớm hoặc chiều muộn, tôi thường thả bộ trên những con đường nhỏ ở đây. Xung quanh là những thân cọ già Malaysia đứng trầm ngâm tạo dáng. Trên đầu loà xoà những cành cây bồ đề cổ thụ rợp bóng mát. Trên mặt đất, người ta trồng loài cây sống trong bóng râm, cao chừng gang tay, lá xanh mướt, tạo thành một tấm thảm xanh chạy dọc lối đi. Thả bộ trên con đường ấy, thiên nhiên dịu dàng nâng đỡ những bước chân. Đắm mình giữa thiên nhiên thân thân thiện, con người cảm thấy được trân trọng, nâng niu.
Đi ra công viên, thấy dọc lối đi có một cây cầu nhỏ cong cong bằng gỗ. Để người qua cầu khỏi trượt ngã, người ta dán những tấm cao su mỏng vào vị trí lên và xuống. Cách cây cầu không xa là tấm biển chỉ dẫn chữ xanh nền trắng: “WC – bên phải, 130 mét”. Chỉ phương hướng, còn chu đáo chỉ khoảng cách cụ thể, để người qua lại dễ hình dung vị trí cần tìm. Những việc nhỏ thôi, nhưng tỉ mỉ, chu tất, vì con người.
Cuộc sống an yên, con người thân thiện
Ngồi cà phê ở quán Highlands Coffee, thấy mấy chú sóc nhỏ xíu đang vô tư nhảy nhót, chuyền cành trên những thân cọ già, tàu cọ xoà ra bốn phía. Hỏi ra mới biết, khởi thuỷ, những con sóc giống được người ta mua về thả lên những vòm cọ. Bầy sóc tự kiếm ăn và sinh sôi nảy nở. Lâu ngày, những chú sóc này trở thành một phần của thiên nhiên nơi đây, một phần của cuộc sống yên bình ở Ecopark.
Đến hồ Thiên Nga, cảnh tượng thường thấy là gia đình thiên nga mẹ con dập dềnh trên sóng nước mặt hồ. Cũng có khi là thiên nga mẹ dẫn đàn con lạch bạch, líu ríu rong chơi trên mặt cỏ ven hồ. Mấy cháu bé đi chơi cùng bố mẹ thích thú nhìn đàn thiên nga dạo bộ, tay vẫy vẫy tung những mẩu bánh mì, miệng reo hò rối rít…
Câu lạc bộ đọc sách ở Ecopark
Đi trên các con phố ở khu Thuỷ Nguyên, Ecopark, cũng xe máy vỉa hè, hàng quán đông đúc, xe cộ ngược xuôi, kẻ qua người lại dập dìu…, nhưng chưa bao giờ thấy một cuộc xô xát, cãi cọ, to tiếng nặng lời. Cũng ít thấy những gương mặt dửng dưng lạnh lùng vô cảm… Chỉ thấy những nụ cười thân thiện, vui vẻ giữa những con người ở đây. Ở đâu đó, đôi lúc con người cảm thấy bất an, thì ở đây là sự bình an, ấm áp.
Cũng lạ, cũng vẫn những con người đó, nhưng khi tụ cư về mảnh đất này, dường như sống giữa thiên nhiên khoáng đạt, được giao hoà với thiên nhiên…, con người cũng thảnh thơi, thư thái, cởi mở, độ lượng hơn. Cách quản lí đô thị cũng góp phần tạo nên một môi trường xã hội có sắc màu văn hoá, văn minh. Một cuộc sống an yên, an toàn… là những gì mà các cư dân Ecopark đều cảm nhận rõ rệt.
Những người mà cư dân Ecopark tiếp xúc nhiều nhất là các anh chị làm công việc bảo vệ, an ninh, lễ tân toà nhà,… Thật thú vị, những người này đều rất thân thiện, cởi mở, gương mặt luôn rạng rỡ và thường trực một nụ cười. Một cách tự nhiên, chân tình, mộc mạc, gần gũi.
Cộng đồng cư dân ở Ecopark chủ yếu gồm lớp người có tuổi, hưu trí và lớp người trẻ. Các cụ hưu lựa chọn một khu đô thị với không gian xanh tươi, mát mẻ, trong lành… như một nơi nghỉ dưỡng lí tưởng. Còn tuổi trẻ tìm thấy ở đây một mô hình đô thị sinh thái văn minh hiện đại độc đáo, lại ở liền kề trung tâm
Hà Nội
. Các cư dân Ecopark gặp gỡ nhau ở cách nhìn, ở các tiêu chí lựa chọn một nơi mà họ cho là đáng sống, có thể yên tâm an cư lâu dài.
Hữu Tỉnh
|
Somewhere, sometimes people feel insecure, here is peace and warmth. It feels like living in the open nature, being in harmony with nature...
Humans are loved by nature
Anyone who has lived in the Ecopark urban area has the same feeling: Ecopark is a green space, a space where nature reigns, a space that awakens, arouses dreams and passions, a space of peace and human love. warm. Ecopark enriches spiritual and emotional life; enrich the souls and emotions of the people living here.
Typical green color at Ecopark Urban Area
Ecopark urban area is a piece of forest, a lovely patch of forest. People live in the embrace and protection of green nature, plants, flowers and trees. Plants and trees are close, harmonious and sympathetic friends with humans. Plants and trees are strange creatures, both sad, happy, angry, and sad...
One time, when I first moved to Ecopark, I slowly walked on a small, hidden road, with a lake on one side, in front of me and on the other side were trees. Suddenly, I saw a cute sign with blue letters on a white background: "Be quiet and let nature speak!". I watched and listened. In a quiet space, the word of a tree is lush green, lush and shady. The words of flowers are fragrant and diverse in color. The words of the wind are the rustling of falling leaves, the murmur of waves crashing on the surface of the lake, the flickering of tree branches, the swaying of flower branches. Here and there are also the chirping sounds of small birds moving around the branches... These are the rhythm of breathing, the rhythm of life, the steps of the close nature around us. People should listen, understand, cherish and respect.
People live close to nature
“Green, clean, beautiful”… is not a cliché
Lush green and cool is the characteristic of Ecopark urban area. The iconic image and symbol of Ecopark is a stylized green leaf. Here, everything is dressed in a cool green color: roads, streets, houses, cafes... Even the buses radiate to the streets every day, connecting Ecopark with the center. The heart of Hanoi... is also covered with a layer of gentle green paint.
Not only green but also clean. Anyone who has ever been to Ecopark has noticed this. Here, the roads and streets are clean. People spray water regularly to clean not only big roads but also small roads. On the inner roads of the area, we can always see the janitors diligently sweeping every piece of trash, picking up every leaf... The roads and sidewalks are always clean, cool, and gently lift the footsteps.
“Ordinary lives are also covered by flowers”…
The Palm Forest, Ecopark where I live is a place full of nature. Early in the morning or late afternoon, I often walk on the small roads here. Surrounded by old Malaysian palm trees standing and posing thoughtfully. Overhead are the shady branches of an ancient Bodhi tree. On the ground, people grow trees that live in the shade, about a hand high, with green leaves, creating a green carpet along the path. Walking on that path, nature gently supports your steps. Immersed in friendly nature, people feel appreciated and cherished.
Going to the park, along the path there is a small curved wooden bridge. To prevent people crossing the bridge from slipping and falling, people glued thin rubber sheets to the up and down positions. Not far from the bridge is a sign with blue letters on a white background: "WC - right, 130 meters". Show the direction, and thoughtfully point out the specific distance, so that passersby can easily visualize the location to look for. Small things, but meticulous, thoughtful, for people.
Peaceful life, friendly people
Sitting in a coffee shop at Highlands Coffee, I saw a few tiny squirrels carelessly jumping around, passing branches on old palm trunks, with palm trees spreading out in all four directions. When I asked about it, I found out that in the beginning, people bought squirrels and placed them on palm trees. Squirrels forage and reproduce on their own. Over time, these squirrels become part of the nature here, part of the peaceful life in Ecopark.
Coming to Swan Lake, a common sight is a mother and child swan family floating on the lake's water waves. Sometimes it's a mother swan leading her young to waddle and chatter on the grass along the lake. The children going out with their parents enjoyed watching the swans walking around, waving pieces of bread, shouting loudly...
Reading club at Ecopark
Walking on the streets of Thuy Nguyen and Ecopark, there are also motorbikes on the sidewalks, crowded shops, vehicles going up and down, people passing by..., but have never seen a scuffle, a big argument. harsh voice. We rarely see cold, indifferent faces... We only see friendly, happy smiles among the people here. Somewhere, sometimes people feel insecure, here is peace and warmth.
It's strange, it's the same people, but when they gather on this land, it seems like they live in the midst of open nature, in harmony with nature..., people are also carefree, relaxed, open, and generous. than. Urban management also contributes to creating a social environment with cultural and civilized colors. A peaceful, safe life... is what Ecopark residents clearly feel.
The people that Ecopark residents have the most contact with are the people who work as security guards, building receptionists, etc. Interestingly, these people are all very friendly, open, and their faces are always bright and cheerful. always have a smile. Natural, sincere, rustic, close.
The residential community in Ecopark mainly consists of elderly people, retirees and young people. Retirees choose an urban area with green, cool, fresh space... as an ideal vacation place. Young people find here a unique, modern, civilized ecological urban model, located right next to the center
Hanoi
. Ecopark residents meet each other in their outlook and criteria for choosing a place they consider worth living, where they can feel secure and settle down for a long time.
Huu Tinh
|
Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch (VH-TT-DL) đã có công văn đề nghị Bộ Ngoại giao chỉ đạo Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp kịp thời làm việc trực tiếp với hãng đấu giá Millon, nhanh chóng tìm hiểu và đề xuất phương án phù hợp nhất để hồi hương 2 cổ vật căn cứ kết quả làm việc với hãng đấu giá.
Cục Di sản văn hóa, Bộ VH-TT-DL cho biết website chính thức của hãng đấu giá Millon (thành lập năm 1928, có trụ sở chính tại Paris –
Cộng hòa Pháp
) có đăng tải thông tin sẽ đưa ra đấu giá 329 cổ vật. Trong số này có 2 cổ vật của nhà Nguyễn (1802-1945), gồm 1 ấn vàng đúc năm 1823 triều Minh Mạng (1820-1841) và 1 bát vàng triều Khải Định (1917-1925). Phiên đấu giá 2 cổ vật nêu trên dự kiến được tiến hành vào 11 giờ trưa ngày 31-10-2022 (giờ Paris). Nhà đấu giá Millon của Pháp chào bán ấn vàng của vua Minh Mạng với mức 2-3 triệu euro (48-72 tỉ đồng).
Theo thông tin đăng tải trên website của hãng đấu giá Millon và ý kiến của một số chuyên gia về cổ vật, chiếc ấn vàng (lô số 101/329) chính là chiếc kim ấn “Hoàng đế chi bảo” được vị hoàng đế cuối cùng của vương triều Nguyễn là Bảo Đại, trao cho đại diện của Việt Minh là ông Trần Huy Liệu cùng với thanh bảo kiếm của vua Khải Định vào chiều ngày 30-8-1945.
Ngay khi nắm được thông tin về việc đấu giá 2 cổ vật, Bộ VH-TT-DL đã có công văn gửi Bộ Ngoại giao. Công văn nêu rõ sau ngày toàn quốc kháng chiến (tháng 12-1946), hai cổ vật đã rơi vào tay người Pháp và đến ngày 8-3-1952, người Pháp tổ chức lễ trao lại ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại, rồi được đưa sang Pháp vào năm 1953.
Trước khi qua đời (năm 1997), cựu hoàng Bảo Đại đã di chúc để lại toàn bộ tài sản ở Pháp (trong đó có kim ấn “Hoàng đế chi bảo”) cho vợ là bà Monique Baudot, người Pháp. Bà Monique Baudot qua đời năm 2021, các tài sản trên thuộc về những người thừa kế và được mang ra bán đấu giá.
Bộ VH-TT-DL đề nghị Bộ Ngoại giao chỉ đạo Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp kịp thời làm việc trực tiếp với hãng đấu giá Millon để xác minh rõ thông tin liên quan đến việc đấu giá hai cổ vật nêu trên như thông báo của hãng (gồm các thông tin về chủ sở hữu, tính hợp pháp của 2 cổ vật, giá dự kiến bán, khả năng đàm phán mua trực tiếp không qua đấu giá…).
Bát vàng triều Khải Định. (Ảnh: MILLON)
Đề cập giải pháp nhằm hạn chế vấn nạn “chảy máu cổ vật”, Cục Di sản văn hóa cho biết Việt Nam đã tham gia Công ước UNESCO 1970 về chống buôn bán trái phép tài sản văn hóa từ năm 2005. Đặc biệt, từ khi Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 với hàng loạt các văn bản liên quan khác, việc quản lý di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia ở Việt Nam đã được thực hiện tốt, với sự tham gia của người dân và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan.
Với sự tham gia tích cực của
Việt Nam
trong việc thực thi các hướng dẫn của Công ước UNESCO 1970, một số nước đã điều tra và hoàn trả một số cổ vật có nguồn gốc Việt Nam. Quả chuông cổ của chùa Ngũ Hộ, Bắc Ninh đã được luật sư Watanabe cùng “Hội hoàn hương chuông cổ” vận chuyển bằng đường biển từ Nhật sang trao trả lại cho Việt Nam.
Năm 2018, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã tiếp nhận 18 hiện vật do Đại sứ quán Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức bàn giao. Các hiện vật chất liệu đá và đồng, là công cụ sản xuất và vũ khí của người xưa, được cơ quan phòng chống tội phạm cảnh sát Berlin thu giữ tại cửa hàng một thương nhân Việt Nam từ cuối năm 2016.
Mới đây, tháng 8-2022, Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã trao trả cho Việt Nam một số cổ vật chưa rõ niên đại nhưng được xác định có nguồn gốc từ Việt Nam. Những năm gần đây có một số cá nhân, tổ chức đã tham gia đấu giá cổ vật có nguồn gốc Việt Nam và hiến tặng cho các bảo tàng, di tích. Trong số này có thể kể đến xe kéo của Hoàng Thái hậu Từ Minh được đưa về Huế năm 2015, cổ vật mũ quan đại thần và áo Nhật Bình triều Nguyễn cũng đã được đưa về Huế năm 2022.
Yến Anh
|
The Ministry of Culture, Sports and Tourism (VH-TT-DL) has sent an official dispatch requesting the Ministry of Foreign Affairs to direct the Vietnamese Embassy in France to promptly work directly with Millon auction company to quickly find out more. and propose the most suitable plan to repatriate the two antiques based on the results of working with the auction company.
The Department of Cultural Heritage, Ministry of Culture, Sports and Tourism said the official website of Millon auction company (founded in 1928, headquartered in Paris -
French Republic
) has posted information that it will auction 329 antiques. Among these are 2 antiques of the Nguyen Dynasty (1802-1945), including 1 gold seal cast in 1823 during the Minh Mang Dynasty (1820-1841) and 1 golden bowl from the Khai Dinh Dynasty (1917-1925). The auction of the two above-mentioned antiques is expected to be conducted at 11:00 a.m. on October 31, 2022 (Paris time). French auction house Millon offered to sell King Minh Mang's golden seal for 2-3 million euros (48-72 billion VND).
According to information posted on the Millon auction company's website and the opinions of some antiquities experts, the golden seal (lot number 101/329) is the "Emperor's treasure" seal worn by the last emperor. The last emperor of the Nguyen dynasty, Bao Dai, gave it to the representative of the Viet Minh, Mr. Tran Huy Lieu, along with the precious sword of King Khai Dinh on the afternoon of August 30, 1945.
As soon as they received information about the auction of two antiques, the Ministry of Culture, Sports and Tourism sent an official dispatch to the Ministry of Foreign Affairs. The dispatch clearly stated that after the national day of resistance (December 1946), two antiques fell into the hands of the French and on March 8, 1952, the French held a ceremony to return the sword seal to former emperor Bao Dai. then was sent to France in 1953.
Before his death (in 1997), former Emperor Bao Dai willed all his assets in France (including the "Emperor Chi Bao" seal) to his wife, Monique Baudot, who is French. Mrs. Monique Baudot passed away in 2021, the above assets belonged to the heirs and were auctioned.
The Ministry of Culture, Sports and Tourism requested the Ministry of Foreign Affairs to direct the Vietnamese Embassy in France to promptly work directly with Millon auction company to clearly verify information related to the auction of the two above-mentioned antiques as announced. company's newspaper (including information about the owner, legality of the two antiques, expected selling price, ability to negotiate direct purchase without auction...).
