vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Hướng dẫn
Ví dụ:
‘VỊ kiều đầu, thanh thủy câu,
Thanh thủy biên, thanh thủy đồ.
Tống quân xứ hề, tám du du,
Quân đăng đồ hề, thiếp hận bất như câu.
Quân lâm lưu hề, thiếp hận bất như châu’…
Dịch thơ:
‘Ngòi đầu nước trong như lọc,
Dường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền’…
Dịch giả:
Hiện nay có 3, 4 bản dịch thơ ‘Chinh phụ ngâm khúc’.
Bản dịch 408 câu thơ song thất lục bát rất được phổ biến, nhiều người cho là của bà Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với ông Đặng Trần Côn.
Đoàn Thị Điểm quê ở làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà là một phụ nữ nổi tiếng: ‘đẹp người, đẹp nết, giỏi văn chương’, là vợ thứ của tiến sĩ Nguyễn Kiều, danh sĩ Bắc Hà thời Lê – Trịnh. Ngoài bản dịch ‘Chinh phụ ngâm
khúc’,nữ sĩ còn để lại tác phẩm ‘Truyền kì tân phả’ bằng chữ Hán.
Nội dung.,
‘Chinh phụ ngâm khúc’thể hiện nỗi thương nhớ, trông mong đợi chờ, nỗi buồn cô đơn, vất vả, dài dằng dặc của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa, đồng thời nói lên cảnh gian truân, nguy hiểm của người chồng trên chiến địa.
Giá trị.
Bản dịch ‘Chinh phụ ngâm khúc’ là một kiệt tác của nền văn thơ cổ điển Việt Nam.
– Nó có giá trị nhân đạo sâu sắc, nói lên tình thương đối với những chinh phụ, những khách chinh phụ trong thời loạn lạc: nguy hiểmchếtchóc, lo buồn có đơn; cảm thông với nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi, về ước mơ sum họp gia đình. ‘Chinh phụ ngâm ‘ còn là tiếng nói lên án chiến tranh thời phong kiến.
Về mặt nghệ thuật ‘Chinh phụ ngâm khúc’ đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Về thể thơ song thất lục bát là đỉnh cao chưa có tác phẩm nào sánh được. Nhạc điệu du dương, ngôn ngữ trong sáng gợi cảm, hình tượng mĩ lệ, cách diễn tả tâm trạng tinh tế, sâu sắc, các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng cực kì điêu luyện. Nhiều câu thơ, đoạn thơ đã in sâu trong tâm trí hàng triệu con người. Ví dụ: ‘Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ỷ thiếp, ai sầu hơn ai?’
hay:
‘Ôm yên, gối trống đã mòn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh’ hay:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong!
|
Instruct
For example:
'Vi Kieu Dau, Thanh Thuy Cau,
Thanh Thuy Bien, Thanh Thuy Map.
Song army of clown land, eight du du du,
The king is a clown, the concubine hates it like a sentence.
The army is a clown, I hate it like a continent'...
Poetry translation:
'The water is as clear as a filter,
It seems that the grass growing on the bridge is still young.
Filled his heart with sadness,
The land is as wise as a horse, the water is wise as a boat'...
Translator:
Currently, there are 3 or 4 translations of the poem 'Chinh Phu Ngan Khuc'.
The translation of 408 verses Song That Luc Bat is very popular, many people attribute it to Ms. Doan Thi Diem, a contemporary of Mr. Dang Tran Con.
Doan Thi Diem is from Giai Pham village, Van Giang district, Hung Yen province. She was a famous woman: 'beautiful, beautiful, good at literature', the second wife of Dr. Nguyen Kieu, famous Bac Ha scholar during the Le - Trinh period. In addition to the translation ‘Chinh Phu Ngu
Khuc', the female artist also left behind the work 'New Pedigree Legend' in Chinese characters.
Content.,
'Conqueror's Song' shows the longing, the longing, the loneliness, hardship, and endless sadness of a young wife whose husband went to war in a distant region, and at the same time speaks of the arduous and dangerous scene. of the husband on the battlefield.
Value.
The translation of 'Chinh Phu's Song' is a masterpiece of classical Vietnamese poetry.
– It has profound humanitarian value, expressing love for conquests and conquerors in times of turmoil: danger of death, anxiety and sadness; sympathize with the desire for couples' happiness and the dream of family reunion. 'Chinh Phu Ngu' is also a voice condemning feudal war.
In terms of art, 'Chinh Phu's Song' has achieved many brilliant achievements. In terms of poetic form, Song That Luc Bat is a pinnacle that no other work can compare to. The melodious music, the clear and sexy language, the beautiful images, the delicate and profound expression of mood, and the artistic techniques used are extremely skillful. Many verses and verses have been deeply imprinted in the minds of millions of people. For example: 'Thousands of green strawberries are all one color,
His heart is dependent on his concubine, who is more sad than the other?'
or:
'Hold still, the empty pillow is worn out,
Lying on white sand, sleeping on green moss dunes' or:
The sky is so deep and unfathomable,
Missing him is so painful!
|
Hướng dẫn
‘Chinh phụ ngâm khúc’là khúc ngâm tả nỗi buồn cô đơn, thương nhớ, chờ mong của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa. Tác giả khúc ngâm là Đặng Trần Côn, một danh sĩ tài ba, sống vào nửa đầu thế kỉ 18, khi đất nước ta đang đắm chìm trong cảnh loạn lạc, nội chiến lầm than và đau thương. Nguyên tác bằng chữ Hán, gồm có 470 câu thơ dài, ngắn xen nhau theo thể tự do. Bản dịch thơ dài 408 câu thơ song thất lục bát, tương truyền là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với tác giả. Tiếng Việt và thể thơ song thất dưới ngòi bút sáng tạo của
dịch giả đã nâng ‘Chinh phụ ngâm khúc’ lên một tầm vóc mới, trở thành kiệt tác trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Nghệ thuật diễn tả tâm trạng, hình tượng thơ mĩ lệ, nhạc điệu du dương, thiết tha, ngôn ngữ thơ tinh luyện, biểu cảm… là vẻ đẹp của áng thơ này. Nỗi buồn cô đơn, niềm khao khát hạnh phúc của nàng chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc mang ý nghĩa thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân, lên án chiến tranh phi nghĩa. Tinh thần nhân đạo là giá trị to lớn và sáu sắc của ‘Chinh phụ ngâm khúc’.
Đoạn thơ 12 câu dưới đây trích từ câu 53 đến câu 64 của khúc ngang đã thể hiện một cách cảm động tâm trạng cô đơn và nỗi sầu chia li của nàng chinh phụ trong những ngày đầu, sau khi tiễn chồng ra trận:
‘Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Lòng chàng ỷ thiếp ai sầu hơn ai?’
1. Hai vế đối xứng song hành: ‘Chàng thì đi’ / ‘thiếp thì về’ làm hiện lên một cảnh ngộ chia li của lứa đôi đầy bi kịch giữa thời loạn lạc. Người vợ trẻ thương chồng phải dấn thân vào ‘cõi xa mưa gió’, phải nếm trải bao nguy hiểm, gian lao nơi chiến địa xa xôi. Rồi nàng lại tự thương mình phải sống lẻ loi, cô đơn, một mình một bóng suốt năm canh nơi ‘buồng cũ chiếu chăn’. Hai hình ảnh tượng trưng: ‘cõi xa mưa gió’ và ‘buồng cũ chiếu chăn’ hô ứng nhau, đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi đau khổ của ‘đôi lứa thiếu niên’ khi đất nước ‘nổi cơn gió bụi’:
‘Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn’
Ba chữ ‘đoái trông theo’ gợi tả một cái nhìn đăm đắm về phía chân trời xa. Hình bóng người chồng thân yêu đâu còn nhìn thấy nữa, đã ‘cách ngăn’ bởi màu ‘biếc’ của mây, cứ ‘tuôn’ mãi ra, bởi ‘ngàn núi xanh’ cứ trải dài trải rộng và che khuất ở phía chân trời. Chinh phụ một mình một bóng lẻ loi giữa trống vắng bao la. Nỗi buồn cô đơn như thấm vào mây, núi:
‘Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh’
‘Mây biếc’càng làm cho bầu trời cao hơn, mênh mông hơn. ‘Ngàn núi xanh’ càng làm cho chân trời thêm xa xăm, cách trở. Câu thơ ‘Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh’ là một câu thơ có hình tượng mĩ lệ và rất hay. Tác giả đã lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng thương nhớ và cô đơn của chinh phụ một cách đặc sắc.
2. Nỗi buồn cô đơn của nàng chinh phụ được khắc sâu, được tô đậm qua cách nói ước lệ tượng trưng ở đoạn song thất tiếp theo:
‘Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng’
Hàm Dương và Tiêu Tương, hai địa danh trên đất nước Trung Hoa bao la, cách xa nhau hàng nghìn dặm, được nhắc đi nhắc lại đến ba lần đầy ám ảnh. Trên cõi sa trường tầm tã gió mưa sương tuyết, giữa rừng gươm giáo ‘chàng còn ngoảnh lại’… Ó chốn ‘buồng cũ chiếu chăn’, sớm sớm chiều chiều ‘thiếp hãy trông sang’. Nhưng chỉ thấy ‘bến’, thấy ‘cây’, thấy’khói’ mịt mù trong tâm tưởng. 90
Không gian địa lí bao la đã trở thành không gian nghệ thuật trống vắng. Chữ ‘cách’ được điệp lại hai lần, kết hợp với ‘mấy trùng’ càng làm nổi bật bi kịch chia li của lứa đôi. Và đó cũng là tâm trạng nghệ thuật: nỗi buồn cô đơn, thương nhớ của nàng chinh phụ không thể nào kể xiết.
Cách nói ước lệ tượng trưng là một thủ pháp nghệ thuật của thi pháp cổ mang giá trị thẩm mĩ đặc sắc: tạo nên tính hàm súc và liên tưởng phong phú, đầy ý vị. ‘Chinh phụ ngâm khúc’ có nhiều đoạn thơ mang tính ước lệ rất hay. Lúc thì gợi lên nỗi gian truân của khách chinh phu trên chiến địa:
‘Nay Hấn xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,
Hình khe, thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao…’
Lúc thì tái hiện một cách rùng rợn chốn sa trường:
‘Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phỉ gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi…’
3.Bốn câu thơ cuối đoạn đã cực tả nỗi buồn của nàng chinh phụ trong sự trông ngóng nhớ thương:
‘Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’
Càng ngóng trông càng vô vọng cô đơn; ở hai phía chân trời, chàng và thiếp đang buồn đau: ‘Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy’. Ngày và đêm, thực và mộng ‘chẳng thấy’ hình bóng thân thương của chàng, mà thiếp chỉ ‘thấy’ màu ‘xanh xanh’ của ngàn dâu, càng về sau càng nhạt nhòa trên cái nền bao la ‘ngàn dâu xanh ngắt một màu’. Màu ‘xanh xanh’, màu ‘xanh ngắt’ ấy của ngàn dâu cũng là màu xanh của tâm tưởng, màu xanh của li biệt. Thiếp đang sống trong nỗi buồn nhớ thiết tha. Chẳng có ngọn gió tây, chẳng có cánh chim nhạn để thiếp gửi tình thương nhớ tới chàng đang chinh chiến trên ải xa? Câu hỏi tu từ như một tiếng thở dài ngao ngán: ‘Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’.
Các từ ngữ: ‘cùng trông lại’, ‘cùng chẳng thấy’, ‘thấy’, ‘ngàn dâu… ngàn dâu’, ‘ai… ai’ – lúc thì tương phản, lúc thì hô ứng đăng đối, tăng cấp, lúc thì điệp và láy – đã tạo nên nhạc điệu du dương, tha thiết, diễn tả một cách xúc động một tâm trạng đầy bi kịch thời loạn lạc. Biện pháp nghệ thuật liên hoàn và cách diễn tả trùng điệp là một nét rất tài hoa của nữ sĩ được thể hiện qua 4 câu song thất này. Chữ ‘thấy’ cuối câu bảy trên được nhắc lại đầu câu bảy dưới; chữ ‘ngàn dâu’ cuối câu bảy dưới lại được điệp lại đầu câu sáu, đã làm cho thơ liền mạch, làm nổi bật nỗi sầu, nỗi buồn li biệt diễn ra triền miên khôn nguôi trong tâm hồn chinh phụ.
Trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’, biện pháp nghệ thuật liên hoàn – trùng điệp đã để lại dấu ấn tuyệt đẹp qua nhiều đoạn thơ tuyệt tác:
‘Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần’…
|
Instruct
'Chinh Phu's Song' is a song that describes the sadness, loneliness, longing, and anticipation of a young wife whose husband went to war in a distant region. The author of the poem is Dang Tran Con, a talented artist who lived in the first half of the 18th century, when our country was immersed in chaos, civil war, misery and pain. The original work is in Chinese characters, consisting of 470 long and short verses alternating in free form. The translation of the poem, which is 408 long, has two verses and six verses, and is said to have been written by female scholar Doan Thi Diem, a contemporary of the author. Vietnamese language and double that poetry form under the creative pen of
The translator raised 'Chinh Phu's Song' to a new level, becoming a masterpiece in Vietnamese classical poetry. The art of expressing moods, beautiful poetic images, melodious and passionate music, refined and expressive poetic language... are the beauty of this poem. The sadness and loneliness of her conquered wife's desire for happiness in the midst of chaos and war are meant to express the people's desire for peace and condemn unjust war. The humane spirit is the great value and six colors of 'Chinh Phu's Song'.
The 12-line poem below, taken from verses 53 to 64 of the poem, touchingly expresses the loneliness and sadness of separation of the concubine's wife in the first days after sending her husband off to war:
'You're going to a faraway land of rain and wind,
Who is more saddened by his concubine's heart?'
1. The two symmetrical parallels: 'He will go' / 'I will return' reveal a tragic situation of separation between a couple in the midst of chaos. The young wife who loved her husband had to venture into a 'distant realm of rain and wind', experiencing many dangers and hardships in a distant battlefield. Then she felt sorry for herself for having to live alone, lonely, all alone for five hours in the 'old room with blankets'. The two symbolic images: 'a faraway world of rain and wind' and 'an old room covered with blankets', corresponding to each other, deeply express the suffering of the 'teenage couple' when the country is 'swept with dust and wind':
'You're going to a faraway land of rain and wind,
I'll go back to my old room and get blankets.'
The three words 'watching' describe a gaze staring at the distant horizon. The image of her beloved husband can no longer be seen, 'separated' by the 'blue' color of the clouds, which keeps 'flowing' out, because 'thousands of green mountains' keep spreading out and obscuring the horizon. . The concubine was alone, a lonely shadow in the vast emptiness. The sadness of loneliness seems to seep into the clouds and mountains:
'If you keep an eye out,
Flowing with blue clouds, spanning thousands of green mountains'
'Blue clouds' make the sky higher and more vast. 'Thousand green mountains' make the horizon even more distant and distant. The verse 'Colored with blue clouds, covered with thousands of green mountains' is a verse with beautiful and very good imagery. The author used the external environment to express his wife's feelings of longing and loneliness in a unique way.
2. The lonely sadness of the concubine is deeply engraved and highlighted through symbolic convention in the next couplet:
'In Ham Duong he still looked back,
Ben Tieu Tuong, please look forward.
Smoke Tieu Tuong is far from Ham Duong,
Ham Duong tree is a few blocks away from Tieu Tuong'
Ham Duong and Tieu Tuong, two places in the vast country of China, thousands of miles apart, are haunted and repeated three times. In the desert land, the wind, rain, frost and snow, in the middle of the forest of swords and spears, 'you still look back'... Oh, in the 'old room with blankets', morning, afternoon and evening, 'please look forward'. But I only see 'dock', see 'trees', and see 'smoke' in my mind. 90
The vast geographical space has become an empty art space. The word 'way' is repeated twice, combined with 'meat', further highlighting the tragedy of the couple's separation. And that is also the artistic mood: the loneliness and longing of the concubine's wife is indescribable.
Symbolic conventional speech is an artistic technique of ancient poetry with unique aesthetic value: creating rich and meaningful connotations and associations. 'Chinh Phu's Song' has many beautiful conventional verses. Sometimes it evokes the hardships of soldiers on the battlefield:
'Now I'm going down to close the White Citadel,
Mai Ho went to Thanh Hai to look over.
Sloping shape, mountains near and far,
Broken then connected, low momentum then high...'
Sometimes it shows a scary scene in the desert:
'Non Ky is lonely and the moon hangs,
Ben Phi's wind blew a few mounds desolately.
The souls of martyrs are blown by the wind,
The moon's conqueror's face watches over...'
3.The last four lines of the poem describe the sadness of the concubine's wife in her longing and longing:
'We looked but did not see,
Seeing thousands of strawberries green and green.
Thousands of green strawberries of different colors,
Whose heart is sadder than the other?'
The more you wait, the more hopeless and lonely you become; On both sides of the horizon, he and his concubine are sad: 'They both looked but did not see'. Day and night, reality and dreams 'can't see' your beloved figure, but I only 'see' the 'green' color of a thousand strawberries, which gradually fades away on the vast background of 'a thousand blue strawberries'. color'. That 'green', 'blue' color of thousands of strawberries is also the green of the mind, the green of separation. I am living in a deep sadness and longing. Is there no west wind, no swallow's wings for me to send my love to you, who is fighting on a distant border? The rhetorical question was like a sigh of boredom: 'Who is more saddened in your heart than the other?'.
Words: 'look back together', 'don't see', 'see', 'thousand strawberries... thousand strawberries', 'ai... ai' - sometimes contrasting, sometimes corresponding, increasing, sometimes alliteration and alliteration - created a melodious, passionate melody, emotionally expressing a tragic mood in a time of chaos. Continuous artistic methods and overlapping expressions are a very talented feature of the female artist shown through these four parallel sentences. The word 'see' at the end of verse seven above is repeated at the beginning of verse seven below; The word 'thousand strawberries' at the end of verse seven below is repeated at the beginning of verse six, making the poem seamless, highlighting the sadness and sadness of separation that is constant and inconsolable in the soul of the conqueror.
In 'Chinh Phu's Song', the continuous and overlapping artistic method has left a beautiful mark through many masterpieces of poetry:
'Sunflower is like a flower in my heart,
His heart was wandering and afraid of the evil shadow.
The shade of the poplar leaves yellow flowers without regard,
The flowers turn yellow because of the poplar shade.
Yellow flowers fall around the wall,
Experience how many times the flowers fall on dewy nights'...
|
Hướng dẫn
1. Trông bến nam bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh,
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
2. Trông đường bắc đôi chòm quán khách,
Rườm rà cây xanh ngất núi non,
Lúa thành thoi thót bên cồn
Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu.
3. Non đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ xập xòe, mai cũng be’ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió, lạc loài kêu sương.
4. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn triện không, sóng giục thuyền câu,
Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
… Mỗi cảnh là một phương hướng, trong một mùa. Có nam, bắc, đông, tây. Có xuân, hạ, thu, đông. Bút pháp miêu tả ước lệ, tượng trưng, cấu trúc cân xứng qui phạm theo ‘tứ bình’, đó là vẻ đẹp cổ điển.
Mùa xuân đến, người vợ trẻ ‘trông bển nam’ chỉ nhìn thấy một màu xanh của ‘cỏ biếc um’, của ‘dâu mướt’ mà thôi. Thấy nhà thôn ‘chông chênh’ xa gần mấy xóm, thấy đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm. sắc của cỏ, dâu thì mơn mởn. Cảnh đàn cò kết bầy kết đôi. Ngoại cảnh ấy gợi lên trong lòng nàng chinh phụ còn trẻ nhiều khao khát, mong đợi. Tủi cho thân phận cô đơn của mình.
Mùa hè đến, nàng ‘trông đường bắc’ nhìn xa chỉ thấy ‘rườm rà cây xanh ngất núi non’, mịt mù; trông gần chỉ thấy ‘đôi chòm quán khách’ cũng gợi tả nỗi buồn lẻ loi đơn chiếc. Câu thơ ‘Lúa thành thoi thót bên cồn’ cũng mượn ngoại cảnh ngọn lúa bay rập rờn trước gió bên bờ thành để đặc tả nỗi ám ảnh buồn thương tiêu điều của hàng chinh phụ. Nàng chợt nghe tiếng sáo ngọc ngân lên véo von, dồn dập. Cũng là âm thanh gợi nhớ, gợi thương, não nùng thê thiết!
‘Lúa thành thoi thót bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von trên lầu’
Mùa thu đến, nàng thấy ‘non đông’ lá rụng ‘chất đống’ tàn tạ buồn thương. Trĩ từng đôi ‘xập xòe’, khóm mai ‘bẻ bai’ uốn lượn. Câu thơ ‘Trĩ xập xòe, mai cũng bẻ bai’ là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng, cỏ hoa, chim chóc được sánh đôi múa lượn còn nàng thì gối chiếc chăn đơn. Nàng càng thêm sầu tủi, cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết khi nghe tiếng nhạn lạc bầy kêu lên trong màn sương khói mịt mù: ‘Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu sương’
Ngọn gió thu lạnh thổi bạt cánh nhạn lạc bầy. Và đó cũng là bão táp chiến tranh làm cho những lứa đôi trở nên lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lùng. Nàng chinh phụ thổn thức thương mình bao nhiêu lại thương chồng nơi ải xa đang dãi dầu sương tuyết bấy nhiêu.
Mùa đông đến, nàng lại nhìn về phương tây, nhìn về Lũng Tây bãi chiến trường núi xương sông máu,… Nàng chỉ nhìn thấy sông nước mịt mù, ngàn thông, rừng lau trùng điệp. Cánh nhạn chao liệng trên từng không. Xa xa thấp thoáng có bóng người đi về… Cánh nhạn và bóng người thấp thoáng là hai nét vẽ đầy ấn tượng. Nhìn cánh nhạn, cô phụ ngỡ là cánh nhạn đưa thư. Nhìn về phía bên kia ghềnh, thấy thấp thoáng ‘người đâu đi về’, chinh phụ tưởng là người chồng thân yêu từ chiến trường xa trở về… Nhớ quá, thương nhiều, đợi chờ, mòn mỏi, nên chinh phụ mới cảm nhận hư ảo ấy. Hi vọng lắm nên càng thất vọng nhiều. Càng thất vọng lại càng sầu tủi!
‘Ngàn thông chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về’
Nét đặc sắc nghệ thuật là vẻ đẹp màu sắc cổ điển.
Cảnh vật mang tính ước lệ tượng trưng (ngọc địch, mai, trĩ, nhạn, thuyền câu, thông, lau, Lũng Tây, bóng người…), cấu trúc cân xứng: xuân, hạ, thu, đông; nam, bắc, đông, tây. Lối diễn đạt cũng hài hòa cân xứng:
… Trông bến nam…
… Trông đường bắc…
… Non đông thấy…
… Lũng Tây thấy…
Bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, điêu luyện.Thi sĩ mượn ngoại cảnh bôn phương trời, bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; lấy cỏ, dâu, lúa, thông, lau, bãi, núi, sông, ghềnh; lấy khói mù, sương, gió, lấy đàn cò, chim trĩ, chim nhạn,v.v… bấy nhiêu nét vẽ ngoại cảnh đều góp phần đặc tả tâm cảnh, khắc họa những biến thái, những rung động trong tâm hồn, những nhớ mong, thương nhớ, đợi chờ, cô đơn, hi vọng để rồi thất vọng mà thêm sầu tủi…
Ngôn ngữ thi ca giàu hình tượng và biểu cảm.Các từ chỉ màu sắc (cỏ biếc um dâu mướt màu xanh… Khói mù nghi ngút ngàn khơi…), các từ tượng thanh tượng hình (chông chênh, rườm rà, thoi thót, véo von, xập xòe, bẻ bai, nghi ngút, chen chúc, thấp thoáng’ được thi sĩ (dịch giả) vận dụng rất thần tình, cho thấy bút pháp điêu luyện, sự giàu có về từ ngữ, trí tưởng tượng tuyệt vời. Đến bản dịch
‘Chinh phụ ngâm’,ngôn ngữ thi ca dân tộc trở nên trong sáng, mềm mại, giàu có và đẹp đẽ vô cùng.
Vần điệu, âm điệu, nhạc điệucủa ‘Chinh phụ ngâm khúc’là một thành tựu tuyệt mĩ.
|
Instruct
1. Looking at the south wharf, the beach covers the water surface,
The grass is luxuriant and the mulberries are green,
The village houses in some hamlets are unstable,
A flock of storks perched in front of the rapids that afternoon.
2. Looking at the road north of a pair of guest shops,
Dotted with green trees and mountains,
Rice fields are barely hanging on the dunes
Just listen to the nemesis chirping upstairs.
3. In the winter, see the leaves piled up,
Hemorrhoids are fluttering, tomorrow will also be broken,
Smoke and smoke are everywhere,
The wind-whipped, stray bird calls for dew.
4. In Lung Tay, the water seems to meander,
The swallows are empty, the waves urge fishing boats,
Thousands of pine trees crowd reed bushes,
Near the rapids, there are glimpses of people going back and forth.
… Each scene is a direction, in a season. There is south, north, east, west. There is spring, summer, autumn, winter. The writing style depicts convention, symbolism, and symmetrical structure according to the 'four squares', which is classical beauty.
When spring comes, the young wife who 'looks like a man' only sees the green color of 'blue grass' and 'lush strawberries'. Seeing the village house 'unsteady' several hamlets far away, seeing a flock of storks perched in front of the rapids that afternoon. The colors of grass and mulberries are lush. Scene of flocks of storks forming pairs. That external scene evoked many desires and expectations in the young concubine's heart. Pity for your lonely fate.
Summer came, she 'looked at the north road' and saw in the distance only 'a lot of green trees and mountains', a blur; Looking up close, we can only see 'a pair of restaurant bars', which also depicts the sadness of loneliness. The poem 'The rice citadel is fluttering on the dunes' also borrows from the external scene of the rice blades fluttering in the wind on the citadel's banks to describe the sad and desolate obsession of the conquerors. She suddenly heard the jade flute's sharp, urgent sound. It's also a reminiscent, sad, and sad sound!
'The rice fields are fluttering beside the dunes,
Listen to the jade enemy pinching upstairs'
When autumn comes, she sees the leaves fall and fall in piles of sadness and sadness. The hemorrhoids are 'splayed' in pairs, the apricot clusters are 'broken' and winding. The poem 'The pheasant flutters, the tomorrow also breaks' is an impressive contrasting drawing, the grass, flowers, and birds are dancing side by side while she is pillowed with a single blanket. She was even more sad, lonely, and lonely than ever when she heard the sound of a flock of swallows calling out in the mist and smoke: 'The smoke is endless,
A lost bird calling for dew'
The cold autumn wind blew away the flocks of swallows. And that is also the storm of war that makes couples become lonely, single, and cold. The concubine's wife sobbed and loved her as much as she loved her husband in a faraway land that was drenched in frost and snow.
Winter came, she looked to the west again, to Lung Tay, the battlefield of mountains, bones and rivers of blood... She only saw misty rivers, thousands of pine trees, and endless reed forests. The swallow's wings fluttered in the air. In the distance, there is a glimpse of a person walking back... The swallow's wing and the looming silhouette of a person are two impressive drawings. Looking at the swallow, the woman thought it was a swallow carrying a letter. Looking at the other side of the rapids, I saw a glimpse of 'someone who has come and gone'. The concubine thought it was her beloved husband returning from a distant battlefield... Missing so much, loving so much, waiting, tired, that's why the concubine felt it. That's unreal. I had so much hope that I was even more disappointed. The more disappointed you are, the more sad you are!
'Thousands of pine trees crowding reed bushes,
The way through the rapids, people are nowhere to be seen.
The unique artistic feature is the beauty of classic colors.
The landscape has symbolic convention (jade, apricot, pheasant, swallow, fishing boat, pine, reed, Lung Tay, human shadow...), symmetrical structure: spring, summer, autumn, winter; south, north, east, west. The expression is also harmonious and symmetrical:
… Looking at the south wharf…
… Looking at the northern road…
… The mountains are crowded…
… Lung Tay sees…
The writing style of describing love scenes is unique and skillful. The poet borrows from the four seasons of spring, summer, autumn, and winter; take grass, mulberry, rice, pine, reed, beaches, mountains, rivers, rapids; Take the haze, mist, wind, take the flock of storks, pheasants, swallows, etc., so many external strokes contribute to describing the mood, portraying the metamorphoses, the vibrations in the soul, the longings. , missing, waiting, lonely, hoping, then disappointed and more sad...
Poetic language is rich in images and expressions. Words denoting colors (green grass, lush green mulberries... Thousands of clouds of smoke...), onomatopoeic words (unsteady, cumbersome, throbbing, pinching, fluttering, cracking, bursting, jostling, flickering' are used very skillfully by the poet (translator), showing skillful writing style, richness of words, and great imagination. Go to translation
'Conquering Father's Soak', the national poetic language becomes pure, soft, rich and extremely beautiful.
The rhyme, melody, and music of 'Chinh Phu Ngam Khuc' is a beautiful achievement.
|
Hướng dẫn
Tác giả:
Họ tên nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan là Nguyễn Thị Hình. Quê nữ sĩ ở làng Nghi Tàm, nơi trồng dâu dệt lụa nổi tiếng đất Kinh kì Thăng Long. Xuất thân trong một gia đình quyền quý; bà nổi tiếng là một người phụ nữ đoan trang quý phái, hay chữ, giỏi thơ quốc âm, rất khéo léo về nữ công gia chánh. Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện tại huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình nên được người đời ái mộ gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà từng giữ chức nữ quan Cung trung giáo tập tại kinh đô Phú Xuân của triều Nguyễn.
Trong cuốn ‘Văn đàn bảo giám’tuyển tập thơ do Trần Trung Viên sưu tập, Tản Đà viết lời giới thiệu xuất bản hơn 70 năm về trước có 6 bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi đài khán xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan hay nói đến hoàng hôn đượm nỗi buồn li hương hoài cổ, ngôn ngữ trang trọng, trang nhã, nhạc điệu trầm bổng du dương; nghệ thuật tả cảnh ngụ tình rất tinh tế, điêu luyện.
Hoàn cảnh ra đời:
Giữa thế kỉ 19, Bà Huyện Thanh Quan đã đi vào Phú Xuân làm nữ quan Cung trung giáo tập của triều Nguyễn. Bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ đã được nữ sĩ viết khi trên đường thiên lí vào kinh, lúc lần đầu đi qua Đèo Ngang. Hai chữ ‘bước tới’ trong câu phá đề cho ta cảm nhận ấy.
Thể thơ:
|
Instruct
Author:
The full name of female scholar Ba Huyen Thanh Quan is Nguyen Thi Hinh. The woman's hometown is in Nghi Tam village, a famous mulberry growing and silk weaving area in Thang Long capital. Coming from a noble family; She was famous for being a dignified and noble woman, good at writing, good at Vietnamese poetry, and very skillful in home economics. Her husband, Luu Nghi, worked as a district governor in Thanh Quan district, Thai Binh province, so people admired him and called him Ba Huyen Thanh Quan. She once held the position of female official of the Central Education Palace in the capital Phu Xuan of the Nguyen Dynasty.
In the book 'Van Dan Bao Giam', a collection of poems collected by Tran Trung Vien, Tan Da wrote an introduction published more than 70 years ago, there are 6 poems by Ba Huyen Thanh Quan: 'Through Ngang Pass', 'This Afternoon homesick', 'Nostalgic Thang Long city', 'Tran Bac Pagoda', 'Playing on the Tran Vo spring stage', 'Autumn afternoon scene'.
Ba Huyen Thanh Quan's poetry often talks about sunsets filled with nostalgic sadness of leaving home, the language is formal and elegant, the music is melodious; The art of depicting love scenes is very delicate and skillful.
Circumstances of birth:
In the middle of the 19th century, Ba Huyen Thanh Quan went to Phu Xuan to work as a female official in the Central Education Palace of the Nguyen Dynasty. The poem 'Crossing Ngang Pass' was written by the female poet while on the way to the capital, when she first passed through Ngang Pass. The two words 'step forward' in the sentence that breaks the problem give us that feeling.
Poetry form:
|
Hướng dẫn
…Bà được vua Minh Mệnh với vào Kinh đô Phú Xuân làm nữ quan ‘Cung trung giáo tập’. Chồng là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi nữ sĩ là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà chỉ còn để lại sáu bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi Đài Khán Xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’…
Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.
Trên đường vào Phú Xuân… bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài ‘Qua Đèo Ngang’. Bài thơ tả
cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nổi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhàcủa người lữ khách – nữ sĩ.
Lần đầu nữ sĩ ‘bước tới Đèo Ngang’, đứng dưới chân con deo ‘đệ nhất hùng quan’ này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm ‘bóng xế tà’, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã ‘tà’, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm ‘tà’ cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoà… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ ‘chen’, vần lưng: ‘đá’ – ‘lá’, vần chân: ‘tà’ – ‘hoà’, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:
‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’
Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. cỏ cây, hoa lá phải ‘chen’ với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.
Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:
‘Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà’
Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có ‘tiều vài chú’. Hoạt động ‘lom khom’ vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Chỉ mấy cái lều chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi ‘chợ mấy nhà’ để gieo vần mà thôi: ‘tà’ – ‘hoà’ – ‘nhà’. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.
Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm ‘con cuốc cuốc’ và ‘cái gia gia’tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnhtrong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng rất tài tình:
‘Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’
Nghe tiếng chim rừng mà ‘nhớ nước đau lòng’, mà ‘thương nhà mỏi miệng’nỗi buồn thấm thía vào chín tầng sâu cõi lòng, tỏa rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương, sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một phụ nữ nên nỗi ‘nhớ nước’, nhớ Kinh- kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!
Bốn chữ ‘dừng chân đứng lại’ thể hiện một nỗi niềm xúc đọng đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: ‘Trời non nước’-, nhìn xa, nhìn gần, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại
97
‘một mảnh tình riêng’.Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của ‘trời non nước’ tương phản với cái nhỏ bé của ‘mảnh tình riêng’ của ‘ta với ta’ đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê, nhớ nhà, buồn mà đẹp:
‘Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta’
‘Qua Đèo Ngang’là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kì thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước.
BÀI SỐ 68
Phân tích bài thơ: ‘Qua Đèo Ngang’của Bà Huyện Thanh Quan (bài 2).
Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới:
‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà’
Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả. Cảnh tươi tắn, ưa nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc:
‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’
Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người. Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mắt nhìn là người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt:
‘Lom khom dưới núi, tiêu vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà’
Bà Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về Đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim cuốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào vắng vẻ, tĩnh mịch của buổi chiều trên Đèo. Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vần để hết sức sâu sắc và lớn lao: ‘nhớ nước’ và ‘thương nhà’.
‘Thương nhà’thì đã rõ. Bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu vào Huế làm chức Cung trung giáo tập. Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm. Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim cuốc? Nhiều người cho rằng đó là tâm sự ‘hoài Lê’ của tác giả. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba thứ tư rồi. Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác, là một nhà thơ nhạy cảm, Bà Huyện Thanh Quan hẳn có nhiều điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi ‘đau lòng’ khi ‘nhớ nước’ có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời.
Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình:
‘Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta’
‘Qua Đèo Ngang’trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoà, lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng cuốc cuốc, gia gia khắc khoải, dồn dập. Và khi lên đến đỉnh Đèo thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: ‘trời, non, nước’. Cái mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: ‘dừng chân đứng lại’.
|
Hướng dẫn
…Bà được vua Minh Mệnh với vào Kinh đô Phú Xuân làm nữ quan ‘Cung trung giáo tập’. Chồng là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi nữ sĩ là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà chỉ còn để lại sáu bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi Đài Khán Xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’…
Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.
Trên đường vào Phú Xuân… bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài ‘Qua Đèo Ngang’. Bài thơ tả
cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nổi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhàcủa người lữ khách – nữ sĩ.
Lần đầu nữ sĩ ‘bước tới Đèo Ngang’, đứng dưới chân con deo ‘đệ nhất hùng quan’ này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm ‘bóng xế tà’, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã ‘tà’, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm ‘tà’ cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoà… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ ‘chen’, vần lưng: ‘đá’ – ‘lá’, vần chân: ‘tà’ – ‘hoà’, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:
‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’
Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. cỏ cây, hoa lá phải ‘chen’ với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.
Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:
‘Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà’
Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có ‘tiều vài chú’. Hoạt động ‘lom khom’ vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Chỉ mấy cái lều chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi ‘chợ mấy nhà’ để gieo vần mà thôi: ‘tà’ – ‘hoà’ – ‘nhà’. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.
Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm ‘con cuốc cuốc’ và ‘cái gia gia’tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnhtrong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng rất tài tình:
‘Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’
Nghe tiếng chim rừng mà ‘nhớ nước đau lòng’, mà ‘thương nhà mỏi miệng’nỗi buồn thấm thía vào chín tầng sâu cõi lòng, tỏa rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương, sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một phụ nữ nên nỗi ‘nhớ nước’, nhớ Kinh- kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!
Bốn chữ ‘dừng chân đứng lại’ thể hiện một nỗi niềm xúc đọng đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: ‘Trời non nước’-, nhìn xa, nhìn gần, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại
97
‘một mảnh tình riêng’.Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của ‘trời non nước’ tương phản với cái nhỏ bé của ‘mảnh tình riêng’ của ‘ta với ta’ đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê, nhớ nhà, buồn mà đẹp:
‘Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta’
‘Qua Đèo Ngang’là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kì thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước.
BÀI SỐ 68
Phân tích bài thơ: ‘Qua Đèo Ngang’của Bà Huyện Thanh Quan (bài 2).
Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới:
‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà’
Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả. Cảnh tươi tắn, ưa nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc:
‘Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’
Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người. Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mắt nhìn là người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt:
‘Lom khom dưới núi, tiêu vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà’
Bà Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về Đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim cuốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào vắng vẻ, tĩnh mịch của buổi chiều trên Đèo. Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vần để hết sức sâu sắc và lớn lao: ‘nhớ nước’ và ‘thương nhà’.
‘Thương nhà’thì đã rõ. Bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu vào Huế làm chức Cung trung giáo tập. Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm. Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim cuốc? Nhiều người cho rằng đó là tâm sự ‘hoài Lê’ của tác giả. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba thứ tư rồi. Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác, là một nhà thơ nhạy cảm, Bà Huyện Thanh Quan hẳn có nhiều điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi ‘đau lòng’ khi ‘nhớ nước’ có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời.
Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình:
‘Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta’
‘Qua Đèo Ngang’trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoà, lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng cuốc cuốc, gia gia khắc khoải, dồn dập. Và khi lên đến đỉnh Đèo thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: ‘trời, non, nước’. Cái mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: ‘dừng chân đứng lại’.
|
Hướng dẫn
Hãy khẽ ngâm và lắng nghe âm điệu réo rắt, du dương của bài thơ kiệt tác
này:
‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoà.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
*, Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta’
Bài thơ thất.ngôn bát cú Đường luật tả cảnh Đèo Ngang lúc chiều tàn và nỗi lòng của người lữ khách.
1. Câu thơ phá đề mở ra một không gian nghệ thuật là ‘Đèo Ngang’, một thời gian nghệ thuật là ‘bóng xế tà’, một tâm trạng nghệ thuật, đó là sự ngạc nhiên của người lữ khách lần đầu ‘bước tới’ một miền đất lạ. ‘Bóng xế tà’ là lúc ngày tàn, mặt trời đã gác núi, cảnh vật đi dần vào trạng thái yên tĩnh nghỉ ngơi. Khoảnh khắc ấy đối với li khách đứng trước con đèo xa lạ, sao mà chẳng buồn? Chữ ‘tà’ của vần thơ như một tiếng lòng ngân nga, rung động man mác buồn:
‘Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà’
Hai chữ ‘bước tới’ gợi cho người đọc đoán định thời điểm nữ sĩ viết bài thơ này 150 năm về trước, đó là khi nữ sĩ trên đường thiên lí vào Kinh đô Phú Xuân nhận chức nữ quan ‘Cung trung giáo tập’ của triều Nguyên.
Câu thơ thứ hai mở ra một thế giới, một cảnh sắc nơi con đèo ‘Đệ nhất hùng quan’ của Đại Việt. Cũng có cỏ và cây, tất cả phải ‘chen’ với đá. Cũng có lá nhưng phải ‘chen’ với hoà, hoa dại, hoa mua, hoa sim. Điệp từ ‘chen’ gợi tả cảnh hoang vu, hoang dại của thiên nhiên nơi con đèo. Hai tiếng ‘đá’ và ‘lá’ ở giữa câu thơ vần với nhau (vần lưng) phối âm với vần chân (tà – hoà) đã làm cho nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, đọc lên nghe rất thú vị:
‘Bước tới Đèo Ngang bóng xê’tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoà’
2. Từ trên con đèo, người lữ khách nhìn về chân núi, trông về dòng sông dưới chân đèo xa xa. Điểm nhìn hướng về mấy chú tiều phu đang ‘lom khom’ gánh củi dưới núi, rồi trông về mấy nhà ‘lác đác’ chợ bên sông. Từ láy ‘lom khom’ gợi tả sự vất vả của tiều phu khi gánh củi đè nặng trên vai, đang từng bước từng bước xuống dốc núi. Từ tượng hình ‘lác đác’ làm nổi bật sự thưa thớt, lèo tèo mấy lều chợ miền núi ngày xưa. Nghệ thuật đảo ngữ và phép đối làm cho không gian nghệ thuật Đèo Ngang thêm phần hoang sơ, hoang vắng. Trước cảnh vật ấy, thế giới ấy, lữ khách càng cảm thấy lẻ loi, cô đơn. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của nữ sĩ rất tinh tế. Cảm xúc của thi nhân như thấm sâu vào dáng hình ‘lom khom’, vào đường nét ‘lác đác’ trong màu vàng nhạt, vàng thẫm của ‘bóng xế tà’:
‘Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà’
Miền đất lạ, tuy có núi và sông, có mấy nhà chợ, có vài chú tiều phu, nhưng đối với lữ khách lúc chiều tàn vẫn hoang vắng cô liêu.
3. Trời tối dần, bóng hoàng hôn bao phủ Đèo Ngang. Bút pháp nghệ thuật của thi pháp Đường thi được nữ sĩ vận dụng tài tình. Cảnh đèo trở nên hoang vắng khi tiếng chim cuốc gọi đàn, khi tiếng chim gia gia giục giã. Con cuốc cuốc kêu hoài như tiếng của ‘người xưa’ thiết tha ‘nhớ nước đau lòng’… Cái gia gia gọi bầy trong nỗi niềm ‘thương n?à mỏi miệng’. Tiếng chim rừng gọi đàn cũng chính là tâm trạng ‘nhớ nước’, ‘thương nhà’ của li khách. Nữ sĩ từ Kinh kì Thăng Long của đất ‘Đàng Ngoài’, nơi chôn nhau cắt rốn của mình lần đầu đi vào xứ ‘Đàng Trong’ sao không khỏi ‘nhớ nước’ và ‘đau lòng’? Thương loài chim rừng ‘đau lòng’ và ‘mỏi miệng’ chính là tiếng than tự thương mình, ở phần luận bài ‘Qua Đèo Ngang’ khúc nhạc rừng cũng là khúc nhạc lòng buồn thương của nữ sĩ:
‘Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’
Một lần nữa, phép đối của luật Đường, biện pháp đảo ngữ được vận dụng một cách điêu luyện làm cho vần thơ vang lên trong nhạc điệu du dương, trong ngôn từ hài hòa cân xứng. Có thể nói đây là những vần thơ truyền cảm nhất, khi nói về một nỗi buồn đẹp: nhớ nước, thương nhà.
4.Hai câu kết cực tả nồi niềm cô đơn, lẻ loi của lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc hoàng hôn. Chầm chậm bước, rồi ‘dừng chân đứng lại’ nhìn cao, nhìn xa, nhìn về bốn phía chỉ thấy ‘trời non nước’ bát ngát mênh mông. Giữa vũ trụ bao la ấy, nữ sĩ cảm thấy nỗi riêng của lòng mình tan ra thành ‘mảnh’. Chẳng thấy quê nhà, chẳng có người thân thương (chồng, con), chỉ có ‘ta với ta’:
‘Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta’
Ba chữ ‘ta với ta’ đã thể hiện một cách sâu sắc xúc động nỗi buồn nhớ gia đình quê hương, nỗi niềm lẻ loi, cô đơn của nữ sĩ. Tâm trạng ấy một lần nữa tác giả nói đến rất thơ trong bài ‘Chiều hôm nhớ nhà’:
‘Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn’
‘Thơ là tiếng lòng của thi nhân’,thi sĩ Tô Đông Pha đã nói như vậy. Ba chữ ‘ta với ta’ trong bài ‘Qua Đèo Ngang’ nói lên nỗi buồn cô đơn lẻ loi của khách li hương. Trong câu thơ của Nguyễn Khuyến:
‘Đầu trò tiếp khách trầu không có,
Bác đến chơi đáy ta với ta’
thì ba chữ ‘ta với ta’ thể hiện một tình bạn tri âm tri kỉ. Bác cũng là ta, ta cũng là bác, hai ta chan hòa trong một tình bạn thắm thiết thủy chung, cao đẹp. Qua đó, ta càng thấy rõ cá tính sáng tạo của hai nhà thơ Nôm lỗi lạc của dân tộc.
|
Instruct
Please quietly recite and listen to the rumbling, melodious tones of the masterpiece poem
This:
'Step to Ngang Pass in the sunset,
Grass and trees intertwine with rocks and leaves.
Crouching under the mountain to make a few trees,
Few sporadic riverside home market.
Missing the country makes my heart ache as a hoe,
Trade the mouth so adhered fatigue.
*, Stop and stand still in the sky and water,
A piece of me with my own situation'
The eight-word poem Duong Luat describes the scene of Ngang Pass at dusk and the feelings of the traveler.
1. The poem that breaks the theme opens up an artistic space called 'Deo Ngang', an artistic time that is 'the twilight shadow', an artistic mood, that is the surprise of the first-time traveler 'stepping to a strange land. 'Sunset' is when the day ends, the sun has guarded the mountains, and the landscape gradually enters a state of quiet rest. At that moment, for a traveler standing in front of an unfamiliar pass, how could he not be sad? The word 'ta' in the poem is like a heart-wrenching sound, vibrating with sadness:
'Step to Ngang Pass in the sunset'
The two words 'step forward' remind readers to guess the time when the female poet wrote this poem 150 years ago, that is when the female poet was on the Thien Ly road to Phu Xuan Capital to receive the position of female official of the 'Central Education Department' of the Imperial Palace. Yuan Dynasty.
The second verse opens up a world, a landscape in Dai Viet's 'First Majestic Pass'. There are also grass and trees, all of which have to 'jostle' with the rocks. There are also leaves but they have to be 'intertwined' with Hoa, wildflowers, Mua flowers, and myrtle flowers. The refrain 'chen' describes the wilderness and wildness of nature at the pass. The two words 'kick' and 'leaf' in the middle of the poem rhyme together (back rhyme) combined with the foot rhyme (ta - hoa) to make the music melodious and melodious, making it very interesting to read:
'Step to Ngang Pass with the shadow of xe'ta,
The grass and trees overlap the rocks, the leaves blend together.
2. From the pass, the traveler looks at the foot of the mountain and at the river at the foot of the pass in the distance. The viewpoint looks towards the woodcutters who are 'hunching' to carry firewood under the mountain, then looks towards the 'scattered' market houses by the river. The word "lom stoop" describes the hardship of the woodcutter when carrying a heavy load of firewood on his shoulders, step by step going down the mountain slope. The pictogram 'scattered' highlights the sparseness and meagerness of the mountain market tents of the past. The art of anagrams and parallelism makes the Deo Ngang art space more wild and desolate. Before that scene, that world, the traveler feels even more alone and lonely. The female artist's penmanship in describing love scenes is very delicate. The poet's emotions seem to penetrate deeply into the 'hunched over' figure, into the 'scattered' lines in the light yellow and dark yellow of the 'sunset shadow':
'Hoop down under the mountain to weep a few trees,
Few sporadic riverside home market'
A strange land, although there are mountains and rivers, a few markets, and a few woodcutters, for travelers in the late afternoon, it is still desolate and lonely.
3. The sky gradually darkens, the shadow of sunset covers Ngang Pass. The artistic style of Tang poetry is cleverly applied by the female artist. The pass scene becomes deserted when the coot calls the flock, when the bird's voice urges. The hoe keeps calling like the voice of 'ancient people' who earnestly 'miss their country and feel pain'... The grandfather called out to the flock in 'pain and tiredness'. The sound of wild birds calling is also the mood of 'missing the country' and 'loving home' of the guest. How could a female scholar from the Thang Long period of 'Dang Ngoai', the place of her birth and birth, enter 'Dong Trong' for the first time, why couldn't she help but 'miss her country' and be 'heartbroken'? Loving the 'heartbreaking' and 'mouth-weary' forest birds is the lament of self-pity. In the essay section 'Over Ngang Pass', the forest music is also the song of the female artist's sadness:
'Missing the country makes my heart ache,
Trade the mouth so adhered fatigue'
Once again, the parallelism of Tang law and the method of inversion are skillfully applied, making the poem resonate in melodious music and in harmonious and symmetrical language. It can be said that these are the most inspiring poems, talking about a beautiful sadness: missing the country, loving the home.
4.The two concluding sentences describe the traveler's loneliness and loneliness when standing on top of Ngang Pass at sunset. Slowly walking, then 'stopping', looking high, looking far, looking in all four directions, only saw the immense 'sky and water'. In the midst of that vast universe, the female artist felt her own feelings being shattered into 'pieces'. I can't see my hometown, I don't have loved ones (husband, children), there's only 'me and me':
'Stop and stand still in the sky and water,
A piece of me with my own situation'
The three words 'I and I' deeply and emotionally express the female artist's sadness of missing her family and homeland, her loneliness and isolation. The author once again spoke about that mood very poetically in the poem 'Homesickness in the Afternoon':
'Someone in Chuong Dai, a traveler,
Who can tell about the sadness?
'Poetry is the voice of the poet's heart', poet To Dong Pha said. The three words 'I and I' in the song 'Va Deo Ngang' express the sadness and loneliness of the travelers returning home. In Nguyen Khuyen's poem:
'There is no betel in the beginning of the game,
Uncle came to play with me'
The three words 'me and me' represent a close friendship. You are also me, I am also you, the two of us are in harmony in a loving, loyal and beautiful friendship. Through this, we can see more clearly the creative personality of the nation's two prominent Nom poets.
|
Hướng dẫn
Ai đã từng đọc ‘Truyện Kiều’ chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:
‘Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng’.
Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ ‘Chiều hôm nhớ nhà’ của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ thứ mười chín:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái ngư ông về viễn phô’,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chôn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nổi hàn ôn?
Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ ‘bảng lảng’ có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn:
‘Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn’
Hai chữ ‘bảng lảng’ là nhãn tự – như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:
‘Trời tây bảng lảng bóng vàng’(Truyện Kiều)
Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.
Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao nói hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn ‘xa đưa vẳng’ lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tế tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:
‘Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn’
Phần thực và luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được lựa chọn tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, khách… thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có ‘chim bay mỏi’… Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư ông, mục tử; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong sương, mai liễu, cánh chim chiều…) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoà, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.
Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố với tâm trạng của một ‘ngư ông’ – ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ ‘gác mái’ biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi:
‘Gác mái, ngư ông về viễn phố’
Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại ‘cô thôn’. Cử chỉ ‘gõ sừng’ của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời:
‘Gõ sừng mục tử lại cô thôn’
Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã đáng yêu.
Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ. vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mai xào xạc trong ‘gió cuốn’-, gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang ‘bước dồn’ tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh ‘chim bay mỏ.i’ và ‘khách bước dồn’ là hai nét vẽ đăng đối, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ‘gió cuốn’ và ‘sương sa’, đang sống trong khoảnh khắc sáu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ:
‘Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn’
Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết được những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế!
Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp: ‘Kẻ chốn Chương Đài II người lữ thứ’. Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. ‘Chương Đài’ và ‘lữ thứ’ trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ què hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. ‘Ai’ là đại từ phiếm chỉ, nhưng ta có thể biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. ‘Hàn ôn’ là nóng lạnh; ‘nỗi hàn ôn’ là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết:
‘Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
|
Instruct
Anyone who has read 'The Tale of Kieu' will never forget Nguyen Du's verse about sunset:
'Double sand and martial arts in the sky,
Now it's sunset and tomorrow it's sunset'.
Also talking about the sunset and the sadness of the exile, the poem 'Homesick in the Afternoon' by Ba Huyen Thanh Quan is a masterpiece of Vietnamese Nom poetry in the nineteenth century:
The afternoon sky is filled with sunset shadows,
The sound of snails in the distance echoes the drums.
The fisherman's attic returned to the remote area',
Knock the shepherd's horn back to the village.
Thousands of winds blow tired birds away,
Miles of misty willows are packed together.
The one who buried Chuong Dai, the traveler,
Who can tell the story of coldness?
The first verse describes the sunset on an afternoon far away from home. The two words 'diffuse' have unique visual value: the light is dim at the end of darkness, vague near and far, giving the painting a sad afternoon:
'In the afternoon, the sunset's shadow'
The two words 'table' are labels - like the eyes of the poem. Nguyen Du also once wrote:
'The western sky is filled with golden shadows' (The Tale of Kieu)
Through just one poem, one verse, one word, the reader can feel the extremely skillful poetic writing of Ba Huyen Thanh Quan.
For those who go far away, how sad can one describe the moment of sunset? That sadness was multiplied when the sounds of conchs and drums echoed 'distantly'. The length (the sound of the snail) and the height (the sound of the drum on the high hut) of the space expressed through those chords, instilled in the traveler a lingering sadness, a deep sadness. The poem has both light (panel) and sound (sound of snails, drums) giving the sunset scene in a strange land a rustic color:
'In the afternoon, the sunset is absent,
The sound of distant snails echoing on drums
In the factual and essay parts, the poetic materials that make up the poem's essence are carefully selected, expressing a poetic soul rich in emotion. Fishermen, shepherds, guests... the human world is talked about. The landscape has thousands of plums, wind and dew, 'tired flying birds'... These poetic materials have the conventional nature of ancient poetics (there are people: fishermen, shepherds; landscapes, plants, flowers There are leaves: frosty weather, willow apricot trees, afternoon bird wings...) but with unparalleled creative talent: choosing words, creating images, parallel sentences, parallel words, parallel sounds, in every aspect, the female artist clearly shows a A talented poetic soul, an elegant pen. Therefore, the landscape becomes close and familiar to all Vietnamese people. The landscape carries the soul of people imbued with national identity.
In the late afternoon, the fisherman and his light boat floated down the river towards the far town with the mood of a 'fisherman' - a leisurely and comfortable fisherman. The verb 'attic' expresses the leisurely state of mind of a fisherman living in the countryside, having escaped the cycle of fame and fortune:
'In the attic, the fisherman returns to the far city'
At the same time, the children took the buffalo back to the barn and returned to the 'village'. The shepherd's 'horn-knocking' gesture is so innocent, carefree, and loves life:
'Knock on the shepherd's horn and return to the lonely village'
Those are two drawings of people, two beautiful pictures of a lovely countryside.
The next two essays borrow the scene to describe the coldness, loneliness, and helplessness. The loneliness of a traveler on a thousand-mile journey of exile. It's about dark. Thousands of apricot trees rustle in the 'wind' - the wind becomes stronger and stronger. The tired bird flew quickly back to the forest to find its nest. Fog obscures miles of willows. And on that foggy, cold road, there was only one traveler, a lone figure walking around looking for a place to stay. The two images 'birds flying away' and 'guests walking together' are two contrasting drawings, depicting fatigue and loneliness. People seem helpless, lost between the 'swept wind' and the 'falling mist', living in a moment of six feelings, terribly sad. The poem leaves many hauntings in the reader's heart. Anagrams highlight the immensity of the long journey to a strange land:
'For thousands of days, the wind blows tired birds away,
Miles of willows, dew, and thousands of passengers' steps
Through life's experience, having lived sunset moments in a foreign land, the female artist was able to write very realistic verses that described the lonely plight of exiles so well!
The two ending sentences converge, repressing love and remembrance. The female artist feels more lonely than ever. Verse seven includes two small parallel clauses, the poem is beautifully symmetrical: 'Someone in Chuong Dai II is a second traveler'. Chuong Dai is a classic story about the separation, longing, and separation of the couple Han Hoanh and Lieu Thi in the ancient Han Dynasty. Ms. Huyen Thanh Quan has used that classic in a creative way. 'Changtai' and 'lüu thu' in the context evoke a field of associations about the sadness of separation of a traveler who is homesick and misses their homeland. The poem ends with a lament expressing a feeling expressed in the form of a rhetorical question. 'Who' is a casual pronoun, but we can know that it is the woman's husband, children, and loved ones. 'Cold temper' means hot and cold; 'sadness' is a feeling of confidence. The traveler in the afternoon of exile finds himself alone in a far away place, his sadness is unspeakable:
'Someone in Chuong Dai, a traveler,
|
Hướng dẫn
I. Mở bài:
… Bà còn để lai 6 bài thơ Nôm đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật: ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’, ‘Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ’, ‘Tức cảnh chiều thu’.
Ngôn ngữ thơ trang nhã, điêu luyện, âm điệu du dương, réo rắt, giọng thơ buồn man mác, hoài cổ,… là những nét đặc sắc trong hồn thơ của Bà Huyện Thanh Quan.
Bài thơ nói lên nỗi nhớ xưa thành Thăng Long và nỗi đau buồn về cuộc đời tang thương.
1. Đề:
Như một lời than, nhẹ trách tạo hóa. Hí trường: sân khấu. Tinh sương: Tinh là sao, sương là sương giá. Mấy tinh sương là đã nhiều năn tháng. Ong trời gây chi thế, làm cho cuộc đời luôn biến đổi, chẳng khác gì có các lớp kịch, lớp này tiếp sang lớp khác trên sân khấu. Cho đến nay đã mấy năm thấm thoắt trôi nhanh qua. Ý thơ sâu lắng buồn man mác về cuộc đời bể dâu:
‘Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương’
2.Thực:
Kinh thành xưa – thuở vàng son nay còn đâu nữa? Chỉ còn vẻ hoang tàn:
‘Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương’
Đường bàn cờ dọc ngang, xưa kia xe ngựa của ông hoàng bà chúa đi lại rầm rập… nay chỉ còn lại ‘hồn thu thạo’ – hồn cỏ thu tàn tạ. Lâu đài xưa đổ nát, đã hoàng tàn nay chỉ còn lại cái ‘nền cũ’, vẻ tang thương hiện lên dưới ‘bóng tịch dương’ – bóng mặt trời chiều tối. Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật cái hoang phế, tàn tạ, thương tâm. ‘Lối xưa’ với ‘nền cũ’, ‘xe ngựa’ với ‘Tâu đài’, ‘hồn thu thảo’ với ‘bóng tịch dương’ đăng đối, hòa hợp; nỗi đau buồn tang thương từ cảnh vật đã và đang thấm sâu vào lòng người. Đó là nỗi buồn hoài cổ về kinh thành xưa. ‘
3.Luận:
Nỗi đau về cuộc đời tang thương biến đổi như chất chứa dồn nén vào cảnh vật:
‘Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương’
Đá và nước đã được nhân hóa, như hai chứng nhân lịch sử. Như thách thức (trơ gan) cùng năm tháng (tuế nguyệt). Như đau đớn, giận hờn (cau mặt) với sự đổi thay, với dâu bể (tang thương). Nghê thuật chọn từ, phối thanh (bằng trắc), phép đối – được nữ sĩ vận dụng rất điêu luyện. Các triều đại đã nối tiếp nhau hưng phế. Kinh thành xưa, đế đô nghìn năm xưa, nay đã xuống cấp trở thành một tỉnh dưới triều Nguyễn. Với nữ sĩ, ông cha đã mấy đời ăn lộc triều Lê, Thăng Long lại là chốn cũ quê nhà thì nỗi đau buồn không thể nào kể xiết. Đá và nước được nói đến trong phần luận chính là nỗi lòng buồn thương của thi nhân.
4.Kết:
Hai câu kết nói về dòng chảy thời gian và nỗi đoạn trường của Bà Huyện Thanh Quan – nỗi buồn hoài cổ:
‘Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường’
Gương cũ nghĩa bóng là lịch sử, là trang đời. Kim cổ là hiện tại và quá khử. Chuyện lịch sử qua hàng năm như soi vào quá khứ và hiện tại. Nhìn ‘cảnh đấy’ – cảnh Thăng Long tang thương, cảnh ‘sóng lớp phế hưng’ mà ‘người đây’ (nữ sĩ) đau đớn tưởng như đứt ruột (luống đoạn trường). Đó là nỗi đau của một con người, cũng là nỗi buồn của một lớp người khi nhớ về Kinh thành xưa một thời vàng son, hoa lệ.
III. Kết bài:
|
Instruct
I. Introduction:
... She also left behind 6 Nom poems, all written in the seven-word, eight-syllable Tang style: 'Crossing Ngang Pass', 'Sick of home that afternoon', 'Nostalgic Thang Long', 'Tran Bac Pagoda', 'Playing the radio' Khan Xuan Tran Vo', 'Autumn Afternoon Scene'.
Elegant and skillful poetic language, melodious and melodious tones, sad and nostalgic poetic voice... are the unique features of Ba Huyen Thanh Quan's poetic soul.
The poem expresses the nostalgia for the ancient city of Thang Long and the sadness of a tragic life.
1. Topic:
Like a lament, lightly blaming the creator. Theater: stage. Star dew: Star is star, dew is frost. A few mists is many months. What do the bees do, making life constantly change, just like having drama classes, one class after another on stage. Until now, several years have passed quickly. Deep and sad poetic thoughts about a miserable life:
'Creation caused the theater,
Up to now, a few mists have passed away.
2.Real:
Where is the ancient capital - its golden age? Only desolation remains:
'In the past, horse-drawn carriages filled with autumn grass,
The old castle's background is shaded by the ocean'
The chessboard road is vertical and horizontal, in the past the carriages of kings and queens rumbled back and forth... now only the 'soul of autumn leaves' remains - the soul of withered autumn grass. The old castle was ruined and ruined, now only the 'old foundation' remains, a mournful look appears under the 'duong shadow' - the shadow of the evening sun. The two opposing verses highlight the desolation, desolation, and sadness. 'Old ways' with 'old foundations', 'horse carriages' with 'Castles', 'autumn grass soul' with 'yang's shadow' are in harmony and harmony; The sadness and grief from the landscape has penetrated deeply into people's hearts. It is a nostalgic sadness about the ancient capital. '
3. Essay:
The pain of a tragic life transforms like a compressed substance into the landscape:
'Stone is still brave with years and years,
The country still frowns with grief'
Stone and water have been personified, like two historical witnesses. Like a challenge (reluctance) along with the years (moon and moon). Like pain, anger (frown) with change, with sadness (mourning). The art of word choice, tone coordination (in tracing), parallelism - is used very skillfully by the female artist. Dynasties have risen and fallen one after another. The ancient capital, the imperial capital thousands of years ago, has now degraded and become a province under the Nguyen Dynasty. For female scholars, whose ancestors have enjoyed fortunes in the Le Dynasty for several generations, and Thang Long is their old hometown, the sadness is indescribable. The rocks and water mentioned in the essay represent the poet's sadness.
4.Conclusion:
The two concluding sentences talk about the flow of time and the sadness of Ba Huyen Thanh Quan's long life - nostalgic sadness:
'A thousand years of old mirrors reflect ancient times,
In that scene, people are devastated.'
Old mirrors figuratively represent history, a page in life. Ancient metal is present and past. Historical stories pass through the years as if reflecting on the past and present. Looking at 'that scene' - the scene of Thang Long's mourning, the scene of 'waves of destruction', 'this person' (the female artist) was in pain as if her intestines were broken (furrow and field). That is the pain of a person, also the sadness of a class of people when remembering the ancient capital of a golden and magnificent time.
III. End:
|
Hướng dẫn
‘Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lậu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Bà Huyện Thanh Quan sống vào nửa đầu thế kỉ XIX ở nước ta. Bà chỉ để lại khoảng sáu bài thơ Nôm, thể thất ngôn bát cú Đường luật. ‘Qua Đèo Ngang’, ‘Chiều hôm nhớ nhà’, ‘Thăng Long thành hoài cổ’, ‘Chùa Trấn Bắc’… là những bài thơ kiệt tác trong nền thi ca trung đại của dân tộc. Ngôn ngữ trang nhã, giọng thơ du dương, điệu thơ chậm và buồn, màu sắc cổ kính, tài hoa… là phong cách thơ của nữ sĩ.
Làng Nghi Tàm ven Hồ Tây là quê cha đất tổ của Bà Huyện Thanh Quan. Xuất thân trong một gia đình quý tộc đời Lê, nên Thăng Long mãi mãi để lại trong tâm hồn nữ sĩ những tình cảm vô cùng sâu sắc. Đầu thế kỉ XIX, Phú Xuân trở thành Kinh đô của triều Nguyễn, Thăng Long được đổi thành Hà Nội. Nỗi niềm tâm sự nhớ xưa kinh thành Thăng Long là nỗi niềm của người đi xa. Có thể Bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ này trong thời gian làm nữ quan ‘Cung trung giáo tập’ tại Phú Xuân, những tháng ngày xa cố hương, xa nơi nghìn năm văn vật.
Hai câu trong phần ‘đề’ như một tiếng than cất lên, suy ngẫm về lẽ phế, hưng, đổi thay trong cuộc đời:
‘tạo hoá gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương’
‘Hí trường’là sân khấu, là nơi diễn trò mua vui. Ông trời gây ra làm chi cái cảnh đời như sân khấu, diễn hết trò này đến trò khác. Hai tiếng ‘gây chi’ vừa là lời trách, vừa là lời than. ‘Cuộc hí trường’ ấy cứ diễn ra bao nhiêu trò: khóc, cười, buồn, vui, đã nhanh chóng trải qua nhiều năm tháng. Thăng Long… Đông Đô… Thăng Long… Hà Nội… Sau vần thơ là đôi mắt buồn, nhìn sâu thẳm vào dòng đời, thời gian lịch sử, một cái nhìn xa vắng mênh mông. Có cả tiếng thở dài ngao ngán.
Gần một thiên niên kỷ đã trôi qua. Còn đâu những ‘vàng son’ một thời chói lọi nữa? Hai câu 3, 4 đối nhau, diễn tả cảnh hoang tàn, phế tích của kinh thành xưa:
‘Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương’
Đường bàn cờ dọc ngang nơi Long Thành xưa kia từng suốt đêm ngày rộn rịp ngựa xe của các ông hoàng, bà chúa, những xe tứ mã của các vương cộng, quốc thích. Nhưng nay chỉ còn lại ‘thu thảo’, cỏ mùa thu vàng úa. ‘Thu thảo’ như một chứng nhân buồn và tàn tạ. Cái hồn mùa thu cũng là cái hồn thiêng sông núi, cái hồn thiêng Thăng Long được cảm nhận từ sắc màu cỏ thu úa vàng, cỏ cây cũng mang nỗi buồn. Con đường càng trở nên vắng vẻ. Những cung điện nguy nga, những lầu son gác tía, những bệ ngọc hành cung huy hoàng, tráng lệ thời Lê – Trịnh vì chiến tranh loạn lạc, vì sự thay chủ đổi ngôi, nay đo nát hoang tàn, chỉ còn lại ‘nền cũ’-.
‘Nghìn năm dinh thự thành quan lộ,
Một dải tàn thành lấp cố cung’
(‘Thành Thăng Long’ – Nguyễn Du)
Cảnh vật càng trở nên ảm đạm dưới ‘bóng tịch dương’, bóng mặt trời lúc sắp lặn. Bao trùm lên vần thơ là một màu vàng tàn tạ: màu vàng úa của ‘thu thảo’, màu vàng của ‘bóng tịch dương’. Nỗi hoài cổ, nỗi nhớ xưa như dồn nén bao nỗi buồn chất chứa trong lòng nữ sĩ.
Phép đối được sử dụng thần tình: ‘lối xưa’ với ‘nền cũ’, ‘xe ngựa’ với ‘lâu đài’, ‘hồn thu thảo’ với ‘bóng tịch dương’ được cấu trúc cân xứng, hài hòa. Thanh điệu bằng, trắc hô ứng nhau tạo nên âm điệu du dương, trầm bổng như đưa hồn ta về xa xưa, năn tháng, những thuở vàng son của Kinh thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê, cái buổi hưng thịnh thanh bình…
Nỗi buồn hoài cổ ấy, một lần nữa lại được nữ sĩ diễn tả rất hay trong bài thơ ‘Chùa Trấn Bắc’. Cảnh vật cỏ hoa như còn vương hương một thời quá vãng:
‘Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khách qua đường dễ chạnh niềm đau.
Mấy đò sen rớt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu…’
Nhà thơ như đứng lặng trầm ngâm nhìn sắc màu thời gian, nỗi buồn tỏa rộng, càng trở nên thấm thía.
