vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Giải thích nhan đề bài thơ Tràng Giang của Huy Cận Hướng dẫn Giải thích nhan đề bài thơ Tràng Giang của Huy Cận Huy Cận được xem là một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới với phong cách sáng tác theo từng thời kì của lịch sử. trước cách mạng tháng tám thì giọng thơ của ông mang phong cách u uất,sầu não còn sau cách mạng tháng tám thì giọng thơ hào hùng sôi nổi Tràng Giang là bài thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới trước cách mạng tháng 8 với nhiều nỗi trăn trở và nỗi niềm.Đặc biệt hơn nữa là nhan đề của bài này giúp cho người đọc rất ấn tượng,có cảm nhận và có cái nhìn sâu sắc về nó Như chúng ta đã biết thì nhan đề có thể được xem là cái cửa ngõ để giúp cho người đọc có thể khám phá và tò mò muốn tìm hiểu tận sâu ben trong nó là như thế nào. Bài thơ tràng giang cũng như vậy,nỗi niềm thầm kín của tác giả cũng được gửi vỏn vẹn trong hai từ “tràng giang” nhan đề làm toát lên được ý nghĩa và tư tưởng nổi bật của cả bài thơ Nhan đề bài thì thường chứa những nội dung của nó, vì vậy khi người nghệ sĩ sáng tác ra một bài văn bài thơ thì thường đặt cho nhan đề bài của mình làm sao hàm chứa được cả nội dung của một bài thơ bài văn đã viết Nhan đề bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là một trong những dụng ý nghệ thuật nhà thơ đưa ra. Tràng giang vốn là hai từ hán việt để chỉ dòng sông dài. Đó là dòng sông của đất nước việt nam có từ thủa khai thiên lập địa rồi. nó không chỉ là dài về không gian mà còn dài về cả thời gian,đó là thời gian lịch sử. Trong một bài thơ đi tìm hình của nước, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết “Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây”. Trong nhan đề có nhiều người vẫn thắc mắc rằng tại sao tác giả không chọn từ “trường “ mà dùng thành từ “tràng” bởi từ trường đơn giản chỉ là để miêu tả một chiều dài,nhưng cái tinh tế và khéo léo của ông ở đây là miêu tả tử tràng nghĩa là nói lên cái mênh mông,cái rộng lớn,âm của nó vang vốn là một âm mở,nó không chỉ là để miêu tả về chiều dài của con sông mà còn nói lên được chiều rộng của con sông. Đó là một con sống được tác giả vẽ lên với không gian 3 chiều thứ nhất chiều sâu,thứ hai là chiều rộng và cuối cùng là chiều dài của tác phẩm, dòng sống càng dài càng rộng bao nhiêu thì tâm hồn của nhà thi sĩ càng cô sầu cô liêu bấy nhiêu Nguồn: Bài văn hay
Explain the title of Huy Can's poem Trang Giang Instruct Explain the title of Huy Can's poem Trang Giang Huy Can is considered a typical poet in the new poetry movement with a writing style according to each period of history. Before the August Revolution, his poetic voice was melancholic and sad, but after the August Revolution, his poetic voice was heroic and vibrant. Trang Giang is a typical poem for the new poetry movement before the August Revolution with many concerns and emotions. More specifically, the title of this poem helps the reader to be very impressed, have a feeling and have an idea. look deeply into it As we know, the title can be considered a gateway to help readers explore and be curious to find out what it is like deep inside. The poem Trang Giang is the same, the author's secret feelings are also conveyed in just two words "Trang Giang", the title exudes the meaning and outstanding ideology of the entire poem. The title of an article often contains its content, so when an artist composes an essay or poem, he or she often gives the title of his article a way that contains the content of the poem or essay. write The title of Huy Can's poem "Trang Giang" is one of the poet's artistic intentions. Trang Giang is originally two Sino-Vietnamese words to refer to a long river. It is the river of Vietnam that has existed since the beginning of time. It is not only long in space but also long in time, which is historical time. In a poem looking for the image of water, poet Che Lan Vien wrote “Where does the Red River flow? And history When will Truong Son strip wake up? God Phu Dong's arm will reach the clouds." In the title, many people still wonder why the author did not choose the word "field" but instead used the word "colon" because the word field simply describes a length, but his sophistication and ingenuity. Here, describing the river means speaking of its vastness, its vastness, its resounding sound is inherently an open sound, it is not only to describe the length of the river but also the width of the river. River. It is a life drawn by the author with the first 3-dimensional space, the depth, the second is the width and finally the length of the work. The longer the life line, the wider the poet's soul. the more lonely and lonely it is Source: Good article
Giải thích nhan đề Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc Hướng dẫn Một nguyên tắc được quán triệt thâu đáo trong quan điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn luôn phải xác định một cách rõ ràng đối tượng, mục đích (Viết cho ai? Viết để làm gì?), từ đó đề ra phương pháp cụ thể (Viết như thế nào?). Có thể nói, thành công lớn nhất về mặt nghệ thuật của Bản án chế độ thực dân Pháp nói chung và chương Thuế máu nói riêng là trên phương diện bút pháp. Mọi yếu tô" từ lời văn, câu chữ, kết cấu, giọng điệu… đều được vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đáp ứng các yêu cầu về đối tượng, mục đích của tác phẩm. Về mục đích: viết để tô" cáo tội ác của thực dân Pháp (như tên tác phẩm đã nêu) ở các nước thuộc địa. Về đôi tượng: đây là vấn đề phải được xem xét kĩ lưỡng. Đối tượng trực tiếp của Bản á«….không phải là nhân dân Việt Nam với hơn 90% dân sô" mù chữ lúc bấy giờ. Đối tượng của tác phẩm là nhân dân Pháp, mở rộng ra là dư luận tiến bộ trên toàn thế giới. Dù ở nhiều thành phần khác nhau nhưng họ đều có một đặc điểm cơ bản, đó là trình độ văn hoá rất cao nhưng lại chưa hiểu biết gì nhiều về các nước thuộc địa, do đó dễ dàng bị giai cấp thống trị lừa gạt. Nhiều người tin rằng, quân đội Pháp đang thực hiện những sứ mệnh cao cả, đó là đem lại hạnh phúc, no ấm cho các dân tộc thuộc địa. Với đối tượng như vậy, chọn cách viết như thê" nào? Nếu đứng về phía nhân dân các nước thuộc địa mà tô" cáo e sẽ khó tạo được sự hấp dẫn cho bạn đọc, do đó khó đạt được hiệu quả mong muôn. Bởi vậy, thay vì tô" cáo trực tiếp, tác giả Nguyễn Ái Quốc đã chọn cho mình vị trí trung lập, khách quan, thậm chí đứng từ góc nhìn của người Pháp để khái quát vấn đề. Góc nhìn ấy đã tạo ra một giọng điệu châm biếm rất sâu cay khiến cho thực dân Pháp rất tức tối mà không làm gì được (về mặt pháp lí). Gây ấn tượng với bạn đọc trước tiên là nhan đề: Thuế máu Là một công dân bình thường, không ai xa lạ với chuyện đóng thuê": thuê" đường, thuê' chợ, thuê" ruộng đất, thuê" kinh doanh… Những người Pháp quan tâm đến văn học thuộc địa có thể biết ở Việt Nam (lúc bấy giờ) người dân phải đóng thuê' thân, không những người sống mà đến cả người chết cũng phải đóng (?) (Tắt đèn – Ngô Tất Tố) nhưng không ai có thể tưdng tượng nổi một thứ thuê" ghê rợn đến thế: thuế máu. Khi các quan cai trị cần tiền, cần rất nhiều tiền, họ không ngại ngần gì mà không tăng thuê", đồng thời vẽ ra đủ các thứ thuê" vô lí mới, bất chấp những người nô lệ è lưng ra cũng không gánh nổi bởi vì những người nô lệ làm gì có quyền đấu tranh? Tương tự như vậy, khi các quan muốn củng cố địa vị cho mình bằng các cuộc chiến tranh hao tổn xương máu, hà cớ gì không bắt đám dân nô lệ “dễ bảo” kia đem xương máu ra mà cống nộp? Và thế là thuế máu ra đời.
Explanation of the title Blood Tax by Nguyen Ai Quoc Instruct A principle that is thoroughly grasped in President Ho Chi Minh's creative perspective is to always clearly identify the audience and purpose (Who to write for? What to write for?), and from there come up with a solution. specific method (How to write?). It can be said that the greatest artistic success of The Trial of the French Colonial Regime in general and the Blood Tax chapter in particular is in terms of style. Every element from the text, sentences, structure, tone... are applied flexibly and creatively, meeting the requirements of the object and purpose of the work. Regarding the purpose: written to denounce the crimes of the French colonialists (as the title of the work stated) in colonial countries. Regarding the couple: this is an issue that must be considered carefully. The direct object of Ban A«... is not the Vietnamese people with more than 90% of the population being illiterate at that time. The object of the work is the French people, and by extension, progressive public opinion worldwide. Even though they come from many different backgrounds, they all have one basic characteristic: they have a very high cultural level but they don't know much about colonial countries, so they can easily be dominated by the ruling class. deceive people into believing that the French army is carrying out noble missions, which is to bring happiness and prosperity to the colonial peoples. With such an audience, how to choose how to write? If you stand on the side of the people of colonial countries and write e-words, it will be difficult to create attraction for readers, therefore it will be difficult to achieve the desired effect. Therefore, instead of making direct accusations, author Nguyen Ai Quoc chose a neutral, objective position, even from a French perspective to generalize the issue. That perspective has created a The sarcastic tone was very bitter, making the French colonialists very angry and unable to do anything (legally). The first thing that impresses readers is the title: Blood Tax As an ordinary citizen, no one is unfamiliar with paying rent: renting roads, renting markets, renting land, renting businesses... French people interested in colonial literature can learn about it in Vietnam. In the South (at that time), people had to pay rent, not only the living but also the dead (?) (Turn off the light - Ngo Tat To) but no one could imagine such a terrible rent. so scary: the blood tax. When the rulers needed money, needed a lot of money, they did not hesitate to increase the rent" and at the same time drew up all kinds of new "absurd" rents, regardless of the slaves. I can't bear the burden because slaves have no right to fight. Likewise, when officials want to strengthen their position through bloody wars, why not arrest them? Those "docile" slaves brought their blood and blood to pay tribute? And so the blood tax was born.
Giải thích quan niệm Trọng nam khinh nữ nghĩa là gì? Bài làm Từ xưa đến nay, ông cha ta đã có bao những quan niệm đạo lý hay, giàu ý nghĩa để răn dạy con cháu. Nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại những hủ tục mà quan niệm “Trọng nam khinh nữ” cũng là một trong số đó. “Nam” và “nữ” là đại diện cho hai giới tính khác nhau trong xã hội, nhưng lại được đặt xen kẽ trong hai động từ “trọng” và “khinh”. “Trọng” là quan trọng, là ưu ái, coi là hơn, ngược lại “khinh” là khinh thường, xem nhẹ, không tôn trọng. Như vậy, câu nói trên được truyền từ đời này qua đời khác, đặt ra một quan niệm về sự phân biệt giới tính giữa đàn ông và phụ nữ: Đàn ông mới là những người làm nên việc lớn nên sẽ luôn giữ trọng trách quan trọng, được ưu ái hơn là những người phụ nữ được coi là có địa vị thấp bé, không làm được việc lớn. Vậy thì quan niệm ấy liệu có còn đúng hay không? Trước hết, cần phải hiểu rõ, “trọng nam khinh nữ” là một quan niệm đã có từ rất lâu đời, từ xa xưa, đặt trong bối cảnh xã hội phát triển như hôm nay, thì không thể tránh khỏi sự hạn chế trong cách suy nghĩ, hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Trong các tác phẩm văn học cách đây một vài thập kỷ, ta có thể nhận thấy rất rõ ràng quan niệm này, những người phụ nữ bị chà đạp, khinh thường, chịu nhiều uẩn khúc như nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” hay người con gái trong các bài ca dao xưa “Thân em như dải lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Ông cha ta khi xưa quan niệm nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, làm việc lớn, nắm vai trò trụ cột, chủ yếu trong gia đình và xã hội. Thế nhưng, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tôi cho rằng, quan niệm ấy thật sự đã không còn đúng nữa. Có thể, người phụ nữ không được đánh giá cao về sức mạnh như người đàn ông, nhưng ngược lại họ lại có sự kiên cường, bền bỉ và đức hy sinh cao cả không thua kém gì. Rõ ràng có thể nhận thấy biết bao những tấm gương các nữ anh hùng đã bao lần làm rạng danh dân tộc như “kình ngư” Nguyễn Thị Ánh Viên, đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam, vua đầu bếp Mỹ Christine Hà,…Nhưng, để bác bỏ đi một quan niệm mà đã có từ bao đời nay, đó không phải là điều dễ dàng. Phụ nữ dù là ở bất kỳ thời đại nào cũng khó mà có thể đạt được sự công bằng thật sự, như tình trạng bạo hành phụ nữ cẫn xảy ra thường xuyên ở Ấn Độ, hay bạo hành gia đình,..Vậy nên, để bác bỏ đi thì khó, nhưng hạn chế nó là điều mà ta cũng có thể thực hiện được. Hãy tôn trọng, yêu thương những người phụ nữ bên cạnh bạn, chia sẻ với họ, đừng khinh thường hay kì thị bất cứ một giới tính gì vì con người sinh ra, ai cũng có quyền được sống và làm điều mình yêu thích. Quan niệm “Trọng nam khinh nữ” có thể không còn phổ biến hiện nay nhưng nó vẫn như một ngọn lửa nhỏ cháy âm ỉ trong mỗi tập thể, mỗi gia đình, mỗi xã hội. Và trách nhiệm để dập tắt ngọn lửa ấy chính là của mỗi người, mỗi cá nhân của cuộc sống này.
Explain what the concept of respecting men and despising women means? Assignment From ancient times until now, our ancestors have had many good and meaningful moral concepts to teach their children and grandchildren. But besides that, there are also bad customs, the concept of "respecting men over women" is also one of them. “Male” and “female” represent two different genders in society, but are placed alternately in the two verbs “respect” and “despise”. "Respect" means to be important, favor, consider superior, whereas "contempt" means to look down on, disregard, and disrespect. Thus, the above saying is passed down from generation to generation, positing a concept of gender discrimination between men and women: Men are the ones who do great things, so they will always hold important responsibilities. more important and favored than women who are considered to have low status and cannot do great things. So is that concept still true or not? First of all, it is necessary to clearly understand that "respecting men and despising women" is a concept that has existed for a long time, since ancient times, in the context of today's developed society, it is inevitable that there will be limitations in way of thinking and social circumstances at that time. In literary works from a few decades ago, we can clearly see this concept, women are trampled on, despised, and suffer many troubles like Kieu in Nguyen's "The Story of Kieu". Du, Vu Nuong in "The Story of a Nam Xuong Girl" or the girl in old folk songs "Your body is like a strip of peach silk/Floating in the middle of the market, who knows whose hands it will be in?" Our ancestors in the past believed that men had their head in the sky, their feet on the ground, doing great things, and holding the main breadwinner role in the family and society. However, in today's modern life, I think that concept is no longer true. Maybe, women are not appreciated for their strength like men, but on the contrary, they have resilience, perseverance and noble sacrifice that is not inferior to them. Clearly, we can see many examples of female heroes who have made a name for the nation many times, such as "fisherman" Nguyen Thi Anh Vien, the Vietnamese women's football team, American master chef Christine Ha,...But , to refute a concept that has existed for many generations is not an easy thing. It is difficult for women in any era to achieve true equality, such as the situation of violence against women that occurs frequently in India, or domestic violence, etc. So, It is difficult to deny it, but limiting it is something we can also do. Respect and love the women next to you, share with them, do not despise or discriminate against any gender because everyone is born with the right to live and do what they love. The concept of "respecting men over women" may no longer be popular today, but it is still like a small fire smoldering in every group, every family, and every society. And the responsibility to extinguish that fire belongs to each person, each individual in this life.
Giải thích quan niệm Trời sinh voi trời sinh cỏ có nghĩa là gì Bài làm Từ xa xưa, ông cha ta bên cạnh những đạo lý truyền thống quý báu thì song song với đó vẫn còn tồn tại những hủ tục, quan niệm vô lý và “Trời sinh voi trời sinh cỏ” chính là một trong số đó. Câu nói chia làm hai vế, với mối quan hệ nhân quả, mượn hình ảnh của “voi” và “cỏ” để nói về một quan niệm khi trời đã sinh ra loài voi thì ắt sẽ sinh ra sẵn cỏ để chúng ăn, sâu xa hơn, ông cha ta cho rằng, cha mẹ sinh ra con cái thì không cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, cung cấp cái ăn, cái mặc mà ắt những điều kiện ấy sẽ có sẵn để con người hưởng thụ và sử dụng. Tuy nhiên, tôi cho rằng, quan niệm trên có lẽ đã không còn đúng đắn trong cuộc sống hiện nay nữa. Tại sao có thể nói như vậy? Chúng ta cần hiểu rằng, mọi thứ trong cuộc đời này đều không phải tự nhiên mà có mà nó đều trải qua một quá trình con người tìm tòi, sáng tạo và lao động mà nên. Nước chúng ta uống cũng cần phải trải qua công đoạn lọc, quần áo chúng ta mặc là từ bàn tay của những người công nhân, cơm chúng ta ăn là công sức của biết bao người lao động, nên không có một thứ gì là sẵn có. Bên cạnh đó, một con người khi vừa sinh ra, chưa thể hoàn thiện hết về mặt thể chất lẫn tinh thần, nếu không có sự dạy dỗ, chăm sóc của cha mẹ. Ngày xưa, ông cha ta chỉ quan niệm đơn giản “đông con hơn nhiều của”, thế nhưng đặt vào trong bối cảnh thời đại hôm nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì mọi nhu cầu về con người cũng vì thế mà nâng cao lên. Nếu cha mẹ chỉ sinh con cái, còn không quan tâm đến việc nuôi dưỡng, cung cấp cho con cái mình mà cho rằng điều đó ắt sẽ tự động đến thì làm sao con cái có thể phát triển, theo kịp với dòng mạch của xã hội? Chinh quan niệm ấy đã gây ra biết bao hệ luỵ đến xã hội bây giờ điển hình như việc số hộ nghèo ngày càng nhiều, đời sống con người thiếu thốn, vất vả. Một con người từ bé không có sự dạy dỗ, chăm sóc của gia đình mà phải bươn chải, đối mặt với xã hội từ sớm thì sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi những điều xấu, tâm lý không ổn định. Quan niệm trên vậy nên là hoàn toàn không còn giá trị trong cuộc sống hôm nay, lý giải cho điều này, có lẽ xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh ngày xưa, con người còn bị hạn chế về học thức, và xã hội lúc bấy giờ vẫn chưa mấy hiện địa phát triển như bây giờ, tuy nhiên hiện nay thì tư tưởng ấy cần thiết phải bài trừ vì nó sẽ gây ra những hậu quả ảnh hưởng chính đến xã hội. Nó như một lời cảnh tỉnh đối với mỗi bậc làm cha làm mẹ cần biết chăm sóc, nuôi dạy và có trách nhiệm với con cái của mình, tránh sinh quá nhiều con khiến cho không có đủ điều kiện để chăm sóc, học tập, giống như rất nhiều trường hợp của các ông bố bà mẹ trẻ ngày nay sinh con ra nhưng không chăm sóc, bỏ rơi con cái của chính mình. Vỉ rõ ràng, một xã hội chỉ thực sự phát triển khi con người ta có thể được đảm bảo đầy đủ về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Explain what the concept of Heaven giving birth to elephants and Heaven giving birth to grass means Assignment Since ancient times, our ancestors, in addition to the precious traditional morals, still have old customs and unreasonable concepts, and "Heaven gives birth to elephants, heaven gives birth to grass" is one of them. The saying is divided into two parts, with a cause-and-effect relationship, borrowing the images of "elephant" and "grass" to talk about the concept that when heaven gives birth to elephants, grass will be born for them to eat. Furthermore, our ancestors believed that when parents give birth to children, they do not need to nurture, teach, or provide food and clothing, but those conditions will certainly be available for people to enjoy and use. However, I think that the above concept is probably no longer correct in today's life. Why can you say that? We need to understand that everything in this life does not come naturally, but goes through a process of human exploration, creativity and labor. The water we drink also needs to go through a filtration process, the clothes we wear come from the hands of workers, the food we eat comes from the efforts of countless workers, so nothing is ready-made. Have. Besides, when a human being is born, he cannot be completely perfect physically and mentally without the education and care of his parents. In the past, our ancestors simply believed that "more children are better than wealth", but in today's context, when society is increasingly developing, all human needs are also increasing. get taller. If parents only give birth to children and do not care about nurturing and providing for their children, thinking that it will come automatically, how can their children develop and keep up with the flow of society? festival? That very concept has caused many consequences to today's society, such as the increasing number of poor households and the lack and hardship of people's lives. A person who has not been taught or cared for by his or her family since childhood but has to struggle and face society from an early age will be easily influenced by bad things and will be psychologically unstable. The above concept is therefore completely invalid in today's life. The explanation for this probably comes from the conditions of the past, when people were still limited in education and society at that time. At that time, it was still not as developed as it is now, but nowadays, that ideology needs to be eliminated because it will cause major consequences that affect society. It serves as a warning to every parent to know how to care for, raise and be responsible for their children, to avoid having too many children, making them not have enough conditions to care for, study, and Like many cases of young parents today who give birth to children but do not take care of them and abandon their own children. Clearly, a society only truly develops when people can be fully guaranteed both physically and mentally.
Giải thích quan niệm Đông con hơn nhiều của nghĩa là gì Bài làm Từ xa xưa, song song với những quan niệm đạo lý đúng đắn, giàu ý nghĩa thì vẫn luôn tồn tại những hủ tục, quan niệm vô lý mà không còn mấy đúng đắn trong cuộc sống hôm nay, và một trong số đó chính là quan niệm “Đông con hơn nhiều của”. Vậy quan niệm ấy có ý nghĩa như thế nào? Ở đây, bằng cách nói so sánh hơn, ông cha ta đã khẳng định vai trò của việc có đông con cái sẽ tốt hơn là có nhiều của cải vật chất, những thứ chỉ là phù du. Việc có nhiều con cái sẽ giúp đỡ đần được công việc nhà, có người chăm sóc lúc đau ốm, gia đình sống quây quần, vui vẻ, gia tộc phát triển. Còn của cải vật chất đôi khi chỉ là thứ phù phiếm, không đem lại cho người ta hạnh phúc bằng việc có tình thân, tình gia đình. Xét theo một góc độ nào đó thuộc về bối cảnh thời đại thì quan niệm ấy cũng không hoàn toàn sai và cũng có tính đúng đắn trong việc đề cao tình thân hơn là vật chất. Vì ngày trước, đất nước ta còn là một đất nước thuần nông nghiệp, lao động chân tay là chủ yếu, khi ấy đất đai còn thoáng đãng, càng đông người thì sẽ càng giúp cho công việc hiệu quả, đạt suất cao. Thế nhưng đặt vào hoàn cảnh sống hiện đại ngày nay, quan niệm ấy có lẽ đã không còn đúng nữa. Khi xã hội ngày một phát triển, công nghệ lên ngôi, đời sống con người ngày càng tăng kéo theo dân số cũng tăng lên khá nhanh, đất đai từ đó mà cũng được lấp đầy bởi những đô thị, xe cộ, nhà cao tầng,…thì việc “đông con” liệu có còn khả thi? Đặc biệt với một đất nước đang phát triển như Việt nam, nếu vẫn cứ giữ quan niệm như ông cha ta ngày trước, thì tình trạng bùng nổ dân số sẽ có nguy cơ xảy ra, đất chật mà người lại đông, dễ dàng gây ra các tệ nạn, vấn để xã hội, con cái không thể được giáo dục tốt, hay đủ điều kiện học tập, kinh tế đất nước cũng phát triển chậm hơn, con người ta phải không ngừng vất vả để mưu sinh, kiếm sống nuôi gia đình, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp chắc chắn sẽ xảy ra,… Vậy nên mỗi chúng ta, là một công dân nước Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, để đảm bảo chất lượng cuộc sống, cần ý thức và nhận thức rõ được hiện trạng của xã hội hiện nay và thực hiện tốt chính sách mỗi gia đình chỉ có hai con mà Đảng và nhà nước đã đề ra. Có như thể, đất nước mới phát triển, xã hội mới tốt đẹp, dân trí được nâng cao, tránh được các tệ nạn, hay ảnh hưởng xấu đến môi trường sống…Quan niệm trên đã không còn đúng đắn trong cuộc sống hiện nay nữa.
Explain what the concept of having more children means Assignment Since ancient times, along with correct and meaningful moral concepts, there have always been customs and unreasonable concepts that are no longer correct in today's life, and one of them is concept "More children than wealth". So what does that concept mean? Here, by way of comparison, our ancestors have affirmed the role that having many children is better than having many material possessions, which are only fleeting. Having many children will help with housework, have someone to take care of you when you are sick, the family will live together happily, and the family will develop. Material wealth is sometimes just a frivolous thing, and does not bring people the same happiness as having intimacy and family love. From a certain perspective of the contemporary context, that concept is not completely wrong and is also correct in promoting intimacy over material things. Because in the past, our country was still a purely agricultural country, mainly manual labor. At that time, the land was still open, and the more people there were, the more effective and productive work would be. However, in today's modern living situation, that concept is probably no longer true. As society develops more and more, technology takes over, human life is increasing, the population also increases quite rapidly, the land has since been filled with urban areas, vehicles, and high-rise buildings. ,...is "having many children" still possible? Especially for a developing country like Vietnam, if we still keep the same concept as our ancestors in the past, there will be a risk of population explosion, land is tight and people are crowded, easily causing problems. social evils and problems, children cannot be well educated or qualified to study, the country's economy also develops more slowly, people have to constantly work hard to make a living. raising a family, underemployment and unemployment will certainly occur... So each of us, as a citizen of Vietnam in particular and the world in general, to ensure quality of life, needs to pay attention. Be aware and aware of the current state of society and well implement the policy of having only two children per family that the Party and State have proposed. It is as if the new country has developed, the new society has become better, the people's intellectual level has been improved, evils have been avoided, or negative impacts on the living environment... The above concept is no longer correct in today's life. again.
Giải thích và bình luận câu tục ngữ hay về lời hứa Hướng dẫn I. ĐẶT VẤN ĐỂ: Ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói biểu hiên nhân cách, cá tính của mỗi người. Nhân dân ta rất coi trọng cách ăn nói trong giao tiếp. Khuyên răn người đời cần có trách nhiệm trước lời nói của mình, ca dao có câu: ‘Nói lời phải giữ lấy lời, Đừng như con bướm đậu rồi lại bay’ II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỂ 1. Giải thích nghĩa đen, tìm nghĩa bóng, rút ra ý nghĩa: ‘Nói lời phải giữ lấy lời’:không được thay đổi, không được lật lọng, trước nói thế nào thì sau phải làm đúng như thế, luôn luôn lấy chữ tín làm đầu, biết coi trọng và đề cao chữ tín. ‘Đừng như con bướm đậu rồi lại bay’là một hình ảnh diễn tả bướm đi tìm hoà, hút nhụy hoà, bay và đậu từ bông hoa này qua bông hoa khác. ‘Đừng’ nghĩa là chớ, không nên làm như thế. Mượn hình ảnh bướm tìm hoà, nhân dân ta phê phán một thái độ tuỳ tiện, vô trách nhiệm trước lời nói của mình. Tóm lại, câu ca dao nêu lên một lời khuyên nhằm nhắc nhở mọi người ăn nói phải chín chắn, phải có ý thức, có trách nhiệm trước lời nói của mình, phải biết lấy chữ tín làm đầu, không được hứa suông hứa liều; phải làm đúng, thực hiện đúng điều đã nói và đã hứa. Tại sao ‘Nói lời phải giữ lấy lời?’. Vì sao ‘Đừng như con bướm đậu rồi lại bay?’. Lời nói, ngôn ngữ phản ánh sự hiểu biết, trình độ học vấn, đạo đức tư cách của mỗi người. Người thật thà, có lòng tự trọng và biết tôn trọng người thì ăn nói chân thật, không dám dối trá nửa lời. Nói sao làm vậy, nghĩ như thế nào thì nói như thế ấy, đó là con người có đạo đức, có tư cách. Hứa với ai điều gì, việc gì thì phải giữ đúng. Như thế mới tốt. Trái lại, nói một đàng, làm một nẻo, nói mà không làm, hứa mà không thực hiện đúng lời hứa, đó là kẻ vô đạo đức, bất tín bất nghĩa. Kẻ bất tín, nói lời lại nuốt lấy lời, sớm muộn cũng lộ chân tướng xấu xa, bị mọi người xa lánh và khinh bỉ. Trong mối quan hệ cộng đồng, niềm tin là một trong những cái quý báu nhất. Tinh cha con mẹ con, tình anh em, bằng hữu, tình vợ chồng, tình đồng đội… niềm tin là ngọn lửa thiêng liêng soi sáng tâm hồn. Còn niềm tin là còn tình người, còn hạnh phúc. Khi đã mất niềm tin là mất tất cả, con người sẽ nghi ngờ lẫn nhau. Mối quan hệ ‘người với người là bạn’ bị tan vỡ. Bởi vậy, ‘Nói lời phải giữ lấy lời. Đừng như con bướm đậu rồi lại bay’ là bài học dạy ta cách làm người, cách sống chân thật, coi trọng tín nghĩa. Phải học tập, học văn hóa, khoa học kĩ thuật, học cách làm ăn, học điều khôn lẽ phải ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Học nói lời hay ý đẹp, nhưng cốt lõi của sự học hành làm người là tu dưỡng đạo đức để biết sống chân thật, thực thà. Tục ngữ có câu: ‘Thật thà là cha mách qué’. Niềm tin cho ta tình thương yêu, sức mạnh đoàn kết. Câu nói: ‘Một điều không tin thì vạn sự cũng chẳng tin’ là một điều răn, nhắc nhở chúng ta ‘nói lời phải giữ lấy lời…’. Hứa mà không thực hiện là đáng chê trách. Dối trá, lừa bịp, lật lọng… là biểu hiện về sự sa đọa tâm hồn, đạo lí, dẫn đến những việc làm bất lương, tội ác. Biết giữ lời hứa là một nguyên tắc trong ứng xử, giao tiếp. Cha mẹ, con cái trong gia đình ngoài tình thương còn cần có niềm tin để phát huy gia phong. Bằng hữu lấy niềm tin để thắt chặt dây thân ái. Thầy mến trò, trò kính thầy trên niềm tin để dạy tốt học tốt. Trong cuộc sống, lời nói có lúc được thể hiện qua các văn bản giao kèo, hợp đồng… do đó, ai cũng phải biết làm đúng, thực hiện đúng. Tính pháp lí gắn liền với tính đạo đức là như vậy. Câu ca dao này vốn là lời cô gái nói với chàng trai đến tỏ tình, cầu hôn, vừa nhắc khẽ, vừa răn đe: trong tình yêu phải biết trọng lời hứa, giữ trọn danh dự, thủy chung sắt son, không được bạc tình bạc nghĩa ‘đừng xanh như lá bạc như vôi’ (Hồ Xuân Hương), ‘Đừng như con bướm đậu rồi lại bay’. Thủ tín là một đức tính. Có nhân cách trọng danh dự mới biết trọng lời hứa. Vì thế chúng ta càng cảm nhận sâu sắc lời khuyên ‘Nói lời phải giữ lấy lời…’. Tuổi trẻ phải biết sống chân thực. Không được hứa liều, bừa bãi, phải xuất phát từ khả năng thực hiện để đưa ra lời hứa. Đã hứa thì phải làm đúng. Câu ca dao đã giáo dục em bài học biết trọng danh dự trong lời hứa.
Explain and comment on a good proverb about promises Instruct I. INQUIRY TO: Language and speech express each person's personality and character. Our people attach great importance to the way they speak in communication. Advising people to be responsible for their words, folk songs say: 'If you say something, keep it, Don't be like a butterfly that lands and then flies away. II. PROBLEM SOLVED 1. Explain the literal meaning, find the figurative meaning, and draw the meaning: 'If you say something, you must keep it': don't change it, don't turn it around, whatever you say first, do it later, always put trust first, know how to value and promote trust. 'Don't be like a butterfly that lands and then flies' is an image that describes butterflies searching for peace, sucking the pistil of peace, flying and landing from one flower to another. 'Don't' means don't, don't do that. Borrowing the image of a butterfly seeking peace, our people criticize an arbitrary and irresponsible attitude towards their words. In short, the folk song gives advice to remind people to speak maturely, to be conscious, to be responsible for their words, to know how to put trust first, not to make empty promises. ; must do right, do exactly what was said and promised. Why 'If you say something, you have to keep it?'. Why 'Don't be like a butterfly that lands and then flies away?'. Speech and language reflect each person's understanding, education level, and moral character. Honest people who have self-esteem and respect for others speak honestly and do not dare to lie. Say whatever you want, say whatever you think, that is a person with ethics and character. If you promise someone something, you must keep it. That's good. On the contrary, saying one thing, doing another, saying but not doing, promising but not keeping the promise, that is an immoral, untrustworthy and unjust person. Those who do not believe, speak their words and then swallow them, will sooner or later reveal their ugly truth and be shunned and despised by everyone. In community relationships, trust is one of the most valuable things. The love between father and mother, brotherhood, friendship, love between husband and wife, love for teammates... faith is a sacred fire that illuminates the soul. As long as there is faith, there is still human love and happiness. When you lose faith, you lose everything, people will doubt each other. The relationship 'people are friends' is broken. Therefore, 'If you say something, you must keep it. Don't be like a butterfly that lands and then flies away' is a lesson that teaches us how to be human, how to live honestly, and value trust. We must study, learn culture, science and technology, learn how to do business, learn common sense, 'learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open'. Learn to say good words and beautiful thoughts, but the core of learning to be a human being is to cultivate morality to know how to live honestly and honestly. There is a proverb that says: 'If you're honest, your father won't tell you anything'. Faith gives us love and strength of solidarity. The saying: 'If you do not believe in one thing, you will not believe in all things' is a commandment, reminding us to 'keep your word when you say it...'. Promising but not keeping is reprehensible. Lies, deception, deception... are manifestations of spiritual and moral depravity, leading to dishonest and criminal actions. Knowing how to keep promises is a principle in behavior and communication. Parents and children in the family, in addition to love, also need faith to promote family style. Friends use faith to tighten the bond of friendship. Teachers love students, students respect teachers based on their belief in teaching well and learning well. In life, words are sometimes expressed through contracts, contracts... therefore, everyone must know how to do it right and do it right. Legality is closely linked to morality. This folk song was originally what a girl said to a boy who came to confess her love or propose, both a gentle reminder and a warning: in love, you must respect your promises, keep your honor, be faithful, and do not be disloyal. ungrateful love 'don't be green like silver leaves like lime' (Ho Xuan Huong), 'Don't be like a butterfly that lands and then flies'. Faithfulness is a virtue. Only if you have a personality that values ​​honor will you know how to respect your promises. Therefore, we feel more deeply the advice 'If you say what you say, keep it...'. Youth must know how to live authentically. Do not make reckless or indiscriminate promises; you must make promises based on your ability to perform. If you promise, you must keep it right. The folk song has taught me the lesson of respecting honor in promises.
Đề bài: Giải thích và bình luận câu tục ngữ "Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn" Bài làm Nước ta có nền văn hiến rực rỡ lâu đời. Nhân dân ta có ý thức tự chủ, ý chí tự cường, gắn bó và bảo vệ quê hương đất nước, từng làm thất bại mọi âm mưu đồng hoá của ngoại bang. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, dân ta vẫn giữ vững nền độc lập của đất nước và bản sắc riêng của nền văn hoá Việt Nam. Gắn bó với cội nguồn, với xứ sở bằng tất cả niềm tự hào ấy, tổ tiên vẫn nhắc nhở cháu con ghi sâu vào lòng câu tục ngữ: Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn Đất nước đã có nhiều đổi mới. Nhân dân ta đang cùng các dân tộc trên thế giới bước vào thế kỉ XXI. Trong hoàn cảnh ấy, tìm hiểu ý nghĩa câu tục ngữ, mỗi chúng ta sẽ được bao điều thú vị. Bờ tre, mái rạ, cây cau, mảnh vườn, chiếc ao… là những cảnh vật thân thuộc với nhân dân, với làng xóm ta từ bao đời nay. Cái ao dù nhỏ, đều là sở hữu thân thiết của mọi gia đình nông thôn. Ao là nơi tắm, giặt giũ là nguồn nước để phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Đó là ao cạn vớt bèo cấy muống trong thơ Nguyễn Trãi hay xuân tắm hồ sen, hạ tắm áo trong một ý thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cầu ao, bờ ao cũng là những hình ảnh đã trở thành mảnh của hồn người dân quê: Đêm qua ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ (Ca dao) Cái ao là một biểu tượng của gia đình, quê hương, xứ sở. Nó gắn liền với đời sống vật chất và tinh thần của người dân cày quê ta. Được tắm mát ở ao nhà, nhớ cái ao nước trong veo, họ thầm nhắc: Ta về ta tắm ao ta Ba chữ ta nhắc đi nhắc lại, cùng với bốn tiếng ta tắm ao ta vang lên, biểu lộ niềm tự hào và tấm lòng yêu quí đối với gia đình, quê hương. Nó còn thể hiện một quan niệm, một triết lí sống đẹp: tự tôn tự cường, tin yêu mình, trân trọng những giá trị tốt đẹp do mồ hôi và xương máu mình xây dựng nên. Vế thứ hai là một so sánh ao nhà với ao người. Ao người thì xa lạ. Còn ao nhà thì thân thiết yêu thương. Vì thế dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Niềm tự hào, ý thức tự lập tự cường được khẳng định: ao nhà vẫn hơn. Câu tục ngữ ra đời trong xã hội phong kiến, giữa một nền sản xuất tiểu nông, khi đất nước ta phải đương đầu với âm mưu đồng hoá – nô dịch của ngoại bang, nên nó mang nội dung tư tưởng tích cực. Nó thể hiện tình yêu gia đình, làng xóm, quê hương. Nó biểu thị ý thức tự chủ và niềm tự hào dân tộc chính đáng. Điều kiện lịch sử và xã hội của nông thôn ta, đất nước ta ngày nay đã có nhiều đổi thay. Con người Việt Nam vẫn phải phát huy cao độ lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, tinh thần tự lập tự cường, đồng thời phải biết hoà hợp, vừa phát huy nội lực và tiếp thu văn minh các thành tựu khoa học kĩ thuật, văn hoá tiên tiến của các nước gần xa. Một mặt phải chống tư tưởng bảo thủ, khép kín, mặt khác biết giữ vững và phát huy bản sắc dân tộc, nhất là nền văn hoá Việt Nam. Một nước Việt Nam hiện đại, phồn vinh, có nền vãn hoá giàu bản sắc và một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu phấn đấu của cả cộng đồng dân tộc. Muốn hoà nhập mà không bị hoà tan, mở cửa nhưng không bị biến thành cái bóng mờ của thiên hạ thì phải phát huy nội lực, nêu cao tinh thần tự lực tự cường để tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Thế kỉ XXI là thế kỉ của nền văn minh trí tuệ. Việt Nam mở cửa đón gió mát bốn phương với rất nhiều thời cơ và thách thức lớn. Nhân dân ta sẽ "tắm" ao hồ của người khắp bốn phương nhưng vẫn không bao giờ quên cái mát trong của ao nhà. Câu tục ngữ: Ta về ta tắm ao ta Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn dù nội dung, ý nghĩa có ít nhiều thay đổi, nhưng cái tâm, cái tấm lòng hồn hậu, chất phác, thật thà, trong sáng của con người Việt Nam đối với gia đình, quê hương, đất nước thật là đáng quý trọng muôn ngàn lần.
Topic: Explain and comment on the proverb "When I come home, I bathe in my pond. Even if it's clear or opaque, the pond at home is better" Assignment Our country has a long-standing brilliant civilization. Our people have a sense of autonomy, the will to be self-reliant, attached to and protect their homeland, and have failed all foreign assimilation plots. Through many historical ups and downs, our people still maintain the country's independence and the unique identity of Vietnamese culture. Sticking to their roots and their country with all that pride, their ancestors still remind their children to keep the proverb in mind: We return our bathing pond, Even if it's clear or opaque, it's better to have a pond at home The country has had many innovations. Our people are joining other nations in the world in entering the 21st century. In that situation, learning the meaning of the proverb will bring many interesting things to each of us. Bamboo banks, thatched roofs, areca trees, gardens, ponds... are familiar scenes to our people and villages for many generations. Even though the pond is small, it is an intimate possession of every rural family. Ponds are places for bathing and washing, and are a source of water for living and production. It is a shallow pond to collect water hyacinths and plant morning glory in Nguyen Trai's poem or bathing in a lotus pond in spring and bathing in clothes in a summer in a poem by Nguyen Binh Khiem. Pond bridges and pond banks are also images that have become part of the soul of the countryside people: Last night I went to stand by the pond The fish look like they dive, the stars look dim (Folk) The pond is a symbol of family, homeland, and country. It is associated with the material and spiritual life of the people plowing our country. Taking a cool bath in the pond at home, remembering the pond's clear water, they silently reminded: We return our bathing pond The three words I repeat over and over, along with the four sounds I bathe in my pond, express my pride and love for my family and homeland. It also represents a beautiful concept and philosophy of life: self-respect, self-reliance, trust in and love for oneself, and appreciation for the good values ​​built by one's sweat and blood. The second part is a comparison of a home pond with a human pond. Human ponds are strange. As for the home pond, it is friendly and loving. So even if it's clear, it's better to have a pond at home. Pride and a sense of independence are affirmed: a home pond is better. The proverb was born in a feudal society, in the midst of small-scale agricultural production, when our country had to cope with foreign plots of assimilation and enslavement, so it carries positive ideological content. It shows love for family, village, and homeland. It signifies a sense of autonomy and legitimate national pride. The historical and social conditions of our countryside and our country today have changed a lot. Vietnamese people still have to highly promote patriotism, national pride, and the spirit of independence and self-reliance, and at the same time know how to get along, promote internal strength, and absorb civilized scientific and technological achievements. advanced arts and culture of countries near and far. On the one hand, we must fight against conservative and closed ideology, and on the other hand, we must know how to maintain and promote national identity, especially Vietnamese culture. A modern, prosperous Vietnam, with a rich culture and a fair, democratic, and civilized society is the goal of the entire national community. If you want to integrate without being dissolved, open the door but not become a shadow of the world, you must promote your internal strength and uphold the spirit of self-reliance to create the strength of the Vietnamese people in this era. new. The 21st century is the century of intellectual civilization. Vietnam opens its doors to welcome cool breezes from all directions with many great opportunities and challenges. Our people will "bathe" in people's ponds and lakes from all over the world but will never forget the coolness of their ponds. Proverb: We return our bathing pond Even if it's clear or opaque, it's better to have a pond at home Although the content and meaning have changed more or less, the heart and soul of the Vietnamese people, who are kind, simple, honest, and pure towards their family, homeland, and country, are truly precious. thousands of times.
Giải thích và bình luận câu tục ngữ: ‘Có làm thì mới có ăn…’. Hướng dẫn ‘Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ dem phần đến cho’ 1. Câu tục ngữ diễn đạt dưới hình thức thơ lục bát. Câu lục mộc mạc, giản dị như một lời ăn tiếng nói hàng ngày của bà con lao động về một sự thật hiển nhiên ở đời: ‘Cố làm thì mới có ăn’.Dân gian đã sử dụng cách nói điều kiện – hệ quả để chỉ ra một chân lí. ‘Cố làm’là điểu kiện; ‘có ăn’là hệ quả. Thật là dễ hiểu, vì có làm thì mới có ăn; muốn có ăn thì phải làm, phải lao động. Hai tiếng ‘không dưng’trong câu bát nghĩa là không bỗng chốc, không tự nhiên, tự dưng mà có. Chữ ‘phần’là miếng ăn, là của cải vật chất. ‘Có con mà gả chồng gần – Nửa đêm đốt đuốc đem phẩn biếu cha’(ca dao). Nghĩa câu bát bổ sungcho nghĩa câu lục, dân gian đã nhắc khẽ người đời nên biết, nên nhớ là không tự dưng, không bỗng chốc vô cớ mà thiên hạ đem miếng ăn, đem của cải vật chất đến cho không mình. Tóm lại, câu tục ngữ đã chỉ rõ: muốn sống, muốn tồn tại, muốn ấm no thì phải lao động; không thể sống ỷ lại thiên hạ. 2. Câu tục ngữ đã khẳng định giá trị to lớn của lao động, ca ngợi sức lao động và con người lao động. Lao động trước hết để nuôi sống bản thân mình, nuôi sống gia đình mình. Lao động còn để phục vụ đất nước và nhân dân trên vị thế công dân. Có làm có lao động mới sản xuất ra mọi của cải vật chất và sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm cho đất nước ngày thêm giàu đẹp. Lao động là nguồn sống, nguồn ấm no hạnh phúc cho gia đình và xã hội. 3. Câu tục ngữ trên chỉ rõ lao động là thước đo giá trị phẩm giá của mỗi người, mỗi thành viên trong gia đình, mỗi công dân trong xã hội. Cần cù siêng năng, kiên nhẫn, chịu khó, dũng cảm, sáng tạo, v.v… là những đức tính tốt đẹp được hình thành phát triển trong lao động, làm nên nhân cách công dân. Và cũng vì thế mà các thói xấu, tệ nạn như lười biếng, ỷ lại, ngại khó ngại khổ, tham lam, thích ăn ngon, mặc dẹp, xài sang mà chây lười, bóc lột, tham nhũng, xa hoà, lãng phí, v.v… đều bị cộng đồng chê cười, khinh bỉ, lên án. Dân gian nói thật hay về chuyện làm và ăn ở đời. Những câu tục ngữ ấy đã trở thành bài học luân lí thấm thía: – ‘Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn’. – ‘Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ’. – ‘Có khó mới có miếng ăn, Không dưng ai dễ mang phần đến cho’ 4. Câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn…’nêu lên một nguyên tắc, một quan niệm đúng đắn, công bằng, về làm và ăn, về cống hiến và hưởng thụ: có làm thì có hưởng, làm tốt hưởng nhiều, làm ít, làm dở thì hưởng ít, không làm không hưởng. Trong xã hội cũ, nhân dân lao động đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn đói rét, trái lại, tầng lớp trên không làm mà lại sống trong nhung lụa. Đó là nghịch lí, bất công: ‘Thằng còng làm cho thằng ngay ăn’, ‘Kẻ ăn không hết người tần không ra. Lao động thủ công, lao động cơ bắp thật đáng quý. Một giọt mồ hôi, một hạt cơm vàng. Nhưng lao động kĩ thuật, lao động sáng tạo, tài kinh doanh quản lí mới là phẩm chất cần có, nên có đối với mọi người sống trong nền kinh tế – xã hội tri thức. Nếu làm mà không tiết kiệm, sống xa hoa lãng phí, cần mà không kiệm, thì có thể nói là chưa hiểu đầy đủ câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn…’.Qua câu tục ngữ trên, nhân dân ta đã đề cao lao động, nêu lên bài học giáo dục tinh thần lao động, nhắc nhở mọi người yêu lao động, biết sống bằng lao động. Bước vào đời, ai cũng phải sống bằng lao động, phải biết làm giàu một cách chính đáng bằng vốn liếng của mình, bằng chất xám và tài năng của mình. Cuộc đời đâu chỉ vì ăn mà làm, mà lao động? Còn nhiều ý nghĩa cao quý hơn. Vì sự ấm no hạnh phúc của 208 cộng đồng, vì sự phú cường của đất nước mà người người lao động, nhà nhà lao động. Làm để ăn để sống; làm còn để hiến dâng và phục vụ. Ông cha ta còn nhắc nhở: ‘Miệng ăn núi lở’,vì thế cần kiệm phải là quốc sách. ngữ ‘Có làm thì mới có ăn…’này. Vì thế, học giỏi, lao động giỏi, được sống trong khoa học và giàu có là chí hướng, là ước vọng của mỗi chúng ta.
Explain and comment on the proverb: 'If you work, you will eat...'. Instruct 'If you work, you will eat, No wonder it's easy for anyone to give you their share. 1. Proverbs expressed in the form of six-eight poems. The sentence is rustic and simple, like a daily saying of working people about an obvious truth in life: 'If you work hard, you will be able to eat'. Folk people have used the expression condition - consequence. to point out a truth. 'Try to do' is the condition; ‘have food’ is the consequence. It's easy to understand, because if you work, you will eat; If you want to eat, you have to work, you have to work. The two words 'not suddenly' in verse eight mean not suddenly, not naturally, not suddenly. The word 'portion' is food, material wealth. 'If you have children, marry close to you - Light a torch at midnight to give some to your father' (folk song). The meaning of the eighth verse complements the meaning of the sixth verse, folk have gently reminded people that they should know, remember that it is not suddenly, not suddenly without reason, that people give food and material wealth to them for free. In short, the proverb clearly states: if you want to live, survive, and be prosperous, you must work; Can't live depending on people. 2. The proverb affirms the great value of labor, praising labor and working people. Work first and foremost to feed yourself and your family. Labor also serves the country and people as citizens. Only with work can we produce all material wealth and create all spiritual values ​​to make the country richer and more beautiful. Labor is the source of life, prosperity and happiness for family and society. 3. The above proverb clearly shows that labor is a measure of the value and dignity of each person, each family member, and each citizen in society. Diligence, patience, hard work, courage, creativity, etc. are good qualities that are formed and developed during work, creating a citizen's personality. And that's why bad habits and vices such as laziness, dependence, fear of hardship, greed, liking good food, dressing modestly, spending money but being lazy, exploitation, corruption, distance from harmony, wastefulness , etc. are all laughed at, despised, and condemned by the community. Folks talk really well about working and living in life. These proverbs have become profound moral lessons: – 'Praise good manners or do things, whoever praises good manners will often eat'. – 'Hands are chewing jaws, hands are hanging behind the mouth'. – 'It's hard to have food, No wonder it's easy for anyone to give you their share. 4. The proverb 'If you work, you will eat...' raises a principle, a correct and fair concept, about working and eating, about dedication and enjoyment: if you work, you will enjoy, if you do well, you will enjoy If you do a lot, if you do a little, if you do poorly you get little, if you don't work you don't get any. In the old society, the working people worked hard all year round but were still hungry and cold, on the contrary, the upper class did not work but lived in luxury. That is a paradox and injustice: 'The shackled man makes the righteous man eat', 'The one who can't eat enough is the one who can't get out. Manual labor and muscle labor are precious. One drop of sweat, one grain of golden rice. But technical labor, creative labor, and business and management talent are necessary qualities that should be possessed by everyone living in a knowledge-based economy and society. If you work but do not save, live lavishly and wastefully, need but do not save, then it can be said that you have not fully understood the proverb 'If you work, you will eat...'. Through the above proverb, our people have learned promote labor, raise lessons to educate the spirit of labor, and remind people to love labor and know how to live by labor. Entering life, everyone must live by working, must know how to get rich in a legitimate way with their capital, intelligence and talent. Life is not just about eating, working, and working? There are more noble meanings. For the prosperity and happiness of 208 communities, for the prosperity of the country, people work and families work. Work to eat to live; work is also to dedicate and serve. Our ancestors also reminded us: 'Each mouth eats a mountain,' so being frugal must be a national policy. This saying 'If you work, you will eat...'. Therefore, studying well, working well, living in science and being rich is the ambition and desire of each of us.
Giải thích và bình luận câu tục ngữ: ‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’ Hướng dẫn Tục ngữ đã dạy khôn dạy tốt cho ta bao điều. Có biết bao câu tục ngữ hóm hỉnh, sâu sắc đã trở thành hành trang của mỗi chúng ta, trong đó có câu: ‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’* 1. Câu tục ngữ chỉ có tám chữ, chia làm hai vế 4 // 4 đối nhau. Chữ ‘trước’ bắt vần với chữ ‘nước’. Câu tục ngữ ngắn gọn, vần vè, đối xứng nên rất dễ nhớ, dễ thuộc. Về nghĩa đen, nghĩa cụ thể, câu tục ngữ nêu lên hai cách sống rất ‘khôn khéo’*của một số người nào đó trong xã hội. ‘Ăn cỗ đi trước’ là để được ăn nóng, ăn tươi, ăn ngon. Kẻ coi miếng ăn là to, là trên hết mới ‘ăn cổ đi trước’. Trong mâm cỗ xưa nay đều có định lượng khẩu phần nên ăn cỗ, dù có đi trước hay đi sau cũng chỉ có thế thôi. Dân gian muốn chỉ rõ kẻ đi trước lúc ăn cỗ phần lớn là kẻ hám ăn, thèm ăn, tham ăn. Người lịch thiệp không ứng xử như thế. Vế thứ hai nói về chuyện ‘lội nước’ của những ai đó thực chất là chuyện đi đường: ‘lội nước đi sau’. Qua sông qua suối, băng thác vượt ghềnh, mưa to lũ lớn, đường sá ngập nước, ào ào cuốn trôi… ‘Đi trước’ rất nguy hiểm, có thể sa chân vào hố sâu, giẫm đạp phải gai góc, có thể bị ngã què, bị nước cuốn đi. Vì thế kẻ ‘khôn ngoan’ ranh ma mới hành xử theo cách riêng của mình: ‘lội nước đi sau’, để được an toàn. Bốn chữ ‘đi trước’ và ‘đi sau’ tưởng là đối lập, nhưng thật ra nhất quán cả trong suy nghĩ, trong hành động, trong ứng xử của một số người nào đó trong xã hội. Họ biết tìm cái lợi riêng cho bản thân mình trong: ‘ăn’ (ăn cỗ), trong hưởng thụ. Và họ lại còn biết giành lấy phần hơn, phần an toàn cho cuộc đời mình trong mọi việc làm (lội nước). Câu tục ngữ ‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’ đã phản ánh lối sống, cách hành xử vị kỉ, vụ lợi của một số người hèn kém trong.xã hội xưa nay. Những con người ấy, sống ích kỉ, vị kỉ tham lam, ranh ma, chỉ cố sao thu vén cho riêng mình, cho gia đình mình một số lợi lộc nhất định, càng nhiều càng thích, mà không hề bị thiệt thòi dù chỉ ‘chút mảy may lông’! Họ quan niệm một góc chiếu ngồi trên, giữa chốn đình trung là vẻ vang. Họ sống theo triết lí ‘Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp’. Cái đầu gà, cái thủ lợn, cái mâm cỗ ngồi trên giữa họ, ngoài làng được những kẻ ấy lấy làm hãnh diện về sự cao sang, đắc chí rung đùi vuốt râu cười trước bàn dân thiên hạ! ‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’tuy khôn vặt, ích kỉ nhưng không phải là ích kỉ hại nhân. Họ đáng bị đồng loại coi thường, chê cười nhưng chưa đến nỗi bị xã hội khinh bỉ ghê tởm như đối với những kẻ đạo đức giả ‘miệng nam mô bụng một bồ dao găm’, thủ đoạn nham hiểm, chà đạp hãm hại đồng loại đê giành quyền lực, để vinh thân phì gia. 3. Xã hội loài người là cuộc đấu tranh sinh tồn theo xu thế đi lên không ngừng của lịch sử, từ man dã đến văn minh. Trong sản xuất và chiến đấu, thời nào và ở đâu cũng có những người tiên phong, dám xả thân vì hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập tự do của đất nước. Họ dũng cảm chống thiên tai bão tố, lũ lụt để cứu tài sản, tính mạng của nhân dân. Khoa học là con đường đầy gai góc, gian nan. Nhiều nhà khoa học đã nêu cao tấm gương sáng chói. Giáo sư Trần Đại Nghĩa đã từ bỏ mọi vinh hoa phú quý nơi Paris hoa lệ, theo Hồ Chủ tịch về nước, chế tạo vũ khí cho bộ đội đánh giặc. Giáo sư y khoa Đặng Văn Ngữ đã lặn lội khắp các chiến trường, núi rừng, lấy thân mình cho muỗi đốt, để nghiên cứu và chế tạo thành công vắc-xin chống bệnh sốt rét, phụcvụ chiến đấu. Các vị ấy đã ứng xử một cách cao cả, được nhân dân và quân đội suy tôn là anh hùng. Họ đâu có bao giờ nghĩ tới chuyện ‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’. Thời chống Mĩ cứu nước, các phong trào ‘ba đảm đang’ của phụ nữ, ‘ba sẵn sàng’ của thanh niên đã lôi cuốn hàng chục triệu tuổi trẻ Việt Nam, quyết không lùi bước trước mọi hi sinh gian khổ, quyết tâm ‘xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước’, đã lập nên bao chiến tích thần kì. Nếu ai cũng ứng xử theo lối ích kỉ tấm thường như ‘ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’ thì không thể nào có thành quả độc lập, thống nhất và hòa bình như ngày nay. Xét cho cùng, câu tục ngữ ‘Ăn cổ đi trước, lội nước đi sau’ nhằm nêu lên mật trái của vấn đề ăn và làm, sống và hành động, cái thấp hèn về nhân cách, để châm biếm và phê phán. Qua đó, nhân dân ta đề cao những đức tính như cao thượng, tích cực, gương mẫu, tiên phong, sẵn sàng dám xả thân vì những lí tưởng cao cả, để phục vụ đất nước và dân tộc. Xã hội nào, thời đại nào cũng có những kẻ sống tầm thường như ‘Ăn cổ đi trước, lội nước đi sau’, hoặc ‘Ăn thì ăn những miếng ngon – Làm thì chọn việc cỏn con mà làm’. Đó chỉ là phân số nhỏ bé trong cuộc đời rộng lớn của nhân dân. Câu tục ngữ trên là bài học phản diện về đạo đức cho mỗi chúng ta. Nó nhắc nhở mọi người không nên, không thể sống một cách thấp hèn, khôn vặt, ranh ma trước đồng loại. Nó giáo dục chúng ta biết ăn và hành động một cách có văn hóa, có dạo đức. Và có thể nói, đoạn thơ sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn bài học làm người qua câu tục ngữ trên: ‘Nếu là con chim, chiếc lá, Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh. Lẽ nào vay mà không có trả, Sông là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?’
Explain and comment on the proverb: 'Eat food first, wade later' Instruct Proverbs have taught us many good things. There are so many witty and profound proverbs that have become the luggage of each of us, including: 'Eat the meal first, wade later'* 1. The proverb has only eight words, divided into two opposite sides 4 // 4. The word 'before' rhymes with the word 'water'. The proverb is short, rhymes, and symmetrical so it is easy to remember and memorize. In terms of literal and specific meaning, the proverb points out two very 'smart' ways of living of certain people in society. 'Eat the meal first' means to eat hot, fresh, and delicious food. Those who consider food to be big and the most important will 'eat first'. In the ancient feast, there are always portions to be eaten, whether you go first or last, that's all. Folks want to point out that the people who go first when eating are mostly greedy, greedy, and gluttonous people. Polite people don't behave like that. The second part talks about someone's 'wading through the water' which is essentially a matter of walking: 'wading through the water and walking behind'. Crossing rivers and streams, crossing waterfalls and rapids, heavy rains, heavy floods, flooded roads, rushing to wash away... 'Going ahead' is very dangerous, you can fall into deep holes, step on thorns, and you can be injured. fell lame, swept away by the water. That's why the 'smart' and cunning people act in their own way: 'wade the water later', to stay safe. The four words 'going before' and 'going behind' seem to be opposites, but are actually consistent in the thoughts, actions, and behavior of certain people in society. They know how to find their own benefits in: 'eating' (eating), in enjoyment. And they also know how to take the better part, the safe part for their lives in every job (water wading). The proverb 'Eat food first, wade in water later' reflects the selfish and self-seeking lifestyle and behavior of some poor people in society in the past. Those people, living selfishly, selfishly, greedily, and mischievously, only try to earn for themselves and their families a certain amount of benefits, the more they like, without being disadvantaged in the slightest. 'a little hair'! They believe that sitting on a projection corner in the middle of a middle ground is glorious. They live by the philosophy 'A piece in the middle of the village is equal to a corner of the kitchen'. The chicken's head, the pig's head, and the feast tray sitting among them, outside the village, those people take pride in their nobility, triumphantly shaking their thighs and stroking their beards and laughing in front of the world! 'Eat the meal first, wade in the water later', although clever and selfish, it is not selfish to harm others. They deserve to be despised and laughed at by their fellow human beings, but not to the extent of being despised and abhorred by society like the hypocrites who "have a man's mouth and a dagger in their belly" and use sinister tricks to trample and harm their fellow men. the type to gain power, to glorify the family. 3. Human society is a struggle for survival following the continuous upward trend of history, from barbarism to civilization. In production and combat, at all times and everywhere there are pioneers who dare to sacrifice their lives for the happiness of the people and for the independence and freedom of the country. They bravely fight natural disasters, storms and floods to save people's property and lives. Science is a thorny and arduous path. Many scientists have set a shining example. Professor Tran Dai Nghia gave up all the glory and wealth of the magnificent Paris, followed President Ho Chi Minh back to the country, and made weapons for the soldiers to fight the enemy. Medical professor Dang Van Ngu traveled all over the battlefields, mountains and forests, biting his body by mosquitoes, to research and successfully create a vaccine against malaria to serve in combat. They behaved nobly and were honored as heroes by the people and the army. They never think about 'Eat first, wade later'. During the anti-American war to save the country, the "three strong" movements of women and "three ready" of young people attracted tens of millions of Vietnamese youth, determined not to back down in the face of all hardships and sacrifices. 'cutting Truong Son to save the country', has achieved many miraculous achievements. If everyone behaved in a selfish way such as 'eating first, wading later', it would be impossible to achieve independence, unity and peace like today. After all, the proverb 'Eat first, wade in water later' aims to highlight the negative consequences of eating and working, living and acting, the lowliness of personality, to satirize and criticize. Thereby, our people promote virtues such as nobility, positivity, exemplary, pioneering, and willingness to sacrifice themselves for noble ideals, to serve the country and people. Every society and every era has people who live mediocre lives like 'If you eat, go first, wade later', or 'If you eat, eat the delicious pieces - When you do, choose the small things to do'. That is just a small fraction in the vast life of the people. The above proverb is a moral lesson for each of us. It reminds people that they should not, cannot live in a vile, cunning, or mischievous way before their fellow human beings. It educates us to eat and act in a cultured and virtuous manner. And it can be said that the following poem will help us understand more deeply the lesson of being human through the above proverb: 'If you are a bird, a leaf, The bird must sing, the leaf must be green. Why should borrow without paying, To give is to give, not to receive only for oneself?'
Giải thích và chứng minh lời khuyên: “Có chí thì nên” – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Có chí thì nên Bài làm Từ xưa đến nay, nhân dân ta đều có những chân lí sáng ngời, mà con cháu đời sau luôn phải noi theo. Một trong số vô vàn chân lí được đúc kết từ kinh nghiệm của nhân dân ta là “Có chí thì nên”. Trong câu tục ngữ, nội dung chính được thể hiện qua hai từ “ chí” và “nên”. Vậy “chí”, “nên” là gì? “Chí” nghĩa là có hoài bão, lí tưởng, có lòng quyết tâm, ý chí, nghị lực, biết chinh phục khó khăn bằng mọi giá mà không nản lòng hay bỏ cuộc. Tóm lại, “chí” chính là lòng kiên trì. Còn “nên” có nghĩa là thành công, là một việc ta đã đạt được trong cuộc sống. Từ đó, ta thấy được ý nghĩa của toàn câu tục ngữ: có ý chí, nghị lực, lòng kiên trì thì mới có thành công. Với vai trò quan trọng, ý nghĩa to lớn, ý chí là yếu tố cần thiết dẫn ta đến thành công. Những ai có tính kiên trì thì sẽ thành đạt nhưng không có người nào mới trải qua gian nan một lần mà đã làm được mọi việc. Có được thành công là do sự tích luỹ kinh nghiệm qua một quá trình dài học hỏi. Ai càng kiên trì thì càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm và thành công đạt được sẽ càng lớn, càng vẻ vang, càng khiến cho mình cảm thấy tự hào hơn. Có quyết tâm, ý chí là ta cố gắng hết sức mình nên kết quả tất nhiên sẽ tốt hơn nhiều so với việc mà mình không đặt quyết tâm vào. Chân lí này không chỉ được nhắc đến một lần qua câu tục ngữ trên, chúng ta còn bắt gặp trong câu tục ngữ: “Có công mài sắt, có ngày nên kim ” hay lời dạy của Bác: “ Không có việc gì khó, Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển, Quyết chí ắt làm nên”. Qua đời sống thực của những con người thông thái, ta cũng học được nhiều điều về lòng kiên trì. Anh Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng nhất cho học sinh Việt Nam về phương diện này. Từ nhỏ, anh đã bị liệt cả hai tay và phải tập viết bằng chân, nhưng nhờ có nghị lực và sự kiên trì, anh đã tốt nghiệp đại học và trở thành một Nhà giáo Ưu tú, được mọi người kính trọng. Hay thiên tài Thomas Edison ngày xưa là một cậu học trò chuyên đội sổ trong lớp nhưng vì có lòng kiên trì, đam mê tìm tòi, tính tò mò sẵn có mà tạo ra được bao phát minh vĩ đại cho nhân loại. Những tấm gương trên đã cho ta thêm động lực, thúc đẩy tinh thần kiên trì của ta. Vì vậy, nếu muốn có đức tính kiên trì, mọi người cần tu dưỡng ý chí từ nhỏ thì trưởng thành mới làm được việc lớn. Ta phải tự đặt ra mục đích để tập trung tiến thẳng tới nó, kiên trì không nản lòng, quan trọng là phải biết đứng lên sau mỗi lần thất bại. Qua câu tục ngữ “Có chí thì nên”, ta học được một chân lí đáng quý: bất kể gặp phải việc khó khăn ra sao miễn là có quyết tâm, có nghị lực làm thì có thể thành công. Như thiên tài Edison đã từng nói: “1% là nhờ trí thông minh còn 99% là nhờ cố gắng”. (Trường PTDL Lương Thế Vinh) >> Xem thêm Py-ta-go: “Hoa quả của đất chỉ nở một hai lần trong năm, còn hoa quả của tình bạn thì nở suốt bốn mùa” tại đây. Tags:”Có chì thì nên” · Bài văn hay lớp 8
Explain and prove the advice: "If there is a will, there is a way" - Good essay for grade 8 Instruct If there is a will, there should be Assignment From ancient times until now, our people have had shining truths, which future generations must always follow. One of the countless truths drawn from our people's experience is "Where there is a will there is a way". In the proverb, the main content is expressed through the two words "will" and "should". So what are "will" and "should"? “Will” means having ambition, ideals, determination, will, energy, knowing how to conquer difficulties at all costs without getting discouraged or giving up. In short, "will" is perseverance. "Should" means success, something we have achieved in life. From there, we see the meaning of the whole proverb: only with will, energy, and perseverance will there be success. With an important role and great meaning, will is a necessary factor that leads us to success. Those who have perseverance will succeed, but no one who has gone through hardships once has accomplished everything. Success is due to the accumulation of experience through a long process of learning. The more persistent one is, the more experience one will accumulate and the greater and more glorious the success achieved will be, and the more proud one will feel. Having determination and will means we try our best, so the results will of course be much better than if we don't put our determination into it. This truth is not only mentioned once through the above proverb, we also encounter it in the proverb: "Has iron grinding makes perfect " or Uncle Ho's teachings: " Nothing is difficult, Only fear unstable heart. Digging mountains and filling seas, Surely made a firm decision". Through the real lives of wise people, we also learn many things about perseverance. Mr. Nguyen Ngoc Ky is the brightest example for Vietnamese students in this regard. Since childhood, he was paralyzed in both arms and had to learn to write with his feet, but thanks to his strength and perseverance, he graduated from university and became an excellent teacher, respected by everyone. Or the genius Thomas Edison in the past was a student who used to keep notebooks in class, but because of his perseverance, passion for exploration, and inherent curiosity, he created many great inventions for humanity. The above examples have given us more motivation and boosted our spirit of perseverance. Therefore, if people want to have the virtue of perseverance, they need to cultivate their will from a young age to be able to do great things when they grow up. We must set a goal for ourselves to focus on going straight to it, persevere without getting discouraged, and the important thing is to know how to stand up after each failure. Through the proverb "If there is a will, there is a way", we learn a valuable truth: no matter how difficult the task is, as long as we have determination and the will to do it, we can succeed. As the genius Edison once said: "1% is due to intelligence and 99% is due to effort." (Luong The Vinh Tourism Development School) >> See more Pythagorean: "The fruit of the earth only blooms once or twice a year, but the fruit of friendship blooms throughout the four seasons" here. Tags:"If you have lead, you should" · Good essay for grade 8
Giải thích về Oan Thị Kính qua đoạn trích Nỗi oan hại chồng trong Quan Âm Thị Kính Hướng dẫn Giải thích về Oan Thị Kính qua đoạn trích Nỗi oan hại chồng trong Quan Âm Thị Kính Quan Âm Thị Kính là một vở chèo cổ được nhân dân ta vô cùng ưa thích. Vở chèo xoay quanh nỗi oan khuất và phẩm chất cao đẹp của nhân vật Thị Kính (sau có pháp hiệu là tiểu Kính Tâm). Nỗi oan ấy bắt đầu từ “án giết chồng” và đó cũng là bước ngoặt cuộc đời của người con gái ngoan hiền và hiếu thảo. Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” là phần đầu của vở chèo “Quan Âm Thị Kính”. Đoạn trích có năm nhân vật nhưng xung đột kịch chủ yếu thể hiện qua hai nhân vật Thị Kính và Sùng Bà. Sùng Bà là nhân vật mụ ác, vì thế mà ngôn ngữ, cử chỉ và hành động của nhân vật đều rất tàn nhẫn và độc địa. Cách đối xử của mụ đối với con dâu cho thấy rất rõ sự phân biệt giữa sang trọng với thấp hèn. Cách đối xử ấy là cách đối xử của những kẻ quen thói cửa quyền, quen thói hà hiếp người ăn kẻ ở. Thị Kính trong màn kịch ấy cũng không khác gì một kẻ nô bộc lỡ gây chuyện sai lầm trong nhà của chủ nhân. Theo dõi những lời đối thoại của Sùng Bà, chúng ta có thể thấy nó chẳng khác gì những lời phán quyết nhẫn tâm của một vị quan tòa mà không cần nghe một lời nào phân bua phải trái. Mụ mạt sát Thị Kính là “mặt sứa gan lim” là “tuồng mèo mả gà đồng”, là kẻ hư hỏng “say hoa đắm nguyệt” là “gái say trai lập chí giết chồng”… Và chỉ vì chẳng có điểm nào có thể xứng với “giống công giống phượng” nhà bà nên từ cái sự việc rất nhỏ bé kia bà rũ sạch đi ở Thị Kính tất cả “tam tòng tứ đức”. Bà một mực đẩy cho bằng được cô con dâu chẳng may rơi vào cái cảnh “tình ngay lý gian” ra khỏi nơi cao môn lệch tộc cao quý nhà bà. Thậm chí ngay trước mặt khiến con dâu khốn khổ, bà nói với Thiện Sĩ bao lời khiến Thị Kính phải đau đớn, xót xa “Thôi con vào rửa mặt, rồi đây mẹ lấy cho dăm vợ, tiếc gì cái đồ sát chồng kia nữa”. Trong đoạn trích, người ta thấy Thị Kính kêu oan đến năm lần. Trong đó cổ tới bốn lần, tiếng kêu oan cùa nàng hướng đến mẹ chồng và người chồng mà nàng hằng yêu quý. Thế nhưng cả bốn lần kêu oan đều vô ích. Bà mẹ chổng thì quá là tàn ác còn Thiện Sĩ lại là một kẻ nhu nhược đớn hèn vì thế mồ tiếng kêu của Thị hoàn toàn không được chấp nhận. Chỉ đến lần thứ năm, lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó lại chỉ là của Mãng ông: “Oan cho con lắm à?”. Một sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông biết con gái bị oan nhưng chỉ là một người nông dân nghèo, không có vị thế trong xã hội, ông không thể làm gì để giúp đỡ con gái. Sùng ông, Sùng bà thật là những kẻ độc ác đến tàn nhẫn. Đuổi Thị Kính ra khỏi nhà chưa thỏa, trước khi đuổi, chúng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho họ phải nhục nhã ê chề. Sùng ông gọi Mãng ông sang để nhận con gái về, lại nói: Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu!Mãng ông tưởng thật, đang nói giọng hoan hỉ thì bị giội ngay gáo nước lạnh: “Đây này! Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này!”. Không những thế, Sùng ông còn thẳng thừng cự tuyệt quan hệ thông gia với Mãng ông bằng cách dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào nhà. Hình ảnh hai cha con ôm nhau khóc là hình ảnh của những người chịu oan, đau khổ mà hoàn toàn bất lực. Đó là bi kịch điển hình của những người dân nghèo, nhất là những người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Khi Mãng ông bảo Thị Kính về theo mình, Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay. Cử chỉ và lời hát của Thị Kính thể hiện rất nhiều ý nghĩa: Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi Những cặp từ ngữ đối lập bấy lâu – bỗng; sắt cầm – chăn gối lẻ loi,… với sắc thái ý nghĩa đối lập đã diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau được chuyển đổi rất đột ngột. Từ cảnh “sắt cầm tịnh hảo” (ý nói tình vợ chồng hoà hợp đầm ấm) đến cảnh “chăn gối lẻ loi” (vợ chồng chia lìa) chỉ là trong phút chốc. Bên này là hạnh phúc, bên kia là cảnh chia lìa. Bị đẩy ra khỏi thế giới quen thuộc, người phụ nữ bỗng hoá bơ vơ giữa cái vô định của cuộc đời.