Golden bowl of Khai Dinh dynasty. (Photo: MILLON)
Mentioning solutions to limit the problem of "draining of antiquities", the Department of Cultural Heritage said that Vietnam has joined the 1970 UNESCO Convention on combating illegal trade in cultural property since 2005. In particular, from When the 2001 Cultural Heritage Law was amended and supplemented in 2009 with a series of other related documents, the management of relics, antiquities and national treasures in Vietnam was well implemented, with the participation of people and relevant state management agencies.
With the active participation of
Vietnam
In implementing the guidelines of the 1970 UNESCO Convention, a number of countries have investigated and returned a number of antiquities of Vietnamese origin. The ancient bell of Ngu Ho Pagoda, Bac Ninh was transported by sea from Japan to Vietnam by lawyer Watanabe and the "Ancient Bell Return Association".
In 2018, the National Museum of History received 18 artifacts handed over by the Vietnamese Embassy in the Federal Republic of Germany. Stone and bronze artifacts, which are production tools and weapons of the ancients, were confiscated by the Berlin police crime prevention agency at a Vietnamese businessman's store since the end of 2016.
Recently, in August 2022, the US Federal Bureau of Investigation (FBI) returned to Vietnam a number of antiques of unknown date but determined to originate from Vietnam. In recent years, a number of individuals and organizations have participated in auctions of antiques of Vietnamese origin and donated them to museums and monuments. Among these are the rickshaw of Queen Mother Tu Minh, which was brought to Hue in 2015, and the antique mandarin's hat and Nhat Binh shirt of the Nguyen Dynasty were also brought to Hue in 2022.
Yen Anh
|
Trên hành trình vươn tầm thế giới, trở thành một thành phố đáng sống hàng đầu khu vực,
Đà Nẵng
cần tận dụng và khai thác tối đa lợi thế sông Hàn, bắt đầu từ việc chỉnh trang diện mạo và phát triển những khu đô thị đẳng cấp ven sông.
Dòng chảy thịnh vượng của đô thị
Khu vực phía Nam sông Hàn (Seoul) thập niên 1960 còn là vùng đất nông nghiệp trồng bắp cải và lê, rất ít người sinh sống. Từ những năm 1970, Thủ đô Hàn Quốc đã điều chỉnh quy hoạch theo hướng phát triển kinh tế – xã hội thân thiện với môi trường. Sông Hàn được cải tạo mạnh mẽ, trở thành báu vật của “xứ kim chi”. Đến nay, 40 km dọc đôi bờ sông Hàn có 12 công viên lớn gồm hồ nước, đảo chim, rừng cây cổ thụ, sở thú…
Khu vực quận Gangnam nằm phía Nam sông Hàn trở thành trung tâm mới, thu hút giới thượng lưu tại Seoul, Hàn Quốc.
Đặc biệt khu vực Gangnam phía Nam sông Hàn đã trở thành biểu tượng cho sự phát triển thần kỳ của
Hàn Quốc
, nơi sinh sống của giới thượng lưu với những dãy cao ốc, khu phố xa hoa, tráng lệ.
Một hình mẫu phát triển đô thị ven sông khác là TP Thượng Hải (Trung Quốc). Trong khi bờ Tây sông Hoàng Phố vốn là khu vực dân cư sinh sống lâu đời thì khu bờ Đông bên sông cách đây 30 năm vẫn còn là những ruộng lúa và nhà kho. Với tham vọng phát triển Thượng Hải thành “thủ đô tài chính” của châu Á, “phố Wall ở phương Đông”, chính quyền đã chi hơn 10 tỉ USD để xây dựng hạ tầng cơ sở, bao gồm hàng loạt cầu, đường, hầm kết nối khu trung tâm cổ kính với trung tâm tài chính mới ở Phố Đông, cũng như di dời 300.000 cư dân tới các tòa nhà tái định cư, tạo nên diện mạo đô thị lung linh 2 bên bờ sông Hoàng Phố như ngày nay.
Thượng Hải (Trung Quốc), Seoul (Hàn Quốc) hay Paris (Pháp), London (Anh)… đều là những đại đô thị trên thế giới đã ghi dấu ấn đậm nét về quy hoạch, kiến trúc, giao thông nhờ việc tối ưu hóa lợi thế ưu việt từ dòng sông nằm ở vị trí trung tâm thành phố, từ đó phát triển du lịch – dịch vụ và các khu đô thị sầm uất, đẳng cấp…
Nhiều thành phố trên thế giới đã lột xác khi phát triển thành công mô hình đô thị 2 bên sông.
Tại
Việt Nam
, Đà Nẵng là thành phố hiếm hoi đã bước đầu định hình rõ nét đô thị 2 bên sông theo mô hình những đô thị kể trên. Bờ Đông sông Hàn (Đà Nẵng) có nhiều điểm tương đồng với bờ Nam sông Hàn (Hàn Quốc) và bờ Đông sông Hoàng Phố (Thượng Hải) khi đó đều là những vùng đất giàu tiềm năng phát triển thành đô thị văn minh, hiện đại, bên cạnh khu vực trung tâm mang đậm bản sắc văn hóa – lịch sử bên kia sông.
Thực tế sau 25 năm trở thành thành phố thực thuộc TW, Đà Nẵng đã phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt, bức tranh đô thị Đà Nẵng đã lột xác mạnh mẽ. Hàng loạt cây cầu với kiến trúc độc đáo nối liền 2 bờ sông Hàn, đặt dòng sông vào vị trí trung tâm trên bản đồ quy hoạch đô thị và xóa bỏ hình ảnh vùng quê “quận 3” nghèo khó bên sông năm xưa. Tuy vậy, để sông Hàn thực sự trở thành dòng sông thịnh vượng như những đô thị lớn trên thế giới thì còn rất nhiều việc cần làm, đặc biệt là khai thác dư địa phát triển đô thị 2 bên sông.
Đột phá trong bức tranh đô thị bờ Đông
Cũng như sông Hoàng Phố (Thượng Hải), bờ Đông sông Hàn trước đây từng là khu vực hẻo lánh, nghèo nàn trong khi sở hữu tiềm năng bất tận về vị trí, quỹ đất, phong thủy… Nhờ kết nối giao thông thuận lợi, bờ Đông Đà Nẵng đang vươn lên trở thành trung tâm du lịch – thương mại mới của Đà thành. Những tòa cao ốc, khách sạn mọc lên đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế, cũng như nhu cầu thuê văn phòng của các công ty trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, với định hướng trở thành điểm đến toàn cầu, thành phố hội nhập và vận động, Đà Nẵng cần thu hút được cư dân quốc tế cùng với lớp trí thức, nhân sự chất lượng cao. Để làm được điều này, Đà Nẵng cần có những khu đô thị ở với đầy đủ tiện ích, hạ tầng hiện đại đáp ứng nhu cầu an cư, thu hút người tài đến sinh sống. Bên cạnh một quần thể “Thành phố hội nhập” đang thành hình tại Hòa Xuân – Ngũ Hành Sơn, những mảnh ghép đô thị hiện đại vẫn còn vắng bóng ven sông Hàn nội đô thành phố.
Sông Hàn giữ vị trí trung tâm trong bức tranh quy hoạch đô thị Đà Nẵng.
Đánh giá về vị thế dòng Hàn giang trong bức tranh quy hoạch đô thị, chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, Đà Nẵng có sông Hàn rất đẹp chạy qua nhưng có lẽ mới chỉ dành cho tầng lớp trung lưu, chứ chưa phải là thành phố đẳng cấp bên sông, mang đến giá trị tận hưởng.
Theo ông Thiên, sông Hàn cùng sông Cổ Cò là những con sông rất đặc biệt của Đà Nẵng, chảy theo hướng Bắc – Nam dọc theo bờ biển, tạo nên một vùng bờ Đông vô cùng đắc địa chạy dọc biển và sông. Đây là tài nguyên tự nhiên to lớn để làm nên những khu đô thị ven sông vừa duyên dáng, vừa đáp ứng yêu cầu về một cuộc sống tốt đẹp.
“Đà Nẵng phải vươn lên, cũng giống như
Singapore
– từ một mảnh đất bùn lầy giờ đây đã trở thành điểm đến hàng đầu thế giới thu hút các nhà đầu tư quốc tế và du lịch. Chính quyền Đà Nẵng phải có tầm nhìn quy hoạch và phải biết mời những người biết làm và có năng lực làm, nếu không sẽ làm hỏng những tiềm năng”, ông Thiên nhấn mạnh.
Tận dụng lợi thế của dòng sông có vị trí và hình dáng hiếm có như sông Hàn để phát triển bất động sản cao cấp ven sông là bài toán mà Đà Nẵng cần tính đến trong thời gian tới. Đặc biệt quỹ đất ven sông Hàn vô cùng hữu hạn. Sở hữu một cơ ngơi ven sông Hàn trở thành tuyên ngôn khẳng định thương hiệu cá nhân của giới tinh hoa.
Tổ hợp Sun Riva Vista sẽ thắp sáng bờ Đông sông Hàn, nâng tầm diện mạo đô thị Đà Nẵng. Ảnh phối cảnh minh họa.
Tới đây, bờ Đông sông Hàn mặt đường Trần Hưng Đạo sẽ xuất hiện một tổ hợp bất động sản đẳng cấp với những tòa tháp biểu tượng và những dãy phố thương mại rực rỡ đêm ngày, thắp sáng đôi bờ. Sun Riva Vista là tổ hợp dự án thuộc quỹ đất ven sông Hàn cuối cùng còn lại tại lõi trung tâm Đà Nẵng, với vị trí hiếm có “mặt sông – cận phố”. Đây sẽ là quần thể phức hợp năng động và hiện đại ngay trung tâm phát triển bờ Đông thành phố, đáp ứng đồng thời giá trị sinh sống và đầu tư của những cư dân thành đạt, kiến tạo cộng đồng thượng lưu đẳng cấp.
Tổ hợp Sun Riva Vista gồm 3 tòa tháp căn hộ cao tầng với hệ thống tiện ích đẳng cấp cùng gần 200 sản phẩm shophouse, shop villa thấp tầng có kiến trúc độc đáo, sẽ trở thành biểu tượng cho sự phát triển năng động của thành phố ven sông, góp sức làm đẹp và nâng tầm diện mạo đôi bờ sông Hàn, tạo nền móng để Đà Nẵng vươn xa hơn nữa trên hành trình khẳng định đẳng cấp quốc tế.
|
On the journey to reach the world, becoming a leading livable city in the region,
Danang
It is necessary to take full advantage and exploit the advantages of the Han River, starting from beautifying the appearance and developing classy urban areas along the river.
Prosperous urban flow
The area south of the Han River (Seoul) in the 1960s was still an agricultural land growing cabbage and pears, with very few people living. Since the 1970s, the Korean capital has adjusted its planning towards environmentally friendly socio-economic development. The Han River has been strongly improved, becoming a treasure of the "land of kimchi". Up to now, 40 km along the banks of the Han River, there are 12 large parks including lakes, bird islands, ancient forests, zoos...
The Gangnam district area located south of the Han River has become a new center, attracting the upper class in Seoul, Korea.
In particular, the Gangnam area south of the Han River has become a symbol of the country's miraculous development
Korea
, where the upper class lives with rows of buildings and luxurious and magnificent neighborhoods.
Another model of riverside urban development is Shanghai City (China). While the west bank of the Huangpu River has long been a residential area, the east bank of the river 30 years ago was still rice fields and warehouses. With the ambition to develop Shanghai into the "financial capital" of Asia, "Wall Street in the East", the government has spent more than 10 billion USD to build infrastructure, including a series of bridges, roads, The tunnel connects the ancient downtown area with the new financial center in Pudong, as well as relocating 300,000 residents to resettlement buildings, creating the sparkling urban appearance on both banks of the Huangpu River today. .
Shanghai (China), Seoul (Korea) or Paris (France), London (UK)... are all major cities in the world that have left a bold mark on planning, architecture, and transportation thanks to optimizing Optimize the advantage of the river located in the city center, thereby developing tourism - services and bustling, classy urban areas...
Many cities around the world have transformed by successfully developing urban models on both sides of the river.
In
Vietnam
, Da Nang is a rare city that has initially clearly shaped urban areas on both sides of the river following the model of the urban areas mentioned above. The East bank of the Han River (Da Nang) has many similarities with the South bank of the Han River (Korea) and the East bank of the Huangpu River (Shanghai), which at that time were lands rich in potential for development into civilized urban areas. modern, next to the central area with rich cultural and historical identity across the river.
In fact, after 25 years of becoming a real city under the Central Government, Da Nang has developed comprehensively in all fields. In particular, the urban picture of Da Nang has changed dramatically. A series of bridges with unique architecture connect the two banks of the Han River, placing the river in a central position on the urban planning map and eliminating the image of the poor "District 3" countryside along the river in the past. However, for the Han River to truly become a prosperous river like major cities in the world, there is still a lot of work that needs to be done, especially exploiting the potential for urban development on both sides of the river.
Breakthrough in the urban picture of the East Coast
Like the Huangpu River (Shanghai), the East bank of the Han River used to be a remote and poor area while possessing endless potential in terms of location, land fund, feng shui... Thanks to convenient traffic connections , the East Coast of Da Nang is rising to become the new tourist and commercial center of Da Nang. High-rise buildings and hotels have sprung up to meet the accommodation needs of tourists, especially international visitors, as well as the office rental needs of domestic and foreign companies.
However, with the orientation of becoming a global destination, an integrated and mobile city, Da Nang needs to attract international residents along with intellectuals and high-quality personnel. To do this, Da Nang needs to have urban areas with full amenities and modern infrastructure to meet settlement needs and attract talented people to live. Besides an "Integrated City" complex that is taking shape in Hoa Xuan - Ngu Hanh Son, modern urban pieces are still absent along the Han River in the city's inner city.
Han River holds a central position in the urban planning picture of Da Nang.
Assessing the position of the Han River in the urban planning picture, economic expert Tran Dinh Thien, former Director of the Vietnam Institute of Economics, said that Da Nang has a very beautiful Han River running through it, but perhaps it is only for for the middle class, not a classy riverside city, bringing enjoyment value.
According to Mr. Thien, the Han River and Co Co River are very special rivers of Da Nang, flowing in a North-South direction along the coast, creating an extremely prime East Coast area running along the sea and river. This is a great natural resource to create riverside urban areas that are both charming and meet the requirements for a good life.
“Da Nang must rise up, just like
Singapore
– from a piece of muddy land, it has now become the world's leading destination attracting international investors and tourists. The Da Nang government must have a planning vision and must know how to invite people who know how to do it and have the capacity to do it, otherwise it will damage the potential," Mr. Thien emphasized.
Taking advantage of a river with a rare location and shape like the Han River to develop high-end riverside real estate is a problem that Da Nang needs to consider in the near future. In particular, the land fund along the Han River is extremely limited. Owning a property along the Han River has become a statement affirming the personal brand of the elite.
The Sun Riva Vista complex will light up the East bank of the Han River, enhancing the appearance of Da Nang's urban area. Illustrative perspective photo.
Coming here, on the East bank of the Han River on Tran Hung Dao Street, a high-class real estate complex will appear with iconic towers and brilliant commercial streets day and night, lighting up both banks. Sun Riva Vista is a project complex belonging to the last remaining land fund along the Han River in the central core of Da Nang, with a rare location "river front - near the city". This will be a dynamic and modern complex at the heart of the city's East Coast development, simultaneously meeting the living and investment values of successful residents, creating a classy upper-class community.
The Sun Riva Vista complex includes 3 high-rise apartment towers with a high-class utility system and nearly 200 low-rise shophouse and shop villa products with unique architecture, which will become a symbol of the city's dynamic development. riverside streets, contributing to beautifying and enhancing the appearance of the banks of the Han River, creating a foundation for Da Nang to reach further on the journey to affirm its international class.
|
Không ai có thể thấy một gia đình thứ hai nữa giống gia đình nhà danh họa Khôi Kỳ. Cứ cái tên của ông chủ cũng đã đủ ngộ nghĩnh rồi, nhưng có bước vào nhà ông này, ta mới thấy nhiều cái lạ. Có thể bảo rằng đối với nhà này, cuộc đời là một trận cười quanh năm.
Bất cứ đến lúc nào, ông còn đứng ngoài thềm ông cũng đã thấy văng vẳng đưa ra những tiếng đàn nguyệt như bổng, như trầm, hoặc tiếng cái nhị Sàigoòng rên rỉ. Nếu vào đến căn phòng làm việc của nhà họa sĩ, thì thật là một sự lạ lắm, nếu ông không thấy vỏ hạt dưa bắn tung tóe đầy sàn, vài cái đĩa còn thừa lác đác mấy miếng bánh khách, giấy bóng vỏ kẹo, hay mấy chai
rượu
ngọt chỉ còn ít cặn, hay cái áo “cào cào” vài đôi giày mang cá mới của các tiểu thư. ấy là không kể một đống ngổn ngang những sáo với hồ, những đàn với nhị, cái nào cũng đứt giây long phiếm, dựa lảo đảo vào một xó gác, một thành ghế, hoặc may lắm mới được treo cẩn thận trên tường.
