vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Đề bài: Giới thiệu về hoa hồng. Bài làm Hoa hồng xuất hiện trên trái đất từ lâu đời, có xuất xứ từ các vùng ôn đới và á nhiệt đới phía Bắc bán cầu. ở nước ta, hoa hồng được trồng khắp nơi, từ miền núi, trung du cho đến đồng bằng châu thổ. Là một loài hoa toàn bích vừa có màu sắc rực rỡ, vừa có hương thơm quý phái nên hoa hồng được nhiều người ưa chuộng, nâng niu. Vì thế, nó trở nên quen thuộc trong đời sống hằng ngày. Nhiều giống hoa hổng có nguồn gốc địa phương, một số có nguồn gốc từ Trung Quốc và các nước châu Âu. Phổ biến là hoa hồng đỏ, cây thấp cành mềm, mọc thành từng bụi. Hoa ít cánh, màu đỏ tươi, nở quanh năm, thường được trồng trong chậu, trong bồn trước cửa nhà. Hoa hồng quế mọc thành chùm ở đầu cành, bông nhỏ màu đỏ cờ, nhụy vàng tươi, hương thơm ngát. Các bà, các chị hay dùng hoa hồng quế để dâng cúng Phật vào dịp ngày rằm, mùng một Âm lịch. Hồng bạch tuyền hoa màu trắng, cánh nhiều tầng nhưng mỏng và mềm, hương thơm dịu, dùng để trang trí phòng khách rất sang. Cánh hoa chưng với mật ong và trái quất làm thuốc chữa ho cho trẻ con rất tốt. Hồng bạch văn khôi bông lớn hơn, cánh trắng phớt hồng, cây cao trung bình, có sức chịu đựng rất dẻo dai. Các loại hoa hồng kể trên xuất hiện từ nông thôn đến thị thành, được trồng nhiều ở các công viên, thu hút sự say mê của du khách. Tuy vậy, người yêu hoa hồng không thể bỏ qua hoa hồng dại, còn gọi là tầm xuân, cây nhỏ, cành mềm, mọc lan khắp chốn. Bông hồng dại mọc thành chùm chỉ chít, xinh xắn, dễ thương vô cùng! Những bụi hồng dại nở trên tường rào, điểm xuyết nét thơ mộng, thanh bình cho ngôi nhà, góc phố thân yêu. Trong những năm gần đây, các giống hoa hồng nhập vào nước ta được trồng theo quy trình kĩ thuật hiện đại trong các nhà kính ở Đà Lạt. Hoa hồng Hà Lan màu đỏ sậm, màu vàng cam, hoa hồng Pháp màu vàng tươi, mọc đơn từng bông, cánh dày, tươi lâu, có thể vận chuyển đi xa, rất thích hợp với nhu cầu xuất khẩu và nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều của nhân dân các thành phố lớn. Cây hoa hồng tương đối dễ trồng, dễ thích nghi với các vùng khí hậu khác nhau. Hoa hồng trồng theo cách chiết và giâm cành. Chọn cành mập mạp, không già không non, bóc một khoanh vỏ rồi đắp bùn trộn lẫn phân mùn xung quanh, bó chặt, tưới nước hằng ngày, đợi đến khi đâm rễ thì cắt đem trồng. Một thời gian sau, khi cành chiết đã đâm nhánh thì bón thúc cho cây phát triển. Cây hồng đang độ trổ hoa, ở đầu mỗi cành có nhiều nụ lớn bằng đốt ngón tay, được bao bọc trong một lớp đài hoa màu xanh nhạt. Những nụ chị, nụ em chi chít, âm thầm chuẩn bị đến ngày khoe sắc, khoe hương. Nụ hoa uống sương đêm và tắm ánh nắng mai, từ từ hé nở. Những cánh hoa đỏ thắm, trông đáng yêu vô cùng! Khi hoa nở khoe nhuỵ vàng tươi, toả hương thơm ngát, quyến rũ bướm ong. Những cánh hoa xinh xinh đáng yêu như đôi môi em bé. Cây hoa hồng ra hoa quanh năm nhưng nở rộ nhất là vào mùa xuân. Sáng sớm, đứng ngắm những bông hồng mới nở, cánh đọng sương sớm long lanh, hương bay phảng phất, ta sẽ thấy lòng phơi phới một cảm xúc yêu đời. Tuổi trẻ mượn hoa hồng để bày tỏ tình yêu nồng nàn, tha thiết. Hoa hồng được tôn vinh là nữ hoàng của các loài hoa – mãi mãi làm đẹp cho cuộc sống của con người.
Topic: Introduction to roses. Assignment Roses have appeared on earth for a long time, originating from temperate and subtropical regions of the Northern Hemisphere. In our country, roses are grown everywhere, from the mountains, midlands to the delta. As a perfect flower with both brilliant color and noble fragrance, roses are loved and cherished by many people. Therefore, it becomes familiar in everyday life. Many varieties of roses are of local origin, some originating from China and European countries. The most popular are red roses, low trees with soft branches, growing in bushes. The flower has few petals, is bright red, blooms all year round, and is often grown in pots or tubs in front of the house. Cinnamon roses grow in clusters at the top of the branches, small red flowers, bright yellow pistils, and a fragrant scent. Ladies and gentlemen often use cinnamon roses to make offerings to Buddha on the full moon day, the first day of the lunar calendar. White rose flowers are white, have multi-layered petals but are thin and soft, have a gentle fragrance, and are used to decorate the living room very luxuriously. Petals boiled with honey and kumquats make a very good cough medicine for children. White rose has larger flowers, pinkish white petals, medium height tree, very resilient. The above types of roses appear from rural to urban areas, are grown in many parks, attracting the passion of tourists. However, rose lovers cannot ignore wild roses, also known as rose hips, small trees, soft branches, growing everywhere. Wild roses grow in tight bunches, so pretty and cute! Wild rose bushes bloom on the fence, adding a poetic and peaceful look to the house and beloved street corner. In recent years, rose varieties imported into our country are grown according to modern technical processes in greenhouses in Da Lat. Dutch roses are dark red, orange yellow, French roses are bright yellow, grow single flowers, have thick petals, stay fresh for a long time, can be transported long distances, very suitable for export and use needs. increasingly among the people of big cities. Rose plants are relatively easy to grow and adaptable to different climates. Roses are grown by grafting and cuttings. Choose a plump branch, not old or young, peel off a piece of bark, then cover it with mud mixed with humus, tie it tightly, water it every day, wait until it roots, then cut it and plant it. Some time later, when the branch has sprouted, fertilize the tree to grow. The rose tree is in bloom, at the tip of each branch there are many buds as large as a knuckle, covered in a layer of light green sepals. My sister's buds and my sister's buds are crowded together, silently preparing for the day to show off their beauty and fragrance. Flower buds drink the night dew and bask in the morning sunlight, slowly opening. The red petals look so lovely! When the flowers bloom, they show off bright yellow pistils, giving off a fragrant scent, attracting butterflies and bees. The beautiful flower petals are as lovely as a baby's lips. The rose tree flowers all year round but blooms best in spring. Early in the morning, standing and admiring the newly blooming roses, their petals glistening with morning dew, their fragrance wafting, we will feel a feeling of love for life. Young people borrow roses to express their passionate and earnest love. Roses are honored as the queen of flowers - forever beautifying human life.
Giới thiệu về hoa mai – Văn thuyết minh – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Giới thiệu về hoa mai Bài làm Mai không biết từ bao giờ đã là vẻ đẹp thanh tao, tinh khiết của mùa xuân. Tôi yêu mai bởi màu sắc khiêm nhường, kín đáo của nó. Trong thiên nhiên, hoa nào cũng đẹp, cũng đáng yêu nhưng mỗi loại hoa lại có một vẻ đẹp riêng khác nhau. Nhưng trong đó chỉ có mỗi mai vàng là người bạn thân nhất của đào mỗi độ xuân về, Tết đến. Mai rất đa dạng và phong phú, nếu dựa vào màu sắc thì mai sẽ có bốn loại chính: hoàng mai, bạch mai, thanh mai và hồng mai. Nhưng mai vàng lại là loại hoa mà tôi thích nhất. Với sắc vàng thanh tao cùng hương thơm thoang thoảng dịu nhẹ, nó đã gợi lên những cảm xúc của sự yên tĩnh, trầm lắng. Cánh hoa mềm mại, óng mượt và mướt như tơ. Mai đẹp, thuần khiết, trong sáng như một nàng thiếu nữ yêu kiều. Hoa mai thường được trồng ở những khu đất rộng, không trồng xen với các loại cây khác. Hoa mai vàng rực rỡ, nhiều cánh và lâu tàn. Một bông hoa thường có tới bốn đến năm cánh. Người ta coi đó là cành mai ngũ phúc với hi vọng năm mới đại cát, phát tài, phát lộc. Còn mai nhiều cánh hơn thì tượng trưng cho cát tường, vạn hạnh. mai vàng thì chưa phải là Tết. Với những người xa quê hương mà thấy mai vàng nở rộ thì bâng khuâng khôn nguôi nhớ về quê cha đất tổ, nhớ cái Tết quê nhà với bánh chưng xanh bên mâm ngũ quả và cành mai, cành đào. Không chỉ thế, mai còn là tượng trưng cho sự son sắt thuỷ chung đối với cách mạng. Bà tôi thường kể những ngày miền Nam còn bị Mĩ – ngụy kìm kẹp, những, người dân yêu nước ai cũng dán một đôi câu đối đỏ và đặt bên cạnh hoa mai vàng để tượng trưng cho lá cờ đỏ sao vàng. Hoa mai xuất hiện nhiều trong thơ ca. Tôi còn nhớ hai câu thơ của Bác viết về sự thanh tao, tinh khiết của hoa mai: “Ngẩng đầu mặt trời mọc, Bên suối: một nhành mai”. Mai rất dễ trồng nhưng cũng rất khó với những người không chuyên. Mai sẽ chết nếu bị ngập úng. Nếu đủ nắng, mai sẽ dày cánh và trông rất đẹp. Đối với những người sành mai, loại mai nở đúng giữa độ xuân về sẽ được giữ lại ở trong nhà mà không chặt cành vì họ coi mai sẽ đem lại may mắn cho cả năm. Đối với tôi, khi nhìn thấy mai nở là biết xuân về và mình đã thêm một tuổi. Bùi Thuỳ Linh (Trường THCS Ngô Sĩ Liên) >> Xem thêm Bài văn Giới thiệu về hoa đào tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · Giới thiệu về hoa mai
Introduction to apricot blossoms - Explanatory text - Good essay for grade 8 Instruct Introduction to apricot flowers Assignment I don't know when Mai has been the elegant, pure beauty of spring. I love apricot because of its humble, discreet color. In nature, every flower is beautiful and lovely, but each type of flower has its own unique beauty. But among them, only yellow apricot is peach's best friend every spring and Tet. Apricot is very diverse and rich. If based on color, there will be four main types of apricot: yellow apricot, white apricot, green apricot and pink apricot. But yellow apricot is the flower I like the most. With its elegant golden color and gentle scent, it evokes feelings of tranquility and serenity. The petals are soft, shiny and smooth like silk. Mai is beautiful, pure, and innocent like a lovely young lady. Apricot flowers are often grown in large areas of land, not intercropped with other plants. Apricot flowers are bright yellow, have many petals and last a long time. A flower usually has up to four to five petals. People consider it a five-luck apricot branch with the hope of a prosperous new year. As for the apricot with more petals, it symbolizes auspiciousness and good fortune. Yellow apricot is not yet Tet. For those who are far away from their homeland and see the yellow apricot blossoms in full bloom, they feel nostalgic about their ancestral homeland, miss their hometown Tet with green banh chung on a tray of five fruits and apricot and peach branches. Not only that, tomorrow also symbolizes fidelity to the revolution. My grandmother often told me that in the days when the South was still being controlled by America and the puppet regime, every patriotic person would stick a pair of red couplets and place them next to yellow apricot flowers to symbolize the red flag with a yellow star. Apricot blossoms appear a lot in poetry. I still remember two lines of Uncle Ho's poem about the elegance and purity of apricot blossoms: “Lift your head up to the rising sun, By the stream: an apricot branch. Apricot is very easy to grow but also very difficult for non-experts. Mai will die if it is flooded. If there is enough sunlight, the apricot will have thick wings and look very beautiful. For apricot connoisseurs, apricot trees that bloom right in the middle of spring will be kept indoors without cutting the branches because they consider them to bring good luck for the whole year. For me, when I see apricot blossoming, I know that spring has come and I have become another year older. Bui Thuy Linh (Ngo Si Lien Secondary School) >> See more Essay Introduction about peach blossoms here. Tags: Good essay for grade 8 · Introduction to apricot flowers
Đề bài: Giới thiệu về hoa ngọc lan. Bài làm Ở góc vườn nhà em có một cây hoa ngọc lan do ông ngoại em trồng cách đây hơn bốn chục năm. Sự tích cây hoa này là một câu chuyện rất cảm động. Bà ngoại em kể rằng vì bà ao ước có được cô con gái đầu lồng xinh đẹp, dịu hiền nên bà đã chọn sẵn tên một loài hoa mà bà ưa thích để đặt cho con là Ngọc Lan. Để kỉ niệm ngày ra đời của cô con gái yêu quý, ông em đã trồng cây hoa ấy. Từ đó đến nay, cây ngọc lan gắn bó thân thiết với mấy thế hệ trong gia đình em. Cây ngọc lan thân mộc, gốc lớn, rễ chính cắm sâu vào lòng đất, còn các rễ phụ nổi ngoằn ngoèo xung quanh giữ cho cây thêm vững chắc. Ngọn cây cao, tán xoè rộng, vượt hẳn các cây cối khác trong vườn. Lá ngọc lan to cỡ bàn tay, hơi thuôn, nổi rõ những đường gân. Những chùm lá non xanh màu cốm, nhìn mát mắt vô cùng! Chim vành khuyên khéo léo kết hàng chục chiếc tổ xinh xinh trong vòm lá. Đây quả là nơi trú ngụ tuyệt vời cho chúng quanh năm. Ngày ngày, khi mặt trời lên, tiếng chim hót ríu rít làm rộn rã cả khu vườn. Mùa hè, cây trổ hoa. Những chùm nụ xinh xinh lớn rất nhanh và khi hoa nở hé phô mấy cánh trắng ngà thì nhuỵ hoa cũng toả hương thdm ngào ngạt, theo gió bay đi rất xa. Đặc biệt, trong không khí yên tĩnh, mát mẻ của ban đêm, hương ngọc lan càng dậy lên, thơm ngát. Suốt mùa hoa nở, ông em và bố em làm nhiệm vụ hái hoa. ông dùng cây sào nứa thật dài, đẩu sào đan thành chiếc giỏ nhỏ đựng hoa. Đưa chiếc gỉỏ sáỉ chùm hoa và giật khỗ, từng bông hoa rơi gọn vào lòng giỏ, vẹn nguyên. Bà đã chờ sẵn dưới gốc cây vớỉ chiếc rổ lót lá chuối tươi, nhẹ nhàng lấy ra từng bổng một. Mỗi bông ngọc lan như một ngón tay nõn nà, mát rượi sương đêm. Bà không quên cài lên mái tóc em bông hoa xinh xắn. Em ngây ngất bởi làn hương ngọc lan quen thuộc đang thấm đẫm không khí trong lành buổỉ sởm mai. Cây ngọc lan được cả nhà em yêu quý bởi nó đã chứng kiến và chia sẻ mọi buồn vui của nhiều thế hệ trong gia đình. Những lần xa nhà dăm ba ngày, em nhớ nó như nhớ một người bạn thân thiết và trong những giấc mơ hồng, em luôn cảm thấy hương hoa ngọc lan phảng phất đâu đây.
Topic: Introduction to jade orchids. Assignment In the corner of my garden there is a jade orchid tree planted by my grandfather more than forty years ago. The story of this flower tree is a very touching story. My grandmother told me that because she wished to have a beautiful and gentle daughter, she had already chosen the name of her favorite flower to name her daughter, Ngoc Lan. To celebrate the birth of his beloved daughter, my grandfather planted that flower tree. Since then, the jade orchid tree has been closely associated with several generations of my family. The jade orchid tree has a woody trunk with a large base. The main root is deeply embedded in the ground, while the secondary roots zigzag around to keep the tree more stable. The tree's top is tall and its canopy is wide, surpassing other trees in the garden. Jade orchid leaves are about the size of a hand, slightly tapered, with clearly visible veins. The bunches of young green leaves look extremely cool! Ringed birds skillfully build dozens of beautiful nests in the canopy of leaves. This is truly a great shelter for them all year round. Every day, when the sun rises, the chirping of birds makes the whole garden bustle. In summer, the tree blooms. The beautiful clusters of buds grow very quickly and when the flowers bloom, showing off their ivory white petals, the pistils also release a sweet scent, flying very far with the wind. In particular, in the quiet, cool air of the night, the scent of orchid rises even more, fragrant. During the flowering season, my grandfather and father are responsible for picking flowers. He used a long bamboo pole and woven the end of the pole into a small basket to hold flowers. Take the basket with bunches of flowers and pull them, each flower falls neatly into the basket, intact. She was waiting under the tree with a basket lined with fresh banana leaves, gently taking out the money one by one. Each jade orchid flower is like a delicate finger, cool with night dew. She didn't forget to put a lovely flower in my hair. I was ecstatic by the familiar scent of orchid permeating the fresh morning air. The magnolia tree is loved by my whole family because it has witnessed and shared all the joys and sorrows of many generations in the family. Every time I'm away from home for a few days, I miss it like I miss a close friend and in my rosy dreams, I always feel the scent of orchids wafting somewhere.
Đề bài: Giới thiệu về hoa Phong Lan. Bài làm Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người sành chơi hoa đều nhất trí tôn vinh lan là vương giả chi hoa bởi vẻ đẹp lộng lẫy, mê đắm hồn người của nó. Hoa lan có mặt khắp nơi trên thế giới, có thể sống ở nhiều vùng khí hậu khác nhau. Họ nhà lan vô cùng phong phú, gồm 750 chi và khoảng trên 2500 loài. Lan không sống ký sinh như tơ hồng, tầm gửi mà là loài cây tự dưỡng nhờ ánh sáng, không khí và hơi nước. Lan có hai loại chính chia theo điều kiện sống. Loại sống bám vào các cây to rồi phát triển gọi là phong lan. Loại bám rễ vào hốc đá chỗ có mùn hoặc được trồng dưới đất gọi là địa lan. ồ nước ta hiện nay đã trồng được các loại lan nổi tiếng như kim đính, hạc đỉnh, mặc lan, tố tâm, hoàng vũ, phi hoàng điệp, hồ điệp, bạch lan, lan hài… Những giống địa lan có nguồn gốc từ Thái Lan có đặc điểm là thân cứng và khá cao, ra hoa quanh năm, màu sắc rực rỡ, mỗi cành trên hai mươi nụ, nở cả tháng mới tàn, vận chuyển đi xa tương đối thuận tiện. Các giống hoa này thích hợp với vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Có thể trồng với quy mô lớn theo kĩ thuật hiện đại để phục vụ xuất khẩu. Lan hài, lan hồ điệp và các loài địa lan khác của Đà Lạt chỉ thích hợp với vùng ôn đới. Thân cây yốu, chiều cao hạn chế, nhánh nhỏ, mỗi nhánh chừng dăm bảy nụ hoa và thường tàn sau một tuần. Hoa lan mọc thành nhánh lớn gồm nhiều nhánh nhỏ, mỗi nhánh nhỏ có vài bông, màu sắc rực rỡ, đẹp tuyệt vời! Loài hoa phong lan có hai màu tím và trắng, cánh dày, tươi lâu. Lan hoàng điệp bông nhỏ, vàng tươi, rập rờn như đàn bướm lượn. Lan hồ điệp bông tương đối lớn, màu trắng, nhị vàng cam, giống như đàn bướm đang bay. Lan hài hình dáng lựa chiếc hài gấm mũi cong, xinh xắn vô cùng Lan vũ nữ trông giống như một nghệ sĩ múa tài hoa đang say sưa trong điệu múa thần tiên… Đứng trước một vườn lan muôn hồng ngàn tía, người thưởng thức đều có chung một cảm giác lâng lâng như đang lạc vào chốn thiên đường. Là loài hoa quý nên lan cần có một chế độ trồng trọt và chăm sóc đặc biệt, theo quy trình công nghệ kĩ thuật cao. Địa lan trồng trên đất mùn tơi xốp, phong lan trồng trong các chậu nhỏ bằng gốm hoặc gỗ, các khúc cây ngắn có chứa xơ dừa, than tàu để cho lan bám rễ. Lan được trồng bằng cách cấy mô và người trổng có thể lai tạo giữa các giống lan để có được giống mới với nhiều ưu điểm. Xưa kia, hoa lan là loài hoa chỉ xuất hiện trong đời sống của các bậc vua chúa. Vì thế mới có câu: Vua chơi lan, quan chơi cúc. Hiện nay, hoa lan đã trở nên phổ biến, hiện diện rộng rãi trong cuộc sống hằng ngày của người dân. Có thể nói hoa lan là sự kết tụ những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Cùng với bao loài hoa khác, hoa lan đang góp phần tô điểm cuộc sống của chúng ta ngày càng thêm tươi đẹp.
Topic: Introduction to Orchids. Assignment From ancient times to modern times, from East to West, flower connoisseurs unanimously honor orchids as the king of flowers because of their splendid, captivating beauty. Orchids are present all over the world and can live in many different climates. The orchid family is extremely rich, including 750 genera and over 2,500 species. Orchids are not parasitic like dodder or mistletoe, but are self-nourishing plants that rely on light, air and water vapor. There are two main types of orchids divided according to living conditions. The type that lives on big trees and grows is called orchid. The type that roots in rock cavities where there is humus or is planted underground is called Cymbidium. Oh our country has now grown famous types of orchids such as golden needle, crane top, mo orchid, to tam, royal vu, phi royal scallop, phalaenopsis, white orchid, slipper orchid... Cymbidium varieties originating from Thailand are characterized by stiff and quite tall stems, flowering all year round, bright colors, each branch has over twenty buds, blooming for months before fading, and are relatively convenient for long-distance transportation. convenient. These flower varieties are suitable for tropical and subtropical regions. Can be grown on a large scale using modern techniques for export. Paphiopedilum orchids, Phalaenopsis orchids and other Cymbidium species of Da Lat are only suitable for temperate regions. The tree's trunk is weak, its height is limited, its branches are small, each branch has about seven flower buds and usually withers after a week. Orchids grow in large branches consisting of many small branches, each small branch has several flowers, brilliant colors, wonderfully beautiful! Orchids have two colors: purple and white, thick petals, and last a long time. Royal Phalaenopsis orchid has small, bright yellow flowers, fluttering like a flock of butterflies. Phalaenopsis orchids are relatively large, white, with orange-yellow stamens, like a flock of butterflies in flight. The shape of the slipper orchid is a brocade shoe with a curved nose, extremely pretty. The orchid dancer looks like a talented dancer passionately performing a fairy dance... Standing in front of a garden of thousands of purple and pink orchids, people enjoy it all. have the same feeling of being lost in paradise. As a precious flower, orchids require a special growing and care regime, following a high-tech technological process. Cymbidiums are grown on loose humus soil, orchids are grown in small ceramic or wooden pots, short tree logs containing coconut fiber and charcoal to help the orchids take root. Orchids are grown by tissue culture and growers can cross-breed orchids to get new varieties with many advantages. In the past, orchids were flowers that only appeared in the lives of kings. That's why there is a saying: Kings play orchids, officials play chrysanthemums. Nowadays, orchids have become popular and widely present in people's daily lives. It can be said that orchids are the gathering of the most delicate and magical things that nature bestows on humans. Along with many other flowers, orchids are contributing to making our lives more and more beautiful.
Giới thiệu về hoa đào – Văn thuyết minh – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Giới thiệu về hoa đào Bài làm Mùa xuân về, trăm hoa đua nở, thi nhau khoe sắc. Mỗi loại cây đều có vẻ đẹp riêng, lôi cuốn mọi người. Tuy vậy, đối với người dân Việt Nam, nhất là cư dân đất Bắc, hoa đào đã trở thành một thứ không thể thiếu được mỗi độ Tết đến xuân về. Cây đào không chỉ có ở Việt Nam mà còn có ở một số nước trên thế giới. Các nhà khoa học đặt tên cho đào là prunus persia, một loài cây thân gỗ nhỏ, có thể cao từ 5 đến 10 m và nổi tiếng là loại cây rụng lá sớm. Nguồn gốc chính thức của hoa đào là ở Trung Quốc. Đào thường được trồng trên các miền núi cao, thời tiết khô lạnh. Sau này, theo con đường tơ lụa nổi tiếng, đào đã theo chân những thương gia Trung Quốc sang tận vùng đất Ba Tư giàu có. Và từ Ba Tư, đào theo Địa Trung Hải sang châu Âu rồi tiếp tục lan toả sang châu Mĩ, châu Phi và cả châu Úc. Ở Việt Nam, đào đã được du nhập từ rất lâu. Cách đây vài nghìn năm, từ thời Bắc thuộc, đào đã được vận chuyển từ đất Bắc sang và từ đó, đào dần dần phát triển và sau này trở thành một loại cây nổi tiếng của miền Bắc. Đào gồm ba loại chính: đào phai, đào bích và đào đại phát. Đào phại cành nhỏ, cánh đơn, màu hồng nhạt. Đào bích cánh kép, màu hồng đậm, hoa to và dày hơn đào phai. Tuy vậy, đào bích vẫn chưa phải là loại đào đẹp nhất. Ngôi vị độc tôn trong làng đào chỉ có thể là đào đại phát. Đào này cành lá xum xuê, cánh to và đậm, tán lá dày, nhiều lớp, rễ chùm và to. Đào đại phát có tuổi thọ lâu nhất trong các loại đào, được chăm sóc tỉ mỉ nên giá cả cũng không hề rẻ. Như đá nói, đào là loại cây dễ trồng và rất thích hợp với khí hậu miền Bắc, tuy nhiên để đào có thể ra hoa vào đúng dịp Tết âm lịch thì không phải là việc dễ. Điều này cần đến bàn tay tỉ mỉ và kinh nghiệm dày dặn của các nghệ nhân trồng đào. Đào là loại cây ưa khô vì vậy, nếu đất trồng quá ẩm và tích nước thì đào sẽ rất dễ bị thối gốc. Nếu ta trồng đào ở nơi râm mát, thiếu ánh nắng, đất ẩm thì đào sẽ ra lá quanh năm, đến mùa xuân lại ra rất ít hoa. Vì vậy mà người nông dân thường trồng đào trên luống cao, ở nơi thoáng đãng, mát mẻ, các luống cách nhau từ 1 đến 1,5 m để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho cây. Ở làng đào Nhật Tân hay Quảng Bá, việc chăm sóc cho đào bắt đầu từ đầu tháng giêng. Trước đó, ở vụ thu hoạch năm trước, người ta đã phải bón lót cho đào bằng phân chuồng và phân NPK. Vì đào là loại cây cần nhiều nitơ nên nếu ta bón đủ đạm, đào sẽ xanh tốt và ra nhiều cành. Đến tháng năm, tháng sáu âm lịch là thời điểm đảo gốc đào. Một năm cần đảo từ hai đến ba lần để cho đào thích nghi với môi trường mới, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho đào. Để đào kịp ra hoa vào dịp tết, từ tháng mười người ta phải bón thúc cho đào. Mỗi nơi bón thúc một cách khác nhau nhưng ở Nhật Tân, người ta bón thúc bằng vỏ ốc. Chưa hết, đến tháng 11 âm lịch, người trồng phải tuốt lá cho đào để đào dồn chất dinh dưỡng cho nụ, cho hoa. Đến trung tuần tháng 11, nếu nắng nóng thì cần làm giàn che, hằng ngày tưới nước lạnh để hãm cho đào không ra hoa. Nếu trời lạnh cũng phải làm giàn che và cũng cần tưới nước ấm để đào ra hoa đúng hạn. Để có được một cành đào đẹp ngày Tết, người trồng đào không chỉ tuân theo những quy trình kĩ thuật mà còn phải dựa nhiều vào kinh nghiệm bản thân. Nguyễn Hoài Phương (Trường THCS Ngô Gia Tự) >> Xem thêm Thuyết minh về cây tre tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · Giới thiệu về hoa đào
Introduction to peach blossoms - Explanatory text - Good essay for grade 8 Instruct Introduction to peach blossoms Assignment Spring comes, hundreds of flowers bloom, competing to show off their beauty. Each type of tree has its own beauty, attracting everyone. However, for Vietnamese people, especially residents of the North, peach blossoms have become an indispensable thing every Tet and spring. Peach trees are not only found in Vietnam but also in some countries around the world. Scientists named the peach prunus persia, a small tree that can grow from 5 to 10 meters tall and is famous for being a deciduous tree. The official origin of peach blossom is in China. Peaches are often grown in high mountainous areas with cold, dry weather. Later, along the famous Silk Road, peaches followed Chinese merchants to the rich land of Persia. And from Persia, it followed the Mediterranean to Europe and continued to spread to the Americas, Africa and even Australia. In Vietnam, peaches were introduced a long time ago. Several thousand years ago, during the Northern domination period, peaches were transported from the North and from then on, peaches gradually developed and later became a famous tree of the North. There are three main types of peaches: fading peaches, flange peaches and great phat peaches. Peach trees have small branches, single petals, light pink color. Peach with double petals, dark pink, flowers larger and thicker than peach blossoms. However, spa peaches are still not the most beautiful peach. The sole position in the peach village can only be held by Dai Phat peach. This peach tree has luxuriant branches and leaves, big and bold petals, thick, multi-layered foliage, large and clustered roots. Dai Phat peaches have the longest lifespan among all peaches and are meticulously cared for, so the price is not cheap. As Da said, peaches are an easy plant to grow and are very suitable for the Northern climate. However, getting peaches to bloom on the occasion of Lunar New Year is not an easy task. This requires meticulous hands and extensive experience of peach artisans. Peaches are a dry-loving plant, so if the soil is too moist and water-logged, the peaches will easily rot. If we plant peaches in a shady place, lacking sunlight and moist soil, peaches will produce leaves all year round, but in the spring they will produce very few flowers. Therefore, farmers often plant peaches on high beds, in an airy, cool place, the beds are 1 to 1.5 m apart to ensure the tree's nutritional needs. In Nhat Tan or Quang Ba peach village, peach care begins in early January. Previously, in last year's harvest, people had to fertilize the peaches with manure and NPK fertilizer. Because peaches are plants that need a lot of nitrogen, if we fertilize enough nitrogen, peaches will be green and have many branches. In May and June of the lunar calendar is the time to turn peach roots. It is necessary to turn the peaches two to three times a year to allow the peaches to adapt to the new environment, ensuring the nutritional needs of the peaches. In order for peaches to flower in time for Tet, from October people must fertilize the peaches. Each place fertilizes differently, but in Nhat Tan, people fertilize with snail shells. And yet, by the 11th lunar month, growers must pluck peach leaves to gather nutrients for buds and flowers. By mid-November, if the sun is hot, you need to build a trellis and water it every day with cold water to stop the peaches from flowering. If the weather is cold, you must also build a trellis and also need to water with warm water so that the flowers bloom on time. To have a beautiful peach branch on Tet, peach growers not only follow technical procedures but also have to rely heavily on their own experience. Nguyen Hoai Phuong (Ngo Gia Tu Secondary School) >> See more explanations about bamboo here. Tags: Good essay for grade 8 · Introduction to peach blossoms
Đề bài: Giới thiệu về hoa đào Bài làm Cứ vào dịp Tết Nguyên Đán, nhà nhà lại nô nức chuẩn bị bao thức vật thơm ngon, đẹp để cho dịp Tết trọng đại trong năm này. Và giữa bao nhiêu bánh trái, đồ đạc,… mới mẻ, sặc sỡ, một cành đào tươi tắn rực rỡ vẫn được chờ đợi, ngóng trông nhất. Hoa đào là loài hoa đặc trưng cho cái Tết và mùa xuân miền Bắc Việt Nam. Hoa đào được trồng ở hầu hết các tỉnh miền Bắc: Lạng Sơn, Lào Cai, Hà Nội,… Nhưng đẹp nhất, được yêu thích nhất vẫn là hoa đào Nhật Tân, Hà Nội. Gọi là hoa đào Nhật Tân vì giống hoa ấy được trồng ở làng Nhật Tân – một vùng đất ven sông Hồng của Hà Nội. Hoa đào cũng có nhiều loại: đào bích, đào phai, đào bạch,… Trong đó, đào bích phổ biến hơn cả. Đó là loại đào mau cánh, cánh màu đỏ thắm. Đào phai thì nhạt hơn, sắc đã ngả sang hồng. Riêng đào bạch thì đúng như tên gọi, cánh hoa có màu trắng; đây là loại hoa đào rất hiếm và khó trồng. Hoa đào ưa đất phù sa ven sông và thích hợp với khí hậu ấm áp của mùa xuân. Đó là lí do để cứ mỗi khi Tết đến, xuân về hoa đào lại tưng bừng khoe sắc. Không chỉ vậy, họa còn rất kén chọn cách chăm sóc, tưới bón. Tưới nước cho hoa đào phải tưới bằng nước sạch, nếu sử dụng nước bẩn bị ô nhiễm, đào nở hoa không đều và không đẹp. Hơn nữa, muốn hoa nở đúng dịp Tết phải biết cách tuốt lá đào vào dịp cuối năm. Tuỳ theo tuổi đời, chủng loại và cách chăm bón của người trồng đào mà một cây đào có thể rất nhỏ hoặc rất rất lớn. Loại nhỏ nhất có thể cao vài chục xen-ti-mét, loại lớn nhất có thể cao đến vài mét. Đào là giống cây rễ cọc nên có một thân chính lớn và rất nhiều cành nhỏ vươn ra từ đây. Thân và cành đào dược bao bọc bởi một lớp vỏ màu nâu xám. Từ hàng chục cành nhỏ lại nhú ra các lá đào xanh non và dưới mỗi lá là một nụ đào nhỏ xíu có một lớp lóng phân trắng phủ ngoài. Đến đúng dịp, từ mỗi nụ nhỏ xinh xắn, một bông hoa đào đỏ thắm ngơ ngác xoè cánh nhìn cuộc sống. Hoa đào có năm cánh thắm, ở giữa là nhị hoa màu vàng tươi trông rất bắt mắt; cả cánh hoa và nhị hoa lại được nâng đỡ bởi sắc xanh non của đài hoa nên một bông hoa đào là một hình ảnh hài hoà về màu sắc. Hoa đào chỉ nở một lần trong năm vàọ dịp đầu xuân, chính đặc điểm này cùng với màu đỏ thắm của cánh hoa được con người trân trọng. Bởi màu đỏ là màu của điềm lành, của sự may mắn. Và hoa đào nở vào dịp đầu xuân giống như lời chúc cát tường, thịnh vượng cho mọi gia đình. Cùng với màu sắc của hoa, hình dáng cây hoa cũng là một đặc điểm quan trọng. Thông thường, các cành đào vươn lên khiến cây giống như một chùm đèn lồng xoay ngược hay một li rượu vang lớn. Nhưng người trồng đào hoàn toàn có thể tạo "thế" cho cây bằng cách uốn, tỉa thân, cành. Thân chính của cây được tạo dáng sao cho uốn lượn theo hướng vươn lên giống hình ảnh con rồng bay lên trời xanh. Hoặc có thể được uốn tỉa theo hình các con vật; rất phong phú đa dạng. Muốn cây đào có được vẻ xù xì, cổ kính mà không bị cổng kềnh, cao to, người trồng đào thường chọn những cây già rồi cắt gần sát gốc để từ cái gốc cổ thụ ấy lại vươn ra những thân đào khác… Thế mới biết, nghề trồng đào – chơi đào cũng lắm công phu. Vào ngày Tết, cây đào được đặt ở vị trí trung tâm trong phòng khách, kiêu hãnh khoe cái vẻ tươi tắn rực rỡ của mình. Nhiều gia đình còn treo lên cành cây những phong bao lì xì, những vật trang trí vô cùng bắt mắt. Mỗi lần gió xuân đi qua, những vật nhỏ xinh ấy lại quay tròn ríu rít vỗ tay mừng hoa đào đã nở. Cây hoa đào với những đặc điểm đáng quý của mình đã được con người Việt Nam trân trọng và nâng niu như thế. Và mỗi dịp Tết đến xuân về, lòng người lại háo hức với niềm vui được chờ đón hoa đào nở, được chờ đón một năm mới an lành, hạnh phúc.
Topic: Introduction to peach blossoms Assignment Every Lunar New Year, families eagerly prepare delicious and beautiful dishes for this important New Year occasion of the year. And among all the new and colorful cakes, fruits, furniture, etc., a bright, bright peach branch is still the most awaited and anticipated. Peach blossom is a typical flower for Tet and spring in Northern Vietnam. Peach blossoms are grown in most northern provinces: Lang Son, Lao Cai, Hanoi,... But the most beautiful and most loved are still Nhat Tan peach blossoms, Hanoi. It is called Nhat Tan peach blossom because that flower is grown in Nhat Tan village - an area along the Red River of Hanoi. There are many types of peach blossoms: peach blossoms, peach blossoms, white peaches, etc. Among them, peach blossoms are the most popular. It is a type of peach with quick petals and crimson petals. Fading peaches are lighter, the color has turned pink. As for white peach, as the name suggests, the petals are white; This is a very rare and difficult to grow peach blossom. Peach blossoms love alluvial soil along rivers and are suitable for the warm climate of spring. That is the reason why every time Tet comes and spring comes, peach blossoms bloom jubilantly. Not only that, they are also very picky about how they are cared for and fertilized. Watering peach blossoms must be watered with clean water. If dirty, polluted water is used, the peach blossoms will be uneven and not beautiful. Furthermore, if you want flowers to bloom on Tet, you must know how to pluck peach leaves at the end of the year. Depending on the age, type and care of the peach grower, a peach tree can be very small or very large. The smallest type can be several dozen centimeters tall, the largest type can be several meters tall. Peach is a tap-rooted tree, so it has a large main trunk and many small branches extending from here. The trunk and branches of the peach tree are covered by a gray-brown bark. From dozens of small branches, young green peach leaves sprout and under each leaf is a tiny peach bud covered with a layer of white excrement. At the right time, from each lovely little bud, a crimson peach flower opens its wings to look at life in bewilderment. Peach blossoms have five dark petals, in the middle are bright yellow stamens that look very eye-catching; Both petals and stamens are supported by the green color of the sepals, so a peach flower is a harmonious image of color. Peach blossoms only bloom once a year in early spring, it is this characteristic along with the crimson color of the petals that people cherish. Because red is the color of good omen and luck. And peach blossoms blooming in early spring are like wishes of good luck and prosperity for every family. Along with the color of the flower, the shape of the flower plant is also an important characteristic. Usually, the peach branches stretch upward, making the tree look like an upside-down lantern or a large glass of wine. But peach growers can completely "position" the tree by bending and pruning the trunk and branches. The main trunk of the tree is shaped so that it curves upward, like the image of a dragon flying into the blue sky. Or it can be shaped like animals; very rich and diverse. Wanting peach trees to have a rough, ancient look without being bulky or tall, peach growers often choose old trees and cut them close to the root so that from that ancient root, other peach trunks can grow... That's new. I know, the job of growing peaches - playing peach trees is also very elaborate. On Tet, the peach tree is placed in a central position in the living room, proudly showing off its bright and vibrant appearance. Many families also hang lucky money envelopes on tree branches, extremely eye-catching decorations. Every time the spring breeze passes by, those beautiful little things spin around and chirping, clapping to celebrate the blooming of peach blossoms. The peach blossom tree with its precious characteristics has been respected and cherished by Vietnamese people. And every spring comes, people's hearts are excited with the joy of waiting for peach blossoms to bloom, waiting for a peaceful and happy new year.
Giới thiệu về Hô-me- rơ – Tác giả của đoạn trích Uy-lít-xơ trở về Hướng dẫn Hô-me- rơ được coi là cha đẻ của thi ca Hi Lạp, để có thêm những thông tin hữu ích về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ mù Hô- me-rơ, các bạn hãy cùng tham khảo phần giới thiệu về Hô- me-rơ mà chúng tôi giới thiệu về tác giả Hô- me-rơdưới đây nhé! I. Tiểu sử nhà thơ Hô-me-rơ 1. Hô-me-rơ là cha đẻ của thi ca Hi Lạp cổ đại Hi Lạp là một trong những cái nôi đầu tiên của văn minh nhân loại và được coi là cội nguồn của châu Âu hiện đại. Văn hoá Hi Lạp phát triển rực rỡ với đặc trưng là tính chất thương nghiệp đã đặt nền móng cho kiểu loại tư duy lí tính, cho xu hướng phát triển thiên về khám phá kĩ thuật và chinh phục tự nhiên của châu Âu sau này. Đặc biệt, trong lĩnh vực văn học của Hy Lạp, không thể không nhắc đến Hô-me-rơ – nhà thơ mù, cha đẻ của thi ca Hi Lạp cổ đại, tác giả của hai bản sử thi anh hùng ca I-li-át và Ô-đi-xê. 2. Cuộc đời của Hô-me-rơ vẫn được bao phủ bởi một tầng hào quang của những huyền thoại Tên thật của Hô-me-rơ là Mê-lê-xi-gien, ông sống vào khoảng thế kỉ XIX- XVIII TCN. Hiện vẫn chưa xác định được quê hương của ông, song theo nhiều truyền thuyết của Hy Lạp thì ông được sinh ra bên bờ sông Mê-lét. Cho đến nay, cuộc đời của Hô-me-rơ vẫn được bao phủ bởi một tầng hào quang của những huyền thoại. Có ít nhất là 9 bản tiểu sử khác nhau về cuộc đời ông. Ngay từ cái tên Hô-me-rơ đã thể hiện điều đó. Từ Hô-me-rơ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là người mù. Nhiều người cho rằng cái tên này xuất phát từ việc Hô-me-rơ là một nghệ sĩ hát rong mù tại Ki-ốt. Về sau đã xuất hiện các Hô-me-ri-đơ (con cháu của Hô-me-rơ) – những ca sĩ hát rong ở thành bang Ki-ốt. Các ca sĩ hát rong Hô-me-ri-đơ trở nên ngày càng đông, học thường đi khắp các thành bang Hy Lạp để hát và kể các sáng tác thần thoại, sử thi, truyền thuyết Hy Lạp. >>Cảm nhận của em về đoạn trích Uy- lít-xơ trở về – Văn mẫu lớp 10 tuyển chọn II. Tên tuổi của Hô-me-rơ gắn liền với 2 bộ sử thi Iliad và Ô-đi-xê Tên tuổi Hô-me-rơ gắn liền với hai bộ sử thi đồ sộ Iliad và Ô-đi-xê. Nếu như Ilad là bản anh hùng ca chiến trận với sự vinh danh tên tuổi những người anh hùng như Asin, Hector thì Ô-đi-xê đánh dấu giai đoạn phát triển mới của Hy Lạp: mở rộng khai thác và chinh phục biển cả; chuyển từ chế độ công xã thị tộc sang chế độ chiếm hữu nô lệ, thoát khỏi tổ chức sinh hoạt cộng đồng để chuyển sang tổ chức gia đình và hôn nhân một vợ một chồng. Trong bối cảnh xã hội mới ấy, những phẩm chất được đề cao là trí tuệ, tình yêu thuỷ chung và sự gắn bó với quê hương xứ xở. Hai phẩm chất trí tuệ và tình yêu thuỷ chung đó được kết tinh trong hình tượng nhân vật Uy-lít-xơ – nhân vật trung tâm của Ô-đi-xê. Có thể nói, với những giá trị đặc sắc trong các sáng tác văn học của mình, Hô-me-rơ rất xứng đáng là cha đẻ của nền thi ca Hy Lạp. Theo
Introduction to Homer - Author of the excerpt "Return of Uylitz". Instruct Homer is considered the father of Greek poetry. To get more useful information about the life and creative career of the blind poet Homer, please refer to the introduction. Introducing Homer, we introduce the author Homer below! I. Biography of poet Homer 1. Homer is the father of ancient Greek poetry Greece is one of the first cradles of human civilization and is considered the origin of modern Europe. Greek culture developed brilliantly, characterized by its commercial nature, which laid the foundation for a type of rational thinking, for the development trend that favored technical exploration and conquest of nature in Europe later. In particular, in the field of Greek literature, it is impossible not to mention Homer - blind poet, father of ancient Greek poetry, author of two epic poems I-li. -at and Odice. 2. Homer's life is still covered by an aura of legends Homer's real name is Melegigen, he lived around the 19th - 18th centuries BC. His hometown is still unknown, but according to many Greek legends, he was born on the banks of the Melet River. Until now, Homer's life is still covered by an aura of legends. There are at least nine different biographies about his life. Right from the name Homer shows that. The word Homer in Greek means blind. Many people believe that this name comes from the fact that Homer was a blind minstrel at the Kiosk. Later, the Homerids (descendants of Homer) appeared - buskers in the city-state of Kiot. Homer's troubadours became more and more numerous, often traveling throughout Greek cities to sing and tell Greek myths, epics, and legends. >>My feelings about the excerpt from Uy-Litz's Return - Selected 10th grade essay sample II. Homer's name is associated with the two epics Iliad and Odyssey Homer's name is closely associated with the two massive epics Iliad and Odyssey. If Ilad is an epic battle poem with honors for heroes like Achilles and Hector, then Odyssey marks a new stage of Greek development: expanding exploitation and conquering the sea. ; moving from clan communal system to slavery, escaping from the organization of community activities to moving to the organization of family and monogamous marriage. In that new social context, the qualities that are promoted are wisdom, loyal love and attachment to the homeland. Those two qualities of wisdom and faithful love are crystallized in the image of Uy-Litz - the central character of Odyssey. It can be said that, with the unique values ​​of his literary works, Homer deserves to be the father of Greek poetry. According to
Giới thiệu về Hồ Nguyên Trừng – Tác giả của tác phẩm Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng Hướng dẫn Để có thêm thông tin hữu ích về tác giả Hồ Nguyên Trừng và có thêm cơ sở trong việc tìm hiểu văn bản Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng, các bạn hãy cùng tham khảo bài Giới thiệu về tác giả Hồ Nguyên Trừng mà chúng tôi giới thiệu dưới đây nhé! 1. Tiểu sử Hồ Nguyên Trừng Tác giả Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446) là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Ngu, ông là con trưởng của vua Hồ Quý Ly và là anh của vua Hồ Hán Trương. Dưới triều hồ, ông làm đến Tể tướng, mang lại đóng góp to lớn về khoa học quân sự và chỉ huy của quân đội Việt trong kháng chiến chống giặc Minh. Hồ Nguyên Trừng có quê ở huyện Vĩnh Phúc, thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay. Ông là một nhà kĩ thuật quân sự tài ba, theo các tài liệu lịch sử khi còn ở trong nước, do nhu cầu quân sự của nước nhà ông đã sáng chế và đứng lên chỉ tạo chế tác súng thần cơ (hỏa pháo cải tiến) và thuyền cổ lâu (loại thuyền chiến lớn có hai tầng). Chính nhờ tài năng của ông mà sau này ông được vua Minh thu dụng dùng để lo việc chế tạo súng. Ngoài ra, Hồ Nguyên Trừng còn là người có đóng góp to lớn trong việc lo đắp những con đê lớn, đào kênh và vét lại những con sông, phục vụ cho các hoạt động về giao thông, thủy lợi và quân sự. Tiêu biểu là một số công trình kiến trúc cổ của thời Hồ như thành Tây Đô đồ sộ cũng đều do ông chỉ huy xây dựng. 2. Sự nghiệp sáng tác Ông bắt ông sáng tác khi sống cuộc sống lưu vong ở Trung Quốc, tại đây ông đã sáng tác ra cuốn “Nam Ông mộng lục” – Chép lại những giấc mộng của Nam Ông. Tác phẩm bao gồm 31 thiên, nhưng hiện nay chỉ còn lại 28 thiên. Đây được coi là tập hồi kí chữ Hán đầu tiên và cũng là tác phẩm đầu tiên mở đường cho khuynh hướng viết về những con người thật, những sự việc thật trong văn xuôi tự sự Việt Nam. Hồ Nguyên Trừng thọ 73 tuổi, sau khi thăng chức Công Bộ Thượng thư được một năm thì mất, hiện phần mộ của ông nằm tại thôn Nam An Hà, thuộc thành phố Bắc Kinh – Trung Quốc. Tên của ông đã được đạt cho một con đường ở thị trấn Phong Điền (Thừa Thiên – Huế) và ở hai quận Hải Châu, Cẩm Lệ (Đà Nẵng).
Introducing Ho Nguyen Trung - Author of the work The best doctor lies in the heart Instruct To get more useful information about author Ho Nguyen Trung and have more basis in understanding the text The best doctor lies in the heart, please refer to the article Introduction to author Ho Nguyen Trung that we published. I introduce it below! 1. Biography of Ho Nguyen Trung Author Ho Nguyen Trung (1374 - 1446) was a politician, military man, and member of Dai Ngu royal family. He was the eldest son of King Ho Quy Ly and brother of King Ho Han Truong. Under the lake tide, he worked as Prime Minister, bringing great contributions to military science and command of the Vietnamese army in the resistance war against the Ming invaders. Ho Nguyen Trung is from Vinh Phuc district, Thanh Hoa province today. He is a talented military technician. According to historical documents when he was still in the country, due to the military needs of his country, he invented and only made mechanical guns (improved artillery). ) and ancient boats (large warships with two floors). Thanks to his talent, he was later recruited by King Minh to take care of making guns. In addition, Ho Nguyen Trung also made great contributions in building large dikes, digging canals and dredging rivers, serving transportation, irrigation and military activities. Typically, some ancient architectural works of the Ho Dynasty such as the massive Tay Do citadel were also built by him. 2. Creative career He forced him to compose while living in exile in China, where he composed the book "Nam Ong Luc Luc" - Copy of Nam Ong's dreams. The work includes 31 verses, but now only 28 verses remain. This is considered the first collection of Chinese memoirs and also the first work that paved the way for the trend of writing about real people and real events in Vietnamese narrative prose. Ho Nguyen Trung was 73 years old. One year after being promoted to the position of Minister of Public Affairs, he passed away. His grave is currently located in Nam An Ha village, Beijing city - China. His name has been given to a road in Phong Dien town (Thua Thien - Hue) and in two districts of Hai Chau and Cam Le (Da Nang).
Đề bài: Giới thiệu về loài cây gắn bó với tuổi học trò của em Bài làm Đối với tuổi học trò, cây phượng và cây bàng là hai loại cây đẹp nhất và có nhiều ký niệm nhất. Nhưng ở đây, em chỉ xin nói đến một loài cây mà gắn bó với em trong suốt quãng đời học sinh, đó là cây phượng. Cây phượng quả là một loài cây biết tạo cho thế hệ học sinh như chúng em những cảm xúc, niềm say mê trong học tập. Nhìn thấy chúng, em cảm thấy như cuộc đời tươi đẹp hơn vì quãng đời học sinh còn dài, bao nhiêu tình cảm như được cây phượng chia sẻ, cảm thông và mách bảo rằng hãy cố gắng tiến bước không được lùi bước trước khó khăn thử thách. Mỗi ngày đến trường em đều nhìn thấy cây phượng khoe những cành lá rung rinh như chào em. Những cây phượng cao hơn nóc nhà nhưng cành lá không dược sum suê như cây bàng, không che rợp dược cả một quãng đường. Thân cây xù xì, chỉ cần một vòng tay là ôm đủ. Những chiếc rễ lớn nổi gồ trên mặt đất làm nứt nẻ cả nền xi măng quanh gốc. Mỗi sớm mai tiếng chim hót líu lo trong tán lá xanh nghe thật vui tai. Khi nghe được tiếng chim hót này, một ngày mới đã bắt đầu cuộc sống nhộn nhịp và sôi động. Lá phượng là một loại lá kép, gồm nhiều lá nhỏ, mỏng, màu xanh sẫm không giống như lá cây bàng to có thể che đầu lúc mưa lúc nắng, lá mọc song song hai bên cuống, trông xa như đuôi con chim phượng. Ngày còn bé, bọn trẻ con trong xóm tuốt hết lá đi rồi buộc túm cuống lại với nhau thành một cây vợt bắt bướm, rất thú vị. Xuân qua, hè tới, cây phượng bắt đầu trổ bông: Hoa phượng nở thành chùm lớn, có năm cánh (bốn cánh màu đỏ tươi và một cánh màu đỏ lốm đốm trắng). Nhuỵ hoa phượng thường được làm để chơi chọi gà, là một túi phấn hình bầu dục, dài và cong. Khi tiếng ve kêu ra rả cũng là báo hiệu mùa hè đến, mùa thi sắp đến và cùng là mùa của sự chia tay. Và đây cũng là lúc hoa phượng nở nhiều nhất. Cá một màu đỏ nồng nàn như lửa bao phủ khắp ngọn cây, làm rực sáng cả một khoảng trời bừng bừng sức sống, cây phượng già như được trẻ lại. Hết mùa hè, hoa phượng tàn dần, cánh phượng rơi lả tả bay theo chiều gió. Lúc này, quả phượng non, có màu xanh, mỏng, dài khẽ đung đưa trên cành. Cây phượng trở lại với vẻ đẹp mộc mạc, thân quen của nó. Nhắc đến phượng thì không thể không nhắc đến những kỷ niệm của tuổi học trò "nhất quỷ, nhì ma" này. Lúc ra chơi, mọi người thường ngồi xuống ngắm cành hoa lá, dựa vào thân cây nho nhỏ và xù xì; cũng có thể ngồi học bài, đọc sách. Lúc đó cảm tưởng mọi việc trở nên yên tĩnh, cuộc sống không còn sự ồn ào náo nhiệt. Vì cây phượng đẹp như vậy, đáng yêu như vậy nên mọi người thường dành cho cây phượng những tình cảm tốt đẹp nhất và đặt cho nó một tên gọi thân thương: hoa học trò. Sau này khi lớn lên, tuồi học sinh đã qua nhưng mỗi khi nhìn thấy cây phượng chắc chắn những kỷ niệm sẽ hiện lên, trào dâng trong lòng như chính thời điểm đó.
Topic: Introducing the tree species associated with my student's age Assignment For students, the phoenix tree and the almond tree are the two most beautiful trees and have the most memories. But here, I would just like to talk about a tree species that has stuck with me throughout my student life, which is the phoenix tree. The Royal Poinciana tree is a tree that knows how to create emotions and passion for learning in students like us. Seeing them, I feel like life is more beautiful because the student life is still long, so much love is shared by the phoenix tree, sympathizing and telling me to try to move forward and not retreat in the face of difficulties. challenge. Every day when I go to school, I see the phoenix tree showing off its shaking branches and leaves as if greeting me. The phoenix trees are taller than the roofs of the house, but their branches and leaves are not as lush as the almond trees, and they do not cover the whole distance. The tree trunk is rough, just one hug is enough to hug. Large roots protruding from the ground cracked the cement floor around the roots. Every morning, the sound of birds chirping in the green foliage sounds so pleasant. When you hear this bird singing, a new day begins with a bustling and exciting life. The phoenix leaf is a type of compound leaf, consisting of many small, thin, dark green leaves, unlike the big leaves of the almond tree that can cover the head in the rain or the sun. The leaves grow parallel on both sides of the stem, looking like a phoenix's tail from afar. When I was a child, the children in the neighborhood plucked all the leaves and tied the stems together to make a butterfly-catching racket, which was very interesting. Spring has passed and summer has come, and the phoenix tree begins to bloom: Royal poinciana flowers bloom in large bunches, with five petals (four bright red petals and one red petal with white specks). Poinciana flower pistils are often made for cockfighting, which is an oval, long and curved pollen sac. When the sound of cicadas chirps, it also signals the arrival of summer, the upcoming exam season and also the season of farewell. And this is also the time when phoenix flowers bloom the most. A passionate red color like fire covered the tops of the trees, brightening up a sky full of vitality, the old phoenix tree seemed to be rejuvenated. At the end of summer, the poinciana flowers gradually fade, and the poinciana petals fall and fly with the wind. At this time, the young, green, thin, long phoenix fruit sways gently on the branch. The phoenix tree returns to its rustic, familiar beauty. When talking about phoenixes, it is impossible not to mention the memories of this "first ghost, second ghost" student years. During recess, people often sit down to look at the flowers and leaves, leaning against the small, rough tree trunk; You can also sit and study or read books. At that time, it felt like everything became quiet, life was no longer noisy and bustling. Because the poinciana tree is so beautiful and lovely, people often give the poinciana tree the best feelings and give it a loving name: student flower. Later when I grow up, my student years have passed, but every time I see the phoenix tree, memories will certainly appear and surge in my heart like at that very moment.
Đề bài: Giới thiệu về loài hoa của làng quê Việt Nam Bài làm Trong bức tranh làng quê Việt Nam, sẽ thật thiếu sót nếu thiếu đi hình ảnh đầm sen bát ngát, mênh mông. Trong đầm gi đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Bài ca dao về hoa sen gợi biết bao niềm yêu mến và tự hào về loài hoa hương đồng gió nội. Nhắc đến hoa sen là nhắc đến một loài hoa đẹp đẽ, thánh thiện, hoàn toàn thoát tục; một loài hoa trở thành biểu tượng cho tâm hồn và nhân phẩm Việt Nam. Hoa sen là một trong những loài hoa truyền thống lâu đời nhất ở phương Đông. Đây là loài thực vật sống dưới nước có nguồn gốc Á châu và chiếm giữ một vị trí cổ xưa trong tất cả nền văn hóa, đặc biệt là của Phật giáo. Ta biết rằng nhắc đến Phật giáo là nhắc đến hình ảnh Phật ngồi trên đài sen thơm ngát. Phật giáo đã có hơn hai nghìn năm trăm năm, vậy ắt hẳn tuổi của loài sen còn nhiều hơn thế. Một bông hoa sen ngắm lần lượt từ ngoài vào trong ta sẽ thấy "bông trắng, nhị vàng". Cánh hoa sen rất giống với hình trái tim, đáy tim hướng lên trên. Một bông sen có nhiều lớp cánh xếp lớp vào nhau; đến khi nở cũng ngần ấy cánh hoa xoè ra khoe sắc. Cánh hoa sen có thể có màu hồng hoặc trắng. Bên trong cánh sen là nhị sen màu vàng tươi rất nổi bật. Khi sen đã già, nhị đã tàn có thể thấy rõ bát sen với những hạt sen lớn bằng đầu ngón tay. Toàn bộ bông sen được đỡ bằng một cuống hoa dài và đưa sen mọc khỏi trên mặt nước. Thân sen được cấu tạo rất đặc biệt. Bẻ đôi thân sen sẽ thấy hai nửa thân còn được nối với nhau bằng những sợi tơ dài. Chính đặc điểm đó của sen đã gợi hứng để đại thi hào Nguyễn Du viết nên câu thơ tuyệt bút: "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng". Bởi vậy, sen còn là biểu tượng của lòng thuỷ chung son sắt. Lá sen có hình tròn, rất rộng và có màu xanh. Mặt lá có một lớp nhung trắng, khi ánh nắng chiếu vào, lớp nhung trắng ấy óng ánh li ti mờ ảo rất đẹp. Hoa sen, lá sen, thân sen được nuôi sống bởi củ sen nằm sâu dưới lòng bùn. Hoa sen mọc trong bùn, sống trong bùn nhưng vượt lên khỏi nó để hướng đến mặt trời mà không hề bị bùn làm ô nhiễm, vấy bẩn. Thật đúng như lời ca dao: "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Trong bức tranh làng quê Việt Nam, sẽ thật thiếu sót nếu thiếu đi hình ảnh đầm sen bát ngát, mênh mông. Có điều ấy bởi từ Bắc vào Nam, sen có mặt khắp mọi nơi, gắn bó rất mật thiết với đời sống con người Việt Nam như cây tre, cây đa… vậy. Mùa hạ đến giữa cái nóng như thiêu như đốt, đi làm đồng hay đang trên đường đi xa, người ta chỉ ao ước đến gần một đầm sen. Hương sen thơm ngát, mát lành thoảng qua làm dịu đi cái nóng nực, oi nồng. Thêm nữa, nhìn hình ảnh đầm sen rờn sóng, lá sen lấp loáng, hoa sen lung linh, chỉ vậy thôi đã như cảnh tiên khiến người ta quên cả mệt mỏi. Vài cậu bé con tinh nghịch ngắt chiếc lá sen che lên đầu làm nón, ngất ngưởng ngồi lên lưng trâu đi về đường làng, hình ảnh ấy cũng thật nên thơ nên hoạ. Không chỉ vậy, nhắc đến hoa sen còn là nhắc đến một loài hoa quý. Ở Việt Nam, sen được xếp vào bộ tứ quý bốn mùa: lan, sen, cúc, mai và xếp vào hàng tứ quân tử” cùng tùng, trúc, cúc,mai. Hoa sen được dùng để làm đẹp cho những ngôi nhà đơn sơ, giản dị của người nông dân Việt Nam đồng thời làm sang cho những khu vườn kim chi ngọc diệp. Bên cạnh đó, sen còn là một món ăn rất ngon và bổ. Củ và ngó sen sau khi rửa sạch liền trở thành món ăn mát lành, một món đặc sản chốn đồng quê. Hạt sen cũng được dùng làm món ăn, vị thuốc công hiệu. Đặc biệt, nhị sen còn được dùng để ướp trà tạo nên thức trà sen nức tiếng. Sáng sớm, khi trời còn tinh sương, người ướp trà phải chèo thuyền ra hồ thả từng lá trà vào giữa bông sen rồi buộc nhẹ bông sen lại để chè được ngấm cái hương vị thơm lành của sen. Cầu kì hơn, có người còn đi thâu từng hạt sương đọng trên cánh hoa sen, lá sen đề làm nước hãm trà… Vậy mới biết, sen được con người yêu thích đến nhường nào! Khi mùa hạ qua đi, sen dần tàn lụi. Sen chỉ thích hợp với môi trường có khí hậu ấm nóng bởi vậy khi thu đến đông về, sen tạm thu mình xuống lớp bùn lạnh để chờ xuân sang vươn chồi non biếc và mùa hè đến thì xoè hoa, khoe lá. Nếu ở miền Bắc, hoa. sen chỉ nở vào mùa hè, thì ở hầu khắp miền Nam quanh năm đâu đâu cũng thấy sen khoe sắc thắm. Làng quê nơi Bác sinh ra cũng có tên là Làng Sen, và có lẽ hoa sen đẹp nhất khi được ví với hình tượng Bác Hồ, người cha già dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta: Tháp Mười đẹp nhất bông sen Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ Không chỉ có những giá trị thực dụng, sen còn thể hiện những ý nghĩa sâu sắc giàu tính triết lí. Sen sống trong bùn nhưng vẫn vươn lên trên lầy, toả hương thơm ngát. Sen có một sức sống mạnh mẽ đến kỳ lạ và tự tính của sen là tinh khiết, thanh thoát. Nó tượng trưng cho bản tính thân thiện, phong thái tao nhã, tinh thần “vươn dậy” trong mọi nghịch cảnh của con người Việt Nam. Đặc biệt trong tư tưởng Phật giáo, hoa sen được tôn quý và chiếm vị trí rất quan trọng bởi tôn giáo này quan niệm rằng bản thân bông sen đã thể hiện tinh thần “cư trần bất nhiễm trần” – ý nghĩa ấy biểu trưng cho những giá trị đạọ đức, sự thuần khiết và thánh thiện,… Trong Phật giáo, phật tổ Thích Ca được sinh ra từ đóa sen vàng. Trong các công trình kiến trúc Phật giáo ở Việt Nam, sen luôn trở thành hình tượng nghệ thuật. Một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu lấy cảm hứng từ hoa sen là chùa Một Cột. Theo truyền thuyết, ngôi chùa này được hình thành từ một giấc mộng đài sen của một vị vua triều Lí. Chùa có hình dáng hoa sen, mọc lên từ hồ nước, chỉ với “một cột” như một cọng sen. Tại đất nước Ai Cập, bông sen cũng được tôn thờ vì sự thanh khiết và thánh thiện. Đây là loài hoa duy nhất nở được trên dòng sông Nin huyền thoại bởi dòng chảy ở đây rất mạnh, các loài hoa khác đều bị vùi dập bởi sông nước nhưng riêng hoa sen thì khác, hoa sen có thể đâm chồi, nảy lộc và đem lại vẻ đẹp không gì sánh bằng cho con sông giàu màu sắc thần bí này. Hãng hàng không quốc gia của Việt Nam, Vietnam-airline, đã chọn hình ảnh bông sen sáu cánh làm biểu tượng của mình sau bao thời gian chắt lọc, suy nghĩ. Đó cũng là biểu tượng mà người Việt Nam muốn cho bạn bè quốc tế trên khắp năm châu được biết đến. Đóa sen hồng giờ đã được nâng lên không trung, bay đến với khắp mọi nơi trên thế giới, mang niềm vui đoàn tụ, hạnh phúc, hòa bình và đã giúp khoảng cách giữa người và người, giữa các cộng đồng trên thế giới đưực xích lại gần nhau. Trong mắt của bạn bè thế giới, hình ảnh của bông sen sẽ in đậm và động lại trong tư tưởng của mọi người về một đất nước anh hùng, bất khuất dù phải trải qua bao cuộc bể dâu, bao trận chiến tang thương, khốc liệt nhưng giờ đây vẫn vững bước đi lên hội nhập với thế giới.
Topic: Introduction to flowers of Vietnamese villages Assignment In the picture of a Vietnamese village, it would be incomplete without the image of a vast lotus pond. In a dress that is as beautiful as a lotus Green leaves, white flowers, and yellow stamens Yellow stamens, white flowers, green leaves Nearly mud that does not stink of mud. The folk song about the lotus evokes so much love and pride for the fragrant flower of the domestic wind. Referring to the lotus flower is referring to a beautiful, holy, completely escapist flower; A flower that has become a symbol of Vietnamese soul and dignity. The lotus is one of the oldest traditional flowers in the East. This is an aquatic plant of Asian origin and holds an ancient place in all cultures, especially Buddhism. We know that mentioning Buddhism means mentioning the image of Buddha sitting on a fragrant lotus. Buddhism has been around for more than two thousand five hundred years, so the lotus species must be much older than that. Looking at a lotus flower from the outside in, we will see "white flower, yellow stamen". Lotus petals are very similar to the shape of a heart, with the bottom of the heart facing up. A lotus flower has many layers of petals layered together; When it blooms, that many petals spread out to show off their beauty. Lotus petals can be pink or white. Inside the lotus petal is a very prominent bright yellow lotus stamen. When the lotus is old and the stamens have withered, you can clearly see the lotus bowl with lotus seeds as large as a fingertip. The entire lotus flower is supported by a long flower stem and helps the lotus grow out of the water. The lotus stem has a very special structure. Break the lotus stem in half and you will see that the two halves are still connected by long silk threads. It is that characteristic of the lotus that inspired the great poet Nguyen Du to write the wonderful poem: "Even if the mind is separated, the heart still remains". Therefore, the lotus is also a symbol of steadfast loyalty. Lotus leaves are round, very wide and green. The surface of the leaf has a layer of white velvet. When sunlight shines on it, that layer of white velvet shimmers very beautifully. Lotus flowers, lotus leaves, and lotus stems are nourished by lotus roots deep in the mud. The lotus grows in mud, lives in mud but rises above it to reach the sun without being polluted or stained by mud. It's true as the folk song says: "Close to the mud but doesn't smell of mud". In the picture of a Vietnamese village, it would be incomplete without the image of a vast lotus pond. That's because from North to South, lotus is everywhere, very closely linked to Vietnamese people's lives like bamboo, banyan trees... Summer comes in the midst of scorching heat. When working in the fields or on a long trip, people only wish to get close to a lotus pond. The fragrant, cool lotus scent wafts through to soothe the hot, muggy heat. In addition, looking at the image of a rippling lotus pond, sparkling lotus leaves, shimmering lotus flowers, just that alone is like a fairy scene that makes people forget their fatigue. A few young boys playfully plucked lotus leaves to cover their heads as hats, sat on buffalo backs and walked down the village road. That image was truly poetic. Not only that, mentioning lotus is also mentioning a precious flower. In Vietnam, lotus is classified as one of the four seasons: orchid, lotus, chrysanthemum, and apricot, and is classified as the four "gentlemen" along with pine, bamboo, chrysanthemum, and apricot. Lotus flowers are used to beautify the simple and simple houses of Vietnamese farmers while also beautifying jade kimchi gardens. Besides, lotus is also a very delicious and nutritious dish. After being washed, tubers and lotus roots immediately become a cool dish, a specialty of the countryside. Lotus seeds are also used as food and effective medicine. In particular, lotus stamens are also used to marinate tea to create the famous lotus tea. Early in the morning, when the sky is still dew, the person who marinates the tea must row a boat to the lake and drop each tea leaf into the middle of the lotus flower and then gently tie the lotus so that the tea can absorb the fragrant aroma of the lotus. Even more elaborately, some people even collect every dew drop on lotus petals and lotus leaves to make tea... So you know how much lotus is loved by people! When summer passes, the lotus gradually fades. Lotus is only suitable for environments with warm climates, so when autumn comes and winter comes, the lotus temporarily hides itself in the cold mud to wait for spring to sprout green buds and when summer comes, it opens its flowers and shows off its leaves. If in the North, flowers. Lotus only blooms in the summer, but everywhere in the South you can see lotus blooming all year round. The village where Uncle Ho was born is also called Lotus Village, and perhaps the lotus is most beautiful when compared to the image of Uncle Ho, the father of the nation, our beloved leader: Thap Muoi is the most beautiful lotus. The most beautiful Vietnam is named Uncle Ho Not only does it have practical values, lotus also represents profound philosophical meanings. Lotus lives in mud but still rises above the mud, emitting a fragrant scent. Lotus has a strangely strong vitality and its nature is pure and elegant. It symbolizes the friendly nature, elegant style, and spirit of "rising up" in all adversities of the Vietnamese people. Especially in Buddhist thought, the lotus is revered and occupies a very important position because this religion believes that the lotus itself represents the spirit of "living in the world, not contaminated by the world" - that meaning symbolizes moral values, purity and holiness,... In Buddhism, Buddha Shakyamuni was born from a golden lotus. In Buddhist architectural works in Vietnam, lotus always becomes an artistic image. One of the typical architectural works inspired by the lotus flower is the One Pillar Pagoda. According to legend, this pagoda was formed from a lotus flower dream of a Ly Dynasty king. The pagoda has the shape of a lotus flower, rising from the lake, with only "one column" like a lotus stem. In Egypt, the lotus is also worshiped for its purity and holiness. This is the only flower that can bloom on the legendary Nile River because the flow here is very strong, other flowers are overwhelmed by the river, but the lotus is different, the lotus can bud, sprout and bloom. bringing unparalleled beauty to this river rich in mystical colors. Vietnam's national airline, Vietnam-airline, chose the image of a six-petal lotus as its symbol after much time of filtering and thinking. That is also the symbol that Vietnamese people want to make known to international friends across five continents. The pink lotus has now been lifted into the air, flying to every corner of the world, bringing the joy of reunion, happiness, peace and has helped the distance between people and between communities around the world to be bridged. come near together. In the eyes of friends around the world, the image of the lotus flower will be bold and vivid in everyone's thoughts about a heroic and indomitable country despite having to go through many hardships and tragic and fierce battles. paralyzed but now still steadily moving forward to integrate with the world.