Vật có đổi, sao có dời, nhưng ‘nước’ và ‘đá’ vẫn còn đó, vẫn thách thức cùng tuế nguyệt, cùng tang thương. Hai câu trong phần ‘luận’ nói về ‘nước’ và ‘đá’ như những chứng nhàn của lịch sử, của phế tích hoang tàn:
‘Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương’
‘Đá’và ‘nước’ được nhân hóa, mang tình người và hồn người. Trên cái ‘nền cũ lâu đài’, đá thách thức cùng năm tháng ‘vần trơ gan’ đau đớn, buồn thương. Nơi bến cũ, hồ xưa, ‘nước còn cau mặt’ với mọi đổi thay, ‘với tạng thương’ cuộc đời. Lấy cái bất biến: ‘vẫn trơ gan’, ‘còn cau mặt’ của đá và nước để làm nổi bật cái tang thương cuộc đời là một nét vẽ ‘hoài cổ’ làm rung động lòng người gần 200 năm qua. Có trải qua loạn lạc, chiến tranh và phế hưng ở đời mới thấy hay, mới thấy thấm thía. Phép đối chặt chẽ, cách sử dụng từ Hán Việt (tuế nguyệt, tang thương) tinh tế, đã làm tăng chất suy cảm của vần thơ. Qua hình ảnh ẩn dụ ‘đá’ và ‘nước’, nữ sĩ gửi gắm nỗi buồn thương nhớ và tiếc nuối kinh thành Thăng Long một thời vàng son, huy hoàng và chói lọi. Chất hoài cổ như thấm vào đáy tầng sâu của lòng người, cảnh vật, cỏ hoa…
Hai chữ ‘tang thương’ (tang điền thương hải), ‘bể dâu’ xuất hiện đậm nét trong thơ văn Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ 19, nhất là trong ‘Truyện Kiều’, trong không ít bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đó là dấu ấn một thời:
‘Cuộc thương hải tang điền mấy lớp,
Cõi nhân gian thành quách đổi dời.
Tây Sơn cơ nghiệp đâu rồi,
Mà làng ca vũ một người còn trơ!’
(‘Long Thành cầm giả ca’ – thơ dịch)
Cảm xúc hoài cổ dồn nén dâng lên ở hai câu trong phần ‘kết’:
‘Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường’
|
Instruct
'Creation caused the theater,
Up to now, a few mists have passed through.
The ancient path of horse-drawn carriages and autumn grass,
The old background of the pedestal is shaded by the sun.
The stone remains inert with the passing of the moon,
Water still frowned with grief.
Thousands of years of old mirrors reflect ancient times,
In that scene, this person is devastated.
Mrs. Huyen Thanh Quan lived in the first half of the 19th century in our country. She only left behind about six Nom poems, in seven-word, eight-syllable Tang form. 'Passing Ngang Pass', 'Homesick in the afternoon', 'Nostalgic Thang Long', 'Tran Bac Pagoda'... are masterpiece poems in the nation's medieval poetry. Elegant language, melodious poetic voice, slow and sad rhythm, ancient colors, talent... are the female poet's poetic style.
Nghi Tam village along West Lake is the ancestral hometown of Ba Huyen Thanh Quan. Coming from a noble family of the Le Dynasty, Thang Long forever left deep feelings in the woman's soul. In the early 19th century, Phu Xuan became the capital of the Nguyen Dynasty, Thang Long was changed to Hanoi. The feelings of remembering the ancient capital of Thang Long are the feelings of people who have traveled far away. It is possible that Mrs. Huyen Thanh Quan wrote this poem during her time as a female mandarin in the "Central Education Palace" in Phu Xuan, during the days far from her homeland, far from a place of thousands of years of literature.
The two sentences in the 'topic' section are like a lament raised, reflecting on the decline, prosperity, and change in life:
'Creation causes the theater,
Up to now, a few mists have passed away.
'Amphitheater' is a stage, a place where entertainment is performed. Why did God create this scene where life is like a stage, performing one trick after another? The two words 'What's wrong' are both a blame and a complaint. That 'amphitheater' went on with so many things: crying, laughing, sad, happy, many years quickly passed. Thang Long... Dong Do... Thang Long... Hanoi... Behind the poem are sad eyes, looking deeply into the flow of life, historical time, a vast, distant look. There was even a sigh of boredom.
Nearly a millennium has passed. Where are the once brilliant 'golden gems'? Verses 3 and 4 are opposite each other, describing the desolation and ruins of the ancient capital:
'In the past, horse-drawn carriages filled with autumn grass,
The old castle's background is shaded by the ocean'
The chessboard road along the ancient Long Thanh used to be busy day and night with the horses and chariots of princes and princesses, and the four-horse carriages of kings and princes. But now only 'autumn grass' remains, the yellow autumn grass. 'Thu Thao' is like a sad and devastated witness. The soul of autumn is also the sacred soul of mountains and rivers, the sacred soul of Thang Long is felt from the yellow autumn grass color, the trees and grass also carry sadness. The road became even more deserted. The magnificent palaces, the purple towers, the glorious and magnificent jade palace pedestals of the Le - Trinh period, due to the chaos of war and the change of throne, are now in ruins, leaving only the 'foundation'. old'-.
'For a thousand years, a mansion becomes a mandarin road,
A strip of ruins fills the old palace'
(‘Citadel of Thang Long’ – Nguyen Du)
The scene becomes even more gloomy under the 'duong shadow', the shadow of the sun when it is about to set. Covering the poem is a fading yellow color: the yellow color of 'autumn grass', the yellow color of 'yang shadow'. Nostalgia and longing for the past seemed to suppress all the sadness contained in the female artist's heart.
Parallels are used magically: 'old way' with 'old foundation', 'horse carriage' with 'castle', 'autumn soul' with 'yang shadow' are structured symmetrically and harmoniously. The flat and flat tones correspond to each other, creating a melodious, melodious melody that seems to take our soul back to the past, to the golden days of Thang Long Citadel under the Ly, Tran, and Le dynasties, a time of peaceful prosperity. …
That nostalgic sadness was once again described very well by the female artist in the poem 'Tran Bac Pagoda'. The landscape of grass and flowers still retains the fragrance of a bygone era:
'Tran Bac palace with oily grass,
Passersby easily feel pain.
The lotus boats are filled with incense,
In the year of the clouds, wind and folds of clothing...'
The poet seemed to stand still and contemplate the colors of time, the sadness spread out, becoming more and more poignant.
Things change, stars move, but 'water' and 'stone' are still there, still challenging with the passing of time, with the same mourning and pain. Two sentences in the 'treaty' section talk about 'water' and 'stone' as witnesses of history, of desolate ruins:
'Stone is still brave with years and years,
The country still frowns with grief'
'Rock' and 'water' are personified, carrying human love and soul. On the 'old castle foundation', challenging stones and years 'rhyme' pain and sadness. At the old wharf, the old lake, 'the water still frowns' at all the changes, 'with the trauma' of life. Taking the immutable: 'still brave', 'still frowning' of rocks and water to highlight the sadness of life is a 'nostalgic' drawing that has moved people's hearts for nearly 200 years. Only when you experience chaos, war, and destruction in life do you find it interesting and profound. The strict parallelism and the subtle use of Sino-Vietnamese words (tue moon, mourning) have increased the emotional quality of the poem. Through the metaphorical image of 'stone' and 'water', the female artist conveyed her sadness, longing and regret for the once golden, glorious and dazzling capital of Thang Long. Nostalgia seems to seep into the depths of people's hearts, landscapes, flowers...
The two words 'tang thuong' (tang field and sea), 'strawberry pond' appeared boldly in Vietnamese poetry in the first half of the 19th century, especially in 'The Tale of Kieu', in many Chinese poems by Nguyen. Du. That is the mark of a time:
'The sea trade and mourning are filled with many layers,
The human world becomes a place of change.
Where is Tay Son's inheritance?
But there's only one person left in the singing and dancing village!'
(‘Long Thanh holding fake song’ – translated poem)
The pent-up feeling of nostalgia rises in two sentences in the 'conclusion':
'A thousand years of old mirrors reflect ancient times,
In that scene, people are devastated.'
|
Hướng dẫn
Hồ Xuân Hương là con gái của một ông đồ nho xứ Nghệ. Bà sinh ra và lớn lên ở đất Kinh kì Thăng Long (chưa rõ năm sinh và năm mất) vào khoảng cuối thế ki 18 đến nửa đầu thế kí 19. Là người cùng thời với thi hào Nguyễn Du, bà từng giao thiệp, hoạ thơ với một sô’ tao nhân mặc khách thời bấy giờ.
Cuộc đời bà trải qua nhiều bất hạnh về mặt tình duyên: làm vợ lẽ ông phủ Vĩnh Tường, làm vợ lẽ Tổng Cóc:
‘Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi…’
(‘Khóc ông phủ Vĩnh Tường’)
‘Hỡi chàng Cóc ơi, chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi…’
(‘Khóc Tổng Cóc’)
Tài thơ của Hồ Xuân Hương rất độc đáo, đặc sắc. Tác phẩm của nữ sĩ gồm có khoảng 50 bài thơ Nôm thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú Đường luật, tập thơ chữ Hán ‘Lưu Hương kí’.
Hồ Xuân Hương đã chế giễu, phê phán lễ giáo phong kiến, đả kích những thói hư tật xấu, đạo đức giả của tầng lớp thống trị, bọn thầy chùa phá giới, v.v… Bà lên tiếng đề cao hoặc bênh vực người phụ nữ… Nội dung thơ Hố Xuân Hương giàu giá trị nhân bản.
|
Instruct
Ho Xuan Huong is the daughter of a Confucius master from Nghe An. She was born and raised in the Thang Long capital (year of birth and death unknown) between the late 18th century and the first half of the 19th century. As a contemporary of poet Nguyen Du, she used to interact and paint. poetry with a number of famous people at that time.
In her life, she experienced many misfortunes in terms of love: being the concubine of the Vinh Tuong government, being the concubine of Tong Coc:
'One hundred years, Mr. Vinh Tuong!
My father's debt has been paid...'
(‘Crying for Mr. Vinh Tuong’)
‘O Mr. Toad, Mr. Toad!
I fell in love with you, that's all...'
(‘Crying Toad’)
Ho Xuan Huong's poetic talent is very unique and special. The female artist's works include about 50 Nom poems with seven quatrains and seven eight-word Tang luat, and the Chinese poetry collection 'Luu Huong ky'.
Ho Xuan Huong mocked and criticized feudal rites, attacked bad habits and hypocrisy of the ruling class, pagoda priests who broke the precepts, etc. She spoke up to promote or defend women. ... The content of Ho Xuan Huong's poetry is rich in human values.
|
Hướng dẫn
I. Mở bài:
– Giới thiệu một vài nét về tác giả:
+ Hồ Xuân Hương, nữ sĩ tài ba được ca ngợi là ‘bà chúa thơ Nôm’.
+Nữ sĩ còn để lại khoảng 50 bài thơ Nôm.
+ Thơ bà có đề tài bình dị, ngôn ngữ thuần Nôm, rất sắc sảo, hóm hỉnh, đa nghĩa.
+ Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói ngợi ca phẩm chất tốt đẹp, là lời cảm thông, bênh vực người phụ nữ trong cuộc đời.
– Giới thiệu văn bản và chủ đề bài thơ.
+ Bài thất ngôn tứ tuyệt ‘bánh trôi nước’ tiêu biểu cho hồn thơ của nữ sĩ (chép trọn vẹn văn bản):
‘Thân em… tấm lòng son’
+Chủ đề: Qua việc miêu tả chiếc bánh trôi nước, nữ sĩ gửi gắm bao tình cảm tốt đẹp về phẩm chất và thân phận của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời.
II. Thân bài:
‘Bánh trôi nước’là một bài thơ bình dịvề đề tài, mang hàm nghĩa sâu sắc.
1. Bài thơ tả thực cái bánh trôi nước, một món ăn dân tộc được làm bằng bột nếp, sắc trắng trong, dáng bánh tròn. Nhân bánh bằng đường phên (tấm lòng son). Bánh được nấu chín trong nồi nước sôi ‘bảy nổi ba chìm với nước non’.
2. Câu thơ thứ nhất nhân hóa cái bánh:
‘Thân em vừa trắng lại vừa tròn’
‘Thản em’là một cách nói khiêm nhường, dịu dàng, kín đáo, một nét đẹp của thiếu nữ.
– Hai vế tiểu đối: ‘vừa trắng II vừa tròn’ có giá trị gợi tả, liên tưởng về vẻ đẹp trinh trắng, duyên dáng của thiếu nữ.
3.Câu thơ thứ 2 và thứ 3 mang hàm nghĩa về thân phận người phụ nữ trong cuộc đời ngày xưa:
‘Bảy nổi ba chìm với nước non,
Rắn nát mặc dù tay kẻ nặn’
– Thành ngữ được vận dụng ‘bảy chìm ba nổi, chín lênh đênh’ trong văn cảnh hàm ý về thân phận vất vả của người phụ nữ, chịu nhiều thiệt thòi do lễ giáo phong kiến trọng nam khinh nữ, do đạo ‘tam tòng’ khắc nghiệt… gây nên.
– Hai chữ ‘rắn nát’ ấm chí sô’ phận của người phụ nữ được sung sướng hạnh phúc, hoặc bất hạnh đều do ‘tay ke’ nặn’, do cha mẹ hay chồng con định đoạt. Việc hôn nhân do cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Đạo tam tòng chính là ‘tay kẻ nặn’…
– Vần thơ biểu lộ niềm cảm thông sâu sắc của nữ sĩ đối với số phận, thân phận người phụ nữ ngày xưa.
4.Câu cuối, hình ảnh ẩn dụ ‘tấm lòng son’ nói về lòng son sắt thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Đó là vẻ đẹp đôn hậu, vị tha của người mẹ, người chị quê ta.
– Cấu trúc câu thơ: ‘Mặc dù… mà vẫn…’ ở hai câu cuối bài thơ, đặc biệt chữ ‘vẫn’ làm cho ý thơ được khẳng định và ngợi ca tâm hồn trong sáng, tình yêu thủy chung của người phụ nữ Việt Nam:
‘Rắn nát mặc dù tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son’
III. Kết bài:
|
Instruct
I. Introduction:
– Some introduction about the author:
+ Ho Xuan Huong, a talented female poet, was praised as the 'queen of Nom poetry'.
+The female scholar also left behind about 50 Nom poems.
+ Her poems have simple themes, pure Nom language, very sharp, witty, and multi-meaning.
+ Ho Xuan Huong's poetry is a voice praising good qualities, sympathizing with and defending women in life.
– Introduce the text and theme of the poem.
+ The seven-syllable four-syllable poem 'Banh floating in water' represents the poet's poetic soul (copy the entire text):
'My body... my heart'
+Theme: Through describing the floating cake, the female artist conveys many good feelings about the qualities and status of Vietnamese women in life.
II. Body of the article:
'Water Floating Cake' is a simple poem about the topic, with profound meaning.
1. The poem realistically describes the floating cake, a national dish made with glutinous rice flour, clear white in color, and round in shape. Fill the cake with crushed sugar (red heart). The cake is cooked in a pot of boiling water 'seven times rising, three sinking with young water'.
2. The first verse humanizes the cake:
'My body is both white and round'
'Than em' is a way of saying humility, gentleness, discreetness, a beauty of a young woman.
- The two opposites: 'both white and round' have the value of describing and evoking the virginal beauty and charm of young women.
3. The 2nd and 3rd verses carry meanings about the fate of women in ancient life:
'Seven floating sunken with water,
The snake is crushed even if it is molded by someone else's hand.
– The idiom used 'seven sinks, three floats, nine floats' in the context implies the difficult fate of women, suffering many disadvantages due to feudal rites that favor men over women, due to the religion of 'three obediences'. ' harsh… causes.
- The two words 'crushed snake' mean that a woman's fate, happiness or unhappiness, is determined by her parents, her husband, and her children. Marriage is decided by parents and children. The path of three obediences is 'the hands of others who shape'...
– The poem shows the female poet's deep sympathy for the fate and condition of women in the past.
4. In the last sentence, the metaphorical image of 'a red heart' talks about a woman's loyal heart in love. That is the kind, altruistic beauty of a mother and sister in our hometown.
– Verse structure: 'Even though... still...' in the last two lines of the poem, especially the word 'still' makes the poem's meaning affirm and praise the woman's pure soul and faithful love. Vietnam:
'The snake is crushed even if it is molded by someone's hand,
But I still keep my heart
III. End:
|
Hướng dẫn
‘Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi, lố bỏ không!’
…Trong các lễ hội làng quê, đặc biệt trong dịp Tết mừng xuân, trò chơi đánh đu của trai gái diễn ra tưng bừng náo nhiệt nhất. Hai câu đề thể hiện một cái nhìn thú vị trước cột đu và một tiếng khen thầm buột ra, khi nhà thơ đi qua bãi chơi đu đầu làng, cuối xóm:
‘Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông’
Hai chữ ‘khéo khéo’ làm cho lời thơ, tình thơ trở nên đậm đà. Ai đã ‘khéo khéo trồng’ cây đu, ai đã nghĩ ra trò chơi đu mà vui thế: ‘Người thì lên đánh, ke’ ngồi trông’. Tâm hồn nữ sĩ hòa nhập với niềm vui của trai gái đang chơi đu, mà nghĩ về một trò chơi, một mĩ tục dân gian lâu đời rất đáng tự hào. Các động từ ‘lên
đánh’và ‘ngồi trông’ hô ứng nhau, gợi tả không khí chơi đu vừa nhịp nhàng vừa vui nhộn, tập nập.
Đánh đu có cảnh đánh đơn nam, đơn nữ, có cảnh đánh đôi nữ, đôi nam, lại có cảnh nam nữ cùng đánh đôi. Hai câu thực tả cảnh đánh đôi nam, nữ. Hình ảnh ‘trai du’ và ‘gái uốn’ gợi tả động tác rất mềm dẻo, uyển chuyển, Tư thế ‘khom khom cật’ rất mạnh mẽ, hào hứng. Động tác ‘ngửa ngửa lòng’ gợi lên một dáng bay nhẹ nhàng, thích thú. Trong cái tài đã có cái tình của trai gái lúc đánh đu. Cảnh đánh đu rất đẹp như đang diễn ra trước mắt chúng ta một sức xuân phơi phới. Gối hạc và lưng ong là hai ẩn dụ đặc tả vẻ đẹp thanh tân của trai gái làng quê trên cánh đu đang tung bay trong gió xuân:
‘Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng’
Cánh đu mỗi lúc lại tung bay cao hơn, nhịp nhàng hơn, ‘kẻ ngồi trông’ cảm thấy không nhìn rõ khuôn mặt, dáng hình của đôi trai gái đang đánh đu nữa. Chỉ còn nhìn thấy ‘Bốn mảnh quẩn hồng bay phấp phới’. Chỉ còn biết dõi theo và tấm tắc ‘Hai hàng chân ngọc duỗi song song’. Cảnh châm lấm tay bùn, màu quần thâm áo nâu đời thường đã biến mất. Trong hội xuân, trẽn cánh đu chỉ có ‘quần hồng bay phấp phới’ và chỉ còn có ‘chân ngọc duỗi song song’. Đó là sắc xuân, nét xuân và dáng xuân của làng quê trong lễ hội. Và đó cũng là vẻ đẹp trẻ trung, yêu đời của đất nước và con người, của lễ hội mùa xuân và nền văn hóa dân gian Việt Nam giàu đẹp.
Mùa xuân đẹp mãi với dáng xuân, sắc xuân tung bay:
‘Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song’
Xuân tàn, hội tan, biết bao tiếc nuối bàng khuâng trong lòng người. Nhìn bãi đu sau ngày hội tan mà ngẩn ngơ, luyến tiếc:
‘Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!’
Có yêu đời, yêu cái đẹp trong cuộc đời, trong lễ hội mùa xuân, nữ sĩ mới có niềm luyến tiếc, ngẩn ngơ ấy.
Mùa xuân trôi qua. Và bao giờ mùa xuân trở lại?
|
Instruct
‘The four pillars praise those who plant them skillfully,
Some people fight, others sit and watch.
Boys bend over their knees and stoop down,
The girl arched her back and tilted her head up.
Four pieces of pink pants fluttering,
Two parallel rows stretching pearl pins.
Playing spring already knows if spring is good,
The pile has been pulled out, it's all abandoned!'
…During village festivals, especially during the Spring Festival, swing games between boys and girls take place most joyfully and bustlingly. The two sentences express an interesting look at the swing pole and a whisper of praise when the poet passes the swinging area at the beginning of the village and at the end of the hamlet:
‘The four pillars praise those who plant them skillfully,
Some people fight, others sit and watch'
The two words 'clever' make the poetic words and love poems become rich. Who cleverly planted the swing tree, who came up with such a fun swing game: 'Some people go up to play, while others sit and watch'. The female artist's soul merged with the joy of the boys and girls playing on the swings, thinking about a game, a long-standing folk custom worth being proud of. The verb ‘up
'hit' and 'sit and watch' chant to each other, suggesting an atmosphere of swing play that is both rhythmic and fun, busy.
Swing has scenes of men's singles and women's singles, scenes of women's doubles and men's doubles, and scenes of men and women playing doubles together. These two sentences actually describe the scene of a men's and women's doubles match. The image of 'wandering boy' and 'curling girl' depicts very flexible and flexible movements. The posture of 'curling down' is very strong and exciting. The 'back up and down' movement evokes a gentle, enjoyable flying posture. In talent, there is the love between a boy and a girl while swinging. The swinging scene is very beautiful, as if a spring energy is taking place before our eyes. The crane pillow and the bee's back are two metaphors that describe the youthful beauty of village boys and girls on swings flying in the spring breeze:
'The young man bowed his head and bowed his head,
The girl bends her back and tilts her head back and forth'
Each time the swing wings flew higher and more rhythmically, the 'watcher' felt he could no longer clearly see the faces and figures of the couple swinging. All that remains is to see 'Four pieces of fluttering red feathers'. All I can do is watch and say, 'Two rows of jade legs stretched out parallel'. The usual scenes of muddy hands and dark brown clothes have disappeared. During the spring festival, on the swing's wings there are only 'fluttering pink pants' and only 'jade legs stretched out parallel'. Those are the spring colors, spring features and spring looks of the countryside during the festival. And that is also the youthful, life-loving beauty of the country and its people, of the spring festival and the rich and beautiful Vietnamese folk culture.
Spring is forever beautiful with spring looks and spring colors flying:
'Four pieces of pink pants fluttering,
Two parallel rows stretching pearl pins'
Spring is over, festivals are over, so many regrets flutter in people's hearts. Looking at the swing field after the end of the festival, I was bewildered and nostalgic:
'If you play in the spring, you will know whether it is spring or not,
The pile has been pulled out, the hole is empty!'
Only by loving life, loving the beauty in life, during the spring festival, can a female artist have that nostalgia and bewilderment.
Spring passed. And when will spring return?
|
Hướng dẫn
Thế kỉ* 19, trên thi đàn Việt Nam xuất hiện những nữ sĩ tài ba như Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương,… Nữ sĩ Hồ Xuân Hương chiếm một địa vị vẻ vang, được nhà thơ Xuân Diệu ngợi là ‘bà chúa thơ Nôm’. Bà để lại trên dưới 50 bài thơ Nôm thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú, Thơ trữ tình cũng như thơ trào phúng của bà độc đáo, hóm hỉnh, sâu sắc vô cùng.
‘Đề đền Sẩm Nghi Đống’,bài thơ tứ tuyệt, đề tài nhỏ mà đa nghĩa, tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Xuân Hương. Hai câu cuối của bài thơ, bà đã viết:
“… Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?’
1.Ý nghĩa hai câu thơ:
Sầm Nghi Đống là một võ tướng của nhà Thanh cùng Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân sang xâm lược nước ta. Chúng đã bị vua Quang Trung đánh cho đại bại. Sầm Nghi Đống thất trận, cùng kế phải thắt cổ tự tử. Hắn được Hoá kiều lập đền thờ ở một hẻm phố thành Thăng Long. Nếu như hai câu đầu, nữ sĩ tả ngôi đền và nói lên thái độ khinh miệt của mình thì hai câu cuối, bà nêu lên một giả định so sánh để bình giá ‘cái sự anh hùng’, cái nhân cách quá tầm thường của tên tướng Thiên triều bại trận. Ý thơ còn biểu lộ một khát vọng về quyền nam nữ bình đẳng của người đàn bà nước Nam.
2 Bình:
Xã hội phong kiến, nhất là bọn vua quan rất coi thường phụ nữ. Thế mà Hồ Xuân Hương lại đem chính mình ra so sánh với quan Thái thú phương Bắc, bĩu môi bình giá ‘cái sự anh hùng’ của tên tướng Thiên triều là một lối nói giễu cợt, mỉa mai, coi thường. ‘Đây’ là đại từ nhân xưng để trỏ, chỉ dùng trong mối quan hệ thân tình hoặc coi thường. ‘Cái sự anh hùng’ của kẻ đang được Hoá kiều thờ cúng trong ngôi đền ấy thực ra tài năng không bằng một người đàn bà (trong xã hội trọng nam khinh nữ)! Nữ sĩ đã tạo nên một ý thơ sắc nhọn, bằng lối nói giả định so sánh để bình giá và đã lột trần chân tướng và giá trị thật của Sầm Nghi Đống.
Câu hỏi tu từ với ba tiếng ‘há bấy nhiêu’ cho thấy bà đã bĩu môi châm biếm nhân cách tầm thường, cách ứng xử đê hèn của một viên tướng trong vòng tênđạn, gươm giáo. Anh hùng thì phải mưu lược, quả cảm, võ công lừng lẫy, có chết trong trận mạc thì cũng được ‘bọc thây da ngựa’ lưu lại tiếng thơm muôn đời. Anh hùng phải vị nghĩa, vì nước vì dân, ‘giữa đường dẫu thấy ỈỊâ’t bằng mà tha’ (Kiều). Trái lại, hành động của quan Thái thú là đem quân đi ăn cướp nước người, lúc bị quân ta đánh cho tơi bời, lúc sa cơ hắn lại treo cổ tự tử! Viên bại tướng với cái chết nhục nhã không đáng mặt nam nhi, không có một chút gì đáng gọi là ‘sự anh hùng’cả.
1.Luận:
Hai câu thơ phản ánh một tâm thế đàng hoàng, tự tin về tài năng, phẩm hạnh của mình, của giới mình, của người đàn bà Việt Nam. Ta đã biết Hồ Xuân Hương từng có thái độ ‘bất kính’, coi thường các bậc hiền nhân quân tử, giới mày râu trong xã hội phong kiến. Bà chế giễu, châm biếm bộ mặt đạo đức giả của họ. Nữ sĩ mỉm cười hỏi viên hoạn quan ‘đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?’, đả kích bọn công tử dốt nát mà lại ngông nghênh, chẳng khác gì ‘ong non ngứa nọc châm hoa rữa. Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa’, hoặc báng bổ lối tu hành của các nhà sư hố mang: ‘oản dâng trước mặt năm ba phẩm, Vãi nấp sau lưng sáu, bảy bà’, v.v…
Nhà thơ đã góp một giọng thơ trào phúng, để lại một bức biếm họa thần tình, lột tả bộ mặt xấu xa, tàn ác, bất tài của bọn Thái thú ‘Thiên triều’ có nhiều tội ác đẫm máu đối với dân tộc ta. Cái đền thờ Sầm Nghi Đống mãi mãi là một vết nhơ cho tất cả bọn chúng.
Ý thơ biểu thị một lập trường dân tộc, một ý thức dân tộc. Nữ sĩ tuy không thể ‘đổi phận làm trai được’, nhưng lịch sử chống xâm lăng của nhân dân ta, những gương sáng của Hai Bà Trưng, của Lê Chân, của Bà Triệu,… đã tạo nên cảm hứng tự hào để nữ sĩ xuất khẩu thành những vần thơ bất hủ ấy! Hai câu thơ, qua hình thức nghệ thuật cảm thán (mỉa mai) và câu hỏi tu từ (hỏi đề bình giá) đã biểu lộ một khát vọng về bình đẳng nam nữ, về quyền sống của ‘phận gái’ muốn được thi thố tài năng, đức hạnh với đời. vẻ đẹp nhân văn tiềm ẩn, lấp lánh trong hai câu thơ đặc sắc ấy.
|
Instruct
In the 19th century, on the Vietnamese poetry scene, talented female poets appeared such as Ba Huyen Thanh Quan, Ho Xuan Huong, etc. Female poet Ho Xuan Huong occupied a glorious position, praised by poet Xuan Dieu as 'the princess'. Nom poetry'. She left behind about 50 Nom poems with seven quatrains and seven verses. Her lyrical poetry as well as satirical poetry are unique, witty, and extremely profound.
'Theme of Sam Nghi Dong Temple', a quatrain poem, has a small but multi-meaning theme, typical of Ho Xuan Huong's poetic style. In the last two lines of the poem, she wrote:
“… If I could change my destiny to be a boy,
So how much heroism is there?'
1. Meaning of two verses:
Sam Nghi Dong was a military general of the Qing Dynasty and Ton Si Nghi brought 290,000 troops to invade our country. They were defeated by King Quang Trung. Sam Nghi Dong lost the battle and decided to hang himself. Hoa Kieu built a temple for him in an alley of Thang Long city. If in the first two sentences, the female artist describes the temple and expresses her contemptuous attitude, then in the last two sentences, she raises a comparative assumption to evaluate the 'heroism', the too ordinary personality of The name of the defeated Thien Trieu general. The poem's meaning also expresses a desire for the equal rights of men and women of Southern women.
2 Bottles:
Feudal society, especially kings and mandarins, looked down on women. Yet, Ho Xuan Huong compared himself to the Northern Governor, pouting and commenting on the 'heroism' of the Thien Trieu general as a way of mocking, ironic, and contemptuous. ‘This’ is a pointing pronoun, only used in intimate or contemptuous relationships. The 'heroism' of the person being worshiped by Hoa Kieu in that temple is actually not as talented as a woman (in a society that favors men and despises women)! The female artist has created a sharp poetic idea, using the comparative and hypothetical language to evaluate and have exposed Sam Nghi Dong's true identity and value.
The rhetorical question with the three words 'how much' shows that she pouted and satirized the mediocre personality and despicable behavior of a general amidst bullets and swords. A hero must be strategic, brave, and have excellent martial arts skills. Even if he dies in battle, he will be 'wrapped in horse skin', leaving behind a lasting reputation. A hero must be righteous, for the country and the people, 'in the middle of the road, even if I see that I'm not fair, I will forgive' (Kieu). On the contrary, the action of the Thai beast mandarin was to use his troops to rob other people's country. When he was beaten by our troops, when he fell into trouble, he hanged himself! The defeated general's humiliating death was not worthy of a man, and there was nothing worthy of being called 'heroic' at all.
1. Essay:
The two verses reflect a dignified mindset and confidence in one's talents, virtues, one's gender, and one's Vietnamese women. We know that Ho Xuan Huong used to have an 'irreverent' attitude, looking down on the wise men and men in feudal society. She mocked and satirized their hypocrisy. The female officer smiled and asked the eunuch, 'Where can I throw away the spring of love?', attacking the ignorant yet arrogant young men, who are no different from 'young bees itching and stinging rotting flowers. The goats are sad and the horns of the roosters, or blaspheme the monks' way of practice: 'offering in front of five or three monks, but hiding behind six or seven ladies', etc.
The poet contributed a satirical poetic voice, leaving behind a charming caricature, portraying the evil, cruel, and incompetent face of the 'Heavenly Dynasty' rulers who committed many bloody crimes against our nation. . The Sam Nghi Dong temple will forever be a stain for all of them.
The poetic meaning represents a national stance, a national consciousness. Although female scholars cannot 'change their fate to be men', our people's history of resisting invasion, the shining examples of Hai Ba Trung, of Le Chan, of Ba Trieu,... have created a sense of pride for women. The artist exported those immortal poems! The two verses, through the art form of exclamation (sarcasm) and rhetorical question (asking for evaluation), express a desire for equality between men and women, for the right to life of 'girls' that they want to compete for. talent, virtue in life. Hidden human beauty sparkles in those two unique verses.
|
Hướng dẫn
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoà.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc. Ong để lại nhiều bài thơ nói về tình bạn: bạn cùng quê, bạn đồng học, bạn đồng khoa…
‘Ai lên thăm hỏi bác Châu Cẩu
Lụt lội năm nay bác ỏ đâu…’
(Lụt hỏi thăm bạn)
‘Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…’
(Khóc Dương Khuê)
Châu Cầu, Dương Khuê là hai bạn đồng khoa của Nguyễn Khuyên. Bài ‘Bạn đến chơi nhà’ là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của ông, nói lên một tình bạn đẹp.
Câu nhập để rất tự nhiên, như một lời nói mộc mạc của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp lại bạn. Lời chào vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng khôn xiết: ‘Đã bấy lâu nay bác tới nhà’
Chữ ‘bác’ gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng của nhà thơ đối với bạn tri âm, một cách xưng hô thân tình. Đằng sau câu thơ – lời chào hỏi – có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoẻ mắt đôi bạn già.
‘Đã bấy lâu nay’là bao năm tháng? Tính thời gian không được xác định cụ thể, nhưng chắc chắn là đã khá lâu, vì sức yếu tuổi già… nên xiết bao đợi chờ, mong nhớ. Bộ phận trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên đầu câu thơ diễn tả sự xa cách nhớ mong, làm nổi bật ý thơ: niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn. Trong bài thơ ‘Khóc Dương Khuê’, có một chi tiết giúp ta cảm nhận được một phần nào cái hay, cái tình ẩn chứa trong câu nhập đề:
‘Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần,
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can’
Chữ ‘bác’ được nói đến trong bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’ là bạn chí thân, ở xa, lâu ngày mới gặp nên Nguyễn Khuyến rất mừng và cảm động.
Sáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh. Một ý thơ bao trùm: Đã lâu ngày bạn mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây? Một tình thế khá éo le: ‘Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa’. Chữ ‘thời’ (thì) là một hư từ, rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm thường nhạt nhẽo. Nhưng dưới ngòi bút của Tam Nguyên Yên Đổ, nó trở nên thanh thoát tự nhiên vô cùng, chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật điêu luyện.
Nguyễn Khuyến sau khi cáo quan, lui về sống bình dị ở chốn vườn Bùi quê cũ, với ‘năm gian nhà cỏ thấp te le’, với một cơ ngơi:
‘Chín sào tư thổ là nơi ở,
Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà’
(Ngày xuân dạy các con -1)
Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói, một lối biểu cảm: Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân! Có ao và cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu, nhưng… Bức tranh vườn Bùi thân thuộc hiện lên sống động, vui tươi. Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch, ấm áp cây đời và tình người rất đáng tự hào. Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn ra thăm vườn cây ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về quê à ẩn. Phép đối hợp cách, chặt chẽ: cảnh với cảnh, thượng hạ, trắc – bằng phân minh, tạo nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi, lời thơ cân xứng, hòa hợp như cảnh vườn tược xinh xắn, hữu tình:
‘‘Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà’
Các tính từ (sâu, cả, rộng, thưa), các trạng từ chỉ tình trạng (khôn, khó), các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động (chửa, mới, vừa, đường) hô hứng, bổ trợ cho nhau, được sử dụng thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên. Những từ ngữ ấy được đặt bên cạnh những chi tiết miêu tả chấm phá đã làm hiện lên khung cảnh vườn tược, cây cối đang đơm hoa kết trái, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, gần gũi và mến yêu:
‘Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoà’
Dân gian có câu: ‘Khách đến chơi nhà không gà cũng vịt’. Qua các câu thơ trên, ta thấy Nguyễn Khuyến đang giãi bày với bạn: trong nhà ngoài vườn có bao nhiêu thứ, nhưng thực ra chẳng có gì để thết bạn, đãi bạn vì tất cả mọi thứ, mọi thức chưa đến lúc, đến thời’! Câu thơ thứ bảy tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng
định luôn cái ‘không có’:
‘Đẩu trò tiếp khách trầu không có’
Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã đến’mức ấy ư? ‘vẻ chi một mớ trầu cay’ (ca dao). Nhà thơ đã thậm xưng hóa cái nghèo, thi vị hóa cái nghèo. Một ông quan to triều Nguyễn về quê ở ẩn, với một cơ ngơi ‘chín sào tư thổ là nơi ở’ thì không thể ‘miếng trầu là đầu câu chuyện’ để tiếp bạn cũng ‘không có’. Đây là một lời thơ hóm hỉnh, pha chút tự trào vui vui, để bày tỏ một cuốc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của thực dân Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm làng quê hương.