Vì rằng Tuyết Nương với Bạch Vân đều là hai cô gái quý của nhà danh hoạ Khôi Kỳ đàn cũng hay, ca lại càng “não” lắm. Thật là những nàng tiên sa cõi thế, răng lóng lánh hơn mặt hoa tai đầm, nước da mịn hơn cả quần lụa trắng, tóc đen lay láy, có màu mun hơn cả khăn nhung.
Chính ra, Khôi Kỳ không có địa vị gì trong nhà, chỉ Tuyết nương và Bạch Vân mới là hai “bà” cầm quyền thay ông chủ.
Ông bố thường dậy từ lúc bà con hàng phố chưa ai nghe bánh Tây nóng, giời rét thì quấn thêm cái chăn dạ, khoác thêm cái áo dạ đã ra ngồi kẻ, đo, vạch, điểm trộn sơn, trộn thuốc để cho bà vợ quý với hai cô gái quý nằm ươn xác chờ đến giờ học buổi sáng được ra chơi. Ông tuy có tài nhưng chưa “ăn thua” gì cả. Ông vẫn còn nghèo lắm nên làm ăn rất chi chăm chỉ, những mong có một ngày kia… Một vài cuộc triển lãm của ông tổ chức với mấy anh em đã hứa cho ông con đường tương lai rực rỡ. Nhưng, vợ với con mà ông phải nai lưng ra nuôi một cách rất vất vả chỉ những bắt ông sắm khăn san, giầy mang cá, cũng khiến ông đủ “lệch nghiệp” rồi.
Bà vợ ông không nhúng tay vào một việc gì cả. Rất đẹp khi mới cưới, rất được nhiều người họ nhà chồng kính yêu chỉ vì cái sắc, bá tước còn tự hào là một người đàn bà đẹp, và, sau là một người đàn bà đẹp từ xưa! Đã là một người thuở xưa rất đẹp, nay bà chán hết mọi sự, chỉ còn biết mùa rét thì trùm chăn ngủ kỹ, nực đến thì gội đầu rồi xõa tóc ra quạt, đọc tiểu thuyết trên một cái võng lúc nào cũng kêu “kĩu ca kĩu kịt” mắc lê khắp gian phòng. Cho nên mỗi khi bà dúng tay vào việc gì thì cả nhà như một xứ nào gặp nạn động đất vậy.
– Con Vân! Cái kéo của tao để đâu rồi thế?… Ơi Tuyết! Cái đê với cuộn chỉ ở hòm mày đã vứt đâu?
Cứ nheo nhéo thế suốt ngày!
Rồi thì, Tuyết cũng như Vân, hai cô ùa nhau mở hòm, mở tủ. Sau một hồi rối rít tìm chìa khóa mới mở được thì chẳng thấy đâu là kim, đâu là đê, đâu là chỉ mà toàn mó phải những đũa, những thìa, những khuy áo, gương cũ, hộp sắt tây, lọ thủy tinh, không biết đứa khỉ nào đã nhét cả vào đấy, và cất đấy để làm gì !…
Cả mọi đồ vật bầy trong nhà cũng có một vẻ kỳ lạ lắm.
Cứ hai, ba tháng lại dọn một lần nên phòng khách cũng như phòng ngủ trông đều có vẻ “chưa bầy xong” hoặc “đến mai xếp dọn” của những nhà mới có việc bận rộn hôm qua. Vả lại, ai hỏi đến cái gì cũng không thấy cả thì còn bày biện cái quái gì? Miễn là ông bố vẫn tìm thấy đủ cái mũ, đôi giầy, bà mè: một cuốn tiểu thuyết Tam Hạ Nam Đường, hai cô con gái: phấn, sáp, khăn nhung. Miễn ra ngoài đường, bà con phải nhầm là nhà có của. Cánh cửa nhỡ hé mở người tò mò đi ngoài phố có thể nhìn trộm thấy cái tủ chè khảm nhưng mặt kính vỡ chửa có tiền thay. Hoặc trên bàn thờ, cái bát nhang sứt vì mèo nhảy đổ.
Có khi, ngồi vào mâm, đã cất đũa, ông bố mới sửng sốt tự trách rằng quên chẳng để dành tiền mua lấy cái liễn ủ cơm. Gặp khi nào hơn hai giờ mà hai cô gái quý mới thổi cơm xong thì chiều đến đã có lệnh của bà truyền rằng: “Mới ăn cơm từ lúc hai giờ chiều không phải thổi cơm, để chờ hàng phở tối”.
Một cảnh tượng rất thường nhưng nghĩ cho cùng, thật cảm động: bốn người cùng, kẻ ngồi, người đứng, bưng mấy bát phở vội húp sụt soạt ở ngay chỗ cánh cửa bước vào. Cầm cái khăn mặt bẩn như lau khăn bàn, ông bố húp vội chén nước rồi lại quay vào cắm cổ làm việc, chẳng kịp xỉa răng!
Trong cái cảnh bừa bộn vô trật tự ấy, cái thản nhiên, cái bình tĩnh của bà mẹ với hai cô thì thật là những kỳ công của tạo hoá! Trong óc mấy người này đều chứa những tư tưởng gì khác, chứ không tráng qua một tư tưởng nào về việc tề gia nội trợ bao giờ. Cho nên Tuyết Nương thì ăn vận theo gái Sài Gòn, còn Bạch Vân gái Huế. Còn bà mẹ, nằm chao mình trong võng, sống một cách uể oải với bộ truyện Phong thần mơ màng đến cái sắc đẹp thủa xưa.
Nhà danh họa Khôi Kỳ thì lúc nào cũng hớn hở tươi cười như đứa trẻ con được mặc áo đẹp.
Miễn sao lúc nào cũng được thấy bên tai khanh khách tiếng cười của hai cô con gái quý, ông bố có thể nai lưng ra làm việc, kéo cày trả nợ, nợ vợ, nợ con. Hễ cô con gái nũng nịu, thỏ thẻ bên tai “Cậu cho con mua cái san” (giẩu mỏ!) “Cậu cho con mua cái vòng” v.v… là ông bố gật đầu ngay, móc ví lấy tiền ngay, dù gạo ngày mai chưa trông được vào đâu cũng mặc!…
Cũng lắm khi các cô ngồi cần cù kim chỉ đấy, nhưng áo rách đến xả vai của bố cũng không thấy miếng vá, bít tất của bố thủng như rây bột cũng chẳng được sợi mạng, các cô chỉ biết thêu hàng trăm hàng nghìn những chiếc mùi xoa có cành hồng con bướm, để tặng những ai ai thì phải, chớ cũng không thấy để bán bao giờ.
Các ông, các bà có được hân hạnh lần nào gặp những cô gái quý, rất tân tiến ấy không? Nào có khó gì đâu, biếng việc nhà nhưng chăm chỉ việc người, những cuộc diễn kịch, diễn cải lương Nam Kỳ, việc nghĩa hoặc các buổi chợ phiên, đối với các cô không một dịp nào không dự vào ban tổ chức. Chỉ bởi thế, các cô vẫn phải muộn chồng.
Vì rằng cứ trông cái cảnh gia đình ra ngoài khuôn mẫu hàng nghìn vạn dặm của các cô, cứ nghe giọng bà mẹ của các cô sàn sạt, nheo nhéo cả ngày, thì dù trong đám công tử đã cảm giọng Nam ai, Vọng cổ hoài lang, Văn Thiên Tường của các cô, cũng có nhiều cậu muốn rước ngay các cô về nhưng phần nhiều đều ngại ngần, tự hỏi với tự dọa: “Có nên lấy nó làm người vợ quý của mình?” hoặc là “Nếu ta lấy nó thì rồi ta đến bố mẹ ta!…”.
Người tử tế làm ăn, đã không ai dám rúng đến rồi, mà cả cái bọn “mũ lệch vai so” cũng không mãnh nào dám rước. Đã đành là, đến nhà họa sỹ Khôi Kỳ nghe hát, nghe đàn là thú, là vui, là cảm lắm nhưng mấy ông tài tử Nam Kỳ đội mũ đỏ mực, quấn cái khăn quàng sặc sỡ, lê đôi dép Nhật, đàn hay, ca thạo, hút thuốc lá cũng thạo, đối với con mắt bọn này đã như đinh như gai… ấy là không kể trong khi mải vui nghe hát, nghe đàn, bọn này phải chịu cái khổ hình nghe cả tiếng võng kĩu kịt của bà ở phòng bên cạnh, trông thấy thấp thoáng bóng người, những cái vẻ mặt căm tức, giận dữ, định lấy tiền nhà tiền gạo, từ tháng trước thu xếp chưa xong. Các cô vẫn ế.
Được một lần có một anh chàng góa vợ, đứng tuổi, rất thích cảnh đời ra ngoài khuôn mẫu, vì cho sự lấy vợ chỉ là mua máy hát, đã định ngấp nghé (ái chà!…) mượn người tiến dẫn đến năm bảy lượt, nhưng vì thấy cảnh gia đình quá sức mình tưởng tượng nên trong lúc cô em gân cổ ca khúc Văn Thiên Tường trong bản tuồng Tam ban triền điển thì anh chàng lim dim con mắt liếc nhìn cô chị, phì phèo tẩu thuốc lá, nghe điệu đàn rồi vừa hát thầm, hoạ thầm, mà tự hỏi:
“Phải xem nó có ý y còn nguyên, nó còn nguyên…”
Việc chàng lại bỏ dở…
Thế là Bạch Vân với Tuyết Nương vẫn cứ ế chồng, mà họa sĩ Khôi Kỳ được cảnh xum họp một nhà để tiếp khách toàn cầu, để méo mặt lo nợ, lo chạy gạo, chạy tiền bánh ngọt, rượu, chè tiếp rước các ông công tử Bắc Kỳ, tiếp rước các ông tài tử Nam Kỳ, và để lúc nào cũng được bên tai văng vẳng khúc đàn ròn của bài vọng cổ:
Hồ sê líu hồ líu sê sàng!
1936
V.T.P
|
Không ai có thể thấy một gia đình thứ hai nữa giống gia đình nhà danh họa Khôi Kỳ. Cứ cái tên của ông chủ cũng đã đủ ngộ nghĩnh rồi, nhưng có bước vào nhà ông này, ta mới thấy nhiều cái lạ. Có thể bảo rằng đối với nhà này, cuộc đời là một trận cười quanh năm.
Bất cứ đến lúc nào, ông còn đứng ngoài thềm ông cũng đã thấy văng vẳng đưa ra những tiếng đàn nguyệt như bổng, như trầm, hoặc tiếng cái nhị Sàigoòng rên rỉ. Nếu vào đến căn phòng làm việc của nhà họa sĩ, thì thật là một sự lạ lắm, nếu ông không thấy vỏ hạt dưa bắn tung tóe đầy sàn, vài cái đĩa còn thừa lác đác mấy miếng bánh khách, giấy bóng vỏ kẹo, hay mấy chai
rượu
ngọt chỉ còn ít cặn, hay cái áo “cào cào” vài đôi giày mang cá mới của các tiểu thư. ấy là không kể một đống ngổn ngang những sáo với hồ, những đàn với nhị, cái nào cũng đứt giây long phiếm, dựa lảo đảo vào một xó gác, một thành ghế, hoặc may lắm mới được treo cẩn thận trên tường.
Vì rằng Tuyết Nương với Bạch Vân đều là hai cô gái quý của nhà danh hoạ Khôi Kỳ đàn cũng hay, ca lại càng “não” lắm. Thật là những nàng tiên sa cõi thế, răng lóng lánh hơn mặt hoa tai đầm, nước da mịn hơn cả quần lụa trắng, tóc đen lay láy, có màu mun hơn cả khăn nhung.
Chính ra, Khôi Kỳ không có địa vị gì trong nhà, chỉ Tuyết nương và Bạch Vân mới là hai “bà” cầm quyền thay ông chủ.
Ông bố thường dậy từ lúc bà con hàng phố chưa ai nghe bánh Tây nóng, giời rét thì quấn thêm cái chăn dạ, khoác thêm cái áo dạ đã ra ngồi kẻ, đo, vạch, điểm trộn sơn, trộn thuốc để cho bà vợ quý với hai cô gái quý nằm ươn xác chờ đến giờ học buổi sáng được ra chơi. Ông tuy có tài nhưng chưa “ăn thua” gì cả. Ông vẫn còn nghèo lắm nên làm ăn rất chi chăm chỉ, những mong có một ngày kia… Một vài cuộc triển lãm của ông tổ chức với mấy anh em đã hứa cho ông con đường tương lai rực rỡ. Nhưng, vợ với con mà ông phải nai lưng ra nuôi một cách rất vất vả chỉ những bắt ông sắm khăn san, giầy mang cá, cũng khiến ông đủ “lệch nghiệp” rồi.
Bà vợ ông không nhúng tay vào một việc gì cả. Rất đẹp khi mới cưới, rất được nhiều người họ nhà chồng kính yêu chỉ vì cái sắc, bá tước còn tự hào là một người đàn bà đẹp, và, sau là một người đàn bà đẹp từ xưa! Đã là một người thuở xưa rất đẹp, nay bà chán hết mọi sự, chỉ còn biết mùa rét thì trùm chăn ngủ kỹ, nực đến thì gội đầu rồi xõa tóc ra quạt, đọc tiểu thuyết trên một cái võng lúc nào cũng kêu “kĩu ca kĩu kịt” mắc lê khắp gian phòng. Cho nên mỗi khi bà dúng tay vào việc gì thì cả nhà như một xứ nào gặp nạn động đất vậy.
– Con Vân! Cái kéo của tao để đâu rồi thế?… Ơi Tuyết! Cái đê với cuộn chỉ ở hòm mày đã vứt đâu?
Cứ nheo nhéo thế suốt ngày!
Rồi thì, Tuyết cũng như Vân, hai cô ùa nhau mở hòm, mở tủ. Sau một hồi rối rít tìm chìa khóa mới mở được thì chẳng thấy đâu là kim, đâu là đê, đâu là chỉ mà toàn mó phải những đũa, những thìa, những khuy áo, gương cũ, hộp sắt tây, lọ thủy tinh, không biết đứa khỉ nào đã nhét cả vào đấy, và cất đấy để làm gì !…
Cả mọi đồ vật bầy trong nhà cũng có một vẻ kỳ lạ lắm.
Cứ hai, ba tháng lại dọn một lần nên phòng khách cũng như phòng ngủ trông đều có vẻ “chưa bầy xong” hoặc “đến mai xếp dọn” của những nhà mới có việc bận rộn hôm qua. Vả lại, ai hỏi đến cái gì cũng không thấy cả thì còn bày biện cái quái gì? Miễn là ông bố vẫn tìm thấy đủ cái mũ, đôi giầy, bà mè: một cuốn tiểu thuyết Tam Hạ Nam Đường, hai cô con gái: phấn, sáp, khăn nhung. Miễn ra ngoài đường, bà con phải nhầm là nhà có của. Cánh cửa nhỡ hé mở người tò mò đi ngoài phố có thể nhìn trộm thấy cái tủ chè khảm nhưng mặt kính vỡ chửa có tiền thay. Hoặc trên bàn thờ, cái bát nhang sứt vì mèo nhảy đổ.
Có khi, ngồi vào mâm, đã cất đũa, ông bố mới sửng sốt tự trách rằng quên chẳng để dành tiền mua lấy cái liễn ủ cơm. Gặp khi nào hơn hai giờ mà hai cô gái quý mới thổi cơm xong thì chiều đến đã có lệnh của bà truyền rằng: “Mới ăn cơm từ lúc hai giờ chiều không phải thổi cơm, để chờ hàng phở tối”.
Một cảnh tượng rất thường nhưng nghĩ cho cùng, thật cảm động: bốn người cùng, kẻ ngồi, người đứng, bưng mấy bát phở vội húp sụt soạt ở ngay chỗ cánh cửa bước vào. Cầm cái khăn mặt bẩn như lau khăn bàn, ông bố húp vội chén nước rồi lại quay vào cắm cổ làm việc, chẳng kịp xỉa răng!
Trong cái cảnh bừa bộn vô trật tự ấy, cái thản nhiên, cái bình tĩnh của bà mẹ với hai cô thì thật là những kỳ công của tạo hoá! Trong óc mấy người này đều chứa những tư tưởng gì khác, chứ không tráng qua một tư tưởng nào về việc tề gia nội trợ bao giờ. Cho nên Tuyết Nương thì ăn vận theo gái Sài Gòn, còn Bạch Vân gái Huế. Còn bà mẹ, nằm chao mình trong võng, sống một cách uể oải với bộ truyện Phong thần mơ màng đến cái sắc đẹp thủa xưa.