Giới thiệu về Lí Bạch – Tác giả của bài thơ Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Hướng dẫn Lí Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời Đường, từ những đóng góp to lớn của Lí Bạch cho nền văn học Trung Hoa, ông được mệnh danh là “thi tiên”. Để có thêm những thông tin về tiểu sử cũng như sự nghiệp sáng tác của Lí Bạch, các bạn hãy tham khảo bài Giới thiệu về Lí Bạch dưới đây nhé! 1. Tiểu sử Lí Bạch Lí Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học thời Thịnh Đường nói riêng và trong nền văn học Trung Hoa nói chung. Ông sinh năm 701- mất năm 762 tại Lũng Tây, Cam Túc. Ông có tên tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Hiên cư sĩ và một số tên hiệu khác như Tửu trung tiên, Lý Trích tiên. Lí Bạch được người đời sau gọi với cái tên đầy ngưỡng vọng là “Thi tiên” bởi tài năng thơ ca của mình. Năm 10 tuổi, ông đã sáng tác được những bài thơ rất hay. Vì không thích sống trong cảnh “lầu son gác tía” gò bó, tù túng, chật hẹp nên dù sinh ra trong gia đình khá giả, ông vẫn rời xa gia đình để đi lên núi học đạo và sống cuộc đời ẩn sĩ vào năm 16 tuổi. Hai năm sau, ông hạ sơn và ngao du khắp các thắng cảnh tại Hà Bắc, Giang Tây, Trường An,… Năm 726, ông kết duyên cùng cháu gái Hứa tướng công tại Vân Mộng. Tuy nhiên đến năm 741, ông lại từ bỏ cuộc sống gia đình để đi ngao du tại Hồ Nam rồi Giang Tô, Sơn Đông,… đi đến đâu thì danh tiếng lan ra đến đó. 2. Sự nghiệp sáng tác Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn, Lí Bạch đã để lại khoảng hơn 20.000 bài thơ, nhưng ông đều không xem là kiệt tác nên phần lớn những sáng tác của ông được nhân dân truyền tụng. Đến năm 872 Đề tài trong thơ ông thường là uống rượu, thưởng trăng, tình bạn, nỗi khổ của nhân dân,… Một số tác phẩm tiêu biểu trong thơ ông là “Nguyệt hạ độc chước”, “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Hành lộ nan”, “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”,… Trong thơ Lí Bạch, chúng ta thường bắt gặp giọng điệu thơ phóng khoáng bởi thơ ông không hề vướng bận những vấn đề đời tư thế sự mà thường vương vấn cảm xúc hoài cổ. Bởi vậy mà ông được xem là một trong những nhà thơ tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn trong nền văn học trung đại. Theo
Introduction to Li Bach - Author of the poem Hoang Hac Lau Song Manh Hao Nhien chi Quang Lang Instruct Li Bai was one of the most famous poets of the Tang Dynasty. From Li Bai's great contributions to Chinese literature, he was dubbed the "poetic fairy". For more information about Li Bach's biography and creative career, please refer to the Introduction to Li Bach article below! 1. Biography of Li Bai Li Bai is one of the famous poets in the literature of the Tang Dynasty in particular and in Chinese literature in general. He was born in 701 - died in 762 in Lungxi, Gansu. He had a self-name Thai Bach, a lay name Thanh Hien and a number of other names such as Tuu Trung Tien and Ly Trich Tien. Ly Bach was called by later generations the admirable name "Poet Fairy" because of his poetic talent. At the age of 10, he composed very good poems. Because he did not like living in the restrictive, cramped, and cramped "red and purple floors" situation, even though he was born into a well-off family, he still left his family to go to the mountains to study Buddhism and live the life of a hermit in 1995. 16 years old. Two years later, he descended the mountain and traveled around the landscapes in Hebei, Jiangxi, Chang'an, etc. In 726, he married his niece Hua Tuong Cong in Van Mong. However, in 741, he gave up family life to travel in Hunan, then Jiangsu, Shandong,... wherever he went, his fame spread. 2. Creative career During his career of writing poetry, Li Bach left behind more than 20,000 poems, but he did not consider them masterpieces, so most of his compositions were admired by the people. By the year 872, the topics in his poetry were often drinking wine, enjoying the moon, friendship, the suffering of the people, etc. Some typical works in his poetry were "Nguyet Ha Doc Moi", "Vong Lu Son Revealed" , “Hanh Lo is difficult”, “Hoang Hac Lau sends Manh Hao Nhien to Quang Lang”,… In Ly Bach's poetry, we often encounter a liberal poetic tone because his poetry is not concerned with matters of personal life but often lingers on nostalgic emotions. Therefore, he is considered one of the typical poets of romanticism in medieval literature. According to
Đề bài: Em đã từng được đi, được nghe hoặc xem qua sách báo về lễ hội Chùa Hương. Hãy viết bài văn giới thiệu về lễ hội Chùa Hương này. Bài làm Lễ hội chùa Hương đã có từ lâu đời. Hằng năm, cứ đến mùng sáu tháng Giêng sau Tết Nguyên Đán là lễ hội bắt đầu và kéo dài gần như suốt mùa xuân. Khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước, Việt kiều và du khách nước ngoài nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong một năm mới tốt lành, vừa để được đắm mình trong khung cảnh thần tiên của Hương Sơn. Thắng cảnh Hương Sơn thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, cách Thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về phía Tây Nam. Đi ô tô qua thị xã Hà Đông, Vân Đình, thẳng đến bến Đục thì dừng. Bắt đầu từ đây đã là địa phận Hương Sơn. Du khách xuống đò dọc, lướt theo dòng suối Yến trong xanh chảy giữa hai bên là cánh đồng lúa mơn mởn. Trước mắt là dãy núi trập trùng tím biếc, ẩn hiện trong mây trắng, đẹp vô cùng! Có thể nói quần thể Hương Sơn là sự kết hợp tuyệt vời giữa kì công của Tạo hóa với bàn tay khéo léo, tài hoa của con người. Các ngôi chùa được xây dựng rải rác trên núi đá vôi, thấp thoáng dưới rừng cây xanh thẳm. Từ chân núi trèo ngược lên hàng ngàn bậc đá cheo leo, gập ghềnh, khách hành hương sẽ lần lượt thắp nhang ở chùa Ngoài, rồi vào chùa Trong, lên chùa Giải Oan, chùa Thiên Trù với động Hinh Bồng, động Hương Tích… Chùa nào cũng cổ kính, uy nghi, đèn nến chập chờn giữa làn khói hương mờ mờ, ảo ảo, tạo nên không khí huyền bí, linh thiêng. Mỗi người đến chùa Hương với một tâm trạng, một ước nguyện riêng tư, nhưng điều chung nhất là cảm giác trút bỏ được những vướng bận hằng ngày của đời thường, cả thể xác lẫn tâm hồn đều lâng lâng, thoát tục. Hương Sơn có rất nhiều hang động nhưng lớn nhất, kì thú nhất vẫn là động Hương Tích. Lên đến đây, du khách phóng tầm mắt nhìn bốn phía, mọi mệt nhọc sẽ tan biến hết, trong lòng lâng lâng niềm hứng khởi lạ thường. Trập trùng núi, trập trùng mây. Trên triền núi, dưới thung sâu, hoa mơ nở trắng như tuyết điểm, hương thơm thoang thoảng trong gió xuân. Tiếng chim ríu rít, tiếng suối róc rách văng vẳng lục gần, lúc xa. Quả là một bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình. Đứng trên cửa động, du khách khoan khoái hít căng lồng ngực không khí thơm tho, trong lành trước khi bước xuống động. Động Hương Tích được chúa Trịnh Sâm ca ngợi là “Nam thiên đệ nhất động”. Nhìn từ bên ngoài, cửa động như miệng một con rồng khổng lồ đang há rộng. Động ăn sâu vào lòng núi. Đáy động rộng và phẳng, có thể chứa được mấy trăm người. Ánh đèn, ánh nến lung linh. Những nhũ đá, cột đá muôn hình vạn trạng, lấp lánh bảy sắc cầu vồng. Nào hòn cậu, hòn cô, nào nong tằm, né kén, nào cây bạc, cây vàng, cót thóc… Khách hành hương muốn cầu phúc, cầu lộc, cầu duyên… cứ việc thắp nhang rồi thành tâm khấn vái, biết đâu Trời sẽ thương, Phật sẽ độ cho được như ý. Tạm biệt chùa Hương, trong tay mỗi du khách đều có vài thứ mang về làm kỉ niệm. Chiếc khánh xà cừ buộc bằng chỉ đỏ đeo vào cổ lấy may, cây gậy trúc đã theo chân suốt cuộc hành trình, chuỗi hạt bồ đề, gói trà lão mai hay bó rau sắng xanh mướt mà nhà thơ Tản Đà đã nhắc đến trong thơ ông từ những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ trước: Muốn ăn rau sắng Chùa Hương. Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa… Du khách lên xe ra về mà lòng bâng khuâng, lưu luyến, mong cho chóng đến mùa lễ hội năm sau. Chẳng ai bảo ai, mọi người cùng ngoái lại nhìn để in đậm thêm trong tâm tưởng bức tranh tuyệt mĩ của phong cảnh Hương Sơn, để càng thêm yêu mến, tự hào về giang sơn gấm vóc.
Topic: I have been to, heard about or seen books and newspapers about the Perfume Pagoda festival. Write an introductory essay about this Huong Pagoda festival. Assignment Perfume Pagoda Festival has existed for a long time. Every year, on the sixth day of January after the Lunar New Year, the festival begins and lasts almost throughout the spring. Pilgrims from all over the country, overseas Vietnamese and foreign tourists flock here to both pray for a good new year and to immerse themselves in the magical scenery of Huong Son. Huong Son scenic spot is located in My Duc district, Ha Tay province, about 70 km southwest of Hanoi capital. Go by car through Ha Dong and Van Dinh towns, go straight to Duc wharf and stop. Starting from here is Huong Son territory. Tourists get off the boat and glide along the clear Yen stream flowing between lush rice fields on both sides. In front of us is a rolling purple mountain range, hidden in white clouds, extremely beautiful! It can be said that the Huong Son complex is a wonderful combination between the wonders of the Creator and the skillful and talented hands of humans. The pagodas are built scattered on limestone mountains, looming under deep green forests. From the foot of the mountain, climbing up thousands of steep, bumpy stone steps, pilgrims will take turns lighting incense at the Outer Pagoda, then entering the Inner Pagoda, going up to Giai Oan Pagoda, Thien Tru Pagoda with Hinh Bong Cave, Huong Tich Cave... Every pagoda is ancient and majestic, with candles flickering amidst the dim, virtual smoke of incense, creating a mysterious and sacred atmosphere. Each person comes to Huong Pagoda with a different mood and personal wish, but the most common thing is the feeling of letting go of the daily worries of everyday life, both body and soul are lightheaded and free from the world. Huong Son has many caves, but the largest and most interesting is still Huong Tich cave. Up here, visitors can see all four directions, all fatigue will disappear, and their hearts will be filled with incredible excitement. Rolling mountains, rolling clouds. On the mountain slopes, in the deep valleys, apricot blossoms bloom as white as snow, their fragrance wafting in the spring breeze. The sound of chirping birds and gurgling streams echoes near and far. It is truly a charming picture of nature. Standing at the cave entrance, visitors comfortably inhale the fragrant, fresh air before stepping down into the cave. Huong Tich Cave was praised by Lord Trinh Sam as "Nam Thien's best cave". Looking from the outside, the cave door looks like a giant dragon's mouth is wide open. The cave goes deep into the heart of the mountain. The bottom of the cave is wide and flat, can accommodate several hundred people. Sparkling lights and candlelight. The stalactites and stone pillars come in all shapes and sizes, sparkling in seven rainbow colors. There are boy and girl islands, silkworm trees, cocoon trees, silver trees, gold trees, rice cots... Pilgrims who want to pray for blessings, fortune, and love... just light incense and sincerely pray, who knows? will love you, Buddha will save you as you wish. Goodbye to Perfume Pagoda, every tourist has something to bring back as a souvenir. The mother-of-pearl necklace tied with red thread is worn around the neck for good luck, the bamboo stick that has followed throughout the journey, the Bodhi seed necklace, the packet of old apricot tea or the bunch of green spinach that poet Tan Da mentioned in his poetry. man from the thirties and forties of the last century: Wanted to eat vegetables from Huong Pagoda. The boat fare is expensive, the road is difficult... Tourists get on the bus and leave with feelings of sadness and nostalgia, hoping for next year's festival season. No one told anyone, everyone looked back to deepen in their minds the beautiful picture of the Huong Son landscape, to love and be even more proud of the brocade country.
Đề bài: Giới thiệu về lễ hội sắc hoa Đà Lạt – Sự tuyệt vời của tạo hóa. Bài làm Đà Lạt là lẵng hoa tự nhiên khổng lổ tuyệt đẹp mà Tạo hoá hào phóng ban tặng cho con người. Thành phố đã tổ chức Lễ hội sắc hoa Đà Lạt thật tưng bừng vào lúc 20 giờ ngày 18 – 12 – 2013, tại vườn hoa trung tâm nằm bên bờ hồ Xuân Hương. Sau chương trình khai mạc bằng một số tiết mục biểu diễn văn nghệ của các em thiếu nhi và Đoàn ca múa nhạc Lâm Đồng, người dân Đà Lạt cùng du khách toả ra khắp các đường phố để dự hội hoa xuân. Trên các ngả đường, đặc biệt là khu trung tâm Hoà Bình, đường Lê Đại Hành, Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Quốc Toản, HỒ Tùng Mậu, Yersin, Bà Huyện Thanh Quan, lối qua cầu ông Đạo… ít nhất có tới 15.000 người nhiệt tình hưởng ứng một lễ hội đặc biệt chưa từng có ở Việt Nam: lễ hội hoa. Giữa cái lạnh dìu dịu của đêm trăng cao nguyên, du khách sánh vai nhau trong không khí hân hoan, náo nức. Dưới ánh sáng của những ngọn đèn cao áp, các con đường bóng loáng sang trọng hẳn lên bởi hàng trăm loài hoa tươi giăng giăng khoe sắc, khoe hương. Hoa Đà Lạt ban đêm lung linh kì ảo, ban ngày rực rỡ kiêu sa. Ở xứ sở kì diệu này, hễ trời dứt tiết khô hanh và chỉ sau vài cơn mưa là đã thấy ngoài đồi thông cây cỏ xôn xao; trong các khu vườn, những nụ hoa căng đầy nhựa sống, chờ dịp trổ bông. Nhiều du khách thích thú, thán phục trước những dãy nhà kính trồng hoa của công ty DaLat Hastarm, điều khiển sự sinh trưởng, phát triển của hoa bằng hệ thống máy tính điện tử. Không ít người trầm trồ khen ngợi nghệ thuật trưng bày hoa trên đường phố và trong vườn Bích Câu đầu hồ Xuân Hương. Hoa tươi được kết thành hình chim, hình thú, hình những bức tranh phong cảnh, tranh tĩnh vật và những dòng chữ đẹp vô cùng! Một số người lại có cảm tình với những vườn hoa trồng tự nhiên, dân dã của nông dân ấp Thái Phiên, Phước Thành và rung động trước những loài hoa hoang dại góp phần tạo nên vẻ đẹp hiếm có của thành phố Đà Lạt. Hoa dại mọc ở khắp nơi: trong rừng thông, trên triền đồi, triền dốc, hai bên đường, trong thung lũng, lùm cây ven suối, ven thác… Hoa dại in sâu trong kí ức tuổi thơ, gợi nhớ cho những người con cao nguyên đi xa đất mẹ, gây lưu luyến cho lữ khách khi rời Đà Lạt. Từ lâu, hoa dại đã trở thành đề tài cho thơ, ca, nhạc, hoạ… Đà Lạt là điểm tham quan du lịch đầy thú vị và hấp dẫn đang dang rộng vòng tay chào đón du khách muôn phương. Thật tiếc cho những ai chưa một lần được đặt chân đến xứ sở của hàng ngàn loài hoa và những rừng thông reo vi vút, nơi tập trung vẻ đẹp huyền diệu mà Tạo hoá đã hào phóng ban tặng cho loài người.
Topic: Introduction to Dalat Flower Festival - The wonder of creation. Assignment Da Lat is a beautiful, giant basket of natural flowers that the Creator generously bestows on humans. The city organized the Da Lat Flower Festival jubilantly at 8:00 p.m. on December 18, 2013, at the central flower garden located on the banks of Xuan Huong Lake. After the opening program with a number of cultural performances by children and the Lam Dong Music and Dance Troupe, Da Lat people and tourists spread out across the streets to attend the spring flower festival. On the roads, especially the central area of ​​Hoa Binh, Le Dai Hanh, Nguyen Thi Minh Khai, Tran Quoc Toan, Ho Tung Mau, Yersin, Ba Huyen Thanh Quan, Mr. Dao bridge crossing... there are at least 15,000 people. People enthusiastically responded to a special festival unprecedented in Vietnam: the flower festival. Amid the gentle cold of the moonlit night of the plateau, tourists stand shoulder to shoulder in a joyful and bustling atmosphere. Under the light of high-pressure lights, the glossy roads look luxurious with hundreds of species of fresh flowers blooming and showing off their fragrance. Da Lat flowers shimmer magically at night, brilliantly and beautifully during the day. In this magical country, whenever the dry weather ends and after just a few rains, we can see the trees and grass stirring on the pine hills; In the gardens, flower buds are full of life, waiting for the opportunity to bloom. Many tourists enjoy and admire the rows of greenhouses growing flowers of DaLat Hastarm company, controlling the growth and development of flowers using an electronic computer system. Many people admired the art of flower display on the streets and in the Bich Cau garden at the end of Xuan Huong lake. Fresh flowers are woven into the shapes of birds, animals, landscape paintings, still life paintings and extremely beautiful words! Some people have feelings for the natural, rustic flower gardens of farmers in Thai Phien hamlet, Phuoc Thanh and are moved by the wild flowers that contribute to the rare beauty of Da Lat city. Wildflowers grow everywhere: in pine forests, on hillsides, slopes, on both sides of roads, in valleys, groves along streams, along waterfalls... Wildflowers are deeply imprinted in childhood memories, reminding children The plateau is far away from the motherland, causing nostalgia for travelers when leaving Da Lat. For a long time, wildflowers have become the subject of poetry, songs, music, paintings... Da Lat is an interesting and attractive tourist destination that is welcoming tourists from all over with open arms. It's a pity for those who have never set foot in the land of thousands of flowers and soaring pine forests, where the magical beauty that the Creator has generously bestowed on humanity is concentrated.
Giới thiệu về Lời tiễn dặn trích Tiễn dặn người yêu của đồng bào dân tộc Thái Hướng dẫn Tiễn dăn người yêu là truyện thơ nổi tiếng của đồng bào dân tộc Thái. Trong chương trình Ngữ văn lớp 10 các bạn sẽ được học một đoạn trích đặc sắc của tác phẩm này, đó là “Lời tiễn dặn”. Bài học dưới đây, bài giới thiệu về đoạn trích Lời tiễn dặn dưới đây sẽ cung cấp thêm những thông tin bài học thú vị nhằm hỗ trợ tích cực cho quá trình tìm hiểu của người học. Các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Giới thiệu khái quát về đoạn trích Lời tiễn dặn Tác phẩm “Lời tiễn dặn” được trích trong truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” một truyện thơ nổi tiếng của dân tộc Thái. Truyện thơ là những tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, rất giàu chất trữ tình nhằm diễn tả tâm trạng và suy nghĩ của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội bị tước đoạt. Tác phẩm “Tiễn dặn người yêu” (Xống chụ xon xao) là câu chuyện kể về sự trắc trở trong tình yêu và hôn nhân của đôi bạn tình người Thái. Hai người tuy làm bạn với nhau từ nhỏ, lớn lên yêu thương và gắn bó với nhau nhưng không lấy được nhau vì gia cảnh bạn trai quá nghèo hèn, chị đã bị cha mẹ ép gả cho một nhà giàu. 2. Đặc sắc nội dung của Lời tiễn dặn “Lời tiễn dặn” là đoạn trích miêu tả rất rõ cảm xúc và tâm trạng của Anh khi trên đường tiễn chị về nhà chồng, hơn thế còn phải chứng kiến cảnh chị khi ở nhà chồng, chị bị chính người chồng của mình đánh đập. Đoạn trích gồm có ba nội dung chính: phần một là miêu tả diễn biến tâm trạng của Anh khi trên đường tiễn dặn người yêu, phần hai là diễn tả tâm trạng của Chị lúc phải bước chân về nhà chồng, phần cuối thể hiện tâm trạng của Anh khi thấy cảnh sống ở nhà chồng của Chị. Trong đoạn trích có sử dụng rất nhiều các câu thơ có sự trùng lặp điệp từ như: “vừa đi”, “chết”, “yêu nhau”, “yêu trọn”,… Ngoài ra đoạn trích còn sử dụng nhiều câu thơ với nhiểu hình ảnh so sánh tương đồng, những hình ảnh ẩn dụ liên tiếp, những câu thơ có cú pháp chung chung. Qua nghệ thuật đó tác giả dân gian muốn nhấn mạnh sự thủy chung son sắt trong tình yêu của đôi bạn trẻ. Thể hiện được một ý chí kiên cường, ước mơ đoàn tụ không gì lay chuyển được của Anh và Chị. Cách diễn đạt của tác giả dân gian đã mã hóa ngôn ngữ thành những cảm xúc trào dâng mãnh liệt trong lòng những con người chất phác, mạnh mẽ giữa thiên nhiên, núi rừng. Theo
Introduction to Farewell Advice from Thai ethnic people Instruct Saying goodbye to your lover is a famous poetic story of the Thai people. In the 10th grade Literature program, you will learn a unique excerpt from this work, which is "Farewell Words". The lesson below, an introduction to the Farewell Advice excerpt below, will provide additional interesting lesson information to actively support the learner's learning process. Please refer to it! 1. General introduction to the excerpt of Farewell Advice The work "Farewell Advice" is excerpted from the poem "Farewell Advice to My Lover", a famous poem of the Thai people. Poetic stories are works of folk narrative in poetry, rich in lyricism to express people's moods and thoughts when marital happiness and social justice are deprived. The work "Farewell to My Lover" (Xong Chu Xon Xao) is a story about the difficulties in love and marriage of a Thai couple. Although the two had been friends since childhood, grew up loving and attached to each other, they could not marry each other because her boyfriend's family was too poor, and she was forced by her parents to marry a rich man. 2. Unique content of Farewell Advice "Sending Words" is an excerpt that clearly describes Anh's feelings and mood when on the way to see her off to her husband's house, and moreover, he had to witness her being beaten by her husband while at her husband's house. . The excerpt includes three main contents: part one is to describe the changes in Anh's mood as she was on the way to say goodbye to her lover, part two is to describe her mood as she had to step into her husband's house, and the last part is to express her feelings. Anh's condition when he saw the living situation at her husband's house. In the excerpt, many verses with overlapping alliteration are used such as: "just went", "died", "love each other", "love completely",... In addition, the excerpt also uses many verses with Many similar images, consecutive metaphors, and verses with general syntax. Through that art, the folk author wanted to emphasize the steadfast loyalty in the love of the young couple. Showing the unyielding will and unshakable dream of reunion between Brother and Sister. The folk author's expression has encoded language into emotions that surge intensely in the hearts of simple, strong people amidst nature, mountains and forests. According to
Đề bài: Giới thiệu về món bánh cuốn – Một món ăn đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Bài làm Làng Thanh Trì quê em có món đặc sản nổi tiếng là bánh cuốn. Bánh cuốn được làm từ bột của các loại gạo ngon như gié cánh hoặc tám xoan. Gạo vo sạch, ngâm mềm, bỏ vào cối xay, xay thật đều tay và lọc qua rây cho mịn nhuyễn. Gà gáy canh ba, bà và mẹ em đã thức dậy nhóm lửa tráng bánh. Bột quấy đều, sồn sột như sữa đặc, đựng trong chiếc chậu sành da lươn đặt cạnh bếp lò. Trên bếp, nồi nước sôi sùng sục. Bà đổ muôi bột vào mặt chiếc khung vải hình tròn lắp khít miệng nồi, tráng thật nhanh rồi đậy vung lại. Chỉ hơn phút sau là bánh chín. Bà nhẹ nhàng gỡ bánh ra bằng chiếc que cật tre dài và mỏng. Chiếc bánh tròn xoe được đặt vào lòng mâm nhôm bôi qua chút mỡ cho đỡ dính. Bà thoa hành mỡ phi thơm rồi cuốn lại thành chiếc bánh xinh xinh. Bánh tráng đến đâu, mẹ em xếp vào thúng đến đấy. Đáy thúng lót một lớp lá chuối tươi lau sạch. Màu trắng nõn nà của bánh nổi bật trên nền xanh của lá nom thật hài hòa, hấp dẫn. Khoảng năm giờ sáng, mọi việc đã xong xuôi. Bà và mẹ đón xe ra Hà Nội để bán bánh, quá trưa mới trở về.
Topic: Introduction to banh cuon - A unique dish of the Vietnamese people. Assignment My hometown Thanh Tri village has a famous specialty called banh cuon. Banh cuon is made from flour from delicious types of rice such as gien wing or eight oval. Wash the rice, soak it until soft, put it in the blender, blend thoroughly and filter through a sieve until smooth. The cock crowed in the third watch, my grandmother and mother woke up to make a fire to make rice paper. The flour is stirred well, sizzling like condensed milk, stored in an eel skin ceramic pot placed next to the stove. On the stove, a pot of water was boiling. She poured a ladle of flour onto the surface of a circular cloth frame that fit tightly around the mouth of the pot, rinsed it quickly and then covered the pot. Just over a minute later the cake is done. She gently removed the cake with a long, thin bamboo stick. The round cake is placed on an aluminum tray and smeared with a little grease to prevent sticking. She rubbed the onions with fried oil and then rolled them into a pretty cake. Wherever the rice paper arrived, my mother put it in a basket. The bottom of the basket is lined with a layer of clean, fresh banana leaves. The pure white color of the cake stands out on the green background of the leaves, making it harmonious and attractive. Around five o'clock in the morning, everything was done. She and her mother took the car to Hanoi to sell cakes and did not return until noon.
Giới thiệu về món bánh cốm Là một đất nước có truyền thống lâu đời làm nghề trồng lúa nước, Việt Nam có biết bao đặc sản được sáng tạo từ hạt gạo: bánh chưng,bánh giầy, bánh đúc, bánh cuốn, bánh tráng, bánh đa… nhưng thanh tao hơn cả là bánh cốm. Nguyên liệu làm bánh cốm là gạo nếp và đậu xanh. Loại gạo nếp làm bánh cốm là gạo nếp ngon được chế biến ra cốm, dùng làm vỏ bánh. Nhân bánh làm từ đậu xanh và dừa. Cả nhân và vỏ bánh đều được xào lẫn với đường, tạo cho bánh vị ngọt thơm ngon. Bánh cốm có ngon hay không phụ thuộc rất nhiều vào khâu chọn nguyên liệu, cốm làm bánh phải là cốm già. Nếu non quá khi xào với đường sẽ bị nhão, không dùng làm vỏ bánh được. Nếu bánh được làm đúng vào mùa cốm người ta thường, pha thêm cốm tươi để bánh dẻo và thơm mùi cốm hơn. Trước khi xào đường cốm được ủ khoảng một giờ đồng hồ, tiếp đến là làm nhân bánh đậu xanh thường dùng là loại đậu của vùng Thái Bình, Sơn La, Bắc Ninh, vì loại đậu này, khi ngâm nước có độ nở vừa phải. Còn đậu xanh của vùng khác đặc biệt là đậu trồng ở khu vực phía Nam, khi ngâm nước nở nhiều dễ bị thiêu không thể dùng làm nhân bánh được. Những người chuyên làm bánh cho rằng có một công thức cụ thể để để làm bánh cốm. Bí quyết để có bánh ngon, hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm và thói quen của mọi người làm bánh. Ví dụ ở khâu ủ cốm nhiều người cho rằng khi đặt tay lên bề mặt có cảm giác độ dính thì mới đem xào đường. Do vậy tùy thuộc vào điều kiện thời tiết khí hậu, tùy loại cốm thời gian ủ có xê dịch đôi chút. Khi xào cốm phải xác định thời gian vừa phải, không kỹ quá làm vỏ bánh bị cứng, hoặc không quá nhanh cốm chưa kịp ngắm đường, không để được lâu… khi xào nhân đậu xanh cũng vậy phải xào cho đến khi nước bắt hơi hết, chỉ còn lại đường và đậu chín quyện vào nhau mới ngoan. Bánh cốm làm xong được ướp thêm hương bưởi và một số vị thuốc bắc, vừa nhanh, vừa tiện. Cốm trở thành một nét văn hóa của Việt Nam, cốm đã đi vào thi ca nhạc họa. Trở thành tiềm thức của những người Việt Nam. Mỗi khi nhớ về quê hương, cốm một thứ quả của lúa non, cốm thơm nòng, thơm bàn tay nhỏ.
Introducing green rice cake As a country with a long tradition of wet rice cultivation, Vietnam has many specialties created from rice grains: banh chung, banh day, banh duc, banh cuon, rice paper, banh da... but elegant. Best of all, green rice cake. The ingredients for making green rice cake are sticky rice and green beans. The type of sticky rice used to make green rice cake is delicious sticky rice processed into green rice, used as a cake crust. The filling is made from green beans and coconut. Both the filling and the crust are stir-fried with sugar, giving the cake a delicious sweetness. Whether green rice cake is delicious or not depends a lot on the selection of ingredients, the green rice cake must be old rice cake. If it is too young, when stir-fried with sugar, it will become mushy and cannot be used as a crust. If the cake is made during the green rice season, people often add fresh green rice to make the cake more flexible and fragrant. Before stir-frying the sugar, the granules are brewed for about an hour, followed by making the filling for the green bean cake, often using beans from the Thai Binh, Son La, and Bac Ninh regions, because this type of bean, when soaked in water, has a moderate expansion. . As for green beans from other regions, especially those grown in the southern region, when soaked in water, they swell a lot and are easily burned and cannot be used as a filling for cakes. Those who specialize in baking say that there is a specific recipe to make green rice cake. The secret to delicious cakes depends entirely on the experience and habits of every baker. For example, in the process of tempering rice flakes, many people think that when they put their hands on the surface and feel the stickiness, they can stir-fry sugar. Therefore, depending on weather and climate conditions, depending on the type of cereal, incubation time may vary slightly. When stir-frying green rice, you must determine the right time, not too carefully, making the crust hard, or not too fast so that the green rice won't have time to see the way, not stored for a long time... when stir-frying green bean paste, the same thing must be stir-fried until the water evaporates. All that's left is sugar and cooked beans that blend well together. The finished green rice cake is marinated with grapefruit flavor and some traditional herbs, making it both quick and convenient. Com has become a cultural feature of Vietnam, and has entered poetry, music and paintings. Become the subconscious of Vietnamese people. Every time I remember my homeland, green rice is a fruit of young rice, fragrant green rice, fragrant small hands.
Đề bài: Giới thiệu về món ăn bánh xèo miền Nam (lớp 8). Bài làm Mỗi vùng miền lại có một loại bánh đặc trưng cho từng vùng miền ấy. Nhắc đến miền nam là người ta nhắc đến nhiều loại bánh như là bánh tét, bánh pía Sóc Trăng, bánh bò Sài Gòn,… và đặc biệt không thể thiếu chính là bánh xèo. Và hôm nay, tôi sẽ giới thiệu cho các bạn một loại bánh rất đặc biệt này: Bánh xèo. Bánh xèo là một loại bánh rất đặc trưng của miền nam. Nó không chỉ được người dân miền nam biết đến, mà ngày nay thì nó đã được rất nhiều người dân trong nước cũng như là nước ngoài biết đến. Bánh xèo gồm có hai lớp: một lớp là lớp bột bên ngoài, một lớp là nhân bên trong. Nhân bên trong thì bao gồm rất nhiều thứ: tôm, giá đỗ, thịt, được rán vàng. Bánh xèo có thể có hai hình dạng hoặc là tròn, hoặc là bán nguyệt. Cụ thể như thế nào thì sau đây tôi sẽ giới thiệu cho các bạn rõ hơn. Thứ nhất là cách làm bánh xèo. Bước thứ nhất, chúng ta đem đậu xanh đi ngâm vào nước nóng khoảng một tiếng, lúc đó phần vỏ xanh bên ngoài đã bong ra chúng ta đem đi đãi sạch với nước lã, để loại bỏ vỏ xanh. Sau đó, chúng ta đem đi hấp hoặc luộc đậu xanh cũng được. Nhưng lưu ý, chúng ta làm sao để khi đậu xanh chín mà vẫn giữ được nguyên hạt, không bị nát.Bước thứ hai, trong thời gian đợi đậu xanh chín, chúng ta mang giá đỗ ra rửa sạch, phần hành lá chúng ta cũng rửa sạch và cắt nhỏ. Bước thứ ba, chúng ta xử lí tôm. Phần tôm chúng ta sẽ lột vỏ, làm sạch đường chỉ. Ướp tôm với các gia vị bao gồm: muối, tiêu, tỏi băm. Chúng ta ước lượng gia vị sao cho vừa đủ, ướp tôm trong thời gian khoảng 30 phút để cho các gia vị ngấm đều vào trong tôm. Bước thứ tư, chúng ta sẽ đi chuẩn bị nguyên liệu làm vỏ bánh. Cho bột gạo, bột bắp, muối, bột nghệ và nước soda vào trộn đều. Phần hành lá chúng ta cắt nhỏ ở bước hai, chúng ta bỏ vào hỗn hợp bột này. Chúng ta bỏ hỗn hợp này vào tủ lạnh khoảng 30 phút trước khi làm. Bước thứ năm, chính là chiên bánh. Người chiên bánh xèo giống như một nghệ sĩ vậy. Bánh xèo miền nam chiên bánh bằng những chiếc chảo lớn, nên kích thước của bánh xèo sẽ lớn hơn là so với bánh xèo miền trung. Chúng ta bắt đầu cho chảo lên bếp, khi chảo nóng đều thì chúng ta cho dầu vào. Dầu nóng, bắt đầu chúng ta bỏ vài lát thịt heo, vài con tôm vào xào chín tái và thơm. Dùng vá múc canh, múc hỗn hợp bột làm ở bước bốn đổ vào chảo. Vừa đổ chúng ta vừa phải xoay đều chiếc chảo, đề cho lớp bột được tráng đều chảo và tạo thành một lớp vỏ bánh mỏng. Vỏ bánh càng mỏng thì càng giòn và ngon hơn. Chúng ta rắc một ít đậu xanh lên trên và bỏ thêm chút giá đỗ lên trên mặt bánh, sau đó đậy vung lại khoảng 2 đến 3 phút cho bánh chín. Sau đó, chúng ta dùng chiếc vá bẹp gập bánh lại làm đôi. Và lấy bánh ra. Vẫn cách chiên bánh tương tự chúng ta sẽ làm cho đến khi hết số nguyên liệu đã chuẩn bị. Bánh xèo là một loại bánh ưa thích của người dân miền nam. Hiện nay, niềm bắc cũng đã có sự du nhập của bánh xèo và được người dân rất thích thú. Tôi cũng đã từng nếm thử bánh xèo miền nam, cái mùi vị của nó rất đậm đà. Nếu bạn đến miền nam mà không nếm thử món bánh xèo do chính người miền nam làm thì thật là đáng tiếc. Ngày nay, bánh xèo đã được các nước bạn biết đến, đặc biệt du khách nước ngoài rất thích bánh xèo Việt Nam.
Topic: Introduction to Southern pancakes (grade 8). Assignment Each region has a type of cake that is specific to that region. When talking about the South, people mention many types of cakes such as tet cake, Soc Trang pia cake, Saigon beef cake,... and especially indispensable is banh xeo. And today, I will introduce to you a very special type of cake: Banh Xeo. Banh Xeo is a very typical cake of the South. It is not only known to the southern people, but today it is known to many people in the country as well as abroad. Banh Xeo consists of two layers: one layer is the outer layer of dough, the other layer is the inner layer. The filling inside includes many things: shrimp, bean sprouts, meat, fried until golden brown. Banh xeo can have two shapes: round or semi-circular. Specifically, I will introduce it to you more clearly below. The first is how to make banh xeo. First step, we soak the green beans in hot water for about an hour. At that time, the outer green skin has peeled off, so we wash it with plain water to remove the green skin. After that, we can steam or boil green beans. But be careful, how can we keep the green beans intact and not get crushed when the green beans are cooked? Second step, while waiting for the green beans to cook, we take out the bean sprouts and wash them, and wash the green onions. Also wash and cut into small pieces. In the third step, we process the shrimp. We will peel the shrimp and clean the seams. Marinate shrimp with spices including: salt, pepper, minced garlic. We estimate the spices to be just right, marinate the shrimp for about 30 minutes to let the spices absorb evenly into the shrimp. The fourth step, we will prepare the ingredients for the crust. Add rice flour, cornstarch, salt, turmeric powder and soda water and mix well. The green onions we chopped in step two, we put in this powder mixture. We put this mixture in the refrigerator for about 30 minutes before making. The fifth step is to fry the cake. The person who fries pancakes is like an artist. Southern banh xeo is fried in large pans, so the size of the banh xeo will be larger than that of the central region. We start putting the pan on the stove. When the pan is hot, we add oil. When the oil is hot, we start by adding a few slices of pork and a few shrimp and stir-frying until rare and fragrant. Using a soup ladle, scoop the flour mixture made in step four into the pan. As we pour, we must rotate the pan evenly, so that the powder layer is evenly coated in the pan and forms a thin crust. The thinner the crust, the crispier and tastier it is. We sprinkle some green beans on top and add some bean sprouts on top of the cake, then cover the pot for about 2 to 3 minutes until the cake is cooked. Then, we use a flat iron to fold the cake in half. And take out the cake. We will continue to fry the cake in the same way until we run out of prepared ingredients. Banh xeo is a favorite cake of southern people. Currently, Banh Xeo has also been introduced to the North and people are very interested in it. I have also tasted southern pancakes, its flavor is very rich. If you come to the South and don't try Banh Xeo made by Southerners, it would be a pity. Nowadays, banh xeo is known in many countries, especially foreign tourists love Vietnamese banh xeo.
Đề bài: Giới thiệu về món ăn dân tộc: Phở Hà Nội. Bài làm Trong hàng trăm món ăn quen thuộc của Hà Nội, có lẽ phở được nhiều người ưa thích nhất. Từ phố lớn đến ngõ nhỏ, đâu đâu cũng có quán phở. Ở các quán nổi tiếng khách khá đông, đủ mọi lứa tuổi. Nhiều lúc hết chỗ, chủ quán phải kê thêm bàn ra tận vỉa hè. Quán chẳng sang trọng gì nhưng khách không nề hà điều đó, miễn là được ăn bát phở ngon. Cách bài trí trong quán đơn giản mà hợp lí. Trên quầy, bó hành hương xanh mướt treo cạnh mấy chùm ớt đỏ tươi. Những tảng thịt bò chín đủ loại xếp liền nhau. Nào nạm, nào gầu, nào vè, nào gân… Người thái thịt thái nhanh thoăn thoắt rồi bốc vào chiếc khay nhôm lớn, mỗi thứ để riêng một chỗ cho tiện lấy. Giữa khay là chiếc đĩa thủy tinh to đựng đẩy tú hụ thịt bò tươi thái mỏng. Bánh phở tráng bằng gạo tẻ, xắt thành sợi nhỏ và dài để trong chiếc vỉ buồm, ngay tầm tay với. Sát tường, nồi nước dùng sôi lăn tăn, lớp váng mỡ vàng óng ánh, toả mùi thơm ngào ngạt, hấp dẫn vô cùng! Để nấu được một nồi nước dùng ngon, công phu lắm! Người ta phải ninh xương bò thật kĩ từ đêm hôm trước, bỏ thêm hoa hồi, gừng nướng cho thơm, nếu có sá sùng khô bỏ vào thì nước dùng càng ngọt hơn (mỗi quán phở có một bí quyết riêng). Khách muốn ăn gì, tùy ý. Tiếng gọi, tiếng giục giã, tiếng sai bảo… ồn ào nhưng vẫn rõ ràng: “Cho bát tái đi ông chủ!”. “Nạm gầu, nước trong nhé!”. “Sao lâu thế?”. “Có ngay! Có ngay!”. Chủ quán miệng nói, tay làm, không lúc nào ngơi. Bánh phở nhúng qua nước sôi, xóc cho ráo rồi đổ vào bát, xếp thịt lên trên, chan nước dùng rồi rắc hành hoa, rau mùi thái nhỏ. Nhìn bát phở vừa làm xong thật thích mắt! Bánh trắng, thịt bò nâu, váng mỡ vàng, hành xanh, ớt đỏ, hạt tiêu đen… đủ màu, cùng toả mùi thơm ngào ngạt. Nào, chúng ta bắt đầu thưởng thức! Trước hết, xin bạn hãy lấy thìa múc một tí nước dùng nếm thử. Nóng bỏng lưỡi, trong, ngọt đậm đà và thơm nức mũi, thế là “đạt yêu cầu” đấy! Rồi cứ thong thả vừa ăn vừa ngẫm nghĩ để tận hưởng hương vị thơm ngon, bổ dưỡng của phở. Đúng là ăn đến, đâu, ấm bụng đến đấy, mồ hôi toát ra, tâm trí lâng lâng, khoan khoái vô cùng! Chúng ta phải cảm ơn người đã nghĩ ra, chế biến ra món ăn đặc biệt ấy! Còn gì thú bằng vào một sáng mùa thu, tiết trời lành lạnh, xao xác heo may, ta được cùng bạn bè hoặc người thân ghé vào một quán phở quen, ăn bát phở thơm ngon, nóng hổi ngay bên cạnh lò than hồng ấm sực, vừa ăn vừa trông ra Hồ Gươm mờ mờ sương khói.
Topic: Introduction to national dish: Hanoi Pho. Assignment Among hundreds of familiar dishes in Hanoi, pho is probably the most popular. From big streets to small alleys, there are pho restaurants everywhere. At famous restaurants there are quite a lot of customers, of all ages. Sometimes when there is no more space, the restaurant owner has to put more tables on the sidewalk. The restaurant is not luxurious, but customers don't mind that, as long as they can eat a delicious bowl of pho. The decoration in the shop is simple but reasonable. On the counter, a bunch of green pilgrims hangs next to a few bunches of bright red peppers. Chunks of cooked beef of all kinds are placed next to each other. There's rice, there's a bucket, there's a rib, there's a tendon... The meat slicer quickly and quickly loads it into a large aluminum tray, keeping each item in a separate place for easy access. In the middle of the tray is a large glass plate containing thinly sliced ​​fresh beef. Rice noodles are coated with plain rice, cut into small and long strips and placed in a basket, right within reach. Next to the wall, the pot of broth is boiling, the golden layer of fat is shiny, giving off a sweet, extremely attractive aroma! To cook a delicious pot of broth, it takes a lot of effort! People must simmer the beef bones carefully the night before, add star anise and grilled ginger for aroma. If dried sea worms are added, the broth will be sweeter (each pho restaurant has its own secret). Guests can eat whatever they want. The calling, the urging, the telling... were loud but still clear: "Give me a bowl, boss!". "Hold the bucket, the water will be clear!". “Why so long?”. "Right now! Right now!". The shop owner speaks with his mouth and hands with his hands, never resting. Dip the pho noodles in boiling water, shake until dry, then pour into a bowl, arrange the meat on top, pour in the broth, then sprinkle with scallions and chopped coriander. Looking at the bowl of pho just finished is so pleasing to the eyes! White cake, brown beef, yellow fat, green onions, red peppers, black pepper... all colors, exuding a sweet aroma. Now, let's start enjoying! First of all, please take a spoon and scoop out a little broth to taste. Hot on the tongue, clear, richly sweet and fragrant to the nose, that's "satisfactory"! Then just leisurely eat and reflect to enjoy the delicious and nutritious taste of pho. It's true that once you eat it, your stomach will warm up, you'll sweat, your mind will be lightheaded, and you'll feel extremely refreshed! We must thank the person who thought of and prepared that special dish! There's nothing more enjoyable than on an autumn morning, the weather is cold and the pig's carcass is rustling, we can visit a familiar pho restaurant with friends or relatives, and eat a delicious, hot bowl of pho right next to the warm charcoal stove. Suddenly, I ate while looking out at the misty Hoan Kiem Lake.
Đề bài: Em hãy viết bài văn giới thiệu về món ăn bánh Xèo miền nam. Bài làm Bánh xèo là một trong những món ăn đậm đà hương vị miền Nam. Đây là loại bánh vừa rẻ vừa ngon, được người bình dân ưa chuộng. Có thể nói bánh xèo hiện diện khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn. Giờ đây, nó đã thành món ăn quen thuộc đối với người dân thành phố và bước đầu chiếm được cảm tình của du khách nước ngoài. Nguyên liệu chính để làm bánh xèo là bột gạo xay nhuyễn pha với nước cốt dừa và bột nghệ. Ngoài ra còn có thịt heo, tôm tươi, giá đỗ, đậu xanh hấp chín… Các loại rau ăn kèm gồm có xà lách, cải bẹ xanh, rau thơm các loại. Nước chấm được pha bằng nước mắm ngon, ớt tỏi giã nhuyễn, chanh, đường cát trắng, bột ngọt cùng với đồ chua là củ cải, cà rốt xắt nhỏ ngâm dấm. Bánh được tráng trong chiếc chảo sâu lòng đặt trên bếp than hồng. Người tráng múc bột đổ vào chảo nóng đã thoa dầu (hoặc mỡ), nhanh tay láng bột rộng ra sao cho ngoài mỏng, trong dày. Xếp thịt heo luộc xắt mỏng, tôm hay tép bạc, đậu xanh đãi sạch vò hấp chín và giá sống lên trên. Khi bánh chín giòn thì gập chiếc bánh làm đôi, xúc ra đĩa. Mỗi đĩa để ba, bốn cái xếp liền nhau. Đĩa bánh xèo vàng tươi, thơm phức đặt lên bàn cùng với đĩa rau sống xành mướt và chén nước chấm màu ớt đỏ tươi trông vô cùng hấp dẫn. Giờ đây, bánh xèo gốc gác miền Tây đã có mặt ở Sài Gòn, Hà Nội. Tối tối, các quán bánh xèo đông nghịt khách. Vợ chồng, con cái, anh em, bè bạn mời nhau, đãi nhau một bữa bánh xèo. Trong không khí vui vẻ, nhộn nhịp, hương vị đặc biệt của món ăn dân dã này tưởng chừng như tăng lên gấp bội.
Topic: Write an essay introducing the southern dish Banh Xeo. Assignment Banh xeo is one of the dishes with rich Southern flavors. This type of cake is both cheap and delicious, popular with ordinary people. It can be said that banh xeo is present throughout the vast Mekong Delta. Now, it has become a familiar dish for city residents and has initially won the hearts of foreign tourists. The main ingredients to make banh xeo are ground rice flour mixed with coconut milk and turmeric powder. There are also pork, fresh shrimp, bean sprouts, steamed green beans... Vegetables served include lettuce, mustard greens, and various herbs. The dipping sauce is made with delicious fish sauce, crushed chili and garlic, lemon, white sugar, MSG along with pickled radishes and chopped carrots soaked in vinegar. The cake is coated in a deep pan placed on a charcoal stove. The waiter scoops the dough into a hot pan that has been greased with oil (or grease). He quickly spreads the dough out so that it's thin on the outside and thick on the inside. Arrange thinly sliced ​​boiled pork, shrimp or silver shrimp, steamed green beans and bean sprouts on top. When the cake is crispy, fold it in half and scoop it out onto a plate. Each plate has three or four placed next to each other. A plate of bright yellow, fragrant pancakes placed on the table along with a plate of fresh raw vegetables and a bowl of bright red chili-colored dipping sauce looks extremely attractive. Now, Banh Xeo of Western origin is available in Saigon and Hanoi. At night, the banh xeo shops are crowded with customers. Spouses, children, brothers, and friends invite each other and treat each other to a feast of banh xeo. In the happy, bustling atmosphere, the special flavor of this rustic dish seems to increase many times over.
Giới thiệu về món ăn bún chả cá “Ai về Bình Định mà xem, con gái Bình Định cầm roi đi quyền”. Bình định không chỉ nổi tiếng là cái nôi của võ cổ truyền dân tộc Việt Nam. Mà còn những món ăn đậm đà hương vị của biển cả thiên nhiên ban tặng cho con người nơi đây. Một lần đến với Quy nhơn Bình định bạn không bỏ qua món” Bún chả cá Quy nhơn” được. Đến với vùng đất võ Bình định, thưởng thức các món ăn đặc sản như: ném chua phố huyện, bánh xèo tôm nhảy… Mà không nhắc bún chả cá Quy nhơn là một sự thiếu xót của ẩm thực nơi đây. Bún chả cá quy nhơn là món ăn phổ biển xứ biển nơi đây. Từ các quán ăn bình dân đến các nhà hàng khách sạn nổi tiếng. Bún chả cá có gì đặc biệt của xứ biển nơi đây, chỉ có bạn thưởng thức một lần thì mới biết được. Để có được món bún chả cá ngon, thì phải bắt đầu từ khâu chế biến, lựa chọn nguyên liệu cho sao cho phù hợp và tươi ngon nhất. Chả cá được lựa chọn từ những con cá tươi ngon nhất với các loại cá đặc sản như: cá thu, cá thửng, cá mồi, cá chuồn… Nạo cá lấy thịt và ướp với các loại gia vị như: tiêu, hành, tỏi… say nhuyễn. Để cho cá thấm gia vị rồi đem đi chiên hoặc hấp theo từng khẩu vị của khách hành. Bún chả cá Quy nhơn trở thành đặc trưng của ẩm thực Quy Nhơn, Bình Định. Bún chả cá ẩn chứa trong đó sự khéo léo, tình tế, tỉ mỉ của những nghệ nhân ẩm thực đất võ Bình Định. Và vì thế bún chả cá Quy nhơn đã để lại trong lòng du khách một hương vị quê hương không thể nào quên, khi nhắc đến mãnh đất này.
Introducing fish ball noodle dish "Whoever comes back to Binh Dinh will see, Binh Dinh's daughter wields a whip and takes power." Binh Dinh is not only famous as the cradle of traditional Vietnamese martial arts. But there are also dishes rich in the flavors of the sea that nature bestows on the people here. Once you come to Quy Nhon Binh, you cannot miss the dish "Quy Nhon Fish Ball Noodles". Coming to the martial land of Binh Dinh, enjoy specialties such as district street sour throwing, jumping shrimp pancakes... Not mentioning Quy Nhon fish noodle soup is a omission in the cuisine here. Quy Nhon fish ball noodle soup is a popular coastal dish here. From popular eateries to famous hotel restaurants. Fish ball noodle soup has something special about this coastal country, only you can know if you enjoy it once. To have a delicious fish ball noodle dish, you must start from the processing stage, choosing the most suitable and freshest ingredients. Fish cakes are selected from the freshest fish with specialty fish such as: mackerel, tilapia, bait fish, flying fish... Grate the fish to get the meat and marinate with spices such as pepper, onion, garlic. ... drunk puree. Let the fish absorb the seasoning and then fry or steam it according to each customer's taste. Quy Nhon fish ball noodle soup has become a characteristic of Quy Nhon and Binh Dinh cuisine. Fish ball noodle soup contains in it the ingenuity, delicacy, and meticulousness of the culinary artisans of the martial arts land of Binh Dinh. And so Quy Nhon fish ball noodle soup has left in the hearts of tourists an unforgettable taste of homeland when mentioning this land.
Đề bài: Giới thiệu về món ăn bún riêu cua. Một món ăn dân dã của người Việt Nam. Bài làm Bún riêu cua là một trong hàng trăm món ăn dân dã được người Việt Nam từ nông thôn đến thành thị ưa chuộng bởi nó vừa hội tụ đủ ba yếu tố: ngon – bổ – rẻ, vừa có hương vị đậm đà và hình thức vô cùng hấp dẫn. Nguyên liệu chính của món riêu cua là cua đồng. Để chuẩn bị một bữa bún riêu cua cho 5 người ăn, cần 1 kg cua đồng tươi sống, chọn cua cái thịt chắc và ngọt hơn cua đực. Cua mua về đổ vào thùng ngâm nước rồi xóc cho hết bùn. Xé cua ra, bỏ mai, yếm và nắp miệng. Rửa nhiều lần cho sạch, để thật ráo nước rồi mới cho vào cối giã nhuyễn. Lấy khoảng hai lít nước, cho vào chỗ cua vừa giã nhuyễn, dùng tay bóp cho thịt cua rã ra hết, vớt bỏ bã, gạn lấy nước đổ vào nồi. Nêm một chút mắm muối, dùng đũa khuấy đều theo vòng tròn, sau đó để lắng chừng năm, mười phút mới bắc lên bếp, đun nhỏ lửa. Gạch cua khêu từ mai cua để trong chén nhỏ, rửa sạch rồi cho vào một thìa nước mắm ngon. Bắc chảo lên bếp, chảo nóng cho mỡ nước vào, đợi mỡ nóng già bỏ hành khô phi cho vàng rồi đổ dầu hạt điều và gạch cua vào quấy nhẹ, tạo thành một chất sền sệt màu vàng đỏ, óng ánh và thơm phức, múc ra bát để riêng. Đổ cà chua xắt dọc vào chảo vừa chưng màu, xào cho mềm. Các gia vị dùng để nấu riêu cua là cà chua chín, quả dọc tươi hoặc me xanh, me chín, quả tai chua… Nếu dùng quả dọc thì phải nướng cháy sém cho ra hết nhựa, ngâm vào nước lạnh để bóc vỏ và đợi khi nồi canh bắt đầu sôi, thịt cua đóng thành tảng mới bỏ quả dọc vào. Khi trái dọc chín thì vớt ra, dầm nát phần cùi, bỏ hột rồi trút cả dọc và cà chua vào nồi canh cua đang sôi lăn tăn. Đợi khi thịt cua đã đóng thành từng mảng thì lấy thìa múc gạch, rưới nhẹ lên trên và rắc hành hoa thái nhỏ. Có thể nêm chút bột ngọt cho nước canh thêm ngon. Như thế là chúng ta đã nấu xong nồi riêu cua. Nhưng thế nào là nổi riêu cua đạt tiêu chuẩn chất lượng? Trước hết, thịt cua phải kết thành mảng trên mặt nổi chứ không rời rã. Sau đó là nước canh phải trong, có vị chua chua ngọt ngọt đậm đà tự nhiên và hương vị thì thơm phưng phức, chỉ thoáng ngửi đã thấy thèm. Những thứ ăn kèm với riêu cua là bún tươi, nước mắm hoặc mắm tôm, chanh, ớt. Rau sống gồm rau muống chẻ, hoa chuối hoặc nõn cây chuối non thái mỏng, rau diếp thái chỉ, tía tô, kinh giới và rau húng. Cho bún vào bát to, múc thịt cua để lên trên, rắc hành hoa thái nhỏ rồi chan cho ngập nước. Tất cả đã đẩy đủ, sẵn sàng. Nào, xin mời các bạn thưởng thức! Bún riêu cua ăn nóng mới ngon và người ăn càng đông càng vui, vị ngon của bát bún riêu cũng tăng lên gấp bội. Dường như tất cả hương vị mộc mạc mà đằm thắm, ngọt ngào của đồng ruộng quê hương đang thấm vào lòng, vào dạ.
Topic: Introduction to crab noodle soup. A rustic dish of Vietnamese people. Assignment Crab noodle soup is one of hundreds of rustic dishes favored by Vietnamese people from rural to urban areas because it combines all three elements: delicious - nutritious - cheap, has a rich flavor and a unique appearance. same attraction. The main ingredient of crab curry is field crab. To prepare a meal of crab noodle soup for 5 people, you need 1 kg of fresh crabs. Choose female crabs with firmer and sweeter meat than male crabs. Buy crabs and pour them into the bucket to soak in water and shake them to remove all the mud. Tear the crab apart, remove the shell, plastron and mouth lid. Wash it several times until clean, let it dry thoroughly, then put it in a mortar and grind until smooth. Take about two liters of water, add it to the crushed crab, use your hands to squeeze the crab meat until it dissolves completely, remove the residue, decant the water and pour into the pot. Season with a little salt, use chopsticks to stir in a circular motion, then let it settle for about five or ten minutes before placing it on the stove and simmering. Crab bricks are made from crab shells, put in a small bowl, washed and then add a spoonful of delicious fish sauce. Put the pan on the stove, when the pan is hot, add the fat and water, wait for the fat to get hot, add the dried onions and fry until golden, then add the cashew oil and crab sticks, stir gently, forming a thick, shiny and fragrant red-yellow substance. Scoop into bowl and set aside. Pour the sliced ​​tomatoes into the pan and stir-fry until soft. The spices used to cook crab paste are ripe tomatoes, fresh tamarind or green tamarind, ripe tamarind, sour tamarind... If using vermicelli, it must be scorched to remove all the sap, soaked in cold water to peel and wait. When the soup pot begins to boil, the crab meat is formed into a block before adding the crab meat. When the fruit is cooked, take it out, crush the pulp, remove the seeds, then pour both the fruit and tomatoes into the simmering pot of crab soup. Wait until the crab meat has formed into pieces, then use a spoon to scoop out the bricks, sprinkle lightly on top and sprinkle with chopped scallions. You can add a little MSG to make the soup more delicious. So we have finished cooking the crab pot. But what is a crab rat that meets quality standards? First of all, crab meat must form into patches on the surface and not fall apart. Next, the soup must be clear, with a naturally rich sweet and sour taste and a fragrant aroma that makes you crave it just by smelling it. Things to eat with crab noodles are fresh vermicelli, fish sauce or shrimp paste, lemon, and chili. Raw vegetables include split water spinach, banana flowers or thinly sliced ​​young banana shoots, shredded lettuce, perilla, marjoram and basil. Put the vermicelli noodles in a large bowl, scoop the crab meat on top, sprinkle with chopped scallions and then cover with water. Everything is done and ready. Now, please enjoy! Crab noodle soup is delicious when eaten hot and the more people eat, the happier it is, the deliciousness of the bowl of noodle soup also increases. It seems that all the rustic yet loving and sweet flavors of the homeland's fields are seeping into my heart and stomach.
Đề bài: Giới thiệu về món ăn dân tộc Bài làm Trong những ngày xuân đến rộn ràng, lòng người náo nức mừng dịp Tết Nguyên Đán, chúng ta lại nghĩ đến những món ăn đậm đà bản sắc dân tộc. Và bánh chưng là một món ăn không thể thiếu trong số đó. Bánh chưng từ lâu đã là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Tương truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, nhà vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua Hùng họp các hoàng tử lại và yêu cầu các hoàng tử đêm dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hi vọng mình được vua cha truyền ngôi. Trong khi đó, người con trai thứ mười tám của Hùng Vương là Lang Liêu có tính tình hiền hậu, sống gần gũi với người nông dân lao động nghèo khổ nên ông lo lắng không có gì quí giá để dâng lên vua cha. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị thần đến chì bảo cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những thức có sẵn gần gũi với đời sống hàng ngày. Tỉnh dậy, ông vô cùng mừng rỡ làm theo cách chỉ dạy của thần. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có hai loại bánh được làm theo lời mộng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ bèn hỏi, thì được Lang Liêu đem chuyện thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn đạt tên cho bánh là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi vua lại cho Lang Liêu. Cách thức làm bánh rất đơn giản. Cũng theo truyền thuyết kể lại thì cách làm bánh ngày nay không khác so với lời báo mộng của thần cho Lang Liêu cũng như cách làm bánh của vị lang nặng tình với nhân dân là mấy. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Những nguyên liệu ấy vừa dễ kiếm lại vừa giàu ý nghĩa: vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Gạo nếp thường dùng là gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, đều và thơm dẻo hơn các vụ khác. Cầu kì hơn còn có gia đình phải chọn bằng được nếp cái hoa vàng hay nếp nương. Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu. Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất. Thịt lợn nên chọn lợn ỉn được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công (nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc). Khi chọn thịt thì lấy thịt ba chỉ (ba dọi) vừa có mỡ vừa có nạc khiến nhân bánh có vị béo đậm đà, không khô bã. Ngoài ra còn cần các gia vị như hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân; muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Lá để gói bánh thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít hoặc vừa là lá dong vừa là lá chít. Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hâp cho mềm trước khi gói. Trước khi làm bánh cần có sự chuẩn bị sơ chế nguyên liệu kĩ lưỡng. Lá dong phải rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Tiếp đó dùng dao bài cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng. Gạo nếp nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối. Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Thịt lợn đem rủa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2.5 cm đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm. Khi làm bánh, trước hết phải xếp lạt giang một cách hợp lí rồi trải lá dong, lá chít trước. Sau đó mới trải một lớp gạo rồi đến một lớp đỗ, đặt thịt vào giữa làm nhân rồi lại trải tiếp một lớp đỗ, một lớp gạo. Sau khi quấn lá chặt lại thì dùng lạt giang buộc chắc chắn. Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa: bánh chưng màu xanh lá cây, hình vuông tượng trưng cho Đất, bánh dầy tượng trưng cho trời. Tuy nhiên, theo một số học giả nổi tiếng, bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét, đồng thời bánh chưng và bánh giầy tương trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, cũng theo những học giả trên là dạng nguyên thủy của bánh chưng. Bánh thường được làm vào các dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch. Thiếu bánh chưng, bánh dầy ắt không thành cái Tết hoàn chỉnh: "Thịt mỡ bánh chưng xanh, dưa hành câu đối đỏ". Hơn thế, gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về. Là loại bánh có lịch sử lâu đời nhất trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt. Sự ra đời và tục lệ làm bánh chưng ngày Tết, ngày giỗ Tổ muốn nhắc nhở con cháu về truyền thông của dân tộc đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Theo thời gian, nền văn minh công nghiệp đang dần được hình thành song ý nghĩa và vai trò của bánh chưng thì vẫn còn nguyên vẹn.
Topic: Introduction to national dishes Assignment During the bustling days of spring, people's hearts are excited to celebrate the Lunar New Year, we think of dishes rich in national identity. And banh chung is an indispensable dish among them. Banh chung has long been a traditional cake of the Vietnamese people to express the gratitude of children and grandchildren to their ancestors and the land. Legend has it that in the sixth reign of King Hung Vuong, after defeating the An invaders, the king intended to pass the throne to his son. On the occasion of the beginning of spring, King Hung gathered his princes and asked them to present to their father what they considered most precious to worship on their ancestors' altar on the first day of spring. The princes raced to find delicious and strange things to offer to their father, with the hope that their father would inherit the throne. Meanwhile, Hung Vuong's eighteenth son, Lang Lieu, had a gentle personality and lived close to poor working farmers, so he was worried that he would not have anything valuable to offer to his father. One day, Lang Lieu dreamed that a god came to show him how to make a cake from rice and available foods close to daily life. Waking up, he was extremely happy and followed the god's instructions. On the appointed day, the princes all brought food to put on the tray, full of delicious seafood, spring rolls and phoenix rolls. Prince Lang Lieu only had two types of cakes made according to his dream. King Hung Vuong was surprised and asked, but Lang Lieu told the story of the god's dream, explaining the meaning of the cake. The king's father tasted the cake, found it delicious and praised it meaningfully, so he named the cakes "banh chung" and "banh day" and passed the throne to Lang Lieu. The way to make cakes is very simple. According to legend, the way of making cakes today is not much different from the god's dream prediction to Lang Lieu as well as the way the lang made cakes with great love for the people. Ingredients for making the cake include sticky rice, green beans, pork, and dong leaves. Those ingredients are both easy to find and rich in meaning: nothing in Heaven and Earth is more precious than rice, because rice is the food that nourishes people. The sticky rice commonly used is rice harvested from the crop. This crop's rice grains are larger, round, even and fragrant than other crops. Even more elaborate, some families have to choose between yellow flower sticky rice or upland sticky rice. Green beans are often carefully selected. After harvesting, the beans need to be dried in the sun, sifted all trash, dust, and flat seeds, sorted the seeds, and then packed into jars or ceramic jars, which is best. For pork, you should choose piglets raised entirely by manual methods (barn-raised or free-range, fed with natural vegetable bran without using weight-gaining drugs or animal feed). When choosing meat, choose pork belly (three plumb) which is both fatty and lean, making the filling rich in fat and not dry. In addition, spices such as pepper and onions are also needed to marinate the meat as a filling; Salt is used to mix rice, green beans and marinate meat. In particular, you should not use fish sauce for marinated meat because the cake will quickly become rancid. The leaves used to wrap the cake are usually fresh arrowroot leaves. Choose dong leaves from the banh te forest, large, even, not torn, and green in color. However, depending on the locality, ethnicity, conditions and circumstances, the leaves wrapping the cake can be chit leaves or both dong leaves and chit leaves. Lat tying banh chung often uses lat giang which is made from giang tree tube. Latkes can be soaked in salt water or steamed until soft before wrapping. Before making cakes, it is necessary to carefully prepare and process the ingredients. Each leaf must be washed thoroughly on both sides and wiped dry. Next, use a cutting knife to peel away the coils along the spine of the leaf to make the leaf less stiff. Pick the sticky rice, remove all other rice grains mixed in, wash it clean, soak the rice in water with 0.3% salt for about 12-14 hours depending on the type of rice and the weather, then take it out and drain. You can sprinkle with salt after soaking the rice instead of soaking it in salt water. Break green beans into small pieces, soak in warm water at 40° for 2 hours until soft and bloom, remove all skins, take out and drain. Drain the pork, cut it into pieces from 2.5 cm to 3 cm, then marinate with thinly sliced ​​purple onions, salt, pepper or MSG for about two hours to let the meat absorb. When making cakes, you must first arrange the lat giang properly and then spread the dong leaves and chit leaves first. Then spread a layer of rice, then a layer of beans, put the meat in the middle to make the filling, then spread another layer of beans and rice. After wrapping the leaves tightly, use string to tie it firmly. According to popular beliefs today, along with banh giay, banh chung symbolizes the ancient Vietnamese concept of the universe: green, square banh chung symbolizes Earth, banh day symbolizes heaven. However, according to some famous scholars, Banh Chung was originally round and long, like Banh Tet, and Banh Chung and Banh Giay represent the penis and vagina in Vietnamese traditional beliefs. Banh tet, which replaces the position of banh chung on Tet holidays in the Vietnamese community in southern Vietnam, is also according to the above scholars the original form of banh chung. Cakes are often made on the traditional Lunar New Year of the Vietnamese people, as well as on Hung King's death anniversary on the 10th day of the third lunar month. Without banh chung and banh day, it would not be a complete Tet: "Green banh chung with fatty meat, pickled onions and red couplets". Moreover, wrapping and cooking banh chung, sitting and watching a pot of banh chung on the stove have become a living habit and culture in Vietnamese families every Tet holiday until spring. As the cake with the oldest history in traditional Vietnamese cuisine, history books also recall that banh chung has a special place in the consciousness of the Vietnamese community. The birth and custom of making banh chung on Tet and the death anniversary of the Patriarch wants to remind children and grandchildren about the nation's traditions while emphasizing the importance of rice and nature in wet rice culture. Over time, industrial civilization is gradually being formed, but the meaning and role of banh chung remains intact.
Đề bài: Giới thiệu về một di sản văn hoá dân tộc có ở địa phương mình Bài làm Vùng Bắc Tây Nguyên là thủ phủ của các dân tộc: Gia-rai, Ba-na, Xê-đăng, Dê-triêng, Brâu, v.v. Nơi đây là một vùng đất đậm đặc truyền thống sử thi và là nơi cội nguồn của ngôi nhà rông truyền thống. Toàn tỉnh Kon Tum hiện nay đã xây dựng được 381 nhà rông chiếm tỷ lệ trên 50% số thôn, buôn, làng mà tỉnh Kon Tum phấn đấu sẽ xây dựng 100% nhà rông vào năm 2005. Hội thảo khoa học về "Nhà rông – nhà rông văn hoá" được tổ chức đầu tiên tại thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum, đã quy tụ nhiều giới nghiên cứu khoa học xã hội ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Nguyên – Trường Sơn, duyên hải miền Trung. 52 bản tham luận khoa học, trong đó 2/3 số tham luận là của các nhà nghiên cứu ở các cục, vụ, viện trực thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội và Nhân văn và Bộ Văn hoá – Thông tin (Viện Nghiên cứu vãn hoá nghệ thuật, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật và Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Ban Tôn giáo Chính phủ, Cục Bảo tồn bảo tàng, v.v…). Hội thảo đã đặt ra nhiều vân đề lý thú, tranh luận sôi nổi giữa các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà quản lý văn hoá để tìm ra được tiếng nói chung về việc xác định nhà rông – ngôi nhà chung truyền thông của Tây Nguyên: hình dáng, kiến trúc vật liệu xây dựng, quy cách, quy trình xây dựng hay phần hồn với những tín ngưỡng, sinh hoạt văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc của nó. Câu trả lời thứ nhất của hội thảo là: Nhà rông là một di sản văn hoá độc đáo cần được bảo tồn và phát huy. Hàng trăm ngôi nhà rông của đồng bào Tây Nguyên đã sừng sững tồn tại với thời gian. Nhà rông – niềm tự hào của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và cả cộng đồng dân tộc Tây Nguyên – Trường Sơn và các tỉnh duyên hải miền Trung với nét độc đáo riêng biệt, dáng vươn cao vút, bề thế, thể hiện tính vươn lên mạnh mẽ, vượt qua gian lao, vất vả để tự khẳng định mình trong quá khứ và hiện tại. Sự ra đời của ngôi nhà chung (nhà rông) từ bản chất nó gắn với những hình thái kinh tế xã hội và điều kiện tự nhiên. Nhà rông Tây Nguyên được xây dựng chủ yếu băng các vật liệu của núi rừng Tây Nguyên, tranh, tre, gỗ, lồ ô, v.v. và được xây cất trên một khoảng đất rộng. Nằm ngay trong khu vực trung tâm của buôn làng, chức năng của nhà rông truyền thống là nơi thực thi các luật tục, nơi tiếp đón khách, nơi diễn ra các sự kiện trọng đại của buôn làng, nơi già làng tập hợp dân làng để bàn "việc làng, việc nước", nơi thể hiện các lễ hội – tâm linh cộng đồng và là nơi các thế hệ nghệ nhân già truyền đạt lại cho thế hệ trẻ những giá trị văn hoá truyền thông, v.v. Ngôi nhà chung ấy còn là nơi lưu giữ các hiện vật truyền thống: chiêng, trống, cồng, vũ khí, đầu các con vật hiến sinh trong các ngày lễ. Độ cao của ngôi nhà rông truyền thống có khi cao đến 18m và mái nhọn, cao vút, người thợ thủ công tài tình, khéo léo chỉ bằng vật liệu của núi rừng mà tạo nên lối kiến trúc độc đáo, bền vững với nhiều loại hoa văn phong phú mà gam màu chủ đạo là màu đen, trắng và nâu đậm. Một câu hỏi đặt ra trong hội thảo là ngôi nhà rông văn hoá ra đời có làm mất đi những gì vốn có của nhà rông truyền thống hay không? Có nhà nghiên cứu cho rằng nhà rông có vai trò giống như ngôi đình của người Việt, song cũng có đa số ý kiến cho là khác, bởi lẽ nhà rông biểu trưng hướng về cõi dương. Đình làng của người Việt hướng về cõi âm, ở mỗi đình làng người Việt khi xây dựng mái thấp bé, phía trước và sau đình làng dựng theo thuyết phong thuỷ… Điều thống nhất trong hội thảo là đa số các nhà quản lý văn hoá và các nhà khoa học đều cho rằng, nhà rông văn hoá là một thiết chế văn hoá cơ sở hiện nay trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá cơ sở. Tiếp thu có chọn lọc nhà rông truyền thống và đưa vào hoạt động như một điểm sinh hoạt văn hoá ở buôn làng, cho dù tên gọi là nhà rông, nhà Gươi, nhà Zơng, v.v. hay có nhà nghiên cứu gọi là "ngôi nhà sinh hoạt văn hoá mang hình dáng nhà rông", v.v. thì đại đa số vẫn thống nhất chung là chức năng tâm linh và các hoạt động "việc làng, việc nước" vẫn được tổ chức tại ngôi nhà chung cộng đồng ấy. Nhà rông chỉ có dân tộc Ba- na – Dơ-gao, người Giẻ-triêng, Xê-đăng, Gia-rai ở Bắc Tây Nguyên (tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum) mới có, ngoài ra các dân tộc khác như Ê Đê thì chỉ có nhà dài. Nhà rông – nhà rông văn hoá là một biểu tượng văn hoá rất đáng tự hào cùa đồng bào các tỉnh Tây Nguyên – Trường Sơn và các tỉnh duyên hải miền Trung. Nhà rông là một di sản văn hoá đáng trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị của nó trong việc bảo tồn và giữ gìn văn hoá dân tộc.
Topic: Introduce an ethnic cultural heritage in your locality Assignment The Northern Central Highlands region is the capital of the ethnic groups: Gia-rai, Ba-na, Xedang, De-trieng, Brau, etc. This is a land rich in epic traditions and is the origin of the traditional communal house. The entire Kon Tum province has currently built 381 communal houses, accounting for over 50% of the hamlets and villages. Kon Tum province strives to build 100% communal houses by 2005. The first scientific conference on "Rong house - cultural communal house" was held in Kon Tum town, Kon Tum province, bringing together many social science researchers in Hanoi, Ho Chi Minh City and other countries. Central Highlands - Truong Son province, Central coast. 52 scientific presentations, of which 2/3 of the presentations are from researchers in departments, agencies and institutes under the Committee for Social Sciences and Humanities and the Ministry of Culture and Information (Research Institute Arts and Culture, Journal of Culture and Arts and Southeast Asian Research Institute, Government Committee for Religious Affairs, Department of Museum Conservation, etc.). The conference raised many interesting issues and heated debates between scientific researchers and cultural managers to find a common voice on identifying the communal house - the common home of Western communication. Origin: shape, architecture, construction materials, specifications, construction process or soul with beliefs and cultural activities imbued with its national identity. The first answer of the workshop was: The communal house is a unique cultural heritage that needs to be preserved and promoted. Hundreds of communal houses of the Central Highlands people have stood the test of time. Communal house - the pride of the Central Highlands people in particular and the entire ethnic community of the Central Highlands - Truong Son and the Central Coast provinces with its own unique features, tall and majestic appearance, showing the noble character. Be strong, overcome hardships and hardships to assert yourself in the past and present. The birth of the communal house (communal house) is intrinsically linked to socio-economic forms and natural conditions. Tay Nguyen communal houses are built mainly with materials from the Central Highlands mountains and forests, thatch, bamboo, wood, bamboo, etc. and was built on a large area of ​​land. Located right in the central area of ​​the village, the function of the traditional communal house is the place to enforce customary laws, the place to welcome guests, the place where important village events take place, and the place where village elders gather villagers. to discuss "village affairs, country affairs", where festivals - community spirituality are expressed and where older generations of artisans pass on cultural and media values ​​to the younger generation, etc. That common house is also where traditional artifacts are kept: gongs, drums, gongs, weapons, and heads of animals sacrificed during holidays. The height of the traditional communal house is sometimes up to 18m high and the roof is pointed and soaring. Ingenious and skillful craftsmen only use materials from the mountains and forests to create unique and sustainable architecture with many types. Rich patterns, the main colors are black, white and dark brown. A question raised in the workshop was whether the creation of a cultural communal house would lose the inherent qualities of the traditional communal house? Some researchers believe that the communal house has the same role as the Vietnamese communal house, but there are also many other opinions, because the communal house symbolizes the direction to the heavenly world. Vietnamese village communal houses are oriented towards the underworld. In each Vietnamese village communal house, when building a low roof, the front and back of the communal house are built according to feng shui theory... What was unified in the workshop was that the majority of cultural managers and scientists all believe that the cultural communal house is a current grassroots cultural institution in the process of building grassroots cultural life. Selectively absorb the traditional communal house and put it into operation as a cultural activity spot in the village, even though it is called communal house, Guoi house, Zong house, etc. or some researchers call it "a house for cultural activities in the shape of a communal house", etc. The vast majority still agree that spiritual functions and "village and country affairs" activities are still held in that community house. Communal houses are only found by the Ba-na-Dogao, Gie-trieng, Xe-dang, Gia-rai people in the Northern Central Highlands (Gia Lai province, Kon Tum province), in addition to other ethnic groups such as E The dyke only has long houses. Communal house - cultural communal house is a very proud cultural symbol of the people of the Central Highlands - Truong Son provinces and the Central coastal provinces. The communal house is a cultural heritage worthy of respect, preserving and promoting its value in preserving and preserving national culture.