Câu kết là một sự ‘bùng nổ’ về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao, cỗ đầy, cao lương mĩ vị, cơm gà cá gỡ, mà chỉ có một tấm lòng, một tình bạn chân thành, thắm thiết:
‘Bác đến chơi đây, ta với ta’
Lần thứ hai, chữ ‘bác’ đã xuất hiện trong bài thơ, thể hiện một sự trìu mến, kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, không quản đường sá xa xôi đến thăm tôi, còn gì quý hóa bằng! Tinh bạn là trên hết. Không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm tri kỉ. Mọi cái đều ‘không có’ nhưng lại ‘có’: tình bằng hữu thân thiết. Chữ ‘ta’ là đại từ nhân xưng, trong bài thơ này là ‘tôi’, là ‘bác’, là ‘hai chúng ta’, không có gì cách bức nữa. Cụm từ ‘ta với ta’ biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn, tỏa rộng trong không gian và thời gian. Với cụm từ ‘ta với ta’ trong câu thơ ‘Một mảnh tình riêng ta với ta’ của Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách li hương khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc hoàng hôn, còn ở đây, trong câu thơ của Nguyễn Khuyến lại ấm áp tình đời và sâu nặng tình bạn. Qua đó, ta cảm nhận được phân nào tính cá thể hóa của ngôn ngữ và sắc điệu trữ tình tạo nên giá trị văn chương trong những bài thơ cổ.
Có đọc qua một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết vẻ tình bạn, ta mới thấy hết cái hay, cái ý vị của bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’:
‘Từ trước bàng vàng nhà sẵn có,
Chẳng qua trong bác với ngoài tôi’
(‘Gửi bác Châu cầu’)
‘Đến thăm bác, bác đang đau ốm,
Vừa thấy tôi bác nhổm dậy ngay.
Bác bệnh tật, tôi yếu gầy,
Giao du rồi biết sau này ra sao?’
(‘Gửí thăm quan Thượng thư họ Dương’)
|
Instruct
It's been a long time since you came home,
When children are away, the market is far away.
The pond is deep and the water is full of fish,
Large garden fence sparse, hard chase chickens.
Cabbage has just sprouted, eggplant has just buds,
The gourd has just lost its navel, and the loofah is in harmony.
At the beginning of the game of receiving guests, there was no betel,
Uncle came here to play with me.
Nguyen Khuyen (1835 - 1909) is the nation's outstanding Nom poet. Ong left many poems about friendship: friends from the same hometown, classmates, classmates...
'Who came to visit Uncle Chau Cau?
Where are you from this year's flood...'
(Flood asks for you)
'Uncle Duong, that's enough
The gentle cloudy water touches my heart...'
(Crying Duong Khue)
Chau Cau and Duong Khue are two classmates of Nguyen Khuyen. The song 'You come to visit' is one of his unique Nom poems, expressing a beautiful friendship.
The introduction is very natural, like a simple statement from a poet after many days of seeing you again. A warm greeting, expressing unspeakable joy: 'It's been a long time since you came home'
The word 'uncle' evokes the poet's warm, friendly and respectful attitude towards his close friend, a friendly way of addressing him. Behind the poem - the greeting - may be tears welling up in the eyes of the old couple.
'It's been a long time' how many years? The time has not been specifically determined, but it has certainly been quite a long time, because of the weakness of old age... so much waiting and longing. The adverbial part of time is placed at the beginning of the poem to describe the longing and separation, highlighting the poetic idea: the emotion and infinite joy of seeing you again. In the poem 'Crying Duong Khue', there is a detail that helps us feel some of the beauty and love hidden in the introductory sentence:
'Wanting to walk again in old age,
I met you once three years ago,
Hold hands and ask questions near and far
I'm glad that you're still in good spirits.
The word 'uncle' mentioned in the poem 'You come to visit' is a close friend who lives far away and has not seen each other for a long time, so Nguyen Khuyen was very happy and touched.
The next six verses exude a humorous smile. One overarching poetic idea: It's been a long time since you last came to visit, what should I get for you? A rather unfortunate situation: 'The children are away, the market is far away'. The word 'time' (tense) is a fictional word that rarely appears in poetry because it easily falls into bland banality. But under the pen of Tam Nguyen Yen Do, it becomes extremely natural and elegant, proving that he has a skilled artistic ability.
After resigning, Nguyen Khuyen retired to live a simple life in Bui's old hometown, with 'five low grass houses', and one property:
‘Nine acres of land is the place to live,
A bunch of broken letters that will be a family's business'
(Spring day teaches children -1)
Parts of fact and argument, the systematic nature of poetic language is very strict, consistent in one way of speaking, one way of expression: Having everything but still not having anything to treat to close friends! There are ponds and fish, gardens and chickens, eggplants and mustard greens, luffa and gourds, but... The familiar picture of Bui's garden appears lively and cheerful. A simple, diligent, and lovely rural lifestyle. A life of purity, warmth, and human love is something to be proud of. We feel like Nguyen Khuyen is taking his friend's hand to visit the garden and fish pond, enjoying the rustic pleasures of a mandarin returning home to hide. The juxtaposition is consistent and strict: scene with scene, upper and lower, equal to equivocal, creating a gentle, joyful poetic voice, symmetrical and harmonious lyrics like a lovely, charming garden scene:
“The pond is deep and the water is full, it is wise to fish,
Large garden fence sparse, hard chase chickens'
Adjectives (deep, whole, wide, sparse), adverbs indicating status (smart, difficult), adverbs indicating continuation of action (pregnant, new, just, sugar) inspire and support each other, used magically, skillfully, simply and naturally. Those words placed next to the descriptive details reveal the garden scene, the trees are blooming and bearing fruit, containing a hidden vitality, closeness and love:
'The cabbage is growing, the eggplant is just budding,
The umbilical cord has just fallen off, and the loofah is in harmony.
There is a folk saying: 'When guests come to visit, there are no chickens or ducks'. Through the above verses, we see that Nguyen Khuyen is confiding to his friend: there are many things in the house and garden, but in fact there is nothing to treat you to, because everything, everything has not yet arrived. time'! The seventh verse continues and expands the above poetic idea, affirming
always define the 'non-existence':
'The game of receiving guests is not available'
Has Mr. Tam Nguyen Yen Do's poverty reached that level? 'What does it look like like a bunch of spicy betel' (folk song). The poet has exaggerated poverty, poeticized poverty. A high-ranking mandarin of the Nguyen Dynasty returned to his hometown to live in seclusion, with a property of 'nine acres of private land as his residence', he could not 'have a piece of betel as the beginning of the story' to receive his friends. This is a humorous poem, mixed with a bit of self-deprecation and joy, to express the pure life and noble soul of a Confucian who refused the salary of the French colonialists and retired to live a simple life in the village. hometown.
The ending is an 'explosion' of ideas and emotions. Receiving you does not need a high tray, a full meal, delicious delicacies, chicken and fish rice, but only a heart, a sincere and passionate friendship:
'Uncle, I'm here to play, you and I'
For the second time, the word 'uncle' appeared in the poem, expressing affection and respect. He didn't care about his old age and weak health, nor did he care about the long distance to visit me, what could be more precious than that! Friendship comes first. No material thing can replace soulmate friendship. Everything is 'not there' but 'is': close friendship. The word 'ta' is a personal pronoun, in this poem it is 'I', 'you', 'the two of us', there is nothing more pressing. The phrase 'me and me' expresses a complete, overflowing joy that settles in the soul, spreading throughout space and time. With the phrase 'me and me' in the poem 'A piece of love between me and me' by Ba Huyen Thanh Quan, there is the lonely sadness of the returnee when standing on top of Ngang Pass at sunset, but here, in the verse Nguyen Khuyen's poetry is warm with love and deep with friendship. Through that, we can feel the individualization of language and lyrical tones that create literary value in ancient poems.
Having read some of Nguyen Khuyen's poems written in the spirit of friendship, we can see all the beauty and meaning of the poem 'Friends come to visit':
'From the beginning, the golden house was available,
It's just inside you and outside me'
(‘Send prayers to Uncle Chau’)
'Come to visit my uncle, he is sick,
As soon as he saw me, he stood up immediately.
Uncle is sick, I am weak and thin,
Let's socialize and know what will happen in the future?'
(‘Send your regards to Minister Duong’)
|
Hướng dẫn
Bà Huyện Thanh Quan và Nguyễn Khuyến là hai nhà thơ lớn của dân tộc, đều làm quan dưới triều Nguyễn, nhưng trong hai thời kì, hai thế hệ cách xa nhau khoảng nửa thế kỉ. Bà Huyện Thanh Quan là một nữ tài tử hiếm có trong xã hội phong kiến. Nguyễn Khuyến là một bậc tài danh lừng lẫy: ‘Tam nguyên Yên Đổ’.
Hai bài thơ đều viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật; ba chữ ‘ta với ta’đều nằm cuối bài thơ, trong phần kết:
‘Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta’
(‘Qua Đèo Ngang’)
‘Đẩu trò tiếp khách trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta’
(‘Bạn đến chơi nhà’)
‘Qua Đèo Ngang’tả cảnh con đèo lúc chiều tà và nói lên nỗi buồn của khách li hương; ‘Bạn đến chơi ‘nhà”thể hiện một tình bạn tri kỉ, chân thành, quý mến. Do đó, về mặt ngôn ngữ tuy giống nhau, nhưng ý nghĩa và sắc thái biểu cảm hoàn toàn khác nhau.
Trời tối dần, người lữ khách đứng trên đỉnh Đèo Ngang vô cùng xúc động ‘dừng chân đứng lại’,bồn chồn trông xa, trông gần chỉ thấy ‘trời non nước’vũ trụ bao la mênh mông. Nỗi buồn thương nhớ gia đình quê hương tưởng như tan nát cả tấm lòng (một mảnh tình riêng) càng cảm thấy lẻ loi cô đơn. Ba chữ ‘ta với ta’là tiếng thở dài, tiếng than cực tả nỗi buồn cô đơn của khách li hương khi một mình đứng trên đỉnh Đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn.
|
Instruct
Ms. Huyen Thanh Quan and Nguyen Khuyen are two great poets of the nation, both serving as mandarins under the Nguyen Dynasty, but in the two periods, the two generations were about half a century apart. Ms. Huyen Thanh Quan is a rare female actress in feudal society. Nguyen Khuyen is a famous and talented person: 'Tam Nguyen Yen Do'.
The two poems are both written in Tang Luat seven-word, eight-syllable verse; The three words 'I and I' are all at the end of the poem, in the conclusion:
'Stop and stand still in the sky and water,
A piece of me with my own situation'
(‘Through Ngang Pass’)
'There is no trick in receiving guests,
Uncle come here to play with me'
(‘Friends come to visit’)
'Passing Ngang Pass' describes the scene of the pass at dusk and speaks of the sadness of travelers returning home; 'You come to visit 'home' shows a close, sincere, and affectionate friendship. Therefore, although the language is similar, the meaning and expressive nuance are completely different.
The sky was getting dark, the traveler standing on the top of Ngang Pass was extremely moved and 'stopped', nervously looking far away, looking up close he could only see 'the sky and the water' and the vast universe. The sadness of missing one's hometown family seems to break the whole heart (a separate piece of love) and makes one feel even more alone and lonely. The three words 'I and I' are a sigh, a lament that describes the lonely sadness of a traveler when he stands alone on the top of Ngang Pass at sunset.
|
Hướng dẫn
Viết về mùa thu ở nông thôn nước ta, có lẽ Nguyễn Khuyến là nhà thơ có nhiều nét đặc sắc hơn cả.
Chỉ qua hai bài ‘Thu điếu’ và ‘Thu vịnh’ ta cũng có thể khẳng định được điều đó.
Trước hết mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyên là một mùa thu đẹp, yên tĩnh, đầy thơ mộng.
Một vòm trời cao, một màu xanh thăm thẳm đến không cùng: ‘Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao’.
Một làn mây lơ lửng càng làm tăng thêm cái vẻ cao sâu của đất trời: ‘Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt’.
Từ cái màu xanh ngắt của trời thu đến cái màu xanh ‘biếc’ của nước ao thu, rồi màu xanh của sóng, của bèo, của những bờ tre… tất cả đều xanh một màu xanh bát ngát. Xuân Diệu gọi đó là ‘cái điệu xanh’ của thơ thu Nguyễn Khuyến.
Trong cái không gian cao rộng ấy, mọi vật trở nên nhỏ bé, mọi cử động trở nên nhẹ nhàng như để giữ cho được cái yên tĩnh của mùa thu. Ta như nghe được tiếng của những làn gió nhẹ, nhẹ đến mức chỉ đủ làm cho sóng ‘gợn’ một ‘tí’ thôi, đủ làm cho một chiếc ‘lá vàng’ rơi ‘khẽ’:
‘Sóng biếc theo làn hợi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo’.
Yên tĩnh đến mức một tiếng đớp mồi của chú cá nhỏ dưới chân bèo ta cũng nghe rõ.
Đêm thu, có thêm ánh trăng, có thêm tiếng ngỗng trời, cảnh vật yên tĩnh bỗng nhiên trở nén vắng vẻ.
Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến phảng phất một nỗi buồn man mác.
Ta thấy mọi cảnh vật đều như ngưng đọng, đều như đơn chiếc; một chiếc thuyền câu ‘bé tẻo teo’, một chiếc lá vàng rơi, một ngõ trúc ‘vắng teo’, một cần trúc ‘lơ phơ’, một song thưa để mặc, rồi mấy chùm hoa năm ngoái, lại một tiếng ngỗng trên không…
Mùa thu đượm buồn hay chính tâm tư Nguyên Khuyên đượm buồn! Điều đó càng làm cho ta thêm quý trọng Nguyễn Khuyến khi ta biết rằng: ông đã cáo quan trở về sống nơi thôn dã để giữ lấy phẩm chất thanh cao của mình, khi mà cái xã hội ‘lai Tây, lai Tàu’ đang diễn ra trước mắt ông bao điều nhục nhã.
|
Instruct
Writing about autumn in our country's countryside, perhaps Nguyen Khuyen is the poet with the most unique features.
Just through the two songs 'Thu eu' and 'Thu bay' we can confirm that.
First of all, autumn in Nguyen Khuyen's poetry is a beautiful, quiet, poetic autumn.
A high dome of sky, an endlessly deep blue: 'The autumn sky is blue several stories high'.
A floating cloud further enhances the depth of heaven and earth: 'The clouds are suspended in a blue sky'.
From the blue of the autumn sky to the 'blue' color of autumn pond water, then the green of the waves, the water hyacinths, and the bamboo banks... everything is an immense green. Xuan Dieu calls it the 'green melody' of Nguyen Khuyen's autumn poetry.
In that high and wide space, everything becomes small, every movement becomes gentle as if to maintain the quietness of autumn. We can hear the sound of gentle breezes, so light that they are just enough to make the waves 'ripple' a 'little', enough to make a 'yellow leaf' fall 'gently':
'Blue waves follow the ripples,
Yellow leaves gently sway in the wind.
So quiet that even the sound of a small fish biting the bait at the duck's feet can be clearly heard.
On an autumn night, with more moonlight and the sound of wild geese, the quiet scene suddenly became deserted.
Autumn in Nguyen Khuyen's poetry carries a subtle sadness.
We see all scenes as stagnant, as alone; a 'tiny' fishing boat, a fallen yellow leaf, a 'deserted' bamboo alley, a 'loose' bamboo pole, a thin rattan to wear, then a few bunches of last year's flowers, and a goose sound above Are not…
Is autumn sad or Nguyen Khuyen's thoughts are sad? That makes us appreciate Nguyen Khuyen even more when we know that: he told the mandarin to return to live in the countryside to maintain his noble qualities, when the 'half-Western, half-Chinese' society was happening. many humiliating things appeared before his eyes.
|
Hướng dẫn
Giới thiệu một vài nét về thơ Đường.
1.Thành tựu:
Thơ Đường là một trong những thành tựu rực rỡ về thơ ca của nền văn học Trung Quốc, là một trong những thành tựu chói lọi của nền văn minh nhân loại. Thơ Đường hiện con khoang 48.000 bài của trên 2.300 thi sĩ trong đó Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư bị và hàng trăm tên tuổi khác đã bất tử với thời gian, được người đời ngưỡng mộ.
2.Nguyên nhân phát triển:
– Triều đại nhà Đường kéo dài ngót 300 năm (618 – 907) tuy có lúc thăng trầm, nhưng xã hội Trung Quốc và chế độ phong kiến Trung Hoa thời ấy vẫn phát triển mạnh. Đời sống vật chất và tinh thần thay đổi lớn lao.
– Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, hàng hải, thương nghiệp mở mang, phát triển. Nghệ thuật như kiến trúc, hội họa, âm nhạc đạt đến trình độ cao, chói sáng.
– Chế độ thi cử chọn người làm quan, kẻ sĩ được đề cao, việc học thịnh đạt. Các tao nhân mặc khách được trọng vọng.
– Đó là những nguyên nhân tạo nên bước phát triển kỳ diệu của thơ Đường.
I. Một số đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật thơ Đường:
1.Nội dung:
– Cảm hứng thiên nhiên trữ tình:Ca ngợi phong cảnh hùng vĩ tráng lệ, miêu tả vẻ đẹp bốn mùa, với hoa lá cây cỏ, trăng, tuyết, gió mây… thể hiện tình yêu thiên nhiên, tạo vật, yêu quê hương đất nước (Lư Sơn bộc bố, Tuyệt cú…).
– Cảm hứng nhân đạo: Nói lên nỗi khổ của người dân vì cơ hàn, vì chiến tranh loạn lạc, lòng khao khát hạnh phúc, hòa bình, ca ngợi tình vợ chổng, tình bạn (Thạch Hào lại, Nguyệt dạ, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng…).
– Có những vần thơ siêu thoátca ngợi cuộc sống ẩn dật ỏ chốn điền viên, lâm tuyền. Có những vần thơ nói vẽ sinh hoạt thôn dã,đồng nội; thú vui cầm kì, thi, tửu của mặc khách tao nhân. Tài tử giai nhânlà một đề tài có nhiều bài tuyệt bút. Nội dung thơ Đường rất phong phú và đa dạng,là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội Trung Quốc thời Đường trong 300 năm.
2. Nghệ thuật:
a. Thể thơ:từ, cổ phong, Đường luật,…
b. Luật thơ:
– Vần thơ (vần chân và vần cách, vần trắc và vần bằng).
– Bằng, trắc.
– Niêm (dính).
– Đối.
– Cấu trúc bài thơ rất chặt chẽ, nhất là Đường luật.
+ Thơ tứ tuyệt: khai, thừa, chuyển, hợp.
+ Thơ bát cú: đề, thực, luận, kết.
c. Ngôn ngữ thơ:tinh luyện, hàm súc. Thi trung hữu họa. Thi trung hữu cầm. Coi trọng lời thơ: thanh, nhã (trong sáng, trang nhã),… ước lệ tượng trưng…
|
Instruct
Introducing some features of Tang poetry.
1.Achievements:
Tang poetry is one of the brilliant poetic achievements of Chinese literature, one of the brilliant achievements of human civilization. Tang Poetry currently contains 48,000 poems by over 2,300 poets, including Ly Bach, Do Phu, Bach Cu Be and hundreds of other names who have been immortalized over time and admired by people.
2. Causes of development:
– The Tang Dynasty lasted nearly 300 years (618 - 907). Although there were ups and downs, Chinese society and the Chinese feudal system at that time still thrived. Material and spiritual life changed greatly.
– Agricultural economy, handicrafts, maritime, and trade expand and develop. Arts such as architecture, painting, and music reached a high, dazzling level.
– The examination system selects people to be officials, scholars are promoted, and learning is prosperous. The guests are respected.
– Those are the reasons that created the miraculous development of Tang poetry.
I. Some characteristics of the content and artistic form of Tang poetry:
1.Content:
– Lyrical natural inspiration: Praising the majestic and magnificent landscape, describing the beauty of the four seasons, with flowers and trees, moon, snow, wind and clouds... expressing love for nature, creation, love for the homeland country (Lu Son's declaration, Tuyet Cu...).
– Humanitarian inspiration: Expressing the suffering of people due to poverty, war, chaos, desire for happiness and peace, praising love between husband and wife and friendship (Thach Hao La, Nguyet Da, Hoang Hac Manh Hao Nhien's palace in Quang Lang...).
– There are escapist poems praising the secluded life in the countryside and forests. There are poems that describe rural and field life; The pleasures of playing chess, competitions, and drinking wine of Tao Nhan guests. Amateurs and Beauties is a topic with many great essays. The content of Tang poetry is very rich and diverse, and is a large realistic picture of Chinese society during the Tang Dynasty for 300 years.
2. Art:
a. Poetry form: from, ancient style, Tang luat,...
b. Poetry rules:
– Poetry rhymes (saccadic rhymes and stanza rhymes, metrical rhymes and flat rhymes).
– Equal, equal.
– Seal (sticky).
- Opposite to.
– The structure of the poem is very strict, especially Duong luat.
+ Four-piece poetry: opening, redundancy, transfer, union.
+ Eight verse poetry: topic, truth, argument, conclusion.
c. Poetic language: refined, concise. Poetry meets disaster. Poetry of the middle and right hand holding. Appreciate poetic words: clean, elegant (pure, elegant),... symbolic conventions...
|
Hướng dẫn
I. Mở bài:
– Thiên nhiên chiếm một vị trí sang trọng trong hồn thơ Lí Bạch. Với thanh kiếm hiệp sĩ và bầu rượu, túi thơ, Thi tiên đã đi tới mọi chân trời góc bể. Ở đâu có cảnh đẹp là ông tìm đến thăm thú, thưởng ngoạn và để thơ.
– Núi Hương Lô, thác núi Lư ở Giang Tây, Trung Quốc là một danh lam thắng cảnh. Bài ‘Vọng Lư Sơn bộc bố’ (Xa ngắm thác núi Lư) của Lí Bạch viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng):
– Có thể dẫn nguyên tác hoặc bài thơ dịch?
– Bài thơ tả.cảnh thác núi Lư tráng lệ với cảm xúc mạnh mẽ, ấn tượng sâu sắc của Lí Bạch khi đứng từ xa say sưa ngắm nhìn.
II. Thân bài:
Cảnh đẹp thác núi Lư được tả bằng mắt và bằng tưởng tượng vì nhà thơ đứng ở một nơi rất xa ngắm thác.
– Câu thứ nhất tả núi Hương Lô (núi tựa như là cái lò hương thiên tạo khổng lồ) được ánh mặt trời chiếu xuống, rọi vào, sinh ra muôn ngàn làn khói tía (tím đỏ) Vôcùng huyền ảo rực rỡ. Một nét vẽthơ mộng:
‘Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên’
(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
– Gâu thứ hai, tả vị trí ngắm thác, ở một nơi rất xa. Núi cao, thác cao, tưởng như thác treo trên dòng sông lơ lửng, cheo leo ở phía trước. Chữ Hán ‘quải’ nghĩa treo, một động từ tả hình dáng thác núi Lư! Bó là một thi nhãn rất hình tượng và gợi cảm:
‘Dao khan bộc bố quải tiền xuyên’
(Xa trông dòng thác trước sông này)
Câu thơ dịch rơi mất chữ ‘quải’. Hai câu thơ đầu có năm chi tiết được nói đến, có núi, thác và sông, có ánh mặt trời và làn khói tía. Chữ ‘sinh’ là một vẻ động rất thần tình, gợi tả vẻ đẹp huyền diệu của núi và thác.
– Câu thơ thứ ba tả độ cao, chiều dài, tốc độ của dòng thác. ‘Phi lưu trực
há’nghĩa là chảy như bay đổ thẳng xuống, đó là độ cao, là tốc độ mạnh ghê gớm của dòng thác. Con số ước lượng ba nghìn thước tả chiều dài: chảy bay (phi lưu), các tính từ – trạng ngữ: thẳng xuống (trực há) là những vẻ động, rất thần tình:
‘Phi lưu trực há tam thiên xích’
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
– Câu thơ thứ tư là lời thốt lên vô cùng ngạc nhiên và thú vị của Thi tiên Lí
Bạch:
‘Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên’
(Tưởng dài Ngân Hà tuột khỏi mây)
Với trí tưởng tượng phi thường và cảm xúc lãng mạn bay bổng, Lí Bạch sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh va thậm xưng để ví thác núi Lư kì vĩ, tráng lệ như dải Ngân Hà lấp lánh… triệu vì sao trên bầu trời. Dải Ngân Hà ấy đã rơi tự chín tầng mây cao xuống. Chữ ‘lạc’ nghĩa là rơi, rụng, là thi nhãn trong câu thơ tuyệt cú.
III. Kết bài:
|
Instruct
I. Introduction:
– Nature occupies a luxurious position in Li Bach's poetic soul. With the knight's sword, wine gourd, and poetry bag, the Poet went to every corner of the world. Wherever there was beautiful scenery, he went to visit, enjoy and write poetry.
– Huong Lo Mountain, Lu Mountain Waterfall in Jiangxi, China is a scenic spot. Ly Bach's song 'Vong Lu Son Bo Bo' (Distant view of Mount Lu waterfall) is written in a seven-word, quatrain Tang luat poem (meter meter, equal rhyme):
– Can you cite the original work or translated poem?
– The poem describes the magnificent Lu mountain waterfall with strong emotions and deep impressions of Ly Bach when standing from afar admiring it.
II. Body of the article:
The beautiful scenery of Mount Lu waterfall is described by eye and imagination because the poet stands in a very far place watching the waterfall.
– The first sentence describes Huong Lo Mountain (the mountain is like a giant natural incense burner) as the sunlight shines down, shining in, creating thousands of purple (reddish purple) smoke, extremely magical and brilliant. A poetic drawing:
'Japanese edict of Huong Lo's life and death in peace'
(The sun shines on Huong Lo, purple smoke flies)
– Second woof, describes the location to view the waterfall, in a very remote place. High mountains, high waterfalls, it seems like the waterfall is hanging on the floating river, craggy in front. The Chinese character 'quai' means hanging, a verb that describes the shape of Mount Lu waterfall! Bo is a very iconic and sexy poem:
'Dao Khan Bo Bo's money pendant'
(In the distance, look at the waterfall in front of this river)
The translated verse loses the word 'qua'. The first two verses have five details mentioned, there are mountains, waterfalls and rivers, there is sunlight and purple smoke. The word 'birth' is a very magical movement, describing the magical beauty of mountains and waterfalls.
– The third verse describes the height, length, and speed of the waterfall. ‘Exemption directly
ha' means flowing straight down, that is the height, the tremendous speed of the waterfall. The estimated number of three thousand meters describes the length: flowing (flowing), the adjectives - adverbs: straight down (truc ha) are moving, very magical looks:
'Flying straight ha three thousand chains'
(The water flew straight down three thousand meters)
– The fourth verse is the extremely surprising and interesting exclamation of Thien Ly
White:
'Ni Thi Thi Ngan Ha Lac Nine Heavens'
(Imagine the Milky Way slipping out of the clouds)
With extraordinary imagination and soaring romantic emotions, Ly Bach uses the art of comparison and exaggeration to compare the majestic and magnificent Lu mountain waterfall to the sparkling Milky Way... millions of stars in the sky. . That Milky Way fell from nine clouds high. The word 'lost' means to fall, fall, and is the poetic eye in the great poem.
III. End:
|
Hướng dẫn
Vọng Lư Sơn bộc bố
Lí Bạch (701 – 762)
Nhật chiếu Hương Lô sinh tủ yên,
Dao khan bộc bốquải tiền xuyên.
Phỉ lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngán Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa.
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía,
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước.
Thác chảy như say đổ thẳng xuống ba nghìn thước,
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
Dịch thơ.
Xa ngắm thác núi Lư
Lí Bạch (701 – 762)
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
… đất nước, coi thường công danh, coi trọng tình bằng hữu, sống hào hiệp, nghĩa khí. Lí Bạch để lại trên một nghìn bài thơ, với phong cách lãng mạn bay bổng, tràn đầy cảm xúc và tưởng tượng, khắc họa thành công những hình tượng kì vĩ, hào hùng.
Lí Bạch đi nhiều, hầu như các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Hoa bao la, ông đều đặt chân tới và làm thơ. ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là một trong những bài thơ tả cảnh tuyệt bút của ông:
‘Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây’
Bài thơ miêu tả cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ, biểu lộ một tình yêu thiên nhiên, yêu núi sông Tổ quốc.
Núi Hương Lô trong dãy Lư Sơn trùng điệp ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Hương Lô nghĩa đen là lò hương; dáng núi như vậy nên mới được đặt tên là Hương Lô. Núi cao có mây khói bao phủ, xa trông như chiếc lò hương thiên tạo khổng lổ. Hương Lô càng trở nên nổi tiếng nhờ có thác đẹp, nhất là những ngày rực nắng, trời xanh trong.
Hai câu đầu cho thấy Lí Bạch đứng xa ngắm thác:
‘Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này’
Sau gần 13 thế kỷ, không biết Lí Bạch đến thăm thác núi Lư vào buổi sáng hay buổi chiều, chỉ biết đó là một ngày rất đẹp có ‘nắng rọi’. Lưu truyền tiếng thác ‘như sấm động, như ngàn vạn con ngựa Hí vang trời’. Ớ đây, nhà thơ không tả âm thanh của tiếng thác mà chí tả bằng mắt vì đứng rất xa ngắm thác. Nắng chiếu xuống núi, chiếu xuống thác ‘khói tía bay’ mù mịt, bao phủ một vùng bao la. ‘Khói tía’ là khói màu đỏ pha tím sẫm. Thác núi Lư phản quang ánh mặt trời, du khách đứng xa tường như nhìn thấy Hương Lô có hàng ngàn vạn mảnh trầm, có muôn triệu cây hương đốt lên ‘khói tía bay’ trông rất ngoạn mục. Hình ảnh vừa thực vừa ảo làm hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ đầy màu sắc: màu trắng của thác, màu xanh của núi, màu vàng của nắng và màu tía của sương khói. Đằng sau câu thơ, người đọc cảm thấy Thi tiên đang đứng lặng trầm ngâm và say sưa ngắm thác núi Lư. Thác núi Lư trong xa như dòng sông treo trước mặt:
‘Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tường dải Ngân Hù tuột khỏi mây’
|
Instruct
Vong Lu Son revealed
Li Bai (701 – 762)
The Japanese edict of Huong Lo born in peace,
Dao Khan BuQua Tien Xuyen.
Phi Luu Truong ha three thousand chains,
Nghi Thi Ngan Ha lost nine heavens.
Translate.
The sun shines on Huong Lo mountain, creating purple smoke,
In the distance, you can see the waterfall hanging on the river ahead.
The waterfall flows drunkenly down three thousand meters,
It seemed like the Ngan River fell from cloud nine.
Translating poetry.
Looking at the Lu mountain waterfall in the distance
Li Bai (701 – 762)
The sun shines on Huong Lo, purple smoke flies,
In the distance, you can see the waterfall in front of this river.
The water flew straight down three thousand meters,
It seemed like the Milky Way slipped out of the clouds.
... country, disregarding fame, appreciating friendship, living chivalrously and virtuously. Ly Bach left behind over a thousand poems, with a soaring romantic style, full of emotions and imagination, successfully portraying majestic and heroic images.
Li Bach traveled a lot, he visited almost every scenic spot in the vast country of China and wrote poetry. 'Looking at Lu mountain waterfall from afar' is one of his great landscape poems:
'The sun shines on Huong Lo's purple smoke,
In the distance, you can see the waterfall in front of this river.
The water flew straight down three thousand meters,
I thought the Milky Way had slipped out of the clouds'
The poem describes the majestic and magnificent waterfall of Mount Lu, expressing a love for nature, a love for the mountains and rivers of the Fatherland.
Xianglu Mountain in the rolling Lushan range in Jiangxi province, China. Huong Lo literally means incense burner; That's why the mountain is named Huong Lo. The high mountain is covered with clouds and smoke, from afar it looks like a giant natural incense burner. Huong Lo has become more famous thanks to its beautiful waterfall, especially on sunny days with clear blue sky.
The first two sentences show Ly Bach standing far away looking at the waterfall:
'The sun shines on Huong Lo's purple smoke,
Far away I see the waterfall in front of this river'
After nearly 13 centuries, it is not known whether Ly Bach visited Lu mountain waterfall in the morning or in the afternoon, only knowing that it was a very beautiful day with 'sunlight'. The sound of the waterfall is passed down 'like thunder, like thousands of horses neighing loudly in the sky'. Here, the poet does not describe the sound of the waterfall but describes it with his eyes because he stands very far away to see the waterfall. The sun shines down on the mountain, shining down on the misty 'flying purple smoke' waterfall, covering a vast area. ‘Purple smoke’ is red smoke mixed with dark purple. Lu Mountain Waterfall reflects the sunlight, visitors standing far from the wall seem to see Huong Lo with thousands of pieces of agarwood, millions of incense sticks burning 'flying purple smoke' which looks very spectacular. Both real and virtual images reveal the strange beauty of Mount Lu waterfall. The verse is full of colors: the white of the waterfall, the green of the mountains, the yellow of the sunshine and the purple of the smog. Behind the poem, the reader feels that the Poet is standing quietly in contemplation and passionately watching the Lu mountain waterfall. Lu mountain waterfall is as clear as the river hanging in front of you:
‘The water flew straight down three thousand meters,
The wall of the Milky Way strip slipped out of the clouds'
|
Hướng dẫn
Nếu thơ Đỗ Phú là những bức tranh hiện thực của bao nỗi cơ cực buồn thương thì thơ Lí Bạch là tiếng lòng lãng mạn trữ tình lành mạnh. Chúng ta dễ bắt gặp ở thơ ông sự liên tưởng độc đáo, mạnh mẽ của một trí tưởng tượng phong phú, sự rung động sâu xa của một tấm lòng yêu đất nước nồng nàn và tha thiết. ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là một minh chứng. Sâu đây là bản dịch của bài thơ ấy:
‘Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mảy’
Đầu đề của nguyên tác là: ‘Vọng Lư Sơn bộc bố’, nghĩa là xa ngắm thác bạc trên Lư Sơn. Lư Sơn là dãy núi ở Giang Tây Trung Quốc có nhiều ngọn chạy dài, nhưng chỉ có một ngọn là có thác đổ:
‘Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này’
Hương Lô hay Hương Lư là núi Lư Hương, một ngọn của dãy núi Lư trông giống như chiếc bình hương. Hai câu đầu của bài thơ là cảnh tổng quát của bức tranh sông núi hùng vĩ. Nhà thơ’đứng ngắm thác từ phía xa và ở một vị trí thấp hơn nhiều so với chiều cao của thác. Do đó, trước mắt ông, cảnh dòng thác và núi Lư đâu khác gì một bức tranh sơn thủy trẹo ở lưng chừng trời. Bức tranh này có nhiều màu sắc và có vẻ đẹp huyền ảo. Ở độ cao ba nghìn thước, dòng thác đổ xuống như bay, hơi nước bốc lên thành những làn khói. Các làn khói nước này với muôn ngàn thấu kính li ti được ánh nắng mặt trời rọi vào, tạo nên một sắc tía cầu vồng kì ảo, đó là khói tía. Màu vàng của nắng, sắc tía có khói nước gợi lên vẻ đẹp huyền ảo của toàn cảnh. Dáng núi lại gợi hình giống chiếc bình hương. Bởi vậy, khi nhìn vào, nhà thơ chợt nghĩ đến chiếc bình hương khổng lồ đang toả khói nghi ngút giữa trời và nước.