Nhà danh họa Khôi Kỳ thì lúc nào cũng hớn hở tươi cười như đứa trẻ con được mặc áo đẹp.
Miễn sao lúc nào cũng được thấy bên tai khanh khách tiếng cười của hai cô con gái quý, ông bố có thể nai lưng ra làm việc, kéo cày trả nợ, nợ vợ, nợ con. Hễ cô con gái nũng nịu, thỏ thẻ bên tai “Cậu cho con mua cái san” (giẩu mỏ!) “Cậu cho con mua cái vòng” v.v… là ông bố gật đầu ngay, móc ví lấy tiền ngay, dù gạo ngày mai chưa trông được vào đâu cũng mặc!…
Cũng lắm khi các cô ngồi cần cù kim chỉ đấy, nhưng áo rách đến xả vai của bố cũng không thấy miếng vá, bít tất của bố thủng như rây bột cũng chẳng được sợi mạng, các cô chỉ biết thêu hàng trăm hàng nghìn những chiếc mùi xoa có cành hồng con bướm, để tặng những ai ai thì phải, chớ cũng không thấy để bán bao giờ.
Các ông, các bà có được hân hạnh lần nào gặp những cô gái quý, rất tân tiến ấy không? Nào có khó gì đâu, biếng việc nhà nhưng chăm chỉ việc người, những cuộc diễn kịch, diễn cải lương Nam Kỳ, việc nghĩa hoặc các buổi chợ phiên, đối với các cô không một dịp nào không dự vào ban tổ chức. Chỉ bởi thế, các cô vẫn phải muộn chồng.
Vì rằng cứ trông cái cảnh gia đình ra ngoài khuôn mẫu hàng nghìn vạn dặm của các cô, cứ nghe giọng bà mẹ của các cô sàn sạt, nheo nhéo cả ngày, thì dù trong đám công tử đã cảm giọng Nam ai, Vọng cổ hoài lang, Văn Thiên Tường của các cô, cũng có nhiều cậu muốn rước ngay các cô về nhưng phần nhiều đều ngại ngần, tự hỏi với tự dọa: “Có nên lấy nó làm người vợ quý của mình?” hoặc là “Nếu ta lấy nó thì rồi ta đến bố mẹ ta!…”.
Người tử tế làm ăn, đã không ai dám rúng đến rồi, mà cả cái bọn “mũ lệch vai so” cũng không mãnh nào dám rước. Đã đành là, đến nhà họa sỹ Khôi Kỳ nghe hát, nghe đàn là thú, là vui, là cảm lắm nhưng mấy ông tài tử Nam Kỳ đội mũ đỏ mực, quấn cái khăn quàng sặc sỡ, lê đôi dép Nhật, đàn hay, ca thạo, hút thuốc lá cũng thạo, đối với con mắt bọn này đã như đinh như gai… ấy là không kể trong khi mải vui nghe hát, nghe đàn, bọn này phải chịu cái khổ hình nghe cả tiếng võng kĩu kịt của bà ở phòng bên cạnh, trông thấy thấp thoáng bóng người, những cái vẻ mặt căm tức, giận dữ, định lấy tiền nhà tiền gạo, từ tháng trước thu xếp chưa xong. Các cô vẫn ế.
Được một lần có một anh chàng góa vợ, đứng tuổi, rất thích cảnh đời ra ngoài khuôn mẫu, vì cho sự lấy vợ chỉ là mua máy hát, đã định ngấp nghé (ái chà!…) mượn người tiến dẫn đến năm bảy lượt, nhưng vì thấy cảnh gia đình quá sức mình tưởng tượng nên trong lúc cô em gân cổ ca khúc Văn Thiên Tường trong bản tuồng Tam ban triền điển thì anh chàng lim dim con mắt liếc nhìn cô chị, phì phèo tẩu thuốc lá, nghe điệu đàn rồi vừa hát thầm, hoạ thầm, mà tự hỏi:
“Phải xem nó có ý y còn nguyên, nó còn nguyên…”
Việc chàng lại bỏ dở…
Thế là Bạch Vân với Tuyết Nương vẫn cứ ế chồng, mà họa sĩ Khôi Kỳ được cảnh xum họp một nhà để tiếp khách toàn cầu, để méo mặt lo nợ, lo chạy gạo, chạy tiền bánh ngọt, rượu, chè tiếp rước các ông công tử Bắc Kỳ, tiếp rước các ông tài tử Nam Kỳ, và để lúc nào cũng được bên tai văng vẳng khúc đàn ròn của bài vọng cổ:
Hồ sê líu hồ líu sê sàng!
1936
V.T.P
|
Lực lượng doanh nhân Việt càng ngày càng lớn mạnh, phong phú về ngành nghề và đa dạng về qui mô. Ghi nhận sự đóng góp tích cực và sinh động của doanh nhân vào hành trình phát triển đất nước thời hội nhập, trở thành một mệnh lệnh thú vị từ cộng đồng. Ngay trước khi xảy ra đại dịch COVID-19, Bộ Kế hoạch Đầu tư công bố lần đầu tiên “Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam”. Đó là sách trắng về thành tựu của doanh nhân, còn sách trắng về tâm tư doanh nhân thì sao?
Người xưa có câu “kim môn tàng kiều”, trong cánh cửa nhà giàu luôn ẩn giấu mỹ nhân thì ắt cũng có câu chuyện thú vị. Sách liên quan đến doanh nhân luôn gây tò mò cho đám đông, nên sức hấp dẫn của đề tài này không cần bàn cãi. Tuy nhiên, để những trang viết của doanh nhân và những trang viết về doanh nhân có được giá trị nhất định, vẫn không hề đơn giản. Bởi lẽ, nếu chỉ “ôn nghèo” và “khoe giàu” thì mỗi cuốn sách phải dừng ở mức đáp ứng thị hiếu tầm thường.
Bìa cuốn sách “Liên, người được chọn”.
Sách viết về doanh nhân Việt Nam phổ biến vài năm gần đây chủ yếu là tập hợp những bài viết nhỏ lẻ, chia sẻ những bí quyết thành công hoặc những kinh nghiệm làm giàu “Dành tặng doanh nhân trong thế trận toàn cầu” của Alan Phan, “Thư gửi quý nhà giàu Việt Nam” của Nguyễn Xuân Xanh, “Giữa dòng xoáy cuộc đời” của Phan Thế Hải, “Những người làm chủ số 1 Việt Nam” của Đàm Linh… Cá biệt có cuốn “Liên – Người được chọn” của nhóm tác giả Y Ban, Uông Triều, Đỗ Tiến Thụy viết về “nữ hoàng bảo hiểm” Đỗ Thị Kim Kiên nổi tiếng với danh xưng Shark Liên trong chương trình “Thương vụ bạc tỷ” trên sóng truyền hình.
Sách do doanh nhân viết đa dạng và phong phú hơn. Trừ những cuốn được người khác chấp bút mà doanh nhân in ấn và lưu hành trong phạm vi hẹp như món quà kỷ niệm, thì độc giả biết đến những tác phẩm tiêu biểu như “Bầu trời không chỉ có màu xanh” của Lý Quí Trung từng là hiện tượng khởi nghiệp với thương hiệu “Phở 24”, “Sáng tạo không giới hạn trong kinh doanh” của Phan Minh Thông – Chủ tịch Tập đoàn Phúc Sinh, “Gian truân chỉ là thử thách” của Hồ Văn Trung – Chủ tịch Tập đoàn Trangs, “Tình yêu Gia đình Sự nghiệp” của Nguyễn Thị Sơn – Người sáng lập Tập đoàn Sơn Kim, “Tôi, dòng sông và những cánh đồng” của Nguyễn Hồng Lam – Chủ tịch Tập đoàn Quế Lâm, “Chuyện nhà Dr Thanh” của Trần Uyên Phương – Ái nữ Tập đoàn Tân Hiệp Phát…
Những tác phẩm trên cùng vài công trình nghiên cứu như “Doanh nhân Việt Nam trong lịch sử” do Trần Thuận chủ biên, góp phần vun đắp tinh thần sống tích cực và lan ruyền cảm hứng làm giàu cho người đọc, đúng như thổ lộ của doanh nhân Lý Quí Trung: “Những trải nghiệm và những ký ức nếu có duyên sẽ trở thành những kiến thức và kỹ năng giúp các bạn trẻ yêu thích ngành kinh doanh nhà hàng rút ngắn con đường đi đến thành công”. Tuy nhiên, những tác phẩm ấy vẫn còn khoảng cách khá xa so với tác phẩm văn chương đích thực. Vậy, câu hỏi đặt ra, đi tìm hình ảnh doanh nhân Việt trong văn chương Việt có phải là cuộc lặn lội mò kim đáy biển không?
Ngoảnh lại hai thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, đã có vài tiểu thuyết viết về doanh nhân xuất hiện và tạo được tiếng vang trong đời sống như tiểu thuyết “Cuộc đời dài lắm” của nhà văn Chu Lai với nhân vật chính là Hà Nguyên lấy nguyên mẫu từ doanh nhân Hà Nguyên Cát – Giám đốc Công ty cao su Phú Riềng, hoặc tiểu thuyết “Nợ đời” của nhà văn Hoàng Dự với nhân vật chính là Hải lấy nguyên mẫu từ doanh nhân Nguyễn Hữu Khai – Chủ tịch Tập đoàn Y dược Bảo Long.
Mặc dù được độc giả đón nhận tương đối nồng nhiệt, nhưng tiểu thuyết lấy doanh nhân làm nhân vật chính vẫn giống như một phép thử đối với người viết, mà một tác giả tự tin và khéo léo cỡ nhà văn Chu Lai cũng phải thú nhận: “Cuộc đời dài lắm”là cuốn sách mình viết nhọc nhằn nhất, lâu nhất nhưng chưa chắc đã hay, bởi đây là đề tài hóc hiểm mà mình chưa thực sự am tường như đề tài chiến tranh và người lính. Ngay cả tiểu thuyết “Nợ đời” dù được đạo diễn Quốc Trọng dàn dựng thành bộ phim truyền hình dài 25 tập “Đường đời”, cũng không khiến nguyên mẫu hài lòng. Chính doanh nhân Nguyễn Hữu Khai vài năm sau đã tự viết cuốn tiểu thuyết khác về bản thân có tên gọi “Đường đời dốc đứng” dày 400 trang, gồm hai phần “Nối tiếp đường đời” và “Chuyện trong tù”.
Bìa các tác phẩm của doanh nhân Lý Quí Trung.
Sở dĩ, những tiểu thuyết viết về doanh nhân khá ít ỏi vì xã hội Việt Nam không có mấy nhà văn lăn lộn trong thương trường hoặc am tường lĩnh vực kinh tế. Hiếm hoi lắm, đầu năm 2022, mới có bộ tiểu thuyết “Cõi nhân gian” 4 tập, 2000 trang của nhà văn Nguyễn Phúc Lộc Thành – Chủ tịch Tập đoàn Thành Hưng. Thực tế nóng bỏng của đời sống dưới áp lực đồng tiền, hiển thị qua tiểu thuyết “Cõi nhân gian”, trực tiếp gợi ra nhiều suy tư về sự cạnh tranh, sự tinh ranh lẫn sự phản trắc mà doanh nhân Việt phải đối diện mỗi ngày.
Không thể phủ nhận, sách viết về doanh nhân và sách do doanh nhân viết, đang là một mảng đề tài sôi động trên thị trường sách. Độc giả được hiểu thêm về giới doanh nhân, như cách Chủ tịch Tập đoàn Trangs – Hồ Văn Trung chia sẻ: “Tôi tin rằng cuộc đời có hai chữ “số phận” và “cơ hội”. Nhưng số phận và cơ hội tốt chỉ mở ra với những người biết tự định đoạt cuộc sống của mình, biết phấn đấu, học hỏi không ngừng để vươn lên. Không ai có cuộc đời hoàn hảo, không ai có thể chọn nơi mình sinh ra, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể quyết định cuộc đời mình. Đừng bao giờ nản chí! Đừng bao giờ buông xuôi! Đừng bao giờ tuyệt vọng! Đừng bao giờ ngừng cố gắng và hy vọng vì chắc chắn thành công sẽ đến với những ai biết tạo ra cơ hội cho chính mình”.
Thậm chí, độc giả cũng dần dần xóa bỏ quan niệm “vi phú bất nhân, vi nhân bất phú” qua bộc bạch của Chủ tịch Tập đoàn Quế Lâm – Nguyễn Hồng Lam: “Đừng nghĩ rằng doanh nhân chúng tôi suốt ngày tính tính toán toán theo kinh doanh buôn bán lời lỗ mà tâm hồn xơ cứng khô khan với những con số. Chúng tôi cũng là con người, cũng yếu mềm, cũng cần thư thái bay bổng. Vấn đề là tự mỗi người phải biết dành thời gian để hun đúc cho tâm hồn của mình ngày càng thêm giàu có. Tiền từ công sức, trí tuệ của mình thì rất quý nhưng tiền không phải là tất cả. Chúng ta có phải chỉ sống với tiền đâu. Vẫn rất cần nhiều thứ khác nữa. Thơ chẳng hạn! Hãy thử làm một câu thơ, ta sẽ thấy mình khác đi rất nhiều”.
Thế nhưng, giá trị thông tin và giá trị thẩm mỹ của dòng sách doanh nhân vẫn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập. Vì sao sách doanh nhân Việt không thuyết phục bằng sách doanh nhân nước ngoài, như những cuốn viết về Steve Jobs, Bill Gates hay Lý Gia Thành? Câu trả lời rất đơn giản, điểm yếu không phải ở tầm vóc nhân vật mà điểm yếu nằm ở yếu tố chân thực. Không nhiều doanh nhân đủ độ mẫn tiệp như người sáng lập tập đoàn Sơn Kim – Nguyễn Thị Sơn mạnh dạn rào đón cho tự truyện của mình: “Thời gian của các câu chuyện chỉ là tương đối, có câu chuyện tôi ghi chép rất chính xác vì tôi còn lưu giữ những hình ảnh, nhưng cũng có câu chuyện chỉ là ước đoán thời gian theo trí nhớ. Hơn nữa tôi không phải là nhà văn, tôi không có khả năng thêm thắt hư cấu tả tình tả cảnh được, nên tự truyện của tôi viết theo giọng kể chuyện hơn là viết một tác phẩm văn học”.
Doanh nhân tự viết sách thì có tâm lý “xấu che”, cố tình bỏ qua những tình huống hoặc những sự kiện mà họ cảm thấy nhạy cảm, có thể ảnh hưởng đến hình tượng cá nhân hoàn mỹ hoặc quan hệ đối tác thương mại. Tác giả viết về doanh nhân thì có tâm lý của kẻ làm thuê, nhân vật thích thế nào thì cứ viết thế đấy, không có thao tác tối thiểu là thẩm định dữ liệu và phản biện chi tiết. Cho nên, hầu hết những cuốn sách liên quan đến doanh nhân Việt được thiết lập theo tiêu chí “người tốt, việc tốt”, chứ không tuân thủ theo tiêu chuẩn “người thật, việc thật”. Cho nên, độc giả cầm những cuốn sách liên quan đến doanh nhân Việt thường ái ngại phải tham dự một cuộc trình diễn lộng lẫy và hào nhoáng, dư thừa son phấn và ngây ngất kiêu hãnh, nhưng lại hụt hẫng tính cách và nhạt nhòa số phận.
Để thể hiện bản lĩnh doanh nhân Việt thời hội nhập, thì sách viết về
doanh nhân
và sách do doanh nhân viết, phải là sách trắng về tâm tư doanh nhân Việt. Đó phải là chân dung doanh nhân trong tổng thể những tác động của đạo đức kinh doanh, triết lý kinh doanh lẫn văn hóa kinh doanh. Muốn nâng cao phẩm chất dòng sách liên quan đến doanh nhân, có lẽ phải phát huy văn học ứng dụng. Bên cạnh những tiểu thuyết đề cao tính sáng tạo mà những thành bại vui buồn của doanh nhân phải được soi chiếu hoàn toàn bằng góc nhìn nhà văn, rất cần sự hình thành đội ngũ tác giả chuyên viết tiểu sử doanh nhân, có kiến thức chuyên môn và có bút pháp ấn tượng.
Lê Thiếu Nhơn
|
Lực lượng doanh nhân Việt càng ngày càng lớn mạnh, phong phú về ngành nghề và đa dạng về qui mô. Ghi nhận sự đóng góp tích cực và sinh động của doanh nhân vào hành trình phát triển đất nước thời hội nhập, trở thành một mệnh lệnh thú vị từ cộng đồng. Ngay trước khi xảy ra đại dịch COVID-19, Bộ Kế hoạch Đầu tư công bố lần đầu tiên “Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam”. Đó là sách trắng về thành tựu của doanh nhân, còn sách trắng về tâm tư doanh nhân thì sao?