Giới thiệu về một di tích cổ Hướng dẫn Văn miêu Xích Đằng nằm trên địa bàn xã Lam Sơn, thị xã Hưng Yên. Nơi đây có 8 tấm bia lớn, ghi tên những chiến sĩ thuộc đất Hưng Yên đỗ đạt từ thời Lê. Đến thăm Văn miếu, khách thập phương còn được thấy chuông đồng, khánh đá. Chuông đúc từ thời Gia Long. Khánh đá nặng đến gần 2 tạ, dày gần 20 centimet, tiếng kêu rất thanh. Cứ nghĩ rằng nơi đây đã có 1 thời các thầy khóa ngồi 2 bên tả vu, hữu vu cúi rạp xuống chiếu làm văn, hay 1 buối bình văn tiếng ngâm trầm bỗng dưới sự chủ tọa cua quan đốc học, cụ cơ, cụ nghè… ta lại cảm nhận được sĩ khí, nho phong của 1 thời xa vắng giừa tiếng chuông, tiếng khánh ngân vang. Và những âm thanh ấy khi ngân lên qua lũy tre làng, hẳn đã làm rộn ràng biết bao cô khóa dệt vải trong buồng the khi mơ tưởng “võng anh đi trước, vỏng nàng theo sau”. Cuộc hành hương về đây đã đem lại cho chúng tôi nỗi buồn man mác. Người ta đã làm nhà, làm vườn lấn chiếm cả cảnh quan, nên đến gần cổng tam quan mới nhận ra nơi thờ cụ Khổng. Hai cây gạo, đầu đường vẫn còn, nhưng hai con chó đá đã đem về nhà bảo tàng thị xã làm vật trang trí. Quả thật, Văn Miếu đã bị tận dụng hết mức. Cổng Văn Miếu lấp đầy cây ngô, cây đa, rơm rác. Sân Văn Miếu là chỗ làm gạch mộc cho các gia đình xung quanh. Gian thờ chính giữa mất hẳn mái ngoài, trơ mấy cái cột vôi. Trong nhà thì mạng nhện chăng đầy. Ba lớp học cấp I đang ê a học bài cả ở tả vu và hữu vu, mà vu nào cũng lại diễn ra cái cảnh rơm rác, cây ngô, cây đay để chất đống. Thế Hưng (Báo Tuổi trẻ, số 7-97)
Introduction to an ancient relic Instruct Xich Dang Van Meo is located in Lam Son commune, Hung Yen town. There are 8 large steles here, recording the names of soldiers from Hung Yen who passed the exam during the Le Dynasty. Visiting the Temple of Literature, visitors from all over can also see bronze bells and stone bells. Cast bell from Gia Long's reign. Khanh stone weighs nearly 2 quintals, is nearly 20 centimeters thick, and makes a very loud sound. Just think that there was a time here where the teachers sat on the left and right sides, crouching down on mats to write, or there was a literary commentary session with quiet voices under the chairmanship of the school governor, senior staff, and junior staff. ... we can feel the morale and elegance of a distant time amidst the sound of bells and the resounding sound of funeral bells. And those sounds, when echoing through the village's bamboo, must have excited many weavers in the kitchen as they dreamed of "the hammock goes first, the girl follows behind". The pilgrimage here brought us great sadness. People have built houses and gardens to encroach on the landscape, so when they get close to the three-entrance gate, they can recognize the place where Confucius is worshiped. The two rice plants at the beginning of the road are still there, but the two stone dogs were brought back to the town museum as decorations. Indeed, the Temple of Literature has been fully utilized. The Temple of Literature gate is filled with corn, banyan trees, and straw. The Temple of Literature yard is a place where bricks are made for surrounding families. The middle altar has lost its outer roof, leaving only a few lime pillars. The house is full of spider webs. The three primary school classes are studying both on the left and right, but in each case there is a scene of piles of straw, corn, and jute. The Hung (Tuoi Tre Newspaper, Không. 7-97)
Đề bài: Giới thiệu về một dòng sông Việt Nam Bài làm Dài hơn 980 km bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) chảy qua các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình và đổ ra sông Hồng, đến sông Đà, du khách sẽ đến với các công trình thế kỷ, khám phá thời kỳ tiền sử cùa con người qua các di chỉ khảo cổ, chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ. Từ ngàn xưa, sông Đà là con đường huyết mạch cho việc giao lưu văn hoá, buôn bán của người dân các đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc nói chung với miền xuôi. Từ Ta Bơ (chợ Bờ – Hoà Bình) đến Bến Vạn, Tạ Khoa, Tạ Bú, Tạ Hè (Sơn La) đến Mường Lay (Điện Biên) là các bến đậu của các đoàn thuyền buôn từ kinh thành Thăng Long lên xứ Ta Lếnh (vùng Tây Bắc ngày nay) vào khoảng thế kỷ XII – XVI. Ngày nay, sông Đà được biết đến với tiềm năng lớn về thuỷ điện, trên sông đã có nhà máy thuỷ điện Hoà Bình (cung cấp điện năng lớn nhất nước ta hiện nay) và trong tương lai gần trên sông Đà có nhà máy thuỷ điện mới – thuỷ điện Sơn La lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Đến với sông Đà du khách sẽ đến với các công trình thế kỷ, khám phá thời kỳ tiền sử của con người qua các di chỉ khảo cổ, chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ: rừng xanh, núi cao, sông rộng, thác, ghềnh; khám phá những nét văn hoá đậm đà bản sắc các dân tộc: Thái, Mường, Tày, Mông, Dao… Ngược dòng sông Đà, theo con đường của các đoàn thuyền buôn xưa: từ chợ Bờ (Hoà Bình) – bến Vạn Yên – bến Tà Hộc – bến Tạ Bú (Sơn La) – điểm khởi công công trình thuỷ điện Sơn La. Từ chợ Bờ đến Tạ Bú là vùng hồ thủy điện Hoà Bình, nơi đây có nhiều hang động đẹp có giá trị khảo cổ học: rìu đá, tước đá, hòn kê, hòn mài được phát hiện tại hang Tẳng, bản Bông Lau, xã Đá Đỏ, huyện Phù Yên; phát hiện trong một số hang tại xã Suối Bàng, huyện Mộc Châu với những cỗ quan tài bằng gỗ, hình thuyền. Theo đánh giá của các nhà khảo cổ học thì những ngôi mộ táng này có niên đại trên dưới 200 năm. Tại khu vực này không chỉ có dấu tích của thời kỳ đá đá mà còn có các hiện vật thời kỳ kim khí: rìu đồng, trống đồng Heger. Ngược Tạ Bú khoảng 3 km, du khách sẽ đến Pá Vinh (huyện Mường La). Đây là nơi xây dựng đập thuỷ điện Sơn La để tận mắt chứng kiến sức vóc và trí lực to lớn của con người: xẻ núi, đắp đập, ngăn sông, chinh phục dòng nước lớn. Đây sẽ là công trình thuỷ điện lớn nhất khu vực Đông Nam Á, góp phần điều khiển nguồn nước cho đồng bằng Bắc Bộ, phát triển kinh tế xã hội cho vùng Tây Bắc và đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tiếp tục ngược dòng sông Đà du khách sẽ đến với Mường Lay, đến với Điện Biên Phủ đánh dấu một mốc son chói lọi bằng vàng của lịch sử, với nhiều lễ hội độc đáo, các hoạt động văn hoá đặc sắc… Dọc bờ sông Đà, du khách sẽ có cơ hội tìm hiểu, khám phá đời sống văn hoá của các dân tộc: Thái, Mường, Khơ Mú, Xinh Mun, Dao… Đặc biệt du khách dễ dàng bắt gặp những phiên chợ nổi trên sông. Chợ được hình thành bởi nhiều chiếc thuyền hàng ghép lại, địa điểm họp chợ nổi có thể thay đổi từ bến Khủa lên Vạn Yên đến Mường Sại, Tạ Khoa, Song Pe, Chim Vàn, Đá Đỏ, Pắc Ngà, Tà Hộc. Người dân đến chợ bằng nhiều phương tiện: ngựa thồ, xe máy và những thuyền chất đầy hàng hoá, nông sản, thổ cẩm, đồ đan lát… để trao đổi buôn bán với những người miền xuôi. Vào những phiên chợ, các chàng trai, cô gái các dân tộc vùng Tây Bắc trong những trang phục truyền thông đẹp nhất, nườm nượp trên bến, dưới thuyền, họ đến đây không chỉ mua bán mà còn muốn tìm cho mình một người bạn đời lý tưởng. Nếu lưu lại qua đêm ở các bản làng dưới mái nhà sàn ấm cúng, du khách sẽ được sống trong những giờ phút đáng nhớ, cùng thưởng thức những đặc sản của núi rừng, ngây ngất trong men say rượu cần, hoà chung điệu xoè và nghe người già kể những huyền thoại, truyền thuyết về sông Đà.
Topic: Introduction to a Vietnamese river Assignment More than 980 km long, originating from Yunnan (China), flowing through Dien Bien, Son La, Hoa Binh provinces and flowing into the Red River, to the Da River, visitors will come to century-old works and explore the period. Human prehistory through archaeological sites and admiring the majestic natural landscape. Since ancient times, Da River has been a lifeline for cultural exchange and trade between ethnic minorities in the Northwest region in general and the lowlands. From Ta Bo (Bo market - Hoa Binh) to Ben Van, Ta Khoa, Ta Bu, Ta He (Son La) to Muong Lay (Dien Bien) are the landing ports of merchant fleets from the capital Thang Long to Vietnam. Lenh (today's Northwest region) around the 12th - 16th centuries. Today, Da River is known for its great potential for hydroelectricity. On the river there is Hoa Binh hydroelectric plant (the largest electricity supplier in our country today) and in the near future on Da river there will be a hydroelectric plant. New power plant - Son La hydroelectric plant, the largest in Southeast Asia. Coming to Da River, visitors will come to century-old works, explore human prehistoric times through archaeological sites, admire majestic natural landscapes: green forests, high mountains, wide rivers, waterfalls. , rapids; Discover the rich cultural identities of ethnic groups: Thai, Muong, Tay, Mong, Dao... Up the Da River, following the path of ancient trading fleets: from Bo market (Hoa Binh) - Van Yen wharf – Ta Hoc wharf – Ta Bu wharf (Son La) – starting point of Son La hydroelectric project. From Bo market to Ta Bu is the Hoa Binh hydroelectric lake area, where there are many beautiful caves with archaeological value: stone axes, stone stripping, millstones, grindstones were discovered in Tang cave, Bong Lau village, Da Do commune, Phu Yen district; Discovered in some caves in Suoi Bang commune, Moc Chau district with boat-shaped wooden coffins. According to archaeologists, these tombs are around 200 years old. In this area, there are not only traces of the Stone Age but also Metal Age artifacts: bronze axes and Heger bronze drums. About 3 km upstream from Ta Bu, visitors will arrive at Pa Vinh (Muong La district). This is the place where the Son La hydroelectric dam was built to witness firsthand the great physical strength and intelligence of humans: cutting mountains, building dams, stopping rivers, conquering large water flows. This will be the largest hydroelectric project in Southeast Asia, contributing to controlling water resources for the Northern Delta, socio-economic development for the Northwest region and contributing to the cause of industrialization and modernization. country. Continuing up the Da River, visitors will come to Muong Lay, to Dien Bien Phu, which marks a golden milestone in history, with many unique festivals, unique cultural activities... Along the banks of Da River, visitors will have the opportunity to learn and explore the cultural life of ethnic groups: Thai, Muong, Kho Mu, Xinh Mun, Dao... Especially, visitors can easily encounter floating markets on the river. river. The market is formed by many boats combined, the floating market location can vary from Khua wharf to Van Yen to Muong Sai, Ta Khoa, Song Pe, Chim Van, Da Do, Pac Nga, Ta Hoc. People come to the market by many means: horse carts, motorbikes and boats loaded with goods, agricultural products, brocade, wickerwork... to trade with lowland people. During the market days, boys and girls from ethnic groups in the Northwest, dressed in their most beautiful traditional costumes, crowd the docks and boats. They come here not only to buy and sell but also to find a friend. ideal life. If you stay overnight in the villages under the cozy roof of a stilt house, you will live memorable moments, enjoy the specialties of the mountains and forests, be ecstatic in the drunkenness of Can wine, and join in the Xoe dance. and listen to old people tell myths and legends about Da River.
Đề bài: Giới thiệu về một hòn đảo của đất nước Bài làm Phú Quốc là huyện đảo ngoài khơi lớn nhất Việt Nam, nằm trong vịnh Thái Lan, thuộc địa phận tỉnh Kiên Giang. Thị trấn Dương Đông – thủ phủ huyện đảo cách thị xã Rạch Giá 120km và cách Hà Tiên 45km. Đảo chính Phú Quốc rộng 578m2, dài 51km và hơn 20 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau tạo thành một quần thể đảo xanh tươi, thơ mộng ngay giữa đại dương. Eo biển xanh Phú Quốc được ví như vịnh Hawai trữ tình nổi tiếng của Mỹ với những bờ biển đẹp vào bậc nhất Việt Nam. Bãi Trường nằm phía tây đảo kéo dài từ Dương Đông tới An Thới khoảng 20km là bãi tắm sầm uất và là bãi biển duy nhất ở Việt Nam nơi bạn có thể ngắm mặt trời lặn xuống biển. Những bãi tắm khác ở Phú Quốc như bãi Kem, bãi Đầm, bãi Cửu Cần, bãi Đại, bãi Sao… nước trong vắt, cát trắng mịn như kem, cũng đầy hấp dẫn, có thể mang lại cho du khách những giây phút vui đùa, thư giãn thoả mái nhất giữa cảnh đẹp hoang sơ, khí hậu trong lành, sự bình yên hiếm có. Phú Quốc nổi tiếng với đặc sản nước mắm, có vị ngon thơm đặc biệt, chế biến từ cá cơm, có độ đạm cao, khác hẳn với nước mắm những vùng biển khác. Mỗi năm, hàng trăm cơ sở sản xuất nước mắm của Phú Quốc cho ra thị trường 8 triệu lít nước mắm với sự hỗ trợ cuả 2.200 tàu đánh cá, sản lượng đánh bắt trung bình 40.000 tấn/năm. Nghề làm mắm ở Phú Quốc có lịch sử phát triển trên 200 năm, người dân ở đây tuân thủ nghiêm ngặt các phương pháp thủ công truyền thông để đảm bảo chất lượng, vệ sinh của đặc sản địa phương mình. Cá cơm còn tươi nguyên được ướp muối (muối vùng Bà Rịa – Vũng Tàu hoặc Cà Ná – Phan Thiết) ngay trên thuyền. Nước mắm được lên men trong thùng gỗ, từ 12 đến 15 tháng. Mắm Phú Quốc khi đó có màu cánh gián, nhẹ mùi, không tanh, không gắt, có vị ngọt đặc biệt. Vì thế mắm Phú Quốc không chỉ được ưa chuộng ở thị trường trong nước mà đã chinh phục cả những người nội trợ ở Pháp, Bỉ, Mỹ, Thái Lan… Người ta ví, Phú Quốc như một cô gái trẻ, căng đầy sức sống, có vẻ đẹp bí ẩn, càng khám phá càng thấy lý thú, hấp dẫn của những vạt rừng nguyên sinh, lại vừa có vẻ đẹp quyến rũ, nồng nàn của đại dương hoang sơ. Cánh rừng nguyên sinh của Phú Quốc nằm ở trung tâm hòn đào, rộng tới 37.000 ha, là nơi sinh sống của nhiều loài gỗ, chim muông quý. Tuyến du lịch đang được ưa chuộng nhất trên đảo là Dương Đông – Hàm Ninh. Con đường chính của tuyến du lịch này được làm từ thời Pháp, uốn lượn quanh những ngọn đồi bạt gió. Du khách sẽ được thăm chùa Sư Môn, lội suối Tranh, thăm làng chài cổ Hàm Ninh, leo núi hoặc đến cơ sở nuôi cấy ngọc trai ở Nam đảo. Tuyến dụ lịch Đông Phương – An Thới cũng rất hấp dẫn khi dẫn tới một quần đảo gồm 15 hòn lớn nhỏ, năm rải rác ở phía Nam, dài khoảng 40km. Quần đảo An Thới là một địa điểm lý tưởng để tổ chức các loại hình du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái. Các thắng cảnh: Dương Đông — Dinh Cậu, bãi Bàn, bãi Kem, lăng Ông Hải, nhà tù Phú Quốc, cảng An Thới đều là những điểm tham quan đầy ấn tượng. Hoặc bạn sẽ đi câu mực thẻ đêm, câu cá rồi nướng ngay trên biển hay tham gia tour lặn biển, thăm vương quốc san hô hùng vĩ, nhiều màu sắc lung linh nhưng thật tinh khôi trong lòng đại dương Phú Quốc. Câu lạc bộ bơi lặn của công ty du lịch Sài Gòn – Phú Quốc sẽ giúp bạn khám phá thế giới ngầm của hòn đảo đáng yêu này. Bạn sẵn sàng chưa?
Topic: Introduction to an island of the country Assignment Phu Quoc is the largest offshore island district in Vietnam, located in the Gulf of Thailand, in Kien Giang province. Duong Dong town - the capital of the island district is 120km from Rach Gia town and 45km from Ha Tien. Phu Quoc main island is 578m2 wide, 51km long and has more than 20 islands of different sizes forming a lush, poetic island complex right in the middle of the ocean. Phu Quoc Blue Strait is likened to America's famous lyrical Hawaiian Bay with the most beautiful beaches in Vietnam. Bai Truong, located on the west side of the island, stretching from Duong Dong to An Thoi about 20km, is a busy beach and the only beach in Vietnam where you can watch the sun set into the sea. Other beaches in Phu Quoc such as Kem beach, Dam beach, Cuu Can beach, Dai beach, Sao beach... clear water, smooth white sand like ice cream, are also attractive, can bring visitors happy moments. Play and relax in the most comfortable way amidst the wild beauty, fresh climate, and rare peace. Phu Quoc is famous for its fish sauce specialties, which have a special delicious taste, are made from anchovies, and have high protein, different from fish sauces in other sea areas. Each year, hundreds of fish sauce production facilities in Phu Quoc release 8 million liters of fish sauce to the market with the support of 2,200 fishing boats, with an average catch of 40,000 tons/year. The fish sauce making profession in Phu Quoc has a history of over 200 years of development, people here strictly follow traditional manual methods to ensure the quality and hygiene of their local specialties. Fresh anchovies are salted (salt from Ba Ria - Vung Tau or Ca Na - Phan Thiet) right on the boat. Fish sauce is fermented in wooden barrels for 12 to 15 months. Phu Quoc fish sauce at that time had the color of cockroach wings, had a light smell, was not fishy, ​​not harsh, and had a special sweet taste. Therefore, Phu Quoc fish sauce is not only popular in the domestic market but has also conquered housewives in France, Belgium, America, Thailand... People compare Phu Quoc to a young girl, full of vitality, with a mysterious beauty. The more you explore, the more interesting and attractive the primeval forests become, while also having a charming and passionate beauty. of the pristine ocean. Phu Quoc's primeval forest is located in the center of the island, covering 37,000 hectares, and is home to many precious species of wood and birds. The most popular tourist route on the island is Duong Dong - Ham Ninh. The main road of this tourist route was built during the French period, winding around windy hills. Tourists will visit Su Mon Pagoda, wade Tranh stream, visit the ancient fishing village of Ham Ninh, climb mountains or go to a pearl farming facility in the South of the island. The Dong Phuong - An Thoi tourist route is also very attractive as it leads to an archipelago of 15 large and small islands, five scattered in the South, about 40km long. An Thoi archipelago is an ideal location to organize all types of marine tourism, resort tourism, and eco-tourism. Sights: Duong Dong - Dinh Cau, Ban beach, Kem beach, Ong Hai mausoleum, Phu Quoc prison, An Thoi port are all impressive sights. Or you will go squid fishing at night, fish and grill right on the sea or join a scuba diving tour, visit the majestic coral kingdom, colorful but pristine in the ocean of Phu Quoc. The diving club of Saigon - Phu Quoc travel company will help you explore the underground world of this lovely island. Are you ready?
Đề bài: Giới thiệu về một loài cây quen thuộc của quê em Bài làm Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ơ tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca (Tố Hữu) Quê tôi, vùng quê trung du Bắc Bộ có "rừng cọ đồi chè" nhưng với tôi hình ảnh về quê hương và loài cây gắn bó quen thuộc nhất vẫn là cây na. Không rậm rạp xanh tốt như cây roi, không tạo thế, đua chen và khoe dáng như lá cọ, na cứng cáp, khẳng khiu đứng riêng rẽ một mình trong khu vườn đồi trọc. Mỗi năm khi bà già mùa đông mang cái lạnh về, na trút lá khẳng khiu gầy guộc nhưng kiên cường chịu rét giơ những cành những nhánh khô mà chống chọi với những trận gió bấc, mưa phùn, để rồi khi sơn ca báo hiệu xuân về cùng những đợt mưa xuân xôn xao phơi phới thì từ trong những cành khẳng khiu kia, na ươm trồi nảy lộc với những búp lá non xanh đẹp lạ kì. Lá na không to, hình bầu dục, mỗi nhánh nhiều lá giống kiểu xếp của lá phượng, lá me nhưng thưa hơn và thoáng hơn, to hơn, là loài cây ăn quả nên thân na phát triển không to. Trồng được 2 năm là na đã cho quả. Quả na xanh tròn khía theo múi giông hình mắt. Kinh nghiệm của bà về na chín đã được nhà thơ Trần Đăng Khoa đưa vào thơ thật ngộ nghĩnh: "Tiếng gà Giục quả na Mở mắt Tròn xoe…” Na mở mắt, nghĩa là những múi na (mắt na) căng phồng hết cỡ mang màu vàng hồng báo hiệu quả sắp chín. Có thể để na chín cây hoặc ngắt xuống độ một ngày sau na chín là ăn được. Bà tôi bảo: "Na sống ở khắp các tỉnh trong cả nước, nhưng ngon và bổ thì chỉ có na ở quê mình vì chất đất ở đây thích hợp nhất cho loại cây này". Quả đúng vậy na chín, vỏ mỏng, bóc trên tay đã thơm phức mùi hương, quyến rũ lạ thường. Vị ngọt sắc của na như nhắc người ta nhớ đến tháng ngày cây cần mẫn chắt chiu nhựa đất trên dải đất sỏi khô cằn. Hoa na giống hoa lan nhưng dầy cánh và mùi hăng hắc. Hoa không nhiều nhưng có hoa là đậu quả. Mỗi cây trung bình hàng năm cho khoảng vài chục cân. Đến vụ, cả đồi na, bà thu hoạch được gần tấn, cũng được 6-7 triệu đồng. Cứ như thế, mùa tiếp mùa, năm tiếp năm, na trở thành loại quả xuất khẩu và món ăn tráng miệng thường nhật cung cấp vitamin rất tốt. Mỗi cây na như nhắn nhủ với mọi người về sức sống bền bỉ và một cuộc đời cần mẫn chắt chiu như chính người trồng na vậy.
Topic: Introducing a familiar tree species in my hometown Assignment Extremely beautiful, my Fatherland! Palm forests, tea hills, sweet green fields, the bright sunshine of Lo river, the sound of singing, the ferries drifting to Binh Ca wharf (To Huu) My hometown, the Northern midland countryside, has "tea palm forests" but for me the image of my homeland and the most familiar tree species is still the custard apple tree. Not as dense and green as a whip tree, not creating a posture, jostling and showing off its shape like a palm leaf, the custard apple is sturdy and spindly, standing alone in the bare hill garden. Every year, when the winter old woman brings the cold, the custard apple sheds its spindly and skinny leaves but is resilient to the cold, holds up dry branches to fight the north winds and drizzle, and then when the lark heralds spring. Coming back with the spring rains, from those spindly branches, custard apple sprouted with strangely beautiful green young leaf buds. The custard apple leaves are not large, oval in shape, each branch has many leaves similar to the arrangement of phoenix and tamarind leaves but are sparser and more open, larger. It is a fruit tree so the custard apple stem does not grow large. After 2 years of planting, the custard apple has already produced fruit. The green custard apple is round and has eye-shaped segments. Her experience about ripe custard apple was put into a funny poem by poet Tran Dang Khoa: "The sound of the chicken. The sound of the custard apple. Open your eyes. Be wide..." The eyes of the custard apple open, which means the custard apple segments (cushion eyes) are fully inflated and take on a pink-yellow color, signaling that they are about to ripen. You can let the custard apple plant ripen or cut it off and eat it after a day of ripening. My grandmother said: "Nas grow in all provinces throughout the country, but delicious and nutritious custard apples are only found in my hometown because the soil here is most suitable for this type of plant." Yes, the fruit is ripe, the skin is thin, and when peeled in the hand, it has a fragrant and unusually seductive scent. The sharp sweetness of custard apple reminds people of the days when the tree diligently gleaned sap from the soil on the dry, gravelly soil. Na flowers resemble orchids but have thick petals and a pungent smell. There are not many flowers, but there are flowers that bear fruit. Each tree produces an average of several dozen pounds annually. During the crop season, she harvested nearly a ton of custard apples and earned 6-7 million VND. Just like that, season after season, year after year, custard apple becomes an export fruit and a daily dessert that provides very good vitamins. Each custard apple tree reminds everyone of its enduring vitality and a life of diligence and diligence like the custard apple grower himself.
Đề bài: Giới thiệu về một món ăn dân gian Bài làm Vào tháng Hai, tháng Ba âm lịch, khi mưa xuân giăng một màn bụi mỏng trắng mờ che phủ xóm làng, tiết trời đã ấm áp là lúc lá khúc bát đầu lên mơn mờn các bãi đất ven đê dọc các triền sông. Chẳng ai trồng rau khúc. Nó tự nhiên âm thầm mọc lên, như có phần bẽn lẽn vì sự giản dị của mình, lặng lẽ mang đến cho con người những ngọn lá xanh mướt, mang vị thơm, vị bùi rất đặc biệt trong một thứ quà quê được gọi tên bằng chính loại lá độc đáo làm ra nó: bánh khúc. Chẳng biết bánh khúc có từ bao giờ, ai là người đầu tiên làm được món bánh này nhưng bánh khúc đã quen thuộc từ lâu với rất nhiều người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, từ nông thôn đến thành thị. Làm bánh khúc không khó, nhưng đòi hỏi sự cần cù, tỉ mỉ và cả kinh nghiệm người xưa truyền dạy. Nguyên liệu chủ đạo làm nên hương vị độc đáo của món bánh này là lá khúc. Lá khúc hái từ buổi sớm, chọn những lá đang độ tươi non mơn mởn hái đem về giã cho nhuyễn rồi trộn với bột gạo làm vỏ bánh. Nhân bánh được làm từ đậu xanh đồ chín tới giã thật mịn, viên lại nhỏ bằng quả trứng gà ri cùng với thịt ba chỉ thái hạt lựu rắc thêm chút hạt tiêu cho dậy mùi. Dàn mỏng lớp vỏ thật khéo bao kín nhân bánh, xếp từng lượt bánh vào nồi hấp như đồ xôi, mỗi lớp bánh lại rắc một lượt gạo nếp ngon đã ngâm kỹ làm áo. Từ lúc nước sôi đến lúc bánh chín chừng tàn một que hương. Bánh khúc là một thứ quà, trong những thứ quà bánh. Nó cũng có thể giúp người ta đỡ đói lòng khi nhớ bữa vì thành phần dinh dưỡng khá cao. Thưởng thức bánh khúc khi còn nóng mới thấy hết được hương vị của bánh khúc, một thứ hương vị tổng hợp, kết hợp nhiều mùi vị tự nhiên của ruộng đồng một cách khéo léo tài tình gói gọn trong tấm bánh bé nhỏ, không cần tới sự trợ giúp của các loại hoá chất hay bất cứ thứ công nghệ thực phẩm nào. Bánh khúc là một món quà quê nhưng được người thành thị ưa thích. Người ta thích bánh khúc chính bởi cái tính "lành" của nó. Món bánh cổ truyền này vẫn sống trong xã hội hiện đại bên cạnh những loại bánh khúc được đóng gói trên dây chuyền công nghiệp. Người ta có thể thưởng thức bánh khúc bất cứ khi nào thích nhưng bánh khúc thường được rao bán cùng với vài loại quà bánh khác vào buổi tối. Những tiếng rao "Ai khúc đê…" mang món quà quê bình dị này tới tận nơi len lỏi tới từng ngõ phố nhỏ. Chẳng biết khi nâng chiếc bánh khúc nóng hổi, hốc khói nghi ngút, thơm mùi gạo nếp, mùi lá khúc, quyện lẫn vị bùi, vị béo của thịt và đỗ có ai biết đến ngọn lá giản dị kia, và những người đang một nắng hai sương làm bánh khúc.
Topic: Introduction to a folk dish Assignment In February and March of the lunar calendar, when the spring rain spreads a thin white veil of dust to cover the villages, the weather is already warm and the first leaves of Khuc Bat first appear to caress the land along the dykes along the river banks. No one grows kale. It naturally grows silently, as if somewhat shy because of its simplicity, quietly bringing to people green leaves, with a very special aroma and flavor in a country gift called with the unique leaf it is made from: banh khuc. I don't know when banh khuc existed or who was the first to make this cake, but banh khuc has long been familiar to many people in the Northern Delta, from rural to urban areas. Making banh khuc is not difficult, but requires diligence, meticulousness and experience taught by the ancients. The main ingredient that creates the unique flavor of this cake is log leaves. Khuc leaves are picked early in the morning, choose the leaves that are still young and tender, take them home, pound them until smooth, then mix them with rice flour to make a crust. The filling is made from cooked green beans, pounded until smooth, rolled into small balls the size of a curried egg, and diced pork belly sprinkled with a little pepper to enhance the flavor. Spread the crust very thinly to cover the filling, place each cake in the steamer like sticky rice, each layer sprinkled with delicious, well-soaked sticky rice to coat. From the time the water boils until the cake is done, about a stick of incense burns out. Banh Khuc is a gift, among the gifts of cakes. It can also help people feel less hungry when they miss meals because the nutritional content is quite high. Enjoy Banh Khuc while it's still hot to fully enjoy the flavor of Banh Khuc, a synthetic flavor that combines many natural flavors of the fields, cleverly packaged in a small sheet of cake, without the need to to the help of chemicals or any kind of food technology. Banh Khuc is a rural gift but is loved by urban people. People like Banh Khuc because of its "healthy" nature. This traditional cake still lives in modern society alongside the banh khuc packaged on the industrial chain. People can enjoy Banh Khuc whenever they like, but Banh Khuc is often sold along with other types of cakes in the evening. The cries of "Who bends the dike..." bring this simple countryside gift to the place, creeping into every small alley. I don't know when holding the hot Banh Khuc, the steaming smoke, the fragrant smell of sticky rice, the smell of Khuc leaves, mixed with the fleshy, fatty taste of meat and beans, will anyone know about that simple leaf tip, and those who are alone? Sunlight and dew make Banh Khuc.
Đề bài: Giới thiệu về một món ăn tiêu biểu của quê hương em Bài làm Nam Bộ có nhiều món ăn độc đáo, nhưng phổ biến vẫn là món bún. Bún được chế biến nhiều món ăn đa dạng về hình thức, phong phú về chất lượng như: bún thịt xào, bún nem bì, bún cà ri, bún riêu cua, bún nước lèo, bún mắm… được mọi người ưa thích, từ giới bình dân cho đến kẻ giàu sang phú quý, nhưng hấp dẫn chắc vẫn là món bún mắm. Ở Trà Ổn, người bán bún mắm không nhiều như ở miệt Trà Vinh, Sóc Trăng, bù lại có tiếng là ngon. Ngon từ sợi bún nhỏ nhắn, tròn trịa, dài mềm mại đến nước lèo, chất mắm. Cách nấu bún mắm ở đây được thêm thắt đôi chút cho hợp khẩu vị của người ăn. Từ đó bún mắm tự dưng được mọi người xem như món ăn "đặc trưng" nơi đây và cả đồng bằng Tây Nam Bộ. Nước lèo theo cách gọi chung được nấu chuyên nghiệp cho là đúng “gu” là không xài bột ngọt và đường, chỉ cốt lấy chất ngọt từ con cá lóc, xương heo cùng chất "tinh túy" ở loại mắm sắc đồng, miệt Cà Mau, thường gọi là "mắm trô" có mùi nặng đặc biệt. Mắm nấu sôi cho cá rả ra, lọc mắm qua rây lấy nước, bỏ xương. Cá lóc làm sạch cắt thành khúc, cùng xương heo thả trong nước lèo. Cá chín vớt ra, xắt thành từng miếng nhỏ dài lối ngón tay. Còn đầu cá no tròn, đùm ruột gan mỡ béo ngậy được xếp chồng lên trong đĩa bàn lớn, chưng cho "bắt mắt". Cặp trứng cá vàng ruộm bỏ trố lại nồi, dùng “dá” khoả đều cho trứng nổi lên trên mặt, cùng sả băm nhuyễn, nấm rơm búp, tép mỡ óng ánh lềnh bềnh càng tăng thêm chất lượng nồi nước lèo. Khi ăn nồi nước lèo sôi ngùn ngụt được chan vào tô bún cho ngập nước, dùng "dá" chặn bún lại cho nước đổ trở lại nồi, đó là cách làm cho cọng bún mềm và nóng. Sau đó xếp từng miếng cá, lát thịt ba đọi, vài con tép bạc bên trên, kèm theo rau thơm, giá sống, bắp chuối, rau muống chẻ nhỏ, nước mắm ớt nguyên chất, nếu thích vắt thêm tí chanh. Công đoạn cuối cùng là chan nước lèo lại lần thứ hai. Tô bún mắm đã đầy đủ sẵn sàng mời khách. Cũng chưa hết, khách yêu cầu thêm cục xương heo hay cái đầu cá, đùm ruột béo ngậy, người bán cũng không từ chối, chỉ cần tính thêm tiền.
Topic: Introducing a typical dish of my homeland Assignment The South has many unique dishes, but the most popular is still vermicelli. Vermicelli is prepared with many diverse dishes in form and rich in quality such as stir-fried meat vermicelli, spring roll vermicelli, curry vermicelli, crab vermicelli, noodle soup, vermicelli fish sauce... loved by everyone, from From the common people to the rich and wealthy, but the most attractive dish is still vermicelli and fish sauce. In Tra On, there are not as many sellers of vermicelli and fish sauce as in Tra Vinh and Soc Trang, but in return it is famous for its deliciousness. Delicious from the small, round, long and soft noodles to the broth and fish sauce. The way to cook vermicelli with fish sauce here is slightly modified to suit the taste of the diner. Since then, bun mam has suddenly been considered a "typical" dish here and in the entire Southwest Delta. The broth, as it is commonly called, is cooked professionally for the right "taste" as it does not use MSG and sugar, only the sweetness comes from snakehead fish, pork bones and the "quintessence" of copper-colored fish sauce, Ca nectar. Mau, often called "màm tro" has a special strong smell. Boil the fish sauce until the fish is released. Filter the fish sauce through a sieve to get the liquid and remove the bones. Clean the snakehead fish, cut it into pieces, and put the pork bones in the broth. When the fish is cooked, take it out and cut it into finger-length pieces. The fish head is full and full, covered with fatty intestines and liver, and is stacked on a large table plate to make it "eye-catching". The pair of golden fish eggs were left in the pot, using "sticks" to spread them evenly so that the eggs floated to the surface, along with minced lemongrass, straw mushrooms, and floating fatty shrimps, adding to the quality of the pot of broth. When eating, the pot of boiling broth is poured into the bowl of vermicelli to cover it, then use a "stick" to block the vermicelli so the water can be poured back into the pot, that's how to make the vermicelli soft and hot. Then arrange each piece of fish, slices of pork belly, a few silver shrimps on top, along with herbs, bean sprouts, banana ears, chopped water spinach, pure chili fish sauce, and if you like, squeeze a little lemon. The final step is to add the broth a second time. The bowl of vermicelli and fish sauce is complete and ready to invite guests. That's not all, customers ask for more pork bones or fish heads, filled with fatty intestines, the seller does not refuse, just charges more.
Đề bài: Giới thiệu về một món ăn Việt Nam dân dã Bài làm Muốn ăn bún riêu cua, bạn không thể tìm thấy trong thực đơn của nhà hàng hay khách sạn, nó chỉ có ở chợ và quán vỉa hè của Hà Nội. Khác với phở có vị béo ngậy, cháo có vị thanh thanh, man mát, bún riêu có vị ngọt đậm, nước dùng hơi chua, phảng phất mùi cua đồng. Bún riêu cua làm không khó nhưng tỉ mẩn và công phu. Cua mua về phải ngâm, dùng đũa khoắng xả nước bẩn, lột mai để riêng, bỏ vỏ yếm và miệng cua. Những bà bán bún riêu cua thường nói, gạch ở mai cua mới tạo nên mùi vị rất riêng của bún riêu. Gạch cua khều ra phải phi hành mỡ cho thật thơm, vàng đều, đảo gạch cua nhanh tay sao cho không nát, tạo màu vàng sẫm mới đạt yêu cầu. Phần thân cua trước khi cho vào cối giã nhuyễn, phải xóc qua muối, dội nước lã cho sạch và để ráo nước, giã nhuyễn sau đó mới đổ nước lã vào lọc kỹ, gạn lấy nước trong, bỏ bã. Cua được giã càng nhuyễn thì nước dùng càng có nhiều váng thịt cua. Quả dọc đem nướng thật kỹ, bóc bỏ vỏ, cà chua rửa sạch, bỏ hạt và thái miếng như miếng cau ăn trầu, mẻ nghiền nát lọc lấy nước, hành rửa sạch, thái thật nhỏ là những gia vị không thể thiếu cho nồi riêu cua. Nồi nước cua đun lửa sao cho váng thịt cua nổi dần trên mặt nước, nêm vừa mắm muối, quả dọc, cà chua vào đun sôi lăn tăn. Rắc hành hoa và rưới gach cua trưng lên trên là bạn đã có nồi nước dùng thật ngon. Để làm bún riêu cua ngon, cua phải được giã bằng tay, váng thịt cua mới mềm, mịn và giữ được mùi vị đặc trưng. Nếu đem xay cua bằng máy xay, coi như nồi nước dùng bị giảm đến 50% vị ngon, váng thịt cua thường xốp, sạn. Bún rối được trần bằng nước sôi lăn tăn, chan riêu cua ngập bún, còn nóng át bột chưng mỡ và rau diếp. Yêu cầu đặc trưng nhất của bún riêu cua là váng thịt cua phải đông đặc, nổi màu vàng sẫm của gạch cua, nước dùng mang vị ngọt đậm, hơi chua, hơi cay. Mặc dù là món quà sáng bình dân, nhưng bún riêu cua cũng được xếp vào thú "ẩm thực" của người dân Hà Nội.
Topic: Introduction to a rustic Vietnamese dish Assignment If you want to eat crab vermicelli, you cannot find it on the menu of restaurants or hotels, it is only available in markets and sidewalk stalls in Hanoi. Unlike pho, which has a greasy taste, porridge has a light, cool taste, vermicelli noodles have a strong sweet taste, slightly sour broth, with a faint smell of crab. Crab noodle soup is not difficult to make but is meticulous and elaborate. Buying crabs must be soaked, used chopsticks to drain the dirty water, peeled the shell and set aside, and removed the crab shell and mouth. The women who sell crab noodle soup often say that it is the bricks in the crab shell that create the very unique flavor of crab noodle soup. When the crab bricks come out, you have to fry them in grease until they are fragrant and golden brown. Stir the crab bricks quickly so that they don't fall apart and create a dark yellow color to meet the requirements. Before putting the crab body into a mortar and pounding it, you have to shake it with salt, rinse it with clean water and let it drain, pound it finely, then pour in the water, filter it carefully, decant the clear water, and discard the residue. The finer the crab is pounded, the more crabmeat the broth will have. Grill the fruit thoroughly, peel off the skin, wash the tomatoes, remove the seeds and cut into pieces like betel pieces, crush and filter to get the juice, wash the onions and chop them into small pieces, these are indispensable spices for the pot. crab crab. Boil the pot of crab water so that the crab meat scum gradually floats on the surface of the water. Season with salt, berries, and tomatoes and bring to a rolling boil. Sprinkle scallions and sprinkle crab cake on top and you have a delicious pot of broth. To make delicious crab vermicelli, the crab must be pounded by hand so that the crab meat scum is soft, smooth and retains its characteristic flavor. If you grind crabs in a blender, the broth will lose up to 50% of its flavor, and the crab meat scum will often be spongy and gritty. The tangy vermicelli noodles are covered with boiling water, filled with crab noodles, and still hot enough to cover the steamed flour and lettuce. The most typical requirement of crab noodle soup is that the crab meat scum must be solidified, the dark yellow color of crab bricks, and the broth should have a sweet, slightly sour, slightly spicy taste. Although it is a popular breakfast gift, crab noodle soup is also classified as a "culinary" hobby of Hanoi people.
Đề bài: Giới thiệu về một món ăn độc đáo của địa phương Bài làm Nam Bộ có nhiều món ăn độc đáo, nhưng phổ biến vẫn là món bún. Bún được chế biến nhiều món ăn đa dạng về hình thức, phong phú về chất lượng như: bún thịt xào, bún nem bì, bún cà ri, bún riêu cua, bún nước lèo, bún mắm… được mọi người ưa thích, từ giới bình dân cho đến kẻ giàu sang phú quý, nhưng hấp dẫn vẫn là món bún mắm. Ở Trà Vinh, Sóc Trăng, bún mắm có tiếng là ngon. Ngon từ sợi bún nhỏ nhắn, tròn trịa, dài mềm mại đến nước lèo, chất mắm. Cách nấu bún mắm ở đây được thêm thắt đôi chút cho hợp khẩu vị của người ăn. Từ đó bún mắm tự dưng được mọi người xem như món ăn "đặc trưng" của đồng bằng Tây Nam Bộ. Nước lèo theo cách gọi chung được nấu chuyên nghiệp cho là đúng "gu" là không dùng bột ngọt và đường, chỉ cốt lấy chất ngọt từ con cá lóc, xương heo cùng chất "tinh tuý" ở loại mắm sặc đồng, miệt Cà Mau, thường gọi là mắm trở có mùi nặng đặc biệt. Mắm nâu sôi cho cá rã ra, lọc mắm qua rây lấy nước, bỏ xương. Cá lóc làm sạch cắt thành khúc, cùng xương heo thá rong nước lèo. Cá chín vớt ra, xắt thành từng miếng nhỏ đài chừng ngón tay. Còn đầu cá no tròn, đùm ruột gan mỡ béo ngậy được xếp chồng lên trong đĩa bàn lớn, chưng cho "bắt mắt". Cặp trứng cá vàng ruộm bỏ trở lại nồi, dùng "dá" khoả đều cho trứng nổi lên trên mặt, cùng sả băm nhuyễn, nấm rơm búp, tép mỡ óng ánh lềnh bềnh càng tăng thêm chất lượng nồi nước lèo. Khi ăn nồi nước lèo sôi ngùn ngụt được chan vào tô bún cho ngập nước, ‘dùng "dá" chặn bún lại cho nước đổ trở lại nồi, đó là cách làm cho cọng bún mềm và nóng. Sau đó xếp từng miếng cá, lát thịt ba dọi, vài con tép bạc bên trên, kèm theo rau thơm, giá sống, bắp chuối, rau muống chẻ nhỏ, nước mắm ớt nguyên chất, nếu thích vắt thêm tí chanh. Công đoạn cuối cùng là han nước lèo lại lần thứ hai. Tô bún mắm đã đầy đủ sẵn sàng mời khách. Chưa hết, khách yêu cầu thêm cục xương heo hay cái đầu cá, đùm ruột béo ngậy, người bán cũng không từ chối, chỉ cần tính thêm tiền!
Topic: Introducing a unique local dish Assignment The South has many unique dishes, but the most popular is still vermicelli. Vermicelli is prepared with many diverse dishes in form and rich in quality such as stir-fried meat vermicelli, spring roll vermicelli, curry vermicelli, crab vermicelli, noodle soup, vermicelli fish sauce... loved by everyone, from From the common people to the rich and wealthy, but the attraction is still the noodle dish with fish sauce. In Tra Vinh, Soc Trang, bun mam is famous for being delicious. Delicious from the small, round, long and soft noodles to the broth and fish sauce. The way to cook vermicelli with fish sauce here is slightly modified to suit the taste of the diner. Since then, bun mam has suddenly been considered by everyone as a "typical" dish of the Southwest Delta. The broth, as it is commonly called, is cooked professionally and is considered to have the right "taste" without using MSG and sugar, only using the sweetness from snakehead fish, pork bones and the "essence" from the copper and Ca prickly fish sauce. Mau, often called fish sauce, has a special strong smell. Boil the brown fish sauce until the fish disintegrates. Filter the fish sauce through a sieve to get the liquid and remove the bones. Clean the snakehead fish, cut it into pieces, and add the pork bones to the broth. When the fish is cooked, take it out and cut it into small pieces about the size of a finger. The fish head is full and full, covered with fatty intestines and liver, and is stacked on a large table plate to make it "eye-catching". Put the golden fish eggs back into the pot, spread them evenly so the eggs float to the surface, along with minced lemongrass, straw mushrooms, and floating fatty shrimps, adding to the quality of the broth. When eating, a pot of boiling broth is poured into a bowl of vermicelli to cover it, using "da" to block the vermicelli so the water can be poured back into the pot, that's how to make the vermicelli soft and hot. Then arrange each piece of fish, slices of pork belly, a few silver shrimps on top, along with herbs, bean sprouts, banana ears, chopped spinach, pure chili fish sauce, and if you like, squeeze a little lemon. The final step is to boil the broth a second time. The bowl of vermicelli and fish sauce is complete and ready to invite guests. And yet, when customers ask for more pork bones or fish heads, filled with greasy intestines, the seller does not refuse, just charges more!
Đề bài: Giới thiệu về một nét văn hoá truyền thống: Dân ca quan họ Bài làm Dân ca quan họ quả là một tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, nó cần được tiếp tục nuôi dưỡng, trân trọng gìn giữ và lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau, ở trong nước và cho cả cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Trong dòng văn hoá và nghệ thuật âm nhạc dân gian chảy từ ngàn xưa, giữa sự đa dạng và đa diện của các dòng dân ca: chèo của Thái Bình, Nam Định, chèo tàu của Hà Tây, hát dặm Nghệ An, Hà Tĩnh, ca trù, ca Huế, dân ca Nam Bộ… vẫn lấp lánh một dòng dân ca riêng biệt, đặc sắc và độc đáo, tựa như: Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc… Chị Hai xinh, tang tình là chị Hai đứng… Đó là dân ca quan họ vùng Kinh Bắc – Bắc Ninh. Quan họ vừa như một làn điệu hội tụ "khí chất" của rất nhiều làn điệu dân ca: cái trong sáng, rộn ràng của chèo; cái thổn thức, mặn mà của hát dặm; cái khoan nhịp sâu lắng của ca trù; cái khoẻ khoắn, hồn nhiên của dân ca Nam Bộ. Nhưng trên hết, quan họ mang "khí chất" của chính quan họ, là hồn của xứ sở quan họ, là "đặc sản" tinh thần của Kinh Bắc – Bắc Ninh. Nằm kề cận với thủ đô, có diện tích nhỏ nhất nước, với sáu huyện, thị, nhưng khát vọng trí tuệ, khát vọng sống, khát vọng khẳng định mình của Kinh Bắc chẳng nhỏ tí nào. Sách cổ của người xưa từng ngưỡng mộ: "Kinh Bắc nổi tiếng văn nhã". Đất Kinh Bắc là nơi kết tụ của tài hoa các làng nghề: làng tranh Đông Hồ, làng giấy Đống Cao, làng chạm khắc Phù Khê, làng đồng Đại Bái, làng buôn Phù Lưu… là đất của hàng nghìn di tích lịch sử, danh thắng của các đình, đền, chùa nổi tiếng. Người Kinh Bắc thông minh, tinh tế, ở bất cứ thời đại lịch sử nào Kinh Bắc cũng hiến cho đời không ít những danh nhân, nhân tài, kẻ sĩ, các bậc hiền tài… Các cộng đồng làng Kinh Bắc từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, gắn kết với nhau trong tình làng nghĩa xóm, trong lao động cần cù, trong khát vọng yêu thương, vượt lên thiên tai, địch hoạ, vượt lên gian khó, "thương người như thể thương thân", "tứ hải giao tình" (bốn biển một nhà) như lời dân ca quan họ. Chính cái khát vọng sống của người Kinh Bắc, đất Kinh Bắc đã hoá thân thành những làn điệu quan họ kỳ diệu: "lời thì giao duyên, tình thì anh em", vừa thực, vừa mơ, vừa giãi bày, vừa khúc chiết, vừa tình tự, vừa sâu sắc… Các làng quan họ hầu hết ở Bắc Ninh, mà theo các nghệ nhân, từng có tới 49 làng quan họ. Và như sông Cầu không bao giờ cạn, mạch sống của khúc nhạc, lời ca quan họ cũng không khi nào nhạt phai dù đã trải qua bao đời người và bao nhiêu biến động thời thế. Đến bây giờ Hội làng quan họ vẫn là nguồn cảm hứng mùa xuân bất tận của xứ Kinh Bắc. Các Hội làng gắn bó đặc biệt với hát quan họ, không thể nào có hội làng trên mảnh đất Bắc Ninh mà thiếu vắng sắc màu và âm thanh quan họ. Những hội hè này trải dài từ mồng 4 Tết âm lịch đến 28 tháng 3 âm lịch. Đặc sắc nhất vẫn là Hội Lim ở huyện Tiên Sơn. Vào những ngày hội, nam thanh nữ tú các nơi đổ về, trẩy hội tưng bừng, để được nghe các liền anh, liền chị xiêm y mớ bảy mớ ba, hát đối đáp, hát canh, hát hội, hát mừng… Dân ca quan họ quả là một tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, nó cần được tiếp tục nuôi dưỡng, trân trọng gìn giữ và lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau, ở trong nước và cho cả cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Trong suy nghĩ đó, CLB Văn hoá xin trân trọng giới thiệu những nét đặc sắc nhất của dân ca quan họ, từ khái quát về quê hương quan họ với những truyền thống xứ Kinh Bắc, về các làng quan họ, các lề lối ca hát và phong tục giao du; đến lời ca quan họ với sự phân tích về nội dung lời ca và nghệ thuật thơ ca. Âm nhạc trong dân ca quan họ cũng được điểm với những thể dạng, hình thức cấu trúc điển hình, mối quan hệ giữa âm nhạc với hình thức lời ca… Và không thể thiếu được là một số làn điệu quan họ, vừa có kinh điển, vừa có cả cải biên, được trình bày bởi tiếng hát dung dị, trữ tình của chính những liền anh, liền chị trên quê hương quan họ Kinh Bắc.
Topic: Introduction to a traditional culture: Quan ho folk songs Assignment Quan Ho folk songs are truly a priceless asset of the Vietnamese people. They need to be continuously nurtured, respectfully preserved and passed down to future generations, both within the country and for the entire Vietnamese community. abroad. In the stream of culture and folk music art that has flowed since ancient times, amidst the diversity and multifaceted folk songs: Cheo of Thai Binh, Nam Dinh, Cheo of Ha Tay, singing mile of Nghe An, Ha Tinh , Ca Tru, Ca Hue, Southern folk songs... still sparkle with a distinct, unique and unique folk song genre, such as: The beautiful and mournful bamboo tree is a bamboo tree that grows... Ms. Hai is beautiful, mourning the loss of life, it is Ms. Hai who stands... It is Quan Ho folk songs of Kinh Bac - Bac Ninh region. Quan ho is like a melody that converges the "temperament" of many folk songs: the clarity and bustle of Cheo; the sobbing, salty feeling of singing miles; the deep rhythm of ca tru; the strength and innocence of Southern folk songs. But above all, Quan Ho carries the "temperament" of the Quan Ho itself, is the soul of the Quan Ho country, and is the spiritual "specialty" of Kinh Bac - Bac Ninh. Located adjacent to the capital, with the smallest area in the country, with six districts and towns, Kinh Bac's intellectual aspirations, living aspirations, and aspirations to assert itself are not small at all. Ancient books of ancient people once admired: "Kinh Bac is famous for its elegance". Kinh Bac land is the convergence of talented craft villages: Dong Ho painting village, Dong Cao paper village, Phu Khe carving village, Dai Bai bronze village, Phu Luu trading village... is the land of thousands of historical relics, scenic spots of famous communal houses, temples, and pagodas. Kinh Bac people are intelligent, sophisticated, and in any historical era, Kinh Bac has dedicated many famous people, talented people, scholars, and talented people to life... Kinh Bac village communities from generation to generation. life after generation, from generation to generation, bound together in neighborly love, in hard work, in the desire to love, to overcome natural disasters, enemy attacks, overcome hardships, "loving people" as if pitying oneself", "four seas of love" (four seas, one home) as the folk song Quan Ho says. It is the desire to live of Kinh Bac people and Kinh Bac land that has transformed into magical mandarin melodies: "words are love, love is brotherhood", both real and dreamy, both expressive and concise. , both sentimental and profound... Most of the quan ho villages are in Bac Ninh, where according to artisans, there used to be up to 49 quan ho villages. And like the Cau River never dries up, the lifeblood of Quan Ho music and lyrics never fades even though it has gone through many lifetimes and many changes in times. Up to now, the Quan Ho Village Festival is still an endless source of spring inspiration in Kinh Bac. Village festivals have a special attachment to Quan Ho singing. There cannot be a village festival in Bac Ninh without the colors and sounds of Quan Ho. These festivals stretch from the 4th day of the Lunar New Year to the 28th day of the 3rd lunar month. The most unique is still Hoi Lim in Tien Son district. On festival days, young men and women from all over come to celebrate, to listen to brothers and sisters dressed up in seventies, sing back and forth, sing soup, sing festivals, sing carols... Quan Ho folk songs are truly a priceless asset of the Vietnamese people. They need to be continuously nurtured, respectfully preserved and passed down to future generations, both within the country and for the entire Vietnamese community. abroad. With that in mind, the Culture Club would like to respectfully introduce the most unique features of Quan Ho folk songs, from an overview of the Quan Ho homeland with the traditions of Kinh Bac, about Quan Ho villages, and singing styles. singing and social customs; to Quan Ho lyrics with analysis of lyric content and poetic art. The music in Quan Ho folk songs is also marked with typical formats, structural forms, the relationship between music and lyric form... And indispensable are a number of Quan Ho melodies, both experienced and experienced. Classics, including adaptations, are performed by the simple, lyrical singing of the brothers and sisters in their hometown of Kinh Bac.
Đề bài: Trên quê hương em có rất nhiều lễ hội. Em hãy viết bài văn giới thiệu về một số lễ hội ở quê hương em cho mọi người cùng nghe. Bài làm Có thể nói Việt Nam là đất nước của nhiều lễ hội. Trong dịp Tết Nguyên Đán, hầu như ở khắp các địa phương đều tổ chức lễ hội mùa xuân với những trò chơi dân gian vui tươi, bổ ích và giàu ý nghĩa. Đây cũng là phong tục tập quán tốt đẹp đã có từ lâu đời của nhân dân ta. Tỉnh Hà Tây quê em (nay thuộc Hà Nội) có những lễ hội nổi tiếng được nhiều người biết đến. Trước hết phải kể tới lễ hội chùa Hương. Chùa Hương là một quần thể danh lam thắng cảnh thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức. Tạo hóa đã hào phóng ban phát cho nơi đây một vẻ đẹp thần tiên hiếm có. Những dãy núi đá vôi tím biếc, trập trùng, quanh năm mây phủ, nổi bật trên đồng ruộng xanh ngắt, bao la, đúng là sơn thủy hữu tình. Động Hương Tích và hàng chục ngôi chùa cổ cheo leo trên sườn núi đá, ẩn mình giữa không gian tĩnh lặng, thanh khiết vô cùng! Sau Tết, chùa Hương mở hội. Lễ hội kéo dài suốt từ mùng 6 tháng Giêng đến tận 15 tháng Ba Âm lịch. Hàng chục vạn du khách từ muôn phương đổ về đây lễ Phật cầu may và ngắm cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ, để cho tâm hồn lâng lâng thanh thoát, trút sạch những vướng bận đời thường, thêm yêu cuộc sống. Cùng dịp này còn có lễ hội chùa Tây Phương. Tây Phương là ngôi chùa nổi tiếng bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc tượng tinh xảo, được xây dựng cách đây đã mấy trăm năm trên ngọn đồi Câu Lậu, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất. Mùng 6 tháng Ba Âm lịch, chùa Tây Phương mở hội đón khách hành hương viếng chùa, thăm tượng, lễ Phật và cầu mong mọi sự tốt lành cho năm mới. Từ thị xã Sơn Tây đi vào thôn Vân Gia khoảng hai cây số, đền Và thờ Sơn Tinh uy nghi tọa lạc trên gò đất cao hình con rùa quay đầu về hướng Đông xung quanh là rừng lim cổ thụ. Lễ hội đền Và hằng năm được tổ chức làm hai đợt (xuân thu nhị kì). Hội xuân ngày 15 tháng Giêng có tục rước kiệu Đức Thánh Tản từ đền Và sang đền Dội bên kia sông Hồng. Kiệu do các thanh niên trai tráng khiêng đi giữa đám rước hàng ngàn người kéo dài qua các ngả đường, hội thu tổ chức vào 15 tháng Chín có tục đánh cá thờ, chọn những con cá lớn và đẹp dể dâng cúng, cầu phúc thần ban cho mưa thuận gió hòa, mọi điều tốt lành. Lễ hội Giã La cũng rất nổi tiếng. Quy mô của nó đã được khẳng định qua câu ca dao: Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy Vui thì vui vậy, chẳng tày Giã La. Giã La có nghĩa là ngày tan hội của hai làng La Nội và Ỷ La, thuộc xã Dương Nội, huyện Hoài Đức. Lễ hội này được tiến hành vào mùng 6 tháng Giêng hằng năm để dân chúng bày tỏ lòng thành kính với vị Thành Hoàng chung là Dương Cành, ngày xưa đã có công giúp vua Hùng dựng nước. Sau phần nghi lễ long trọng là các trò diễn dân gian tái hiện hành động anh hùng của Dương Cảnh diệt hổ ác trừ họa lớn. Cỗ kiệu sơn son thiếp vàng lộng lẫy lót da hổ được trân trọng diễu hành trong không khí nô nức, hào hứng của nhân dân trong vùng và đông đảo du khách đến tham gia. Các trò chơi đề cao tinh thần đoàn kết và thượng võ như kéo co, đấu vật, cờ người… diễn ra sôi nổi, tưng bừng suốt mấy ngày liền. Đúng là vui như hội!
Topic: In my hometown there are many festivals. Write an essay introducing some festivals in your hometown for everyone to listen to. Assignment It can be said that Vietnam is a country of many festivals. During the Lunar New Year, almost every locality organizes spring festivals with joyful, useful and meaningful folk games. This is also a long-standing good custom of our people. My hometown Ha Tay province (now part of Hanoi) has famous festivals that are known to many people. First of all, we must mention the Perfume Pagoda Festival. Perfume Pagoda is a scenic complex in Huong Son commune, My Duc district. The Creator has generously endowed this place with a rare magical beauty. The rolling, purple limestone mountains, covered with clouds all year round, stand out on the vast, green fields, truly charming mountains and water. Huong Tich Cave and dozens of ancient pagodas clinging to the rocky slopes, hidden in a quiet, extremely pure space! After Tet, Huong Pagoda opens a festival. The festival lasts from January 6 to March 15 of the lunar calendar. Tens of thousands of tourists from all over come here to pray to Buddha for good luck and admire the beautiful natural scenery, to let their souls feel light and peaceful, to let go of everyday problems, and to love life more. On this occasion, there is also the Tay Phuong Pagoda Festival. Tay Phuong pagoda is famous for its architectural art and sophisticated statue sculpture, built several hundred years ago on Cau Lau hill, Thach Xa commune, Thach That district. On the 6th day of the third lunar month, Tay Phuong Pagoda opens a festival to welcome pilgrims to visit the pagoda, visit statues, worship Buddha and pray for all the best for the new year. From Son Tay town, about two kilometers to Van Gia village, the majestic Son Tinh Temple is located on a high turtle-shaped mound facing east, surrounded by ancient ironwood forests. The annual Va Temple Festival is held in two periods (spring and autumn two periods). The spring festival on January 15 has the custom of carrying a palanquin procession of Saint Tan from Va temple to Doi temple on the other side of the Red River. The palanquin is carried by young men in the middle of a procession of thousands of people stretching through the streets. The autumn festival held on September 15 has the custom of fishing for worship, choosing large and beautiful fish to offer, and pray for blessings. Give good weather and good weather. Gia La Festival is also very famous. Its scale has been confirmed through the folk song: Swimming Dam, receiving Gia, and the Teacher's Fun festival are so fun, it's not too late to say Goodbye. Gia La means the closing day of the two villages La Noi and Ỷ La, in Duong Noi commune, Hoai Duc district. This festival is held on January 6 every year for people to pay their respects to the General Thanh Hoang Duong Canh, who in the past helped King Hung build the country. After the solemn ceremony, there are folk performances re-enacting Duong Canh's heroic actions of killing evil tigers and eliminating great disasters. The splendid palanquin painted in gold and lined with tiger skin is respectfully paraded in the bustling and excited atmosphere of the people in the area and a large number of tourists. Games that promote the spirit of solidarity and martial arts such as tug of war, wrestling, human chess... take place enthusiastically and jubilantly for several days in a row. It's truly fun!
Giới thiệu về một vật dụng, một phong tục, một danh lam thắng cảnh, một thể loại văn học… Hướng dẫn Thuở còn thơ, ta hay được nghe bà đọc những câu ca dao ngợi ca tình nghĩa, lớn lên ta lại được cô dạy Truyện Kiều, được học thơ Tố Hữu, thơ của Nguyễn Du… Những vần thơ ấy cứ thế theo năm tháng đi vào tâm hồn mỗi chúng ta nhưng tôi chắc sẽ rất ít bạn băn khoăn tự hỏi tại sao những vần thơ kia lại dễ đi vào lòng người đến vậy. Thực ra câu trả lời đơn giản vô cùng. Những tác giả hay tác phẩm ta vừa nói đến ở trên đều rất giỏi về thể thơ lục bát – một thế thơ quen thuộc của dân tộc chúng ta. 1. Đặc điểm của thể thơ lục bát: Thơ lục bát là một thế thư có từ rất lâu đời và được coi là vốn quý của văn hóa nước ta. Thơ lục bát là loại thơ có kết cấu vô cùng đơn giản gồm một câu sáu tiếng và một câu tám tiếng. Chính đặc điềm linh hoạt này đã sinh ra những bài thơ có khi vô cùng hấp dẫn nhưng… chỉ có hai dòng: Hỡi cô tát nước bển dàng Sao cô múc ánh trăng vàng dồ di. Sự linh hoạt trong kết cấu cũng là một điểm mạnh giúp nhà thơ có thể phát triển tác phẩm của mình về số lượng mà không hề có một sự hạn chế nào. Ở nước ta, Truyện Kiều là một minh chứng tiêu biểu cho kiểu một “bài thơ lục bát dài” (dài tới 3254 câu lục bát). Ta đi ta nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương. Từ “nhà” trong câu lục mang vần bằng. Trong thơ lục bát, tiếng cuối của câu lục gieo vần với tiếng thứ sáu của câu bát và gọi là cước vận (vần chân). Tiếng cuối của câu bát lại gieo vần trở lại với tiếng cuối của câu lục tạo thành một vòng quay chặt chẽ về vần: Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau dớn lòng. Thơ lục bát sở dĩ mềm mại, uyển chuyến, dễ nhớ và dễ thuộc không chỉ bởi nó thường chọn vần bằng mà còn ở chỗ nó thường có nhịp ngắt chần (2 hoặc 4). Mình về/ mình có nhớ ta Ta về/ ta nhớ/ những hoa cùng người Thơ lục bát ít phá cách trong vần và nhịp nhưng cũng có trường hợp nhịp ngắt trong thơ lục bát là “nhịp lẻ”. Người lên ngựa/ kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san. 2. Thơ lục bát biến thể: Lục bát trong quá trình phát triển sinh ra nhiều biến thể khác nhau. Nghĩa là câu thơ, vần nhịp… không còn tuân theo quy luật như đã được nêu ra trong mục 1. Yêu nhau tam tứ núi cũng leo Thất bát sông cũng lội, cửu thập lục đeo cũng qua. Thất bát sông cũng lội, cửu, thập lục đèo cũng qua vừa biến từ ngữ, vừa gieo vần trắc: Trèo lèn cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc Em có chồng anh tiếc lắm thay. Sự biến đổi trong thế thơ lục bát thường nhằm vào những mục đích khác nhau nhưng chủ yếu nhằm thể hiện những cung bậc tình cảm phức tạp, sinh động hay trắc trở… Thơ lục bát góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển ngôn ngữ và văn học nước ta. Nó gần gũi và thân thuộc. Nó năng động bởi thơ lục bát dễ làm, dễ thích ứng với các loại đề tài lớn nhỏ khác nhau.
Introducing an item, a custom, a scenic spot, a literary genre... Instruct When I was a child, I often heard my grandmother read folk songs praising love. When I grew up, I was taught the Tale of Kieu by her, and learned To Huu's poetry, Nguyen Du's poetry... Those poems continued like that over the years. into each of our souls, but I'm sure very few of you will wonder why those poems are so easy to enter people's hearts. Actually the answer is extremely simple. The authors and works we just mentioned above are all very good at the six-eight verse form - a familiar poetic style of our people. 1. Characteristics of the six-eight verse form: Six-eight poetry is a long-standing form of writing and is considered a valuable asset of our country's culture. Luc Bat poetry is a type of poem with an extremely simple structure consisting of one six-word sentence and one eight-word sentence. It is this flexible characteristic that has given birth to poems that are sometimes extremely attractive but... only have two lines: Oh, you splash water so easily Why did you scoop up the golden moonlight? Flexibility in structure is also a strength that helps poets develop their works in quantity without any restrictions. In our country, The Tale of Kieu is a typical example of a "long six-eight poem" (up to 3,254 six-eight verses long). When I go, I miss my hometown Remember the vegetable soup memorized bitter bean soup. The word "house" in the sixth sentence rhymes with equal. In Luc Bat poetry, the last word of the sixth verse rhymes with the sixth word of the Eighth verse and is called "foot rhyme". The last sound of the eighth sentence rhymes with the last sound of the sixth sentence, forming a tight rhyme cycle: One hundred years in the realms The word talent and destiny are hateful after a tumultuous The things I saw were heartbreaking. Luc Bat poetry is soft, flexible, easy to remember and memorize not only because it often chooses flat rhymes but also because it often has a rhythm of pauses (2 or 4). I'm back/ I miss you I about, I remember the flowers to him Luc Bat poetry rarely breaks rhythm and rhythm, but there are also cases where the rhythm in Luc Bat poetry is "odd rhythm". Some people get on horses/ some people share plots The autumn maple forest has dyed the color of mandarin. 2. Six-eight variations of poetry: During the development process, six bowls produce many different variations. This means that the verses, rhymes, etc. no longer follow the rules as stated in section 1. Love each other and climb three or four mountains Seventy-eight rivers also waded, ninety-six rivers also crossed. We also waded through the seven eight rivers, nine and sixteen passes, changing words and rhyming: Climb the grapefruit tree to pick flowers Walk down to the eggplant garden to pick spring buds Spring buds bloom green You have a husband, I'm so sorry. Changes in the six-eight verse form often serve different purposes, but mainly to express complex, vivid or difficult emotions... Luc Bat poetry makes an important contribution to the development of language and literature in our country. It is close and familiar. It is dynamic because six-eight poems are easy to make and adaptable to different types of large and small topics.
Đề bài: Giới thiệu về một đồ dùng trong học tập hoặc trong sinh hoạt Bài làm Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như ngày nay, đối với người học sinh, ngoài những người bạn thân quen như sách vờ, bút thước… chúng em còn có thêm một người bạn đặc biệt khác: máy vi tính. Chiếc máy vi tính đầu tiên ra đời năm 1956. Ban đầu, chiếc máy vi tính có kích thước rất lớn, nó to bằng cả một căn phòng và chỉ thực hiện được một số phép tính đơn giản. Theo thời gian, bằng sự nỗ lực của các nhà khoa học, kích thước chiếc máy tính đã được thu gọn lại như ngày nay. Máy vi tính để bàn gồm hai bộ phận lớn tách rời nhau là CPU và màn hình. CPU là bộ phận quan trọng nhất của máy vi tính, đó là nơi xử lí các thông tin dữ liệu rất tinh vi. CPU có hình hộp chữ nhật, kích thước thường là 50 cm * 10 cm * 40 cm. vỏ ngoài được làm bằng kim loại có phủ sơn cách điện. Bên trong là ổ cứng, bộ vi xử lí, các mạch điện, dây dẫn… Mặt trước của máy vi tính là hình chữ nhật kích thước 10 cm * 40 cm. Tại đây có các bộ phận nhỏ để nhận đĩa mềm, kết nối USB và máy, hệ thống nút điều khiển máy… Mặt sau của CPU là ổ cắm dây nối CPU với nguồn điện, màn hình, bàn phím và con trỏ chuột. Màn hình máy vi tính thường có kích thước và hình dáng tương đương một chiếc ti vi 21 inch. Nhưng ngày nay do sự phát triển của công nghệ, màn hình máy vi tính chỉ mỏng chừng 2 cm đến 3 cm và được làm bằng tinh thể lỏng. Ngoài hai bộ phận trên còn cần có bàn phím và con trỏ chuột mới có thể hoàn chỉnh một chiếc máy vi tính. Bàn phím có hình chữ nhật, kích thước vào khoảng 16 cm * 25 cm, có các phím chữ nổi lên giúp nhập thông tin vào máy. Con trỏ chuột thon nhỏ, vừa tay nắm, có ba nút để điều khiển các lệnh trên màn hình. Việc sử dụng máy tính khá đơn giản. Với người học sinh, công dụng chủ yếu là tạo lập văn bản, sử dụng các phần mềm ứng dụng, khai thác Internet và… chơi game! Để sử dụng máy, trước tiên, ta phải cắm phích vào ổ điện, bật máy CPU và bật máy màn hình. Tiếp đó, nếu tạo lập văn bản, ta nhấn hai lần chuột trái vào biểu tượng “W” (microsolf word) trên màn hình rồi sử dụng các phím chữ, đấu… nhập thông tin vào trang trắng trên màn hình. Để sử dụng các chương trình khác, ta cũng mở máy rồi sử dụng bàn phím và con chuột để nhập thông tin và tạo các lệnh. Nhờ chiếc máy vi tính, người học sinh có thể trao đổi thông tin học tập, tâm tư tình cảm nhanh chóng, tiện dụng, có thể xem và thực hiện các thí nghiệm vật lí, hóa học, có thể tìm kiếm các thông tin cần thiết cho việc học tập… Ngoài ra, ta có thể giải trí bằng cách chơi trò chơi trên máy tính… Chiếc máy vi tính là người bạn vô cùng hữu ích đối với người học sinh. Để bảo vệ người bạn đặc biệt này, chúng ta cần thường xuyên vệ sinh bàn phím, phủi bụi cho các bộ phận cùa máy. Ngoài ra, ta cần để máy nơi khô ráo, tránh ẩm ướt. Đặc biệt, nên cài một chương trình diệt “virus” – tác nhân có thể phá hoại dữ liệu trong máy.
Topic: Introducing an item used in study or daily life Assignment In today's era of rapidly developing science and technology, for students, in addition to familiar friends such as books, pens, rulers... we also have another special friend: computers. The first computer was born in 1956. Initially, the computer was very large, it was as big as an entire room and could only perform some simple calculations. Over time, through the efforts of scientists, the size of the computer has been reduced to what it is today. Desktop computers consist of two large separate parts: the CPU and the screen. The CPU is the most important part of a computer, it is where very sophisticated data information is processed. The CPU has a rectangular shape, the size is usually 50 cm * 10 cm * 40 cm. The outer shell is made of metal covered with insulating paint. Inside are the hard drive, processor, circuits, wires... The front of the computer is a rectangle measuring 10 cm * 40 cm. There are small parts here to receive floppy disks, connect USB and the machine, system of machine control buttons... On the back of the CPU is the wire socket connecting the CPU to the power source, screen, keyboard and mouse pointer. Computer screens are usually the same size and shape as a 21-inch television. But today, due to the development of technology, computer screens are only about 2 cm to 3 cm thin and are made of liquid crystal. In addition to the above two parts, a keyboard and mouse pointer are also needed to complete a computer. The keyboard is rectangular, about 16 cm * 25 cm in size, with raised letter keys to help enter information into the machine. The mouse pointer is slim, fits comfortably in the hand, and has three buttons to control commands on the screen. Using a computer is quite simple. For students, the main uses are creating documents, using application software, exploiting the Internet and... playing games! To use the device, we must first plug it into the power outlet, turn on the CPU and turn on the screen. Next, if creating a document, we double-click the left mouse button on the "W" icon (microsoft word) on the screen and then use the letter keys, arrow keys... to enter information into the white page on the screen. To use other programs, we also turn on the computer and use the keyboard and mouse to enter information and create commands. Thanks to computers, students can exchange learning information, thoughts and feelings quickly and conveniently, can view and perform physics and chemistry experiments, and can search for information. necessary for studying... In addition, we can entertain ourselves by playing games on the computer... The computer is an extremely useful friend for students. To protect this special friend, we need to regularly clean the keyboard and dust the machine's parts. In addition, we need to keep the machine in a dry place, away from moisture. In particular, you should install an anti-virus program - an agent that can damage data on your computer.