Explain about Oan Thi Kinh through the excerpt "The injustice of harming her husband" in Quan Am Thi Kinh Instruct Explain about Oan Thi Kinh through the excerpt "The injustice of harming her husband" in Quan Am Thi Kinh Quan Am Thi Kinh is an ancient Cheo play that is extremely popular with our people. The Cheo play revolves around the injustice and noble qualities of the character Thi Kinh (later named Tieu Kinh Tam). That injustice started with the "husband's murder" and that was also the turning point in the life of the gentle and filial girl. Excerpted from "The injustice of harming the husband" is the first part of the Cheo play "Avalokiteśvara Thi Kinh". The excerpt has five characters, but the dramatic conflict is mainly expressed through the two characters Thi Kinh and Sung Ba. Sung Ba is an evil woman, so her language, gestures and actions are all very cruel and cruel. Her treatment of her daughter-in-law clearly shows the distinction between luxury and lowliness. That way of treatment is the treatment of those who are accustomed to authority and oppressing people. Thi Kinh in that play was no different from a servant who accidentally caused a mistake in his master's house. Following Sung Ba's dialogue, we can see that it is no different from the heartless judgments of a judge without needing to hear a single word of right and wrong. She criticized Thi Kinh as a "jellyfish-faced liver lim" as a "theatre of a cat and a rooster", as a pervert "infatuated with flowers and moon" as "a girl who gets drunk on a guy and decides to kill her husband"... And just because there is no point in it. could not be worthy of her family's "peacock-like phoenix", so from that very small incident she got rid of all the "three obediences and four virtues" in Thi Kinh. She insisted on pushing her daughter-in-law, who unfortunately fell into a situation of "righteousness and dishonesty", out of her noble and eccentric family. Even right in front of her miserable daughter-in-law, she told Thien Si many words that made Thi Kinh feel pain and sorrow: "Come on, go wash your face, then I'll take you a few wives, why are you so sorry for that husband-killer?" ”. In the excerpt, people see Thi Kinh complaining five times. Four times, her cries of injustice were directed towards her mother-in-law and the husband she always loved. But all four appeals were in vain. Her mother-in-law is too cruel and Thien Si is a weak and cowardly person, so Thi's cries are completely unacceptable. Only on the fifth time did Thi Kinh's unjust complaint receive sympathy, but it was only from Mang: "Are you unjust to me?". A feeling of pain and helplessness. Mang knows his daughter has been wronged, but as a poor farmer with no position in society, he cannot do anything to help his daughter. Mr. Sung and Mrs. Sung are truly cruel and cruel people. Before kicking Thi Kinh out of the house, they also staged a cruel scene to humiliate and humiliate them. Mr. Sung called Mr. Mang over to take his daughter back, and said: Mr. Mang, I'm here to take care of you! Mr. Mang thought it was true, and while speaking happily, he was immediately doused with cold water: "Here! In the middle of the night, she took a knife and killed her husband! Not only that, Sung Ong also bluntly rejected the relationship with Mang Ong by pushing Mang Ong down and leaving him in the house. The image of father and son hugging each other and crying is the image of people who have suffered injustice and are completely helpless. That is a typical tragedy of poor people, especially rural women in the old society. When Mang told Thi Kinh to follow him, Thi Kinh followed her father a few more steps, then stopped, turned to look from the sofa to the books, the sewing basket, then picked up the unfinished shirt and squeezed it tightly in her hand. Thi Kinh's gestures and lyrics express many meanings: Dear! For a long time, the iron held perfectly Suddenly, someone is lonely Pairs of words that have been opposite for a long time – suddenly; iron holding - lonely bedding,... with opposing meanings, describe two contrasting states that are transformed very suddenly. From the scene of "iron and pure purity" (meaning the warm harmony between husband and wife) to the scene of "lonely sex" (spouses between husband and wife) is just a matter of minutes. This side is happiness, the other side is separation. Pushed out of the familiar world, the woman suddenly became helpless in the uncertainty of life.
Đề bài: Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính. Hãy giải thích ý kiến trên. Bài làm Tình người như những làn sóng muôn đời dào dạt vỗ nhịp vào cuộc sống con người. Đẹp biết bao, đáng trân trọng biết bao hình ảnh của những con người sống với đúng nghĩa làm người, sống đẹp bằng những cách dâng những làn sóng ấy đến với mọi người xung quanh. Tình người như những làn sóng muôn đời dào dạt vỗ nhịp vào cuộc sống con người. Đẹp biết bao, đáng trân trọng biết bao hình ảnh của những con người sống với đúng nghĩa làm người, sống đẹp bằng những cách dâng những làn sóng ấy đến với mọi người xung quanh. Một nhà văn đã từng khẳng định rằng: “Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính". Sống để đạt đến mục đích của mình, và mục đích ấy chính là thành người chân chính. Một chân lí đã được nêu lên với tất cả tinh thần làm người, trách nhiệm làm người. Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính Con người là tạo vật vĩ đại và hoàn hảo nhất của tạo hóa. Ai đó đã từng nói “Con người – tôi xin cúi đầu trước Người”. Nhưng điều đáng nói là con người – hiểu theo nghĩa hẹp – có xứng đáng là một "con người chân chính” hay không? Điều ấy hoàn toàn tùy thuộc vào mục đích sống. Mục đích – đó là cái mà người ta hướng tới, và cao hơn là vươn tới để một lúc nào đó đạt đến nó. Mục đích tốt đẹp và lí tưởng sống, là chân lí sống, và lẽ sống của con người. Theo đó, mục đích cao đẹp “trở thành người chân chính" chính là trở thành một con người với đúng nghĩa là người, xứng đáng là người chủ của thế giới, của thiên nhiên, của vạn vật. Con người chân chính là con người có trái tim và có trí tuệ hướng thiện, sống đúng nghĩa, biết suy nghĩ, hành động và lí tưởng đẹp mà mình lựa chọn, biết mang đến hạnh phúc cho mọi người, từ đó tự làm cho mình hạnh phúc. Câu nhận định trên xuất phát chính từ cuộc sống con người – một cuộc sống phong phú, muôn màu muôn vẻ, đã nêu lên một chân lí thực sự về đời sống, vì lí tưởng sống của loài người nói chung. Đó là phải luôn tự hoàn thiện mình, để đi đến một mục đích cao đẹp trở thành người chân chính. Một danh nhân đã từng nhận định rằng: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì cả nếu như mục đích tầm thường Câu danh ngôn “con người không có mục đích nào khúc ngoài mục đích trở thành người chân chính” đã nhấn mạnh đến một lí tưởng sống cao đẹp là hướng tới sự hoàn thiện nhân cách con người, sống bằng tất cả trách nhiệm của mình đối với cuộc sống, đối với mọi người xung quanh. Theo vòng xoay lịch sử, xã hội loài người đang tiến triển không ngừng. Tất cả đều vận động, đều làm việc hăng say, vì thế là một con người, chúng ta phải sống đẹp cuộc sống của mình với tất cả trách nhiệm và nghĩa vụ làm người, để xứng đáng là chủ thể của vạn vật xung quanh mình. Điều phân biệt giữa con người với các động vật khác chính là trí tuệ và trái tim, nói cách khác, chính là ý thức trong lao động, chiến đấu và học tập. Nhờ có lao động và sáng tạo chúng la đã thoát ra khỏi cuộc sống của bầy vượn, để rồi từng bước, từng bước chúng ta đã tự hoàn thiện mình, cải thiện cuộc sống của mình để trở thành con người ngày nay. Và ngay trong cuộc sống đời thường, từng sự việc rất nhỏ tưởng chừng không đáng để ý cũng chính là cái giúp chúng ta hoàn thiện mình hơn. Những học sinh đi học, lao động và học tập trở thành người có đức, có tài, hữu dụng cho đất nước mai sau. Những hành động bình thường như suy nghĩ để giải một bài tập, như cúi xuống nhặt một mảnh rác bên đường… đều có thể góp phần làm đẹp tính cách chúng ta. Giữa cuộc sống cuồn cuộn như dòng thác, giữa bao gian nan, vất vả, lo toan của đời thường, con người đã dần tiến đến mục đích của mình: trở thành người chân chính. Con người nghĩa là sáng tạo, và sáng tạo nghĩa là hoàn thiện. Vì vậy, khi chúng ta sống “sống" khác với “tồn tại” chúng ta đã tự tìm đến với chính mình, tìm đến với con người hoàn thiện về cả lí trí lẫn trái tim. Sống giữa một cộng đồng, nhận được tất cả những tình cảm đoàn kết, thân ái, tương trợ của mọi người, chúng ta đã tin tưởng, thương yêu và giúp đỡ mọi người. Các Mác có nói “Hạnh phúc là đấu tranh" và “Người nào mang đến hạnh phúc cho nhiều người nhất chính là người hạnh phúc nhất". Đến với hạnh phúc, đến với chân lí, đến với lí tưởng là một quá trình đấu tranh mãnh liệt giữa cái tốt và cái xấu, cái Thiện và cái Ác trong một cộng đồng, một tập thể nói chung và trong mỗi con người nói riêng. Sự đấu tranh ấy chính là nguyên nhân và động lực phát triển của xã hội và nhân cách của mỗi con người. Một bông hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời dù rằng nó không phải là mặt trời. Một con người khó bao giờ có thể đạt đến sự hoàn thiện tuyệt đối nhưng luôn sống và hướng đến sự hoàn thiện ấy. Điều ấy chính là lí do vì sao đã có nhận định: "Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính Trong xã hội con người ngày nay, và trong bất cứ một xã hội nào, con người vẫn luôn sống vì mục đích hoàn thiện nhân cách mình. Xã hội không ngừng phát triển theo guồng quay của lịch sử, và Ph.Ăng-ghen có nói: “Vấn đề không phải ở chỗ giải thích thế giới, mà là chỗ cải tạo thế giới". Để làm được điều đó, ngay từ bây giờ, chúng ta không thể chỉ nói ra những lời nói suông, mà phải hành động, phải đặt ra mục đích làm người chân chính để sống và phấn đấu làm việc cho mục đích ấy. Một hành động nhỏ như giúp người qua đường, như một lời hỏi thăm ân cần đối với cha, mẹ, như một chút đỡ đần cho cha mẹ những công việc hàng ngày, một hoạt động từ thiện xã hội… đều là những hành động mang nhiều ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách con người chúng ta. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: Nếu là con chim, chiếc lá Con chim phải hót Chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?
Topic: Humans have no other purpose than to become a righteous person. Please explain the above opinion. Assignment Human love is like eternal waves flowing into human life. How beautiful, how worthy of respect are the images of people living in the true sense of being human, living beautifully by sending those waves to everyone around them. Human love is like eternal waves flowing into human life. How beautiful, how worthy of respect are the images of people living in the true sense of being human, living beautifully by sending those waves to everyone around them. A writer once asserted that: "Human beings have no other purpose than to become genuine people." Live to achieve your goal, and that goal is to become a genuine person. A truth has been stated with all human spirit and human responsibility. Man has no other purpose than to become a genuine person Humans are the greatest and most perfect creation of nature. Someone once said, "Man - I bow my head before you." But what is worth mentioning is whether a person - understood in a narrow sense - is worthy of being a "true human being" or not? That completely depends on the purpose of life. Purpose - that is what people aim for, and higher is to reach out to reach it at some point. The good purpose and ideal of life, is the truth of life, and the reason for human life. Accordingly, the noble goal of "becoming a righteous person". is to become a true human being, worthy of being the owner of the world, of nature, of all things. A true person is a person who has a good heart and intelligence, lives in the right sense, knows how to think, act and have beautiful ideals that he or she chooses, knows how to bring happiness to everyone, thereby making himself i'm happy. The above statement comes from human life - a rich, colorful life, stating a true truth about life, for the living ideal of humanity in general. That is to always improve yourself, to reach a noble goal of becoming a true person. A famous person once commented: “If you don't have a purpose, you can't do anything. You can't do anything if your goal is trivial. The quote "people have no purpose other than to become a true person" emphasizes a noble ideal of life that is to aim for perfection. human personality, living with all your responsibilities towards life, towards everyone around you. According to the cycle of history, human society is progressing continuously. Everyone moves and works enthusiastically, so as humans, we must live our lives beautifully with all the responsibilities and obligations of being human, to be worthy of being the subject of everything around us. me. What distinguishes humans from other animals is intelligence and heart, in other words, consciousness in work, fighting and learning. Thanks to labor and creativity, we have escaped the life of apes, and then step by step, we have perfected ourselves and improved our lives to become the humans we are today. And even in everyday life, every little thing that seems insignificant is what helps us improve ourselves. Students who go to school, work and study become virtuous, talented and useful people for the country in the future. Normal actions such as thinking to solve an assignment, bending down to pick up a piece of trash on the side of the road... can all contribute to beautifying our personality. In the midst of life flowing like a waterfall, in the midst of all the hardships, hardships, and worries of everyday life, people have gradually approached their goal: to become a true person. Humanity means creativity, and creativity means perfection. Therefore, when we "live" differently from "exist", we find ourselves, find a perfect person in both mind and heart. Living in a community, receiving everything including the feelings of solidarity, friendliness, and mutual support of everyone, we have trusted, loved, and helped everyone The most people are the happiest people." Coming to happiness, coming to truth, coming to ideals is a process of intense struggle between good and bad, Good and Evil in a community, a collective in general and each person in particular. That struggle is the cause and driving force for the development of society and each person's personality. A sunflower always turns towards the sun it is not the sun. A human being can never reach absolute perfection but always lives and strives for that perfection has any other purpose than to become a genuine person In today's human society, and in any society, people always live for the purpose of perfecting their personality. Society constantly develops according to the cycle of history, and Engels said: "The problem is not to explain the world, but to transform the world." To do that, right away From now on, we cannot just say empty words, but must take action, must set a goal to be a true human being to live and strive to work for that goal. A small action like helping others street, as a kind greeting to parents, as a little help for parents with daily chores, a social charity activity... are all actions that have many meanings for the formation of children. into our human personality. Poet To Huu once wrote: If you are a bird, a leaf The bird must sing The leaf must be green Why should borrow without paying Living is about giving, not just receiving for yourself?
Đề bài: Giải thích ý nghĩa bài ca dao "Công cha như núi Thái Sơn…" Bài làm Cha mẹ đã sinh ra ta, chăm sóc dạy bảo ta. Vì thế, công ơn cha mẹ dành cho ta rất lớn. Chúng ta phải biết ơn, đền đáp công lao đó. Điều đó đã được ông cha ta nhắn nhủ qua bài ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.!” Bài ca dao đã đi sâu vào lòng người bởi những hình ảnh so sánh rất độc đáo: “Công cha với núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ với nước trong nguồn”. “Núi Thái Sơn”là ngọn núi cao, đồ sộ vững chãi nhất ở Trung Quốc. “Nước trong nguồn” là dòng nước tinh khiết nhất, mát lành nhhất, dạt dào mãi chẳng bao giờ cạn. Từ hiện tượng cụ thể ấy, tác giả dân gian đã ca ngợi công lao của cha mẹ. Tình cha mạnh mẽ, vững chắc, tình mẹ thật ngọt ngào vô tận và trong sáng. Ân nghĩa đó to lớn, sâu nặng biết bao. Chính vì vậy mà chỉ có những hiện tượng to lớn bất diệt của thiên nhiên kì vĩ mới có thể so sánh bằng. Xuất phát từ công lao đó, ông cha ta khuyên mỗi chúng ta phải làm tròn chữ hiếu để bù đắp lại công ơn trời biển của cha mẹ. Tại sao lại nói công cha và nghĩa mẹ là vô cùng to lớn, bao la, vĩ đại, không có gì so sánh được? Bởi vì cha mẹ là người đã sinh ra ta, không có cha mẹ thì không có bản thân mỗi con người. Cha mẹ lại là người nuôi dưỡng ta từ khi ta mới chào đời cho đến khi ta trưởng thành mà không quản ngại khó khăn vất vả. Cha mẹ còn dạy dỗ ta nên người, dạy cho ta biết cách cư xử sao cho lịch sự, dạy cho ta đạo lí làm người, dạy cho ta cách làm lụng, cách tự chăm sóc cho bản thân, dọn dẹp nhà của cho sạch sẽ…Cha mẹ là chỗ dựa vững chắc nhất, tin cậy nhất, luôn dang tay mở rộng tình thương đối với các con. Cha mẹ cùng bên nhau sống trọn đời vì con, tạo lập niềm tin tưởng và nền móng vững chắc cho con vào ngưỡng cửa của cuộc đời. Vậy chúng ta phải làm gì để đền đáp công ơn của cha mẹ? Để đền đáp công ơn của cha mẹ, đạo làm con chúng ta phải biết ơn, phải lễ phép với cha mẹ. Phải luôn ngoan ngoãn và nghe lời cha mẹ, làm theo những điều cha mẹ dạy. Ta phải kính trọng hiếu thảo với cha mẹ; luôn cố gắng học tập thật giỏi để vui lòng cha mẹ. Có như vậy mới là “đạo con”. Bài ca dao đã răn dạy chúng ta một bài học bổ ích. Chúng ta cần phải biết làm gì để luôn nhớ tơi và trân trọng công lao to lớn của cha mẹ. Đọc lại bàI ca dao,chúng ta càng thấm thía đạo lí làm người.
Topic: Explain the meaning of the folk song "Father's work is like the Thai Son mountain..." Assignment My parents gave birth to me, took care of me and taught me. Therefore, the gratitude our parents have for us is very great. We must be grateful and repay that effort. That was reminded by our ancestors through folk songs: "The father as a mountain, Motherhood is like water flowing from a source. One Heart Worship Mother Glass Father, Fulfilling filial piety is your way! The folk song has gone deep into people's hearts with its unique comparative images: "Father's merit is with Thai Son mountain, mother's merit is with the water in the source". “Mount Tai” is the tallest, most massive and sturdy mountain in China. "Water in the source" is the purest, coolest, and never-ending stream of water. From that specific phenomenon, folk authors praised the merits of parents. Father's love is strong and steadfast, mother's love is endlessly sweet and pure. That gratitude is so great and so deep. That's why only the great and eternal phenomena of majestic nature can be compared. Based on that merit, our ancestors advised each of us to fulfill our filial piety to compensate for the gratitude of our parents. Why is it said that a father's merit and a mother's deeds are extremely great, immense, great, and incomparable to anything? Because our parents are the people who gave birth to us, without our parents, there is no human being. Parents are the ones who nurture us from the moment we are born until we become adults, without fear of hardship and difficulty. Parents also teach us to be good people, teach us how to behave politely, teach us human ethics, teach us how to work, how to take care of ourselves, and clean the house. will... Parents are the strongest and most reliable support, always extending their hands and extending love to their children. Parents live their lives together for their children, creating trust and a solid foundation for their children at the threshold of life. So what should we do to repay our parents' gratitude? To repay the kindness of our parents, as children we must be grateful and polite to our parents. Always be obedient and listen to your parents and follow what they teach. We must respect and be filial to our parents; Always try to study well to please your parents. Only then is it "the way of children". The folk song teaches us a useful lesson. We need to know what to do to always remember and appreciate the great contributions of our parents. Reading the folk song again, we understand more deeply the morality of being human.
Giải thích ý nghĩa câu ca dao Anh em như thể tay chân rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần. Hướng dẫn Tình cảm anh em là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng của con người. Thứ tình cảm đó vô cùng có ý nghĩa trong đời của mỗi người. Để đưa ra lời khuyên, cũng như lời răn dạy cho con cháu về tình cảm anh em, cha ông ta đã có câu ca dao: Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần Để nói lên tình nghĩa anh em sâu nặng gắn bó, câu ca dao đã dùng hình ảnh so sánh tay và chân, là những bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong cơ thể con người. Tay và chân là hai bộ phận của một cơ thể có quan hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ cho nhau. Tay và chân giúp con người có khả năng lao động để làm ra của cải vật chất. Nếu mất một trong hai bộ phận trên thì con người khó hoạt động và khả năng hoạt động bị giảm bớt. Điều này rõ ràng cho thấy sự cần thiết của cả tay lẫn chân đối với cơ thể của con người. Anh em trong gia đình cũng vậy, đều sống chung trong một mái nhà, cùng lớn lên có quan hệ tình cảm gắn bó với nhau. Anh có thể giúp em và ngược lại, em có thể giúp anh. Mối quan hệ đó giống như mối quan hệ giữa tay và chân. Trong gia đình, anh em là những người đã từng sống chung với nhau từ thuở bé. Đến lúc lớn lên, dù mỗi người có bận bịu vì cuộc sống, vì gia đình riêng thì cũng phải giữ mãi tình cảm cao đẹp đó. Dù hoàn cảnh có khác nhau, người sống sung sướng, hạnh phúc, người sống nghèo khổ đói nghèo thì anh em vẫn phải quan tâm, săn sóc cho nhau. Giữ mãi tình cảm tốt đẹp ấy là bổn phận của mỗi người con trong gia đình. Yêu thương hòa thuận với nhau là đạo đức, là nhân cách của con người. Gia đình nào có được anh em biết yêu thương, đùm bọc cho nhau là gia đình đó có hạnh phúc. Đã là anh em một nhà thì phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cùng chia sẻ cho nhau những khó khăn gian khổ. Chúng ta không nên vì lợi ích của bản thân mà làm rạn nứt tình cảm thiêng liêng đó. Xã hội phát triển, tình cảm anh em cũng có nhiều yếu tố tác động, không ít gia đình anh em thù ghét, thậm chí chém giết lần nhau, qua câu ca dao này, chúng ta hãy hiểu hết ý nghĩa cua nó và có những hành động cao đẹp với nhau hơn.
Explain the meaning of the folk song Brothers are like torn limbs, protecting each other from difficulties. Instruct Brotherly love is one of the sacred feelings of humans. That feeling is extremely meaningful in every person's life. To give advice, as well as teach children and grandchildren about brotherly love, our ancestors had a folk song: Brothers like hands and feet The wound heals and the difficulties are covered and helped To express the deep bond between brothers and sisters, the folk song used the image of comparing hands and feet, which are important and indispensable parts of the human body. Arms and legs are two parts of the body that are closely related and support each other. Hands and feet help people have the ability to work to create material wealth. If one of the above two parts is lost, it will be difficult for a person to function and their ability to function will be reduced. This clearly shows the necessity of both arms and legs for the human body. Brothers in the family are the same, they all live under the same roof, grow up together and have a close emotional relationship with each other. I can help you and vice versa, you can help me. That relationship is like the relationship between arms and legs. In a family, brothers are people who have lived together since childhood. When growing up, no matter how busy each person is with life and family, they must always keep that noble sentiment. Even though our circumstances are different, some people live happily, some people live in poverty, we still have to care for each other. Maintaining that good feeling is the duty of every child in the family. Love and harmony with each other is morality and human personality. Any family that has brothers who love and care for each other is a happy family. Since we are brothers, we must know how to love and care for each other, and share each other's difficulties and hardships. We should not, for our own benefit, rift that sacred relationship. As society develops, brotherhood also has many influencing factors. Many families hate and even kill each other. Through this folk song, let us fully understand its meaning and have more noble actions with each other.
Đề bài: Giải thích ý nghĩa câu tục ngữ "Thất bại là mẹ thành công" Bài làm Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy giành chút thời gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được thành công theo một cách giản dị đến bất ngờ. Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp, nấu những món ăn mẹ thích nhân ngày 8-3. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có màu đỏ sậm thì lại ngả sang màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì hai bố con không thể thành công trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại thành công khi tặng mẹ “đoá hồng” của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả những món quà quý giá, hạnh phúc ấy long lanh in trong mắt mẹ. Thành công còn là hình ảnh một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ đi lại bình thường được. Từ nhỏ cậu đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nỗ lực khổ luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ, và chưa bao giờ được chính thức ra sân. Nhưng đó không phải là thất bại. Trái lại, thành công đã nở hoa khi cậu bé năm xưa, với bao nghị lực và quyết tâm, đã chiến thắng hoàn cảnh để theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé. Thành công ấy, liệu có mấy người đạt được? Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử sĩ”. Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi NV1 lấy tới hai bảy phẩy năm? Đó thật ra không phải là thất bại, chỉ là khi thành công – bị – trì – hoãn mà thôi. Cuộc sống vẫn chào đón họ với NV2, NV3. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết sức để khẳng định mình. Đó là ý nghĩa vẹn nguyên của các kỳ thi, và cũng là bản chất của thành công. Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Truyện kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả lại mẹ – người phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram ráp nhăn nheo nhưng dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại là người mẹ – người phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế? Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại học với vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là một thành công lớn. Nhưng có một thành công khác, lặng thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần 20 năm trời đạp xích lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi vọng hiện lên trên gương mặt vốn đã chịu nhiều khắc khổ. Và ngày con trai đậu đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá – học – của – một – người – cha. Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai mươi năm trước. Với tài năng của mình, cô có thể gặt hái thành công trên con đường sự nghiệp và danh vọng. Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hi sinh những cơ hội của đời mình để trở thành một người vợ đảm đang, một người mẹ dịu hiền của hai cô công chúa nhỏ. Cho tới bây giờ, khi đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với tôi rằng: “Chăm sóc bố và hai con chu đáo, đối với mẹ đã là một thành công lớn”. Mỗi khi nghe câu nói ấy, tôi lại rơi nước mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả đẹp đẽ của đời mẹ, và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó. Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo đuổi thành công thì thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỷ phú như Bill Gates? Vậy thì hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin bên đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người hiểu được bạn không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có tâm hồn. Khi đó, bạn đã thực sự thành công. Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như đến với Abramovich – ông chủ của đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công chẳng ở đâu xa, chỉ cần bạn dành thời gian chăm sóc cho “đội bóng” của gia đình bạn. Ở đó, bạn nhận được tình yêu thương vô bờ bến, thứ mà Abramovich không nhận lại được từ những cầu thủ của ông ta. Thành công đến với mọi người một cách giản dị và ngọt ngào như thế! Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm của bạn là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng nói: “Cuộc sống này không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thôi”. Còn đối với tôi, thành công là khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ chẳng được điểm cao, nhưng gửi gắm được những suy nghĩ của mình vào trang viết, với tôi, đó là một thành công.
Topic: Explain the meaning of the proverb "Failure is the mother of success" Assignment Have you ever wondered what success is that so many people spend their lives pursuing? Is it the perfect results in work, the precision in every detail? Or is it another way of saying success, meaning to have a rich life and be admired by everyone? Then take some time to quietly reflect. Life will show you people who achieve success in a surprisingly simple way. Success is when father and son have the courage to step into the kitchen and cook their mother's favorite dishes on March 8. The soup can be a bit salty, the fish sauce that should be dark red turns... burnt black. But looking at the tray, my mother still smiled. Because father and son could not succeed on the kitchen "battlefield", but they succeeded in giving their mother the "rose" of love. A gift more meaningful than any precious gift, that happiness sparkles in my mother's eyes. Success is also the image of a boy with a deformed leg who can never walk normally. Since childhood, he has dreamed of becoming a football player. After many hard efforts, the boy became a reserve player on a small team, and never officially played. But that is not failure. On the contrary, success blossomed when the old boy, with so much energy and determination, overcame circumstances to pursue his childhood dream. How many people can achieve that success? After every college entrance exam season, there are many "soldiers" who are sad when they learn that they have become "martyrs". Two or seven points, that's really high. But what's the point of being tall when NV1 takes two seven point five? That's actually not failure, it's just when success is - delayed - postponed. Life still welcomes them with NV2, NV3. The important thing is that they have tried their best to assert themselves. That is the complete meaning of exams, and also the essence of success. When I was young, I read a very touching story. The story is about a poor boy with an essay describing his mother - the woman who has protected his life. The boy wrote about a mother with misty hair and rough, wrinkled hands but gentle and warm. He concluded that: his grandmother is a mother - a woman who has supported him throughout his life's journey. The essay went off topic and had to go home and rewrite it. But that is a successful work, because it contains the love of an orphan grandchild for his grandmother. Is there any success, any sentiment more sacred than that? Many years ago, the press honored a poor student who passed the university entrance exam as valedictorian. For him, it was a great success. But there is another, silent but great success, which is the victory of a father who spent nearly 20 years riding a cyclo to raise his children's education. So much faith and hope appeared on the face that had suffered so much hardship. And the day a son passes university is also the day a father graduates from the course. I know a female student who graduated from college with an honors degree nearly twenty years ago. With her talent, she can achieve success in her career and fame. But the student that year accepted to sacrifice her life's opportunities to become a dutiful wife and gentle mother of two little princesses. Until now, as a middle-aged woman, she still tells me: "Taking good care of dad and two children is a great success for me." Every time I hear that sentence, I cry. Family is happiness, a beautiful achievement of mother's life, and we have to thank her for that. People always desire success, but blindly pursuing success is meaningless. Do you want to be rich, want to become a billionaire like Bill Gates? So fold the coin carefully and give it to the old beggar on the roadside. With that beautiful deed, you will let everyone understand that you are not only materially rich but also spiritually rich. Then you have truly succeeded. Sometimes you dream that success will come to you like Abramovich - the owner of a team full of stars? Success is not far away, you just need to spend time taking care of your family's "team". There, you receive boundless love, something Abramovich does not receive in return from his players. Success comes to everyone in such a simple and sweet way! You were born, it was a great success for mom and dad. Your responsibility is to preserve the perfect beauty of that success. Never gloomily think that life is a series of failures, because as an English professor once said: "There is no failure in this life, it's just the way we look at things." For me, success is when someone reads this small article. Maybe I won't get a high score, but being able to put my thoughts into writing, to me, is a success.
Giải thích ý nghĩa sự im lặng của nhân vật Phan Bội Châu trong truyện Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châ Hướng dẫn Giải thích ý nghĩa sự im lặng của nhân vật Phan Bội Châu trong truyện Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châ Khi còn ờ bên Pháp, Bác của chúng ta viết nhiều truyện ngắn. Trong đó có chuyện “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu”. Nội dung tư tưởng của câu chuyện chủ yếu được thể hiện qua câu trò chuyện giữa tên Toàn quyền Đông Dương và nhà cách mạng. Và đặc biệt trong cuộc trò chuyện đầy miễn cưỡng này, sự im lặng của Phan Bội Châu đã làm cho nội dung tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc nhiều hơn. Va-ren là người Pháp, hắn được Chính phủ cử sang làm Toàn quyền ở xứ Đông Dương. Để lấy lòng quần chúng và để yên vị với chức vụ mới của mình, Va-ren hứa sẽ đem lại tự do cho nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu. Câu chuyện của Nguyễn Ái Quốc xoay quanh nội dung như thế. Và tất nhiên, nó chỉ là một câu chuyện bịa. Nhà văn tưởng tượng ra câu chuyện để lật tẩy bộ mặt của Va-ren và cũng là để ca ngợi nhân cách của một con người – nhà yêu nước họ Phan. Cao trào của câu chuyện bắt đầu khi nhà văn để cho hai nhân vật chính diện với nhau. Tên toàn quyền thì cứ khua môi múa mép, hết sức “tỏ bày” mong thuyết phục được nhà cách mạng của chúng ta. Ngược lại Phan Bội Châu cứng rắn, lặng thinh và nếu có thể coi đó là một hành động phản ứng lại thì cũng chỉ là một nhếch ria mép mà thôi. Sự im lặng của Phan Bội Châu là một sự im lặng đầy ý nghĩa. Bởi trước hết, biết nói gì đây khi cuộc trạm chán lại là giữa hai con người hoàn toàn đối ngược nhau về bản chất. Một con người đã phản bội lại giai cấp vô sản Pháp, tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi ta khỏi tập đoàn, kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình. Còn ở phía bên kia là “con người đã hy sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cưóp nước mình, sống xa lìa quê hương, luôn bị lũ này săn đuổi..”. Trong hoàn cảnh ấy, giả sử Phan Bội Châu có cất lên lời thì e sẽ có một cuộc cãi vã lớn xảy ra, và có khi còn kèm theo những lời nhại báng và văng tục. Trong hoàn cảnh ấy có lẽ im lặng là cách tốt nhất để không bị nhơ bẩn cái nhân cách của chính mình. Cũng còn lý do khác khiến nhà chí sĩ yêu nước của chúng ta im lặng. Chúng ta hãy nghe lại những lời hùng biện của Va-ren: cũng thấy hắn nhắc đến tự do nhưng đó lại là một cuộc tự do “đổi chác”, Phan Bội Châu muốn được tự do ư? Điều ấy không khó. Thế nhưng muốn được như vậy “ông lấy danh dự hứa với tôi là sẽ trung thành với nước Pháp, hãy cộng tác, hãy hợp lực với nước Pháp để tiến hành ở Đông Dương một sự nghiệp khai hóa và công lý”. Ôi! một người có thể hy sinh cả cuộc đời để mong những điều tốt đẹp cho xứ sở Đông Dương mà lại bắt tay với ke thù xâm lược hay sao? Điều ấy rõ ràng là không thể.
Explain the meaning of the silence of the character Phan Boi Chau in the story Good Trickster Varen and Phan Boi Chau Instruct Explain the meaning of the silence of the character Phan Boi Chau in the story Good Trickster Varen and Phan Boi Chau While still in France, our Uncle wrote many short stories. Among them is the story "The good tricks are Varen and Phan Boi Chau". The ideological content of the story is mainly expressed through the conversation between the Governor General of Indochina and the revolutionary. And especially in this reluctant conversation, Phan Boi Chau's silence made the content of the work have a deeper meaning. Varen is French, he was sent by the Government to be the Governor General of Indochina. To win the hearts of the masses and settle down with his new position, Varen promised to bring freedom to patriotic scholar Phan Boi Chau. Nguyen Ai Quoc's story revolves around such content. And of course, it's just a fake story. The writer imagined the story to reveal Varen's face and also to praise the personality of a person - the patriot Phan. The climax of the story begins when the writer puts the two main characters face to face with each other. The governor-general kept moving his lips, trying his best to "express" his hope of convincing our revolutionaries. On the contrary, Phan Boi Chau was tough, silent, and if it could be considered a reaction, it was just a curl of his mustache. Phan Boi Chau's silence is a meaningful silence. Because first of all, what can we say when the encounter is between two people who are completely opposite in nature. A man who betrayed the French proletariat, a politician who was chased out of the group by his accomplices, who abandoned the past, abandoned his beliefs, abandoned his class. On the other side are "people who sacrificed their families and possessions to avoid seeing the robbers of their country, living far away from their homeland, always being hunted by these robbers...". In that situation, if Phan Boi Chau spoke up, I'm afraid there would be a big argument, and sometimes it would be accompanied by mockery and profanity. In that situation, perhaps staying silent is the best way to avoid tainting your own personality. There are also other reasons why our patriots are silent. Let's listen to Varen's rhetoric again: we also see him mentioning freedom, but it is a "barter" of freedom. Does Phan Boi Chau want to be free? That's not difficult. But if you want to be like that, "you promise me on your honor that you will be loyal to France, cooperate, join forces with France to carry out in Indochina a cause of civilization and justice." Oh! Can a person sacrifice his whole life to hope for good things for the country of Indochina and yet join hands with an invading enemy? That is clearly impossible.
Giải thích điều 5 Bác Hồ dạy: Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm Hướng dẫn Giải thích điều 5 Bác Hồ dạy: Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm Hằng tuần, vào thứ hai, trong tiết chào cờ đầu tuần, chúng ta đều nghe đọc “5 điều Bác Hồ dạy” và những lời tuyên hứa rất hùng hồn. Không chỉ có ngày thứ hai mà ngày nào cũng vậy, chúng ta đều tâm niệm cố gắng thực hiện tốt những lời Bác dạy. Trong năm điều thì điều năm là “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Muốn thực hiện tốt lời Bác dạy thì trước hết phải hiểu được ý nghĩa của lời dạy. Vậy chúng ta hiểu gì về “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”? Một điều dạy của Bác nhắc ta bài học quý. Trước hết là khiêm tốn. Người dạy ta khiêm tốn nghĩa là không khoe khoang, không tự đề cao mình mà coi thường người khác. Khiêm tốn là phải luôn nghiêm khắc với bản thân, thấy được những mặt non yếu của mình để rèn luyện đồng thời luôn ý thức học hỏi bạn bè và những người xung quanh. Còn thật thà là không gian dối trong những việc mình làm đối với người xung quanh. Thật thà còn có nghĩa là luôn nói đúng sự thực, ngay thẳng trong giao tiếp với mọi người. Còn bài học thứ 3 “dũng cảm” có nghĩa là gan dạ không sợ sệt khi làm những điều tốt đẹp. Dũng cảm còn có nghĩa là dám làm dám chịu, không ươn hèn, không khuất phục trước quyền uy và bạo lực. Như vậy khiêm tốn, thật thà, dũng cảm là những đức tính tốt đẹp của con người. Tại sao mỗi chúng ta cần phải rèn luyện những đức tính ấy? Trước tiên vì đó là những đức tính rất cần thiết đối với thiếu niên, học sinh chúng ta. Có khiêm tốn, thật thà chúng ta mới được mọi người quý mến, tin yêu – Dẫu ta có tài giỏi hơn người mà không kiều ngạo, lúc nào cũng tỏ vẻ nhún nhường, ham học hỏi ở mọi người thì ai cũng quí mến ta. Trong giao tiếp với cha mẹ, thầy cô, bè bạn cũng như mọi người xung quanh ta không gian dối, không lọc lừa, lúc nào cũng trung thực, thành thật thì ta sẽ tạo được lòng tin ở mọi người. Trong việc học tập, công tác và rèn luyện, chúng ta gặp biết bao khó khăn, không có tinh thần dũng cam làm sao ta có thể hoàn thành được nhiệm vụ được giao. Không những thế, các đức tính trên còn là cơ sở để khi lớn lên chúng ta sẽ rèn luyện những phẩm chất đạo đức cao hơn như lòng trung thành, tinh thần tận tụy, hi sinh vì đất nước và nhân dân, tác phong gần gũi và học hỏi quần chúng. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, trang sử vàng của đất nước ta không thiếu những tấm gương thiếu niên Việt Nam “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Anh Kim Đồng, anh Vừ A Dính, Nguyễn Bá Ngọc… đã nếu cao tấm gương dũng cảm. Trong học tập, những học sinh giỏi toàn quốc đã từng đạt nhiều giải thưởng, song vẫn khiêm tốn học hỏi. Chính vì vậy mà các bạn luôn được mọi người quý mến. Bằng tình yêu thương thiếu niên nhi đồng, Bác Hồ đã để lại cho ta bao lời giáo huấn quí báu. Phấn đấu thực hiện cho được những điều Bác dạy, ta sẽ trở thành cháu ngoan của Bác. Năm điều Bác dạy luôn được nhắc nhở hàng ngày giúp ta soi rọi lại mình. Không chỉ “khiêm, tốn, thật thà, dũng cảm” mà ngay cả từ điều một đến điều năm – điều nào ta cũng phải nhớ và cố làm theo. Nếu ai cũng có ý thức như vậy, chúng ta sẽ sớm trở thành con ngoan, trò giỏi và là người hữu dụng cho mai sau.
Explain the 5th thing Uncle Ho taught: Humility, honesty, courage Instruct Explain the 5th thing Uncle Ho taught: Humility, honesty, courage Every week, on Monday, during the flag-raising period at the beginning of the week, we hear the reading of "5 things Uncle Ho taught" and very eloquent promises. Not only on Mondays but every day, we are mindful and try to carry out Uncle Ho's teachings well. Among the five things, the fifth is "Humble, honest, brave". If you want to follow Uncle Ho's teachings well, you must first understand the meaning of the teachings. So what do we understand about "Humble, honest, brave"? One of Uncle Ho's teachings reminds us of a valuable lesson. First of all, humility. People teach us humility, which means not boasting, not promoting ourselves and looking down on others. Humility means being strict with yourself, seeing your weak sides to practice, and always being aware of learning from friends and people around you. Honesty means not being deceitful in what you do to the people around you. Honesty also means always speaking the truth and being straightforward in communicating with people. The third lesson "courage" means to be courageous and not afraid to do good things. Courage also means daring to act, not being cowardly, not submitting to authority and violence. Thus humility, honesty, and courage are good human qualities. Why does each of us need to practice those virtues? First of all, because these are very necessary qualities for our teenagers and students. Only by being humble and honest can we be loved and trusted by everyone - Even if we are more talented than others without being arrogant, always showing humility and eager to learn from everyone, everyone will love us. . In communicating with parents, teachers, friends as well as everyone around us, do not lie, do not deceive, always be honest and sincere, then we will create trust in everyone. In studying, working and training, we encounter many difficulties. Without a courageous spirit, how can we complete the assigned tasks? Not only that, the above virtues are also the basis for when we grow up to practice higher moral qualities such as loyalty, devotion, sacrifice for the country and its people, and close-minded behavior. close to and learn from the masses. During the revolutionary struggle, our country's golden history did not lack examples of "humble, honest, and courageous" Vietnamese youth. Mr. Kim Dong, Mr. Vu A Dinh, Nguyen Ba Ngoc... have been exemplary examples of courage. In studying, excellent students nationwide have won many awards, but are still humble in their studies. That's why you are always loved by everyone. With his love for children and young people, Uncle Ho left us many precious teachings. Striving to do what Uncle taught, we will become Uncle's good grandchildren. The five things Uncle Ho taught are always reminded every day to help us reflect on ourselves. Not only "humility, modesty, honesty, courage" but also from article one to five - we must remember and try to follow all of them. If everyone has such awareness, we will soon become good children, good students and useful people for the future.
Giải thích: Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ Hướng dẫn Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ – M.Gorki Mở bài: Một trong những nhu cầu lớn nhất của tinh thần con người đó là đọc sách. Sách giúp con người hiểu biết thế giới. Bởi thế M.Gorki đã từng nói: “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ”. Thân bài: Giải thích: Sách là vật dụng dùng để ghi chép, lưu giữu và lưu truyền tri thức của con người. Trải qua thời gian, hình thức của sách không ngừng thay đổi và ngày càng trở nên gọn nhẹ và tiện lợi hơn. Ngọn đèn là vật chiếu sáng. Ngọn đèn sáng bất diệt là ngọn đèn sáng mãi không bao giờ tắt. Trí tuệ là trí thông minh, là kết tinh hiểu biết của con người về thế giới. Ý nghĩa câu nói: Tri thức có trong sách sẽ là ngọn đèn sáng không bao giờ tắt dẫn bước trí tuệ con người đạt đến thành công. Sách chính là nguồn sáng bất diệt được thắp lên từ trí tuệ của con người. Đọc sách có nghĩa là thắp sáng cho trí tuệ của chúng ta. Bàn luận: Vì sao sách lại là “ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ”. Mỗi quyển sách là kết tinh trí tuệ của cả đời người, hoặc nhiều người. Thậm chí là của cả một cộng đồng trong một khoảng thời gian lâu dài. Bởi thế, sách chính là trí tuệ sâu sắc nhất mà con người luôn gìn giữ một cách cẩn thận. Những gì quý giá, muốn được truyền lại cho đời sau thì con người mới ghi lại thành sách. Khi đọc sách, tri thức ấy bồi dưỡng cho ta những gì mà ta chưa biết, hoặc đã biết nhưng chưa được sâu sắc. Sách còn giúp ta kiểm chứng những gì mình suy nghĩ, tạo cảm hứng giúp ta sáng tạo trong lao động, tiếp tục tạo ra tri thức mới. Sách dưa ta vượt thời gian trở về với lịch sử mấy trăm nghìn năm của nhân loại, đi sâu vào quá khứ từ thuở hồng hoang cho đến hiện tại và không ngừng mơ ước về tương lai. Sách đưa ta vượt không gian đến với mọi miền đất trên thế giới. Thậm chí là được du hành vào vũ trụ huyền bí trên trang sách. Sách còn giúp ta khám phá chiều sâu tình cảm trong tâm hồn, làm ta biết yêu thương, biết giận hờn hay cảm thông với một số phận nào đó. Sách giúp ta sống biết quý trong những thành quả lao động của con người, thu hẹp khoảng cách không gian và thời gian, đưa thế giới xích lại gần nhau hơn. Sách còn là một phương tiện giải trí tiết kiệm và hiệu quả nhất. Đọc một quyển sách hay, giúp ta có những phút giây thoải mái, thư thả, phấn chấn trong tâm hồn. Sách giúp ta biết thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, được sống với đời sống của muôn người xưa, biết cảm thông chia sẽ với nỗi khổ đau của con người, biết cảm phục những tấm gương cao cả, biết dùng lời hay ý đẹp trong giao tiếp hằng ngày để gắn kết mình với cộng đồng trong một mối quan hệ hiền hòa, bền chặt. Cần đọc sách như thế nào cho hiệu quả? Muốn dọc sách hiệu quả trước hết phải biết quý trọng tri thức, quý trọng sức lao động và tấm lòng của người xưa đã dành tặng cho chúng ta qua những trang sách ý nghĩa. Cần tạo thói quen và duy trì hứng thú đọc sách từng ngày để hiểu biết nhiều hơn cuộc sống và sống tốt đẹp hơn, hướng chân thiện mĩ. Mở ra một trang sách là mở ra một thế giới. Ngày nào đọc một trang sách hay là ngày đó đáng ghi nhớ trong cuộc đời. Cần phải lựa chọn sách tốt mà đọc. Có sách tốt rồi cũng cần phỉ lựa sách phù hợp mà đọc. Không đọc tràn lan, sách gì cũng đọc. Bạn sẽ không thể đọc được hết sách trên thế giới này chỉ với một lòng tham. Việc đọc cốt yếu là đọc những quyển sách cần đọc và đừng lãng phí cuộc đời vào những quyển sách có giá trị nhưng không cần thiết cho cuộc đời bạn. Đọc từ thấp lên cao. Nghĩa là đọc sách căn bản trước rồi mới đọc đến sách chuyên môn sâu. Kiến thức căn bản làm nền tản vững chắc của mọi sáng tạo của con người. Cốt lõi của việc đọc sách là hiểu biết thế giới và bồi đắp trí tuệ, hình thành và kiện toàn nhân cách, rèn luyện các năng lực để sẵn sàng làm việc thành công trong cuộc sống này. Đọc sách là cách tốt nhất để cảm ơn những người đi trước đã để lại cho ta những bài học vô giá. Kết bài: Sách là vật báu không thể thiếu trong đời soosngs con người. Hãy thử tưởng tượng một ngày trên thế giưới không còn quyển sách nào thì cuộc sống sẽ buồn chán đến như thế nào?
Explanation: Books are eternal lights of wisdom Instruct Books are eternal lights of wisdom - M.Gorki Opening: One of the greatest needs of the human spirit is reading. Books help people understand the world. That's why M.Gorki once said: "Books are the eternal lights of wisdom." Body of the article: Explain: Books are objects used to record, store and transmit human knowledge. Over time, the form of books is constantly changing and becoming more compact and convenient. A lamp is a lighting object. An eternally bright light is a light that shines forever and never goes out. Wisdom is intelligence, the crystallization of human understanding of the world. Meaning of the saying: The knowledge contained in books will be a bright light that will never go out, leading the human mind to success. Books are an eternal source of light lit from human intelligence. Reading books means lighting up our minds. Discuss: Why are books "eternal lights of wisdom?" Each book is the crystallization of the wisdom of a whole life, or many people. Even of an entire community over a long period of time. Therefore, books are the deepest wisdom that people always carefully preserve. People only record things that are precious and want to be passed on to future generations. When reading books, that knowledge nourishes us with things that we do not know, or know but not deeply. Books also help us verify what we think, inspire us to be creative in our work, and continue to create new knowledge. The book transcends time, returning to hundreds of thousands of years of human history, delving deep into the past from the beginning of time to the present and constantly dreaming about the future. Books take us across space to all parts of the world. Even traveling into the mysterious universe on the pages of books. Books also help us discover the depth of emotions in our souls, making us know how to love, be angry or sympathize with a certain fate. Books help us appreciate the fruits of human labor, narrow the gap in space and time, and bring the world closer together. Books are also the most economical and effective means of entertainment. Reading a good book helps us have moments of comfort, relaxation, and excitement in the soul. Books help us to enjoy the beauty of nature, to live with the lives of ancient people, to sympathize and share with human suffering, to admire noble examples, to know how to use beautiful words and ideas. in daily communication to connect yourself with the community in a gentle, strong relationship. How to read books effectively? To read books effectively, we must first appreciate the knowledge, labor and hearts of the ancients who have given us through meaningful pages. It is necessary to create a habit and maintain interest in reading books every day to understand more about life and live better, towards truth, goodness and beauty. Opening a page of a book is opening a world. Every day you read a good book is a memorable day in your life. You need to choose good books to read. If you have good books, you also need to choose the right books to read. Don't read too much, read any book. You will not be able to read all the books in this world with just one greed. The key to reading is reading the books you need to read and not wasting your life on books that are valuable but not necessary for your life. Read from low to high. That means reading basic books first and then reading more specialized books. Basic knowledge is the solid foundation of all human creations. The core of reading is understanding the world and cultivating intelligence, forming and perfecting personality, and training abilities to be ready to work successfully in this life. Reading books is the best way to thank our predecessors who have left us invaluable lessons. End: Books are indispensable treasures in human life. Imagine a day when there were no more books in the world, how boring would life be?
Giải thích: Đói cho sạch rách cho thơm Hướng dẫn Giải thích câu tục ngữ: “Đói cho sạch, rách cho thơm” Mở bài: Ca dao tục ngữ là kho tàng trí tuệ của con người. Mượn những câu nói ngắn gọn, xúc tích, cha ông ta gửi gắm ở trong đó biết bao bài học quý báu. Câu tục ngữ đói cho sạch rách cho thơm khẳng định mạnh mẽ vai trò ấy. Thân bài: Giải thích: Đói và rách là tình cảnh nghèo khó, túng thiếu và đói khát của con người. Sạch và thơm là trạng thái sạch sẽ, thơm tho, biểu hiện của cuộc sống đầy đủ, dư giả của con người. Nghĩa đen: Đói cho sạch rách cho thơm có nghĩa là dù có khó khăn hay đói rách cũng phải giữ gìn cuộc sống sạch sẽ, thom tho đàng hoàng. Nghĩa bóng, dù có khó khắn hay đói rách cũng phải gìn giữ lấy đời sống trong sạch, nhân cách tốt đẹp, phẩm chất cao quý. Không vì vật chất mà đánh mất bản thân mình. Bàn luận: Vì sao dẫu nghèo khó cũng phải giữ gìn nhân cách, đói cho sạch rách cho thơm? Đó là quan niệm sống tốt đẹp của nhân dân ta từ bao đời nay. Nó là biểu hiện của lối sống trọng tình trọng nghĩa, đề cao nhân cách và phẩm giá của con người. Chính nhân cách, nhân phẩm làm nên giá trị của một con người chứ không phải là tiền bạc vật chất. Vật chất mất đi rồi có thể tìm kiếm lại được còn nhân cách, danh dự con người mất đi thì khó cấy lại được. Trong ngheo khó cũng phải gìn giữ lấy danh dự, nhân cách tốt đẹp. Người có nhân cách tốt đẹp mới được mọi người tôn trọng, yêu quý và giúp đỡ. Người có nhân cách xấu xa, phẩm chất thấp hèn thì dẫu có lắm tiền nhiều của cũng bị xã hội khinh bỉ và lên án. Cần làm gì để bồi dưỡng và giữ gìn nhân cách, nhân phẩm của mình? Không ngừng học tập tri thức, nâng cao nhân cách nhân phẩm của mình. Chính học tập là con đường tốt nhất để hình thành và hoàn thiện nhân cách ở mỗi con người. Đề cao lối sống tình nghĩa, không tham lam vụ lợi hay chạy theo đời sống vật chất mà đánh mất tình người. Xây dựng lối sống trong sạch, vững mạnh, văn minh và tiến bộ trong cộng đồng. Đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Ủng hộ, giúp đỡ những người còn nghèo khó hay gặp cảnh hoạn nạn trong cuộc sống. Một miếng khi đói bằng một gói khi no, lá lành đùm lá rách, tư tưởng nhân văn cao cả của dân tộc ta. Kết bài: Không có gì cao quý hơn tình yêu thương con người. Hãy lấy tình yêu thương con người làm mục tiêu của hành động. Không vì vật chất mà đánh mất bản tính lương thiện vốn có ở chính mình. Bởi thế, đói cho sạch rách cho thơm, sống sao cho bản thân cảm thấy tự hào, mọi người tôn trọng, mến yêu giữa cuộc đời này.
Explanation: Hungry until clean and torn until fragrant Instruct Explanation of the proverb: "Hungry makes you clean, torn makes you smell good" Opening: Proverbs and folk songs are a treasure trove of human wisdom. Borrowing short, concise sentences, our ancestors conveyed many valuable lessons in them. The proverb "Hunger until it's clean and torn until it's fragrant strongly affirms that role." Body of the article: Explain: Hunger and poverty are the human condition of poverty, need and hunger. Clean and fragrant is a state of cleanliness and fragrance, a sign of a full and abundant human life. Literally: Hungry until clean and torn until fragrant means that no matter how difficult or hungry you are, you must maintain a clean and dignified life. Figuratively, no matter how difficult or hungry you are, you must maintain a clean life, good character, and noble qualities. Don't lose yourself because of material things. Discuss: Why, even when we are poor, we still have to preserve our dignity and stay clean and fragrant when hungry? That is the concept of a good life of our people for many generations. It is an expression of a lifestyle that respects love and respect, promoting human personality and dignity. It is personality and dignity that make a person's value, not material money. Lost material things can be found again, but lost personality and honor are difficult to restore. In times of hardship, one must also preserve honor and good character. People with good personalities will be respected, loved and helped by everyone. People with bad personalities and low qualities, even if they have a lot of money, are despised and condemned by society. What should we do to foster and preserve our personality and dignity? Continuously study knowledge and improve your personality and dignity. Studying is the best way to form and perfect the personality of each person. Promote a lifestyle of gratitude, do not be greedy for personal gain or pursue material life at the expense of human love. Building a clean, strong, civilized and progressive lifestyle in the community. Unite, support and help each other. Support and help those who are poor or encounter hardships in life. A piece when hungry is equal to a packet when full, healthy leaves cover torn leaves, the noble humanistic ideology of our nation. End: There is nothing nobler than love for people. Take love for people as the goal of your actions. Don't lose your inherent good nature because of material things. Therefore, stay hungry until you are clean and ragged, live in a way that makes you feel proud, respected and loved by everyone in this life.
Đề bài: Giấy rách phải giữ lấy lề Bài làm Trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, tục ngữ ca dao, dân gian đã sử dụng biểu tượng ẩn dụ một cách sâu sắc, ý vị, để gửi gắm một lời khuyên, để nêu lên một bài học đạo lí, đúc kết một kinh nghiệm ứng xử giàu tính nhân văn. Thật kì diệu, trước những hiện tượng tha hóa của một số người, ta lại nghe tiếng của ông bà cha mẹ khẽ nhắc: “Con ơi! Giấy rách phải giữ lấy lề”. Lời khuyên răn ấy thật là thấm thía. “Giấy rách” là ẩn dụ nói về một trang đời, một cảnh ngộ như “sông có khúc, người có lúc” gặp khó khăn, nghèo đói, họan nạn, hoặc gặp vận rủi ro, vấp ngã trên con đường lập nghiệp, mưu sinh. “Lề" là cái gì mà ta “phải giữ”? Trên tờ giấy, trang vở, trang sách, hình thành một đường kẻ, một đường thẳng, phân định làm 2 phần theo chiều dọc. Trước lúc viết phải biết kẻ lề. Lề nằm bên trái, chiếm một tỉ lệ vừa phải, hợp lí với tờ giấy, trang sách vở. hi là một khoảng trắng nghệ thuật làm cho trang viết, trang sách thêm đẹp, một vẻ đẹp trang nhã. Đặc biệt trên lề trang giấy bài tập của học sinh, thầy giáo, cô giáo ghi một cách ngắn gọn lời nhận xét, đánh giá đúng sai, hoặc khen, chê về chất lượng, về phẩm hạnh trong học tập của học trò. Cũng cần biết, thì từ viết trên tờ giấy, nếu không có lề là khiếm nhã. Quyển vở hoặc tờ giấy bài tập của học sinh mà thiếu lề hoặc lề kẻ một cách tùy tiện, điều đó phản ánh một tinh thần học tập thiếu nền nếp chu đáo. Hai chữ “phải giữ" nhắc nhở một ý thức, một quyết tâm bảo vệ, giữ gìn một cách trọn vẹn. Câu tục ngữ “Giấy rách phải giữ lấy lề” thật là giản dị và dễ hiểu. Cuốn sách, quyển vỏ không thể không có lề. Giấy có thể bị rách (do khách quan hay chủ quan) nhưng phần lề, gốc lề vẫn được giữ lại trong cuốn sách, quyển vở. Con người ta cũng vậy, khi đứng trước mọi khó khăn, họan nạn, phải biết nêu cao lòng tự tôn tự trọng, biết giữ lấy gia phong, truyền thống tốt đẹp của ông bà, tổ tiên, của gia đình mình. Câu tục ngữ “Giấy rách phải giữ lấy lề" đã nêu lên bài học đạo đức sáng giá. Qua câu tục ngữ, nhân dân nhắc nhở mọi người phải biết trau dồi nhân cách phẩm hạnh, có ý thức bảo vệ nếp nhà. gia phong, giữ gìn và phát huy mọi truyền thống tốt đẹp của gia tiên, của gia tộc. Không được đánh rơi nhân cách, không được làm những điều bất lương xằng bậy mà bị thiên hạ mỉa mai là “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, hoặc chê cười là “nhà kia bạc phúc”. Gia đình nào, dòng họ nào. miền quê nào cũng có những mặt tốt đẹp, truyền thống tốt đẹp. Có những “làng nghề", "đất học" nổi tiếng trong thiên hạ xưa nay: – "Xứ đông: Cổ An, xứ nam: Hành Thiện (đất học). – Nghệ: Yên Thành, Thanh hoá: Nông Cống (vựa lúa). – Trai Cầu Vồng, Yen Thế, gái Nội Duệ, Cầu Um. (Trai tài gái đảm) – v.v… Là con em, con cháu của những miền quê ấy, dòng học ấy, không chỉ tự hào mà họ còn biết giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia tiên mình, quê hương mình. Trong ngôn ngữ dân gian còn có những câu tục ngữ. thành ngữ, từ ngữ như “đất lề, quê thói”, “đất có lề, quê có thói”, "lề luật", "lề lối”. Một chữ lề nhiều ý nghĩa. Lề của phong tục, lề của tập quán, lề trong sinh họat đã định hình trong tâm hồn. Trong đời sống vật chất và tinh thần của một miền quê. Nó được thanh lọc trong dòng chảy thời gian, kết tinh thành truyền thống tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục. Vì thế, trước mọi biến cố, mọi thử thách, câu tục ngữ: “Giấy rách phải giữ lấy lệ” có tác dụng to lớn nâng đỡ tinh thần mọi người, động viên nhau biết giữ lấy phẩm hạnh, nêu cao truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương với tất cả niềm tự hào. Đầu thế kỉ XX, trong cái xã hội dở Tây dở ta, nén đạo đức bị băng họai một cách ghê gớm, có biết bao hiện tượng đồi phong bại tục: "Nhà kia lỗi đạo con khinh bố, Mụ nó chanh chua, vợ chửi chồng". ("Đất Vị Hoàng" – Tú Xương) Hiện thực đen tối ấy cho thấy không chỉ giấy đã rách mà lề cũng đã rách, đã nát! Tiếng thơ chứa đựng bao nỗi đau trước sự băng họai của thói đời đen bạc! “Giấy rách phải giữ lấy lề”, muốn làm được như thế phải được học, được giáo dục, ai cũng phải tu dưỡng đức hạnh và có lòng tự trọng. Dù đói nghèo, khó khăn cũng luôn phải giữ gìn phẩm chất, nhân cách. Những hiện tượng trộm cắp, càn quấy, nghiện ngập, bê tha… hiện nay mà ta thấy đã nói lên rằng, đạo đức gia đình sa sút. con cm một số gia đình không còn biết tự xấu hổ, không biết giữ lấy nếp nhà. Và một phần lớn là do cha mẹ không dạy bảo con cái nên mới xảy ra nông nỗi ấy! Phần cuối bài thơ “Tiếng chổi tre”, Tô' Hữu đã tâm tình nhắn gửi tuổi thơ gần xa. Hai chữ “lề” và “lối” nghe thật ý vị, thấm thía: “Nhớ em nghe Tiếng chổi tre Chị quét Những đêm hè Đêm đông gió rét Tiếng chổi tre Sớm tối Đi về Giữ sạch lề Đẹp lối Em nghe". Đường đời nhiều khó khăn trắc trở: "Người có lúc vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong" (Tục ngữ). Câu “Giấy rách phải giữ lấy lề" không thể thiếu Irons hành trang của mỗi người, nhất là đối với tuổi trẻ thời cắp sách. Qua 4000 năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã nêu cao ý thức giữ gìn và phát huy truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc. Bảo vệ, giữ gìn nếp nhà, gia phong, sự trong sáng của cốt cách và phẩm hạnh nòi giống Rồng Tiên là bài học sâu sắc mà ông bà tổ tiên luôn luôn nhắc nhở con cháu. “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “Đói cho sạch, rách cho thơm” là những bài học làm người vô giá.
Topic: Torn paper must keep the margins Assignment In everyday speech, proverbs, folk songs, and folk songs, metaphors have been used in a profound and meaningful way to convey advice, raise a moral lesson, and summarize a story. Experience rich humane behavior. Miraculously, in the face of the alienation of some people, we hear the voices of our parents and grandparents gently reminding us: "My child! Torn paper to keep margins". That advice is truly profound. "Torn paper" is a metaphor for a page in life, a situation like "there are times in the river, there are times when people" encounter difficulties, poverty, misfortune, or encounter bad luck, stumble on the path of career, make a living. What are "margins" that we "must keep"? On a piece of paper, notebook page, book page, form a line, a straight line, divided into 2 parts vertically. Before writing, you must know how to draw margins. The margin is on the left, taking up a moderate proportion, suitable for the paper and book page. This is an artistic white space that makes the writing page and book page more beautiful, especially on the page margin On students' homework papers, teachers should briefly record comments, evaluate right and wrong, or praise or criticize the quality and virtue of the student's learning Writing on a piece of paper without margins is rude. A student's notebook or exercise paper lacks margins or has arbitrarily drawn margins, which reflects a lack of thoughtful study spirit. The two words "must keep" remind a consciousness, a determination to protect and preserve completely. The proverb "Teared paper must keep the margin" is simple and easy to understand. The book and the cover are not There may be no margins. The paper may be torn (either objectively or subjectively), but the margins and original margins are still retained in the book or notebook , you must know how to raise your self-esteem, know how to keep the family style and good traditions of your grandparents, ancestors, and family. The proverb "Teared paper must keep the margin" raises a bright moral lesson. Through the proverb, people remind everyone to cultivate a virtuous personality and consciously protect the family. Preserve, preserve and promote all the good traditions of the ancestors and the family. Do not lose your personality, do not do dishonest things that people will mock as "you eat salty food in your life, in your life you will not be able to do anything that makes people laugh at you." I'm thirsty", or laugh at "that house is unlucky". Which family, which lineage? Every countryside has its good sides and good traditions. There are famous "craft villages" and "learning lands" in the world: – "Eastern land: Co An, southern land: Hanh Thien (land of learning). – Nghe: Yen Thanh, Thanh Hoa: Nong Cong (rice granary). – Rainbow boy, Yen The, Noi Due girl, Cau Um. (Talented boy and brave girl) – etc… As children and grandchildren of those countryside and that lineage, they are not only proud but also know how to preserve and promote the good traditions of their ancestors and their homeland. In folk language there are also proverbs. idioms and words such as "land has margins, countryside has habits", "land has margins, countryside has habits", "law", "way". One word margin has many meanings. Margin of customs, margin of customs , the way of life has been shaped in the soul. In the material and spiritual life of a countryside, it has been purified in the flow of time, crystallized into good traditions and customs Therefore, in the face of every event, every challenge, the proverb: "Teared paper must keep the rules" has a great effect in supporting everyone's spirit, encouraging each other to maintain virtue, upholding good traditions. of family and homeland with all pride. At the beginning of the 20th century, in a society that was neither Western nor Western, morality was severely damaged, and there were many phenomena of corrupt customs: "That family is wrong and you despise your father. She's sour, the wife curses her husband." ("The Emperor's Land" – Tu Xuong) That dark reality shows that not only is the paper torn, but the margins are also torn and crushed! Poetry contains so much pain in the face of the disaster of black and silver life! "Teared paper must keep the margins", to do that must be learned, educated, everyone must cultivate virtue and have self-respect. Despite poverty and difficulties, we must always preserve our qualities and personality. The current phenomena of theft, harassment, addiction, indulgence... that we see show that family morality has declined. I think some families no longer know how to be ashamed of themselves and don't know how to keep their house in order. And a large part is because parents do not teach their children that this happens! At the end of the poem "The sound of the bamboo broom", To' Huu confided a message to his childhood near and far. The two words "margin" and "path" sound meaningful and profound: “Remember me The sound of a bamboo broom She scanned Summer nights Cold windy winter night The sound of a bamboo broom Early evening Go home Keep margins clean Beautiful way I listen". Life's path is full of difficulties and obstacles: "People are sometimes honored and sometimes humiliated, water is sometimes cloudy and sometimes clear" (Proverb). The sentence "Teared paper must keep the margin" is indispensable in the luggage of every person, especially for young people in their school years. Through 4,000 years of building and defending the country, our people have raised their awareness of preserving and promoting the nation's fine moral traditions. Protecting and preserving the house, family style, purity of character and virtue of the Dragon and Fairy race are profound lessons that ancestors always remind their children and grandchildren. "Teared paper must keep the margins", "Hunger to clean, torn to smell good" are invaluable lessons as a human being.
Giới thiêu sơ về bài thơ Qua Đèo Ngang Hướng dẫn Tác giả: Họ tên nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan là Nguyễn Thị Hình. Quê nữ sĩ ở làng Nghi Tàm, nơi trồng dâu dệt lụa nổi tiếng đất Kinh kì Thăng Long. Xuất thân trong một gia đình quyền quý; bà nổi tiếng là một người phụ nữ đoan trang quý phái, hay chữ, giỏi thơ quốc âm, rất khéo léo về nữ công gia chánh. Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện tại huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình nên được người đời ái mộ gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà từng giữ chức nữ quan Cung trung giáo tập tại kinh đô Phú Xuân của triều Nguyễn. Trong cuốn ‘Văn đàn bảo giám’tuyển tập thơ do Trần Trung Viên sưu tập, Tản Đà viết lời giới thiệu xuất bản hơn 70 năm về trước có 6 bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi đài khán xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’. Thơ Bà Huyện Thanh Quan hay nói đến hoàng hôn đượm nỗi buồn li hương hoài cổ, ngôn ngữ trang trọng, trang nhã, nhạc điệu trầm bổng du dương; nghệ thuật tả cảnh ngụ tình rất tinh tế, điêu luyện. Hoàn cảnh ra đời: Giữa thế kỉ 19, Bà Huyện Thanh Quan đã đi vào Phú Xuân làm nữ quan Cung trung giáo tập của triều Nguyễn. Bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ đã được nữ sĩ viết khi trên đường thiên lí vào kinh, lúc lần đầu đi qua Đèo Ngang. Hai chữ ‘bước tới’ trong câu phá đề cho ta cảm nhận ấy. Bài ‘Qua Đèo Ngang’ là bài thơ Nôm viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật; luật trác, vần bằng.Có năm vần thơ: ‘tà – hoa – nhà – gia – ta’.
Brief introduction to the poem Qua Deo Ngang Instruct Author: The full name of female scholar Ba Huyen Thanh Quan is Nguyen Thi Hinh. The woman's hometown is in Nghi Tam village, a famous mulberry growing and silk weaving area in Thang Long capital. Coming from a noble family; She was famous for being a dignified and noble woman, good at writing, good at Vietnamese poetry, and very skillful in home economics. Her husband, Luu Nghi, worked as a district governor in Thanh Quan district, Thai Binh province, so people admired him and called him Ba Huyen Thanh Quan. She once held the position of female official of the Central Education Palace in the capital Phu Xuan of the Nguyen Dynasty. In the book 'Van Dan Bao Giam', a collection of poems collected by Tran Trung Vien, Tan Da wrote an introduction published more than 70 years ago, there are 6 poems by Ba Huyen Thanh Quan: 'Through Ngang Pass', 'This Afternoon homesick', 'Nostalgic Thang Long city', 'Tran Bac Pagoda', 'Playing on the Tran Vo spring stage', 'Autumn afternoon scene'. Ba Huyen Thanh Quan's poetry often talks about sunsets filled with nostalgic sadness of leaving home, the language is formal and elegant, the music is melodious; The art of depicting love scenes is very delicate and skillful. Circumstances of birth: In the middle of the 19th century, Ba Huyen Thanh Quan went to Phu Xuan to work as a female official in the Central Education Palace of the Nguyen Dynasty. The poem 'Crossing Ngang Pass' was written by the female poet while on the way to the capital, when she first passed through Ngang Pass. The two words 'step forward' in the sentence that breaks the problem give us that feeling. The song 'Over Ngang Pass' is a Nom poem written in seven-word, eight-syllable verse Road law; Trac law, equal rhyme. There are five verses: 'ta - hoa - nha - gia - ta'.