Người xưa có câu “kim môn tàng kiều”, trong cánh cửa nhà giàu luôn ẩn giấu mỹ nhân thì ắt cũng có câu chuyện thú vị. Sách liên quan đến doanh nhân luôn gây tò mò cho đám đông, nên sức hấp dẫn của đề tài này không cần bàn cãi. Tuy nhiên, để những trang viết của doanh nhân và những trang viết về doanh nhân có được giá trị nhất định, vẫn không hề đơn giản. Bởi lẽ, nếu chỉ “ôn nghèo” và “khoe giàu” thì mỗi cuốn sách phải dừng ở mức đáp ứng thị hiếu tầm thường.
Bìa cuốn sách “Liên, người được chọn”.
Sách viết về doanh nhân Việt Nam phổ biến vài năm gần đây chủ yếu là tập hợp những bài viết nhỏ lẻ, chia sẻ những bí quyết thành công hoặc những kinh nghiệm làm giàu “Dành tặng doanh nhân trong thế trận toàn cầu” của Alan Phan, “Thư gửi quý nhà giàu Việt Nam” của Nguyễn Xuân Xanh, “Giữa dòng xoáy cuộc đời” của Phan Thế Hải, “Những người làm chủ số 1 Việt Nam” của Đàm Linh… Cá biệt có cuốn “Liên – Người được chọn” của nhóm tác giả Y Ban, Uông Triều, Đỗ Tiến Thụy viết về “nữ hoàng bảo hiểm” Đỗ Thị Kim Kiên nổi tiếng với danh xưng Shark Liên trong chương trình “Thương vụ bạc tỷ” trên sóng truyền hình.
Sách do doanh nhân viết đa dạng và phong phú hơn. Trừ những cuốn được người khác chấp bút mà doanh nhân in ấn và lưu hành trong phạm vi hẹp như món quà kỷ niệm, thì độc giả biết đến những tác phẩm tiêu biểu như “Bầu trời không chỉ có màu xanh” của Lý Quí Trung từng là hiện tượng khởi nghiệp với thương hiệu “Phở 24”, “Sáng tạo không giới hạn trong kinh doanh” của Phan Minh Thông – Chủ tịch Tập đoàn Phúc Sinh, “Gian truân chỉ là thử thách” của Hồ Văn Trung – Chủ tịch Tập đoàn Trangs, “Tình yêu Gia đình Sự nghiệp” của Nguyễn Thị Sơn – Người sáng lập Tập đoàn Sơn Kim, “Tôi, dòng sông và những cánh đồng” của Nguyễn Hồng Lam – Chủ tịch Tập đoàn Quế Lâm, “Chuyện nhà Dr Thanh” của Trần Uyên Phương – Ái nữ Tập đoàn Tân Hiệp Phát…
Những tác phẩm trên cùng vài công trình nghiên cứu như “Doanh nhân Việt Nam trong lịch sử” do Trần Thuận chủ biên, góp phần vun đắp tinh thần sống tích cực và lan ruyền cảm hứng làm giàu cho người đọc, đúng như thổ lộ của doanh nhân Lý Quí Trung: “Những trải nghiệm và những ký ức nếu có duyên sẽ trở thành những kiến thức và kỹ năng giúp các bạn trẻ yêu thích ngành kinh doanh nhà hàng rút ngắn con đường đi đến thành công”. Tuy nhiên, những tác phẩm ấy vẫn còn khoảng cách khá xa so với tác phẩm văn chương đích thực. Vậy, câu hỏi đặt ra, đi tìm hình ảnh doanh nhân Việt trong văn chương Việt có phải là cuộc lặn lội mò kim đáy biển không?
Ngoảnh lại hai thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, đã có vài tiểu thuyết viết về doanh nhân xuất hiện và tạo được tiếng vang trong đời sống như tiểu thuyết “Cuộc đời dài lắm” của nhà văn Chu Lai với nhân vật chính là Hà Nguyên lấy nguyên mẫu từ doanh nhân Hà Nguyên Cát – Giám đốc Công ty cao su Phú Riềng, hoặc tiểu thuyết “Nợ đời” của nhà văn Hoàng Dự với nhân vật chính là Hải lấy nguyên mẫu từ doanh nhân Nguyễn Hữu Khai – Chủ tịch Tập đoàn Y dược Bảo Long.
Mặc dù được độc giả đón nhận tương đối nồng nhiệt, nhưng tiểu thuyết lấy doanh nhân làm nhân vật chính vẫn giống như một phép thử đối với người viết, mà một tác giả tự tin và khéo léo cỡ nhà văn Chu Lai cũng phải thú nhận: “Cuộc đời dài lắm”là cuốn sách mình viết nhọc nhằn nhất, lâu nhất nhưng chưa chắc đã hay, bởi đây là đề tài hóc hiểm mà mình chưa thực sự am tường như đề tài chiến tranh và người lính. Ngay cả tiểu thuyết “Nợ đời” dù được đạo diễn Quốc Trọng dàn dựng thành bộ phim truyền hình dài 25 tập “Đường đời”, cũng không khiến nguyên mẫu hài lòng. Chính doanh nhân Nguyễn Hữu Khai vài năm sau đã tự viết cuốn tiểu thuyết khác về bản thân có tên gọi “Đường đời dốc đứng” dày 400 trang, gồm hai phần “Nối tiếp đường đời” và “Chuyện trong tù”.
Bìa các tác phẩm của doanh nhân Lý Quí Trung.
Sở dĩ, những tiểu thuyết viết về doanh nhân khá ít ỏi vì xã hội Việt Nam không có mấy nhà văn lăn lộn trong thương trường hoặc am tường lĩnh vực kinh tế. Hiếm hoi lắm, đầu năm 2022, mới có bộ tiểu thuyết “Cõi nhân gian” 4 tập, 2000 trang của nhà văn Nguyễn Phúc Lộc Thành – Chủ tịch Tập đoàn Thành Hưng. Thực tế nóng bỏng của đời sống dưới áp lực đồng tiền, hiển thị qua tiểu thuyết “Cõi nhân gian”, trực tiếp gợi ra nhiều suy tư về sự cạnh tranh, sự tinh ranh lẫn sự phản trắc mà doanh nhân Việt phải đối diện mỗi ngày.
Không thể phủ nhận, sách viết về doanh nhân và sách do doanh nhân viết, đang là một mảng đề tài sôi động trên thị trường sách. Độc giả được hiểu thêm về giới doanh nhân, như cách Chủ tịch Tập đoàn Trangs – Hồ Văn Trung chia sẻ: “Tôi tin rằng cuộc đời có hai chữ “số phận” và “cơ hội”. Nhưng số phận và cơ hội tốt chỉ mở ra với những người biết tự định đoạt cuộc sống của mình, biết phấn đấu, học hỏi không ngừng để vươn lên. Không ai có cuộc đời hoàn hảo, không ai có thể chọn nơi mình sinh ra, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể quyết định cuộc đời mình. Đừng bao giờ nản chí! Đừng bao giờ buông xuôi! Đừng bao giờ tuyệt vọng! Đừng bao giờ ngừng cố gắng và hy vọng vì chắc chắn thành công sẽ đến với những ai biết tạo ra cơ hội cho chính mình”.
Thậm chí, độc giả cũng dần dần xóa bỏ quan niệm “vi phú bất nhân, vi nhân bất phú” qua bộc bạch của Chủ tịch Tập đoàn Quế Lâm – Nguyễn Hồng Lam: “Đừng nghĩ rằng doanh nhân chúng tôi suốt ngày tính tính toán toán theo kinh doanh buôn bán lời lỗ mà tâm hồn xơ cứng khô khan với những con số. Chúng tôi cũng là con người, cũng yếu mềm, cũng cần thư thái bay bổng. Vấn đề là tự mỗi người phải biết dành thời gian để hun đúc cho tâm hồn của mình ngày càng thêm giàu có. Tiền từ công sức, trí tuệ của mình thì rất quý nhưng tiền không phải là tất cả. Chúng ta có phải chỉ sống với tiền đâu. Vẫn rất cần nhiều thứ khác nữa. Thơ chẳng hạn! Hãy thử làm một câu thơ, ta sẽ thấy mình khác đi rất nhiều”.
Thế nhưng, giá trị thông tin và giá trị thẩm mỹ của dòng sách doanh nhân vẫn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập. Vì sao sách doanh nhân Việt không thuyết phục bằng sách doanh nhân nước ngoài, như những cuốn viết về Steve Jobs, Bill Gates hay Lý Gia Thành? Câu trả lời rất đơn giản, điểm yếu không phải ở tầm vóc nhân vật mà điểm yếu nằm ở yếu tố chân thực. Không nhiều doanh nhân đủ độ mẫn tiệp như người sáng lập tập đoàn Sơn Kim – Nguyễn Thị Sơn mạnh dạn rào đón cho tự truyện của mình: “Thời gian của các câu chuyện chỉ là tương đối, có câu chuyện tôi ghi chép rất chính xác vì tôi còn lưu giữ những hình ảnh, nhưng cũng có câu chuyện chỉ là ước đoán thời gian theo trí nhớ. Hơn nữa tôi không phải là nhà văn, tôi không có khả năng thêm thắt hư cấu tả tình tả cảnh được, nên tự truyện của tôi viết theo giọng kể chuyện hơn là viết một tác phẩm văn học”.
Doanh nhân tự viết sách thì có tâm lý “xấu che”, cố tình bỏ qua những tình huống hoặc những sự kiện mà họ cảm thấy nhạy cảm, có thể ảnh hưởng đến hình tượng cá nhân hoàn mỹ hoặc quan hệ đối tác thương mại. Tác giả viết về doanh nhân thì có tâm lý của kẻ làm thuê, nhân vật thích thế nào thì cứ viết thế đấy, không có thao tác tối thiểu là thẩm định dữ liệu và phản biện chi tiết. Cho nên, hầu hết những cuốn sách liên quan đến doanh nhân Việt được thiết lập theo tiêu chí “người tốt, việc tốt”, chứ không tuân thủ theo tiêu chuẩn “người thật, việc thật”. Cho nên, độc giả cầm những cuốn sách liên quan đến doanh nhân Việt thường ái ngại phải tham dự một cuộc trình diễn lộng lẫy và hào nhoáng, dư thừa son phấn và ngây ngất kiêu hãnh, nhưng lại hụt hẫng tính cách và nhạt nhòa số phận.
Để thể hiện bản lĩnh doanh nhân Việt thời hội nhập, thì sách viết về
doanh nhân
và sách do doanh nhân viết, phải là sách trắng về tâm tư doanh nhân Việt. Đó phải là chân dung doanh nhân trong tổng thể những tác động của đạo đức kinh doanh, triết lý kinh doanh lẫn văn hóa kinh doanh. Muốn nâng cao phẩm chất dòng sách liên quan đến doanh nhân, có lẽ phải phát huy văn học ứng dụng. Bên cạnh những tiểu thuyết đề cao tính sáng tạo mà những thành bại vui buồn của doanh nhân phải được soi chiếu hoàn toàn bằng góc nhìn nhà văn, rất cần sự hình thành đội ngũ tác giả chuyên viết tiểu sử doanh nhân, có kiến thức chuyên môn và có bút pháp ấn tượng.
Lê Thiếu Nhơn
|
Everest không phải là ngọn núi cao nhất thế giới? Lebanon là quốc gia Trung Đông duy nhất không có sa mạc? Vẫn còn nhiều điều thú vị chờ bạn khám phá.
Châu Phi là lục địa duy nhất nằm trên cả 4 bán cầu và cũng là lục địa duy nhất có cả Xích đạo và Kinh tuyến gốc chạy qua.
Canada là nhà của hơn một nửa số hồ tự nhiên trên thế giới, với tổng cộng 31.752 hồ, Ngoài ram 9% diện tích Canada được che phủ bởi nguồn nước ngọt. Trong ảnh là Hồ Maligne ở Công viên Quốc gia Jasper,
Canada
.
Trung Quốc
có chung đường biên giới với 14 nước:
Ấn Độ
,
Pakistan
,
Afghanistan
,
Myanmar
,
Nepal
,
Bhutan
,
Lào
,
Kyrgyzstan
,
Kazakhstan
,
Tajikistan
,
Nga
,
Việt Nam
,
Mông Cổ
và
Triều Tiên
.
Alaska là bang cực bắc, cực đông và cực tây của nước
Mỹ
.
Về mặt kỹ thuật, ngọn núi cao nhất thế giới là Mauna Kea (trong ảnh) ở Hawaii, chứ không phải Đỉnh Everest. Điều này là bởi Everest cao 8.850 mét so với mặt nước biển, trong khi đỉnh cao nhất của Mauna Kea chỉ cao 4.205 mét so với mặt nước biển. Tuy nhiên, Mauna Kea còn khoảng 6.000 mét chìm bên dưới mặt nước biển và tổng chiều cao của nó là 10.210 mét.
Vatican là đất nước nhỏ nhất thế giới với diện tích chỉ 0,44 km vuông.
Hòn đảo Nauru ở Thái Bình Dương là quốc gia duy nhất không có thủ đô chính thức. Quốc kỳ Nauru thể hiện vị trí của hòn đảo này. Đường ngang màu vàng tượng trưng cho Xích đạo và ngôi sao màu trắng bên dưới là Nauru.
Saudi Arabia không có bất cứ con sông, hồ nước hay thác nước nào. Quốc gia này phụ thuộc vào nguồn nước ngầm và các loại cây khử muối để lấy nước sinh hoạt.
Quốc gia Trung Đông duy nhất không có sa mạc là Lebanon.
Quốc gia có đường bờ biển lớn nhất thế giới là Canada, với đường bờ biển trải dài 202.080km. Trong ảnh là bờ biển Cape Breton của Canada.
Thành phố Istanbul của
Thổ Nhĩ Kỳ
nằm trên 2 châu: châu Âu và châu Á.
Australia rộng hơn cả Mặt Trăng. Mặt trăng có đường kính 3.476,28km, trong khi Australia từ đông sang Tây trải dài 4.000km.
Ngọn núi gần không gian vũ trụ nhất không phải đỉnh Everest mà là đỉnh Chimbozaro (trong ảnh) ở Ecuador. Dù Chimbozaro chỉ cao 6.263m, còn Everest cao 8.850m, nhưng Chimbozaro vươn xa hơn vào vũ trụ do nằm ở vị trí Xích Đạo.
Biển Sargasso là biển duy nhất trên thế giới không có bờ. Thay vào đó, nó được xác định bởi 4 dòng chảy đại dương nằm trong dòng Hoàn lưu Cận nhiệt đới: Dòng Vịnh Gulf Stream, dòng Bắc Đại Tây Dương, dòng Canary và dòng xích đạo Bắc Đại Tây Dương.
Sa mạc lớn nhất thế giới không phải Sahara mà là Sa mạc Nam cực với diện tích 14.244.934,6 km vuông.
Nước Nga có tới 11 múi giờ. Trong ảnh là nhà thờ St Basil ở thủ đô Moscow.
Khoảng 99% băng nước ngọt trên Trái Đất nằm ở các phiến băng Nam Cực và Greenland. Trong ảnh là các phiến băng ở Greenland.
Theo Sách Kỷ lục Guinness Thế giới, nhiệt độ cao nhất khi nhận được trên Trái Đất là 56,7 độ C. Mức nhiệt này ghi nhận được ở Greenland Ranch, Thung lũng Chết, California vào ngày 10/7/1913. Trong ảnh là biển cảnh báo “Nhiệt độ cao nguy hiểm. Không nên đi lại sau 10h sáng” bên ngoài Thung lũng Chết./.
MSN
|
Everest is not the highest mountain in the world? Is Lebanon the only Middle Eastern country without a desert? There are still many interesting things waiting for you to discover.
Africa is the only continent located in all four hemispheres and is also the only continent with both the Equator and the Prime Meridian running through it.
Canada is home to more than half of the world's natural lakes, with a total of 31,752 lakes. In addition, 9% of Canada is covered by freshwater. Pictured is Maligne Lake in Jasper National Park,
Canada
.
China
shares borders with 14 countries:
India
,
Pakistan
,
Afghanistan
,
Myanmar
,
Nepal
,
Bhutan
,
Laos
,
Kyrgyzstan
,
Kazakhstan
,
Tajikistan
,
Russia
,
Vietnam
,
Mongolia
and
North Korea
.
Alaska is the northernmost, easternmost and westernmost state in the country
America
.
Technically, the world's highest mountain is Mauna Kea (pictured) in Hawaii, not Mount Everest. This is because Everest is 8,850 meters above sea level, while Mauna Kea's highest peak is only 4,205 meters above sea level. However, Mauna Kea is about 6,000 meters below sea level and its total height is 10,210 meters.