Giới thiệu về Nguyễn Bỉnh Khiêm – Tác giả của bài thơ Nhàn Hướng dẫn Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà văn hóa, nhà sấm truyền nổi tiếng của Việt Nam. Bài giơi thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêmsẽ cung cấp thêm những thông tin thú vị về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ này, các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), là một nhà triết học vĩ đại, một nhà thơ lớn của Đại Việt trong thế kỉ XVI. Xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng). – Nguyễn Bỉnh Khiêm là người tài cao, học rộng Nguyễn Bỉnh Khiêm có tài cao, học rộng nhưng sống giữa thời loạn lạc nên phải nuôi chí chờ thời, tới năm 43 tuổi ông mới đi thi, năm 1535 ông đỗ Trạng Nguyên, làm đại quan dưới triều nhà Mạc. Sau khi làm quan được tám năm thì ông dâng sớ xin vua Mạc Phúc Hải chém mười tám kẻ lộng thần nhưng không được chấp nhận. Sau đó ông đã xin về trí sĩ ở quê nhà, tự đặt cho mình tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ, dựng một chiếc am Bạch Vân, lập quán Trung Tân mà mở trường dạy học. – Ông là thầy của nhiều học trò lỗi lạc Ông là bậc thầy của nhiều học trò lỗi lạc như: Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ,…. Các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có các tập thơ tiêu biểu như: tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (trên dưới 1000 bài), tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 200 bài), tập sấm kí Trình Quốc Công sấm kí,… 2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu suy tư, triết lí và thể hiện một quan niệm nhân sinh coi trọng nhàn tâm, xa lánh chốn bon chen công danh lợi lộc, đặc biệt là giàu tình ưu ái. Những bài thơ chứ Hán của ông mang tính hàm súc, từ ngữ rất điêu luyện và cao khiết, còn các bài thơ bằng chữ Nôm lại bình dị, hồn nhiên và đậm đà phong vị dân gian quen thuộc. Một số những bài thơ, bài văn tiêu biểu của ông còn được người đời truyền tụng như: “Hữu cảm”, “Trung Tân ngụ hứng”, “Tăng thử”, “Nhàn”,…Trong đó bài thơ “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu nhất cho triết lí nhân sinh nhàn tâm của ông. Nguyễn Bỉnh Khiêm được người đời ngưỡi mộ và xướng danh là “Tuyết Giang phu tử”, xứng đáng là “Như nhật trung thiên” (Mặt trời giữa bầu trời). Theo
Introducing Nguyen Binh Khiem - Author of the poem Nhan Instruct Nguyen Binh Khiem is a famous Vietnamese poet, cultural writer, and oracle. The introduction article about author Nguyen Binh Khiem will provide more interesting information about the life and career of this poet, please refer to it! 1. Biography of Nguyen Binh Khiem Poet Nguyen Binh Khiem (1491 - 1585), was a great philosopher and great poet of Dai Viet in the 16th century. Born into a famous family in Trung Am village, Vinh Lai district, Hai Duong (now Vinh Bao, Hai Phong). – Nguyen Binh Khiem is a highly talented and well-educated person Nguyen Binh Khiem was highly talented and well-educated, but living in a chaotic time, he had to wait for the right time. He did not take the exam until he was 43 years old. In 1535, he passed the exam and became a mandarin under the Mac dynasty. After serving as a mandarin for eight years, he submitted a petition asking King Mac Phuc Hai to behead eighteen traitors but was not accepted. After that, he applied to become a scholar in his hometown, gave himself the name Bach Van layperson, built a Bach Van hermitage, established Trung Tan shop and opened a teaching school. – He is the teacher of many outstanding students He is the master of many prominent students such as: Phung Khac Khoan, Nguyen Du,... Nguyen Binh Khiem's ​​works include typical poetry collections such as: the Chinese poetry collection Bach Van am thi tap (about 1,000 poems), the Nom poetry collection Bach Van quoc ngu thi (about 200 poems), the collection Thunder Ky Trinh Quoc Cong thunder signed,… 2. Nguyen Binh Khiem's ​​creative career Nguyen Binh Khiem's ​​poetry is rich in thoughts and philosophies and expresses a concept of life that values ​​leisure, shuns the hustle and bustle of work, fame and profit, and is especially rich in affection. His poems in Chinese are concise, the words are very skillful and noble, while the poems in Nom are simple, innocent and imbued with a familiar folk flavor. Some of his typical poems and essays are still recited by people such as: "Sentimental", "Trung Tan inspired", "Tang try", "Nhan",... In which the poem "Nhan" is The poem most represents his leisurely philosophy of life. Nguyen Binh Khiem was admired and nicknamed "Tuyet Giang master" by people, worthy of being "Like the sun in the middle of the sky" (Sun in the sky). According to
Giới thiệu về Nguyễn Trãi – Tác giả của bài thơ Bình Ngô đại cáo Hướng dẫn Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi nhằm mang đến cho người học những thông tin chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi. Để có thêm những đơn vị kiến thức hữu ích nhất cho quá trình tìm hiểu bài thơ Bình ngô đại cáo, các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Tiểu sử tác giả Tác giả Nguyễn Trãi tên thật là Ức Trai, quê gốc ông ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sau này ông chuyển về làng Ngọc Hồi (nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội). Ông là một vị anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, nhân tài số một của lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Ngày nay ông được coi là một danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Trãi là con trai của Nguyễn Ứng Long (sau này là Nguyễn Phi Khanh) và là cháu ngoại của quan tư đồ Trần Nguyên Đán – một nhà thơ xuất sắc cuối triều Trần. Trong kháng chiến chống giặc Minh, ông là một quân sư đắc lực cho Lê Lợi, cuộc kháng chiến thắng lợi. 2. Sự nghiệp sáng tác Mùa xuân năm 1428 Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo – một áng thiên cổ hùng văn và là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Nguyễn Trãi là một người thanh khiết bậc nhất trong những người thanh khiết, cuộc đời và sự nghiệp của ông là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc. Bên cạnh đó, ông con là một người có tài năng lỗi lạc, văn võ song toàn, để lại cho nhân loại một di sản to lớn về quân sự (Quân trung từ mệnh tập), văn hóa, lịch sử (Lam Sơn thực lực), địa lí (Dư địa chí), ngoại gia và đặc biệt là sự nghiệp văn học. Bình Ngô đại cáo là một áng thiên cổ hùng văn, tuyên ngôn độc lập của dân tộc; Quốc âm thi tập lại được coi là tập thơ Nôm tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam suốt hơn 500 năm. Tư tưởng bao trùm trong thơ văn của ông là tư tưởng yêu nước, thương dân, bên cạnh đó ông gửi gắm những tư tưởng triết lí sâu sắc và giản dị – kết quả của một đời trải nghiệm, nhân cách cứng cỏi, thanh cao. Nghệ thuật trong thơ văn của Nguyễn Trãi đạt đến trình độ tinh luyện. Văn chính luận thì giàu nhân nghĩa, sắc bén và lập luận chặt chẽ, thơ thì ẩn chứa cả một thế gới thẩm mĩ phong phú và đa dạng. Thể lục ngôn xen vào bài thất ngôn là sáng tạo độc đáo của riêng ngòi bút Nguyễn Trãi. Như vậy, Nguyễn Trãi là một nhà văn hóa, nhà tư tưởng và là một nhà thơ văn kiệt xuất của nhân loại. Theo
Introducing Nguyen Trai - Author of the poem Binh Ngo Dai Cao Instruct Introducing author Nguyen Trai to give learners detailed information about Nguyen Trai's life and creative career. To have more useful knowledge units for the process of understanding the poem Binh Ngo Dai Cao, please refer to it! 1. Author biography Author Nguyen Trai's real name is Uc Trai, his hometown is Chi Ngai commune, Chi Linh district, Hai Duong province. Later, he moved to Ngoc Hoi village (now Nhi Khe commune, Thuong Tin district, Hanoi). He is a national hero, an outstanding cultural figure, and the number one talent of Vietnam's feudal history. Today he is considered a world cultural celebrity. Nguyen Trai is the son of Nguyen Ung Long (later Nguyen Phi Khanh) and the grandson of mandarin Tran Nguyen Dan - an excellent poet at the end of the Tran dynasty. During the resistance war against the Ming invaders, he was an effective military advisor for Le Loi, and the resistance was victorious. 2. Creative career In the spring of 1428, Nguyen Trai replaced Le Loi in writing Binh Ngo Dai Cao - a heroic ancient poem and the nation's second declaration of independence. Nguyen Trai is the purest of the pure people, his life and career are a song of patriotism and national pride. Besides, your grandfather was a man of outstanding talent, perfect in literature and martial arts, leaving humanity a great legacy in terms of military (Quan Trung Tu Menh Tap), culture, and history (Lam Son Thuc power), geography (Du Dia Chi), diplomacy and especially literary career. Binh Ngo Dai Cao is an ancient epic, declaring the nation's independence; Quoc Am Thi Tap is considered the most representative Nom poetry collection of Vietnamese literature for more than 500 years. The overarching ideology in his poetry is the ideology of patriotism and love for the people. In addition, he conveys profound and simple philosophical thoughts - the result of a lifetime of experience and a tough and noble personality. . The art of Nguyen Trai's poetry has reached a refined level. Political literature is rich in humanity, sharp and tightly argued, poetry contains a rich and diverse aesthetic world. The six-word format interspersed with the seven-word poem is a unique creation of Nguyen Trai's pen. Thus, Nguyen Trai is a culturalist, thinker and an outstanding poet of humanity. According to
Giới thiệu về Nguyễn Trãi – Tác giả của bài thơ Cảnh ngày hè Hướng dẫn Để có thêm những thông tin hữu ích về tiểu sử cũng như sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi, các bạn hãy cùng tham khảo bài Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi mà giới thiệu dưới đây nhé! 1. Tiểu sử Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi (1380 – 1442), có hiệu là Ức Trai, quê ở làng Nhị Khê, Thường Phúc, Hà Tây (nay là huyện Thường Tín, Hà Nội). Ông là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê Sơ Việt Nam. Từ thuở nhỏ, Nguyễn Trãi đã rất thông minh và hiếu học, sớm được giáo dục và rèn luyện toàn diện, cùng cha ra làm quan nhà Hồ. Khi giặc Minh xâm lược, ông khước từ mọi mua chuộc của giặc minh không ra làm quan và nuôi chí tìm đường cứu nước. Năm 1417 ông tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và dâng “Bình Ngô Sách” là những kế sách lớn tiêu diệt giặc mà ông đã ngâm cứu và ấp ủ từ nhiều năm.Năm 1428 đất nước hoàn toàn giải phóng ông là khai quốc công thần, tiếp tục giúp vua, một lòng xây đắp vương triều Lê. 2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi là tác giả của nhiều tác phẩm mang giá trị vô giá về mọi mặt văn học, quân sự, lịch sử, địa lí và tư tưởng như: Quân Trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Quốc Âm thi tập, Dư địa chí, Bình Ngô Đại Cáo,… Đánh giá về những cống hiến nhiều mặt của Nguyễn Trãi đối với lịch sử dân tộc Việt Nam cũng như đối với sự phát triển của các giá trị nhân loại, năm 1980 Tổ chức Văn hóa Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã ghi nhận Nguyễn Trãi là một Danh nhân văn hóa thế giới. Được kỉ niệm trên toàn thế giới. Đối với riêng Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, nhà chính trị và quân sự đại tài, một nhà địa lý sử học am hiểu sâu rộng, một nhà tư tưởng lớn dành cả cuộc đời tận tụy lo cho nhân dân và đất nước. Có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng của Việt Nam. Nguyễn Trãi nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam. Theo
Introducing Nguyen Trai - Author of the poem Summer Day Scene Instruct To get more useful information about Nguyen Trai's biography and creative career, please refer to the article Introduction to author Nguyen Trai introduced below! 1. Biography of Nguyen Trai Nguyen Trai (1380 - 1442), whose name was Uc Trai, was from Nhi Khe village, Thuong Phuc, Ha Tay (now Thuong Tin district, Hanoi). He was a politician and poet during the Ho and Early Le dynasties of Vietnam. From childhood, Nguyen Trai was very intelligent and studious. He received comprehensive education and training early and joined his father to become an official of the Ho Dynasty. When the Ming enemy invaded, he refused all bribes from the Ming enemy not to become an official and nurtured the will to find a way to save the country. In 1417, he participated in the Lam Son uprising and offered "Binh Ngo Sach" which were great plans to destroy the enemy that he had researched and cherished for many years. In 1428, the country was completely liberated and he was the founder of the country. God, continue to help the king, wholeheartedly building the Le dynasty. 2. Nguyen Trai's creative career Nguyen Trai is the author of many works of invaluable value in all aspects of literature, military, history, geography and ideology such as: Quan Trung Tu Menh Tap, Uc Trai Thi Tap, Quoc Am Thi Tap, Du Geography, Binh Ngo Dai Cao,... Evaluation of Nguyen Trai's multifaceted contributions to the history of the Vietnamese nation as well as to the development of human values, 1980 Cultural and Scientific Organization and the United Nations Education (UNESCO) have recognized Nguyen Trai as a world cultural celebrity. Celebrated around the world. For Vietnam specifically, Nguyen Trai is an eminent writer, poet, talented politician and military figure, a deeply knowledgeable geographer and historian, and a great thinker who devoted his whole life to for the people and the country. He made a great contribution to the development of Vietnamese literature and ideology. Nguyen Trai is on the list of 14 Vietnamese national heroes. According to
Giới thiệu về Nguyễn Trãi – Văn thuyết minh – Bài văn hay lớp 8 Hướng dẫn Giới thiệu về Nguyễn Trãi Bài làm “Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng”. Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, nhà thơ, nhà tư tưởng chính trị lớn của dân tộc. Người như một ngôi sao Khuê sáng rọi trong tâm hồn cũng như trái tim mỗi người dân Việt Nam. Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai. Ông sinh năm 1380 và mất ngày 19 tháng 9 năm 1442. Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước nồng nàn. Lên năm tuổi, mẹ mất, Nguyễn Trãi sống trong tình yêu thương của ông ngoại và cha. Nhưng khi vừa tròn mười tuổi, ông ngoại cũng đột ngột qua đời, Nguyễn Trãi cùng cha về ở tại làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội. Tuy tuổi thơ của Người là chuỗi những nỗi đau, những vết thương hằn sâu mãi nhưng Nguyễn Trãi vẫn vươn lên học hành chăm chỉ. Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cùng cha làm quan dưới triều nhà Hồ. Sau khi đất nước bị quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Năm 1407, cha ông bị giặc Minh bắt sang Trung Quốc. Trong cuộc khởi nghĩa, ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày mưu tính kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Sự thật luôn phũ phàng, số phận không như mong muốn! Năm 1442, khi Nguyễn Trãi trở về giúp vua Lê Thái Tông việc nước thì gia đình ông bị tru di tam tộc trong vụ án oan Lệ Chi Viên. Ngày 19 tháng 9 năm 1442, Nguyễn Trãi đã vĩnh viễn đi xa. Cuộc đời đã đóng sập trước mắt con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Sự ra đi của Người là nỗi xót thương của bao người dân Việt Nam thời ấy. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một triết lí sâu sắc. Nhân nghĩa là thương dân, vì dân, đồng thời cũng thể hiện sự khoan dung độ lượng, là lí tưởng xây dựng đất nước thái bình. Tư tưởng nhan nghĩa của ông kế thừa quan điểm nhân nghĩa Nho giáo nhưng đã phát triển hơn, tạo nên dấu ấn trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. “Nhắc đến ông là thấy thơ Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ”. Thơ của ông gửi gắm niềm mơ ước mà ở đó tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân thấm nhuần, hoà quyện trong từng tác phẩm. Những tiếng thơ bất hủ, vang dội mà cũng không kém phần lắng đọng, tinh tế, bình dị như chính sự cảm nhận nhẹ nhàng của Nguyễn Trãi. Bao trùm thơ của ông là nguồn cảm hứng bắt nguồn từ tình yêu nước và lòng nhân đạo sâu sắc. Ông đã làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu và đẹp. Con người ông, thơ văn của ông là sự hội tụ vẻ đẹp của tinh hoa đất Việt. Nguyễn Trãi, tên của Người đã gắn liền với từng con đường, góc phố, những trường học như sự tưởng nhớ, sự trân trọng công ơn cao quý của Người đồng thời thể hiện niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam khi được sinh sống, làm việc và học tập ở nơi được đặt tên Người arứi hùng dân tộc, văn võ song toàn! Thời gian thấm thoắt trôi, dòng chảy của cuộc đời vẫn thế nhưng hình ảnh của Nguyễn Trãi và những gì Người để lại sẽ mãi sống trong lòng dân tộc. Tự hào biết mấy khi dân tộc Việt Nam ta có một người tài như Nguyễn Trãi. Cuộc đời, sự nghiệp của Người mãi mãi là tấm gương soi đường, chỉ lối để xây dựng non sông ngày một lớn mạnh, ngày một phát triển, sánh ngang với các cường quốc năm châu. Thời gian sẽ không bao giờ có thể làm phai mờ chân dung của Nguyễn Trãi trong tâm hồn và trái tim con người Việt Nam. (Trường THCS Lê Lợi) >> Xem thêm Thuyết minh về một món ăn mà em yêu thích tại đây. Tags:Bài văn hay lớp 8 · Giới thiệu về Nguyễn Trãi
Introduction to Nguyen Trai - Expository essay - Good essay for grade 8 Instruct Introducing Nguyen Trai Assignment “Listen to the wandering soul of Nguyen Trai The sound of swords, the sound of poetry tearing at the heart." Nguyen Trai, national hero, poet, and great political thinker of the nation. He is like a Khue star shining brightly in the soul and heart of every Vietnamese person. Nguyen Trai, whose name is Uc Trai. He was born in 1380 and died on September 19, 1442. Nguyen Trai was born and raised in a family with a passionate patriotic tradition. When he was five years old, his mother passed away. Nguyen Trai lived in the love of his grandfather and father. But when he was just ten years old, his grandfather suddenly passed away, so Nguyen Trai and his father returned to live in Nhi Khe village, Thuong Tin district, Hanoi. Although his childhood was a series of pain and deep wounds, Nguyen Trai still studied hard. In 1400, Nguyen Trai passed the Thai exam and worked with his father as a mandarin under the Ho Dynasty. After the country was invaded by the Ming army, Nguyen Trai joined the Lam Son uprising led by Le Loi. In 1407, his father was captured by the Ming invaders and sent to China. During the uprising, he became a strategist for the Lam Son insurgent army in planning and drafting diplomatic documents with the Ming army. He was the founder of the country and a prestigious literary minister in the early Later Le Dynasty. The truth is always harsh, fate is not as expected! In 1442, when Nguyen Trai returned to help King Le Thai Tong with state affairs, his family was exiled to three clans in the unjust case of Le Chi Vien. On September 19, 1442, Nguyen Trai passed away forever. Life has closed before the eyes of a talented but ill-fated person. His passing was the sorrow of many Vietnamese people at that time. In 1464, King Le Thanh Tong issued an edict to exonerate Nguyen Trai. Nguyen Trai's ideology of humanity is a profound philosophy. Humanity means loving the people, for the people, and also showing tolerance, which is the ideal of building a peaceful country. His ideology of humanity inherited the Confucian concept of humanity but was more developed, creating a mark in the history of Vietnamese ideology. “When I talk about him, I see poetry Like a sacred source with no bounds." His poetry conveys a dream in which the thoughts of humanity, patriotism, and love for the people permeate and blend in each work. The poetic sounds are timeless and resounding, yet equally as quiet, delicate, and simple as Nguyen Trai's gentle feeling. Covering his poetry is inspiration stemming from deep patriotism and humanity. He made Vietnamese a rich and beautiful literary language. His personality and his poetry are the convergence of the beauty of the quintessence of Vietnam. Nguyen Trai, his name has been attached to every street, street corner, and school as a tribute and appreciation for his noble merits, while also expressing the pride of every Vietnamese person when he was born. live, work and study in a place named "The national hero, perfect in literature and martial arts!" Time passes quickly, the flow of life remains the same, but the image of Nguyen Trai and what he left behind will forever live in the hearts of the nation. How proud we are that our Vietnamese people have a talented person like Nguyen Trai. His life and career will forever be a mirror to guide the way, showing the way to build an increasingly stronger and more developed country, on par with the powers of the five continents. Time will never be able to fade Nguyen Trai's portrait in the souls and hearts of Vietnamese people. (Le Loi Secondary School) >> See more explanation about a dish that you love here. Tags:Good essays for grade 8 · Introduction to Nguyen Trai
Đề bài: Giới thiệu về ngôi nhà thân yêu của em Bài làm Nếu có nơi nào để em dẫu đi xa đến mấy cũng nhớ về với biết bao yêu thương, mong nhớ thì đó chính là ngôi nhà thân yêu của em. Nơi đó có cha, có mẹ, có người anh trai yêu quý và có cả những cảnh trí vô cùng thân quen. Hình ảnh ngôi nhà đã in sâu vào tâm trí của em. Ngôi nhà được ba mẹ xây dựng vào năm 1994, khi em chưa ra đời, và được hoàn thiện sau ba năm…Mẹ nói, ngôi nhà là kết quả của một quá trình lâu dài bố mẹ lao động, cố gắng. Bố mẹ đã từng đào đất làm gạch rồi xây lò nung gạch lấy nguyên liệu xây nhà. Mỗi lần nghe mẹ kể, em lại xúc động vô cùng. Nhà em được bao quanh bởi một hàng rào cây găng. Bố em xén tìa bờ tường tự nhiên ấy rất gọn gàng, đẹp mắt. Cổng nhà cao chừng hai mét, rộng một mét rưỡi được làm bằng sắt dựng trên hai trụ xây bằng gạch. Nhà có hai tầng, mặt tiền rộng bốn mét, cao bảy mét và chiều dài của ngôi nhà là mười hai mét. Mặt tiền quay về hướng nam được sơn màu xanh da trời, trước cửa nhà có trồng một giàn hoa ti-gôn. Trên đường đi học về, từ xa nhìn lại, ngôi nhà của em rất dễ nhận biết bởi giàn ti-gôn xanh tươi và những chùm hoa màu hồng duyên dáng gần như phủ kín phía trước. Tầng một có bốn phòng. Bước qua cánh cửa gỗ màu nâu gụ là phòng khách rộng rãi, thoải mái. Phòng có chu vi 3m*4m và cao 4mét, ngoài cửa chính còn có hai cửa sổ mở ra hướng đông đón ánh mật trời. Bộ ghế salon màu tráng sữa được đặt áp tường phía tây. Ở phía Bắc, ngăn cách phòng khách với nhà bếp là một chiếc tủ thấp chừng một mét. Trên tủ đặt ti vi và những đồ trang trí như búp bê Ma-tri-ô-ska, con lật đật,… Giữa chiếc tủ và tường phía đông có một lối đi rộng chừng mét rưỡi. Lối nhỏ ấy dẫn vào phòng bếp. Gọi là phòng bếp nhưng nơi đó kiêm luôn nhà bếp và nhà ăn. Phòng có chu vi 2,5m*4m, ở giữa đặt một chiếc bàn ăn hình tròn. Áp sát phía tày là kệ bếp ga, phía trên kệ bếp là giàn bát bằng gỗ. Liền ngay nhà ăn là cầu thang đi lên tầng hai. Kề tiếp cầu thang là nhà vệ sinh và nhà tắm. Phòng của bố mẹ em nằm sâu trong cùng. Căn phòng khá rộng và được trang trí chủ đạo bằng màu tím – màu mẹ em rất thích – trông vô cùng dịu mát. Cầu thang dẫn lên tầng hai rộng chừng nửa mét được lát đá ga-ni-to. Đi hết các bậc cầu thang, lên đến tầng hai, nhìn sang bên phải là phòng của anh trai em và bên trái là căn phòng đáng yêu của em. Phòng anh trai em khá gọn gàng thể hiện rất rõ tính cách của anh. Áp sát tường phía tây là bàn thờ gia tiên. Phía đông là hai cửa sổ rất rộng. Tường phía nam được trổ một cửa phụ dẫn ra ban-công đón gió nam mát mẻ mỗi khi hè đến. Căn phòng của em sặc sỡ nhất trong căn nhà yêu dấu. Nó cao tới ba mét và có chu vi là 3m*4m được trang trí bằng một màu hồng rực rỡ. Chiếc giường nhỏ sát tường phía tây được trải ga hổng. Bàn học sát tường phía nam trải khăn hồng; phía trên đó, giá sách của em cũng được bọc dán bàng giấy hồng. Những bức tranh các nhân vật hoạt hình Sakura, Tiểu Anh Đào, Đô- rê-mi,… phần lớn cũng màu hồng. Và đậc biệt, các đồ trang trí "hand­made" của em như những chú hạc, những chiếc lọ hoa, những chiếc xúc xích cũng được làm bằng giấy hồng rất đáng yêu! Tường phía đông cũng có một cửa sổ rộng mở và tường phía bắc thì có một cửa trổ ra sân phơi. Khoảng sân khá rộng thường là nơi phơi quần áo hoặc những đồ lặt vặt trong nhà. Ngoài ngôi nhà xinh xắn, nhà em còn có một khoảng sân vườn khá rộng. Trong đó, bố em trồng rất nhiều loại cây: cây xoài, cây bưởi, cây trứng gà… Những trưa hè nóng nực, được dạo dưới bóng mát khu vườn thì vô cùng thích thú! Ngôi nhà thân yêu của em đã bao năm rồi không hề thay đổi, nó gắn bó với em như một người bạn lớn luôn bao dung và sẻ chia những niềm vui, nỗi buồn tuổi thơ. Nhớ về căn nhà ấm áp, những kỉ niệm xúc động lại ùa về khiến em thêm yêu ngôi nhà hơn nữa.
Topic: Introducing my beloved home Assignment If there is any place where no matter how far I go, I still remember it with so much love and longing, then it is my beloved home. There is a father, a mother, a beloved brother, and extremely familiar scenes. The image of the house is deeply imprinted in my mind. The house was built by my parents in 1994, when I was not yet born, and was completed three years later... Mom said, the house was the result of a long process of work and effort by my parents. My parents used to dig land to make bricks and then build a brick kiln to get materials to build a house. Every time I hear my mother talk, I get extremely emotional. My house is surrounded by a foxglove fence. My father trimmed that natural wall very neatly and beautifully. The gate is about two meters high and one and a half meters wide, made of iron and built on two brick pillars. The house has two floors, the facade is four meters wide, seven meters high and the length of the house is twelve meters. The facade facing south is painted blue, and in front of the house is a trellis of tigon flowers. On the way home from school, looking back from afar, my house was easily recognizable by its bright green trellis and graceful pink flower clusters that almost covered the front. The first floor has four rooms. Stepping through the mahogany brown wooden door is a spacious, comfortable living room. The room has a circumference of 3m*4m and a height of 4m. In addition to the main door, there are two windows opening to the east to welcome sunlight. A set of milk-coated lounge chairs is placed against the west wall. On the north side, separating the living room from the kitchen is a cabinet about one meter low. On the cabinet are placed TVs and decorative items such as Matryoshka dolls, tumblers, etc. Between the cabinet and the east wall there is a passage about one and a half meters wide. That small path leads into the kitchen. It's called the kitchen, but that place also doubles as the kitchen and dining room. The room has a circumference of 2.5m*4m, in the middle is a circular dining table. Close to the far side is a gas stove shelf, above the kitchen shelf is a wooden bowl rack. Right next to the dining room is a staircase going to the second floor. Next to the stairs are the toilet and bathroom. My parents' room is located deep inside. The room is quite large and decorated mainly in purple - my mother's favorite color - it looks extremely cool. The staircase leading to the second floor is about half a meter wide and is paved with granite. Go all the way up the stairs, get to the second floor, look to the right is my brother's room and to the left is my lovely room. My brother's room is quite neat, which clearly shows his personality. Close to the west wall is the ancestral altar. On the east side are two very large windows. The south wall has a side door leading to the balcony to welcome the cool south wind every summer. My room is the most colorful in my beloved house. It is up to three meters high and has a circumference of 3m*4m decorated in a bright pink color. The small bed close to the west wall is covered with gaping sheets. The study table close to the south wall is covered with a pink cloth; Above that, my bookshelf is also covered with pink paper. The paintings of cartoon characters Sakura, Little Anh Dao, Do-remi,... are mostly also pink. And especially, her "handmade" decorations such as cranes, flower vases, and sausages are also made of lovely pink paper! The east wall also has a wide open window and the north wall has a door leading to the drying yard. The large yard is often a place to dry clothes or other household items. In addition to the lovely house, my house also has a quite large garden. In it, my father grows many types of trees: mango trees, grapefruit trees, chicken egg trees... On hot summer afternoons, walking in the shade of the garden is extremely enjoyable! My beloved house has not changed for many years, it is attached to me like a big friend who is always tolerant and shares the joys and sorrows of childhood. Thinking back to the warm house, emotional memories come rushing back, making me love the house even more.
Đề bài: Giới thiệu về nhà rông Bài làm Vùng Bắc Tây Nguyên là thủ phủ của các dân tộc: Zarai; Bahnar; Xê Đăng, zẻ Triêng, Brâu,… Nơi đây là một vùng đất đậm đặc truyền thống sử thi và là nơi cội nguồn của ngôi nhà rông truyền thống. Toàn tỉnh Kon Tum hiện nay đã xây dựng được 381 nhà rông chiếm tỉ lệ trên 50% số thôn, buôn, làng mà tỉnh Kon Tum phấn đấu sẽ xây dựng 100% nhà rông vào năm 2005. Hội thảo khoa học về Nhà rông – Nhà rông văn hoá được tổ chức đầu tiên tại thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum, đã quy tụ nhiều giới nghiên cứu khoa học xã hội ở Hà Nội. Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Nguyên – Trường Sơn, duyên hải miền Trung với 52 bản tham luận khoa học, trong đó 2/3 số tham luận là của các nhà nghiên cứu ở các cục, vụ, trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội – Nhân văn và Bộ Vãn hoá – Thông tin (Viện Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật và Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Ban Tôn giáo Chính phủ, Cục Bảo tồn bảo tàng,…). Hội thảo đã đặt ra nhiều vấn đề lí thú, tranh luận sôi nổi giữa các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà quản lí văn hoá để tìm ra được tiếng nói chung về việc xác định nhà rông – ngồi nhà chung truyền thống của Tây Nguyên: hình dáng, kiến trúc, vật liệu xây dựng, quy cách, quy trình xây dựng hay phần hồn với những tín ngưỡng, sinh hoạt văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc của nó. Câu trả lời thứ nhất của hội thảo là: nhà rông là một di sản văn hoá độc đáo cần được bảo tồn và phát huy. Hàng trăm ngôi nhà rông của đồng bào Tây Nguyên đã sừng sững tồn. tại với thời gian. Nhà rông – niềm tự hào của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và cả cộng dồng dân tộc Tây Nguyên – Trường Sơn và các tỉnh duyên hải miền Trung với nét độc đáo riêng biệt, dáng vươn cao vứt, bề thế, thể hiện tính vươn lên mạnh mẽ, vượt qua gian lao, vất vả đề tự khẳng định mình trong quá khứ và hiện tại. Sự ra đời của ngôi nhà chung (nhà rông) tự bản chất của nó gắn với những hình thái kinh tế xã hội và điều kiện tự nhiên. Nhà rông Tây Nguyên được xây dựng chủ yếu bằng các vật liệu của núi rừng Tây Nguyên như tranh, tre, gỗ, lồ ô,… và được xây dựng cất trên một khoảng đất rộng. Nằm ngay trong khu vực trung tâm của buôn làng. Chức năng của nhà rông truyền thống là nơi thực thi các luật tục, nơi tiếp khách, nơi diễn ra các sự kiện trọng đại của buôn làng, nơi già làng tập hợp dân làng để bàn việc làng, việc nước, nơi thể hiện các lễ hội – tâm linh cộng đồng và là nơi các thế hệ nghệ nhân già truyền đạt lại cho thế hệ trẻ những giá trị văn hoá truyền thống,… Ngôi nhà chung ấy còn là nơi lưu giữ các hiện vật truyền thống; chiêng, trống, cồng, vũ khí, đầu các con vật hiến sinh trong các ngày lễ. Độ cao của ngôi nhà rông truyền thống có khi cao đến 18m và mái nhọn, cao vút, người thợ thù công tài tình, khéo léo chỉ bằng vật liệu của núi rừng mà tạo nên lối kiến trúc độc đáo, bền vững với nhiều loại hoa văn phong phú mà gam màu chủ đạo là màu đen, trắng và nâu đậm. Một câu hỏi đặt ra trong hội thảo là ngôi nhà rông văn hoá ra đời có làm mất đi những gì vốn có của nhà rông truyền thống hay không? Có nhà nghiên cứu cho rằng nhà rông có vai trò giống như ngôi đình của người Việt, song cũng có đa số ý kiến cho là khác, bởi lẽ theo Giáo sư – Tiến sĩ Lâm Chí Biền (Viện Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật), nhà rông là biểu trưng hướng về cõi dương. Đình làng của người Việt hướng về cõi âm, ở mỗi đình làng người Việt khi xây dựng mái thấp bé, phía trước và sau đình làng dựng theo thuyết phong thuỷ… Điều thống nhất trong hội thảo là đa số các nhà quản lí văn hoá và các nhà khoa học đều cho rằng, nhà rông văn hoá là một thiết chế văn hoá cơ sở hiện nay trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá cơ sở. Tiếp thu có chọn lọc nhà rông truyền thống và đưa vào hoạt động như một điểm sinh hoạt văn hoá ở buôn làng, cho dù tên gọi là nhà rông, nhà Gươi, nhà Zơag,… hay có nhà nghiên cứu gọi là ngôi nhà sinh hoạt văn hoá mang hình dáng nhà rông, thì đại đa số vẫn thông nhất chung là chức năng tâm linh và các hoạt dộng việc lùng, việc nước vẫn được tổ chức tại ngôi nhà chung cộng đồng ấy. Nhà rông chỉ có dân tộc Bahna – Zởgao, người zẻ Triêng, Xê Đăng, Zarai ở Bắc Tây Nguyên (tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum) mới có, ngoài ra các dân tộc khác như dân tộc Ê Đê thì chỉ có nhà dài. Nhà rông – nhà rông văn hoá là một biểu tượng văn hoá rất đáng tự hào của đồng bào các tỉnh Tây Nguyên – Trường Sơn và các tỉnh duyên hải miền Trung. Nhà rông là một di sản văn hoá trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị của nó trong việc bảo tồn và giữ gìn văn hoá dân tộc.
Topic: Introduction to communal houses Assignment The Northern Central Highlands region is the capital of the following ethnic groups: Zarai; Bahnar; Xe Dang, Ze Trieng, Brau,... This is a land rich in epic traditions and is the origin of the traditional communal house. The entire Kon Tum province has currently built 381 communal houses, accounting for over 50% of the hamlets and villages. Kon Tum province strives to build 100% communal houses by 2005. The first scientific conference on Communal Houses - Cultural Communal Houses was held in Kon Tum town, Kon Tum province, bringing together many social science researchers in Hanoi. Ho Chi Minh City and the Central Highlands - Truong Son and Central Coast provinces with 52 scientific presentations, of which 2/3 of the presentations are from researchers in departments and agencies under the Committee. Social Sciences - Humanities and Ministry of Culture and Information (Institute of Arts and Culture Research, Journal of Culture and Arts and Institute of Southeast Asian Studies, Government Committee for Religious Affairs, Department of Museum Conservation,... ). The workshop raised many interesting issues and heated debates between scientific researchers and cultural managers to find a common voice on defining the communal house - the traditional communal house of the West. Origin: shape, architecture, construction materials, specifications, construction process or soul with beliefs and cultural activities imbued with its national identity. The first answer of the workshop was: the communal house is a unique cultural heritage that needs to be preserved and promoted. Hundreds of communal houses of the Central Highlands people have stood tall. now with time. Communal house - the pride of the Central Highlands people in particular and the entire ethnic community of the Central Highlands - Truong Son and the Central Coast provinces with its own unique features, tall and majestic appearance, showing the noble character. Be strong, overcome hardships and hardships to assert yourself in the past and present. The birth of the communal house (communal house) is by its very nature linked to socio-economic forms and natural conditions. Tay Nguyen communal houses are built mainly with materials from the Central Highlands mountains and forests such as thatch, bamboo, wood, bamboo,... and are built on a large area of ​​land. Located right in the central area of ​​the village. The function of the traditional communal house is a place to enforce customary laws, a place to receive guests, a place for important village events to take place, a place for village elders to gather villagers to discuss village and state affairs, and a place to express their wishes. Festival - community spirituality and a place where older generations of artisans pass on traditional cultural values ​​to the younger generation, etc. That common house is also a place to store traditional artifacts; gongs, drums, gongs, weapons, heads of animals sacrificed during holidays. The height of the traditional communal house is sometimes up to 18m high and the roof is pointed and soaring. Ingenious and skillful craftsmen only use materials from the mountains and forests to create a unique and sustainable architecture with many types. Rich patterns, the main colors are black, white and dark brown. A question raised in the workshop was whether the creation of a cultural communal house would lose the inherent qualities of the traditional communal house? Some researchers believe that the communal house has the same role as the communal house of the Vietnamese people, but there are also a majority of other opinions, because according to Professor - Dr. Lam Chi Bien (Institute of Arts and Culture Research) , the communal house is a symbol towards the heavenly world. Vietnamese village communal houses are oriented towards the underworld. In each Vietnamese village communal house, when building a low roof, the front and back of the communal house are built according to feng shui theory... What was unified in the workshop was that the majority of cultural managers and scientists all believe that the cultural communal house is a current grassroots cultural institution in the process of building grassroots cultural life. Selectively absorb the traditional communal house and put it into operation as a cultural activity spot in the village, whether called communal house, Guoi house, Zoag house,... or some researchers call it living house. Although cultural activities take the shape of a communal house, the vast majority still agree that spiritual functions and hunting and state activities are still held in that communal house. Communal houses are only owned by the Bahna - Zôgao ethnic groups, the Trieng, Xe Dang, and Zarai ethnic groups in the Northern Central Highlands (Gia Lai province, Kon Tum province). In addition, other ethnic groups such as the Ede ethnic group only have long houses. . Communal house - cultural communal house is a very proud cultural symbol of the people of the Central Highlands - Truong Son provinces and the Central coastal provinces. The communal house is a cultural heritage that should be respected, preserved and promoted in preserving and preserving national culture.
Giới thiệu về nhà thơ Đặng Dung – Tác giả của bài thơ Thuật Hoài Hướng dẫn Bài Giới thiệu về Đặng Dungsẽ cung cấp thêm những thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Đặng Dung, qua đó giúp người học hiểu hơn về bối cảnh sáng tác cũng như những tâm sự của nhà thơ thông qua bài thơ Thuật hoài, các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Giới thiệu chung Tác giả Đặng Dung (1373 – 1414) quê ở Tả Hạ, Thiên Lộc, Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Ông là một tướng lĩnh của nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Đây là một người anh hùng lẫm liệt hi sinh vì nước, một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử văn học Việt Nam. Đặng Dung là con của Đặng Tất – một tướng tài đã khôi phục lại đất nước tới vùng Ninh Bình. Dưới triều của nhà Hồ, Đặng Dung giúp cha cai quản đất Thuận Hóa, khi giặc Minh sang xâm lược, nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha của mình tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi – Giản Định Đế. Sau này vì nghe lời dèm pha của bọn hoạn quan mà Giản Định Đế đã đem lòng ngờ vực và giết cha Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Chân. 2. Những sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoáng về Chi La (Hà Tĩnh) tôn lên làm vua hiệu Trùng Quang Đế quyết tâm chống giặc Minh. Vì nhu cầu hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng Hoàng. Dù phải chiến đấu dưới quyền của kẻ từng giết cha mình nhưng ông đã gạt qua một bên, tất cả vì sự nghiệp chung của đất nước, giữ vững được phẩm cách đường đường của mộ vị tướng. Từ đó ông đã tham gia rất nhiều trận chiến, tiêu biểu là trận đánh tháng 9 năm 1413 khu vực Thái Gia (Quảng Trị). Trận đánh thất bại, ông cùng vua Trùng Quang Đế bị bắt giải về Trung Quốc, trên đường đi ông đã trầm mình tự tử. Ngoài là một tấm gương anh hùng tiết liệt, Đặng Dung còn được xem là một nhà thơ lớn của dân tộc, tuy chỉ để lại được vài tác phẩm. Với bài thơ “Cảm hoài” Đặng Dung đã ghi tên tuổi của mình vào trang lịch sư văn học Việt Nam va trong lòng người đọc mãi về sau này. Theo
Introducing poet Dang Dung - Author of the poem Thuat Hoai Instruct The Introduction to Dang Dung will provide more information about the life and career of author Dang Dung, thereby helping learners better understand the context of his writing as well as the poet's confidences through the poem Thuat Hoai , please refer to it! 1. General introduction Author Dang Dung (1373 - 1414) was from Ta Ha, Thien Loc, Nghe An (now Can Loc district, Ha Tinh). He was a general of the Later Tran Dynasty in Vietnamese history. This is a heroic hero who sacrificed his life for his country, an eminent poet in the history of Vietnamese literature. Dang Dung is the son of Dang Tat - a talented general who restored the country to the Ninh Binh region. During the reign of the Ho Dynasty, Dang Dung helped his father govern Thuan Hoa land. When the Ming invaders invaded, the Ho Dynasty collapsed, Dang Dung and his father joined the uprising of Tran Ngoi - Emperor Gian Dinh. Later, because of listening to the denigration of the eunuchs, Emperor Gian Dinh became suspicious and killed father Dang Dung and Nguyen Canh Chan. 2. Typical events in life Dang Dung and Nguyen Canh Di (son of Canh Chan) welcomed Tran Quy Khoang to Chi La (Ha Tinh) and crowned him King Trung Quang De determined to fight the Ming invaders. Because of the need to unite the two forces, Tran Quy Khoang's generals brought Tran Ngoi to Chi La to become Supreme Emperor. Even though he had to fight under the authority of the man who killed his father, he put it aside, all for the common cause of the country, maintaining the dignity of a general. Since then, he has participated in many battles, notably the battle in September 1413 in the Thai Gia area (Quang Tri). The battle failed, he and King Trung Quang De were captured and taken back to China. On the way, he committed suicide. In addition to being a fierce heroic example, Dang Dung is also considered a great poet of the nation, although he only left a few works. With the poem "Feeling Forever" Dang Dung wrote his name in the history of Vietnamese literature and in the hearts of readers forever after. According to
Giới thiệu về Phạm Ngũ Lão – Tác giả của bài thơ Thuật hoài Hướng dẫn Giới thiệu về Phạm Ngũ Lão – Tác giả của bài thơ Thuật hoài sẽ cung cấp cho người học những thông tin thú vị về cuộc đời về sự nghiệp sáng tác của Phạm Ngũ Lão. Để việc học tập được hiệu quả nhất, các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Tiểu sử tác giả Phạm Ngũ Lão Tác giả Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) quê tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Phủ Thượng Hồng (nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Phạm Ngũ Lão là một danh tướng giỏi của triều Trần, trở thành chỗ dựa tin cậy của ba đời vua nhà Trần. Trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên lần thứ hai (1285-1287) và lần thứ ba (1288) ông đã lập được nhiều chiến công hiển hách tại các trận: Tây Kết, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, Lạng Sơn. Ngoài ra ông đã bốn lần cất quân đi trừng phạt của quân Ai Lao, hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành, khi nghịch thần Biếm nổi lên chống lại triều đình cũng đã bị ông đập tan. Khi Phạm Ngũ Lão mất, vua Trần Minh Tông vô cùng thương tiếc nên nghỉ chầu đến năm ngày, đó là một ân điển vô cùng đặc biệt mà ở đương thời các quý tộc nhà Trần cũng không mấy ai có được. Nhân dân xã Phù Ủng đã dựng đền thờ ngay trên nền nhà cũ của ông. 2. Sự nghiệp sáng tác Trong sách “Đại Việt sư kí toàn thư” có chép rằng: “Ngũ Lão xuấ thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, sống phóng khoáng và có chí lớn thích ngâm thơ, xem qua có vẻ như không để ý đến việc võ bị nhưng quân do ông chỉ huy thc là đội quân trên dưới như cha con, hễ đánh là thắng”. Như vậy có thể thấy, mặc dù chuyên lo việc quân nhưng Phạm Ngũ Lão vẫn thích đọc sách và ngâm thơ. Không chỉ có tài quân sự mà ông còn để lại nhiều bài thơ về chí làm trai, về lòng yêu nước, tự tôn dân tộc. Tiếc rằng hiện nay thơ văn của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán là bài “Thuật Hoài” (thể thơ thất ngôn tứ tuyệt) và bài “Vãn Hưng Đạo Đại vương (thể thơ thất ngôn bát cú). Phạm Ngũ Lão được xem như vị tướng vĩ đại nhất lịch sư quân sự Việt Nam. Theo
Introducing Pham Ngu Lao - Author of the poem Thuat Hoai Instruct Introduction to Pham Ngu Lao - Author of the poem Thuat Hoai will provide learners with interesting information about the life and creative career of Pham Ngu Lao. For the most effective learning, please refer to it! 1. Biography of author Pham Ngu Lao Author Pham Ngu Lao (1255 - 1320) was from Phu Ung village, Duong Hao district, Phu Thuong Hong (now An Thi district, Hung Yen province). Pham Ngu Lao was a famous general of the Tran dynasty, becoming a trusted supporter of three generations of Tran kings. During the two resistance wars against the Mongol-Yuan invaders, the second time (1285-1287) and the third time (1288), he achieved many glorious victories at the battles: Tay Ket, Van Kiep, Bach Dang, Lang. Paint. In addition, he sent troops four times to punish the Ai Lao army, twice the Southern expedition defeated the Champa army, and when the rebel god Biem rose up against the court, he was also crushed. When Pham Ngu Lao passed away, King Tran Minh Tong felt so sorry that he took a break for five days. It was an extremely special grace that not many Tran Dynasty nobles had at that time. The people of Phu Ung commune built a temple right on the foundation of his old house. 2. Creative career In the book "Dai Viet Su Ky Toan Thu" it is written that: "Ngu Lao was born in the military but loved to read books, lived freely and had a great ambition to recite poetry. At first glance, it seemed like he did not pay attention to Martial arts, but the army he commanded was an army from top to bottom like father and son, every time they fought, they won. So it can be seen that although Pham Ngu Lao specializes in military affairs, he still likes to read books and recite poetry. Not only did he have military talent, but he also left behind many poems about being a man, about patriotism, and national pride. Unfortunately, currently there are only two Chinese poems left in his poetry: "Thuat Hoai" (seven-word four-parameter poem) and "Van Hung Dao Dai Vuong (seven-word, eight-syllable poem). Pham Ngu Lao is considered the greatest general in Vietnamese military history. According to
Đề bài: Giới thiệu về quê hương Bến Tre Bài làm Bến Tre là một tỉnh đồng bằng cuối nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp với biển Đông, có bờ biển dài 60km. Phía bắc giáp Tiền Giang, phía tây và tây nam giáp Vĩnh Long, phía nam giáp Trà Vinh. Thị xã Bến Tre cách TP Hồ Chí Minh 85km. Địa hình ở đây bằng phẳng, rải rác có nhiều cồn cát xen kẽ với ruộng vườn, không có rừng cây lớn, bốn bề sông nước bao bọc rất thuận tiện cho giao thông vận tải cũng như thủy lợi. Bến Tre có khí hậu nhiệt đới gió mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, các tháng còn lại là mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm từ 26 – 27°c. Lượng mưa trung bình năm từ 1.250 – 1.500mm. Bến Tre hình thành bởi ba cù lao lớn: cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hoá do bốn con sông lớn là Tiền Giang, Ba Lại, Hàm Luông, cổ Chiên chia cắt. Là tỉnh có nhiều sông, rạch, Bến Tre có điều kiện thuận tiện để phát triển du lịch xanh, bởi ở đó còn giữ được nét nguyên sơ của miệt vườn, giữ được mói trường sinh thái trong lành, trong màu xanh của những vườn dừa, vườn cây trái rộng lớn. Bến Tre là vựa lứa lớn của đồng bằng sông Cửu Long với nhiều sản vật và hoa quả: lúa, ngô, khoai, dứa, chôm chôm, mãng cầu, vú sữa, sầu riêng. Bến Tre giàu thủy sản với các loại: cá thiểu, cá mối, cá cơm. Cây công nghiệp có dừa, thuốc lá, mía, bông. Đặc biệt Bến Tre là xứ sở của dừa (gần 40.000 ha trồng dừa), nổi tiếng với đặc sản kẹo dừa Bến Tre, bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc. Làng nghề Cái Mơn hàng năm cung ứng cho thị trường hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh nổi tiếng khắp nơi.
Topic: Introduction to the hometown of Ben Tre Assignment Ben Tre is a delta province at the end of the Mekong River, adjacent to the East Sea, with a 60km long coastline. The north borders Tien Giang, the west and southwest borders Vinh Long, the south borders Tra Vinh. Ben Tre town is 85km from Ho Chi Minh City. The terrain here is flat, dotted with many sand dunes interspersed with fields and gardens, no large forests, and surrounded by rivers on all four sides, making it very convenient for transportation and irrigation. Ben Tre has a tropical monsoon climate: the rainy season is from May to October, the remaining months are the dry season. The average annual temperature is from 26 - 27°C. Average annual rainfall ranges from 1,250 - 1,500mm. Ben Tre is formed by three large islands: Bao Island, Minh Island and An Hoa Island divided by four large rivers: Tien Giang, Ba Lai, Ham Luong and Co Chien. As a province with many rivers and canals, Ben Tre has favorable conditions to develop green tourism, because it still retains the pristine features of the gardens, maintaining a fresh ecological environment, in the green of the gardens. coconut tree, large fruit garden. Ben Tre is a large harvest area of ​​the Mekong Delta with many products and fruits: rice, corn, potatoes, pineapple, rambutan, custard apple, star apple, durian. Ben Tre is rich in aquatic products such as fish, termites, and anchovies. Industrial crops include coconut, tobacco, sugarcane, and cotton. In particular, Ben Tre is the land of coconuts (nearly 40,000 hectares of coconut trees), famous for its specialty Ben Tre coconut candy, My Long rice paper, and Son Doc puff pastry. Cai Mon craft village annually supplies the market with millions of famous fruit and ornamental tree varieties everywhere.
Giới thiệu về quê hương em Hướng dẫn Giới thiệu về quê hương em Quê hương em – Quảng Ngãi, một vùng đất hẹp miền Trung, mặt hướng ra biển Đông mênh mông, bát ngát; lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ. Thiên nhiên ở đây đã tạo cho vùng đất miền núi Ấn sông Trà này những cảnh đẹp nổi tiếng như: Thiên Ấn niêm hà, Thiên Bút phê vân, Long đầu hí thủy, Thạch Bích tà dương,…đã từng làm say lòng nhà thơ Chu Mạnh Trinh, khiến ông đã viết nên mười hai bài thơ vịnh cảnh đẹp nơi đây. Được sinh ra và lớn lên nơi đây, em như cảm nhận được cái chất ngọt ngào của cây mía đã từ bao đời chọn nơi đây làm quê hương. Khí thiêng sông núi đã tạo cho vùng đất này biết bao nhân vật nổi tiếng trong lịch sử như Lê Văn Duyệt, Trương Định, Trương Đăng Quế, Lê Trung Đình, Phạm Văn Đồng…Đây cũng là quê hương của những thi sĩ đã đi vào thơ ca của dân tộc như Tế Hanh, Bích Khê,… Ai về quê hương em sẽ có dịp đến Thạch Bích để ngắm cảnh chiều về trên sông Trà Khúc thật mơ màng, làm say đắm lòng người. Đến núi Thiên Ấn, một hòn núi vương vức nằm bên sông Trà Khúc trông như một chiếc ấn trời đóng trên sông. Khi đi ta sẽ cảm nhận được cái vẻ đẹp vừa tráng lệ, vừa nên thơ, trữ tình: Càng lên cao mới thấy càng xinh Đứng trên đỉnh núi, trông ra bốn hướng ta sẽ nhìn thấy mênh mông đồng ruộng, cỏ cây, sông nước, làng mạc chập chùng ẩn hiện dưới khói sương huyền ảo, trông như một cảnh tiên. Ở đây còn có một ngôi chùa cổ kính, uy nghiêm, có kiến trúc độc đáo. Đặc biệt là cạnh ngôi chùa này có một cái giếng sâu gần 100m, và ta sẽ nghe các vị sư kể về truyền thuyết cái giếng Phật ấy: Có thầy đào giếng trên non Đến khi có nước không còn tăm hơi Từ núi Thiên Ấn, xuôi về Sơn Mĩ, ta sẽ ghé thăm nhà chứng tích Sơn Mĩ để có dịp nhìn rõ tội ác của đế quốc Mĩ đối với nhân dân ta trong cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của chúng. Nơi đây, chúng ta sẽ tận mắt chứng kiến cái mương nước mà lính Mĩ đã bắn chết 668 người mà hầu hết là người già, đàn bà, trẻ em. Chúng ta sẽ không cầm được nước mắt khi nghe lời thuyết minh đầy xúc cảm của cô hướng dẫn viên khu du tích này trong vụ thảm sát đó. Lắng lại bao nỗi đau, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình về bãi biển Mỹ Khê, một bãi biển sạch và đẹp nhất nước, với nước trong xanh và bờ cát trắng thoai thoải chạy đến hút tầm mắt. Bên bờ biển là cả một rừng dương quanh năm hát lời ru với sóng. Quê em còn có khu di chỉ văn hóa Sa Huỳnh với bãi biển Sa Huỳnh tựa lưng vào vách núi, nước xanh trong, bãi cát vàng óng ả. Sa Huỳnh và Mỹ Khê là hai nơi nghỉ mát lí tưởng của du khách đến quê em. Hình ảnh hai bãi biển này đã ăn sâu vào tâm hồn em ngay những ngày em còn thơ bé. Em không thể quên được những ngày chủ nhật hoặc những ngày hè, em cùng gia đình đi tắm biển. Ngày nay, do công việc làm ăn của bố mẹ, em phải xa quê hương, sống trên đất khách quê người, nhưng lòng em vẫn luôn nhớ về quê hương với những cảnh đẹp nên thơ ấy. Em luôn mong tới ngày tết hoặc nghỉ hè để được cùng gia đình trở về thăm quê, để em được tắm mát trên dòng sông tuổi thơ.
Introducing my hometown Instruct Introducing my hometown My hometown - Quang Ngai, a narrow land in the Central region, facing the vast and vast East Sea; The back leans against the majestic Truong Son range. Nature here has created famous beautiful scenes for this mountainous land of the Indus Tra River such as: Thien An sealing the river, Thien But pen hai van, Dragon head playing water, Thach Bich ta duong,... which once captivated the poet's heart. Chu Manh Trinh, causing him to write twelve poems about the beautiful scenery here. Being born and raised here, I feel like I can feel the sweetness of the sugarcane that has chosen this place as its homeland for many generations. The sacred atmosphere of rivers and mountains has created for this land many famous figures in history such as Le Van Duyet, Truong Dinh, Truong Dang Que, Le Trung Dinh, Pham Van Dong... This is also the homeland of poets who have traveled into the poetry of ethnic groups such as Te Hanh, Bich Khe,... Anyone who returns to my hometown will have the opportunity to go to Thach Bich to see the dreamy, captivating afternoon view of the Tra Khuc River. Arriving at Thien An Mountain, a majestic mountain located on the Tra Khuc River looks like a seal from the sky on the river. When we go, we will feel the beauty that is both magnificent, poetic, and lyrical: The higher you go, the more beautiful you become Standing on the top of the mountain, looking out in all four directions, we will see vast fields, trees, rivers, and villages hidden under the magical mist, looking like a fairy scene. There is also an ancient, majestic temple with unique architecture. Especially next to this temple there is a well nearly 100m deep, and we will hear the monks tell the legend of that Buddha well: There was a teacher who dug a well on the mountain Until there is no more water left From Thien An mountain, down to Son My, we will visit the Son My evidence house to have the opportunity to clearly see the crimes of the American imperialists against our people during their brutal war of invasion. Here, we will see with our own eyes the ditch where American soldiers shot and killed 668 people, most of whom were old people, women, and children. We will not be able to hold back our tears when we listen to the emotional narration of this tourist area's tour guide during that massacre. Putting aside all the pain, we continue our journey to My Khe beach, the cleanest and most beautiful beach in the country, with clear blue water and gentle white sand as far as the eye can see. On the beach is a poplar forest that sings lullabies to the waves all year round. My hometown also has the Sa Huynh cultural relic site with Sa Huynh beach leaning against the cliff, clear blue water, and shiny golden sand. Sa Huynh and My Khe are two ideal vacation places for tourists coming to my hometown. The images of these two beaches were deeply ingrained in my soul even when I was a child. I can't forget Sundays or summer days when I went to the beach with my family. Nowadays, due to my parents' business, I have to leave my homeland and live in a foreign land, but my heart always remembers my homeland with those beautiful poetic scenes. I always look forward to Tet or summer vacation so I can return to visit my hometown with my family, so I can cool off in the river of my childhood.
Giới thiệu về Thiền sư Mãn Giác – Tác giả của bài thơ Cáo tật thị chúng Hướng dẫn Mãn Giác Thiền sư là thiền sư nổi tiếng dưới thời nhà Lí, ông cũng là một trong những đại diện tiêu biểu cho dòng thơ Thiền thời Lí -Trần. Để có thêm những thông tin về tiểu sử cũng như sự nghiệp sáng tác của Mãn Giác thiền sư, các bạn hãy tham khảo bài Giới thiệu về Mãn giác thiền sư dưới đây nhé! 1. Vài nét về tiểu sử Thiền sư Mãn Giác là một thiền sư của Việt Nam vào đời thứ tám của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Thiền sư nối pháp của thiền sư Quảng Trí và đã truyền tâm ấn cho đệ tử Bản Tịnh. Thiền sư nổi tiếng với bài thơ “Cáo tật thị chúng”, được nhiều người coi là một nhà thơ đại biểu cho dòng thơ Lý – Trần. Thiền sư Mãn Giác tên thật là Nguyễn Tường, sinh năm 1052 mất năm 1096, quê ở Lũng Chiều – An Cách. Cha của thiền sư là Hoài Tố, giữ chức quan Trung thơ Viên ngoại lang. Vua Lý Nhân Tông thuở nhỏ thường mời con em của các gia đình danh giá vào hầu hai bên, Nguyễn Tường nhờ được nghe nhiều lại nhớ kĩ, học thông cả Nho và Thích nên được dự tuyển. 2. Mãn Giác Thiền Sư với văn học thiền Sư là một người am hiểu và học rộng, thông nhiều đạo Nho, Lão, Phật, sau những lúc việc quan sư thường chú tâm vào học thiền. Đến khi vua Lý Nhân Tông lên ngôi vì rất mến sư nên đã ban cho sư hiệu Hoài Tín. Sau đó Hoài Tín dâng biểu muốn xin xuất gia, học với thiền sư Quảng Trí và bắt đầu vân du khắp nơi. Thiền sư Mãn Giác là bậc lĩnh tụ pháp môn trong một thời, được vua Lý Nhân Tông cùng Hoàng Thái Hậu Cảm Linh Nhâm (Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan) hết sức kính nể, dựng chùa cạnh cung Cảnh Hưng, lấy hiệu là Giáo Nguyên rồi thỉnh sư về trụ trì để tiện việc tới lui học hỏi. Vua Lý Nhân Tông phong hiệu cho sư là Giáo Nguyên Thiền Viện – Hoài Tín đại sư. Vào cuối tháng 11 năm 1096, đại sư cáo bệnh và để lại một bài kệ dạy chúng gọi là “Cáo tật thị chúng”. Sau khi nói kệ xong thì thiền sư ngồi tư thế kiết già và thị tịch, thọ 45 tuổi, 19 tuổi hạ. Vua ban cho thiền sư thụy hiệu là Mãn Giác. Theo
Introduction to Zen Master Man Giac - Author of the poem "Reporting to the Public". Instruct Zen Master Man Giac was a famous Zen master during the Ly dynasty. He was also one of the typical representatives of Zen poetry during the Ly and Tran dynasties. For more information about Zen Master Man Giac's biography and creative career, please refer to the article Introduction to Zen Master Man Giac below! 1. Some biographical details Zen Master Man Giac is a Vietnamese Zen master of the eighth generation of the Vo Ngon Thong Zen lineage. The Zen master continued the dharma of Zen master Quang Tri and transmitted the initiation to Ban Tinh's disciples. The Zen master is famous for his poem "Reporting to the Public", considered by many to be a poet representing the Ly - Tran poetry line. Zen Master Man Giac's real name is Nguyen Tuong, born in 1052 and died in 1096, from Lung Chieu - An Cach. The Zen master's father, Hoai To, held the position of Lieutenant Governor Vien Ngoai Lang. When King Ly Nhan Tong was young, he often invited children of prestigious families to serve on both sides. Nguyen Tuong, thanks to hearing a lot, remembered well and studied both Confucianism and Thich, so he was recruited. 2. Zen Master Man Giac with Zen literature The monk was a knowledgeable and well-educated person, knowledgeable in many Confucian, Taoist, and Buddhist religions. After his official duties, he often focused on studying meditation. When King Ly Nhan Tong ascended the throne, because he loved him very much, he gave him the title Hoai Tin. After that, Hoai Tin expressed his wish to become a monk, study with Zen master Quang Tri and begin traveling everywhere. Zen Master Man Giac was the leader of the dharma at one time. He was greatly respected by King Ly Nhan Tong and Queen Mother Cam Linh Nham (Queen Mother Y Lan). He built a pagoda next to Canh Hung Palace and took the title Giao Nguyen. Then, he invited the monk to come back to the abbot to facilitate going back and forth to study. King Ly Nhan Tong gave him the title Giao Nguyen Zen Monastery - Grand Master Hoai Tin. At the end of November 1096, the great master declared his illness and left a verse to teach the public called "Reporting to the Disabled People". After finishing speaking the verse, the Zen master sat in the lotus position and passed away, at the age of 45 years old, 19 years old. The king gave the Zen master the title Man Giac. According to
Giới thiệu về thể loại thơ đường Hướng dẫn Giới thiệu một vài nét về thơ Đường. 1.Thành tựu: Thơ Đường là một trong những thành tựu rực rỡ về thơ ca của nền văn học Trung Quốc, là một trong những thành tựu chói lọi của nền văn minh nhân loại. Thơ Đường hiện con khoang 48.000 bài của trên 2.300 thi sĩ trong đó Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư bị và hàng trăm tên tuổi khác đã bất tử với thời gian, được người đời ngưỡng mộ. 2.Nguyên nhân phát triển: – Triều đại nhà Đường kéo dài ngót 300 năm (618 – 907) tuy có lúc thăng trầm, nhưng xã hội Trung Quốc và chế độ phong kiến Trung Hoa thời ấy vẫn phát triển mạnh. Đời sống vật chất và tinh thần thay đổi lớn lao. – Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, hàng hải, thương nghiệp mở mang, phát triển. Nghệ thuật như kiến trúc, hội họa, âm nhạc đạt đến trình độ cao, chói sáng. – Chế độ thi cử chọn người làm quan, kẻ sĩ được đề cao, việc học thịnh đạt. Các tao nhân mặc khách được trọng vọng. – Đó là những nguyên nhân tạo nên bước phát triển kỳ diệu của thơ Đường. I. Một số đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật thơ Đường: 1.Nội dung: – Cảm hứng thiên nhiên trữ tình:Ca ngợi phong cảnh hùng vĩ tráng lệ, miêu tả vẻ đẹp bốn mùa, với hoa lá cây cỏ, trăng, tuyết, gió mây… thể hiện tình yêu thiên nhiên, tạo vật, yêu quê hương đất nước (Lư Sơn bộc bố, Tuyệt cú…). – Cảm hứng nhân đạo: Nói lên nỗi khổ của người dân vì cơ hàn, vì chiến tranh loạn lạc, lòng khao khát hạnh phúc, hòa bình, ca ngợi tình vợ chổng, tình bạn (Thạch Hào lại, Nguyệt dạ, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng…). – Có những vần thơ siêu thoátca ngợi cuộc sống ẩn dật ỏ chốn điền viên, lâm tuyền. Có những vần thơ nói vẽ sinh hoạt thôn dã,đồng nội; thú vui cầm kì, thi, tửu của mặc khách tao nhân. Tài tử giai nhânlà một đề tài có nhiều bài tuyệt bút. Nội dung thơ Đường rất phong phú và đa dạng,là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội Trung Quốc thời Đường trong 300 năm. 2. Nghệ thuật: a. Thể thơ:từ, cổ phong, Đường luật,… b. Luật thơ: – Vần thơ (vần chân và vần cách, vần trắc và vần bằng). – Bằng, trắc. – Niêm (dính). – Đối. – Cấu trúc bài thơ rất chặt chẽ, nhất là Đường luật. + Thơ tứ tuyệt: khai, thừa, chuyển, hợp. + Thơ bát cú: đề, thực, luận, kết. c. Ngôn ngữ thơ:tinh luyện, hàm súc. Thi trung hữu họa. Thi trung hữu cầm. Coi trọng lời thơ: thanh, nhã (trong sáng, trang nhã),… ước lệ tượng trưng… b. Tứ thơ:phong phú, đa dạng, biến hóa, khơi gợi… Tóm lại, làm thơ Đường phải giỏi, phải có tay nghề và tâm hồn thi sĩ. Học và cảm thụ thơ Đường phải hiểu đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ Đường.
Introduction to the genre of street poetry Instruct Introducing some features of Tang poetry. 1.Achievements: Tang poetry is one of the brilliant poetic achievements of Chinese literature, one of the brilliant achievements of human civilization. Tang Poetry currently contains 48,000 poems by over 2,300 poets, including Ly Bach, Do Phu, Bach Cu Be and hundreds of other names who have been immortalized over time and admired by people. 2. Causes of development: – The Tang Dynasty lasted nearly 300 years (618 - 907). Although there were ups and downs, Chinese society and the Chinese feudal system at that time still thrived. Material and spiritual life changed greatly. – Agricultural economy, handicrafts, maritime, and trade expand and develop. Arts such as architecture, painting, and music reached a high, dazzling level. – The examination system selects people to be officials, scholars are promoted, and learning is prosperous. The guests are respected. – Those are the reasons that created the miraculous development of Tang poetry. I. Some characteristics of the content and artistic form of Tang poetry: 1.Content: – Lyrical natural inspiration: Praising the majestic and magnificent landscape, describing the beauty of the four seasons, with flowers and trees, moon, snow, wind and clouds... expressing love for nature, creation, love for the homeland country (Lu Son's declaration, Tuyet Cu...). – Humanitarian inspiration: Expressing the suffering of people due to poverty, war, chaos, desire for happiness and peace, praising love between husband and wife and friendship (Thach Hao La, Nguyet Da, Hoang Hac Manh Hao Nhien's palace in Quang Lang...). – There are escapist poems praising the secluded life in the countryside and forests. There are poems that describe rural and field life; The pleasures of playing chess, competitions, and drinking wine of Tao Nhan guests. Amateurs and Beauties is a topic with many great essays. The content of Tang poetry is very rich and diverse, and is a large realistic picture of Chinese society during the Tang Dynasty for 300 years. 2. Art: a. Poetry form: from, ancient style, Tang luat,... b. Poetry rules: – Poetry rhymes (saccadic rhymes and stanza rhymes, metrical rhymes and flat rhymes). – Equal, equal. – Seal (sticky). - Opposite to. – The structure of the poem is very strict, especially Duong luat. + Four-piece poetry: opening, redundancy, transfer, union. + Eight verse poetry: topic, truth, argument, conclusion. c. Poetic language: refined, concise. Poetry meets disaster. Poetry of the middle and right hand holding. Appreciate poetic words: clean, elegant (pure, elegant),... symbolic conventions... b. Four poems: rich, diverse, transformative, provocative... In short, writing Tang poetry must be good, skilled and have a poet's soul. To study and appreciate Tang poetry, one must understand the content and art characteristics of Tang poetry.
Giới thiệu về thể thơ Hai- cư và những bài thơ Hai-cư nổi tiếng của Ba- sô Hướng dẫn Thơ Hai-cư là thể thơ truyền thống của Nhật Bản, trong chương trình Ngữ văn lớp 10 học sinh sẽ được học về một số bài thơ hai-cư nổi tiếng của nhà thơ Ba-sô. Để có thêm những hiểu biết về thể thơ Hai-cư các bạn hãy cùng tham khảo bàu Giới thiệu về thể thơ Hai-cưdưới đây nhé! 1. Nguồn gốc và quá trình phát triển Thơ Hai-cư là một thể thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu của những bài renga có tính trào phúng, gọi là renga no haikai, về sau gọi là hai kai (bài hài). Thể thơ Hai-cư được ra đời vào thế kỉ thứ 17, đặc biệt được phát triển mạnh vào thời kì Edo (1603 – 1867), khi đó thơ Hai-cư đã dần mất đi sắc thái trào phúng mà mang âm hưởng sâu sắc của Thiền đạo. Vị thiền sư và thi sĩ lỗi lạc của Nhật Bản là Matsuo Ba-so được công nhận là người khai sinh ra thơ Hai-ku, còn Yosa Buson và Masaoka Shiki là những người đã hoàn thiện nó với diện mạo và tên gọi như ngày nay. 2. Đặc điểm của thơ Hai-cư Có thể coi đây là một thể thơ ngắn nhất trên thế giới, bởi mỗi bài thơ Hai-cư mặc dù vẫn có những hình thức khác nhau nhưng thường chỉ có 17 âm tiết trong 3 câu. Nội dung cơ bản của thơ Hai-cư là không mô tả cảm xúc, chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Vì số chữ rất giới hạn nên trong 17 âm thơ, thường chỉ diễn tả một sự việc diễn ra ngay lúc đó, ở hiện tại. Một bài thơ Hai-cư luôn tuân thủ hai nguyên lý cơ bản đó là “mùa” và “tính tương quan hai hình ảnh”. Trong thơ bắt buộc phải có từ miêu tả mùa (không dùng trực tiếp tên gọi của mùa) và từ diễn tả một hình ảnh lớn xứng với một hình ảnh nhỏ. Thơ có xu hướng gợi ý hoặc ám chỉ bóng gió nhẹ nhàng. Người làm thơ phải tự đặt mình như một đứa trẻ lúc nào cũng có cảm giác bỡ ngỡ, lạ lùng khi lần đầu tiên tiếp xúc với sự việc. Một bài thơ Hai-cư hay có thể làm sống lại những kí ức đã chôn sâu và đưa ra những cảm giác sâu sắc, tế nhị, để tự nó khơi gợi lại trí tưởng tượng và mơ ước của người đọc. Theo
Introduction to Hai-cu poetry and Ba-so's famous Hai-cu poems Instruct Hai-ku poetry is a traditional Japanese poetry form. In the 10th grade Literature program, students will learn about some famous hai-ku poems by poet Ba-so. To learn more about Hai-cu poetry, please refer to the article Introduction to Hai-cu poetry below! 1. Origin and development process Hai-ku poetry is a unique form of Japanese poetry, originating from the first three lines of satirical renga songs, called renga no haikai, later called hai kai (comedy songs). Hai-ju poetry was born in the 17th century, especially developed strongly in the Edo period (1603 - 1867), at that time Hai-ju poetry gradually lost its satirical nuance and took on a profound sound. of Zen Buddhism. The eminent Japanese Zen master and poet Matsuo Ba-so is recognized as the originator of Hai-ku poetry, while Yosa Buson and Masaoka Shiki are the ones who perfected it with its present appearance and name. now. 2. Characteristics of Hai-cu poetry This can be considered the shortest form of poetry in the world, because each Hai-cu poem, although still having different forms, usually only has 17 syllables in 3 sentences. The basic content of Hai-cu poetry is not to describe emotions, but mainly to record events happening before the eyes. Because the number of words is very limited, in 17 poems, they usually only describe an event happening at that moment, in the present. A Hai-ku poem always adheres to two basic principles: "season" and "correlation of two images". In poetry, there must be words that describe the season (not using the name of the season directly) and words that describe a large image that is worthy of a small image. Poetry tends to suggest or hint lightly. The poet must position himself as a child who always feels confused and strange when first exposed to things. A good Hai-ku poem can revive deeply buried memories and bring out profound, delicate feelings, to itself rekindle the reader's imagination and dreams. According to
Đề bài: Em hãy viết bài văn giới thiệu về thủ đô Hà Nội yêu dấu. Bài làm Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây… Đây lắng hồn núi sông ngàn năm… Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu… Đó là những lời hát thiết tha ca ngợi Thủ đô của đất nước Việt Nam yêu dấu. Thành phố Hà Nội diện tích tự nhiên là 921 km2, dân số khoảng 3 triệu người. Sau khi mở rộng có diện tích là 3.324,92 km2, dân số 6.448.837 người, gồm 10 quận: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai, Hà Đông; 18 huyện: Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm (Hà Nội cũ), Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa (Hà Tây cũ), Mê Linh (từ Vĩnh Phúc) và 1 thị xã: Sơn Tây. Phía Bắc giáp Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Tây giáp Hòa Bình, Phú Thọ; phía Nam giáp Hà Nam, Hòa Bình; phía Đông giáp Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên. Cái tên Hà Nội có nghĩa là vùng đất bên trong sông. Hà Nội là vùng đất có được sông Hồng và các phụ lưu bồi đắp qua mấy ngàn năm tạo nên. Đặc điểm địa lí nổi bật của Hà Nội là có rất nhiều hồ (30 hồ lớn nhỏ). Một số hồ nổi tiếng đã đi vào thơ ca, nhạc họa như hồ Gươm, hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Thiền Quang, hồ Bảy Mẫu… Một đặc điểm nữa là Hà Nội – thành phố của cây xanh. Hầu hết các con đường của trung tâm Hà Nội đều được bao phủ bởi những hàng cây, cho nên không khí rất trong lành. Kể từ khi dựng nước đến nay, Hà Nội vẫn là đất thiêng, hội tụ tinh hoa truyền thống của dân tộc Việt. Một cột mốc lịch sử đáng ghi nhớ là năm 1010, Lí Công Uẩn tức vua Lí Thái Tổ, người sáng lập ra triều đình nhà Lí đã có một quyết định vô cùng sáng suốt là dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình ra thành Đại La. Trong một chuyến du hành ra Bắc, lúc thuyền đi đến khúc sông ở sát chân thành, bỗng nhà vua thấy có con rồng bay vụt lên trời, cho là điềm lành nên mới đổi tên là thành Thăng Long. Thăng Long là tên Thủ đô nước ta từ 1010 đến 1804. Đến đời nhà Nguyễn, vua Gia Long đổi tên là Hà Nội. Như vậy là Thăng Long Ị Hà Nội đã có 1000 năm tuổi. Thủ đô Hà Nội có rất nhiều danh lam thắng cảnh. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là khu di tích quý giá thể hiện trình độ văn hóa cao của dân tộc ta và sự quan tâm đào tạo hiền tài cho đất nước của các triều đại phong kiến thời xưa. Văn Miếu có nhà bia, trong đó đặt 82 tấm bia lưu danh các vị đỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm 1442 đến năm 1779. Quốc Tử Giám nằm trong khu Văn Miếu được xây dựng từ năm 1076, lúc đầu là nơi dạy dỗ các hoàng tử, sau mở rộng đối tượng, thu nhận cả những học trò giỏi trong thiên hạ. Có thể coi Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của nước ta. Khu Hoàng Thành Thăng Long được xây dựng và tồn tại suốt 8 thế kỉ trên vị trí của thành Đại La cũ. Kết cấu thành cổ Thăng Long gồm 3 vòng. Vòng ngoài cùng đắp bằng đất, nơi dân cư ở, gọi là Kinh Thành. Vòng giữa là khu triều chính, nơi ở và làm việc của quan lại, gọi là Hoàng Thành. Vòng trong cùng là nơi dành riêng cho vua chúa, hoàng hậu và cung tần mĩ nữ, gọi là Tử cấm Thành. Thời Lê, Kinh Thành Thăng Long có 16 cửa ộ, thời Nguyễn còn 12 cửa và đến đầu thế kỉ XX chỉ còn 5 cửa là: ô Chợ Dừa, ô Đống Mác, ô cầu Dền, ô Cầu Giấy và ô Quan Chưởng. Trong mấy năm trở lại đây, khu Hoàng Thành Thăng Long đã được khai quật và bảo vệ, chuẩn bị đón khách tham quan nhân dịp kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Đến Thủ đô, du khách sẽ thích thú, say mê trước cảnh đẹp hồ Gươm được mệnh danh là chiếc lẵng hoa giữa lòng thành phố. Hồ Gươm với quần thể kiến trúc hài hòa: đài Nghiên, tháp Bút, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, Tháp Rùa, tạo thành một thắng cảnh nổi tiếng. Hồ Gươm (hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm) gắn liền với truyền thuyết Lê Lợi trả lại gươm báu cho Long Quân. Vào thế kỉ XV, quân xâm lược nhà Minh từ phương Bắc tràn sang cướp nước ta. Lê Lợi đã dấy binh khởi nghĩa ở đất Lam Sơn. Buổi đầu, lực lượng còn yếu, không thể địch nổi thế mạnh của kẻ thù. Long Quân đã ngầm cho Lê Lợi mượn thanh gươm thần để đánh giặc. Nhờ vậy mà sau 10 năm kháng chiến, nghĩa quân Lam Sơn đã quét sạch quân cướp nước ra khỏi bờ cõi, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt. Lê Lợi lên ngôi vua. Nhân một buổi đẹp trời, nhà vua dạo chơi bằng thuyền trên hồ Tả Vọng, Long Quân đã sai thần Kim Quy (Rùa Vàng) nổi lên đòi lại thanh gươm báu. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên là hồ Hoàn Kiếm, thường gọi là hồ Gươm. Hồ Gươm với Tháp Rùa là biểu tượng của Thủ đô Hà Nội. Hà Nội có hồ Tây, tên chữ là Dâm Đàm (đầm sương mù) vì lúc sáng sớm và chiều tối, mặt hồ sương giăng mù mịt, khung cảnh huyền ảo như chốn thần tiên. Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, chùa Quán Sứ, chùa Trấn Vũ, đường Thanh Niên, làng hoa Nhật Tân, Hữu Tiệp, Ngọc Hà, Nghi Tàm… là những điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách. Chiều thu, heo may se lạnh, ta ngồi trong nhà hàng Thủy Tạ, nhấm nháp món bánh tôm nóng giòn, nhìn ra mặt hồ mênh mông sóng gợn, quả là thú vị vô cùng! Giữa quảng trường Ba Đình lộng gió, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đá hoa cương xám, mang hình dáng một bông sen cách điệu, in bóng sừng sững lên nền trời mùa thu xanh biếc. Nơi đây, Bác Hồ – vị lãnh tụ cách mạng kiệt xuất, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, anh hùng cứu nước vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới… đời đời yên nghỉ. Hằng ngày, lăng mở cửa đón các đoàn đại biểu và du khách muôn phương về đây viếng Bác – CON NGƯỜI tiêu biểu nhất cho vẻ đẹp truyền thống và sức mạnh bốn ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam. Sau lăng Bác là khu bảo tàng với nhiều kỉ vật, tư liệu quý giá, ghi dấu từng quãng đời hoạt động cách mạng sôi nổi và đầy bão táp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thủ đô Hà Nội còn rất nhiều danh lam thắng cảnh khác như đền thờ Hai Bà Trưng, đền Chèm, cụm di tích đền thờ Phù.Đổng Thiên vương, đền thờ Đức Thánh Trần, đền thờ vua Lê, vườn bách thú Thủ Lệ, công viên Lê-nin, công viên nước Hồ Tây, các phố cổ, phố nghề (36 phố phường), chợ Đồng Xuân, cầu Long Biên, cầu Thăng Long, làng gốm Bát Tràng… tất cả đều nổi tiếng. Đất nước bước vào thời kì mở cửa, nền kinh tế tăng trưởng rất nhanh, dẫn đến sự đổi thay rõ rệt trong đời sống nhân dân và quy mô phát triển của các thành phố, đô thị. Sau khi Quốc hội thông qua quyết định mở rộng Thủ đô (tháng 7 năm 2008), thì Hà Nội bao gồm toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của tỉnh Hòa Bình. Diện tích tự nhiên là 3.324,92 krrì2. Dân số là 6.448.837 người. Thủ đô Hà Nội giống như cậu bé làng Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ kiêu hùng, xứng đáng là trung tâm kinh tế, chính trị của Việt Nam, một quốc gia đã và đang từng bước khẳng định tên tuổi của mình trước toàn thế giới.