Giới thiệu bài thơ Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lí Bạch Hướng dẫn Giới thiệu tác phẩm “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” sẽ cung cấp thêm những đơn vị kiến thức về hoàn cảnh sáng tác cũng như đặc sắc về nội dung của bài thơ. Các bạn hãy tham khảo bài viết để hỗ trợ tốt nhất cho quá trình tìm hiểu và phân tích bài thơ nhé! 1. Hoàn cảnh sáng tác “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” là một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện rõ tài năng của tác giả Lí Bạch- một nhà thơ nổi tiếng trong thời Thịnh Đường. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh tác giả tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Mạnh Hạo Nhiên (689-740) là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Trung Quốc đời Đường, đồng thời ông cũng là bạn văn chương thân thiết của Lí Bạch. Vì vậy bài thơ ghi dấu một kỉ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc- một thắng cảnh tại Vũ Xương- Hồ Bắc, đồng thời thể hiện rõ tình cảm lưu luyến, thương nhớ bạn. 2. Đặc sắc nội dung Bài thơ “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” được viết theo thể tứ tuyệt- một thể thơ đặc trưng của thơ Đường luật. Trong bài thơ tác giả đã sử dụng ngôn ngữ trong sáng, hình ảnh thơ giản dị nhưng giàu sức gợi cảm, thể hiện rõ đặc trưng của thơ Tứ tuyệt là “ý tại ngôn ngoại”. Trong bài thơ, tác giả đã miêu tả không gian, thời gian và địa điểm đưa tiễn bạn, thể hiện rõ vẻ đẹp của của lầu Hoàng Hạc- nơi gắn với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên; đồng thời thể hiện tình cảm chân thành của tác giả đối với người bạn tri kỉ Mạnh Hạo Nhiên trong sự luyến tiếc. Bài thơ được kiến tạo bằng cấu tứ thơ đối lập giữa không gian xa- gần, lấy ngoại cảnh để biểu đạt tình cảm nội tâm,… thể hiện rõ vẻ đẹp văn chương trong thơ Lí Bạch. Vì thế, “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” trở thành một trong những bài thơ tuyệt tác ở thể thất ngôn tứ tuyệt của Lí Bạch nói riêng và trong nền văn học thời Đường nói chung Theo
Introducing the poem Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien Chi Quang Lang by Li Bach Instruct Introducing the work "Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien Chi Quang Lang" will provide more units of knowledge about the composition situation as well as the unique content of the poem. Please refer to the article to best support the process of understanding and analyzing the poem! 1. Circumstances of composition "At the Yellow Crane Tower, seeing off Manh Hao Nhien to Quang Lang" is one of the typical poems that clearly demonstrates the talent of author Li Bach - a famous poet during the Thinh Duong period. The poem was born in the context of the author sending Manh Hao Nhien to Quang Lang. Meng Haoran (689-740) was a famous poet of Chinese literature during the Tang Dynasty, and he was also a close literary friend of Li Bai. Therefore, the poem marks a profound memory at the Yellow Crane Tower - a scenic spot in Wuchang - Hubei, and clearly shows the feelings of nostalgia and longing for you. 2. Unique content The poem "At the Yellow Crane Tower, seeing off Manh Hao Nhien to Quang Lang" is written in quatrains - a typical poetic form of Tang Luat poetry. In the poem, the author used clear language and simple but evocative poetic images, clearly demonstrating the characteristic of Tu Quoc poetry as "idea beyond language". In the poem, the author describes the space, time and place of seeing off his friend, clearly showing the beauty of the Hoang Hac pavilion - the place associated with the legend of Phi Van Vi attaining enlightenment and becoming an immortal; At the same time, it shows the author's sincere feelings for his soulmate Manh Hao Nhien in nostalgia. The poem is created by contrasting poetic structures between near and far space, using the outside environment to express inner feelings,... clearly demonstrating the literary beauty of Ly Bach's poetry. Therefore, "At the Yellow Crane Tower, seeing off Manh Hao Nhien to Quang Lang" became one of the masterpiece poems in the seven-word four-parameter form by Li Bach in particular and in Tang Dynasty literature in general. According to
Giới thiệu Chiến tranh và người bản xứ Hướng dẫn “Trước năm 1914, họ chi là những tên da đen bẩn thỉu, những tên An-nam-mít bẩn thỉu…”. Cách hành văn đó đã gợi ý lên một ý rằng: trong chiến tranh, rất có thể họ (những người da đen và những người An-nam-mít ấy) sẽ có một thân phận khác. Và quả đúng là như vậy: sau đó “lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu…”. Điều gì đã khiến cho họ từ địa vị quá thấp hèn, bị khinh miệt trở nên cao quý như vậy? Không có phép lạ nào ở đây cả. Tác giả chỉ gợi ra một ý nhỏ (“ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ”) là tất cả sự thật đã được phơi bày. Công chúng Pháp rất có thể đã bị bất ngờ. Tác giả đã gọi những người dân bản xứ là “họ”, trong khi lại gọi đại diện của chính quyền thực dân là “các quan cai trị nhà ta…”. Điều đó giúp tác giả có được vị thế gần gũi với nhân dân Pháp, tỉ tê tâm sự và chỉ cho họ một sự thật: vị thế “cao quý”, “vinh dự đột ngột” mà những người dân bản xứ được “hưởng” hiện tại chẳng đem lại điều gì tốt đẹp cho họ cả, thậm chí thà rằng họ cứ là “giống người bẩn thỉu” còn hơn. vẫn giữ nguyên giọng điệu châm biếm, “vui vui” mà như cứa từng nhát dao sắc lạnh ấy, tác giả chứng minh bằng những dẫn chứng cụ thể mà đau lòng: những người dân bản xứ phải “đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ…” để “đi phơi thây trên các chiến trường châu Âu”. Người đem thân làm mồi cho cá dưới đáy biển, kẻ bỏ xác tại những miền hoang vu, gần gũi hơn thì ngay ở bờ sông Mác-nơ, bãi lầy miền Săm-pa-nhơ…Những kẻ không phải ra trận cũng không khá gì hơn khi họ phải nhiễm hơi ngạt trong các nhà máy hóa chất chế tạo vũ khí giết người. Đó là những tội ác thực sự phía sau những danh từ mĩ miều kia. Giọng điệu châm biếm của tác giả được thể hiện qua cách “nhại” những mĩ từ ấy (vinh dự đột ngột, bảo vệ Tổ Quốc của những loải quỷ quái, những miền hoang vu thơ mộng, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy…) càng làm bộc lộ sự ghê tởm trong quá trình “khai hoá văn minh” của chính quyền thực dân. Việc sử dụng những con sô" thống kê chính xác đến thời điểm này có tác dụng không khác gì một nhát búa: bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp, trong đó “tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trẽn quê hương đất nước mình nữa”. Biện pháp nói giảm, nói tránh được sử dụng trong trường hợp này đã tạo ra hiệu ứng ngược lại: càng cố làm giảm đi sô" lượng và tránh nói đến sự mất mát thì nỗi đau càng nhân lên.
Introduction War and Native Peoples Instruct “Before 1914, they were just dirty blacks, dirty Annamites…”. That style of writing suggested the idea that: during the war, it is very possible that they (the black people and the Anammites) will have a different status. And that's right: after that, "they immediately turned into "darling children", "good friends" of the kind rulers and parents...". What made them from such a lowly, despised position to become so noble? There are no miracles here. The author only suggests a small idea ("yet, a joyful war just broke out") and all the truth has been revealed. The French public may well have been surprised. The author called the indigenous people "them", while calling the representatives of the colonial government "the rulers of our house...". That helped the author gain a close position with the French people, confiding in detail and showing them the truth: the "noble" position, "sudden honor" that the indigenous people "enjoyed". ” The present does not bring anything good to them at all, it is even better that they remain "dirty people". Still maintaining the satirical, "joyful" tone that cuts like a sharp knife, the author proves with specific but heartbreaking evidence: the indigenous people had to "suddenly separate from their wives and children, leave their fields or their flocks of sheep..." to "go die on the battlefields of Europe". Some people use their bodies as bait for fish at the bottom of the sea, others leave their bodies in deserted areas, closer to home, right on the banks of the Marne River, the swamps of Sampanh... Those who don't have to go to war are no better off. What's more when they have to be exposed to gas in chemical factories that manufacture murder weapons. Those are the real crimes behind those beautiful words. The author's satirical tone is expressed through the way he "parodies" those beautiful words (sudden honor, defending the Fatherland of ghosts, poetic wilderness, watering the laurel wreaths with his blood). of commanders...) further revealed the disgust in the "civilization" process of the colonial government. The use of accurate statistics up to this point had the same effect as a hammer blow: seventy thousand natives had set foot on French soil, of which “eighty thousand were never seen again.” the sun on our homeland." The method of understatement and avoidance used in this case has created the opposite effect: the more we try to reduce the amount and avoid talking about the loss, the more painful it becomes. the pain increases.
Giới thiệu cho một người bạn về đất nước, con người Việt Nam khi em đi du học – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Đất nước, con người Việt Nam Bài làm Ngôi trường của chúng ta có rất nhiều bạn bè thuộc nhiều đất nước khác nhau: từ nước Nga lạnh giá đến Mĩ Latinh sôi nổi, nước Mĩ hiện đại và Nhật Bản truyền thống,… Còn tôi, tôi lại đến từ Việt Nam – một đất nước xinh đẹp. Tôi sẽ kể cho bạn nghe về đất nước của tôi. “Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều” (Nguyễn Đình Thi) Đó là những câu thơ trong trẻo, tha thiết về một đất nước xinh đẹp, một đất nước tự hào với hàng ngàn năm văn hiến, một đất nước đang từng ngày đổi mới đi lên – đất nước Việt Nam, đất nước của những anh hùng. Nói đến Việt Nam, trước hết phải nhắc đến những cảnh đẹp thiên nhiên hiền hoà và độc đáo. Nằm ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, lại giáp biển và đại dương nên khí hậu, cảnh quan rất đa dạng. Phía đông của Việt Nam là biển Đông thuộc Thái Bình Dương, phía nam có biển thuộc vịnh Thái Lan, phía tây và bắc giáp Lào, Campuchia, Trung Quốc. Việt Nam có nhiều con sông lớn nhỏ chảy qua, bồi đắp nên những đồng bằng châu thổ màu mỡ và ở nơi cửa biển có các vịnh biển tuyệt đẹp! Tổ chức văn hóa giáo dục quốc tế UNESCO đã công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế giới. Đây là niềm tự hào, một vinh dự lớn cho đất nước Việt Nam. thủ đô Hà Nội đã một nghìn năm tuổi. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, sản xuất đa dạng các mặt hàng như lúa gạo, ngô, cà phê, cao. su, hồ tiêu,…và có tỉ trọng xuất khẩu cao trên thế giới, trong đó nổi tiếng nhất là lúa gạo – cây lương thực được trồng nhiều nhất ở Việt Nam. Từ miền Bắc đến miền Nam, đi đến đâu ta cũng thấy bát ngát những dải lúa thẳng cánh cò bay. Những con sông hiền hoà đã bồi đắp các đồng bằng màu mỡ, nuôi dưỡng cây lúa. Và trên các miền trung du, miền núi cao với rừng cây bạt ngàn, bằng bàn tay và trí óc, những người dân Việt Nam đã tạo ra các thửa ruộng bậc thang tuyệt đẹp! Ở miền biển, không trồng được lúa thì người dân làm nghề đánh bắt cá, nuôi trồng thuỷ hải sản. Đâu đâu trên đất nước Việt Nam cũng có những con người cần cù lao động và gây dựng cuộc sống ngày một tươi đẹp! Mặt khác, Việt Nam không chỉ tự hào bởi thiên nhiên phong phú, đa dạng mà còn bởi lịch sử hào hùng với truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời. Với năm mươi tư dân tộc anh em đoàn kết, đồng lòng, lịch sử Việt Nam đã có nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vĩ đại từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…đến cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Lịch sử Việt Nam là cả một câu chuyện dài đẫm máu và nước mắt, thể hiện ý chí kiên cường, đoàn kết của người dân Việt Nam. Quá khứ khó khăn đã khiến Việt Nam sinh ra những con người cần cù, chăm chỉ, dũng cảm và sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. “Mái tranh ơi hỡi mái tranh, Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương” Từ những điều giản dị nhất, đất nước Việt Nam được sinh ra từ vẻ đẹp của thiên nhiên – bàn tay tạo hóa và hơn cả là từ tâm hồn và trí tuệ của những con người Việt Nam. Tôi yêu đất nước của tôi vô cùng và nếu bạn đến Việt Nam, tôi mong bạn cũng yêu mến đất nước xinh đẹp của tôi, đất nước với những con người thân thiện và mến khách! Đồng Bích Hà (Trường Hanoi Academy) >> Xem thêm Từ ba áng văn thơ nổi tiếng: “Nam quốc sơn hà” và “Hịch tướng sĩ” cùng với “Nước Đại Việt ta”, em hãy rút ra những nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn lịch sử này tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · con người Việt Nam · Đất nước
Introducing a friend about the country and people of Vietnam when you study abroad - Good essay for grade 8 Instruct The country and people of Vietnam Assignment Our school has many friends from many different countries: from cold Russia to vibrant Latin America, modern America and traditional Japan,... As for me, I come from Vietnam - a beautiful country. I will tell you about my country. “Vietnam, my country Where vast rice sea sky more beautiful The stork's wings fluttered Clouds cover Truong Son peak early in the afternoon" (Nguyen Dinh Thi) These are clear, passionate poems about a beautiful country, a country proud of thousands of years of civilization, a country that is innovating day by day - the country of Vietnam, the country of heroes. hero. When talking about Vietnam, we must first mention the peaceful and unique natural beauty. Located in Southeast Asia, Vietnam has a tropical monsoon climate and is bordered by seas and oceans, so the climate and landscape are very diverse. To the east of Vietnam is the East Sea of ​​the Pacific Ocean, to the south there is the sea of ​​the Gulf of Thailand, to the west and north it borders Laos, Cambodia, and China. Vietnam has many large and small rivers flowing through it, creating fertile deltas and at the estuary there are beautiful bays! The international cultural and educational organization UNESCO has recognized Ha Long Bay as a World Natural Heritage. This is pride and a great honor for Vietnam. Hanoi capital is one thousand years old. Vietnam is an agricultural country, producing a variety of products such as rice, corn, coffee, and cocoa. rubber, pepper,... and has a high proportion of exports in the world, the most famous of which is rice - the most grown food crop in Vietnam. From the North to the South, wherever we go, we see endless strips of rice flying straight from the stork's wings. Gentle rivers have built up fertile plains, nourishing rice crops. And in the midlands and high mountains with vast forests, with their hands and minds, Vietnamese people have created beautiful terraced fields! In coastal areas, where rice cannot be grown, people work in fishing and aquaculture. Everywhere in Vietnam there are people working hard and building a more and more beautiful life! On the other hand, Vietnam is not only proud of its rich and diverse nature but also of its heroic history with a long tradition of building and defending the country. With fifty-four ethnic groups united and united, Vietnam's history has had many great resistance wars against foreign invaders from the reign of Ba Trung, Ba Trieu, Tran Hung Dao, Le Loi, Quang Trung,... to the war. The long resistance war against French colonialism and American imperialism. Vietnam's history is a long story filled with blood and tears, demonstrating the resilient will and solidarity of the Vietnamese people. The difficult past has caused Vietnam to give birth to industrious, hard-working, brave and creative people. President Ho Chi Minh is considered a great leader of the Vietnamese people. “Oh thatched roof, oh thatched roof, Soaked in all the rain and sun to become a homeland" From the simplest things, the country of Vietnam was born from the beauty of nature - the hand of creation and most of all from the soul and intelligence of the Vietnamese people. I love my country very much and if you come to Vietnam, I hope you also love my beautiful country, a country with friendly and hospitable people! Dong Bich Ha (Hanoi Academy) >> See more From three famous poems: "Nam Quoc Son Ha" and "Hich Tuong Si" along with "Our Dai Viet Country", let's draw out the basic contents of patriotism during the period. This history here. Tags: Good essay for grade 8 · Vietnamese people · Country
Đề bài: Giới thiệu chợ Viềng Nam Định Bài làm Cứ đến độ xuân về, du khách các nơi lại nườm nượp đổ về trẩy hội Phủ Giày (ngày mồng 8 tháng Giêng), một trong những phủ thờ bà Chúa Liễu Hạnh trong tứ bất tử ở Việt Nam. Đi hội Phủ Giầy, ghé qua hội chợ Viềng. Đó là hội chợ cũng ở xã Kim Thái, huyện Vụ bản (Nam Định) – nơi người xưa đã gọi là địa linh, nhân kiệt. Sự độc đáo của chợ Viềng là mỗi năm họp chỉ có một phiên. … Chợ Viềng họp cả ngày vào mùng 8 tháng Giêng âm lịch hằng năm, nhưng người ở xa thường về từ sớm, rậm rịch họp chợ từ 11, 12 giờ đêm hôm trước, cho đến sáng và hết cả ngày hôm sau. Khách đến từ khắp nơi, trong Nam ngoài Bắc, đông nhất vẫn là người nội tỉnh và kế đến là khách các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá đổ ra. Ngày trước, khi chưa có điện, người bán hàng thắp một ngọn đèn dầu tù mù. Những món đồ cũ được bán chủ yếu là để cầu may chứ không để thu lợi như bây giờ. Ở đây người mua hoàn toàn tin tưởng vào người bán và qua chợ Viềng, con người càng thêm gắn bó với nhau. Chợ Viềng bây giờ đã thay đổi rất nhiều cả ý nghĩa lẫn các loại hàng hoá. Rất ít những người bán đồ cũ, đồ cổ thực sự, phần lớn là những mẹt hàng sành sứ, đồng thau giả cổ bày bán ở những chỗ càng tối càng tốt… khiến nhiều người mua nhầm hàng hỏng. Tiếng là hội chợ nhưng chợ Viềng không bán mua những sản phẩm ngoại lai cao cấp, hào nhoáng đắt tiền như ở các hội chợ tỉnh, thành phố lớn. Sản phẩm được đem ra mua bán ở đây chủ yếu là các cây trồng, vật nuôi: từ cây trồng để lấy gỗ, cây hoa cây cảnh, các loại cây ăn quả, thậm chí cả cây cà, cây chanh, cây ớt. Và sau nữa là đến các vật dụng sản xuất nhỏ của nhà nông. Người ta có thể tìm mua ở đây từ cái cày cái cuốc, đến các vật dụng nhỏ như đôi quang thúng, cái đòn gánh cùng trăm ngàn thứ vật dụng linh tinh khác. Ngoài ra còn có thứ thực phẩm được người bán kẻ mua rất tưng bừng náo nhiệt. Đó là thịt bê được thui vàng ươm nguyên cả con, bán rất nhiều dọc các ngả đường đi vào chợ. Có thể nói không ngoa rằng trên là trói, dưới là thịt bò bê. Khách mua ai thích phần nào có thể tuỳ chọn, mà giá lại rất phải chăng, hợp với túi tiền của người nhà quê. … Nhiều năm nay, người dân quanh vùng vẫn đổ đến chợ Viềng. Họ đi cả gia đình, cùng nhau ngắm nghía hay trả giá mua một món đồ sứ… mới toanh nào đó. Quanh năm, họ sống trong một cuộc sống yên ả, nề nếp, đúng giờ giấc. Đến đêm chợ Viềng, nhịp sống của họ thay đổi hoàn toàn. Họ thức suốt đêm, đi ra khòi nhà và hòa mình vào dòng người nửa quen nửa lạ. Đối với những người dân đơn sơ như vậy, chợ Viềng của họ vẫn còn mãi. Và chính họ mới là những người khách đích thực của chợ Viềng hằng năm. Ở chợ phiên này có tục người bán không hề nói thách và người mua cũng không hề mặc cả – một nét đẹp đáng yêu chỉ phiên chợ này mới có. Hình như sự bán mua ở đây mang nặng một ý thức tâm linh nào đó – rằng người ta chỉ cần bán hoặc mua được một vật gì đó dù rất nhỏ thì người bán kẻ mua đều gặp nhiều may mắn tốt lành, và cả đôi bên đều cùng vui vẻ hỉ hả ra về. Chính vì vậy hội chợ Viềng ngày xưa còn có tên gọi là chợ cầu May. Khách thập phương về hội chợ phần lớn là do nghe danh tiếng của chợ Viềng mà về, nhưng phần đông vẫn là những người có gốc gác hoặc quê quán ở đây đi làm ăn xa nay nhớ đất Tổ, đất quê tìm về. Nên dù có xa mấy, tận bên kia Đại Dương, tận Sài Gòn lục tỉnh… cũng nhớ ngày về để dự hội.
Topic: Introducing Vieng Nam Dinh market Assignment Every spring, tourists from all over flock to Phu Giay festival (January 8), one of the palaces worshiping Lord Lieu Hanh among the four immortals in Vietnam. Go to Phu Giay festival, stop by Vieng fair. That fair is also in Kim Thai commune, Vu Ban district (Nam Dinh) - a place the ancients called a sacred place and a masterpiece. The uniqueness of Vieng market is that it only holds one session per year. ... Vieng market opens all day on the 8th day of the first lunar month every year, but people from far away often return early, and the market is held from 11 or 12 o'clock the night before, until morning and all the next day. Guests come from all over, from the South to the North, the largest number are still from within the province, followed by visitors from Nghe An and Thanh Hoa provinces. In the past, when there was no electricity, the seller lit a dim oil lamp. Old items are sold mainly for good luck, not for profit like now. Here, buyers completely trust the seller and through Vieng market, people become even more attached to each other. Vieng Market has now changed a lot in both its meaning and the types of goods. Very few people sell real old or antique items, most of them are fake antique crockery and brass items sold in places that are as dark as possible... causing many people to mistakenly buy damaged goods. Although it is known as a fair, Vieng market does not sell and buy high-end, flashy and expensive foreign products like at fairs in provinces and big cities. Products bought and sold here are mainly crops and livestock: from trees grown for wood, flowers and ornamental plants, fruit trees, even eggplants, lemon trees, and chili trees. And then there are the small production items of farmers. People can buy everything here from plows and hoes, to small items such as baskets, poles and hundreds of thousands of other miscellaneous items. There is also food that is sold and bought very enthusiastically. This is veal meat that has been roasted whole, sold a lot along the roads leading to the market. It can be said without exaggeration that the top is tied, the bottom is beef and veal. Buyers can choose which part they like, and the price is very reasonable, suitable for the budget of country people. ... For many years now, people around the area have still flocked to Vieng market. They go as a family, look together or bargain to buy a brand new piece of porcelain... All year round, they live a quiet, orderly, punctual life. At Vieng market night, their pace of life changes completely. They stayed up all night, went out of the house and mixed with a stream of people who were half familiar and half strange. For such simple people, their Vieng market still exists forever. And they are the true guests of Vieng market every year. At this market, there is a custom where sellers do not challenge and buyers do not bargain - a lovely beauty that only this market has. It seems that the buying and selling here carries a certain spiritual consciousness - that people only need to sell or buy something, no matter how small, for both the seller and the buyer to have good luck, and both sides. They all went home happily. That's why the old Vieng fair was also called Cau May market. Visitors from far and wide come to the fair mainly because they hear about the reputation of Vieng market, but the majority are still people with roots or hometowns here who have gone to work far away and now miss their ancestral land and hometown to come back. So no matter how far we are, across the Ocean, all the way to Saigon, six provinces... we still remember the day we return to attend the festival.
Đề bài: Em hãy viết bài văn giới thiệu con trâu nhà em với các bạn trong lớp. Bài làm “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đó là nhận xét có tính chất khẳng định của ông cha ta từ ngàn xưa về vai trò to lớn của con vật đáng yêu ấy. Nước ta là một nước nông nghiệp nên con trâu đã gắn bó thân thiết với mọi gia đình nông dân Việt Nam. Gia đình em cũng nuôi một con trâu. Hồi bố em mới mua về, nó chỉ là một con nghé trông ngộ nghĩnh và xinh xắn. Hằng ngày, em thường dắt trâu ra đồng ăn cỏ. Sau hơn một năm được chăm sóc đầy đủ, con nghé lớn rất nhanh, thành chú trâu tơ khỏe mạnh. Con trâu tơ có thân hình nở nang, cấn đối, bốn chân vững chãi. Màu da nó đen bóng, lông mềm mượt. Đầu to, trán hơi gồ, cặp mắt lồi, đen và sáng. Mỗi lần em cho ăn, nó lấy lưỡi quơ từng nắm cỏ tươi đưa vào mồm, vừa thong thả nhai vừa ngúc ngắc đôi sừng cong vút tỏ vẻ thích thú. Lúc đã ăn no, nó nằm phục xuống nghỉ ngơi để chuẩn bị cho ngày làm việc mới. Sáng sáng, em dắt trâu ra đồng. Nó thủng thẳng bước đi với những bước chắc nịch, cái đuôi dài có túm lông thỉnh thoảng lại phe phẩy để xua lũ ruồi muỗi bám trên tấm lưng phẳng như cánh phản. Con trâu đã giúp gia đình em rất nhiều trong công việc cày bừa nặng nhọc. Trâu là con vật rất có ích cho nhà nông. Mặc dù ngày nay, máy móc cơ khí như máy cày, máy kéo, máy gặt… đã được sử dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp nhưng hình ảnh con trâu thân thương vẫn hiện diện và là một phần không thể thiếu của bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam.
Topic: Write an essay introducing your buffalo to your classmates. Assignment "The buffalo is an investment in business." That is an affirmative comment of our ancestors since ancient times about the great role of that lovely animal. Our country is an agricultural country, so the buffalo has a close bond with every Vietnamese farmer family. My family also raises a buffalo. When my dad first bought it, it was just a funny and pretty calf. Every day, I often take the buffalo to the fields to eat grass. After more than a year of full care, the calf grew very quickly and became a healthy young buffalo. The young buffalo has a plump, symmetrical body and four sturdy legs. Its skin is shiny black and its fur is soft and smooth. Big head, slightly bumpy forehead, bulging, black and bright eyes. Every time I fed her, she used her tongue to scoop up handfuls of fresh grass and put them into her mouth, leisurely chewing and wiggling her curved horns, showing interest. When he was full, he lay down to rest to prepare for a new working day. Every morning, I take the buffalo to the field. It walked straight with steady steps, its long, furry tail occasionally waving to dispel the flies and mosquitoes clinging to its flat back like a butterfly's wing. The buffalo has helped my family a lot in the hard work of plowing. Buffalo is a very useful animal for farmers. Although today, mechanical machinery such as plows, tractors, harvesters... are widely used in agricultural production, the beloved image of the buffalo is still present and is an indispensable part of the picture. Vietnamese rural landscape.
Đề bài: Giới thiệu cách làm một món ăn Bài làm Miến lươn là một món ăn dân dã được nhiều người ưa thích. Ngày nay, việc chế biến và thưởng thức món miến lươn đã khác xưa rất nhiều nhưng vẫn rất ngon. Miến rửa sạch đã chần nước sôi, được chần lại vào nồi nước dùng lươn màu nâu nâu cho miến nở, thấm độ đậm, ngọt của nước dùng rồi cho vào bát. Những miếng thịt lươn đã xào săn lại mà vẫn phô màu vàng óng của da lươn. Hành hoa và rau răm thái nhỏ tăm – thường thái trước khi cho vào bát để giữ mùi thơm, hành răm càng thái nhỏ càng tiết mùi thơm nhiều hơn. Rắc hành răm thái nhỏ lên thịt lươn rồi chan nước dùng. Nước dùng lươn màu nâu nâu ngọt trên mức bình thường, vì phải đậm đặc mới nổi vị, chỉ chan sâm sấp chứ không chan võng vì miến đã ngấm nở đủ bằng nước dùng nên không trương nở thêm nữa. Miến hợp nhất với món này là loại miến làm bằng đỗ xanh, sợi miến nhỏ và giòn chứ không nát. Cuối cùng, rắc hạt tiêu xay mịn. Nếu ai thích cay thì không rắc tiêu mà dùng thìa nhỏ xúc một phần tiêu sọ giã giập. Miến thấm đượm nước dùng, thịt lươn xào săn ăn hơi dẻo rất rõ vị lươn, lại được tẩm ướp nên thơm mùi tiêu và mùi nước mắm ngon thật hấp dẫn. Bát miến lươn, ăn tới miếng cuối cùng vẫn còn nóng. Món miến lươn hấp dẫn mọi mùa, nhưng vào những ngày đông lạnh còn hấp dẫn hơn nhiều. Bởi vì rét đến mấy, khi bê bát miến lươn thơm phức, nóng hổi lên là ta quên hết mọi rét mướt, chỉ còn cảm nhận vị ngọt ngon nơi đầu lưỡi.
Topic: Introducing how to make a dish Assignment Eel vermicelli is a rustic dish loved by many people. Nowadays, preparing and enjoying eel vermicelli is very different from before but still very delicious. Washed vermicelli, blanched in boiling water, then re-blanched in a pot of brown eel broth so that the vermicelli blooms, absorbs the richness and sweetness of the broth, and then puts it in a bowl. The stir-fried eel meat pieces are firm but still show off the golden color of the eel skin. Finely chop the scallions and laksa leaves – usually cut them before putting them in the bowl to preserve the aroma. The finer the scallions, the more fragrant they are released. Sprinkle finely chopped scallions on the eel meat and then pour in the broth. The brown eel broth is above the normal sweet brown color, because it has to be concentrated to bring out the flavor, only filled with ginseng, not thick because the vermicelli has been soaked enough with the broth so it won't swell any more. The best vermicelli for this dish is the vermicelli made from green beans. The noodles are small and crispy, not crushed. Finally, sprinkle with finely ground pepper. If you like spicy, do not sprinkle pepper but use a small spoon to scoop out a portion of crushed pepper. The vermicelli is soaked in broth, the stir-fried eel meat is slightly chewy and has a distinct eel taste. It is also marinated so it has a very attractive aroma of pepper and fish sauce. Bowl of eel vermicelli, eat until the last bite is still hot. Eel vermicelli dish is attractive in all seasons, but on cold winter days it is even more attractive. Because no matter how cold it is, when we serve a bowl of fragrant and hot eel vermicelli, we forget all the cold and only feel the delicious sweetness on the tip of our tongue.
Giới thiệu hoa phong lan Hướng dẫn Cổ tích Inđônêxia kể rằng, xa xưa có một nàng tiên kiều diễm quàng một cái khăn màu lộng lẫy. Nàng từtrên trời xuống trần gian dạo chơi. Qua một khu rừng, chiếc khăn của nàng vướng vào cây rừng, một vài mảnh của chiếc khăn thần kì đó mắc lại và biến thành những chùm phong lan. Vì lẽ đó, ngàynay lan có mặt khắp nơi trên trái đất, nhưng phong nhú nhất là ở vùng núi rừng nhiệt đới Đông Nam Á và Trung Mĩ. Phòng kí danh hoa phong lan quốc tế đặt trụ sở tại nước Anh đưa con số thống kê (tính đến năm 1971) có 800chi lan, gồm khoảng 100.000 loài. Trong đó có khoảng 25.000 loài lan rừng và 75.000 loài lan lai tạo. Do cách sinh trưởng của lan mà người ta chia ra thành bốn nhóm: cây lan sống bám vào cành hay thân cây khác và mang những rễ khí sinh thõng xuống, được gọi là phong lan. Câylan sông bám vào vách đá, leo bằng thân quấn và cũng cớ 1-5 phụ khí sinh, gọi là thạch lan. Gây lan mọc trên lớp lá cây mục lẫn với lớp đất mùn, được gọi là lan địa sính. Còn một số loại lan có ít hoặc không có diệp lục và mọc trên loại thể của các thực vật khác, thì được dại là lan hoại sinh. Ở Việt Nam ta, có gần 500 loại lan khác nhau, trong sốấy, có nhiều loài mọc tự nhiên. Trong các hốc núi đá vôi ở Nho Quan và Cúc Phương có mọc nhiều cây lan gót tiên, mặt trong cánh hoa lan gót tiên có màu hồng, mặt ngoài có nhiều chấm tía. Cánh môi của nó uốn cong như mũi chiếc hài, vì vậy trong thơ ca gọi là “Chiếc hài của thần Vệ nữ”. Vệ nữ là thần của sắc đẹp mà thuyền, thuyết Hi Lạp thường nhắc tới. Việt Nam ta đã có thời kì xuất khẩu lan sang các nước Liên Xô, Nhật Bản, Pháp. Tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt ngành trồng lan để xuất khẩu đang phát triển. Nhiều cơ sở sản xuất lan đang hình thành. Tại các cửa hàng dành cho khách nước ngoài, lan cũng là một mặt hàng được khách ưa thích, và chúng ta đã bắt đầu thu ngoại tệ về hoa lan.
Introducing orchids Instruct An Indonesian fairy tale tells that, long ago, there was a beautiful fairy wearing a gorgeous colored scarf. She came down from heaven to earth to roam. Through a forest, her scarf got entangled in a forest tree, a few pieces of that magical scarf stuck and turned into bunches of orchids. For that reason, today orchids are present everywhere on earth, but are most abundant in the tropical mountains and forests of Southeast Asia and Central America. The International Orchid Registry, based in England, reports that (as of 1971) there are 800 genera of orchids, including about 100,000 species. There are about 25,000 species of wild orchids and 75,000 species of hybrid orchids. Due to the way orchids grow, people are divided into four groups: orchids that live on branches or trunks of other trees and carry aerial roots hanging down, are called orchids. The river orchid clings to the cliff, climbs with its wrapped trunk and also has 1-5 vital organs, called litho orchid. Causing orchids to grow on a layer of rotten leaves mixed with humus soil, it is called a land orchid. Some types of orchids have little or no chlorophyll and grow on the bodies of other plants, so they are considered saprophytic orchids. In Vietnam, there are nearly 500 different types of orchids, many of which grow naturally. In the limestone cavities in Nho Quan and Cuc Phuong, there are many fairy orchids growing, the inside of the petals are pink, the outside has many purple dots. Its lips are curved like the nose of a slipper, so in poetry it is called "Venus's slipper". Venus is the goddess of beauty that Greek mythology often mentions. Vietnam had a period when exports spread to the Soviet Union, Japan, and France. In Ho Chi Minh City and Da Lat, the orchid growing industry for export is developing. Many orchid production facilities are being formed. At stores for foreign customers, orchids are also a popular item, and we have begun to earn foreign currency from orchids.
Giới thiệu kể về một lễ hội ở địa phương quê hương em Hướng dẫn Hội dược tổ chức trong hai ngày, người ỗ các nơi đổ về rất đông, người kinh có, người dân tộc có, họ đến đây không hề có sự phân biệt dân tộc hay kẻ giàu người nghèo. Họ đến để vui chơi, để thưởng thức tài nghệ của các chàng “man gát” điều khiển voi trong cuộc chạy đua. Trường đua là một khoảng đất rộng, bằng phẳng dài khoảng năm, sáu cây số’. Mới sáng sớm, dân làng đã tập trung đông đủ, chiêng trông nổi lên phá tan sự im lặng vốn có của đời sống buôn làng Tây Nguyên. Từng tốp voi được đưa ra, con nào cũng được trang điểm rất đẹp và rất lộng lẫy: Con thì quàng khăn đỏ, con thì quàng khăn xanh, có con đội trên đầu những chiếc mũ nhiều màu sắc. Các chàng “man gát” cũng ăn mặc rất chỉnh tề, nai nịt gọn gàng. Họ thường là những người phi ngựa giỏi nhất làng. Đến giờ xuất phát, chiêng trông, tù và nổi lên, các con voi dàn thành hàng ngang lao đầu chạy, chúng chạy như bay, bụi cuốn mù mịt, người xem hội cũng la hét om sòm cổ vũ cho các con voi và các hiệp sĩ. Không khí giờ đây thật náo nhiệt. Em thật không ngờ, ngày thường các chú voi với cái dáng lầm lì, chậm chạp thế mà giờ đây, các chú hăng máu phóng hết tốc lực dể về trúng đích. Nhìn các chú voi lao đầu chạy, em mới thấy tài nghệ của các hiệp sĩ “man gát”, họ phải dũng cảm lắm mới cho voi chạy nhanh và về trúng đích như vậy. Các chú voi này cũng rất ngộ nghĩnh, dễ thương, khi chạy đến đích, các chú đều ghìm đà, huơ vòi chào khán giả, dường như chúng cũng hiểu các khán giả này đang cuồng nhiệt cổ vũ cho chúng, chúng huơ vòi là để cảm ơn khán giả. Em thích ngày Hội đua voi ở Tây Nguyên, đây cũng là bản sắc văn hóa của dân tộc em. Em tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc. Em ước muôn sau này sẽ được ngồi lên lưng voi trong các ngày hội của buôn làng để giống như các hiệp sĩ “man gát”. BÀI LÀM 2 Kéo co là một trò chơi dân gian của dân tộc Việt Nam ta diễn ra vào những ngày Tết hoặc các lễ hội. Trò chơi này rất vui vì có nhiều người tham gia và nhiều người đến xem để cổ vũ, mặt khác nó cũng thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc. Tục kéo co diễn ra ở nhiều nơi, mỗi nơi có một kiểu chơi khác nhau, ở làng Hữu Trấp, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thường tổ chức kéo co giữa phái nam và phái nữ. Có lúc phái nam thắng cũng có lúc phái nữ thắng. Dù thắng hay thua cả hai phái dều thấy rất vui. Nhưng trò kéo co ở làng Tích Sơn thuộc thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc thì lại khác, đối tượng chơi lại là trai tráng giữa hai giáp trong làng nhưng số lượng người chơi hoàn toàn không đều nhau, không hạn chế số người. Sau cuộc thi dân làng nổi trống ăn mừng và các cô gái không ngớt lời ngợi khen các trai tráng đã thắng cuộc.
Introduction tells about a festival in my hometown Instruct The pharmaceutical festival was held for two days, people from all over came in large numbers, some from Kinh, some from ethnic groups, they came here without any distinction between ethnicity or rich or poor. They come to have fun, to enjoy the talent of the "man gat" men controlling the elephants in the race. The racetrack is a large, flat area of ​​land about five or six kilometers long. Just early in the morning, the villagers had gathered, the gong sounded, breaking the inherent silence of village life in the Central Highlands. Each group of elephants was brought out, each one beautifully and splendidly decorated: Some wore red scarves, some wore green scarves, some wore colorful hats on their heads. The "barbarians" also dress very neatly and wear neat belts. They are often the best riders in the village. When it was time for the departure, the gong sounded, the horn sounded, the elephants lined up in a row and rushed headlong, they ran like flying, dust swirled around, the festival goers also shouted loudly to cheer for the elephants and the elephants. Knight. The atmosphere is now very bustling. I really didn't expect that the elephants usually have such a taciturn and slow appearance, but now, they enthusiastically rush at full speed to reach the target. Looking at the elephants rushing to run, I saw the talent of the "barbarian" knights. They must be very brave to let the elephants run so fast and hit the target like that. These elephants are also very funny and cute. When running to the finish line, they all hold their momentum and wave their trunks to greet the audience. It seems they also understand that the audience is passionately cheering for them. They wave their trunks to greet the audience. to thank the audience. I like the Elephant Racing Festival in the Central Highlands, this is also the cultural identity of my people. I am proud of the nation's cultural traditions. I hope that in the future I will be able to sit on the back of an elephant during village festivals to be like the "barbarian" knights. WORK 2 Tug of war is a Vietnamese folk game that takes place on Tet days or festivals. This game is very fun because there are many participants and many people come to watch to cheer, on the other hand it also shows the martial spirit of the nation. The custom of tug of war takes place in many places, each place has a different style of play. In Huu Trap village, Que Vo district, Bac Ninh province, tug of war is often held between men and women. Sometimes men win and sometimes women win. Whether we win or lose, both sides feel very happy. But the tug of war game in Tich Son village in Vinh Yen town, Vinh Phuc province is different, the players are men between two villages in the village but the number of players is completely uneven, there is no limit to the number of people. After the contest, the villagers played drums to celebrate and the girls endlessly praised the winning boys.
Đề bài: Giới thiệu Lũng Cú – vẻ đẹp cực bắc Tổ quốc Bài làm Lũng Cú, mảnh đất địa đầu cực bắc Tổ quốc, là vùng đất của chè Shan, rượu mật ong và thắng cố, của những nét văn hoá truyền thống đặc sắc các dân tộc Mông, Lô Lô, Giáy. Từ trung tâm thị xã Hà Giang vượt qua gần 200 km, du khách sẽ tới Lũng Cú thuộc xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, vùng đất địa đầu cực bắc của Tổ quốc. Tên gọi Lũng Cú có nhiều giả thiết: Long Cư (rồng ở, động rồng), Lũng Ngô (bởi cánh đồng Thèn Pả trồng nhiều ngô), lại có giả thiết: Lũng Cú là tên người đứng đầu một dòng họ dân tộc Lô Lô, có công khẩn hoang, gìn giữ và phảt triển vùng đất. Nhưng nhiều người cho rằng: Lũng Cú có lẽ bắt đầu từ chữ Long cổ (Long-, rồng; cổ: trống) nghĩa là trống rồng. Thời phong kiến rồng tượng trưng cho vua, trống rồng là trống của nhà vua. Theo lời kể của các cụ cao tuổi ở Lũng Cú, trước đây đồng bào Là Lô có phong tục may sắm quần áo đúng kiểu của dân tộc Lô Lô ở Lũng Cú để mặc cho người qua đời, như thế tổ tiên mới nhận. Hiện nay đồng bào Lô Lô ở Lũng Cú cũng như ở Mèo Vạc (Hà Giang) đều sử dụng thành thạo trống đồng trong việc tang. Trống đồng của đồng bào Lô Lô có nguồn gốc từ trống đồng Đông Sơn, như vậy Lũng Cú còn bảo lưu được những hiện vật lịch sử, văn hoá quý giá tiêu biểu rực rở của thời Hùng Vương. Theo sử sách vào thời Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt ở nơi biên ải hiểm trở này một chiếc trống lớn, thời đó tiếng trống là phương tiện thông tin nhanh nhất, vị trí đặt trống của nhà vua, có lẽ là trạm biên phòng tiền tiêu Lũng Cú bây giờ… Xã Lũng Cú bao gồm chín thôn, bản: Lô Lô Chải, Séo Lủng, Tả Giá Khâu, cẳn Tằng, Thèn Ván. Thèn Pả, Sì Mần Khan, Sán Chồ, Sán Sà Phin, tất cả ở độ cao trung bình từ 1.600 – 1.800 mét so với mặt nước biển, ở những địa danh này vào mùa đông, gẳn đây nhất vào đầu tháng 1 – 2003 thời tiết rất lạnh và có cả tuyết rơi. Trong số chín thôn, bản của Lũng Cú thì Séo Lủng thuộc phần đất thượng cùng cực bắc nhưng phải đi bộ mất 15 phút mới tới cột mốc 17 đoạn 3 (Hà Giang – Vân Nam phân chia từ đời Mãn Thanh năm 1887), đây mới chính là mỏm đất tột bắc. Phía trái thung lủng Thèn Ván thăm thẳm, rộng khoảng 50ha, bên phải là đầu nguồn sông Nho Quế, bắt nguồn từ Mù Cảng – Vân Nam – Trung Quốc đổ về Đồng Văn, Mèo Vạc, núi non trùng điệp hùng vĩ vào bậc nhất đất nước… Khi nói về nước Việt Nam liền một dải, người ta hay nêu từ Trà cổ (Quầng Ninh) đến Cà Mau (nếu tính theo bờ biển), hoặc từ Mục Nam Quan (Lạng Sơn) đến Cà Mau (nếu tính theo trục đường quốc lộ), hoặc từ Lũng Cú đến Cà Mau (nếu tính theo giới hạn của vĩ độ). Nếu kể đến địa danh hẹp, chi li hơn phải nói từ xóm Séo Lủng đến xóm mũi Rạch Tàu… Là vùng quê lâu đời của đồng bào dân tộc Mông và Lô Lô, Lũng Cú có diện tích tự nhiên: 3.460 ha có 503 hộ với 3.051 nhân khẩu, Lũng Cú có đường biển giáp với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hơn 16km. Bà con dân tộc ở Lũng Cú canh tác chủ yếu là nương rẫy và làm ruộng bậc thang, nổi bật là đồng bào dân tộc Mông, Lô Lô vẫn bảo tồn nghề dệt truyền thống, với các công đoạn làm sợi lanh, dệt vải. Những năm trước dày, mỗi khi nhắc tới Lũng Cú – Đồng Vàn, hình,ảnh mà du khách nhớ nhiều nhất là đường giao thông xuyên qua những dãy núi cheo leo, phương tiện đi lại khó khăn, mùa đông trời lạnh buốt và cuộc sống còn khó khăn của bà con dân tộc. Ngày nay, dưới ánh sáng đường lối đổi mới, với những chính sách, sự đầu tư kịp thời của Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc ít người vùng cao nói chung và bà con dân tộc ít người ỡ Lũng Cú nói riêng thì Lũng Cú đã có nhiều đổi thay. Từ năm 2001, con đường từ Đồng Văn lên Lũng Cú đã dược nâng cấp, trải nhựa phẳng phiu, dòng diện quốc gia đã thắp sáng mảnh đất địa đầu Lũng Cú và cột cờ Tổ quốc được dựng lên trên đỉnh núi Rồng, trông xa như một ngọn tháp, có hình dáng cột cờ Hà Nội, cao gần 209 mét. Chân bệ có sáu mặt phù diêu mang nét hoa văn cửa trống đồng Đông Sơn, lá cờ Tổ quốc tung bay, kiêu hãnh giữ bầu trời biên cương, như ngọn lửa bất diệt, in bóng xuống mặt hồ Lô Lô xanh biếc. Lưng chừng núi Rồng có hang Sì Mần Khan rộng đẹp, hấp dẫn, hàng triệu năm tạo sơn, hay chính bàn tay nghệ nhân thời tiền sử tạo nên những đường nét mê hồn nhưng chính Lũng Cú thu nhỏ vào từng vân đá… Mùa xuân đến, mời du khách lên Hà Giang, tới thăm Lũng Cú, vượt qua 500km từ Hà Nội theo quôc lộ số 2 và quốc lộ 4C, qua cao nguyên đá Đồng Văn với thời gian hai ngày là du khách có thể đến với Lũng Cú, mảnh đất địa đầu cực bắc của Tổ quốc, nơi vẫn bảo tồn những nét văn hoá truyền thống, vùng đất có chè Shan, rượu mật ong và thắng cố, xứ sở của đào phai, hoa lê, tuyết trắng và náo nhiệt trong buổi chợ phiên. Du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành, lắng nghe tiếng đàn môi tâm tình gọi bạn, tiếng khèn Mông say quyến rũ tình người, tiếng trống đồng âm vang bên bếp lửa nồng (lượm men say của rượu ngô… du khách dễ gì quên, dẫu chỉ một lần đến.
Topic: Introducing Lung Cu - the northernmost beauty of the country Assignment Lung Cu, the northernmost land of the country, is the land of Shan tea, honey wine and thang co, of the unique traditional cultures of the Mong, Lo Lo, and Giay ethnic groups. From the center of Ha Giang town, traveling nearly 200 km, visitors will reach Lung Cu in Lung Cu commune, Dong Van district, the northernmost land of the country. The name Lung Cu has many hypotheses: Long Cu (dragon residence, dragon cave), Lung Ngo (because Then Pa field grows a lot of corn), and there is another hypothesis: Lung Cu is the name of the head of a Lo ethnic family. Lo, credited with reclaiming, preserving and developing the land. But many people believe that: Lung Cu probably started from the word Long (Long-, dragon; ancient: drum) meaning dragon drum. In feudal times, the dragon symbolized the king, and the dragon drum was the king's drum. According to the elders in Lung Cu, in the past, the La Lo people had the custom of buying clothes in the exact style of the Lo Lo people in Lung Cu to wear for the deceased, so that the ancestors would receive them. Currently, the Lo Lo people in Lung Cu as well as in Meo Vac (Ha Giang) are proficient in using bronze drums in mourning. The bronze drums of the Lo Lo people originate from Dong Son bronze drums, so Lung Cu also preserves precious historical and cultural artifacts that represent the glory of the Hung King period. According to history books during the Tay Son period, Emperor Quang Trung ordered a large drum to be placed in this dangerous border area. At that time, the sound of the drum was the fastest means of communication. The location of the king's drum was probably the Lung Cu frontier border station now... Lung Cu commune includes nine villages: Lo Lo Chai, Seo Lung, Ta Gia Khau, Can Tang, Then Van. Then Pa, Si Man Khan, San Cho, San Sa Phin, all at an average altitude of 1,600 - 1,800 meters above sea level, in these locations in winter, most recently in early January 2003 The weather is very cold and there is snow. Among the nine villages and hamlets of Lung Cu, Seo Lung belongs to the northernmost upper part of the land, but it takes 15 minutes to walk to reach milestone 17, section 3 (Ha Giang - Yunnan divided from the Manchu Qing Dynasty in 1887), here is the northernmost promontory. On the left is the deep Then Van valley, about 50 hectares wide, on the right is the Nho Que river watershed, originating from Mu Cang - Yunnan - China and flowing to Dong Van, Meo Vac, the most majestic and majestic mountains. country... When talking about Vietnam as a continuous strip, people often mention from Tra Co (Quang Ninh) to Ca Mau (if counting by the coast), or from Muc Nam Quan (Lang Son) to Ca Mau (if counting by the coast). along the national highway), or from Lung Cu to Ca Mau (if calculated according to latitude limits). If we talk about narrow, more detailed place names, we have to say from Seo Lung hamlet to Rach Tau cape hamlet... As a long-standing countryside of the Mong and Lo Lo ethnic people, Lung Cu has a natural area of ​​3,460 hectares with 503 households with 3,051 people. Lung Cu has a sea border with the People's Republic of China more than 16km. Ethnic people in Lung Cu mainly cultivate upland fields and terraced fields, notably the Mong and Lo Lo ethnic people who still preserve traditional weaving, with the stages of making flax fiber and weaving fabric. In recent years, every time Lung Cu - Dong Van is mentioned, the images that tourists remember most are the roads through craggy mountains, difficult transportation, bitterly cold winters and the harsh weather. Difficult survival of ethnic people. Today, under the light of innovation, with timely policies and investments of the State towards ethnic minorities in the highlands in general and ethnic minorities in Lung Cu in particular, Lung Cu has had many changes. Since 2001, the road from Dong Van to Lung Cu has been upgraded, paved smoothly, the national line has lit up the land at the beginning of Lung Cu and the national flagpole has been erected on the top of Dragon Mountain, looking far away. like a tower, shaped like a Hanoi flagpole, nearly 209 meters high. The base of the pedestal has six embossed faces bearing the pattern of Dong Son bronze drum doors, the National flag flutters, proudly holding the border sky, like an eternal flame, silhouetted against the blue Lo Lo lake. Halfway up Dragon Mountain, there is the large, beautiful and attractive Si Man Khan cave. Millions of years of paint creation, or the hands of prehistoric artisans, create enchanting lines, but it is Lung Cu that shrinks into each rock pattern... When spring comes, tourists are invited to Ha Giang, visit Lung Cu, travel 500km from Hanoi along Highway Không. 2 and Highway 4C, through the Dong Van stone plateau in two days, visitors can come to Ha Giang. Lung Cu, the northernmost land of the country, where traditional culture is still preserved, the land of Shan tea, honey wine and thang co, the land of fading peaches, pear flowers, white snow and excitement. heat at the market. Tourists will enjoy the fresh air, listen to the heart-felt sound of the lip harp calling out to friends, the sound of the drunken Mong flute seducing human love, the sound of brass drums resonating next to the warm fire (picking up the intoxicating yeast of corn wine... visitors can easily Never forget, even if it's only happened once.
Đề bài: Giới thiệu món ăn cơm hến Huế. Bài làm Huế không chỉ đước biết đến với sự mộng mơ, sông Hương, núi Ngự mà còn bởi những món ăn dân dã nhưng không kém phần đậm đà. Ai đã từng đến Huế mà chưa được nếm thử món cơm hến thì đã thiếu mất một phần của Huế, nhưng nếu đã ăn rồi thì sẽ mãi không quên được hương vị đậm đà của bát cơm hến. Cơm hến xuất phát từ tầng lớp bình dân vùng cồn Hến ven sông Hương, có thời từng được tiến vua, trở thành món ăn cung đình. Đây là món ăn dễ tìm kiếm khi du khách đến thăm Huế. Cơm hến là một đặc sản ẩm thực Huế. Đó là món ăn gồm có nước canh hến chan với cơm nguội, thêm một chút rau và gia vị. Cơm hến được trình bày dưới hình thức là cơm nguội trộn với hến xào qua dầu và gia vị. Thịt hến và nước hến là hai vị chính của cơm hến, ngoài ra thì cũng không thể thiếu các loại gia vị đi kèm. Các thành phần khác để làm nên cơm hến gồm có ruốc, tương ớt, tiêu, nước mắm, tỏi, gừng, da heo chiên giòn, đậu phụng rang, muối, mè, rau sống, cơm nguội. Cơm hến ăn hoài không chán bởi sự lạ đời của nó. Theo nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, “người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng, duy chỉ cơm hến nhất thiết phải là cơm nguội”. Người dân lao động Huế xưa và cả bậc vua chúa đều tìm thấy trong món cơm hến sự hài hòa để cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể một cách chừng mực. Sự hấp dẫn của món cơm hến còn thể hiện ở khay gia vị. Ai thích ăn cay đã có ớt tương, ớt màu, ớt dầm nước mắm. Ai thích ăn mặn đã có ruốc và muối. Ai lạt miệng đã có vị tinh (bột ngọt).
Topic: Introducing Hue mussel rice dish. Assignment Hue is not only known for its dreaminess, Perfume River, Ngu Mountain but also for its rustic but no less delicious dishes. Anyone who has been to Hue and has not tasted mussel rice is missing a part of Hue, but if they have eaten it, they will never forget the rich flavor of a bowl of mussel rice. Mussel rice comes from the common people in the Hen dunes along the Huong River. At one time, it was presented to the king and became a royal dish. This is an easy dish to find when tourists visit Hue. Mussel rice is a Hue culinary specialty. It is a dish consisting of mussel broth mixed with cold rice, adding a little vegetables and spices. Mussel rice is presented as cold rice mixed with mussels stir-fried in oil and spices. Mussel meat and mussel juice are the two main flavors of mussel rice, in addition, the accompanying spices are indispensable. Other ingredients to make mussel rice include shrimp paste, chili sauce, pepper, fish sauce, garlic, ginger, crispy fried pork skin, roasted peanuts, salt, sesame, raw vegetables, and cold rice. I can never get bored of eating mussel rice because of its strangeness. According to writer Hoang Phu Ngoc Tuong, "Vietnamese people always eat hot rice, but mussel rice must be cold." The working people of ancient Hue and even the kings found harmony in the mussel rice dish to provide nutrition to the body in moderation. The appeal of mussel rice is also shown in the spice tray. Those who like spicy food have chili sauce, colored chili, and chili dipped in fish sauce. Those who like salty food have shrimp paste and salt. Anyone who tastes salty in their mouth has the taste of starch (monosodium glutamate).
Giới thiệu một cách khái quát về văn học Việt Nam lớp 10 Hướng dẫn Hãy giới thiệu một cách khái quát về văn học Việt Nam: 1. Các bộ phận hợp thành. 2. Tiến trình lịch sử văn học. 3. Một số nội dung chủ yếu. 4. Một số thành tựu nghệ thuật. Dàn ý 1. Văn học Viêt Nam gồm có 2 bờ phận lớn hợp thành: văn học dân gian,và văn học viết. – Văn học dân gian gồm có truyện dân gian (thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười), thơ ca dân gian (tục ngữ, câu đố, vè, ca dao, truyện thơ), sân khấu dân gian (chèo, tuồng đồ). – Văn học viết gồm có văn học viết bằng chữ Hán, văn học viết bằng chữ Nôm, văn học viết bằng chữ Quốc Ngữ. 2. Văn học viết Việt Nam đã vận động và phát triển qua hai thời kì lớn: – Văn học trung đại từ thế kỉ thứ X đến hết thế kỉ XIX, viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. – Văn học hiện đại từ đầu thế kỉ XX đến nay, viết bằng chữ Quốc ngữ. 3. Nội dung chủ yếu của văn học Việt Nam đã kết tinh và phản ánh tư tưởng, tình cảm, quan niệm chính trị, văn hoá, đạo đức của con người Việt Nam trong nhiều mối quan hệ đa dạng. – Phản ánh quan hệ với thế giới tự nhiên. – Phản ánh quan hệ xã hội. – Phản ánh ý thức về bản thân. 4. Văn học Việt Nam đã thu được một số thành tựu nghệ thuật đặc sắc. – Xây dựng hệ thống thể loại văn học dân tộc. – Xây dựng và phát triển tiếng Việt thành một ngồn ngữ văn học ngày một giàu đẹp. – Tiếp thu có sáng tạọ kinh nghiệm và tinh hoa nghệ thuật của văn học thế giới.
A general introduction to Vietnamese literature for grade 10 Instruct Let's briefly introduce Vietnamese literature: 1. Component parts. 2. Literary history process. 3. Some main contents. 4. Some artistic achievements. Outline 1. Vietnamese literature consists of two large parts: folk literature and written literature. – Folk literature includes folk tales (myths, epics, legends, fairy tales, fables, jokes), folk poetry (proverbs, riddles, rhymes, folk songs, poetic stories ), folk theater (cheo, tuong do). – Written literature includes literature written in Chinese characters, literature written in Nom script, literature written in Quoc Ngu script. 2. Vietnamese written literature has moved and developed through two major periods: – Medieval literature from the 10th century to the end of the 19th century, written in Chinese and Nom. – Modern literature from the early twentieth century to present, written in the National language. 3. The main content of Vietnamese literature has crystallized and reflected the thoughts, feelings, political, cultural and ethical concepts of Vietnamese people in many diverse relationships. – Reflects the relationship with the natural world. – Reflects social relationships. – Reflects sense of self. 4. Vietnamese literature has achieved a number of unique artistic achievements. – Building a system of national literary genres. – Build and develop Vietnamese into an increasingly rich and beautiful literary language. – Creatively absorb the experience and artistic quintessence of world literature.
Giới thiệu một danh lam thắng cảnh Sông Hương Bài làm Có lẽ mỗi người đều có một quê hương riêng, nơi in dấu trong ta bao kỉ niệm đẹp đẽ, êm đềm của tuổi thơ, và hẳn là ai cũng cần có cho mình một lưu giữ đẹp về một danh lam thắng cảnh của quê hương, để tự hào để giới thiệu với bạn bè đó đây. Hôm nay mình sẽ giới thiệu cho các bạn một danh lam thắng cảnh ở quê hương mình, đó là sông Hương. Có lẽ, từ lâu sông Hương đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca nghệ thuật, nso dường như không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Từ màu sắc bình thương hiền dịu hàng ngày, nó bỗng đột khỏi thành “dòng nước trắng-Lá cây xanh”. Rồi từ cái vẻ tha thướt mơ màng, nó bỗng nhiên trở nên khí phách như kiếm dựng trời xnah trong câu thơ của Cao Bá Quát, để rồi cuối cùng nó đột khỏi trở thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong tác giả Từ Ấy. nhưng dù muôn dáng, nghìn màu đến đâu đi chăng nữa thì sông Hương, bao giờ cũng thế. Nó luôn là người tình, người con gái đẹp mơ màng của đất nước đã đổ bóng xuống trang thơ, trang văn của biết bao cây bút tài hoa. Có khi nó rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy những ghềnh thác, nhưng bao giờ cũng vậy, dường như đã trở thành một nét bản sắc của sông Hương hay của con người xứ Huế quê tôi. Nó lại trở nên dịu dàng giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng, không những thế nó còn được ví như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Sông Hương như người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. rồi nó như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều. Sông Hương cao quý và thiêng liêng hơn bỏi nso đã cho tôi, cho những người dân xứ Huế cơ hội được sống chậm để cảm nhận, đẻ lắng nghe chứ không ồn ào, nhộn nhịp xô bồ như nhịp sống hiện đại. nhờ điệu chạy slow tình cảm ấy đó thôi. Và cũng chính tại mặt nước sông Hương là nơi đã sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế. Vậy đó, sông Hương là chiếc nôi của văn hóa, của nghệ thuật dân tộc. Thật bởi vậy, àm bao lâu nay nó chưa bao giờ thôi hấp dẫn những người tình xứ sở và muôn nơi. Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, ở đây vẫn cho ta thấy một linh hồn mô tê xưa cũ. Đó là một nét bản sắc mà không một nơi nào trên dải đất hình chữ S tôi còn tháy khá rõ. Sông Hương là một báu vật, là một gì đó thật yêu mến và nhớ thương trong lòng tôi, trong lòng người dân quê hương. Bỗng dưng tôi nhớ tới câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo: Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Có ai đó rót chiều vào chén ngọc Huế dịu dàng xây bằng khói và sương”. Chao ôi, con sông quê hương bao năm vẫn lặng tờ náu mình dưới trầm tích thời gian, mà nay bỗng sống dậy một tâm tình, một nét đẹp xôn xao. Sông Hương quý, sông Hương thơ nhưng hơn tất cả đó còn là một sông hương mang vẻ đẹp như triết lí, như cổ thi, vẻ đẹp của trầm tích văn hóa. Đã có lần tự hỏi, ai đã đặt tên cho dòng sông, và xin giới thiệu với các bạn một huyền thoại kể rằng: người dân quanh vùng này vì yêu quý con sông xinh đẹp nên đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống, để dòng sông được thơm tho mãi mãi. Đó phải chăng là cách lí giải hợp tình nhất chăng, cho sông Hương, cho tâm hồn con người xứ sở.
Introducing a scenic Perfume River Assignment Perhaps everyone has their own homeland, a place imprinted in us with many beautiful, peaceful memories of childhood, and everyone needs to have for themselves a beautiful memory of a scenic spot of their homeland. , to proudly introduce to friends here and there. Today I will introduce to you a scenic spot in my hometown, which is the Perfume River. Perhaps, for a long time, the Perfume River has become an endless source of inspiration for poetry and art, it never seems to repeat itself in the inspiration of artists. From the normal, gentle color of everyday life, it suddenly turns into a "white stream of green leaves". Then, from its dreamy, graceful appearance, it suddenly becomes courageous like a sword that creates the sky in Cao Ba Quat's poem, and finally it suddenly becomes the resurrection power of the soul in author Tu That. . But no matter how many shapes and colors it has, the Perfume River is always the same. She has always been the lover, the dreamy, beautiful girl of the country who has cast her shadow on the poetry and prose pages of so many talented writers. Sometimes it roars amidst the shadows of giant trees, swirling rapids and waterfalls, but always the same, it seems to have become an identity of the Perfume River or of the people of my hometown Hue. It becomes gentle again amid the dazzling miles of wild azalea flowers, not only that, it is also compared to the alluvial mother of a cultural region of the country. Perfume River is like a beautiful girl sleeping dreamily in the middle of Chau Hoa fields full of wildflowers. Then it is like a talented woman playing the piano late at night, the Perfume River is truly Kieu, very Kieu. The Perfume River is more noble and sacred because it has given me, and the people of Hue, the opportunity to live slowly to feel, to listen, and not to be noisy and bustling like modern life. Thanks to that emotional slow running rhythm. And it is also on the water of the Perfume River that the entire Hue classical music scene was born. So, the Perfume River is the cradle of culture and national art. That's why, for so long, it has never stopped attracting lovers from all over the country and everywhere. The Perfume River is the river of resounding time, of epics written amidst the green grass and leaves. Here, we still see an ancient soul. It is an identity that I can still see clearly in no other place on the S-shaped strip of land. Perfume River is a treasure, something I love and miss in my heart and in the hearts of the people of my homeland. Suddenly I remembered the poem by Nguyen Trong Tao: Craving to read a passage from Hoang Phu Ngoc Tuong Someone poured afternoon tea into a jade cup Gentle Hue is built with smoke and mist. Alas, my hometown river has remained silent for many years hidden under the sediments of time, but now it suddenly revives a sentiment, a stirring beauty. The Perfume River is precious, the Perfume River is poetic, but more than anything, it is also a Perfume River with beauty like philosophy, like ancient poetry, and the beauty of cultural sediments. I once wondered who named the river, and I would like to introduce to you a legend that says: because people around this area loved the beautiful river, they boiled water from hundreds of flowers and poured it down. Let the river be fragrant forever. Is that the most reasonable explanation, for the Perfume River, for the souls of the people of the country?
Đề bài: Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê em Bài làm "Mặt Hồ Gươm vẫn lung linh mây trời, càng toả mát hương hoa thơm Thủ đô…". Nhắc đến Hà Nội là nhắc đến hình ảnh Hồ Gươm trong xanh và bóng Tháp Rùa nghiêng nghiêng soi dáng. Hồ Gươm cùng quần thể kiến trúc của nó đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ và thiêng liêng về Hà Nội – trái tim hồng của cả nước. Hồ Gươm đã tồn tại từ trước nay rất lâu. Cách đây khoảng 6 thế kỷ, theo những địa danh hiện nay, hồ gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ. Vào thế kỷ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Sự kiện ấy gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng của vị vua khai triều nhà Hậu Lê – người anh hùng của khởi nghĩa Lam Sơn chống lại giặc Minh (1417-1427), Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, có người dân mò được một lưỡi gươm, sau đó chính ông nhặt được một cái chuôi ở trong rừng. Khi lưỡi gắn vào chuôi gươm thì thân gươm ánh lên hai chữ "Thuận Thiên" – "Thuận theo ý trời". Gươm báu này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống giặc Minh. Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, bỗng một con rùa xuất hiện. Rùa vươn đầu cất tiếng nói: "Xin bệ hạ hãy hoàn lại gươm cho Long Quân”. Lê Thái Tổ hiểu ra sự việc bèn rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thuỷ có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm. Chính truyền thuyết đặc sắc này đã khẳng định tấm lòng yêu chuộng hoà bình, ghét chiến tranh của người dân Thăng Long – Hà Nội nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Câu chuyện này đã được nhấn mạnh trong ngày lễ Hà Nội đón nhận danh hiệu "Thành phố Vì hoà bình” Sau đó, cũng vào thời Lê, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện của thuỷ quân nên có lúc được gọi là hổ Thuỷ Quân. Hồ Hoàn Kiếm là một thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội. Quanh hồ trồng nhiều loại hoa và cây cảnh. Đó là những hàng liễu rủ thướt tha, những nhành lộc vừng nghiêng nghiêng đổ hoa soi bóng dưới lòng hồ. Giữa hồ có tháp Rùa, cạnh hồ có đền Ngọc Sơn có "Đài Nghiên Tháp Bút chưa sờn"… Hình ảnh hồ Gươm lung linh giống như một tấm gương xinh đẹp giữa lòng thành phố đã đi vào lòng nhiều người dân Hà Nội. Người dân Hà Nội sống ở khu vực quanh hồ có thói quen ra đây tập thể dục vào sáng sớm, đặc biệt là vào mùa hè. Họ gọi các khu phố nằm quanh hồ là Bờ Hồ. Không phải là hồ nước lớn nhất trong Thủ đô, song với nguồn gốc đặc biệt, hồ Hoàn Kiếm từ đã gắn liền với cuộc sống và tâm tư của nhiều người. Hồ nằm ở trung tâm một quận với những khu phố cổ chật hẹp, đã mở ra một khoảng không đủ rộng cho những sinh hoạt văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn thế, hồ gắn với huyền sử, là biểu tượng khát khao hòa bình (trả gươm cầm bút), đức văn tài võ trị của dân tộc (thanh kiếm thiêng nơi đáy hồ và tháp bút viết lên trời xanh). Do vậy, nhiều văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnh Hồ Gươm làm nền tảng cho các tác phẩm của mình. Nhà thơ Trần Đăng Khoa từng viết: Hà Nội có Hồ Gươm Nước xanh như pha mực Bên hồ ngọn Tháp Bút Viết thơ lên trời cao. Và như thế, Hồ Gươm sẽ mãi sống trong tiềm thức mỗi người dân Thủ đô nói riêng và người dân cả nước nói chung như một biểu tượng thiêng liêng về lịch sử và truyền thống văn hóa dân tộc.
Topic: Introducing a scenic spot in my hometown Assignment "The surface of Hoan Kiem Lake is still shimmering with clouds and sky, giving off even more of the scent of fragrant flowers from the Capital...". When mentioning Hanoi, we think of the image of clear blue Sword Lake and the shadow of the leaning Turtle Tower. Sword Lake and its architectural complex have become a beautiful and sacred symbol of Hanoi - the pink heart of the country. Sword Lake has existed for a long time. About 6 centuries ago, according to current landmarks, the lake consisted of two parts running from Hang Dao street, through Hai Ba Trung, Ly Thuong Kiet to Hang Chuoi street, connecting with the Red River. The lake water is blue all year round, so Sword Lake is also called Luc Thuy Lake. In the 15th century, the lake was renamed Hoan Kiem Lake. That event is associated with the legend of returning the magic sword to the Golden Turtle of the king who started the Later Le dynasty - the hero of the Lam Son uprising against the Ming invaders (1417-1427), Le Loi. Legend has it that when Le Loi rebelled in Lam Son, some people found a sword blade, then he himself picked up a hilt in the forest. When the blade is attached to the sword hilt, the sword's body shines with the words "Thuan Thien" - "According to the will of heaven". This precious sword followed Le Loi during the resistance war against the Ming invaders. When he ascended the throne and established his capital in Thang Long, one time the king went boating on Luc Thuy lake, suddenly a turtle appeared. The turtle raised its head and spoke: "Your Majesty, please return the sword to Long Quan." Le Thai To understood what had happened, so he pulled the sword out of its sheath, raised the sword and the sword flew towards the turtle. The turtle held the sword and sank to the bottom. The lake, and from then on, Luc Thuy lake has a new name, Hoan Kiem lake (returning the sword) or Sword lake. It is this unique legend that affirms the love of peace and hatred of war of the people of Thang Long - Ha This story in particular and the Vietnamese people in general were emphasized on the day Hanoi received the title "City for Peace". Later, also during the Le dynasty, the lake was also used as a training ground for the navy, so it was sometimes called Thuy Quan tiger. Hoan Kiem Lake is a famous landscape of Hanoi. Around the lake grow many types of flowers and ornamental plants. These are rows of graceful willows, branches of sesame buds tilting and pouring flowers, reflecting on the lake bed. In the middle of the lake is the Turtle Tower, next to the lake is Ngoc Son Temple with the "Unworn Pen Tower"... The image of Sword Lake shimmering like a beautiful mirror in the heart of the city has entered the hearts of many Hanoi people. Hanoians living in the area around the lake have the habit of coming here to exercise early in the morning, especially in the summer. They call the neighborhoods located around the lake Bo Ho. Not the largest lake in the capital, but with its special origin, Hoan Kiem Lake has long been associated with the lives and thoughts of many people. The lake is located in the center of a district with narrow old quarters, opening up a space large enough for indigenous cultural activities. The lake has many beautiful scenes. And more than that, the lake is associated with legendary history, a symbol of the desire for peace (returning the sword to the pen), the nation's martial arts talent (the sacred sword at the bottom of the lake and the pen tower writing into the blue sky). Therefore, many artists have taken the image of Hoan Kiem Lake as the basis for their works. Poet Tran Dang Khoa once wrote: Hanoi has Sword Lake. The water is as blue as ink. Next to the lake is the Pen Tower, writing poetry high into the sky. And so, Hoan Kiem Lake will forever live in the subconscious of every person in the Capital in particular and the people of the country in general as a sacred symbol of national history and cultural traditions.
Giới thiệu một di tích danh lam thắng cảnh ở địa phương em Hướng dẫn Giới thiệu một di tích danh lam thắng cảnh ở địa phương em Thành phố Đà lạt nằm trên cao nguyên Langbiang, cách mặt biển khoảng 1.500m. Hơn một trăm năm về trước, (1893) thành phố Đà lạt là nơi cư trú của các tộc người thượng…. một dân tộc ít người ở Việt Nam. Phía bắc giáp với huyện Lạc Dương, đông và đông nam với huyện Đơn Dương, tây và tây nam giáp với huyện Lâm Hà và Đức Trọng. Du khách Việt Nam và thế giới luôn tìm đến những danh lam thắng cảnh mà nói đến danh lam thắng cảnh Việt Nam thì không thể quên nói đến Đà Lạt. Đà Lạt là thành phố cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 350km về phía Tây Bắc. Nhờ ở độ cao đó nên khí hậu Đà Lạt rất mát lành. 1893, Bác sĩ Alexandre Yersin đã làm một công trình khảo sát tỉ mỉ về phong thể Đà lạt và đề nghị toàn quyền Doumer chọn nơi này làm trạm điều dưỡng cho những người đau bệnh. 1916, Đà lạt vẫn còn là khu thị tứ nhỏ với gần mười căn nhà gỗ đơn sơ bên thác Cam Ly, phục vụ khách du lịch. Từ 1920 đến 1936, thành phố này được thành lập kèm theo việc bầu ra một hội đồng thành phố. Trải qua nhiều năm tháng lịch sử, Đà Lạt dần dần được phát triển, tôn tạo những vẻ đặc sắc, khí hậu Đà Lạt tương tự như vùng ôn đới: nhiệt độ từ 16 – 24°c. Rừng Đà Lạt có nhiều cây quý. Núi không cao nhưng tập trung khắp nơi với nhiều hẻm vực, hoa trái. Đà Lạt là xứ sở của những kì hoa, dự thảo từ những loài hồng, loài lan quý hiếm xa xưa mang tên người nữ vương, danh tiếng bên Âu Châu. Cho đến những giống hoa mới mang về từ Ba Lan như ly, hoa hồng, phong lan, địa lan. Và nhiều loài hoa khác rực rỡ khắp nơi bao phủ mọi nẻo đường Đà Lạt. Hoa hồng Đà Lạt thân to, hoa lớn với những màu được ưa chuộng là hồng nhung, hồng bê bê, hồng bạch, hồng vàng nó được trồng bằng cách ghép cành, cắt cành vặt công phu những bông hoa tốt nhất được đưa đi xuất khẩu. Phong lan Đà Lạt có nhiều giống quý hiếm như lan hài, lan vũ nữ, lan Cát-ley-a, Ngọc điểm… đó là những giống hoa vừa cho sắc vừa cho hương, vừa đẹp, vừa bền. Lan được đặt cho một cái tên là “vương giả chi hoa”. Hoa ly là loài hoa có nhiều cánh, có màu trắng tinh, hương thơm nhẹ thường được thờ trong thánh đường. Hoa màu vàng tươi thắm nhưng không hương. Hoa màu hồng gấm có hương nồng nàn nhất, có những đốm nâu lấm tấm, thường được dùng trong lễ cưới, tiệc tùng và các loại hoa được trồng ở công viên Đà Lạt, những tên đặc sắc hình dáng thì đặc biệt như cẩm tú cầu, ly, pense, forget me not… Vì Đà Lạt là xứ lạnh nên rau trái cũng rất tươi tốt, phong phú, từ xưa Đà Lạt đã trồng được các loại rau ôn đới như su hào, bắp cải, bông cải, cà rốt. Gần đây Đà Lạt lại nhập về giống loại trái như đào, mận, nho, bông cải tím, bắp cải tím. Nhưng nói đến Đà Lạt không thể quên những cảnh thiên nhiên. Nó là niềm vui vô tận với khách phương xa, phải thăm thác Camly, hồ Than Thở, thác Đa-Tăng-La… lại còn thác Fren cách Đà Lạt 15km, thấp hơn mặt đường chừng 20m. Đứng dưới nhìn lên, thác đổ từ trên cao, bắn ra những tia nước nhỏ li ti hợp thành một lăng kính hiện ra đủ màu sắc của cầu vồng trước ánh mặt trời. Đó là chưa kể những mái chùa thu hút khách trong và ngoài nứớc, do các cao tăng trụ trì như Trúc Lâm thiền viện do thầy Thanh Từ xây dựng, những dinh thự và biệt thự đẹp mang dấu tích lịch sử của vị vua cuối cùng của nước ta như Dinh I, Dinh II, Dinh III và biệt thự Hằng Nga. Đà Lạt còn nhiều danh lam thắng cảnh có tên tuổi như đồi Mộng Mơ, thung lũng Tình Yêu …. hoặc những kì hoa dị thảo nơi nơi không tên tuổi. Một người nước ngoài đã nói: “Không thể nói rằng đã thăm Việt Nam nếu không tới thăm Đà Lạt”. Đà Lạt là nơi nghỉ dưỡng, là chốn thơ mộng mà ai trong chúng ta đều không thể nào quên nếu muốn bỏ chốn thị thành náo nhiệt để tìm đến thiên nhiên tươi xanh.