Vatican is the smallest country in the world with an area of only 0.44 square kilometers.
The Pacific island of Nauru is the only country without an official capital. The Nauru flag represents the island's location. The yellow horizontal line represents the Equator and the white star below is Nauru.
Saudi Arabia does not have any rivers, lakes or waterfalls. The country depends on groundwater and desalination plants for drinking water.
The only Middle Eastern country without a desert is Lebanon.
The country with the largest coastline in the world is Canada, with a coastline stretching 202,080km. Pictured is the Cape Breton coast of Canada.
Istanbul city of
Türkiye
located on two continents: Europe and Asia.
Australia is larger than the Moon. The moon has a diameter of 3,476.28km, while Australia from east to west stretches 4,000km.
The closest mountain to outer space is not Mount Everest but Mount Chimbozaro (pictured) in Ecuador. Although Chimbozaro is only 6,263m high, and Everest is 8,850m high, Chimbozaro reaches farther into space because it is located at the Equator.
The Sargasso Sea is the only sea in the world without a shore. Instead, it is determined by four ocean currents within the Subtropical Circulation: the Gulf Stream, the North Atlantic Current, the Canary Current, and the North Atlantic Equatorial Current.
The largest desert in the world is not the Sahara but the Antarctic Desert with an area of 14,244,934.6 square kilometers.
Russia has 11 time zones. Pictured is St Basil's Cathedral in Moscow.
About 99% of Earth's freshwater ice is located in the Antarctic and Greenland ice sheets. Pictured are ice sheets in Greenland.
According to the Guinness Book of World Records, the highest temperature recorded on Earth is 56.7 degrees Celsius. This temperature was recorded at Greenland Ranch, Death Valley, California on July 10, 1913. In the photo is a warning sign "Dangerous high temperatures. Do not travel after 10 a.m. outside Death Valley./.
MSN
|
Tròn 40 năm kể từ ngày nhà văn Nguyên Hồng đi xa, nay tôi mới có dịp được tới “thăm” ông. Một lối mòn nhỏ dẫn lên ngõ nhà ông trên “Đồi văn hóa kháng chiến”.
Một số tác phẩm của nhà văn Nguyên Hồng.
Qua cánh cổng đơn sơ, chúng tôi được đi dưới bóng mát của cây, đều là những cây có từ thời gia đình ông “định cư” ở đây. Ngay trước sân nhà, một cây khế tỏa bóng sum suê, lá xanh chợt hanh vàng trong nắng, xen lẫn giữa màu xanh lá là màu tím của hoa và chỉ khẽ với tay thôi là đã chạm trĩu trịt quả với quả.
Bà Trần Thị Loan, người con dâu thứ hai của nhà văn Nguyên Hồng từ trong nhà bước ra tươi cười chào khách. Được biết sáng sớm nay bà mới từ thành phố Bắc Giang trở lại nhà. Bà cho biết: “Tôi mới xuống Bắc Giang ở với các con một năm nay. Các cháu cứ bảo: Mẹ không được khỏe nên ở một mình chúng con không yên tâm”. Bà Loan nói xong thì cúi xuống, nét mặt hơi buồn, gọng bà chậm rãi: “Tôi về làm dâu và ở nhà này từ cuối năm 1975. Bốn mươi sáu năm gắn bó nên vắng nhà là thấy hẫng”.
Ngôi nhà ba gian khiêm nhường được dựng trên mảnh đất mà từ đầu năm 1947 gia đình nhà văn Nguyên Hồng cùng gia đình một số nhà văn khác tản cư lên đây. Chả là hồi đó, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc nên Hội Văn hóa cứu quốc sơ tán lên vùng An toàn khu Nhã Nam-Yên Thế. Khu vực Đồi Cháy xóm Cầu Đen (sau này được đặt tên là Đồi Văn hóa kháng chiến) thuộc xã Quang Tiến được chọn làm địa điểm của Hội và gia đình các thành viên của Hội. Bởi nơi đây thưa thớt dân cư, tiện lợi cho việc di chuyển, liên lạc với chiến khu Việt Bắc nếu như giặc Pháp phát hiện, tấn công.
Lên xóm Cầu Đen – đồi Cháy đầu tiên là gia đình nhà văn Nguyên Hồng và Kim Lân, tiếp đó là các họa sĩ Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn, rồi đến gia đình nhà văn Ngô Tất Tố. Sau này còn có sự hiện diện của những cây bút nổi tiếng như: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tú Mỡ, Vân Đài, Anh Thơ, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, nhà viết kịch Đình Bảng… Có lúc đội ngũ văn nghệ sĩ tản cư lên tới hàng chục người. Họ được cấp 15 mẫu đất để dựng nhà cửa, sản xuất, quần tụ đoàn kết, bao bọc lẫn nhau cùng vượt khó sinh sống trên mảnh đất mới. Và điều đặc biệt là trong thời kỳ này các văn nghệ sĩ đã cho ra đời không ít những tác phẩm bất hủ để đời.
Xóm Cầu Đen chợt trở nên đông vui, đầm ấm. Gia đình nhà văn Nguyên Hồng ban đầu ở tạm trong một căn nhà lá đơn sơ. Rồi dần dần qua thời gian là một ngôi nhà lợp tranh vách trát đất rồi mới tới ngôi nhà xây ba gian lợp ngói như hiện nay.
Bà Trần Thị Loan giới thiệu về chiếc giá sách và những tư liệu về nhà văn Nguyên Hồng.
Bà Trần Thị Loan sau khi thắp xong nén hương thì nói tiếp: “Cho mãi đến cuối năm 1954 thì các gia đình mới chuyển về Hà Nội và ổn định ở Thủ đô. Chỉ có riêng thầy tôi là thấy nhớ rừng nhớ núi quá, nên đến năm 1957 đã quyết định đưa vợ con quay trở lại xóm Cầu Đen ở cho tới nay”.
Nghe bà Loan nói vậy tôi thấy nhà văn Nguyên Hồng đúng là “kỳ cục” như mọi người hay nói về ông. Sinh năm 1918 ở thành phố Nam Định. Theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống năm 16 tuổi. Vậy mà 17 tuổi đã cầm bút viết văn khi mới học xong tiểu học. Và năm 20 tuổi được nhận giải thưởng Tự lực văn đoàn (một giải thưởng văn học uy tín thời đó) với tiểu thuyết “Bỉ vỏ”. Và như sau này nhà văn Nguyên Hồng đã tâm sự: “Tôi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những áp lực, về những nỗi trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về phía những con người lầm than bị đày đọa, bị lăng nhục. Tôi sẽ vạch trần ra những vết thương xã hội, những việc làm bạo ngược lộng hành của xã hội thời bấy giờ. Tôi sẽ gánh lấy mọi trách nhiệm, chống đối cũng như bào chữa, bảo vệ. Tôi sẽ chỉ có tiến bước, chỉ có đi thẳng. Tôi sẽ chỉ biết có ánh sáng. Và chính tôi là ánh sáng”.
Bà Loan chỉ tay vào chiếc giá sách làm bằng tre được xếp gọn gàng ngay trước những tủ đầy chặt sách mà nhà văn Nguyên Hồng để lại. Bà nói: “Thầy tôi quý chiếc giá sách tre này lắm. Cụ thường đặt ở đó những cuốn sách mà cụ thích. Tôi nhớ mỗi khi muốn đọc sách thì cụ lại gọi: “Loan ơi. Con lấy cuốn sách “Những người khốn khổ” ở trên xích đông mang cho thầy. Giá sách này chúng tôi vẫn giữ, nó là báu vật ghi dấu một thời khó khăn nhưng đầy trăn trở của thầy tôi”.
Qua câu chuyện chúng tôi được bà Trần Thị Loan giới thiệu mình quê ở xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh (nay là
TP Chí Linh
) của
tỉnh Hải Dương
. Nghe thế tôi vội hỏi “Thế làm thế nào mà chị trở thành con dâu của cụ được?”. Bà Loan cười, vẻ e thẹn thoáng thấy trên gương mặt. Được biết hồi năm 1970, người con trai thứ hai của nhà văn Nguyên Hồng là Nguyễn Vũ Giang khi ấy đang học năm thứ tư Trường Đại học Dược Hà Nội có về quê bà để thực tập và tìm các cây thuốc dân gian. Ông Giang bất ngờ gặp cô giáo sinh Trần Thị Loan đang nghỉ hè. Bốn mắt nhìn nhau và “có tiếng sét vang lên”, lúc đó hai người chỉ kịp trao nhau dòng địa chỉ để thư đi thư lại. Rồi anh sinh viên tên Giang quay về nhà ở xóm Cầu Đen và nói chuyện với cha mình.
Chỉ mới nghe người con trai nói sơ sơ vậy mà nhà văn Nguyên Hồng đã thấy cảm mến người con gái xa xôi ấy. Anh Giang học xong đại học thì nhập ngũ lần thứ 2 (lần trước anh đi bộ đội 2 năm thì về học đại học). Anh Giang đi một mạch vào tận Đồng bằng sông Cửu Long. Trước khi đi anh còn nhờ cha mình “trông nom” người con gái mà anh yêu. Nhà văn Nguyên Hồng đã tìm về tận nhà cô Loan, ông chủ động “kết thông gia” với gia đình cô và thế là lâu lâu nhà văn Nguyên Hồng mỗi khi có dịp đi công tác lại về Chí Linh để “chơi với thông gia” và “trông nom” cô con dâu tương lai cho con trai mình. Cuối năm 1975, anh bộ đội giải phóng Nguyễn Vũ Giang trở về, một đám cưới giản dị đã diễn ra sau nhiều năm trông đợi. Bà Loan cũng từ đó về nhà chồng và sống cùng bố mẹ chồng.
Bà Loan kể: “Cuối tháng 4 năm 1982, thầy tôi đi công tác ở
Hải Phòng
. Về tới nhà gặp đúng trời đổ mưa to suốt mấy ngày. Không đành lòng thấy vợ con ở trong ngôi nhà dột mái, tường lở nên ông liền trèo lên mái nhà dọi lại những chỗ bị dột. Hồi đó nhà còn lợp mái rạ”.
Rồi ông ra bờ suối Cầu Đen lấy bùn đất về trát lại tường. Bị ngấm nước mưa nên nhà văn Nguyên Hồng bị cảm nặng. Được vợ con chăm sóc tận tình nhưng ông đã lặng lẽ qua đời ngày mùng 2 tháng 5 năm 1982, thọ 64 tuổi, bỏ lại cuốn tiểu thuyết “Núi rừng Yên Thế” mà nhà văn ấp ủ viết nhưng chưa kịp hoàn thành (ông mới viết xong phần 1 và 2 của bộ tiểu thuyết lịch sử lớn này). Sáu năm sau bà Vũ Thị Mùi, vợ nhà văn Nguyên Hồng qua đời. Hiện mộ của vợ chồng nhà văn Nguyên Hồng được mai táng tại chân đồi Cháy ngay bên con suối Cầu Đen và nhìn ra cánh đồng lúa rộng mở.
Từ khoảng sân trước nhà, gió thổi từ chân đồi lên man mác, nắng thu hanh vàng dường như làm đỏ thẫm thêm bức tượng nhà văn Nguyên Hồng được dựng trong vườn cây trước nhà. Đó là một người đàn ông giản dị như một bác nông dân với bộ râu dài đang ngồi thư thái, ánh mắt nhìn xa.
Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982), quê quán
Nam Định
. Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với
Nam Cao
,
Tô Hoài
,
Nguyễn Huy Tưởng
… Ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Tác phẩm của nhà văn Nguyên Hồng gồm tiểu thuyết: Bỉ vỏ (1938), Qua những màn tối (1942), Đàn chim non (1943), Hơi thở tàn (1942), Quán Nải (1943), Cửa biển (4 tập); Sóng gầm (1961), Cơn bão đã đến (1967), Thời kỳ đen tối (1973), Khi đứa con ra đời (1976), Thù nhà nợ nước (1981), Núi rừng Yên Thế.
Truyện ngắn, hồi ký, bút ký: Bảy Hựu (1940), Những ngày thơ ấu (1940), Cuộc sống (1942), Hai dòng sữa (1944), Vực thẳm (1944), Miếng bánh (1945), Ngọn lửa (1945), Địa ngục và lò lửa (1946), Đất nước yêu dấu (1955), Đêm giải phóng (1951), Giữ thóc (1955), Sức sống của ngòi bút (1964), Bước đường viết văn (1971), Một tuổi thơ văn (1973), Những nhân vật ấy đã sống với tôi (1978).
Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật.
|
Tròn 40 năm kể từ ngày nhà văn Nguyên Hồng đi xa, nay tôi mới có dịp được tới “thăm” ông. Một lối mòn nhỏ dẫn lên ngõ nhà ông trên “Đồi văn hóa kháng chiến”.
Một số tác phẩm của nhà văn Nguyên Hồng.
Qua cánh cổng đơn sơ, chúng tôi được đi dưới bóng mát của cây, đều là những cây có từ thời gia đình ông “định cư” ở đây. Ngay trước sân nhà, một cây khế tỏa bóng sum suê, lá xanh chợt hanh vàng trong nắng, xen lẫn giữa màu xanh lá là màu tím của hoa và chỉ khẽ với tay thôi là đã chạm trĩu trịt quả với quả.
Bà Trần Thị Loan, người con dâu thứ hai của nhà văn Nguyên Hồng từ trong nhà bước ra tươi cười chào khách. Được biết sáng sớm nay bà mới từ thành phố Bắc Giang trở lại nhà. Bà cho biết: “Tôi mới xuống Bắc Giang ở với các con một năm nay. Các cháu cứ bảo: Mẹ không được khỏe nên ở một mình chúng con không yên tâm”. Bà Loan nói xong thì cúi xuống, nét mặt hơi buồn, gọng bà chậm rãi: “Tôi về làm dâu và ở nhà này từ cuối năm 1975. Bốn mươi sáu năm gắn bó nên vắng nhà là thấy hẫng”.
Ngôi nhà ba gian khiêm nhường được dựng trên mảnh đất mà từ đầu năm 1947 gia đình nhà văn Nguyên Hồng cùng gia đình một số nhà văn khác tản cư lên đây. Chả là hồi đó, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc nên Hội Văn hóa cứu quốc sơ tán lên vùng An toàn khu Nhã Nam-Yên Thế. Khu vực Đồi Cháy xóm Cầu Đen (sau này được đặt tên là Đồi Văn hóa kháng chiến) thuộc xã Quang Tiến được chọn làm địa điểm của Hội và gia đình các thành viên của Hội. Bởi nơi đây thưa thớt dân cư, tiện lợi cho việc di chuyển, liên lạc với chiến khu Việt Bắc nếu như giặc Pháp phát hiện, tấn công.
Lên xóm Cầu Đen – đồi Cháy đầu tiên là gia đình nhà văn Nguyên Hồng và Kim Lân, tiếp đó là các họa sĩ Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn, rồi đến gia đình nhà văn Ngô Tất Tố. Sau này còn có sự hiện diện của những cây bút nổi tiếng như: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tú Mỡ, Vân Đài, Anh Thơ, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, nhà viết kịch Đình Bảng… Có lúc đội ngũ văn nghệ sĩ tản cư lên tới hàng chục người. Họ được cấp 15 mẫu đất để dựng nhà cửa, sản xuất, quần tụ đoàn kết, bao bọc lẫn nhau cùng vượt khó sinh sống trên mảnh đất mới. Và điều đặc biệt là trong thời kỳ này các văn nghệ sĩ đã cho ra đời không ít những tác phẩm bất hủ để đời.
Xóm Cầu Đen chợt trở nên đông vui, đầm ấm. Gia đình nhà văn Nguyên Hồng ban đầu ở tạm trong một căn nhà lá đơn sơ. Rồi dần dần qua thời gian là một ngôi nhà lợp tranh vách trát đất rồi mới tới ngôi nhà xây ba gian lợp ngói như hiện nay.
Bà Trần Thị Loan giới thiệu về chiếc giá sách và những tư liệu về nhà văn Nguyên Hồng.
Bà Trần Thị Loan sau khi thắp xong nén hương thì nói tiếp: “Cho mãi đến cuối năm 1954 thì các gia đình mới chuyển về Hà Nội và ổn định ở Thủ đô. Chỉ có riêng thầy tôi là thấy nhớ rừng nhớ núi quá, nên đến năm 1957 đã quyết định đưa vợ con quay trở lại xóm Cầu Đen ở cho tới nay”.