Topic: Write an introductory essay about your beloved capital, Hanoi. Assignment This is Hoan Kiem Lake, Hong Ha, West Lake... This is the quiet soul of thousands of years of mountains and rivers... This is Thang Long, this is Dong Do, this is Hanoi, my beloved Hanoi... These are passionate songs praising the capital of Vietnam. Dear Nam. Hanoi city's natural area is 921 km2, population is about 3 million people. After expansion, the area is 3,324.92 km2, population 6,448,837 people, including 10 districts: Hoan Kiem, Ba Dinh, Dong Da, Hai Ba Trung, Tay Ho, Thanh Xuan, Cau Giay, Long Bien, Hoang Mai, Ha Dong; 18 districts: Dong Anh, Soc Son, Thanh Tri, Tu Liem, Gia Lam (old Hanoi), Ba Vi, Chuong My, Dan Phuong, Hoai Duc, My Duc, Phu Xuyen, Phuc Tho, Quoc Oai, Thach That, Thanh Oai, Thuong Tin, Ung Hoa (formerly Ha Tay), Me Linh (from Vinh Phuc) and 1 town: Son Tay. The North borders Thai Nguyen and Vinh Phuc; The West borders Hoa Binh and Phu Tho; The south borders Ha Nam and Hoa Binh; The East borders Bac Giang, Bac Ninh and Hung Yen. The name Hanoi means the land inside the river. Hanoi is a land created by the Red River and its tributaries over thousands of years. Hanoi's outstanding geographical feature is its many lakes (30 large and small lakes). Some famous lakes have entered poetry and music such as Sword Lake, West Lake, Truc Bach Lake, Thien Quang Lake, Bay Mau Lake... Another characteristic is Hanoi - the city of green trees. Most of the streets of central Hanoi are covered with rows of trees, so the air is very fresh. Since the founding of the country, Hanoi has remained a sacred land, converging the traditional quintessence of the Vietnamese people. A memorable historical milestone is that in 1010, Ly Cong Uan, aka King Ly Thai To, the founder of the Ly dynasty, made an extremely wise decision to move the capital from Hoa Lu, Ninh Binh to Dai Thanh. La. During a trip to the North, when the boat reached the river near the citadel, the king suddenly saw a dragon flying into the sky. He thought it was a good omen, so he changed the name to Thang Long. Thang Long was the name of our country's capital from 1010 to 1804. During the Nguyen Dynasty, King Gia Long changed the name to Hanoi. So Thang Long and Hanoi are 1000 years old. The capital Hanoi has many scenic spots. Temple of Literature - Quoc Tu Giam is a precious relic that demonstrates the high cultural level of our nation and the interest in training talented people for the country of ancient feudal dynasties. The Temple of Literature has a stele house, in which 82 steles are placed in honor of those who passed the doctorate from the exam in 1442 to 1779. Quoc Tu Giam is located in the Temple of Literature area built in 1076, initially as a place to teach scholars. The prince later expanded his subjects and accepted good students from all over the world. Quoc Tu Giam can be considered the first university in our country. Thang Long Imperial Citadel was built and existed for 8 centuries on the location of the old Dai La citadel. The structure of Thang Long ancient citadel consists of 3 rings. The outermost circle is made of earth, where the population lives, called the Imperial City. The middle circle is the main court area, where mandarins live and work, called the Imperial Citadel. The innermost circle is the place reserved for kings, queens and concubines, called the Forbidden City. During the Le Dynasty, Thang Long Citadel had 16 gates, during the Nguyen Dynasty there were 12 gates and by the early 20th century there were only 5 gates left: O Cho Dua, O Dong Mac, O Cau Den, O Cau Giay and O Quan Chuong. In recent years, the Imperial Citadel of Thang Long has been excavated and protected, preparing to welcome visitors on the occasion of the 1000th anniversary of Thang Long - Hanoi. Coming to the capital, visitors will be delighted and fascinated by the beautiful scenery of Sword Lake, known as the flower basket in the heart of the city. Sword Lake with its harmonious architectural complex: Nghien Dai, But Tower, The Huc Bridge, Ngoc Son Temple, Turtle Tower, creates a famous landscape. Sword Lake (also known as Hoan Kiem Lake) is associated with the legend of Le Loi returning the precious sword to Long Quan. In the 15th century, Ming Dynasty invaders from the North invaded our country. Le Loi raised an uprising in Lam Son land. At first, the force was still weak and could not match the enemy's strength. Long Quan secretly lent Le Loi his magic sword to fight the enemy. Thanks to that, after 10 years of resistance, the Lam Son insurgent army wiped out the country's bandits, opening a new page of history for the Vietnamese people. Le Loi ascended the throne. On a beautiful day, the king went for a boat trip on Ta Vong Lake, Long Quan sent the god Kim Quy (Golden Turtle) to rise up to reclaim the precious sword. Since then, Ta Vong Lake was renamed Hoan Kiem Lake, often called Sword Lake. Sword Lake with Turtle Tower is the symbol of Hanoi Capital. Hanoi has West Lake, whose name is Dam Dam (foggy lagoon) because in the early morning and evening, the lake's surface is covered with mist, creating a magical scene like a fairyland. West Lake, Truc Bach Lake, Quan Su Pagoda, Tran Vu Pagoda, Thanh Nien Street, Nhat Tan flower village, Huu Tiep, Ngoc Ha, Nghi Tam... are attractive tourist destinations for tourists. On a chilly autumn afternoon, I sat in Thuy Ta restaurant, sipping hot and crispy shrimp cakes, looking out at the vast, rippling lake surface, it was extremely enjoyable! In the middle of windy Ba Dinh Square, President Ho Chi Minh's mausoleum is made of gray marble, shaped like a stylized lotus, silhouetted against the blue autumn sky. Here, Uncle Ho - an outstanding revolutionary leader, a resilient communist soldier, a great hero who saved the country, a world cultural celebrity... rests forever. Every day, the mausoleum is open to welcome delegations and tourists from all over to visit Uncle Ho - the MAN who best represents the traditional beauty and strength of the four thousand years of history of the Vietnamese people. Behind Uncle Ho's mausoleum is a museum with many valuable memorabilia and documents, marking each period of President Ho Chi Minh's exciting and stormy revolutionary life. Hanoi capital has many other scenic spots such as Hai Ba Trung temple, Chem temple, Phu Dong Thien Vuong temple relic complex, Duc Thanh Tran temple, King Le temple, Thu Le zoo, Lenin park, West Lake water park, old streets, craft streets (36 streets), Dong Xuan market, Long Bien bridge, Thang Long bridge, Bat Trang pottery village... all are famous. The country entered the opening period, the economy grew very rapidly, leading to obvious changes in people's lives and the development scale of cities and urban areas. After the National Assembly passed the decision to expand the Capital (July 2008), Hanoi included the entire Ha Tay province, Me Linh district, Vinh Phuc province and 4 communes of Hoa Binh province. The natural area is 3,324.92 krrì2. The population is 6,448,837 people. Hanoi, the capital, is like a boy from Giong village who strives to become a heroic soldier, worthy of being the economic and political center of Vietnam, a country that has gradually asserted its name before the whole world. gender.
Giới thiệu về truyện cổ tích Tấm Cám bài viết của cô Ngọc Hoa chuyên văn Hướng dẫn Giới thiệu về truyện cổ tích Tấm Cámsẽ cung cấp những thông tin khái quát về nội dung cũng như những đặc sắc nổi bật nhất của câu chuyện dân gian Tấm Cám, các bạn hãy cùng tham khảo để có thêm thông tin bài học hữu ích nhé! 1. Đặc trưng của truyện cổ tích “Tấm Cám” là một câu chuyện cổ tích quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Muốn hiểu hết giá trị đặc sắc cảu câu chuyện này, chúng ta cần hiểu rõ những đặc trưng của truyện cổ tích. Truyện cổ tích là “những tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thê hiện tinh thần nhân đạo, lạc quan của nhân dân lao động”. Truyện cổ tích được chia làm ba loại: truyện cổ tích sinh hoạt, truyện cổ tích loài vật và truyện cổ tích thần kì. 2. Giới thiệu về truyện cổ tích Tấm Cám – Tấm Cám thuộc thể loại cổ tích thần kì Tác phẩm “Tấm Cám” thuộc thể loại truyện cổ tích thần kì. Trong kho tàng truyện cổ tích, truyện cổ tích chiếm số lượng lớn nhất. Đó là loại truyện có sự tham gia của nhiều yếu tố thần kì vào diễn biến cốt truyện, ví dụ như sự xuất hiện của tiên, bụt hay sự biến hóa thần kì, vật báu trả ơn…). Hầu hết các yếu tố thần kì này đều là những tình tiết có vai trò quan trọng đối với sự phát triền của câu chuyện, không chỉ có giá trị về nghệ thuật mà còn có tính nội dung. Truyện cổ tích thần kì có nội dung chính là đề cập tới số phận bất hạnh của người lao động, thể hiện ước mơ về hạnh phúc gia đình, về công bằng xã hội, về phẩm chất và năng lực của con người của nhân dân lao động. – Truyện “Tấm Cám” đã thể hiện những mâu thuẫn cơ bản trong gia đình cũng như mâu thuẫn xã hội Truyện “Tấm Cám” đã thể hiện những mâu thuẫn cơ bản trong gia đình cũng như mâu thuẫn xã hội. Đó là mâu thuẫn “mẹ ghẻ- con chồng” xuất phát từ những giá trị vật chất và quyền thừa kế tài sản. Đó còn là mâu thuẫn giữa người bị áp bức bóc lột và kẻ bị áp bức bóc lột, đồng thời cũng là mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác. Từ những mâu thuân đó, “Tấm Cám” đã phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, nói lên số phận của những con người mồ côi, bất hạnh và thể hiện ước mơ, khát vọng của nhân dân vào công lí, vào sự chiến thắng của cái thiện trước cái xấu, cái ác. Theo
Introduction to the fairy tale Tam Cam in an article written by Ms. Ngoc Hoa Instruct Introduction to the Tam Cam fairy tale will provide general information about the content as well as the most outstanding features of the Tam Cam folk tale. Please refer to it for more useful lesson information. ! 1. Characteristics of fairy tales “Tam Cam” is a familiar fairy tale in the treasury of Vietnamese folk literature. To fully understand the unique value of this story, we need to clearly understand the characteristics of fairy tales. Fairy tales are "folk narrative works whose plots and images are intentionally fictionalized, telling about the fate of ordinary people in society, expressing the humanitarian and optimistic spirit of the working people." move". Fairy tales are divided into three types: living fairy tales, animal fairy tales and magical fairy tales. 2. Introduction to the fairy tale Tam Cam – Tam Cam belongs to the magical fairy tale genre The work "Tam Cam" belongs to the magical fairy tale genre. In the treasury of fairy tales, fairy tales account for the largest number. It is a type of story that involves many magical elements in the plot's development, such as the appearance of fairies, Buddhas, miraculous transformations, treasures to repay...). Most of these magical elements are details that play an important role in the development of the story, not only having artistic value but also content. The magical fairy tale's main content is to mention the unfortunate fate of workers, expressing the people's dreams of family happiness, social justice, and human qualities and abilities. labor. – The story "Tam Cam" shows basic conflicts in the family as well as social conflicts The story "Tam Cam" shows basic family conflicts as well as social conflicts. That is the "stepmother-son-in-law" conflict stemming from material values ​​and property inheritance rights. It is also the contradiction between the oppressed and the exploited, and also the contradiction between good and evil. From those contradictions, "Tam Cam" reflects the class struggle in society, speaks to the fate of orphans and unfortunate people and expresses the people's dreams and aspirations for justice. on the victory of good over evil and evil. According to
Giới thiệu về truyện cổ tích Việt Nam Hướng dẫn Giới thiệu về truyện cổ tích Việt Nam Trong những thể loại văn học dân gian quan trọng và được phổ biến rộng rãi. Khái niệm “truyện cổ tích” có một nội dung khá rộng, thường dùng để chỉ nhiều loại truyện khác nhau về đề tài và cả về phương pháp sáng tác. Khác nhau về đề tài như các truyện về loài vật, truyện về các nhân vật dũng sĩ hoặc các nhân vật có những khả năng phi thường về trí tuệ, về sức khỏe, truyện về số phận các nhân vật có địa vị thấp kém trong gia đình và xã hội… Khác nhau về phương pháp sáng tác nhự các loại truyện thần kì, truyện hiện thực. Vì vậy đã có khó khăn trong việc xác định cho khái niệm “truyện cổ tích” một nội dung thật chặt chẽ. Trong hàng loạt định nghĩa đã có về truyện cổ tích, có thể nêu lên mấy nội dung nói chung ít nhiều đã có sự thống nhất như sau: 1. Truyện cổ tích đã nảy sinh từ trong xã hội nguyên thủy, do đó có những yếu tế phản ánh quan niệm thần thoại cua nhân dân về các hiện tượng tự nhiên và xã hội và có ý nghĩa ma thuật. Song truyện cổ tích phát triển chủ yếu trong xã hội có giai cấp, nên chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội, phản ánh nhận thức của nhân dân về cuộc sống xã hội muôn màu muôn vẻ với những xung đột đặc trưng cho các thời kì lịch sử khi đã cố chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng, cố mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. 2. Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với thực tại, đồng thời nối lên những quan điểm đạo đức, những quan điểm về công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại. 3. Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân, và ở một bộ phận chủ yếu, yếu tố tưởng tượng thần kì tạo nên một đặc trưng nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực và ước mơ. Ở loại truyện cổ tích về loài vật, có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng tượng nhân cách hóa giới tự nhiên. Loại truyện này thời cổ xưa ở dân tộc nào cũng có. Ở Việt Nam, tính chất cổ xưa của loại truyện về loài vật đã bị pha trộn với khuynh hướng của người đời sau mượn truyện loài vật để nói về xã hội loài người, do đó giữa loại truyện này với truyện ngụ ngôn có những trường hợp không có sự phân biệt thật rạch ròi. Loại truyện cổ tích thần kì cũng có nhiều yếu tố cổ xưa có liên quan đến những quan niệm thần thoại và tín ngưỡng của con người thời thị tộc, bộ lạc. Ví dụ những mẫu đề “người bỏ lốt vật” (như trong các truyện Sọ Dừa, Lấy chồng Dê, Lấy vợ Cóc…) và “người chết đi sống lại trong kiếp loài vật hoặc cây cỏ” (nhự trong truyện Tấm Cám) có liên quan với quan niệm vạn vật hữu linh và tín ngưỡng vật tổ. Hay như mẫu đề “nộp mạng người định kì cho một con vật đã thành linh” (như trong truyện Thạch Sanh) có liên quan với tín ngưỡng và nghi lễ hiến tế v.v… Những yếu tố của quan niệm thần thoại và tín ngưỡng cọ ấy một mặt đã có sự pha trộn với các quan niệm tôn giáo của xã hội có giai cấp (như Phật giáo, Đạo giáo…), mặt khác lại có ý nghĩa xã hội và thẩm mĩ, phản ánh những nét tiêu biểu trong quan hệ với thực tại của con người thời kì xã hội có giai cấp. Cho nên tuy truyện cổ tích thần kì có những yếu tố liên quan với thần thoại hoặc kế thừa thần thoại, song nội dung chính của truyện cổ tích thần kì là đời sống xã hội của con người và số phận của con người trong xã hội có giai cấp. Nhân vật trung tâm của truyện Cổ tích thần kì là những người mồ côi, người con riêng, người em út, người đi ở, người làm thuê và người lao động nghèo khổ nói chung… Những nhân vật ấy là nạn nhân của chế độ tư hữu tài sản, của chế độ gia đình phụ quyền và của chế độ xã hội có giai cấp. Trong truyện cổ tích thần kì, loại nhân vật phản diện tiêu biểu cho cái xấu và cái ác trong xã hội. Loại nhân vật này được miêu tả theo cách hoàn toàn tương phản với loại nhân vật chính diện. Nhân vật phản diện cũng thường mang tính cách xã hội – cụ thể như nhân vật chính diện. Đó là nhân vật người dì ghẻ, người anh cả, tên lái buôn, ông chủ, viên quan…, tức những nhân vật giàu có và có quyền thế trong gia đình và xã hội. Đôi khi nhân vật phản diện mang tính cách siêu nhiên như đại bàng, mãng xà, yêu quái…, tượng trứng cho những lực lượng tự nhiên hoặc xã hội thù địch với con người. Nếu như việc miêu tả lí tưởng hóa về nhân vật thiện – nhân vật chính diện – và về số phận của nhân vật thiện là biểu hiện của khuynh hướng dân chủ, thì việc miêu tả nhân vật ác – nhân vật phản diện – và sự trừng phạt đối với nhân vật ác là biểu biện của khuynh hướng phê phán xã hội; hai khuynh hướng ấy đã tạo nên giá trị chủ yếu về nội dung tư tưởng của loại truyện cổ tích thần kì. Ở Việt Nam, truyện cổ tích đã được ghi chép khá sớm. Từ thế kỉ XV, một số truyện đã được biên soạn và giới thiệu trong quyển Lĩnh nam chích quái. Trước Cách mạng tháng Tám, tập truyện cổ tích có dung lượng phóng phú hơn cả là tập Truyện cổ nước Nam gồm hai tập (xuất bản lần đầu năm 1928) của Nguyễn Văn Ngọc. Sau Cách mạng, việc sưu tầm, giới thiệu và nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam rất được chú ý. Hàng loạt công tình biên soạn, nghiên cứu truyện cổ tích các dân tộc đã được xuất bản, như Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập), Truyện cổ dân tộc Mèo, Truyện cố Vân-Kiều, Truyện cổ Ba-na, Truyện cổ các dân tộc thiểu số miền Nam, Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cố tích Việt Nam qua truyện Tấm Cám…
Introduction to Vietnamese fairy tales Instruct Introduction to Vietnamese fairy tales Among the important and widely popular genres of folk literature. The concept of "fairy tale" has a fairly broad content, often used to refer to many types of stories with different themes and methods of composition. Different topics such as stories about animals, stories about brave characters or characters with extraordinary intellectual and health abilities, stories about the fate of characters with low status in society. family and society... Different in composition methods such as magical stories and realistic stories. Therefore, there have been difficulties in defining a strict content for the concept of "fairy tale". Among the many existing definitions of fairy tales, we can highlight a few general contents that have more or less consensus as follows: 1. Fairy tales arose in primitive society, so they have elements that reflect people's mythological concepts about natural and social phenomena and have magical meanings. But fairy tales develop mainly in class society, so their main theme is social, reflecting people's awareness of colorful social life with its characteristic conflicts. for historical periods when there was a regime of private property ownership, private families, class conflicts and class struggles. 2. Fairy tales express people's realistic view of reality, while also connecting moral views, views on social justice and dreams of a better life than present life. in. 3. Fairy tales are products of people's rich imagination, and in a major part, the magical fantasy element creates a prominent feature in the way of reflecting reality and dreams. In animal fairy tales, there is a combination of realistic observations about animals with imaginative personification of the natural world. This type of story existed in ancient times in every nation. In Vietnam, the ancient nature of stories about animals has been mixed with the tendency of later generations to borrow animal stories to talk about human society, so there are cases between this type of story and fables. There is no real clear distinction. Magical fairy tales also have many ancient elements related to mythological concepts and beliefs of people in clan and tribal times. For example, the themes "a person who takes on animal form" (as in the stories So Dua, Marrying a Goat, Marrying a Toad...) and "a person who dies and comes back to life as an animal or a plant" (as in the story Tam Cam) related to the concept of animism and totem beliefs. Or like the theme "regularly surrendering one's life to an animal that has become a spirit" (as in the story Thach Sanh) is related to beliefs and sacrificial rituals, etc. Elements of mythological concepts and palmist beliefs On the one hand, it is mixed with religious concepts of class society (such as Buddhism, Taoism...), on the other hand, it has social and aesthetic meaning, reflecting typical features of the world's views. related to the reality of people in the period of class society. Therefore, although magical fairy tales have elements related to myths or mythological inheritance, the main content of magical fairy tales is the social life of people and the fate of people in society. have class. The central characters of the magical fairy tale are the orphans, the stepson, the youngest brother, the tenant, the hired worker and poor workers in general... Those characters are victims of the regime. private property ownership, of the patriarchal family system and of the class social system. In magical fairy tales, the villain represents evil and evil in society. This type of character is portrayed in a way that completely contrasts with the protagonist type. Antagonists also often have social personalities - specifically like protagonists. These are the characters of the stepmother, the eldest brother, the merchant, the boss, the official..., that is, the rich and powerful figures in the family and society. Sometimes the villains have supernatural personalities such as eagles, pythons, monsters..., egg statues of natural or social forces hostile to humans. If the idealized depiction of the good character - the protagonist - and the fate of the good character is a manifestation of democratic tendencies, then the depiction of the evil character - the antagonist - and the Punishment of evil characters is an expression of social criticism; Those two trends have created the main value of the ideological content of magical fairy tales. In Vietnam, fairy tales were recorded quite early. Since the 15th century, a number of stories have been compiled and introduced in the book Linh Nam Chich Quai. Before the August Revolution, the collection of fairy tales with the most extensive content was the two-volume collection of Southern Fairy Tales (first published in 1928) by Nguyen Van Ngoc. After the Revolution, collecting, introducing and researching Vietnamese fairy tales received great attention. A series of compilations and studies of ethnic fairy tales have been published, such as Treasury of Vietnamese Fairy Tales (5 volumes), Meo Ethnic Fairy Tales, Van-Kieu Tales, Ba-na Fairy Tales , Fairy tales of southern ethnic minorities, Preliminary study of the issues of Vietnamese fairy tales through the story of Tam Cam...
Đề bài: Giới thiệu về trò chơi dân gian Chi chi chành chành Bài làm Mặt trời đã lặn sau dãy núi Ba Vì phía Tây. Bóng chiều đang sẫm lại quanh những rặng tre ven làng. Gió nam hây hẩy dần dần xua đi không khí nóng bức của một ngày hè. Từ trong các ngõ xóm, trẻ con chạy túa ra sân đình để chơi những trò chơi quen thuộc. Ba cô bé bắt đầu chơi trò chi chi chành chành. Một bé xòe bàn tay trái ra, hai bé kia cùng nhịp nhịp ngón trỏ vào lòng bàn tay bạn. Cô bé xoè tay cất tiếng đọc bài đồng dao quen thuộc: Chi chi chành chành Cái đanh thổi lửa Con ngựa chết trương Ba vương ngũ đế Lá bông lá cà Ù à ù ập. Chi chi chành chành là trò chơi đơn giản, không cần đến đồ chơi và chỗ chơi cố định. Chỉ dăm ba đứa trẻ là có thể bắt đầu chơi ở bất cứ chỗ nào: trong nhà, ngoài ngõ, dưới gốc cau hoặc cây rơm ngày hè, bên bếp lửa hồng trong ngày đông lạnh giá. Trò chơi này luyện cho trẻ phản xạ nhanh, tạo tình cảm yêu mến, gắn bó với bạn bè cùng trang lứa. Cùng với những trò chơi hấp dẫn khác như ú tim, rồng rắn lên mây, chồng nụ chồng hoa… mà đứa trẻ nào cũng biết, chi chi chành chành và bài đồng dao vui tươi, nhí nhảnh đã trở thành kỉ niệm đẹp đẽ, in sâu vào kí ức tuổi thơ của mỗi chúng ta.
Topic: Introduction to the folk game Chi chi chang chang Assignment The sun has set behind the Ba Vi mountain range in the west. The afternoon shadows are darkening around the bamboo groves on the edge of the village. The brisk south wind gradually dispels the hot air of a summer day. From the alleys, children ran to the communal yard to play familiar games. The three little girls began to play a game of chi chi. One baby opens his left hand, the other two tap their index fingers on your palm. The little girl spread her hands and read the familiar nursery rhyme: What's the matter? The fire blower The horse died Three kings and five emperors Solanum leaves Buzzing buzzing. Chi Chi Chanh Chanh is a simple game that does not require toys or a fixed place to play. Just a few children can start playing anywhere: inside the house, in the alley, under an areca tree or straw tree in the summer, next to the fire on a cold winter day. This game trains children to react quickly, creating love and attachment with friends of the same age. Along with other attractive games such as peek-a-boo, dragon and snake on the cloud, stacking buds and flowers... that every child knows, chi chi chi and cheerful rhymes have become beautiful memories. imprinted deeply into each of our childhood memories.
Đề bài: Giới thiệu về tác giả Ai-ma-tốp và văn bản Hai cây phong Bài làm Ai-ma-tốp là nhà văn nước Cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan, một nước cộng hoà ờ vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây. Hoạt động văn học của Ai-ma-tốp bắt đầu từ năm 1952, khi ông là sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp Cư-rơ-gư- xtan. Từ năm 1956 đến năm 1958 ông học Trường viết văn M. Goóc-ki ở Mát- xcơ-va. Sau khi tốt nghiệp (1959), Ai-ma-tốp làm phóng viên báo Sự thật thường trú tại Cư-rơ-gư-xtan. Tác phẩm đầu tiên khiến Ai-ma-tốp nổi tiếng là tập truyện Núi đồi và thảo nguyên (được tặng giải thưởng Lê-nin về văn học năm 1963). Các tác phẩm chủ yếu tiếp theo là: Cánh đồng mẹ (1963), Vĩnh biệt Gun-xa-rư (1967), Con tàu trắng (1970),… Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Ai-ma-tốp là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến tranh, thái độ tích cực đấu tranh của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên để thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục lạc hậu. Nhiều tác phẩm của ông từ lâu đã rất quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Cây phong non trùm khăn đỏ, Người thầy đầu tiên, Con tàu trắng,… Phần trích Hai cây phong trong sách giáo khoa do người biên soạn đặt. Bối cảnh của truyện là một vùng quê hẻo lánh thuộc Cư-rơ-gư-xtan giữa những năm 20 của thế kỉ XX khi nơi đây tư tưởng phong kiến và gia trưởng, còn nặng nề, do đó phụ nữ và trẻ mồ côi bị coi thường và rẻ rúng. Hình ảnh hai cây phong được miêu tả với một tâm trạng đầy xúc động của người kể chuyện. Nó dẫn dắt người đọc trở lại với 40 năm trước để chứng kiến những tình cảm sâu nặng giữa thầy Đuy-sen và cô trò nhỏ An-tư-nai. Người kể chuyện xưng "tôi" (có lúc là "chúng tôi") củng là người gắn bó với làng quê Ku-ku-rêu, nơi có hai cây phong thân thuộc, gắn với bao kỉ niệm tuổi thơ của mình.
Topic: Introduction to the author Ai-ma-top and the text Two Maple Trees Assignment Aimatov is a writer from the Kyrgyz Republic, a republic in Central Asia, formerly part of the Soviet Union. Aimatov's literary activities began in 1952, when he was a student at Kyrgyzstan Agricultural University. From 1956 to 1958 he studied at the M. Gorki Writing School in Moscow. After graduating (1959), Aimatop worked as a reporter for the Truth newspaper residing in Kyrgyzstan. The first work that made Aimatov famous was the collection of stories Mountains, Hills and Steppes (received the Lenin Prize for Literature in 1963). The next major works are: Mother's Field (1963), Farewell Gun-sar-ru (1967), White Ship (1970),... The main themes in Ai-ma-top's short stories are the harsh yet romantic life of the people of Kyrgyzstan's mountainous areas, love, friendship, courageous spirit to overcome the challenges of sacrifice during war, positive attitude to fight struggle of young people, first of all young women, to escape the constraints of outdated customs. Many of his works have long been familiar to Vietnamese readers such as The Young Maple Covered with a Red Turban, The First Teacher, The White Ship,... The excerpt of Two Maple Trees in the textbook was placed by the editor. The setting of the story is a remote countryside in Kyrgyzstan in the mid-20s of the 20th century when feudal and patriarchal ideology was still heavy, so women and orphans were contemptuous and cheap. The image of two maple trees is described with an emotional mood by the narrator. It takes readers back 40 years ago to witness the deep feelings between teacher Duy-sen and his young student An-tu-nai. The narrator says "I" (sometimes "we") is also someone who is attached to the village of Ku-ku-reu, where there are two familiar maple trees, associated with many memories of his childhood.
Giới thiệu về tác giả Ba- sô và một số bài thơ Hai-cư đặc sắc nhất của ông Hướng dẫn Ba – sô là nhà thơ lớn của Nhật Bản, tên tuổi của ông gắn liền với thể thơ Hai-cư – thể thơ truyền thống của văn học Nhật Bản. Để có thêm thông tin về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Ba-sô, các bạn hãy tham khảo bài Giới thiệu về tác giả Ba-sôdưới đây nhé. 1. Tiểu sử của Ba-sô Matsuo Ba-sô (1644 – 1694) là một thiền giả, thi sĩ lỗi lạc danh tiếng nhất của thời Edo, Nhật Bản. Ông được công nhận là người phát triển những câu đầu tiên của thể thơ Hai-cư – một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu sắc của Thiền đạo. Các tác phẩm của ông không chỉ nổi tiếng trong phạm vi đất nước Nhật Bản mà còn ảnh hưởng trên khắp thế giới. Ba-sô sinh ra trong một gia đình Samurai cấp thấp trong thời Tokugawa. Năm ông 9 tuổi đã vào làm tùy tùng cho một lãnh chúa và trở thành người bạn thân của con trai lãnh chúa, hai người đã cùng nhau học tập và làm thơ. Trong khoảng thời gian ấy, năng khiếu thơ của ông đã được nhà thơ – nhà phê bình văn xuất sắc đương thời Kitamura Kigin phát hiện ra. Từ đó ông bắt đầu được Kitamura Kigin cho rèn luyện và học tập. 2. Sự nghiệp sáng tác Ông đã có bài thơ đầu tay năm ông mới 18 tuổi được nhiều người biết đến. Năm 1666, ông tới Tokyo và sống ở đó 5 năm, tiếp tục đọc về văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu cả văn học Trung Quốc và thư pháp. Ông bắt đầu mở lớp dạy thơ Hai-ku, là những bài thơ dài thiên về trào lộng, nhẹ nhàng và phóng túng, vốn đang rất thịnh hành trong thời Tokugawa. Vào năm 1679 Ba-so đã được phong tước hiệu Sosho – Bậc thầy dạy thơ Hai-ku, sau khi mất ông được đem chôn cất trong một ngôi chùa song vẫn được phong thần trong nhiều ngôi đền thờ Thần đạo, thậm chí người ta còn lấy tên theo một câu thơ của ông. Thiên tài Ba-sô đã ôm trọn những hiện tượng khác nhau của đời sống, gây nên những ảnh hưởng sâu rộng về sau, tương truyền ông có đến 2000 đệ tử, có 10 người nổi danh nhất được gọi là Ba-sô Jitetsu. Sang thế kỉ XX, Ba-so càng trở thành một hình ảnh vĩ đại được tôn vinh của nền văn hóa Nhật Bản. Theo
Introduction to author Ba-so and some of his most unique Hai-cu poems Instruct Ba-so is a great Japanese poet, his name is closely associated with Hai-ku poetry - the traditional poetry form of Japanese literature. For more information about Ba-so's life and creative career, please refer to the article Introduction to author Ba-so below. 1. Biography of Baso Matsuo Ba-so (1644 - 1694) was the most famous meditator and poet of the Edo period, Japan. He is recognized as the person who developed the first verses of Hai-ju poetry - an independent poetic form with profound Zen influences. His works are not only famous within Japan but also influential around the world. Ba-so was born into a low-ranking Samurai family during the Tokugawa period. When he was 9 years old, he became a retainer for a lord and became a close friend of the lord's son. The two studied and wrote poetry together. During that time, his poetic talent was discovered by the outstanding contemporary poet and literary critic Kitamura Kigin. From then on, he began to be trained and studied by Kitamura Kigin. 2. Creative career He had his first poem when he was 18 years old and was widely known. In 1666, he went to Tokyo and lived there for five years, continuing to read about ancient Japanese literature, studying both Chinese literature and calligraphy. He started a class teaching Hai-ku poetry, which are long poems that tend to be satirical, light and bohemian, which were very popular during the Tokugawa period. In 1679, Ba-so was awarded the title Sosho - Master of Hai-ku poetry. After his death, he was buried in a temple but was still deified in many Shinto temples, even by people. also named after one of his poems. The genius Ba-so embraced various phenomena of life, causing far-reaching influences later on. Legend has it that he had up to 2,000 disciples, the 10 most famous of whom were called Ba-so Jitetsu. In the 20th century, Ba-so became an even more honored and great image of Japanese culture. According to
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trung Ngạn – Tác giả bài thơ Hứng trở về Hướng dẫn Để có thêm thông tin và cơ sở cho việc phân tích bài thơ Hứng trở về, các bạn hãy cùng tham khảo bài Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trung Ngạn mà chúng tôi giới thiệu dưới đây nhé! 1. Tiểu sử tác giả Nguyễn Trung Ngạn Tác giả Nguyễn Trung Ngạn, tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên sinh năm 1289 mất năm 1370, tại làng Thổ Hoàng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông là một nhà chính trị, một vị đại thần có tài và được xếp vào hàng “Người phò tá có công lao tài đức đời Trần”. Ông xuất thân trong một gia đình bình dân nhưng từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng, năm 16 tuổi đã đỗ Hoàng Giáp – khoa Giáp Thìn – niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1307) dưới triều vua Trần Anh Tông. Năm ông 24 tuổi làm Giám quan, khi vua Trần Minh Tông lên ngôi năm 1314, ông được cử đi sứ nhà Nguyên, sau đó năm 1321 ông làm Thị ngự sử ở đài Ngự sử, sau đó ra làm Thông phán ở châu Anh Lãng. Trong cuộc đời của Nguyễn Trung Ngạn, ông đã trải qua nhiều chức vụ, từ chức Thông giám đến Tể tướng, dù ở cương vị nào ông cũng là một người thanh liêm, hết lòng tận tụy vì công việc, vì dân vì nước. Nguyễn Trung Ngạn là một nhà chính trị gia và nhà ngoại giao có tài, trong hai lần đi sứ nhà Nguyên ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, chuyến đi của ông đã có ảnh hưởng lớn đến việc bảo đảm chủ quyền và độc lập dân tộc của nước nhà trong cuộc bang giao Nam – Bắc. 2. Sự nghiệp sáng tác Ngoài là một nhà chính trị, nhà ngoại giao, thì Nguyễn Trung Ngạn còn là một nhà văn, nhà thơ có tài. Thơ văn của ông là sự kết hợp giữa yêu nước, thương dân và trung quân hiếu quốc, nghệ thuật thơ giàu âm thanh và nhạc điệu, lời lẽ thanh tao điêu luyện. Với những đóng góp lớn lao cho quê hương đất nước, danh tiếng của ông vẫn còn lưu mãi đến ngày nay, và để tưởng nhớ đến công ơn của ông, không chỉ ở quê hương Hưng Yên của ông mà ở nhiều tỉnh thành của cả nước, tên ông đã được đặt cho tên trường học, đường phố và công trình văn hóa. Theo
Introducing the author Nguyen Trung Ngan - Author of the poem Returning Instruct For more information and basis for analyzing the poem Return, please refer to the article Introduction to author Nguyen Trung Ngan that we introduce below! 1. Biography of author Nguyen Trung Ngan Author Nguyen Trung Ngan, nickname Bang Truc, nickname Gioi Hien, was born in 1289 and died in 1370, in Tho Hoang village, An Thi district, Hung Yen province. He was a politician, a talented mandarin and was classified as "a talented and meritorious assistant of the Tran Dynasty". He came from a common family but from a young age was famous as a prodigy. At the age of 16, he passed the Hoang Giap - Giap Thin department - the 12th Hung Long year (1307) under the reign of King Tran Anh Tong. When he was 24 years old, he became a mandarin. When King Tran Minh Tong ascended the throne in 1314, he was sent to envoy to the Yuan dynasty. Then in 1321, he became a royal historian at the Royal Palace, then became a judge in Anh Lang province. . In Nguyen Trung Ngan's life, he went through many positions, from the position of General Director to Prime Minister. No matter which position he held, he was an honest person, wholeheartedly devoted to his work, to the people and to the country. Nguyen Trung Ngan was a talented politician and diplomat. During his two diplomatic missions to the Nguyen Dynasty, he successfully completed his duties. His trip had a great influence on ensuring sovereignty and security. national independence of the country in the relationship between South and North. 2. Creative career In addition to being a politician and diplomat, Nguyen Trung Ngan is also a talented writer and poet. His poetry is a combination of patriotism, love for the people and patriotism, poetic art rich in sound and music, and elegant and skillful words. With his great contributions to his homeland, his reputation still remains to this day, and to commemorate his merits, not only in his hometown of Hung Yen but in many provinces and cities throughout the country. In the country, schools, streets and cultural buildings were named after him. According to
Giới thiệu về tác giả Pushkin – Tác giả của Ông lão đánh cá và con cá vàng Hướng dẫn Giới thiệu về tác giả Pushkin sẽ cung cấp thêm những đơn vị kiến thức về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Puskin, từ đó hỗ trợ tích cực cho người học trong quá trình tìm hiểu và phân tích tác phẩm Ông lão đánh cá và con cá vàng. Các bạn hãy cùng tham khảo nhé. 1. Tiểu sử Pushkin Pushkin tên đầy đủ là Aleksandr Sergeyevich Pushkin, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Ông được tôn vinh là đại thi hào, mặt trời thi ca Nga với những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại. Ông còn là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ XIX bởi nhiều đóng góp trong sự đa dạng hóa ngôn ngữ văn chương. Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 tại thành phố Moskva trong một gia đình quý tộc Nga. Sáu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum hoàng gia, tại Tsarskoe Selo gần kinh đô Sankt-Peterburg. Năm 16 tuổi ông nổi lên như là nhà thơ lớn của nước Nga với bài thơ “Hồi ức ở Hoàng Thôn”, được coi là một tác phẩm kiệt xuất. Sau khi tốt nghiệp, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg. Mùa xuân năm 1820, Pushkin bị đày tới Sibir nhờ có sự giúp đỡ của người bạn ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn là trục xuất khỏi thành phố Sankt-Peterburg. Cuối năm 1831, ông kết hôn với người đẹp Natalia Goncharova, người đã đem lại cho ông cảm hứng sáng tác lớn lao. Tuy nhiên, năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ với Georges d’Anthers, một sĩ quan kỵ binh trong quân đội Sa hoàng, Pushkin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Sau cuộc đọ súng, Pushkin đã bị trọng thương và qua đời vào ngày 10 tháng 02 năm 1837, chỉ 2 ngày sau đó. Pushkin yêu thích văn thơ một phần là do thiên tính, một phần là do thừa hưởng từ một số người trong gia đình, đặc biệt là ông chú – nhà thơ Vaxili Liôvits. Hồn thơ Pushkin được nuôi dưỡng từ những buổi bình thơ đọc văn diễn kịch tại nhà cho chú tổ chức. Ngoài ra, Pushkin còn được tiếp xúc, cảm nhận vốn thơ ca dân gian từ bà ngoại, lão bộc Nikita Côdơlôp và nhũ mẫu Rôđiônnôpna. Họ đã gieo vào tâm hồn của Pushkin những giá trị tinh thần quý báu cả con người Nga, đất nước Nga. Vì Pushkin rất thông minh, nói tiếng Pháp như người Pháp cho nên bà ngoại ông đã dạy ông tiếng Nga vì không muốn cháu mình là người Nga mà nói tiếng Nga như người nước ngoài. Pushkin thích nhất là được nghe nhũ mẫu hát những ca khúc dân gian Nga và nghe bà kể chuyện cổ tích. Những bài hát, những câu chuyện có một sức hút kỳ diệu trong tâm hồn ông và trở nên thật gần gũi, tất cả đã in vào trong tâm trí ông suốt cuộc đời. 2. Sự nghiệp sáng tác Nhà thơ Pushkin viết rất nhiều thể loại từ thơ, truyện, kịch đến trường ca. Ông đã thành công với bản trường ca “Rutxlan và Lutmila”, tác phẩm đã đưa ông lên ngang hàng với nhiều nhà thơ Nga nổi tiếng đương thời. Bản trường ca không hề bắt chước mô phỏng những tác phẩm văn học dân gian mà nó được hoàn thiện như một tác phẩm độc lập, in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo, tự do nồng nhiệt của tác giả. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, ông đã cho ra đời rất nhiều những tác phẩm như kịch, sử thi, văn xuôi. Mỗi một thể loại ông đều để lại những dấu ấn riêng và nhiều những tác phẩm nổi tiếng. Chính ông đã tiếp thu những tinh hoa của văn học truyền thống, phát triển và hoàn thiện nó lên một trình độ cao hơn, mở đầu cho một nền văn học tiến triển và hoàn mĩ. Có thể nói Pushkin là nhà thơ vĩ đại Nga, là niềm tự hào của dân tộc Nga và của cả chung nhân loại. Ông xứng đáng là một đại thi hào, là bầu trời thi ca của nước Nga đến tận bây giờ.
Introducing the author Pushkin - Author of The Old Fisherman and the Goldfish Instruct Introduction to the author Pushkin will provide additional units of knowledge about Pushkin's life and creative career, thereby actively supporting learners in the process of learning and analyzing the work The Old Fisherman. and goldfish. Please refer to it together. 1. Pushkin's biography Pushkin's full name is Aleksandr Sergeyevich Pushkin, is a famous Russian poet, writer and playwright. He is honored as a great poet, the sun of Russian poetry with great contributions to the development of modern Russian literary language. He is also a symbol of Russian romantic literature of the 19th century because of his many contributions to diversifying literary language. Pushkin was born on June 6, 1799 in the city of Moscow into a Russian noble family. At the age of six, Pushkin was recruited to enter the royal Lyceum, at Tsarskoe Selo near the capital Saint Petersburg. At the age of 16, he emerged as a great Russian poet with the poem "Memoirs in the Yellow Village", considered an outstanding work. After graduating, Pushkin actively participated in the literary and artistic activities of the young intellectual nobility in Saint Petersburg. In the spring of 1820, Pushkin was exiled to Siberia. Thanks to the help of his friend, he was only given a lighter sentence than expulsion from the city of Saint Petersburg. At the end of 1831, he married the beautiful Natalia Goncharova, who gave him great creative inspiration. However, in 1837, due to false rumors about his wife's affair with Georges d'Anthers, a cavalry officer in the Tsar's army, Pushkin challenged this young officer to a duel. After the firefight, Pushkin was seriously injured and died on February 10, 1837, just 2 days later. Pushkin's love for poetry was partly due to his natural nature and partly due to inheritance from some family members, especially his uncle - poet Vasili Liovits. Pushkin's poetic soul was nurtured from the poetry reading and theater performance sessions organized by his uncle at home. In addition, Pushkin was also exposed to and experienced folk poetry from his grandmother, old servant Nikita Kodolop and nurse Rodionnovna. They sowed precious spiritual values ​​into Pushkin's soul, both for the Russian people and the Russian country. Because Pushkin was very smart and spoke French like a French person, his grandmother taught him Russian because she did not want her grandchild to be Russian and speak Russian like a foreigner. Pushkin's favorite thing was to listen to his nanny sing Russian folk songs and listen to her tell fairy tales. The songs and stories had a magical attraction in his soul and became very close, all of which were imprinted in his mind throughout his life. 2. Creative career Poet Pushkin wrote many genres from poetry, stories, plays to epic poems. He was successful with the epic poem "Rutxlan and Lutmila", a work that put him on par with many famous Russian poets of his time. The epic poem does not imitate folk literary works, but is completed as an independent work, imprinted with the author's passionate creative and free personality. During his creative career, he produced many works such as plays, epics, and prose. In each genre, he left its own mark and many famous works. It was he who absorbed the quintessence of traditional literature, developed and perfected it to a higher level, opening the door to a progressive and perfect literature. It can be said that Pushkin is a great Russian poet, the pride of the Russian nation and of all humanity. He deserves to be a great poet, the poetic sky of Russia until now.
Giới thiệu về tác phẩm An Dương Vương – Mị Châu, Trọng Thủy Hướng dẫn Bài giới thiệu về truyền thuyết An Dương Vương- Mị Châu, Trọng Thủymà giới thiệu dưới đây sẽ cung cấp cho người học những thông tin thú vị về nguồn gốc cũng như nội dung chủ đạo của truyện. Các bạn hãy cùng tham khảo để có thêm những thông tin bài học hữu ích nhất nhé! 1. Nguồn gốc ra đời của truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy Tác phẩm An Dương Vương – Mị Châu, Trọng Thủy là tác phẩm mang nội dung sâu sắc, chứa đựng bài học về sự cảnh giác với kẻ thù xâm lược đồng thời cũng là câu chuyện tình đầy bi thương của Mị Châu và Trọng Thủy. Tác phẩm được xây dựng dựa trên sự kiện lịch sử có thật về vị vua An Dương Vương và quá trình xây dựng phát triển của nước Âu Lạc, việc vua để đất nước rơi vào tay Triệu Đà được nhân gian đưa vào các yếu tố các yếu tố kì ảo, siêu nhiên như rùa thần,…. 2. Kết cấu của truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy Nhằm tăng sự li kì và khắc họa sâu sắc hơn tính bi kịch của câu chuyện. Tác phẩm có thể chia làm hai phần: Vua An Dương Vương xây thành, chế nỏ đánh đuổi giặc ngoại xâm và việc cha con An Dương Vương để đất nước rơi vào tay giặc gắn liền với câu chuyện tình yêu đầy bi kịch của Mị Châu – Trọng Thủy. Cả hai phần có logic chặt chẽ với nhau,khắc họa rõ sự thật lịch sử, thể hiện rõ thái độ, nhân thức của nhân dân ta về vai trò và trách nhiệm của cha con vua An Dương Vương trong việc xây dựng và phát triển đất nước cũng như việc để đất nước rơi vào tay Triệu Đà. 3. Nội dung chủ yếu của truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy Truyền thuyết cũng đã lí giải sự thất bại của cha con Thục Phán do sự chủ quan, khinh địch, ỷ vào có nỏ thần, không phân biệt rõ bạn – thù mà để ‘nuôi ong tay áo’ dẫn đến bi kịch mất nước. Tác phẩm cũng đã thể hiện được tình cảm, sự mến mộ của nhân dân trước tài năng của vua An Dương Vương thông qua chi tiết cuối bài biển mở lòng đón người anh hùng bất tử trong nhân dân tuy rằng ông đã phạm sai lầm to lớn, tuy nhiên tài năng và ý chí của ông vẫn luôn được nhân dân mến mộ. Còn nàng công chúa Mị Châu vì cả tin, mù quáng nghe lời chồng, chủ quan không nhận ra đó là một âm mưu thâm độc nên nàng bị thần Kim Quy gọi là giặc quả không oan. Mối tình Mị Châu Trọng Thủy vốn rất đẹp nhưng lại trở thành bi kịch do âm mưu thâm độc của Triệu Đà gây ra,sự bi kịch đó cũng là một phần nhân dân ta muốn tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa. Nhân dân không ngợi ca câu chuyện tình đẹp mà buồn đó mà chỉ dành cho họ sự xót thương với hình ảnh ngọc trai – giếng nước, một hình ảnh mang ý nghĩa nhân đạo nhằm giảm nhẹ tính bi thương của câu chuyện. Tác phẩm An Dương Vương – Mị Châu, Trọng Thủy được lưu truyền rộng rãi bởi nội dung sâu sắc và nghệ thuật độc đáo với việc sử dụng nhiều yếu tố sáng tạo, câu chuyện không chỉ cung cấp cho người đọc hiểu biết về lịch sử mà còn cho người đọc thấy được tình cảm cha con sâu sắc, tình nghĩa vợ chồng son sắt mà trở thành bi kịch vì cuộc chiến tranh phi nghĩa. Theo
Introduction to the works An Duong Vuong – Mi Chau, Trong Thuy Instruct The introduction to the legend of An Duong Vuong - My Chau, Trong Thuy introduced below will provide learners with interesting information about the origin as well as the main content of the story. Please refer to it for more useful lesson information! 1. Origin of the legend of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy The work An Duong Vuong - Mi Chau, Trong Thuy is a work with profound content, containing a lesson about being wary of invading enemies and is also a tragic love story of Mi Chau and Trong Thuy. The work is based on real historical events about King An Duong Vuong and the process of building and developing the country of Au Lac. The fact that the king let the country fall into the hands of Trieu Da was incorporated into the human world with elements of magical and supernatural elements such as magical turtles, etc. 2. Structure of the legend of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy To increase the thrill and more deeply portray the tragedy of the story. The work can be divided into two parts: King An Duong Vuong building a citadel and making crossbows to expel foreign invaders and An Duong Vuong's father and son letting the country fall into the hands of the enemy, which is closely linked to the tragic love story of Mi Chau. – Trong Thuy. Both parts have a close logic to each other, clearly depicting historical truth, clearly demonstrating the attitude and awareness of our people about the roles and responsibilities of King An Duong Vuong's father and son in building and developing. the country as well as letting the country fall into Trieu Da's hands. 3. Main content of the legend of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy The legend also explains the failure of Thuc Phan and his son due to their subjectivity, contempt for their enemies, reliance on magic crossbows, and not clearly distinguishing between friends and enemies, instead of 'keeping bees in their sleeves', leading to the tragedy of dehydration. The work also expressed the people's affection and admiration for the talent of King An Duong Vuong through the last detail of the sign opening their hearts to welcome the immortal hero among the people even though he made a big mistake. Despite his great age, his talent and will are always admired by the people. As for Princess My Chau, because she was gullible, blindly listened to her husband, and subjectively did not realize that it was a sinister plot, she was unfairly called an enemy by the god Kim Quy. Mi Chau Trong Thuy's love affair was originally very beautiful but became a tragedy due to Trieu Da's sinister plot. That tragedy is also a part of our people wanting to denounce the unjust war. People did not praise that beautiful but sad love story but only gave them pity with the image of a pearl - a well, an image with humanitarian meaning to alleviate the tragic nature of the story. The work An Duong Vuong - My Chau, Trong Thuy is widely circulated because of its profound content and unique art with the use of many creative elements, the story not only provides readers with historical understanding. but also shows readers the deep love between father and son, the eternal love between husband and wife that turned into tragedy because of an unjust war. According to
Giới thiệu về tác phẩm Bình ngô đại cáo của tác giả Nguyễn Trãi Hướng dẫn Bài giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáosẽ cung cấp thêm những thông tin thú vị về hoàn cảnh sáng tác cũng như những đặc sắc và nội dung của tác phẩm. Các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Bình ngô đại cáo là áng “thiên cổ hùng văn” của nền văn học Việt Nam Trong văn học ca ngợi truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc tới tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của tác giả Nguyễn Trãi. Bài cáp này xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn” và là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta. – Hoàn cảnh sáng tác “Bình ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết thừa lệnh của Lê Lợi vào năm 1428 nhằm tổng kết cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược và báo cho toàn dân được biết về quá trình chiến đấu gian khổ, những khó khăn và hi sinh của nghĩa quân. Bài cáo đồng thời cũng thể hiện tinh thần nhân nghĩa, tài trí thao lược của quân ta, và ca ngợi lòng yêu nước của dân tộc. – Tác phẩm được viết dưới thể cáo Đây là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại cáo – một thể văn học chính luận chủ yếu của văn học Trung đạ Việt Nam. 2. Những đặc sắc về nội dung Bài cáo gồm có bốn phần, phần một tác giả nêu lên luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, bằng những lí lẽ chặt chẽ đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chống lại giặc minh là việc làm nhân nghĩa. Phần thứ hai của bài cáo, tác giả đã bằng những chính cứ lịch sử cụ thể mà vạch trần âm mưu, tội các của bọn “cuồng Minh”. Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê, chỉ ra một loạt những tội ác man rợ của chúng đối với nhân dân ta. Bằng những lời văn đanh thép và hình ảnh khái quát cao, giọng văn linh hoạt, hai phần này như là một bảng cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh. Phần thứ ba là lòng tự hào trước quá trình chiến đấu gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa. Qua đoạn này người đọc còn cảm nhận được hình tượng Lê Lợi là một vị chủ tướng hết lòng vì dân vì nước, hơn thế còn thấy được tinh thần nhân đạo của ta đối với kẻ thù. Phần cuối cùng chính là lời tuyên bố và khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của quân dân ta đã toàn thắng, tác giả đã tuyên bố nền hòa bình của dân tộc ta được lập lại, niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. “Bình ngô đại cáo” là bản anh hùng ca, ca ngợi sức mạnh truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập, tự tôn và nhân nghĩa tự cường, nêu bật sức mạnh của dân ta trong cuộc khởi nghĩa. Theo
Introduction to the work Binh Ngo Dai Cao by author Nguyen Trai Instruct The introduction to the work Binh Ngo Dai Cao will provide more interesting information about the circumstances of its composition as well as the characteristics and content of the work. Please refer to it! 1. Ngo Dai Cao's vase is a "heavenly heroic poem" of Vietnamese literature In literature praising the patriotic tradition of the Vietnamese people, we cannot help but mention the work "Binh Ngo Dai Cao" by author Nguyen Trai. This poem is worthy of being an "ancient epic" and a declaration of independence for our nation. - Circumstances composing "Great Declaration" was written by Nguyen Trai under Le Loi's order in 1428 to summarize the resistance war against the Ming invaders and inform the entire people about the arduous fighting process, difficulties and sacrifices. of the insurgents. The proclamation also demonstrates the spirit of humanity, strategic intelligence of our troops, and praises the patriotism of the nation. – The work is written in report form This is a typical work of the fox genre - a major political literary genre of Vietnamese Middle Ages literature. 2. Content features The report consists of four parts, in part one the author raises the thesis of the righteousness of the resistance war, with strict arguments affirming that the Lam Son insurgent army's fight against the enemy was a benevolent act. In the second part of the report, the author used specific historical grounds to expose the plots and crimes of the "Ming fanatics". The author uses the method of listing and pointing out a series of their barbaric crimes against our people. With strong words, highly generalized images, and a flexible tone, these two parts are like a sharp indictment denouncing the crimes of the Ming enemy. The third part is pride in the arduous fighting and inevitable victory of the uprising. Through this passage, readers can also feel the image of Le Loi as a general wholeheartedly serving the people and the country, and moreover, they can also see our humane spirit towards the enemy. The final part is the declaration and affirmation that the just cause of our people and soldiers has completely won, the author has declared that the peace of our nation has been restored, and faith in the bright future of the country. "Binh Ngo Dai Cao" is an epic poem, praising the strength of patriotic traditions, the spirit of independence, self-respect and self-reliance, highlighting the strength of our people in the uprising. According to
Giới thiệu về tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc đầy đủ chi tiết nhất Hướng dẫn Giới thiệu về tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm dưới đây sẽ cung cấp những thông tin chi tiết về tác giả, đặc sắc nội dung của tác phẩm. Để có thêm những đơn vị kiến thức hữu ích nhất, các bạn hãy cùng tham khảo nhé. 1. Tác giả của Chinh phụ ngâm – Chinh phụ ngâm là tác phẩm chữ Hán của tác giả Đặng Trần Côn Chinh phụ ngâm là tác phẩm chữ Hán của tác giả Đặng Trần Côn được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Ngay khi vừa ra đời tác phẩm đã gây được tiếng vang lớ và nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Bởi lẽ đó, nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, thể hiện thành công lẫn trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác. – Bản dịch của chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm Được biết, trong khoảng thời gian xa chồng đằng đẵng, nhận được bản Chinh phụ ngâm khúc viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ đó, bà đã viết nên bản dịch này. Đây chính là một trong những điểm mới, điểm thu hút của tác phẩm. 2. Đặc sắc về nội dung Chinh phụ ngâm là câu chuyện về người phụ nữ tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng rồi ngay sau buổi tiễn đưa, người phụ nữ phải sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Sống trong cảnh cô đơn, tuổi xuân cũng ngày một qua đi nàng nhận ra cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng xa vời đã khiến người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Có thể thấy qua những tâm tư tình cảm này, tác phẩm đã thể hiện thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Hạnh phúc mà tác giả đề cập ở đây không chỉ trên phương diện tinh thần mà ít nhiều mang màu sắc một sự khát khao mãnh liệt được gần gũi, được ân ái trong sự đối lập với lý tưởng công danh của chế độ phong kiếm thậm chí đối lập với cả những quan niệm thông thường về “quả phúc” của nhà, thể hiện một giá trị nhân đạo sâu sắc. Ở nguyên tác, bút pháp được nâng tầm khi Đặng Trần Côn biết chắt lọc từ kho tàng thơ văn cổ những câu phù hợp nhất với ý tứ của mình và dụng công sắp xếp thành một kết cấu hoàn chỉnh. Ở bản dịch, Đoàn Thị Điểm đã cho thấy khả năng của mình qua việc phát huy những ưu điểm vốn có của nguyên tác và gạn lọc cả những thành tựu của các bản dịch trước đó. Tác phẩm còn hay ở cách sử dụng ưu thế của thể thơ song thất lục bát, ngôn ngữ trong sáng, hiện đại, kết cấu thanh vận khéo léo, sử dụng từ láy, gieo vần tinh tế. Như vậy, bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, bằng những xúc cảm và trải nghiệm của bản thân tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ Theo
Introducing the work Chinh Phu Ngam Khuc in full detail Instruct Introduction to Doan Thi Diem's ​​work Chinh Phu Ngam Khuc by Doan Thi Diem below will provide detailed information about the author and the unique content of the work. To get more useful knowledge units, please refer to them. 1. Author of Chinh Phu Ngam – Chinh Phu Ngam is a Chinese work by author Dang Tran Con Chinh Phu Ngam is a Chinese work by author Dang Tran Con, composed around the first half of the 18th century. As soon as it was published, the work made a big splash and received widespread sympathy from the Confucian class. For that reason, many translations have appeared, of which the translation into Nom by Ms. Doan Thi Diem is considered the most perfect, successfully demonstrating the content and art of the original work. – Translation of Nom script by Doan Thi Diem It is known that during the long period of separation from her husband, she received a copy of Chinh phu's recitation written in Chinese by Dang Tran Con. Sympathizing with the feelings of that conqueror's wife, she wrote this translation. This is one of the new and attractive points of the work. 2. Unique content Chinh Phu Ngu is a story about a woman sending her husband off to war with the hope that he will make a name for himself and return with glory and wealth. But right after the farewell, the woman had to live alone, day and night worrying about her husband. Living in loneliness, her youth is passing by day by day, she realizes that the happy reunion of the couple is becoming more and more distant, causing the conqueror to fall into extreme loneliness. It can be seen through these emotional thoughts that the work expressed the hatred of unjust feudal war, especially promoting the right to life and the desire for love and marital happiness of people. The happiness that the author mentions here is not only spiritual but is more or less colored by a strong desire to be close and have sex in opposition to the ideals of fame and fortune of the feudal regime. The spirit is contrary to common notions about the "blessed fruit" of the home, demonstrating a profound humanitarian value. In the original work, the writing style was enhanced when Dang Tran Con knew how to filter from the treasure trove of ancient poetry the sentences that best suited his ideas and painstakingly arranged them into a complete structure. In the translation, Doan Thi Diem has shown her ability by promoting the inherent advantages of the original work and refining the achievements of previous translations. The work is also good in its advantageous use of the song seven-six-eight poetic form, clear and modern language, skillful vocal structure, use of repeated words, and delicate rhyming. Thus, with skillful artistic writing, the author's own emotions and experiences, he has been able to describe the rich and sophisticated developments in the emotional levels of the conqueror. According to
Giới thiệu về tác phẩm Chiến thắng Mtao- Mxây đầy đủ chi tiết nhất Hướng dẫn Đăm Săn là tác phẩm sử thi nổi tiếng của nền văn học dân gian Việt Nam. Để có cái nhìn chi tiết và cụ thể nhất về áng sử thi hào hùng này, hôm nay sẽ giới thiệu tác phẩm Đăm Săn cũng như đoạn trích Chiến thắng Mtao- M xây. Các bạn hãy cùng tham khảo để có thêm những thông tin thú vị nhất cho mình nhé! 1. Sử thi Đăm Săn là sử thi anh hùng của dân tộc Ê – Đê Sử thi Đăm săn là một loại thuộc sử thi anh hùng, tác phẩm tuy kể về cuộc sống của người tù trưởng Đăm săn nhưng qua đó lại thấy hiện lên hình ảnh của cả một cộng đồng dân tộc Ê Đê. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao – Mxay” thuộc phần giữa của tác phẩm. 2. Giới thiệu về đoạn trích Chiến thắng Mtao- M xây Đoạn trích là bài miêu tả cuộc đọ sức giữa Đăm sănvà Mtao – Mxay để giành lại vợ, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào của dân làng về người anh hùng Đăm săn. Nội dung chính của đoạn trích gồm hai phần, phần một là cuộc đọ sức với Mtao – Mxay và giành chiến thắng của Đăm săn, phần hai miêu tả khung cảnh lễ ăn mừng chiến thắng. Với nghệ thuật miêu tả bằng cách miêu tả chân thực của người dân Tây Nguyên về người anh hùng Đăm săn, các hành động trong cuộc chiến của Đăm săn được so sánh và phóng đại đầy đặc sắc. Đây cũng là một trong những nét nghệ thuật tiêu biểu, đặc trưng của các tác phẩm sử thi. Cuộc chiến thắng của Đăm săn không chỉ đơn thuần là giành lại được vợ mà còn có ý nghĩa đối với cộng đồng, bởi chính vì cớ ấy mới nảy sinh mâu thuẫn giữa các cộng đồng, sự thắng bại của người tù trưởng sẽ quyết định đến sự mở rộng bờ cõi của ngôi làng. Chính vì vậy trong các tác phẩm sử thi, cụ thể là trong tác phẩm này không đề cập nhiều đến quá trình đấu tranh, cái chết hay thành bại mà lựa chọn trình bày cụ thể những chi tiết ăn mừng của cộng đồng. Có thể thấy, đoạn trích “Chiến thắng Mtao – Mxay” đã làm sống lại quá khứ hào hùng của cộng đồng người dân Ê Đê Tây Nguyên thời cổ đại. Cổ vũ thêm tinh thần hào hùng, niềm tự hào về tổ tiên của người dân Tây Nguyên ngày nay. Bên cạnh đó đoạn trích cũng đã làm nổi bật lên vai trò quan trọng của những người anh hùng đối với cộng đồng, lịch sử dân tộc. Theo
Introducing the work Mtao-Mxay Victory in full detail Instruct Dam San is a famous epic work of Vietnamese folk literature. To have the most detailed and specific view of this heroic epic, today we will introduce the work Dam San as well as an excerpt from the Victory of Mtao-M. Please refer to it to get more interesting information for yourself! 1. Dam San epic is a heroic epic of the E-de people The Dam Hunt epic is a type of heroic epic. Although the work tells about the life of the Dam Hunt chief, through it the image of the entire Ede ethnic community appears. The excerpt "Victory of Mtao - Mxay" belongs to the middle part of the work. 2. Introduction to the excerpt Mtao Victory- M built The excerpt describes the duel between Dam Hunt and Mtao - Mxay to win back his wife, and also shows the villagers' pride in the hero Dam Hunt. The main content of the excerpt consists of two parts, part one is the duel with Mtao - Mxay and Dam Hunt's victory, part two describes the scene of the victory celebration. With the authentic depiction of the Central Highlands people about the hero Dam Hunt, Dam Hunt's actions in the war are compared and exaggerated in a unique way. This is also one of the typical artistic features of epic works. Dam Hunt's victory is not simply about getting his wife back but is also meaningful to the community, because it is because of that that conflicts arise between communities, the victory or defeat of the chief will decide. to the expansion of the village's borders. That's why epic works, specifically this work, do not mention much about the process of struggle, death or success or failure, but choose to specifically present the details of the community's celebration. It can be seen that the excerpt "Mtao - Mxay Victory" has revived the heroic past of the Ede community in the Central Highlands in ancient times. Encourage the heroic spirit and pride of ancestors of the people of the Central Highlands today. Besides, the excerpt also highlights the important role of heroes in the community and national history. According to
Giới thiệu về tác phẩm Cáo bệnh bảo mọi người của Mã Giác Thiền Sư Hướng dẫn Cáo tật thị chúng là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Mãn Giác Thiền sư, để hiểu hơn về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ này, các bạn hãy cùng tham khảo bài giới thiệu về tác phẩm Cáo bệnh bảo mọi người. 1. “Cáo bệnh bảo mọi người” là thi kệ nổi tiếng của thời kỳ văn học Lý – Trần Bài kệ của Thiền Sư Mãn Giác “Cáo tật thị chúng” hay “Cáo bệnh bảo mọi người” là một trong những tác phẩm thi kệ nổi tiếng của thời kỳ văn học Lý – Trần. Đây được coi như một tuyên ngôn triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương. Bài thơ “Cáo tật thị chúng” đã thể hiện những suy ngẫm của thiền sư về cuộc đời. Bài thơ được chia làm hai phần nội dung chính: phần thứ nhất thiền sư nói về quy luật sinh tử của tự nhiên không chừa một ai; phần thứ hai thể hiện tâm sự và tinh thần lạc quan của tác giả. 2. Bài thơ gửi gắm sự ngộ giải chân lí của đạo Phật Bài thơ được Thiền sư mượn cảnh thị tình, lấy tình để “trực chỉ chân tâm” nhằm khai phóng nhân sinh. Bằng cách dùng tư duy của trực giác để hình thành nên một biểu tượng, bài thơ đã bắt đầu từ chỗ miêu tả một thực tại, một hình ảnh đơn giản nhưng sinh động. Bài thơ mang một vẻ đẹp trong sáng nhưng ẩn sâu trong đó chứa đựng chất triết lí sâu sắc của dòng thơ thiền: vừa thể hiện niềm tin và tình yêu vào cuộc sống, vừa giác ngộ chân lý của Phật giáo trước lúc “nhập diệt”. Thiền sư Mãn Giác viết bài thơ này khi ông sắp qua đời và gửi gắm sự ngộ giải chân lí đạo Phật trong đó. Là một bài kệ thơ được ra đời vào thời kì mà văn học của dân tộc còn sơ khai, chưa có bề dày thành tựu, nhưng bài thơ đã bộ lộ một tầm kết tinh nghệ thuật rất đáng tự hào. Bài thơ chỉ có sáu câu nhưng đã truyền tải đầy đủ nội dung triết lý sâu sắc, giá trị của thi phẩm được làm nên nhờ tài năng sử dụng ngôn ngữ, lựa chọn ngôn từ và hình ảnh, kết cấu gợi cảm của nhà thơ. “Cáo tật thị chúng” là tác phẩm chứng tỏ một sự khởi đầu đáng tự hào của văn học dân tộc Việt Nam. Theo
Introduction to the work "Reporting the Sickness to Everyone" by Zen Master Ma Giac Instruct The Sickness Report is one of the most unique poems by Zen Master Man Giac. To better understand the content and artistic value of this poem, please refer to the introduction to the Sickness Report. tell everyone. 1. "Reporting your illness to everyone" is a famous poem of the Ly - Tran literary period Zen Master Man Giac's poem "Reporting illness to the public" or "Reporting illness to everyone" is one of the famous poetic works of the Ly - Tran literary period. This is considered a hidden philosophical statement in the form of literary art. The poem "Reporting to the Disabled People" expressed the Zen master's reflections on life. The poem is divided into two main parts: in the first part the Zen master talks about the natural law of life and death, leaving no one behind; The second part shows the author's confidence and optimism. 2. The poem conveys the understanding of the truth of Buddhism In the poem, the Zen master borrowed the love scene, using love to "directly point out the true mind" to liberate human life. By using intuitive thinking to form a symbol, the poem begins from describing a reality, a simple but vivid image. The poem has a pure beauty, but hidden deep inside it contains the profound philosophy of Zen poetry: it both expresses faith and love in life, and enlightens the truth of Buddhism before "entering nirvana". ”. Zen master Man Giac wrote this poem when he was about to pass away and conveyed his understanding of the truth of Buddhism in it. As a poetic poem, it was born in a period when the nation's literature was still in its infancy and did not have a long history of achievements, but the poem revealed a very proud level of artistic crystallization. The poem has only six lines but fully conveys the profound philosophical content. The value of the poem is created thanks to the poet's talent in using language, choosing words and images, and evocative structure. . "Reporting to the Public" is a work that demonstrates a proud beginning of Vietnamese national literature. According to
Giới thiệu về tác phẩm Hứng trở về của Nguyễn Trung Ngạn Hướng dẫn Hứng trở về là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Nguyễn Trung Ngạn, bài thơ được viết trong quá trình ông đi sứ ở Giang Nam. Giới thiệu về tác phẩm Hứng trở về sẽ cung cấp thêm những thông tin thú vị cho bạn học về hoàn cảnh sáng tác cũng như đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Hoàn cảnh sáng tác Tác phẩm “Hứng trở về” là bài thơ của tác giả Nguyễn Trung Ngạn, bài thơ được ông sáng tác trong thời gian đang đi sứ ở Giang Nam – Trung Quốc, bài thơ đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc sâu sắc của ông. Các nhà thơ trung đại nói chung và nhà thơ Nguyễn Trung Ngạn nói riêng cũng đã viết nhiều về chủ đề tình yêu quê hương, nhưng có điểm đáng lưu ý ở bài thơ này chính là nỗi nhớ quê hương được gợi lên từ chính những hình ảnh quen thuộc: cây dâu già, nong tằm, lúa trổ bông, cua đang lúc béo,… 2. Đặc sắc nội dung, nghệ thuật Bài thơ được làm theo thể thơ thất ngôn tuyệt cú Đường luật, từng câu chữ và vần thơ đều được thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước và niềm tự hào dân tộc. Những hình ảnh trong bài thơ đều giàu sức gợi bởi nó gắn bó máu thịt với chính tác giả – con người sinh ra và lớn lên ở vùng nông thôn. Bài thơ chính là những câu ca thể hiện tấm lòng, tình yêu tha thiết của tác giả đối với quê hương, đối với cuộc sống hết sức bình dị nơi quê nhà, đó là tình yêu mộc mạc nhưng chân thành, da diết. Đối với bài thơ “Hứng trở về” tình cảm đối với đất nước, non sông đã có thêm một cung bậc khác, đó là nỗi lòng của những kẻ li hương, tình yêu quê hương của Nguyễn Trung Ngạn không chỉ thể hiện qua nỗi nhớ mà còn thể hiện ở khát khao được quay về, dù có sống sung sướng nơi đất khách nhưng lòng vẫn luôn nhớ đến quê hương. Với bài thơ này, nhà thơ Nguyễn Trung Ngạn đã mang một màu sắc mới mẻ vào trong nền văn học trung đại Việt Nam, đó chính là một hình ảnh thơ rất mới, vừa dung dị lại có sức thẩm thấu sâu trong lòng người đọc. “Hứng trở về” là một bài thơ hay và cảm đọng, sau những vần thơ là cả một tình quê đong đầy, tâm hồn mở rộng thủy chung. Theo
Introducing Nguyen Trung Ngan's work "Return" by Nguyen Trung Ngan Instruct Inspiration to return is one of Nguyen Trung Ngan's most unique poems, written during his mission in Giang Nam. Introducing the work "Hung Back" will provide more interesting information for students about the circumstances of its composition as well as the unique content and art of the poem. Please refer to it! 1. Circumstances of composition The work "Eager to Return" is a poem by author Nguyen Trung Ngan, the poem was composed by him while on a mission in Jiangnan - China, the poem expressed patriotism and national pride. his profoundness. Medieval poets in general and poet Nguyen Trung Ngan in particular also wrote a lot on the topic of love for the homeland, but a notable point in this poem is the nostalgia for the homeland evoked by the images themselves. Familiar images: old mulberry trees, silkworms, blooming rice, fat crabs,... 2. Unique content and art The poem is written in the Tang Luat seven-syllable verse form, each sentence and verse is imbued with love for the homeland and national pride. The images in the poem are rich in evocation because they are closely related to the author himself - a person born and raised in the countryside. The poems are verses expressing the author's heart and passionate love for his homeland, for the very simple life in his hometown, it is a simple but sincere and passionate love. In the poem "Eager to Return", Nguyen Trung Ngan's love for the country and its rivers has taken on another level, which is the feelings of those who have left their homeland. Nguyen Trung Ngan's love for his homeland is not only expressed through sadness. remembering but also expressed in the desire to return. Even though we live happily in a foreign land, our hearts still remember our homeland. With this poem, poet Nguyen Trung Ngan brought a new color into Vietnamese medieval literature, which is a very new poetic image, both simple and profound in the hearts of readers. . "Eager to Return" is a beautiful and touching poem, behind the verses is a full love for the countryside, an open and faithful soul. According to
Giới thiệu về tác phẩm Nỗi oán của người phòng khuê Hướng dẫn Giới thiệu về tác phẩm Nỗi oán của người phòng khuê sẽ cung cấp thêm những thông tin về hoàn cảnh sáng tác cũng như những đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Vài nét về bài thơ Tác phẩm “Khuê oán” – Nỗi oán của người phòng khuê là một bài thơ hay trong số các bài thơ mà nhà thơ Vương Xương Linh viết về cuộc đời và nỗi oán của người phụ nữ. Cụ thể trong bài thơ này là nỗi oán của người thiếu phụ trẻ khi có chồng đi chiến trận nơi biên ải. 2. Đặc sắc nội dung và nghệ thuật Bài thơ chỉ có bốn câu và thuộc thể loại thất ngôn tuyệt cú nhưng không rõ năm sáng tác. Khác với những bài thơ nằm trong chủ đề thơ biên tái là miêu tả tâm trạng và tình cảm của người trực tiếp ra chiến trận. Bài “Khuê oán” nằm trong mảng thơ nỗi oán của người phụ nữ nên nó miêu tả tâm trạng, tình cảm của người thiếu phụ có chồng đang tham gia chinh chiến . Người đàn bà này là một người phụ nữ trẻ, đang ở nơi khuê các, thơ dại không biết gì, chỉ khi thấy cảnh xuân về mới hay rằng mình nhớ chồng, mới hối hận vì để chồng đi tòng quân nơi biên ải xa xôi, không rõ sống chết ra sao. Khi ấy người chinh phụ mới nhận ra ước mơ chức tước công hầu là điều viển vông, phù du, chỉ có hiện thực là thời gian trôi qua, tuổi xuân trôi qua và hạnh phúc lứa đôi còn dang dở. Chỉ với 28 chữ, bài thơ “Khuê oán” đã trở thành tiêu biểu cho tinh thần lên án chiến tranh phi nghĩa của nhân dân thời Đường nói riêng và của cả nhân loại nói chung. Bởi bài thơ đã đề cập đến vấn đề mang tính quy luật chiến tranh phi nghĩa chỉ đem lại những sự đau thương, mất mát, tan vỡ, sinh li tử biệt, hạnh phúc đôi lứa dở dang. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo của bài thơ, nói lên khát vọng hòa bình, ước vọng về hạnh phúc lứa đôi, mái ấm gia đình, đó là khát vọng muôn thuở của con người trong mọi thời đại. Theo
Introduction to the work The Wrath of a Roommate Instruct Introduction to the work The Grief of the Roommate will provide more information about the circumstances of its composition as well as the unique content and art of the poem. Please refer to it! 1. Some details about the poem The work "Khue resentment" - The resentment of the housewife is a good poem among the poems that poet Vuong Xuong Linh wrote about the life and resentment of women. Specifically in this poem is the resentment of a young woman whose husband goes to war on the border. 2. Unique content and art The poem has only four lines and belongs to the genre of seven words, but the year of composition is unknown. Different from the poems that belong to the theme of compiled poetry, it describes the mood and feelings of people directly going to war. The song "Khue grudge" is in the poetry of women's resentment, so it describes the mood and feelings of a young woman whose husband is participating in the war. . This woman is a young woman, living in a rural area, ignorant of anything, only when she sees spring coming does she realize that she misses her husband, and regrets letting her husband join the army on a distant border. , it is unclear whether life or death will happen. Only then did the concubine realize that her dream of becoming a duke was an illusion and fleeting thing. The only reality was that time passed, youth passed away, and the couple's happiness remained unfinished. With only 28 words, the poem "Khue enrage" has become representative of the spirit of condemning unjust war of the people of the Tang Dynasty in particular and of humanity in general. Because the poem addresses the issue of the law of unjust war, which only brings pain, loss, brokenness, separation of life and death, and unfinished happiness between couples. That is also the humanitarian value of the poem, expressing the desire for peace, the desire for marital happiness, a warm family, which is the eternal desire of people in all times. According to
Giới thiệu về tác phẩm Thăng long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan Hướng dẫn Giới thiệu về tác phẩm Thăng long thành hoài cổcủa Bà Huyện Thanh Quan sẽ cung cấp thêm những thông tin về hoàn cảnh ra đời cũng như đặc sắc nội dung của bài thơ. Các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Hoàn cảnh sáng tác Tác phẩm “Thăng long thành hoài cổ” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan – một nữ thi sĩ thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Hoàn cảnh ra đời bài thơ vào năm 1802, khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long và đóng đô ở kinh thành Huế, đồng nghĩa với việc kinh đô Thăng Long đã mất địa vị trung tâm của đất nước về cả chính trị và văn hóa, kinh tế. Vốn xuất thân trong một gia đình quý tộc đời Lê, nên Thăng Long mãi mãi để lại trong lòng nữ thi sĩ những tình cảm và kỉ niệm sâu sắc. Khi Phú Xuân trở thành kinh đô của triều Nguyễn, Thăng Long được đổi thành Hà Nội, nỗi niềm tâm sự nhớ xưa kinh thành Thăng Long là nỗi niềm của một người đi xa. Bởi Bà Huyện Thanh Quan đã phải vào Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập” dạy cho các cung phi, công chúa. Trong một lần trở về kinh thành Thăng Long, kinh đô xưa, trước cảm xúc đau thương, tiếc nuối những kí ức đẹp về mảnh đất này, Bà Huyện Thanh Quan đã sáng tác bài thơ này. 2. Đặc sắc nội dung Bài thơ “Thăng long thành hoài cổ” mang âm hưởng cổ kính mà thanh thoát, nhẹ nhàng, hình ảnh ước lệ nhưng có hồn có cảm. Sự phối hợp giữa ý tưởng với âm thanh đã tọa nên một thi điệu tự nhiên, uyển chuyển và hấp dẫn. Bài thơ khác xa so với những dòng chữ chắp nối công phu nhưng vẫn lủng củng, không hồn của đa số các bài thơ tiền Nguyễn. Tác phẩm được coi là một trong những bài thơ kiệt tác của nền thi ca trung đại dân tộc. Bài thơ “Thăng long thành hoài cổ” xứng đáng là một viên ngọc quý trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Theo
Introducing the work Thang Long Citadel of Nostalgia by Ba Huyen Thanh Quan Instruct Introduction to the work Thang Long Thanh Nostalgia by Ba Huyen Thanh Quan will provide more information about the circumstances of its birth as well as the unique content of the poem. Please refer to it! 1. Circumstances of composition The work "Thang Long Thanh Nostalgia" is a famous seven-word, eight-syllable Tang Luat poem by Ba Huyen Thanh Quan - a modern female poet in Vietnamese literary history. The circumstances of the poem's birth in 1802, when Nguyen Anh ascended the throne, took the name Gia Long and established the capital in the capital city of Hue, meant that the capital Thang Long had lost its central position in the country politically. and culture and economics. Coming from a noble family of the Le Dynasty, Thang Long forever left deep feelings and memories in the poet's heart. When Phu Xuan became the capital of the Nguyen Dynasty, Thang Long was changed to Hanoi. The feeling of missing the ancient capital of Thang Long was the feeling of a person traveling far away. Because Mrs. Huyen Thanh Quan had to go to Phu Xuan to work as a female mandarin in the "Central Palace" to teach concubines and princesses. Once returning to Thang Long, the ancient capital, faced with feelings of pain and regret for the beautiful memories of this land, Ba Huyen Thanh Quan composed this poem. 2. Unique content The poem "Thang Long Thanh Nostalgia" has an ancient yet elegant and gentle sound, conventional images but soulful and emotional. The combination of ideas and sounds creates a natural, flexible and attractive melody. The poem is very different from the elaborate but still clunky and soulless lines of most pre-Nguyen poems. The work is considered one of the masterpiece poems of national medieval poetry. The poem "Thang Long Thanh Nostalgia" deserves to be a precious gem in Vietnamese classical poetry. According to
Giới thiệu về tác phẩm Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng của tác giả Hồ Nguyên Trừng Hướng dẫn Giới thiệu về tác phẩm Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng của tác giả Hồ Nguyên Trừng sẽ cung cấp thêm những thông tin về tác phẩm. Để có quá trình học tập hiệu quả nhất, các bạn hãy tham khảo nhé! 1. Giới thiệu về tác phẩm Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng Truyện “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” nằm trong thiên thứ 8 của tác phẩm “Nam Ông mộng lục” với nhan đề chữ Hán là “Y thiên dụng tâm”, truyện kể về một thầy thuốc giỏi Thái y lệnh Phạm Bân, qua đó ca ngợi y đức đồng thời kín đáo bày tỏ niềm tự hào về ông cha, tổ tiên của tác giả. 2. Giới thiệu về tác phẩm Nam ông mộng lục và Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng “Nam ông mộng lục” là một tác phẩm nói về việc cũ của quê hương đất nước, ký thác nỗi sầu xa xứ qua những hồi ức của người đang sống nơi xa quê đất khách quê người. Tác phẩm gồm có 28 thiên và thiên thứ 8 chính là tác phẩm “Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng”, nói về thầy thuốc Phạm Bân. Ông là cụ tổ bên ngoại của tác giả Hồ Nguyên Trừng, một người thầy thuốc giỏi có nghề y gia truyền, dưới thời vua Trần Anh Tông giữ chức Thái y lệnh. Trong truyện tác giả đã kể lại một tình huống gay cấn đẩy người thầy thuốc vào xung đột giữa tâm đức và danh lợi, giữa cái sống và cái chết, qua đó bộc lộ càng rõ nhân cách và bản lĩnh cũng như lòng nhân đức của Phạm Bân. Qua truyện này, chúng ta đã được chiêm ngưỡng một hình ảnh đẹp về Phạm Bân – một người thầy thuốc giàu y đức, giàu tình thương người, tỏa sáng tâm đức, để lại bao sự mến yêu và ngưỡng mộ trong lòng mọi người. Quả thật ông rất xứng đáng với câu mà các cụ ta từ xa xưa “Lương y như từ mẫu”, “Thầy thuốc như mẹ hiền”. Có thể nói cùng với các bậc danh y nổi tiếng như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông,… Phạm Bân cũng đã sống mãi với thời gian và sống mãi trong lòng người. Đây là một truyện kể về những con người thật, sự việc thật trong quá khứ, truyện giản dị mà hấp dẫn, chứa chan tình người, nêu cao đạo đức của người thầy thuốc chân chính.