Bức tranh kì vĩ của núi sông này như được bàn tay của người thợ vẽ tài hoa là tạo hóa đã pha màu tạo sắc. Giữa nền xanh cùa núi, hơi nước nắng rọi tỏa bay như khói hương là dòng nước bạc đồ sộ, tuôn dài như một tấm vải trắng. Chữ Hán bộc là thác, bố là tấm vải. Bộc bố ý nói thác nước tuôn như một tấm vải trắng: ‘Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước’
Lời thơ và nhịp thơ mạnh mẽ làm nổi bật hẳn lên hình ảnh hùng vĩ kì diệu của một dòng thác từ trên cao gần ba ngàn thước ‘bay thẳng xuống’.
Chỉ với ba câu thơ ngắn, ngòi bút tài tình của nhà thơ Lí Bạch, khung cảnh Lư Sơn hiện ra trước mắt ta với đầy đủ màu sắc, hình khối, đường nét… Nhưng dường như ba câu thơ ấy chỉ để chuẩn bị. Sức mạnh của bài thơ, vẻ đẹp huyền ảo kì v và đồ sộ của dòng thác núi Lư đã được dồn vào câu kết:
‘Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây’
Câu thơ, trước hết là cảm nghĩ của nhà thơ khi đứng trước cảnh thực. Ông so sánh thác bay thẳng xuống như dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Thật là một so sánh sáng tạo bất ngờ đầy thú vị và sảng khoái cho người đọc: ‘Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên’. Dải Ngân Hà là nơi tập trung dày đặc muôn vàn vì tinh tú vắt ngang trời. Ánh sáng của dải sao này được so sánh với dòng sông bạc trên trời. Cách so sánh ấy cũng làm tôn thêm vẻ đẹp kì vĩ của dòng thác núi Lư có thực ở trấn thế.
Thấy dòng thác lấp lánh bạc đổ xuống tưởng như dải Ngân Hà lạc khỏi chín tầng mây ở trời cao, cao lắm, rơi xuống hạ giới. Đây là hình ảnh đầy tự hào về trí tưởng tượng của nhà thơ trước khung cảnh hùng vĩ và đầy thi vị của thiên nhiên.
|
Instruct
If Do Phu's poems are realistic pictures of many hardships and sorrows, then Ly Bach's poems are the sound of healthy lyrical romance. We can easily see in his poetry the unique and strong associations of a rich imagination and the deep vibration of a heart that loves the country passionately and earnestly. 'Viewing Lu Mountain Waterfall from afar' is a proof. Here is the translation of that poem:
'The sun shines on Huong Lo's purple smoke,
In the distance, you can see the waterfall in front of this river.
The water flew straight down three thousand meters,
It seemed like the Milky Way had slipped away.
The title of the original work is: 'Vong Lu Son Boi', meaning from afar, looking at the silver waterfall on Lu Son. Lushan is a mountain range in Jiangxi China with many long peaks, but only one peak has a waterfall:
'The sun shines on Huong Lo's purple smoke,
Far away I see the waterfall in front of this river'
Huong Lo or Huong Lu is Lu Huong mountain, a peak of the Lu mountain range that looks like an incense pot. The first two lines of the poem are an overview of the majestic river and mountain picture. The poet stood and watched the waterfall from afar and in a position much lower than the height of the waterfall. Therefore, before his eyes, the scene of the waterfall and Mount Lu was nothing more than a landscape painting twisted in the middle of the sky. This painting is colorful and has a magical beauty. At a height of three thousand meters, the waterfall falls like flying, steam rising into clouds of smoke. These water smoke with thousands of tiny lenses are illuminated by sunlight, creating a magical purple rainbow color, that is purple smoke. The yellow color of sunlight and the purple color of water smoke evoke the magical beauty of the whole scene. The shape of the mountain resembles an incense vase. Therefore, when looking, the poet suddenly thought of the giant incense vase emitting smoke between the sky and the water.
This magnificent picture of mountains and rivers seems to have been mixed with color by the hands of a talented painter. In the middle of the green background of the mountains, the sunlight's steam rising like incense smoke is a massive silver stream, flowing like a white cloth. The Chinese character bu is waterfall, dad is cloth. Boc Bo meant that the waterfall flowed like a white cloth: 'The water flew straight down three thousand meters'
The strong poetic lyrics and rhythm clearly highlight the majestic and magical image of a waterfall 'flying straight down' from nearly three thousand meters high.
With just three short verses, the talented pen of poet Ly Bach, the scene of Lu Son appears before our eyes with full colors, shapes, lines... But it seems that those three verses are just preparation. The power of the poem, the mysterious and majestic beauty of the Lu mountain waterfall, has been concentrated in the ending sentence:
'I thought the Milky Way had slipped out of the clouds'
The poem is, first of all, the poet's feelings when facing the real scene. He compared the waterfall flying straight down like the Milky Way slipping out of the clouds. What an unexpectedly creative comparison that is full of fun and refreshment for the reader: 'Nghi Thi Ngan Ha touches nine heavens'. The Milky Way is a dense concentration of countless stars spanning across the sky. The light of this strip of stars is compared to the silver river in the sky. That comparison also enhances the majestic beauty of the real Lu Mountain waterfall in this town.
Seeing the sparkling silver waterfall pouring down, it seemed as if the Milky Way had lost the nine layers of clouds in the sky, very high, falling to the lower world. This is a proud image of the poet's imagination in front of the majestic and poetic scenery of nature.
|
Hướng dẫn
. Tĩnh dạ tứ
Lí Bạch (701 – 762)
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa. Anh trăng sáng đầu giường,
Ngỡ là sương mặt đất Ngẩng đầu ngắm trăng sáng,
Cúi đầu nhớ quê hương.
Dịch thơ.
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
. Lí Bạch (701 – 762)
Đẩu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
… ‘Xa ngắm thác núi Lư’, ‘Đường đi khó’, ‘cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’là những bài thơ tuyệt tác của Lí Bạch cho thấy một hồn thơ tuyệt đẹp.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là nỗi buồn nhớ cố hương sâu lắng của Lí Bạch. Đây là bản dịch thơ:
‘Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ Cố hương’
Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, vẻn vẹn có 20 chữ nhưng đã tạo nên một bức tranh thủy mặc về cảnh mộng đêm trăng gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân với bút pháp lãng mạn thần tình.
Đêm về khuya càng trở nên thanh tĩnh. Không gian bốn bệ vắng lặng. Không một tiếng gió thổi, một tiếng côn trùng kêu. Cũng chẳng có một tiếng chuông chùa ngân buông. Nhà thơ chợt tỉnh giấc thấy mình nằm dưới trăng:
‘Đầu giường ánh trăng rọi’
Cả một không gian ngập tràn ánh trăng. Ánh sáng rọi vào đầu giường. Hình như trâng đã đánh thức thi nhân dậy. Thật cảm động, trăng đến khơi gợi một nguồn thơ và trăng là chất liệu tạo nên vần thơ dào dạt.
Ánh trăng sáng quá, tải khắp không gian, bao phủ khắp mặt đất. Câu thơ thứ hai biểu hiện một trạng thái ngỡ ngàng của thi nhân vừa tỉnh giấc vừa nhìn trăng. Tràng đẹp và thơ mộng. Đêm đã sang canh, êm đềm thanh tĩnh. Chỉ có trăng và 128
nhà thơ. Thế rồi, Thi tiên Lí Bạch ‘ngẩng đầu’ ngắm trăng. Trăng với thi nhân như đôi bạn tri âm gặp nhau, nhìn nhau cảm động không nói lên lời. Cả ba câu thơ đầu đều tả ánh trăng trong đêm thanh tĩnh với tâm trạng ngỡ ngàng và bồi hồi của thi nhân. Câu 1 và 3 tả trăng bằng trực giác, câu 2 tả trâng bằng cảm giác. Một không gian nghệ thuật vừa thực vừa mộng, huyền ảo lung linh:
‘Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng’
Lúc bấy giờ, Lí Bạch đang sống nơi đất khách quê người. Giữa đêm khuya thanh tĩnh chỉ có trăng và thi nhân. Ba câu thơ đầu gợi tả một tâm trạng: nỗi buồn cô đơn của khách li hương.
Hai câu thơ 3 và 4 được cấu trúc theo phép đối:
‘Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương’
Hai tư thế: ‘ngẩng đầu’ và ‘cúi đầu’-, hai tâm trạng: ‘nhìn’ và ‘nhớ’-, hai đối tượng làm xúc động và trĩu lòng kẻ xa quê: ‘trăng sáng’ và ‘cố hương’. Hai hình ảnh ‘trăng sáng’ và ‘cố hương’ đi sóng nhau biểu hiện một tâm hồn giàu tình yêu thiên nhiên, một tấm lòng yêu quê hương thiết tha sâu nặng. ‘Cốhương’ là quê cũ thân yêu; ‘nhớ cố hương’ là nhớ tới gia đình, nhớ tới người thân thương ruột thịt, nhớ tới thời thơ ấu với bao mộng tưởng và kỉ niệm đẹp, nhớ lại những thăng trầm một đời người… Ta từng biết, Lí Bạch quê ở Ba Thục, thuở nho thường leo len núi Nga – Mi để ngắm trăng và múa kiếm. Lớn lên, ông mang theo bầu rượu, túi thơ và thanh kiếm hiệp khách đi chu du mọi phía chân trời góc bể, chan hòa với gió trăng và tình bằng hữu… Vì thế, ánh trăng ‘đêm nay’ là ánh trăng gợi nhớ, gợi sầu, vấn vương một hoài niệm, làm sống dậy bao bâng khuâng của một hồn thơ và một tình quê man mác.
‘Ánh trăng’và ‘cố hương’ gắn bó với nhau trong mạch cảm hứng trữ tình, hòa quyện thành một liên tưởng thấm thía, cảm động, nâng cánh cho hồn thơ bay lên. Trăng lênh láng tràn ngập. Cảm xúc thơ dâng lên dào dạt.
|
Instruct
. Quiet night
Li Bai (701 – 762)
Sieve the bright moonlight,
Nghi Thi Thi upper land dew.
Nodding to hope for the bright moon,
To invest in the homeland.
Translate. The moonlight shines at the head of the bed,
Thinking it was dew on the ground, raising my head to look at the bright moon,
Bow your head and remember your homeland.
Translating poetry.
Thoughts in the quiet night
. Li Bai (701 – 762)
The moonlit bedside,
I thought the ground was covered in frost.
Raise your head and look at the bright moon,
Bow your head and remember your hometown.
... 'Viewing Lu mountain waterfall from afar', 'The road is difficult', 'feelings in the quiet night' are Li Bach's masterpiece poems that show a beautiful poetic soul.
The main inspiration of the poem 'Thoughts in a quiet night' is Li Bach's deep sadness of missing his hometown. Here is the translation of the poem:
'The moonlight shines at the head of the bed,
I thought the ground was covered in frost.
Raise your head to look at the bright moon, lower your head to remember your hometown'
The poem is written in pentagram, with only 20 words, but creates a watercolor painting of a moonlit night dream, evoking the beauty of the poet's soul with a romantic and romantic style.
Late at night it becomes even quieter. The four-pedestal space is quiet. Not a sound of wind blowing, not a sound of insects chirping. There was also not a single sound of the temple bell ringing. The poet suddenly woke up and found himself lying under the moon:
'Moonlight shines at the head of the bed'
The whole space was filled with moonlight. The light shines on the head of the bed. It seemed like he had woken up the poet. How touching, the moon comes to evoke a source of poetry and the moon is the material that creates abundant poetry.
The moonlight is so bright, it fills the entire space, covering the entire ground. The second verse expresses a state of surprise in the poet who just woke up and looked at the moon. The site is beautiful and poetic. The night has come, calm and quiet. Only the moon and 128
poet. Then, Poet Fairy Ly Bach 'raised his head' to look at the moon. The moon and the poet are like two best friends meeting each other, looking at each other and feeling speechless. All three first verses describe the moonlight on a quiet night with the poet's surprised and restless mood. Sentences 1 and 3 describe the moon by intuition, sentence 2 describes the moon by feeling. An artistic space that is both real and dreamy, shimmering and magical:
'The moonlight shines at the head of the bed,
I thought the ground was covered in frost.
Raise your head and look at the bright moon'
At that time, Ly Bach was living in a foreign land. In the middle of a quiet night, there are only the moon and poets. The first three lines of the poem describe a mood: the lonely sadness of a traveler.
The two verses 3 and 4 are structured according to parallelism:
'Raise your head and look at the bright moon,
Bow your head and remember your homeland'
Two postures: 'head up' and 'bow down'-, two moods: 'looking' and 'remembering'-, two objects that touch and weigh down the hearts of those far from home: 'bright moon' and 'old country' . The two images of 'bright moon' and 'old country' traveling side by side represent a soul rich in love for nature, a heart that loves the homeland passionately and deeply. 'Co Huong' is the beloved old hometown; 'Missing the homeland' means remembering family, remembering loved ones, remembering childhood with many dreams and beautiful memories, remembering the ups and downs of a person's life... I once knew that Ly Bach was from Ba Thuc, in his childhood, often climbed Nga - Mi mountain to watch the moon and dance with swords. When he grew up, he carried a jug of wine, a bag of poems and a knight's sword to travel all over the horizon, mingling with the moon wind and friendship... Therefore, the moonlight 'tonight' is the moonlight that reminds , evokes sadness, lingers a nostalgia, revives the wistfulness of a poetic soul and a wild love for the countryside.
'Moonlight' and 'old country' are intertwined in the vein of lyrical inspiration, blending into a poignant and touching association, lifting the poetic soul to fly. The moon shines brightly. Poetic emotions rise abundantly.
|
Hướng dẫn
… Suốt cuộc đời mấy mươi năm ‘chống kiếm bỏ quê hương, từ biệt cha mẹ viễn du’ và khi qua đời ở tỉnh An Huy, hình ảnh của quê hương, nhất là những đêm trăng sáng thanh tĩnh đối với ông rất tha thiết, đầy nỗi nhớ thương. Tinh cảm sâu lắng đó Lí Bạch đã diễn tả trong bài thơ ‘cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ (Tĩnh dạ tứ).
Nếu bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là một bài thơ tả cảnh thiên nhiên hùng tráng, thì ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là một bức tranh thiên nhiên thanh tĩnh. Thời gian trong bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ là ban ngày, ánh nắng mặt trời chiếu rọi. Thời gian trong bài ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là ban đêm, ánh trăng sáng bàng bạc. Bài ‘Xa ngắm thác núi Lư’ ca ngợi cảnh đẹp thác nước. Bài ‘Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh’ là tình cảm suy tư trong đêm trăng sáng.
Như tựa đề, bài thơ mang hai nội dung – Nội dung miêu tả ‘đêm thanh tĩnh’ (tĩnh dạ) và suy nghĩ (tư) của tác giả trong đêm thanh tĩnh đó. Để làm nổi bật nội dung thứ nhất, Lí Bạch đã dùng ba câu thơ ‘Ngũ ngôn tứ tuyệt’. Ba câu thơ ngắn gọn, hàm súc, miêu tả cảnh ban đêm thanh tĩnh. Đêm thanh tĩnh là đêm bầu trời trong xanh, mát mẻ, không có tiếng động, cảnh vật vắng lặng, êm ả, thơ mộng, trữ tình. Ngay từ câu thơ đầu, chủ đích của Lí Bạch là tả ánh trăng sáng để tượng trưng cho đêm thanh tĩnh. Ánh trăng ở đây chẳng những sáng mà còn tràn ngập, chan hòa và dịu hiền. Qua âm điệu khoan thai của câu thơ 5 chữ, sự thanh tĩnh, yên tĩnh hiện lên một cách tự nhiên, đáng yêu. Ánh trăng chiếu sáng trên bầu trời, ở mặt đất và ở đầu giường.
Cuộc sống thanh bình, yên tĩnh, đêm ngủ không cần cửa đóng, then cài, nên gió trăng thả sức đến chơi. Trước ánh trăng lung linh, vằng vặc, Lí Bạch ngỡ ngàng tưởng tượng rằng ‘mặt đất phủ sương’. Phải là một tâm hồn giàu sức liên tưởng, thường thi vị hóa sự vật nên mới có được cái nhìn tuyệt vời, thơ mông như thế. Anh trăng bàng bạc, lung linh hay là sương rơi la đà mặt đất? Sự liên tưởng phong phú tạo nên một hình ảnh thơ tuyệt đẹp. Làm sao một tâm hồn đa cảm dạt dào cảm xúc, lai láng yêu thương như Lí Bạch lại có thể không rung động trước ánh trăng tuyệt diệu đầy hấp dẫn của chị Hằng? Hơn nữa, vầng trăng tuyệt vời kia vẫn là nguồn thi hứng vô tận của Lí Bạch. Trăng ở đây còn là biểu tượng của một mảnh hồn cô đơn, luôn luôn mơ tìm một tâm hồn tri âm tri kỷ.
Ba câu thơ đầu đơn thuần là miêu tả cảnh vật. Mà cảnh vật tưởng tượng ở đây là ánh trăng sáng. Từ miêu tả ngoại cảnh, Lí Bạch đi sâu vào miêu tả nội tâm. Nội tâm mà tác giả diễn tả trong câu thơ cuối là tâm trạng. Hai câu thơ cuối tuy hai mà một. Tuỳ câu 3 và câu 4 có khác nhau, ngôn từ, ý tứ không tương đồng, nhưng nó đều bộc lộ hai trạng thái tâm trạng (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng – Cúi đầu nhớ cô’hương).
Hai câu thơ cuối là hai câu thơ tuyệt hay. Hay về lời và ý. về lời là ngôn ngữ trong sáng, giản đơn, dễ hiểu, từ ngữ đối nghịch (từ cử – đê; vọng – tư, minh nguyệt – cố hương), về ý diễn tả được tư thế và tâm trạng của tác giả. Tư thế của Lí Bạch ở đây hoàn toàn trái ngược (khi ngẩng đầu nhìn trăng thì phấn khởi vui vẻ, thoải mái – khi cúi đầu là buồn rầu, tưởng nhớ đến quê hương).
Từ ‘vọng’ bao hàm sự ngưỡng mộ, ưu ái. Từ ‘minh nguyệt’ được lặp lại nhưng không hề tạo cảm giác thừa mà trái lại làm người đọc thấy được tâm tình thiết tha, quyến luyến của Lí Bạch đối với trăng sáng mông lung.
Tình yêu quê hương đậm đà, như máu trong tim, như hơi thở của tác giả. Tính cách thâm trầm, kín đáo được tác giả thể hiện rất cảm xúc, đầy suy tư ở hai câu thơ sau. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh từng từ, từng ý. Mối liên hệ chặt chẽ giữa vẻ đẹp thiên nhiên với tình yêu, cảm xúc của con người trước sự vật. Ba câu thơ đầu gợi lên hình ảnh rất đẹp của thiên nHiên, nhưng chính câu thơ cuối mới là ‘câu thơ thần’, ‘điểm gút’ của bài thơ. Đây là câu thơ ‘khép’, là đỉnh cao của cảm xúc tác giả dồn nén lại.
Cả bài thơ là vần bằng êm ả, nhẹ nhàng làm cho tứ thơ vằng vặc, dàn trải, như vầng trăng sáng dàn trải, như nỗi nhớ và tình thương bao la của Lí Bạch. Ý, lời và âm điệu của bài thơ kết hợp rất hài hòa.
|
Instruct
… During his life of several decades of 'fighting the sword and leaving his homeland, saying goodbye to his parents who traveled far away' and when he passed away in Anhui province, the image of his homeland, especially the quiet moonlit nights, was very dear to him. , full of nostalgia. That deep feeling was expressed by Ly Bach in the poem 'Thoughts in the Quiet Night' (Tinh Da Tu).
If the poem 'From afar watching Lu mountain waterfall' is a poem describing a majestic natural scene, then 'Thoughts in a quiet night' is a picture of tranquil nature. The time in the song 'Viewing Lu Mountain Waterfall' is daytime, the sun is shining. The time in the song 'Thoughts in a quiet night' is night, the moonlight is bright and silver. The song 'Viewing Lu Mountain Waterfall from afar' praises the beautiful scenery of the waterfall. The song 'Thoughts in a quiet night' is a sentimental reflection on a moonlit night.
As the title suggests, the poem has two contents - the content describes the 'quiet night' (quiet night) and the author's thoughts (thoughts) during that quiet night. To highlight the first content, Ly Bach used the three verses 'Five words and four great words'. Three short, concise verses, describing a quiet night scene. A quiet night is a night where the sky is clear, cool, no noise, the scenery is quiet, peaceful, poetic, and lyrical. Right from the first verse, Ly Bach's intention is to describe the bright moonlight to symbolize the quiet night. The moonlight here is not only bright but also overwhelming, gentle and gentle. Through the gentle tone of the 5-word poem, serenity and tranquility appear naturally and lovingly. Moonlight shines in the sky, on the ground and at the head of the bed.
Life is peaceful and quiet, at night there is no need for closed doors or latches, so the wind and moon are free to come and play. Before the shimmering, bright moonlight, Ly Bach was surprised to imagine that 'the ground was covered with frost'. It takes a soul rich in associations, often poeticizing things, to have such a wonderful, poetic perspective. Is the silver, shimmering moon or is it the dew falling on the ground? Rich associations create a beautiful poetic image. How could a sentimental soul full of emotions and love like Ly Bach not be moved by the wonderful and attractive moonlight of Ms. Hang? Furthermore, that wonderful moon is still an endless source of inspiration for Li Bach. The moon here is also a symbol of a lonely soul, always dreaming of finding a soulmate and soul mate.
The first three verses simply describe the scene. The imaginary scene here is bright moonlight. From describing the exterior, Ly Bach goes deeper into describing the interior. The inner feeling that the author describes in the last verse is the mood. The last two verses are two but one. Although sentences 3 and 4 are different, the language and meaning are not the same, but they both express two states of mind (Raise your head to look at the bright moon - Bow your head to miss your soul).
The last two verses are two wonderful verses. Good in words and ideas. In terms of lyrics, the language is clear, simple, easy to understand, the words are opposites (from sent - dike; Vong - Tu, Minh Nguyet - hometown), and in terms of meaning, it can express the author's posture and mood. Ly Bach's posture here is completely opposite (when he raises his head to look at the moon, he is excited, happy, and comfortable - when he lowers his head, he is sad, remembering his homeland).
The word 'hope' implies admiration and favor. The word 'moon moon' is repeated but does not create a feeling of redundancy. On the contrary, it makes the reader see Ly Bach's passionate feelings and attachment to the hazy bright moon.
Love for the homeland is as strong as the blood in the heart and the author's breath. The author's deep and discreet personality is expressed very emotionally and thoughtfully in the following two verses. The two verses contrast each word and each idea very well. The close connection between natural beauty and human love and emotions towards things. The first three verses evoke a very beautiful image of nature, but it is the last verse that is the 'magic verse', the 'key point' of the poem. This is the 'closing' verse, the culmination of the author's pent-up emotions.
The whole poem is a smooth, gentle rhyme, making the four verses clear and spread out, like the bright moon spreading out, like Ly Bach's immense nostalgia and love. The meaning, lyrics and tone of the poem combine very harmoniously.
|
Hướng dẫn
Hồi hương ngẫu thư
Hạ Tri Chương (659 – 744)
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Dịch thơ.
Khi đi trẻ, lúc về già,
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
Phạm Sĩ Vĩ dịch Trẻ đi, già trở lại nhà,
Giọng quê không đổi, sương pha mái đẩu.
Gặp nhau mà chẳng biết nhau,
Trẻ cười, hỏi: ‘Khách từ đâu đến làng?’
Trần Trọng San dịch
Gợi ý phân tích
Hạ Tri Chương (659 – 744) là một trong những thi sĩ lớn đời Đường, là bạn vong niên của Thi tiên Lí Bạch. Quê ông ở Cối Kê, thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đậu tiến sĩ năm 36 tuổi, là đại quan của triều Đường, được hoàng đế Đường Thái Tông và quần thần trọng vọng.
Thơ của Hạ Tri Chương thanh đạm, nhẹ nhàng, gợi cảm, biểu lộ một trái tim hồn hậu đáng yêu. ‘Hồi hương ngẫu thư’ là bài thơ xuất sắc của ông, được nhiều người truyền tụng. Tình yêu quê hương là cảm xúc chủ đạo của bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi dồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
1. Câu thơ thứ nhất dùng thủ pháp tiểu đối nêu lên một cảnh ngộ: phải li biệt gia đình từ ấu thơ, sống nơi đất khách quê người, mãi đến lúc về già mới được trở về thăm cố hương:
‘Thiếu tiểu li gia II lão đại hồi’
(Khi đi trẻ, lúc về già)
‘Thiếu tiểu’với ‘lão đại’, ‘li gia’ với ‘hồi’ hương, đối nhau. Với Hạ Tri Chương, thời gian li biệt quê hương gia đình không chỉ 3 năm, 15 năm mà hơn nửa thế kỉ, gần suốt một đời người, sao không thương nhớ? Cảnh ngộ ấy là bi kịch của vị đại quan đời Đường trên con đường công danh? Với Hạ Tri Chương, công danh thì thành đạt, nhưng suốt cuộc đời phải ‘li gia’. Nỗi sầu ‘li gia’ là một trong những nỗi đau của đời người xưa nay.
Câu thơ thứ hai, tác giả một lẩn nữa sử dụng tiểu đối tương phản rất đặc sắc, để nói lên sự gắn bó thiết tha với quê nhà:
‘Hương âm vô cải II mấn mao tồi’
(Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu)
Suốt một đời xa quê, khách li hương giờ đây mái tóc đã bạc phơ, tóc mai đã rụng, nhưng ‘giọng quê’ (hương âm) vẫn không đổi thay! Chi tiết ‘hương âm vô cải’ (giọng quê không đổi) là một biểu hiện cảm động về tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương. Dòng sữa ngọt ngào, tiếng ru, tình thương của mẹ hiền, công ơn của mẹ cha, đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi đứa con. ‘Giọng quê’ chính là tâm hồn của mỗi con người yêu thương, gắn bó với đất mẹ quê cha. Chỉ có kẻ mất gốc, kẻ bạc tình mới thay đổi ‘giọng quê’, mới coi thường tiếng mẹ đẻ!
Trong cái biến đổi ‘mấn mao tồi’ và cái không thể biến đổi ‘hương âm vô cải’, nhà thơ chân thành thổ lộ tấm lòng son sắt thủy chung, sự gắn bó thiết tha của khách li hương đối với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tình cảm ấy rất đẹp, rất đáng tự hào đối với Hạ Tri Chương. Hơn nửa thế kỉ làm quan tại kinh đô Tràng An, đứng trên đỉnh cao danh vọng, sống trong cảnh vàng son, thế mà tình cố hương của ông vẫn vơi đầy trong trái tim, ‘giọng quê’ vẫn đậm đà như xưa. Đó là một sự kì diệu cùa tấm lòng đôn hậu đáng trân trọng ngợi ca.
2. Hai càu cuối rất hóm hỉnh ghi lại một tình huống nói về một nghịch lí trong cuộc đời. Có câu hỏi và nụ cười hồn nhiên khi gặp ‘người khách lạ’:
‘Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?’
Kẻ đi xa, nay trở về làng đã trở thành khách lạ. Trẻ con gặp mà không biết. Thời gian xa quê dài dằng dặc bao năm tháng. Bạn bè tuổi thơ ngày xưa, ai còn ai mất? Vì thế mới có chuyên lạ đời:
‘Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?’
Một câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của nhi đồng để lại bao man mác, bâng khuâng trong lòng li khách. Vì cảnh ngộ mà phải xa quê. Tuổi già sức yếu vẫn trở lại cố hương. Tình yêu quê hương của Hạ Tri Chương mới thắm thiết biết bao! Tinh cảm ấy rất đẹp, rất chân thành: son sắt và thủy chung. Nhà thơ Tô’ Hữu đã từng viết:
‘Ngày đi, tóc hãy còn xanh,
„ Mai về, dù bạc tóc anh, cũng về!’
(‘Nước non ngàn dặm’)
|
Instruct
Impromptu repatriation
Ha Zhizhang (659 – 744)
Young master Li, old man returns,
The scent is not good, the hair is bad.
Children have the same understanding, no understanding,
Laughing question: Guests from the same country?
Translating poetry.
When young, when old,
The country voice is still the same, the hair is different.
Children looked strange and did not say hello.
Ask: Where do guests come to play?
Pham Si Vi translated: Go young, return home when old,
The country accent remains unchanged, the mist mixed with the roof of the head.
Meeting each other without knowing each other,
The child laughed and asked: 'Where do guests come from to the village?'
Translated by Tran Trong San
Analytical suggestions
He Zhizhang (659 - 744) was one of the great poets of the Tang Dynasty, and a long-time friend of Poet Li Bai. His hometown is Guiji, Zhejiang province, China. Doctor Dau at the age of 36, was a mandarin of the Tang Dynasty, respected by Emperor Thai Tong and his courtiers.
Ha Tri Chuong's poetry is frugal, gentle, and sexy, expressing a lovely, kind heart. 'Return to Homeland' is an excellent poem of his, passed down by many people. Love for the homeland is the main emotion of this four-word poem:
Young master Li, old man returns,
The scent is not good, the hair is bad.
Children have mutual views, no mutual consciousness,
Laughing question: Guests from the same country?
1. The first verse uses a small parallel technique to highlight a situation: having to separate from one's family since childhood, living in a foreign land, and not being able to return to visit one's homeland until old age:
'The Young Master's Young Master Returns II'
(When young, when old)
'Young master' and 'old man', 'leaving home' and 'returning home', are opposites. For Ha Tri Chuong, the time of separation from his homeland and family was not only 3 years, 15 years but more than half a century, almost a lifetime, why not miss it? Is that plight the tragedy of a great mandarin of the Tang Dynasty on his path to fame? For Ha Tri Chuong, his career was successful, but he had to leave his family for the rest of his life. The sadness of 'separation' is one of the pains of human life in the past.
In the second verse, the author once again uses a very unique contrast to express his passionate attachment to his homeland:
'Huong Yin Vo Cai II Mẩm Mao Bad'
(Country voice unchanged, misty hair)
Having been away from home for a lifetime, the traveler now has gray hair and fallen sideburns, but his 'hometown accent' (incense) remains unchanged! The detail of 'huong yin va cai' (unchanged hometown accent) is a touching expression of the earnest attachment to the homeland. The sweet flow of milk, the lullaby, the love of a gentle mother, the gratitude of parents, have penetrated deeply into the soul of each child. 'Country voice' is the soul of every person who loves and is attached to the motherland and fatherland. Only those who have lost their roots and are ungrateful will change their 'country accent' and look down on their mother tongue!
In the transformation of 'bad hair' and the unchangeable 'unchanged scent', the poet sincerely reveals the faithful heart and the passionate attachment of the exiles to the place where they are buried. my navel. That feeling is very beautiful and very proud for Ha Tri Chuong. For more than half a century serving as a mandarin in the capital Trang An, standing at the peak of fame, living in a golden landscape, yet his love for his hometown is still full in his heart, his 'country accent' is still as strong as before. It is a miracle of a kind heart worthy of respect and praise.
2. The last two verses are very humorous and record a situation about a paradox in life. There are questions and innocent smiles when meeting 'strangers':
'Children see each other without feeling the same,
Laughing question: Guests from the same country?'
Those who went far away now return to the village and have become strangers. Children meet without knowing. The time away from home was long and many years. Old childhood friends, who is still alive and who is gone? That's why there's this strange thing:
'Children look strange and don't say hello,
Ask: Where do guests come from?'
An innocent and innocent question from a child leaves many marks and worries in the hearts of guests. Because of circumstances, I had to leave my hometown. Old age and weak health still return to the homeland. How passionate is Ha Tri Chuong's love for his homeland! That feeling is very beautiful, very sincere: loyal and loyal. Poet To' Huu once wrote:
'The day I left, my hair was still green,
'Tomorrow, even if your hair turns gray, you'll still come back!'
(‘Water thousands of miles away’)
|
Hướng dẫn
…Vừa đặt chân tới làng thì gặp một sự việc bất ngờ khiến ông xúc động. Thế là ông ngẫu hứng viết bài thơ này. Bài thơ có hai chữ ‘ngẫu thư’ không có nghĩa đây là sự tình cờ bộc lộ một cách tự nhiên mà bắt nguồn từ một nỗi niềm day dứt, một tình yêu quê hương sâu nặng, thường trực bất cứ lúc nào cũng có thể bật ra thành tiếng nói, thiết tha, chân thành nhất. Do đó, bài thơ có kết cấu cũng như hình ảnh, ngôn ngữ không có gì cầu kì trau chuốt. Lời thơ cứ tự nhiên kể theo sự việc đã xảy ra, nhưng nội dung cảm xúc thật là sâu lắng, xúc động. Bài thơ thuộc thể Đường thi, thất ngôn tứ tuyệt – bản dịch chuyển thành lục bát – gồm hai phần.
Hai câu đầu vừa kể, vừa tả về bản thân mình:
‘Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,.
Hương âm vô cải, mấn mao tồi’
(Khi đi trẻ, lúc về già,
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao)
Nhà thơ sử dụng từ trái nghĩa và hình ảnh đối chọi rất chỉnh. Ở câu một, từ tiểu li (nhỏ đi) trái nghĩa với đại hồi (lớn về). Hình ảnh tuổi trẻ xa gia đình đối chọi với hình ảnh lúc già về lại quê hương. Ở câu hai cũng xuất hiện hình ảnh đối: tiếng nói không thay đổi – tóc đã rụng nhiều (chữ Hán Vớcải:không đổi, tồi:thay đổi). Hai câu thơ ngắn gọn, với những từ trái nghĩa, những hình ảnh đối chọi như thế khái quát được quãng đời xa quê, làm nổi bật sự thay đổi về vóc dáng và tuổi tác, đồng thời bước đầu hé lộ tình cảm quê hương của nhà thơ. Câu một tự sự để biểu cảm, câu hai miêu tả để biểu cảm. Đây là phương thức bộc lộ tình cảm một cách gián tiếp. Ngôn từ và hình ảnh cứ nhẹ nhàng cất lên, thấm thía biết bao cảm xúc, nghe như đằng sau có một tiếng thở dài. Nhà thơ nhìn thấy quê hương, cất tiếng nói theo giọng của quê hương (hương âm), rồi tự ngắm mình, tự nghĩ về mình, thấy mình thay đổi nhiều quá trước quê hương, làng xóm.