Nghe bà Loan nói vậy tôi thấy nhà văn Nguyên Hồng đúng là “kỳ cục” như mọi người hay nói về ông. Sinh năm 1918 ở thành phố Nam Định. Theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống năm 16 tuổi. Vậy mà 17 tuổi đã cầm bút viết văn khi mới học xong tiểu học. Và năm 20 tuổi được nhận giải thưởng Tự lực văn đoàn (một giải thưởng văn học uy tín thời đó) với tiểu thuyết “Bỉ vỏ”. Và như sau này nhà văn Nguyên Hồng đã tâm sự: “Tôi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những áp lực, về những nỗi trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về phía những con người lầm than bị đày đọa, bị lăng nhục. Tôi sẽ vạch trần ra những vết thương xã hội, những việc làm bạo ngược lộng hành của xã hội thời bấy giờ. Tôi sẽ gánh lấy mọi trách nhiệm, chống đối cũng như bào chữa, bảo vệ. Tôi sẽ chỉ có tiến bước, chỉ có đi thẳng. Tôi sẽ chỉ biết có ánh sáng. Và chính tôi là ánh sáng”.
Bà Loan chỉ tay vào chiếc giá sách làm bằng tre được xếp gọn gàng ngay trước những tủ đầy chặt sách mà nhà văn Nguyên Hồng để lại. Bà nói: “Thầy tôi quý chiếc giá sách tre này lắm. Cụ thường đặt ở đó những cuốn sách mà cụ thích. Tôi nhớ mỗi khi muốn đọc sách thì cụ lại gọi: “Loan ơi. Con lấy cuốn sách “Những người khốn khổ” ở trên xích đông mang cho thầy. Giá sách này chúng tôi vẫn giữ, nó là báu vật ghi dấu một thời khó khăn nhưng đầy trăn trở của thầy tôi”.
Qua câu chuyện chúng tôi được bà Trần Thị Loan giới thiệu mình quê ở xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh (nay là
TP Chí Linh
) của
tỉnh Hải Dương
. Nghe thế tôi vội hỏi “Thế làm thế nào mà chị trở thành con dâu của cụ được?”. Bà Loan cười, vẻ e thẹn thoáng thấy trên gương mặt. Được biết hồi năm 1970, người con trai thứ hai của nhà văn Nguyên Hồng là Nguyễn Vũ Giang khi ấy đang học năm thứ tư Trường Đại học Dược Hà Nội có về quê bà để thực tập và tìm các cây thuốc dân gian. Ông Giang bất ngờ gặp cô giáo sinh Trần Thị Loan đang nghỉ hè. Bốn mắt nhìn nhau và “có tiếng sét vang lên”, lúc đó hai người chỉ kịp trao nhau dòng địa chỉ để thư đi thư lại. Rồi anh sinh viên tên Giang quay về nhà ở xóm Cầu Đen và nói chuyện với cha mình.
Chỉ mới nghe người con trai nói sơ sơ vậy mà nhà văn Nguyên Hồng đã thấy cảm mến người con gái xa xôi ấy. Anh Giang học xong đại học thì nhập ngũ lần thứ 2 (lần trước anh đi bộ đội 2 năm thì về học đại học). Anh Giang đi một mạch vào tận Đồng bằng sông Cửu Long. Trước khi đi anh còn nhờ cha mình “trông nom” người con gái mà anh yêu. Nhà văn Nguyên Hồng đã tìm về tận nhà cô Loan, ông chủ động “kết thông gia” với gia đình cô và thế là lâu lâu nhà văn Nguyên Hồng mỗi khi có dịp đi công tác lại về Chí Linh để “chơi với thông gia” và “trông nom” cô con dâu tương lai cho con trai mình. Cuối năm 1975, anh bộ đội giải phóng Nguyễn Vũ Giang trở về, một đám cưới giản dị đã diễn ra sau nhiều năm trông đợi. Bà Loan cũng từ đó về nhà chồng và sống cùng bố mẹ chồng.
Bà Loan kể: “Cuối tháng 4 năm 1982, thầy tôi đi công tác ở
Hải Phòng
. Về tới nhà gặp đúng trời đổ mưa to suốt mấy ngày. Không đành lòng thấy vợ con ở trong ngôi nhà dột mái, tường lở nên ông liền trèo lên mái nhà dọi lại những chỗ bị dột. Hồi đó nhà còn lợp mái rạ”.
Rồi ông ra bờ suối Cầu Đen lấy bùn đất về trát lại tường. Bị ngấm nước mưa nên nhà văn Nguyên Hồng bị cảm nặng. Được vợ con chăm sóc tận tình nhưng ông đã lặng lẽ qua đời ngày mùng 2 tháng 5 năm 1982, thọ 64 tuổi, bỏ lại cuốn tiểu thuyết “Núi rừng Yên Thế” mà nhà văn ấp ủ viết nhưng chưa kịp hoàn thành (ông mới viết xong phần 1 và 2 của bộ tiểu thuyết lịch sử lớn này). Sáu năm sau bà Vũ Thị Mùi, vợ nhà văn Nguyên Hồng qua đời. Hiện mộ của vợ chồng nhà văn Nguyên Hồng được mai táng tại chân đồi Cháy ngay bên con suối Cầu Đen và nhìn ra cánh đồng lúa rộng mở.
Từ khoảng sân trước nhà, gió thổi từ chân đồi lên man mác, nắng thu hanh vàng dường như làm đỏ thẫm thêm bức tượng nhà văn Nguyên Hồng được dựng trong vườn cây trước nhà. Đó là một người đàn ông giản dị như một bác nông dân với bộ râu dài đang ngồi thư thái, ánh mắt nhìn xa.
Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982), quê quán
Nam Định
. Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với
Nam Cao
,
Tô Hoài
,
Nguyễn Huy Tưởng
… Ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Tác phẩm của nhà văn Nguyên Hồng gồm tiểu thuyết: Bỉ vỏ (1938), Qua những màn tối (1942), Đàn chim non (1943), Hơi thở tàn (1942), Quán Nải (1943), Cửa biển (4 tập); Sóng gầm (1961), Cơn bão đã đến (1967), Thời kỳ đen tối (1973), Khi đứa con ra đời (1976), Thù nhà nợ nước (1981), Núi rừng Yên Thế.
Truyện ngắn, hồi ký, bút ký: Bảy Hựu (1940), Những ngày thơ ấu (1940), Cuộc sống (1942), Hai dòng sữa (1944), Vực thẳm (1944), Miếng bánh (1945), Ngọn lửa (1945), Địa ngục và lò lửa (1946), Đất nước yêu dấu (1955), Đêm giải phóng (1951), Giữ thóc (1955), Sức sống của ngòi bút (1964), Bước đường viết văn (1971), Một tuổi thơ văn (1973), Những nhân vật ấy đã sống với tôi (1978).
Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật.
|
Nhà văn, nhà thơ Ngô Văn Phú tác giả của bài thơ nổi tiếng ‘Mây và bông’ (trên trời mây trắng như bông), đã rời bỏ thế gian, “hóa thành một vầng mây bay về trời” ở tuổi 86.
Nhà văn, nhà thơ Ngô Văn Phú qua đời tại nhà riêng vào 15g15 ngày 24-10 ở tuổi 86. Thông tin trên được Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam xác nhận.
“Ông đã rời bỏ thế gian, hóa thành một vầng mây bay về trời”- nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết trên trang cá nhân. Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam cũng bày tỏ: “Quá nhiều bạn đọc Việt Nam ở tuổi tôi trở lên đều biết một bài thơ nổi tiếng của ông từ những năm 60 của thế kỷ trước. Bài thơ viết về những đám mây:
Mây và Bông
Trên trời mây trắng như bông,
Ở dưới cánh đồng, bông trắng như mây.
Những cô má đỏ hây hây,
Đội bông như thể đội mây về làng.
Nhà thơ Ngô Văn Phú. Ảnh: TL
Đánh giá về nhà văn, nhà thơ Ngô Văn Phú,
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
nói: “Đó là người tôi có cảm giác lúc nào trên gương mặt ông có một nụ cười đầy dịu dàng, tinh tế và người rất uyên thâm, một trong những nhà văn viết nhiều nhất ở Việt Nam với khoảng 200 đầu sách. Tôi học ở ông nhiều, có một điều ông ấy dặn tôi là không sợ hãi cái gì, cứ ngồi xuống mà viết đi”- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói.
Nhà thơ Ngô Văn Phú sinh ngày 8-4-1937, quê tại xã Nam Viêm,
thị xã Phúc Yên
,
tỉnh Vĩnh Phúc
. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, khoá 1958-1961, ông từng phụ trách công tác biên tập viên tại báo Văn học (1961-1963), báo Văn nghệ (1963-1966), tạp chí Văn nghệ quân đội (1966-1972), Phó phòng văn xuôi báo Văn nghệ (1972-1976), Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn (1976-1999).
Ông đã in 230 tựa sách gồm thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, biên soạn, nghiên cứu, tạp văn với các bút danh như Ngô Vũ Bằng, Đào Bích Nguyên… Các tập thơ có thể kể tới là
Tháng năm mùa gặt
(1978);
Đi ngang đồi cọ
(1986);
Cỏ bùa mê
(1988);
Heo may
(1998)… Tập truyện ngắn:
Thần hoàng làng
(1992);
Giấc mơ hoàng hậu
(1993);
Người lang thang với mùa thu
(2001);
T
ruyện ngắn danh nhân Việt Nam
(5 tập, 2006)…
Nhà thơ Ngô Văn Phú từng nhận Giải thưởng truyện ngắn báo Văn học (1958); Giải thưởng thơ tạp chí Văn nghệ (1961); Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012…
VIẾT THỊNH
|
Writer and poet Ngo Van Phu, author of the famous poem 'Clouds and cotton' (white clouds like cotton in the sky), left this world, "turning into a cloud flying back to the sky" at the age of 86.
Writer and poet Ngo Van Phu passed away at his home at 3:15 p.m. on October 24 at the age of 86. The above information was confirmed by Poet Nguyen Quang Thieu, Chairman of the Vietnam Writers' Association.
"He left the world, turned into a cloud and flew back to heaven" - poet Nguyen Quang Thieu wrote on his personal page. The President of the Vietnam Writers Association also expressed: "Too many Vietnamese readers my age or older know a famous poem of his from the 60s of the last century. Poem about clouds:
Rattan and Cotton
Sky white fluffy clouds,
In the fields, the cotton is as white as clouds.
The red-cheeked girls,
Wearing cotton is like wearing a rattan to the village.
Poet Ngo Van Phu. Photo: TL
Evaluation of writer and poet Ngo Van Phu,
poet Nguyen Quang Thieu
said: "That is the person I feel like he always has a gentle, delicate smile on his face and is very profound, one of the most prolific writers in Vietnam with about 200 books. I learned a lot from him, one thing he told me was not to be afraid of anything, just sit down and write" - Poet Nguyen Quang Thieu said.
Poet Ngo Van Phu was born on April 8, 1937, from Nam Viem commune,
Phuc Yen town
,
Vinh Phuc province
. After graduating from the Faculty of Literature of Hanoi University, class 1958-1961, he was in charge of editor work at Van Van newspaper (1961-1963), Van Nghe newspaper (1963-1966), Van Van magazine (1963-1966). Military Arts (1966-1972), Deputy of the Prose Department of Van Nghe Newspaper (1972-1976), Director and Editor-in-Chief of the Writers' Association Publishing House (1976-1999).
He has printed 230 book titles including poetry, short stories, novels, compilations, research, and miscellaneous literature with pen names such as Ngo Vu Bang, Dao Bich Nguyen... Poetry collections include:
Harvest time in May
(1978);
Pass by palm hill
(1986);
Enchanted grass
(1988);
Lucky pig
(1998)… Collection of short stories:
Village god
(1992);
Queen's dream
(1993);
People wandering in autumn
(2001);
T
Short stories of famous Vietnamese people
(5 episodes, 2006)…
Poet Ngo Van Phu received the Literature Newspaper Short Story Award (1958); Literature and Arts Magazine Poetry Award (1961); State Award for Literature and Arts 2012…
WRITE THINH
|
Những người được chọn nghiên cứu vật thể bay không xác định (UFO) là các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực như sinh học vũ trụ, khoa học dữ liệu, hải dương học, di truyền học, chính sách và khoa học hành tinh.
Đây là lần đầu tiên cơ quan này điều tra các hiện tượng không giải thích được trên bầu trời Trái đất. – Ảnh: REUTERS
Theo Đài CNN, các quan chức tại Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) đã chọn một nhóm gồm 16 nhà khoa học và chuyên gia để nghiên cứu những bí ẩn xung quanh các hiện tượng bay không xác định, hay thường được gọi là vật thể bay không xác định (UFO). Nghiên cứu của họ đã được khởi động ngày 24-10.
Những người này là các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực, bao gồm sinh học vũ trụ, khoa học dữ liệu, hải dương học, di truyền học, chính sách và khoa học hành tinh. Ngoài ra còn có phi hành gia
NASA
đã nghỉ hưu Scott Kelly, một chỉ huy tàu trong Hải quân Mỹ đã nghỉ hưu, và phi công.
Tổ công tác gồm 16 thành viên này sẽ tập trung nghiên cứu những trường hợp tuyên bố đã thấy UFO và các dữ liệu khác được thu thập từ chính quyền dân sự và lĩnh vực thương mại.
Cũng cần lưu ý nghiên cứu của NASA tách biệt với cuộc điều tra của Lầu Năm Góc triển khai gần đây về các hiện tượng trên không chưa xác định (do phi công quân sự tường thuật và được giới chức tình báo, quốc phòng Mỹ phân tích).
Những nỗ lực song song của NASA và Lầu Năm Góc đánh dấu bước ngoặt đối với Chính phủ Mỹ sau nhiều thập niên nghi ngờ các quan sát về UFO, có từ thập niên 1940.
Thuật ngữ UFO – từ lâu gắn với đĩa bay và phi thuyền của người ngoài hành tinh – gần đây đã được chính quyền Mỹ thay thế bằng “UAP” (các hiện tượng trên không không xác định).
Hồi tháng 6, NASA chính thức tham gia cuộc săn tìm UFO khi thông báo sẽ tuyển dụng các nhà khoa học hàng đầu để nghiên cứu về các vật thể này.
Các tàu thăm dò của NASA đã “lùng sục” khắp
Hệ Mặt trời
để tìm hóa thạch của các vi sinh vật cổ đại, hay các nhà thiên văn học của NASA tìm kiếm cái gọi là “các dấu hiệu công nghệ” (technosignatures) trên những hành tinh xa xôi để tìm dấu hiệu của các nền văn minh tiên tiến. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên cơ quan này điều tra các hiện tượng không giải thích được trên bầu trời Trái đất.
Lĩnh vực nghiên cứu UFO – từng là nghiên cứu bị coi kém hiệu quả – đang thu hút được nhiều sự quan tâm. Một báo cáo tình báo Mỹ năm ngoái đã đề cập 144 vụ chạm trán UFO, trong đó phần lớn chưa được giải thích và không loại trừ giả thuyết người ngoài hành tinh.
BÌNH AN
|
Those chosen to study unidentified flying objects (UFOs) are experts in a variety of fields such as astrobiology, data science, oceanography, genetics, policy and planetary science.
This is the first time the agency has investigated unexplained phenomena in Earth's sky. – Photo: REUTERS
According to CNN, officials at the US Aeronautics and Space Administration (NASA) have selected a group of 16 scientists and experts to research the mysteries surrounding unidentified flying phenomena, or commonly known as UFOs. called unidentified flying objects (UFOs). Their research was launched on October 24.
These people are experts in many fields, including astrobiology, data science, oceanography, genetics, policy and planetary science. There are also astronauts
NASA
retired Scott Kelly, a retired US Navy ship commander, and pilot.
The 16-member working group will focus on cases of claimed UFO sightings and other data collected from civil authorities and the commercial sector.
It's also important to note that NASA's research is separate from a recently launched Pentagon investigation into unidentified aerial phenomena (reported by military pilots and analyzed by US intelligence and defense officials). volume).
The parallel efforts by NASA and the Pentagon mark a turning point for the US government after decades of skepticism about UFO observations, dating back to the 1940s.
The term UFO – long associated with flying saucers and alien spacecraft – was recently replaced by the US government with “UAP” (unidentified aerial phenomena).
In June, NASA officially joined the UFO hunt when announcing it would recruit top scientists to research these objects.
NASA probes have been "searching" everywhere
Solar system
to find fossils of ancient microorganisms, or NASA astronomers search for so-called “technosignatures” on distant planets for signs of civilizations advanced. However, this is the first time the agency has investigated unexplained phenomena in Earth's sky.
The field of UFO research – once considered underperforming – is attracting a lot of interest. A US intelligence report last year mentioned 144 UFO encounters, most of which were unexplained and did not rule out the alien hypothesis.