Introduction to the work The best doctor lies in the heart by author Ho Nguyen Trung Instruct Introduction to the work The best doctor lies in the heart by author Ho Nguyen Trung will provide more information about the work. For the most effective learning process, please refer to it! 1. Introduction to the work A good doctor depends on the heart The story "The best doctor lies in the heart" is in the 8th chapter of the work "Nam Ong Mong Luc" with the Chinese title "Medicine uses the heart", the story is about a good physician under the command of Pham Ban. , thereby praising medical ethics while discreetly expressing the author's pride in his father and ancestors. 2. Introduction to the works Nam Ong Mong Luc and A good doctor lies in the heart "Nam Ong Luc" is a work about old things of the homeland, converging the sadness of being away from home through the memories of people living far away from their homeland. The work consists of 28 verses and the 8th verse is the work "A good doctor lies in the heart", about physician Pham Ban. He is the maternal great-grandfather of author Ho Nguyen Trung, a good physician with a family medicine profession, who under King Tran Anh Tong held the position of Royal Physician. In the story, the author recounts a dramatic situation that pushes the physician into a conflict between morality and fame, between life and death, thereby revealing more clearly his personality, bravery, and kindness. Pham Ban. Through this story, we have admired a beautiful image of Pham Ban - a physician rich in medical ethics, rich in love for people, shining with virtue, leaving much love and admiration in everyone's hearts. Indeed, he is very worthy of the sayings of our ancestors from ancient times: "A physician is like a mother", "A physician is like a kind mother". It can be said that along with famous physicians such as Tue Tinh, Hai Thuong Lan Ong,... Pham Ban has also lived forever in time and in people's hearts. This is a story about real people, real events in the past, a simple but attractive story, filled with human love, upholding the ethics of a true physician.
Giới thiệu về tác phẩm Uy-lít-xơ trở về của tác giả Hô- me Hướng dẫn Giới thiệu về đoạn trích Uy-lít-xơ trở về sẽ cung cấp những thông tin thú vị giá trị đoạn trích cũng như nội dung chính của cuốn sử thi đồ sộ Ô-đi-xê của Hi Lạp cổ đại. Các bạn hãy cùng tham khảo để có thêm những kiến thức bổ ích nhất nhé! I. Vài nét về tác giả Hô-me-rơ Hô-me-rơ là cha đẻ của nền thi ca Hy Lạp, người đã đặt những mẫu mực đầu tiên cả về nội dung và hình thức nghệ thuật cho nhiều tác phẩm văn học Hy Lạp. Nhắc đến tên tuổi Hô-me-rơ, không thể không kể đến hai sử thi nổi tiếng Iliad và Ô-đi-xê. Đoạn trích Uy-lít-xơ (trích sử thi Ô-đi-xê) rất tiêu biểu cho nghệ thuật sử thi Hô-me-rơ. II. Giới thiệu về sử thi Ô-đi-xê và đoạn trích Uy-lít-xơ trở về 1. Ô-đi-xê hướng tới thể hiện sức mạnh và trí tuệ của người Hi Lạp Sử thi “Ô-đi-xê” ra đời trong bối cảnh người Hy Lạp đang bắt đầu vươn mình ra biển cả rộng lớn để mở rộng địa bàn hoạt động của mình. Trong công cuộc khám phá và chinh phục đại dương bao la ấy, con người gặp không ít những khó khăn, thử thách. Để vượt qua được những thử thách ấy, con người không chỉ cần có lòng dũng cảm và sức mạnh thể chất mà còn cần có trí tuệ, sự khôn ngoan. Hình tượng Uy-lít-xơ trong sử thi Ô-đi-xê chính là biểu tượng cho sức mạnh trí tuệ của người Hy Lạp. Không chỉ có thế, “Ô-đi-xê” ra đời khi xã hội Hy Lạp đang đứng trước ngưỡng của của chế độ chiếm hữu nô lệ, cùng với đó là sự chấm dứt của chế độ công xã thị tộc. Lối sống theo cộng đồng được thay thế bởi tổ chức gia đình, cùng với đó là sự xuất hiện của hôn nhân một vợ một chồng. Bối cảnh mới của thời đại đòi hỏi con người cần hình thành những phẩm chất đáng quý: sự gắn bó với quê hương, tình yêu thuỷ chung. Và quan niệm về tình yêu thuỷ chung đó cũng được thể hiện rất rõ trong “Uy-lít-xơ trở về”. >>Cảm nhận của em về đoạn trích Uy- lít-xơ trở về – Văn mẫu lớp 10 tuyển chọn 2. “Uy-lít-xơ trở về” là đoạn trích thuộc khúc ca thứ 23 của sử thi “Ô-đi-xê” “Uy-lít-xơ trở về” là đoạn trích thuộc khúc ca thứ 23 của sử thi “Ô-đi-xê”. Nội dung chính của đoạn trích là cuộc đoàn tụ của Uy-lít-xơ – người anh hùng của Hy Lạp trong cuộc chiến thành Tơ-roa với người vợ thân yêu của mình – nàng Pê-nê-lốp sau hai mươi năm chàng phiêu bạt khắp nơi kể từ chiến thắng thành Tơ-roa. Lúc này, sau quãng thời gian đợi chờ đằng đẵng, mòn mỏi, Pê-nê-lốp đã hết hy vọng về sự trở về của chồng và tin rằng Uy-lit-xơ đã chết. Không chỉ có vậy, nàng còn phải đối phó với 108 kẻ cầu hôn mà thực chất chỉ muốn chiếm lấy số tài sản của gia đình. Sau khi Uy-lít-xơ trở về quê hương, chàng đã giả dạng thành một người ăn mày đến tham dự cuộc thi bắn để chọn chồng của Pê-nê-lốp (thực chất đây cũng là một cách Pê-nê-lốp đối phó với bọn người cầu hôn). Chàng đã lập mưu để chiến thắng tất cả 108 kẻ cầu hôn Pê-nê-lốp, nhờ đó đoàn tụ với gia đình sau bao năm xa cách. 3. Nội dung chính của đoạn trích Uy-lít-xơ trở về Đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” khắc hoạ cuộc đấu trí giữa Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp, từ đó ca ngợi phẩm chất trí tuệ và tình yêu chung thuỷ theo quan niệm của người Hy Lạp. Đoạn trích còn hấp dẫn người đọc bởi những biện pháp nghệ thuật đặc sắc: cách miêu tả nhân vật qua hành động, lời nói, cử chỉ song có chiều sâu, mang tính điển hình cho phẩm chất thời đại, cùng với đó là ngôn ngữ trong sáng, giọng kể chuyện chậm rãi, tha thiết và lối so sánh đuôi dài đặc sắc. Với những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc đó, đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về” nói riêng và “Ô-đi-xê” nói chung xứng đáng là những mẫu mực cho văn chương nhiều thế hệ. Theo
Introduction to the work Uy-Litz's Return by author Homer Instruct Introduction to the excerpt "The Return of Uyghur" will provide interesting information about the excerpt's value as well as the main content of the massive epic poem Odyssey of ancient Greece. Please refer to it to gain more useful knowledge! I. Some details about the author Homer Homer is the father of Greek poetry, who set the first models in both content and artistic form for many Greek literary works. When mentioning the name Homer, it is impossible not to mention the two famous epics Iliad and Odyssey. The quote from the Odyssey (excerpt from the Odyssey) is very typical of the art of the Homer epic. II. Introduction to the epic poem Odyssey and the excerpt of Uyghur's return 1. Odyssey aims to demonstrate the strength and wisdom of the Greeks The epic "Odice" was born in the context in which the Greeks were beginning to reach out to the vast sea to expand their area of ​​operation. In the process of exploring and conquering that vast ocean, people encounter many difficulties and challenges. To overcome these challenges, people not only need courage and physical strength but also need intelligence and wisdom. The image of Uyghur in the Odyssey is a symbol of the intellectual power of the Greeks. Not only that, "Odice" was born when Greek society was on the threshold of slavery, along with the end of the clan communal system. Communal living was replaced by family organization, along with the emergence of monogamous marriage. The new context of the times requires people to develop valuable qualities: attachment to the homeland, faithful love. And that concept of faithful love is also expressed very clearly in "Return of Uy-Litz". >>My feelings about the excerpt from Uy-Litz's Return - Selected 10th grade essay sample 2. "Uyliss Returns" is an excerpt from the 23rd song of the epic "Odice" “Uyliss Returns” is an excerpt from the 23rd song of the epic “Odice”. The main content of the excerpt is the reunion of Uylis - the Greek hero in the Trojan War with his beloved wife - Pelelov after twenty years of adventure. spread everywhere since the victory of Troy. At this time, after a long and tiring wait, Penelov had lost all hope for her husband's return and believed that Uylitz was dead. Not only that, she also has to deal with 108 suitors who really just want to take over the family's assets. After Uylis returned to his hometown, he disguised himself as a beggar to participate in a shooting contest to choose Penelov's husband (in fact, this was also a way for Penelov to treat him as a beggar). dealing with suitors). He plotted to defeat all 108 suitors of Penelov, thereby reuniting with his family after many years of separation. 3. Main content of the excerpt from Uy-Litz's return The excerpt "Uylis's Return" depicts the battle of wits between Ulyss and Penelov, thereby praising the intellectual qualities and faithful love according to Greek concepts. The excerpt also attracts readers because of its unique artistic methods: the way of describing characters through actions, words, and gestures that have depth, typical of the qualities of the era, along with the language. Clear language, slow, earnest narrative voice and unique long-tail comparison. With those unique content and artistic values, the excerpts "Return of Uy-Litz" in particular and "Odice" in general are worthy of being models for many generations of literature. According to
Giới thiệu về tác phẩm Ông lão đánh cá và con cá vàng của tác giả Puskin Hướng dẫn Giới thiệu về tác phẩm Ông lão đánh cá và con cá vàng sẽ cung cấp những thông tin bài học về hoàn cảnh sáng tác cũng như những đặc sắc về nội dung của tác phẩm. Để có quá trình học tập hiệu quả nhất, các bạn hãy cùng tham khảo nhé! 1. Xuất xứ tác phẩm Truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” là một sử thi của Pushkin, được viết vào mùa thu năm 1833 dựa trên một truyện cổ tích Nga quen thuộc kết hợp với sự sáng tạo và tài năng của Pushkin. 2. Đặc sắc nội dung Truyện kể về một ông lão cao tuổi sống cùng với vợ trong một căn chòi tồi tàn. Hàng ngày ông đi đánh cá ở biển. Bỗng một ngày ông bắt được một con cá vàng – vốn là cá thần, con cá xin ông thả tự do cho nó và đổi lại nó sẽ thực hiện bất kì điều ước nào của ông. Tuy nhiên ông lão là một người thật thà, chân chất nên ông không hề mong muốn cho mình bất cứ điều gì và đã thả cho cá đi. Tuy nhiên bà vợ của ông thì ngược lại, mụ ta có lòng tham vô đáy, bắt ông lão hết lần này sang lần khác ra biển cầu xin cá vàng cho những ước muốn của bà ta. Đầu tiên chỉ là cái máng lợn vỡ, rồi một căn nhà mới, chưa dừng ở đó, bà xin làm nhất phẩm phu nhân, làm nữ hoàng, cung điện và cao điểm là khi ba ta đòi trở thành vua của biển cả để muốn điều khiển được cá vàng. Bà là người có lòng tham vô đáy, ngược đãi với chính chồng của mình và tham lam không có điểm dừng, chính vì vậy mà thiên nhiên nổi giận, cá vàng đã thu hồi tất cả những gì đã thực hiện cho bà, lúc đó ông lão và bà vợ lại trở về với hoàn cảnh như trước, vẫn là chiếc máng lợn vỡ. Với nghệ thuật lặp lại tăng tiến tình huống truyện, kết hợp với các tình huống đối lập tương phản, nhân hóa giữa các nhân vật và yếu tố tưởng tượng hoang đường đã tạo nên một câu chuyện cổ tích hấp dẫn và mang ý nghĩa sâu sa. Truyện đã ca ngợi lòng biết ơn đối với những người thật thà, nhân hậu và phê phán, nêu ra bài học thích đáng cho những kẻ nhu nhược, tham lam và bội bạc.
Introduction to the work The Old Fisherman and the Goldfish by Pushkin Instruct Introduction to the work The Old Fisherman and the Goldfish will provide information and lessons about the circumstances of its composition as well as the unique content of the work. To have the most effective learning process, please refer to it! 1. Origin of the work The story "The Old Fisherman and the Goldfish" is an epic by Pushkin, written in the fall of 1833 based on a familiar Russian fairy tale combined with Pushkin's creativity and talent. 2. Unique content The story is about an elderly man who lives with his wife in a shabby hut. Every day he goes fishing at sea. Suddenly one day he caught a goldfish - a magic fish, the fish asked him to set it free and in return it would grant any of his wishes. However, the old man was an honest and sincere person, so he did not want anything for himself and let the fish go. However, his wife was the opposite, she had endless greed, forcing the old man time and time again to go to the sea to beg goldfish for her wishes. First it was just a broken pig trough, then a new house, not stopping there, she asked to be the first lady, queen, palace and the climax was when my father asked to become king of the sea to want Control the goldfish. She was a person with bottomless greed, mistreating her own husband and being greedy without end, that's why nature got angry, the goldfish took back everything that had been done for her, at that time. The old man and his wife returned to the same situation as before, still a broken pig trough. With the art of progressive repetition of story situations, combined with contrasting situations, personification between characters and elements of wild imagination, it has created an attractive and deeply meaningful fairy tale. sa. The story praises gratitude for those who are honest, kind and critical, and gives appropriate lessons to those who are weak, greedy and ungrateful.
Đề bài: Nhà em có treo một tấm lịch để xem ngày tháng. Em hãy viết bài văn giới thiệu về tấm lịch treo tường nhà em cho mọi người cùng biết. Bài làm: Nhà em có rất nhiều đồ vật trang trí. Đồ vật thân thiết với em là tấm lịch với những màu sắc, hình ảnh tuyật đẹp treo trên bức tường quét vôi xanh nhạt của phòng khách. Tờ lịch hình chữ nhật, chiều ngang khoảng bốn mươi phân và chiều dọc khoảng sáu mươi phân, bằng giấy dày trơn láng. Nổi bật trên nền lịch là khung cảnh Hồ Gươm với Tháp Rùa cổ kính soi bóng trên mặt nước lăn tăn sóng gợn. Trên cao là bầu trời trong xanh với những đám mây trắng bồng bềnh. Xa xa là tòa nhà Bưu điện Hà Nội đồ sộ được trang trí cờ hoa rực rỡ. Phần dưới của tấm lịch chia thành mười hai ô đều nhau, mỗi ô là một tháng với đầy đủ số ngày Dương lịch và Âm lịch..Dưới cùng là hai hàng chữ: Chúc mừng năm mới và Xuân Đinh Hợi bằng nhũ vàng óng ánh. Ngắm phong cảnh Hồ Gươm trong tờ lịch, em ao ước một ngày nào đó được ra thăm Thủ đô, để tận mắt ngắm nhìn cảnh hồ đã gắn liền với truyền thuyết Rùa Vàng đòi lại gươm báu mà Long Quân đã cho Lê Lợi mượn để đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta.
Topic: My house has a calendar hanging to see the date. Please write an introductory essay about your wall calendar for everyone to know. Assignment: My house has many decorative objects. A close object to me is a calendar with beautiful colors and images hanging on the light blue whitewashed wall of the living room. The calendar is rectangular, about forty centimeters wide and about sixty centimeters vertical, made of thick, smooth paper. Prominent on the calendar is the scene of Hoan Kiem Lake with the ancient Turtle Tower reflecting on the rippling water surface. Above is a clear blue sky with floating white clouds. In the distance is the massive Hanoi Post Office building decorated with colorful flags and flowers. The lower part of the calendar is divided into twelve equal boxes, each box is a month with the full number of days in the solar and lunar calendar. At the bottom are two lines of words: Happy New Year and Spring of the Pig in iridescent gold. . Admiring the scenery of Hoan Kiem Lake in the calendar, I wished that one day I could visit the capital, to see with my own eyes the lake scene associated with the legend of the Golden Turtle reclaiming the precious sword that Long Quan had lent to Le Loi. drive the Ming enemy out of our country.
Giới thiệu về tổ em Hướng dẫn Giới thiệu về tổ em I. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Để thực hiện yêu cầu của đề bài, em cần suy nghĩ trả lời trình tự những câu hỏi sau: – Tổ của em là tổ thứ mấy (tổ 1, 2..V 3)? Có bao nhiêu bạn, mấy nam, mấy nữ? – Những nét riêng của từng bạn (gầy, yếu, béo, mập, sôi nổi hay trầm tính hoặc nhí nhảnh hài hước, vui nhộn…)? – Tháng qua có những công việc gì mà tổ đã thực hiện? (giúp đỡ bạn yếu kém, thi đua phát biểu xây dựng bài, kiểm tra việc thực hiện phong trào “vở sạch chữ đẹp v.v….) II. NHỮNG BÀI VĂN THAM KHẢO Bài làm 1 Thưa các bác, các cô, các chú! Cháu xin phép đại diện cho tổ, báo cáo với các bác, các cô, các chú về tình hình của tổ cháu và hoạt động của tổ trong tháng qua. Tên cháu là Vũ Hồng Phúc, tổ trưởng tổ ba. Tổ cháu gồm mười bạn: năm trai năm gái, được cô chủ nhiệm xếp ngồi 3 dãy bàn đầu bên trái. Theo thứ tự phải qua trái, bàn thứ nhất là bạn Hồng, bạn Trang, bạn Diễm, bạn Na và bạn Mận. Bàn thứ hai là bạn Khôi, bạn Dũng, bạn Thành, bạn Trang.. Khỏe mạnh nhất trong tổ là bạn “Dũng đen”, hay nhõng nhẽo và khóc nhè là bạn Trang, bạn Diễm nhưng nhờ hai bạn này mà Văn nghệ của tổ, của lớp luôn giành giải nhất. Thưa các bác, các chú, các cô! Bài làm 2 Thưa các bác, các chú, các cô! Cháu tên là Trần Hồng Diễm Mi, tổ trưởng tổ một lớp 3C, xin phép được báo cáo với các cô, các bác, các chú tình hình của tổ và những hoạt động của tổ cháu trong tháng qua như sau: Tổ cháu gồm có tám bạn: ba trai, năm gái. Tháng này, tổ cháu được phân công ở hai dãy bàn cuối lớp bên trái từ trên bảng nhìn xuống. Dãy bàn các bạn gái gồm có: Thi Vân, Hồng Hạnh, Đan Thanh và Minh Nguyệt. Dãy bàn thứ hai gồm có cháu (vị trí đầu bàn) đến bạn Thắng, bạn Đức và bạn Hòa. Tổ cháu là một tổ rất đoàn kết, luôn được cô giáo biểu dương trước lớp. Học tập thì khá đều, không có bạn nào yếu kém cả. Trội nhất là bạn Minh Nguyệt. Bạn thường giành được nhiều điểm mười nhất tổ. Hay chọc ghẹo các bạn gái trong tổ nhất là bạn Đức, nhưng bạn cũng là người vui nhộn, hài hước nhất trong tổ. Nhiều khi bạn ấy hứng lên trổ tài khiến cho lớp và cả cô chủ nhiệm nữa cười đến chảy cả nước mắt. Còn trong tháng qua, mọi hoạt động học tập sinh hoạt của tổ vẫn bình thường. Chỉ có một việc mà theo cháu nghĩ là rất có ý nghĩa. Đó là: ngày thứ hai tuần vừa rồi, được tin bạn Minh Nguyệt bị ốm, không đi học được, chiều hôm đó, cả tổ cháu tổ chức đi thăm Nguyệt và giúp Nguyệt chép lại bài học. Bố mẹ Nguyệt và cả Nguyệt nữa rất vui khi thấy chúng cháu sống với nhau rất tình cảm. Trên đây là tình hình và hoạt động của tổ chúng cháu, cháu xin báo cáo với các bác, các chú, các cô một vài nét chính như vậy. Cháu xin cảm ơn ạ!
Introducing my group Instruct Introducing my group I. ASSIGNMENT INSTRUCTIONS To fulfill the requirements of the test, you need to think about answering the following questions in order: - What number is your group (group 1, 2...V 3)? How many friends are there, how many men, how many women? – What are the unique characteristics of each of you (thin, weak, fat, chubby, lively or quiet or funny, playful...)? – What work did the team perform last month? (helping weak friends, competing to give speeches, building lessons, checking the implementation of the movement "clean notebooks, beautiful letters, etc.) II. REFERENCE ARTICLES Exercise 1 Dear uncles, aunts, uncles! I would like to represent the group and report to you guys about the situation of my group and its activities in the past month. My name is Vu Hong Phuc, leader of group three. My group consisted of ten friends: five boys and five girls, and the homeroom teacher arranged them to sit in the first three rows of tables on the left. In order from right to left, the first table is Hong, Trang, Diem, Na and Man. The second group is Khoi, Dung, Thanh, Trang... The strongest person in the group is "Dark Dung", the whiny and crying person is Trang, Diem, but thanks to these two, our art is The group and class always win first prize. Dear uncles, aunts, uncles! Exercise 2 Dear uncles, aunts, uncles! My name is Tran Hong Diem Mi, leader of group 1 of class 3C, please allow me to report to you the situation of the group and its activities in the past month as follows: My group includes: eight friends: three boys, five girls. This month, my group was assigned to the last two rows of desks on the left side of the classroom looking down from the board. The row of girls' tables includes: Thi Van, Hong Hanh, Dan Thanh and Minh Nguyet. The second row of tables includes me (at the head of the table) to Thang, Duc and Hoa. Our group is a very united group, always praised by the teacher in front of the class. Studying is quite steady, no one is weak. The best one is Minh Nguyet. You usually get the most ten points in the group. Most often teasing the girls in the group is Duc, but she is also the funniest and funniest person in the group. Many times, he gets excited and shows off his talents, making the class and the homeroom teacher laugh until they shed tears. In the past month, all learning and living activities of the group have been normal. There is only one thing that I think is very meaningful. That is: last Monday, we heard that Minh Nguyet was sick and couldn't go to school. That afternoon, the whole group organized a trip to visit Nguyet and help Nguyet copy down her lessons. Nguyet's parents and Nguyet are very happy to see us living together so affectionately. Above is the situation and activities of our group. I would like to report to you, uncles and aunts a few key features. Thank you!
Giới thiệu về Vương Xương Linh – Tác giả bài thơ Khuê oán Hướng dẫn Vương Xương Linh là nhà thơ nổi tiếng dưới thời nhà Đường, Trung Quốc. Để có thêm những thông tin về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông, các bạn hãy cùng tham khảo bài giới thiệu về tác giả Vương Xương Linh mà chúng tôi tuyển chọn dưới đây nhé! 1. Vài nét về tác giả Tác giả Vương Xương Linh là một nhà thơ thời Thịnh Đường của Trung Quốc, là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều thơ hay, ông được người đời gọi là “Thi thiên tử” hay là “Thi gia phu tử Vương Giang Ninh”. Vương Xương Linh là người gốc ở Kinh Triệu – Trường An, nay thuộc Thiểm Tây – Trung Quốc. Dưới triều vua Đường Huyền Tông (727) ông đã thi đỗ tiến sĩ, sau đó bảy năm ông lạ đỗ khoa Bác học hoành từ, rồi từ đó lần lượt giữ các chức như: Bí thư sảnh, Hiệu thư lang, huyện úy huyện Dĩ Thủy. Tuy nhiên đến năm 740 vì phạm lỗi mà ông bị giáng chức làm Giang Ninh thừa, thêm đó lại vì những lỗi vụn vặt mà ông bị giáng xuống làm Long Tiêu úy. Cuối năm 755, loạn An Lộc Sơn chống lại triều đình, Vương Xương Linh trở về làng thì vị viên Thứ sử ở đại phương giết chết vì thư thù. 2. Sự nghiệp sáng tác Sở trường của Vương Xương Linh là thơ thất ngôn tuyệt cú, ông được sánh ngang với Lý Bạch về thể thơ thất tuyệt. Trong số những bài thơ còn lại của ông, có hai chủ đề chính: một là nói lên nỗi sầu ly biệt, nỗi nhớ quê hương của những kẻ chiến chinh nơi biên ải; hai là diễn tả cuộc sống của người phụ nữ nhìn từ nhiều góc độ khác nhau. Số thơ của Vương Xương Linh để lại hiện chỉ còn hơn 180 bài, trong đó một nửa là tuyệt cú, trong mảng thơ biên tái, ông có một số tác phẩm nổi bật như: “Tòng quân hành”, “Xuất tái”, “Tái hạ khúc”; trong mảng thơ tả cuộc đời phụ nữ nổi bật có một số bài: “Thái liên khúc”, “Khuê oán”, “Trường Tín oán”, “Tây cung thu oán”,…. Ngoài ra ông còn có một số bài thơ tiễn biệt, gửi gắm tình cảm với bạn bè rất hay như: “Biệt Đổng Đại”, “Phù Dung lâu tống Tân Tiệm”. Theo
Introducing Vuong Xuong Linh - Author of the poem Khue resentment Instruct Vuong Xuong Linh was a famous poet during the Tang Dynasty, China. To get more information about his life and creative career, please refer to the introduction to author Vuong Xuong Linh that we selected below! 1. Some information about the author Author Vuong Xuong Linh was a poet of the Tang Dynasty of China, a famous poet with many good poems, he was called "The Poet of Heaven" or "The Poet Master Vuong Giang Ninh". Vuong Xuong Linh is a native of Kinh Trieu - Truong An, now in Shaanxi - China. During the reign of King Duong Huyen Tong (727), he passed the doctorate exam, then seven years later he passed the Faculty of Science, and from then on held successive positions such as: Hall Secretary, Lang Library Principal, District Lieutenant. Di Thuy. However, in 740, because of mistakes, he was demoted to the position of Giang Ninh, and because of petty mistakes, he was demoted to the position of Lieutenant Long Tieu. At the end of 755, An Loc Son rebelled against the court. When Vuong Xuong Linh returned to the village, the local governor killed him because of revenge. 2. Creative career Vuong Xuong Linh's forte is poetry in seven words. He is comparable to Ly Bach in the form of seven-word poetry. Among his remaining poems, there are two main themes: one is about the sadness of separation and the longing for the homeland of the warriors on the border; Second, it describes women's lives from many different angles. The number of poems that Vuong Xuong Linh left behind is currently only more than 180, of which half are masterpieces. In the field of compiled poetry, he has a number of outstanding works such as: "Joining the Army", "Xuat Re", “Returning the song”; In the field of poems describing women's lives, there are a number of outstanding poems: "Thai Lien Khuc", "Khue resentment", "Truong Tin resentment", "Western Palace Thu resentment",... In addition, he also had some very good farewell poems, conveying his feelings to friends such as: "Bye Dong Dai", "Phu Dung Lau Song Tan Tiem". According to
Đề bài: Giới thiệu về vẻ đẹp của Phú Quốc Bài làm Phú Quốc là huyện đảo ngoài khơi lớn nhất Việt Nam, nằm trong vịnh Thái Lan, thuộc địa phận tỉnh Kiên Giang. Thị trấn Dương Đông – huyện đảo cách thị xã Rạch Giá 120km và cách Hà Tiên 45km. Đảo chính Phú Quốc rộng 578km, dài 51km và hơn 20 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau tạo thành một quần thể đáo xanh tươi, thơ mộng ngay giữa đại dương. Eo biển xanh Phú Quốc được ví như Vịnh Hawai trữ tình nổi tiếng của Mĩ với những bờ biển đẹp vào bậc nhất Việt Nam. Bãi Trường nằm phía Tây đảo kéo dài từ Dương Đông tới An Thới khoảng 20km là bãi tắm sầm uất nhất và là bải biển duy nhất ở Việt Nam nơi bạn có thể ngắm mặt trời lặn xuống biển. Nhửng bãi tắm khác ở Phú Quốc như bãi Kem, bãi Đầm, bãi Cửu cần, bãi Đại, bãi Sao… nước trong vắt, cát trắng mịn như kem, cũng đầy hấp dẫn; có thể mang lại cho du khách những giây phút vui đùa, thư giản thoải mái nhất giữa cảnh đẹp hoang sơ, khí hậu trong lành, sự bình yên hiếm có. Phú Quốc nổi tiếng với đặc sản nước mắm, có vị ngon thơm đặc biệt, chế biến từ cá cơm, có độ đạm cao, khác hẳn với nước mắm những vùng biển khác. Mỗi năm, hàng trăm cơ sở sản xuất nước mắm của Phú Quốc cho ra thị trường 8 triệu lít nước mắm với sự hỗ trợ cả 2.200 tàu đánh cá, sản lượng đánh bắt trung bình 40.000 tấn/năm. Nghề làm mắm ở Phú Quốc có lịch sử phát triển trên 200 năm, người dân ở đây tuân thủ nghiêm ngặt các phương pháp thủ công truyền thống dể đảm bảo chất lượng, vệ sinh của đặc sản địa phương mình. Cá cơm còn tươi nguyên được ướp muối (muối vùng Bà Rịa Vũng Tàu hoặc Cà Ná – Phan Thiết) ngay trên thuyền. Nước mắm được lên men trong thùng gỗ, từ 12 đến 15 tháng. Mắm Phú Quốc khi đó có màu cánh gián, nhẹ mùi, không tanh, không gắt, có vị ngọt dịu đặc biệt. Vì thế mắm Phú Quốc không chỉ được ưa chuộng ở thị trường trong nước mà đã chinh phục cả những người nội trợ ở Pháp, Bỉ, Mĩ, Thái Lan… Người ta ví, Phú Quốc như một cô gái trẻ, căng đầy sức sống, có vẻ đẹp bí ẩn, càng khám phá càng thấy lí thú, hấp dẫn của những vạt rừng nguyên sinh; lại vừa có vẻ đẹp quyến rũ, nồng nàn của đại dương hoang sơ. Cánh rừng nguyên sinh của Phú Quốc nằm ở trung tâm hòn đảo, rộng tới 37.000 ha, là nơi sinh sống của nhiều loài gỗ; chim muông quý. Tuyến du lịch đang được ưa chuộng nhất trên đảo là Dương Đông – Hàm Ninh. Con đường chính của tuyến du lịch này được làm từ thời Pháp, uốn lượn quanh những ngọn đồi bạt gió. Du khách sẽ được thăm chùa Sư Môn, lội suối Tranh, thăm làng chài cổ Hàm Ninh, leo núi hoặc đến cơ sở nuôi cấy ngọc trai ở Nam Đảo. Tuyến du lịch Dương Đông – An Thới cũng rất hấp dẫn khi dẫn tới một quần đảo gồm 15 hòn lớn nhỏ, nằm rải rác ở phía nam, dài khoảng 40km. Quần đảo An Thới là một địa điểm lí tưởng để tổ chức các loại hình du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái. Các thắng cảnh: Dương Đông – Dinh Cậu, bãi Bàn, bãi Kem, lăng ông Hải, nhà tù Phú Quốc, cảng An Thới đều là những điềm tham quan đầy ấn tượng. Hoặc bạn sẽ đi câu mực thẻ đêm, câu cá rồi nướng ngay trên biển hay tham gia tour lặn biển, thăm vương quốc san hô hùng vĩ, nhiều màu sắc lung linh nhưng thật tinh khôi trong lòng đại dương Phú Quốc. Câu lạc bộ bơi lặn của Công ty du lịch Sài Gòn – Phú Quốc sẽ giúp bạn khám phá thế giới ngầm của hòn đảo đáng yêu này. Bạn sẵn sàng chưa?
Topic: Introduction to the beauty of Phu Quoc Assignment Phu Quoc is the largest offshore island district in Vietnam, located in the Gulf of Thailand, in Kien Giang province. Duong Dong town - an island district 120km from Rach Gia town and 45km from Ha Tien. Phu Quoc main island is 578km wide, 51km long and has more than 20 islands of different sizes forming a lush, poetic island complex right in the middle of the ocean. Phu Quoc Blue Strait is likened to America's famous lyrical Hawaiian Gulf with the most beautiful beaches in Vietnam. Bai Truong, located on the west side of the island, stretching from Duong Dong to An Thoi about 20km, is the busiest beach and the only beach in Vietnam where you can watch the sun set into the sea. Other beaches in Phu Quoc such as Kem beach, Dam beach, Cuu can beach, Dai beach, Sao beach... clear water, smooth white sand like cream, are also attractive; can bring visitors the most comfortable moments of fun and relaxation amid the wild beauty, fresh climate, and rare peace. Phu Quoc is famous for its fish sauce specialties, which have a special delicious taste, are made from anchovies, and have high protein, different from fish sauces in other sea areas. Each year, hundreds of fish sauce production facilities in Phu Quoc produce 8 million liters of fish sauce on the market with the support of 2,200 fishing boats, with an average catch of 40,000 tons/year. The fish sauce making profession in Phu Quoc has a history of over 200 years of development, people here strictly follow traditional manual methods to ensure the quality and hygiene of their local specialties. Fresh anchovies are salted (salt from Ba Ria Vung Tau or Ca Na - Phan Thiet) right on the boat. Fish sauce is fermented in wooden barrels for 12 to 15 months. Phu Quoc fish sauce at that time had the color of cockroach wings, had a light smell, was not fishy, ​​not harsh, and had a special sweet taste. Therefore, Phu Quoc fish sauce is not only popular in the domestic market but has also conquered housewives in France, Belgium, America, Thailand... People compare Phu Quoc to a young girl, full of vitality, with a mysterious beauty. The more you explore, the more interesting and attractive the primeval forests become; It also has the charming and passionate beauty of the pristine ocean. Phu Quoc's primeval forest is located in the center of the island, covering 37,000 hectares, and is home to many wood species; precious birds. The most popular tourist route on the island is Duong Dong - Ham Ninh. The main road of this tourist route was built during the French period, winding around windy hills. Tourists will visit Su Mon Pagoda, wade Tranh stream, visit the ancient fishing village of Ham Ninh, climb mountains or go to a pearl farming facility in Nam Dao. The Duong Dong - An Thoi tourist route is also very attractive as it leads to an archipelago of 15 large and small islands, scattered in the south, about 40km long. An Thoi archipelago is an ideal location to organize all types of marine tourism, resort tourism, and eco-tourism. Sights: Duong Dong - Dinh Cau, Ban beach, Kem beach, Mr. Hai's mausoleum, Phu Quoc prison, An Thoi port are all impressive sights. Or you will go squid fishing at night, fish and grill right on the sea or join a scuba diving tour, visit the majestic coral kingdom, colorful but pristine in the ocean of Phu Quoc. The diving club of Saigon - Phu Quoc Tourism Company will help you explore the underground world of this lovely island. Are you ready?
Giới thiệu về Đoàn Thị Điểm – Dịch giả của bài thơ Chinh phụ ngâm khúc Hướng dẫn Đoàn Thị Điểm là một trong những gương mặt nhà thơ nữ tài năng bậc nhất của nền văn học Trung đại Việt Nam. Cùng với những sáng tác có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật, bà còn là dịch giả của bài thơ Chinh phụ ngâm khúc. Bài giới thiệu về Đoàn Thị Điểm dưới đây sẽ mang đến những thông tin về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của bà. I. Tiểu sử tác giả Đoàn Thị Điểm (1705 – 1749) có hiệu là Hồng Hà Nữ Sĩ, là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Quê bà ở làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà được mệnh danh là một phụ nữ nổi tiếng: “Đẹp người, đẹp nết, giỏi văn chương”. Đoàn Thị Điểm là con gái ông Đoàn Doãn Nghi, bà gốc họ Lê, đến đời phụ thân mới chuyển sang họ Đoàn. Từ nhỏ, bà đã có tiếng thông minh, đẹp người, đẹp nết, chăm học, có tài văn và giỏi cả việc nữ công. Cho nên năm 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi để sau dâng lên chúa Trịnh, nhưng bà không chịu. Đoàn Thị Điểm sống với cha và anh ở nơi cha dạy học là làng Lạc Viên (huyện An Dương, tỉnh Kiến An, nay thuộc thành phố Hải Phòng) cho đến khi cha mất mới cùng gia đình của anh dời đến ngụ ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào (nay là huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên). Đến khi anh mất (năm 1735), bỏ lại một đàn con nhỏ, một mình Đoàn Thị Điểm phải vừa làm thuốc, vừa dạy học để có tiền nuôi mẹ và giúp đỡ chị dâu nuôi các cháu. Đến năm 33 tuổi bà trở thành vợ ông Nguyễn Kiều – văn hào nổi tiếng ở làng Phú Xá (nay thuộc xã Phú Thượng, Từ Liêm, Hà Nội). 2. Sự nghiệp sáng tác – Đoàn Thị Điểm – Dịch giả của Chinh phụ ngâm khúc Dù tình duyên muộn màng, nhưng đã mang lại cho nữ sĩ một gia đình hạnh phúc. Đây cũng là cơ sở cho sự nghiệp sang tác văn thơ của bà. Lấy chồng được một tháng, năm 1743 ông Nguyễn Kiều phải lên đường đi sứ Trung Quốc. Đến năm 1745, trong khoảng thời gian xa chồng đằng đẵng, nhận được bản Chinh phụ ngâm khúc viết bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ đó, bà đã dịch Chinh phụ ngâm ra thơ Nôm. Đây được xem là tác phẩm ưu tú nhất của nền thi văn trung đại Việt Nam và chính tác phẩm này đã đưa tên tuổi của bà lên đến đỉnh cao trong nền văn học nước nhà. – Đoàn Thị Điểm là tác gia lớn của văn học Trung đại Việt Nam Tên tuổi của Đoàn Thị Điểm đã được xếp vào vị trí là một tác gia lớn của nền văn học thời trung đại với bút pháp đa dạng, vừa giỏi văn Hán, lại cũng vừa giỏi thơ Nôm. Ngoài bản dịch Chinh phụ ngâm, bà còn là tác giả tập truyện ký, Truyền Kỳ Tân Phả và một ít thơ văn câu đối chữ Hán, chữ Nôm được lưu giữ trong Hồng Hà phu nhân di văn. Đó đều là những tác phẩm chứa đựng giá trị nhân văn cao cả, tư tưởng lớn lao vì dân vì nước của một người phụ nữ tài hoa. Có thể nói, Đoàn Thị Điểm là một ngôi sao sáng trong hàng ngũ nữ sĩ tại Việt Nam. Và các tác phẩm của bà đã góp phần không nhỏ cho sự đa dạng của nên văn học nước nhà. Theo
Introducing Doan Thi Diem - Translator of the poem Chinh Phu Ngam Khuc Instruct Doan Thi Diem is one of the most talented female poets in Vietnamese Medieval literature. Along with compositions of high value in terms of content and art, she is also the translator of the poem Chinh Phu Ngam Khuc. The introduction to Doan Thi Diem below will provide information about her life and creative career. I. Author biography Doan Thi Diem (1705 - 1749), whose title was Hong Ha Nu Si, was a Vietnamese female scholar during the Le Trung Hung period. Her hometown is Giai Pham village, Van Giang district, Hung Yen province. She was known as a famous woman: "Beautiful, beautiful, good at literature". Doan Thi Diem is the daughter of Mr. Doan Doan Nghi, her family name was Le, but her father's family changed to the Doan family name. From a young age, she was known to be intelligent, beautiful, well-mannered, studious, talented in literature, and good at housework. So at the age of 16, she was adopted by Minister Le Anh Tuan to later offer it to Lord Trinh, but she refused. Doan Thi Diem lived with her father and brother in the place where his father taught, Lac Vien village (An Duong district, Kien An province, now in Hai Phong city) until her father passed away, then she and her brother's family moved to Vo village. Ngai, Duong Hao district (now My Hao district, Hung Yen province). When he died (in 1735), leaving behind a small group of children, Doan Thi Diem alone had to make medicine and teach to have money to support her mother and help her sister-in-law raise the children. At the age of 33, she became the wife of Mr. Nguyen Kieu - a famous writer in Phu Xa village (now in Phu Thuong commune, Tu Liem, Hanoi). 2. Creative career – Doan Thi Diem – Translator of Chinh Phu Soc Khuc Although love was late, it brought the female artist a happy family. This is also the basis for her writing and poetry career. After only a month of being married, in 1743, Mr. Nguyen Kieu had to leave as an ambassador to China. In 1745, during a long period of separation from her husband, she received a copy of Chinh phu reciting songs written in Chinese by Dang Tran Con. Sympathizing with the feelings of that conqueror's wife, she translated Chinh phu reciting songs into Nom poetry. This is considered the most outstanding work of Vietnamese medieval poetry and it is this work that has brought her name to the pinnacle of the country's literature. – Doan Thi Diem is a great author of Vietnamese Medieval literature Doan Thi Diem's ​​name has been ranked as a great author of medieval literature with a diverse writing style, both good at Chinese literature and also good at Nom poetry. In addition to the translation of Chinh Phu Ngam, she is also the author of a collection of short stories, Truyen Ky Tan Pha and a few poems and couplets in Chinese and Nom that are preserved in the Hong Ha Lady's Biography. These are all works containing noble human values ​​and great thoughts for the people and country of a talented woman. It can be said that Doan Thi Diem is a bright star among the ranks of female scholars in Vietnam. And her works have contributed significantly to the diversity of the country's literature. According to
Đề bài: Giới thiệu về đá ở Hà Giang Bài làm Mùi rượu ngô gay gắt của những quán nhỏ ven đường như muốn níu kéo chúng tôi lại và dù đã vượt qua rất xa, vẫn có cảm giác nó ở quanh mình. Phải chăng hơi rượu đã thấm đẫm vào không gian, đánh bạt đi lam sơn, chướng khí của miền đất dữ để tiếp thêm sức mạnh cho người khách bộ hành? Nếu được đứng trên triền núi ngắm những buổi hoàng hôn mênh mông nắng vồng hay đêm nằm run rẩy trong cái tịch mịch của rừng đá, mới thấy hết được ý nghĩa của cuộc sống nơi hoang vu, khi con người trở nên quá bé nhỏ trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, ở nơi thâm sơn cùng cốc này, rượu ngô là thứ đồ uống chính của đồng bào dân tộc. Ăn có thể thiếu, mặc có thể không đủ nhưng rượu ngô luôn phải đầy bình. Rượu ngô uống cùng ớt ngâm, rượu ngô hòa vào bát cơm gạo hẩm, lùa vội hai miếng cho qua bữa… thế nhưng, không phải lúc nào người H'Mông ở Đồng Văn cũng có cơm ăn. Sống trên đá, nguồn nước không có, họ chi có thể trồng ngô thôi chứ lấy đâu ra gạo. Ngô, cũng chỉ chế biến được thành món bánh mèn mén mà thôi. Người dân nơi đây có câu: Sống trên đá, chết vùi trong đá. Thế giới của người H'Mông ở Hà Giang thật đơn sơ, nói chỉ là đá, là rừng và nhiều khi sinh khí nhất là những nương ngô xanh rờn. Một quả núi lớn được chia theo từng hộ dân để canh tác. Đá núi mấp mô, nhọn hoắt, đâm thủng chán người, vậy mà họ được đào được hố, được hốc rồi tra hạt, tỉa bắp. Bò kéo cày, có khi chỉ được vài bước chân đã phải quay đầu, vì nương nhỏ quá, đá xanh rắn quá. Đúng là dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Sống trên độ cao 1200m so với mặt nước biển, nguồn nước sinh hoạt của người H'Mông dựa hoàn toàn vào thiện ý của ông trời. Năm nào ông. cho mưa nhiều thì người dân bớt khổ, chứ năm nào nắng to thì dù có sức người, sỏi đá cũng thành ngô. Đồng Văn không hề có suối và nước mạch như các vùng núi khác, đá xanh Hà Giang lại nổi tiếng cứng hơn cả đá trắng Ninh Bình nên cũng không thế nào khoan giếng để trữ nước được. Sau mỗi cơn mưa, nước ở lại trong các hốc đá tai mèo và người dân phải đập đá để tạo ra dòng chảy về một hốc đá lớn với trữ lượng khoảng 100 lít. Những nhà ở xa hốc nước cũng phải mất cả ngày trời mới mang được can nước về, mà cũng vơi đi rất nhiều, vì họ phải uống trên đường đi. Nhà nào khá giả còn có ngựa thồ nước, chứ nhà nghèo chỉ biết dùng chính sức khoẻ của mình mà cõng nước về. Nước chảy đá mòn, thế nhưng những giọt mồ hôi của người H'Mông nhỏ xuống không đủ thấm vào lòng đá, không làm cho đá mòn đi mà trái lại, dường như nó còn mài sắc thêm những cạnh đá để cào nát đôi chân trần của những người quanh năm sống cảnh bán mặt cho đá, bán lưng cho trời. Vùng đá tai mèo đã tạo cho người dân nơi đây tính cách thật dữ dội, nhưng cũng vô cùng chân thật. Dù khó, dù khổ đến mấy nhưng hiếm khi nụ cười tắt trên đôi môi họ. Một bữa ăn, một đêm ngủ trong căn nhà trống trải tường đá tỏa hơi lạnh buốt, một buổi len lỏi trên những con đường trải đá tới nương ngô nằm ở lưng chừng núi cũng đủ cho bạn quyến luyến vùng đất này. Mọi người dân nơi đây ngay từ lúc sinh ra đã được đá tôi luyện, đá chính là cuộc sống của họ, còn đá thì còn họ, sức sống của họ là sức sống của đá. Những sinh linh tồn tại một cách hoang dã trong thế giới của đá là hình ảnh đẹp nhất của ý chí con người quyết chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để hướng tới một cuộc sống tươi đẹp hơn.
Topic: Introduction to rocks in Ha Giang Assignment The strong smell of corn wine from the small roadside shops seemed to want to hold us back and even though we had passed a long way, we still felt like it was around us. Could it be that the alcohol vapor permeated the space, dispelling the mountains and miasma of the evil land to give more strength to the passersby? If you can stand on the mountainside and watch the vast sunsets, or lie shivering at night in the solitude of the stone forest, then you will fully see the meaning of life in the wilderness, when people become so small in front of them. The majesty of nature, in this remote mountainous place, corn wine is the main drink of the ethnic people. Food may not be enough, clothing may not be enough, but corn wine must always be full. Corn wine is drunk with pickled chili, corn wine is mixed with a bowl of steamed rice, and quickly eaten in two bites to pass the meal... However, the H'Mong people in Dong Van don't always have food to eat. Living on rocks, there is no water source, they can only grow corn but cannot get rice. Corn can only be processed into men men cake. People here have a saying: Live on rocks, die buried in rocks. The world of the H'Mong people in Ha Giang is very simple, it's just rocks, forests and sometimes the most vibrant are the green corn fields. A large mountain is divided into households for cultivation. The mountain rocks are bumpy, sharp, and pierce people, yet they are able to dig holes, make hollows, plant seeds, and trim corn. Oxen pulling the plow sometimes only take a few steps before having to turn around because the fields are too small and the green rocks are too hard. It's true that it's sweet and fragrant, with a bitter and bitter taste. Living at an altitude of 1200m above sea level, the water source of the H'Mong people relies entirely on the good will of God. What year sir? If there is a lot of rain, people will suffer less, but in a year when the sun is strong, even if there is human strength, gravel and stones will turn into corn. Dong Van does not have streams or spring water like other mountainous areas. Ha Giang green stone is famous for being harder than Ninh Binh white stone, so it is impossible to drill wells to store water. After every rain, water stays in the rock cavities and people have to break the rocks to create a flow to a large rock cavity with a reserve of about 100 liters. Houses far from the water hole also had to spend a whole day to bring water cans home, which was also a lot less, because they had to drink on the way. Wealthy families still have horses to carry water, but poor families can only use their own strength to carry water home. The flowing water wears away the stone, but the dripping sweat of the H'Mong people is not enough to penetrate into the stone, not wearing away the stone, but on the contrary, it seems to sharpen the edges of the stone to scrape their feet. the ceiling of people who live all year round selling their faces to rocks and their backs to the sky. The cat's ear rock area has given the people here a fierce, but also extremely honest personality. No matter how difficult or miserable it is, the smile rarely disappears from their lips. One meal, one night of sleeping in an empty house with cold stone walls, one session of weaving along the paved roads to the corn fields located halfway up the mountain are enough to make you fall in love with this land. All the people here have been tempered by the stone since birth, the stone is their life, and the stone is them, their vitality is the vitality of the stone. The creatures that exist wild in the world of rocks are the most beautiful image of the human will to fight against harsh nature to lead a more beautiful life.
Giới thiệu về đôi dép lốp trong kháng chiến – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Người Việt Nam chúng ta, chắc hẳn nhiều người biết về đôi dép lốp hay còn gọi là dép cao su. Đó là sản phẩm của một thời đánh giặc gian khổ nhưng anh hùng của dân tộc, gắn bó với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân ta. Đôi dép được làm bằng lốp ô tô nên được gọi là dép lốp (hoặc dép cao su). Người ta chọn phần bằng phẳng của chiếc lốp cắt ra làm đế dép. Đế dép được đục thành tám khe mỏng để xâu bốn quai dép. Quai dép bằng săm (ruột) ô tô, cắt thành từng sợi dài đủ để ôm bàn chân, bề ngang khoảng 1,5 đến 2cm, giống như những sợi râu, vì vậy có nơi còn gọi là dép râu. Dùng cái xâu dép bằng sắt có hai mảnh dát mỏng xâu từ dưới đế dép lên, cặp chặt đầu quai dép vào giữa rồi rút mạnh. Quai dép được kéo qua khe mỏng của đế, và do tính đàn hồi của cao su nên rất chặt, không tụt ra được. Đế bằng lốp ô tô vừa chắc vừa bền, đi êm; quai bằng săm cao su ôm chặt vào bàn chân giúp cho việc đi lại được gọn nhẹ, nhanh chóng. Với chất liệu cao su, đôi dép lốp rất thuận lợi cho việc trèo đèo, lội suối, băng rừng để chiến đấu đánh giặc. Không chỉ bộ đội, dân công, mà cả cán bộ và nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đều đi dép lốp. Và cả Bác Hồ, người Cha già kính yêu của dân tộc, cũng đi dép lốp, đôi dép trở thành huyền thoại của một con người giản dị mà vĩ đại: Đôi dép lốp đã đi vào lịch sử đánh giặc anh hùng của nhân dân ta. Cùng với xe đạp thồ, tời kéo pháo, bếp Hoàng cầm…, đôi dép lốp đơn sơ, bình dị đó đã góp phần làm nên chiến thắng vang dội trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Tags:Văn 8
Introduction to tire sandals in the resistance war - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment Surely many of us Vietnamese people know about tire sandals, also known as rubber sandals. It is the product of a time of arduous but heroic fighting of the nation, associated with our people's two resistance wars against the French and the Americans. Sandals are made from car tires so they are called tire sandals (or rubber sandals). People choose the flat part of the tire cut out to make the sole of the shoe. The sole of the sandal is carved into eight thin slots to thread four sandal straps. The straps of the sandals are made of car inner tubes, cut into strands long enough to hug the foot, about 1.5 to 2cm wide, like whiskers, so in some places they are also called beard sandals. Use an iron sandal strap with two thin pieces to thread from the bottom of the sandal up, put the end of the sandal strap tightly in the middle and then pull it out firmly. The sandal strap is pulled through the thin slit of the sole, and due to the elasticity of the rubber, it is very tight and cannot fall off. Soles made of car tires are both strong and durable, and ride smoothly; Rubber inner tube straps hug the feet tightly, making walking compact and quick. With rubber material, tire sandals are very convenient for climbing passes, wading streams, and crossing forests to fight the enemy. Not only soldiers and citizens, but also our officers and people in the two resistance wars against the French and the Americans all wore rubber sandals. And even Uncle Ho, the beloved old Father of the nation, also wore rubber sandals, sandals that became the legend of a simple but great man: Tire sandals have entered the heroic history of our people fighting the enemy. Along with bicycles, artillery winches, Hoang Cam stoves, etc., those simple, plain rubber sandals contributed to the resounding victory in the nation's two resistance wars. Tags: Literature 8
Giới thiệu về đại thi hào Nguyễn Du – Tác giả của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí Hướng dẫn Đại thi hào Nguyễn Du không chỉ nổi tiếng với đại kiệt tác Truyện Kiều mà ông còn có rất nhiều tác phẩm chữ Hán có giá trị, một trong số đó là Độc Tiểu Thanh kí. Bài giới thiệu về tác giả Nguyễn Du sẽ cung cấp thêm những thông tin thú vị về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du, các bạn hãy tham khảo để có thêm tư liệu cho quá trình học tập của mình nhé! 1. Tiểu sử của tác giả Nguyễn Du Nguyễn Du là một nhân vật có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc Việt Nam, ông là một đại thi hào của dân tộc, là một danh nhân văn hóa thế giới, và là một nhà nhân đạo lỗi lạc. Nguyễn Du tên chữ là Tố Như (1765 – 1789), sinh ra ở vùng đất địa linh nhân kiệt Nghi Xuân – Hà Tĩnh, trong gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Gia đình và quê hương ông chính là “mảnh đất phì nhiêu” để nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du. 2. Sự nghiệp sáng tác Ông có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng có 250 bài thơ Nôm. Ngoài ra Nguyễn Du còn có kiệt tác là Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và vô số các sáng tác đậm chất dân gian như: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, vè Thác lèn trai phường nón. Các sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trên hết là niềm cảm thương sâu sắc tới số phận con người, trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp, khát vọng sống và khát vọng tình yêu hạnh phúc. Các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện và tài hoa còn các bài thơ Nôm thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nét đặc biệt là Nguyễn Du đã sử dụng một cách tài tình cả hai thể thơ của dân tộc là lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh), hai thể thơ này với Nguyễn Du đã đạt tới trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển. Nguyễn Du có đóng góp quan trọng về mặt tư tưởng và nghệ thuật trong văn học Việt Nam, hơn nữa còn đóng góp lớn cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt. Thơ của Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của Tiếng Việt văn học Trung Đại. Theo
Introducing the great poet Nguyen Du - Author of the poem Doc Tieu Thanh Ky Instruct The great poet Nguyen Du is not only famous for his masterpiece The Tale of Kieu, but he also has many valuable Chinese works, one of which is Doc Tieu Thanh Ky. The introduction to author Nguyen Du will provide more interesting information about Nguyen Du's life and career. Please refer to it for more materials for your learning process! 1. Biography of author Nguyen Du Nguyen Du is a figure of great significance to the Vietnamese people. He is a great national poet, a world cultural celebrity, and an outstanding humanitarian. Nguyen Du's full name is To Nhu (1765 - 1789), born in the sacred land of Nghi Xuan - Ha Tinh, in the family there were many generations and many people worked as high-ranking mandarins under the Le and Trinh dynasties. His family and hometown were the "fertile land" to nurture Nguyen Du's genius. 2. Creative career He has three collections of Chinese poetry: Thanh Hien poetry tap, Nam Trung tap ngoa and Bac hanh tap luc, a total of 250 Nom poems. In addition, Nguyen Du also has masterpieces such as Doan Truong Tan Thanh (The Tale of Kieu), Oration for Ten Kinds of Beings (Essay for Souls) and countless folk compositions such as: Oration for the life of two Truong Luu girls, Ve Thac len trai ward hat. Nguyen Du's compositions embrace humanitarian ideology, above all a deep compassion for human fate, respect and praise for beauty, the desire to live and the desire for happy love. Nguyen Du's Chinese poems are simple yet refined and talented, while his Nom poems are truly brilliant pinnacles. A special feature is that Nguyen Du skillfully used both of the nation's poetic forms: Luc Bat (The Story of Kieu) and Song That Luc Bat (Orientation of Ten Kinds of Sentient Beings), these two poetic forms with Nguyen Du achieved to the level of perfection, exemplary, classic. Nguyen Du made important ideological and artistic contributions to Vietnamese literature, and also contributed greatly to the rich and beautiful development of the Vietnamese literary language. Nguyen Du's poetry deserves to be the pinnacle of Vietnamese literature of the Middle Ages. According to
Đề bài: Giới thiệu về món ăn đặc sản: Cơm hến Huế. Bài làm Cách cầu Tràng Tiền vài trăm mét về phía hạ lưu sông Hương, có hai doi đất cây cối xanh tươi do phù sa bồi đắp qua mấy ngàn năm mà thành. Truyền thuyết kể rằng hai doi đất này tượng trưng cho hai con vật oai linh chầu vào kinh thành nơi vua ngự nên người xưa mới đặt tên chữ là Thanh Long và Bạch Hổ. Còn dân gian thì gọi nôm na là cồn Hến, bởi lớp phù sa màu mỡ lắng đọng ở đây là nơi sinh sôi, phát triển rất thuận lợi của loài hến. Với tài nội trợ khéo léo của người phụ nữ Huế, hến được chế biến thành những món ăn rất ngon mà rẻ: hến xào cuốn bánh tráng, hến trộn, hến nấu canh, cháo hến… Đặc biệt là cơm hến, món ăn độc đáo đã trở thành một đặc sản đậm đà phong vị Huế. Nguyên liệu chính của cơm hến là cơm trắng và hến, nhưng quyết định thành công của món cơm hến lại là các thứ gia vị đi kèm như ớt tươi, tương ớt, ớt khô xào dầu, hành, tỏi, lạc rang giã nhỏ, bánh tráng mè nướng giòn và các loại rau thơm, hoa chuối, rau muống bào… Đặc biệt có một thứ không thể thiếu là mắm ruốc Huế. Hến rất rẻ nhưng chế biến lại công phu. Hến mua ở chợ vổ, chà xát kĩ, rửa nhiều lần cho thật sạch rồi luộc chín. Vớt hến ra, đãi lấy thịt, để ráo. Nước hến lọc bỏ cặn, nêm nếm cho vừa, bắc lên bếp đun sôi liu riu. Cơm nấu chín dỡ ra rá để nguội. Khách gọi một tô cơm hến. Cô bán hàng khéo léo nhúm một nhúm hoa chuối và rau muống bào xắt nhỏ lót xuống đáy tô. Múc một muỗng Cơm trắng, dàn đều ra, xúc vài thìa hến xào bỏ vào và rắc rau thơm, hành lá xắt nhỏ cùng tóp mỡ, lạc rang giã dập lên trên rồi chan nước canh hến xám xấp. Như thế là xong. Khách bóp vụn miếng bánh tráng nướng giòn tan, thơm phức vào tô cơm và bắt đầu thưởng thức. Tùy khẩu vị từng người mà gia giảm thêm mắm ruốc, ớt khô xào dầu hoặc ớt tươi. Người xứ Huế thích ăn thật cay, thật nóng, vừa ăn vừa xuýt xoa chảy cả nước mắt mới là ngon. Cơm hến là món ăn dân dã được nhiều người ưa chuộng. Khắp nơi, từ nội ô đến ngoại thành, chỗ nào cũng có cơm hến. Người bán gánh quang gánh, một bên là chiếc bếp than hồng trên để nồi canh, bên kia là chiếc thố đựng hến xào, rá cơm cùng các thứ khác xếp ngăn nắp trong một chiếc khay nhôm sạch sẽ. Bên cạnh quang dắt dăm ba chiếc ghế con con… Người ăn cơm hến chẳng cần đến sự sang trọng của chỗ ăn. Ngược lại rất cần khung cảnh quây quần và không khí vui vẻ như một bữa cơm gia đình vậy. Đông khách nhất có lẽ là gánh cơm hến gia truyền đối diện chợ Đông Ba, người bán tíu tít luôn tay vẫn không kịp và người ăn nhẫn nại chờ đợi đến lượt mình.
Topic: Introduction to specialty dish: Hue mussel rice. Assignment A few hundred meters from Trang Tien Bridge downstream of the Huong River, there are two green promontories formed by alluvial deposits over thousands of years. Legend has it that these two promontories represent two majestic animals flanking the capital city where the king resides, so the ancients named them Thanh Dragon and White Tiger. As for folk, it is loosely called Hen Islet, because the fertile alluvial layer deposited here is a very favorable place for mussels to grow and develop. With the skillful housekeeping skills of Hue women, mussels are processed into very delicious and cheap dishes: stir-fried mussels rolled with rice paper, mixed mussels, mussels cooked in soup, mussel porridge... Especially mussel rice, a unique dish. has become a specialty with rich Hue flavor. The main ingredients of mussel rice are white rice and mussels, but the deciding factor for the success of mussel rice is the accompanying spices such as fresh chili, chili sauce, dried chili sauteed in oil, onions, garlic, crushed roasted peanuts, Crispy grilled sesame rice paper and herbs, banana flowers, shaved water spinach... One thing in particular that is indispensable is Hue shrimp paste. Mussels are very cheap but processed meticulously. Mussels purchased at the market are patted, rubbed thoroughly, washed several times until clean, then boiled. Take the mussels out, scoop out the meat, and drain. Filter the mussel water to remove residue, season to taste, put on the stove and bring to a simmer. Cooked rice, take it out and let it cool. The customer ordered a bowl of mussel rice. The saleswoman skillfully placed a handful of banana flowers and chopped spinach on the bottom of the bowl. Scoop a spoonful of white rice, spread it out evenly, scoop a few spoonfuls of stir-fried mussels and sprinkle with herbs, chopped green onions, pork rinds, and crushed roasted peanuts on top, then pour in the gray mussel soup. That's it. Guests crumble the crispy, fragrant grilled rice paper into a bowl of rice and begin to enjoy. Depending on each person's taste, add more shrimp paste, dried chili sauteed in oil or fresh chili. People from Hue like to eat very spicy, very hot food. It's delicious when you eat it and make your eyes water. Mussel rice is a popular dish of many people. Everywhere, from the inner city to the suburbs, there is mussel rice everywhere. The seller carries a heavy burden, on one side is a charcoal stove with a pot of soup on it, on the other side is a bowl containing stir-fried mussels, fried rice and other things neatly arranged in a clean aluminum tray. Next to Quang are several small chairs... People who eat mussel rice do not need the luxury of a dining place. On the contrary, we really need a gathering scene and a happy atmosphere like a family meal. The most crowded place is probably the heirloom mussel rice stall opposite Dong Ba market, the sellers are busy but can't keep up and the eaters patiently wait for their turn.