Sang hai câu sau thì sự lạ ấy đã xảy ra:
‘Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?’
(Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng: Khách ỏ nơi nào lại chơi?)
|
Instruct
…Just arriving in the village, he encountered an unexpected incident that touched him. So he spontaneously wrote this poem. The two words 'random letter' in the poem do not mean that this is a naturally occurring accident, but rather stems from a tormenting feeling, a deep love for the homeland that can be constant at any time. burst out into a voice, most passionate and sincere. Therefore, the poem has structure as well as images, and the language is not elaborate. The lyrics naturally follow the events that happened, but the emotional content is truly deep and touching. The poem belongs to the Tang poetry genre, with seven words and four verses - translated into six-eight - consisting of two parts.
The first two sentences both tell and describe myself:
'Young master Li, boss returns.
The fragrance is not good, the hair is bad'
(When young, when old,
The country voice is still the same, the hair is different)
The poet uses antonyms and contrasting images very accurately. In sentence one, the word tieu li (to be small) is the opposite of dai hui (to be large). The image of youth far away from family contrasts with the image of returning home when old. In the second sentence, there is also a parallel image: the voice has not changed - a lot of hair has fallen out (Chinese character Vocai: unchanged, bad: changed). These two short verses, with antonyms and contrasting images, summarize the life away from home, highlight the changes in physique and age, and initially reveal the feelings for the homeland. of the poet. Sentence one narrates to express, sentence two describes to express. This is an indirect way of expressing feelings. The words and images gently spoke up, imbued with so many emotions, it sounded like there was a sigh behind. The poet sees his homeland, speaks in the accent of his homeland (incense), then looks at himself, thinks about himself, and sees that he has changed so much before his homeland and villages.
Two sentences later, that strange thing happened:
'Children see each other, but do not know each other,
Laughing question: Guests from the same country?'
(Children look strange and don't say hello.
Ask: Where do guests play?)
|
Hướng dẫn
Phong Kiều dạ bạc
(Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều)
Trương Kế
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch thơ.
Trăng tà, chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
…Bài thơ tả cảnh Phong Kiều một đêm sương khuya và tâm trạng thao thức của ly khách đang nằm trong thuyền. Trương Kế viết bài thơ theo thể thất 136 ngôn tứ tuyệt Đường luật: luật trác, vần bằng, có 3 vần thơ (thiên – miên – thuyền); gồm 11 chữ (thanh trắc) và 17 chữ (thanh bằng) gợi lên âm điệu mênh mang, lan tỏa… Bản dịch thành thơ lục bát, có 9 chữ (thanh trắc) và 19 chữ (thanh bằng), nhạc điệu trầm buồn, man mác; là một trong những bản dịch thơ Đường hay nhất từ trước tới nay ở Việt Nam. Nhiều tài liệu cho biết bản dịch thơ lục bát này là của Tản Đà thi sĩ (?).
1. Hai câu thơ đầu tả cảnh một đêm khuya trên bến Phong Kiều. Năm chi tiết nghệ thuật, tả ít mà gợi nhiều: trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời, cây phong bên sông, ánh lửa chài. Cảnh vật được liệt kê, nối tiếp xuất hiện, đồng hiện. Một li khách đang mơ ngủ trong con thuyền trên bến sông. Cảnh vừa có màu sắc vừa có âm thanh. Màu vàng của vầng trăng xế, vầng trăng tà. Màu trắng bao la của sương đêm phủ đầy trời. Màu lửa chài le lói trong các khoang thuyền. Lùm cây phong đen sẫm ẩn hiện bên bờ sông. Và có tiếng quạ; quạ giật mình thấy sương trắng phủ đầy trời, ngỡ là trời đã sáng, cất tiếng kêu… Một cảnh buồn trên bến Phong Kiều. Và đó cũng là tâm trạng buồn của li khách đang nằm mơ ngủ trong thuyền. Ba chữ ‘đối sầu miên’ cho thấy không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Cảnh buồn, tình buồn; nhịp thơ buồn là vậy. Hãy khẽ đọc lên, ngâm lên:
‘Nguyệt lạc/ ổ để/ sương mãn thiên,
Giang phong/ ngư hỏa/ đối sầu miên’
(Trăng tà/ chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài/ cây bến/ sầu vương giấc hồ)
Thơ chỉ gợi, tạo nên nhiều liên tưởng. Thủ pháp lấy động để tả tĩnh, lấy sáng để tả tối; tiếng quạ kêu sương nghe rõ trong đêm thanh vắng, ánh lửa chài le lói, màn sương trắng bao la đầy trời đã cho thấy bến Phong Kiều mịt mờ, mịt mùng khi trăng xế. Qua đó, ta thấy bút pháp nghệ thuật của Trương Kế rất tinh tế, biểu cảm.
2. Thời gian trôi đi lặng lẽ. Đêm đã về khuya. Khách nằm trong thuyền vẫn mơ màng… Bốn bề Phong Kiều im lìm, vắng vẻ. Bỗng một tiếng chuông, một âm thanh trong vắt từ chùa Hàn Sơn ở ngoại thành Cô Tô vọng tới, lay động hồn li khách…:
‘Cô Tô thành ngoại/ Hàn Sơn tự,
Dạ bán/ chung thanh/ đáo khách thuyền’
(Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn)
Chùa Hàn Sơn toạ lạc trên lưng chừng núi. ‘Sư cụ nằm chung với khối mây’ như nhà sư chùa Đọi mà Nguyễn Khuyến đã nhắc tới? Sư cụ thỉnh chuông hay chú tiểu đánh chuông sang canh? Chùa Hàn Sơn cách bến Phong Kiều bao xa? Tiếng chuông ngân vang từ chùa xa vọng tới, li khách nghe rất rõ. Khách chợt tỉnh hồn mai. Nghệ thuật lấy động để tả tĩnh của thi pháp cổ, một lần nữa được Trương Kế sử dụng rất đặc sắc.
Tiếng chuông chùa Hàn Sơn đã làm rõ thêm cảnh vắng lặng, êm đềm bến Phong Kiều một đêm sương; một đêm thu? Tiếng chuông chùa vẳng lên giữa đêm khuya… còn mang một ý nghĩa thẩm mĩ rất tinh tế. Thi sĩ đã lấy tiếng chuông chùa (ngoại cảnh) để thể hiện tâm cảnh, đó là nỗi buồn nhớ cố hương của người lữ khách. Hai chữ ‘dạ bán’ (nửa đêm) là thời gian nghệ thuật, là thời điểm tiếng chuông chùa Hàn Sơn từ ngoại thành văng vẳng vọng đến con thuyền làm lay động hồn du khách đang mơ màng, đang thao thức.
Hơn một nghìn năm đã trôi qua, ai đã từng đọc thơ Đường, ai đã yêu thơ Đường, nhất là những khách li hương đó đây, vẫn cảm thấy tiếng chuông chùa Hàn Sơn được Trương Kế nói đến vẫn còn làm rung động hồn mình, làm nao nao, làm thổn thức lòng mình?
|
Instruct
Phong Kieu's heart is silver
(Night of boat parking in Phong Kieu)
Truong Ke
Nguyet Lac, O De, Dew of the Heavens,
Jiang wind, fish fire, opposite melancholy.
Co To city outside Han Son pagoda,
Yes, sell the elegant guest boat together.
Translating poetry.
The moon sets, the crow calls for dew,
The fishing fire, the wharf tree, the melancholy king of the lake.
Whose boat docked at Co To wharf?
At midnight, I heard the bell of Han Son pagoda.
...The poem describes the scene of Phong Kieu on a foggy night and the restless mood of the guests lying in the boat. Truong Ke wrote the poem in the form of 136 quatrains Tang luat: luat trac, rhyme flat, with 3 verses (thien - mien - boat); includes 11 words (thanh trac) and 17 words (thanh bang) evoking a vast, pervasive melody... Translated into six-eight poetry, with 9 words (thanh trac) and 19 words (thanh bang), the music is sad and sad , vague; is one of the best translations of Tang poetry ever in Vietnam. Many documents indicate that this translation of six-eight poetry is by the poet Tan Da (?).
1. The first two lines of the poem describe a scene late at night on Phong Kieu wharf. Five artistic details, less descriptive but more evocative: the setting moon, the crow's cry, the dew filling the sky, the maple tree by the river, the light of a fishing fire. Scenes are listed, appearing one after another, simultaneously. A passenger is sleeping in a boat on the river wharf. The scene has both color and sound. The yellow color of the waning moon and the waning moon. The immense white of night mist covers the sky. The color of fishing fires flickered in the boat compartments. A grove of dark maple trees looms on the riverbank. And there was the sound of crows; The crow was startled to see white mist covering the sky. Thinking it was morning, the crow cried... A sad scene on Phong Kieu wharf. And that is also the sad mood of the guest sleeping in the boat. The three words 'opposing melancholy' show that artistic space and artistic mood co-exist. Sad scene, sad love; That's the rhythm of sad poetry. Please read it softly and recite it:
'Moonlight/ nest/ dew in the sky,
Giang wind/ fish fire/ facing melancholy'
(The moon sets / the crow calls for dew,
Fishing fire/ wharf tree/ melancholy king of the lake)
Poetry only evokes and creates many associations. The technique of using movement to describe stillness, using light to describe darkness; The crow's cry was clearly heard in the quiet night, the fishing fire flickered, and the vast white mist filling the sky showed that Phong Kieu wharf was dim and misty when the moon set. Through this, we see that Truong Ke's artistic style is very delicate and expressive.
2. Time passes quietly. It was late at night. Guests lying in the boat were still dreaming... All around Phong Kieu were silent and deserted. Suddenly a bell, a clear sound came from Han Son Pagoda on the outskirts of Co To, shaking the soul of the visitor...:
'Co To's outer citadel/Han Son pagoda,
Yes sell/share bar/go to customers' boats'
(Whose boat is docked at Co To,
At midnight, I heard the bell of Han Son Pagoda)
Han Son Pagoda is located halfway up the mountain. 'The monk lies with the clouds' like the monk of Doi Pagoda that Nguyen Khuyen mentioned? The monk rings the bell or the novice rings the bell to watch? How far is Han Son Pagoda from Phong Kieu wharf? The sound of bells ringing from a distant temple could be heard very clearly. The guest suddenly woke up. The ancient poetic art of using movement to describe static is once again used very uniquely by Truong Ke.
The sound of the bell at Han Son pagoda further clarified the quiet, peaceful scene of Phong Kieu wharf on a foggy night; an autumn night? The sound of the temple bell ringing in the middle of the night... also has a very delicate aesthetic meaning. The poet used the sound of the temple bell (external scene) to express the mood, which is the traveler's sadness of missing his homeland. The two words 'da ban' (midnight) are artistic time, the time when the bell of Han Son pagoda echoes from the suburbs to the boat, shaking the souls of the dreamy and restless tourists.
More than a thousand years have passed, anyone who has read Tang poetry, anyone who has loved Tang poetry, especially those who have migrated here and there, still feel that the bell of Han Son Pagoda mentioned by Truong Ke still vibrates their souls. , make me feel upset, make my heart sob?
|
Hướng dẫn
Trong đó, Đỗ Phủ (712 – 770) là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất, được tôn vinh là ‘Thi thánh’. Ông là nhà thơ giàu lòng yêu nước, thương dân, lo đời, ghét cường quyền bạo ngược. Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo dào dạt trong hơn 1.400 bài thơ ôngđể lại, phản ánh tâm hồn cao đẹp của một ‘nhà thơ dân đen’. Cuộc đời của Đỗ Phủ trải qua nhiều bất hạnh: công danh lận đận, con chết, lưu lạc tha hương, càng cuối đời càng nghèo đói, cơm không đủ ăn, ốm đau không thuốc thang cơm cháo, nằm chết trên một chiếc thuyền rách nát nơi quê người.
‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’được xếp vào trong số 100 bài thơ hay nhất của Đỗ Phủ. Ông viết bài thơ này vào những năm cuối đời mình. Năm 760 (hay 761?) được bạn bè giúp đỡ, Đỗ Phủ đã dựng được một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoá ở phía tây Thành Đô. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ngôi nhà bị mưa bão phá nát. Năm đó, loạn An – Sử vẫn đang diễn ra khốc liệt. Bài thơ gồm có 23 câu, phần lớn là câu thất ngôn, có vài câu dài đến trên dưới chục chữ, vừa có vần trắc vừa có vần bằng. Chữ ‘ca’ trong bài thơ ‘Mao ốc vị thu phong sở phá ca’ là một loại thơ cổ (cổ phong) có nguồn gốc sâu xa với một điệu dân ca cổ. Nhiều nhà thơ đời Đường đều có viết thể ‘ca’ này: ‘Thu phô’ ca’ (Lí Bạch), ‘Thiên Dục phiêu Đồ ca’ (Đỗ Phủ), ‘Trường hận ca’ (Bạch Cư Dị), v.v…
Muốn cảm nhận ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’ này, có lẽ nên đọc lại một trong hai bài thơ sau đây của Đỗ Phủ, bài thơ ‘Nhớ em’. Từ đó, ta mới có thêm căn cứ để phân tích:
‘Chạy loạn sang châu Tế Nghe em đói rét hoài Đường thăm còn vướng giặc Thư gửi biết nhờ ai?
Lủi trốn khi lo vẩn Buồn phiền lúc ốm dai Phó cho dòng nước chảy Nghìn vạn mối sầu dài!’
(Nhượng Tống dịch)
Bài thơ ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’ gồm có bốn phần: năm câu đầu nói bão tố phá nát ngôi nhà tranh, năm câu nối tiếp nói bọn trẻ con cướp tranh; tám câu tiếp theo tả cảnh mưa tầm tã nhà bị dột, cha con ngồi trong mưa rét; năm câu cuối thể hiện niềm mơ ước của nhà thơ.
1. Khổ thơ đầu như một ghi chép ngắn về trận thu phong. Đó là một trận bão tố, hoặc là một cơn lốc vào tháng 8 ‘gió thét già’. Ba lớp tranh ngôi nhà của Đỗ Phủ bị ‘cuộn mâ’t’ bay tứ tung khắp mọi nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm tranh ‘treo tót ngọn rừng xa’. Có mảnh tranh bị phá nát rơi xuống mương nước. Chữ ‘tranh’ (mao) được nhắc lại 2, 3 lần, lối viết liệt kê đã tái hiện lại trận cuồng phong lần lượt bóc đi từng tấm tranh, nhà thơ ngơ ngác nhìn, bất lực. Cả năm câu thơ đều được gieo vần bằng: ‘hào – mao – giao – sao – ao’, đó là những vần có âm vang diễn tả âm điệu thơ như tiếng khóc, tiếng thở than, về vần thơ, Khương Hữu Dụng thể hiện đúng dụng ýnghệ thuật của Đỗ Phủ trong nguyên tác: ‘già – ta – xa – sa’.
2. Năm câu thơ tiếp theo cho thấy thời loạn, đạo lí suy đồi đến cùng cực! Lũ trẻ con hàng xóm kéo đến cướp tranh mà Đỗ Phủ gọi là ‘dạo tặc’ – đấm kẻ cướp! Chúng khinh nhà thơ ‘già yếu’. Chúng trơ tráo trước tiếng kêu van ‘môi khô miệng 142
cháy gào không được’.Lũ trẻ gian tham cướp được chiếc tranh nào thì cứ ngang nhiên ‘cắp tranh đi tuốt vào lũy tre’ chiếc tranh ấy. Như thế là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp ‘đạo tặc’, đó là lũ ‘quần đồng’ hạ lưu, những ‘tiểu tướng…’ sản phẩm của một xã hội đại loạn. Nếu khổ thơ đầu chỉ mới nói đến cái rủithì khổ thơ thứ 2 nói thêm nỗi đau,nỗi buồntrước một xã hội loạn lạc, đảo điên, trong đó lũ ‘quẩn đồng’ trẻ con vừa láo hỗn vừa gian tham.
3. Khổ thơ thứ ba ghi thêm một tai họa mới: trời mưa rét thâu đêm mà mái nhà đã bị gió thu phá nát. Gió lặng thì mây đen che phủ trời đất tối như mực. Mưa tầm tã suốt canh khuya. Nhà dột, giường không có một chỗ nào khô. Chăn rách nay thấm nước lạnh như sắt. Các chi tiết nghệ thuật được miêu tả vừa cụ thể, vừa hiện thực: gió, mưa, nhà dột, giường ướt, chăn rách…
‘Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu Dày hạt mưa, mưa chẳng dứt’
Nhà thơ ngồi trong mưa, ngồi dưới mưa thâu đêm. Tuổi già, sức yếu, bệnh tật… Đỗ Phủ vừa thương vợ con, vừa thương mình. Nỗi đau khổ như dồn lại, trút lên đầu một con người vừa nếm trải nhiều bất hạnh. Đêm như dài thêm ra:
‘Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót?’
Khổ thơ thứ 3,về mặt bố cục mang một ý nghĩa lớn, ghi lại cái đại họa trong một đêm thu trời mưa. Nó làm rõ thêm một kinh nghiệm sống: ‘Phúc bất trùng lai, họa vô dơn chí!’. Dân gian có câu: ‘Thứ nhất con đói, thứ nhì nợ đòi, thứ ba nhà dột!’. Đỗ Phủ còn thêm một sự đau khổ nữa, đó là thân già, ốm đau ngồi co ro trong mưa rét, nhìn cảnh vợ con đang nằm dưới mưa lạnh thì nỗi khổ ấy không thể nào tả hết. Cái chăn cũ, mỏng, lâu năm, bình thường đắp đã không đủ ấm, đêm nay lại bị con thơ đạp rách nát trong cảnh mưa rét, nhà thủng mái… là những chi tiết nghệ thuật nói lên cái nghèo khổ, cái cùng cực của một gia đình tàn tạ giữa thời loạn lạc, đúng như trong bài ‘Nhớ em’ ông đã viết: ‘Buồn phiền lúc ốm dai – Phó cho dòng nước chảy – Nghìn vạn mối sầu dài’…
Nếu như ở khổ thơ đầu, ông sử dụng toàn vần bằng thì trong khổ thơ thứ ba nàyông lại sử dụng toàn vần trắc: ‘sắc – hắc – thiết – liệt – tuyệt – triệt’. Đó cũng là một dụng ý nghệ thuật: vần thơ như diễn tả nỗi đau khổ đang thắt lại, dồn nén, uất kết lại trong lòng nhà thơ.
4. Phần thứ tư là phần hay nhất của bài thơ.Năm dòng cuối thể hiện tấm lòng cao cả của một kẻ sĩ chân chính: thương dân và lo đời:
‘Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người rất dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần, hoặc gục đầu cam chịu, rồi than thân trách phận. Cũng có thể suốt đêm ngồi trong mưa lạnh rét cóng, Đỗ Phủ có quyền nghĩ đến một mái lều, một tấm chăn, một bát cơm, một ngọn lửa… cho vợ con và bản thân
ông. Nhưng nhà thơ đã làm cho người đọc bất ngờ trước niềm mong ước của ông. Ông mơ ước có một ngôi nhà kì vĩ ‘muôn ngàn gian’ vô cùng vững chắc ‘Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn’. Ngôi nhà ấy để ‘Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan’. Có thể nói, Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm: ‘Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ’.
Thực tế xưa nay chưa hề có một ngôi nhà ‘rộng muôn ngàn gian’ như thế trên thế gian. Khổ thơ được sáng tạo nên bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng để diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dào dạt, làm sáng bừng lên tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiêu bất hạnh giữa thời loạn lạc. Sau loạn An – Sử, nhiều miền rộng lớn bị đốt phá tan hoang, hàng triệu người rơi vào thảm kịch: không cơm ăn, áo mặc, không cửa nhà, khắp mọi nơi người chết đói, chết rét đầy đường. Vì thế nhà thơ mong mỏi ai cũng có một mái ấm nương thân. Lo đời và thương người, khao khát hạnh phúc cho muôn dân là tình cảm tha thiết của nhiều bậc vĩ nhân, nhiều nhà thơ lớn xưa và nay. Nhà thơ Nguyễn Trãi cũng đã từng mơ ước có một cây đàn Ngu Cầm – cây đàn thần của vua Thuấn để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân khắp mọi phương trời:
‘Dễ có Ngu Cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương’
(Quốc âm thi tập)
Trở lại ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’, ta vô cùng xúc động trước lời nguyền của nhà ‘hàn sĩ’ Đỗ Phủ. Đây là những lời gan ruột, tâm huyết:
‘Than ôi! Bao giờ nhà ẩy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’
Thấy được ngôi nhà ấy tức là thấy được cảnh thái bình, no ấm yên vui đến với mọi người, mọi nhà, trong đó có những kẻ sĩ nghèo. Tác giả nêu ra một giả định rất chân thành cảm động. Nếu thấy ngôi nhà ‘muôn ngàn gian’ trong mơ trở thành hiện thực thì riêng Đỗ Phủ ‘lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’.
Chân thực là yếu tố hàng đầu của cảm xúc thơ ca. Lời nguyền của Đỗ Phủ rất chân thực. Không chỉ riêng bài thơ này, mà qua nhiều bài thơ khác, như chùm thơ ‘Tam lại’ và ‘Tam biệt’, ông đã nói đến tình thương yêu mãnh liệt và bao la đối với nhân dân lầm than giữa thời loạn lạc.
|
Hướng dẫn
Trong đó, Đỗ Phủ (712 – 770) là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất, được tôn vinh là ‘Thi thánh’. Ông là nhà thơ giàu lòng yêu nước, thương dân, lo đời, ghét cường quyền bạo ngược. Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo dào dạt trong hơn 1.400 bài thơ ôngđể lại, phản ánh tâm hồn cao đẹp của một ‘nhà thơ dân đen’. Cuộc đời của Đỗ Phủ trải qua nhiều bất hạnh: công danh lận đận, con chết, lưu lạc tha hương, càng cuối đời càng nghèo đói, cơm không đủ ăn, ốm đau không thuốc thang cơm cháo, nằm chết trên một chiếc thuyền rách nát nơi quê người.
‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’được xếp vào trong số 100 bài thơ hay nhất của Đỗ Phủ. Ông viết bài thơ này vào những năm cuối đời mình. Năm 760 (hay 761?) được bạn bè giúp đỡ, Đỗ Phủ đã dựng được một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoá ở phía tây Thành Đô. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ngôi nhà bị mưa bão phá nát. Năm đó, loạn An – Sử vẫn đang diễn ra khốc liệt. Bài thơ gồm có 23 câu, phần lớn là câu thất ngôn, có vài câu dài đến trên dưới chục chữ, vừa có vần trắc vừa có vần bằng. Chữ ‘ca’ trong bài thơ ‘Mao ốc vị thu phong sở phá ca’ là một loại thơ cổ (cổ phong) có nguồn gốc sâu xa với một điệu dân ca cổ. Nhiều nhà thơ đời Đường đều có viết thể ‘ca’ này: ‘Thu phô’ ca’ (Lí Bạch), ‘Thiên Dục phiêu Đồ ca’ (Đỗ Phủ), ‘Trường hận ca’ (Bạch Cư Dị), v.v…
Muốn cảm nhận ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’ này, có lẽ nên đọc lại một trong hai bài thơ sau đây của Đỗ Phủ, bài thơ ‘Nhớ em’. Từ đó, ta mới có thêm căn cứ để phân tích:
‘Chạy loạn sang châu Tế Nghe em đói rét hoài Đường thăm còn vướng giặc Thư gửi biết nhờ ai?
Lủi trốn khi lo vẩn Buồn phiền lúc ốm dai Phó cho dòng nước chảy Nghìn vạn mối sầu dài!’
(Nhượng Tống dịch)
Bài thơ ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’ gồm có bốn phần: năm câu đầu nói bão tố phá nát ngôi nhà tranh, năm câu nối tiếp nói bọn trẻ con cướp tranh; tám câu tiếp theo tả cảnh mưa tầm tã nhà bị dột, cha con ngồi trong mưa rét; năm câu cuối thể hiện niềm mơ ước của nhà thơ.
1. Khổ thơ đầu như một ghi chép ngắn về trận thu phong. Đó là một trận bão tố, hoặc là một cơn lốc vào tháng 8 ‘gió thét già’. Ba lớp tranh ngôi nhà của Đỗ Phủ bị ‘cuộn mâ’t’ bay tứ tung khắp mọi nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm tranh ‘treo tót ngọn rừng xa’. Có mảnh tranh bị phá nát rơi xuống mương nước. Chữ ‘tranh’ (mao) được nhắc lại 2, 3 lần, lối viết liệt kê đã tái hiện lại trận cuồng phong lần lượt bóc đi từng tấm tranh, nhà thơ ngơ ngác nhìn, bất lực. Cả năm câu thơ đều được gieo vần bằng: ‘hào – mao – giao – sao – ao’, đó là những vần có âm vang diễn tả âm điệu thơ như tiếng khóc, tiếng thở than, về vần thơ, Khương Hữu Dụng thể hiện đúng dụng ýnghệ thuật của Đỗ Phủ trong nguyên tác: ‘già – ta – xa – sa’.
2. Năm câu thơ tiếp theo cho thấy thời loạn, đạo lí suy đồi đến cùng cực! Lũ trẻ con hàng xóm kéo đến cướp tranh mà Đỗ Phủ gọi là ‘dạo tặc’ – đấm kẻ cướp! Chúng khinh nhà thơ ‘già yếu’. Chúng trơ tráo trước tiếng kêu van ‘môi khô miệng 142
cháy gào không được’.Lũ trẻ gian tham cướp được chiếc tranh nào thì cứ ngang nhiên ‘cắp tranh đi tuốt vào lũy tre’ chiếc tranh ấy. Như thế là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp ‘đạo tặc’, đó là lũ ‘quần đồng’ hạ lưu, những ‘tiểu tướng…’ sản phẩm của một xã hội đại loạn. Nếu khổ thơ đầu chỉ mới nói đến cái rủithì khổ thơ thứ 2 nói thêm nỗi đau,nỗi buồntrước một xã hội loạn lạc, đảo điên, trong đó lũ ‘quẩn đồng’ trẻ con vừa láo hỗn vừa gian tham.
3. Khổ thơ thứ ba ghi thêm một tai họa mới: trời mưa rét thâu đêm mà mái nhà đã bị gió thu phá nát. Gió lặng thì mây đen che phủ trời đất tối như mực. Mưa tầm tã suốt canh khuya. Nhà dột, giường không có một chỗ nào khô. Chăn rách nay thấm nước lạnh như sắt. Các chi tiết nghệ thuật được miêu tả vừa cụ thể, vừa hiện thực: gió, mưa, nhà dột, giường ướt, chăn rách…
‘Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu Dày hạt mưa, mưa chẳng dứt’
Nhà thơ ngồi trong mưa, ngồi dưới mưa thâu đêm. Tuổi già, sức yếu, bệnh tật… Đỗ Phủ vừa thương vợ con, vừa thương mình. Nỗi đau khổ như dồn lại, trút lên đầu một con người vừa nếm trải nhiều bất hạnh. Đêm như dài thêm ra:
‘Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót?’
Khổ thơ thứ 3,về mặt bố cục mang một ý nghĩa lớn, ghi lại cái đại họa trong một đêm thu trời mưa. Nó làm rõ thêm một kinh nghiệm sống: ‘Phúc bất trùng lai, họa vô dơn chí!’. Dân gian có câu: ‘Thứ nhất con đói, thứ nhì nợ đòi, thứ ba nhà dột!’. Đỗ Phủ còn thêm một sự đau khổ nữa, đó là thân già, ốm đau ngồi co ro trong mưa rét, nhìn cảnh vợ con đang nằm dưới mưa lạnh thì nỗi khổ ấy không thể nào tả hết. Cái chăn cũ, mỏng, lâu năm, bình thường đắp đã không đủ ấm, đêm nay lại bị con thơ đạp rách nát trong cảnh mưa rét, nhà thủng mái… là những chi tiết nghệ thuật nói lên cái nghèo khổ, cái cùng cực của một gia đình tàn tạ giữa thời loạn lạc, đúng như trong bài ‘Nhớ em’ ông đã viết: ‘Buồn phiền lúc ốm dai – Phó cho dòng nước chảy – Nghìn vạn mối sầu dài’…
Nếu như ở khổ thơ đầu, ông sử dụng toàn vần bằng thì trong khổ thơ thứ ba nàyông lại sử dụng toàn vần trắc: ‘sắc – hắc – thiết – liệt – tuyệt – triệt’. Đó cũng là một dụng ý nghệ thuật: vần thơ như diễn tả nỗi đau khổ đang thắt lại, dồn nén, uất kết lại trong lòng nhà thơ.
4. Phần thứ tư là phần hay nhất của bài thơ.Năm dòng cuối thể hiện tấm lòng cao cả của một kẻ sĩ chân chính: thương dân và lo đời:
‘Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người rất dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần, hoặc gục đầu cam chịu, rồi than thân trách phận. Cũng có thể suốt đêm ngồi trong mưa lạnh rét cóng, Đỗ Phủ có quyền nghĩ đến một mái lều, một tấm chăn, một bát cơm, một ngọn lửa… cho vợ con và bản thân
ông. Nhưng nhà thơ đã làm cho người đọc bất ngờ trước niềm mong ước của ông. Ông mơ ước có một ngôi nhà kì vĩ ‘muôn ngàn gian’ vô cùng vững chắc ‘Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn’. Ngôi nhà ấy để ‘Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan’. Có thể nói, Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm: ‘Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ’.
Thực tế xưa nay chưa hề có một ngôi nhà ‘rộng muôn ngàn gian’ như thế trên thế gian. Khổ thơ được sáng tạo nên bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng để diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dào dạt, làm sáng bừng lên tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiêu bất hạnh giữa thời loạn lạc. Sau loạn An – Sử, nhiều miền rộng lớn bị đốt phá tan hoang, hàng triệu người rơi vào thảm kịch: không cơm ăn, áo mặc, không cửa nhà, khắp mọi nơi người chết đói, chết rét đầy đường. Vì thế nhà thơ mong mỏi ai cũng có một mái ấm nương thân. Lo đời và thương người, khao khát hạnh phúc cho muôn dân là tình cảm tha thiết của nhiều bậc vĩ nhân, nhiều nhà thơ lớn xưa và nay. Nhà thơ Nguyễn Trãi cũng đã từng mơ ước có một cây đàn Ngu Cầm – cây đàn thần của vua Thuấn để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân khắp mọi phương trời:
‘Dễ có Ngu Cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương’
(Quốc âm thi tập)
Trở lại ‘Bài ca nhà tranh bị gió thu phá’, ta vô cùng xúc động trước lời nguyền của nhà ‘hàn sĩ’ Đỗ Phủ. Đây là những lời gan ruột, tâm huyết:
‘Than ôi! Bao giờ nhà ẩy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’
Thấy được ngôi nhà ấy tức là thấy được cảnh thái bình, no ấm yên vui đến với mọi người, mọi nhà, trong đó có những kẻ sĩ nghèo. Tác giả nêu ra một giả định rất chân thành cảm động. Nếu thấy ngôi nhà ‘muôn ngàn gian’ trong mơ trở thành hiện thực thì riêng Đỗ Phủ ‘lều ta nát, chịu chết rét cũng được!’.
Chân thực là yếu tố hàng đầu của cảm xúc thơ ca. Lời nguyền của Đỗ Phủ rất chân thực. Không chỉ riêng bài thơ này, mà qua nhiều bài thơ khác, như chùm thơ ‘Tam lại’ và ‘Tam biệt’, ông đã nói đến tình thương yêu mãnh liệt và bao la đối với nhân dân lầm than giữa thời loạn lạc.
|
Hướng dẫn
… chập chùng, đau đớn nằm nghe tiếng mưa rơi rỉ rả nơi hành cung vắng lặng, thì nhà thơ Trương Kế, một đại quan tiến sĩ Ngự Sử Đài, chẳng theo kịp đoàn hộ giá vương tôn lánh nạn, đành lưu lạc xuống tận miền Giang Nam trên chiếc thuyền phiêu bạt. Đêm kia, ghé bến Phong Kiều, động mối u hoài chất chứa, gợi cảm cùng ngoại cảnh thê lương, bức xúc viết nên bài thơ tuyệt diệu, vượt cả không gian, thời gian lưu truyền hậu thế:
Nguyệt lạc, ô dề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
tạm dịch;
Quạ kêu trăng lặn khắp trời sương,
Lửa chài cây ảnh giấc sầu vương.
Thành Tô ngoài mé Hàn Sơn tự,
Thuyền khách đêm tàn vẳng tiếng chuông.
Nội dung bài thơ chứa đựng muôn vàn uẩn sự, phản ánh mô tả những trạng huống tang thương: Trâng lặn gợi lên hình ảnh một xã hội xuống dốc, tiếng quạ kêu thống thiết như tiếng con người rên xiết lầm than trong thời tao loạn, màn sương che phủ trời đất tối tăm, trăng chiếu nhạt mờ ít ỏi dùng ngọn lửa chài leo lét tựa bóng ma trơi vất vưởng lang thang. Những cây bàng ven sông cũng đang rì rào một điệp khúc ai oán, thành Cô Tô say giấc triền miên.
|
Instruct
... slowly, painfully lying down listening to the sound of rain falling in the quiet palace hall, then poet Truong Ke, a great officer and doctor of Ngu Su Dai, could not keep up with the group of royal guards to escape, and had to wander down to the bottom of the river. Jiangnan region on an adventurous boat. That night, arriving at Phong Kieu wharf, the gloomy, sensual cave combined with the dreary, urgent exterior created a wonderful poem, transcending space and time, to be passed down to posterity:
The moon, the clouds, the dew of the sky,
Jiang wind, fish fire, opposite melancholy.
Co To city outside Han Son pagoda,
Yes, sell the elegant guest boat together.
temporary translation;
Crows cry out to the setting moon across the misty sky,
The fire of the tree reflects the king's melancholy dream.
Thanh To is outside Han Son pagoda,
Passenger boats at night can hear the sound of bells.
The content of the poem contains countless sad stories, reflecting and describing tragic situations: Dusk evokes the image of a society in decline, the sound of crows crying in pain is like the sound of people groaning and suffering in times of chaos. , the mist covered the dark sky and earth, the moon shone faintly, using a flickering fishing fire like a wandering ghost. The almond trees along the river are also whispering a plaintive chorus, Co To city is in a constant sleep.
|
Hướng dẫn
Tuyệt cú
Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lí thuyền.