PEACEFUL
|
Những hoạt động kỷ niệm 990 năm Danh xưng Thanh Hóa (1029-2019) diễn ra trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này, cách đây đã gần 4 năm. Nằm trong chuỗi các hoạt động nhân sự kiện này, nhiều ấn phẩm đã được xuất bản, trong đó có cuốn “Thanh Hóa thời Lý” (do Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa xuất bản năm 2019)…
Thời tiền sử, xứ Thanh là một trong những cái nôi của người Việt cổ. Thời
Hùng Vương
, Cửu Chân – Ái Châu là quê hương của nền
văn hóa Đông Sơn
nổi tiếng. Trong ngót một ngàn năm dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, vùng đất này liên tục nổ ra các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Sau buổi đầu của các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê, xứ Thanh dưới thời nhà Lý có những bước phát triển vượt bậc, nhất là từ khi Thái úy Lý Thường Kiệt được triều đình cử vào “trông coi” Thanh Hóa với cương vị là Tổng trấn (1082-1101) và suốt thời kỳ triều vua Lý Nhân Tông. Đó là: chính trị ổn định; xã hội yên bình; kinh tế nông nghiệp được khuyến khích phát triển và từng bước nâng cao. Phật giáo trở thành quốc giáo, với hàng loạt công trình chùa chiền được xây dựng, gắn với đó là những tấm bia quý được dựng lên, khắc ghi những sự kiện lịch sử, những văn bản mang tính thời sự, trung thực về các mặt trong tiến trình phát triển của xã hội đương thời, để lại dấu tính tin cậy có thể nói là có một không hai cho các thế hệ mai sau.
Trên bình diện tư liệu lịch sử, văn hóa…, hẳn nhiều người chúng ta đã đọc, nghiên cứu tìm hiểu dân tộc Việt Nam nói chung và xứ Thanh nói riêng, qua những bộ sách lịch sử, như:
Đại Việt sử ký toàn thư
do Ngô Sỹ Liên biên soạn;
Dư địa chí
của
Nguyễn Trãi
và các bộ sách lịch sử khác… Hay khi đọc bài “
Thanh Hóa qua góc nhìn lịch sử – văn hóa trong tập Khát vọng Sông Mã – 2013”
, NXB Thế giới (trang 23) của cố Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê – Chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. Cố Giáo sư đã viết:
“Trong suốt chặng đường lịch sử của mình, trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi, đơn vị hành chính… Thanh Hóa vẫn là một đơn vị trực thuộc Trung ương gần như không thay đổi về địa giới. Đặc điểm đó được coi là rất hiếm có, nói lên tính ổn định bền vững của vùng đất xứ Thanh”
.
Và, không phải ngẫu nhiên, trong lời mở đầu cuốn
Le Thanh Hoa
(
tỉnh Thanh Hóa
), vốn là luận văn Tiến sĩ của Charles Robequanin, năm 1931, ông Pasquier, khi đó là quan toàn quyền Đông Dương, cũng đã viết:
“Thanh Hóa không chỉ là một tỉnh, đó là một xứ!”.
Điều đó nói lên vị thế địa – chiến lược của xứ Thanh là hết sức trọng yếu. Các giai đoạn tiếp nối, Thanh Hóa còn là hậu phương bảo vệ biên cương phía Nam của đất nước, là căn cứ bảo toàn lực lượng và nhiều lần cũng là nơi dấy binh giành độc lập dân tộc!
Bên cạnh đó, những người say mê đọc sách ở tỉnh ta cũng như cả nước còn có một nguồn tư liệu quý khác – đó là văn bia Thanh Hóa (tạc trên đá bằng chữ Hán- Nôm) mà ít có nơi nào còn lưu giữ, bảo tồn được số lượng bia nhiều như Thanh Hóa. Theo cuốn sách “Thanh Hóa thời Lý” của Hội Khoa học lịch sử Thanh Hóa, văn bia thời Lý hiện đã tìm thấy trên cả nước là 21 văn bia. Riêng Thanh Hóa có 6 văn bia, các tỉnh: Nghệ An, Hà Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang có 1 văn bia; Ninh Bình có 2, Hưng Yên có 3 văn bia.
Cụ thể, số văn bia hiện còn ở Thanh Hoá gồm: Minh Tinh tự bi văn ở chùa Minh Tinh (nay là xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hoá), do Thích Thiện Giác soạn; bia dựng ngày 15-2 năm Canh Ngọ, niên hiệu Quảng Hựu thứ 6 (1090). An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký ở chùa Báo Ân, núi An Hoạch, huyện Đông Sơn (nay là phường An Hoạch, TP Thanh Hoá), do Chu Văn Thường soạn, niên đại Hội Phong thứ 9 (1100). Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh ở chùa cùng tên tại huyện Hậu Lộc, do Thích Pháp Bảo soạn, bia dựng ngày 19-10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118). Cán Ni Sơn Hương Nghiêm tự bi minh ở chùa Hưng Nghiêm, núi Càn Ni, Đông Sơn (nay là xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá – bia này khuyết danh), thuộc niên đại Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (1124). Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh ở chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn (nay là xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung), Thích Pháp Bảo soạn; bia dựng ngày 3-3 năm Bính Ngọ niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (1126). Diên Linh Chân Giáo tự ở chùa Diên Linh Chân Giáo, xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn (tấm bia này hiện đã mất nội dung và niên đại, đang được lưu giữ tại UBND xã, nhưng dựa vào hoa văn trang trí mà xác định được niên đại thời Lý).
Ở Việt Nam, xét về mặt thể loại, văn bia đã được xem như là một thể văn học thời cổ trung đại. Những bài văn bia này đánh dấu bước đi ban đầu của nền văn học thành văn, hay “những trang sách đá”, “những trang sử đá”. Nghiên cứu nội dung của 6 văn bia nói trên cho phép chúng ta hiểu thêm được nhiều vấn đề về vùng đất xứ Thanh cũng như trong cả nước giai đoạn 1090-1126 (đầu thời Lý), trong đó tiêu biểu là các vấn đề chính trị, lịch sử, văn hoá, xã hội, tôn giáo, nhân vật – dòng họ, kiến trúc…
Khái quát theo cuốn sách, giai đoạn này (1090-1126), tình hình vùng đất Ái Châu (Thanh Hoá) có một số mặt khá phức tạp. Vùng đồng bằng tạm thời yên ổn, nhưng vùng phía Tây và phía Bắc còn có những vụ động loạn, xưng hùng cát cứ. Từ khi Lý Thường Kiệt được triều đình cử vào trấn nhậm Thanh Hoá mang chức Tổng trấn (1082-1101), với chính sách khoan hoà, nhân ái, khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân phát triển sản xuất, canh tác nông nghiệp, thêm vào đó là sự chấp pháp, nghiêm minh đối với kẻ phản nghịch… đã khiến cho lòng dân quy về, kẻ phản loạn không dám nổi dậy. Đây là giai đoạn mà vùng đất này có sự ổn định rộng khắp.
Sau khi Lý Thường Kiệt được triệu trở lại kinh đô, những người kế nhiệm ông đã kế tục sách lược của vị tiền nhiệm, giúp cho vùng đất phên dậu của nhà Lý vẫn duy trì được sự ổn định và có những bước phát triển suốt một thời gian dài. Thời ông Chu Công – người kế nhiệm đầu tiên của Thái uý Lý Thường Kiệt được văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh khái quát như sau:
“Ông (Chu Công) ban bố hiệu lệnh tiếp tục đổi mới, không chùng, không căn mà mềm rắn dựa nhau; không buông, không níu mà cương nhu hợp độ. Phàm đã sắp đặt các việc thì không việc gì không thoả đáng. Khuyên dẫn chăm chỉ việc nông trang, xét hình ngục cốt chuộng điều hoà ái. Cho nên trên dưới đồng lòng, bỏ hết kiện tụng, xóm làng vui vẻ, phong hoá thanh cao” .
(
1)
Đồng thời, bộ máy hành chính cũng được điều chỉnh cho hợp lý hơn. Vai trò của Lý Thường Kiệt với chính sách khoan hoà và những việc làm hợp lòng dân được thực hiện và phát huy rất hiệu quả; tư tưởng, quan điểm tôn giáo mà nền tảng là triết lý Phật – Lão (Phật giáo và Đạo Giáo) song hành thuận lợi; quy mô kiến trúc mỹ thuật phát huy, mở rộng – trở nên một thành tố quan trọng của nền văn hoá của xã hội đương thời…
Lương Vĩnh Lạng
————–
(1) Phan Bảo: Tuyển tập Văn bia Thanh Hóa, trang 268.
|
Những hoạt động kỷ niệm 990 năm Danh xưng Thanh Hóa (1029-2019) diễn ra trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này, cách đây đã gần 4 năm. Nằm trong chuỗi các hoạt động nhân sự kiện này, nhiều ấn phẩm đã được xuất bản, trong đó có cuốn “Thanh Hóa thời Lý” (do Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa xuất bản năm 2019)…
Thời tiền sử, xứ Thanh là một trong những cái nôi của người Việt cổ. Thời
Hùng Vương
, Cửu Chân – Ái Châu là quê hương của nền
văn hóa Đông Sơn
nổi tiếng. Trong ngót một ngàn năm dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, vùng đất này liên tục nổ ra các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Sau buổi đầu của các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê, xứ Thanh dưới thời nhà Lý có những bước phát triển vượt bậc, nhất là từ khi Thái úy Lý Thường Kiệt được triều đình cử vào “trông coi” Thanh Hóa với cương vị là Tổng trấn (1082-1101) và suốt thời kỳ triều vua Lý Nhân Tông. Đó là: chính trị ổn định; xã hội yên bình; kinh tế nông nghiệp được khuyến khích phát triển và từng bước nâng cao. Phật giáo trở thành quốc giáo, với hàng loạt công trình chùa chiền được xây dựng, gắn với đó là những tấm bia quý được dựng lên, khắc ghi những sự kiện lịch sử, những văn bản mang tính thời sự, trung thực về các mặt trong tiến trình phát triển của xã hội đương thời, để lại dấu tính tin cậy có thể nói là có một không hai cho các thế hệ mai sau.
Trên bình diện tư liệu lịch sử, văn hóa…, hẳn nhiều người chúng ta đã đọc, nghiên cứu tìm hiểu dân tộc Việt Nam nói chung và xứ Thanh nói riêng, qua những bộ sách lịch sử, như:
Đại Việt sử ký toàn thư
do Ngô Sỹ Liên biên soạn;
Dư địa chí
của
Nguyễn Trãi
và các bộ sách lịch sử khác… Hay khi đọc bài “
Thanh Hóa qua góc nhìn lịch sử – văn hóa trong tập Khát vọng Sông Mã – 2013”
, NXB Thế giới (trang 23) của cố Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê – Chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam. Cố Giáo sư đã viết:
“Trong suốt chặng đường lịch sử của mình, trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi, đơn vị hành chính… Thanh Hóa vẫn là một đơn vị trực thuộc Trung ương gần như không thay đổi về địa giới. Đặc điểm đó được coi là rất hiếm có, nói lên tính ổn định bền vững của vùng đất xứ Thanh”
.
Và, không phải ngẫu nhiên, trong lời mở đầu cuốn
Le Thanh Hoa
(
tỉnh Thanh Hóa
), vốn là luận văn Tiến sĩ của Charles Robequanin, năm 1931, ông Pasquier, khi đó là quan toàn quyền Đông Dương, cũng đã viết:
“Thanh Hóa không chỉ là một tỉnh, đó là một xứ!”.
Điều đó nói lên vị thế địa – chiến lược của xứ Thanh là hết sức trọng yếu. Các giai đoạn tiếp nối, Thanh Hóa còn là hậu phương bảo vệ biên cương phía Nam của đất nước, là căn cứ bảo toàn lực lượng và nhiều lần cũng là nơi dấy binh giành độc lập dân tộc!
Bên cạnh đó, những người say mê đọc sách ở tỉnh ta cũng như cả nước còn có một nguồn tư liệu quý khác – đó là văn bia Thanh Hóa (tạc trên đá bằng chữ Hán- Nôm) mà ít có nơi nào còn lưu giữ, bảo tồn được số lượng bia nhiều như Thanh Hóa. Theo cuốn sách “Thanh Hóa thời Lý” của Hội Khoa học lịch sử Thanh Hóa, văn bia thời Lý hiện đã tìm thấy trên cả nước là 21 văn bia. Riêng Thanh Hóa có 6 văn bia, các tỉnh: Nghệ An, Hà Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang có 1 văn bia; Ninh Bình có 2, Hưng Yên có 3 văn bia.
Cụ thể, số văn bia hiện còn ở Thanh Hoá gồm: Minh Tinh tự bi văn ở chùa Minh Tinh (nay là xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hoá), do Thích Thiện Giác soạn; bia dựng ngày 15-2 năm Canh Ngọ, niên hiệu Quảng Hựu thứ 6 (1090). An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký ở chùa Báo Ân, núi An Hoạch, huyện Đông Sơn (nay là phường An Hoạch, TP Thanh Hoá), do Chu Văn Thường soạn, niên đại Hội Phong thứ 9 (1100). Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh ở chùa cùng tên tại huyện Hậu Lộc, do Thích Pháp Bảo soạn, bia dựng ngày 19-10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118). Cán Ni Sơn Hương Nghiêm tự bi minh ở chùa Hưng Nghiêm, núi Càn Ni, Đông Sơn (nay là xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá – bia này khuyết danh), thuộc niên đại Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (1124). Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh ở chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn (nay là xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung), Thích Pháp Bảo soạn; bia dựng ngày 3-3 năm Bính Ngọ niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (1126). Diên Linh Chân Giáo tự ở chùa Diên Linh Chân Giáo, xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn (tấm bia này hiện đã mất nội dung và niên đại, đang được lưu giữ tại UBND xã, nhưng dựa vào hoa văn trang trí mà xác định được niên đại thời Lý).
Ở Việt Nam, xét về mặt thể loại, văn bia đã được xem như là một thể văn học thời cổ trung đại. Những bài văn bia này đánh dấu bước đi ban đầu của nền văn học thành văn, hay “những trang sách đá”, “những trang sử đá”. Nghiên cứu nội dung của 6 văn bia nói trên cho phép chúng ta hiểu thêm được nhiều vấn đề về vùng đất xứ Thanh cũng như trong cả nước giai đoạn 1090-1126 (đầu thời Lý), trong đó tiêu biểu là các vấn đề chính trị, lịch sử, văn hoá, xã hội, tôn giáo, nhân vật – dòng họ, kiến trúc…
Khái quát theo cuốn sách, giai đoạn này (1090-1126), tình hình vùng đất Ái Châu (Thanh Hoá) có một số mặt khá phức tạp. Vùng đồng bằng tạm thời yên ổn, nhưng vùng phía Tây và phía Bắc còn có những vụ động loạn, xưng hùng cát cứ. Từ khi Lý Thường Kiệt được triều đình cử vào trấn nhậm Thanh Hoá mang chức Tổng trấn (1082-1101), với chính sách khoan hoà, nhân ái, khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân phát triển sản xuất, canh tác nông nghiệp, thêm vào đó là sự chấp pháp, nghiêm minh đối với kẻ phản nghịch… đã khiến cho lòng dân quy về, kẻ phản loạn không dám nổi dậy. Đây là giai đoạn mà vùng đất này có sự ổn định rộng khắp.
Sau khi Lý Thường Kiệt được triệu trở lại kinh đô, những người kế nhiệm ông đã kế tục sách lược của vị tiền nhiệm, giúp cho vùng đất phên dậu của nhà Lý vẫn duy trì được sự ổn định và có những bước phát triển suốt một thời gian dài. Thời ông Chu Công – người kế nhiệm đầu tiên của Thái uý Lý Thường Kiệt được văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh khái quát như sau:
“Ông (Chu Công) ban bố hiệu lệnh tiếp tục đổi mới, không chùng, không căn mà mềm rắn dựa nhau; không buông, không níu mà cương nhu hợp độ. Phàm đã sắp đặt các việc thì không việc gì không thoả đáng. Khuyên dẫn chăm chỉ việc nông trang, xét hình ngục cốt chuộng điều hoà ái. Cho nên trên dưới đồng lòng, bỏ hết kiện tụng, xóm làng vui vẻ, phong hoá thanh cao” .
(
1)
Đồng thời, bộ máy hành chính cũng được điều chỉnh cho hợp lý hơn. Vai trò của Lý Thường Kiệt với chính sách khoan hoà và những việc làm hợp lòng dân được thực hiện và phát huy rất hiệu quả; tư tưởng, quan điểm tôn giáo mà nền tảng là triết lý Phật – Lão (Phật giáo và Đạo Giáo) song hành thuận lợi; quy mô kiến trúc mỹ thuật phát huy, mở rộng – trở nên một thành tố quan trọng của nền văn hoá của xã hội đương thời…
Lương Vĩnh Lạng
————–
(1) Phan Bảo: Tuyển tập Văn bia Thanh Hóa, trang 268.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.