Introduce a scenic relic in your locality Instruct Introduce a scenic relic in your locality Da Lat city is located on the Langbiang plateau, about 1,500m from the sea. More than a hundred years ago, (1893) Da Lat city was the residence of ethnic groups... an ethnic minority in Vietnam. The north borders Lac Duong district, the east and southeast borders Don Duong district, the west and southwest border Lam Ha and Duc Trong districts. Vietnamese and world tourists always look for scenic spots, and when talking about Vietnamese scenic spots, we cannot forget to mention Da Lat. Da Lat is a city about 350km northwest of Ho Chi Minh City. Thanks to that altitude, Da Lat's climate is very cool. In 1893, Doctor Alexandre Yersin did a detailed survey of Da Lat's style and suggested Governor Doumer choose this place as a nursing station for sick people. In 1916, Da Lat was still a small town with nearly ten simple wooden houses next to Cam Ly waterfall, serving tourists. From 1920 to 1936, the city was established with the election of a city council. Over many years of history, Da Lat has gradually developed and embellished its unique features. Dalat's climate is similar to a temperate zone: temperature from 16 - 24°C. Da Lat forest has many precious trees. The mountains are not high but concentrated everywhere with many canyons and fruits. Da Lat is the land of wonderful flowers, roses, and rare ancient orchids named after the queen, famous in Europe. New flower varieties brought from Poland such as lilies, roses, orchids, and cymbidiums. And many other colorful flowers everywhere, covering every street in Da Lat. Da Lat roses have large stems and large flowers with popular colors such as velvet roses, calf roses, white roses, and yellow roses. They are grown by grafting and meticulously cutting branches. The best flowers are exported. password. Da Lat orchids have many rare varieties such as slipper orchid, dancing girl orchid, Cat-ley-a orchid, Ngoc Diem... these are flower varieties that give both color and scent, are both beautiful and durable. Orchids are given the name "royal flower". The lily is a flower with many petals, pure white, and has a light fragrance that is often worshiped in cathedrals. The flowers are bright yellow but fragrant. Brocade pink flowers have the most intense scent, with brown spots, often used in weddings, parties and flowers grown in Da Lat parks, with special names and shapes such as hydrangeas. cau, ly, pense, forget me not... Because Da Lat is a cold country, vegetables and fruits are also very lush and abundant. Since ancient times, Da Lat has grown temperate vegetables such as kohlrabi, cabbage, broccoli, and eggplant. carrot. Recently, Da Lat has imported fruit varieties such as peaches, plums, grapes, purple broccoli, and purple cabbage. But when talking about Da Lat, we cannot forget the natural scenes. It is endless joy for visitors from far away, must visit Camly waterfall, Than Tho lake, Da-Tang-La waterfall... and Fren waterfall 15km from Da Lat, about 20m lower than road level. Standing below and looking up, the waterfall falls from above, shooting out tiny jets of water that form a prism showing all the colors of the rainbow before the sun. Not to mention the pagoda roofs that attract domestic and foreign tourists, led by high-ranking monks such as Truc Lam Zen Monastery built by Master Thanh Tu, and beautiful mansions and villas bearing historical traces of the last king. of our country such as Palace I, Palace II, Palace III and Hang Nga Villa. Da Lat also has many famous landscapes such as Mong Mo Hill, Love Valley... or strange flowers and herbs from unknown places. A foreigner said: "You can't say you've visited Vietnam if you haven't visited Da Lat." Da Lat is a resort, a poetic place that none of us can forget if we want to leave the bustling city to find fresh green nature.
Đề bài: Giới thiệu một di tích lịch sử văn hoá của thủ đô Hà Nội Bài làm Thủ đô Hà Nội có rất nhiều di tích lịch sử. Trong đó Văn Miếu Quốc Tử Giám là một trong những di tích tiêu biểu, ghi nhận những thành tựu văn hoá của Đại Việt đã ngót nghìn năm của Thăng Long cố đô. Văn Miếu được xây dựng tháng 10 năm 1070 để làm nơi thờ các thánh hiền đạo Nho như: Khổng Tử, Mạnh Tử… những vị danh nho đáng kính được người đời vị nể tôn sùng. Sáu năm sau, năm 1076, nhà Quốc Tử Giám được xây dựng liền kề sau Văn Miếu. Ban đầu nơi đây dùng cho các hoàng tử đến học, sau mở rộng thu nhận thêm các học trò giỏi trong toàn quốc. Đứng từ đường Quán Thánh bạn sẽ nhìn thấy Văn Miếu cổ xưa với lớp tường bao quanh bằng gạch, cổng chính được xây dựng theo điện hoàng môn với dòng chữ nho được khắc tạc đã phai màu theo thời gian: Văn Miếu Môn. Hai bên cổng là đôi rồng đá mang phong cách thời Lê sơ. Từ phố xá tấp nập ồn ào, bước vào phía trong cổng Văn Miếu bạn sẽ cảm nhận được một không gian thoáng mát yên lành như bước vào cõi phật cõi tiên. Một khoảng sân rộng với nhiều tượng đá tạc chân dung các mãnh tướng sư tử, hổ… như gợi lại không khí linh thiêng oai hùng của lịch sử ngàn năm xưa bên những gốc si xanh già cổ thụ mấy trăm tuổi. Lối đi giữa dẫn đến cổng Đại Trung Môn, mở đầu cho khu thứ hai, hai bên còn có hai cổng nhỏ. Bạn đến đây muốn thắp nén nhang lạy tạ các thánh thần cầu ban phước lành trí tuệ anh minh thì hãy dừng chân tại Đại Trung Môn bên bát hương lớn đặt giữa cửa vào. Tiếp sau Đại Trung Môn là Khuê Văn Các được xây dựng từ năm 1805, có kiến trúc đẹp, mang nhiều ý nghĩa và đã được chọn là biểu tượng chính thức cho thủ đô Hà Nội. Khu thứ ba là Khuê Văn Các tới Đại Thành Môn có tường bao quanh. Hai bên hồ là hai khu vườn bia, nơi dựng các tấm bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ, những trạng nguyên khoa bảng ngày xưa. Hiện trong Văn Miếu còn lại 82 tấm bia tiến sĩ của 82 khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đây là những di vật quý nhất của Văn Miếu. Bước qua cửa Đại Thành là tới khu thứ tư. Ở đây có sân rộng, hai bên là hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, vốn dựng làm nơi thờ các danh nho. Cuối sân là nhà Đại Bái và Hậu Cung, kiến trúc đẹp và hoành tráng. Tại đây còn một số hiện vật quý: bên trái có chuông đúc năm 1786, bên phải có một tấm khánh đá, trên mặt khắc bài văn nói về công dụng của các loại nhạc khí này. Sau khu Đại Bái là trường Quốc Tử Giám đời Lê, một loại trường Đại học đương thời. Khi nhà Nguyễn rời trường này vào Huế thì nơi đây chuyển làm đồn Khải Thánh thờ song thân Khổng Tử, nhưng đền này đã bị hư hỏng trong chiến tranh. Nhà Thái Học đã được xây dựng lại vào dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội. Người Việt Nam và du khách nước ngoài nhớ về Hà Nội tìm về Văn Miếu như tìm về chốn văn hiến ngàn năm của nước Việt. Chính vì vậy từ rất lâu Văn Miếu trở thành điểm du lịch phổ biến đối với du khách trong và ngoài nước. Văn Miếu mang một nét đẹp văn hoá trong lịch sử của dân tộc ta, mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình văn hoá của Việt Nam, là một bằng chứng về sự đóng góp của Việt Nam vào nền văn minh Nho giáo của khu vực và nền văn hoá mang ý nghĩa nhân văn toàn thế giới. Mỗi năm vào dịp đầu năm học những "trạng nguyên" thời nay được tụ hội về đây dâng nén hương thơm tưởng nhớ và biết ơn tới các danh Nho xưa, đồng thời như một sự báo công cùng ý nguyện kế tục phát huy truyền thống văn hiến của dân tộc.
Topic: Introducing a historical and cultural relic of the capital Hanoi Assignment The capital Hanoi has many historical relics. Among them, the Temple of Literature is one of the typical relics, recording the cultural achievements of Dai Viet over nearly a thousand years of the ancient capital of Thang Long. The Temple of Literature was built in October 1070 to serve as a place to worship Confucian saints such as Confucius, Mencius... venerable famous scholars who are respected and revered by people. Six years later, in 1076, the Quoc Tu Giam house was built adjacent to the Temple of Literature. Initially, this place was used for princes to study, then expanded to accept more excellent students from across the country. Standing from Quan Thanh Street, you will see the ancient Temple of Literature with a wall surrounded by bricks, the main gate was built according to the royal palace with an engraved inscription that has faded over time: Temple of Literature. On both sides of the gate are a pair of stone dragons in the style of the Early Le Dynasty. From the bustling and noisy streets, stepping inside the gate of the Temple of Literature, you will feel a cool and peaceful space like stepping into a fairyland of Buddha. A large yard with many stone statues carved with portraits of lions, tigers... seems to evoke the sacred and majestic atmosphere of a thousand-year-old history next to the old green sapphire trees hundreds of years old. The middle path leads to Dai Trung Mon gate, opening the second area, on both sides there are two small gates. If you come here and want to burn incense and bow to the gods and pray for blessings of wisdom, stop at Dai Trung Mon next to the large incense bowl placed in the middle of the entrance. Following Dai Trung Mon is Khue Van Cac built in 1805, with beautiful architecture, carrying many meanings and has been chosen as the official symbol of the capital Hanoi. The third area is Khue Van Cac to Dai Thanh Mon surrounded by walls. On both sides of the lake are two beer gardens, where steles recording the names of those who passed their doctorates and the academic statuses of the past were erected. Currently in the Temple of Literature, there are still 82 doctoral steles of 82 exam departments from 1442 to 1779. These are the most precious relics of the Temple of Literature. Step through Dai Thanh gate to reach the fourth area. There is a large yard here, flanked by two rows of Ta Vu and Huu Vu, originally built as a place to worship famous scholars. At the end of the yard is the Dai Bai house and the Hau Palace, with beautiful and majestic architecture. There are still a number of precious artifacts here: on the left is a bell cast in 1786, on the right there is a stone plaque with a text engraved on the surface about the uses of these musical instruments. Behind Dai Bai area is Quoc Tu Giam school of the Le dynasty, a type of contemporary university. When the Nguyen Dynasty left this school and entered Hue, this place was converted into Khai Thanh post to worship Confucius's parents, but this temple was damaged during the war. Thai Hoc House was rebuilt on the occasion of the 990th anniversary of Thang Long - Hanoi. Vietnamese people and foreign tourists remember Hanoi looking for the Temple of Literature as looking for a place of thousands of years of Vietnamese culture. That's why the Temple of Literature has long become a popular tourist destination for domestic and foreign tourists. The Temple of Literature carries a cultural beauty in the history of our nation, has a symbolic meaning for Vietnam's cultural progress, and is evidence of Vietnam's contribution to the Confucian civilization of the region. and culture with humanistic significance worldwide. Every year at the beginning of the school year, modern-day "poinsettias" are gathered here to offer incense in remembrance and gratitude to ancient Confucian names, as well as a token of merit and the wish to continue promoting the tradition. culture of the nation.
Đề bài: Giới thiệu một loại cây ở địa phương Bài làm Ai đã từng đến vùng sông nước phía Nam hẳn không thể nào quên những dãy cây dừa nước xanh mướt dọc theo những con kênh rạch hay cảm giác đi thuyền chui giữa bóng mát của rặng cây. Thật là thú vị. Trước hết, đừng lẫn cây dừa nước này với cây rau dừa nước là một loai cây thân cỏ mọc bờ ven bờ nước hoặc nổi trên các ao hồ. Dừa nước là một loại cây cùng họ với cây dừa, mọc phổ biến ở các bãi lầy vùng cửa sông, ven kênh rạch các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long. Rặng dừa nước chạy men theo các con kênh, con rạch tạo nên một quang cảnh độc đáo và nên thơ cho vùng sông nước phía Nam. Khi bơi thuyền trên dòng kênh xanh giữa hai hàng dừa nước, ta cảm thấy khoan khoái mát mè. dễ chịu biết nhường nào! Dừa nước là loài cây cỏ dáng khá đẹp với những chiếc lá lớn giống lá dừa dài tới vài mét, mọc thẳng lên từ trên mặt nước. Dừa nước không có thân mọc thẳng như dừa cạn. Thân dừa nước mọc ngang mặt đất bùn mang nhiều sẹo lá (do các lá rụng để lại sẹo). Các sẹo này to bằng chiếc thớt và xếp đè lên nhau thanh dây nằm dài trên đất. Dừa nước cũng cho trái. Trái dừa nước nhỏ hơn dừa cạn, có cạnh. Các trái dừa mọc thành cụm (buồng) lớn khoảng đôi chục trái. Mỗi trái dừa to bằng quả bóng đá hay hơn thế. Cây dừa nước là cây có giá trị về nhiều mặt. Có thể lấy lá dừa làm tấm lợp, tấm phên che nắng mưa hoặc làm củi hoặc đan lát đồ dùng hàng ngày… Thân cây có thể dùng để chế than hoạt tính. Có thể khai thác chất dịch ngọt của dừa để sản xuất đường, làm rượu, nước giải khát. Nhưng chất dịch này không phải lấy từ trái dừa mà lấy từ cuống cụm quả. Một cây dừa nước có thể khai thác dịch ngọt này trong khoảng từ 50 tới 60 ngày liên tiếp, về sau lượng dịch giảm dần. Mỗi cây chờ lượng dịch khoảng hơn 40 lít, trong khi đó, chỉ cần 32-34 lít dịch để lên men cất thành 1 lít cồn nguyên chất. Ngoài ra, dừa nước trồng ven kênh, rạch nhờ có thân nằm ngang nên có tác dụng giữ đất rất tốt, chống xói lở ven bờ.
Topic: Introducing a local plant Assignment Anyone who has ever been to the southern river region cannot forget the rows of green nipa palm trees along the canals or the feeling of sailing in the shade of the trees. It's interesting. First of all, do not confuse this nipa palm tree with the nipa palm plant, which is a herbaceous plant that grows along water banks or floats on ponds and lakes. Nipa palm is a tree in the same family as the coconut tree, growing commonly in marshy areas of estuaries and along canals in the coastal provinces of the Mekong Delta. Nipa palm groves running along the canals create a unique and poetic scene for the southern river region. When rowing a boat on the green canal between two rows of nipa palm trees, we feel cool and refreshing. How pleasant! Nipa palm is a beautiful grass plant with large coconut-like leaves up to several meters long, growing straight up from the water surface. Nipa palms do not have straight stems like periwinkles. Nipa palm trunks growing across the muddy ground bear many leaf scars (caused by fallen leaves leaving scars). These scars are as big as a cutting board and are stacked on top of each other on a wire rod lying on the ground. Nipa coconut also produces fruit. Nipa coconut fruit is smaller than periwinkle and has edges. Coconuts grow in clusters (chambers) about a dozen or so large. Each coconut is as big as a soccer ball or more. The nipa palm tree is a valuable tree in many ways. Coconut leaves can be used to make roofing sheets, awnings to protect against sun and rain, or to make firewood or wicker items for daily use... The trunk can be used to make activated carbon. The sweet liquid of coconut can be exploited to produce sugar, wine, and soft drinks. But this fluid does not come from the coconut but from the stem of the fruit cluster. A nipa palm tree can exploit this sweet juice for about 50 to 60 consecutive days, after which the amount of juice gradually decreases. Each plant waits for about more than 40 liters of liquid, while only 32-34 liters of liquid are needed to ferment and distill into 1 liter of pure alcohol. In addition, nipa palms planted along canals and canals, thanks to their horizontal trunks, have a very good soil retention effect and prevent coastal erosion.
Đề bài: Giới thiệu một loại hoa ở địa phương Bài làm Mỗi độ xuân về, Tết đến, bên cánh hoa đào, cây quất được nhà nhà trang trọng để giữa phòng đón khách, có một loài hoa được nhiều người ưa chuộng, đó là hoa lan. Nhừng cây hoa lan thuộc về họ lan, một họ thực vật lớn nhất trong lớp cây một lá mầm, gồm nhiều loài nhất. Cho đến đầu thập kỉ vừa qua, toàn thế giới có khoảng 100.000 loài lan, xốp trong 800 chi. Trong số 100.000 loài lan ấy, có khoảng 25.000 loài lan rừng và 75.000 loài lan lai. Nước ta có rất nhiều loại lan mọc hoang dại. Ai lên Lai Châu vào những ngày giáp tết hay sang xuân, khi vượt đèo Pha Đin cũng đều thấy vô vàn đóa hoa xinh đẹp, sắc cứ thắm hồng đung đưa trước gió như một đàn bướm chập chờn trong nắng xuân. Đó là các cây lan trên vách núi nở hoa. Trong các hốc núi đá vôi ở Nho Quan hay ở Cúc Phương lại có nhiều lan hài vệ nữ mọc; hoa lan này có hai cánh dang rộng như cánh chim bay, sải cánh hoa dài tới 15cm, còn cánh môi thì uốn ong như mũi chiếc hài. Vì vậy, trong thơ ca gọi là “Chiếc hài của Thần Vệ nữ”. Vệ nữ là thần của sắc đẹp, mà thần thoại Hi Lạp thường nhắc tới. Còn ở trong rừng thứ sinh, dọc dải Trường Sơn, lan phủ trên cây, lan trải trên cành ven suối. Đó là hồng gấm, một loại phong lan quý nhất. Hoa nở thành chùm, liền màu hồng đính sắc tím và trắng, tuyết hoa óng ánh như nhung tỏa hương thơm dịu mát kín đáo. Thiên nhiên nâng niu và chăm chút những chùm phong lan nở giữa rừng, làm đẹp, làm tươi vườn hoa lan đất nước mỗi độ xuân về. Lan không chỉ đẹp về hoa mà còn đẹp về lá. Lan cành giao có lá hình trụ giống cây cành giao. Lan chân rốt có lá ngắn, nhọn, dẹt, xếp thành hai dãy đều đặn như chân rết. Có thứ gốc lá phồng lên thành củ gọi là lan quả táo. Lan gấm thì mặt lá mượt như nhung, lại điểm thêm những vân vàng óng như kim tuyến… Ngày xưa, ông, bà, çha, mẹ ta giàu lòng ca ngợi cái đẹp của nhiều loài lan đất. Mỗi lần tết đến, các cụ thường tô điểm trong nhà, ngoài ngõ bằng những chậu lan bạch ngọc mang hoa trắng rất đẹp và thơm, lan hạc đính hoa màu hồng hay màu đỏ, lan chu đinh có hoa màu tím,… Ngày nay, từ những thành phố sầm uất đến các làng mạc vùng xuôi, vùng ngược, mỗi độ xuân về, nhà nhà chúng ta ưa thích tô điểm bằng phong lan mang từ những vùng núi cao về có chùm hoa rủ xuống như đuôi con cáo, mang những cánh hoa màu trắng có đốm tím ở đầu. Quế lan hương là thứ em có hương thơm ngát và rất bền, chùm hoa màu trắng lục rủ xuống như lá liễu bên hồ. Lan vảy rắn có chùm hoa màu hoàng yến. Phi điệp có thân chia đốt và khía dọc, sắc hoa trắng hồng mọc từng đôi một, cánh môi có đốm vàng. Phi công thiên có hoa màu vàng đỏ…
Topic: Introducing a local flower Assignment Every spring and Tet comes, next to the peach blossom petals and kumquat trees that are solemnly placed in the middle of the room to welcome guests, there is a flower that many people love, which is the orchid. Orchids belong to the orchid family, the largest plant family in the monocot class, including the most species. Until the beginning of the last decade, there were about 100,000 species of orchids in 800 genera worldwide. Among those 100,000 orchid species, there are about 25,000 wild orchid species and 75,000 hybrid orchid species. Our country has many types of orchids growing wild. Anyone who goes to Lai Chau on the days before Tet or spring, when crossing Pha Din pass, will see countless beautiful flowers, their pink color swaying in the wind like a flock of butterflies fluttering in the spring sunshine. Those are orchids on the cliffs blooming. In the limestone cavities in Nho Quan or in Cuc Phuong, many lady's slipper orchids grow; This orchid has two wings spread wide like the wings of a flying bird, the petal span is up to 15cm long, and the lips are curled like the nose of a slipper. Therefore, in poetry it is called "The Comedy of Venus". Venus is the goddess of beauty, often mentioned in Greek mythology. In the secondary forest, along the Truong Son strip, orchids cover the trees, orchids spread on branches along the stream. It is brocade rose, the most precious type of orchid. The flowers bloom in bunches, pink with purple and white tints, and the snowdrops are iridescent like velvet and give off a cool, discreet fragrance. Nature cherishes and takes care of the bunches of orchids blooming in the forest, beautifying and refreshing the country's orchid garden every spring. Orchids are not only beautiful in flowers but also beautiful in leaves. The orchid has cylindrical leaves like the tree. Cymbidium orchids have short, pointed, flat leaves, arranged in two regular rows like centipede legs. There is a thing where the base of the leaves swells into a bulb called the apple orchid. The leaf surface of the brocade orchid is as smooth as velvet, and is decorated with golden veins like glitter... In the past, our grandparents, parents, and grandparents were rich in praising the beauty of many species of orchids. Every time Tet comes, the elderly often decorate their homes and alleys with pots of white jade orchids with beautiful and fragrant white flowers, crane orchids with pink or red flowers, chu Dinh orchids with purple flowers,... Nowadays, from the busy cities to the villages in the lowland and upland areas, every spring, our homes like to be decorated with orchids brought from the high mountains with inflorescences drooping like baby tails. fox, bearing white petals with purple spots at the tip. Cinnamon orchid is something that has a fragrant and very durable scent, with greenish-white flower clusters hanging down like willow leaves by the lake. Snake scale orchids have canary-colored flower clusters. Phi Diep has a segmented and vertically notched stem, white-pink flowers that grow in pairs, and the lips have yellow spots. Thien pilot has red yellow flowers...
Đề bài: Giới thiệu một loại quả ở địa phương Bài làm Quê em ở vùng Tân Triều, một miệt vườn trù phú ở tỉnh Đồng Nai. Điều đáng nói là ở miệt vườn quê em có một loại bưởi ngon và rất nổi tiếng, thường gọi là bưởi Tân Triều. Người dân quê em kể rằng Tân Triều thuở xưa là một vùng hoang vu, một nơi “khỉ ho cò gáy” nằm phía tả ngạn sông Đồng Nai, cách tinh lị Biên Iloà (cũ) khoảng 10 ki-lô-mét. Dân cư Tân Triều lúc đó còn thưa thớt. Năm 1868, nhà thờ Tân Triều được xây dựng. Một vị cha xứ trụ trì nhà thờ đã xin hai cây bưởi đem về trồng trước sân nhà thờ. Cây hợp đất, lớn nhanh, vài năm sau liên tục cho trái sum suê. Điều đáng quý là trái bưởi nào cũng lớn, da láng bóng… múi to, rất ngọt và nhiều nước. Thấy vậy, người dân ở đây xin chiết về trồng. Và cứ thế nhân rộng ra cùng với một số giống bưởi khác… Không ngờ, hơn một thế kỉ sau, Tân Triều trở thành một làng bưởi nổi tiếng. Với hương vị ngọt ngào, nhiều nước và “tốt mã”, bưởi Tân Triều nổi tiếng và đem lại tiếng thơm lây cho đất Biên Hòa mệnh danh là xứ bưởi. Hàng năm có nhiều khách mua bưởi là người lạ ở vùng khác đến. Khách vãng lai qua thường mua bưởi về nhà làm quà… Hiện nay trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và một số nơi ngoài tỉnh khác đã xuất hiện nhiều sạp bán bưởi dọc theo các tuyến đường có khách du lịch đi qua như chợ Long Thành, ngã ba Tân Vạn, ngã ba Vũng Tàu… Ngoài ra còn nhiều người bán bưởi dạo nữa. Bưởi có nhiều loại, nhưng được bán nhiều là bưởi đường lá cam, bưởi đường cao núm, bưởi thanh da láng…, nhưng khách chỉ ưa chuộng hai loại bưởi là bưởi đường lá cam, và bưởi đường cao núm. Bưởi đường lá cam lá nhỏ nhưng rất ngọt và nhiều nước. Còn bưởi đường cao núm tuy chất lượng không bằng bưởi đường lá cam nhưng mà đẹp, trái to cân đối, để chưng, cúng kiếng rất đẹp. Hằng năm cứ vào độ tháng tư, tháng năm âm lịch, bưởi bắt đầu ra hoa. Vào thời gian này, nếu có dịp đến Tân Triều bạn sẽ thấy hoa bưởi nở trắng vườn, tỏa ngát hương thơm. Làng bưởi Tân Triều chỉ cách trung tâm thành phố Biên Hòa và khu du lịch Bửu Long không xa, du khách có thể đến tham quan bằng hai tuyến: đường bộ hoặc đường sông. Loại hình “du lịch vườn” hiện nay đang có sức hấp dẫn du khách và mang lại hiệu quả cao. Có rất nhiều tua-du lịch miệt vườn như du lịch vườn trái cây Long Thành, vườn trái cây Lái Thiêu. Từ tháng 10 đến tháng 12 là vào mùa bưởi. Thời gian này không khí ở Tân Triều rộn ràng hẳn lên. Có nhiều mối lái từ miền Tây, miền Đông, miền Trung, Sài Gòn,… đổ về, đi “ruồng” trong các vườn bưởi để mua rồi đem bưởi đi bán ở các vùng xa. Nếu có dịp qua tỉnh Đồng Nai, mời du khách hãy qua Tân Triều quê em để được chiêm ngưỡng những vườn bưởi và thưởng thức vị ngọt không thể nào quên của trái bưởi Tân Triều quê em.
Topic: Introducing a local fruit Assignment My hometown is in the Tan Trieu region, a rich garden in Dong Nai province. It is worth mentioning that in my hometown there is a delicious and very famous type of grapefruit, often called Tan Trieu grapefruit. People from my hometown say that Tan Trieu in the past was a desolate area, a "wild place" located on the left bank of the Dong Nai River, about 10 kilometers from the (former) capital of Bien Iloa. Tan Trieu's population at that time was still sparse. In 1868, Tan Trieu church was built. A priest, the abbot of the church, asked for two grapefruit trees to plant in front of the church yard. The tree is compatible with the soil, grows quickly, and continues to bear abundant fruit for several years. The precious thing is that every grapefruit is large, has shiny skin... large segments, very sweet and full of juice. Seeing that, people here asked to plant them. And so it expanded with a number of other grapefruit varieties... Unexpectedly, more than a century later, Tan Trieu became a famous grapefruit village. With its sweet, juicy and "good" flavor, Tan Trieu grapefruit is famous and brings a delicious reputation to Bien Hoa, known as the land of grapefruit. Every year, many grapefruit buyers are strangers from other regions. Visitors often buy grapefruits to take home as gifts... Currently, in Dong Nai province and some other places outside the province, many stalls selling grapefruits have appeared along routes where tourists pass by such as Long Thanh market, Tan Van intersection, Vung Tau intersection... There are also many people selling grapefruit on the street. There are many types of grapefruit, but most sold are orange leaf sugar grapefruit, high knob sugar grapefruit, smooth skin grapefruit..., but customers only favor two types of grapefruit: orange leaf sugar grapefruit, and high knob sugar grapefruit. Sugar grapefruit with orange leaves has small leaves but is very sweet and has a lot of juice. As for sugar grapefruit, although the quality is not as good as orange leaf sugar grapefruit, it is beautiful, the fruit is large and well-proportioned, so it is very beautiful for distillation and offering in glasses. Every year, around April and May of the lunar calendar, grapefruit begins to flower. At this time, if you have the opportunity to come to Tan Trieu, you will see grapefruit flowers blooming in the garden, radiating a fragrant scent. Tan Trieu grapefruit village is only not far from Bien Hoa city center and Buu Long tourist area, visitors can visit by two routes: road or river. This type of "garden tourism" is currently attracting tourists and bringing high efficiency. There are many garden tours such as tours to Long Thanh fruit garden and Lai Thieu fruit garden. From October to December is grapefruit season. During this time, the atmosphere in Tan Trieu became more bustling. There are many brokers from the West, East, Central, Saigon,... coming and going "wild" in grapefruit gardens to buy and then sell grapefruits in remote areas. If you have the opportunity to visit Dong Nai province, please come to Tan Trieu, my hometown, to admire the grapefruit gardens and enjoy the unforgettable sweetness of my hometown's Tan Trieu grapefruit.
Đề bài: Giới thiệu một miền đất, một miền quê đáng nhớ: Làng chài Cửa Vạn Bài làm Ngày 20 – 11 năm nay, tôi được đến thăm làng chài Cửa Vạn. Một chuyến đi vô cùng thú vị. Làng chài Cửa Vạn nằm trong vùng Tùng Sâu thuộc vùng lõi của khu vực di sản văn hóa thế giới Hạ Long, chếch về hướng Đông Nam, cách bến tàu khách Bãi Cháy chừng 20km. Làng chài Cửa Vạn thuộc phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cho đến thời điểm này, (2008), Cửa Vạn có 176 hộ, gồm 733 nhân khẩu. Tất cả đều sống bằng nghề chài lưới và nuôi trồng hải sản. Bà con sinh sống trên những nhà bè, to nhỏ khác nhau, hoặc lợp ngói, hoặc lợp tôn, toạ lạc trên những chiếc phao nổi có diện tích ba bốn chục mét vuông. Nhà cửa của hộ nào cũng khang trang sạch sẽ. Nước thải, rác thải được bà con xử lí một cách khoa học, văn minh và vệ sinh, thể hiện một nếp sống văn hoá tuyệt đẹp. Nhiều gia đình có máy phát điện, có tiện nghi như bàn, ghế, tủ, ti vi…. sang trọng. Những đêm trăng, làng chài Cửa Vạn hiện lên trên mặt nước Hạ Long xanh biếc tựa như một thị trấn nơi Thuỷ cung. Đánh bắt thuỷ hải sản thì bà con Cửa Vạn dùng thuyền lớn. Đi lại thì dùng thuyền nan nhỏ. Nghề nuôi cá lồng ngày một phát triển. Người sống ở trên, cá nuôi ở dưới. Mỗi lồng cá có hàng trăm, hàng nghìn con cá song, con nào cũng to, nặng hai, ba kí. Một tấn cá song có thể bán được trên, dưới 200 triệu đồng. Nhiều gia đình trở nên giàu có. Cho đến nay, bà con làng chài Cửa Vạn vẫn còn một số người chưa biết chữ. Trẻ con chưa đi học đã biết bơi, biết chèo thuyền. Nét mới ở Cửa Vạn là ngồi trường nổi có 4 phòng học với diện tích 150 m2, được neo đậu dưới chân núi Ngọc. Trường hiện có 7 lớp ghép. Các thầy, các cô giáo đều rất trẻ và nhiệt tình; tất cả đều tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm. Cảnh học trò đến lớp mỗi sáng thật đông vui. Tiếng cười nói xôn xao.Tiếng mái chèo ào ạt cắt nước. Những em bé làng chài 7, 8 tuổi,… da ngăm đen, mát sáng khoẻ mạnh, nhanh nhẹn…. từ những chiếc thuyền nan bé tẹo bước vào lớp học, trông thật đáng yêu. Tiếng chào ríu rít cất lên làm nhộn nhịp cả một vùng biển lặng: "Con chào thầy… ", “ Con chào cô ạ…". Cụ Hưu đã 86 tuổi, một trong những ngư dân đầu tiên lập làng nổi Cửa Vạn nói: "Từ ngày có trường học cho con cháu làng chài, gia đình nào cũng tình cảm thấy hạnh phúc; người già như trẻ lại và khỏe thêm ra…". Ra về, tôi nói với mẹ: “Nghỉ hè tới, hai mẹ con ta lại đi chơi Hạ Long, đi thăm làng chài Cửa Vạn một lần nữa, mẹ nhé!".
Topic: Introducing a land, a memorable countryside: Cua Van fishing village Assignment On November 20 this year, I visited Cua Van fishing village. An extremely interesting trip. Cua Van fishing village is located in the Tung Sau area in the core area of ​​the Ha Long world cultural heritage area, slightly southeast, about 20km from Bai Chay passenger wharf. Cua Van fishing village is located in Hung Thang ward, Ha Long city, Quang Ninh province. Up to this point, (2008), Cua Van has 176 households, including 733 people. All of them live by fishing and aquaculture. People live on raft houses of different sizes, either tiled or corrugated iron, located on floating buoys with an area of ​​thirty or forty square meters. Every household's house is spacious and clean. Wastewater and garbage are treated scientifically, civilized and hygienically by people, demonstrating a beautiful cultural lifestyle. Many families have generators and amenities such as tables, chairs, cabinets, televisions, etc. luxurious. On moonlit nights, Cua Van fishing village appears on the blue water of Ha Long like an aquarium town. To catch aquatic products, Cua Van people use large boats. To get around, use small bamboo boats. Cage fish farming is increasingly developing. People live above, fish are raised below. Each fish cage has hundreds or thousands of grouper fish, each fish is big, weighing two or three kilograms. A ton of grouper can be sold for over or under 200 million VND. Many families became rich. Up to now, some people in Cua Van fishing village are still illiterate. Children who have not yet gone to school already know how to swim and row boats. A new feature in Cua Van is a floating school with 4 classrooms with an area of ​​150 m2, anchored at the foot of Ngoc Mountain. The school currently has 7 multigrade classes. The teachers are all very young and enthusiastic; All graduated from Pedagogical College. The scene of students coming to class every morning is so crowded. Laughter and chatter were heard. The sound of oars rushing through the water. The children of the fishing village, 7, 8 years old,... have dark skin, are bright, healthy, and agile... From the tiny bamboo boats entering the classroom, they look so adorable. The chirping sound of greetings made the whole calm sea bustle: "Hello, teacher...", "Hello, teacher...". Mr. Huu, 86 years old, one of the first fishermen to establish Cua Van floating village, said: "Since the day there was a school for the children of the fishing village, every family feels happy; the elderly feel younger and healthier. go out…". When I left, I told my mother: "Next summer vacation, we will go to Ha Long and visit Cua Van fishing village again, mom!".
Đề bài: Giới thiệu một nét đẹp văn hoá của quê hương em Bài làm Là một vùng đất trẻ, Cà Mau quê em mới chỉ được khai phá từ những thập niên cuối thế kỷ XVIII. Miền đất này được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng cho những điều kiện mà nhiều nơi khác không có được: ba mặt tiếp giáp biển (tổng cộng là 250km) và một hệ thống sông rạch chằng chịt (chiều dài tổng cộng hơn 7000km). Chợ nổi Cà Mau chính là sự giao hoà của con người và thiên nhiên ở miền sông nước hữu tình này. Chợ nổi nằm trên sông Gành Hào (thuộc trung tâm thành phố Cà Mau), cách cầu Gành Hào khoảng hơn 200km, thuộc địa bàn phường 8. Ngày trước, chợ ở giữa ngã ba Chùa Bà, cách đó khoảng hơn chục cây số. Xưa kia, đây là nơi tụ tập kiếm sống của người tứ xứ và bán nhiều loại hàng hoá khác nhau. Bây giờ, chợ chỉ còn bán các sản vật của miệt vườn. Ngay mờ sáng, từ hàng trăm ngàn con sông rạch khác, các ghe xuồng từ các vùng quê của các huyện Ngọc Hiển, Đầm Dơi, Cái Nước, Năm Căn… đem hàng về chợ nổi trên sông Gành Hào này. Trong làn sương mù lãng đãng trên sông nước, những chiếc ghe to, ghe nhỏ chở nặng hàng đậu sát vào nhau trên mặt nước dập dềnh, chuẩn bị cho một ngày mới. Chợ nổi Cà Mau hội tụ rất nhiều loại trái cây và sản vật miệt vườn như: đu đủ, xoài, ổi, chôm chôm, khóm thơm (dứa), dừa nước, dưa gang, khế, bí bầu, cà chua, khoai tây… Trong nắng gió phương Nam, chợ bừng lên hương sắc của những miệt vườn ở đâu đó bên sông Tiền, sông Hậu, sông Trẹm,… Đôi khi còn có những ghe bán chiếu rong – những ghe chiếu đã trở thành cảm hứng để soạn giả Viễn Châu thuở nào viết nên bài ca vọng cổ "Tình anh bán chiếu" nổi tiếng đến hôm nay. Chợ trên sông nên khách mua hàng cũng phải đi xuồng hoặc đò. Khách đi chợ chỉ cần ngồi trên con đò lướt nhẹ qua những ghe hàng, nhìn những thứ được treo lúc lắc trên các nhánh cây dựng trên ghe (gọi là cây "bẹo") là sẽ biết ghe đó bán hàng gì. Đó là những lời chào mời lặng lẽ nhưng thật hấp dẫn. Nếu bạn ghé vào, sẽ được người bán hàng hiếu khách mời nếm thử một thứ trái cây với phong cách bình dị, chân thành và phóng khoáng thật dễ thương của con người đất Mũi. Chợ nổi Cà Mau nhóm họp trên sông suốt từ khoảng 3-4 giờ sáng đến chiều tối. Ở đây, người ta cũng buôn bán theo phường, hội giống như các chợ khác trên bờ. Những chiếc ghe chở khẳm hàng đi tới và những chiếc ghe mua hàng rong nhẹ nhàng rời chợ, cứ thay nhau lui tới trong tiếng máy nổ âm vang trên mặt sông. Xen kẽ trong đó là những ghe hàng rong phục vụ nhu cầu của người trong chợ. Cũng giống như những chủ ghe hàng ngồi hút thuốc lá lặng lẽ đợi khách, các ghe hàng rong cũng không thấy cất lời rao, chỉ lặng lẽ len lách trong chợ với những khách hàng quen thuộc. Du khách có thể ghé qua chợ nổi trên sông Gành Hào vào buổi chiều tối, khi chợ nổi đã lắng lại trong một sự im lặng lãng mạn cùng với gió và sóng nước. Những chiếc ghe trở thành những căn nhà nổi bồng bềnh vương vấn khói cơm chiều. Mấy đứa trẻ ngồi vắt vẻo câu cá trên sông; ánh mắt nhìn xa xăm của người thiếu nữ đang chăm sóc mấy chậu đất trồng hoa và rau trên mui ghe; tiếng đàn ghi ta phím lõm trầm buồn loang trên mặt sông trong khúc "Nam ai" hay "Dạ cổ hoài lang" buồn mênh mông; một giọng ai đó cảm khái cất lên câu vọng cổ… Đó là khi chợ nổi trở về với những nỗi niềm của cuộc sống lênh đênh sông nước, vọng nhớ về một dải đất liền ở đâu đó trong tiềm thức. Để rồi, từ 3 giờ sáng hôm sau, cả một khúc sông Gành Hào lại bừng tỉnh với những ghe hàng đầy ắp những trái cây và rau quả, bắt đầu một ngày mới, nhộn nhịp và lãng mạn. Nếu có dịp, xin ai đó đừng bỏ lỡ một lần đến với chợ nổi trên sông Gành Hào. Nắng, gió sông nước và sự bình dị, chân thành của con người, sản vật nơi đây chắc chắn sẽ để lại những dấu ấn thật sâu đậm cho khách phương xa.
Topic: Introducing a cultural beauty of your homeland Assignment As a young land, my hometown Ca Mau has only been explored since the last decades of the 18th century. This land is blessed by nature, bestowed with conditions that many other places do not have: three sides bordering the sea (250km in total) and an intricate system of rivers and canals (total length of more than 7000km). . Ca Mau floating market is the harmony of people and nature in this charming river region. The floating market is located on Ganh Hao river (in the center of Ca Mau city), about 200km from Ganh Hao bridge, in ward 8. In the past, the market was in the middle of Chua Ba intersection, about a dozen kilometers away. In the past, this was a place where people from all over the world gathered to make a living and sold many different types of goods. Now, the market only sells garden products. At dawn, from hundreds of thousands of other rivers and canals, boats from the countryside of Ngoc Hien, Dam Doi, Cai Nuoc, Nam Can districts... bring goods to this floating market on Ganh Hao river. In the mist floating on the river, big boats and small boats carrying heavy goods parked close together on the swaying water surface, preparing for a new day. Ca Mau floating market brings together many types of fruits and garden products such as: papaya, mango, guava, rambutan, pineapple, water coconut, melon, star fruit, gourd, tomato, potato. ... In the sunshine and wind of the South, the market glows with the fragrance of gardens somewhere on the Tien River, Hau River, Trem River, etc. Sometimes there are also boats selling street mats - mat boats that have become inspiration for composing The author Vien Chau once wrote the Vong Co song "Love Sells a Mat" that is famous to this day. The market is on the river, so buyers have to go by boat or boat. Visitors to the market just need to sit on the boat and glide gently past the boats, looking at the things hanging and swaying on the branches of trees on the boat (called "bee" trees), to know what goods the boat sells. Those are quiet but attractive offers. If you stop by, the hospitable seller will invite you to taste a fruit with the lovely simple, sincere and generous style of the people of the Cape. Ca Mau floating market is held on the river from about 3-4 am to evening. Here, people also trade according to guilds and associations like other markets on the shore. Boats carrying goods arrived and street vendors gently left the market, taking turns coming and going with the sound of engines echoing on the river surface. Interspersed among them are street vendors serving the needs of people in the market. Just like the boat owners sit and smoke cigarettes quietly waiting for customers, the street vendors also do not make any announcements, just quietly weaving through the market with familiar customers. Visitors can visit the floating market on Ganh Hao River in the evening, when the floating market has settled into a romantic silence along with the wind and waves. The boats became floating houses filled with dinner smoke. A few children sat around fishing in the river; the distant gaze of a young woman taking care of several clay pots growing flowers and vegetables on the roof of the boat; The sad sound of the concave guitar playing on the river surface in the songs "Nam ai" or "Da co hoai lang" is extremely sad; Someone's voice emotionally sang the Vong Co phrase... That was when the floating market returned to the joys of life floating on the river, longing for a strip of land somewhere in the subconscious. Then, from 3 a.m. the next morning, a whole section of Ganh Hao river woke up with boats full of fruits and vegetables, starting a new, bustling and romantic day. If you have the opportunity, please don't miss a visit to the floating market on Ganh Hao river. The sunshine, the river breeze and the simplicity and sincerity of the people and products here will certainly leave a deep impression on visitors from far away.
Giới thiệu một sản phẩm, một trò chơi mang bản sắc Việt Nam Bài làm “Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu” Đã từ lâu, hình ảnh về chiếc nón lá đã in đậm trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam. Chiếc nón theo cánh tay của bà của mẹ lúc đưa nôi, là vật cùng ta một nắng hai sương, đi suốt đời người. Hình ảnh chiếc nón lá đã được tìm thấy trên trống đồng Ngọc Lũ, Đông Sơn, thạp đồng Đào Thịnh từ 2500- 3000 năm TCN. Người Việt cổ khi xưa dùng lá buộc lại để làm vật che mưa, che nắng. Đó có thể coi là hình dạng thô sơ đầu tiên của chiếc nón. Nón lá đã trở thành một phần bản sắc tâm hồn Việt. Để làm nên chiếc nón đòi hỏi đôi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ của người nghệ nhân. Làm nón công phu từ bước chọn lá, lá nón thường là lá cọ. Lá sau khi hái về sẽ được phơi nắng cho khô, phơi sương cho mềm rồi mới đem đi tẩy trắng. Lá càng trắng thì nón càng đẹp và bán được giá thành cao. Tiếp theo là đến công đoạn làm khung. Một chiếc nón gồm có 16 khung, được làm từ những thanh nứa vót tròn và mềm. Những khung này có bán kính to nhỏ khác nhau, càng lên đến đỉnh nón thì càng nhỏ lại, vòng nhỏ nhất chỉ như đồng xu. Muốn chiếc nón được cứng và đẹp thì khi xếp vòng phải đều, không được méo mó, xộc xệch. Làm khung xong, các nghệ nhân sẽ xếp lá nón lên trên, gồm có 2 lớp lá và một lớp mo lang ở giữa. Cuối cùng, để cố định lớp lá lại, người làm nón sẽ khâu bằng cước mỏng như sợi chỉ. Người thợ phải thật tỉ mỉ, khéo léo để khâu nón cho chắc mà không bị kim đâm vào tay. Nón sau khi làm xong sẽ được quét thêm một lớp dầu bóng để thêm bền và đẹp. Quai nón được buộc đối xứng ở hai bên, thường làm từ nhung, lụa với đủ các màu sắc. Nón lá đã trở thành người bạn gần gũi với bất kì người dân Việt Nam nào. Nón theo người nông dân ra đồng, cùng họ phơi nắng dầm sương để tạo ra hạt gạo trắng ngần. Nón từ bàn tay bà, tay mẹ giúp xua đi cái nắng hè oi bức. Chiếc nón cùng tà áo dài làm nên nét duyên dáng, xinh đẹp của người thiếu nữ, khiến bao ánh mắt phải ngẩn ngơ dõi theo. Nón còn có ý nghĩa đối với chúng ta trong đời sống tinh thần. Những điệu múa nón mềm mại trên sân khấu là bản sắc văn hóa của dân tộc. Trong ngày cưới, nghi thức mẹ chồng trao cho con dâu chiếc nón mang ý nghĩa là trao cả niềm tin, hy vọng về một tương lai êm ấm, hạnh phúc. Nón đi vào ca dao ru ta vào giấc ngủ: “Nón này che nắng che mưa Nón này để đội cho vừa đôi ta Còn duyên nón cụ quai tơ Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong”​ Nón trở thành cảm hứng cho thi ca nhạc họa: ““Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ Tà áo dài trắng nhẹ nhàng bay Nón bài thơ e lệ trong tay Thầm bước lặng những khi trời dịu nắng.”​ Nón còn gắn liền với tên tuổi, văn hóa của vùng đất nơi làm ra nó. Chiếc nón Gò Găng hay nón ngựa ở Bình Định, nón quai thao của vùng đất Kinh Bắc- nơi khai sinh những điệu hò mềm mại, mượt mà. Nón Huế hay gọi là nón bài thơ, mỏng, nhẹ và được thêu bài thơ trên nón. Một số nơi làm nón nổi tiếng như làng Chuông(Hà Tây), làng Đồng Di (Phú Vang), đặc biệt là làng nón Phủ Cam (Huế). Ngoài là nơi sản xuất nón, những làng nghề này còn thu hút khách du lịch đến tham quan và trải nghiệm.
Introducing a product, a game with Vietnamese identity Assignment “Go to the communal house and take off your hat to look at the communal house The more family members love you, the more you love yourself." For a long time, the image of the conical hat has been imprinted in the subconscious of every Vietnamese person. The hat carried on my mother's grandmother's arm when rocking the cradle, is an object that accompanies us through sunshine and dew, throughout our lives. Images of conical hats were found on Ngoc Lu, Dong Son bronze drums, and Dao Thinh bronze jars from 2500-3000 BC. Ancient Vietnamese people used to tie leaves to cover the rain and sun. That can be considered the first rudimentary shape of the hat. Non La has become a part of Vietnamese soul identity. To make a hat requires the skillful and meticulous hands of the artisan. Making elaborate conical hats starts from choosing leaves. Conical leaves are usually palm leaves. After being picked, the leaves will be dried in the sun, dried in the dew to soften, and then bleached. The whiter the leaves, the more beautiful the hat and the higher price it can sell. Next is the frame making stage. A hat consists of 16 frames, made from rounded and soft bamboo sticks. These frames have different large and small radii. The closer they reach the top of the cone, the smaller they become, the smallest circle is just like a coin. If you want the hat to be sturdy and beautiful, it must be arranged evenly, not distorted or askew. After making the frame, the artisans will arrange conical leaves on top, including 2 layers of leaves and a layer of mo lang in the middle. Finally, to fix the leaf layer, the hat maker will sew it with thread-thin wire. The worker must be very meticulous and skillful to sew the hat securely without pricking his hand with the needle. After being made, the hat will be coated with a layer of varnish to make it more durable and beautiful. The hat's straps are tied symmetrically on both sides, usually made from velvet or silk of all colors. Non La has become a close friend to any Vietnamese people. Hats follow farmers to the fields, drying with them in the sun and dew to create white rice grains. Hats from grandmother's hands and mother's hands help repel the hot summer sun. The hat and ao dai create the charm and beauty of the young woman, making many eyes follow in bewilderment. Hats also have meaning for us in our spiritual life. The soft hat dances on stage are the cultural identity of the nation. On the wedding day, the ritual of the mother-in-law giving her daughter-in-law a hat means giving her faith and hope for a peaceful and happy future. Hats go into folk songs that lull us to sleep: “This hat covers the sun and rain This hat is meant to fit both of us There is also the charm of a silk hat with silk straps The fate of the coconut leaf hat is over."​ Hats became inspiration for poetry, music, and art: “Hue people love poetry and ceremonial music The white ao dai flutters gently Poem hat shyly in hand Walk quietly when the weather is mild."​ Hats are also associated with the name and culture of the land where they were made. The Go Gang hat or horse hat in Binh Dinh, the quai Thao hat of Kinh Bac land - the birthplace of soft, smooth singing. Hue hats are also called poem hats, thin, light and embroidered with poems on the hat. Some famous hat making places include Chuong village (Ha Tay), Dong Di village (Phu Vang), especially Phu Cam hat village (Hue). In addition to being a place to produce hats, these craft villages also attract tourists to visit and experience.
Đề bài: Giới thiệu một thức quà bánh Việt Nam Bài làm Vào tháng Hai, tháng Ba âm lịch, khi mưa xuân giăng một màn bụi mỏng trắng mờ che phủ xóm làng, tiết trời đã ấm áp là lúc lố khúc bắt đầu lên mơn mởn các bãi đất ven đê dọc các triền sông. Chẳng ai trồng rau khúc. Nó tự nhiên âm thầm mọc lên, như có phần bẽn lẽn vì sự giản dị của mình, lặng lẽ mang đến cho con người những ngọn lá xanh mướt, mang vị thơm, vị bùi rất đặc biệt trong một thứ quà quê được gọi tên bằng chính loại lá độc đảo làm ra nó: bánh khúc. Chẳng biết bánh khúc có từ bao giờ, ai là người đầu tiên làm được món bánh này nhưng bánh khúc đã quen thuộc từ lâu với rất nhiều người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, từ nông thôn đến thành thị. Làm bánh khúc không khó, nhưng đòi hỏi sự cần cù, tỉ mỉ và cả kinh nghiệm người xưa truyền dạy. Nguyên liệu chủ đạo làm nên hương vị độc đáo của món bánh này là lá khúc. Lá khúc hái từ buổi sớm, chọn những lá đang độ tươi non mơn mởn hái đem về giã cho nhuyễn rồi trộn với bột gạo làm vỏ bánh. Nhân bánh được làm từ đậu xanh đồ chín tới giã thật mịn, viên lại nhỏ bằng quả trứng gà ri cùng với thịt ba chỉ thái hạt lựu, rắc thêm chút hạt tiêu cho dậy mùi. Dàn mỏng lớp vỏ thật khéo bao kín nhân bánh, xếp từng lượt bánh vào nồi hấp như đồ xôi, mỗi lớp bánh lại rắc một lượt gạo nếp ngon đã ngâm kỹ làm áo. Từ lúc nước sôi đến lúc bánh chín chừng tàn một quê hương. Bánh khúc là một thứ quà, trong những thứ quà bánh. Nó cũng có thể giúp người ta đỡ đói lòng khi nhớ bữa vì thành phần dinh dưỡng khá cao. Thưởng thức bánh khúc khi còn nóng mới thấy hết được hương vị của bánh khúc, một thứ hương vị tổng hợp, kết hợp nhiều mùi vị tự nhiên của ruộng đồng một cách khéo léo tài tinh gói gọn trong tấm bánh bé nhỏ, không cần tới sự trợ giúp của các loại hoá chất hay bất cứ thứ công nghệ thực phẩm nào. Bánh khúc là một món quà quê nhưng được người thành thị ưa thích. Người ta thích bánh khúc chính bởi cái tính "lành" của nó. Món bánh cổ truyền này vẫn sống trong xã hội hiện đại bên cạnh những loại bánh khúc được đóng gói trên dây chuyền công nghiệp. Người ta có thể thưởng thức bánh khúc bất cứ khi nào thích nhưng bánh khúc thường được rao bán cùng với vài loại quà bánh khác vào buổi tối. Những tiếng rao "Ai khúc đê…" mang món quà quê bình dị này tới tận nơi, len lỏi tới từng ngõ phố nhỏ. Chẳng biết khi nâng chiếc bánh khúc nóng hổi, bốc khói nghi ngút, thơm mùi gạo nếp, mùi lá khúc, quyện lẫn vị bùi, vị béo của thịt và đỗ có ai biết đến ngọn lá giản dị kia, và những người đang một nắng hai sương làm bánh khúc.
Topic: Introducing a Vietnamese cake gift Assignment In February and March of the lunar calendar, when the spring rain spreads a thin white veil of dust to cover the villages, the weather is already warm and the clouds begin to bloom on the dike lands along the riverbanks. No one grows kale. It naturally grows silently, as if somewhat shy because of its simplicity, quietly bringing to people green leaves, with a very special aroma and flavor in a country gift called with the same type of unique leaf that makes it: banh khuc. I don't know when banh khuc existed or who was the first to make this cake, but banh khuc has long been familiar to many people in the Northern Delta, from rural to urban areas. Making banh khuc is not difficult, but requires diligence, meticulousness and experience taught by the ancients. The main ingredient that creates the unique flavor of this cake is log leaves. Khuc leaves are picked early in the morning, choose the leaves that are still young and tender, take them home, pound them until smooth, then mix them with rice flour to make a crust. The filling is made from cooked green beans, pounded until smooth, rolled into small balls the size of a cured egg, and diced pork belly, sprinkled with a little pepper for flavor. Spread the crust very thinly to cover the filling, place each cake in the steamer like sticky rice, each layer sprinkled with delicious, well-soaked sticky rice to coat. From the time the water boils to the time the cake is cooked, the entire homeland is gone. Banh Khuc is a gift, among the gifts of cakes. It can also help people feel less hungry when they miss meals because the nutritional content is quite high. Enjoy Banh Khuc while it's still hot to fully enjoy the flavor of Banh Khuc, a synthetic flavor that combines many natural flavors of the fields, cleverly packaged in a small piece of cake, without the need to to the help of chemicals or any kind of food technology. Banh Khuc is a rural gift but is loved by urban people. People like Banh Khuc because of its "healthy" nature. This traditional cake still lives in modern society alongside the banh khuc packaged on the industrial chain. People can enjoy Banh Khuc whenever they like, but Banh Khuc is often sold along with other types of cakes in the evening. The shouts of "Who bends the dike..." bring this simple countryside gift to the place, creeping into every small alley. I don't know when holding the hot, steaming Banh Khuc, fragrant with the smell of sticky rice, the smell of Khuc leaves, mixed with the fleshy, fatty taste of meat and beans, will anyone know about that simple leaf tip, and those who are alone? Sunlight and dew make Banh Khuc.
Đề bài: Giới thiệu một thức quà của người Việt Bài làm Đã là người Hà Nội không ai là không từng thưởng thức món xôi một lần, phải nói rằng, xôi Hà Nội có một phong vị riêng mà không trùng với bất cứ xôi ở nơi nào khác. Buổi sáng sớm, tiết trời còn mát mẻ, sau một giấc ngủ êm đềm, con người tĩnh tại thoải mái, bạn có bao giờ nghĩ rằng thưởng thức một bát xôi vào buổi sáng là cách thư giãn tốt nhất không? Người Hà Nội thì hay có thói quen như thế, giản dị, mộc mạc và thanh bình biết bao nhiêu. Mỗi loại xôi có một hương vị khác nhau và được ăn kèm với các loại thức ăn khác nhau. Chẳng hạn như xôi trắng ăn kèm với ruốc, thịt kho tàu, giò chả, lạp xường vừa thơm vừa mềm. Xôi gấc có vị ngọt được ăn kèm với chả mỡ. Xôi lạc, xôi đỗ xanh ăn kèm với vừng và ruốc. Còn xôi xéo, chắc chắn phải có thêm đậu xanh xắt lát mỏng và trên bát có hành phi thơm vàng ngậy… Thật ra, việc nấu xôi cũng chẳng mấy khó khăn và bất kể ai cũng nấu được. Chẳng hạn như muốn nấu xôi đậu xanh, chỉ cần chọn loại gạo nếp hoa vàng, ngâm gạo, đậu xanh từ tối hôm trước, để qua đêm cho mềm. Sau đó, vo gạo, đãi đậu thật kỹ rồi trộn đều. Cho thêm một chút muối, xóc lẫn vào gạo, đậu rồi đổ vào chõ đồ cho đến khi hạt gạo dẻo trong và hạt đậu nở bung là được. Đối với xôi lạc, cách nấu có hơi khác. Người nấu phải luộc chín nhân lạc trước cho mềm, sau đó bóc vỏ lạc rồi trộn với gạo nếp, pha thêm muối rồi đổ vào chõ đồ… Riêng xôi gấc, thay vì cho muối người nấu cần cho thêm đường. Trong các loại xôi, xôi xéo được coi là loại khó nấu nhất. Sau khi xôi chín, người nấu phải xới xôi cho tơi, để nguội rồi trộn với đậu xanh nấu chín. Đến lúc ăn xôi phải xắt mỏng nắm đậu xanh đã được đồ chín, thêm chút mỡ nước, hành phi vàng thơm phủ lên trên. Khi đó, bát xôi xéo sẽ có được vị ngọt của gạo nếp, vị bùi của đậu xanh, vị béo của mỡ nước và vị thơm của hành phi, ăn ngon tuyệt.
Topic: Introducing a Vietnamese gift Assignment Being a Hanoian, no one has ever enjoyed sticky rice at least once. It must be said that Hanoi sticky rice has a unique flavor that is not similar to any sticky rice anywhere else. Early in the morning, the weather is still cool, after a peaceful sleep, people are calm and comfortable, have you ever thought that enjoying a bowl of sticky rice in the morning is the best way to relax? Hanoi people often have habits like that, how simple, rustic and peaceful. Each type of sticky rice has a different flavor and is eaten with different foods. For example, white sticky rice served with shrimp, braised pork, sausage, and sausage is both fragrant and soft. Gac sticky rice has a sweet taste and is eaten with fried pork fat. Peanut sticky rice, green bean sticky rice served with sesame seeds and shrimp paste. As for sticky rice, there must be thinly sliced ​​green beans and golden fried onions in the bowl... Actually, cooking sticky rice is not difficult and anyone can cook it. For example, if you want to cook green bean sticky rice, just choose yellow flower sticky rice, soak the rice and green beans the night before, leave overnight to soften. After that, wash the rice, process the beans thoroughly and mix well. Add a little salt, stir together the rice and beans, then pour them into the pot until the rice grains are clear and the beans are plump. For peanut sticky rice, the cooking method is a bit different. The cook must first boil the peanut kernels until soft, then peel the peanuts, mix them with sticky rice, add salt and then pour into the pot... As for Gac sticky rice, instead of adding salt, the cook needs to add sugar. Among all types of sticky rice, sticky rice is considered the most difficult to cook. After the sticky rice is cooked, the cook must loosen the sticky rice, let it cool, then mix it with cooked green beans. When it's time to eat sticky rice, thinly slice a handful of cooked green beans, add a little fat, and fragrant fried onions on top. At that time, the bowl of sticky rice will have the sweetness of sticky rice, the fleshiness of green beans, the fatty taste of water fat and the aroma of fried onions, delicious to eat.
Đề bài: Giới thiệu một tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn 9 Bài làm Trong chương trình Ngữ văn 9, em đã được đọc rất nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Và em đã thực sự ấn tượng bởi tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn chiến sĩ. Ông sinh năm 1932 ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Trong đợt tập kết ra Bắc năm 1954, ông bắt đầu viết văn. Nguyễn Quang Sáng viết nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim nhưng tác phẩm nào cũng gây ấn tượng cho người đọc và mang đậm màu sắc cuộc sống của con người Nam Bộ trong chiến tranh. Sau kháng chiến chống Pháp, ông tiếp tục tham gia chống đế quốc Mĩ và sáng tác văn học. Năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ, vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ gay go ông đã cho ra đời truyện ngắn Chiếc lược ngà. Một tác phẩm tố cáo tội ác chiến tranh đã làm cha – con, vợ – chồng phải xa nhau để rồi khi trở về đứa con không nhận cha, đến khi nhận ra thì cũng là lúc chia tay. Vẫn thể loại quen thuộc. Thể loại truyện ngắn ít nhân vật, ít tình huống, thời gian, không gian cũng chỉ diễn ra nhất định theo từng hoàn cảnh đã làm nổi lên tình cha con thiêng liêng cao đẹp. Có thể nói câu chuyện mà Chiếc lược ngà đề cập đến đã gây cho người đọc nhiều cảm xúc với nội dung nhẹ nhàng mà thấm đẫm chất nhân văn. Đó là câu chuyện của ông Ba – một trong nhửng cán bộ được cô giao liên trẻ dẫn đường. Tuyến đường mà cô dẫn là tuyến đường đầy nguy hiểm, cạm bẫy bởi bọn giặc thường lùng quét rất gắt gao. Ông Ba với hành lí và tư trang giản dị đó là tài liệu và chiếc lược ngà – người bạn nhờ đem về cho cô con giái. Thấy chiếc lược ông lại nghĩ về câu chuyện xưa. Người bạn của ông – anh Sáu, trong một đợt được về thăm nhà sau tám năm xa cách, rất thương con mà đứa bé lại không nhận ra cha. Đứa bé đó là Thu – một cô bé bướng bỉnh, ương ngạnh, đầy cá tính nhưng cũng rất ngây thơ. Nó không nhận ra cha, lạnh lùng với anh Sáu. Mời vào ăn cơm nó nói trống không, muốn nhờ chắt nước cơm nó cũng nói trống không. Thế rồi khi nó biết lỗi lầm của mình, biết tội ác cũa lũ giặc gây ra vết thẹo cho ba và nhận ra ba thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Bé Thu đã biểu hiện tình cảm quá mãnh liệt. Nó không cho ba đi, ghì chặt lấy ba và cất tiếng gọi ba như xé lòng, xé ruột mọi người. Đem theo nỗi nhớ con, tình yêu thương, anh Sáu dồn công làm bằng được chiếc lược ngà tặng con. Nhưng chuyện không may đã xảy ra, khi chưa kịp trao cho con, anh đã hi sinh và trước khi nhắm mắt, chính tình cha con đã giúp anh tìm được chiếc lược gửi bạn đem cho con. Và cuối cùng điều bất ngờ là cô giao liên nhanh nhẹn ấy chính là bé Thu đã lớn. Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, của cha con ông Sáu. Qua đó, truyện ngợi ca và khẳng định tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị văn sâu sắc. Nguyễn Quang Sáng đã thực sự khéo léo khi xây dựng một cốt truyện chặt chẽ và bất ngờ. ông cũng rất khéo khi lựa chọn ngôi kể, người kể – người đã chứng kiến mọi chuyện tạo tính sinh động cao. Và tình cha con ông Sáu thì không thể thiếu chiếc lược ngà – kỉ vật thiêng liêng nối kết các nhân vật trong tác phẩm và biểu hiện tình cảm của cha với con. Nguyễn Quang Sáng cũng thành công khi đã tạo ra các tình huống bất ngờ, hợp lí nhân vật đặc sắc, tinh tế từ đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về mặt mỗi nhân vật, thấy rõ hơn và cảm thông hơn tình cha con cao quí, không bao giờ phai. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm văn học hay và đặc sắc. Nó để lại cho ta nhiều suy nghĩ, trăn trở đó là suy nghĩ về tình cha con gắn bó, thiêng liêng. Dù bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, tình cảm ấy vẫn giúp con người ta đứng vững.
Topic: Introducing a narrative work in Literature 9 program Assignment In the Literature 9 program, I read a lot of works by writers and poets who grew up in the military. And I was really impressed by the work The Ivory Comb by writer Nguyen Quang Sang. Nguyen Quang Sang is a soldier writer. He was born in 1932 in Cho Moi district, An Giang province, participated in the resistance war against the French and was active in the Southern battlefield. During the gathering to the North in 1954, he began writing. Nguyen Quang Sang writes in many genres such as short stories, novels, and movie scripts, but every work impresses readers and is filled with the colors of the lives of Southern people during the war. After the resistance war against the French, he continued to participate in fighting against American imperialism and writing literature. In 1966, in the Southern battlefield, at a time when the resistance war against America was fierce, he published the short story The Ivory Comb. A work denouncing the war crimes that caused father - son, husband - wife to be separated and when they returned the child did not recognize the father, and when he realized it was time to break up. Still familiar genre. The short story genre with few characters, few situations, time, and space only takes place according to certain circumstances, bringing out the beautiful sacred love between father and son. It can be said that the story that The Ivory Comb refers to has caused readers many emotions with its gentle content imbued with humanity. That is the story of Mr. Ba - one of the officers guided by the young liaison. The route she led was full of dangers and traps because the enemy often searched very closely. Mr. Ba, with his simple luggage and belongings - documents and an ivory comb - was asked by his friend to bring it back to his daughter. Seeing the comb, he thought about the old story. His friend - Mr. Sau, when he returned home after eight years of separation, loved his child very much, but the child did not recognize his father. That child is Thu - a stubborn, stubborn girl, full of personality but also very naive. He did not recognize his father and was cold towards Sau. When invited in to eat, he said it was empty. If he wanted to ask for rice water, he said it was empty. Then when he knew his mistakes, knew the crimes of the enemy that caused his father's scars, and recognized his father, it was time for Sau to leave. Baby Thu showed too strong feelings. He did not let his father go, hugged him tightly and called out to him as if tearing everyone's heart and soul. With nostalgia and love for his child, Mr. Sau worked hard to make an ivory comb for his child. But an unfortunate thing happened, before he could give it to his child, he sacrificed himself and before he died, it was father-son love that helped him find a comb and send it to his friend to give to his child. And finally, the surprise was that the agile courier was the grown-up Thu. The ivory comb touchingly describes the deep, deep love between father and son in the difficult circumstances of war, of Mr. Sau's father and son. Thereby, the story praises and affirms the sacred bond between father and son as a profound literary value. Nguyen Quang Sang was really skillful in building a tight and surprising plot. He was also very skillful in choosing the narrator, the narrator - the person who witnessed everything to create high vividness. And Mr. Sau's father-son relationship is indispensable without the ivory comb - a sacred souvenir that connects the characters in the work and expresses the affection between father and son. Nguyen Quang Sang also succeeded in creating unexpected, reasonable situations with unique and delicate characters, thereby helping readers better understand each character, see more clearly and sympathize more with the high bond between father and son. Precious, never fades. The Ivory Comb by Nguyen Quang Sang is a good and unique literary work. It leaves us with many thoughts and concerns, thinking about the close, sacred bond between father and son. No matter how difficult the situation is, that love still helps people stand firm.
Giới thiệu một vài nét về cuộc đời, sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi Hướng dẫn Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), cùng cha làm quan dưới triều Hồ Quý Li. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải sang Tàu, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng 10 năm trời ở thành Đông Quan (Thăng Long). Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở núi rừng Lam Sơn. Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân, dâng ‘Bình Ngô sách’ lên Bình Định Vương Lê Lợi. Ông trở thành cánh tay phải đắc lực của người anh hùng Lam Sơn. Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi viết thư cho bọn tướng tá giặc Minh, thực hiện chiến lược ‘tâm công’ đánh vào lòng giặc thu được nhiều chiến công hiển hách. Ông là người ‘viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời’. Nước nhà được độc lập sau 10 năm kháng chiến, năm 1428, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết ‘Bình Ngô đại cáo’ tuyên bố công cuộc ‘Bình Ngô phục quốc’ của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, nước Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới: độc lập, thái bình bền vững. Ông được phong tước Quan phục hầu, làm Chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Ông hăm hở đem tài kinh bang tế thế mong giúp vua xây dựng đất nước cường thịnh. Cuộc sống của ông thanh bạch liêm khiết, tính ông cương trực nên ông bị bọn quyền thần ghét. Nguyễn Trãi đã lui về Côn Sơn ở ẩn. Năm 1442 vụ án Lệ Chi Viên xẩy ra, Nguyễn Trãi bị vu oan, bị tru di tam tộc. Mãi 22 năm sau, năn 1464 vua Lê Thánh Tông mới viết chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi và khẳng định: ‘ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo’ (ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê) 2.Nguyễn Trãi sáng tác nhiều, nhưng sau vụ án Lệ Chi Viên thơ văn của ông bị thiêu hủy, bị thất tán nhiều. Hiện nay chỉ còn lại: – Quân trung từ mệnh tập:69 bài. – Bình Ngô đại cáo. – Lam Sơn thực lục. – Bia Vĩnh Lãng. – Dư địa chí. – Chí Linh phú. – ức Trai thi tập:105 bài. – Quốc âm thi tập:254 bài. – v.v… Tóm lại, Nguyễn Trãi là người anh hùng dân tộc, văn võ toàn tài. Sự nghiệp và thơ văn của Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước tự hào dân tộc.
Introducing some features of Nguyen Trai's life, career and poetry Instruct In 1400, Nguyen Trai passed the Thai student exam (PhD), and worked with his father as a mandarin under the reign of Ho Quy Li. In 1407, the Ming enemy invaded our country, Nguyen Phi Khanh was captured by the enemy and taken to China, Nguyen Trai was imprisoned by the enemy for 10 years in Dong Quan citadel (Thang Long). In 1418, Le Loi raised the flag of rebellion in Lam Son mountains and forests. Nguyen Trai joined the insurgent army and offered 'Binh Ngo book' to Binh Dinh Vuong Le Loi. He became the powerful right-hand man of the hero Lam Son. Nguyen Trai, on behalf of Le Loi, wrote a letter to the generals of the Ming enemy, implementing the strategy of 'heart attack' to attack the enemy, gaining many glorious victories. He was 'the most talented writer of manuscripts at any time'. The country was independent after 10 years of resistance. In 1428, on behalf of Le Loi, Nguyen Trai wrote 'Binh Ngo Dai Cao' declaring our people's 'Binh Ngo national restoration' completely victorious, Dai Viet country Entering a new era: independence, sustainable peace. He was awarded the title of Quan Phuc Marquis and became the first Chief Examiner of the Doctoral Examination of the Le Dynasty. He eagerly used his economic talents to help the king build a prosperous country. His life was pure and honest, his personality was upright, so he was hated by the powerful. Nguyen Trai retired to Con Son in hiding. In 1442, the Le Chi Vien case occurred, Nguyen Trai was falsely accused and exiled to the three clans. It was not until 22 years later, in 1464, that King Le Thanh Tong wrote a decree exonerating Nguyen Trai and affirming: 'Must Trai's heart is bright with Khue Tao' (My heart is as bright as Khue star) 2. Nguyen Trai composed a lot, but after the Le Chi Vien case, his poetry was burned and much of it was scattered. Now only remains: – Quan Trung Tu Du Diem: 69 lessons. – Binh Ngo great report. – Lam Son Thuc Luc. – Vinh Lang beer. – Residual land will. – Chi Linh phu. – Duc Trai practice exam: 105 lessons. – National audio exam practice: 254 lessons. – etc… In short, Nguyen Trai is a national hero, talented in literature and martial arts. Nguyen Trai's career and poetry are patriotic songs of national pride.
Giới thiệu một vài nét về Thạch Lam Hướng dẫn …Thạch Lam bắt đầu viết văn từ năm 1936, sớm nổi tiếng trên văn đàn. Ông là thành viên của Tự lực văn đoàn,một tổ chức văn học lớn trước năm 1945. Thạch Lam thành công ở thể truyện ngắn, có tài miêu tả những tâm trạng, lời văn gợi cảm giàu chất thơ-. Tác phẩm của ông gồm có ba tập truyện ngắn: Gió đầu mùa(1937), Nắng trong vườn(1938), Sợi tóc(1942), cuốn tiểu thuyết Ngày mới(1939), tập kí Hà Nội 36 phố phường(1943), một số truyện viết cho thiếu nhi, và cuốn tiểu luận Theo dòng(1941). Nhà văn Nguyễn Tuân trong bài ‘Thay lời bạt’ cuốn ‘Tuyển tập Thạch Lam’ đã viết: ‘Trong văn học Việt Nam trước Cách mạng 45, Thạch Lam là một trong số những nhà văn được nhiều cảm tình của người đọc. Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc. Dưới cái hình thức không những thoát ra cái khuôn sáo cũ của cách hành văn đương thời mà lại có rất nhiều đức tính sáng tạo ấy, văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nỏ lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trân trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học. Mặc dù in ra ít, sách Thạch Lam có đánh dấu lại được cái tâm hồn súc tích, rộng rãi và tiến bộ của một nhà văn xuôi chân chính.