Đỗ Phủ
Đôi chim oanh vàng hót trong liễu biếc,
Một hàng cò trắng bay lên trời xanh.
Cửa sổ ngậm tuyết Tây Lĩnh đọng hàng nghìn năm, Trước cửa, thuyền Đông Ngô từ muôn dặm đến đỗ.
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc Một hàng cò trắng vút trời xanh.
Nghìn năm tuyết núi song in sắc,
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
Tản Đà dịch
Liễu xanh hót cặp oanh vàng,
Trời xanh trắng điểm một hàng cò bay.
Song lồng mái tuyết non Tây,
Thuyền Ngô muôn dặm đổ ngay cửa ngoài.
Tương Như dịch
Gợi ý làm bài
… đã bị gió thu thổi tốc mái. Sau đó, gia đình nhà thơ đã xuống ở trong một chiếc thuyền trên sông Tương bồng bềnh theo sóng nước.
Có người gọi bài ‘Tuyệt cú’ này là một bức tranh tứ bình tuyệt mĩ. Mỗi câu thơ là một bức tiểu họa xinh xắn. Câu thứ nhất có hình ảnh khóm liễu xanh biếc, trong đó cất lên tiếng hót của đôi chim oanh vàng. Bức tranh đẹp lộng lẫy: nổi lên trên nền biếc của liễu là màu Vàng của đôi chim oanh bé nhỏ hót ríu rít. Thơ vừa có nhạc vừa có họa đầy mĩ lệ và ấn tượng:
‘Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc’
Câu thơ thứ hai tả bầy cò ở phía xa và trên tầm cao. Cò trắng bay thành hàng, bay hướng lên trời xanh, sắc trắng của hàng cò nổi bật trên nền xanh của bầu trời. Bức tiểu họa này cho thấy nghệ thuật phối sắc thần tình. Đàn cò được miêu tả trong trạng thái ‘động’ đang bay giữa trời xanh: ‘Một hàng cò trắng vút trời xanh’.
Câu 1 và câu 2 được cấu trúc đăng đối hài hòa. Cảnh vật thiên nhiên đang cùng tồn tại, vật này cảnh này hòa hợp với vật kia, cảnh kia:
‘Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh’
‘Hai cái oanh vàng hót’đối với ‘một hàng cò trắng bay’, ‘liễu biếc’ đối với ‘trời xanh’. Thiên nhiên vốn đẹp như vậy. Có liễu biếc và trời xanh, có oanh vàng và hàng cò trắng. Màu sắc tươi sáng, rực rỡ: vàng, biếc, xanh. Có liễu bay, chim hót, có hàng cò vỗ cánh giữa trời xanh. Có điểm và diện, có cái nhỏ bé và cái bao la. Thật là mĩ lệ và thần tình trong bút pháp miêu tả.
Càu thứ 3 đích thực là cảnh thu phương Bắc rồi. Ở câu thơ trên mới nói đến trời xanh, câu này nói đến núi tuyết. Cảnh sắc bao la một màu ‘thiên thu tuyết’–,
tuyết trùm lên các đỉnh non Tây, tuyết tràn ra ‘cửa sổ ngậm tuyết’. Cả không gian là một màu trắng lạnh, vắng lặng mênh mông. Nhà thơ hình như đang đứng trong con thuyền – ngôi nhà mình, vén bức màn thư nơi cửa sổ khoang thuyền bâng khuâng ngắm tuyết:
‘Nghìn năm tuyết núi song in sắc’
Câu thứ tư miêu tả dòng sông tương. Có cơ man nào thuyền Đông Ngô từ muôn dặm đến đỗ trước cửa – con thuyền nhà thơ. Hình ảnh những thuyền từ Đông Ngô xa muôn dặm đến đã gợi lên trong lòng nhà thơ – kẻ tha hương biết bao nỗi niềm: ’.
‘Muôn dặm thuyền Ngô của rập rình’
Nhiều nhà nghiên cứu thơ Đường cho rằng Đỗ Phủ dùng hình ảnh những chiếc thuyền này để gửi gắm ý định rời Tứ Xuyên đi về phía Đông rồi vòng lên quê nhà tại Hà Nam. Trong những bài thơ cuối đời, Đỗ Phủ luôn gửi gắm ý định về quê vào hình ảnh những chiếc thuyền:
– ‘Con thuyền buộc chặt mối tình nhà’…
(Thu hứng)
‘Bạn bè một chữ vẫn không,
Thán già ma bệnh chiếc bồng lẻ loi…’
(Lên lầu Nhạc Dương)
Hai câu thơ 3, 4 cũng cấu trúc đăng đối: ‘ngoài song’với ‘trước cửa’, ‘Tây Lĩnh’với ‘Đông Ngô’, ‘thiên thu tuyết’với ‘vạn lí thuyền’đã làm hiện lên bức
tranh thu lạnh lẽo, mênh mông, xa vời; bức tranh thiên nhiên ấy trải dài, trải rộng trên một không gian tuyết đầy núi, thuyền đầy sông. Cảnh đẹp mà lòng nhà thơ nhiều man mác:
‘Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền’ ị Song lồng mái tuyết non Tây,
Thuyền Ngô muôn dặm đố ngay cửa ngoài)
|
Instruct
Awesome
Two royal fish li ming thuy willow,
One row of white roads resembles the clear sky.
Song Han Tay Linh autumn snow,
Dong Ngo silver gate with thousands of ships.
Do Phu
A pair of golden robins sing in the willow trees,
A row of white storks flew into the blue sky.
The window is filled with Tay Linh snow that has accumulated for thousands of years. In front of the door, Dong Ngo boats come from miles away to park.
Two golden birds chirping loudly. A row of white storks soar into the blue sky.
Thousands of years of snow and mountains,
Thousands of miles of Ngo boats lurking at the door.
Translated by Tan Da
The green willow sings with a pair of golden trumpets,
The blue and white sky is dotted with a row of storks flying.
Twin nests of snowy roofs in the West,
The thousand-mile Ngo boat crashed right at the outside door.
Tuong Nhu translated
Suggestions for homework
... was blown away by the autumn wind. After that, the poet's family got into a boat on the Tuong River, floating with the waves.
Some people call this song 'Great Owl' a beautiful four-square painting. Each verse is a lovely miniature. The first sentence has the image of a green willow cluster, in which the song of a pair of golden robins is heard. The picture is gorgeous: emerging on the blue background of the willows is the yellow color of a pair of small robins chirping. Poetry has both music and beautiful and impressive paintings:
'Two golden bombs make a clear sound'
The second verse describes a flock of storks in the distance and at high altitude. White storks fly in a row, flying towards the blue sky, the white color of the stork row stands out against the blue background of the sky. This miniature shows the magical art of color mixing. The flock of storks is described in a 'dynamic' state, flying in the blue sky: 'A row of white storks soar into the blue sky'.
Sentences 1 and 2 are structured in harmony. Natural scenes are coexisting, this object and this scene are in harmony with that object and that scene:
'Two golden bombs make a loud noise,
A row of white storks soaring into the blue sky'
'Two golden birds sing' for 'a row of white storks flying', 'blue willow' for 'the blue sky'. Nature is inherently beautiful like that. There are willows and blue sky, there are yellow roses and rows of white storks. Bright, vibrant colors: yellow, blue, green. There are willows flying, birds singing, and rows of storks flapping their wings in the blue sky. There are points and aspects, there is the small and the vast. It is truly beautiful and magical in its descriptive style.
The third scene is truly a northern autumn scene. In the above verse, we only mention the blue sky, this verse refers to the snowy mountains. The vast landscape is the color of 'autumn snow' -,
Snow covers the peaks of the Western mountains, snow pours out of the 'snow windows'. The whole space is cold white, immense silence. The poet seems to be standing in the boat - his house, lifting the curtain at the cabin window and wistfully admiring the snow:
'A thousand years of snow, mountains and rivers printed in color'
The fourth sentence describes the soy sauce river. There are countless Dong Ngo boats from thousands of miles away to park in front of the door - the poet's boat. The image of boats coming from Dong Ngo thousands of miles away evoked so many feelings in the heart of the poet - an exile: '.
'Thousands of miles of Ngo's boats lurking'
Many researchers of Tang poetry believe that Du Fu used the image of these boats to convey his intention to leave Sichuan to go east and then return to his hometown in Henan. In his late poems, Do Phu always conveyed his intention to return home in the images of boats:
– ‘The boat that binds family love’…
(Inspiration)
'Friends are still nothing,
The old ghost is sick and alone in a lonely basket...'
(Upstairs Nhac Duong)
The two verses 3 and 4 also have a parallel structure: 'outside the river' with 'in front of the door', 'Tay Linh' with 'Dong Ngo', 'autumn snow' with 'ten thousand li boats', creating a picture of
The autumn painting is cold, vast, distant; That picture of nature stretches and spreads across a space of snow full of mountains and boats full of rivers. The scene is beautiful but the poet's heart is filled with sadness:
'Double Ham Tay Linh autumn snow,
The East's silver gate, thousands of miles of boats' pooping, The snowy roofs of the West's mountains,
Ngo boat is miles away right outside the door)
|
Hướng dẫn
Phân tích
…. Nếu đặt tên cho bài thơ có thể viết như thế này được chăng: ‘Cảnh mưa rào buổi chiều’, hay ‘Chiều muộn, mưa rào’Khương Hữu Dụng đã dịch rất hay bài thơ theo đúng nguyên điệu của nó:
‘Chân suối mưa rào lướt,
Lưng cây bóng xế lồng.
Oanh vàng gù cách tổ,
Cá trắng nhảy tung rong’.
Đọc bài thơ này, ta có nhiều suy ngẫm. Năm 764, Đỗ Phủ và gia đình đang sống trên một con thuyền nhỏ bé trên sông Tương, ven núi. Cảnh nghèo, tuổi già, tóc bạc, ốm đau thường xuyên. Và chỉ có sáu năm sau nữa thôi, ông đã qua đời trên con thuyền rách nát ấy. Có điều bài thơ, cả bốn câu, câu nào cũng đẹp, đặc biệt câu 1 và câu 4, cảnh vật đầy sức sống. Câu 2, 3 phảng phất một nỗi buồn. Cảm giác chung khi đọc bài thơ, ta thấy hiện lên, thoáng lên một vẻ trầm ngâm, hình như sau khi mưa rào vừa tạnh, Đỗ Phủ ra đứng ở mui thuyền, hay ngồi trong khoang thuyền ngắm cảnh chiều.
Thơ Đường cũng như thơ cổ thường tả ít gợi nhiều. Bài thơ này lại được viết bằng ngũ ngôn nên rất hàm súc. Cảnh và tình, ngôn ngữ và hình ảnh như dồn nén lại. Mỗi câu là một cảnh đẹp đầy chất thơ.
Hai câu đầu đăng đối: ‘Mưa rào’ với ‘ánh tà’, ‘lướt’ với ‘chuyển’, ‘chân suối’ với ‘lưng cây’ đều đối nhau, hô ứng nhau. Sau cơn mưa rào, nước suối ào ào chảy mạnh. Câu thơ không hẻ nói đến âm thanh, nhưng qua từ ‘sảo’ (lướt qua), người đọc không chỉ nhìn thấy nước suối chảy rất mạnh mà còn như nghe thấy nước suối chảy ào ào. Nói về ‘động và tĩnh’ trong thơ Đường, Tuỳ Lý Vương đời Nguyễn có viết: ‘Đổ Tử Mỹ sở dắc cái cực độ của động’. Câu thơ tả cảnh nước suối chảy sau trận mưa rào thể hiện ‘cái cực độ của động’ trong thơ Đỗ Phủ vậy. Câu thứ hai tả ánh chiều tà (tà huy). Chiều đã muộn, ở dưới thuyền nhìn lên, nhìn cao và xa. Mặt trời lúc ấy đã gác núi, vì thế mới có cảnh ‘Lưng cây bóng xế lồng’. Câu thơ chữ Hán không có từ ‘lồng’, đó là dịch thoát. Chữ ‘chuyển’ cũng diễn tả ‘cái động’ của ánh ‘tà huy’ – chiều tà – ánh chiều tà đang chuyển dần xuống chiếu vào lưng cây, thân cây. Ngòi bút miêu tả chính xác, một nét vẽ tinh tế, gợi lên màu vàng nhạt, mờ dần, một không gian bao la êm đềm và thoáng buồn man mác.
Đặc biệt là hình ảnh ‘tà huy’ (ánh chiều tà) rất đẹp mà buồn. Kẻ tha hương, tuổi già, ốm đau, cảnh nhà khó khăn, vợ con nheo nhóc, trước cảnh chiểu tà, cảnh hoàng hôn sao không buồn được? Câu thơ cho thấy: tình chìm trong cảnh, mang tính hàm nghĩa. Tả cảnh là để tả tình, ý tại ngôn ngoại là như thế. Câu thơ của Đỗ Phủ gợi nhớ trong lòng ta bao vần thơ tuyệt bút nói về hoàng hôn, về tà huy:
– ‘Tà huy, tà huy hựu tà huy’(Cổ thi)
– ‘Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng’
(‘Truyện Kiểu’ – Nguyễn Du)
– Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn’…
(‘Chiều hôm nhớ nhà’ – Bà Huyện Thanh Quan)
– ‘Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi…’
(‘Tiếng sáo Thiên Thai’ – thế Lữ)
Trở về bài thơ của Đỗ Phủ, hai câu 3, 4 đối nhau. Cảnh vật và màu sắc hòa hợp. Thơ giàu chất hội họa. Cái cao cái thấp, sắc trắng, sắc vàng, cá trên sông và chim trên cây. Màu xanh thẫm của cây nổi lên màu vàng tươi của chim hoàng anh.
Màu nước sông xanh trong, màu rêu xanh nhạt điểm tô bởi sắc trắng của cá. Cảnh vật đẹp đầy sức sống hữu tình. Câu thơ dịch rất hay, chất thơ, hồn thơ, ý thơ, hình thơ đều đạt được cả. Đọc lên nghe rất thích:
‘Oanh vàng gù cách tổ,
Cá trắng nhảy tung rong’
Có lẽ nơi Đỗ Phủ ở có nhiều chim oanh, loại hoàng li, một loại chim nhỏ rất đẹp, hót tuyệt hay. Trong chùm thơ Tuyệt cú (bốn bài) cũng viết tại Thành Đô năm 764, có câu ‘Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu’, và nhà thơ Tản Đà đã dịch: ‘‘Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc’. Sau khi cơn mưa rào đã tạnh, dưới ánh tà huy vàng nhạt, đôi chim hoàng oanh, con trống con mái đứng kề nhau bên tổ (cách sào), đó cũng là một nét vẽ tạo vật, vẽ chim, vẽ thiên nhiên rất hữu tình.
Nói đến ‘cái động’ trong thơ Đường, không thể không nhắc đến câu tả cá này – bạch ngư – cá trắng: ‘Phiên tảo bạch ngư khiêu’. Tung rong cá trắng nhảy. ‘Phiên’ là động từ, đặt ở vị trí đầu câu thơ cuối bài, góp phần đặc sắc tả cái thần của cảnh vật, làm «tôn ‘cái động’ của dòng suối, của cá, dòng sông sau cơn mưa rào. Mỗi lần đọc đến câu thơ này của Đỗ Phủ, tôi cứ miên man nghĩ đến những câu thơ tả cá trong thơ văn Việt Nam. Tả cá sông Đà, thi sĩ Tản Đà có câu: ‘Sóng gợn sông Đà con cá nhảy’. Chắc là con cá Anh Vũ, một loài cá quý hiếm, đặc sản sông nước quê ta? Cũng tả cá Đà giang, nhà văn Nguyễn Tuân viết: ‘Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến…’ (Người lái đò sông Đà). Nói rằng đó là những câu thơ, câuvăn mang ‘hồn Đường’ cũng không phải là thiếu căn cứ?
Bài thơ của Đỗ Phủ làm người đọc liên tưởng đến bài thơ tả cảnh mưa rào trên Tây Hồ của Tô Thức đời Tống. Nguyên tác là thất ngôn tứ tuyệt. Đây là bản dịch của Nam Trân:
‘Mây đen trút mực chưa nhòa núi,
Mưa trắng gieo châu nhảy rộn thuyền.
Trận gió bỗng đâu lôi cuốn sạch,
Dưới cẩu nước gợn sống thanh thiên’
Hai câu đầu tả cơn mưa rào ập đến nhanh và dữ dội. Hai câu sau tả cảnh cơn mưa. Mưa tạnh rất nhanh. Một mái lầu hiện lên tuyệt đẹp trên mặt hồ gợn sóng, dưới bầu trời xanh. Một cái nhìn khoáng đạt, mênh mông. Tứ thơ vân động biến hóa. Cảnh tả từ cao đến thấp, từ xa đến gần. Cũng có mây, mưa, gió, cũng có núi, có thuyền, có bầu trời, con sóng trên mặt hồ và mái lầu. Câu thơ thứ tư tả cảnh trung tâm của bài thơ. Cảm hứng của bài thơ càng về cuối càng vui, chứa chan bao hi vọng.
|
Instruct
Analysis
…. If the title of the poem could be written like this: 'Scene of afternoon shower', or 'Late afternoon, shower' Khuong Huu Dung has translated the poem very well in its original rhythm:
'At the foot of the stream, showers and rain glide,
The back of the tree is shaded by a cage.
The golden hunchback of the group,
White fish jump around.
Reading this poem, we have many thoughts. In 764, Du Fu and his family were living on a small boat on the Xiang River, on the edge of the mountains. Poverty, old age, gray hair, frequent illness. And only six years later, he passed away on that tattered boat. But the poem, all four lines, are all beautiful, especially verses 1 and 4, the scenery is full of life. Sentences 2 and 3 have a hint of sadness. The general feeling when reading the poem, we see it appear, a glimpse of contemplation, it seems that after the shower has stopped, Do Phu stood on the boat's bow, or sat in the boat's cabin admiring the afternoon scenery.
Tang poetry, like ancient poetry, often describes less and evokes more. This poem is written in five languages so it is very concise. Scenes and feelings, language and images seem compressed. Each sentence is a beautiful poetic scene.
The first two sentences are contrasting: 'Rain shower' with 'sunlight', 'surfing' with 'transition', 'foot of stream' with 'back of tree' are all opposite and correspond to each other. After a heavy rain, the stream water rushed and flowed strongly. The poem does not specifically mention sound, but through the word 'sao' (glide), the reader not only sees the stream water flowing very strongly but also hears the stream water rushing. Talking about 'movement and stillness' in Tang poetry, King Tuy Ly of the Nguyen Dynasty wrote: 'Do Tu My possesses the extreme of movement'. The poem describing the scene of flowing stream water after a heavy rain represents 'the extreme of the cave' in Do Phu's poetry. The second sentence describes the sunset light (ta Huy). It was late in the afternoon, looking up from the boat, looking high and far away. The sun was guarding the mountain at that time, so there was the scene 'The shadow of the tree's back'. The Chinese poem does not have the word 'cage', which is an escape translation. The word 'shift' also describes the 'motion' of the 'twilight' light - sunset - the sunset light is gradually moving down to shine on the back of the tree, the tree trunk. The pen describes accurately, with a delicate brushstroke, evoking pale yellow color, fading, a vast, peaceful and slightly sad space.
Especially the image of 'ta Huy' (sunlight) is very beautiful but sad. Expatriates, old age, sickness, difficult home situations, poor wives and children, how can one not be sad in the face of dusk and sunset? The poem shows: love is immersed in the scene, has meaning. Describing scenes is to describe feelings, the meaning in words is like that. Du Phu's poem reminds us of many wonderful poems about sunset and evil:
– ‘Evil Hui, Evil Hui Huu Evil Hui’ (Ancient poem)
– 'Today is sunset, tomorrow will be sunset'
(‘Story Stories’ – Nguyen Du)
– In the afternoon, the sky is filled with sunset shadows…
('Missing home that afternoon' - Mrs. Huyen Thanh Quan)
– ‘The pink clouds stopped after the pass,
My body is dyed by the sun, but the shadow does not go away...'
(‘The Sound of Thien Thai Flute’ – The Lu)
Returning to Du Phu's poem, verses 3 and 4 are opposite each other. Scenery and colors are in harmony. Poetry is rich in painting. Tall, short, white, yellow, fish in the river and birds in the trees. The dark green of the tree stands out against the bright yellow of the oriole.
The color of the river water is clear green, the color of light green moss is highlighted by the white color of fish. Beautiful scenery full of charming life. The translated verse is very good, the poetic quality, poetic soul, poetic meaning, poetic form are all achieved. It's very enjoyable to read:
'Golden and hunchback',
White fish jumping around
Perhaps where Do Phu lived there were many robins, the royal li, a very beautiful little bird that sings beautifully. In the series of poems Tuyet Cu (four poems) also written in Chengdu in 764, there is the sentence 'The two golden fishes are bright and beautiful willows', and the poet Tan Da translated: 'Two golden flowers call the willows blue'. After the shower stopped, under the pale yellow light, a pair of golden birds, male and female, stood next to each other next to the nest (separated from the perch). That was also a very beautiful drawing of creatures, birds, and nature. charming.
When talking about 'the cave' in Tang poetry, we cannot help but mention this sentence describing fish - white fish - white fish: 'The seaweed and white fish dance'. Toss in jumping white fish. 'Phan' is a verb, placed at the beginning of the last verse of the poem, making a unique contribution to describing the spirit of the scene, enhancing the 'cave' of the stream, fish, and river after a shower. Every time I read this verse by Do Phu, I keep thinking of the verses describing fish in Vietnamese poetry. Describing the fish of the Da River, the poet Tan Da has a saying: 'The ripples in the Da River cause the fish to jump'. Probably Anh Vu fish, a rare fish, a specialty of our country's river? Also describing the Da Giang fish, writer Nguyen Tuan wrote: 'The flock of blue beam fish jumped up to the surface of the river, their bellies as white as falling silver. The sound of fish hitting the river water, chasing away the herd of deer, suddenly disappeared...' (Da River ferryman). Is it not unfounded to say that these are poems and sentences carrying the 'soul of Duong'?
Du Phu's poem reminds readers of To Thuc's poem describing the shower scene on West Lake in the Song Dynasty. The original work is seven words and four absolute words. This is Nam Tran's translation:
'The black clouds pouring out ink have not yet erased the mountains,
The white rain sowed pearls and jumped on the boats.
The wind suddenly swept away everything,
Beneath the river, there are ripples of clear blue water.
The first two sentences describe the shower coming quickly and fiercely. The following two sentences describe the rain. The rain stopped very quickly. A rooftop appears beautifully above the ripples of the lake, under the blue sky. A spacious, immense view. The four poems are constantly changing. Scenes are described from high to low, from far to near. There are also clouds, rain, wind, mountains, boats, sky, waves on the lake and rooftops. The fourth verse describes the central scene of the poem. The poem's inspiration becomes happier and full of hope towards the end.
|
Hướng dẫn
… Mùa thu năm 1947, khi chiến dịch Việt Bắc đang diễn ra vô cùng ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài thơ ‘cảnh khuya’ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Cả bài thơ dào dạt ánh sáng và âm thanh để lại trong lòng chúng ta ấn tượng vô cùng sâu sắc:
Cảnh khuya
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bống lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà.
1947
Hồ Chí Minh
Cùng với bài thơ: ‘Cảnh rừng Việt Bắc’ (1946), ‘Đi thuyền trên sông Đáy’ (1949), bài ‘Cảnh khuya’ đã thể hiện tình yêu. nước thiết tha của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ ‘Cảnh khuya’tả cảnh suối rừng chiến khu Việt Bác một đèm thu đẹp và nói lên nỗi thao thức của Bác Hồ kính yêu.
1. Hai câu thơ tả cảnh khuya núi rừng chiến khu Việt Bắc. Tiếng suối chảy êm đềm, nghe rất ‘trong’ rì rầm từ xa vọng đến ‘như tiếng hát xa’. Đêm khuya thanh vắng mới có thể nghe rõ tiếng suối chảy như vậy. Đó là nghệ thuật lấy động để tả tĩnh, lấy tiếng suối đặc tả đêm chiến khu thiêng liêng, thanh vắng. Ví tiếng suối với tiếng hát là một nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm con người:
— ‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa’
Sáu trăm năn về trước, Nguyễn Trãi đã tả suối Côn Sơn:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai’
Đầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến có viết:
‘Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo…’
Đó là những vần thơ tuyệt bút tả suối trong nền thơ ca dân tộc.
Câu thứ 2, Bác Hồ tả trăng chiến khu. Câu thơ có ba nét vẽ: tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa – hoa rừng. Câu thơ đầy ánh sáng trăng rất đẹp. Phải là đêm thanh, trăng tròn mới có ánh sáng chan hòa như vậy:
‘T răng lồng cổ thụ II bóng lồng hoa’
Chữ ‘lồng’ điệp lại hai lần, đã nhân hóa trăng, cổ thụ và hoà, làm cho vần
thơ dào dạt trữ tình, thi vị. Chữ ‘lồng’ trong câu thơ này gợi nhớ đến vần thơ cổ cũng tả trăng, hoà:
‘Hoá giãi nguyệt, nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoà, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa hoà nguyệt trùng trùng…’
(Chinh phụ ngâm)
Hai vế tiểu đối: ‘Trăng lồng cổ thụ II bóng lồng hoà’ tạo nên bức tranh tạo vật cân xứng, hài hòa, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện. Có thể nói 2 câu đầu tả cảnh thiên nhiên rất đẹp đầy chất thơ: cảnh khuya trong sáng, lunh linh huyền ảo, thơ nên họa nên nhạc. Thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc.
2. Hai câu cuối diễn tả tàm tình thi sĩ. Câu 3 gọi là câu chuyển trong bài tứ tuyệt, như cái bản lề, nửa trên là khái quát ‘cảnh khuya như vẽ’ có suối, có trăng, có cổ thụ và hoa ngàn, nửa dưới là tâm trạng ‘chưa ngủ’ của ‘người’, của thi sĩ, của lãnh tụ. Câu 4 nói rõ tâm trạng đó, không chỉ xúc động trước cảnh thiên nhiên đẹp mà còn bởi lẽ ‘Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’. Hai tiếng ‘chưa ngủ’ ở cuối câu 3 được điệp lại đầu câu 4, biện pháp nghệ thuật liên hoàn ấy đã làm cho âm điệu vần thơ nhịp nhàng, triền miên như dòng suối chảy của cảm xúc, của tàm tình. Tinh yêu nước của Bác rất sâu sắc, mãnh liệt:
‘Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’
|
Instruct
… In the fall of 1947, when the Viet Bac campaign was taking place extremely fiercely, President Ho Chi Minh wrote the poem 'night scene' expressing strong patriotic inspiration in the seven-word, four-literate Tang luat poem form. The whole poem is filled with light and sound, leaving a very deep impression on us:
Late night scene
The sound of a stream is as clear as a distant song,
The moon cages ancient trees, the bamboo cages flowers.
The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet.
Haven't slept because I'm worried about my country.
1947
Ho Chi Minh
Along with the poems: 'Viet Bac Forest Scene' (1946), 'Boat on the Day River' (1949), the song 'Night Night Scene' expressed love. The passionate country of leader Ho Chi Minh. The poem 'Night Night Scene' describes the scene of a stream and forest in the Viet Bac war zone, a beautiful autumn night and speaks of the restlessness of our beloved Uncle Ho.
1. Two verses describe the late night scene of the mountains and forests of the Viet Bac war zone. The sound of the stream flowing gently, heard very 'clearly', murmuring from far away, 'like distant singing'. Late at night, it's so quiet that you can hear the sound of the flowing stream clearly. It is the art of using movement to describe stillness, using the sound of a stream to describe a sacred, deserted war zone at night. Comparing the sound of a stream to the sound of singing is a delicate drawing that depicts the mountains and forests of the war zone in times of blood and fire, bringing vitality and human warmth:
— ‘The sound of the stream is as clear as singing in the distance’
Six hundred years ago, Nguyen Trai described Con Son stream:
'Con Son stream murmurs,
I hear it like the sound of a harp in my ears.
In the early 20th century, Nguyen Khuyen wrote:
'There are also times when we play in foreign places,
The sound of the stream gurgling behind the pass...'
These are wonderful poems describing streams in national poetry.
In the second sentence, Uncle Ho describes the war zone. The poem has three strokes: the upper level is the moon, the middle level is ancient trees, the lower level is flowers - forest flowers. The poem is full of beautiful moonlight. It must be a clear night and a full moon to have such a bright light:
‘The tooth of the ancient tree II the shadow of the flower cage’
The word 'dong' repeats twice, personifying the moon, ancient tree and harmony, creating a rhyme
The poetry is lyrical and poetic. The word 'cage' in this verse is reminiscent of an ancient poem that also describes the moon and harmony:
'The moon transforms into a moon, the moon prints a peaceful moon, the flowers bloom one by one.
The moon flower blends with the moon...'
(Conqueror soaking)
The two small contrasts: 'Ancient tree's moon cage II harmonious cage shadow' create a symmetrical and harmonious picture of creation, with formal and skillful poetic language. It can be said that the first two sentences describe a very beautiful and poetic natural scene: the night scene is clear and magical, the poetry creates music. The poet with a noble soul is living magical moments amid the night scene of the Viet Bac war zone.
2. The last two sentences describe the poet's feelings. Sentence 3 is called the transition sentence in the quatrain, like a hinge, the top half is an overview of the 'painted late night scene' with streams, moon, ancient trees and thousands of flowers, the bottom half is the 'not sleeping' mood of the poem. 'people', of poets, of leaders. Verse 4 clearly states that mood, not only moved by the beautiful natural scenery but also because 'I haven't slept because I'm worried about my country'. The two words 'not sleeping' at the end of verse 3 are repeated at the beginning of verse 4. That continuous artistic method makes the rhythm of the poem rhythmic and continuous like a flowing stream of emotions and feelings. Uncle Ho's patriotism was very deep and intense:
'The late night scene is like a painting of a person who hasn't slept yet. He hasn't slept because he's worried about his country'
|
Hướng dẫn
… Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 là một chiến công lớn của quân và dân ta:
‘Trận chợ Đồn, chợ Rã Ta đánh giặc chạy re…
Rồi Bông Lau, Ỷ La Ba trăm thằng tan xác…
Tàu giặc đắm sông Lô Tha hồ mà uống nước.
Máu tanh đến bây giờ Chưa tan mùi bữa trước…’
(‘Cá nước’ – Tố Hữu)
Khi chiến dịch Việt Bắc đang diễn ra ác liệt, Bác Hồ đã viết bài thơ ‘Cảnh khuya’ theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’.
Bài thơ tả cảnh khuya chiến khu Việt Bắc và thể hiện tâm trạng của Bác.
Cảnh khuya Việt Bắc rất đẹp. Có suối và trăng. Có hoa và cổ thụ:
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa’ –
Thơ của Bác vừa có âm thanh, đường nét, màu sắc. Tiếng suối chảy rì rầm trong rừng khuya rất ‘trong’ được ví với ‘tiếng hát xa’. Cách so sánh ấy rất hay: lấy thiên nhiên so sánh với tiếng hát của con người đã làm nổi bật ý nghĩa cảnh. rừng chiến khu Việt Bắc mang hơi ấm và sức sống của quân dân kháng chiến. Nghệ thuật lấy động để tả tĩnh rất đặc sắc; tiếng’ suối trong nghe êm đềm gợi lên sự thanh vắng của rừng khuya.
Câu thơ thứ hai đã nhân hóa cảnh vật. Trăng, hoa, cổ thụ đang chan hòa, đang ‘lồng’ vào nhau. Trên bầu trời cao là vầng trăng thu. Ánh trăng ‘lồng’ vào cổ thụ; bóng cổ thụ ‘lồng’ vào hoa; những bông hoa rừng: ‘Phê văn hoa núi ghé nghiên soi’. Tạo vật hiện lên từng mảng sáng, mờ, lung linh huyền ảo, nên thơ. Bức tranh thiên nhiên cảnh khuya mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển. Nó gợi nhớ trong lòng ta những vần cổ thi về suối, về hoa, về trăng:
‘Côn sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai’:..
(‘Côn Sơn ca’)
‘Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông’…
(‘Chinh phụ ngâm’)
Hai câu cuối bài thơ nói lên tâm trạng của Bác.
Cảnh khuya rất đẹp, Bác lặng ngắm rồi khẽ thốt lên: “Cảnh khuya như vẽ’. Ba chữ ‘người chưa ngủ’ thể hiện niềm thao thức, nỗi xúc động của nhà thơ: yêu thiên nhiên, yêu non nước hữu tình. Câu cuối bài thơ, cánh cửa tâm hồn của Bác như được mở rộng. Bác không chỉ thao thức vì xúc động trước vẻ đẹp cảnh khuya núi rừng chiến khu Việt Bắc mà còn vì một lí do sâu xa hơn nữa:
‘Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’
Bác thao thức, lo lắng vì công cuộc kháng chiến của quân và dân ta, vì độc lập tự do của Tổ quốc. Lúc bấy giờ, cuộc kháng chiếnchống Pháp đang diễn ra ác liệt khó khăn. Câu cuối bài thơ diễn tả tình yêu nước sâu nặng, thiết tha của Bác. Hai chữ ‘chưa ngủ’ được điệp lại hai lần đã làm cho thơ liền mạch, tô đậm tâm trạng thao thức, ‘lo nỗi nước nhà’ của lãnh tụ kính yêu.
Bài thơ ‘Đi thuyền trên sông Đáy’, Bác cũng nói lên tâm trạng ấy, tình ‘ưu ái ây:
‘Lòng riêng riêng những bàn hoàn,
|
Instruct
… The Viet Bac campaign in the fall and winter of 1947 was a great victory of our army and people:
'Battle of Don Market and Ra Ta Market to fight the enemy and run away...
Then Bong Lau, Y La, three hundred people were destroyed...
The enemy ship sank in the Lo River. Feel free to drink water.
Until now, the smell of blood has not gone away...'
(‘Water fish’ – To Huu)
When the Viet Bac campaign was fiercely going on, Uncle Ho wrote the poem 'Night Scene' in the Tang Luat seven-word verse form:
'The sound of the stream is as clear as a distant song,
The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages.
The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet.
Not sleep, worrying that country'.
The poem describes the late night scene of the Viet Bac war zone and shows Uncle Ho's mood.
The late night scene of Viet Bac is very beautiful. There are streams and moon. There are flowers and ancient trees:
'The sound of the stream is as clear as a distant song,
The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages' -
Uncle Ho's poetry has sounds, lines, and colors. The sound of a stream flowing in the forest late at night is so 'clear' that it is compared to 'distant singing'. That comparison is very good: comparing nature with human singing highlights the scene's meaning. The Viet Bac war zone forest carries the warmth and vitality of the resistance soldiers and people. The art of using movement to describe static is very unique; The gentle sound of the stream evokes the serenity of the late night forest.