Giới thiệu đoạn trích Tức nước vỡ bờ nằm trong chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn Hướng dẫn 1.Đoạn trích Tức nước vỡ bờ nằm trong chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn (gồm 26 chương), ở phần trước là một loạt những biến cố: anh Dậu bị bắt trói ở sân đình vì thiếu tiền SƯU — chị Dậu phải chạy vạy bán con, bán chó — anh Dậu bị ngất, bị khiêng trả về nhà rũ rượi như một xác chết. Sau đoạn trích này, chị Dậu sẽ bị bắt giải huyện, khởi đầu cho những biến cố mới. Đoạn trích là gạch nối giữa hai chuỗi sự kiện này. 2.Thông qua những lời đối thoại và xung đột giữa chị Dậu với cai lệ và nhà lí trưởng, tác giả đã cho thấy bộ mặt tàn ác, bất nhân của lũ người nhân danh “nhà nước”, đại diện cho “phép nước” để hà hiếp, đánh đập những người dân lương thiện. Đoạn trích cũng đồng thời cho người đọc cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân (giàu tình thương và tiềm tàng sức mạnh phản kháng). 3.Nghệ thuật xây dựng tình huống tạo ra độ căng để bộc lộ bản chất đích thực của mỗi nhân vật, nghệ thuật khắc họa tính cách rất sinh động của Ngô Tất Tô’ (đặc biệt là qua việc miêu tả hành động và lời nói của nhân vật).
Introducing the excerpt The Water Breaks the Shore is in chapter XVIII of the novel Lights Out Instruct 1. Excerpt: The Water Breaks the Banks is in chapter XVIII of the novel Lights Out (including 26 chapters), in the previous part is a series of events: Mr. Dau was arrested and tied up in the communal house yard because of lack of money COLLECTION — Ms. Dau had to run trying to sell his children and dogs - Mr. Dau fainted and was carried back home limp like a corpse. After this excerpt, Ms. Dau will be arrested and imprisoned, starting new events. The excerpt is the hyphen between these two chains of events. 2. Through the dialogues and conflicts between Ms. Dau and the ruler and the chief, the author shows the cruel and inhumane face of the people who act in the name of "state" and represent "state law". ” to oppress and beat honest people. The excerpt also gives readers a sense of the beauty of the farmer woman's soul (rich in love and potential resistance). 3. The art of building situations that create tension to reveal the true nature of each character, the art of portraying Ngo Tat To's very vivid personality (especially through describing actions and words). spoken by the character).
Đề bài: Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến Bài làm Hình ảnh đôi dép lốp lại còn mang trong mình một cái tên khác đó chính là đôi dép Bình – Trị – Thiên. Đôi dép lốp luôn là một hình ảnh quen thuộc của người lính trong những năm tháng máu lửa của dân tộc ta. Đôi dép lốp như một người bạn của người lính, nó là một trong những thứ quân trang quan trọng của anh bộ đội Cụ Hồ trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Đồng thời cũng chính là vật dụng cần thiết trong cuộc sống của công nông không thể thiếu được. Dép lốp được ra đời trong thời kì chiến tranh là sự sáng tạo của người lính. Tuy là đôi dép được thiết kế thô sơ nhưng lại mang được một sự tiện dụng đối với người lính. Đôi dép được làm ra bằng cách đó là cắt ra từ chiếc lốp ô tô đã hỏng. Thế rồi chính phần quai dép dược cát ra từ chiếc săm lốp nên rất dẻo dai. Tất cả các bộ phần của dép lốp phần lớn là màu đen. Và cũng tuỳ theo khổ chân to hay nhỏ mà người ta cắt lốp ô tô có chiều dài ngắn khác nhau. Cứ mỗi dây chiếc dép lốp lại có một sự rộng bản độ 1,5cm. Quan sát ta nhận thấy được cứ mỗi chiếc dép có bốn quai rất đều nhau và chắc chắn nữa. Các chiếc quai dép khéo léo được luồn qua đế bằng những lỗ đục từ trước ở đế. Cũng lợi dụng tính đàn hồi của cao su mà các quai dép được cố định cũng như được giữ chặt lại vô cùng chắc chắn. Bên cạnh đó thì người đi dép lốp luôn có một cái dip bằng sắt hoặc bằng tre để luồn quai dép khi bị tuột. Thiết kế dép lốp này cũng chẳng tốn kém gì mà lại được việc, thật tài tình biết bao nhiêu. Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến Người lính khi xưa khi đi dép lốp có thể băng đèo cũng có thể lội suối, hai ba năm mà đế dép chỉ lì ra, trơ ra mà không hề bị hỏng có thế chỉ phải thay quai dép mà thôi. Đôi dép lốp sau khi thay quai lại bén lắm, đi lại chắc như trước và người đi cũng cứ tha hồ hành quân, tha hồ cuốc bộ mà không lo bị hỏng hay mòn dép. Thời kháng chiến chống Mĩ gian khổ của dân tộc trong khi những tên giặc được trang bị vũ khí, quân trang quân dụng vô cùng hiện đại, vũ khí thì tối tân. Nhìn sang hình ảnh những anh chiến sĩ giải phóng quân của ta thì trang bị với các quân dụng đơn giản như chiếc mũ tai bèo và không thể thiếu được đôi dép lốp. Đôi dép lốp cũng đã đồng hành cùng với những người lính vượt qua bao nhiêu quãng đường gian khổ và khó khăn. Không chỉ có những người lính, ngay cả Bác Hồ – Một vị lãnh tụ của dân Việt Nam ta, ngay từ lúc sống và hoạt động ở chiến khu Việt Bắc trong chính thời kháng chiến, Bác cũng đã sống ở ngôi nhà sàn giữa Thủ đô Hà Nội và Bác sống vô cùng giản dị, vẫn đi đôi dép cao su và tấm áo nâu. Hình ảnh của đôi dép lốp như cũng được biết bao nhiêu văn nghệ sĩ đã dày công miêu tả. Ta không thể nào quên được những vần thơ miêu tả đôi dép lốp – Đôi dép Bác Hồ mà Tố Hữu miêu tả: Bác vần thường đi giữa thế gian (Theo chân Bác – Tố Hữu) Hình ảnh đôi dép lốp đã đi vào lịch sử thật tự nhiên. Trong thời đại ngày nay, bộ đội, cán bộ, nhân dân ta cũng không sử dụng đôi dép huyền thoại – dép lốp nữa mà chỉ đi giầy đi dép da, dép nhựa thế nhưng những đôi dép lốp mãi mãi là một kỉ vật luôn luôn nhắc nhở các thế hệ trẻ hôm nay nhớ lại, trân trọng một thời gian khổ mà oanh liệt của ông cha đã trải qua để tự hào và tự nhủ rằng mình cũng phải nên sống một cách xứng đáng nhất. Minh Nguyệt
Topic: Introducing tire sandals in the resistance war Assignment The image of tire sandals also has another name: Binh - Tri - Thien sandals. Tire sandals have always been a familiar image of soldiers during the bloody years of our nation. Tire sandals are like a soldier's friend, it was one of the important pieces of military equipment for Uncle Ho's soldiers during the resistance war against the French and the Americans. At the same time, it is also an indispensable item in the lives of workers and farmers. Tire sandals were born during the war as the creation of soldiers. Although the sandals are rudimentary in design, they bring convenience to soldiers. The sandals are made that way by cutting them from a broken car tire. Then the strap of the sandal is sanded from the tire and tube so it is very flexible. All parts of the sandals are mostly black. And also depending on the size of the foot, people cut car tires to different lengths. Each strap of the tire sandal has a width of 1.5cm. Observing, we can see that each sandal has four straps that are very even and sturdy. The sandals' straps are cleverly threaded through the sole using pre-punched holes in the sole. Also taking advantage of the elasticity of rubber, the sandal straps are fixed and held extremely securely. Besides, people who wear flat sandals always have an iron or bamboo slipper to use to slide the sandal strap when it slips. This tire sandal design doesn't cost anything but works, it's so ingenious. Introducing tire sandals in resistance Soldiers in the past, when wearing rubber sandals, could cross passes and wade streams. After two or three years, the soles of the sandals would only become stiff and inert without being damaged, so they only had to change the straps of the sandals. After changing the straps, the sandals are very sharp, walking is as sturdy as before and the wearer can freely march and walk without worrying about breaking or wearing out the sandals. The nation's resistance war against America was arduous while the enemy was equipped with extremely modern weapons and military equipment, and the weapons were state-of-the-art. Looking at the image of our Liberation Army soldiers, they are equipped with simple military equipment such as bucket hats and indispensable sandals. Tire sandals have also accompanied soldiers through many arduous and difficult journeys. Not only the soldiers, even Uncle Ho - a leader of our Vietnamese people, right from the time he lived and worked in the Viet Bac war zone during the resistance war, he also lived in a stilt house in the middle of Thua Thien Hue. capital of Hanoi and Uncle Ho lived very simply, still wearing rubber sandals and a brown shirt. The image of tire sandals has been described by countless writers and artists. We cannot forget the poems describing the rubber sandals - Uncle Ho's sandals that To Huu described: Uncle often walks in the world (Following Uncle Ho's footsteps - To Huu) The image of tire sandals has naturally entered history. In this day and age, our soldiers, officers, and people no longer use the legendary sandals - tire sandals, but only wear leather sandals and plastic sandals, but tire sandals will forever be a souvenir. always remind today's young generations to remember and cherish the difficult and glorious time their ancestors went through to be proud and remind themselves that they should also live in the most worthy way. the bright moon
Đề bài: Giới thiệu về đặc sản cơm hến (lớp 8). Bài làm Ở Huế nổi tiếng với nền ẩm thực phong phú, với rất nhiều món ăn đặc trưng. Và một trong số các món ăn đặc trưng ấy chính là món cơm hến. Cơm hến Huế rất ngon. Món cơm hến không biết xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã đồng hành với lịch sử và cũng nhiều gian nan như những người dân nghèo xứ Huế. Cơm hến không chỉ là món bình dân của người Huế mà nó còn mang một cái giá trị văn hóa của ẩm thực xứ Huế. Đầu tiên chúng ta sẽ đi tìm hiểu các nguyên liệu để làm nên món cơm hến Huế cần những gì. Nguyên liệu chúng ta cần bao gồm: hến, gạo tẻ dẻo ngon, da heo, lạc, khế (lựa loại khế chua vừa đủ), dọc mùng, rau sống (lõi cây chuối cắt mỏng, hoa chuối, rau muống chẻ, giá đỗ sống, rau xà lách, rau thơm), hành khô, chanh tươi, ớt chưng, mắm ruốc, gia vị, hạt nêm, dầu ăn. Như vậy để có được món cơm hến chúng ta phải chuẩn bị rất nhiều nguyên liệu, nhưng các nguyên liệu này thì khá phổ biến và dễ mua. Vậy với các nguyên liệu trên, chúng ta sẽ làm như thế nào để có được món cơm hến? Bước đầu tiên, chúng ta mang gạo tẻ đi vo sạch rồi nấu thành cơm như bình thường. Sau khi cơm chín, ta xới cơm tơi lên và để nguội cơm. Lạc chúng ta sẽ cho vào chảo rang và lưu ý chúng ta nên cho thêm chút dầu ăn thì lạc sẽ vàng và ngon hơn nhé. Bước thứ hai, những quả khế chua sau khi đã rửa sạch chúng ta bỏ các rìa ngoài ở mỗi cạnh quả khế, và sau đó sắt thành từng lát mỏng. Da heo cắt miếng vừa ăn. Cho da heo vào chảo dầu và chiên vàng, giòn sau đó vớt ra để ráo dầu. Bước thứ ba đó là, các loại rau thơm chúng ta đã chuẩn bị, đem đi rửa sạch để cho ráo nước. Hành lá, gừng ta đem bỏ vỏ và sắt thành lát mỏng. Phần dọc mùng ta tước bỏ xơ, thái lát rồi đem trộn với vài hột muối để cho ra bớt nước, nhớ là sau đó phải vắt dọc mùng để cho dọc mùng đỡ bị mặn. Chúng ta đun sôi một nồi nước để trần dọc mùng, khi dọc mùng chín ta vớt ra cho ráo nước. Bước bốn, đây là công đoạn ta làm hến, hến mua về rửa sạch cho vào nồi luộc chín cùng vài hạt muối. Phần nước luộc hến chúng ta không đổ bỏ mà sẽ giữ lại, chắt phần nước luộc hến ra một cái âu to cho lắng lại. Bước tiếp theo, bước thứ năm chúng ta sẽ mang thịt hến trộn với nước nắm vừa đủ để thịt hến được đậm vị hơn. Cho chảo lên bếp, cùng ít dầu ta đem hành khô phi vàng sau đó cho thịt hến vào xào cho săn lại rồi xúc thịt hến ra bát. Bước sáu, phần nước luộc hến lúc trước ta đem đi lọc để loại bỏ cặn, đem đi đun sôi, cho thêm một thìa mắm ruốc, hạt nêm vừa ăn sau đó cho vài lát gừng vào. Như vậy ta đã có một nồi nước dùng rồi. Bước cuối cùng, ta xới cơm ra bát cho tơi, thêm một chút rau sống cho thơm, da heo chiên vàng và hến đã xào lên và chan thêm sâm sấp nước dùng hến vào, chúng ta có thể rắc thêm vài hạt lạc là có thể thưởng thức ngay rồi. Tôi đã từng đặt chân vào Huế, và việc đầu tiên của tôi là đi nếm thử cơm hến Huế, nó quả thật là một món ăn ngon, bổ và rẻ nữa. Hãy thử một lần các bạn nhé.
Topic: Introduction to mussel rice specialties (grade 8). Assignment Hue is famous for its rich cuisine, with many typical dishes. And one of those typical dishes is mussel rice. Hue mussel rice is very delicious. It is not known when mussel rice appeared, but it has accompanied history and had many hardships like the poor people of Hue. Mussel rice is not only a popular dish of Hue people but it also carries a cultural value of Hue cuisine. First, we will learn what ingredients are needed to make Hue mussel rice dish. The ingredients we need include: mussels, delicious glutinous rice, pork skin, peanuts, star fruit (choose enough sour star fruit), mosquito net, raw vegetables (thinly cut banana core, banana flower, split water spinach, bean sprouts). raw beans, lettuce, herbs), dried onions, fresh lemon, steamed chili, fish sauce, spices, seasoning, cooking oil. So to make mussel rice we have to prepare a lot of ingredients, but these ingredients are quite common and easy to buy. So with the above ingredients, how do we make mussel rice? The first step is to wash the plain rice and cook it into rice as usual. After the rice is cooked, we fluff the rice and let it cool. We will put the peanuts in a roasting pan and note that we should add a little more cooking oil so the peanuts will be golden and more delicious. In the second step, after washing the sour star fruit, we remove the outer edges on each side of the star fruit, and then iron it into thin slices. Cut pork skin into bite-sized pieces. Put the pork skin in a pan of oil and fry until golden and crispy, then take it out and drain the oil. The third step is, wash the herbs we have prepared and let them drain. Scallions and ginger are peeled and cut into thin slices. We remove the fibers from the length of the mosquito net, slice it, then mix it with a few grains of salt to remove some water. Remember to squeeze the length of the mosquito net afterward to make it less salty. We boil a pot of water and leave it exposed along the mosquito net. When the mosquito net is cooked, we take it out to drain. Step four, this is the step where we make the mussels. Buy the mussels, wash them and put them in the pot to boil with a few grains of salt. We do not throw away the mussel boiling water but keep it. Pour the mussel boiling water into a large bowl to settle. The next step, the fifth step, we will mix the mussel meat with enough water to make the mussel meat more flavorful. Put the pan on the stove, with a little oil, fry the shallots until golden, then add the mussel meat and stir-fry until firm, then scoop the mussel meat into a bowl. Step six, filter the mussel boiled water to remove residue, bring to a boil, add a spoonful of shrimp paste, seasoning to taste, then add a few slices of ginger. So we already have a pot of broth. In the final step, we scoop the rice into a bowl to loosen it, add a little raw vegetables for flavor, fried pork skin and stir-fried mussels, add ginseng and mussel broth, you can sprinkle in a few peanuts and you're done. can enjoy now. I once set foot in Hue, and my first thing was to taste Hue mussel rice, it is truly a delicious, nutritious and cheap dish. Please try it once guys.
Góc nhìn khác-Suy nghĩ khác và bài học từ câu chuyện bán giày Hướng dẫn Hãy tìm góc nhìn khác, cách suy nghĩ khác để thành công Không phải ai cũng có đủ khả năng sáng tạo ra cái mới. Cũng không phải điểm đứng nào cũng mở tầm nhìn xa rộng. Cuộc sống rất cần những phán đoán và lựa chọn chính xác để tiến bộ và thành công. Góc nhìn khác, suy nghĩ khác chính là cơ sở của sáng tạo. Càng cố chấp với những định kiến sẵn có ta sẽ không thể nhìn thấy được những điều mới mẻ. Bởi thế, Erich Fromm cho rằng: “Sự sáng tạo đòi hỏi phải có can đảm để buông tay khỏi những điều chắc chắn”. Câu chuyện bán giày của hai công ty sản xuất giày để lại cho ta nhiều suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị của góc nhìn khác, suy nghĩ khác để thành công trong cuộc sống này. Chuyện kể rằng, có hai hãng sản xuất giày nọ đang cạnh tranh với nhau. Để tìm kiếm và mở rộng thị trường, tăng cường sản xuất, họ cử các nhân viên của mình đến Châu Phi để khảo sát. Một nhân viên sau khi xem xét kỹ tình hình và báo lại về công ty mình rằng: “Người dân ở đây chỉ đi chân đất. Họ không có thói quen mang giày và cũng chưa từng mang giày. Chúng ta không thể phát triển thị trường ở đây”. Từ báo cáo trên, công ty này đã không quan tâm đến thị trường Châu Phi nữa. Quả thực sau đó, công ty đã nhanh chóng triển khai kế hoạch bán giày. Họ lập tức mở các cửa hiệu bán giày. Đồng thời cử người hướng dẫn và thuyết phục người dân mang giày. Chỉ trong một thời gian ngắn, họ đã thu về một món lời rất lớn. Chúng ta có thể thấy rõ, tuy có cùng một sự kiện xảy ra nhưng chính góc nhìn khác, suy nghĩ khác nhau của hai người mà kết quả có sự khác biệt rõ rệt. Người thứ nhất bảo thủ và cố chấp với những nguyên tắc cũ kĩ và lạc hậu. Anh ta chỉ nhìn thấy biểu hiện người dân không mang giày mà không thấy lí do của biểu hiện ấy. Anh ta cũng không thấy xu thế và nhu cầu mang giày sẽ có của con người. Đó là kiểu tư duy lối mòn, rập khuôn, máy móc và tai hại. Ngược lại, anh nhân viên của công ty kia đã có một cách nhìn, một suy nghĩ khác biệt. Anh ta khảo sát thị trường với quan điểm tích cực hơn. Anh ta suy luận rằng con người luôn có nhu cầu mang giày. Đó là xu thế tất yếu của thời đại. Anh ta nhận ra lí do khiến người ta chưa mang giày. Bởi ở đó chưa có ai bán giày nên người dân chưa có thói quen mang giày. Đó là một cơ hội để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường mà không sợ phải cạnh tranh. Chỉ cần mang giày tới và hướng dẫn họ cách mang giày, thuyết phục họ mua giày là xong. Tuy nhiên, không phải góc nhìn khác, suy nghĩ khác nào cũng tích cực. Điều quan trọng là bạn có hướng đến giải quyết vấn đề và tìm kiếm cơ hội hay không. Đừng vội đầu hàng hay buông bỏ trước khó khăn trở ngại. Mỗi suy nghĩ nên chứa đầy động lực và khát khao chiến thắng. Nhất định, cơ hội sẽ đến sau khi mọi trở ngại đã được giải quyết.
Another perspective - Different thoughts and lessons from the story of selling shoes Instruct Find a different perspective, a different way of thinking to succeed Not everyone has the ability to create new things. Nor is every stand point open to far-reaching views. Life needs accurate judgments and choices to progress and succeed. Different perspectives and different thoughts are the basis of creativity. The more stubborn we are with existing prejudices, the more we will not be able to see new things. Therefore, Erich Fromm said: "Creativity requires the courage to let go of certainties." The story of selling shoes of two shoe manufacturing companies leaves us with many thoughts about the meaning and value of a different perspective and different thinking to succeed in this life. The story goes that two shoe manufacturers were competing with each other. To find and expand markets and increase production, they sent their employees to Africa to survey. An employee, after carefully examining the situation, reported back to his company: "People here only go barefoot. They do not have the habit of wearing shoes and have never worn shoes. We cannot develop the market here." From the above report, this company is no longer interested in the African market. Indeed, after that, the company quickly implemented its shoe sales plan. They immediately opened shoe stores. At the same time, send people to guide and persuade people to wear shoes. In just a short time, they earned a huge profit. We can clearly see that even though the same event happened, it was from the different perspectives and different thoughts of two people that the results were clearly different. The first person is conservative and stubborn with old and outdated principles. He only saw the expression of people not wearing shoes but did not see the reason for that expression. He also did not see the trend and need for people to wear shoes. That is a outdated, stereotypical, mechanical and harmful way of thinking. On the contrary, the employee of the other company had a different perspective and thinking. He surveys the market with a more positive view. He deduced that humans have always had a need to wear shoes. That is the inevitable trend of the times. He realized the reason why people weren't wearing shoes yet. Because there is no one selling shoes there, people do not have the habit of wearing shoes. It is an opportunity to quickly dominate the market without fear of competition. Just bring the shoes and show them how to wear them, convince them to buy them and you're done. However, not all other perspectives and thoughts are positive. What matters is whether you aim to solve problems and seek opportunities. Don't rush to surrender or give up in the face of difficulties and obstacles. Every thought should be filled with motivation and desire to win. Surely, opportunities will come after all obstacles have been resolved.
Gươm thần là một nhân vật vô cùng quan trọng trong truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm. Hãy nêu những cảm nhận của em về nhân vật này Gợi ý Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm đã thể hiện niềm tự hào vô bờ về lòng yêu nước, yêu hoà bình của dân lộc Việt Nam ta. Góp phần khẳng định truyền thống quý báu đó của dân tộc là “nhân vật” gươm thần trong tác phẩm. Gươm thần nguyên là của Đức Long Quân. Ngài đã cho nghĩa quân mượn vì muốn nghĩa quân đánh thắng giặc. Long Quân là một trong những nhân vật thần kì do nhân dân sáng tạo ra. Bằng chi tiết Long Quân cho nghĩa quân Lê Lợi mượn gươm thần, tác giả dân gian đã chứng tỏ rằng cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn hợp chính nghĩa, lòng người; được nhân dân hết lòng ủng hộ. Khi đó, gươm thần trở thành hiện thân cho sự đồng thuận của thần và người đối với sự nghiệp đánh dẹp giặc Minh của nghĩa quân Lam Sơn (trên thanh gươm còn nêu lên hai chữ “Thuận Thiên”). Cách thức gươm thần đến với Lê Lợi cũng rất đặc biệt. Vị chủ tướng của nghĩa quân Lam Sơn không trực tiếp nhận gươm. Người đánh cá Lê Thận sau ba lần quăng lưới vất vả mới nhận được lưỡi gươm dưới nước. Có thể nói chi tiết này hàm ý nhắn nhủ: kháng chiến muốn thắng lợi phải biết kiên trì, nhẫn nại. Lê Lợi nhận được chuôi gươm trên rừng, đem khớp với lưỡi gươm nhận được ở vùng biển của Thận thì “vừa như in”. Điều đó chứng tỏ sức mạnh của gươm thần thực chất là sức mạnh đoàn kết, thống nhất nguyện vọng, ý chí chống giặc ngoại xâm của toàn dân tộc, từ miền xuôi cho đến miền ngược, từ đồng bằng cho đến miền rừng núi. Hai chữ “Thuận Thiên” (hợp lòng trời) trên lưỡi gươm thần nhấn mạnh tính chất chính nghĩa, hợp lòng người, lòng trời của nghĩa quân Lam Sơn. Đến với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, gươm thần đã phát huy sức mạnh thần kì của mình. Từ khi có gươm thần, nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng cao. Sức mạnh của gươm thần làm cho quân Minh bạt vía. Từ bị động và nhiều lần thua trận, nghĩa quân chủ động đi tìm giặc đánh và đã chiến thắng giòn giã, đuổi hẳn quân Minh về nước. Đất nước đã thanh bình, Long Quân cho Rùa Vàng lên đòi lại gươm. Khi ấy Lê Lợi đang dạo chơi trên hồ Tả Vọng, Rùa Vàng nhô lên, lưỡi gươm đeo bên mình Lê Lợi động đậy. Rùa Vàng nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”. Vua rút gươm nâng về phía Rùa Vàng, Rùa Vàng ngậm lấy và lặn xuống nước. Là một “nhân vật” đặc biệt trong truyền thuyết nổi tiếng của văn học nước nhà song gươm thần thực sự mang những ý nghĩa sâu sắc, thấm thía.
Magic Sword is an extremely important character in the legend of The Legend of Sword Lake. Please tell me your feelings about this character Suggest The Legend of Sword Lake has shown the boundless pride of the patriotism and love of peace of our Vietnamese people. Contributing to affirming that precious tradition of the nation is the "character" of the magic sword in the work. The Divine Sword originally belonged to Duc Long Quan. He lent it to the insurgents because he wanted the insurgents to defeat the enemy. Long Quan is one of the magical characters created by the people. By detailing how Long Quan lent his magical sword to Le Loi's insurgent army, the folk author demonstrated that the Lam Son insurgent's uprising was in accordance with the cause and people's hearts; wholeheartedly supported by the people. At that time, the magic sword became the embodiment of the consensus of gods and people towards the Lam Son insurgent army's cause of defeating the Ming invaders (on the sword there were also the words "Thuan Thien"). The way the magic sword came to Le Loi was also very special. The general of the Lam Son insurgent army did not directly receive the sword. Fisherman Le Than, after three hard casts of the net, found the sword underwater. It can be said that this detail implies a message: if the resistance war wants to win, we must know how to persevere and be patient. Le Loi received the hilt of the sword in the forest and matched it with the sword blade he received in Than's sea area and it "fits perfectly". This proves that the power of the magic sword is essentially the power of solidarity, unifying the aspirations and will to fight against foreign invaders of the entire nation, from the lowlands to the uplands, from the plains to the mountains and forests. The two words "Thuan Thien" (in accordance with the heart of heaven) on the magic sword emphasize the righteous nature, in accordance with the hearts of people and the heart of heaven, of the Lam Son insurgent army. Coming to Le Loi and the Lam Son insurgent army, the magic sword exerted its miraculous power. Since the arrival of the magic sword, the morale of the insurgent army has increased day by day. The power of the magic sword made the Ming army overwhelmed. From being passive and losing many times, the insurgents proactively sought out the enemy and won a decisive victory, driving the Ming army back to the country. The country was peaceful, Long Quan sent the Golden Turtle to reclaim the sword. At that time, Le Loi was walking on Ta Vong Lake, the Golden Turtle emerged, and the sword hanging next to Le Loi's body moved. Golden Turtle said: "Your Majesty, please return the sword to Long Quan." The King pulled out his sword and lifted it towards the Golden Turtle. The Golden Turtle took it in his mouth and dived into the water. As a special "character" in famous legends of our country's literature, the magic sword truly carries deep and penetrating meanings.
gười không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc Hướng dẫn gười không có chữ tín, chẳng làm chi nên việc Bài làm Người xưa đã có câu: ” Một lần mất tín vạn lần mất tin”, bởi vậy chữ tín trong cuộc sống lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng và lớn lao. Nó không chỉ đánh giá con người và danh dự nhân phẩm của người ấy mà còn đánh giá được năng suất cũng như chất lượng công việc mà người ấy làm. Chữ tín không phải thể hiện ở lời nói ” một câu hứa” xong rồi bỏ đấy mà là thể hiện ở cả hành động và sự quyết tâm hoàn thành công việc. Chữ tín không chỉ là lời hứa đầu môi. Trong công việc cũng như cuộc sống hàng ngày chúng ta có biết bao nhiêu điều phải làm bao nhiêu thứ phải trải qua và hơn hết chúng ta hiểu lời hứa là một điều mà chúng ta phải làm trong cuộc sống của mình. Những lời nói tưởng chừng như đơn giản trong cuộc sống hàng ngày kia lại có một ảnh hưởng rất lớn tới tính cách và hành động của chúng ta. Môt lần chúng ta hứa chúng ta không làm được nhưng tới hai lần ba lần, lời hứa đó lại không có giá trị và không ai hiểu được chúng ta đang muốn làm gì. Không ai tin tưởng nghĩa là cô độc. Chữ tín đi với lòng trách nhiệm. Trách nhiệm và sư quyết tâm hoàn thành công việc và những điều mà mình đã hứa từ trước. Bởi là người có trách nhiệm nên bạn sẽ không bao giờ muốn những người bên cạnh mình phiền lòng và buồn bã hoặc bực tức với những hành động thiếu sự quyết đoán và quyết tâm của mình. Những công việc trở nên nhàm chán những dự định lại trở nên thiếu động lực và người ta sẽ ” thiếu niềm tin vào những hành động và lời nói của chính bản thân chúng ta” Thiếu chữ tín tức là thờ ơ là bàng quang và không quan tâm tới kết quả công việc ra sao. Những người làm được việc lớn họ bỏ ra thời gian và công sức thì họ nhận lại được những gì xứng đáng với sự nỗ lực đó. đi song song với hành động quyết đoán và mong muốn một kết quả như ý muốn con người phải đặt chữ tín lên hàng đầu. Ông bà xưa đã dạy quả là không sai, sự cố gắng bên bỉ trong một con người đầy sự quyết tâm sẽ không thiếu những nét đẹp của sự bền bỉ và đạt được những kết quả như ý muốn. nếu cuộc sống này luôn luôn có những người theo đuổi bằng được đam mê và những điều mình đã đặt ra thì cũng có những con người vì quá yêu chiều bản thân mà làm mât đi chính thứ quý giá của mình- chữ tín. Bằng lòng nhiệt huyết và đầy trách nhiệm hãy cho người khác thấy sức mạnh của bạn trỗi dậy như thế nào và hãy thực hiện nó thật tốt.
A person without credit can do nothing Instruct A person without credit can do nothing Assignment The ancients had a saying: "If you lose trust once, you will lose it ten thousand times", so trust in life has an extremely important and great meaning. It not only evaluates the person and his or her honor and dignity, but also evaluates the productivity and quality of the work that person does. Credibility is not shown in saying "a promise" and then leaving it at that, but is shown in both actions and determination to complete the job. Credibility is not just a lip-service promise. In work and daily life, we have so many things to do, so many things to go through, and most of all, we understand that a promise is something we must do in our lives. Those seemingly simple words in everyday life have a huge influence on our personality and actions. Once we make a promise and we can't keep it, but two or three times, that promise is worthless and no one understands what we are trying to do. Trusting no one means being alone. Credibility comes with responsibility. Responsibility and determination to complete the work and things that you have promised before. Because you are a responsible person, you will never want the people around you to be upset, sad or angry with your lack of decisiveness and determination. Jobs become boring, plans become unmotivated and people will "lack confidence in our own actions and words." Lack of credibility means being indifferent and indifferent and not caring about the results of work. People who can do great things spend time and effort and get what they deserve in return for that effort. Along with decisive action and the desire for a desired result, people must put trust first. What our ancestors taught us is not wrong, persistent effort in a person full of determination will not lack the beauty of perseverance and achieving the desired results. If in this life there are always people who pursue their passion and what they set out to do, there are also people who love themselves too much and lose their precious thing - their trust. With enthusiasm and responsibility, show others how your strength has arisen and do it well.
Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng Hướng dẫn Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng Bài làm Một trong những yếu tố quan trọng để hình thành nhân cách con người là môi trường sống. Bởi thế nhân dân ta đã có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Nhưng yếu tố con người còn quan trọng hơn cả môi trường sống. Bởi con người tốt hay xấu phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh của chính con người đó. Vì thế gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Quả đúng như vậy, thường xuyên sử dụng bút mực, bị mực dây ra tay là điều khó tránh khỏi. Ngồi gần đèn, được đèn chiếu vào đuơng nhiên sẽ sáng sủa. Cũng như con người, nếu sống trong môi trường tốt sẽ dễ thành người tốt, còn sống trong môi trường xấu sẽ dễ thành kẻ xấu. “Gần mực thì đen ”, Chí Phèo trong truyện của nhà văn Nam Cao, vốn là anh nông dân hiền lành, chất phác bỗng nhiên bị nghi ngờ có tội, phải đi ở tù. Sau bao năm, trở về quê cũ, Chí Phèo thay đổi hẳn. Hắn đã trở thành con quỷ dữ ở làng Vũ Đại. Chính nhà tù của xã hội thực dân phong kiến đen tối, khắc nghiệt đã đày đọa cuộc sống con người, làm thay đổi con người như thế. Còn sống trong môi trường tốt mà không chịu thường xuyên tu dưỡng thì cũng chỉ như những thanh thép, để lâu ngày không tôi luyện sẽ han gỉ, trở thành vật vô dụng. Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, có những chiến sĩ tình báo luôn hoạt động thầm lặng. Chiến trường của họ không đẩy bom rơi lửa đạn nhưng cũng thật cam go, khắc nghiệt. Sống giữa sự xa hoa, những lời lẽ dụ dỗ của quân địch, liệu họ có phản bội Tổ quốc? Làm thế nào để bên ngoài vỏ bọc lính ngụy, bên trong họ vẫn giữ vững phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ? Sống quanh những lời xì xầm, bàn tán, bị coi là Việt gian, liệu họ có dũng cảm tiếp tục công việc? Trong môi trường ấy, đòi hỏi người chiến sĩ tình báo không chỉ cần bộ óc nhanh nhạy mà còn cần một bản lĩnh vững vàng để tự chiến đấu với bản thân. Ngược lại, thật đáng buồn khi ngày nay có một số bạn trẻ sống trong những gia đình khá giả, nề nếp, được đi học nhưng lại nhiễm tệ nạn, trở nên hư hỏng. Tóm lại, câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” đã giúp ta thấy rõ rằng môi trường sống có ảnh hưởng không nhỏ đến mỗi con người. Nhưng dù ở môi trường không tốt nếu có bản lĩnh thì ta vẫn như đóa sen thơm ngát: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Near ink it's black, near light it's bright Instruct Near ink it's black, near light it's bright Assignment One of the important factors in forming human personality is the living environment. That's why our people have a saying: "Near the ink, it's dark, near the light, it's bright". But the human factor is even more important than the living environment. Because whether a person is good or bad depends a lot on that person's own bravery. So being close to ink is not necessarily dark, being close to a light is not necessarily bright. "Close to ink, it's black, close to light, it's bright." That's right, if you regularly use pens, getting ink on your hands is unavoidable. Sitting close to the light, the light shining on it will naturally be bright. Just like people, if you live in a good environment, you will easily become a good person. If you live in a bad environment, you will easily become a bad person. "Close to the ink, it's black", Chi Pheo in the story by writer Nam Cao, originally a gentle and simple farmer, was suddenly suspected of being guilty and had to go to prison. After many years, returning to his old hometown, Chi Pheo changed completely. He became a devil in Vu Dai village. It was the prison of the dark, harsh feudal colonial society that tormented human life and changed people like that. Living in a good environment without regular maintenance is just like steel bars. If left untempered for a long time, they will rust and become useless. During the resistance war against foreign invaders, there were intelligence soldiers who always worked silently. Their battlefield is not filled with bombs and bullets, but it is also very arduous and harsh. Living amidst the luxury and seductive words of the enemy, will they betray the Fatherland? How can outside the guise of puppet soldiers, inside they still maintain the qualities of Uncle Ho's soldiers? Living around whispers, gossip, and being considered Vietnamese traitors, will they have the courage to continue their work? In that environment, intelligence soldiers not only need a quick mind but also a strong spirit to fight with themselves. On the contrary, it is sad that today there are some young people who live in well-off, well-disciplined families, go to school, but are infected with vices and become corrupt. In short, the proverb "Near the ink, it's black, near the light, it's bright" helps us clearly see that the living environment has a significant influence on each person. But even in a bad environment, if we have courage, we are still like a fragrant lotus flower: "Close to the mud but not stinking of mud."
Gợi ý làm văn giải thích và bình luận câu tục ngữ Tấc đất, tấc vàng Hướng dẫn I. Mở bài: … gắn liền với cuộc sống của mỗi người, mỗi nhà. Đã có biết bao câu ca, bài hát nói về giá trị của đất đai, ruộng vườn… nhưng gắn gọn và sâu’sắc nhất là câu tục ngữ: ‘Tắc đất, tấc vàng’. II. Thân bài: 1. Phần giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng, ý nghĩa. ‘Tấc’là đơn vị đo lường, theo cách nói, cách tính toán, đo đạc của nhân dân ta ngày xưa. Từ ‘tấc đất’ khái niệm về diện tích chuyển sang cách nói ‘tấc vàng’; 194 một diện tích hạn hẹp, so sánh với một khối lượng và giá trị ‘tấc vàng’. Nhân dân ta đã lấy ‘tấc đất’ so sánh với ‘tấc vàng’, lấy cái bình thường để so sánh với cái quý hiếm, nhăm khẳng định một chân lí: đất quý như vàng, đất đai trồng trọt có giá trị đặc biệt. Câu tục ngữ còn mang một hàm nghĩa, khuyên mọi người phải biết quý trọng và bảo vệ đất đai ruộng đồng để sản xuất. 2. Phần bình luận. a. Bình: Câu tục ngữ ‘tấc đất, tấc vàng’ hoàn toàn đúng; ngày xưa, đúng; ngày nay vân đúng. Đất rất quý: đất để làm nhà, ruộng đồng, nương rẫy để trồng trọt, gieo cấy cây trái, lúa, hoa màu… Từ cái ăn cái mặc đến hoa thơm quả ngọt bốn mùa đều do đất mà có. Đất để phát triển nghề nông. Đất cho ta bãi lúa nương dâu xanh biếc. Đất là nguồn sống vô tận của con người, không thể thiếu. Trong lòng đất hàm chứa nguồn nước và bao khoáng sản quý báu. Tóm lại, đất quý như vàng, đất quý hơn vàng. b. Luận: Đất đai, ruộng vườn chỉ quý và vô giá khi có bàn tay, khối óc của con người tác động vào. Con người chăm bón, vun xới, dẫn thủy nhập điền… làm cho đất thêm màu mỡ. Đất trở thành ‘bờ xôi ruộng mật’ thì lúc ấy mới thật sự là ‘tấc đất, tấc vàng’. Qua câu tục ngữ, nhân dân ta khuyên nhủ mọi người biết quan tâm bảo vệ, giữ gìn đất, không được làm cho ruộng đồng, vườn tược… bị bạc màu, khô xác, cằn cỗi. Không ai được lãng phí hoặc bỏ hoang đất. Ca dao có câu: ‘Ai ơi, chớ bỏ ruộng hoang, Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu!’ Nước ta từ một nền nông nghiệp đi lên, đất là tài sản quốc gia. Chính sách khai hoang, lấn biển giao đất giao rừng, mở mang vùng kinh tế mới của Chính phủ hiện nay đã làm cho nền nông nghiệp nước ta phát triển mạnh, cuộc sống của hàng chục triệu nông dân ngày thêm ấm no, giàu có. Cuộc ‘cách mạng xanh’ với nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chống sâu bệnh… là nhân tố quan trọng làm cho đất thực sự là ‘tấc đất, tấc vàng’. Nông nghiệp đang trở thành nền sản xuất hàng hóa trong sự phát triển kinh tế thị trường. Nước ta đã xuất kháu được hơn nhiều triệu tấn gạo đứng thứ hai các nước xuất khẩu gạo trên thế giới. Vấn đề lương thực nuôi sống hơn 80 triệu người đã được giải quyết. Cho nên, mỗi chúng ta càng thêm thấm thía đất quý hơn vàng. ‘Ruộng rẫy là chiến trường, Cuốc cày là vũ khí, Nhà nông là chiến sĩ’ Thời nào cũng vậy, tình yêu đất đai, vườn tược, ruộng đồng của con người Việt Nam gắn liền với tình yêu quê hương đất nước. III. Kết luận: Tóm lại, câu tục ngữ ‘Tấc đất, tấc vàng’ đã khẳng định giá trị của đất: đất quý như vàng, đất quý hơn vàng. Nó nhắc nhở mọi người phải biết quý trọng, giữ gìn, bảo vệ đất đai; không ai được phá hoại đất đai, lãng phí đất đai. Nhà nông phải chăm bón, vun xới cho vườn tược, ruộng rẫy được màu mỡ, tươi tốt. Sau chiến tranh, đất đai bị tàn phá nặng nề, rừng đầu nguồn bị chặt phá bừa bãi, đất bị xói mòn, bị bạc màu nghiêm trọng. Dân số tăng nhanh, bình quân đất canh tác tính theo đầu người giảm đi nhanh chóng. Vì thế, hơn bao giờ hết, mỗi người công dân phải có nghĩa vụ giữ gìn và bảo vệ đất đai, đồng ruộng. Đất nuôi sống người. Đất là Tổ quốc thiêng liêng mà ta yêu quý: ‘Tấc đất, tấc vàng’.
Suggestions for writing an essay explaining and commenting on the proverb An inch of land, an inch of gold Instruct I. Introduction: ... associated with the life of every person and every home. There have been countless verses and songs about the value of land, fields and gardens... but the most concise and profound is the proverb: 'Clock of land, inch of gold'. II. Body of the article: 1. The explanation of the literal, figurative, and meaning. 'Inch' is a unit of measurement, according to the way of speaking, calculating and measuring of our people in the past. From 'inch of land', the concept of area changed to saying 'inch of gold'; 194 a limited area, compared to a volume and value of an 'inch of gold'. Our people have compared an 'inch of land' with an 'inch of gold', compared the ordinary with the rare, aiming to confirm a truth: land is as precious as gold, arable land has special value. . The proverb also carries a meaning, advising people to appreciate and protect farmland for production. 2. Comments section. a. Jar: The proverb 'an inch of land, an inch of gold' is absolutely true; in the old days, yes; It's true today. Land is very precious: land to build houses, fields, fields to grow crops, cultivate fruit trees, rice, crops... From food to clothing to fragrant flowers and sweet fruits in all four seasons, all come from the land. Land for agricultural development. The land gives us green fields of rice and mulberry fields. Land is an endless source of human life, indispensable. The ground contains water and precious minerals. In short, land is as precious as gold, land is more precious than gold. b. Essay: Land, fields and gardens are only precious and priceless when human hands and minds influence them. People fertilize, cultivate, bring water to the fields... making the land more fertile. The land becomes 'a sticky rice field', then it is truly 'an inch of land, an inch of gold'. Through proverbs, our people advise everyone to take care to protect and preserve the land, not to let fields, gardens... become faded, dry, or barren. No one should waste or abandon land. The folk song has a saying: 'Hey, don't leave your fields fallow, How many feet underground, yellow feet much!' Our country has grown from an agricultural background, land is a national asset. The current Government's policy of reclamation, land reclamation, forest allocation, and expansion of new economic zones has made our country's agriculture develop strongly, making the lives of tens of millions of farmers more prosperous and prosperous. . The 'green revolution' with many new high-yield, pest-resistant rice varieties... is an important factor that makes land truly 'an inch of land, an inch of gold'. Agriculture is becoming a commodity production base in the development of a market economy. Our country has exported more than many million tons of rice, ranking second among rice exporting countries in the world. The problem of food to feed more than 80 million people has been solved. Therefore, each of us understands more and more that land is more precious than gold. ‘The fields are a battlefield, The plow is a weapon, Farmers are soldiers' As always, the love of land, gardens, and fields of Vietnamese people is closely linked to the love of their homeland. III. Conclude: In short, the proverb 'An inch of land, an inch of gold' affirms the value of land: land is as precious as gold, land is more precious than gold. It reminds people to appreciate, preserve, and protect land; No one is allowed to destroy or waste land. Farmers must fertilize and cultivate their gardens and fields to be fertile and lush. After the war, the land was severely devastated, watershed forests were cut down indiscriminately, and the soil was seriously eroded and degraded. Population increased rapidly, average arable land per capita decreased rapidly. Therefore, more than ever, each citizen has the obligation to preserve and protect land and fields. Land nourishes people. Land is the sacred Fatherland that we love: 'Inch of land, inch of gold'.
Hai bức tranh thiên nhiên – hai hồn thơ thắm thiết tình quê – Bình giảng văn 7 Hướng dẫn Trong thời kì văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người,… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Hai bài thơ Thiên Trường vãn vọng của vua Trần Nhân Tông, Côn Sơn ca của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế. Qua hai bức tranh cảnh vật và con. người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên – hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng. Bài thứ nhất: Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra). Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên Mục đồng địch lí ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền. Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác cố dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Tương truyền: sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hoà, nhẹ nhàng, thanh thoát. Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có đường không Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhoà, mờ tỏ, bán vô bán hữu nửa như có, nửa như không. Khói toả từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là nhũng làn sương chiều lãng đãng hoà quyện với những vầng khói thổi cơm từ nhũng mái nhà lan toả thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng, thanh thản, khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người như cũng lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hoà hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động: Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muốn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi! Người, vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc…, tất cả đã hoà nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật. Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hoà với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà súng tác những vần thơ gợi hình gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã. Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông bộc lộ một tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điểu đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần. Bài thứ hai: Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi. Nguyên tác bài thơ này bằng chữ Hán viết theo thể thơ khác và khá dài. Ở đây, chúng ta được đọc một đoạn dịch theo thể thơ lục bát mang vóc dáng thơ ca dân tộc: Côn Sơn suối chảy rì rầm… … Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Về Nguyễn Trãi, chúng ta biết rằng: ông là người có công lớn trong việc phụ tá vua Lê Lợi cầm quân đánh thắng giặc Minh xâm lược thế kỉ XV. Nhưng khi hoà bình trở lại, đất nước đi vào công cuộc xây dựng và phát triển thì ông bị ghen ghét, nghi ngờ bởi những kẻ xấu xa. Đang làm quan, Nguyễn Trãi phải cáo quan về ở ẩn. Sau đó, ông lại bị chết thảm thương trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442. Với công lao to lớn và tài năng toàn diện, Nguyễn Trãi đã được nhân dân ta tôn vinh là anh hùng dân tộc và thế giới đã tặng ông danh hiệu Danh nhân văn hoá. Bài thơ Côn Sơn ca có thể được ra đời khi Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn. Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là vùng đất gắn bó bằng nhiều kỉ niệm từ thuở ấu thơ đến lúc tuổi già. Nơi đây có núi non hùng vĩ, cây cối tốt tươi, sơn thuỷ hữu tình. Đây là đất được phong của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi. Cha Nguyễn Trãi từng đến dạy học nơi đây, rồi kết duyên với tiểu thư con gái quan tư đồ. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã nhiều năm tuổi trẻ sống ở đây. Khi cáo quan, Nguyễn Trãi về với Côn Sơn như về với nơi chôn nhau, cắt rốn, về với bạn bè tri kỉ tri âm. Mỗi hòn đá, gốc cây, ngọn suối, đất nước và mây trời Côn Sơn gắn bó với người anh hùng, vị danh nhân văn hoá bằng tình cảm máu thịt. Vì thế, bài Côn Sơn ca là tiếng nói cất lên từ trái tim sâu nặng, da diết của Nguyễn Trãi. Sống giữa Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã nhìn ngắm, suy ngẫm và làm những việc gì? Đoạn thơ chia làm hai đoạn nhỏ thể hiện hai khía cạnh nội dung. Ta hãy đọc bốn dòng thơ đầu: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trẽn đá như ngồi chiếu êm. Nghe tiếng suối rì rầm, nhà thơ mường tượng ra tiếng đàn khi trầm, khi bổng, réo rắt bên tai. Nhìn thấy mặt đá phẳng có rêu phơi, nhà thơ ngồi trên đá mà ngỡ như đang “ngồi chiếu êm”. Tri tưởng tượng và nghệ thuật so sánh của Nguyễn Trãi thật lãng mạn, thật tài hoa. Tạo vật thiên nhiên bỗng hoá thành những vật dụng của con người, gần gũi, thân thương với con người. Đôi tai nhạy cảm của thi sĩ đã thổi hồn vào tiếng suối, khiến cho nó vốn đơn điệu trở thành cây đàn đa thanh, cuốn hút. Xúc giác tinh tế của nhà thơ đã hoá thân cho mặt đá vốn khô rắn thành mặt chiếu dịu êm. Những biến đổi ấy kì diệu làm sao! Nguyễn Trãi đã thưởng thức những nét đẹp ấy ở Côn Sơn một cách say mê, hào hứng. Trong ghềnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Câu năm và câu sáu tiếp tục nghệ thuật so sánh tài hoa và một cử chỉ thanh thản tuyệt vời. Đọc thơ, ta ngỡ Nguyễn Trãi đang nằm giữa một rừng thông xanh ngắt, mát rợp, thả hồn trong sắc màu của cỏ cây, đắm chìm trong bóng râm, gió thoảng, ngủ một giấc ngon lành, để quên hết sự đời, rũ bỏ mọi vướng bận, để hoá thân vào hư vô, vũ trụ. Nhưng đến hai câu cuối thì bất ngờ thay, Nguyễn Trãi không ngủ, trái lại ông đã cất tiếng ngâm thơ, nhũng bài “thơ nhàn”. Nếu có điều kiện đọc tiếp những dòng thơ sau đoạn này, ta sẽ thấy nhũng bài “thơ nhàn” của Nguyễn Trãi không phải nói về thú vui nhàn tản vô vị như nhiều nhà nho bế tắc thời trung đại mà là những suy nghĩ, nhũng quan niệm sâu sắc mang tính triết lí thời đại, triết lí nhân sinh tiến bộ. Tóm lại, đoạn thơ tám dòng của Bài ca Côn Sơn cho ta thấy một sự giao hoà tuyệt đối giữa Nguyễn Trãi với cảnh vật Côn Sơn. Sự giao hoà đó vừa nói lên nhân cách thanh cao, vừa nói lên phẩm chất thi sĩ lớn lao của Nguyễn Trãi vì tất cả là dựa trên một triết lí sâu xa: con người và thiên nhiên là một, muốn sống thanh thản, con người hãy đến với thiên nhiên, tìm ở thiên nhiên những vẻ đẹp, những biến đổi kì diệu để có cách ứng xử đúng nhất… Nhìn tổng hợp lại, hai bài thơ Thiên Trường vãn vọng của ông vua – thi sĩ Trần Nhân Tông và Côn Sơn ca của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi tuy xuất hiện từ xa xưa, lại là tiếng nói và tâm hồn của hai bậc vĩ nhân, nói bằng những từ ngữ cổ xưa, nhưng vẫn rất gần gũi với thế hệ chúng ta ngày nay. Đọc hai bài thơ, chúng ta như được về thăm lại những miền quê thanh bình, những địa danh quen thuộc, được hoà nhập với tâm hồn người xưa trong tình yêu quê hương Tổ quốc thật nhẹ nhàng mà thấm thìa. Đúng là: hai bức tranh thiên nhiên trĩu nặng hai hồn thơ thắm thiết tình quê, tình đời… Xem lại bình giảng bài Khúc khải hoàn đầu tiên
Hai bức tranh thiên nhiên – hai hồn thơ thắm thiết tình quê – Bình giảng văn 7 Hướng dẫn Trong thời kì văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người,… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Hai bài thơ Thiên Trường vãn vọng của vua Trần Nhân Tông, Côn Sơn ca của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế. Qua hai bức tranh cảnh vật và con. người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên – hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng. Bài thứ nhất: Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra). Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên Mục đồng địch lí ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền. Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác cố dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Tương truyền: sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hoà, nhẹ nhàng, thanh thoát. Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có đường không Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhoà, mờ tỏ, bán vô bán hữu nửa như có, nửa như không. Khói toả từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là nhũng làn sương chiều lãng đãng hoà quyện với những vầng khói thổi cơm từ nhũng mái nhà lan toả thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng, thanh thản, khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người như cũng lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hoà hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động: Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muốn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi! Người, vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc…, tất cả đã hoà nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật. Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hoà với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà súng tác những vần thơ gợi hình gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã. Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông bộc lộ một tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điểu đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần. Bài thứ hai: Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi. Nguyên tác bài thơ này bằng chữ Hán viết theo thể thơ khác và khá dài. Ở đây, chúng ta được đọc một đoạn dịch theo thể thơ lục bát mang vóc dáng thơ ca dân tộc: Côn Sơn suối chảy rì rầm… … Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Về Nguyễn Trãi, chúng ta biết rằng: ông là người có công lớn trong việc phụ tá vua Lê Lợi cầm quân đánh thắng giặc Minh xâm lược thế kỉ XV. Nhưng khi hoà bình trở lại, đất nước đi vào công cuộc xây dựng và phát triển thì ông bị ghen ghét, nghi ngờ bởi những kẻ xấu xa. Đang làm quan, Nguyễn Trãi phải cáo quan về ở ẩn. Sau đó, ông lại bị chết thảm thương trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442. Với công lao to lớn và tài năng toàn diện, Nguyễn Trãi đã được nhân dân ta tôn vinh là anh hùng dân tộc và thế giới đã tặng ông danh hiệu Danh nhân văn hoá. Bài thơ Côn Sơn ca có thể được ra đời khi Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn. Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là vùng đất gắn bó bằng nhiều kỉ niệm từ thuở ấu thơ đến lúc tuổi già. Nơi đây có núi non hùng vĩ, cây cối tốt tươi, sơn thuỷ hữu tình. Đây là đất được phong của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi. Cha Nguyễn Trãi từng đến dạy học nơi đây, rồi kết duyên với tiểu thư con gái quan tư đồ. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã nhiều năm tuổi trẻ sống ở đây. Khi cáo quan, Nguyễn Trãi về với Côn Sơn như về với nơi chôn nhau, cắt rốn, về với bạn bè tri kỉ tri âm. Mỗi hòn đá, gốc cây, ngọn suối, đất nước và mây trời Côn Sơn gắn bó với người anh hùng, vị danh nhân văn hoá bằng tình cảm máu thịt. Vì thế, bài Côn Sơn ca là tiếng nói cất lên từ trái tim sâu nặng, da diết của Nguyễn Trãi. Sống giữa Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã nhìn ngắm, suy ngẫm và làm những việc gì? Đoạn thơ chia làm hai đoạn nhỏ thể hiện hai khía cạnh nội dung. Ta hãy đọc bốn dòng thơ đầu: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trẽn đá như ngồi chiếu êm. Nghe tiếng suối rì rầm, nhà thơ mường tượng ra tiếng đàn khi trầm, khi bổng, réo rắt bên tai. Nhìn thấy mặt đá phẳng có rêu phơi, nhà thơ ngồi trên đá mà ngỡ như đang “ngồi chiếu êm”. Tri tưởng tượng và nghệ thuật so sánh của Nguyễn Trãi thật lãng mạn, thật tài hoa. Tạo vật thiên nhiên bỗng hoá thành những vật dụng của con người, gần gũi, thân thương với con người. Đôi tai nhạy cảm của thi sĩ đã thổi hồn vào tiếng suối, khiến cho nó vốn đơn điệu trở thành cây đàn đa thanh, cuốn hút. Xúc giác tinh tế của nhà thơ đã hoá thân cho mặt đá vốn khô rắn thành mặt chiếu dịu êm. Những biến đổi ấy kì diệu làm sao! Nguyễn Trãi đã thưởng thức những nét đẹp ấy ở Côn Sơn một cách say mê, hào hứng. Trong ghềnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Câu năm và câu sáu tiếp tục nghệ thuật so sánh tài hoa và một cử chỉ thanh thản tuyệt vời. Đọc thơ, ta ngỡ Nguyễn Trãi đang nằm giữa một rừng thông xanh ngắt, mát rợp, thả hồn trong sắc màu của cỏ cây, đắm chìm trong bóng râm, gió thoảng, ngủ một giấc ngon lành, để quên hết sự đời, rũ bỏ mọi vướng bận, để hoá thân vào hư vô, vũ trụ. Nhưng đến hai câu cuối thì bất ngờ thay, Nguyễn Trãi không ngủ, trái lại ông đã cất tiếng ngâm thơ, nhũng bài “thơ nhàn”. Nếu có điều kiện đọc tiếp những dòng thơ sau đoạn này, ta sẽ thấy nhũng bài “thơ nhàn” của Nguyễn Trãi không phải nói về thú vui nhàn tản vô vị như nhiều nhà nho bế tắc thời trung đại mà là những suy nghĩ, nhũng quan niệm sâu sắc mang tính triết lí thời đại, triết lí nhân sinh tiến bộ. Tóm lại, đoạn thơ tám dòng của Bài ca Côn Sơn cho ta thấy một sự giao hoà tuyệt đối giữa Nguyễn Trãi với cảnh vật Côn Sơn. Sự giao hoà đó vừa nói lên nhân cách thanh cao, vừa nói lên phẩm chất thi sĩ lớn lao của Nguyễn Trãi vì tất cả là dựa trên một triết lí sâu xa: con người và thiên nhiên là một, muốn sống thanh thản, con người hãy đến với thiên nhiên, tìm ở thiên nhiên những vẻ đẹp, những biến đổi kì diệu để có cách ứng xử đúng nhất… Nhìn tổng hợp lại, hai bài thơ Thiên Trường vãn vọng của ông vua – thi sĩ Trần Nhân Tông và Côn Sơn ca của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi tuy xuất hiện từ xa xưa, lại là tiếng nói và tâm hồn của hai bậc vĩ nhân, nói bằng những từ ngữ cổ xưa, nhưng vẫn rất gần gũi với thế hệ chúng ta ngày nay. Đọc hai bài thơ, chúng ta như được về thăm lại những miền quê thanh bình, những địa danh quen thuộc, được hoà nhập với tâm hồn người xưa trong tình yêu quê hương Tổ quốc thật nhẹ nhàng mà thấm thìa. Đúng là: hai bức tranh thiên nhiên trĩu nặng hai hồn thơ thắm thiết tình quê, tình đời… Xem lại bình giảng bài Khúc khải hoàn đầu tiên
Hai bức tranh đời tương phản – Bình giảng văn 7 Hướng dẫn Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tấm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn. Đoạn một: từ “Gần một giờ đêm…” đến “… Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn hai: từ “Ây, lũ con dân…” đến “… Điếu mày”: cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”. Đoạn ba: phần còn lại: cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu. Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tổng – những kẻ chức sắc ở địa phương – say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân “hộ đê”. Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động… Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt. Về thời gian, đây là lúc “gần một giờ đêm” nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà Văn muốn nói rằng: cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. “Mưa tầm tã”, rồi lại “trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống”. Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. “Nước sông Nhị Hà lên to quá” rồi lại “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng! “Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau…”. Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau: “tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm”, kết hợp một hình ảnh so sánh “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán “xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay! Nguy thay Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trự tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta. Bức tranh đòi thứ hai, tương phản với cảnh nhãn dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân… Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến… lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. “Đèn thắp sáng trưng ; nha lệ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại…”. Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn “uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra đệ cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…”. Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,… Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,… Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ đạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi… chơi! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm mình trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp đợi chờ ván bài ù to. Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ!”. Tên quan gắt: “Mặc kệ!”. Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin “Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi” thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng: “Đê vỡ rồi!… thời ông cách cổ chúng mày, bỏ tù chúng mày!”. Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề “tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…” (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”. Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hưởng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!”. Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyên vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm. Xem lại bài bình giảng Nguồn gốc, nhiệm vụ công dụng của văn chương
Hai bức tranh đời tương phản – Bình giảng văn 7 Hướng dẫn Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tấm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn. Đoạn một: từ “Gần một giờ đêm…” đến “… Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn hai: từ “Ây, lũ con dân…” đến “… Điếu mày”: cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”. Đoạn ba: phần còn lại: cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu. Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tổng – những kẻ chức sắc ở địa phương – say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân “hộ đê”. Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động… Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt. Về thời gian, đây là lúc “gần một giờ đêm” nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà Văn muốn nói rằng: cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. “Mưa tầm tã”, rồi lại “trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống”. Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. “Nước sông Nhị Hà lên to quá” rồi lại “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng! “Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau…”. Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau: “tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm”, kết hợp một hình ảnh so sánh “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán “xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay! Nguy thay Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trự tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta. Bức tranh đòi thứ hai, tương phản với cảnh nhãn dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân… Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến… lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. “Đèn thắp sáng trưng ; nha lệ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại…”. Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn “uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra đệ cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…”. Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,… Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,… Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ đạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi… chơi! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm mình trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp đợi chờ ván bài ù to. Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ!”. Tên quan gắt: “Mặc kệ!”. Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin “Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi” thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng: “Đê vỡ rồi!… thời ông cách cổ chúng mày, bỏ tù chúng mày!”. Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề “tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…” (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”. Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hưởng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!”. Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyên vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm. Xem lại bài bình giảng Nguồn gốc, nhiệm vụ công dụng của văn chương
Hai quá trình vận động trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận Hướng dẫn Hai quá trình vận động: đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi màn đêm buông xuống và đoàn thuyện đánh cá trể về trong cảnh bình minh. Chuyển động của vũ trụ trong khoảng không gian từ hoàng hôn đến bình minh, với mặt trời, trăng sao, gió biển đang không ngừng vận động. Có hai nguồn cảm hứng lớn cùng song hành trong bài thơ: Cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Trong cái nhìn của tác giả, hai quá trình vận động của thiên nhiên và con người rất nhịp nhàng, hòa hợp, tác động tương hỗ. Đoàn thuyền xuất phát ra từ lúc mặt trời xuống biển, kéo lười khi sao mờ, trời sáng thì chạy đua cùng mặt trời để trở về khi mặt trời đội biển nhô lên. Con thuyền thì có gió làm lái, trăng làm buồm, câu hát cũng căng buồm cùng với gió. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước: Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên! Với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận đã thực sự tiềm kiếm được nguồn cảm hứng mới sau một thời gian khép kín tâm hồn mình trong tháp ngà nghệ thuật. Đó là tiếng nói say mê của một tâm hồn đã tìm thấy được lý tưởng, tìm thấy được nguồn sống đích thực. nguồn ấy là nhân dân, là cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Lý tưởng yêu nước và sức mạnh từ cuộc sống mới đã bồi đắp niềm tin của tác giả vào cuộc sống mới và càng tin tưởng hơn ở con người và tương lai đất nước.
Two moving processes in the poem Fishing Boat Group - Huy Can Instruct Two movement processes: the fishing boat goes out to sea when night falls and the fishing boat returns at dawn. The movement of the universe in space from sunset to dawn, with the sun, moon, stars, and sea breezes constantly moving. There are two great sources of inspiration that go hand in hand in the poem: Inspiration from cosmic nature and inspiration from people working in a new life. The unity of those two sources of inspiration is shown through the structure and photo contest system in the article. In the author's view, the two movement processes of nature and humans are very rhythmic, harmonious, and interact with each other. The fleet of boats set out from the moment the sun goes down to the sea, pulling lazily when the stars are dim, when the sky is bright, they race with the sun to return when the sun rises above the sea. The boat has the wind as its steering wheel, the moon as its sail, and the song sails with the wind. Through describing the fishing labor of fishermen in Ha Long waters, the poem praises the beauty of nature, the country, and the wealth of the sea; Praising the spirit of hard work and love of life of newly liberated workers who are in control of themselves, their lives and their country: Dare to stretch yourself to take control of nature! With the poem Fishing Boats, Huy Can really found a new source of inspiration after a period of closing his soul in the ivory tower of art. It is the passionate voice of a soul that has found its ideal, its true source of life. That source is the people, the struggle to unify the country. Patriotic ideals and the strength from the new life have fostered the author's faith in the new life and even more faith in the people and the future of the country.
Hai sản vật tượng trưng trời, đất – Truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy Ngữ Văn 6 Hướng dẫn Hai sản vật tượng trưng Trời, Đất Hằng năm, mỗi độ xuân về, nhân dân Việt Nam chúng ta lại nô nức, vui vẻ chuẩn bị lá dong, xay đỗ, mua thịt, giã gạo, gói bánh. Nơi này làm bánh giầy, làng nọ gói bánh chưng. Có chỗ làm cả bánh chưng, bánh giầy để cúng tổ tiên, tế lễ trời đất, vừa đón xuân vừa cầu mong sang năm mới nhà nhà được no ấm, người người được khoẻ mạnh,… Quang cảnh ấy thường nhắc nhở mọi người nhớ lại rồi kể cho nhau nghe truyện Bánh chưng, bánh giầy. Đây là một truyền thuyết xuất hiện từ thời Hùng Vương xa xưa. Sáng tạo truyền thuyết này, cha ông ta muốn giải thích phong tục làm bánh chưng, bánh giầy trong ngày Tết – một nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá dân tộc, đồng thời nhắc nhở con cháu hãy luôn thờ kính Trời Đất, tôn quý Tổ Tiên, coi trọng tài năng, phẩm chất người nông dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn minh nông nghiệp của Việt Nam. Nghe kể lại, hoặc đọc trên văn bản về truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy, chúng ta thấy nổi bật lên ba đoạn, mỗi đoạn toát ra một ý nghĩa. 1. Đoạn 1. Từ đầu đến “chứng giám” – Bài toán khó giải: vua Hùng chọn người nối ngôi Hoàn cảnh diễn ra cuộc lựa chọn ấy là: giặc ngoài đã yên, nhiệm vụ quan trọng bây giờ là “nhân dân no ấm” để đất nước được thanh bình, phát triển. Vua đã già yếu, cần người nối ngôi. Ngai vàng chỉ có một, trong khi vua có những hai mươi người con trai, biết chọn ai bây giờ. Điều đặc biệt là người kế vị vua không nhất thiết phải là con trưởng mà là người tài đức, hơn tất cả mười chín người kia. Thật là một “bài toán” khó giải. Từ bài toán của mình, nhà vua đã đặt ra bài toán, lời đố cho các con. Người truyền rằng: “… người nối ngôi ta phải nối được chí ta… nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiện vương chứng giám”. Như vậy, nhà vua đã đặt ra hai yêu cầu để thử thách trí tuệ, tâm hồn, tài năng, hành động của các con. “Ai nối được chí ta… làm vừa ý ta”, nghĩa là phải có chí lớn, phải quyết tâm thực hiện mong muốn dân giàu nước mạnh. “Nhân lễ Tiên vương… có Tiên vương chứng giám”, nghĩa là người được lên làm vua phải biết tôn kính tổ tiên, biết tôn trọng cha mẹ, quý trọng nhân dân, có đạo đức,… Trong truyện cổ dân gian nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới thường có những tình huống mang tính chất những “câu đố”. Điều vua Hùng đòi hỏi các hoàng tử đúng là một “câu đố”, một “bài toán” không dễ gì giải được. Về cảnh ngộ, Lang Liêu là “người buồn nhất”. Chàng là con thứ mười tám, thuộc hàng em áp chót. Sớm mồ côi mẹ, so với anh em, “chàng thiệt thòi nhất”. Nhưng Lang Liêu lại là người có phẩm chất tốt. Từ khi lớn lên, ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trồng lúa trồng khoai. Tuy là con vua, là hoàng tử, nhưng Lang Liêu sống gắn bó với ruộng đồng, gần gũi nhân dân, mang bản chất của người lao động. Sản phẩm, kho báu của chàng chỉ là khoai, lúa đầy nhà. Chính những hạt lúa, củ khoai ấy đã thấm mồ hôi, công sức và cả trí tuệ của chàng, góp phần tạo nên cuộc sống no ấm, hạnh phúc cho bản thân và gia đình chàng. Song, so với những vật quý trên rừng, dưới biển mà những anh em chàng đi tìm để dâng vua cha, thì “khoai, lúa tầm thường quá”. Trước “bài toán” của vua cha, Lang Liêu nhiều đêm thao thức và đầy những âu lo. Và giữa một đêm thao thức, Lang Liêu đã gặp thần, được thần giúp đỡ. Vì sao Lang Liêu được thần giúp? Phải chăng vì chàng là một người “thiệt thòi nhất” nhưng chăm chỉ, sống gần nhân dân nhất. Thần không hướng dẫn cụ thể, mà chỉ gợi ý bóng bẩy, sâu xa: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người… Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được… Hãy lấy gạo làm bánh…”. Phải chăng, đối với Lang Liêu, đây lại là một câu đố, một “bài toán” thứ hai. Bài toán thứ nhất của vua cha – đã khó. Bài toán này là của thần nêu ra, càng khó hơn. Thần là ai vậy? Đây chính là biểu tượng cho tinh khí của trời đất, là trí tuệ của nhân dân và cũng một phần là những tiềm thức, những nghĩ suy sâu lắng của chính Lang Liêu. Nếu không phải là người từng trải qua biết bao mưa nắng, từng đổ biết bao mồ hôi, công sức trên những ruộng đồng hôm sớm để làm ra hạt lúa, củ khoai thì ai có thể thấm thìa được vẻ đẹp, lợi ích, vai trò cùa lúa gạo đối với con người như lời thần nói với Lang Liêu? Với Lang Liêu, “bài toán” của thần từ bên ngoài dội vào, cũng là tiếng nói từ trong trí tuệ, trái tim, từ máu thịt chàng cất lên. Do đó, chàng đã mau chóng hiểu được ý thần: “Càng ngẫm nghĩ, chàng càng thấy lời thần nói đúng”. Hiểu ý thần, Lang Liêu làm theo, nhưng không máy móc, mà thật thông minh, sáng tạo. Thần chỉ nói “lấy gạo mà làm bánh” ngắn gọn thế thôi. Vậy mà Lang Liêu đã nhanh chóng giải được “bài toán” của thần. “Chàng bèn chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn”. Từ một dữ kiện “lấy gạo làm bánh”, Lang Liêu đã thực hiện bằng biết bao động tác, kết hợp biết bao nguyên liệu để tạo ra một đáp số tuyệt vời là hai thứ bánh có hình hài khác nhau, màu sắc khác nhau, hương vị khác nhau… Thông minh quá, tài hoa quá! Trong ngày lễ Tiên vương, sản phẩm của Lang Liêu đã làm đẹp lòng vua cha, vừa ý quần thần. Khi ăn bánh, “ai cũng tấm tắc khen ngon”, ngon và độc đáo hơn tất cả các sơn hào, hải vị, nem công chả phượng của các lang khác. “Bánh hình tròn là tượng Trời ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất… ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta…”. Lời nhận xét, cũng là những suy ngẫm của đức vua khi thưởng thức sản vật do Lang Liêu dâng lên thật chí lí, vừa sâu sắc vừa rộng mở đã khẳng định tấm lòng, trí tuệ và bàn tay khéo léo, sáng tạo của người con chăm chỉ, thông minh. Đó cũng là lời tôn vinh vị ngon dẻo, thơm bùi và ý nghĩa lớn lao của bánh chưng, bánh giầy – sản vật đậm hương vị Việt Nam, mang bản sắc của văn hoá nông nghiệp Việt Nam. “Bài toán” của vua Hùng đã được giải một cách trọn vẹn, tuyệt vời. Bánh chưng, bánh giầy đã đoạt giải nhất, chàng Lang Liêu – tác giả của hai thứ bánh – xứng đáng được lên ngôi vua trị vì đất nước, dẫn dắt, dạy bảo muôn dân. Lời phán truyền của đức vua – cũng chính là ý nguyện của nhân dân tôn vinh bánh chưng, bánh giầy đẹp như những bài ca, ca ngợi lao động, ca ngợi nghề nông và giá trị của văn minh nông nghiệp Việt Nam. Khen, rồi ban tặng ngôi báu cho Lang Liêu, vua Hùng đã thay mặt nhân dân để cao một người con con hiếu thảo, biết tôn kính tổ tiên, biết lắng nghe lời thần linh dạy bảo,… Lang Liêu là biểu tượng của người anh hùng văn hoá mở đầu cho những anh hùng Việt Nam trên đồng ruộng, xóm làng Việt Nam!