Introducing a few features about Thach Lam Instruct …Thach Lam started writing in 1936 and soon became famous on the literary scene. He was a member of Tu Luc Van Doan, a large literary organization before 1945. Thach Lam is successful in the short story form, has a talent for describing moods, and has evocative, poetic prose. His works include three collections of short stories: The First Wind of Season (1937), Sunshine in the Garden (1938), Thread of Hair (1942), the novel New Day (1939), the Hanoi memoir 36 Streets (1943). , a number of stories written for children, and the essay book Following the Line (1941). Writer Nguyen Tuan in the article 'Afterword' of the book 'Thach Lam Anthology' wrote: ‘In Vietnamese literature before the 45th Revolution, Thach Lam was one of the writers who received much sympathy from readers. Thach Lam's writing is rich in images, exploration, and has a serene, simple, and profound style. In a form that not only escapes the old clichés of contemporary writing style but also has many creative qualities, Thach Lam's writing contains many contemplations, it is the crystallization of a sensitive and thoughtful soul. experience life. Thach Lam has subtle comments about everyday life. Writer Thach Lam's emotions often originate and arise from his feelings for people in the urban and rural poor. Thach Lam is a writer who loves life and appreciates the lives of people around him. Re-reading Thach Lam today, I still see all the aftertaste and elegance of works with literary style and quality. Although printed in small quantities, Thach Lam's books mark the concise, generous and progressive soul of a true prose writer.
Đề bài: Giới thiệu một vài đồ thủ công làm ruộng mà em biết Bài làm Sớm sớm, chiều chiều, bà đi ra vườn rau, bà vẫn cầm theo cái ỉiềm. Bà nói: Cái liềm này, cụ mua từ hồi năm đói Ất Dậu, 1945. Năm đó, bà mới lên 6 tuổi”. Văn mẫu tả cái liềm của nhà nông Cái liềm có hai bộ phận là cán liềm và lưỡi liềm. Cán gỗ hình tròn, dài độ nửa gang tay, to bằng cổ chai. Sau gần 70 năm, cái cán liềm đã đen bóng, thấm biết bao mồ hôi. Lưỡi liềm bằng sắt pha thép, hình vành trăng non, vành trăng khuyết. Sống liềm dày, phía lưỡi có nhiều răng cưa nhọn, nhỏ, sắc, gọi là chấu liềm. Nhờ có chấu liềm mà ta có thể cắt cỏ, cắt rạ, cắt lá cây. Bà em vẫn dùng liềm để tỉa lá cây lưu niên, cắt cỏ, cắt rau, cắt hoa trong vườn. Cái liềm tuy đã lâu năm, nhưng nhờ có nước thép tốt nên chấu liềm vẫn sắc. Đối với bà, cái liềm là nông cụ thô sơ làm vườn. Nó còn là một vật kỉ niệm đã gắn bó suốt đời bà. Bà em rất yêu quý và giữ gìn cái liềm ấy lắm.
Topic: Introduce some farming crafts that you know Assignment Early in the morning, late in the afternoon, she went to the vegetable garden, still holding the sickle. She said: She bought this sickle in the year of the At Dau famine, 1945. That year, she was only 6 years old. Sample essay describing a farmer's sickle The sickle has two parts: the sickle handle and the sickle blade. The wooden handle is round, about half a hand long, and as big as the neck of a bottle. After nearly 70 years, the sickle handle was shiny black and absorbed a lot of sweat. Crescent made of iron and steel, shaped like a new moon or a crescent moon. The spine of the sickle is thick, the blade has many small, sharp serrated teeth, called sickle prongs. Thanks to the sickle, we can cut grass, straw, and leaves. My grandmother still uses sickles to prune leaves from perennial plants, cut grass, cut vegetables, and cut flowers in the garden. Even though the sickle is old, thanks to good steel, the sickle's needle is still sharp. To her, the sickle is a rudimentary gardening tool. It is also a keepsake that has stuck with her throughout her life. My grandmother loved and treasured that sickle very much.
Đề bài: Giới thiệu một vùng quê đẹp Bài làm Bạc Liêu ở cực Nam đất nước, liền kề với Cà Mau. Từ thành phố Hồ Chí Minh, vượt sông Tiền Giang, qua sông Hậu Giang, du khách đi thẳng tới Bạc Liêu, một hành trình 280 km. Đó là một miền đất thoáng đãng, trù mật, với bao cảnh vật đáng vêu, với những con người tuyệt đẹp, chất phác, siêng năng, thẳng thắn và phóng thoáng, cởi mở. Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 2520,6 km. Dân số khoảng 800.000 người, có 20 dân tộc, đông nhất là người Kinh. Các thế hệ người Kinh, người Hoa, người Khơ me,… đã chung vai sát cánh qua nhiều thế kỉ, lấn biển, đào kênh, khai phá ruộng đồng, đánh giặc giữ làng mới có một Bạc Liêu giàu đẹp như ngày nay. Ai đã từng thăm thú Bạc Liêu một đôi lần chắc sẽ không bao giờ quên cảnh sắc hương vị nơi đây. Chùa Xiêm Cán ở Vĩnh Trạch Đồng, chùa Cái Giá ở xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi… lộng lẫy, uy nghi, với mái chùa uốn cong, gác chuông cao vút giữa trời xanh, với hàng trăm pho tượng thếp vàng tráng lệ. Những ruộng muối vùng Kinh Tư bao la, muối trắng lấp lánh trong nắng chiều: những đụn muối trắng chạy dài như muôn ngàn gò đống nhấp nhô. Vườn chim Lập Điền có nhiều loại chim quý, hiếm, được nhắc đến trong sách Đỏ. Khu du lịch Phật Bà Nam Hải nổi tiếng linh thiêng… Nếu như nhãn lồng Hưng Yên là đặc sản của miền Bắc thì ở miền Nam Tổ quốc thân yêu nổi tiếng với vườn nhãn Bạc Liêu, trái tròn to, cùi dày trắng phau, ngọt ngào và thơm ngát. Đến thăm vườn nhãn, du khách còn được thưởng thức bánh xèo A Mật và nghe các tài tủe đổ câu vọng cổ nối tiếng: “ Ê..Ê Từ là từ phu tướng… "của cố nhạc sĩ Văn Cao Lầu. Ta hãy đến Phước Long và Hồng Dân thăm các làng nghề thủ công đan lát, dệt chiếu, làm nón… và đừng quên thường thức món bánh tầm bì hay bún bì ờ Ngạn Dừa, Hồng Dân. Cảnh sắc và con người Bạc Liêu thật đáng yêu và đáng nhớ. Tiếng hát, tiếng hò của ai đó cất lên trên dòng kênh giữa màu xanh của rừng tràm, rừng đước như giăng mắc hồn du khách, lơ lửng đến mọi chân trời xa: "Bớ chiếc ghe sau / chèo mau / anh đợi / Qua khúc sông này / bờ bụi/ tối tăm "…
Topic: Introducing a beautiful countryside Assignment Bac Lieu is at the southern tip of the country, adjacent to Ca Mau. From Ho Chi Minh City, cross the Tien Giang River, cross the Hau Giang River, visitors go straight to Bac Lieu, a journey of 280 km. It is an airy, dense land, with many lovely landscapes, with beautiful, simple, diligent, straightforward and open-minded people. Bac Lieu has a natural area of ​​2,520.6 km2. The population is about 800,000 people, with 20 ethnic groups, the largest being the Kinh people. Generations of Kinh people, Chinese people, Khmer people, etc. have worked side by side for many centuries, encroaching the sea, digging canals, exploring fields, fighting enemies to defend the village to have a rich and beautiful Bac Lieu like today. Anyone who has visited Bac Lieu a few times will never forget the scenery and flavors here. Xiem Can Pagoda in Vinh Trach Dong, Cai Gia Pagoda in Hung Hoi commune, Vinh Loi district... are splendid and majestic, with curved pagoda roofs, soaring bell towers in the blue sky, and hundreds of magnificent gilded statues. The salt fields of Kinh Tu area are vast, white salt sparkles in the afternoon sun: white salt dunes run long like thousands of undulating mounds. Lap Dien Bird Park has many rare and precious birds, mentioned in the Red Book. Nam Hai Bodhisattva tourist area is famous for its sacredness... If Hung Yen longan is a specialty of the North, then in the South our beloved country is famous for Bac Lieu longan garden, large round fruit, thick white flesh, sweet. sweet and fragrant. Visiting the longan garden, visitors can also enjoy A Mat pancakes and listen to talented artists recite the famous Vong Co verse: "E..E Tu is the word for the general's wife..." by the late musician Van Cao Lau. Let's come Phuoc Long and Hong Dan visited craft villages of weaving bamboo, mat weaving, hat making... and don't forget to enjoy banh tam bi or vermicelli noodles in Ngan Dua, Hong Dan. The scenery and people of Bac Lieu are lovely and memorable. The sound of someone singing and shouting on the canal amidst the green of the Melaleuca and Mangrove forests seems to entangle the souls of tourists, floating to every distant horizon: "Leave the boat behind / row quickly / I'll wait / Through this river / dusty bank / dark "…
Đề bài: Giới thiệu một đặc sắc đậm đà hương vị đất nước Bài làm Đã bao năm nay như thế. Mỗi lần Hồ Gươm lăn tăn ánh vàng nắng thu, mỗi lần những chòm mây mùa thu dãy Ba Vì và dãy Tam Đảo soi vào lòng sóng Hồ Tây thì (ba mươi sáu) phố phường Hà Nội lại thấy xuất hiện cái bóng dáng êm ả của người gánh cốm Vòng tiến vào theo đường cửa ô cầu Giấy. Những cây sấu đứng đường của Hà Nội mà bắt đẩu lộp độp rụng xuống những trái sấu chín cây trên vỉa hè Hà Nội cũng bắt đầu hiện ra cái hình ảnh người gánh cốm đi bán rong. Trái với thói thường của hàng rong, gánh côm cứ êm ả mà đi, người bán cốm không cất tiếng rao hàng. Hình thù người gánh cốm cũng phần nào gợi lên cái phẩm chất của thứ quà giản dị thơm thảo hiền hậu, vừa chắc chắn vừa tinh tế. Đứng trên ban công nhìn xuống, đứng trong ngõ hoặc đứng trong quầy hàng nhìn ra, mà nhận được gánh cốm thì khắc gọi lấy mà mua. Cái gánh cốm Vòng cổ truyền đã quá quen đi rồi với con mắt của nhiều người đã chết đi sống lại nhiều lần với Hà Nội. Ai mà lầm được cái gánh cốm Vòng có cái đòn gánh dị thường một đầu thẳng một đầu cong vút lên như cái ngọn chiếc hia tuồng Bình Định. Cái đòn gánh cồ truyền ấy là cả một thân tre đánh cả gốc, đầu cong chính là cái phần gốc cây mà có khi phải chọn hàng chục bụi tre mới tìm đúng được một chiếc đòn gánh cốm vừa ý. Cho nên đã có những cái đòn gánh cong truyền đi vai người này đến vai người khác có hàng mấy đời liền. Trong thúng là cốm, trên mặt thúng là một bó cọng rơm tươi còn xanh màu mạ, và những tập lá sen Hồ Tây. Đã bao năm nay như thế. Mỗi lần Hồ Gươm lăn tăn ánh vàng nắng thu, mỗi lần những chòm mây mùa thu dãy Ba Vì và dãy Tam Đảo soi vào lòng sóng Hồ Tây thì (ba mươi sáu) phố phường Hà Nội lại thấy xuất hiện cái bóng dáng êm ả của người gánh cốm Vòng tiến vào theo đường cửa ô cầu Giấy. Lúc này cũng là lúc khắp nơi nơi, nắng mùa thu đang vẩv những đốm trứng cuốc vào mọi trái chuối tiêu đang vuốt cong lên cái màu vàng ngọt, và nắng mùa thu cũng đang làm bóng lên cái màu đỏ hổ phách bay phấn của những quả hồng trứng cũng đang vểnh hết cả tai hồng lên. Không hiểu đây là sự dàn xếp của mùa thu Việt Nam hay là sự hẹn hò của thời trân phẩm quả mà chuối tiêu trứng cuốc lại hay gặp mùa cốm và cốm lại gặp hồng trứng… Ai khó tính và cầu kì màu sắc cứ nói gì thì nói nhưng theo tôi cái màu xanh của cốm vòng là thứ màu xanh đẹp hơn cả cái màu xanh của ngọc thạch. Cốm xanh đậm ấy mà lại là lá sen phấn làm đĩa đựng càng thấy mình cùng tạo vật sao mà nó chan hòa cảm thông đến được như thế. Cốm rờn lên một niềm vui bất tận xanh, mà trên mặt đó lại cho chằng lên một múi lạt chừ thập nhuộm đỏ cánh sen đế gửi đến ngõ nhà người yêu, đế đặt trên bàn tiệc cưới, đám hỏi thì quả là màu xanh thật là màu của nguyện vọng hanh phúc.
Topic: Introducing a unique flavor of the country Assignment It's been like this for many years. Every time Hoan Kiem Lake ripples with golden autumn sunlight, every time the autumn clouds of Ba Vi and Tam Dao ranges shine into the waves of West Lake, the (thirty-six) streets of Hanoi see a peaceful shadow appear. of the person carrying Vong nuggets entering through O Cau Giay gate. The dracontomelon trees standing on Hanoi's streets began to fall, ripening dracontomelon fruits on the sidewalks of Hanoi also began to show the image of people carrying green rice peddling. Contrary to the usual habits of street vendors, the rice nuggets carry on quietly, the green rice seller does not raise his voice to advertise. The shape of the person carrying green rice also partly evokes the quality of a simple, fragrant and gentle gift, both sturdy and delicate. Standing on the balcony looking down, standing in the alley or standing in the stall looking out, if you receive a load of green rice, immediately call for it and buy it. The traditional basket of Vong nuggets is so familiar to the eyes of many people who have died and come back to life many times with Hanoi. Who could mistake the Vong nuggets burden with its unusual pole, one end being straight and the other curved up like the top of a Binh Dinh opera hoe. That traditional carrying pole is an entire bamboo stalk with the whole root, the curved end is the base of the tree, but sometimes you have to choose dozens of bamboo bushes to find a suitable bamboo pole. Therefore, there have been curved poles passed from one person to another for many generations. In the basket is green rice, on the top of the basket is a bunch of fresh green straw, and bunches of West Lake lotus leaves. It's been like this for many years. Every time Hoan Kiem Lake ripples with golden autumn sunlight, every time the autumn clouds of Ba Vi and Tam Dao ranges shine into the waves of West Lake, the (thirty-six) streets of Hanoi see a peaceful shadow appear. of the person carrying Vong nuggets entering through O Cau Giay gate. This is also the time when everywhere, the autumn sun is dabbing egg spots on every banana fruit, curving it into a sweet yellow color, and the autumn sun is also making the chalky amber red color of the banana trees shine. The pink egg also has its pink ears pricked up. I don't know if this is the arrangement of Vietnam's autumn or the dating of the time of precious fruits, bananas, eggs, and green rice meet the season of green rice and green rice and red eggs... Anyone who is picky and picky about colors can say whatever they want. But in my opinion, the green color of green rice is more beautiful than the green color of jade. The dark green nuggets and the powdered lotus leaf used as a serving plate made me feel so much closer to myself and the creature that it was filled with such sympathy. The nuggets exude an endless green joy, but on top of that, a slice of green rice dyed red with lotus petals to send to the lover's house, to be placed on the table for weddings and engagements, it is truly green. is the color of happy wishes.
Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Xéc-van-téc và tác phẩm Đôn Ki-hô-tê – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm 1.Tác giả Xéc-van-téc (1547 – 1616) là nhà văn lỗi lạc của Tây Ban Nha. Cuốn tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê của ông là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thời đại Phục hưng, nó đã làm cho tên tuổi Xéc-van-téc trở thành bất tử. 2.Tác phẩm Tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê gồm 2 phần: phần I có 52 chương và phần II có 74 chương. Phần I: Ki-ha-đa là một quý tộc nghèo, gần 50 tuổi, gầy gò, cao lênh khênh. Say mê các truyện hiệp sĩ phiêu lưu mà đầu óc lão trở nên mụ mẫm. Lão muốn trở thành hiệp sĩ, giang hồ khắp bốn phương trời, diệt trừ lũ khổng lồ yêu quái, thiết lập lại trật tự công lí. Lão tìm sắm binh khí, giáp trụ đã hoen gỉ của tổ tiên, đem sửa chữa, đánh bóng lại để tự vũ trang cho mình. Con ngựa gầy còm được lão phong cho một cái tên rất oai: chiến mã Rô-xi-nan-tê. Còn lão mang cái tên rất oách: Nhà hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Mantra. Một hiệp sĩ cứu nguy đời phải đúng “mốt” nghĩa là phải có người tình xinh đẹp. Lão nhớ tới một phụ nữ mà lão thầm yêu thời trai trẻ, lão liền ban cho mụ nhà quê này cái tên nghe rất dài: Công nương Đuyn-xi-nê-a đuy Tô-bô-xô. Lão tổ chinh chiến: Quán trọ thành lâu đài, gã chủ quán thành lãnh chúa, cuốn sổ bán hàng thành “Kinh Thánh” hai ả gái điếm thành hai công nương. Lần thứ nhất ra đi, một trận đấu nảy lửa giữa lão và bọn lái buôn, vì họ không nhận ra Đuy-xi-nê-a đuy Tô-bô-xô là đẹp nhất trần gian. Đôn Ki-hô-tê bị một trận đòn nhừ tử, may mà được người quen đưa về làng. Sau đó lão lại ra đi với một nông dân béo lùn, cục mịch được lão phong cho chức giám mã Xan-trô Pan-xa. Hai thầy trò ngược xuôi, ngang dọc khắp đất nước Tây Ban Nha. Thầy thì mang theo bao mộng tưởng hão huyền đến nực cười: đánh nhau với cối xay gió – lũ khổng lồ, chiếc chậu thau của bác thợ cạo, tưởng là lũ sắt của Mam-bri-nô, một phu nhân ngồi trong xe ngựa, tưởng là công chúa bị lão phù thủy bắt cóc, đàn cừu tưởng đoàn diễu hành… Trò lẽo đẽo theo thầy với mộng tưởng thực tế: sẽ được thầy, khi đã công thành danh toại ban cho chức tước cai trị vài hòn đảo. Trong một trận đánh lớn Đôn Ki-hô-tê đã đánh tan một đám lễ tang, đạp què chân một sinh viên, giám mã Đôn Ki-hô-tê bất ngờ bị hai người quen bắt nhốt cũi đưa về cho gia đình; lợi dụng một lúc được tự do, lão lại lao vào đám rước cầu mưa để giải thoát bức ảnh Đức mẹ Đồng trinh mà lão tưởng là một công chúa bị bọn phản nghịch bắt cóc. Lão bị đánh tơi bời và người thân phải khiêng lên xe đưa bò đưa về nhà phục thuốc! Phần II: Đôn Ki-hô-tê lại lên đường. Lão gặp “Hiệp sĩ Gương soi”, hai bên giao đấu. Đối thủ chẳng may ngã ngựa. Đôn Ki-hô-tê chiến thắng. Hai thầy trò đắc thắng nghênh ngang trên đường và gặp một xe chở đôi sư tử; Đôn Ki-hô-tê ra lệnh cho người hộ tông mở ngay cũi! Lạ thay, sư tử nằm im trong cũi, ngó nhìn ra… Với chiến công này Đôn Ki-hô-tê đổi danh hiệu thành “Hiệp sĩ Sư tử”. Thầy trò Đôn Ki-hô-tê gặp hai vợ chồng bá tước. Họ đón tiếp Đôn Ki-hô-tê với kiểu cách hiệp sĩ và phong cho giám mã Xan-trô Pan-xa chức quan Thông đốc đảo Ban-ta-ri-a. Màn bi hài kịch diễn ra. Một trận tấn công giả được tổ chức. Thông đốc đảo bị một trận đòn nhừ tử. Còn Đôn Ki-hô-tê bị trêu chọc, giễu cợt đủ đường. Trận đánh giữa “Hiệp sĩ vầng trăng bạc” với “Hiệp sĩ Sư tử” xảy ra, Đôn Ki-hô-tê đại bại, lão cam kết trở về nhà. Ốm đau, kiệt sức bây giờ lão ta mới nhận ra cái hại của những cuốn truyện hiệp sĩ. Lão viết di chúc và chết trong thầm lặng! 3. Giá trị – Đặt trong sự phát triển chung của tiểu thuyết thế giới, Đôn Ki-hô-tê được coi là một kiệt tác. Giọng văn hóm hỉnh, các giả định này kịch tính với bao chiến công và thất bại thảm hại của chàng hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Man- tra, cho thấy tài kể chuyện, dựng cảnh và chế giễu của ngòi bút nghệ thuật Xéc-van-téc. – “Đôn Ki-hô-tê” sáng ngời vẻ đẹp của chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng Tags:Văn 8
Brief introduction to the author Zevanter and his work Don Quixote - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment 1.Author Servant (1547 - 1616) was a prominent Spanish writer. His novel Don Quixote is one of the greatest works of the Renaissance, it made the name of St. Vanter immortal. 2. Works The novel Don Quixote consists of two parts: part I has 52 chapters and part II has 74 chapters. Part I: Ki-hada is a poor nobleman, nearly 50 years old, thin, and tall. Passionate about adventure knight stories, his mind became dull. He wanted to become a knight, wander around all four directions, eliminate giant monsters and restore order and justice. He searched for rusty weapons and armor from his ancestors, repaired and polished them to arm himself. The skinny horse was given a very majestic name by the old man: the war horse Rocinante. And he has a very powerful name: Knight Don Quixote of Mantra. A knight who saves lives must be "fashionable" which means must have a beautiful lover. He remembered a woman he secretly loved when he was young, so he immediately gave this country woman a very long name: Princess Duy-cinea du To-bo-so. The old man goes to war: The inn becomes a castle, the innkeeper becomes a lord, the sales book becomes the "Bible" and the two prostitutes become two princesses. The first time he left, there was a fierce battle between him and the merchants, because they did not realize that Ducinea du Toboso was the most beautiful in the world. Don Quixote was severely beaten, but luckily an acquaintance took him back to the village. Then he left with a fat, clumsy peasant whom he appointed to the position of warden Xantro Panza. The two teachers and students went back and forth across Spain. The teacher brought with him so many ridiculous and unrealistic dreams: fighting with windmills - giants, a barber's brass basin, thinking it was Mambrino's iron, a lady sitting in a carriage. , thinking that the princess was kidnapped by an old witch, the flock of sheep thought it was a parade... The students followed the teacher with a realistic dream: they would be given the title of ruler of several islands by the teacher, when they were successful. During a major battle, Don Quixote broke up a funeral procession and crippled a student's leg. Don Quixote's horseman was suddenly captured by two acquaintances, locked in a cage and brought back to his family; Taking advantage of a moment of freedom, he rushed into the procession to pray for rain to free the image of the Virgin Mary, which he thought was a princess kidnapped by rebels. The old man was beaten so badly that his relatives had to carry him to the cow cart and take him home for medicine! Part II: Don Quixote sets out again. He met the "Knight of the Mirror", the two sides fought. The opponent unfortunately fell off his horse. Don Quixote wins. The two teachers and students triumphantly walked on the road and met a cart carrying a pair of lions; Don Quixote ordered the guardian to immediately open the crib! Strangely enough, the lion lay still in the cage, looking out... With this victory, Don Quixote changed his title to "Lion Knight". Don Quixote and his students met the count and his wife. They welcomed Don Quixote with knightly style and appointed the warden Xantro Panza as Governor of the island of Bantaria. A tragic comedy scene takes place. A mock attack was organized. The island governor was beaten to death. And Don Quixote was teased and ridiculed in every way. The battle between the "Knight of the Silver Moon" and the "Knight of the Lion" occurred, Don Quixote was defeated, and he pledged to return home. Sick and exhausted, he now realized the harm of knightly books. He wrote a will and died in silence! 3. Value – Placed in the general development of world novels, Don Quixote is considered a masterpiece. The tone is humorous, these assumptions dramatize the many victories and miserable failures of the knight Don Quixote of Mantra, showing the talent of the artistic pen to tell stories, create scenes and mockery. Scandinavian technique. – “Don Quixote” shines with the beauty of Renaissance humanism Tags: Literature 8
Giới thiệu nhà văn Nguyễn Tuân và tập tùy bút Sông Đà Hướng dẫn Tác giả Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân (1910 – 1987), quê ở Hà Nội, là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Đến với văn chương từ những năm 20 của thế kỉ, Nguyễn Tuân đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng và cố gắng tìm kiếm thành công. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua… Trước Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân Nổi tiếng với những tác phẩm viết về chủ đề “xê dịch” (Một chuyến đi, Thiếu quê hương,..); cái đẹp trong quá khứ (Vang bóng một thời,..); hoặc cuộc sống trụy lạc (Chiếc lư đồng mắt cua). Dù ở đề tài nào, ông cũng khao khát tìm kiếm, phát hiện và chiêm ngưỡng cái đẹp ẩn khuất trong cuộc sống. Chủ nghĩa xê dịch vốn là một quan niệm sống của phương Tây, được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20 và được nhiều người tiếp nhận. Xê dịch có nghĩa là luôn luôn thay đổi, rất phù hợp với lý tưởng sống của tuổi trẻ, hoặc những người có lối sống tự do, thích khám phá. Nguyễn Tuân đã tìm đến lý thuyết “chủ nghĩa xê dịch” này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về “chủ nghĩa xê dịch”, Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa (Một chuyến đi). Không những “xê dịch” trên khoảng không gian địa lí, Nguyễn Tuân còn thực hiện “xê dịch” vượt thời gian lịch sử. Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn “vang bóng một thời”. Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ người tử tù). Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống trụy lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua). Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân sớm hòa nhập với cuộc sống mới. Ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước (Tùy bút Sông Đà), ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất (Tùy bút kháng chiến, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi). Có thể khẳng định Nguyễn Tuân là một nhà văn độc đáo, tài hoa và uyên bác. Ông luôn trân trọng những truyền thống văn hóa của dân tộc và có tình yêu thiết tha đối với thiên nhiên, đất nước và con người. Trong suốt thời gian hơn nửa thế kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã xó nhiều thể loại văn học khác nhau. Nhưng sở trường hơn cả vẫn là tùy bút. Với thể văn này, ngòi bút Nguyễn Tuân như được tung hoành, phóng túng, và bộc lộ đầy đủ nhất những nét tài hoa, uyên bác, cũng như cái “ngông” của mình Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật. Quá trình chuyển đổi phong cách, đề tài sáng tác trước và sau cách mạng diễn ra mạnh mẽ. Ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Ông chủ động tiếp nhận chủ nghĩa xê dịch là để tìm kiếm những cảm xúc mới mẻ cho ngòi bút. Bởi thế, văn của ông lúc nào cũng có những cảnh tượng phi thường, những cảm xúc mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội,… Dù đã thử bút trên nhiều thể loại nhưng Nguyễn Tuân vẫn có thế mạnh trong tùy bút rất phù hợp với phong cách tự do phóng túng của ông. Thiên nhiên trong tùy bút Nguyễn Tuân được miêu tả bằng một tình yêu trìu mến thiết tha và sự thấu hiểu sâu sắc, biểu lộ tinh tế và đọc đáo vẻ đẹp của sông núi, cỏ cây trên đất nước mình. Văn ông còn có giọng khinh bạc nhưng chủ yếu để ném nỗi giận dữ vào kẻ thù cướp nước với niềm căm hận tột cùng. Tập tùy bút: Sông Đà gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo; trong đó, đặc sắc hơn cả là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tập tùy này là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những năm 1958 – 1960. Trở lại vùng đất đã từng gắn bó với ông những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với những kỉ niệm thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong tâm hồn ông. Cảnh vật và con người Tây Bắc đã có một sức hấp dẫn cuốn hút đặc biệt đối với Nguyễn Tuân. Ông say mê trước vẻ đẹp thơ mộng trữ tình và cả cái hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Nhưng đề cập đến vẻ đẹp của lòng người, tình người. Trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Nguyễn Tuân đã tự nhận mình là người “đi tìm thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc”. Nhất là thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí mỗi con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và thêm bền vững. Hình ảnh con sông Đà: Sông Đà được miêu tả như một nhân vật có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng (khai sinh ở huyện Cảnh Đông, Vân Nam, Trung Quốc và xin nhập tịch vào Việt Nam với tên gọi Bả Biên Giang hoặc Ly Tiên, ngày nay gọi chung là Sông Đà). Sông Đà cũng được miêu tả có tính cách độc đáo vừa hung bạo, dữ dội, vừa rất thơ mộng, trữ tình. Tính cách hung bạo: có địa hình hiểm trở ghê gớm (hút nước sâu thẳm, ghềnh thác hiểm trở, vách núi vút cao đầy ghê rợn,.. sóng nước cuồn cuộn ngày đêm gầm thét, Sông Đà ẩn chứa trong mình những nguy hiểm tột cùng của đội quân hùng mạnh nước và đá.) Tính cách trữ tình, thơ mộng, hiền hòa: Nhìn từ trên cao, hình dáng con sông Đà giống như một dải lụa mềm mại vắt qua núi rừng, như mái tóc của người thiếu nữ mượt mà thả dài. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa, lúc xanh như ngọc bích, lúc lại đỏ lừ như da mặt người bầm đi vì rượu, lúc trong vắt như nhìn thấy đáy. Cảnh sắc hai bên bờ hiền hòa, hoang sơ và tĩnh lặng như một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích xưa. Nguyễn Tuân đã nhìn nhận sông Đà như một tuyệt tác của tự nhiên, một công trình nghệ thuật của tạo hóa. Ca ngợi vẻ đẹp con sông Đà thể hiện sâu sắc tình yêu mến của nhà văn đối với quê hương đất nước. Hình ảnh người lái đò trên Sông Đà: Nếu thiên nhiên sông Đà được tô đậm đến mức phi thường thì hình ảnh người lái đò trên sông Đà cũng được miêu tả trong tư thế kì vĩ nhất. Ông lái đò người Lai Châu, quê ngã tư sông cát tỉnh, đã xuôi ngược sông Đà suốt mười năm liền. Giữa ông và dòng sông có một mối gắn kết đặc biệt sâu sắc, nó vừa là kẻ thù số một, sẵn sàng quật ngã, nhấn chìm vừa là người bạn hết sức thân thiết đối với ông. Những thương tích sau mỗi cuộc chiến đấu ác liệt còn in đậm trên cơ thể ông như những chứng tích oai hùng vừa đau thương lại vừa rất đáng tự hào. Ông lái đò là người rất am hiểu về dòng sông. Ông hiểu sông Đà như hiểu chính bản thân mình. Ông nắm chắc từng nguồn mạch, từng ngọn thác, từng khe đá,.. Ông nắm vững quy luật của dòng sông và luôn có phương án tốt nhất trong mỗi cuộc chiến với dòng sông này. Mỗi cuộc vượt thác đối với ông là một chuyến đi tràn đầy cảm hứng. Sự nguy hiểm đầy chết chóc của dòng sông trở thành niềm đam mê bất tận trong suốt cuộc đời ông. Ông muốn chiến đấu và chiến thắng con quái thú ấy nhiều lần, làm thỏa mãn khát vọng chinh phục. Bởi thế, trên nền sông nước Đà giang hùng vĩ ông lái đò hiên lên với tư thế của một dũng tướng tài năng và phong thái của một nghệ sĩ tài hoa trong cuộc vượt thác. Sau mỗi cuộc vượt thác ngoạn mục, ông lại thơi thả neo thuyền và ung dung đốt lửa trại, bàn tán về cá anh vũ. Qua nhân vật người lái đò trên sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa đậm nét bức chân dung của con người lao động với niềm hiên ngàng, khí phách, oai hùng, kì vĩ, vừa tài hoa vừa hiền lành, dung dị trong cuộc sống nơi miền núi thẳm.
Giới thiệu nhà văn Nguyễn Tuân và tập tùy bút Sông Đà Hướng dẫn Tác giả Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân (1910 – 1987), quê ở Hà Nội, là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Đến với văn chương từ những năm 20 của thế kỉ, Nguyễn Tuân đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng và cố gắng tìm kiếm thành công. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua… Trước Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân Nổi tiếng với những tác phẩm viết về chủ đề “xê dịch” (Một chuyến đi, Thiếu quê hương,..); cái đẹp trong quá khứ (Vang bóng một thời,..); hoặc cuộc sống trụy lạc (Chiếc lư đồng mắt cua). Dù ở đề tài nào, ông cũng khao khát tìm kiếm, phát hiện và chiêm ngưỡng cái đẹp ẩn khuất trong cuộc sống. Chủ nghĩa xê dịch vốn là một quan niệm sống của phương Tây, được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20 và được nhiều người tiếp nhận. Xê dịch có nghĩa là luôn luôn thay đổi, rất phù hợp với lý tưởng sống của tuổi trẻ, hoặc những người có lối sống tự do, thích khám phá. Nguyễn Tuân đã tìm đến lý thuyết “chủ nghĩa xê dịch” này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về “chủ nghĩa xê dịch”, Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa (Một chuyến đi). Không những “xê dịch” trên khoảng không gian địa lí, Nguyễn Tuân còn thực hiện “xê dịch” vượt thời gian lịch sử. Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn “vang bóng một thời”. Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ người tử tù). Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống trụy lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua). Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân sớm hòa nhập với cuộc sống mới. Ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước (Tùy bút Sông Đà), ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất (Tùy bút kháng chiến, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi). Có thể khẳng định Nguyễn Tuân là một nhà văn độc đáo, tài hoa và uyên bác. Ông luôn trân trọng những truyền thống văn hóa của dân tộc và có tình yêu thiết tha đối với thiên nhiên, đất nước và con người. Trong suốt thời gian hơn nửa thế kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã xó nhiều thể loại văn học khác nhau. Nhưng sở trường hơn cả vẫn là tùy bút. Với thể văn này, ngòi bút Nguyễn Tuân như được tung hoành, phóng túng, và bộc lộ đầy đủ nhất những nét tài hoa, uyên bác, cũng như cái “ngông” của mình Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật. Quá trình chuyển đổi phong cách, đề tài sáng tác trước và sau cách mạng diễn ra mạnh mẽ. Ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Ông chủ động tiếp nhận chủ nghĩa xê dịch là để tìm kiếm những cảm xúc mới mẻ cho ngòi bút. Bởi thế, văn của ông lúc nào cũng có những cảnh tượng phi thường, những cảm xúc mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội,… Dù đã thử bút trên nhiều thể loại nhưng Nguyễn Tuân vẫn có thế mạnh trong tùy bút rất phù hợp với phong cách tự do phóng túng của ông. Thiên nhiên trong tùy bút Nguyễn Tuân được miêu tả bằng một tình yêu trìu mến thiết tha và sự thấu hiểu sâu sắc, biểu lộ tinh tế và đọc đáo vẻ đẹp của sông núi, cỏ cây trên đất nước mình. Văn ông còn có giọng khinh bạc nhưng chủ yếu để ném nỗi giận dữ vào kẻ thù cướp nước với niềm căm hận tột cùng. Tập tùy bút: Sông Đà gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo; trong đó, đặc sắc hơn cả là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tập tùy này là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những năm 1958 – 1960. Trở lại vùng đất đã từng gắn bó với ông những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với những kỉ niệm thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong tâm hồn ông. Cảnh vật và con người Tây Bắc đã có một sức hấp dẫn cuốn hút đặc biệt đối với Nguyễn Tuân. Ông say mê trước vẻ đẹp thơ mộng trữ tình và cả cái hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Nhưng đề cập đến vẻ đẹp của lòng người, tình người. Trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Nguyễn Tuân đã tự nhận mình là người “đi tìm thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc”. Nhất là thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí mỗi con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và thêm bền vững. Hình ảnh con sông Đà: Sông Đà được miêu tả như một nhân vật có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng (khai sinh ở huyện Cảnh Đông, Vân Nam, Trung Quốc và xin nhập tịch vào Việt Nam với tên gọi Bả Biên Giang hoặc Ly Tiên, ngày nay gọi chung là Sông Đà). Sông Đà cũng được miêu tả có tính cách độc đáo vừa hung bạo, dữ dội, vừa rất thơ mộng, trữ tình. Tính cách hung bạo: có địa hình hiểm trở ghê gớm (hút nước sâu thẳm, ghềnh thác hiểm trở, vách núi vút cao đầy ghê rợn,.. sóng nước cuồn cuộn ngày đêm gầm thét, Sông Đà ẩn chứa trong mình những nguy hiểm tột cùng của đội quân hùng mạnh nước và đá.) Tính cách trữ tình, thơ mộng, hiền hòa: Nhìn từ trên cao, hình dáng con sông Đà giống như một dải lụa mềm mại vắt qua núi rừng, như mái tóc của người thiếu nữ mượt mà thả dài. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa, lúc xanh như ngọc bích, lúc lại đỏ lừ như da mặt người bầm đi vì rượu, lúc trong vắt như nhìn thấy đáy. Cảnh sắc hai bên bờ hiền hòa, hoang sơ và tĩnh lặng như một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích xưa. Nguyễn Tuân đã nhìn nhận sông Đà như một tuyệt tác của tự nhiên, một công trình nghệ thuật của tạo hóa. Ca ngợi vẻ đẹp con sông Đà thể hiện sâu sắc tình yêu mến của nhà văn đối với quê hương đất nước. Hình ảnh người lái đò trên Sông Đà: Nếu thiên nhiên sông Đà được tô đậm đến mức phi thường thì hình ảnh người lái đò trên sông Đà cũng được miêu tả trong tư thế kì vĩ nhất. Ông lái đò người Lai Châu, quê ngã tư sông cát tỉnh, đã xuôi ngược sông Đà suốt mười năm liền. Giữa ông và dòng sông có một mối gắn kết đặc biệt sâu sắc, nó vừa là kẻ thù số một, sẵn sàng quật ngã, nhấn chìm vừa là người bạn hết sức thân thiết đối với ông. Những thương tích sau mỗi cuộc chiến đấu ác liệt còn in đậm trên cơ thể ông như những chứng tích oai hùng vừa đau thương lại vừa rất đáng tự hào. Ông lái đò là người rất am hiểu về dòng sông. Ông hiểu sông Đà như hiểu chính bản thân mình. Ông nắm chắc từng nguồn mạch, từng ngọn thác, từng khe đá,.. Ông nắm vững quy luật của dòng sông và luôn có phương án tốt nhất trong mỗi cuộc chiến với dòng sông này. Mỗi cuộc vượt thác đối với ông là một chuyến đi tràn đầy cảm hứng. Sự nguy hiểm đầy chết chóc của dòng sông trở thành niềm đam mê bất tận trong suốt cuộc đời ông. Ông muốn chiến đấu và chiến thắng con quái thú ấy nhiều lần, làm thỏa mãn khát vọng chinh phục. Bởi thế, trên nền sông nước Đà giang hùng vĩ ông lái đò hiên lên với tư thế của một dũng tướng tài năng và phong thái của một nghệ sĩ tài hoa trong cuộc vượt thác. Sau mỗi cuộc vượt thác ngoạn mục, ông lại thơi thả neo thuyền và ung dung đốt lửa trại, bàn tán về cá anh vũ. Qua nhân vật người lái đò trên sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa đậm nét bức chân dung của con người lao động với niềm hiên ngàng, khí phách, oai hùng, kì vĩ, vừa tài hoa vừa hiền lành, dung dị trong cuộc sống nơi miền núi thẳm.
Đề bài: Giới thiệu rừng tràm Gáo Giồng tỉnh Đồng Tháp Bài làm Khu du lịch sinh thái này nằm cách trung tâm huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, khoảng 17km đường bộ và 30 phút đường sông. Nơi đây có 36 ha sân chim với 15 loài chim, cùng hàng trăm loài động thực vật và thủy sản. Gáo Giồng chia thành 4 khu với 70 km kênh phân lô, 20km đê bao khép kín. Hằng năm, khu rừng tràm này thu hoạch 30 tấn cá lóc, cá trê, cá rô, cá sặc rằn, lăng, cá linh, cá trốt, trị giá hàng tỉ đồng. Nơi đây còn là môi trường lí tưởng cho những đàn chim các loại sinh sống. Mùa nước là thời gian hội tụ của chim cồng cộc, le le, vịt trời, trích, bìm bịp. Mùa khô có điệc mốc, diệc lửa, vạc, nhan điển, cò ngà, cò đỏ, cò trâu. Đặc biệt rừng có loài nhan điển rất quý hiếm. Các loài rau đồng vượt nước như bông điên điển, bông súng, rau dừa, rau mát tạo khung cảnh hấp dẫn khách thập phương. Vào mùa khô, nơi dđy có thể tổ chức cắm trại dưới những tán tràm 12 năm tuổi, đi xem các sân chirn hoặc câu cá. Tại khu du lịch Gáo Giồng, du khách sẽ được thưởng thức các món ăn đặc sản truyền thống của vùng Đồng Tháp Mười như cá lóc nước gói với đột sen, lá sao nhái chấm với mắm me, rắn nướng mọi, cá linh nấu canh chua bông điên điển, mắm kho chấm với rau dừa, rau mát, bông súng và nhấm nháp rượu mật ong tràm tinh khiết. Những năm qua, đã có nhiều đoàn khách trong nước, nước ngoài đến Gáo Giồng tham quan, tận hưởng không khí trong lành, yên tĩnh và thư giãn trên chiếc xuồng ba lá êm nhẹ lướt trên những con kênh dưới tán rừng tràm mát rượi.
Topic: Introducing Gao Giong cajuput forest in Dong Thap province Assignment This eco-tourism area is located about 17km from the center of Cao Lanh district, Dong Thap province, about 17km by road and 30 minutes by river. This place has 36 hectares of bird sanctuary with 15 species of birds, along with hundreds of species of flora, fauna and aquatic animals. Gao Giong is divided into 4 zones with 70 km of divided canals and 20 km of closed dikes. Every year, this Melaleuca forest harvests 30 tons of snakehead fish, catfish, perch, snakehead fish, polyscias fruticosa, and carp, worth billions of dong. This place is also an ideal environment for flocks of birds of all kinds to live. The water season is the gathering time of gongs, teal, mallards, grebes, and water-birds. In the dry season, there are moldy herons, fire herons, cauldrons, white storks, ivory storks, red storks, and buffalo storks. In particular, the forest has a very rare species of euphorbia. Water-crossing field vegetables such as sesbania, water lily, coconut vegetables, and cool vegetables create an attractive scene for visitors from all over. In the dry season, you can camp under 12-year-old cajuput trees, go to the chirn fields or go fishing. At Gao Giong tourist area, visitors will enjoy traditional specialties of the Dong Thap Muoi region such as snakehead fish wrapped in lotus sauce, starfish leaves dipped in tamarind sauce, grilled snake, and fish cooked in soup. sour sesbania flowers, braised fish sauce dipped in coconut vegetables, cool herbs, water lilies and sipping pure cajuput honey wine. In recent years, many domestic and foreign groups have come to Gao Giong to visit, enjoy the fresh, quiet air and relax on a smooth dinghy gliding on the canals under the cool canopy of the Melaleuca forest. .
Đề bài: Em đã từng được chơi trò chơi nhảy dây cùng các bạn. Hãy viết bài văn giới thiệu trò chơi dân gian Nhảy dây cho mọi người cùng hiểu. Bài làm Nhảy dây là trò chơi dân gian có từ lâu đời, được các bạn gái ở độ tuổi thiếu niên nhi đồng yêu thích. Tranh thủ lúc rỗi rãi ở nhà hoặc giờ ra chơi ở trường, dăm ba bạn, một sợi dây thừng hoặc dây thun và khoảng đất đủ rộng là trò chơi có thể bắt đầu. Có nhiều cách nhảy dây nhưng thông thường là nhảy dây một người và nhảy dây nhiều người. Cách nhảy thứ nhất khá đơn giản. Người chơi quấn hai đầu dây vào hai bàn tay để giữ cho chắc. Đặt chân vào giữa sợi dây rồi kéo lên cao cho vừa tầm. Dây dài quá hoặc ngắn quá đều khó nhảy. Lúc bắt đầu nhảy, hai tay quay dây đều đều về phía trước, chân nhấc lên nhịp nhàng mỗi khi dây chạm đất, vừa nhảy vừa đếm. Nếu để dây vướng vào chân là mắc lỗi, phải ngừng. Người nhảy giỏi có thể nhảy được rất lâu. Nhảy dây nhiều người thì hai người quay dây đứng cách nhau vài mét, mỗi người nắm một đầu dây, quay cho các bạn khác nhảy. Sau tiếng hô: “Hai, ba, nào!” thì từng người lần lượt nhảy vào. Có khi hai người cùng nhảy vào một lúc. Cái khổ của kiểu này là mọi người phải phối hợp bước nhảy thật đều, thật ăn ý, không thì rất dễ bị lỗi nhịp. Nếu để dây vướng chân thì những người nhảy sỗ ra quay dây thay thế.
Topic: I once played a jumping rope game with my friends. Write an essay introducing the folk game Jump Rope for everyone to understand. Assignment Jumping rope is a long-standing folk game, loved by teenage girls and children. Take advantage of free time at home or recess at school, with a few friends, a rope or elastic band and a large enough space and the game can start. There are many ways to jump rope, but usually one person jumps rope and many people jump rope. The first jump is quite simple. The player wraps the two ends of the rope around his hands to keep it secure. Place your foot in the middle of the rope and pull it up as high as you can. Rope that is too long or too short makes it difficult to jump. When starting to jump, both hands rotate the rope evenly forward, legs lift rhythmically every time the rope touches the ground, jump and count. If the rope gets tangled in your foot, it's a mistake and you have to stop. Good dancers can dance for a long time. When jumping rope with many people, two people turn the rope standing a few meters apart, each person holds one end of the rope, and spins for the others to jump. After the shout: "Two, three, come on!" Then each person jumped in one by one. Sometimes two people jump in at the same time. The difficulty with this style is that everyone has to coordinate their dance steps evenly and harmoniously, otherwise it's easy to get out of rhythm. If the rope gets entangled, the jumpers jump out and turn the rope instead.
Đề bài: Giới thiệu tập tục đi Tết trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc Bài làm Đi Tết hay lễ Tết, mà ngày nay được gọi nôm na là biếu Tết, vốn dĩ là một trong những phong tục tập quán đã được hình thành ngay từ thuở xa xưa trong nếp sống văn hóa của người Việt Nam. Đây quả là một tập tục mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp, nhằm gìn giữ, tôn tạo những môi quan hệ tương giao thâm tình của mỗi cá nhân đổi với gia đình và xã hội, có tính truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ trước đến nay. Như chúng ta đã biết, đối với người Việt Nam, Tết Nguyên Đán bao giờ cũng rất được xem trọng. Đó là dịp mỗi gia đình đoàn viên, họp mặt sum vầy đón mừng xuân mới và cũng là dịp mỗi gia đình trong cộng đồng xã hội có điều kiện thực hiện chuyện hiếu nghĩa, thăm viếng chúc tụng xã giao, bày tỏ sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau… sau một năm dài tất bật với công việc làm ăn, sinh sống. Vì vậy, chuyện biếu quà vào dịp Tết đã được người xưa tôn lên thành một thứ lễ nghi không thể thiếu trong đời sống của xã hội, được gọi một cách trân trọng là đi Tết (hoặc lễ Tết). Có thể nói, đây là một kiểu nghi lễ đầy tính “khuôn vàng thước ngọc” mà đạo làm con cần phải tuân thủ để bày tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên và ông bà, cha mẹ, đồng thời cũng là phép tắc để thể hiện nghĩa làm trò đối với các bậc ân sư, vì thế mà trong dân gian đã từng có câu: Mồng một Tết mẹ, Tết cha. Mồng hai Tết vợ, mồng ba Tết thầy. Ngẫm lại, chẳng phải ngẫu nhiên mà có cái tôn ti trật tự ấy. Bởi lẽ, đó chính là một qui tắc mang đậm tính nhân văn trong đời sống xã hội, nhắn nhủ con người nên hành xử cho phải đạo đối với người có công ơn sinh thành và dưỡng dục, thể hiện rõ một nếp sống “giàu tình cảm, nặng nghĩa nhân” của người dân nước Việt. Thuở xưa, chuyện đi Tết chỉ được thực hiện vào những ngày đầu tiên của nâm mới, đúng theo nghĩa đi viếng thăm trong dịp Tết và kèm theo quà biếu làm lễ đầu năm. Ban đầu, tập tục đi Tết chỉ hạn chế trong phạm vi phép tắc dành riêng cho một số đối tượng như: con, cháu đã lập gia đình riêng đưa nhau trở về thăm viếng, chúc Tết gia đình và họ hàng thân bằng quyến thuộc của đôi bên, có mang theo lễ vật để cúng bái tổ tiên, kính biếu cho ông bà, cha mẹ, cô bác, cậu dì, học trò đến viếng thăm và kính biếu quà Tết cho thầy nhằm bày tỏ lòng tri ân, hai bên sui gia qua lại tặng biếu cho nhau để kết chặt tình thân. Dẩn dà về sau, chuvện đi Tết trở về nên phổ biến, mở rộng ra với các đối tượng như anh chị em, bạn bè biếu tặng quà Tết cho nhau, những người làm ăn có mối quan hệ làm ăn giao hảo với nhau, hàng xóm cho biếu lẫn nhau… Đặc biệt, đã gọi là “lễ” nên bao giờ người ta cũng xem trọng vấn đề “của cho không bằng cách cho”. Thường thì quà -biếu luôn biểu thị cho tấm thân tình của người trao tặng, do vậy giá trị tinh thần bao giờ cũng được chú ý và đánh giá rất cao. Cho nên, dẫu quà biếu có đắt tiền bao nhiêu đi chăng nữa song nếu sơ ý “thất lễ”, thiếu sự trân trọng cách biếu tặng thì cùng kể như là… công cốc! Ngày nay, tập tục đi Tết vẫn còn được lưu truyền và ngày càng trở nên phố biến, mang tính đại trà tại nước ta với tên gọi biếu Tết. Đặc biệt, nếu như trước kia chuyện biếu quà thường chỉ được thực hiện trong Tết (những ngày đầu năm mới) thì ngày nay người ta lại có thói quen tặng quà trước Tết, rầm rộ nhất là đến ngày ba mươi Tết. Mặt khác, chuyện biếu Tết cũng không còn hạn hẹp trong phạm vi khuôn khổ của gia đình và những mối quan hệ thâm giao nữa, mà còn được lan rộng với nhiều hình thức khác nhau như các doanh nghiệp, công ty, xí nghiệp… tổ chức tặng quà Tết cho cán bộ, công nhân viên chức của mình và các đơn vị đối tác, các tể chức xã hội, đoàn thể quan tâm chăm sóc, biếu quà Tết cho các đối tượng ưu tiên trong xã hội và cho cả những gia đình khó khăn neo đơn trẻ em mái ấm. Có thể nói, với tinh thần tương quan lễ nghĩa trong niềm tôn trọng và thân ái thì chuyện biếu Tết luôn là một tập tục tốt đẹp rất cần được gìn gìn và phát huy trong nếp sống “trọng đạo” của người dân Việt Nam. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, hiện vẫn có không ít người lạm dụng tập tục này để thực hiện những ý đồ mờ ám sai trái như mượn hình thức biếu quà để “hợp thức hóa” chuyện đưa và nhận hôi lộ, biếu quà có giá trị lớn nhằm nịnh bợ, đút lót mưu đồ vụ lợi cá nhân, sử dụng công quĩ để “bôi trơn” các quan hệ “ngầm”, hoặc có những trường hợp lại xem dịp Tết như một cơ hội để nhũng nhiễu, yêu sách người khác “cúng” tiền hay quà biếu… Các hình thức biếu quà “trên mức tình cảm” này quả là những thói tệ, lệ xấu cần được phê phán, lên án và loại trừ trong xã hội. Bởi lẽ, nó sẽ như một mảng màu đen tối phủ nhòa lên bức tranh đạo lí xán lạn của đất nước và con người Việt Nam. Đi Tết ngày xưa chính là một hành vi chuyển tải và tôn vinh chữ đạo, thể hiện nhân cách sống tốt đẹp của con người, do vậy chớ nên để chuyện biếu Tết ngày nay bị biến chất, trở thành hành vi tiếp tay cho những mưu đồ kém đạo đức.
Topic: Introducing the traditional Tet customs of the nation Assignment Going to Tet or celebrating Tet, which today is simply called Tet giving, is inherently one of the customs and traditions that has been formed since ancient times in the cultural lifestyle of Vietnamese people. This is truly a custom with noble humanistic meaning, aiming to preserve and enhance the intimate relationships of each individual with family and society, and is a proud tradition of the nation. us from time immemorial. As we know, for Vietnamese people, Lunar New Year is always very important. It is an opportunity for every family to reunite and gather to celebrate the new spring and is also an opportunity for every family in the social community to perform filial piety, pay social visits, and express concern. , taking care of each other... after a long year of being busy with business and living. Therefore, giving gifts on Tet holiday has been honored by the ancients as an indispensable ritual in the life of society, respectfully called going to Tet (or Tet holiday). It can be said that this is a type of ritual full of "golden rules" that filial piety needs to follow to express filial piety to ancestors, grandparents, and parents, and is also a rule to demonstrate filial piety. showing the meaning of being an entertainer for the teachers, that's why in folklore there was a saying: The first day of Mother's Day and Father's Day. The second day is the wife's day, the third day is the teacher's day. Thinking back, it is no coincidence that there is such a hierarchy. Because, it is a rule imbued with humanity in social life, reminding people to behave ethically towards those who have the merit of giving birth and raising them, clearly demonstrating a "rich" lifestyle. sentiment, heavy humanity" of the Vietnamese people. In the past, going to Tet was only done on the first days of the new year, in the sense of visiting during Tet and accompanying gifts to celebrate the beginning of the year. Initially, the custom of going to Tet was only limited within the scope of rules reserved for certain subjects such as: children and grandchildren who had married and brought each other back to visit and wish New Year to their families and relatives. of both parties, bring offerings to worship ancestors, respectfully give to grandparents, parents, aunts, uncles, and students who come to visit and respectfully give Tet gifts to teachers to express gratitude. In-laws exchange gifts with each other to strengthen the relationship. Gradually, returning from Tet holiday became popular, expanding to include subjects such as siblings, friends giving Tet gifts to each other, business people who have good business relationships with each other, Neighbors give gifts to each other... In particular, it is called a "ceremony", so people always take seriously the issue of "free giving by giving". Usually, gifts always represent the affection of the giver, so the spiritual value is always noticed and highly appreciated. Therefore, no matter how expensive the gift is, if it is carelessly "disrespectful" and lacks respect for the way it is given, then it can be considered... in vain! Today, the custom of going to Tet is still passed down and is becoming more and more popular and popular in our country called Tet gifts. In particular, if in the past gift giving was usually only done during Tet (the first days of the new year), today people have the habit of giving gifts before Tet, most loudly until the 30th day of Tet. On the other hand, giving Tet gifts is no longer limited to the scope of family and close relationships, but is also spread to many different forms such as businesses, companies, factories... Organize Tet gifts for officials, employees and partner units, social organizations and unions that care and take care of, and give Tet gifts to priority subjects in society and to the whole community. Difficult families with lonely children in shelters. It can be said that with the spirit of respectful relationships and cordiality, giving Tet gifts is always a good custom that needs to be preserved and promoted in the "respectful" lifestyle of the Vietnamese people. However, it should be noted that there are still many people who abuse this practice to carry out shady and wrong intentions such as borrowing the form of gift giving to "legalize" the giving and receiving of bribes and giving gifts. of great value to flatter, bribe, scheme for personal gain, use public funds to "lubricate" "hidden" relationships, or in some cases see Tet as an opportunity to harass, Asking others to "offer" money or gifts... These forms of "emotional" gift giving are truly bad habits and customs that need to be criticized, condemned and eliminated in society. Because, it will be like a dark shade covering the bright moral picture of the country and people of Vietnam. Going to Tet in the past was an act of conveying and honoring morality, demonstrating a person's good living personality, so we should not let Tet giving today be corrupted and become an act of abetting those who unethical scheme.
Giới thiệu và kể về hoạt động của tổ em trong tháng 11 vừa qua với một đoàn khách đến thăm Gợi ý Kính thưa các thầy giáo, cô giáo! Kính thưa các cô, các bác trong đoàn đại biểu! Thưa các bạn học sinh lớp 3A thân mến! Em xin được thay mặt tổ 2 giới thiệu về một số hoạt động của tổ em trong tháng qua, tháng 11 năm 2009. Em xin tự giới thiệu, em là Nguyễn Hà Linh, tổ trưởng. Tổ em có tất cả 11 bạn (1 bạn mới chuyển từ tổ 3 sang). Hầu hết các bạn trong tổ đều hăng hái hoạt động, tham gia đầy đủ, nhiệt tình mọi phong trào thi đua giành nhiều bông hoa điểm 10 để chào mừng ngày Hiến chương các nhà giáo Việt Nam. Kết quả cụ thể của tổ em như sau: – Về học tập: + Ưu điểm: 8 bạn đạt bông hoa điểm 10, hầu hết các bạn thực hiện tốt nội quy của trường lớp. + Nhược điểm: Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng còn một số tồn tại như: 2 bạn đi học muộn hôm trời mưa to, 1 bạn chưa học bài cũ ở nhà. – Về lao động: Hoàn thành kế hoạch do lớp phân công là tưới cây quanh sân trường. – Về các hoạt động khác: có tham dự để cổ vũ cho cuộc thi kéo co của các anh chị khối 4, 5. Tham gia tiết mục hát tập thể nhưng chưa đạt được giải thưởng. Thay mặt nhóm và lớp, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, các cô, các bác trong đoàn đại biểu đã đến thăm và động viên, lớp chúng em. Xin kính chúc các thầy cô giáo và các cô, các bác cùng toàn thể các bạn mạnh, khỏe, hạnh phúc. Hẹn gặp lại!
Introduce and tell about your group's activities last November with a group of visiting guests Suggest Dear teachers, teacher! Dear ladies and gentlemen in the delegation! Dear students of class 3A! On behalf of group 2, I would like to introduce some of the activities of my group in the past month, November 2009. I would like to introduce myself, I am Nguyen Ha Linh, team leader. My group has a total of 11 people (1 friend just transferred from group 3). Most of the group members were enthusiastic about activities, fully and enthusiastically participating in all emulation movements to win many 10-point flowers to celebrate the Charter Day of Vietnamese Teachers. The specific results of my group are as follows: - About learning: + Advantages: 8 students scored 10 points, most of them followed the school's rules well. + Disadvantages: Although there have been many efforts, there are still some problems such as: 2 students went to school late on a heavy rain day, 1 student has not studied the old lesson at home. – Regarding labor: Complete the plan assigned by the class to water the plants around the school yard. – Regarding other activities: participated to cheer for the tug-of-war competition of students in grades 4 and 5. Participated in a group singing performance but did not win a prize. On behalf of the group and class, I would like to sincerely thank the teachers, aunts, and uncles in the delegation for visiting and encouraging our class. We respectfully wish the teachers, aunts, uncles, and all of you to be strong, healthy, and happy. See you again!
Giới thiệu và kể về hoạt động của tổ em trong tháng 3 vừa qua với một đoàn khách đến thăm Gợi ý Kính thưa các thầy giáo, cô giáo! Kính thưa các cô, các bác trong đoàn đại biểu! Thưa toàn thể các bạn học sinh thân mến! Lời đầu tiên cho em được gửi tới các thầy cô giáo, các cô, các bác, cùng toàn thể các bạn lời chúc sức khoẻ và hạnh phúc. Em xin phép được thay mặt tổ 1 giới thiệu về các hoạt động của tổ em trong tháng qua. Em xin tự giới thiệu, em là Nguyễn Trịnh Hà Trang, tổ trưởng. Tổ em gồm 12 bạn, được chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm gồm 4 thành viên. Nhóm 1 do bạn Nguyễn Tuấn Thành là nhóm trưởng. Nhóm 2 do bạn Nguyễn Xuân Nhi làm nhóm trưởng. Nhóm 3 do bạn Nguyễn Hoàng Giang làm nhóm trưởng. Trong tháng 3 vừa qua cả ba nhóm chúng em đã rất tích cực tham gia các hoạt động để chào mừng ngày thành lập Đoàn. Thành tích cụ thể như sau: – Về bọc tập: Cả tổ không có học sinh vi phạm các nội quy như không đi học muộn, không bỏ giờ, trôn tiết, không học bài. – Về lao động: Dưới sự phân công của Liên đội nhà trường, của lớp, tổ em đã tham gia một buổi lao động vệ sinh hè phố. Tổ còn tình nguyện tham gia cuộc phát động “Hãy bảo vệ môi trường”. Trên đây là kết quả rèn luyện của tổ em. Tổ em rất vui vì được các thầy cô cùng các cô bác đến thăm lớp, thăm tổ. Em xin thay mặt các bạn trong tổ, thay mặt lớp chân thành cảm ơn sự quan tâm của các thầy cô và toàn thể các cô, các bác. Một lần nữa em xin chúc các thầy cô và các cô, các bác cùng toàn thể các bạn mạnh khỏe.
Introduce and tell about your group's activities last March with a group of visiting guests Suggest Dear teachers, teacher! Dear ladies and gentlemen in the delegation! Dear all of you, dear students! My first words are to my teachers, aunts, uncles, and all of you, wishing you good health and happiness. I would like to ask permission on behalf of group 1 to introduce my group's activities over the past month. I would like to introduce myself, I am Nguyen Trinh Ha Trang, team leader. My team consists of 12 people, divided into 3 groups, each group has 4 members. Group 1 is led by Nguyen Tuan Thanh. Group 2 is led by friend Nguyen Xuan Nhi. Group 3 is led by friend Nguyen Hoang Giang. In March, all three of our groups actively participated in activities to celebrate the Union's founding day. Specific achievements are as follows: – Regarding practice: There are no students in the group who violate the rules such as not being late to school, not skipping class, skipping class, or not studying. – Regarding labor: Under the assignment of the School Union and the class, my group participated in a street cleaning labor session. The group also volunteered to participate in the "Protect the environment" campaign. Above are the results of my team's training. My team is very happy to have the teachers and aunts visit the class and the team. On behalf of my team and class, I would like to sincerely thank the teachers and all the teachers for their concern. Once again, I wish all the teachers, uncles, and friends good health.
Giới thiệu và phân tích những nét chính về đoạn trích Đi bộ ngao du của Ru-xô. Hướng dẫn Ru-xô là nhà văn, nhà triết học vĩ đại của nước Pháp trong Thế kỉ Ánh sáng. Ông là con của một người thợ đồng hồ khéo tay,Ru-xô mới được đi học, và chỉ được học hai năm. Sau đó ông học nghề phiêu bạt suốt 13 năm để kiếm sống. Cuộc đời Ru-xô “nhiều cay đắng mà vinh quang”. Bài học lớn nhất của ông là bài học về tự học và kiên cường vượt qua mọi thử thách, quyết tâm theo đuổi chí hướng của mình. “Đi bộ ngược” là đoạn trích trong tác phẩm “Ê-min hay về giáo dục” của ông. Đầy là văn nghị luận chứng minh có phương pháp trình bày diễn tả rất sinh động mang đâm sắc thái cá nhân của ông. Đoạn trích gồm ba đoạn, thể hiện luận điểm chungcủa tác giả: – Đi bộ ngao du rất thoải mái, vì chủ động và hoạt động theo yêu cầu tự do cá nhân. – Đi bộ ngao du rất có ích, vì được quan sát, học tập nhiều kiến thức trong thế giới tự nhiên. – Đi bộ ngao du vô cùng thú vị, vì không bị ràng buộc bởi phương tiện di chuyển và thời gian. Để giải thích, chứng minh cho các luận điểm trên, tác giả khẳng định: “đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa”, “đi bộ ngao du rất thoải mái và chủ động’’, có thể đến các nơi tuỳ ý thích của mình. “Đi bộ ngao du” có thể đến các cảnh đẹp, cảnh lạ như dòng sông, khu rừng hoặc một mô đá, một hang động nào đó. Tiếp đến tác giả còn viện dẫn chứng minh qua các nhà khoa học, hiền triết thuở trước như Ta-lét, Pla-tông hay Pi-ta-go đã suy nghĩ, nghiền ngẫm trong lúc “Đi bộ ngao du”. Các nhân vật này đi ngao du để xem xét tài nguyên, đặc sản và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy. Họ xem xét một khoảnh đất, ghè một mẫu đá hay sưutập những gì họ muốn. Ru-xô đã so sánh một cách hóm hỉnh để làm bật ra lí lẽ, luận chứng phòng sưutập của những “triết gia phòng khách” thì có đủ các thứ linh tinh. Trái lại ở phòng sưutập của Ê-min thì rất phong phú, như có cả trời đất. Ởđây có thểso sánh với công trình của Đô-băng-tông, nhà tự nhiên học lừng danh của nước Pháp. Điểm cuối cùng tác giả nói đến sức khỏe “được tăng cường” khi đi bộ ngao du. Nó khác hẳn với kẻ xa hoa sống trong tiện nghi sang trọng. Họ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm, nhưng tính khí thì cáu kỉnh, tâm hồn thì “mơ màng buồn bã”. Trong khi đóÊ-min thì đi bộ nhưng lạc quan yêu đời: “luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả”. Ê-min ăn ngon miệng dù chỉ là “bữa com đạm bạc”, ngủ ngon giấc hơn dù trên cái giường tồi tàn. Cuối cùng đi bộ ngao du là làm cho con người trở nên giản dị hơn, biết sống – yêu và yêu đời hơn. Cách trình bày luận điểm và luận cứ mạch lạc, khúc chiết, sáng tỏ và sâu sắc. Đọc bài “Đi bộ ngao du” ta thấy sáng tỏ một chân lí là trong tự nhiên có cuộc sống muôn màu muôn vẻ. “Đi bộ ngao du’’ là rất bổ ích cho trí tuệ và tình cảm.
Introduce and analyze the main features of the excerpt "Walking and Traveling" by Roux. Instruct Russo was a great French writer and philosopher in the Enlightenment Century. He was the son of a skilled watchmaker. Ruso had just gone to school, and only studied for two years. After that, he learned the craft of wandering for 13 years to make a living. Ruso's life was "full of bitterness but glory". His biggest lesson is the lesson of self-study and resilience to overcome all challenges, determined to pursue his ambition. “Walking backwards” is an excerpt from his work “Emin good about education”. It is full of essays that demonstrate his way of presenting and expressing his personal nuances very vividly. The excerpt consists of three paragraphs, expressing the author's general argument: – Walking is very comfortable, because it is proactive and operates according to personal freedom requirements. – Walking is very useful, because you can observe and learn a lot of knowledge in the natural world. – Walking is extremely interesting, because you are not bound by transportation or time. To explain and prove the above points, the author affirms: "traveling on foot is more interesting than riding a horse", "traveling on foot is very comfortable and proactive", you can go to places as you like. my likes. "Walking around" can lead to beautiful and strange scenes such as a river, a forest, a rock or a cave. Next, the author also cited evidence through ancient scientists and sages such as Thales, Plato or Pythagoras who thought and pondered while "Walking and wandering". These characters travel to examine resources, specialties and how to cultivate those specialties. They examine a plot of land, dig out a rock sample, or collect what they want. Ruso made a humorous comparison to highlight the argument, arguing that the collection rooms of "living room philosophers" are full of all sorts of miscellaneous things. On the contrary, in Emin's collection room, it is very rich, as if there is heaven and earth. Here we can compare with the work of Do-bang-ton, the famous French naturalist. The last point the author mentioned is that health is "enhanced" when walking and traveling. It is completely different from those who live in luxury and luxury. They sit in good carriages that run very smoothly, but their temperament is irritable and their souls are "dreamy and sad". Meanwhile, Emin walks but is optimistic and loves life: "always happy, cheerful and satisfied with everything." Emin eats well even if it's just a "frugal meal" and sleeps better even on a shabby bed. In the end, walking and traveling makes people become simpler, know how to live - love and love life more. How to present arguments and arguments coherently, concisely, clearly and deeply. Reading the article "Walking around", we see the truth that in nature there is a colorful life. “Walking around” is very beneficial for the mind and emotions.
Giới thiệu và phân tích nét chính đoạn Đi bộ ngao du – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Ru-xô là nhà văn, nhà triết học vĩ đại của nước Pháp trong Thế kỉ Ánh sáng (thế kỉ thứ XVIII). Ông là con của một người thợ đồng hồ khéo tay, nhưng mãi đến năm lên 10 tuổi, Ru-xô mới được đi học, và chỉ được học hai năm. Sau đó ông học nghề và phiêu bạt suốt 13 năm để kiếm sống. Cuộc đời Ru-xô “nhiều cay đắng mà vinh quang”. Bài học lớn nhất của ông là bài học về tự học và kiên cường vượt qua mọi thử thách, quyết tâm theo đuổi chí hướng của mình. “Đi bộ ngao du” là đoạn trích trong tác phẩm “Ê-min hay về giáo dục” của ông. Đây là văn nghị luận chứng minh có phương pháp trình bày diễn tả rất sinh động mang đậm sắc thái cá nhân của ông. Đoạn trích gồm ba đoạn, thể hiện luận điểm chính của tác giả: -Đi bộ ngao du rất thoải mái, vì chủ động và hoạt động theo yêu cầu tự do cá nhân. – Đi bộ ngao du rất có ích, vì được quan sát, học tập nhiều kiến thức trong thế giới tự nhiên. – Đi bộ ngao du vô cùng thú vị, vì không bị ràng buộc bởi phương tiện di chuyển và thời gian. Để giải thích, chứng minh cho các luận điểm trên, tác giả khẳng định: “đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa”, “đi bộ ngao du rất thoải mái và chủ động”, có thể đến các nơi tuỳ ý thích của mình. “Đi bộ ngao du” có thể đến các cảnh đẹp, cảnh lạ như dòng sông, khu rừng hoặc một mô đá, một hang động nào đó. Tiếp đến tác giả còn viện dẫn chứng minh qua các nhà khoa học, hiền triết thuở trước như Ta-lét, Pla-tông hay Pi-ta-go đã suy nghĩ, nghiền ngẫm trong lúc “Đi bộ ngao du”. Các nhân vật này đi ngao du để xem xét tài nguyên, đặc sản và cách thức trồng trọt những đặc sản ấy. Họ xem xét một khoảnh đất, ghè một mẫu đá hay sưu tập những gì họ muốn. Ru-xô đã so sánh một cách hóm hỉnh để làm bật ra lí lẽ, luận chứng phòng SƯU tập của những “triết gia phòng khách” thì có đủ các thứ linh tinh. Trái lại ở phòng sưu tập của Ê-min thì rất phong phú, như có cả trời đất. Ở đây có thể so sánh với công trình của Đô-băng-tông, nhà tự nhiên học lừng danh của nước Pháp. Điểm cuối cùng tác giả nói đến sức khỏe “được tăng cường” khi đi bộ ngao du. Nó khác hẳn với kẻ xa hoa sống trong tiện nghi sang trọng. Họ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm, nhưng tính khí thì cáu kỉnh, tâm hồn thì “mơ màng buồn bã”. Trong khi đó Ê-min thì đi bộ nhưng lạc quan yêu đời: “luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả”. Ê-min ăn ngon miệng dù chỉ là “bữa cơm đạm bạc”, ngủ ngon giấc hơn dù trên cái giường tồi tàn. Cuối cùng đi bộ ngao du là làm cho con người trở nên giản dị hơn, biết sống – yêu và yêu đời hơn. Cách trình bày luận điểm và luận cứ mạch lạc, khúc chiết, sáng tỏ và sâu sắc. Đọc bài “Đi bộ ngao du” ta thấy sáng tỏ một chân lí là trong tự nhiên có cuộc sống muôn màu muôn vẻ. “Đi bộ ngao du” là rất bổ ích cho trí tuệ và tình cảm. Tags:Văn 8
Introduce and analyze the main features of the passage "Walking and traveling" - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment Russo was a great French writer and philosopher in the Enlightenment Century (18th century). He was the son of a skilled watchmaker, but it was not until he was 10 years old that Ruso went to school, and only for two years. After that, he learned a trade and wandered for 13 years to make a living. Ruso's life was "full of bitterness but glory". His biggest lesson is the lesson of self-study and resilience to overcome all challenges, determined to pursue his ambition. “Walking and wandering” is an excerpt from his work “E-min good about education”. This is an essay that demonstrates his very vivid method of presentation imbued with personal nuances. The excerpt consists of three paragraphs, expressing the author's main argument: -Walking is very comfortable, because it is proactive and operates according to personal freedom requirements. – Walking is very useful, because you can observe and learn a lot of knowledge in the natural world. – Walking is extremely interesting, because you are not bound by transportation or time. To explain and prove the above points, the author affirms: "traveling on foot is more interesting than riding a horse", "traveling on foot is very comfortable and proactive", you can go to places as you like. mine. "Walking around" can lead to beautiful and strange scenes such as a river, a forest, a rock or a cave. Next, the author also cited evidence through ancient scientists and sages such as Thales, Plato or Pythagoras who thought and pondered while "Walking and wandering". These characters travel to examine resources, specialties and how to cultivate those specialties. They examine a plot of land, plant a rock sample, or collect whatever they want. Ruso made a humorous comparison to highlight the argument, arguing that the COLLECTION rooms of "living room philosophers" are full of all sorts of miscellaneous things. On the contrary, in Emin's collection room, it is very rich, as if there is heaven and earth. Here we can compare with the work of Don Bangton, the famous French naturalist. The last point the author mentioned is that health is "enhanced" when walking and traveling. It is completely different from those who live in luxury and luxury. They sit in good carriages that run very smoothly, but their temperament is irritable and their souls are "dreamy and sad". Meanwhile, Emin walks but is optimistic and loves life: "always happy, cheerful and satisfied with everything." Emin eats well even if it's just a "meager meal" and sleeps better even on a shabby bed. In the end, walking and traveling makes people become simpler, know how to live - love and love life more. How to present arguments and arguments coherently, concisely, clearly and deeply. Reading the article "Walking around", we see the truth that in nature there is a colorful life. “Walking around” is very beneficial for the mind and emotions. Tags: Literature 8
Đề bài: Giới thiệu và tả quyển sách tiếng việt lớp 2 của em Bài làm Cuối năm học lớp Một, trong lễ tổng kết và phát phần thưởng, em được nhận mười quyển vở ô-li, bộ sách giáo khoa lớp Hai. Sướng quá! Chúng em cùng reo rn Sách mới, vờ mới, bút mực mới…, hỏi có niềm vui nào bằng. Về đến nhà, em khoe với bà, với mẹ về tờ giấy khen, về gói quà cô giáo tặng. Mở cuốn sách Tiếng Việt 2, tập một, em đọc cho bà nghe bài “Có công mài sắt, có ngày nên kim ". Bà khen: "Cháu học giỏi và ngoan lắm!” Giới thiệu và tả quyển sách tiếng việt lớp 2 của em Sách Tiếng Việt 2, tập một dày 160 trang cỡ lớn. Bìa màu vàng cam, láng bóng. Có cành phượng xanh vắt ngang. Có hình ảnh sáu cô cậu học trò, ba nam, ba nữ, nét mặt tươi cười hớn hở, vai khoác cặp sách đi tới trường. Ba cô bé cài nơ trên mái tóc, hai chú bé đội mũ vải trắng vểnh lên. Tất cả đều đi giày, cùng sóng bước. Ngắm nghía mãi, em phải thốt lên: “Đẹp quá!” Khi xem bài Cân voi, bài Thêm sừng cho ngựa, em phải bật cười. Các tranh vẽ minh họa đều rất đẹp. Tranh vẽ các con thú, vẽ con gà trống, con mèo lười trông thật ngộ nghĩnh. Xem mãi, đọc mãi không chán. Bố nhắc anh Quang bọc sách lại cho em. Em vui mừng quá! Đêm ngủ nằm mơ, em thấy Thỏ chạy thi với Rùa.