Hai sản vật tượng trưng trời, đất – Truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy Ngữ Văn 6 Hướng dẫn Hai sản vật tượng trưng Trời, Đất Hằng năm, mỗi độ xuân về, nhân dân Việt Nam chúng ta lại nô nức, vui vẻ chuẩn bị lá dong, xay đỗ, mua thịt, giã gạo, gói bánh. Nơi này làm bánh giầy, làng nọ gói bánh chưng. Có chỗ làm cả bánh chưng, bánh giầy để cúng tổ tiên, tế lễ trời đất, vừa đón xuân vừa cầu mong sang năm mới nhà nhà được no ấm, người người được khoẻ mạnh,… Quang cảnh ấy thường nhắc nhở mọi người nhớ lại rồi kể cho nhau nghe truyện Bánh chưng, bánh giầy. Đây là một truyền thuyết xuất hiện từ thời Hùng Vương xa xưa. Sáng tạo truyền thuyết này, cha ông ta muốn giải thích phong tục làm bánh chưng, bánh giầy trong ngày Tết – một nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá dân tộc, đồng thời nhắc nhở con cháu hãy luôn thờ kính Trời Đất, tôn quý Tổ Tiên, coi trọng tài năng, phẩm chất người nông dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn minh nông nghiệp của Việt Nam. Nghe kể lại, hoặc đọc trên văn bản về truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy, chúng ta thấy nổi bật lên ba đoạn, mỗi đoạn toát ra một ý nghĩa. 1. Đoạn 1. Từ đầu đến “chứng giám” – Bài toán khó giải: vua Hùng chọn người nối ngôi Hoàn cảnh diễn ra cuộc lựa chọn ấy là: giặc ngoài đã yên, nhiệm vụ quan trọng bây giờ là “nhân dân no ấm” để đất nước được thanh bình, phát triển. Vua đã già yếu, cần người nối ngôi. Ngai vàng chỉ có một, trong khi vua có những hai mươi người con trai, biết chọn ai bây giờ. Điều đặc biệt là người kế vị vua không nhất thiết phải là con trưởng mà là người tài đức, hơn tất cả mười chín người kia. Thật là một “bài toán” khó giải. Từ bài toán của mình, nhà vua đã đặt ra bài toán, lời đố cho các con. Người truyền rằng: “… người nối ngôi ta phải nối được chí ta… nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiện vương chứng giám”. Như vậy, nhà vua đã đặt ra hai yêu cầu để thử thách trí tuệ, tâm hồn, tài năng, hành động của các con. “Ai nối được chí ta… làm vừa ý ta”, nghĩa là phải có chí lớn, phải quyết tâm thực hiện mong muốn dân giàu nước mạnh. “Nhân lễ Tiên vương… có Tiên vương chứng giám”, nghĩa là người được lên làm vua phải biết tôn kính tổ tiên, biết tôn trọng cha mẹ, quý trọng nhân dân, có đạo đức,… Trong truyện cổ dân gian nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới thường có những tình huống mang tính chất những “câu đố”. Điều vua Hùng đòi hỏi các hoàng tử đúng là một “câu đố”, một “bài toán” không dễ gì giải được. Về cảnh ngộ, Lang Liêu là “người buồn nhất”. Chàng là con thứ mười tám, thuộc hàng em áp chót. Sớm mồ côi mẹ, so với anh em, “chàng thiệt thòi nhất”. Nhưng Lang Liêu lại là người có phẩm chất tốt. Từ khi lớn lên, ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trồng lúa trồng khoai. Tuy là con vua, là hoàng tử, nhưng Lang Liêu sống gắn bó với ruộng đồng, gần gũi nhân dân, mang bản chất của người lao động. Sản phẩm, kho báu của chàng chỉ là khoai, lúa đầy nhà. Chính những hạt lúa, củ khoai ấy đã thấm mồ hôi, công sức và cả trí tuệ của chàng, góp phần tạo nên cuộc sống no ấm, hạnh phúc cho bản thân và gia đình chàng. Song, so với những vật quý trên rừng, dưới biển mà những anh em chàng đi tìm để dâng vua cha, thì “khoai, lúa tầm thường quá”. Trước “bài toán” của vua cha, Lang Liêu nhiều đêm thao thức và đầy những âu lo. Và giữa một đêm thao thức, Lang Liêu đã gặp thần, được thần giúp đỡ. Vì sao Lang Liêu được thần giúp? Phải chăng vì chàng là một người “thiệt thòi nhất” nhưng chăm chỉ, sống gần nhân dân nhất. Thần không hướng dẫn cụ thể, mà chỉ gợi ý bóng bẩy, sâu xa: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người… Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được… Hãy lấy gạo làm bánh…”. Phải chăng, đối với Lang Liêu, đây lại là một câu đố, một “bài toán” thứ hai. Bài toán thứ nhất của vua cha – đã khó. Bài toán này là của thần nêu ra, càng khó hơn. Thần là ai vậy? Đây chính là biểu tượng cho tinh khí của trời đất, là trí tuệ của nhân dân và cũng một phần là những tiềm thức, những nghĩ suy sâu lắng của chính Lang Liêu. Nếu không phải là người từng trải qua biết bao mưa nắng, từng đổ biết bao mồ hôi, công sức trên những ruộng đồng hôm sớm để làm ra hạt lúa, củ khoai thì ai có thể thấm thìa được vẻ đẹp, lợi ích, vai trò cùa lúa gạo đối với con người như lời thần nói với Lang Liêu? Với Lang Liêu, “bài toán” của thần từ bên ngoài dội vào, cũng là tiếng nói từ trong trí tuệ, trái tim, từ máu thịt chàng cất lên. Do đó, chàng đã mau chóng hiểu được ý thần: “Càng ngẫm nghĩ, chàng càng thấy lời thần nói đúng”. Hiểu ý thần, Lang Liêu làm theo, nhưng không máy móc, mà thật thông minh, sáng tạo. Thần chỉ nói “lấy gạo mà làm bánh” ngắn gọn thế thôi. Vậy mà Lang Liêu đã nhanh chóng giải được “bài toán” của thần. “Chàng bèn chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn”. Từ một dữ kiện “lấy gạo làm bánh”, Lang Liêu đã thực hiện bằng biết bao động tác, kết hợp biết bao nguyên liệu để tạo ra một đáp số tuyệt vời là hai thứ bánh có hình hài khác nhau, màu sắc khác nhau, hương vị khác nhau… Thông minh quá, tài hoa quá! Trong ngày lễ Tiên vương, sản phẩm của Lang Liêu đã làm đẹp lòng vua cha, vừa ý quần thần. Khi ăn bánh, “ai cũng tấm tắc khen ngon”, ngon và độc đáo hơn tất cả các sơn hào, hải vị, nem công chả phượng của các lang khác. “Bánh hình tròn là tượng Trời ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất… ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta…”. Lời nhận xét, cũng là những suy ngẫm của đức vua khi thưởng thức sản vật do Lang Liêu dâng lên thật chí lí, vừa sâu sắc vừa rộng mở đã khẳng định tấm lòng, trí tuệ và bàn tay khéo léo, sáng tạo của người con chăm chỉ, thông minh. Đó cũng là lời tôn vinh vị ngon dẻo, thơm bùi và ý nghĩa lớn lao của bánh chưng, bánh giầy – sản vật đậm hương vị Việt Nam, mang bản sắc của văn hoá nông nghiệp Việt Nam. “Bài toán” của vua Hùng đã được giải một cách trọn vẹn, tuyệt vời. Bánh chưng, bánh giầy đã đoạt giải nhất, chàng Lang Liêu – tác giả của hai thứ bánh – xứng đáng được lên ngôi vua trị vì đất nước, dẫn dắt, dạy bảo muôn dân. Lời phán truyền của đức vua – cũng chính là ý nguyện của nhân dân tôn vinh bánh chưng, bánh giầy đẹp như những bài ca, ca ngợi lao động, ca ngợi nghề nông và giá trị của văn minh nông nghiệp Việt Nam. Khen, rồi ban tặng ngôi báu cho Lang Liêu, vua Hùng đã thay mặt nhân dân để cao một người con con hiếu thảo, biết tôn kính tổ tiên, biết lắng nghe lời thần linh dạy bảo,… Lang Liêu là biểu tượng của người anh hùng văn hoá mở đầu cho những anh hùng Việt Nam trên đồng ruộng, xóm làng Việt Nam!
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Hướng dẫn Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Đất nước là một phạm trù rộng lớn nhưng yếu tố làm nên đất nước lại chính là ở mỗi một con người cụ thể. Vì thế, đất nước có tươi đẹp hay không, có giàu mạnh hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát triển của mỗi cá nhân. Vậy nên, tác giả Thân Nhân Trung đã từng nêu lên một ý kiến rất sáng suốt và đúng đắn trong Bài ký đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba – 1442: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”. Càng ngẫm nghĩ, ta càng thấm thía hơn về ý nghĩa sâu xa mà tác giả Thân Nhân Trung muốn truyền đạt. “Hiền tài” là cụm từ Hán Việt mà xưa kia các thầy nho giáo vẫn dùng để chỉ những học sinh vừa học giỏi vừa có đạo đức. Còn “nguyên khí” là nội lực làm nên sức khỏe, thể trạng của một con người. Khi nguyên khí tốt nghĩa là người đó đang mạnh khỏe, tâm thế sẵn sàng, vui vẻ. Ngược lại, khi nguyên khí yếu, cơ thể mệt mỏi, sắc khí xấu đi, tâm tư buồn bã, chán nản… Đối với quốc gia, nguyên khí chính là cốt lõi của sự phát triển, sự phồn vinh, tươi đẹp. Cũng giống như con người, khi nguyên khí yếu, nghĩa là cái cốt lõi bị mất đi, đất nước rơi vào tình trạng nghèo nàn, xác xơ… Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lấy nguyên khí của một con người cụ thể để nói về nguyên khí của quốc gia – một phạm trù rộng lớn. Bởi chính bản thân mỗi người dù nhỏ bé nhưng vẫn là một phần quan trọng và thiết yếu của đất nước. Nhưng đáng tiếc rằng, bên cạnh những vị hiền tài ấy vẫn còn rất nhiều kẻ bất tài, vô lương tâm đã tạo nên một luồng nguyên khí xấu làm ảnh hướng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước. Những tên tội phạm cướp của giết người, buôn bán ma túy, gái mại dâm…. Tất cả đã làm nên một cục diện đen tối cho xã hội. Nhưng trước tiên, chính bản thân họ là người chịu thiệt thòi đầu tiên. Bởi sẽ không bao giờ có một tương lai tươi sáng, hay một tâm hồn thanh thản cho những kẻ đã gây nên bao tội lỗi. Mà chẳng cần nói đâu xa. Ngay trong hàng ngũ các bạn học sinh, những bạn lười học, dối thầy dối bạn dối mẹ cha chính là những kẻ đang tổn hại đến nguyê khí của quốc gia. Bởi nếu không học hành nghiêm túc, sau này các bạn không thể trở thành người có ích cho xã hội, thậm chí còn lao vào con đường tội lỗi làm nhũng nhiễu xã hội. Khi đó, thế nước suy giảm, yếu dần rồi xuống thấp. Vậy làm thế nào để trở thành một hiền tài cho đất nước, cho gia đình và cho chính bản thân? Bất kỳ ai cũng có thể trở thành hiền tài nếu quyết tâm tu chí đạo đức và ham học hỏi. Cuộc sống sẽ viên mãn biết bao khi xã hội không còn những kẻ cướp bóc, giết người, hành nghề lừa đảo… Thay vào đó là sự bình yên, sự công bằng và hòa bình thực sự. Các bạn trẻ ngay từ khi còn ngồi ghế nhà trường hãy tập trung học hành, rèn luyện đạo đức để mai này bước ra đời xây dựng tương lại, xây dựng đất nước, làm nguyên khí mạnh mẽ cho đất nước phát triển. Đồng thời các bạn cũng nên mạnh dạn, thẳng thắn và cương quyết nói không với những lời rụ rỗ ngon ngọt của kẻ xấu.
Talent is the natural energy of a nation Instruct Talent is the natural energy of a nation Country is a large category, but the factor that makes a country lies in each specific person. Therefore, whether a country is beautiful or not, whether it is rich or not, depends entirely on the development of each individual. Therefore, author Than Nhan Trung once raised a very wise and correct opinion in his essay nominating the doctorate of Nham Tuat faculty, the third Dai Bao era - 1442: "Talent is the vital energy of the nation." , when the vital energy is strong, the water's strength is strong, then it goes up, when the vital energy is weak, the water's strength is weak, then it goes low. The more we think about it, the more we understand the profound meaning that author Than Nhan Trung wants to convey. “Talent” is a Sino-Vietnamese phrase that ancient Confucian teachers used to refer to students who were both good at studying and virtuous. And "principal energy" is the internal force that creates a person's health and physical condition. When the vital energy is good, it means that person is healthy, ready, and happy. On the contrary, when the vital energy is weak, the body is tired, the mood deteriorates, the mind is sad, depressed... For a country, the vital energy is the core of development, prosperity, and beauty. Just like humans, when the essence is weak, it means the core is lost, the country falls into a poor, shabby state... It is not a coincidence that the author took the essence of a specific person to speak. about the nation's vitality - a vast category. Because each person, no matter how small, is still an important and essential part of the country. But unfortunately, besides those talented people, there are still many incompetent and unscrupulous people who have created a bad atmosphere that negatively affects the country's development. Criminals who rob, kill, drug traffickers, prostitutes... All have created a dark situation for society. But first, they themselves are the first to suffer. Because there will never be a bright future, or a peaceful soul for those who have committed so many crimes. But there's no need to say anything further. Right in the ranks of students, those who are lazy to study, lie to their teachers, lie to their friends, lie to their parents, are the ones who are harming the nation's integrity. Because if you don't study seriously, you won't be able to become a useful person for society in the future, and you'll even go down the path of crime and disrupt society. At that time, the water potential declines, weakens and then falls low. So how to become a talented person for the country, for the family and for yourself? Anyone can become a talented person if they are determined to cultivate morality and are eager to learn. How fulfilling life will be when society no longer has robbers, murderers, or fraudsters... Instead, there is true peace, justice, and peace. Young people, right from the time they are in school, should focus on studying and practicing morality so that tomorrow they can step out into the world to build the future, build the country, and be a strong source of energy for the country to develop. At the same time, you should also be bold, straightforward and resolute in saying no to the bad guys' sweet words.
Hiểu biết về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh Hướng dẫn Đề bài: Qua những điều em biết, hãy viết về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. I. CÂU HỎI GỢI Ý 1. Đội thành lập ngày nào? 2. Những đội viên đầu tiên của Đội là ai? 3. Hãy cho biết những lần đổi tên của Đội. 4. Hãy nói rõ về huy hiệu Đội, khăn quàng, Đội ca và các phong trào của Đội. II. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Đọc kĩ đề, nắm nội dung mà đề yêu cầu: “đó là những hiểu biết của em về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh”. Để làm tốt bài này, em cần có trong tay cuốn “Điều lệ Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh” làm tư liệu tham khảo. Đọc kĩ Điều lệ và ghi lại những nội dung chính cỏ liên quan đến hệ thống câu hỏi gợi ý, trình tự trả lời từng câu hỏi. Cuối cùng, em liên kết nội dung các câu trả lời lại bằng những từ ngữ chuyển tiếp, hình thành một bài văn hoàn chỉnh. II. BÀI THAM KHẢO Bài làm 1. Đội thành lập ngày nào? Tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh được thành lập ngày 15 – 5 – 1941 tại Pác Bó, Cao Bằng. Lúc đầu, Đội mang tên: “Đội Nhi đồng cứu quốc”, tập hợp những thiếu niên có độ tuổi từ 9 đến 14, sinh hoạt trong các chi đội Thiếu niên Tiền phong. 2. Những đội viên đầu tiên của Đội là ai? Khi mới thành lập, Đội chỉ có 5 đội viên. Người Đội trưởng là Nông Văn Dền (bí danh là Kim Đồng). Bốn đội viên khác là: Nông Văn Thàn (bí danh là Cao Sơn), Lí Văn Tịnh (bí danh là Thanh Minh), Lí Thị Mì (bí danh là Thúy Tiên) và Lí Thị Xậu (bí danh là Thanh Thủy). 3. Hãy cho biết những lần đổi tên của Đội. Ngày thành lập, Đội có tên là “Đội Nhi đồng cứu quốc”. Trong dịp kỉ niệm 10 năm ngày thành lập Đội, “Đội Nhi đồng cứu quốc” được đổi tên là “Đội Thiếu nhi tháng Tám” vào ngày 15-5-1951. Năm năm sau. vào tháng 2 – 1956, Đội lại được đổi thành “Đội Thiếu niên Tiền phong. Và ngày 30-1-1970, thể theo nguyện vọng của thế hệ mầm non trong cả nước, Đội được mang tên “Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh’”. 4. Hãy nói rõ về huy hiệu Đội, khăn quàng, Đội ca và các phong trào của Đội Dấu hiệu tượng trưng cho tổ chức Đội là Huy hiệu măng non. Huy hiệu vẽ một búp măng màu xanh khỏe mạnh trên nền Tổ quốc mà mỗi đội viên luôn đeo trên ngực mình cùng với chiếc khăn quàng màu đỏ trên vai mỗi khi đến lớp, đến trường hay trong những ngày lễ hội, coi đó là một niềm vinh dự của tuổi thơ. Bài hát do nhạc sĩ Phong Nhã sáng tác được gọi là “Đội ca” thường mở đầu một cách nghiêm trang và hùng tráng trong dịp kỉ niệm sinh nhật Đội hoặc trong những ngày lễ hội thi tài đua sức của tuổi thơ do nhà trường hay Đoàn thanh niên tổ chức. Từ khi Đội được thành lập đến nay có rất nhiều các phong trào thi đua được phát động trong cả nước. Tiêu biểu như phong trào: “Công tác Trần Quốc Toản” phát động năm 1947, phong trào ‘Thiếu nhi làm nghìn việc tốt” phát động năm 1981.
Knowledge about the Ho Chi Minh Young Pioneers Instruct Topic: Based on what you know, write about the Ho Chi Minh Young Pioneers. I. SUGGESTED QUESTIONS 1. When was the team founded? 2. Who were the first members of the Team? 3. Please indicate the changes in the Team's name. 4. Please talk clearly about the Team badge, scarf, Team Anthem and Team movements. II. ASSIGNMENT INSTRUCTIONS Read the question carefully, grasp the content required: "That is my understanding of the Ho Chi Minh Young Pioneers". To do well in this lesson, you need to have in hand the book "Charter of the Ho Chi Minh Young Pioneers" as reference material. Read the Charter carefully and record the main contents related to the suggested question system and the order of answering each question. Finally, I connect the content of the answers with transition words, forming a complete essay. II. REFERENCE ARTICLES Assignment 1. When was the team founded? The Ho Chi Minh Young Pioneers Organization was established on May 15, 1941 in Pac Bo, Cao Bang. At first, the Team was named: "Children's Team to Save the Nation", gathering teenagers from 9 to 14 years old, living in Young Pioneers' branches. 2. Who were the first members of the Team? When first established, the Team had only 5 members. The team leader is Nong Van Den (alias Kim Dong). The other four team members were: Nong Van Than (alias Cao Son), Ly Van Tinh (alias Thanh Minh), Ly Thi Mi (alias Thuy Tien) and Ly Thi Xuu (alias Thanh Thuy). 3. Please indicate the name changes of the Team. On its founding, the Team was named "Children's National Salvation Team". On the occasion of the 10th anniversary of the founding of the Team, the "National Salvation Children's Team" was renamed "August Children's Team" on May 15, 1951. Five years later. In February 1956, the Team was changed to the "Young Pioneer Team." And on January 30, 1970, according to the wishes of the preschool generation throughout the country, the Team was named "Ho Chi Minh Young Pioneer Team". 4. Be clear about the Team badge, scarf, Team Anthem and Team movements The symbolic sign of the Team organization is the Bamboo Bamboo Badge. The badge depicts a healthy green bamboo shoot on the Fatherland background that each member always wears on his chest along with a red scarf on his shoulder every time he goes to class, school or during festivals, considered a the honor of childhood. The song composed by musician Phong Nha called "The Ca Team" often opens solemnly and majestically on the occasion of the Team's birthday celebration or during childhood competition festivals held by the school. Organized Youth Union. Since the Team was established, many emulation movements have been launched throughout the country. Typical examples include the movement: "Tran Quoc Toan's Work" launched in 1947, and the movement "Children doing thousands of good deeds" launched in 1981.
Hoàn cảnh sáng tác và nội dung tập thơ Nhật kí trong tù (Ngục trung nhật kí) của Hồ Chí Minh Hướng dẫn Nhật kí trong tù là một viên ngọc quý của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Về mặt giá trị nghệ thuật, Nhật kí trong tù được đánh giá rất cao. Có nhiều bài thơ phản phất phong vị Đường thi. Không những nó được thế giới công nhận mà ngay cả các nhà thơ Trung Quốc cũng đánh giá cao giá trị này. Hoàn cảnh sáng tác tập thơ Nhật kí trong tù: Tháng 8/1942 với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam Độc lập Đồng minh và phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự tiếp trợ của thế giới. Lúc đi đến thị trấn Túc Vinh – Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng GIới Thạch bắt giam vô cớ. Trong suốt 13 tháng ở tù (mùa thu 1942 – mùa thu 1943), tuy bị đầy ải vô cùng cực khổ, Hồ Chí Minh vẫn giữ phong thái hết sức ung dung tự tại và vẫn làm thơ. Những bài thơ ấy sau này Người tập hợp lại thành tập Nhật kí trong tù. Tập thơ khép lại bằng bài thơ Mới ra tù tập leo núi viết vào tháng 9 năm 1943. Nhưng đến năm 1960, tập thơ này mới được xuất bản. Đến nay, tập thơ đã được xuất bản nhiều lần với nhiều hình thức khác nhau và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Năm 2012, tập Nhật kí trong tù chính thức được công nhận là một bảo vật quốc gia, có giá trị về văn học, lịch sử sâu sắc. Nội dung tập thơ Nhật kí trong tù: Tập thơ đã phản ánh khá chân thực bộ mặt xấu xa, đen tối của chế độ nhà tù cũng như của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Mặt khác, qua tập thơ, người đọc cũng thấy được vất vả, gian lao của Bác trong chốn ngục tù. Từ cảnh ăn đói, mặc rét, bệnh tật cho đến những cuộc chuyển lao đầy gian khổ. Tuy nhiên, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Bác Hồ cũng vượt lên với một ý chí nghị lực kiên cường để chiến thắng hoàn cảnh. Đây là một tập nhật kí bằng thơ mà trong đó Bác đã ghi chép khá tỉ mỉ, chân thực những gì Bác đã chững khiến, đã trải qua trong thời gian 13 tháng ở tù. Cũng chính vì vậy mà tập thơ có một giá trị hiện thực rất cao. Tập thơ thể hiện tâm hồn phong phú cao đẹp của người tử tù vĩ đại. Về phương diện này, có thể xem Nhật kí trong tù như một bức chân dung tự họa con người tinh thần của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chân dung Bác Hồ trong tập thơ là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại lúc nào cũng nóng lòng sốt ruột hướng về tổ quốc, khao khát tự do và là chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất. Dù bị đầy đọa trong lao tù Người vẫn ung dung tự tại, tràn trề tinh thần lạc quan, hướng đến tương lai. Tâm hồn Bác cũng rất nhạy cảm với mọi biến đổi của thiên nhiên cho nên điều dễ hiểu là trong tập thơ Nhật kí trong tù có khá nhiều bài thơ hay của Bác viết về thiên nhiên. Có thể nói, tập thơ Nhật kí trong tù đã bộc lộ cốt cách của một người chiến sĩ kiên cường, bất khuất, của một thi nhân có tâm hồn rộng mở, một nghệ sĩ lớn.
Circumstances of composition and content of Ho Chi Minh's poetry collection Prison Diary (Prison Diary). Instruct Prison diary is a precious gem of Vietnamese revolutionary poetry. In terms of artistic value, Prison Diary is highly appreciated. There are many poems that reflect the style of Tang poetry. Not only is it recognized worldwide, but even Chinese poets also appreciate this value. Circumstances of composing the poetry collection Prison Diary: In August 1942, in the name of a representative of the Vietnam Independence Alliance and the international counter-invasion section of Vietnam, Nguyen Ai Quoc took the name Ho Chi Minh and set out for China to take advantage of the support of the Vietnamese government. world. When he went to Tuc Vinh town - Guangxi, he was arrested without cause by the Chiang Kai-shek government. During 13 months in prison (autumn 1942 - autumn 1943), despite being extremely miserable, Ho Chi Minh still maintained a very leisurely demeanor and still wrote poetry. He later collected those poems into a collection called Prison Diary. The collection of poems closes with the poem Just Released from Prison, The Book of Mountain Climbing, written in September 1943. But it was not until 1960 that this collection of poems was published. To date, the poetry collection has been published many times in many different forms and translated into many languages ​​around the world. In 2012, the Prison Diary was officially recognized as a national treasure, with profound literary and historical value. Contents of the poetry collection Prison Diary: The poetry collection truly reflects the evil and dark face of the prison regime as well as Chinese society during Chiang Kai-shek's time. On the other hand, through the poem, readers can also see Uncle Ho's hardships and hardships in prison. From hunger, cold, illness to arduous labor transitions. However, in any situation, Uncle Ho overcame it with a strong will and determination to overcome the situation. This is a poetic diary in which Uncle Ho recorded meticulously and honestly what he had done and experienced during his 13 months in prison. That is why the poetry collection has a very high realistic value. The collection of poems shows the rich and beautiful soul of the great death row prisoner. In this respect, the Prison Diary can be seen as a self-portrait of the spiritual person of President Ho Chi Minh. The portrait of Uncle Ho in the poetry collection is the image of a great patriot who is always impatiently looking forward to his homeland, yearning for freedom and an indomitable communist soldier. Even though he was tormented in prison, he was still at peace, full of optimism, looking forward to the future. Uncle Ho's soul is also very sensitive to all changes in nature, so it is easy to understand that in the poetry collection Prison Diary there are many good poems written by Uncle Ho about nature. It can be said that the poetry collection Prison Diary reveals the essence of a resilient, indomitable soldier, a poet with an open soul, and a great artist.
Hàng năm, mỗi khi mùa xuân đến, nhân dân ta thường tổ chức Tết trồng cây. Em hãy giải thích ý nghĩa của hoạt động đó và phát biểu cảm nghĩ của em. Bài làm Mùa xuân, khi chim chóc bay về làm tổ; khi màu xanh, lộc biếc mượt mà trải dài trên đường phố, làng quê; khi hoa đào, hoa mai rực rỡ sắc hương trong nắng xuân, nhân dân ta lại vui vẻ tổ chức nhiều lễ hội truyền thống. Một trong những hoạt động đón xuân vui vẻ ấy là Tết trồng cây. Và, trong những ngày ấy, ai ai cũng nhắc lại lời. Bác: Mùa xuân là Tết trồng cây, Làm cho đất nước càng ngày càng xuân. Đã từ lâu, con người sớm có ý thức được sự gắn bó mật thiết giữa mình và thiên nhiên; trong đó cây xanh là yếu tố vô cùng quan trọng. Cây xanh góp phần điều tiết không khí trong lành để con người sống khỏe mạnh, cầy xanh đem đến bóng mát cho con người mỗi khi trời nắng, cây xanh đem đến cho con người quả ngọt, trái sai, cây xanh gọi chim về làm tổ véo von tiếng hót mồi buổi sớm mai… Trên thế giới, nhiều nước sớm ý thức được tầm quan trọng của việc trồng cây, một trong những nước phong trào rộng khắp là Ấn Độ. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng xã hội mới. Bác Hồ đã đề xướng ngày Tết trồng cây. Khi còn sống, nãm nào mùa xuân đến, Bác cũng đi trồng cây. Noi gương Bác và hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, nhán dân ta đều hăng hái trồng cây vào dịp Tết. Tết trồng cây trở thành một thói quen, một phong trào không thể thiếu được trong dịp đầu xuân. Tết trồng cây trở thành ngày hội của nhân dân ta. Mỗi dịp Tết trồng cây, chúng ta thêm gắn bó với thiên nhiên, đất nước, làm đẹp thêm cho klnmg cảnh xung quanh nơi cnvíng ta sống, bẳo vệ môi trường tành mạnh nơi chúng ta ở, làm giàu thêậrt cho cuộc sống chúng ta. Tết trồng cây cùng gây cho con người tinh thần gắn bổ, cảm hòa với nhau hơn vì một mục đích tốt đẹp vì lợi ích chung của xã hội, của con người. Trồng thêm cây xanh, chúng ta góp phần khôi phục lại sự tàn phá, khai thác bừa bãi rừng, chông xói mòn, tăng thêm sự màu mỡ cho đất, 2000 điều hòa mực nước cho sông ngòi, hạn chế lũ lụt, ngăn gió biển, nước biển tràn vào phá hoại mùa màng. Trồng thêm cây xanh chúng ta còn tạo ra một tiềm năng củẩ cải vật chất lớn lao cho đời sống mồi gia đình và xã hội. Hàng triệu cây chúng ta trồng mồĩ năm, trong một thời gian sẽ có một lực lượng gỗ lớn đé xây dựng nhà cửa, đóng thuyền bè, vật dụng cần thiết cho cuộc sống, cho việc học tập của con em và còn cung cấp cho công nghiệp chế biến lâm sản, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu nữa. Đối với những thành phố công nghiệp, việc trồng cây xạnh còn giữ được bầu trời trong lành, ngăn chặn được những độc hại do khí đốt ở các nhà máy thải ra, do ô nhiễm của xe cộ đi lại. Em đang sống và học tập trong một thành phố lớn, thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu. Ngày ngày đi học giữa làn xe cộ tấp nập, khói thải từ nhà máy và xe cộ làm không khí xú uế, đấy là chựa kể đến lượng phế thải của rác, của những dòng sông đen ngòm nước thải. Khắp nơi trên thành phố, những khẩu hiệu Hãy cứu lấy bầu trời thành phố như thúc giục, nhắc nhở mọi người phải có trách nhiệm giữ gìn cho thành phố sạch đẹp, tạo cho thành phố không khí trong lành. Việc Tổ chức trồng cây trên đường phố, công viên, trường học vào những dịp Tết trồng cây theo lời dạy của Bác càng có một ý nghĩa lớn lao. Nghĩ đến Bác Hồ và lời dạy bảo của Bác, chúng ta càng thấm thía về công lao to lớn của Bác đôi vói dân tộc và với mỗi chúng ta. Trồng cây lại nhớ đến người lời hát ngợi ca công ơn của Bác như nhắc nhở chúng ta ngày ngày làm theo lời Bác, chẳng những chúng ta phải lao động học tập để xây dựng đất nước ngậy một to đẹp hơn, đàng hoàng hơn, mà còn phải thể hiện những ước mong bình thường mà Bác trước lúc đi xa dặn lại. Trồng cây chẳng phải chỉ vì lợi ích mười năm mà còn vì lợi ích muôn đời cũng như trồng người vậy.
Every year, when spring comes, our people often organize the Tree Planting Festival. Please explain the meaning of that activity and express your feelings. Assignment Spring, when birds fly back to nest; when the smooth green and blue colors spread across the streets and villages; When peach blossoms and apricot blossoms shine brightly in the spring sunshine, our people happily organize many traditional festivals. One of those fun spring welcoming activities is the Tree Planting Festival. And, in those days, everyone repeated the words. Uncle: Spring is planting festival, Make the world more and more beautiful. For a long time, people have been aware of the close connection between themselves and nature; in which trees are an extremely important factor. Green trees contribute to regulating fresh air for people to live healthily, green civets provide shade for people when it is sunny, green trees give people sweet and fragrant fruits, green trees call birds to work. nests chirping in the early morning... Around the world, many countries were soon aware of the importance of planting trees, one of the countries with a widespread movement was India. After the victory of the resistance war against the French, our people began to build a new society. Uncle Ho proposed a tree-planting Tet holiday. When he was alive, every year spring came, Uncle Ho would plant trees. Following Uncle Ho's example and responding to his call, our people enthusiastically plant trees during Tet. Tree planting has become a habit, an indispensable movement in the early spring. Tree planting festival has become a festival for our people. Every Tet holiday, we plant trees, we become more attached to nature and the country, beautify the surrounding landscape where we live, protect the healthy environment where we live, and enrich our lives. . The tree-planting festival makes people feel more connected and harmonious with each other for a good purpose for the common benefit of society and people. By planting more trees, we contribute to restoring the destruction and indiscriminate exploitation of forests, preventing erosion, increasing soil fertility, regulating water levels in rivers, limiting floods, and preventing wind. The sea and seawater flooded in, destroying crops. By planting more trees, we also create a great potential for material wealth for family and social life. With the millions of trees we plant every year, over a period of time there will be a large force of wood to build houses, boats, and other necessary items for life, for children's education, and also to provide forest product processing industry, light industry and export. For industrial cities, planting trees also keeps the sky clean and prevents toxic gases emitted by factories and pollution from vehicles. I am living and studying in a big city, a city named after beloved Uncle Ho. Going to school every day amid busy traffic, exhaust fumes from factories and vehicles make the air dirty, not to mention the amount of waste from garbage and black rivers of wastewater. All over the city, the slogan "Save the city's sky" urges and reminds everyone to be responsible for keeping the city clean and beautiful, giving the city fresh air. Organizing tree planting on streets, parks, and schools during Tet holidays according to Uncle Ho's teachings has even greater significance. Thinking about Uncle Ho and his teachings, we are more deeply aware of his great contributions to the nation and to each of us. When we plant trees, we remember people. His songs praising Uncle Ho's gratitude remind us to follow Uncle Ho's words every day. Not only do we have to work and study to build a bigger, more beautiful, more dignified country. but also have to express the normal wishes that Uncle Ho told us before he left. Planting trees is not just for ten year benefits but also for eternal benefits just like planting people.
hân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hòai) của Phạm Ngũ Lão Hướng dẫn hân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hòai) của Phạm Ngũ Lão Bài làm Phạm Ngũ Lão là một trong những võ tướng tài giỏi của thời Trần. Ông có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Là võ tướng, nhưng ông thích đọc sách, ngâm thơ và từng được ngợi ca là người văn võ toàn tài. Sử sách không ghi nhiều về ông, nhưng qua những tác phẩm của ông, thế hệ sau có thể thấu hiểu được tâm tư và tấm lòng của một người anh hùng mang tên Phạm Ngũ Lão. Trong đó, không thể không kể đến tác phẩm “Tỏ lòng” (Thuật hoài) viết về vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao; về vẻ đẹp cảu thời đại với sức mạnh và khí thế hào hùng. Bởi thế, ngay trong hai câu thơ mở đầu, ta đã bắt gặp một hình tượng rất đẹp và hùng dũng: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu, Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” Dịch thơ: “Múa giáo non sông trải mấy thu, Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” Trong phần dịch thơ, từ “hoành sóc” nghĩa là “múa giáo”, ý chỉ tư thế của người anh hùng đang cầm giáo gìn giữ và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, chỉ có từ “hoành sóc” mới có thể biểu lộ một cách rõ ràng nhất về tư thế hiên ngang, lẫm liệt – biểu hiện cho tinh thần sắt đá, anh dũng của vị anh hùng đang tràn đầy khí thế, luôn sẵn sàng xả thân vì dân vì nước. Tác giả không đề chủ ngữ là ai, nhưng người đọc vẫn hiểu những từ ngữ ấy chỉ dành cho anh hùng, cho những người đang tràn đầy khí thế chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ không cần biết về không gian hay thời gian, bất kỳ nơi đâu trên “non sông” này đều là đất nước mình, và dù có “trải mấy thu” hay cả nghìn thu thì họ vẫn vậy, vẫn luôn một lòng một dạ chung thủy với nước nhà, luôn sẵn sàng hi sinh bất cứ khi nào để cứu lấy dân tộc mình. Và từ những người như vậy, đã tạo nên một đội quân vô cùng mạnh mẽ: (“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”). Câu thơ trên có thể hiểu theo hai cách: cách hiểu như lời dịch và một cách khác là khí thế át sao Ngưu, nghĩa là khí thế át cả sao trời. Có lẽ, không có một từ ngữ nào có thể nói hết về chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần, đến mức Phạm Ngũ Lão phải lấy cả sao Ngưu để thể hiện sức mạnh hùng dũng ấy. Tuy nhiên, quân đội mạnh mẽ là vậy, nhưng trong lòng võ tướng vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm: “Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”. Dịch thơ: “Công danh nam tử còn vương nợ, Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”. Đối với Phạm Ngũ Lão, một người xứng đáng là đấng nam nhi đích thực khi lập được công danh với đất nước. Lý tưởng và nhân cách cao cả của ông được tóm gọn trong câu thơ “Nam nhi vị liệu công danh trái”. Ông không cho phép bản thân mình được thấp kém hay tầm thường. Ngược lại, ông hướng mình đến với những điều lớn lao hơn, mạnh mẽ hơn. Đó là công, là danh với đất nước. Ông muốn sống cống hiến hết mình cho nhân dân. Bởi vậy, khi nhìn lại bản thân mình, và nghĩ đến Vũ hầu, Phạm Ngũ Lão đã khiêm tốn sử dụng hai từ “luống thẹn”. Vũ hầu tức Gia Cát Lượng, người thời Tam quốc, có nhiều công lao giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán, được phong tước Vũ Lượng hầu (thường gọi tắt là Vũ hầu). Không phải tự nhiên mà Phạm Ngũ Lão nhắc tới vị anh hùng vang danh trong lịch sử này, mà đó là lý tưởng cao đẹp, là động lực để võ tướng cố gắng vươn lên, cố gắng cống hiến nhiều hơn nữa. Qua đó, ông cũng đã để lại cho thế hệ sau một bài học sâu sắc về lý tưởng sống, sống luôn phấn đấu vươn lên, luôn hướng tới những điều tốt đẹp, luôn cố gắng hết sức mình để xây dựng và bảo vệ đất nước ngày một vững mạnh hơn. Đặc biệt, hình ảnh lẫm liệt, oai hùng của quân đội nhà Trần chính là tấm gương cho lớp lớp thanh niên noi theo. Làm một đấng nam nhi, hãy luôn kiên cường, thẳng thắn, luôn sẵn sàng hi sinh bản thân mình cho đất nước bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu. Một số bạn trẻ còn đang chơi bời, chưa chú trọng đến việc học hành, việc xây dựng tương lai, hãy ngẫm nghĩ lại, hãy bắt tay làm lại ngay từ hôm nay để không phụ công những vị tướng đã hết lòng hết sức vì dân như Phạm Ngũ Lão. Đồng thời hãy cùng nhau loại bỏ những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội để làm cho đất nước ngày một văn minh hơn, êm ấm hơn. Nguồn: Tài liệu trực tuyến
Analysis of the poem To Express Your Heart (Thuat Hoai) by Pham Ngu Lao Instruct Analysis of the poem To Express Your Heart (Thuat Hoai) by Pham Ngu Lao Assignment Pham Ngu Lao was one of the talented martial generals of the Tran dynasty. He had many great contributions in the resistance war against the Mongol-Yuan army. Although he was a martial artist, he loved reading books, reciting poetry and was once praised as a talented man of literature and martial arts. History books do not record much about him, but through his works, future generations can understand the thoughts and heart of a hero named Pham Ngu Lao. Among them, it is impossible not to mention the work "Confessing Your Heart" (Thuat Hoi) written about the beauty of the image of a brave and fierce national defense hero with great ideals and personality; about the beauty of the era with strength and heroic spirit. Therefore, right in the opening two verses, we encounter a very beautiful and heroic image: “Hoang Soc Giang Son celebrates autumn, Tam Quan, Pi Tiger, Village Niuu Qi" Poetry translation: “Dancing across the mountains and rivers for several autumns, "Three powerful military weapons can swallow buffaloes." In the poetic translation, the word "hoang squirrel" means "spear dancing", referring to the posture of the hero holding a spear to preserve and protect the country. However, only the word "hoong squirrel" can most clearly express the proud, fierce posture - representing the iron and heroic spirit of the hero who is full of spirit, always willing to sacrifice his life for the people and the country. The author does not mention who the subject is, but the reader still understands that these words are only for heroes, for those who are full of spirit to fight against the enemy. They don't need to know about space or time, anywhere on this "mountain and river" is their country, and no matter how many autumns or thousands of autumns they have experienced, they are still the same, always with one heart and mind. loyal to his country, always ready to sacrifice at any time to save his people. And from such people, an extremely powerful army was created: (“Three strong military weapons swallow up buffalo”). The above verse can be understood in two ways: the way it is translated and another way is that the spirit surpasses the Taurus star, meaning the spirit surpasses the stars. Perhaps, there is no word that can fully express the mighty spirit of the Tran dynasty's army, to the point that Pham Ngu Lao had to use the Taurus star to express that mighty strength. However, the army is so strong, but in the hearts of military generals, there is always a feeling: “The son of the willow will be famous and fruitful, Cultivating a false listener tells the story of Marquis Vu". Poetry translation: "A man's reputation still has debts, I'm embarrassed to listen to Marquis Vu's story." For Pham Ngu Lao, a person deserves to be a true man when he makes a name for himself with the country. His noble ideals and personality are summed up in the verse "A man takes care of his good name and fruit". He did not allow himself to be inferior or ordinary. On the contrary, he directed himself towards bigger, stronger things. That is merit and reputation for the country. He wanted to live and devote himself to the people. Therefore, when looking back at himself, and thinking of Marquis Vu, Pham Ngu Lao humbly used the two words "shame". Marquis of Wu, also known as Zhuge Liang, who was from the Three Kingdoms period, had many contributions to help Liu Bei restore the Han Dynasty, and was awarded the title of Marquis of Wu Liang (often shortened to Marquis of Wu). It is not by chance that Pham Ngu Lao mentioned this famous hero in history, but it is a noble ideal, a motivation for martial artists to strive to rise up and strive to contribute more. Through that, he also left the next generation a profound lesson about the ideal of life, living always striving to improve, always aiming for good things, always trying your best to build and protect the land. The country is becoming stronger day by day. In particular, the fierce and heroic image of the Tran Dynasty's army is an example for young people to follow. As a man, always be resilient, straightforward, always ready to sacrifice yourself for the country anytime and anywhere. Some young people are still playing around, not paying attention to studying and building the future. Let's think again and start working again from today so as not to let down the efforts of the generals who have devoted all their efforts for the cause. People like Pham Ngu Lao. At the same time, let's get rid of bad habits and social evils to make the country more civilized and peaceful. Source: Online documents
Bài làm “Tình cha ấm áp như vầng Thái Dương…”. Từ xưa tới nay, có rất nhiều lời thơ, tiếng hát nói về tình cảm thiêng liêng của cha mẹ dành cho con cái. Nếu người mẹ luôn gần gũi yêu thương thì người cha tuy ít thể hiện tình cảm ra bên ngoài những cũng hết mực lo lắng, quan tâm. Cha em là một người như thế. Người có ảnh hưởng tới em nhất có lẽ là người cha thân yêu. Cha em năm nay đã ngoài ba mươi tuổi. Nhưng cuộc đời sương gió làm cho cha trở nên già hơn so với tuổi thật của mình. Cha có nước da ngăm đen, mái tóc đốm bạc. Em còn nhớ những câu nói ngây thơ thuở lên sáu, lên bảy tuổi. Cả nhà ngồi quây quần bên chiếc tivi cũ. Em thấy một vài sợi tóc bạc của cha. Em hỏi “cha ơi, cha già rồi kìa, cha có tóc bạc”. Nghĩ lại ngày ấy thật ngô nghê, cha già đi có lẽ bởi những tháng ngày vất vả nuôi chị em em khôn lớn. Cha em là người đàn ông trụ cột trong gia đình. Cha luôn tỏ ra mạnh mẽ và quyết đoán trong mọi việc. Những việc lớn trong nhà đều do cha quyết định. Người ta nói trong nhà mà không có người đàn ông thì như nhà không có nóc. Em thấy câu nói ấy đúng với gia đình em. Có cha ở nhà, ngôi nhà như vững trãi hơn, mọi thứ đều đi vào trật tự, khuôn phép. Bởi tính cha quyết đoán và nghiêm khắc.
Assignment "A father's love is as warm as the Sun...". From ancient times until now, there have been many poems and songs about the sacred love of parents for their children. If the mother is always close and loving, the father, although he rarely shows his affection outwardly, is still very worried and concerned. My father is such a person. The person who influences me the most is probably my dear father. My father is over thirty years old this year. But the windy life made his father look older than his real age. Father has dark skin and silver-spotted hair. I still remember the innocent sayings when I was six or seven years old. The whole family sat around the old TV. I saw a few strands of my father's gray hair. I asked, "Dad, you're old, you have gray hair." Thinking back to that day is very silly, perhaps my father grew old because of the hard days of raising my siblings and me. My father is the breadwinner in the family. Father always appears strong and decisive in everything. All major matters in the house are decided by the father. It is said that a house without a man is like a house without a roof. I find that statement true for my family. With my father at home, the house seems more stable, everything is in order and discipline. Because of his father's decisive and strict nature.
Bài làm Chúng ta ai cũng đều biết, kiến thức quanh ta là cả một vũ trụ rộng lớn bao la, không ai trên đời này dám khẳng định mình biết hết moi thứ. “Điều mà ta biêt chỉ là một hạt cát, còn điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la”. Bởi thế, để ngày càng có tầm hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, con người cần nỗ lực học tập nhiều hơn nữa. Điều đó đã được Lê Nin đúc rút trong một câu nói ngắn gọn mà hàm xúc “học, học nữa, học mãi”. Để hiểu những điều Lê Nin muốn gửi gắm trong câu nói của mình, chúng ta cần cắt nghĩa cả ba ý trong câu. “Học” thì ai cũng biết đó là học tập, rèn luyện, tiếp thu kiến thức để nâng cao vốn hiểu biết cho bản thân. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc “học” không thôi thì sẽ quên trong một sớm một chiều. Bởi thế mới có thêm vế “học nữa”. “Học nữa” là đào sâu tìm tòi, suy nghĩ, tìm hiểu cặn kẽ, nghiên cứu sâu xa hơn những kiến thức mình thu lượm được để có cái hiểu sâu sắc một vấn đề, một kiến thức nào đó. Nhưng kiến thức trên thế giới này là vô cùng, vô tận, còn rất nhiều điều mà chúng ta chưa biết đến, chưa giải mã được những bí ẩn nên “học mãi” là một điều cần thiết. “Học mãi” là việc học cả đời, là sự không ngừng nỗ lực học hỏi, nghiên cứu, nâng cao hơn nữa tầm hiểu biết của bản thân. Như vậy, câu nói của Lê Nin trước tiên đã đánh giá rất cao tầm quan trọng của việc học. Học tập giúp chúng ta nâng cao tầm hiểu biết, có cái nhìn đa chiều về một vấn đề. Từ đó có kiến thức để phục vụ cho công việc của bản thân và xã hội. Nếu con người mà không chịu học tập và rèn luyện thì sẽ trở nên kém hiểu biết. Một xã hội mà nhiều người kém hiểu biết thì xã hội đó khó mà phát triển được. Không chỉ đề cao việc học, Lê Nin còn nhấn mạnh việc không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu, chắt lọc kiến thức mới và còn học mãi bởi kiến thức trên đời rộng lớn là không giới hạn.
Assignment We all know that knowledge around us is a vast universe, no one in this world dares to claim that they know everything. “What we know is just a grain of sand, but what we don't know is a vast ocean.” Therefore, to gain more knowledge in many fields, people need to make more efforts to learn. That was summed up by Lenin in a short but meaningful saying "study, study more, study forever". To understand what Lenin wanted to convey in his statement, we need to explain all three ideas in the sentence. "Learning" everyone knows is studying, practicing, and acquiring knowledge to improve one's understanding. But if you just stop at "learning", you will forget it overnight. That's why there's the "learn more" part. “Learn more” is to dig deeper, think, study thoroughly, and study more deeply the knowledge you have gathered to have a deep understanding of a problem or a certain knowledge. But the knowledge in this world is infinite, endless, there are still many things that we do not know, and have not yet decoded the mysteries, so "learning forever" is a necessity. “Learning forever” is lifelong learning, a constant effort to learn, research, and further improve one's understanding. Thus, Lenin's quote first greatly appreciated the importance of learning. Learning helps us improve our understanding and have a multi-dimensional view of a problem. From there, you will have knowledge to serve your own work and society. If people do not study and practice, they will become ignorant. A society in which many people have poor understanding will find it difficult to develop. Not only promoting learning, Lenin also emphasized constantly researching, learning, refining new knowledge and learning forever because the knowledge in the world is vast and unlimited.
Bài làm Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta mở chiến dịch Biên giới (hay còn gọi chiến dịch Cao – Bắc – Lạng) nhằm phá vỡ phòng tuyến của thực dân Pháp xâm lược, giải phóng căn cứ Việt Bắc và mở đường liên lạc với các quốc gia anh em như Liên Xô, Trung Quốc… Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm đơn vị tôi đang đóng quân và nghỉ lại. Trời lạnh, đêm mưa, tôi cùng những người đồng đội của mình nằm quây quần bên Bác. Nhưng khi chợt tỉnh giấc, tôi giật mình vì Bác vẫn còn thức. Cảnh vật ngoài trời tối đen như mực, giữa bốn bề không gian tĩnh lặng của màn đêm, tiếng giọt mưa rơi tí tách nghe thật rõ ràng, vang vọng, như tiếng kim giây của chiếc đồng hồ đang chạy thật đều. Những người đồng đội của tôi đang say giấc sau ngày hành quân vất vả, còn tôi lại lặng lẽ ngắm nhìn người Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Lúc này trời đã về khuya, trong căn lán tranh nhỏ liêu xiêu, Bác ngồi bó gối bên đống lửa, nét mặt trầm ngâm dường như có nhiều điều cần suy nghĩ, những vết nhăn trên vầng trán cao rộng của bác lại càng hằn sâu hơn. Bác khơi bếp lửa cháy bùng lên, cho hơi ấm lan tỏa khắp căn lều dã chiến. Rồi bỗng nhiên bác đứng dậy, nhón chân nhẹ nhàng tiến đến phản nằm, dém chăn cho từng chiến sĩ. Hình ảnh Bác chăm lo cho những người chiến sĩ của mình khiến tôi chợt liên tưởng tới người Cha già tóc bạc, chăm sóc cho đàn con thơ. Từng cử chỉ ân cần của Bác đều khiến tôi cảm động, trong lòng trào dâng tình cảm thương yêu và biết ơn vô bờ bến. Tình thương của Bác với những người chiến sĩ như chúng tôi còn ấm áp hơn cả ngọn lửa đang cháy bập bùng kia. Tôi, một người chiến sĩ sắp ra trận đối mặt với sinh tử, cảm thấy như tự tin hơn, vững bước hơn vì được che trở trong tình yêu bao la của Bác. Tôi thì thầm hỏi nhỏ: – Thưa Bác, sao Bác vẫn còn chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không? Bác ân cần nhìn tôi và khuyên nhủ: – Chú cứ việc ngủ ngon, ngày mai mới có sức đánh giặc. Tôi vâng lời Bác, nhắm mắt đi ngủ nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm không yên, Bác đã cao tuổi như thế rồi, không nghỉ ngơi làm sao chịu được? Lần thứ ba tỉnh giấc, trời đã gần sáng, tôi giật mình khi Bác vẫn còn ngồi đó, đôi mắt nặng trĩu suy tư nhìn ngọn lửa hồng không rời mắt. Không thể kìm lòng, tôi nằng nặc nói với Bác: – Thưa Bác! Trời đã gần sáng rồi, xin Bác ngủ một chút để giữ sức khỏe, kháng chiến còn dài, còn cần Bác chỉ đạo ạ! Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi: – Chú cứ việc ngủ ngon, mặc Bác. Bác không ngủ được, Bác lo đoàn dân công ngủ ngoài rừng bị ướt, không có chiếu cũng chẳng có chăn. Chỉ mong sao trời mau sáng.
Assignment In the fall of 1950, our Party and Government launched the Border campaign (also known as the Cao - Bac - Lang campaign) to break the defense lines of the invading French colonialists, liberate the Viet Bac base and open lines of communication. with brother countries such as the Soviet Union, China... Before the campaign started, Uncle Ho visited the unit where I was stationed and stayed. It was a cold, rainy night. My teammates and I lay around Uncle Ho. But when I suddenly woke up, I was startled because Uncle was still awake. The outdoor scene was as dark as ink, amidst the quiet space of the night, the sound of raindrops falling sounded clear and resonant, like the sound of the second hand of a clock running steadily. My comrades were sleeping after a hard day's march, and I was quietly looking at the beloved Father of the Vietnamese people. At this time, it was already late at night, in the small, dilapidated thatched shack, Uncle Ho sat with his knees bent next to the fire, his expression pensive as if he had many things to think about, the wrinkles on his broad forehead became even deeper. than. He lit the stove and ignited it, spreading warmth throughout the field tent. Then suddenly he stood up, tiptoed gently to the bed, and covered each soldier with a blanket. The image of Uncle Ho taking care of his soldiers suddenly reminds me of an old father with gray hair, taking care of his young children. Every kind gesture of Uncle Ho touched me, my heart overflowed with boundless love and gratitude. Uncle Ho's love for soldiers like us is warmer than that flickering fire. I, a soldier about to go into battle and face life and death, feel more confident and steadier because I am surrounded by Uncle Ho's immense love. I whispered softly: – Uncle, why are you still not sleeping? Are you very cold? He looked at me kindly and advised: – Just sleep well, tomorrow you will have the strength to fight the enemy. I obeyed Uncle Ho, closed my eyes and went to sleep, but my heart was still restless. Uncle was already so old, how could he bear it without rest? The third time I woke up, it was almost dawn. I was startled when Uncle Ho was still sitting there, his eyes heavy with thought, looking at the red fire without taking his eyes off. Unable to hold back, I insisted and told Uncle: - Dear! It's almost dawn. Please get some sleep to maintain your health. The resistance war is still long and we still need your guidance! He spoke in a warm voice and told me: – Just sleep well, leave it to Uncle. He couldn't sleep. He was worried that the group of workers sleeping in the forest would get wet, without mats or blankets. I just hope the sky will brighten soon.
Bài làm Quan âm thị kính là một vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo. Nó mang lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc về nỗi oa hại chồng và cái án hoang thai là hai cái nứt chính ở vở chèo. Qua đó tác giả dân gian phản ánh bi kịch trong thân phận của người phụ nữ nghèo khổ thời phong kiến. Bên cạnh đó vở chèo còn có dụng ý đề cao về phẩm chất cao quý của người phụ nữ và lên án cái xấu, cái ác ở trong xã hội phong kiến xưa. Trích nỗi oan hại chồng là phần cốt lõi ở trong phần mở đầu của vở chèo. Thị kính là một nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng lại bị Sfng bà nanh ác đổ oan cho tội giết chồng, gia đình nhà chồng đã gây nên mâu thuẫn cho kính cùng nỗi oan chồng chất, hạnh phúc từ đó cũng tan vỡ và đuổi khỏi nhà chồng, chứng kiến cảnh người cha thân yêu bị sỉ nhục. Mâu thuẫn giữa sùng bà và thị kính về hình thức đó là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng bản chất là kẻ thống trị và người bị trị. Nói lên thân phận thấp kém của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia đình và hôn nhân phong kiến. Mở đầu là cảnh chồng học bài mệt mỏi ngủ thiếp đi, nàng lại dọn kỉ rồi quạt cho chồng, thấy sợi râu tóc mọc ngược ở dưới cằm chồng nàng băn khoăn đó là điềm báo chẳng lành cho nên muốn cắt đi.Việc làm thể hiện tình yêu thương với chồng chưa kịp thì bị mẹ chồng hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên:Hỡi cha!. Hỡi mẹ Ị Hỡi xóm! Hời làng! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường… khiến cho cả nhà tỉnh giấc. Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giết chồng: Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à? Dùng bà thái độ rất hung hăng và tàn nhìn, khi đó Kính chỉ biết khóc lóc van xin nhưng bà lại dúi đầu thị Kính ngã xuống rồi bắt ngửa mặt lên để nghe mụ chửi chứ một mực không cho phân bua thanh minh gì. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội mà không cần biết sự tình. Mụ xỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính giết chồng mà Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa; là con nhà thấp hèn không xứng với nhà mụ: “ Giống nhà bà đây giống phượng giống công Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc Mày là con nhà cua ốc Trứng rồng lại nở ra rồng Liu điu lại nở ra dòng liu điu Đồng nát thì về Cầu Nôm Con gái nỏ mồm về ở với cha…” Khi bị ép tội giết chồng thì Thị Kính đã có những lời lẽ nhẫn nhục. Kêu oan 5 lần bảy lượt đều không được chấp nhận, người chồng thì một mực nghe theo mẹ đã không đứng về phía cô và còn hèn nhát. Lần thứ nhất, nàng kêu oan với mẹ chồng: Giời ơi Ị Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ ơi! Lần thứ hai, vẫn với mẹ chồng: Oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ ba, kêu oan với chồng: Oan thiếp lắm chàng ơi! Lần thứ tư, một lần nữa, lại kêu oan, van xin mẹ chồng: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi! Lần cuối cùng thị Kính kêu oan với Mãng ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực tới cùng. Mãng ông đã nói trong nước mắt: “Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào!” Kết cục là tình vợ chồng kết thúc, tan vỡ còn nàng thì bị đuổi ra khỏi nhà chồng. Cuối cùng chỉ còn lại hai cha con thị kính lẻ loi đơn độc đến tột cùng. Cảnh hai cha con ôm nhau than khóc chính là hình ảnh về người nghèo khổ chịu oan ức hoàn toàn bất lực trước sự việc đó. Tâm sự của nàng thể hiện qua điệu sử rầu và nói thảm: “Thương ôi! Bấy lâu nay sắt cầm tịnh hảo Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi”. Một bên là kỉ niệm hai vợ chồng đã từng có khoảng thời gian hạnh phúc bên nhau còn một bên là khoảnh khắc chớp nhoáng của sự tan vỡ.
Assignment Quan Am Thi Kinh is a famous ancient Cheo play of Cheo theater. It gives a deep impression to the reader about the crime of harming her husband and the miscarriage of justice, which are the two main flaws in the play Cheo. Through this, the folk author reflects the tragedy in the fate of poor women in feudal times. Besides, Cheo plays also intend to promote the noble qualities of women and condemn the ugliness and evil in ancient feudal society. Extracting the injustice of harming her husband is the core part of the opening part of the Cheo play. Thi Kinh was a good, gentle, and modest daughter-in-law, but she was falsely accused by her cruel wife of killing her husband. Her husband's family caused conflicts for her, and her injustice piled up. From then on, her happiness also ended. broken and kicked out of her husband's house, witnessing her beloved father being humiliated. The conflict between the goddess and the servant in form is a direct conflict between mother-in-law and daughter-in-law, but in essence they are the ruler and the ruled. Speaks about the low status of poor women in family relationships and feudal marriage. The opening scene is the scene where her husband is tired from studying and falls asleep. She cleans the bed and fans her husband. She sees a beard and hair growing back under her husband's chin, wondering if it's a bad omen, so she wants to cut it off. Before she could show her love for her husband, her mother-in-law panicked and grabbed a knife and cried out: "Father!" O mother O O neighbor! Hello village! Late at night, suddenly something unusual happened... causing the whole family to wake up. Without needing to ask clearly what the end of the story was, Mrs. Sung immediately accused Thi Kinh of murdering her husband: This jellyfish-faced, brave girl! Are you planning to kill her child? Using her with a very aggressive attitude and a cruel look, Kinh could only cry and beg, but she pushed Thi Kinh's head down and forced her to raise her face to listen to her curse, but refused to explain anything. She blamed Thi Kinh for all her sins without knowing the situation. She scolded and kicked Thi Kinh out of the house not only because she thought that Thi Kinh killed her husband, but also that Thi Kinh was a spoiled woman with an evil mind; He is a child from a lowly family, not worthy of her family: “The family here looks like a phoenix and a peacock And the drama of flying cats and chickens is flirtatious This lady's family is of the highest order You are a child of a snail The dragon egg hatched into a dragon Liu diu bloomed again and produced a stream of olive trees The trash goes to Cau Nom The daughter told me to go live with her father..." When forced to commit the murder of her husband, Thi Kinh had patient words. Complaining 5 times seven times was not accepted, the husband insisted on listening to his mother, did not stand by her side and was cowardly. The first time, she complained to her mother-in-law: Oh my God, Mom, I'm so unfair, Mom! The second time, still with her mother-in-law: I'm so unfair, Mom! The third time, I complained to my husband: I'm so unfair, my dear! The fourth time, once again, she complained and begged her mother-in-law: Please check my situation for me, I'm so unfair, Mom! The last time Thi Kinh complained to Mang Ong, she received sympathy, but it was sympathy for suffering and helplessness to the end. Mang he said with tears in his eyes: "My son! Even if you are unjust or patient, you are not unjust Far away, I know how much you feel!” As a result, the relationship between husband and wife ended, broke up and she was kicked out of her husband's house. In the end, only the father and son were left, extremely lonely. The scene of father and son hugging each other and crying is the image of a poor person suffering injustice and being completely helpless in the face of that incident. Her feelings were expressed through a sad and tragic tone: “My dear! For a long time, the iron has been holding well Suddenly, someone is lonely as a bed and pillow." One side is the memory of the couple having a happy time together and the other side is the fleeting moment of breakup.
Bài làm Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ suất sắc của nền văn học hiện đại. Bà thường viết về những gì bình dị gần gũi trong đời sống thường ngày. Thơ của bà thường có giọng điệu sôi nổi trẻ trung mạnh bạo và giàu chất trữ tình. “Tiếng gà trưa” được viết vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ thể hiện tình yêu thương tổ quốc, quê hương trong đó sâu lặng và thắm thiết là tình bà cháu. Được làm theo thể thơ 5 chữ có sự biến đổi linh hoạt. Cách gieo vần liền ở những câu 2, 3 xen kẽ là vần dãn cách. Thể thơ này thích hợp kể lại kí ức và kỉ niệm. Trên đường hành quân xa Dừng chân bên xóm nhỏ Tiếng gà ai nhảy ổ: ” Cục… cục tác cục ta” Tiếng gà cục tác buổi trưa để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người chiến sĩ nó gắn với kỉ niệm sâu sắc tuổi ấu thơ, chính vì vậy nó gắn với kỉ niệm sâu sắc tuổi ấu thơ, chính vì vậy trong vô vàn âm thanh của làng quê, người chiến sĩ nghe thấy rõ nhất là tiếng gà cục tác. Vào một buổi trưa hè tại một làng quê vắng vẻ, trên đường hành quân người chiến sĩ được tiếp sức từ tiếng gà trưa. ” Nghe xao động nắng trưa Nghe bàn chân đỡ mỏi Nghe gọi về tuổi thơ”. Điệp từ “nghe” được đặt ở 3 câu đầu liên tiếp để nhấn mạnh giàu cảm xúc mà tiếng gà trưa đem lại: Với lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, lấy thính giác thay cho thị giác. Tiếng gà trưa đã làm xao động cả không gian làm xao động cả lòng người. Tiếng gà trưa làm thức dậy cả những kỉ niệm tuổi thơ. Cách hiểu nghĩa của cả hai câu thơ ” Nghe xao động nắng trưa”, “Nghe gọi về tuổi thơ” thiên về nghĩa bóng thì câu thơ ” Nghe bàn chân đỡ mỏi” thì thiên về nghĩa đen. Cách đảo trật tự ở các câu không giống nhau làm cho âm điệu các câu thơ thay đổi, tránh được sự nhàm chán và diễn tả sự bồi hồi xao xuyến của tâm hồn. Tiếng gà trưa được cảm nhận từ nhiều giác quan bằng cả tâm hồn. Những câu thơ mở đầu không có ẩn ý hoàn toàn giản dị như một bài đồng dao nhưng nó làm cho lòng người đọc nhẹ lại vì sự trong trắng sinh động và thân thiết. Những kỉ niệm tuổi thơ sau mỗi câu thơ ” Tiếng gà trưa” lại gợi lên kỉ niệm. ” Tiếng gà trưa Ổ rơm hồng những trứng Này con gà mái tơ Khắp mình hoa đốm trắng Này con gà mái vàng Lông óng như màu nắng”. Sau một câu kể là một câu tả, câu tả có kết cấu sóng đôi và lặp lại từ ” Này” là từ dùng để chỉ và lưu ý người nghe tưởng tượng. Các tính từ ” hồng” ” trắng” ” “óng” đều là gam màu tươi sáng gợi lên bức tranh đàn gà lộng lẫy tác giả còn sử dụng biện pháp so sánh ” Long óng như màu nắng” gợi lên vẻ đẹp rực rỡ. Tác giả tạo ra điều bất ngờ trong bài thơ không miêu tả tiếng gà trưa mà nói đến sự xuất hiện bất ngờ ” ổ rơm hồng những trứng” đó là phép lạ mà tiếng gà trưa đem lại. Tiếng gà trưa Có tiếng bà vẫn mắng: – Gà đẻ mà mậy nhìn Rồi sau này lang mặt! Cháu về lấy gương soi Lòng dại thơ lo lắng Tiếng gà trưa Tay bà khum soi trứng Dành từng quả chắt chiu Cho con gà mái ấp Hình ảnh người bà xuất hiện với tình cảm yêu thương và lo lắng cho cháu. Cứ hàng năm hàng năm Khi gió mùa đông tới Bà lo đàn gà toi Mong trời đừng sương muối Để cuối cùng bán gà Cháu được quần áo mới Ôi cái quần chéo go Ống rộng dài quét đất Cái áo cánh chúc bâu Đi qua nghe sột soạt Hình ảnh bà cặm cụi chắt chiu dành dụm: Khum tay chọn trứng dành cho con gà mái ấp, khi thời tiết mùa đông đến thời tiết lạnh giá khắc nghiệt bà lo đàn gà chết. Cách ngắt nhịp ở khổ 5 rất linh hoạt, tạo ra nhịp điệu chậm dãi chứa đựng những suy ngẫm để cuối cùng xuất hiện thật bất ngờ, cảm động ” Để cuối năm bán gà” – ” Cháu đi quần áo mới”. Một chi tiết bé nhỏ giản dị nhưng lại chứa đựng tình yêu thương sâu sắc vô bờ bến của bà. Tiếng gà trưa Mang bao niềm hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng. Niềm vui của người cháu khi có quần áo mới. Tuổi thơ gắn liền với niềm vui bé nhỏ, gắn liền hình ảnh người bà dành cho cháu. Quần áo là vật bình thường, tình yêu thương của bà mới là sâu sắc. Bà đã cần kiệm chắt chiu để có niềm vui nho nhỏ dành cho cháu. Bằng những chi tiết rất đổi đời thường giản dị tác giả đã làm nổi bật hình ảnh người bà hiền thảo giàu đức hi sinh. Đó là những người bà, người mẹ Việt Nam anh hùng. Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác
Assignment Xuan Quynh is an outstanding female poet of modern literature. She often writes about simple, familiar things in everyday life. Her poetry often has a vibrant, youthful, bold and rich lyrical tone. "Noon Chicken Sounds" was written in the early period of the resistance war against America, expressing love for the fatherland and homeland, including the deep and passionate love between grandmother and grandchild. Made in a 5-word poetic form with flexible changes. The way of rhyming consecutively in sentences 2 and 3 alternately is spaced rhyme. This form of poetry is suitable for recounting memories and memories. On a long march Stop by the small hamlet The sound of a chicken jumping into the nest: "Cluck... cluck cluck me" The sound of a chicken clucking at noon leaves a deep mark in the hearts of soldiers. It is associated with profound memories of childhood, that is why it is associated with profound memories of childhood, that is why in countless sounds In the countryside, what the soldiers heard most clearly was the clucking of chickens. On a summer afternoon in a deserted village, on the march, the soldiers were supported by the sound of the noon cock. ” Listen to the stirring of the noon sun Feeling less tired feet It calls back to childhood." The refrain "hear" is placed in the first 3 consecutive sentences to emphasize the rich emotions that the sound of the chicken at noon brings: With the metaphor of converting sensation, taking hearing instead of sight. The sound of the noon cock disturbed the entire space, stirring everyone's hearts. The sound of the chicken at noon awakens childhood memories. The way to understand the meaning of both verses "Hearing the stirrings of the noon sun", "Hearing the call of childhood" is more figurative, while the verse "Listening to tired feet" is more literal. The way of reversing the order of dissimilar sentences makes the tone of the verses change, avoiding boredom and expressing the restlessness of the soul. The sound of the noon chicken is felt from many senses with the whole soul. The opening verses do not have a completely simple meaning like a nursery rhyme, but they lighten the reader's heart because of their vivid innocence and intimacy. The childhood memories behind each verse "The sound of chickens at noon" evokes memories. ” The sound of chickens at noon Pink straw nest with eggs Hey pullet The flowers have white spots all over Hey golden hen The hair is as shiny as the sun." After a narrative sentence is a descriptive sentence. The descriptive sentence has a parallel structure and repeats the word "Hey" which is a word used to refer to and note the listener's imagination. The adjectives "pink" "white" "shiny" are all bright colors that evoke a splendid picture of a flock of chickens. The author also uses the comparison "Shiny as the color of sunlight" to evoke brilliant beauty. The author creates a surprise in the poem, not describing the sound of a chicken at noon, but talking about the sudden appearance of a "pink nest of eggs" that is the miracle that the sound of a chicken at noon brings. Noon chicken sound There was a voice of her still scolding: – The hens are laying but they look at them Then later on, you'll be gone! I'll go get a mirror The foolish heart is worried Noon chicken sound Her hand cupped the eggs Spend each fruit carefully Let the hen incubate The image of a grandmother appears with love and concern for her grandchild. Every year every year When the winter wind comes She takes care of my chickens I hope there is no frost To eventually sell the chicken I got new clothes Oh those skinny pants Long wide tube sweeps the ground The beautiful blouse As I passed by, I heard rustling The image of her working hard to save money: Cupping her hands to choose eggs for the hen to incubate, when the cold weather comes, she worries that the chickens will die. The rhythm in stanza 5 is very flexible, creating a slow rhythm containing thoughts that finally appear surprisingly and touchingly: "Let the chickens be sold at the end of the year" - "I will get new clothes". A small, simple detail but containing her profound and boundless love. Noon chicken sound Bring so much happiness That night I dreamed Pink egg sleep. The joy of a grandchild when he has new clothes. Childhood is associated with small joys, associated with the image of a grandmother for her grandchildren. Clothes are ordinary things, her love is profound. She worked hard to save money to have a little joy for her grandchildren. With very simple, life-changing details, the author has highlighted the image of a gentle grandmother rich in sacrifice. Those are heroic Vietnamese grandmothers and mothers. I fight today For love of country Because the village is familiar Grandma, it's also because of you Because of the clucking sound of chickens
Bài Làm Không chỉ bởi những câu tục ngữ về khuyên dạy con cháu, hay những câu tục ngữ về những canh tác, thời tiết. Ông cha ta còn để lại cho con cháu những vốn kinh nghiệm sống về học tập, làm người hay phải có ý chí phấn đấu, vươn lên, học rộng tài cao, cũng giống như câu tục ngữ: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” Con người ta cũng giống như một cuốn từ điển bách khoa, muốn có thêm những vốn kiến thức mới, vốn hiểu biết mới thì phải đi tích lũy, trao dồi thêm kỹ năng, kinh nghiệm chứ không phải tự nhiên mà có, tự nhiên được hình thành. Đó là điều không thể. Khi bạn học tiểu học, bạn thấy vốn kiến thức thật nhiều và khó. Nhưng càng lên cao, khi quay đầu nhìn lại, thì vốn kiến thức mình được học trước đây lại quá nhỏ bé. Chính vì vậy mà một nhà bác học mới có câu nói: “Học càng lên cao, tôi càng cảm thấy mình nhỏ bé và vốn kiến thức vốn cả chẳng là gì cả”. Bởi vì không cái thế giới vô tận này, không phải cái gì bạn cũng biết và biết hết. Có rất nhiều, rất nhiều kiến thức mà phải chăng khi hết cuộc đời bạn vẫn cảm thấy nuối tiếc vì chưa học hết được?
Assignment Not only because of proverbs about advising children and grandchildren, or proverbs about farming and weather. Our ancestors also left their children and grandchildren with life experiences about studying, being a human being, and having the will to strive, rise up, learn widely, and be highly talented, just like the proverb: "If you travel one day, you will learn one day." ready to be wise" People are like an encyclopedia. If you want to have new knowledge and understanding, you have to accumulate and cultivate more skills and experience, not something that comes naturally. created. That is impossible. When you are in elementary school, you find that knowledge is very rich and difficult. But the higher I go, the more I look back, the knowledge I learned before is so small. That's why a scientist once said: "The more I study, the more I feel small and that all knowledge is nothing." Because in this endless world, you don't know and know everything. There is so much, so much knowledge that at the end of your life, you still feel regretful because you haven't learned it all?
Bài Làm Ai trong mỗi chúng ta đều phải đi học, đều phải tích lũy thêm những vốn kiến thức cho bản thân. Cũng như ông cha ta đã để lại cho chúng ta một kho tàng những câu ca dao tục ngữ, trong đó có một câu nói mà tất cả học sinh chúng ta đều thuộc làu vì đây là câu nói được đặt ở mỗi lớp ở trường học các cấp: “Tiên học lễ, hậu học văn.” Theo nghĩa đen của câu tục ngữ thì trước hết phải học lễ nghĩa, sau khi học được lễ nghĩa thì mới có thể học kiến thức. Nếu chỉ có thể học mỗi kiến thức thì rất dễ vì ai cũng có thể học được, nhưng cái khó nhất trong rèn luyện là học lễ nghĩa, học cách ứng xử hay chính là học làm người. Muốn trở thành một con người giỏi, có ích cho đất nước, cho xã hội thì mỗi con người phải biết tu dưỡng đạo đức của bản thân. Phải học cách ứng xử với mọi người,biết đối nhân xử thế để có thể làm tấm gương cho mọi người có thể học tập theo. Rèn luyện đạo đức của bản thân không phải là việc có thể làm trong một sớm một chiều mà đây là việc rèn luyện bền bỉ, lâu dài và suốt cuộc đời. Trước hết, khi còn là học sinh, khi vẫn đang còn ngồi trên ghế nhà trường, bạn cần phải học tập và luôn bồi dưỡng đạo đức, tích cực tham gia các hoạt động của đoàn, đội, tham gia vào các phong trào của đoàn trường. Phải luôn biết ứng xử đúng mực, biết kính trên nhường dưới. Phải biết vâng lời thầy cô, vâng lời ông bà cha mẹ.
Assignment Each of us must go to school and must accumulate more knowledge for ourselves. Just like our ancestors left us a treasure trove of folk songs and proverbs, including one saying that all of us students know by heart because this is a saying placed in every class at school. levels: "Early learn rituals, later learn literature." According to the literal meaning of the proverb, you must first learn etiquette. After learning etiquette, you can learn knowledge. If you could only learn knowledge, it would be very easy because everyone can learn it, but the most difficult thing in training is learning etiquette, learning how to behave, or learning to be a human being. To become a good person, useful to the country and society, each person must know how to cultivate their own morality. You must learn how to behave with people, know how to treat people so that you can be an example for everyone to learn from. Practicing one's own morality is not something that can be done overnight, but is a persistent, long-term, and lifelong practice. First of all, when you are a student, while you are still in school, you need to study and always foster morality, actively participate in union and team activities, and participate in movements of the youth. School Group. You must always know how to behave properly and respect your superiors and subordinates. You must obey your teachers and parents and grandparents.