Topic: Introduce and describe my 2nd grade Vietnamese book Assignment At the end of the first grade year, during the closing ceremony and award distribution, I received ten olive notebooks and a set of second grade textbooks. So happy! We exclaimed together about new books, new clothes, new pens..., asking what joy there is. When I got home, I showed off to my grandmother and mother about the certificate of merit and the gift package the teacher gave me. Opening the book Vietnamese 2, volume one, I read to her the article "If you work hard, you will make money one day". She praised: "You study well and are very obedient!" Introduce and describe my 2nd grade Vietnamese book Vietnamese book 2, volume one has 160 large pages. The cover is orange-yellow, glossy. There is a green phoenix branch across. There is an image of six students, three boys, three girls, smiling and cheerful faces, carrying their school bags on their shoulders and walking to school. The three little girls wore bows in their hair, and the two little boys wore white cloth hats that turned up. Everyone wears shoes and walks together. Looking at it forever, I had to say: "So beautiful!" When I saw the article Weighing the Elephant and Adding Horns to the Horse, I had to laugh. The illustrations are all very beautiful. Paintings of animals, roosters, and lazy cats look really funny. Watch forever, read forever without getting bored. Dad reminded Quang to wrap the book for me. I'm so happy! At night, I dreamed that I saw a Rabbit running a race with a Turtle.
Giới thiệu vài nét về bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư Hướng dẫn Năm 1285, Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh; kinh thành Thăng Long thất thủ. Vị Tiết chế thống lĩnh đã tổ chức một cuộc rút lui chiến lược tài tình, để bảo toàn binh lực, chờ thời cơ phản công. Xuân – hè năm Ất Dậu, quân ta phản công như vũ bão. Trận Hàm Tử quan do tướng Trần Nhật Duật chỉ huy, quân ta thắng lớn, tướng Mông cổ là Toa Đô bị chém cụt đầu. Đầu tháng 6, tại Chương Dương độ, Trần Quang Khải đại thắng. Hàng vạn giặc bị tiêu diệt, bị bắt sống. Quân ta thu được nhiều chiến thuyền, vũ khí, lương thảo của giặc Mông cổ. Thừa thắng, quân ta tiến lên giải phóng thành Thăng Long, rồi quét sạch quân giặc ra khỏi bờ cõi. Trần Quang Khải cùng đoàn quàn thắng trận rước xa giá Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông trở về kinh thành Thăng Long. Trong hoàn cảnh lịch sử hào hùng ấy, Thượng tướng Trần Quang Khải đã viết bài thơ ‘Tụng giá hoàn kinh sư’ bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật; luật trắc, vần bằng, có hai vần: ‘quan – san’-, hai câu 1, 2 đối nhau: ‘Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình tu trí lực, Đây là bản dịch thơ của học giả Trần Trọng Kim: ‘Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu’ Chủ đề: Bài thơ ‘Tụng giá hoàn kinh sư’thể hiện lòng tự hào về niềm vui thắng trận, đồng thời nói lên nghĩa vụ công dân hãy đem tài trí xây dựng đất nước thái bình bền vững muôn đời.
Introducing a few features of the poem Chanting Gia Hoan Kinh Su Instruct In 1285, Thoat Hoan brought 500,000 troops to invade our country. The enemy is very strong; Thang Long citadel fell. The commander Tiet organized an ingenious strategic retreat to preserve his troops and wait for the opportunity to counterattack. In the spring and summer of At Dau year, our army counterattacked like a storm. The battle of Ham Tu Quan was commanded by General Tran Nhat Duat, our army won a great victory, Mongolian general Toa Do was beheaded. In early June, at Chuong Duong Do, Tran Quang Khai won a great victory. Tens of thousands of enemies were destroyed and captured alive. Our army captured many warships, weapons, and food from the Mongol invaders. Taking advantage of the victory, our army advanced to liberate Thang Long citadel, then wiped out the enemy troops from the territory. Tran Quang Khai and the funeral procession won the battle to carry the carriages of Emperor Tran Thanh Tong and King Tran Nhan Tong back to Thang Long capital. In that heroic historical situation, Senior Lieutenant General Tran Quang Khai wrote the poem 'Chanting Gia Hoan Kinh Su' in Chinese characters, following the five-word four-parallel Tang luat style; meter, equal rhyme, two rhymes: 'quan - san'-, two sentences 1, 2 are opposite each other: ‘Winning the flute of Chuong Duong Do, Cam Ho Ham Tu Quan. Peaceful cultivation of wisdom, This is a translation of the poem by scholar Tran Trong Kim: 'Chang Duong stole the enemy's spear, Ham Tu captured the enemy. Peace should strive, That country is thousands of years old' Topic: The poem 'Chanting the Great Master' shows pride in the joy of victory, and at the same time speaks of the duty of citizens to use their ingenuity to build a country of eternal peace.
Giới thiệu văn bản Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp Hướng dẫn “Bàn lụận về phép học” là văn bản trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi cho vua Quang Trung vào tháng 8 năm 1791. Lúc bấy giờ Nguyễn Thiếp đang làm ở Viện Sùng chính, phụ trách việc biên soạn sách và xây dựng Phượng Hoàng Trung đô ở Nghệ An. Bài tấu thể hiện tấm lòng của Nguyễn Thiếp đối với việc chấn hưng nền học thuật nước nhà. Mục đích cao cả của ông là nhằm mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước. Các vấn đề như mục đích, nội dung và phương pháp học tập đã được ông trình bày một cách ngắn gọn nhưng cụ thể. Mở đầu, ông nhắc lại câu cổ ngữ: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. Mục đích của việc học trước tiên là biết để đối xử giữa mọi người với nhau. Nói cách khác học là để mở mang trí tuệ và bồi bổ đạo đức. Đạo mà ông nói đến là đạo làm người. Ông than phiền rằng nền chính học đã bị thất truyền. Có biết bao tệ lậu đáng bị chê trách như đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, coi thường đạo lí, không còn biết đến tam cương ngũ thường. Nhà dột từ nóc, chúa trọng nịnh thần. Những mặt trái đó đã làm Nguyễn Thiếp hết sức đau buồn: “Nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Nguyễn Thiếp đã dùng những lời lẽ hết sức trầm tĩnh, ôn hòa mà sâu sắc. Phần thứ hai tác giả đề cập đến nội dung và phương pháp học tập. Khi trả lời câu hỏi học ở đâu, ông cho rằng học ở trường của phủ, huyện, các trường tư; con cháu các nhà văn võ, thuộc lại đều tuỳ đâu tiện đấy mà học. Còn khi nói về vạn đề học cái gì, ông cho rằng nhất định phải theo Chu Tử, một học giả thời Nam Tông.Lúc đầu học tiểu học để bồi gốc. Tuần tự tiến đến học tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Nội dung học tập mà Nguyễn Thiếp nêu ra không có gì mới so với các thời trước đó. Các nội dung này đã được các triều đại phong kiến Trung Hoa và Việt Nam áp dụng từ hàng nghìn năm trước đó. Cái mới của Nguyễn Thiếp chính là phương pháp học tập. Theo ông, cần học rộng rồi tóm lược cho gọn, học phải đi đôi với hành, theo điều học mà làm. Mong ước của ông rất chân thành: “Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, Nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”. Nguyễn Thiếp đã khẳng định tầm quan trọng của đạo học và ý nghĩa lớn lao của nó: “Đạo học thành thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược trồng người đã được Nguyễn Thiếp trình bày một cách cụ thể và sáng tỏ. Phần cuối của văn bản, Nguyễn Thiếp giãi bày lòng mình với hoàng thượng, phép học là những lời chân thành của ông chứ không phải là những lời vu vơ, ông cung kính cúi mong hoàng thượng soi xét. Tất cả tâm huyết của Nguyễn Thiếp được trình bày một cách cụ thể và thiết thực. Những đóng góp của ông cho nền học thuật nước nhà rất đáng trân trọng, chính vì thế nhân dân luôn kính trọng và nhớ ơnông – La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp. Nguồn:
Introducing the text Discussing Nguyen Thiep's grammar Instruct "Discussion on pedagogy" is a text excerpted from a poem by Nguyen Thiep sent to King Quang Trung in August 1791. At that time, Nguyen Thiep was working at the Sung Institute, in charge of compiling books and building Phuong. Hoang Trung Do in Nghe An. The song shows Nguyen Thiep's heart for revitalizing the country's academic system. His noble goal is to expand people's knowledge and train talented people for the country. Issues such as purpose, content and learning methods were presented by him briefly but specifically. At the beginning, he repeated the old saying: "Jade without polishing cannot become an object; Those who do not study do not know the religion clearly." The purpose of learning is first to know how to treat people with each other. In other words, learning is to expand wisdom and improve morality. The religion he talks about is the religion of being human. He lamented that political science had been lost. There are so many evils that deserve to be criticized, such as competing with each other in formal learning for the sake of fame and fortune, disregarding ethics, and no longer knowing the three diamonds and five permanences. The house leaks from the roof, the lord respects me. Those negative aspects made Nguyen Thiep extremely sad: "The country lost its home because of those bad things." Nguyen Thiep used extremely calm, peaceful and profound words. In the second part, the author mentions the content and learning methods. When answering the question of where to study, he said that he studied at government, district, and private schools; The children and grandchildren of martial artists and martial artists all learn wherever they can. When it comes to what to study, he believes that he must follow Chu Tu, a scholar of the Southern school period. At first, he studied elementary school to build his roots. Gradually proceed to study the four books, the five scriptures, and the history. The learning content that Nguyen Thiep mentioned is nothing new compared to previous times. These contents were applied by the feudal dynasties of China and Vietnam thousands of years ago. The new thing of Nguyen Thiep is the learning method. According to him, it is necessary to study extensively and then summarize it concisely. Learning must go hand in hand with practice, and we must act according to what we learn. His wish was very sincere: "Fortunately, talented people can achieve success, and thanks to that, the State will be stable. That is truly the religion today that is related to people's hearts. Please don't ignore it." Nguyen Thiep affirmed the importance of Taoism and its great meaning: "If Taoism is successful, there will be many good people, if there are many good people, the court will be neat and the world will be prosperous." It is true that learning contributes to training talents, expanding people's knowledge, and contributing to building a prosperous country. The strategy for growing people was presented specifically and clearly by Nguyen Thiep. At the end of the text, Nguyen Thiep confided his heart to the emperor, the teachings were his sincere words, not idle words, he respectfully bowed to the emperor for consideration. All of Nguyen Thiep's enthusiasm is presented in a specific and practical way. His contributions to the country's academic background are very respectable, that's why people always respect and thank him - La Son Phu Tu Nguyen Thiep. Source:
Giới thiệu văn bản Bàn luận về phép học – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm “Bàn luận về phép học” là văn bản trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi cho vua Quang Trung vào tháng 8 năm 1791. Lúc bấy giờ Nguyễn Thiếp đang làm ở Viện Sùng chính, phụ trách việc biên soạn sách và xây dựng Phượng Hoàng Trung đô ở Nghệ An. Bài tấu thể hiện tấm lòng của Nguyễn Thiếp đối với việc chấn hưng nền học thuật nước nhà. Mục đích cao cả của ông là nhằm mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước. Các vấn đề như mục đích, nội dung và phương pháp học tập đã được ông trình bày một cách ngắn gọn nhưng cụ thể. Mở đầu, ông nhắc lại câu cổ ngữ: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. Mục đích của việc học trước tiên là biết để đối xử giữa mọi người với nhau. Nói cách khác học là để mở mang trí tuệ và bồi bổ đạo đức. Đạo mà ông nói đến là đạo làm người. Ông than phiền rằng nền chính học đã bị thất truyền. Có biết bao tệ lậu đáng bị chê trách như đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, coi thường đạo lí, không còn biết đến tam cương ngũ thường. Nhà dột từ nóc, chúa trọng nịnh thần. Những mặt trái đó đã làm Nguyễn Thiếp hết sức đau buồn: “Nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Nguyễn Thiếp đã dùng những lời lẽ hết sức trầm tĩnh, ôn hòa mà sâu sắc. Phần thứ hai tác giả đề cập đến nội dung và phương pháp học tập. Khi trả lời câu hỏi học ở đâu, ông cho rằng học ở trường của phủ, huyện, các trường tư; con cháu các nhà văn võ, thuộc lại đều tuỳ đâu tiện đấy mà học. Còn khi nói về vấn đề học cái gì, ông cho rằng nhất định phải theo Chu Tử, một học giả thời Nam Tông. Lúc đầu học tiểu học để bồi gốc. Tuần tự tiến đến học tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Nội dung học tập mà Nguyễn Thiếp nêu ra không có gì mới so với các thời trước đó. Các nội dung này đã được các triều đại phong kiến Trung Hoa và Việt Nam áp dụng từ hàng nghìn năm trước đó. Cái mới của Nguyễn Thiếp chính là phương pháp học tập. Theo ông, cần học rộng rồi tóm lược cho gọn, học phải đi đôi với hành, theo điều học mà làm. Mong ước của ông rất chân thành: “Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, Nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”. Nguyễn Thiếp đã khẳng định tầm quan trọng của đạo học và ý nghĩa lớn lao của nó: “Đạo học thành thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược trồng người đã được Nguyễn Thiếp trình bày một cách cụ thể và sáng tỏ. Tags:Văn 8
Introducing the text Discussing grammar - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment "Discussion on learning" is a text extracted from a poem by Nguyen Thiep sent to King Quang Trung in August 1791. At that time, Nguyen Thiep was working at the Sung Institute, in charge of compiling books and building Phuong. Hoang Trung Do in Nghe An. The song shows Nguyen Thiep's heart for revitalizing the country's academic system. His noble goal is to expand people's knowledge and train talented people for the country. Issues such as purpose, content and learning methods were presented by him briefly but specifically. At the beginning, he repeated the old saying: "Jade without polishing cannot become an object; Those who do not study do not know the religion clearly." The purpose of learning is first to know how to treat people with each other. In other words, learning is to expand wisdom and improve morality. The religion he talks about is the religion of being human. He lamented that political science had been lost. There are so many evils that deserve to be criticized, such as competing with each other in formal learning for the sake of fame and fortune, disregarding ethics, and no longer knowing the three diamonds and five permanences. The house leaks from the roof, the lord respects me. Those negative aspects made Nguyen Thiep extremely sad: "The country lost its home because of those bad things." Nguyen Thiep used extremely calm, peaceful and profound words. In the second part, the author mentions the content and learning methods. When answering the question of where to study, he said that he studied at government, district, and private schools; The children and grandchildren of martial artists and martial artists all learn wherever they can. When it comes to what to study, he believes that he must follow Chu Tu, a scholar of the Southern School. At first, I went to elementary school to build my roots. Gradually proceed to study the four books, the five scriptures, and the history. The learning content that Nguyen Thiep mentioned is nothing new compared to previous times. These contents were applied by the feudal dynasties of China and Vietnam thousands of years ago. The new thing of Nguyen Thiep is the learning method. According to him, it is necessary to study extensively and then summarize it concisely. Learning must go hand in hand with practice, and we must act according to what we learn. His wish was very sincere: "Fortunately, talented people can achieve success, and thanks to that, the State will be stable. That is truly the religion today that is related to people's hearts. Please don't ignore it." Nguyen Thiep affirmed the importance of Taoism and its great meaning: "If Taoism is successful, there will be many good people, if there are many good people, the court will be neat and the world will be prosperous." It is true that learning contributes to training talents, expanding people's knowledge, and contributing to building a prosperous country. The strategy for growing people was presented specifically and clearly by Nguyen Thiep. Tags: Literature 8
Giới thiệu văn bản Trong lòng mẹ trích từ Những ngày thơ ấu Hướng dẫn 1.Văn bản Trong lòng mẹ trích từ Những ngày thơ ấu – tập hồi kí viết về tuổi thơ cay đắng của Nguyên Hồng. Từ cảnh ngộ và tâm sự của chú bé Hồng — nhân vật chính — tác giả còn cho thấy bộ mặt lạnh lùng của một xã hội chỉ trọng đồng tiền, đầy những thành kiến cổ hủ, tình máu mủ ruột thịt cũng thành khô héo bởi thói nhỏ nhen, độc ác. 2.Trong lòng mẹ thể hiện tình yêu thương của chú bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh. Dường như càng trong cảnh ngộ cay đắng, tủi cực, tình yêu thương càng mãnh liệt, cháy bỏng. Điều này được thể hiện ở hai thời điểm chính: -Phản ứng tâm lí của chú bé khi nghe những lời giả dối, thâm độc của người cô đã xúc phạm đến mẹ của chú. -Cảm giác sung sướng cực điểm của chú bé khi gặp lại và được nằm trong lòng mẹ. 3.Đoạn trích Trong lòng mẹ tiêu biểu cho những đặc sắc nổi bật của ngòi bút Nguyên Hồng: giàu chất trữ tình, nhiều khi dạt dào những cảm xúc thiết tha, rất mực chân thành. Đó là văn của một trái tim nhạy cảm, dễ bị tổn thương, dễ rung động đến cực điểm với nỗi đau và niềm hạnh phúc bình dị của con người. Đoạn văn diễn tả cảm giác sung sướng khi được nằm trong lòng mẹ thật dạt dào cảm xúc, thắm thiết trữ tình, trở thành một bài ca về tình mẫu tử thiêng liêng, êm dịu.
Introducing the text In my mother's womb, excerpted from Childhood Days Instruct 1.The text In Mother's Heart is excerpted from Childhood Days - a memoir about Nguyen Hong's bitter childhood. From the plight and confession of little Hong - the main character - the author also shows the cold face of a society that only cares about money, full of old-fashioned prejudices, and the love between blood and blood is also withered because of petty, cruel habits. 2.The mother's heart shows little Hong's love for his unfortunate mother. It seems that the more bitter and miserable the situation, the more intense and burning the love. This is shown at two main moments: -The little boy's psychological reaction when he heard the false and malicious words of the aunt who insulted his mother. -The boy's feeling of extreme joy when he met him again and was in his mother's arms. 3. The excerpt In the Mother's Heart represents the outstanding characteristics of Nguyen Hong's writing: rich in lyricism, often filled with passionate emotions, very sincere. It is the writing of a sensitive, vulnerable heart, easily moved to the extreme by simple human pain and happiness. The passage describing the feeling of happiness when lying in the mother's womb is full of emotion, passionate and lyrical, becoming a song about sacred, gentle motherhood.
Đề bài: Giới thiệu về ATK – An toàn khu kháng chiến Bài làm Một trong những khu di tích phải kể đến đó là Trung tâm ATK (an toàn khu) nằm ở xã Phú Đình, huyện Đình Hoá, tỉnh Thái Nguyên, là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã sống và làm việc từ 1947 – 1954 để lãnh đạo cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp. Chúng ta đã từng biết đến một Thái Nguyên xanh với cái màu xanh thẫm trải dài theo những cánh rừng cọ, đồi chè bát ngát; màu xanh mướt của thảm cỏ, nương ngô; xen lẫn với cái xanh dương sẫm của những luỹ tre ẩn mình trong các thôn xóm, bản làng. Và bây giờ, chúng ta còn biết đến một Thái Nguyên anh hùng với những khu di tích cách mạng nổi tiếng. Một trong những khu di tích phải kể đến đó là Trung tâm ATK (an toàn khu) nằm ở xã Phú Đình, huyện Đình Hoá, tỉnh Thái Nguyên, là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã sống và làm việc từ 1947 – 1954 để lãnh đạo cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp. Điểm di tích lịch sử ATK đã được Nhà nước xếp hạng quốc gia năm 1981. Hiện nay, ATK còn nhiều di tích về nơi ở và làm việc của Bác như nền nhà, hầm làm việc, cây râm bụt Bác trồng, phiến đá Bác thường nằm nghỉ trưa… ATK là nơi ghi lại nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngày 6/12/1953, tại đồi Tỉn Keo, Bộ Chính trị BCH TW đã họp thông qua kế hoạch tác chiến – tấn công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ của dân tộc. Nhiều sắc lệnh quan trọng của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được kí ban hành tại đây, trong đó có luật về nghĩa vụ quân sự, sắc lệnh tổng động viên… về giảm tô và cải cách ruộng đất… Thủ đô ATK cũng là nơi diễn ra các hoạt động ngoại giao của nước ta thời ấy. Năm 1990 tại đồi Tỉn Keo, tỉnh Thái Nguyên đã xây bia tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, phòng trưng bày di tích lịch sử, nhà khách… với kinh phí đầu tư gần hai tỉ đồng. Tại trung tâm xã Phú Đình cũng đã xây dựng nhà truyền thống, giới thiệu trưng bày nhiều hiện vật quý. Bên cạnh các di tích chính như đồi Tỉn Keo, Khuôn Tát, Nà Nom… cụm di tích ATK còn nhiều địa đanh di vào lịch sử: đèo De, núi Hồng,… bên cạnh những rừng cọ, đồi chè, chắn nước, dòng suối trong xanh. Theo hành trình du lịch về phía Nam của tỉnh Thái Nguyên, du khách sẽ đến khu ATK, nằm trọn trong xã Kha Sơn, huyện Phú Bình, đi thăm những địa danh và tên tuổi đã được ghi vào lịch sử: nhà ông Cao Nhật, một trong những cơ số cách mạng đầu tiên của Xứ ủy Bắc Kì thời kì 1939t- 1945, rừng Mấn – nơi đặt trạm liên lạc của Xứ ủy Bắc Kì và là nơi mở lớp huấn luyện chính trị, quân sự của Đảng, đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng khi đó và đồng chí Hoàng Quốc Việt từng qua lại hoạt động ở đây, chùa Mai Sơn – nơi Xứ ủy Bắc Kì đặt nhà in đặc biệt, in báo Cờ giải phóng và nhiều tài liệu quan trọng, đình Kha Sơn – nơi thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên của xã… Tất cả những di tích lịch sử này đều đã được xếp hạng quốc gia. Đến với ATK, bạn có thể trở về với một vùng chiến khu xưa. Để có thể hiểu biết thêm về hoạt động của những người con đất Việt đã hiến dâng cho sự nghiệp bảo vệ đất mẹ yêu quý. Nếu có thể, hãy một lần hành hương về thánh địa cách mạng của quê hương rừng cọ, đồi chè này.
Topic: Introduction to ATK - Resistance zone safety Assignment One of the relics that must be mentioned is the Safety Center (zone safety) located in Phu Dinh commune, Dinh Hoa district, Thai Nguyen province, where President Ho Chi Minh and other Party and State leaders worked. lived and worked from 1947 - 1954 to lead the nine-year resistance war against the French colonialists. We have known the green Thai Nguyen with its dark green color stretching along the palm forests and immense tea hills; the green color of the grass and corn fields; interspersed with the dark blue of the bamboo trees hidden in the hamlets and villages. And now, we also know the heroic Thai Nguyen with famous revolutionary relics. One of the relics that must be mentioned is the Safety Center (zone safety) located in Phu Dinh commune, Dinh Hoa district, Thai Nguyen province, where President Ho Chi Minh and other Party and State leaders worked. lived and worked from 1947 - 1954 to lead the nine-year resistance war against the French colonialists. The ATK historical site was nationally ranked by the State in 1981. Currently, ATK still has many relics of Uncle Ho's living and working place such as the house floor, the working cellar, the hibiscus tree that Uncle Ho planted, the stone slab that Uncle Ho often lay on for lunch... ATK is the place where many important historical events are recorded. of the nation. On December 6, 1953, at Tin Keo hill, the Politburo of the Central Committee met to approve the battle plan - strategic attack for the Winter-Spring period of 1953 - 1954 to create the famous Dien Bien Phu victory, ending successfully. the nation's long and arduous resistance war. Many important decrees of the Democratic Republic of Vietnam were signed and promulgated here, including the law on military service, the decree on general mobilization... on rent reduction and land reform... ATK is also the capital city. where our country's diplomatic activities took place at that time. In 1990, at Tin Keo hill, Thai Nguyen province, a memorial stele to President Ho Chi Minh, a historical relics gallery, a guest house... was built with an investment cost of nearly two billion VND. In the center of Phu Dinh commune, a traditional house has also been built, introducing and displaying many precious artifacts. Besides the main relics such as Tin Keo hill, Khuon Tat, Na Nom... the ATK relic cluster also has many historical landmarks: De pass, Hong mountain,... besides palm forests, tea hills, water barriers, streams. clear blue stream. Following the travel itinerary to the South of Thai Nguyen province, tourists will go to the ATK area, located entirely in Kha Son commune, Phu Binh district, to visit places and names that have been recorded in history: Mr. Cao Nhat's house. , one of the first revolutionary bases of the Bac Ky Party Committee in the period 1939-1945, Man Forest - where the communication station of the Bac Ky Party Committee is located and where political and military training classes of the Party and colleagues are opened. Comrade Truong Chinh, General Secretary of the Party at that time, and comrade Hoang Quoc Viet used to travel back and forth here, at Mai Son Pagoda - where the Northern Party Committee set up a special printing house, printing the Liberation Flag newspaper and many important documents. important, Kha Son Communal House - where the commune's first revolutionary government was established... All of these historical relics have been nationally ranked. Coming to ATK, you can return to an old war zone. To learn more about the activities of Vietnamese people who have devoted themselves to the cause of protecting their beloved motherland. If possible, please make a pilgrimage to this revolutionary holy land of the homeland of palm forests and tea hills.
Đề bài: Giới thiệu về bia Vĩnh Lăng Bài làm Bia Vĩnh Lăng dựng năm 1443 trên đỉnh đồi ở phía đông Tây Hồ, tây nam điện Lam Kinh. Khoảng cách giữa lăng và nhà bia chừng 300m. Mặt bia nhìn về hướng nam, cùng hướng với lăng. Bia làm bằng đá nguyên khối cao 2,79 ra; rộng l,94m; dày 0,27m, đặt trên lưng một con rùa đá dài 3,46m; rộng l,94m và cao 0,90m (kể cả đế). Ngày trước có nhà bia nhưng đã bị cháy còn trơ lại các chân cột bằng đá. Nhà bia hiện tại mới được dựng lại năm 1961, nền hình vuông, mỗi cạnh 8,8m, bốn mái cong, lợp ngói mũi hài, đỡ bằng 16 cột, mỗi góc có 4 cột theo kiểu kiến trúc thời Lê. Trán bia trang trí hình vuông, trong là hình tròn tượng trưng cho trời và đất. Giữa hình vuông và hình tròn là hình mây cách điệu tinh tế. Chính giữa khắc một đầu rồng nhìn thẳng, thân uốn lượn uyển chuyển quanh mặt trời, biểu trưng là thiên tử (con trời) được sinh ra do trời và đất. Hai bên riềm bia, mỗi bên có 9 hình nửa lá đề, trong mỗi lá đề là rồng uốn lượn, đầu vươn lên trên nối tiếp nhau, phần còn lại chạm hình hoa cúc dây rất tinh xảo. Văn bia ngắn gọn, cô đọng, mô thuật toàn bộ gia tộc, thân thế, sự nghiệp, công lao của vua Lê Thái Tổ và ca ngợi lòng khoan dung độ lượng đối với kẻ thù. Văn bia do danh nhân văn hoá, anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi soạn.
Topic: Introduction to Vinh Lang beer Assignment Vinh Lang stele was built in 1443 on the top of the hill east of Tay Ho, southwest of Lam Kinh palace. The distance between the mausoleum and stele house is about 300m. The stele's face faces south, in the same direction as the mausoleum. The stele made of monolithic stone is 2.79 ra; 1.94m wide; 0.27m thick, placed on the back of a 3.46m long stone turtle; 1.94m wide and 0.90m high (including base). There used to be a stele house, but it burned down and the stone pillars remained. The current stele house was newly rebuilt in 1961, with a square base, each side is 8.8m, four curved roofs, covered with funny-nosed tiles, supported by 16 columns, each corner has 4 columns in the architectural style of the Le Dynasty. The stele's forehead is decorated in a square shape, inside is a circle symbolizing heaven and earth. Between the square and the circle is a delicate stylized cloud shape. In the middle is carved a dragon head looking straight, its body gracefully curving around the sun, symbolizing the son of heaven (son of heaven) born from heaven and earth. On both sides of the stele's border, each side has 9 half-leaves, inside each leaf is a winding dragon, its head rising up one after another, the rest is carved with a very delicate chrysanthemum pattern. The epitaph is short and concise, describing the entire family, background, career, and merits of King Le Thai To and praising his tolerance towards enemies. The epitaph was composed by cultural celebrity and national hero Nguyen Trai.
Giới thiệu về bài thơ Cảm hoài của tác giả Đặng Dung – Chương trình Ngữ văn lớp 10 Hướng dẫn Cảm hoài là bài thơ thể hiện khát vọng của người anh hùng trong việc cống hiến tài năng cho triều đại, đất nước. Để hiểu hơn về nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ, các bạn hãy tham khảo bài Giới thiệu về bài thơ Cảm hoàimà chúng tôi giới thiệu dưới đây nhé! 1. Giới thiệu khái quát về bài thơ Tác phẩm “Cảm hoài” là một bài thơ tự sự của tác giả Đặng Dung, đây là bài thơ duy nhất còn lại trong các sáng tác của vị tướng lĩnh này. Bài thơ được sáng tác vào hoàn cảnh khi ông đem quân giúp cho vua Trùng Quang Đế (nhà Hậu Trần). Do lòng người li tán mà quân binh ít ỏi, lương thực thiếu thốn nên cuối cùng trận đánh đã thất bại. Bài thơ được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú, trong bài thơ các luật trắc, vần bằng đúng niêm luật, đối chỉnh và bố cục rất hợp quy cách của thể thơ. Đây là bài thơ duy nhất còn lại của Đặng Dung, được chép trong “Toàn Việt Thi Lục” của Lê Quý Đôn, tuy chỉ còn một bài nhưng đây chính là một trong những bài thơ hay và tiêu biểu cho phong cách thơ của Đặng Dung. Phong cách ấy là bất kể vui hay buồn thường thể hiện sự khẳng định nhân phẩm và niềm tự hào về bản lĩnh con người. Phảng phất dư âm của hào khí Đông A. 2. Đặc sắc nội dung Bài thơ mở ra bằng nỗi bi phẫn của một thi nhân – tráng sĩ đang ngao ngán việc đời còn ngổn ngang mà tuổi đã xế chiều.Từ nỗi chán chường thời thế ấy, thi nhân đã tự an ủi mình trong triết lí về thời vận đầy chua cay nhưng không kém phần ngạo nghễ. Bài thơ được người đời ưa thích và mến mộ, truyền lại hậu thế một phần là nhờ nét hùng tráng, ngạo nghễ này. Đối với những anh hùng hào kiệt thất thế, lỡ vận thì đây như một lời an ủi thấm thía, phản ảnh tâm lý sâu sắc nhất. Bài thơ đã phản ánh hoàn cảnh, tâm sự và những hoài bão của chính tác giả, bài thơ là một trong những bài thơ chữ Hán được nhiều người dịch nhất. Tuy nhiên sự hạn hẹp của ngôn ngữ đã không thể phô diễn hết được sự phong phú của bài thơ. Theo
Introduction to the poem Feeling nostalgic by author Dang Dung - Grade 10 Literature Program Instruct Feeling nostalgic is a poem expressing the hero's desire to contribute his talent to the dynasty and country. To better understand the content and art of the poem, please refer to the Introduction to the poem Feeling nostalgic that we introduce below! 1. General introduction to the poem The work "Feeling" is a narrative poem by author Dang Dung, this is the only remaining poem in this general's compositions. The poem was composed in the context of when he brought troops to help King Trung Quang De (Late Tran Dynasty). Because the people were scattered and the troops were few and food was lacking, the battle eventually failed. The poem is written in Chinese characters in the form of seven-word, eight-syllable verse. In the poem, the meter and rhyme are correct, the alignment and layout are very consistent with the poetic style. This is the only remaining poem by Dang Dung, copied in "Toan Viet Thi Luc" by Le Quy Don. Although there is only one remaining poem, this is one of the good poems and represents Dang's poetic style. Dung. That style, whether happy or sad, often shows affirmation of dignity and pride in human bravery. There is a subtle echo of Dong A's aura. 2. Unique content The poem opens with the sadness and indignation of a poet - a heroic man who is fed up with the fact that life is still chaotic and his age is getting old. From the boredom of that time, the poet consoles himself with the philosophy of destiny. full of bitterness but no less arrogant. The poem is loved and admired by people and passed down to posterity partly thanks to this majestic and arrogant feature. For the heroes who lost their fortunes and lost their luck, this is like a poignant word of comfort, reflecting the deepest psychology. The poem reflects the author's own circumstances, feelings and ambitions. The poem is one of the most translated Chinese poems. However, the limitation of language cannot fully display the richness of the poem. According to
Giới thiệu về bài thơ Cảm xúc mùa thu của tác giả Đỗ Phủ Hướng dẫn Cảm xúc bài thơ là kết tinh tiêu biểu nhất của tài năng của thi thánh Đỗ Phủ, bài thơ không chỉ thể hiện bức tranh mùa thu đẹp nhưng đượm buồn của thiên nhiên mà còn thể hiện được những tâm trạng xót xa, ngậm ngùi của người lữ khách tha phương nơi đất khách quê người. Bài giới thiệu về bài thơ Cảm xúc mùa thu dưới đây sẽ cung cấp thêm những tông tin thú vị về bài thơ, các bạn hãy theo dõi nhé! 1. Hoàn cảnh sáng tác Thu hứng là một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện tài năng của nhà thơ Đỗ Phủ- “Thi thánh” trong nền văn học Trung Hoa. Bài thơ nằm trong chùm thơ bao gồm tám bài thơ thu được tác giả sáng tác vào năm 766, lúc bấy giờ ông đang lưu lạc ở Quý Châu. Tuy nạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước Trung Hoa thời đó vẫn phải gánh chịu sự kiệt quệ do hậu quả mà chiến tranh để lại và nhà thơ vẫn phải sống trong cảnh tha hương cầu thực. Đây là vùng núi non hiểm trở và cách xa quê hương của nhà thơ mấy ngàn dặm, khiến cho nhà thơ luôn khắc khoải nỗi nhớ đối với quê hương. 2. Đặc sắc về nội dung “Thu hứng” là sự thông nhất giữa “thu cảnh” và “thu tình”: bốn câu thơ đầu miêu tả bức tranh mùa thu với sự hiu hắt thông qua bút pháp chấm phá và những hình ảnh mang đậm tính ước lệ. Trên phông nền của cảnh thu với rừng thu, khí thu, bốn câu thơ sau nhấn mạnh tâm trạng buồn lo của nhà thơ. Đó là nỗi lòng khắc khoải của kẻ xa quê luôn hướng về nơi chôn rau cắt rốn, đồng thời thể hiện ngậm ngùi, xót xa cho thân phận của kẻ tha hương lưu lạc của chính tác giả. Thông qua tác phẩm này, chúng ta thấy được sự vận động theo mạch từ cảnh đến tình trong thơ ca trung đại và đặc trưng tư duy trong cấu tứ của thơ Đường: “Thơ Đường là thơ của các mối quan hệ”. Bài thơ còn thể hiện tài năng kiệt xuất của tác giả Đỗ Phủ- bậc “Thi thánh trong nền văn học Trung Hoa cũng như tâm trạng đượm buồn, da diết, sầu thương khắc khoải đối với quê hương và niềm cảm thương đối với cuộc sống của nhân dân trong thời cuộc rối ren và loạn lạc. Theo
Introduction to the poem Autumn Emotions by author Do Phu Instruct The poem's emotions are the most typical crystallization of the talent of the poet Du Phu. The poem not only shows the beautiful but sad picture of autumn in nature but also expresses the sad and sad moods of the poet. a wandering traveler in a foreign land. The introduction to the poem Autumn Emotions below will provide more interesting information about the poem, please follow along! 1. Circumstances of composition Thu Hoi is one of the typical works demonstrating the talent of poet Du Fu - "Holy Poetry" in Chinese literature. The poem is part of a series of eight poems composed by the author in 766, when he was wandering in Guizhou. Although the An Loc Son disaster was over, the Chinese country at that time still suffered from the exhaustion caused by the consequences of the war and the poet still had to live in exile to seek food. This is a rugged mountainous area and thousands of miles away from the poet's hometown, making the poet always feel nostalgic for his homeland. 2. Unique content "Autumn inspiration" is the unity between "collecting scenery" and "collecting love": the first four lines of the poem describe the autumn picture with gloominess through dotted style and conventional images. Against the background of an autumn scene with autumn forests and autumn air, the following four verses emphasize the poet's sad and worried mood. It is the anxious heart of a person far from home who always looks towards the place where they were born, and at the same time expresses the author's own sadness and grief for the fate of an exile. Through this work, we see the movement from scene to love in medieval poetry and the characteristic thinking in the structure of Tang poetry: "Tang poetry is the poetry of relationships." The poem also demonstrates the outstanding talent of author Du Fu - a "Holy Poet" in Chinese literature as well as his sad, sorrowful mood, anxious grief for his homeland and compassion for life. people's lives in times of confusion and chaos. According to
Giới thiệu về bài thơ Cảnh ngày hè của tác giả Nguyễn Trãi – Chương trình Ngữ văn lớp 10 Hướng dẫn Cảnh ngày hè là bài thơ Nguyễn Trãi viết khi về ở ẩn tai núi Côn Sơn. Bài giới thiệu về bài thơ Cảnh ngày hèsẽ cung cấp thêm những thông tin về hoàn cảnh sáng tác cũng như đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Hoàn cảnh sáng tác Tác phẩm “Cảnh ngày hè” thuộc chùm thơ “Gương báu răn mình” trong Quốc Âm thi tập – một tập thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Bài thơ được sáng tác vào thời gian 1438 – 1439 khi ông xin về trông coi chùa Tư Phúc ở Côn Sơn. 2. Đặc sắc về nội dung Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, về cơ bản vẫn là dạng thất ngôn bát cú nhưng có hai điểm khác: câu 1 và câu 8 chỉ có 6 chữ; câu 3 và câu 4 ngắt nhịp 3-4. Chính hai điểm khác này đã làm cho cấu trúc của bài thơ thay đổi, tiết tấu của thơ cũng đa dạng hơn. Mở đầu bài thơ tác giả đã diễn tả cái thở phào nhẹ nhĩm của một kẻ sĩ đã trút được gánh nặng công danh trên vai để thư tháu, thanh thản trước thiên nhiên. Bức tranh ngày hè của người nghệ sĩ hiện lên với vẻ tràn đầy sức sống, đầy đủ đường nét, màu sắc, hương thơm, âm thanh và ánh sáng, có cả hữu hình và vô hình. “Cảnh ngày hè” không đơn thuần là một bức tranh phong cảnh. Nguyễn Trãi không hề ngắm cảnh một cách thụ động bởi qua cách dùng từ, đặt câu, cách tạo dựng hình cảnh cho thấy cảnh không miêu tả thuần túy khách quan mà miêu tả theo sức tưởng tượng mạnh mẽ của con người, cảnh và tình được hòa quyện với nhau. Bài thơ “ Cảnh ngày hè” trước hết là một bài thơ tức cảnh về cảnh thiên nhiên đầy sức sống: cây cối sinh sôi, sắc màu tưng bừng sôi dộng, hương thơm tỏa ngát, âm thanh rộn rã… Sau đó người nghệ sĩ đã cảm nhận bức tranh ấy bằng chính niềm vui sống, và bằng sức sống của tâm hồn tươi trẻ, mang trong mình niềm ao ước không phải cho mình mà là cho dân có một cuộc sống hạnh phúc ấm no. Nhà thơ dã vận dụng sáng tạo và tài hoa thể thơ vốn nghiêm ngặt về cấu trúc hình thức để tạp nên một bài thơ hay và giàu ý nghĩa nhân văn. Theo
Introduction to the poem Summer Day Scene by author Nguyen Trai - Grade 10 Literature Program Instruct Summer day scene is a poem Nguyen Trai wrote when he returned to hide in Con Son mountain. The introduction to the poem Summer Day Landscape will provide more information about the circumstances of its composition as well as the unique content and art of the work. Please refer to it! 1. Circumstances of composition The work "Summer Day Scene" belongs to the series of poems "A precious example to warn one's self" in Quoc Am thi tap - a famous Nom poetry collection by Nguyen Trai. The poem was composed in the period 1438 - 1439 when he asked to take care of Tu Phuc Pagoda in Con Son. 2. Unique content The poem is written in the form of a seven-word poem interspersed with six words, basically still a seven-word, eight-syllable form but with two differences: verses 1 and 8 only have 6 words; Verses 3 and 4 break into a 3-4 rhythm. It is these two other points that make the structure of the poem change and the rhythm of the poem also become more diverse. At the beginning of the poem, the author describes the sigh of relief of a scholar who has lifted the burden of fame from his shoulders to relax and be at peace before nature. The artist's painting of a summer day appears full of vitality, full of lines, colors, scents, sounds and lights, both visible and invisible. “Summer Day Scene” is not simply a landscape painting. Nguyen Trai does not passively admire the scenery because through the way he uses words, sentences, and creates images, it shows that the scene is not purely objective, but is depicted according to the strong imagination of people, scenes, and situations. are blended together. The poem "Summer Day Scene" is first of all a scene poem about a natural scene full of vitality: trees proliferate, vibrant colors, fragrant scents, bustling sounds... After that, the artist felt that painting with the joy of life, and with the vitality of a youthful soul, carrying within himself the desire not for himself but for the people to have a happy and prosperous life. The poet has used creativity and talent in poetic form that is strict in formal structure to create a beautiful poem rich in humanistic meaning. According to
Giới thiệu về bài thơ Nhàn của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm Hướng dẫn Nhàn là bài thơ tiêu biểu trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về lối sống nhàn tản, tâm hồn tự do của người Nho sĩ ẩn dật. Giới thiệu về bài thơ Nhànsẽ cung cấp thêm những thông tin thú vị về tác phẩm này, các bạn cùng tham khảo nhé! 1. Nhàn là bài thơ đặc sắc trong “Bạch Vân quốc ngữ thi tập” Tác phẩm “Nhàn” được trích trong tập thơ Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi”, đây là một bài thơ tiêu biểu trong số những bài thơ có trong tập thơ này. “Nhàn” cũng là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông lấy cảm hứng chủ đạo là cuộc sống tự tại, thanh nhàn, gắn bó với tự nhiên, không tư tưởng bon chen vinh hoa phú quý từ khi ông về trí sĩ ở quê. 2. Nội dung chủ đạo của bài thơ – Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh người trí sĩ ẩn cư nhàn dật Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh người trí sĩ ẩn cư nhàn dật, với những chi tiết về cách sống, cách sinh hoạt và quan niệm sống của nhà thơ. Đó là một cuộc sống vắng vẻ, mọi sinh hoạt đều tự nhiên, coi phú quý như giấc mộng. Các từ ngữ nôm na và dân dã, cấu tạo câu thơ như lời ăn tiếng nói hàng ngày đã tạo ra nét độc đáo cho bài thơ. – “Nhàn” thể hiện triết lí nhân sinh sâu sắc Bài thơ vừa là khẳng định sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của tác giả, vừa là thể hiện sắc thái trào lộng, thái độ coi thường, mỉa mai với cách sống hám cầu danh vọng. Hơn hết, qua bài thơ “Nhàn” tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm còn muốn nêu lên triết lí nhân sinh của mình, lánh đời ẩn dật là cách cư xử có vẻ như tiêu cực nhưng trong hoàn cảnh nào đó, để có thể giữ gìn nhân cách, sự thanh thản và an nhàn cho mình thì việc ẩn dật lại là cách ứng xử rất tích cực. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn và cách sống của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, một cuộc sống rất giản dị, rất tự nhiên lại vô cùng thanh cao và thú vị. Với lời thơ tự nhiên, vừa giản dị lại giàu ý vị, bài thơ “Nhàn” đã thể hiện sâu sắc thú vui và ý nghĩa triết lí trong cuộc sống nhàn dật của nhà thơ. Đó là quan niệm sống nhàn, sống hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao và vượt lên trên khỏi những mưu cầu danh lợi tầm thường. Theo
Introduction to the poem Nhan by author Nguyen Binh Khiem Instruct Nhan is a typical poem in Nguyen Binh Khiem's ​​collection Bach Van Quoc Ngu Tu Tap about the leisurely lifestyle and free soul of the reclusive Confucian scholar. Introduction to the poem Nhan will provide more interesting information about this work, please refer to it! 1. Nhan is a unique poem in "Bach Van Quoc Ngu Tu Tap" The work "Nhan" is excerpted from the Nom poetry collection "Bach Van Quoc Ngu Thi", this is a typical poem among the poems included in this poetry collection. "Freedom" is also a big theme in Nguyen Binh Khiem's ​​poetry. His main inspiration is a life of freedom, leisure, close to nature, without thoughts of jostling for glory and wealth since his return. intellectuals in the countryside. 2. Main content of the poem – Prominent in the poem is the image of a wise man in seclusion Prominent in the poem is the image of the leisurely hermit, with details about the poet's way of life, way of living, and concept of life. It is a quiet life, all activities are natural, wealth is considered a dream. The simple and rustic words and the structure of the verses like everyday speech create a unique feature for the poem. – “Nhan” represents a profound philosophy of life The poem both affirms the author's choice of life motto and behavior, and also shows the satirical tone, disdain, and sarcasm towards the way of life seeking fame. Above all, through the poem "Nhan" author Nguyen Binh Khiem also wants to express his philosophy of life, living in seclusion is a seemingly negative behavior but in certain circumstances, one can preserve it. personality, serenity and comfort, seclusion is a very positive way of behaving. Through this we see the beauty in the soul and way of life of poet Nguyen Binh Khiem, a very simple, very natural, yet extremely noble and interesting life. With natural lyrics, both simple and rich in meaning, the poem "Nhan" deeply expresses the pleasure and philosophical meaning of the poet's leisurely life. It is the concept of living leisurely, living in harmony with nature, maintaining a noble personality and rising above the ordinary pursuit of fame and profit. According to
Giới thiệu về bài thơ Tỏ lòng của tác giả Phạm Ngũ Lão – Chương trình Ngữ văn lớp 10 Hướng dẫn Tỏ lòng là bài thơ thể hiện tình yêu nước, khát khao cống hiến tài năng và sức lực cho đất nước, cho triều đại. Bài giới thiệu về bài thơ Tỏ lòng sẽ cung cấp thêm những thông tin hữu ích về tác phẩm, hỗ trợ cho quá trình tìm hiểu và phân tích tác phẩm. Các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Tỏ lòng là bài thơ vang vọng tiếng nói của những người anh hùng – thi sĩ yêu nước Bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một trong những bài thơ vang vọng tiếng nói của những người anh hùng – thi sĩ yêu nước mãnh liệt. Là một trong những kiệt tác chứa chan tình yêu đất nước và lòng tự hào dân tộc. Thể hiện được khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần. 2. Tỏ lòng đã thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công Bài thơ Tỏ lòng đã thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc nguy nan. Đây cũng được coi là bức tranh tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước qua những vần thơ cổ kính trang nghiêm như: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc,… Hình ảnh đội quân Sát Thát ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi thường, quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy không có một thế lực hay kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. Những biện pháp tu từ thậm xưng được sử dụng trong bài thơ đã sáng tạo nên hình tượng thơ mang tầm vóc vũ trụ. Những hình ảnh so sánh trong bài thơ cũng rất độc đáo, nó không chỉ thể hiện sức mạnh vô địch của đội quân mà còn khơi nguồn cảm hứng cho thơ ca, trở thành một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc. Trong bài thơ nổi bật lên hình ảnh người chiến sĩ “bình Nguyên” với ước mơ cháy bỏng khao khát được lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Khát vọng ấy chính là biểu hiện rực rỡ nhất cho tấm lòng trung quân ái quốc của các chiến sĩ. Bài thơ “Tỏ lòng” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, với giọng thơ hùng tráng và mạnh mẽ, ngôn ngữ thơ lại hàm súc. Hình tượng thơ kì vĩ, tráng lệ, mang phong vị của bản anh hùng ca. Bài thơ mãi là một khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần. Theo
Introduction to the poem Expressing Your Heart by author Pham Ngu Lao - Grade 10 Literature Program Instruct Confession is a poem expressing patriotism and the desire to devote talent and strength to the country and the dynasty. The introduction to the poem Confession will provide more useful information about the work, supporting the process of understanding and analyzing the work. Please refer to it! 1. Confession is a poem that echoes the voices of patriotic heroes and poets Pham Ngu Lao's poem Confession is one of the poems that echoes the voices of fiercely patriotic heroes and poets. It is one of the masterpieces filled with love for country and national pride. Demonstrates the heroic and heroic spirit of our people and soldiers of the Tran Dynasty. 2. Confession shows pride in manhood and desire for victory The poem Confession expressed the hero's pride in manhood and desire for victory when the Fatherland was in danger. This is also considered a self-portrait of famous general Pham Ngu Lao. The poem is an expression of patriotism through ancient and dignified verses such as: holding a spear, rushing into battle, etc. The image of the Sat That army going into battle is extremely large, overlapping with the mighty power. often, determined to defeat all invading enemies. The momentum of that army no force or enemy can stop. The rhetorical devices used in the poem have created a poetic image of cosmic proportions. The comparative images in the poem are also very unique. They not only show the invincible strength of the army but also inspire poetry, becoming a bright poetic material in national literature. In the poem, the image of the "Binh Nguyen" soldier stands out with a burning dream of achieving feats to repay the king's gratitude and debt to the country. That aspiration is the most brilliant expression of the soldiers' loyalty and patriotism. The poem "Confessing Your Heart" is written in a four-line verse style, with a powerful and powerful poetic voice, and a concise poetic language. The poetic image is majestic and magnificent, with the flavor of an epic poem. The poem is forever an epic song of the heroes and soldiers of the Tran Dynasty. According to
Giới thiệu về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của đại thi hào Nguyễn Du Hướng dẫn Tiểu Thanh là cô gái xinh đẹp, tài năng nhưng lại có số phận bất hạnh. Đồng cảm với số phận “tài mệnh tương đố” của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã sáng tác bài thơ Độc Tiểu Thanh kí để thể hiện sự xót thương với con người tài hoa bạc mệnh đó. Giới thiệu về bài thơ Độc Tiểu Thanh kísẽ cung cấp thêm những thông tin bài học thú vị cho quá trình tìm hiểu của các bạn. 1. “Độc Tiểu Thanh kí” là tiếng nói tri âm sâu sắc của tác giả với nàng Tiểu Thanh Tác giả Nguyễn Du có một loạt những bài thơ chữ Hán viết về các nhân vật lịch sử mà qua đó nhà thơ gửi gắm rất nhiều nỗi niềm tâm sự. “Độc Tiểu Thanh kí” (Đọc Tiểu Thanh kí) là một bài thơ như thế. Bài thơ là tiếng nói tri âm sâu sắc của tác giả với người con gái sống cách mình trước đó 300 năm, Nguyễn Du đã mang những tâm sự về con người và cuộc đời trong bối cảnh vượt thời gian 300 năm để tìm tri âm. 2. Vài nét về cuộc đời và số phận của nàng Tiểu Thanh Tiểu Thanh là người phụ nữ thông minh, xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh, cuộc sống của nàng ngắn ngủi và đầy những trái ngang. Di cảo của nàng còn sót lại với những vẫn thơ bị đốt dở là một bằng chứng cho số phận oan nghiệt ấy. Một người đa cảm như Nguyễn Du đã không thể cầm lòng khi đọc nó, nỗi thổn thức ấy đã khiến cho thi nhân viết nên những dòng tuyệt tác trong “Độc Tiểu Thanh kí”. Bài thơ như là tiếng lòng nhân đạo cao cả và sâu sắc của Nguyễn Du, cảm thương cho một cuộc đời qua những vần thơ cháy dang dở. 3. “Độc Tiểu Thanh kí” thể hiện sự xót thương với số phận bất hạnh của Tiểu Thanh Cũng có thể coi “Độc Tiểu Thanh kí” là một bài thơ viếng Tiểu Thanh, tập giấy thơ cháy dang dở ấy là mảnh hồn Tiểu Thanh còn vương lại. Những câu thơ trong bài thơ rất hàm súc, vượt qua không gian và thời gian, vượt qua sinh tử để tìm tri âm. Khi đó là cuộc gặp gỡ của một người chết cô đơn và một người viếng cô đơn, một lòng đau tìm đến một hồn đau. Thời gian có thể xóa nhòa và làm biến mất đi nhiều thứ nhưng những bài thơ, vần thơ được chắt ra từ máu và nước mắt như “Độc Tiểu Thanh kí” lại thêm được luyện bởi thiên tài văn học Nguyễn Du thì chắc chắn thời gian cũng không thể làm lung lay vị trí của thi phẩm trong lòng người đọc. Theo
Introduction to the poem Doc Tieu Thanh Ky by great poet Nguyen Du Instruct Tieu Thanh is a beautiful and talented girl but has an unfortunate fate. Sympathizing with the fate of Tieu Thanh's "unmatched fortune", Nguyen Du composed the poem Doc Tieu Thanh ky to express his pity for that talented and ill-fated person. Introduction to the poem Doc Tieu Thanh Ky will provide more interesting lesson information for your learning process. 1. "Doc Tieu Thanh Ky" is the author's deep condolences to Tieu Thanh Author Nguyen Du has a series of Chinese poems written about historical figures through which the poet expressed many of his feelings. “Doc Tieu Thanh ky” (Read Tieu Thanh ky) is such a poem. The poem is the author's deep condolence to the girl who lived 300 years ago. Nguyen Du brings confides about people and life in the context of 300 years of time travel to find condolences. 2. Some details about Tieu Thanh's life and fate Tieu Thanh is a smart, beautiful, talented but unlucky woman, her life is short and full of contradictions. Her remaining posthumous remains with partially burned poems are evidence of that cruel fate. A sentimental person like Nguyen Du could not hold back when reading it, that sobbing made the poet write the masterpiece lines in "Doc Tieu Thanh Ky". The poem is like the voice of Nguyen Du's noble and profound humanity, compassion for a life through unfinished poems. 3. "Doc Tieu Thanh Ky" shows compassion for Tieu Thanh's unfortunate fate "Doc Tieu Thanh Ky" can also be considered a poem to pay tribute to Tieu Thanh. That unfinished piece of burned poetry paper is the remaining piece of Tieu Thanh's soul. The verses in the poem are very concise, transcending space and time, overcoming life and death to find wisdom. At that time, it was the meeting of a lonely dead person and a lonely visitor, a painful heart finding a painful soul. Time can erase and make many things disappear, but poems and rhymes distilled from blood and tears like "Doc Tieu Thanh Ky" and crafted by literary genius Nguyen Du are certainly timeless. Even time cannot shake the position of poetry in the hearts of readers. According to
Giới thiệu về bún riêu cua Hướng dẫn Giới thiệu về bún riêu cua Tôi may mắn vì được sinh ra ở một vùng quê thanh bình,yên ả với những kỉ niệm của tuổi thơ cùng lũy tre làng,con trâu,bờ ruộng,cánh diều…Cứ sau những ngày mùa,lũ chúng tôi thường tụm năm,tụm bảy rủ nhau ra ruộng bắt những con cá,con cua,con tôm,con ốc….về làm những món thơm ngon bổ dưỡng như ốc luộc,cháo cá hay món bún riêu cua. Những thức quà chân quê ấy đối với tôi thực sự không có một thứ sơn hào hải vị nào sánh bằng. Và có lẽ,bún riêu cua sẽ mãi là món ăn thơm thảo nhất đối với tôi và mọi người. Bún riêu cua là món ăn đặc trưng của đồng quê Việt Nam,được làm từ những nguyên liệu dân dã,quen thuộc với các vùng nông thôn. Bạn có thể bắt gặp hương vị của bún riêu cua ở những xóm chợ thôn quê,ở các ngõ,vỉa hè con phố,hay trên những chiếc gánh nhấp nhô dưới nón lá của những người phụ nữ kiếm tiền mưu sinh. Ừ thì bún riêu cua mang cái bình dân,mang thương hiệu của vùng nông thôn,của những người tảo tần với đồng ruộng nhưng nó lại là món quà ẩm thực tuyệt vời cho tất cả mọi người. Bún riêu cua là một trong hàng trăm món ăn dân dã được người Việt Nam từ nông thôn tới thị thành ưa chuộng bởi nó vừa hội tụ ba yếu tố: Ngon-bổ-rẻ,vừa có hương vị đậm đà và hình thức vô cùng hấp dẫn. Cua sinh sống ở ruộng lúa được người dân bắt về,rửa sạch,bóc mai,cho thân và chân vào cối giã nhuyễn,lọc lấy nước để nấu thành canh hay riêu. Gạch cua được khêu từ mai,đem chưng với mỡ,hành khô,thêm chút gia vị để đậm đà. Nước dùng là thứ thiết yếu quyết định sự thành công của món ăn. Người nấu dùng nước cua để làm nước dùng,đôi khi còn có cả nước xương heo. Khi nước sôi,thịt cua màu nâu sẫm bắt đầu nổi lên,đóng váng thành từng lớp mỏng là dùng được. Ngoài ra bún ăn kèm cũng phải được lựa chọn tỉ mỉ. Đó là loại bún rối hoặc bún lá,sợi to,mềm để khi chan nước dùng ăn dai và không bị nát. Người ta rán thêm vài miếng đậu hũ để ăn kèm với món này. Nhiều người còn cho thêm giấm bỗng,cà chua cắt múi cau cho vào nồi riêu để tăng hương vị. Những miếng cà chua nổi đỏ rực cả mặt nồi trông rất hấp dẫn. Thịt cua ăn ngon và bổ dưỡng,đạm nhiều mà không ngấy. Bún riêu thường thêm chút mắm tôm để tăng thêm vị đậm đà,ăn kèm với rau ghém. Sợi bún óng mướt,chan riêu cua nóng lên trên,gạch cua màu vàng sậm,mỡ màng,sóng sánh trên bát bún. Thêm vào đó vài lát cà chua hồng tái nằm trên,thêm chút ớt tươi,lát chanh ăn với rau thơm các loại. Bún riêu cua phải ăn nóng mới ngon,vừa ăn vừa thổi,xuýt xoa bởi cái vị cay cay nơi đầu lưỡi của ớt,của vị ngọt béo của cua. Nếu phở ngon ở vị béo ngọt và ngậy thì bún riêu cua lại hấp dẫn ở sự tổng hòa đến tuyệt vời giữa vị ngọt đậm của thịt cua đồng,cái dôn dốt chua chua của nước dùng,cái thanh thanh của sợi bún và cái tươi mát của rau sống. Có ai ngờ món ăn thơm ngon đến như vậy lại được làm bằng nguyên liệu dân dã chốn đồng quê. Cũng bởi vậy,mà nhiều người nói rằng,cứ ăn bún riêu cua là lại nghĩ về quê nhà,thật chả sai chút nào!
Introducing crab noodle soup Instruct Introducing crab noodle soup I am lucky to be born in a peaceful, quiet countryside with memories of childhood with village bamboo, buffaloes, rice fields, kites... After the harvest days, we often gather year after year. The seven-year-old group invited each other to go to the fields to catch fish, crabs, shrimp, snails... to make delicious and nutritious dishes such as boiled snails, fish porridge or crab vermicelli. To me, those authentic country gifts really have no comparison. And perhaps, crab noodle soup will forever be the most fragrant dish for me and everyone. Crab noodle soup is a typical dish of the Vietnamese countryside, made from rustic ingredients familiar to rural areas. You can encounter the flavor of crab noodle soup in rural markets, in alleys, on street sidewalks, or on the undulating burdens under the conical hats of women making a living. Yes, crab vermicelli noodles are popular, bearing the brand of the countryside, of those who work hard in the fields, but it is a great culinary gift for everyone. Crab noodle soup is one of hundreds of rustic dishes favored by Vietnamese people from rural to urban areas because it combines three elements: delicious, nutritious, cheap, rich in flavor and extremely beautiful in appearance. attractive. People catch crabs living in rice fields, wash them, peel their shells, put their bodies and legs in a mortar and grind them, and filter the water to cook into soup or rind. Crab bricks are steamed from the apricot, simmered with fat, dried onions, and a little spice added to make it rich. Broth is essential to the success of the dish. Cooks use crab water to make broth, sometimes even pork bone water. When the water boils, the dark brown crab meat begins to float, scum forming into thin layers and is ready to use. In addition, the accompanying noodles must also be carefully selected. It is a type of tangy vermicelli or leaf vermicelli with large, soft fibers so that when dipped in broth, the food is chewy and does not fall apart. People fry a few pieces of tofu to eat with this dish. Many people also add vinegar and sliced ​​tomatoes to the pot to increase the flavor. The tomato pieces floating red all over the pot look very attractive. Crab meat is delicious and nutritious, rich in protein without being greasy. Vermicelli noodles are often added with a little shrimp paste to increase the flavor and served with vegetables. The vermicelli noodles are silky and shiny, topped with hot crab sauce, the crab noodles are dark yellow, greasy, and shimmer on the vermicelli bowl. Add a few slices of pale pink tomatoes on top, add some fresh chili, lemon slices and eat with assorted herbs. Crab noodle soup must be eaten hot to be delicious. You can eat it while blowing on it, enjoying the spicy taste of the chili on the tip of your tongue and the fatty sweetness of the crab. If pho is delicious in its sweet and fatty taste, crab vermicelli noodles are attractive in the wonderful combination between the sweet taste of crab meat, the sourness of the broth, the delicateness of the vermicelli noodles and the freshness. coolness of raw vegetables. Who would have thought that such a delicious dish would be made with rustic ingredients in the countryside. Because of that, many people say that every time you eat crab noodle soup, you think about your hometown. It's not wrong at all!
Đề bài: Em hãy viết một bài văn giới thiệu về bản thân mình. Bài làm Tôi tên là Nguyễn Quốc Trung, năm nay 14 tuổi, học sinh lớp 8A trường Trung học cơ sở Nguyễn Thái Bình, phường 6, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh. Cách đây gần một tháng, tôi đã chia tay với chiếc khăn quàng đỏ để sung sướng đón nhận chiếc huy hiệu Đoàn viên thanh niên Cộng sản. Sau ngày được kết nạp Đoàn, tôi thấy mình trở thành một người khác hẳn. Không còn cảnh sáng nào mẹ cũng phải gọi tôi dậy đi học như trước nữa. Chiếc đồng hồ báo thức réo đến hồi chuông thứ hai là tôi đã bật dậy, tự tay xếp dọn chăn màn gọn ghẽ rồi ra sân tập thể dục cùng với ba. Tập thể dục xong, hai cha con chạy bộ dọc đường Nguyễn Tất Thành đến bến Nhà Rồng, hít thở không khí sớm mai trong lành, mát mẻ. Nhìn tôi sải những bước dài, ba cười bảo: “Dạo này con “nhổ giò” rồi đấy!”. Quả thật, tôi cao lênh khênh như cái sào. Đã thế chân tay lại vụng về, lóng ngóng, đụng đâu hư đó. Nhiều lúc muốn giúp đỡ mẹ mà lại ngại làm phiền thêm. Thế nhưng những việc trong nhà cần đến “đàn ông” như sửa điện, sửa nước… là thế nào mẹ cũng nhờ tôi. Tôi hãnh diện về điều đó lắm! Đối với cô em gái 9 tuổi, uy tín của tôi cũng tăng lên rất nhiều. Mỗi tối ngồi vào bàn, tôi không chỉ tự giác học bài, làm bài mà còn thay ba kèm cặp cho em. Bé Mi khéo nịnh, thỉnh thoảng khen anh Hai giỏi, khiến tôi phổng mũi. Dạo này, ba và mẹ không còn phải chở tôi đi học nữa. Ngày ngày, tôi đến trường bằng chiếc xe đạp ba mới mua cho. Vẫn là con đường quen thuộc nhưng sao mọi thứ dường như khác lạ. Bầu trời bát ngát trên đầu. Gió lồng lộng thổi. Tiếng còi tàu âm vang, thôi thúc tôi nghĩ tới chuyến hải hành vượt đại dương mênh mông sóng gió, đến những bến bờ xa lạ. Dòng người và xe cộ nườm nượp ngược xuôi không còn làm tôi e ngại. Nhìn cái gì tôi cũng thấy đẹp đẽ, vui tươi, sống động. Máu tôi dường như chảy mạnh hơn trong huyết quản. Tim tôi muốn cất lên tiếng hát yêu đời. Tự trong thâm tâm, tôi biết rằng mình đã lớn.
Topic: Write an essay introducing yourself. Assignment My name is Nguyen Quoc Trung, 14 years old, student of class 8A at Nguyen Thai Binh Middle School, Ward 6, District 4, Ho Chi Minh City. Nearly a month ago, I said goodbye to the red scarf to happily receive the Communist Youth Union member badge. After being admitted to the Union, I found myself becoming a completely different person. My mother no longer has to wake me up to go to school every morning like before. The alarm clock rang on the second ring and I jumped up, neatly arranged the blankets and blankets and went to the gym with my dad. After exercising, father and son jogged along Nguyen Tat Thanh street to Nha Rong wharf, breathing in the fresh, cool morning air. Looking at me taking long strides, my father smiled and said: "Lately you have been "pulling your legs"!". Indeed, I am as tall and lanky as a pole. In addition, his limbs are clumsy and clumsy, causing damage wherever he touches them. Sometimes I want to help my mother but I'm afraid to bother her anymore. However, my mother always asked me to do things in the house that needed "men" like electrical repairs, water repairs... I'm very proud of that! For my 9-year-old sister, my reputation also increased a lot. Every night sitting at the table, I not only voluntarily study and do homework but also tutor my younger brother on behalf of my father. Little Mi is clever at flattering, sometimes praising Hai's good manners, making me puff up. These days, my dad and mom no longer have to drive me to school. Every day, I go to school on the new bicycle my dad bought for me. It's still a familiar road, but everything seems different. The sky is vast above your head. The wind blew briskly. The sound of the ship's whistle prompted me to think of the voyage across the vast and turbulent ocean, to strange shores. The flow of people and vehicles rushing back and forth no longer makes me afraid. Everything I see is beautiful, joyful, and alive. My blood seemed to flow stronger through my veins. My heart wants to sing a song of love for life. In my heart, I know that I have grown up.
Đề bài: Chiếc bàn học là vật dụng gắn bó với quãng đời học sinh của em. Em hãy viết bài văn giới thiệu về chiếc bàn học của em cho mọi người cùng nghe. Bài làm Đồ dùng trong nhà em có rất nhiều nhưng em thấy cái bàn học, tấm lịch treo tường và chiếc đồng hồ báo thức là ba đồ vật gắn bó thân thiết với em hơn cả. Chiếc bàn học do ba em tranh thủ đóng trong đợt nghỉ phép vừa qua. Nó được làm từ những tấm ván và thanh gỗ lựa từ đống củi mẹ mới mua. Suốt một ngày chủ nhật cưa, bào, đục, đẽo… không ngơi tay, ba em đã đóng xong chiếc bàn xinh xắn. Ba bảo rằng em đã lên lớp 8, cần phải có chỗ ngồi học riêng cho thuận tiện. Chiếc bàn được kê ngay cửa sổ, hướng đông nên suốt ngày có đủ ánh sáng. Hình dáng chiếc bàn này giống hệt chiếc bàn ở lớp nhưng kích thước của nó chỉ bằng một nửa. Mặt bàn được bào nhẵn. Ba em đánh véc-ni thật kĩ. Các đường vân nổi lên rất đẹp. Dưới mặt bàn là hai ngăn rộng rãi, đủ để đựng sách vở và đồ dùng học tập. Bàn đóng liền với ghế, có chỗ dựa lưng thoải mái. Ba mua cho em một cây đèn nê-ông nhỏ, bệ đèn là chiếc giá cắm bút bằng nhựa màu hồng. Cây đèn được gắn cố định vào mặt bàn để buổi tối em có đủ ánh sáng học bài.
Topic: The desk is an item that is closely associated with my student life. Write an essay introducing your study desk for everyone to listen to. Assignment I have many things in my house, but I find that the desk, the wall calendar, and the alarm clock are the three things that are most closely related to me. The desk was built by three children during the recent vacation. It was made from planks and wooden bars selected from the pile of firewood my mother had just bought. Throughout a whole Sunday of sawing, planing, chiseling, chiseling... without stopping, my father finished building a lovely table. Dad told me that I was in 8th grade and needed a separate study seat for convenience. The table is placed right next to the window, facing east, so there is enough light all day. The shape of this desk is exactly the same as the desk in the classroom but its size is only half the size. The table surface is planed smooth. My father varnished it carefully. The raised veins are very beautiful. Under the table are two spacious compartments, enough to hold books and school supplies. The table is attached to the chair, with a comfortable backrest. Dad bought me a small neon lamp, the base of which is a pink plastic pen holder. The lamp is fixed to the table so that I have enough light to study at night.
Giới thiệu về chiếc bánh chưng ngày tết cổ truyền Hướng dẫn Giới thiệu về chiếc bánh chưng ngày tết cổ truyền Bài làm Trong những ngày xuân rộn ràng, lòng người náo nức mừng dịp Tết Nguyên Đán, trên khắp nẻo đường đâu đâu chúng ta cũng thấy không khí tấp nập mua sắm bánh kẹo,quần áo mới, đồ dùng để trang trí cho ngôi nhà thêm mới trong ngày Tết.Nhưng không thể thiếu một món ăn đó chính là bánh chưng. Bánh chưng từ lâu đã là một loại bánh không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Bánh chưng nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời.Tương truyền rằng vào đời vua Hùng thứ 6,sau khi đánh dẹp loạn xong giặc Ân, nhà vua muốn truyền ngôi cho con.Nhân dịp đầu xuân,vua gọi các thái tử lại và yêu cầu các hoàng tử đem dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để dâng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân.Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ đem lên vua cha,với hi vọng mình sẽ được vua cha truyèn ngôi cho. Trong khi đó, người con trai thứ mười tàm của hùng vương là lang liêu có tính hiền hậu,sống gần giũ với người nông dân lao động nghèo khổ nên chàng không có thứ gì quí để dâng lên vua cha.Một đêm lang liêu nằm mộng thấy có 1 vị thần đến chỉ cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những thức có sẵn gần gũi với đời sống hàng ngày. Tỉnh mộng ông vô cùng mừng rỗ làm theo cách chỉ dạy của thần.Đến ngày hẹn các hoàng tử mang thức ăn đến dâng lên mâm cổ biết bao sơn hào hải vị, nem công cả phượng.riêng hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có 2 loại bánh được làm theo lời thần dạy. Thấy làm lạ nên vua cha bèn đến bên cạnh chàng và hỏi,thì được lang liêu kể lại câu chuyện được thần báo mộng,và giải thích ý nghĩa của bánh.Vua cha nghe những lời của chàng nói thấy cũng có lý, nên nến thử,thấy bánh ngon,khen có ý nghĩa rồi đặt tên cho bánh là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi cho Lang Liêu. Cách làm bánh cũng rất đơn giản. Những nguyên liệu làm bánh gồm: gạo nếp,đậu xanh(đỗ), thịt lợn ba dọi, lá dong (không biết còn thiếu gì nữa không nếu thiếu thì bổ sung giúp mình nha). Gạo nếp thường là gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này hạt to,tròn,đều và thơm dẻo hơn các vụ khác.Còn có những gia đình phải chọn mua bằng được loại nếp cái hoa vàng hoặc nếp nương.Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu.Thịt thì nên chọn thịt ba dọi vừa có mỡ vừa có nạc khiến nhân bánh có vị béo đậm đà,không thô bã. Ngoài ra còn cần các gia vị như hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân, muối dùng để trộn vào gạo,đỗ xanh và ướp thịt (không nên ướp thịt bằng nước mắn mà nên ướp thịt bằng muối vì ướp bằng muối sẽ làm cho bánh nhanh bị ôi thiu.Lá để gói bánh thường là lá dong (nhưng tùy vào địa phương,dân tộc,điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít hoặc là cả 2 loại lá nha). Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt được dùng từ ống cây giang.Lạt có thể được ngâm muối hay hấp cho mềm trước khi gói. Trước khi khi làm bánh cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng.Lá dong phải rửa sạch từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô.Tiếp đó dùng dao cắt bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá cho bớt cứng.Gạo nếp nhạt bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào,vo sạch,ngâm gạo sạch trong nước cùng 0,3% muối trong khoảng 12 giờ tùy vào loại gạo và thời tiết,sau đó vớt ra để ráo.Có thể xóc với muối sau khi ngâm thay vì ngâm với nước muối.Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ,ngâm nước ấm 40* trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo.Thịt lợn đem rửa ráo,cắt thịt thành những miếng mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm Bánh thường làm vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt,cũng như ngày giỗ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 âm lịch.Thiếu bánh chưng bánh dày thì cái Tết chắc sẽ không hoàn chỉnh “Thịt mỡ bánh chưng xanh,dưa hành câu đối đỏ” Hơn thế,gói và nấu bánh chưng ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán,văn hóa sống mãi trong các gia đình người Việt mỗi dịp Tết đến xuân về Sự ra đời và tục lệ làm bánh chưng ngày tết,ngày giổ tổ muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hóa lúa nước. Theo thời gian,nền văn minh công nghiệp đang dần được hình thành song ý nghĩa và vai trò của bánh chưng vẫn còn nguyên vẹn.
Introducing the traditional Tet banh chung Instruct Introducing the traditional Tet banh chung Assignment During the bustling spring days, people's hearts are excited to celebrate the Lunar New Year, everywhere we go, we see a bustling atmosphere of shopping for candy, new clothes, and items to decorate the house. on Tet holiday. But one indispensable dish is banh chung. Banh chung has long been an indispensable cake in the traditional Tet holiday of the Vietnamese people. Banh Chung is intended to express the gratitude of children and grandchildren to their ancestors and to heaven and earth. Legend has it that in the reign of the 6th Hung King, after defeating the An invaders, the king wanted to pass the throne to his son. On the occasion of the beginning of spring The king called the princes together and asked them to bring to their father what they considered the most precious thing to offer to their ancestors' altar on the first day of spring. The princes raced to find delicious and strange things to bring up. Father King, with the hope that he will be given the throne by his father. Meanwhile, Hung King's tenth and third son, Lang Lieu, has a gentle personality and lives close to poor working farmers, so he has nothing precious to offer to his father. One night, Lang Lieu lay in bed. Dreaming about a god coming to show you how to make a type of cake from rice and available foods close to daily life. When he woke up from the dream, he was extremely happy to have followed the god's instructions. On the appointed day, the princes brought food to offer to the ancient tray with countless delicious dishes, spring rolls and phoenixes. Prince Lang Lieu alone had only two. A type of cake made according to God's instructions. Feeling strange, the king's father came to the boy's side and asked. The lang liet told him the story of the god's dream and explained the meaning of the cake. The king's father heard what he said and found it reasonable, so he candled it. Tried it, found it delicious, praised it meaningfully, then named the cakes Banh Chung and Banh Day and passed the throne to Lang Lieu. Making the cake is also very simple. The ingredients for making the cake include: sticky rice, green beans, pork belly, dong leaves (I don't know if there's anything else missing, if it's missing, please help me add it). Sticky rice is usually rice harvested from the crop. This crop's rice grains are larger, rounder, more even and fragrant than other crops. There are also families who have to choose whether to buy yellow flower sticky rice or upland sticky rice. Green beans are often carefully selected. Meat should be chosen meat. Bamboo has both fat and lean meat, giving the filling a rich, fatty taste without being greasy. In addition, you also need spices such as pepper, onions to marinate the meat to make stuffing, salt to mix with rice, green beans and marinate the meat (you should not marinate the meat with water but should marinate the meat with salt because it is marinated with salt). will make the cake go rancid quickly. The leaves used to wrap the cake are usually dong leaves (but depending on the locality, ethnicity, conditions and circumstances, the leaves used to wrap the cake can be chit leaves or both types of leaves). Lattice for tying banh chung often uses lattice from the Giang tree tube. Latchi can be soaked in salt or steamed to soften before wrapping. Before making cakes, careful preparation is required. Each leaf must be washed thoroughly on both sides and wiped dry. Next, use a knife to cut off the length along the spine of the leaf to make it less hard. Remove all the light sticky rice. Other rice grains mixed in, wash clean, soak clean rice in water with 0.3% salt for about 12 hours depending on rice type and weather, then take out and drain. You can shock with salt after soaking instead of Soak in salt water. Break the green beans into small pieces, soak in 40% warm water for 2 hours until soft and bloom, remove the skin, take out and drain. Wash the pork and cut the meat into thin pieces. , salt, pepper or MSG, leave for about two hours for the meat to absorb The cake is often made on the occasion of the traditional Vietnamese Lunar New Year, as well as on the death anniversary of Hung King, the 10th day of the third lunar month. Without banh chung and day cake, the New Year would certainly not be complete. Moreover, wrapping and cooking banh chung while watching a pot of banh chung on the stove has become a custom and culture that lives forever in Vietnamese families every Tet and spring. The birth and custom of making banh chung on Tet and ancestors' anniversaries wants to remind children and grandchildren of the nation's traditions while emphasizing the importance of rice and nature in wet rice culture. Over time, industrial civilization is gradually being formed, but the meaning and role of banh chung remains intact.
Đề bài: Em hãy giới thiệu về chiếc bánh chưng ngày tết ở Việt Nam. Bài làm Tết Nguyên Đán ở Việt Nam là cái Tết cổ truyền đã có tự ngàn xưa với: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Trên bàn thờ ngày Tết của mỗi nhà, nhất thiết phải có bánh chưng. Giai thoại kể rằng hoàng tử Lang Liêu con vua Hùng đã được thẩn linh mách bảo, dùng lá dong, gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn… làm ra thứ bánh này để cúng Trời Đất, Tiên Vương và dâng lên vua cha. Nhờ đó mà chàng được vua cha truyền lại cho ngôi báu. Cũng từ đấy, bánh chưng được dùng để cúng vào dịp Tết. Tục lệ tốt đẹp ấy còn tồn tại cho tới ngày nay. Nhìn chiếc bánh chưng, ta thấy mộc mạc, giản dị vô cùng, nhưng để làm ra nó lại tốn không ít công phu. Cứ đến hàm bảy, hăm tám Tết là các bà phải lo đi chợ mua lá dong cùng với mấy bó lạt giang. Lá dong phải to bản, lành lặn. Tốt nhất là lá dong bánh tẻ, không già, không non thì gói bánh mới đẹp. Lạt giang chẻ sẵn, mỏng và mềm, màu vàng ngà, rất ăn ý với lá dong xanh. Gạo nếp cái hoa vàng vừa dẻo vừa thơm được ngâm từ đêm trước, đem xả rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh đãi sạch vỏ. Thịt lợn xắt miếng to cỡ nửa bàn tay ướp muối, tiêu, hành chó thấm. Lá dong đã được cắt cuống, rửa sạch, lau khô… Tất cả bày sẵn ra chiếc nong, chờ người gói. Cái cắnh gói bánh chưng ngày Tết mới vui vẻ và đầm ấm làm sao! Cả nhà quây quần quanh bà. Bà trải lá ra mâm, đong một bát gạo đổ vào, dàn đều rồi đổ nửa bát đỗ, xếp hai miếng thịt, lại thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nữa. Tay bà khéo léo đãi gạo che kín đỗ và thịt rồi nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó xiết chặt từng chiếc lạt. Chẳng mấy chốc, chiếc bánh chưng đã được gói xong. Suốt một buổi sáng cặm cụi, bận rộn, bà đã gói hết thúng gạo. Bố tôi buộc hai cái thành một cặp rồi xếp vào chiếc nồi thật lớn, chuyên dùng để luộc bánh. Đám trẻ chúng tôi được bà gói cho mỗi đứa một chiếc bánh chưng be bé. Chùm bánh ấy để ở trên cùng và sẽ vớt ra trước nhất. Phía góc sân, bốp lửa đã cháy đều. Năm nào, ông tôi hoặc bố tôi cũng giữ nhiệm vụ canh lửa, canh nước cho nồi bánh chưng. Những gộc tre, gộc củi khô tích trữ quanh năm giờ được đem ra đun. Ngọn lửa nhảy nhót réo ù ù, tàn than tí tách bắn ra xung quanh những chấm đỏ rực trông thật vui mắt. ông tôi bảo phải đun cho lửa cháy thật đều thì bánh mới rền, không bị hấy. Anh em tôi xúm xít bên ông, vừa hơ tay cho khỏi cóng, vừa nghe ông kể chuyện ngày xửa ngày xưa. Đến những đoạn thú vị, ông cười khà khà, rung cả chòm râu bạc. Khó có thể tả nổi niềm sung sướng, hân hoan của lũ trẻ chúng tôi khi được nếm chiếc bánh chưng nhỏ xỉnh, nóng hổi. Nếp dẻo, đỗ bùi, thịt béo… ngon quá là ngon! Tưởng chừng như chẳng có thứ bánh nào ngon hơn thế! Chiều ba mươi Tết, trên bàn thờ đèn nến sáng trưng, hương trầm nghi ngút, những cặp bánh chưng xanh được trân trọng bày bêh cạnh đĩa ngũ quả, hộp trà, hộp mứt, chai rượu… và mâm cỗ tất niên để cúng trời đất, tổ tiên, đón các cụ về ăn Tết cùng con cháu. Nỗi xúc động rưng rưng trong lòng mỗi người. Không khí thiêng liêng của ngày Tết thực sự bắt đầu.
Topic: Please introduce banh chung on Tet holiday in Vietnam. Assignment Lunar New Year in Vietnam is a traditional Tet that has existed since ancient times with: Fatty meat, pickled onions, red parallel sentences. Tree Miraculous, green banh chung. On every home's Tet altar, there must be banh chung. Anecdotes say that Prince Lang Lieu, son of King Hung, was told by the gods to use dong leaves, sticky rice, green beans, pork... to make this cake to worship Heaven and Earth, the Fairy King and present to his father. Thanks to that, his father passed on the throne to him. Since then, banh chung has been used to worship during Tet. That beautiful custom still exists today. Looking at Banh Chung, we see it is extremely rustic and simple, but it takes a lot of effort to make. Every seven or twenty eight days of Tet, women have to go to the market to buy dong leaves along with a few bundles of Lat Giang. The dong leaves must be large and healthy. It is best to use dong leaves, not old or young, to wrap the cake beautifully. Pre-split lat giang, thin and soft, ivory yellow color, goes very well with green dong leaves. The sticky and fragrant yellow flower sticky rice is soaked the night before, rinsed and then shaken to drain. Clean and peel green beans. Cut pork into half-hand-sized pieces, marinate with salt, pepper, and onions. The dong leaves have been stemmed, washed, dried... Everything is laid out on a steamer, waiting for the wrapper. How happy and warm it is to wrap banh chung on Tet! The whole family gathered around her. She spread the leaves on a tray, measured a bowl of rice and poured it in, spread it evenly, then poured half a bowl of beans, placed two pieces of meat, another half bowl of beans, and another bowl of rice. Her hands deftly spread the rice to cover the beans and meat, then gently bent the four corners of the leaf to make it square, then tightened each leaf tightly. Soon, the banh chung was wrapped. During a hard and busy morning, she packed all the baskets of rice. My father tied the two into a pair and put them in a very large pot, specifically used for boiling cakes. For us children, she packed a small banh chung for each of us. That bunch of cakes is on top and will be picked out first. In the corner of the yard, the fire was burning evenly. Every year, my grandfather or my father is also responsible for watching the fire and water for the banh chung pot. Bamboo sticks and dry firewood stored all year round are now boiled. The fire danced and buzzed, the crackling embers shot out around the bright red dots that looked so fun. My grandfather told me to boil the fire until it burns evenly so the cake will crackle and not burn. My brothers and I huddled around him, warming our hands to keep from freezing while listening to him tell stories about the old days. At interesting parts, he laughed loudly, shaking his silver beard. It is difficult to describe the happiness and joy of our children when they tasted the small, hot banh chung. Sticky sticky rice, rich beans, fatty meat... so delicious! It seems like there is no cake more delicious than that! On the afternoon of the thirtieth day of the Lunar New Year, candles and candles were lit on the altar, incense filled the air, pairs of green banh chung were respectfully displayed next to a plate of five fruits, a box of tea, a box of jam, a bottle of wine... and a New Year's Eve feast to worship the heavens. land, ancestors, welcome the elders to celebrate Tet with their children and grandchildren. Emotions welled up in everyone's heart. The sacred atmosphere of Tet really begins.
Giới thiệu về chiếc kính đeo mắt – Văn thuyết minh – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Giới thiệu về chiếc kính đeo mắt Bài làm Với bất kì ai, đôi mắt vừa là cửa sổ tâm hồn, vừa giúp chúng ta quan sát, khám phá tri thức. Cuộc sống sẽ thật vô nghĩa nếu cánh cửa ấy khép lại hoặc đôi mắt không còn tinh anh. Chính vì vậy kính đeo mắt đã ra đời, vừa giúp điều trị các tật khúc xạ, vừa đem lại vẻ đẹp cho người đeo, trở thành một vật dụng không thể thiếu trong đời sống hằng ngày, Kính đeo mắt xuất hiện từ từ kỉ XIII. Năm 1266, ông Rodger Beneon đã dùng kính lúp để nhìn cho rõ các chữ cái trên trang sách. Đến năm 1352, trong một bức chân dung, người ta nhìn thấy Hồng y giáo chủ Jugon đeo kính có hai mắt, buộc vào một cái gọng.. Vào thế kỉ XV, kính được sản xuất ở miền Bắc nước Ý và miền Nam nước Đức. Năm 1629, vua Charler của Anh đã kí sắc lệnh thành lập Hiệp hội các loại kính mắt. Năm 1730, một chuyên gia quang học người Luân Đôn sáng chế ra hai càng để kính có thể gá lên vành tai cho chắc chắn. Sau đó 54 năm, người ta chế tạo ra kính hai tiêu điểm là kính cận và kính viễn. Năm 1827, công nghệ sản xuất kính bắt đầu phát triển, công nghệ làm kính áp tròng cũng manh nha. Khoảng 60 năm sau, một người thợ thuỷ tinh Đức tên là Mile làm ra chiếc kính áp tròng đầu tiên. Ngày nay, phát minh này về cơ bản vẫn còn nguyên giá trị. Kính đeo mắt có nhiều loại. Đối với người bị cận thị, thấu kính lõm sẽ là lựa chọn thích hợp để giảm lượng hội tụ, đưa hình ảnh về trước võng mạc như mắt người bình thường. Ngược với kính cận chủ yếu dành cho người trẻ, kính viễn thường dành cho người có tuổi, bởi khả năng nhìn xa của họ kém dần theo thời gian. Với những người này, thấu kính lồi lại là sự lựa chọn thích hợp. Một số người vừa bị cận, vừa bị viễn, họ sẽ phải đeo kính hai tròng với mắt kính ghép, nửa lồi nửa lõm. Ngoài kính thuốc, công nghệ sản xuất kính thời trang cũng phát triển. Các loại kính râm có nhiều kiểu dáng vuông, tròn, ô van, chữ nhật. Có những loại kính có thể thay đổi màu khi tiếp xúc sới ánh nắng mặt trời, làm giảm độ chói và ảnh hưởng của tia cực tím. Kính đeo mắt đem lại nhiều tác dụng như điều trị tật khúc xạ, tránh bụi, tránh tia cực tím,… Nếu chọn được một chiếc kính phù hợp sẽ tôn thêm vẻ đẹp của khuôn mặt, che lấp các khuyết điểm, tạo sự lịch lãm, thể hiện phần nào tính cách của người đeo. Trong cuộc sống, đôi mắt là nhân tố không thể thiếu để xây dựng tri thức. Có nhìn thấy thì mới ngẫm nghĩ suy luận được. Kính đeo mắt vẫn mãi là bạn thân của con người trên con đường chinh phục đỉnh cao nhân loại. Hãy cùng biến lăng kính của cửa sổ tâm hồn mỗi người trở nên phong phú, hoàn thiện hơn. (Trường THCS Lê Quý Đôn) >> Xem thêm Giới thiệu về chiếc nón Việt Nam tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · Giới thiệu về chiếc kính đeo mắt
Introduction to eyeglasses - Explanatory text - Good essay for grade 8 Instruct Introducing eyeglasses Assignment For anyone, eyes are both the window to the soul and help us observe and discover knowledge. Life will be meaningless if that door is closed or the eyes are no longer sharp. That's why eyeglasses were born, which not only help treat refractive errors but also bring beauty to the wearer, becoming an indispensable item in daily life. Spectacles appeared gradually from the 13th century. In 1266, Mr. Rodger Beneon used a magnifying glass to clearly see the letters on the page. By 1352, in a portrait, people saw Cardinal Jugon wearing glasses with two eyes, tied to a frame. In the 15th century, glasses were produced in Northern Italy and Southern Italy. Virtue. In 1629, King Charler of England signed a decree establishing the Eyeglasses Association. In 1730, a London optics expert invented two glasses that could be securely placed on the ear lobe. 54 years later, people created bifocal glasses: nearsighted glasses and farsighted glasses. In 1827, glass production technology began to develop, and contact lens making technology also emerged. About 60 years later, a German glassmaker named Mile made the first contact lens. Today, this invention is still basically intact. There are many types of eyeglasses. For people with nearsightedness, concave lenses will be the appropriate choice to reduce the amount of convergence, bringing the image in front of the retina like normal human eyes. In contrast to nearsighted glasses, which are mainly for young people, farsighted glasses are usually for older people, because their ability to see far deteriorates over time. For these people, convex lenses are the right choice. Some people are both nearsighted and farsighted, so they will have to wear bifocal glasses with compound lenses, half convex and half concave. In addition to prescription glasses, fashion eyeglass production technology has also developed. Sunglasses come in many shapes: square, round, oval, and rectangular. There are glasses that can change color when exposed to sunlight, reducing glare and the effects of ultraviolet rays. Eyeglasses have many effects such as treating refractive errors, avoiding dust, avoiding ultraviolet rays, etc. If you choose a suitable pair of glasses, they will enhance the beauty of your face, cover up flaws, and create elegance. shows off the wearer's personality. In life, eyes are an indispensable factor in building knowledge. Only when you see it can you think and reason. Eyeglasses are still man's best friend on the path to conquering the pinnacle of humanity. Let's make the lens of the window of each person's soul richer and more perfect. (Le Quy Don Secondary School) >> See more Introduction to Vietnamese hats here. Tags: Good essay for grade 8 · Introduction to eyeglasses
Giới thiệu về chiếc nón Việt Nam – Văn thuyết minh – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Giới thiệu về chiếc nón Việt Nam Bài làm Chúng ta ai cũng biết, cùng với áo dài, váy lĩnh, yếm đào,… chiếc nón lá đã trở thành trang phục truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Họa sĩ Đặng Mậu Tiêu cho biết, lịch sử nón Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn, có những biến thiên, từ nón hình tròn, nón tròn dẹt (nón quai thao), đến nón hình chóp như hiện nay về mặt tạo hình, hình chóp tạo khối vững vàng trong không gian và tính thẩm mĩ cao. Nón có chiều sâu nên vừa che được nắng vừa tạo sự gọn gàng duyên dáng. Từ xa xưa, nón lá đã xuất hiện trong đời sống sinh hoạt của người Việt cổ. Chúng ta có thể nhìn thấy hình ảnh chiếc nón đầu tiên trên trống đồng Ngọc Lũ, thạp đồng Đào Thịnh, cách đây khoảng 2500 – 3000 năm. Nón được làm từ nhiều loại lá khác nhau như lá cọ, lá hồi, lá hồ, lá du quy diệp. Trước đây có nhiều loại nón, có loại nón làm từ lá dứa, gọi là nón ngựa hay nón Gò Găng, sản xuất tại Bình Định, chuyên dùng đội khi cưỡi ngựa. Người miền Bắc có nón quai thao, dùng khi đi hội. Ở Huế có nón bài thơ. Lính tráng thời xưa hay đội một loại nón gọi là nón dấu. Ngoài ra còn phải kể đến nón rơm, làm từ cọng rơm ép cứng; nón khua, dùng cho người hầu các quan lại… Cùng với sự phát triển của lịch sử, nhiều loại nón không còn nữa. Hiện nay, chúng ta thường dùng nón đan hình chóp. Loại nón này có ở cả ba miền nhưng nơi sản xuất chính là Huế và làng Chuông (huyện Thanh Oai, Hà Nội). Nón Huế trở thành biểu trưng cho vẻ đẹp dịu dàng, thanh mảnh, duyên dáng của người con gái Huế. Nghề làm nón ở Huế xuất hiện từ bao giờ? Ai là sư tổ nghề này?… Ở miền Bắc có một làng nghề nổi tiếng làm nón từ xưa đến nay, đó là làng Chuông thuộc Hà Nội. Những chiếc nón được làm ở đây gọi là nón Chuông. Nón làng Chuông bền và đẹp, một vẻ đẹp rất riêng không thể trộn lẫn với bất cứ nón ở nơi nào. Nón Chuông đã từng là vật để cung tiến hoàng hậu, công chúa, và cũng từng là kỉ vật của các cô gái khi lên xe hoa về nhà chồng. Ngày nay, nón làng Chuông có mặt ở khắp mọi nơi. Cũng như nón Huế, nón Chuông hiện cũng thành món quà kỉ niệm của các du khách quốc tế. Người Việt từ nông thôn đến thành thị đều dùng nón lá nhưng có mấy ai để ý nón có bao nhiêu vành, đường kính bao nhiêu cm? Nón lá tuy giản dị, rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón rất công phu, cần sự khéo tay, tỉ mỉ. Lá lợp nón được mua từ vùng núi, vùng trung du. Lá tươi phải được vò trong cát, sau đó phơi nắng hay sấy trong lò cho lá khô, chuyển từ màu xanh sang màu trắng rồi hơ qua một lượt diêm sinh cho lá bền, không mốc. Cuối cùng, công đoạn quan trọng và khó nhất, thường do những người thợ giỏi đảm nhiệm, đó là khâu nón. Nón khâu không khéo, lá sẽ không phẳng, thậm chí còn bị rách hoặc phồng rộp. Khi khâu nón, các cô gái cũng không quên trang trí cho nón, đơn giản chỉ là dán vào mặt trong của nón những hình ảnh đẹp nhiều màu sắc, được in sẵn trên giấy. Tinh tế hơn, các cô dùng chỉ màu khâu giăng mắc ở hai điểm đối diện trong lòng nón để từ đó buộc dải lụa mềm làm quai nón. Các cô gái xưa chăm chút chiếc nón như một vật trang sức. Thỉnh thoảng, người ta gắn lên đỉnh lòng nón một mảnh gương nho nhỏ, chỉ cần nghiêng vành nón là các cô đã ngắm được dung nhan của mình. Nón trở thành một trang phục truyền thống trên khắp mọi miền đất nước. Nón cũng là biểu tượng của quê hương đất nước. Nếu ở nơi nào đó trên thế giới, bạn nhìn thấy thấp thoáng chiếc nón trắng thì đó chính là tín hiệu Việt Nam. Vũ Lê Mai (Trường THCS Nguyễn Huy Tưởng) >> Xem thêm Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · Giới thiệu về chiếc nón Việt Nam
Introduction to Vietnamese hats - Explanatory text - Good essay for grade 8 Instruct Introducing Vietnamese hats Assignment We all know that, along with ao dai, long skirt, peach bib, etc., the conical hat has become the traditional costume of Vietnamese women. Artist Dang Mau Tieu said that the history of Vietnamese hats has gone through many stages, with variations, from round hats, flat round hats (quai Thao hats), to today's pyramidal hats in terms of shape. The pyramid shape creates a solid block in space and is highly aesthetic. The hat has depth so it can both block the sun and create a neat and graceful look. Since ancient times, conical hats have appeared in the daily life of ancient Vietnamese people. We can see the image of the first hat on Ngoc Lu bronze drums and Dao Thinh bronze jars, about 2500 - 3000 years ago. Cones are made from many different types of leaves such as palm leaves, anise leaves, lake leaves, and elm leaves. In the past, there were many types of hats, including hats made from pandan leaves, called horse hats or Go Gang hats, made in Binh Dinh, specifically used when riding horses. Northern people have sport hats that they use when going to festivals. In Hue, there are poem hats. Ancient soldiers often wore a type of hat called a hat. There are also straw hats, made from pressed straw; Branded hats, used for servants of mandarins... Along with the development of history, many types of hats no longer exist. Nowadays, we often use pyramid-shaped knitted hats. This type of hat is available in all three regions, but the main production place is Hue and Chuong village (Thanh Oai district, Hanoi). Hue hats have become a symbol of the gentle, slender and graceful beauty of Hue girls. When did the hat making profession in Hue appear? Who is the master of this profession?… In the North, there is a famous hat-making village from ancient times to present, which is Chuong village in Hanoi. The hats made here are called Bell hats. Chuong village hats are durable and beautiful, a very unique beauty that cannot be mixed with any other hat anywhere. The Bell Hat was once a gift to queens and princesses, and was also a keepsake for girls when getting married to their husband's house. Today, Chuong village hats are everywhere. Like Hue hats, Bell hats are now also a souvenir for international tourists. Vietnamese people from rural to urban areas all use conical hats, but how many people pay attention to how many brims and how many centimeters in diameter the hat has? Although conical hats are simple and cheap, the art of making conical hats is very elaborate, requiring skill and meticulousness. Conical roofing leaves are purchased from mountainous and midland regions. Fresh leaves must be crushed in sand, then dried in the sun or in the oven until the leaves dry, turning from green to white and then heated with brimstone to make the leaves durable and not moldy. Finally, the most important and difficult step, usually performed by skilled workers, is sewing hats. If the hat is not sewn well, the leaves will not be flat, and may even be torn or blistered. When sewing hats, girls don't forget to decorate the hats, simply by pasting beautiful, colorful images pre-printed on paper onto the inside of the hat. More delicately, they use colored thread to sew on two opposite points in the heart of the hat to tie a soft silk strip to make the hat's straps. Ancient girls took care of their hats like a piece of jewelry. Sometimes, people attach a small mirror to the top of the hat. Just tilt the brim of the hat and you can see your face. Hats have become a traditional outfit in all parts of the country. Hats are also a symbol of the homeland. If somewhere in the world, you see a glimpse of a white hat, that is the signal for Vietnam. Vu Le Mai (Nguyen Huy Tuong Secondary School) >> See more Introduction to Vietnamese ao dai here. Tags: Good essay for grade 8 · Introduction to Vietnamese hats
Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam – Văn thuyết minh – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam Bài làm 1 “Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố đã thấy tâm hồn quê hương ở đó”. Áo dài đã trở thành một nét đẹp, một trang phục truyền thông của người Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam đẹp hơn, duyên dáng hơn trong tà áo dài thướt tha, mềm mại. Chiếc áo dài đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều người trên thế giới, ai cũng muốn khám phá, tìm hiểu một nét đẹp truyền thống này. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự hình thành và ra đời của chiếc áo dài. Áo dài tứ thân miền Bắc là chiếc áo dài đầu tiên của người Việt Nam chỉ mặc vào những dịp lễ tết. Áo nâu với hai vạt trước buộc chéo thả xuống đi với quần lĩnh đen và thắt lưng lụa. Rồi áo tứ thân biến thành áo mớ ba mớ bảy. Cổ áo cao khoảng 2 cm, tay may bó khít cổ tay, chiều rộng ngực eo bằng nhau, điểm khác biệt là ngoài hai vạt áo chính còn có vạt phụ (vạt con) dài sát gấu áo. Khuy áo được tết bằng vải, cài cúc cạnh sườn, cổ áo lật chéo để lộ ba màu áo (hoặc bấy màu áo). Lớp ngoài cùng thường là lụa màu nâu hoặc the màu thâm, kế tiếp là màu mỡ gà, cánh sen, vàng chanh, hồ thuỷ,… nhiều màu, hấp dẫn mà vẫn nền nã, kín đáo, hài hoà. Đến năm 1935, áo dài được vách tân thành áo dài vai bằng, tay măng – sết, cổ tròn khoét sâu đến ngực, viền đặng ten. Gấu áo cắt sóng lượn nối vải khác màu hoặc đính ren diêm dúa. Năm 1995, áo dài được cách tân phù hợp với thời đại và đẹp hơn, tay áo dài ôm vừa sát tay. Áo dài nhung, thêu, vẽ, in bông,… đã tạo nên những vẻ đẹp kiêu sa hơn nữa nâng cánh áo dài Việt Nam như bay lên. Những năm sau đó, áo dài không thay đổi nhiều lắm. Thỉnh thoảng cách mặc đổi mới, ví dụ như quần mặc với áo đồng màu. Có giả thiết cho rằng áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc do năm 1744 chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong khi xưng vương bắt các quan dân Thuận Quảng phải mặc lễ phục lấy mẫu từ sách Tam Tài Đồ Hội của nhà Minh – Trung Quốc. Nhưng áo dài là loại trang phục riêng của người Việt vì những khi lễ lạt, người xưa phải mặc loại áo này. Như vậy chưa ai khẳng định được áo dài Việt Nam xuất hiện từ khi nào và thế nào. Nhưng trải qua năm tháng, áo dài đã dần dần trở thành một thứ trang phục đặc biệt của riêng người Việt. Áo dài Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn và đã có nhiều thay đổi nhưng không ai có thể đưa ra một chuẩn mực cụ thể cho chiếc áo dài. Bởi lẽ, các cụ ngày xưa đã phải bỏ ra nhiều công sức để tìm ra sự phối hợp giữa các màu sắc, các giá trị thẩm mĩ với phong tục tập quán của dân gian. Ví dụ như thấy cổ người Việt không cao lắm, người xưa đã may áo cổ thấp và ôm sát, tóc thì vấn cao lên để tôn vẻ đẹp của người phụ nữ. Chiếc áo dài dù biến động qua nhiều thời kì lịch sử, có những cách tân khác nhau nhưng phần nhiều chỉ thay đổi về chất vải, hoa văn. Còn kiểu dáng thì về cơ bản vẫn là ôm sát thân, chít eo nhằm tôn vóc dáng của người phụ nữ. Chiếc áo dài trông mặc lên thì thật đơn giản nhưng để may được, phù hợp với người mặc thì không đơn giản chút nào. Nếu chứng kiến các nhà may thì chúng ta thấy may được một chiếc áo dài mất khá nhiều công. Nhắc đến Việt Nam, bạn bè năm châu nhớ ngay đến áo dài. Đó là niềm tự hào, là nét đẹp riêng của người Việt. Người phụ nữ nào cũng phải có ít nhất là hai bộ áo dài cho mình trong cả cuộc đời. Người Hà Nội xưa cứ ra khỏi nhà là mặc áo dài thế nên có phụ nữ sở hữu đến gần trăm bộ áo dài. Điều đó để nói lên rằng đây là trang phục thân thiện, hoàn hảo nhất của người Việt. Nó mãi là hình ảnh đẹp, đặc trưng cho người phụ nữ Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và mãi mai về sau. Hàn Thị Thu Nguyệt (Trường THCS Khương Đình) Bài làm 2 Với người phụ nữ Việt Nam, áo dài đã trở thành một trang phục truyền thống. Chiếc áo đã tôn vinh vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ Việt. Nó được nâng niu yêu quý như một nét văn hoá đầy bản sắc. Áo dài được coi là trang phục truyền thống của người dân Việt nhưng chủ yếu dành cho phụ nữ. Áo che kín thân người, từ cổ đến quá đầu gối hoặc sát xuống gần mắt cá chân. Trang phục này thường được mặc trong các dịp nghi lễ hay cưới hỏi. Không ai biết chiếc áo dài nguyên thuỷ ra đời từ khi nào và hình dáng ra sao. Nhưng y phục xa xưa nhất của người Việt được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ cho thấy, tổ tiên ta đã mặc áo dài với hai tà xẻ. Chiếc áo được coi là sơ khai của áo dài là áo giao lãnh. Áo giao lãnh tương tự như áo tứ thân nhưng hai thân trước giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, thường là yếm đào mặc với váy tơ đen, thắt lưng màu hồng hoặc màu xanh nõn buông thả. Ban đầu thì các bà, các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài. Nhưng sau này, khi mặc áo giao lãnh thì người phụ nữ vấn tóc để đội khăn hay đội nón lá, nón thúng. Chân có thể đi đất hoặc đi guốc, giày dép. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán nên chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành áo tứ thân. Áo có bốn vạt nửa, hai nửa thân trước và hai nửa thân sau, hai vạt trước được buộc lại gọn gàng. Áo dài này thường mặc với áo yếm, với váy xắn quai cồng để tiện cho việc buôn bán, đồng áng nhưng không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ. Áo tứ thân thích hợp cho phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng từ việc buôn bán đến việc đồng áng. Nhưng sau đó, người phụ nữ tỉnh thành đã cách tân chiếc áo tứ thân thành áo ngũ thân, nhằm làm mất đi vẻ dân dã, quê mùa, tăng thêm vẻ sang trọng, đài các. Áo ngũ thân được biến cải ở chỗ: vạt thân trước được thu bé lại thành vạt con, thêm một thứ năm be bé ở dưới vạt trước để không hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống thành bốn, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Có nhiều ý kiến cho rằng, việc ra đời chiếc áo dài có vai trò của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nhằm tách Đàng Trong thành một quốc gia riêng, chúa đã chủ trương cho Đàng Trong ăn mặc khác với Đàng Ngoài, sắc dụ chúa ban “Thường phục thì đàn ông, đàn bà mặc áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống rộng hay hẹp tuỳ tiện. Áo thì từ nách trở xuống được khâu kín liền, không xẻ mổ”. Quy định đó đã định hình cho chiếc áo dài Việt Nam. Để chế ra chiếc áo dài Việt Nam, các triều thần đã phối hợp từ mẫu áo của người Chăm với mẫu áo của người phụ nữ Thượng Hải. Đến đầu thế kỉ XX, chiếc áo ngũ thân đã được sử dụng rất phổ biến. Trải qua chặng đường dài lịch sử, nó đã trở thành chiếc áo truyền thống như ngày nay. Nhìn lại cả chặng đường lịch sử từ đầu thế kỉ XX đến nay, sự thay đổi của chiếc áo dài chính là sa tanh trắng. Nhưng chiếc áo quá lai căng với kiểu cổ tròn, cổ trái tim, tay bằng,… chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, đến năm 1943 thì nó không xuất hiện nữa. Năm 1934, hoạ sĩ Lê Phổ đã bớt đi những nét quá hiện đại, lai căng của chiếc áo này và thêm vào đó những nét dân tộc để tạo ra một kiểu áo mới. Áo có thêm cúc cài cuối thân. Kiểu áo này được các bà, các cô nồng nhiệt tiếp nhận. Từ đây, chiếc áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó. Chiếc áo dài sau đó cũng có nhiều thay đổi. Những năm 60, Trần Lệ Xuân ở miền Nam Việt Nam cho ra đời kiểu áo dài mi ni với vạt thu nhỏ, tà xẻ cao, cổ thuyền hoặc cổ tròn. Trải qua thời gian, chiếc áo dài có sự thay đổi nhưng nhìn chung nó vẫn giữ nguyên được hình hài ban đầu. Hiện nay, áo có các phần chính như thân áo, tay áo, cổ áo. Thân áo có hai thân, thân trước và thân sau. Thân trước có hai li ngực và hai li chiết eo để làm tăng thêm vẻ đẹp cho đường cong của người phụ nữ. Tà áo được khâu bằng tay cho mềm mại. Hai thân áo giao nhau với phần tay và phần cổ. Cổ áo nguyên bản là cổ đứng, cao từ 3 đến 7 phân. Tay áo được nối với thân sau và thân trước. Để có được một chiếc áo dài đẹp thì không phải dễ dàng nên các nhà may rất tỉ mỉ, họ chia ra làm nhiều công đoạn. Đầu tiên, rất tỉ mỉ, họ lấy số đo của khách và mạy lược theo các số đo này. Lần thứ hai, khách đến thử áo, nhà may sẽ đánh dấu những chỗ khách chưa vừa ý để chỉnh sửa lại. Đến lần thứ ba khách mới lấy được áo nhưng chiếc áo sẽ như ý của chính mình. Chiếc áo dài có một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của người dân Việt. Nó được sử dụng trong các cuộc thi sắc đẹp, trong ngày lễ hội,… Nó đã được UNESCO công nhận là “Di sản văn hoá phi vật thể” của thế giới. Ngày nay, mặc dù có nhiều trang phục hiện đại nhưng chiếc áo dài vẫn luôn gần gũi, quen thuộc với người Việt. Chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn, gìn giữ và phát triển để áo dài mãi mãi là biểu tượng của Việt Nam. Nguyễn Thị Kim Oanh (Trường THCS Nguyễn Huy Tưởng) >> Xem thêm Thuyết minh về một đồ dùng học tập – Sách tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam
Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam – Văn thuyết minh – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam Bài làm 1 “Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố đã thấy tâm hồn quê hương ở đó”. Áo dài đã trở thành một nét đẹp, một trang phục truyền thông của người Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam đẹp hơn, duyên dáng hơn trong tà áo dài thướt tha, mềm mại. Chiếc áo dài đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều người trên thế giới, ai cũng muốn khám phá, tìm hiểu một nét đẹp truyền thống này. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự hình thành và ra đời của chiếc áo dài. Áo dài tứ thân miền Bắc là chiếc áo dài đầu tiên của người Việt Nam chỉ mặc vào những dịp lễ tết. Áo nâu với hai vạt trước buộc chéo thả xuống đi với quần lĩnh đen và thắt lưng lụa. Rồi áo tứ thân biến thành áo mớ ba mớ bảy. Cổ áo cao khoảng 2 cm, tay may bó khít cổ tay, chiều rộng ngực eo bằng nhau, điểm khác biệt là ngoài hai vạt áo chính còn có vạt phụ (vạt con) dài sát gấu áo. Khuy áo được tết bằng vải, cài cúc cạnh sườn, cổ áo lật chéo để lộ ba màu áo (hoặc bấy màu áo). Lớp ngoài cùng thường là lụa màu nâu hoặc the màu thâm, kế tiếp là màu mỡ gà, cánh sen, vàng chanh, hồ thuỷ,… nhiều màu, hấp dẫn mà vẫn nền nã, kín đáo, hài hoà. Đến năm 1935, áo dài được vách tân thành áo dài vai bằng, tay măng – sết, cổ tròn khoét sâu đến ngực, viền đặng ten. Gấu áo cắt sóng lượn nối vải khác màu hoặc đính ren diêm dúa. Năm 1995, áo dài được cách tân phù hợp với thời đại và đẹp hơn, tay áo dài ôm vừa sát tay. Áo dài nhung, thêu, vẽ, in bông,… đã tạo nên những vẻ đẹp kiêu sa hơn nữa nâng cánh áo dài Việt Nam như bay lên. Những năm sau đó, áo dài không thay đổi nhiều lắm. Thỉnh thoảng cách mặc đổi mới, ví dụ như quần mặc với áo đồng màu. Có giả thiết cho rằng áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc do năm 1744 chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong khi xưng vương bắt các quan dân Thuận Quảng phải mặc lễ phục lấy mẫu từ sách Tam Tài Đồ Hội của nhà Minh – Trung Quốc. Nhưng áo dài là loại trang phục riêng của người Việt vì những khi lễ lạt, người xưa phải mặc loại áo này. Như vậy chưa ai khẳng định được áo dài Việt Nam xuất hiện từ khi nào và thế nào. Nhưng trải qua năm tháng, áo dài đã dần dần trở thành một thứ trang phục đặc biệt của riêng người Việt. Áo dài Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn và đã có nhiều thay đổi nhưng không ai có thể đưa ra một chuẩn mực cụ thể cho chiếc áo dài. Bởi lẽ, các cụ ngày xưa đã phải bỏ ra nhiều công sức để tìm ra sự phối hợp giữa các màu sắc, các giá trị thẩm mĩ với phong tục tập quán của dân gian. Ví dụ như thấy cổ người Việt không cao lắm, người xưa đã may áo cổ thấp và ôm sát, tóc thì vấn cao lên để tôn vẻ đẹp của người phụ nữ. Chiếc áo dài dù biến động qua nhiều thời kì lịch sử, có những cách tân khác nhau nhưng phần nhiều chỉ thay đổi về chất vải, hoa văn. Còn kiểu dáng thì về cơ bản vẫn là ôm sát thân, chít eo nhằm tôn vóc dáng của người phụ nữ. Chiếc áo dài trông mặc lên thì thật đơn giản nhưng để may được, phù hợp với người mặc thì không đơn giản chút nào. Nếu chứng kiến các nhà may thì chúng ta thấy may được một chiếc áo dài mất khá nhiều công. Nhắc đến Việt Nam, bạn bè năm châu nhớ ngay đến áo dài. Đó là niềm tự hào, là nét đẹp riêng của người Việt. Người phụ nữ nào cũng phải có ít nhất là hai bộ áo dài cho mình trong cả cuộc đời. Người Hà Nội xưa cứ ra khỏi nhà là mặc áo dài thế nên có phụ nữ sở hữu đến gần trăm bộ áo dài. Điều đó để nói lên rằng đây là trang phục thân thiện, hoàn hảo nhất của người Việt. Nó mãi là hình ảnh đẹp, đặc trưng cho người phụ nữ Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và mãi mai về sau. Hàn Thị Thu Nguyệt (Trường THCS Khương Đình) Bài làm 2 Với người phụ nữ Việt Nam, áo dài đã trở thành một trang phục truyền thống. Chiếc áo đã tôn vinh vẻ đẹp cao quý của người phụ nữ Việt. Nó được nâng niu yêu quý như một nét văn hoá đầy bản sắc. Áo dài được coi là trang phục truyền thống của người dân Việt nhưng chủ yếu dành cho phụ nữ. Áo che kín thân người, từ cổ đến quá đầu gối hoặc sát xuống gần mắt cá chân. Trang phục này thường được mặc trong các dịp nghi lễ hay cưới hỏi. Không ai biết chiếc áo dài nguyên thuỷ ra đời từ khi nào và hình dáng ra sao. Nhưng y phục xa xưa nhất của người Việt được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ cho thấy, tổ tiên ta đã mặc áo dài với hai tà xẻ. Chiếc áo được coi là sơ khai của áo dài là áo giao lãnh. Áo giao lãnh tương tự như áo tứ thân nhưng hai thân trước giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, thường là yếm đào mặc với váy tơ đen, thắt lưng màu hồng hoặc màu xanh nõn buông thả. Ban đầu thì các bà, các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài. Nhưng sau này, khi mặc áo giao lãnh thì người phụ nữ vấn tóc để đội khăn hay đội nón lá, nón thúng. Chân có thể đi đất hoặc đi guốc, giày dép. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán nên chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành áo tứ thân. Áo có bốn vạt nửa, hai nửa thân trước và hai nửa thân sau, hai vạt trước được buộc lại gọn gàng. Áo dài này thường mặc với áo yếm, với váy xắn quai cồng để tiện cho việc buôn bán, đồng áng nhưng không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ. Áo tứ thân thích hợp cho phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng từ việc buôn bán đến việc đồng áng. Nhưng sau đó, người phụ nữ tỉnh thành đã cách tân chiếc áo tứ thân thành áo ngũ thân, nhằm làm mất đi vẻ dân dã, quê mùa, tăng thêm vẻ sang trọng, đài các. Áo ngũ thân được biến cải ở chỗ: vạt thân trước được thu bé lại thành vạt con, thêm một thứ năm be bé ở dưới vạt trước để không hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống thành bốn, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Có nhiều ý kiến cho rằng, việc ra đời chiếc áo dài có vai trò của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nhằm tách Đàng Trong thành một quốc gia riêng, chúa đã chủ trương cho Đàng Trong ăn mặc khác với Đàng Ngoài, sắc dụ chúa ban “Thường phục thì đàn ông, đàn bà mặc áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống rộng hay hẹp tuỳ tiện. Áo thì từ nách trở xuống được khâu kín liền, không xẻ mổ”. Quy định đó đã định hình cho chiếc áo dài Việt Nam. Để chế ra chiếc áo dài Việt Nam, các triều thần đã phối hợp từ mẫu áo của người Chăm với mẫu áo của người phụ nữ Thượng Hải. Đến đầu thế kỉ XX, chiếc áo ngũ thân đã được sử dụng rất phổ biến. Trải qua chặng đường dài lịch sử, nó đã trở thành chiếc áo truyền thống như ngày nay. Nhìn lại cả chặng đường lịch sử từ đầu thế kỉ XX đến nay, sự thay đổi của chiếc áo dài chính là sa tanh trắng. Nhưng chiếc áo quá lai căng với kiểu cổ tròn, cổ trái tim, tay bằng,… chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, đến năm 1943 thì nó không xuất hiện nữa. Năm 1934, hoạ sĩ Lê Phổ đã bớt đi những nét quá hiện đại, lai căng của chiếc áo này và thêm vào đó những nét dân tộc để tạo ra một kiểu áo mới. Áo có thêm cúc cài cuối thân. Kiểu áo này được các bà, các cô nồng nhiệt tiếp nhận. Từ đây, chiếc áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó. Chiếc áo dài sau đó cũng có nhiều thay đổi. Những năm 60, Trần Lệ Xuân ở miền Nam Việt Nam cho ra đời kiểu áo dài mi ni với vạt thu nhỏ, tà xẻ cao, cổ thuyền hoặc cổ tròn. Trải qua thời gian, chiếc áo dài có sự thay đổi nhưng nhìn chung nó vẫn giữ nguyên được hình hài ban đầu. Hiện nay, áo có các phần chính như thân áo, tay áo, cổ áo. Thân áo có hai thân, thân trước và thân sau. Thân trước có hai li ngực và hai li chiết eo để làm tăng thêm vẻ đẹp cho đường cong của người phụ nữ. Tà áo được khâu bằng tay cho mềm mại. Hai thân áo giao nhau với phần tay và phần cổ. Cổ áo nguyên bản là cổ đứng, cao từ 3 đến 7 phân. Tay áo được nối với thân sau và thân trước. Để có được một chiếc áo dài đẹp thì không phải dễ dàng nên các nhà may rất tỉ mỉ, họ chia ra làm nhiều công đoạn. Đầu tiên, rất tỉ mỉ, họ lấy số đo của khách và mạy lược theo các số đo này. Lần thứ hai, khách đến thử áo, nhà may sẽ đánh dấu những chỗ khách chưa vừa ý để chỉnh sửa lại. Đến lần thứ ba khách mới lấy được áo nhưng chiếc áo sẽ như ý của chính mình. Chiếc áo dài có một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của người dân Việt. Nó được sử dụng trong các cuộc thi sắc đẹp, trong ngày lễ hội,… Nó đã được UNESCO công nhận là “Di sản văn hoá phi vật thể” của thế giới. Ngày nay, mặc dù có nhiều trang phục hiện đại nhưng chiếc áo dài vẫn luôn gần gũi, quen thuộc với người Việt. Chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn, gìn giữ và phát triển để áo dài mãi mãi là biểu tượng của Việt Nam. Nguyễn Thị Kim Oanh (Trường THCS Nguyễn Huy Tưởng) >> Xem thêm Thuyết minh về một đồ dùng học tập – Sách tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam
Đề bài: Nhà em có một chiếc đồng hồ báo thức dùng để hẹn giờ. Em hãy viết bài văn giới thiệu về chiếc đồng hồ báo thức của em cho mọi người cùng nghe. Bài làm Một người bạn thân thiết của em là chiếc đồng hồ báo thức. Sáng sáng, cứ đúng 5 giờ 30 phút là một hồi chuông lanh lảnh vang lên. Em mở bừng mắt, vươn vai mấy cái cho tỉnh ngủ rồi chạy xuống sân tập thể dục. Sau khi báo thức, chiếc đồng hồ lại cần mẫn làm công việc đếm thời gian của mình: tích tắc, tích tắc, tích tắc… Chiếc đồng hồ đã có mặt trong gia đình em từ lâu lắm rồi. Ông nội kể lại rằng khi bố em chuẩn bị thi vào đại học, ông đã mua chiếc đồng hồ này để cho bố em chủ động giờ giấc ôn bài. Bao năm tháng đã qua, chiếc đồng hồ vẫn đứng nguyên trên mặt bàn học kê gần cửa sổ. Đồng hồ này hiệu Jacke của Pháp, hình tròn, lớn bằng chiếc bát ăn cơm. Lớp vỏ bằng sắt tráng bạc. Mặt số gồm mười hai chữ số và ba cây kim. Kim chỉ giờ ngắn và to nhất, kế đến là kim phút dài và mảnh. Kim giây chỉ nhỏ bằng cây tăm, chuyển động nhanh nhất; Phía trên là một mặt số thu nhỏ chỉ có cây kim giờ. Muốn đồng hồ báo thức vào giờ nào, chỉ cần lên giây cót và để kim đúng vào giờ đó. Các đồ vật trong nhà tuy bình thường, giản dị nhưng đều có ích cho cuộc sống lao động và học tập của mỗi người. Em yêu quý và giữ gìn chúng thật cẩn thận.
Topic: My house has an alarm clock that I use to set time. Write an essay introducing your alarm clock for everyone to listen to. Assignment A close friend of mine is the alarm clock. Every morning, at exactly 5:30 a.m., a sharp bell rings. I opened my eyes, stretched a few times to wake myself up, then ran down to the gym to exercise. After the alarm, the watch diligently does its job of counting time: tick, tick, tick... The watch has been in my family for a long time. My grandfather told me that when my father was preparing to take the university entrance exam, he bought this watch so that he could proactively study time. Many years have passed, the clock still stands on the study table near the window. This watch is a Jacke brand from France, round in shape, as big as a rice bowl. The shell is made of silver-coated iron. The dial consists of twelve digits and three hands. The hour hand is the shortest and largest, followed by the long and thin minute hand. The second hand is only as small as a toothpick and moves the fastest; Above is a miniature dial with only an hour hand. If you want the alarm clock to be at any time, just wind it up and put the hands at the correct time. Although the objects in the house are normal and simple, they are all useful for each person's working and studying life. I love and preserve them carefully.
Đề bài: Em hãy viết bài văn giới thiệu về chú chó nhà em nuôi. Bài làm Năm ngoái, bác Đạt mang từ quê lên cho em một chú cún hai tháng tuổi. Vừa nhìn nó, em đã thích ngay, ôi, chú cún mới xinh làm sao! Em đặt tên cho nó là Tô-ny và nhận nuôi dưỡng nó. Tô-ny lớn nhanh như thổi. Giờ đây, nó đã là một chú chó trưởng thành với hình dáng rất cân đối. Toàn thân nó phủ một lớp lông màu vàng nâu. Hai tai nhọn. Đôi mắt to và sáng. Lỗ mũi đen ướt, đánh hơi rất thính. Cái lưỡi màu hồng thè dài và hàm răng trắng bóng với bốn răng nanh cong và nhọn. Tô-ny có dáng giống như chó săn, ức nở, bụng thon, bốn chân cao, gân guốc và vững chãi. Cái đuôi xù cuốn tròn thành chữ o trên lưng. Nó đi đứng nhẹ nhàng và chạy rất nhanh. Sáng sáng, Tô-ny nô giỡn với chú mèo tam thể trên sân. Chúng đuổi nhau, vờn nhau không biết chán. Thấm mệt, Tô-ny trèo lên thềm, nằm sấp gác mõm lên hai chân trước, lim dim ngủ. Chớ vội tưởng lầm là nó ngủ say nhé! Tuy lơ mơ thế nhưng tai nó không bỏ sót một tiếng động nào. Chỉ cần có tiếng bước chân nhè nhẹ ngoài rào là nó đứng phắt dậy, linh hoạt hẳn lên. Nếu là người lạ, lập tức nó cất tiếng sủa vang. Còn người quen đi đâu về là nó chạy ra, vẫy đuôi-mừng tíu tít.
Topic: Write an essay introducing the dog you raise. Assignment Last year, Uncle Dat brought me a two-month-old puppy from the countryside. As soon as I saw it, I immediately liked it, oh, what a beautiful puppy! I named it To-ny and adopted it. Tony grew up so fast. Now, it is an adult dog with a very balanced shape. Its whole body is covered with a layer of yellow-brown fur. Two pointed ears. The eyes are big and bright. Black, wet nostrils, very keen sense of smell. A long pink tongue and shiny white teeth with four curved and pointed fangs. To-ny has a figure like a hunting dog, with a broad chest, a slim belly, and four tall, sinewy and sturdy legs. The bushy tail curls into an o on the back. It walks lightly and runs very fast. Every morning, Tony plays with the calico cat in the yard. They chase each other and play with each other without getting bored. Feeling tired, Tony climbed up the steps, lay on his stomach, put his muzzle on his front legs, and half-asleep. Don't be so quick to think it's fast asleep! Although drowsy, his ears did not miss a single sound. Just the sound of light footsteps outside the fence makes it stand up and become more flexible. If it is a stranger, it will immediately start barking loudly. Everywhere an acquaintance comes back, he runs out, wagging his tail, happily.
Đề bài: Giới thiệu về chợ hoa tết ở Sài Gòn. Bài làm Từ 20 tháng Chạp (tháng 12 Âm lịch) trở đi, có thể nói Sài Gòn giống như một vườn hoa khổng lồ. Từ chợ lớn đến chợ nhỏ, chỗ nào cũng có hoa bán. Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long theo đường sông, đường bộ đưa lên. Hoa từ Hà Nội chuyển bằng tàu hoả, máy bay mang vào. Nhiều nhất vẫn là hoa Đà Lạt được chở bằng xe tải về thành phố. Từ ba, bốn tháng trước Tết, các chủ vườn đã tính toán trồng loại hoa nào, số lượng bao nhiêu để đủ cung cấp cho thị trường. Các loại cúc, lay ơn, huệ và mai được trồng nhiều nhất vì đây là các loại hoa thích hợp để cúng bái, trang trí nhà cửa trong dịp Tết. Những ngày cuối năm, thời tiết Sài Gòn se se lạnh. Em cùng các bạn dạo chợ hoa tổ chức d công viên 23 tháng 9, xế cửa chợ Bến Thành, cảm giác đầu tiên của em là sung sướng đến choáng ngợp trước một rừng hoa muôn sắc muôn hương. Hàng trăm loài kì hoa dị thảo từ khắp mọi miền đất nước hội tụ về đây, tạo thành một hội hoa xuân tưng bừng, rực rỡ. Phong lan, địa lan với vẻ đẹp kiêu sa, đài các, xứng đáng là “vương giả chi hoa” được nhiều người trầm trồ khen ngợi. Hồng nhung đỏ thắm, hồng vàng lộng lẫy khoe tươi bên lay-ơn, thược dược, cẩm tú cầu, hướng dương, loa kèn, cẩm chướng… Hoa nào cũng đẹp, cũng quyến rũ vô cùng! Quả là tạo hóa đã hào phóng ban tặng cho con người những món quà đa dạng và phong phú từ thiên nhiên kì diệu. Mấy năm gần đây, người Sài Gòn ngoài thú chơi maỉ còn thích chơi đào. Muốn chọn được cây đào ưng ý, có người phải đi dạo chợ hoa dăm ba lần. Những cây đào thế có hình dáng đặc biệt được đưa ra với giá vài triệu đồng, thậm chí cả chục triệu đồng. Phần lớn loại này được các khách sạn, nhà hàng và công sở mua. Càng về đêm, chợ hoa càng đông. Người đi chợ hoa say mê thưởng thức hương sắc đặc biệt của mùa xuân, niềm vui rạo rực trong ánh mắt, nụ cười, giọng rióỉ. Mấy ông phó nháy được dịp làm ăn. Gốc mai, gốc đào, chậu cảnh… trở thành phông nền thật lí tưởng cho một bức ảnh kỉ niệm. Không khí náo nức của Tết theo bước hoa đến với từng con đường, từng hẻm nhỏ, từng ngôi nhà trong thành phố thân yêu. Năm ngoái, ba em lên tận làng hoa Gò vấp mua về một cây mai để trưng trong phòng khách. Sau Tết, ba đem trồng ở trước sân. Khi mọi người đang náo nức chờ Tết đến, cây mai dường như cũng âm thầm chuẩn bị đón xuân – mùa mà nó sẽ phổ bày hết vẻ đẹp rực rỡ mà Tạo hoá ban chọ nó. Năm nay, gia đình em đón Tốt với cả hoa mai và hoa đào. Cây đào bích Nhật Tân được ông nội nâng niu mang từ Thủ đô vào Sài Gòn làm quà tặng cho con cháu trông đẹp tuyệt vời. Ông em bảo rằng hoa đào là thứ hoa tượng trưng cho mùa xuân phương Bắc, giống như mai vàng, tiêu biểu cho mùa xuân phương Nam. Sau những ngày đông giá lạnh, cây đào rụng hết lá, chỉ còn trợ lại những cành khẳng khiu màu nâu đất, run rẩy trong mưa phùn gió bấc. Ấy vậy mà khi làn gió xuân hây hẩy thổi về, kèm theo những cơn mưa bụi li ti như rắc phấn, các hụ đào rụt rè ẩn trong cành từ từ nhú ra âm thầm, lặng lẽ. Chỉ vài ngày sau, nụ đào nảy chi chít khắp cành lớn, cành nhỏ; cành cao, cành thấp, bên cạnh những túm lá nõn màu xanh như ngọc. Sáng mùng Một, trong không khí náo nức mừng xuân mới, sắc đỏ thắm của hoa đào sánh cùng sắc vàng rực rỡ của hoa mai như báo trước một năm mới với bao điều may mắn và hạnh phúc sẽ đến với gia đình em.
Topic: Introduction to Tet flower market in Saigon. Assignment From December 20 (the 12th lunar month) onwards, it can be said that Saigon is like a giant flower garden. From big markets to small markets, there are flowers for sale everywhere. Flowers in the Mekong Delta are brought up by river and road. Flowers are brought in from Hanoi by train or plane. Most are still Da Lat flowers transported by truck to the city. From three or four months before Tet, garden owners have been calculating which flowers to plant and how many to supply enough for the market. Chrysanthemums, gladiolus, lilies and apricot are grown the most because these are suitable flowers for worshiping and decorating houses during Tet. In the last days of the year, the weather in Saigon will be cold. My friends and I walked to the flower market held at the park on September 23rd. As we drove past Ben Thanh market, my first feeling was overwhelming joy in front of a forest of colorful and fragrant flowers. Hundreds of species of exotic flowers from all over the country gather here, creating a jubilant and brilliant spring flower festival. Orchids and cymbidiums with their elegant and majestic beauty are worthy of being "royal flowers" and are admired and praised by many people. Crimson velvet roses, gorgeous yellow roses show off next to gladiolus, dahlias, hydrangeas, sunflowers, lilies, carnations... Every flower is beautiful and extremely attractive! It is true that the Creator has generously bestowed upon humans diverse and rich gifts from miraculous nature. In recent years, Saigon people, in addition to playing cards, also like to play peaches. To choose a suitable peach tree, some people have to walk around the flower market several times. Peach trees with special shapes are offered for several million dong, even tens of million dong. Most of this type is purchased by hotels, restaurants and offices. The later at night, the more crowded the flower market becomes. People who go to the flower market passionately enjoy the special scent of spring, the joy blazing in their eyes, smiles, and voices. The deputies seized the opportunity to do business. Apricot trees, peach trees, ornamental pots... become the ideal background for a commemorative photo. The exciting atmosphere of Tet follows the steps of flowers to every street, every small alley, and every house in the beloved city. Last year, my father went to Go Vap flower village to buy an apricot tree to display in the living room. After Tet, dad planted it in the front yard. When everyone is eagerly waiting for Tet to come, the apricot tree seems to be silently preparing to welcome spring - the season when it will display all the brilliant beauty that the Creator has given it. This year, my family welcomed Tot with both apricot and peach blossoms. The Nhat Tan peach tree was lovingly brought by my grandfather from the capital to Saigon as a gift for his children and grandchildren. It looks absolutely beautiful. My brother said that peach blossoms represent spring in the North, just like yellow apricot blossoms represent spring in the South. After the cold winter days, the peach tree lost all its leaves, leaving only brown, spindly branches, trembling in the drizzle and northern wind. Yet when the spring breeze blows, accompanied by tiny rains of powder-like dust, the timid peach blossoms hidden in the branches slowly and silently sprout out. Just a few days later, peach buds sprouted everywhere on large and small branches; High branches, low branches, next to clusters of jade green leaves. On the morning of the first day, in the bustling atmosphere of celebrating the new spring, the crimson color of peach blossoms compared with the bright yellow color of apricot blossoms seemed to herald a new year with lots of luck and happiness that would come to my family.
Đề bài: Giới thiệu về chợ nổi miền Tây Nam Bộ Bài làm Gọi là chợ nổi vì chợ họp ở trên sông. Giữa một vùng sông nước bao la là hàng trăm chiếc ghe, xuồng của người quanh vùng về đây tụ tập mua bán. Chợ họp suốt cả ngày, nhưng nhộn nhịp nhất là vào buổi sáng. Thuyền, ghe tấp nập đi lại, luồn lách trên mặt nước. Tiếng chào mời mua bán, tiếng cười nói gọi nhau, tiếng ồn ã của động cơ… làm vang động cả một vùng, quang cảnh nhộn nhịp và sôi động. Trên thuyền chất đầy hàng hoá, nhiều nhất vẫn là trái cây, mùa nào thức nấy: chôm chôm, xoài, cam, quýt, bươi, măng cụt, sầu riêng… sản vật của vùng sông nước kênh rạch như: cá, rùa, rắn, cua, tôm, chim đồng, bông súng, rau tươi… Chủ nhân vài ghe, thuyền treo lủng lẳng một vài thứ trái cây, hàng hoá hay một bảng hiệu quảng cáo trên chiếc sào nơi thuyền của mình, cái cao cái thấp, cái thẳng cái nghiêng trông thật lạ mắt. Các loại dịch vụ ăn uống, hớt tóc, may vá… cũng diễn ra ngay trên ghe, xuồng, rất tiện dụng và dường như thỏa mãn mọi nhu cầu mua sắm sinh hoạt đời thường của người dân vùng này. Các chợ nổi lớn của miền Tây như Phụng Hiệp, Phong Điền, Cái Răng (Cần Thơ), Cái Bè (Tiền Giang)… Phần lớn nông sản hàng hoá ở đây được bán sì cho những thương nhân rồi từ đó được chuyển tới các nhà máy chế biến thực phẩm, hoa trái hay chở ra tận Hà Nội và các địa phương miền Bắc. Chợ nổi là nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của người dân vùng châu thổ sông Cửu Long.
Topic: Introduction to floating markets in the Southwest region Assignment It is called a floating market because it is held on the river. In the middle of a vast river area are hundreds of boats and canoes of people from around the area who come here to gather to buy and sell. The market opens all day long, but is busiest in the morning. Boats and boats bustle about, wriggling on the water. The sound of buying and selling, the laughter and calling each other, the noise of engines... resonates throughout the whole area, the scene is bustling and vibrant. The boat was filled with goods, most of which were fruits, each season: rambutan, mango, orange, tangerine, watermelon, mangosteen, durian... products of the rivers and canals such as fish, turtles, snakes, crabs, shrimp, field birds, water lilies, fresh vegetables... Owners of several boats hang some fruits, goods or an advertising sign on the poles of their boats, some high and some low. , the straight and the inclined look really strange. Catering, barbering, sewing services... also take place right on boats and canoes, which are very convenient and seem to satisfy all the daily shopping needs of the people in this area. Large floating markets in the West such as Phung Hiep, Phong Dien, Cai Rang (Can Tho), Cai Be (Tien Giang)... Most of the agricultural products here are sold cheaply to traders and from there are transported to the provinces. Food and fruit processing factories often ship to Hanoi and northern localities. Floating markets are a unique cultural activity of the people of the Mekong Delta.
Đề bài: Giới thiệu về chợ quê Bài làm Ở nông thôn Việt Nam, thường mỗi xã hoặc một vài làng liền kề nhau có một cái chợ. Chợ là nơi trao đổi hàng hoá của cư dân địa phương. Chợ đặt ở làng nào, xã nào thường lấy tên của làng, xã ấy mà gọi. Nói nôm na đó là loại chợ quê. Quang cảnh chợ quê rất đơn giản: vài cái lều lợp gianh, lợp lá trên mấy cái cọc tre nhỏ, đơn giản. Có khi không có lều quán mà chỉ là một bãi đất trống. Người bán bày sản phẩm thành hàng, thành dãy hai bên lối đi. Chủng loại hàng hoá, đa phần là những sản vật địa phương do vậy mà thay đổi theo mùa, vụ. Chợ quê cũng có sự phân cấp một cách tự nhiên thành chợ làng, chợ xã, chợ huyện, chợ tỉnh… Người ta gọi chợ theo cấp hành chính và quy mô chợ cũng từ đó mà to dần lên. Ngày nay chỉ còn dấu vết chợ quê ở làng, ở xã, còn chợ huyện, chợ tỉnh hầu như đã biến thành những trung tâm buôn bán lớn trong vùng. Do nhu cầu trao đổi, mua bán nên ngày nào cũng họp chợ. Vì vậy mà mất di phiên chợ truyền thống ngày trước. Chợ quê lại có hai loại, chợ phiên và chợ hôm. Chợ phiên họp vào những ngày theo một chu kì nhất định. Khi nói chợ họp ngày ba và ngày tám, có nghĩa là phiên chợ họp vào những ngày mồng ba, mồng tám, mười ba, mười tám, hai mươi ba, hai mươi tám hàng tháng (theo âm lịch). Gần đây nhiều chợ chọn ngày chủ nhật làm phiên họp chính. Phiên chợ chính bao giờ cũng đông người hơn phiên chợ xép (chợ họp không đúng phiên). Ngoài những sản phẩm địa phương, ở chợ phiên mặt hàng đa dạng hơn bởi sự góp mặt của các hàng công nghiệp đắt tiền. Chợ hôm ngày nào cũng họp. Người mua người bán chỉ thưa thớt, trao đổi những hàng thiết yếu hàng ngày, hàng tươi sống như rau, hoa quả, dầu, muối, tôm cá, trứng… Chợ thường họp vào buổi sáng sớm hay chiều. Nếu chợ họp vào buổi chiều người ta hay gọi là chợ chiều.
Topic: Introduction to rural markets Assignment In rural Vietnam, usually each commune or several adjacent villages have a market. The market is a place to exchange goods for local residents. Markets located in any village or commune usually take the name of that village or commune. Simply put, it is a kind of rural market. The scene of the rural market is very simple: a few thatched and leaf-roofed tents on small, simple bamboo poles. Sometimes there is no tent but just an empty lot. Sellers display products in rows and rows on both sides of the aisle. The types of goods are mostly local products, so they change according to the season. Country markets also have a natural hierarchy into village markets, commune markets, district markets, provincial markets... People call markets according to administrative level and the size of the market also gradually increases from there. Today, only traces of rural markets remain in villages and communes, while district and provincial markets have almost turned into major trading centers in the region. Due to the need to exchange and buy and sell, the market is held every day. That's why the traditional market days of the past were lost. There are two types of rural markets: day markets and evening markets. The market opens on certain days according to a certain cycle. When we say the market is held on the third and eighth days, it means that the market is held on the third, eighth, thirteenth, eighteenth, twenty-third, and twenty-eighth days of every month (according to the lunar calendar). Recently, many markets choose Sunday as the main meeting session. The main market is always more crowded than the side market (markets held at the wrong time). In addition to local products, the market has more diverse products due to the presence of expensive industrial goods. The market is open every day. Buyers and sellers are only sparse, exchanging daily essential goods, fresh goods such as vegetables, fruits, oil, salt, shrimp, fish, eggs... The market usually opens in the early morning or afternoon. If the market opens in the afternoon, it is called the afternoon market.
Đề bài: Giới thiệu về chợ vùng cao Bài làm Vùng cao – là vùng đất có nhiều đồi, núi cao – thường là nơi sinh sống của những dân tộc ít người. Chợ ở những vùng này thường họp theo phiên. Người đi chợ mặc những bộ trang phục đẹp, hăm hở trèo đèo, leo dốc, lội suối, đi cả ngày đường, có khi mấy ngàý. Họ đến chợ bằng ngựa hoặc bằng chính đôi chân của mình. Hiện nay, một số nơi có điều kiện họ có thể đến chợ bằng nhiều phương tiện khác. Chợ ở những vùng này, ngoài sản vật địa phương còn có nhiều hàng hoá khác như dầu, muối, cá khô, vải, giấy… từ dưới xuôi mang đến, từ các địa phương khác mang về. Chính vì vậy mà phiên chợ ở đây từ lâu đã là nhu cầu giao lưu kinh tế của vùng. Chợ họp thường chỉ một ngày, nhưng nhiều người đến chợ từ chiều hôm trước để gặp bạn, múa hát, thổi kèn, thổi sáo, vui chơi cùng bạn bè. Họ hát múa từ chiều tới khuya có khi suốt đêm. Vui nhất là những thanh niên nam nữ. Họ đến chợ là đến nơi hò hẹn tìm hiểu, kết bạn… Chính vì vậy mà chợ ở đây không chỉ là nơi mua bán, trao đổi hàng hoá mà còn là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hoá của cộng đồng.
Topic: Introduction to highland markets Assignment Highlands - a land with many hills and high mountains - are often inhabited by ethnic minorities. Markets in these areas often hold sessions. People go to the market wearing beautiful clothes, eagerly climbing passes, climbing slopes, wading streams, traveling all day, sometimes several days. They came to the market by horse or on their own feet. Currently, in some places where conditions exist, they can go to the market by many other means. Markets in these areas, in addition to local products, also have many other goods such as oil, salt, dried fish, fabric, paper... brought from the lowlands and from other localities. That's why the market here has long been a need for economic exchange in the region. The market usually opens for only one day, but many people come to the market from the previous afternoon to meet friends, dance, sing, play the trumpet, flute, and have fun with friends. They sing and dance from afternoon until late at night, sometimes all night long. The happiest are young men and women. When they come to the market, they come to meet, learn, and make friends... That's why the market here is not only a place to buy, sell, and exchange goods, but also a place for exchanges and cultural activities of the community.
Đề bài: Em hãy viết bài văn giới thiệu về con chim bồ câu. Bài làm Chim bổ câu là giống chim nuôi hiền lành, xinh đẹp, được mọi người ưa thích. Dù ở thành phố hay ở nông thôn, người ta vẫn có thể nuôi được bồ câu. Tổ tiên bồ câu nhà là bồ câu núi, hiện còn sống hoang dã ở nhiều vùng núi châu Âu, châu Á và Bắc Phi… Chim bồ câu được loài người thuần hóa đầu tiên ở Ai Cập, cách đây khoảng 5000 năm. Cho đến nay, trên thế giới có khoảng 150 giống bồ câu. ở Việt Nam, chim bồ câu hơi nhỏ, trọng lượng chỉ khoảng năm, sáu lạng, có nhiều màu lông khác nhau như trắng, xám, nâu, xanh đen, đốm… Bồ câu nước ngoài như Pháp, Mĩ, Hà Lan có trọng lượng gần 1 kg. Thân hình của bồ câu gần giống như chim gáy nhưng lớn hơn một chút. Toàn thân chim bồ câu được bao phủ bởi một lớp lông vũ. Mình chim hình thoi, đuôi ngắn xòe rộng khi bay. cổ chim dài khoảng 6 đến 7 phân, mỏ nhỏ và cong. Đôi mắt màu nâu tròn và sáng. Đầu chim quay đi quay lại rất linh hoạt, giúp chim dễ dàng mổ thức ăn, rỉa lông rỉa cánh. Đôi chân thanh mảnh màu hồng sẫm có vảy bao bọc gồm 4 ngón, 3 ngón trước, một ngón sau đều có móng sắc, giúp chim đi lại nhẹ nhàng. Bồ câu tương đối dễ nuôi. Chúng ăn các loại hạt như thóc, lúa mì, ngô, đỗ… và rất ít khi bị bệnh. Chim bồ câu bay rất giỏi, có thể đạt tới vận tốc 100 km/h và bay lâu hàng trăm kilômet không nghỉ như chim bồ câu đưa thư, song khi chúng đi trên mặt đất thì lại chậm chạp và vụng về. Hiện nay, người ta nuôi chim bồ câu để ăn thịt và làm cảnh. Thịt bồ câu là món ăn cao cấp ngon và bổ. Món miến xào thịt chim, món chim bồ câu rô ti, món chim bồ câu hầm với hạt sen, thuốc bắc có tác dụng bồi bổ sức khỏe rất tốt. Chim bồ câu gắn bó với đời sống tinh thần của con người từ lâu đời. Mỗi sớm mai, được nghe tiếng chim gù, được nhìn những cánh chim bay vút lên trời xanh, tâm hồn con người trở nên thư thái, dễ chịu vô cùng! Bố em rất thích nuôi chim bồ câu. Bố đóng cả dãy chuồng cho chim. Những chiếc chuồng được sơn màu xanh lá cây, cửa tròn viền trắng. Trước chuồng là tấm ván rộng chừng ba tấc để làm chỗ cho chim đậu và tắm nắng. Đấy là tổ ấm của những cặp vợ chồng, con cái bồ câu. Cảnh tượng trên gợi lên trong lòng em một niềm xúc động về tình mẫu tử thiêng liêng. Tiếng chim trong buổi sáng giữa vườn cây trái sum suê gợi lên cuộc sống êm ả, thanh bình, đáng yêu biết mấy! Chim bổ câu rất có ích cho con người. Hình ảnh con chim bồ câu trắng là hình ảnh tượng trưng cho hòa bình và thuỷ chung của nhân loại.
Topic: Write an introductory essay about pigeons. Assignment The dove is a gentle, beautiful breed of bird that is loved by everyone. Whether in the city or in the countryside, people can still raise pigeons. The ancestors of domestic pigeons are mountain pigeons, which still live wild in many mountainous areas of Europe, Asia and North Africa... Pigeons were first domesticated by humans in Egypt, about 5,000 years ago. To date, there are about 150 breeds of pigeons in the world. In Vietnam, pigeons are quite small, weighing only about five or six ounces, and have many different feather colors such as white, gray, brown, blue-black, spotted... Foreign pigeons such as French, American, and Dutch have high weights. amount of nearly 1 kg. The body of a pigeon is similar to that of a turtledove but a little larger. The pigeon's entire body is covered with a layer of feathers. The bird's body is diamond-shaped and its short tail spreads wide when flying. The bird's neck is about 6 to 7 centimeters long, the beak is small and curved. The eyes are round and bright brown. The bird's head turns back and forth very flexibly, making it easy for the bird to peck at food and preen its feathers and wings. The slender, dark pink legs covered with scales include 4 toes, 3 front toes, 1 back toe, all with sharp claws, helping the bird walk gently. Pigeons are relatively easy to raise. They eat grains such as rice, wheat, corn, beans... and rarely get sick. Pigeons fly very well, can reach speeds of 100 km/h and fly for hundreds of kilometers without stopping like homing pigeons, but when they walk on the ground they are slow and clumsy. Nowadays, people raise pigeons for meat and as ornaments. Pigeon meat is a delicious and nutritious delicacy. Stir-fried vermicelli with bird meat, roasted pigeon dish, stewed pigeon dish with lotus seeds, and traditional Chinese medicine have very good health-boosting effects. Pigeons have been associated with human spiritual life for a long time. Every morning, hearing the sound of birds cooing, watching the birds soar into the blue sky, the human soul becomes extremely relaxed and comfortable! My father loves raising pigeons. Dad built a whole row of bird cages. The barns are painted green, with round doors with white borders. In front of the cage is a board about three inches wide to provide a place for the birds to perch and sunbathe. That is the home of pigeon couples and children. The above scene evokes in my heart a feeling of sacred motherhood. The sound of birds in the morning amidst the lush fruit garden evokes a quiet, peaceful, and lovely life! Pigeons are very useful to humans. The image of a white dove is a symbol of peace and fidelity to humanity.
Đề bài: Nhà em có nuôi rất nhiều con vật trong đó có chú gà trống. Em hãy giới thiệu về con gà trống nhà em. Bài làm Ở quê em, hầu như gia đình nào cũng chăn nuôi gà, vịt. Sau đây, em sẽ giới thiệu về từng con vật ấy. Đàn gà nhà em đông gần hai chục con, nhưng em thích nhất là con gà trống tía. Con gà trống tía giống Đông Tảo, rất quý. Nó to hơn hẳn các loài gà thường và thân hình rất cân đối. Trên đỉnh đầu nó rung rinh chiếc mào đỏ tươi. Lông cổ màu vàng sậm xen với màu đỏ đồng. Lông cánh màu đen pha xanh. Toàn thân nó phủ một lớp lông mềm mại màu xám sẫm. Chiếc đuôi vổng cao, những cái lông đen dài cong cong trông thật đẹp. Đôi chân trống tía vàng óng, các móng cứng và sắc, chiếc cựa nhọn hoắt chĩa ngang. Trống tía cất tiếng gáy vào lúc tang tảng sáng. Nó nhảy lên gốc cây cụt ở giữa vườn, đập cánh phành phạch rồi vươn cổ gáy ò ó ọ… Tiếng gáy giòn giã của nó báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Nhìn trống tía đi giữa đàn gà con, gà giò và mấy chị gà mái, ta mới thấy hết dáng điệu hùng dũng của nó. Em quý nó lắm. Thỉnh thoảng em lại đào giun hay bắt cào cào, châu chấu cho trống tía ăn.
Topic: My family raises many animals, including a rooster. Please introduce your rooster. Assignment In my hometown, almost every family raises chickens and ducks. Next, I will introduce each of those animals. My flock of chickens is nearly twenty, but my favorite is the purple rooster. The purple rooster resembles Dong Tao, very precious. It is much larger than regular chickens and has a very balanced body. On top of its head, a bright red crest fluttered. The neck feathers are dark yellow mixed with copper red. Wing feathers are black and blue. Its whole body is covered with soft dark gray fur. The tail is high and the long, curved black feathers look beautiful. The drum's legs are purple and golden, the nails are hard and sharp, and the sharp spur points horizontally. The purple drum crows at dawn. It jumped onto the stump of a tree in the middle of the garden, flapped its wings, then stretched its neck and crowed... Its crisp crowing sound signaled the beginning of a new day. Looking at the purple rooster walking among the chicks, chickens and hens, we can fully see its heroic appearance. I appreciate it very much. Occasionally I dig up worms or catch locusts and grasshoppers for the purple drum to eat.
Đề bài: Em hãy viết bài văn giới thiệu về con mèo nhà em Bài làm Trong số những con vật nuôi trong gia đình thì gắn bó với đời sống sinh hoạt và tình cảm của con người hơn cả là con mèo và con chó. Khi em đi học về, vừa bỏ cặp sách xuống bàn thì chú mèo tam thể đã đến bên nũng nịu kêu meo meo rồi dụi đầu vào chân em đòi bế. Em ôm nó vào lòng, vuốt ve bộ lông mịn như nhung. Nó gừ gừ khe khẽ trong cổ họng, mắt lim dim ra vẻ khoan khoái lắm. Em đặt tên nó là Mi Mi. Mi Mi đã được hơn một tuổi. Thân hình thon thả phủ một lớp lông mịn mượt gồm ba màu vàng, đen và trắng. Cái đầu tròn, nhỏ; đôi tai mỏng luôn dỏng lên nghe ngóng động tĩnh. Cặp mắt tròn xoe, xanh biếc như thủy tinh, đưa đi đưa lại rất nhanh. Cái mũi hồng hồng trông xinh xắn thế nhưng đánh hơi chuột rất tài. Dáng đi của nó uyển chuyển, nhẹ nhàng vì dưới chân có lớp đệm thịt dày. Bình thường, nó giấu gọn móng vuốt trong các kẽ ngón chân. Lúc nó đi, cái đuôi dài chấm gần sát đất. Sáng sáng, Mi Mi tung tăng nô giỡn trên sân gạch rồi bám vào thân cau, leo nhanh thoăn thoắt. Có lúc nó quay tròn đùa với cái đuôi hay cái bóng của mình. Chú mèo ăn ít lắm, mỗi bữa chỉ vài thìa cơm chan tí nước thịt hay dầm chút cá mà nó ăn nhỏ nhẹ mãi mới hết. Ban ngày, nó hay làm biếng nhưng khi màn đêm buông xuống, mèo ta hoạt bát hẳn lên. Nó thu mình hàng giờ chờ rình chuột trên nóc nhà hay dưới góc bếp. Người nó co tròn, cổ rụt lại, đầu ghếch lên hai chân trước, mấy sợi râu động đậy đánh hơi, hai tai dựng đứng. Chú chuột nhắt tinh ranh thập thò mấy lần vẫn chưa dám lẻn vào. Một lúc sau, chừng như yên tâm vì không thấy gì nguy hiểm, nó mon men bám chân trên bát leo lên. Mới được nửa chừng thì vút một cái, Mi Mi lao ra nhanh như chớp. Gã chuột nhắt chỉ kịp kêu lên mấy tiếng chít chít… hốt hoảng thì đã nằm gọn trong móng sắc của mèo. Có chú mèo, lũ chuột bớt phá phách hẳn. Cả nhà em ai cũng yêu Mi Mi vì nó rất dễ thương và có ích.
Topic: Write an introductory essay about your cat Assignment Among family pets, the ones that are most closely linked to people's daily life and emotions are cats and dogs. When I came home from school, as soon as I put my school bag on the table, the calico cat came to me, petted meowing, and rubbed its head against my leg, asking to be picked up. I held it in my arms, stroking its velvety fur. It growled softly in its throat, its eyes half-lidded, seeming very happy. I named it Mi Mi. Mi Mi is over a year old. The slim body is covered with a layer of smooth, silky fur consisting of three colors: yellow, black and white. The head is round and small; Thin ears always perked up, listening for movement. The eyes are round and blue like glass, moving back and forth very quickly. The pink nose looks pretty but is very good at sniffing out mice. Its gait is flexible and gentle because there is a thick layer of flesh under its feet. Normally, it hides its claws neatly between its toes. When it walked, its long tail touched almost to the ground. Every morning, Mi Mi would play around on the brick yard, then cling to the areca tree trunk and climb quickly. Sometimes it spins around and plays with its tail or shadow. The cat eats very little, each meal only a few spoons of rice mixed with a little gravy or a little fish, which he eats lightly until it's all gone. During the day, it is often lazy, but when night falls, the cat becomes more active. It crouches for hours waiting for mice on the roof or under the corner of the kitchen. Its body curled up, its neck retracted, its head rested on its front legs, its whiskers moved and sniffed, its ears stood upright. The cunning little mouse tried to sneak in a few times but still did not dare to sneak in. A moment later, seemingly reassured because he saw no danger, he slowly climbed up with his feet on the bowl. Just halfway up, with a whiz, Mi Mi rushed out as fast as lightning. The mouse only had time to make a few squeaking sounds... in panic before he was trapped in the cat's sharp claws. With a cat, the mice are less destructive. Everyone in my family loves Mi Mi because it is so cute and useful.
Đề bài: Nhà em có nuôi ngan. Em hãy viết bài văn giới thiệu về con ngan nhà em nuôi cho các bạn cùng nghe. Bài làm Nhà em có nuôi một con ngan sao. Mẹ em đem nó thả chung với mấy chú vịt Hà Lan nuôi đã hơn hai tháng nay. Bên cạnh màu lông trắng toát của mấy chú vịt, con ngan nổi bật lên nhờ màu lông đen nhánh phủ từ đỉnh đầu tới chót đuôi. Mình nó dài và hơi thuôn. Chân ngắn, dáng đi lạch bạch, nặng nề. Nó thích đứng một mình, chăm chú rỉa lông, rỉa cánh. Nó rất thích ăn rau, ăn cỏ. Ngan chậm chạp, hiền lành, không quàng quạc lắm điều như mấy chị vịt trắng. Thỉnh thoảng nó lại kêu cáp cáp. Lúc nổi hứng lên, nó bơi vòng một lượt quanh ao rồi lướt là là trên mặt nước, hai cánh dang rộng đập phành phạch. Tắm chán, nó lên bờ, rũ lông cho khô rồi đi đến dưới gốc cây, nằm rúc đầu vào cánh, ngủ ngon lành. Quê em là vùng thuần nông nên ngoài việc đồng áng, nhà ai cũng chăn nuôi thêm gà, ngan, vịt… Chăn nuôi vừa giải quyết thời gian nhàn rỗi, vừa có phân bón ruộng, vừa là cách tích lũy tiết kiệm tiền. Từ bao đời nay, những con vật nuôi kể trên đã gắn bó thân thiết với cuộc sống của người nông dân nước ta.
Topic: My family raises geese. Please write an introductory essay about the geese you raise for your friends to listen to. Assignment Does your family have a geese? My mother put it in with some Dutch ducks that have been raised for more than two months now. Besides the pure white feathers of the ducks, the geese stand out thanks to the jet black feathers covering from the top of the head to the tip of the tail. Its body is long and slightly tapered. Short legs, waddling, heavy gait. It likes to stand alone, attentively preening its feathers and wings. It loves to eat vegetables and grass. Ngan is slow, gentle, and doesn't quack too much like the white ducks. Occasionally it makes a beeping sound. When it gets excited, it swims around the pond once and then glides across the water, its wings spread wide and flapping. Bored of bathing, it went ashore, shook its feathers to dry, then went under the tree, lay down, tucked its head under its wings, and slept soundly. My hometown is a purely agricultural area, so in addition to farming, everyone raises chickens, geese, ducks... Livestock not only solves idle time, provides fertilizer for the fields, and is also a way to accumulate and save money. For many generations, the above mentioned pets have been closely associated with the lives of our country's farmers.
Giới thiệu về cuộc đời của nhân vật Hồ Xuân Hương Hướng dẫn Hồ Xuân Hương là con gái của một ông đồ nho xứ Nghệ. Bà sinh ra và lớn lên ở đất Kinh kì Thăng Long (chưa rõ năm sinh và năm mất) vào khoảng cuối thế ki 18 đến nửa đầu thế kí 19. Là người cùng thời với thi hào Nguyễn Du, bà từng giao thiệp, hoạ thơ với một sô’ tao nhân mặc khách thời bấy giờ. Cuộc đời bà trải qua nhiều bất hạnh về mặt tình duyên: làm vợ lẽ ông phủ Vĩnh Tường, làm vợ lẽ Tổng Cóc: ‘Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi! Cái nợ ba sinh đã trả rồi…’ (‘Khóc ông phủ Vĩnh Tường’) ‘Hỡi chàng Cóc ơi, chàng Cóc ơi! Thiếp bén duyên chàng có thế thôi…’ (‘Khóc Tổng Cóc’) Tài thơ của Hồ Xuân Hương rất độc đáo, đặc sắc. Tác phẩm của nữ sĩ gồm có khoảng 50 bài thơ Nôm thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú Đường luật, tập thơ chữ Hán ‘Lưu Hương kí’. Hồ Xuân Hương đã chế giễu, phê phán lễ giáo phong kiến, đả kích những thói hư tật xấu, đạo đức giả của tầng lớp thống trị, bọn thầy chùa phá giới, v.v… Bà lên tiếng đề cao hoặc bênh vực người phụ nữ… Nội dung thơ Hố Xuân Hương giàu giá trị nhân bản. Đề tài thơ Hồ Xuân Hương rất bình dị: quả mít, con ốc nhồi, bánh trôi, cái quạt, đánh đu, tát nước, v.v… Thơ của bà đa nghĩa, hóm hỉnh, sắc sảo. Có bài trào phúng sâu cay. Có bài trữ tình như kết đọng nhiều tiếng thở dài ngao ngán.
Introducing the life of character Ho Xuan Huong Instruct Ho Xuan Huong is the daughter of a Confucius master from Nghe An. She was born and raised in the Thang Long capital (year of birth and death unknown) between the late 18th century and the first half of the 19th century. As a contemporary of poet Nguyen Du, she used to interact and paint. poetry with a number of famous people at that time. In her life, she experienced many misfortunes in terms of love: being the concubine of the Vinh Tuong government, being the concubine of Tong Coc: 'One hundred years, Mr. Vinh Tuong! My father's debt has been paid...' (‘Crying for Mr. Vinh Tuong’) ‘O Mr. Toad, Mr. Toad! I fell in love with you, that's all...' (‘Crying Toad’) Ho Xuan Huong's poetic talent is very unique and special. The female artist's works include about 50 Nom poems with seven quatrains and seven eight-word Tang luat, and the Chinese poetry collection 'Luu Huong ky'. Ho Xuan Huong mocked and criticized feudal rites, attacked bad habits and hypocrisy of the ruling class, pagoda priests who broke the precepts, etc. She spoke up to promote or defend women. ... The content of Ho Xuan Huong's poetry is rich in human values. The topics of Ho Xuan Huong's poetry are very simple: jackfruit, stuffed snails, floating cakes, fans, swings, splashing water, etc. Her poems are multifaceted, witty, and sharp. There are poignant satires. There are lyrical songs that seem to condense many sighs of sadness.
Đề bài: Giới thiệu về cái mâm cơm. Bài làm Cái mâm cơm đã trở thành một vật dụng vô cùng quen thuộc trong các bữa ăn của người Việt từ Bắc vào Nam. Từ xưa đến nay, cái mâm cũng được coi như một nét riêng độc đáo trong bữa cơm người Việt. Ngày xưa, mâm được làm bằng gỗ tiện, hình tròn, đường kính khoảng sáu đến bảy tấc gồm hai phần: lòng mâm và vành mâm, lòng mâm. Lòng mâm phẳng đều, vành mâm bao quanh và cao hơn lòng mâm một chút. Nhà nghèo thì dùng mâm gỗ mộc, nhà khá giả dùng mâm sơn màu đỏ, gọi là mâm son. Sau này, nhà giàu dùng mâm đúc bằng đồng, trông sang trọng hẳn. Phần lớn các gia đình ngày nay sử dụng mâm nhôm hoặc inoc, vừa rẻ vừa nhẹ nhàng, tiện lợi. Hàng ngày mâm cơm xuất hiện hai lần, trong bữa cơm trưa và chiều của gia đình. Chiếc mâm có công dụng như một chiếc đĩa lớn để những vật dụng ăn uống và đò ăn cho một bữa ăn. Thay vì khi dọn cơm, dọn ra từng cái bắt, cái đĩa một thì bỏ tất cả vào mâm vừa gọn gang lại tiện lợi. Khi ăn uống, chiếc mâm cơm cũng giúp cho bàn ăn được sạch sẽ vệ sinh hơn, không vất vả khi dọn dẹp. Trong bữa cơm của người miền Bắc bên đĩa rau muốn luộc, món canh cua, đĩa đậu rắn vàng không thể thiếu được món cà pháo tuy đạm bạc nhưng ấm lòng người việt. Còn mâm cơm của người miền Nam thường có mấy món được ưa chuộng như: canh chua cá lóc, dưa giá, thịt kho, rau sống….Nhưng cho dù khẩu vị của hai miền có khác nhau nhưng chúng đều được đặt trên chiếc mâm cơm ấm cúng đậm tình người… Chiếc mâm cơm và những đồ ăn của gia đình còn thể hiện được mức sống của gia đình. Đôi khi còn thể hiện được truyền thống của gia đình đó hay phong tục, tập quán của vùng miền, cũng như khẩu vị sở thích của các tahnfh viên trong gia đình. Một điều quan trọng hơn nữa là thể hiện được sự khéo léo, đảm đang của người phụ nữ trong gia đình. Chiếc mâm cơm không chỉ tiện lợi dễ dàng khi sử dụng mà dễ dàng khi bảo quản. Những chiếc mâm ngày nay thường bằng nhôm hoặc inoc, dễ rửa, không bám bẩn, chỉ cần thường xuyên lau rửa là sẽ giữ được luôn đẹp như mới. Nên treo mâm lên cao hoặc để ở nơi bằng phẳng, tránh để ngoài nắng hoặc đè vật nặng lên có thể bị cong. Chiếc mâm cơm giản dị mà quen thuộc đã gắng bó thân thiết với mỗi gia đình chúng ta. Nó là hiện thân của đời sống vật chất và tình thần của người việt, nó vẫn mãi hiện diện dù cuộc sống của chúng ta có hiện đại đến đâu chăng nữa. Hình ảnh chiếc mâm tròn luôn gợi cho ta nhớ đến sự tròn đầy trong tình cảm thương yêu giữa người thân với người thân.
Topic: Introduction to the rice tray. Assignment The rice tray has become an extremely familiar item in Vietnamese meals from North to South. From ancient times until now, the tray is also considered a unique feature in Vietnamese meals. In the past, trays were made of lathed wood, round in shape, about six to seven inches in diameter and consisted of two parts: the tray and the rim. The inside of the tray is evenly flat, the rim surrounds and is slightly higher than the inside of the tray. Poor families use rustic wooden trays, rich families use red painted trays, called lipstick trays. Later, rich people used bronze trays, which looked luxurious. Most families today use aluminum or stainless steel trays, which are both cheap, light, and convenient. Every day the rice tray appears twice, during the family's lunch and dinner. The tray serves as a large plate to hold eating utensils and dishes for a meal. Instead of serving rice, serving each bowl and plate one at a time, put it all on a compact and convenient tray. When eating and drinking, the rice tray also helps keep the dining table cleaner and more hygienic, making it less difficult to clean. In a meal of Northerners, a plate of boiled vegetables, crab soup, and a plate of yellow snake beans cannot be missing the simple but heart-warming eggplant dish of Vietnamese people. The rice tray of the Southern people often has some popular dishes such as: sour snakehead fish soup, bean sprouts, braised meat, raw vegetables... But even though the tastes of the two regions are different, they are all placed on the tray. Cozy rice full of love... The family's rice tray and food also represent the family's standard of living. Sometimes it also represents the traditions of that family or the customs and practices of the region, as well as the tastes and preferences of family members. An even more important thing is to demonstrate the ingenuity and resourcefulness of women in the family. The rice tray is not only convenient and easy to use but also easy to store. Today's trays are usually made of aluminum or stainless steel, easy to wash, do not stain, just need to clean regularly to keep them as beautiful as new. The tray should be hung high or placed in a flat place, avoid leaving it in the sun or placing heavy objects on it as it may bend. The simple but familiar rice tray has become close to each of our families. It is the embodiment of the material and spiritual life of Vietnamese people, it is always present no matter how modern our lives are. The image of a round tray always reminds us of the fullness of love between relatives.
Đề bài: Giới thiệu một đồ dùng quen thuộc trong sinh hoạt. Bài làm Nếu có dịp đi khắp nơi từ Bắc vào Nam, từ thành thị đến nông thồn, hẳn chúng ta sẽ thấy chiếc mâm là vật dụng vô cùng quen thuộc. Một ngày, chiếc mâm xuất hiện hai lần trong bữa cơm trưa, cơm chiều của mỗi gia đình. Ngày xưa, mâm được làm bằng gỗ tiện, hình tròn, đường kính khoảng sáu đến bảy tấc, gồm hai phần: lòng mâm và vành mâm. Lòng mâm phẳng đều, vành mâm bao quanh và cao hơn lòng mâm một chút. Nhà nghèo thì dùng mâm gỗ mộc, nhà khá giả dùng mâm sơn màu đỏ, gọi là mâm son. Sau này, nhà giàu dùng mâm đúc bằng đồng, trông sang trọng hẳn. Phần lớn các gia đình ngày nay sử dụng mâm nhôm hoặc inoc, vừa rẻ vừa nhẹ nhàng, tiện lợi. Bữa cơm trưa, cơm chiều, mọi người trong gia đình quây quần bên mâm cơm với những thức ăn giản dị mà không kém phần ngon lành. Mùa hè, trên mâm cơm của người miền Bắc, bên cạnh đĩa rau muống luộc xanh mềm là đĩa đậu rán vàng tươi, bát nước rau dầm sấu hoặc vắt chanh tỏa mùi thơm chua chua dìu dịu. Giữa mâm là chén nước mắm màu mật ong, nổi bật mấy lát ớt đỏ tươi. Liền kề là bát cà pháo trắng tinh, chỉ mới nhìn cũng đã thấy thèm. Còn mâm cơm của người miền Nam thường có mấy món được ưa chuộng như canh chua cá lóc, dưa giá, thịt kho, rau sống… Mùi vị thức ăn hòa quyện vào nhau, giục giã mọi người cầm đũa. Quanh mâm cơm gia đình, có khi hiện diện cả mấy thế hệ: ông bà, cha mẹ, con cháu… Mẹ gắp thức ăn cho con, ông bà nhường cho cháu những miếng ngon. Không khí bữa cơm vui vẻ. Rồi chuyện làm ăn, chuyện tâm tình cũng được đem ra chia sẻ, bàn bạc trong bữa cơm. Ngày ngày, tháng tháng, năm năm qua đi, chiếc mâm đã chứng kiến bao nhiêu kỉ niệm vui buồn đáng nhớ của gia đình. Còn gì cảm động hơn bữa cơm tất niên hay bữa cơm mừng năm mới, người đi xa về đoàn tụ với những người ruột thịt thân yêu quạnh chiếc mâm quen thuộc, cùng thưởng thức các món ăn đậm đà hương vị quê hương để rồi cảm thấy có một điều gì đó xúc động lắm cứ rưng rức trong lòng. Dường như tổ tiên cũng về sum họp với con cháu trong ba ngày Tốt để ngầm khuyến khích, động viên con cháu có thêm ý chí, nghị lực vững bước trên đường đời. Chiếc mâm giản dị, quen thuộc đã gắn bó thân thiết với đời sống vật chất và tinh thần của người dân đất Việt nên nó sẽ mãi mãi hiện diện, dù cuộc sống có hiện đại đến đâu chăng nữa. Hình ảnh chiếc mâm tròn luôn gợi cho chúng ta nhớ đến tình cảm ruột thịt, đến mái ấm gia đình thiêng liêng không gì thay thế.
Topic: Introducing a familiar item in everyday life. Assignment If we have the opportunity to travel everywhere from North to South, from urban to rural areas, we will surely see that the tray is an extremely familiar item. One day, the tray appears twice at each family's lunch and dinner. In the past, trays were made of lathed wood, round in shape, about six to seven inches in diameter, and consisted of two parts: the rim and the rim. The inside of the tray is evenly flat, the rim surrounds and is slightly higher than the inside of the tray. Poor families use rustic wooden trays, rich families use red painted trays, called lipstick trays. Later, rich people used bronze trays, which looked luxurious. Most families today use aluminum or stainless steel trays, which are both cheap, light, and convenient. At lunch and dinner, everyone in the family gathers around the tray with simple but no less delicious food. In the summer, on the rice tray of Northerners, next to a plate of soft boiled green water spinach is a plate of fresh yellow fried beans, a bowl of pickled vegetable juice or a squeeze of lemon giving off a gentle, sour aroma. In the middle of the tray is a cup of honey-colored fish sauce, highlighted by a few slices of bright red chili. Next to it is a bowl of pure white eggplant, just looking at it makes me crave it. The Southern people's dinner tray often has some popular dishes such as sour snakehead fish soup, bean sprouts, braised meat, raw vegetables... The flavors of the food blend together, urging everyone to pick up chopsticks. Around the family dinner table, sometimes several generations are present: grandparents, parents, children and grandchildren... Mothers pick up food for their children, grandparents give delicious pieces to their grandchildren. The atmosphere at the meal was fun. Then business matters and feelings are also shared and discussed during meals. Days, months, years have passed, the tray has witnessed many happy and sad memories of the family. There's nothing more touching than a New Year's Eve meal or a New Year's Eve meal, when people who have come from far away reunite with their loved ones on a familiar tray, enjoy dishes rich in the flavors of their homeland, and then feel grateful. I felt something so touching that kept tearing up in my heart. It seems that the ancestors also come to reunite with their descendants during the three Good Days to implicitly encourage and encourage their descendants to have more will and strength to move forward in life. The simple, familiar tray is closely associated with the material and spiritual lives of the Vietnamese people, so it will forever be present, no matter how modern life is. The image of a round tray always reminds us of the love between our hearts and the sacred family home that nothing can replace.
Đề bài: Cây chuối là loài cây rất quen thuộc với người Việt Nam. Em hãy viết bài văn giới thiệu về cây chuối Việt Nam cho các bạn cùng biết. Bài làm Đi khắp đất nước Việt Nam, nơi đâu ta cũng gặp những bụi chuối, vườn chuối xanh um trước ngõ, sau vườn. Chuối là loài cây dễ thích nghi, có thể sống được trên nhiều vùng đất khác nhau, từ miền núi, trung du đến đồng bằng châu thổ. Ở nông thôn, hầu như nhà nào cũng trồng chuối, không nhiều thì ít. Cây chuối gồm các bộ phận: củ, thân, lá, hoa và quả. Củ chuối là thân chính, mọc ngầm dưới đất, xung quanh có rễ, làm nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng và sinh sản ra các cây chuối con. Thân chuối là thân giả, do các bẹ ốp lại mà thành, giữa có lõi dẫn chất dinh dưỡng nuôi cây. Thân chuối nhẵn bóng, hình trụ, cao khoảng vài mét trở lên. Lá chuối mọc ở đầu mỗi bẹ, xung quanh ngọn. Mỗi tàu gồm một cuống lá dài chạy dọc giữa bản lá rộng cỡ bốn đến năm tấc, dài gần hai mét. Khi cây chuối trưởng thành, hoa chuối trổ từ chính giữa ngọn. Cuống hoa lớn, búp hoa thon dài, có nhiều cánh màu nâu đỏ. Dưới mỗi cánh là một nải non, gồm hai tầng quả, đầu mỗi quả có túi phấn vàng, hơi dính. Một hoa có thể cho một buồng từ năm đến mười nải, mỗi nải khoảng trên chục quả. Quả chuối lúc non màu xanh nhạt, lúc già xanh đậm. Sau vài tháng, cắt xuống ủ chín, quả sẽ có màu vàng. Chuối cau ít được trồng vì cây nhỏ, trái nhỏ, năng xuất thấp. Tuy thế chuối cau lại quý hiếm vì thường được dùng để cúng trong dịp ngày rằm, mùng một Âm lịch hằng tháng. Ngày xưa, người ta còn gọi chuối cau là chuối tiến vua.Chuối hột cây cao từ bốn đến năm mét, lá dài và rộng, xanh thẫm. Quả ngắn hình lục lăng, chứa nhiều hạt. Lúc non bào mỏng ăn kèm với các loại rau thơm, rau sống trong các món nướng, món gỏi, thịt luộc, tôm chua… làm tăng hương vị. Quả già phơi khô, sao vàng rồi đem ngâm rượu, thành một vị thuốc chữa bệnh nhức mỏi khá công hiệu. Chuối chín vừa ngon vừa rẻ, ta có thể ăn bất cứ lúc nào trong ngày, còn chuối xanh lại có thể chế biến thành nhiều món ăn độc đáo. Chuối tiêu xanh lột bỏ vỏ, xắt chéo, luộc qua với nước muối cho ra hết nhựa chát, rồi nấu chung với lươn, ếch, thịt ba rọi, đậu phụ, nghệ, mẻ, hành hoa, lá lốt, tía tô… thành món lươn bung, ốc bung… ăn một lần nhớ một đời. Củ chuối tây non gọt sạch, thái nhỏ, luộc bỏ nước chát, nấu giống như chuối xanh, giòn và ngọt bởi thẩm thấu tất cả các vị thơm ngon, bùi béo của món ăn. Giờ đây, những món dân gian ấy đã thành đặc sản trong các nhà hàng cao cấp, gợi cho người xa xứ nhớ tới hương vị đồng quê. Thân chuối non bào mỏng, trộn chùng với các loại rau thơm, rau diếp xắt chỉ, thành món rau ghém không thể thiếu cho bún riêu cua, bún riêu ốc, canh dấm cá… Thân chuối già xắt mỏng, băm nhỏ trộn cám làm thức ăn cho bò, lợn, vịt, gà… rất tốt. Lá chuối non gói bánh chưng, bánh giò, bánh tét, bánh ít, giò lụa… Lá chuối già gói thực phẩm tươi sống. Lá chuối khô làm nút đậy chai rượu, đậy bình đựng đồ khô rất kín. Rượu làng Vân nút lá chuối khô nổi tiếng cả trong và ngoài nước… Bẹ chuối khô làm nguyên liệu đan đồ mỹ nghệ xuất khẩu… Chuối cũng là hình ảnh thân thuộc trong truyện của Nam Cao, thơ Trần Đăng Khoa… Người nước ngoài đến Việt Nam rất thích ăn chuối. Chuối là loại trái cây xuất khẩu có giá trị cao.
Topic: Banana tree is a very familiar tree to Vietnamese people. Please write an introductory essay about Vietnamese banana trees for everyone to know. Assignment Traveling all over Vietnam, everywhere we see banana bushes and green banana gardens in front of alleys and behind gardens. Banana is an adaptable plant that can live on many different lands, from mountainous areas, midlands to deltas. In the countryside, almost every house grows bananas, more or less. Banana tree includes parts: tuber, stem, leaves, flowers and fruit. Banana tubers are the main stem, growing underground, surrounded by roots, responsible for absorbing nutrients and producing baby banana plants. The banana stem is a pseudo-stem, made up of sheaths, with a core in the middle that carries nutrients to feed the plant. The banana stem is smooth, cylindrical, about a few meters or more high. Banana leaves grow at the tip of each sheath, around the top. Each vessel consists of a long leaf stalk running along the middle of the leaf about four to five inches wide and nearly two meters long. When the banana tree matures, banana flowers bloom from the middle of the top. The flower stalk is large, the flower bud is elongated, and has many red-brown petals. Under each wing is a bunch of young fruit, consisting of two layers of fruit, the tip of each fruit has a yellow, slightly sticky pollen sac. One flower can give a bunch of five to ten bunches, each bunch having about a dozen fruits. Bananas are light green when young, dark green when old. After a few months, cut down and ripen, the fruit will turn yellow. Areca bananas are rarely grown because the trees are small, the fruit is small, and the yield is low. However, areca bananas are rare because they are often used to worship on the full moon day, the first day of the lunar calendar every month. In the past, people also called the areca banana "king banana". The banana tree is four to five meters tall, with long, wide, dark green leaves. The short fruit is hexagonal in shape and contains many seeds. Thinly grated young leaves are eaten with herbs and raw vegetables in grilled dishes, salads, boiled meat, sour shrimp... to enhance the flavor. The old fruit is dried, turned yellow and then soaked in wine, becoming a quite effective medicine to treat aches and pains. Ripe bananas are both delicious and cheap, you can eat them at any time of the day, and green bananas can be processed into many unique dishes. Peel the green banana and pepper, cut it diagonally, boil it with salt water to remove all the acrid sap, then cook it with eel, frog, bacon, tofu, turmeric, scallions, lolot leaves, perilla... Eels and snails... eat once and remember for a lifetime. Young bananas are peeled, chopped, boiled to remove the acrid water, cooked like green bananas, crispy and sweet by absorbing all the delicious, fatty flavors of the dish. Now, these folk dishes have become specialties in high-end restaurants, reminding expatriates of the flavors of the countryside. Thinly grate the young banana stem, mix it with herbs and shredded lettuce, making it an indispensable vegetable dish for crab vermicelli noodles, snail vermicelli noodles, fish vinegar soup... Thinly slice the old banana stem, chop it and mix it with bran to make it. Very good food for cows, pigs, ducks, chickens... Young banana leaves wrap banh chung, banh gio, banh tet, banh it, banh lua... Old banana leaves wrap fresh food. Dried banana leaves make wine bottle stoppers and dry food containers very tightly. Van village wine is famous for dried banana leaves both at home and abroad... Dried banana peels are used as raw materials for weaving handicrafts for export... Bananas are also a familiar image in Nam Cao's stories, Tran Dang Khoa's poems... Foreigners come Vietnam loves to eat bananas. Bananas are a highly valuable export fruit.
Giới thiệu về cây lúa và văn hoá Việt Nam – Văn thuyết minh 9 Hướng dẫn Thuyết minh về cây lúa 1. Yêu cầu – Đề bài thuộc dạng thuyết minh. – Qua bài làm cần cho người đọc hiểu về lịch sử, đặc điểm, quá trình phát triển của cây lúa cũng như vai trò của cây lúạ trong đời sống con người Việt Nam. – Đây là bài văn thuyết minh đầu tiên ở lớp 9, sau khi học cách thuyết minh theo một số biện pháp nghệ thuật như: nhân hoá, tự sự,… Do đó, bài viết phải có hình thức mới mẻ so với các bài thuyết minh đã làm ở lớp 8. 2. Gợi ý – Cây lúa rất gần gũi với đời sống con người Việt Nam ta nhưng không phải ai cũng hiểu về cây lúa. Vì vậy, trước khi làm bài, cần đọc kĩ những bài viết về cây lúa. Những tài liệu này có thể tìm trên mạng Vietnamnet hoặc từ điển sinh học. – Về hình thức, có thể để cây lúa tự kể chuyện về cuộc đời của nó. – Cũng có thể thuyết minh bình thường, kết hợp với miêu tả, biểu cảm, tự sự khi diễn đạt ý cần thuyết minh. 3. Lâp dàn ý Tuỳ thuộc việc sử dụng biện pháp nghệ thuật thuyết minh mà lập dàn ý khác nhau do hình thức tự thuật đối thoại, diễn ca,… Dù thế nào, nội dung bài viết cũng cần có những ý sau: a. Mở bài: Giới thiệu cây lúa trong đời sống con người nói chung, người Việt Nam nói riêng. b. Thân bài – Nguồn gốc Thuộc họ nào. Nguồn gốc, đặc điểm cây lúa nước Việt Nam. – Lịch sử Theo truyền thuyết. Theo lịch sử, lúa có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, thời Hùng Vương đã có nghề trồng lúa. – Gieo trồng và chăm sóc Làm đất. Gieo mạ. Cấy và chăm sóc ; các giai đoạn phát triển của câỵ lúa. Thu hoạch, bảo quản. Từ hạt lúa đến hạt gạo. – Cây lúa với đời sống văn hoá Việt Nam + Cây lúa nuôi sống con người, giúp xã hội phát triển. + Bánh trái thờ cúng tổ tiên làm từ gạo, sản phẩm của cây lúa. + Hình ảnh lúa trên trống đồng và các sản phẩm văn hoá từ xuất của nền văn minh lúa nước. Hình ảnh lúa trên quốc huy Việt Nam. Hình ảnh cây lúa trong ca dao, âm nhạc,… + Cây lúa vá sản phẩm văn hoá ẩm thực. – Tương lai của cây lúa Việt Nam + Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. c. Kết bài: Cảm nhận về sự gắn bó của cây lúa với đất nước, con người Việt Nam. 4. Bài làm minh họa Cây lúa là hình ảnh rất đỗi gần gũi và thân quen đối với người dân Việt Nam ta. Từ ngàn đời nay nghề trồng lúa vẫn được người dân ta coi trọng ; cây lúa vẫn là lẽ sống, là vận mệnh và gắn bó máu thịt với người dân mình. Cây lúa vỉ thế đã đi sâu vào cách cảm, cách nghĩ của người dân và tạo nên những nét đặc trưng của văn hoá nước ta, một nền văn hoá – văn minh lúa nước. Nói về lúa thì từ Bắc tới Nam không ai không biết. Có lúa cạn gieo ở trên nương, có lúa nước cấy ở dưới ruộng, có lúa gieo thẳng như ở một số tỉnh miền Trung và miền Nam. Ở miền Bắc, thóc giống được ngâm cho nảy mầm. Đem hạt nẩy mầm (mộng mạ) gieo xuống đất, mầm lớn lên thành cây mạ. Mạ được nhổ đem ra ruộng cấy và phát triển thành cây lúa. Cây lúa được chăm nước, bón phân, làm cỏ ; qua thời gian nó chia vè, đứng cái, làm đòng rồi trổ bông, kết hạt. Hạt ngậm sữa, chắc xanh. Bông lúa uốn câu, hoe vàng, chín vàng và chín rộ. Để biến thành gạo, lúa cũng phải chịu “năm nắng mười mưa”, “xay sẩy giần sàng”. Khi lúa chín người dân ta gặt lúa về, trục lúa, phơi lúa, giã lúa – ngày nay thì xay lúa – xay, xát, quạt, rê, sàng, sẩy. Việt Nam ta có rất nhiều giống lúa như: thơm, tám xoan, dự, nàng hương, bắc thơm, nếp cái, nếp hoa vàng, ba giăng, mùa, gié, mộc tuyền, di hương, tạp giao, nếp dâu, ải 32, 203, V10,… Các sản phẩm làm ra từ lúa gạo cũng rất nhiều. Ngoài cơm (tẻ), ta ăn hằng ngày còn có xôi, bún, phở, cháo. Các loại bánh làm từ lúa gạo thì nhiều vô kể (mỗi vùng miền trên đất nước ta đều có những thứ bánh đặc trưng cho vùng miền ấy, rất phong phú, nhiều kiểu loại). Ví dụ như bánh đa, bánh đúe, bánh xèo, bánh bèo, bánh cuốn, bánh chay, bánh trôi, bánh ít, bánh rán, bánh phồng, bánh giày, bánh chưng,… Các loại nước uống từ lúa gạo cũng rất nhiều, về các loại xôi có thể kể như xôi trắng, xôi vò, xôi đỗ, xôi gấc, xôi lúa (xôi ngô), xôi hành mỡ, xôi lạc, xôi cúc, xôi nghệ,… Từ hoạt động thực tiễn của nghề trồng lúa, từ nhận thức giá trị và lòng yêu cây lúa, gắn sự sống của mình với sự tồn tại cây lúa, dân ta đã nâng cây lúa lên thành một biểu tượng cao đẹp: cây lúa chính là người. Ông cha ta và cả chúng ta thường nói đi thăm đồng, thăm lúa – lúa thật đáng cho sự chăm nom của con người, một việc mà chỉ dành cho người thân. Ông cha ta cũng nói “một nắng hai sương” để nói về mình nhưng cũng để nói về lúa. Vì thế, gặp lũ lụt, hạn hán, ta phải cứu lúa: vận mệnh cây lúa có tầm quan trọng như vận mệnh con người. Trong tục ngữ ca dao, người Việt Nam ta đã gọi “gió đông là chồng lúa chiêm, gió bắc là duyên lúa mùa”, hoặc gọi cây lúa cấy lại lần thứ hai là “tái giá”, thời cây lúa làm đòng gọi là thời con gái,… Chúng ta thật khó lòng phân biệt được như thế là nhân hoá cây lúa hay lúa hoá con người. Trân trọng giá trị của cây lúa, nâng tầm quan trọng của vận mệnh cây lúa lên ngang tầm quan trọng của vận mệnh con người, đó chính là nét đặc sắc và tiêu biểu của văn hoá Việt Nam, của tâm hồn người Việt Nam ta. (Trần Văn Nghi, lớp 9A, Trường THCS Chu Văn An, Thái Nguyên) ⇒ Nhận xét Đây là một bài thuyết minh khá hay về cây lúa. Người viết đã cố gắng tìm hiểu các giống lúa, cách gieo trồng và những sản phẩm từ lúa gạo. Đoạn viết về người Việt Nam coi cây lúa như con người, “nhân hoá cây lúa hay lúa hoá con người” là một đoạn văn viết có xúc cảm, lập luận chặt chẽ, có nhiều điều thú vị. Tuy nhiên cũng có chỗ người viết đã nói quá lên. Mặc dù coi trọng hạt gạo như hạt vàng, nhưng: Khi ăn cơm làm rớt một hạt cơm, theo phản xạ, ta lập tức nhặt và đưa nó vào bát ngaỵ vì không làm như thế sẽ bị xem là một tội – điều nàỵ dường như đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người chúng ta thì có lẽ là không đúng, nếu không nói là mất vệ sinh nữa. Trong bài viết, bạn cũng chưa đề cập đến khả năng xuất khẩu gạo rất lớn của nước ta và công sức của các nhà khoa học làm cho năng suất lúa ngày càng cao.
Introduction to rice and Vietnamese culture - Explanation 9 Instruct Explanation about rice 1. Requirements – The topic is in the form of exposition. – Through the assignment, it is necessary for readers to understand the history, characteristics, development process of rice as well as the role of strange rice plants in Vietnamese people's lives. – This is the first expository essay in grade 9, after learning how to explain using a number of artistic methods such as personification, narrative, etc. Therefore, the article must have a new form compared to other essays. Explanation done in 8th grade. 2. Suggestions – Rice is very close to the lives of Vietnamese people, but not everyone understands rice. Therefore, before doing the test, you need to carefully read the articles about rice. These documents can be found on Vietnamnet or biology dictionary. – In terms of form, it is possible to let the rice plant tell its own story about its life. – Can also do normal narration, combined with description, expression, and narrative when expressing the idea that needs to be narrated. 3. Make an outline Depending on the use of narrative art, the outline will be different due to the form of narrative dialogue, song performance, etc. In any case, the content of the article should have the following ideas: a. Introduction: Introducing rice in human life in general, and Vietnamese people in particular. b. Body of the article - Source Which family do you belong to? Origin and characteristics of Vietnamese rice plants. - History According to the legend. According to history, rice was present in Vietnam very early, during the Hung King period, there was rice growing. – Planting and care Land preparation. Sow seedlings. Transplantation and care ; development stages of rice plants. Harvesting and preservation. From rice grain to rice grain. – Rice with Vietnamese cultural life + Rice feeds people and helps society develop. + Ancestor worship fruit cake made from rice, a product of the rice plant. + Images of rice on bronze drums and cultural products from the wet rice civilization. Image of rice on the Vietnamese national emblem. Images of rice plants in folk songs, music,... + Rice plants and culinary cultural products. – The future of Vietnamese rice + Vietnam has become one of the world's largest rice exporters. c. Conclusion: Feeling about the attachment of rice to the country and people of Vietnam. 4. Illustrative exercise Rice is a very close and familiar image to the Vietnamese people. For thousands of years, rice growing has been highly valued by our people; Rice is still the reason for life, the destiny and the bond of flesh and blood with the people. The rice plant has thus penetrated deeply into people's way of feeling and thinking and created the characteristic features of our country's culture, a wet rice culture and civilization. Talking about rice, from North to South, no one knows. There is dry rice sown in the fields, there is wet rice planted in the fields, and there is rice sown directly like in some central and southern provinces. In the North, rice seeds are soaked to germinate. Sow the germinated seeds (seedlings) in the ground and the sprouts grow into seedlings. The seedlings are plucked and planted in the field and grow into rice plants. Rice plants are watered, fertilized, and weeded; Over time, it splits, stands, forms spikes, then blooms and produces seeds. The seeds are milky, firm and green. The rice flowers are curled, yellow, ripe and fully ripe. To be turned into rice, rice also has to endure "years of sun and ten days of rain", "milling, sifting". When the rice is ripe, our people come home from harvesting the rice, rolling the rice, drying the rice, pounding the rice - today, we grind the rice - grind, grind, fan, winnow, sift, winnow. In Vietnam, we have many rice varieties such as: Thom, Tam Xoan, Du, Nang Huong, Bac Thom, Sticky Rice, Yellow Flower Sticky Rice, Ba Giang, Moi, Giac, Moc Tuyen, Di Huong, Nhac Giao, Strawberry Sticky Rice, and Hai 32, 203, V10,… There are also many products made from rice. In addition to rice (rice), we also eat sticky rice, vermicelli, pho, and porridge every day. There are countless types of cakes made from rice (each region in our country has cakes that are specific to that region, very rich, with many types). For example, banh da, banh due, banh xeo, banh beo, banh cuon, banh vegetarian, banh troi, banh it, donut, puff cake, banh day, banh chung,... There are also many types of rice drinks. , about the types of sticky rice that can be mentioned as white sticky rice, rolled sticky rice, bean sticky rice, gac sticky rice, rice sticky rice (corn sticky rice), fatty onion sticky rice, peanut sticky rice, chrysanthemum sticky rice, turmeric sticky rice,... From practical activities of rice cultivation, from awareness of the value and love of rice, attaching their lives to the existence of rice, our people have raised rice into a beautiful symbol: the main rice plant. is human. Our ancestors and we often say that visiting the fields, visiting the rice - rice is truly worthy of human care, something that is only reserved for relatives. Our ancestors also said "one sun, two dew" to talk about themselves but also to talk about rice. Therefore, when faced with floods or droughts, we must save rice: the fate of rice is as important as the fate of people. In proverbs and folk songs, Vietnamese people call "the east wind is the husbandry of rice, the north wind is the fate of summer rice", or call the rice transplanted a second time "remarriage", the time when the rice grows into rice fields is called girlhood,... It is difficult for us to distinguish whether this is humanizing rice or rice humanizing. Appreciating the value of rice, raising the importance of rice's destiny to the level of human destiny, that is the unique and typical feature of Vietnamese culture, of the soul of the Vietnamese people. . (Tran Van Nghi, class 9A, Chu Van An Secondary School, Thai Nguyen) ⇒ Comments This is a pretty good presentation about rice. The writer tried to learn about rice varieties, planting methods and rice products. The passage about Vietnamese people treating rice as humans, "humanizing rice or rice as humans" is an emotional, well-argued passage with many interesting things. However, there are also places where the writer has exaggerated. Even though we value a grain of rice like a grain of gold, when we eat rice and drop a grain of rice, we reflexively immediately pick it up and put it in the bowl because not doing so will be considered a crime - this seems to be the case. If it is deeply ingrained in the subconscious of each of us, it is probably not right, if not unhygienic. In the article, you also did not mention our country's huge ability to export rice and the efforts of scientists to make rice productivity increasingly high.
Đề bài: Giới thiệu về cây hoa mai ngày tết. Bài làm Trong dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc ta, nếu hoa đào là đặc trưng của mùa xuân phương Bắc thì hoa mai lại là đặc trưng của mùa xuân phương Nam. Trong khu vườn hay trước sân mỗi nhà, thường không thể thiếu bóng dáng của cây mai. Cây hoa mai có nguồn gốc là một loại,cây hoa dại mọc trong rừng. Cây cao trên hai mét, thân gỗ, chia thành nhiều nhánh, lá nhỏ cỡ hai ngón tay, màu xanh lục. Tán tròn xòe rộng. Cây hoa mai có nhiều loại, phổ biến nhất là mai vàng (Hoàng Mai), sau đó là mai tứ quý, rồi đến mai trắng (Bạch Mai) và mai chiếu thuỷ.Cây mai vàng dễ sống, ưa đất gò pha cát hoặc đất bãi ven sông. Có thể trồng đại trà thành vườn rộng hàng vài mẫu mà cũng có thể trồng dăm cây trong vườn, hoặc trong chậu sứ. Đất trồng mai có độ ẩm vừa phải và không úng nước. Phân bón cho mai thường là phân bò khô trộn với tro bếp, khô dầu và một ít u-rê, ka-li… Vào khoảng rằm tháng Chạp (tức 15 tháng 12 Âm lịch) thì người trồng phải tuốt lá cho cây mai. Sau đó giảm tưới nước và bón thúc cho cây nảy nụ. Chỉ sau một tuần là từ các cành, nụ trổ ra chi chít, kết thành từng chùm có cuống rất dài. Bên cạnh mỗi chùm là một túm lá non màu tím nhạt. Trước Tết vài ngày, hoa mai lác đác nồ. Sáng mồng Một Tết, cả cây mai bừng lên một sắc vàng tươỉ, trông đẹp vô cùng Ị Mai tứ quý nở quanh năm. Cánh hoa vàng thẫm nở giữa năm đài hoa tựa như năm cánh sen nhỏ xíu màu đỏ sậm. Khỉ cánh hoa đã rụng hết, nhuỵ hoa khô đỉ thì giữa mỗi bông xuất hiện mấy hạt nhỏ xỉnh như những hạt cườm, lúc non màu xanh, lúc gỉà chuyển thành màu tím đen lóng lánh. Đứng ngắm vườn mai, ta thầm cảm phục sự mầu nhiệm và hào phóng của Tạo hoá: đã có mai vàng rực rỡ góp sắc, góp hựơng với muôn hoa ngày Tết, lại có mai tứ quý cần mẫn, thịnh vượng quanh năm. Mai trắng còn có tên gọi là Bạch Mai. Lúc hoa mới nở có màu hồng phớt, sau chuyển sang trắng, mùi thơm nhẹ nhàng, phảng phất. Mai trắng hơi hiếm bởi khó trồng và được coi là loài hoa quý. Mai chiếu thuỷ cây thấp, lá nhỏ lăn tăn, hoa li tỉ mọc thành chùm màu trắng và thơm ngát, thường được trổng vào chậu hoặc trồng vào hồn non bộ làm cảnh trước sân nhà. Xuân về trên đất phương Nam với màu nắng vàng rực rỡ hoà quyện với không khí tưng bừng náo nức của ngày Tết cổ truyền dân tộc. Nhà ai cũng muốn có một cây mai, hoặc một bình hoa mai tươi nở đúng sáng mồng Một đầu năm để lấy hên. Trong ba ngày Tốt, hoa mai chưa khoe sắc vàng rực rỡ thì gia chủ khó mà cảm thấy niềm vui trọn vẹn. Trong những năm gần đây, nhân dân miền Bắc đón xuân bằng cả sắc hồng thắm của hoa đào và sắc vàng rực rỡ của hoa mai. Hoa mai, hoa đào hiện diện bên nhau, tô điểm thêm cho mùa xuân tràn đầy sức sống của non nước Việt Nam yêu dấu.
Topic: Introduction to the apricot tree on Tet holiday. Assignment During our nation's traditional Lunar New Year, if peach blossoms are a characteristic of the Northern spring, then apricot blossoms are a characteristic of the Southern spring. In the garden or front yard of every house, the silhouette of an apricot tree is often indispensable. The apricot tree originates from a type of wildflower that grows in the forest. The tree is over two meters tall, has a woody trunk, divided into many branches, and leaves are as small as two fingers and green in color. Wide, round canopy. There are many types of apricot trees, the most popular is yellow apricot (Hoang Mai), then four quarter apricot, then white apricot (Bach Mai) and watery apricot. Yellow apricot trees grow easily, prefer sandy soil or riverside land. It can be planted in large quantities into a garden of several acres, or it can also be planted in small trees in the garden, or in ceramic pots. The soil for growing apricot trees has moderate moisture and is not waterlogged. Fertilizer for apricot trees is usually dry cow manure mixed with kitchen ash, oil cake and a little urea, potassium... Around the full moon of the December month (ie the 15th day of the 12th lunar month), the grower must pluck the leaves for the apricot tree. Then reduce watering and fertilize to help the plant bud. After just a week, the buds sprout from the branches, forming clusters with very long stems. Next to each bunch is a bunch of light purple young leaves. A few days before Tet, apricot blossoms appear sporadically. On the morning of the first day of Tet, the whole apricot tree glowed with a bright yellow color, looking extremely beautiful Four-quarter apricot blossoms all year round. Dark yellow petals bloom between five sepals like five tiny dark red lotus petals. The flower petals have all fallen off, the pistil has dried up, and in the middle of each flower, a few small seeds appear like beads, when young they are green, when they are old they turn into a sparkling purple-black color. Standing and admiring the apricot garden, we secretly admire the mystery and generosity of the Creator: there are bright yellow apricot flowers that contribute color and scent to all the flowers of Tet, and there are four-quarter apricot flowers that are diligent and prosperous all year round. White apricot is also called Bach Mai. When the flowers first bloom, they are pale pink, then turn white, and have a gentle, subtle fragrance. White apricot is a bit rare because it is difficult to grow and is considered a precious flower. The apricot apricot tree is a low tree with small, curling leaves. The flowers grow in white and fragrant clusters. They are often planted in pots or in rockeries as landscapes in the front yard. Spring has arrived in the South with bright yellow sunlight blending with the exciting atmosphere of the traditional national Tet holiday. Everyone in the house wants to have an apricot tree, or a vase of fresh apricot flowers that bloom on the first morning of the first day of the year for good luck. During the three good days, if the apricot blossoms have not yet shown their bright yellow color, it is difficult for the homeowner to feel complete joy. In recent years, Northern people have welcomed spring with both the pink color of peach blossoms and the bright yellow color of apricot blossoms. Apricot and peach blossoms are present together, adding to the spring full of vitality of the beloved country of Vietnam.
Đề bài: Hoa phượng luôn gắn liền với đời người học sinh. Em hãy viết bài văn giới thiệu về cây hoa phượng vĩ cho các bạn cùng biết. Bài làm Ở góc sân trường em có một cây phượng vĩ già, chắc đã vài chục tuổi. Người ta đặt tên cho nó là phượng vĩ có lẽ dựa vào hình dáng của lá giống như chiếc đuôi của con chim phượng hoàng trong cổ tích. Em nghe các thầy cô nói tại rằng, cây phượng này do một phụ huynh trồng từ lúc ngôi trường mới xây xong. Cây cao tới lan can lầu một, cành xòe rộng, lá sum suê tỏa bóng mát rượi. Gốc cây to bằng một vòng tay người lớn, màu nâu, xù xì nhiều mấu. Những chiếc rễ nổi ngoằn ngoèo trên mặt đất. Lá phượng là loại lá kép, gồm nhiều lá nhỏ, mỏng, màu xanh sẫm, mọc song song hai bên cuống. Tuốt hết lá đi rồi buộc túm lại với nhau, em đã có trong tay một cây vợt bắt bướm xỉnh xinh. Mỗi sớm mai, trong tán lá xanh, tiếng chim hót ríu rít nghe thật vui tai. Hằng năm, khi tiếng ve bắt đầu cất lên ra rả cũng là mùa hoa phượng nở. Màu đỏ nồng nàn như lửa bao phủ khắp ngọn cây, nhìn xa giống như một mâm xôi gấc khổng lồ. Lúc ấy, trông cây phượng già trẻ hẳn lại, bừng bừng sức sống. Nhìn hoa phượng nở, những cô cậu học trò náo nức nghĩ tới một mùa hè đầy ắp niềm vui. Hoa phượng năm cánh, bốn cánh đỏ mỏng như lụa và một cánh dày lốm đốm trắng. Giữa hoa là chùm nhụy dài và cong, đầu nhụy là túi phấn hình bầu dục. Chúng em rất thích chơi trò chọi gà bằng những chiếc nhụy hoa đó. Hết mùa, hoa phượng tàn dần. Mỗi lần có cơn gió thổi qua, những cánh phượng lả tả bay theo chiều gió. Trái phượng non màu xanh nhạt, mỏng và dài, khe khẽ đung đưa trên cành. Cây phượng già trở lại vẻ đẹp mộc mạc, thân quen của nó. Chúng em gọi hoa phượng bằng cái tên thân yêu “hoa học trò” và coi cây phượng như người bạn thân thiết. Gốc cây là nơi tụ họp quen thuộc của chúng em để vui chơi và học tập. Hoa phượng nở cùng với tiếng ve ngân ran ran trong vòm lá báo hiệu năm học kết thúc, một mùa hè lại đến. Lòng chúng em rộn lên bao cảm xúc khi nghĩ về những điều thú vị đang chờ phía trước. Đầu năm học mới, cây phượng lại xòe bóng mát, che chở cho những cô bé, cậu bé học sinh cổ quàng khăn đỏ, vui chơi dưới sân trường.
Topic: Poinciana flowers are always associated with students' lives. Please write an introductory essay about the Poinciana tree for everyone to know. Assignment In the corner of my school yard there is an old poinciana tree, probably several decades old. People named it the Royal Poinciana, probably based on the shape of the leaves, which resembles the tail of a phoenix in fairy tales. I heard the teachers say that this poinciana tree was planted by a parent when the school was first completed. The tree is as tall as the railing on the first floor, its branches are wide and its lush leaves radiate cool shade. The tree stump is as big as an adult's arm, brown, rough with many knots. The roots float zigzag on the ground. Phoenix leaves are compound leaves, consisting of many small, thin, dark green leaves, growing parallel on both sides of the stem. Plucking all the leaves and tying them together, I have in my hand a beautiful butterfly catching racket. Every morning, in the green foliage, the chirping of birds sounds so pleasant. Every year, when the sound of cicadas begins to sing, it is also the season when poinciana flowers bloom. A passionate red color like fire covers the top of the tree, looking from afar it looks like a giant gac raspberry. At that time, the old phoenix tree looked completely young again, bursting with vitality. Looking at the poinciana flowers blooming, the students excitedly thought of a summer full of joy. Poinciana flower has five petals, four red petals as thin as silk and one thick petal with white specks. In the middle of the flower is a long and curved pistil, the stigma is an oval pollen sac. We really like to play cockfighting with those pistils. At the end of the season, poinciana flowers gradually fade. Every time the wind blows, the phoenix wings flutter in the direction of the wind. Young poinciana fruits are light green, thin and long, gently swaying on the branches. The old phoenix tree returns to its rustic, familiar beauty. We call the poinciana flower by the beloved name "student flower" and consider the poinciana tree as a close friend. The tree stump is our familiar gathering place to play and study. Poinciana flowers bloom along with the sound of cicadas in the canopy of leaves, signaling the end of the school year and the arrival of another summer. Our hearts are filled with emotions when thinking about the exciting things that lie ahead. At the beginning of the new school year, the phoenix tree spreads shade, protecting the girls and boys wearing red scarves and playing in the school yard.
Đề bài: Giới thiệu về di tích lịch sử của địa phương Bài làm Di tích Lam Kinh thuộc huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá khoảng 50km về phía tây bắc, năm 1962 được Bộ Văn hoá xếp hạng. Sau khi Lê Thái Tổ lên ngôi Hoàng đế, đóng đô ở Đông Kinh (Thăng Long), ông đã cho xây dựng ở quê hương đất tổ Lam Sơn một thành lớn thứ hai, thường được gọi là thành Lam Kinh, còn có tên khác là Tây Kinh. Phía bắc thành Lam Kinh dựa vào núi Dầu (Du Sơn), phía nam nhìn ra sông Chu, qua sông khoảng 900m là núi Chúa (Chủ Sơn) làm tiền án, bên phải là núi Hướng và núi Hàm Rồng chắn phía tây. Các công trình trong điện xây dựng theo trục nam – bắc, trên khu đồi gò có hình chữ “vương” Thành có chiều dài 34 lm, ngang 254m. Mặt thành phía bắc xảy hình cánh cung, tường dày hơn lm. Mặt trước thành khoảng l00m còn dấu vết của cổng vào và móng tường kéo đến sát bờ sông Ngọc, móng tường dày l,8m. Qua tường khoảng l0m là con sông đào có tên là Sông Ngọc rộng khoảng 20m. Bắc qua sông là cây cầu cong Tiên Loan, trên cầu có lầu (thượng gia hạ kiều), qua cầu khoảng 50m thì đến một giếng cổ hình chữ nhật. Tiếp theo là một sân rộng dẫn đến Ngọ Môn. Giữa sân hai bên lối vào là hai con vật bằng đá tựa hai con nghê, đứng trên bệ hình chữ nhật, trên thân trang trí khá cầu kỳ, đầu vươn về phía trước trong tư thế canh phòng. Tuy di vật còn lại không nhiều nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra đây là một công trình rất lớn của vua Lê Lợi.
Topic: Introduction to local historical relics Assignment Lam Kinh relic is located in Tho Xuan district, about 50km northwest of Thanh Hoa city, and was ranked by the Ministry of Culture in 1962. After Le Thai To ascended the throne and established his capital in Dong Kinh (Thang Long), he built a second largest citadel in his ancestral homeland Lam Son, often called Lam Kinh citadel, also known by other names. is Tay Kinh. The north of Lam Kinh citadel is based on Dau mountain (Du Son), the south overlooks Chu river, about 900m across the river is Chua mountain (Chu Son) as a criminal record, on the right are Huong mountain and Ham Rong mountain blocking the west. The works in the palace are built along the south - north axis, on a hilly area shaped like the word "king". The citadel is 34 meters long and 254 meters wide. The north side of the citadel is bow-shaped, and the walls are thicker than 100 cm. The front of the citadel is about 100m, there are traces of the entrance gate and the wall foundation extending to the bank of the Ngoc River, the wall foundation is 1.8m thick. Through the wall about 10m is a canal called Ngoc River about 20m wide. Across the river is Tien Loan curved bridge, on the bridge there is a floor (upper house, lower house), about 50m across the bridge, you will come to an ancient rectangular well. Next is a large yard leading to Ngo Mon. In the middle of the yard on both sides of the entrance are two stone animals resembling two pigs, standing on a rectangular pedestal, their bodies decorated quite elaborately, their heads stretched forward in a guarding position. Although there are not many relics left, we can still recognize that this is a very large project of King Le Loi.
Giới thiệu về gia đình – Văn miêu tả lớp 3 Hướng dẫn Đề bài Viết một bài văn dài từ 8 đến 10 câu giới thiệu về gia đình em. Gợi ý Gia đình em là gia đình liệt sĩ, gia đình văn hoá ở xóm Chùa, xã Vinh Quang. Ông nội em là liệt sĩ thời kháng chiền chông Pháp. Bà nội hiện ở với gia đình em. Gia đình em hiện nay gồm ba thế hệ: bà nội, bố mẹ em, chị Hoài và em. Xem bài mẫu: Hãy giới thiệu và tả một số đồ đạc trên bàn học, nơi góc học tập của em. Bà nội em năm nay đã 75 tuổi, mái tóc bạc phơ. Bà ăn không nhiều và hay bị khó ngủ, bà thích đi chùa tụng kinh niệm Phật. Bố em tên là Hoàng Văn Châu, kĩ sư nông nghiệp. Mẹ em là công nhân chăn nuôi ở Trại giống gia súc. Bố mẹ rất bận bịu, thường đi vắng nhiều ngày. Chị Hoài học lớp chín, là học sinh giỏi. Chị giỏi nội trợ, là trợ thủ đắc lực của mẹ em. Chị xinh đẹp và giỏi giang. Em tên là Chi, 8 tuổi, học sinh lớp hai. Cô giáo Hồng khen em là chăm ngoan, học giỏi.
Introducing family - Descriptive text for grade 3 Instruct Topic Write an 8 to 10 sentence long essay introducing your family. Suggest My family is a martyr's family, a cultural family in Chua hamlet, Vinh Quang commune. My grandfather was a martyr during the French resistance period. Grandma currently lives with my family. My family currently consists of three generations: my grandmother, my parents, my sister Hoai and me. See sample lesson: Introduce and describe some furniture on the desk, in your study corner. My grandmother is 75 years old this year, with white hair. She doesn't eat much and often has trouble sleeping. She likes to go to the temple and chant Buddhist scriptures. My father's name is Hoang Van Chau, agricultural engineer. My mother is a livestock worker at a Cattle Breeding Farm. Parents are very busy, often away for many days. Ms. Hoai is in ninth grade and is a good student. She is good at housework and is my mother's great assistant. She is beautiful and talented. My name is Chi, 8 years old, second grade student. Teacher Hong praised me for being diligent and good at studying.
Đề bài: Giới thiệu về hoa cúc Bài làm Người xưa coi cúc tà một trong bốn thứ cây hoa quý được ví như bốn người bạn thân (tứ hữu): tùng, cúc, trúc, mai. Cúc tượng trưng cho tâm hồn thanh cao của những người quân tử muốn xa lánh vòng danh lợi vào luồn ra cúi. Cúc được phân loại theo dạng hoa đơn và hoa kép, ở nước ta, giống cúc vàng, cúc trắng là phổ biến. Mấy năm gần đây, các giống cúc nước ngoài nhập vào khá nhiều với đặc điểm chung là cây cao, cành cứng, bông to, nhiều cánh, nhiều màu rực rỡ: tím, hồng, cam, đỏ sẫm, đỏ đồng, xanh… Những giống này được trồng theo kĩ thuật tiên tiến, cho năng xuất rất cao. Các giống hoa màu vàng, màu trắng, loại hoa to nhiều cánh và mỗi cành cho một bông. Có loại hoa nở thành chùm, bông nhỏ hơn. Cúc mọc thành bụi, thân mềm, thanh mảnh. Dáng hoa cúc rất đẹp, hương thơm dịu dàng và kín đáo. Lá cúc to gần bằng nửa bàn tay, xẻ thành những thuỳ sâu, mềm mại, mọc so le trên thân. Khóm cúc chỉ cao độ năm sáu tấc, mọc loà xoà tạo nên một vẻ đẹp tự nhiên. Nụ hoa xinh xinh giống như chiếc cúc áo màu xanh. Dăm ba chiếc nụ lớn đã hé nở những cánh vàng. Còn gì đẹp hơn những bông cúc vàng lộng lẫy, trên cánh đọng li ti những hạt sương đêm, đang rung rỉnh trước làn gió sớm! Hoa cúc đẹp nhất lúc vừa nở. Cánh hoa xoè tròn, xếp thành nhiều lớp bao quanh nhuỵ. Màu hoa vàng rực nổi bật trên nền lá xanh, trông tuyệt đẹp! Nắng càng lên, sắc hoa càng lộng lẫy và hương thơm toả lan theo gió. Mấy chú ong mê mải rúc đầu vào hút mật hoa. Trên cao, cánh bướm dập dờn đùa với những bông hoa tươi xỉnh như những gương mặt ngời sáng niềm vui. Hoa cúc tươi lâu. Cứ đợt hoa này sắp tàn lại có đợt hoa khác thay thế. Vì vậy, lúc nào khóm cúc cũng tràn đầy sức sống. Người ta trồng cúc quanh năm nhưng cúc nở đẹp nhất là vào mùa thu. Nếu ta trồng cúc để chơi thì có thể trồng trong chậu, trong bồn trước cửa nhà. Nếu trồng để bán, người ta trồng thành luống trong vườn, ngoài bãi. Cúc thích hợp với đất pha cát, xốp, tơi. Bón cúc bằng phân mùn và phân hỗn hợp là tốt nhất. Khỉ trồng, chú ý phun thuốc trừ bệnh rệp lá cho cây. Hoa cúc không rụng cánh như hoa hồng và nhiều loại hoa khác nên hay được dùng để thờ cúng. Cúc thường được trồng để làm đẹp thêm khu vườn, ngôi nhà xinh xắn. Dùng hoa cúc để trang trí thì căn phòng sẽ sáng ra và đẹp hơn. Ta có thể cắm hoa cúc trong bình, trong giỏ hoặc trổng trong chậu đặt trên đên, trên ghế, trên ban công hay ở ngoài sân, ngoài hiên… Các loại hoa có nhiều nét đẹp khác nhau nhưng em thích nhất hoa cúc vì dáng vẻ và sắc hương dịu hiền của nó. Hoa cúc làm cho cuộc sống chúng ta càng đẹp hơn.
Topic: Introduction to chrysanthemums Assignment The ancients considered chrysanthemum one of four precious flower plants that are likened to four close friends (four friends): pine, chrysanthemum, bamboo, and apricot. Chrysanthemum symbolizes the noble soul of gentlemen who want to stay away from the cycle of fame and fortune. Chrysanthemums are classified into single and double flowers. In our country, yellow and white chrysanthemums are popular. In recent years, many foreign chrysanthemum varieties have been imported with the common characteristics of tall trees, stiff branches, large flowers, many petals, and many brilliant colors: purple, pink, orange, dark red, copper red, green... These varieties are grown using advanced techniques, giving very high yields. Yellow and white flower varieties, large flowers with many petals and one flower per branch. There are flowers that bloom in clusters and smaller flowers. Chrysanthemums grow in bushes, their stems are soft and slender. The chrysanthemum flower shape is very beautiful, the fragrance is gentle and discreet. Chrysanthemum leaves are almost half the size of a hand, divided into deep, soft lobes, growing alternately on the stem. The chrysanthemum cluster is only five or six inches tall, growing sprawlingly, creating a natural beauty. The pretty flower buds look like blue buttons. Several large buds have opened their golden petals. What's more beautiful than gorgeous yellow chrysanthemums, with tiny drops of night dew on their petals, shaking in the morning breeze! Chrysanthemums are most beautiful when they have just bloomed. Petals are rounded and arranged in many layers surrounding the pistil. The bright yellow flower color stands out against the green leaf background, looks gorgeous! The more the sun rises, the more gorgeous the flower color becomes and the fragrance spreads with the wind. The bees engrossed their heads in sucking nectar from the flowers. High above, butterfly wings fluttered with fresh flowers like faces shining with joy. Chrysanthemums stay fresh for a long time. Every time one batch of flowers is about to wither, another batch of flowers will replace it. Therefore, chrysanthemum bushes are always full of life. People grow chrysanthemums all year round, but chrysanthemums bloom most beautifully in the fall. If we grow chrysanthemums for fun, we can plant them in pots or tubs in front of the house. If grown for sale, people plant it in beds in the garden or in the yard. Chrysanthemums are suitable for sandy, loose, loose soil. Fertilizing chrysanthemums with humus and mixed fertilizer is best. When planting, pay attention to spraying pesticides to kill leaf aphids on the plants. Chrysanthemums do not lose their petals like roses and many other flowers, so they are often used for worship. Chrysanthemums are often planted to beautify gardens and lovely houses. Using chrysanthemums to decorate will make the room brighter and more beautiful. We can put chrysanthemums in a vase, in a basket or in a pot on the table, on a chair, on a balcony or in the yard, on the porch... Flowers have many different beauties, but I like chrysanthemums the most because of their gentle appearance and fragrance. Chrysanthemums make our lives more beautiful.