The second verse humanizes the scene. The moon, flowers, and ancient trees are blending and 'intertwining' with each other. High in the sky is the autumn moon. The moonlight 'cages' into the ancient tree; The shadow of an ancient tree 'nested' into the flower; Forest flowers: 'A review of mountain flower literature'. Creatures appear in bright, dim, shimmering, magical and poetic patches. Natural painting of a late night scene with classic color beauty. It reminds us of ancient poems about streams, flowers, and the moon:
'Con Son stream murmurs,
I hear it like the sound of a harp in my ears':..
(‘Con Son Ca’)
'Flowers and moons, moons printed on one sheet,
The moon cages flowers, each flower blooms...
(‘Conquering Father's Soak’)
The last two lines of the poem express Uncle Ho's mood.
The late night scene was very beautiful. Uncle Ho silently admired it and then softly exclaimed: "The late night scene is like a painting." The three words 'the one who hasn't slept yet' express the poet's restlessness and emotion: love for nature, love for the charming country. In the last sentence of the poem, the door to Uncle Ho's soul seems to be opened wide. Not only did he stay awake because he was moved by the beauty of the late night mountains and forests of the Viet Bac war zone, but also for an even deeper reason:
'Not sleep, worrying that country'
He was restless, worried about the resistance of our army and people, for the independence and freedom of the Fatherland. At that time, the resistance war against the French was going on fiercely and with difficulty. The last line of the poem describes Uncle Ho's deep and passionate love for the country. The two words 'not sleeping' repeated twice make the poem seamless, highlighting the beloved leader's restless mood, 'worried about his country'.
In the poem 'Sailing on the Day River', Uncle Ho also expressed that mood, this 'fondness':
'My heart is separate from all my thoughts,
|
Hướng dẫn
I. Mở bài:
Cảnh khuya
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoà.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’
Bài thơ miêu tả cảnh khuya núi rừng một đêm trăng, nói lên những suy tư lo lắng của Bác Hồ đối với vận mệnh của dân tộc.
II. Thân bài:
1.Hai câu đầu làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh sơn thủy về cảnh suối rừng, trăng ngàn Việt Bắc. Nhà thơ thao thức lắng nghe tiếng suối chảy rì rầm, êm nhẹ và trong trẻo từ rừng sâu vong đến:
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa’
Suối là vẻ đẹp chốn lâm tuyền, vẻ đẹp rừng già Việt Bắc. Bác lấy tiếng suối so sánh với tiếng hát, là khúc nhạc rừng ví với tiếng hát xa, êm ái ngọt ngào của con người, làm cho cảnh khuya chiến khu trở nên gần gũi, mang hơi ấm cuộc đời. Câu thơ làm ta liên tưởng đến tiếng suối trong bài ‘Côn Sơn ca* của ức Trai hơn 600 năm về trước:
‘Côn Sơn suôi chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai…’
Hai hồn thơ trở nên gần gũi, thân thiết. Nguyễn Trãi đã về Côn Sơn ‘quê cũ’ để xa lánh bụi trần, danh lợi, lấy suối, đá, thông, trúc làm bầu bạn. Bác Hồ cũng đến chốn lâm tuyền Việt Bắc, xây dựng chiến khu đánh Pháp. Suối trở thành bài ca câu hát nâng*đỡ tâm hồn Bác trong những năm dài kháng chiến gian khổ.
Tạ suối, ngòi bút nghệ thuật của Bác Hồ rất điêu luyện: lấy cái động (tiếng suối chảy) để miêu tả cái tĩnh (cảnh khuya) làm nổi bật sự thanh vắng, tĩnh lặng của chiến khu một đêm trăng. Càng về khuya, núi rừng như chìm trong vắng lặng mênh mông. Bác ‘chưa ngủ’ nên mới nghe rõ âm thanh rì rầm suối chảy.
Câu thứ hai tả trăng ngàn:
‘Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa’
Hai vế tiểu đối gợi lên vẻ đẹp hài hòa của cảnh vật thiên nhiên. Trăng được nhân hóa, rất thơ mộng ‘lồng’ vào cổ thụ, bóng cổ thụ lại ‘lồng’ vào hoa. Cảnh thiên nhiên trở nên hữu tình, huyền ảo. Chữ ‘lồng’ được láy lại hai lần, chất thơ trữ tình mang hồn người, quyến rũ. Ánh trăng tãi khắp núi rừng, dát vàng xuống rừng cây, ‘lồng’ và trùm lên cổ thụ. Cảnh rừng có tầng cao, tầng thấp, có mảnh sáng mảnh mờ. Nét vẽ tinh tế, gam màu nhẹ và tươi mát, sự phối sắc tài tình, mĩ cảm, hấp dẫn. Câu thơ của Bác là sự kế thừa sáng tạo vần thơ cổ, ngòi bút của Bác Hồ rất sành điệu, cổ kính:
‘… Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng…’
(Chinh phụ ngâm)
Hai câu thơ Bác đầy âm thanh nhạc điệu, trong thơ vừa có nhạc vừa có họa, rất thi vị, gợi cảm. Bác đã dành cho thiên nhiên, cây rừng, trăng ngàn những tình cảm thiết tha, nồng hậu.
2. Hai câu thơ 3, 4 trong bài thơ tứ tuyệt được thi pháp cổ gọi là hai câu ‘chuyển’ và câu ‘hợp’. Cấu trúc bài thơ rất đặc biệt. Hai chữ ‘chưa ngủ’ nằm cuối câu ‘chuyển’ được đưa lên vị trí đầu câu ‘hợp’, cảnh được ‘khép’ lại, tình được ‘mở’ ra. Nghệ thuật liên hoàn hay gọi là ‘ô thước kiều’ (quạ bắc cầu) làm cho thơ liền mạch, ý thơ phát triển mở rộng:
‘Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’
Chưa ngủ vì thi nhân xúc động trước cảnh khuya ‘như vẽ’. Chưa ngủ thao thức, bổi hồi vì ‘lo nổi nước nhà’. Nước nhà đang bị giặc Pháp xâm lăng, con thuyền kháng chiến đang băng qua ghềnh thác thì vị ‘thuyền trưởng’ chưa thể ngủ ngon giấc được!
Nguyên Trãi đã từng thao thức vì đại nghĩa:
‘Còn một tấc lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung’
(Quốc âm thi tập)
Bác Hồ cũng thao thức ‘chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’ Cùng mang trong tâm hồn một tình yêu lớn đối với đất nước và nhân dân, thơ của Bác chứa chan tình yêu nước ‘ôm cả non sông, mọi kiếp người’ (Tố Hữu). Trong bài ‘Đi thuyền trên sông Đáy’, Bác cũng viết:
‘Lòng riêng riêng những bàn hoàn,
Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng’
Tinh cảm đẹp đẽ ấy là điểu tâm niệm thường trực của Bác: ‘Một ngày mà Tổ quốc chưa được thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên’.Có thể nói, câu thơ ‘Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’bình dị, sáng tỏ như một chân lí, để lại ấn tượng sâu sắc vì nó ‘mênh mông bát ngát tình’.
|
Instruct
I. Introduction:
Late night scene
'The sound of the stream is as clear as a distant song,
The moon cages ancient trees, the shadows of cages are harmonious.
The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet.
Haven't slept because I'm worried about my country'
The poem describes a scene of late mountains and forests on a moonlit night, expressing Uncle Ho's worried thoughts about the fate of the nation.
II. Body of the article:
1.The first two sentences present before the reader's eyes a landscape of streams, forests, and thousands of moons in Viet Bac. The poet lay awake listening to the murmuring sound of the stream flowing softly and clearly from the deep forest:
'The sound of the stream is as clear as singing in the distance'
The stream is the beauty of the forest, the beauty of the Viet Bac jungle. He compared the sound of a stream to the sound of singing, a piece of forest music compared to the distant, soft and sweet singing of people, making the late night scene of the war zone become close, bringing the warmth of life. The poem reminds us of the sound of a stream in the song 'Con Son ca* by Duc Trai more than 600 years ago:
'Con Son stream flows murmuringly,
I hear the sound of a harp in my ears...'
The two poetic souls became close and intimate. Nguyen Trai returned to his 'old hometown' Con Son to stay away from worldly dust, fame and fortune, using streams, rocks, pine trees, and bamboo as friends. Uncle Ho also went to Viet Bac forest to build a war zone to fight the French. The stream became a song that lifted up Uncle Ho's soul during the long years of arduous resistance.
Ta Suoi, Uncle Ho's artistic pen is very skillful: using the dynamic (the sound of a flowing stream) to describe the stillness (the late night scene), highlighting the serenity and stillness of a war zone on a moonlit night. As it gets late, the mountains and forests seem to be immersed in immense silence. Uncle 'hadn't slept' yet so he could clearly hear the murmuring sound of the flowing stream.
The second sentence describes the thousand moon:
'Moon of ancient tree cage, shadow of flower cage'
The two parallel clauses evoke the harmonious beauty of the natural landscape. The moon is personified, very poetically 'caged' into the ancient tree, the shadow of the ancient tree 'caged' into the flower. The natural scene becomes charming and magical. The word 'cage' is repeated twice, the lyrical poetry is soulful and captivating. Moonlight spread across the mountains and forests, gilding the trees, 'cages' and covering the ancient trees. The forest scene has high and low levels, with bright and dim pieces. Exquisite drawings, light and fresh color scheme, skillful color combination, beautiful and attractive. Uncle Ho's verse is a creative inheritance of ancient poetry, Uncle Ho's pen is very stylish and ancient:
‘… Flowers and moons, moons printed on one sheet,
Moon cages flowers, each flower blooms.
Moon flowers, moon flowers, moon flowers...'
(Conqueror soaking)
The two verses of Uncle Ho's poems are full of musical sounds, there is both music and painting in the poems, very poetic and sensual. Uncle Ho had passionate and warm feelings for nature, the trees, the forest, and the moon.
2. The two verses 3 and 4 in the quatrain are called in ancient poetics the two verses 'move' and the verse 'match'. The structure of the poem is very special. The two words 'not sleeping' at the end of the sentence 'move' are brought to the beginning of the sentence 'match', the scene is 'closed', the love is 'opened'. The art of continuity or called 'o thuoc kieu' (bridging crow) makes poetry seamless and the poetic ideas develop and expand:
'The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet,
Haven't slept because I'm worried about my country'
Haven't slept yet because the poet was moved by the 'picture-like' late night scene. Haven't slept yet, restless because 'I can't worry about my country'. The country is being invaded by the French enemy, the resistance boat is passing through the rapids and the 'captain' cannot sleep well!
Nguyen Trai used to stay awake for a great cause:
'There's still an inch of concern for state affairs,
Every night, I stay awake until the end of the road'
(National audio test episode)
Uncle Ho also stayed awake 'not sleeping because he was worried about his country'. Carrying in his soul a great love for the country and its people, Uncle Ho's poems were filled with patriotism 'embracing both mountains and rivers, all human lives' ( To Huu). In the article 'Sailing on the Day River', Uncle Ho also wrote:
'My heart is separate from all my thoughts,
Wondering how to restore Tien Rong river?
That beautiful sentiment is Uncle Ho's constant thought: 'A day when the Fatherland has not been unified and my people still suffer is a day when I cannot eat well or sleep well'. It can be said that the poem ' Haven't slept because I'm worried about my country's simplicity, clear as a truth, leaving a deep impression because it's 'immense and endless with love'.
|
Hướng dẫn
‘Cảnh khuya’và ‘Nguyên tiêu’ là hai bài thơ kiệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Cả hai bài đều viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nhưng ngôn từ khác nhau. ‘Cảnh khuya’ viết bằng tiếng Việt; ‘Nguyên tiêu’ viết bằng chữ Hán.
Không gian nghệ thuật của hai bài thơ là thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, nhưng thời điểm sáng tác, thời gian nghệ thuật lại khác nhau. ‘Cảnh khuya’ viết vào mùa thu 1947, khi giặc Pháp đang tấn công lên Việt Bắc. Còn ‘Nguyên tiêu’ được viết vào đầu xuân 1948, khi chiến dịch Việt Bắc đã chiến thắng vang dội.
Cả hai bài đều nói đến trăng; cảnh trăng trong mỗi bài thơ lại có những nét đẹp riêng, sắc thái biểu cảm riêng.
Cảnh trăng trong bài ‘Cảnh khuya’ là cảnh trăng thu. Có suối chảy rì rầm trong rừng khuya từ xa vọng đến nghe rất ‘trong’, ‘như tiếng hát xa’ êm đềm, ngọt ngào. Trăng sáng lung linh. Ánh trâng ‘lồng’ vào cổ thụ và hoa ngàn. Cảnh trăng thơ mộng, huyền diệu mang vẻ đẹp cổ điển, rất hữu tình thi vị:
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa’
Trăng đã làm đẹp thêm cảnh sắc núi rừng chiến khu, đem đến bao xúc động, khiến nhà thơ khẽ thốt lên trong lòng: ‘Cảnh khuya như vẽ…’.
Cảnh trăng trong bài ‘Nguyên tiêu’ là cảnh trăng xuân, trăng trong đêm rằm tháng giêng, trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Vũ Bằng trong ‘Thương nhớ mười hai’ đã nói về trăng tháng giêng ở miền Bắc: ‘Trời sáng lung linh như ngọc’, ‘cái trăng tháng giêng, non như người con gái mơn mởn đào tơ ‘, ‘ánh trăng ấy không
vàng mà trắng như sữa, trong như nước ôn tuyền’.
Trăng trong bài thơ của Bác làm cho sông xuân, nước xuân, trời xuân trở nên bát ngát bao la, vừa đẹp vừa dạt dào sức sống. Ba chữ ‘xuân’ trong câu thơ thứ 2 làm cho cảnh trăng đất nước trở nên tráng lệ, tinh khôi:
‘Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên’.
Câu thơ thứ 4, vầng trăng rằm tháng giêng lại được nói đến. Con thuyền của lãnh tụ để ‘bàn bạc việc quân’ giữa nơi khói sóng đã trở thành con thuyền của thi nhân lúc trở về bến lúc nửa đêm. Con thuyền đã chở đầy ánh trăng:
|
Instruct
'Night Scene' and 'Nguyen Tieu' are two masterpiece poems by poet Ho Chi Minh. Both articles are written in the seven-word, four-literate Tang luat style, but the language is different. ‘Late Night Scene’ written in Vietnamese; ‘Nguyen Tieu’ is written in Chinese characters.
The artistic space of the two poems is the natural mountains and forests of Viet Bac, but the time of composition and artistic time are different. 'Night Scene' was written in the fall of 1947, when the French enemy was attacking Viet Bac. As for 'Nguyen Tieu', it was written in the early spring of 1948, when the Viet Bac campaign was a resounding victory.
Both songs refer to the moon; The moonscape in each poem has its own beauty and expressive nuances.
The moon scene in the song 'Night Night Scene' is the autumn moon scene. There is a murmuring stream in the forest at night, coming from afar and sounding very 'clear', 'like distant singing', soft and sweet. The moon shines brightly. The sunlight 'cages' into ancient trees and thousands of flowers. The poetic and magical moonscape has a classic beauty and is very poetic and charming:
'The sound of the stream is as clear as a distant song,
Moon, ancient tree cage, shadow of flower cage'
The moon beautified the landscape of the mountains and forests of the war zone, bringing many emotions, making the poet softly exclaim in his heart: 'The late night scene is like a painting...'.
The moon scene in the song 'Nguyen Tieu' is the spring moon scene, the moon on the full moon night of the first month, the moon that has just become full (the main moon). Vu Bang in 'Longing for Twelve' talked about the January moon in the North: 'The sky is sparkling like jade', 'the moon of January is as young as a young girl blooming with silk', 'that moonlight does not
yellow but white as milk, clear as warm water'.
The moon in Uncle Ho's poem makes the spring river, spring water, and spring sky become immense, both beautiful and full of vitality. The three words 'spring' in the second verse make the country's moonscape become magnificent and pristine:
'Kim night Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien,
Spring river, spring water, next spring heaven'.
In the fourth verse, the full moon of January is mentioned again. The leader's boat to 'discuss military matters' in the midst of the smoke and waves became the poet's boat when returning to the dock at midnight. The boat was filled with moonlight:
|
Hướng dẫn
I. Mở bài:
Ngoài tập ‘Nhật kí trong tù’, chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại nhiều bài thơ chữ Hán và thơ tiếng Việt. Thơ của Bác phong phú đẹp đẽ chứa chan tình yêu nước thương dân. Bác cũng có viết một số bài thơ cảm hứng trữ tình nói về tình yêu thiên nhiên. Những vần thơ trăng của Bác đẹp lắm. Nhà văn Hoài Thanh nhận xét:
‘Thơ Bác đầy trăng’.
I. Thân bài:
1. Phân tích và chứng minh:
‘Thơ Bác đầy trăng’ – ‘thơ trong tù’,thơ chiến khu… có nhiều bài, nhiều câu thơ nói về trăng xinh đẹp và trữ tình.
a. Trước hết nói về thơ trăng trong ‘Nhật kí trong tù’. ‘Ngắm trăng’ là bài thơ tuyệt tác. Trong ngục tối, nhà thơ không có rượu, có hoa để thưởng trăng. Trăng như một người bạn thân từ phương trời xa, vượt qua song sắt nhà tù đến thăm Bác. Trăng dược nhân hóa tuyệt đẹp: có ánh mắt và tâm hồn. Vượt lên mọi cơ cực cảnh tù đày, Bác say sưa ngắm vầng trăng. Trăng với Bác lạng lẽ nhìn nhau, cảm động. Bài thơ ghi lại một tư thế ngắm trăng hiếm thấy: một tâm hồn tha thiết yêu thiên nhiên, tạo vật, một phong thái ung dung tự tại của nhà thơ – chiến sĩ. Trăng hữu tình nên thơ. Trăng với người tù cảm thông chan hòa trong mối tình tri kỉ:
‘Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ’.
‘Ngắm trăng’đã phản ánh tinh thần lạc quan và khát vọng sống hướng về ánh sáng, tự do của Bác trong cảnh tù đày.
b. Tiếp theo, ta nói đến thơ trăng chiến khu của Bác. Có gì đẹp hơn gió núi, trăng ngàn? ‘Rằm tháng giêng’ là một bài thơ trăng kì diêu. Hai câu đầu là cảnh trăng xuân sông nước… Một màu xanh bao la bát ngát: Sông xuân, nước xuân, trời xuân lung linh dưới vầng trăng đêm nguyên tiêu. Ba chữ ‘xuân’ trong nguyên tác là một gam màu nhẹ, sáng và tươi mát:
‘Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân’
Hai câu thơ cuối ghi lại công việc của Bác trong đêm rằm tháng giêng: giữa nơi khói sóng của dòng sông, Bác ‘hàn bạc việc quân’ để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nửa đêm, con thuyền chở đầy ánh trăng vàng quay về bến:
‘Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya vê bát ngát trăng ngán đầy thuyền’
Con thuyền của lãnh tụ trở thành con thuyền của thi nhân chở’đầy ánh trăng vàng. Sự xuất hiện của vầng trăng cho ta thấy một hồn thơ tuyệt đẹp:
Trong khói lửa chiến tranh ác liệt, căng thẳng, bận rộn ‘việc quân, việc nước’, nhưng Bác vẫn ung dung, lạc quan yêu đời. ‘Nguyệt mãn thuyền’ (trăng đầy thuyền) là một hình tượng thơ cổ kính, mĩ lệ rất độc đáo.
c. Có vầng trăng ‘bơi theo’ con thuyền của lãnh tụ trên dòng sông Đáy mênh mang giữa núi rừng chiến khu Việt Bắc: ‘Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo’ (Đi thuyền trên sông Đáy). Có vầng trăng đến ‘đòi thơ’ như bạn tri âm, cùng 164
Bác chia vui tin thắng trận. Trăng xuất hiện thì chuông lầu đêm thu reo lên, tin vui thắng trận dồn dập báo về… Cái đẹp gắn liền với niềm vui. Trong cảnh tù đày, trăng đã đến với Bác thì trong máu lửa chiến tranh, trong niềm vui thắng trận, trăng cũng không thể nào vắng bóng:
‘Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ây tin thắng trận Liên khu báo về’
(‘Tin thắng trận’ – 1948)
Có vầng trăng thu dát vàng núi rừng đêm khuya, cổ thụ, ngàn hoa hiện lên dưới vầng trăng làm cho cảnh khuya đẹp như vẽ. Thi nhân thao thức ngắm vầng trăng, • nghe tiếng suối chảy ‘trong như tiếng hát xa’, lòng bồi hồi, xúc động:
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’
(‘Cảnh khuya’ -1947)
d.Thiếu nhi, lớp măng non của dân tộc không thể nào quên vầng trăng thu thuở ấy… Bác yêu thương các cháu cho nên khi ngắm trăng Trung thu, Bác lại nhớ các cháu gần xa.’Tấm lòng của Bác như vầng trăng thu ngời sáng:
‘Trung thu trăng sáng như gương,
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng’
e. Có vầng trăng ước hẹn một ngày mai chiến thắng. Nước nhà độc lập, thanh bình, Bác thanh thản trở về cuộc sống bình dị, chan hòa với thiên nhiên:
‘Kháng chiến thành công ta trỏ lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này’
(Cảnh rừng Việt Bắc)
Kể sao hết vầng trăng trong thơ Bác Hồ, bởi lẽ ‘Thơ Bác đẩy trăng’.
2. Phát biểu cảm nghĩ của em về trăng trong thơ của Bác Hồ:
Thơ Bác đầy trăng, trăng tròn, trăng sáng, trăng trên mọi nẻo đường Bác đã đi qua. Có vầng trăng trong cảnh tù đày. Có vầng trăng kháng chiến. Có vầng trăng thanh bình. Bác nói nhiều về trăng thu. Bác yêu thiên nhiên, sống lạc quan yêu đời cho nên tâm hồn Bác lúc nào cũng hướng về ánh sáng, về cái đẹp. Tràng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng, là bạn tri âm của tao nhân mặc khách. Bác là một nhà thơ yêu trăng.
Ca dao, dân ca, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… có nhiều • bài tuyệt tác nói về trăng. Thơ Đường, nổi bật nhất là thơ Lí Bạch dào dạt ánh trăng.
Bác Hồ đã kế thừa tinh hoa thơ ca cổ để viết nên những bài thơ trăng kiệt tác.
Trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên, của non xanh nước biếc.
Bác yêu trang, viết nhiều thơ về trăng vì Bác giàu lòng yêu thương con người.
Trăng trong thơ Bác chiếu sáng một tấm lòng hồn hậu đối với thiên nhiên tạo vật, đối với nhân dân và đất nước quê hương thiết tha, gắp bó.
Trăng đã góp phần làm cho thơ Bác thêm đặc sắc. Thơ Bác vừa thực vừa mộng, vừa mang màu sắc cổ điển vừa mới mẻ hiện đại, đậm đà thi vị. Trăng đã tạo nên gương mặt, bản sắc và tính thẩm mĩ trong thơ Bác.
III. Kết luận:
|
Instruct
I. Introduction:
In addition to the collection 'Prison Diary', President Ho Chi Minh also left behind many poems in Chinese and Vietnamese. Uncle Ho's poetry is rich and beautiful, filled with love for the country and its people. He also wrote a number of lyrical inspirational poems about love for nature. Uncle Ho's moon poems are very beautiful. Writer Hoai Thanh commented:
'Uncle's poetry is full of moonlight'.
I. Body of the article:
1. Analyze and prove:
'Uncle's poems are full of moon' - 'poems in prison', war zone poems... there are many poems and verses about the beautiful and lyrical moon.
a. First, let's talk about moon poetry in 'Prison Diary'. 'Watching the Moon' is a masterpiece poem. In the dungeon, the poet had no wine and flowers to enjoy the moon. The moon is like a close friend from afar, crossing prison bars to visit Uncle Ho. The medicinal moon is beautifully personified: it has eyes and a soul. Overcoming all the hardships of imprisonment, Uncle passionately looked at the moon. Moon and Uncle looked at each other quietly, moved. The poem captures a rare moon-watching posture: a soul that passionately loves nature and creation, and a leisurely and carefree demeanor of the poet-soldier. The moon is charming and poetic. The moon and the prisoner sympathize harmoniously in a soul-mate love:
'People look at the moon shining outside the window,
Moon peeked poet watching the door'.
'Watching the moon' reflects Uncle Ho's optimistic spirit and desire to live towards light and freedom in prison.
b. Next, we talk about Uncle Ho's war zone poetry. What's more beautiful than the mountain breeze and the moon? 'The Full Moon of January' is a magical moon poem. The first two sentences are the scene of the spring moon and rivers... A vast blue color: Spring river, spring water, spring sky shimmering under the full moon of the night. The three words 'spring' in the original work are a light, bright and fresh color scheme:
'The full moon of spring is full of moonlight,
Spring river, water and sky color add spring'
The last two verses record Uncle Ho's work on the full moon night of the first lunar month: amidst the smoke and waves of the river, Uncle Ho "soldered and soldered the troops" to lead the resistance. At midnight, the boat filled with golden moonlight returned to the dock:
'In the midst of discussing military affairs,
Late at night, the moon fills the boat
The leader's boat becomes a poet's boat filled with golden moonlight. The appearance of the moon shows us a beautiful poetic soul:
In the midst of fierce war, tension, and busy 'military and country affairs', Uncle Ho was still leisurely, optimistic, and loving life. 'Moon full boat' (full moon boat) is an ancient, beautiful and unique poetic image.
c. There is the moon 'swimming along' the leader's boat on the vast Day River amidst the mountains and forests of the Viet Bac war zone: 'Why send the boat running, the boat waits for the moon to follow' (Sail on the Day River). There is a moon that comes 'asking for poetry' like a soulmate, together with 164
Uncle shared the good news of victory. When the moon appears, the bell rings in the autumn night, the good news of victory is constantly reported... Beauty is associated with joy. In prison, the moon came to Uncle Ho, so in the blood and fire of war, in the joy of victory, the moon could not be absent:
'The moon comes into the window asking for poetry,
The army is busy, please wait until the next day.
The bell suddenly woke up in autumn,
The news of the victory of the inter-regional battle is reported.'
(‘News of victory’ – 1948)
There is an autumn moon gilding the mountains and forests late at night. Ancient trees and thousands of flowers appear under the moon, making the late night scene as beautiful as a painting. The poet lay awake watching the moon, • listening to the sound of a flowing stream 'as clear as a distant song', his heart was filled with excitement and emotion:
'The sound of the stream is as clear as a distant song,
The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages.
The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet.
Not sleep, worrying that country'
(‘Late Scene’ -1947)
d. Children and young bamboo shoots of the nation cannot forget the autumn moon of that time... I love you so when I look at the Mid-Autumn Moon, I miss you near and far.'My heart is like the moon. shine bright:
'The mid-autumn moon is as bright as a mirror,
Uncle Ho looked at the scenery and missed the children'
e. There is a moon that promises victory tomorrow. An independent and peaceful country, Uncle Ho peacefully returned to a simple life in harmony with nature:
'If the resistance is successful, I will return,
The old moon, the old crane and this spring'
(Viet Bac forest scene)
Tell me why there is no moon in Uncle Ho's poetry, because 'Uncle's poetry pushes the moon'.
2. Express your feelings about the moon in Uncle Ho's poetry:
Uncle Ho's poetry is full of moonlight, full moon, bright moon, moonlight on every path he has traveled. There is a moon in prison. There is a moon of resistance. There is a peaceful moon. Uncle talked a lot about the autumn moon. He loved nature, lived optimistically and loved life, so his soul always turned towards light and beauty. Trang is a symbol of eternal beauty, a soulmate of the people. Uncle is a poet who loves the moon.
Folk songs, folk songs, poems of Nguyen Trai, Nguyen Du, Nguyen Khuyen... have many • masterpieces about the moon. Tang poetry, most notably Ly Bach's poetry filled with moonlight.
Uncle Ho inherited the quintessence of ancient poetry to write masterpiece poems.
The moon is a symbol of the beauty of nature, of the green mountains and blue waters.
He loved the page and wrote many poems about the moon because he loved people.
The moon in Uncle Ho's poetry illuminates a kind heart towards nature and creation, towards the people and the homeland, a passionate and passionate heart.
The moon contributed to making Uncle Ho's poetry more unique. Uncle Ho's poetry is both real and dreamy, both classic and modern, rich in poetry. The moon created the face, identity and aesthetics in Uncle Ho's poetry.
III. Conclude:
|
Hướng dẫn
Đi thuyền trên sông Đáy
Hổ Chí Minh
Dòng sông lặng ngắt như tờ,
Sao đưa thuyền chạy thuyền chờ trăng theo.
Bôn bề phong cảnh vắng teo,
Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan.
Lòng riêng riêng những bàn hoàn,
Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng.
Thuyền về, trời dã rạng đông,
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi.
Mùa thu năm 1949
Thế là cuộc kháng chiến chống Pháp đã được bốn năm. Mùa thu năm 1949, Bác Hồ lại làm thơ ghi lại một chuyến công tác đáng nhớ. Nhan đề bài thơ đã nói
rõ: ‘Đi thuyền trên sông Đáy’.
Nhìn lên bản đồ Tổ quốc, ta thấy có tên hai con sông Đáy: sông Đáy ở Hà Tây và sông Đáy ở Tuyên Quang. Sông Đáy trong bài thơ có lẽ là sông Đáy ở Tuyên Quang trên chiến khu Việt Bắc.
Bài thơ gồm có tám câu thơ lục bát, vừa tả cảnh con thuyền chạy giữa một vùng sông nước trăng sao, vừa nói lên suy nghĩ khôi phục đất nước và niềm tin tưởng đẹp tươi của Bác vào một ngày mai thắng trận.
Bốn câu thơ đầu tả cảnh đẹp của dòng sông Đáy, dòng sông chiến khu. Sông ‘lặng ngắt như tờ’, phong cảnh về khuya thêm ‘vắng teo’. Chỉ nghe tiếng ‘cót két’, tiếng chèo thuyền. Bút pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh rất đặc sắc. Hình ảnh con thuyền, vầng trăng và ngàn sao hiện lên rất đẹp, một vẻ đẹp hữu tình thơ mộng. Con thuyền và trăng sao được nhân hóa có tâm hồn, có chuyển động. Trăng sao vằng vặc sáng. Dòng sông xanh phẳng lặng. Trăng sao chiếu xuống in bóng trên lòng sông. Phía trước, phía sau, xung quanh con thuyền đều có trăng sao. Có lúc tưởng như ‘sao đưa thuyền chạy’, có lúc lại cảm thấy ‘thuyền chờ trăng theo’. Vừa thực vừa mộng ảo. Phải có tình yêu thiên nhiên, phải có tâm hồn thi sĩ mới viết được những vần thơ đẹp như vậy:
‘Dòng sông lặng ngắt như tờ,
Sao đưa thuyền chạy thuyền chờ trăng theo.
Bốn bề phong cảnh vắng teo,
Chỉ nghe cốt két tiếng chèo thuyền nan’
Đoạn thơ gợi lên không khí tĩnh mịch huyền ảo như dẫn hồn ta trôi vào thế giới cổ tích.
Nhà thơ ngồi trong con thuyền lặng ngắm cảnh sông nước trăng sao mà bàn hoàn, mà xao động, mà vương vấn cả tâm hồn. Nhiệm vụ phục quốc là sự lo lắng, là nỗi bàn hoàn khôn nguôi:
‘Lòng riêng riêng những bàn hoàn,
Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng’
Bác đã vận dụng hình thức tập Kiều để diễn tả một tình cảm đẹp: lo lắng đánh giặc để cứu dân.
Hai câu kết nói về cảnh rạng đông trên chiến khu:
‘Thuyền về, trời đã rạng đông,
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi’
Con thuyền và cảnh rạng đông mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Con thuyền kháng chiến vượt phong ba bão táp trở về bến trong rạng đông tráng lệ. Cảnh màu hồng đẹp tươi bao la đất trời tượng trưng cho ngày chiến thắng, đất nước bước vào một kỉ nguyên mới: độc lập, hòa bình. Hai câu kết có hình tượng đẹp, thể hiện tinh thần lạc quan của nhà thơ về một ngày mai thắng trận.
|
Instruct
Take a boat trip on the Day River
Ho Chi Minh
The river is as quiet as paper,
Why take the boat and sail, waiting for the moon to follow.
Surrounded by deserted landscapes,
Only the creaking sound of rowing a bamboo boat can be heard.
The heart is separate from the complete tables,
Worried about how to restore Tien Rong province.
The boat returned, it was dawn,
Immensely tinged with a beautiful, fresh pink color.
Autumn 1949
So the resistance war against the French has been going on for four years. In the fall of 1949, Uncle Ho wrote a poem to record a memorable business trip. The title of the poem says
clear: 'Sail on the Day River'.
Looking at the map of the Fatherland, we see the names of two Day rivers: Day River in Ha Tay and Day River in Tuyen Quang. The Day River in the poem is probably the Day River in Tuyen Quang in the Viet Bac war zone.
The poem consists of eight six-eight verses, both describing the scene of a boat running in the middle of a moonlit river, and expressing Uncle Ho's thoughts of restoring the country and his beautiful belief in a victorious tomorrow.
The first four verses describe the beautiful scenery of the Day River, a war zone river. The river is 'silent as a sheet', the landscape at night becomes 'deserted'. Only heard the 'creaking' sound, the sound of rowing the boat. The artistic style of using movement to describe static is very unique. The image of the boat, the moon and thousands of stars appears very beautifully, a charming and poetic beauty. The anthropomorphic boat and moon and stars have soul and movement. The moon and stars are shining brightly. Calm blue river. The moon and stars shine down, casting shadows on the riverbed. There are moon and stars in front, behind, and around the boat. Sometimes it feels like 'the stars are moving the boat', other times it feels like 'the boat is waiting for the moon to follow'. Both real and imaginary. You must have a love for nature and a poet's soul to write such beautiful poems:
'The river is as quiet as paper,
Why take the boat and sail, waiting for the moon to follow.
All around the landscape is deserted,
Only hear the sound of rowing a bamboo boat
The poem evokes a quiet and magical atmosphere that seems to lead our souls into a fairy tale world.
The poet sat in the boat silently contemplating the river, moon and stars, discussing, stirring, and lingering on his soul. The task of restoring the nation is a concern and an inconsolable discussion:
'My heart is separate from all my thoughts,
Wondering how to restore Tien Rong river?
Uncle Ho used the form of practice Kieu to express a beautiful sentiment: worrying about fighting the enemy to save the people.
Two concluding sentences talk about the dawn scene on the war zone:
'The boat returned, it was dawn,
Immensely tinged with a beautiful, bright pink color'
The boat and the dawn have profound symbolic meaning. The resistance boat overcame three storms and returned to the harbor in a magnificent dawn. The beautiful, bright pink landscape of heaven and earth symbolizes the day of victory, the country entering a new era: independence and peace. The two concluding sentences have beautiful images, expressing the poet's optimism about a victorious tomorrow.
|
Hướng dẫn
Lưu ý:
1- Các tác phẩm (của Bác) mà em đã được học đã đọc là những tác phẩm nào? – ‘Nhật kí trong tù’, (‘Không ngủ được’, ‘Ngắm trăng’, ‘Đi đường’, ‘Ôm nặng’, ‘Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh’).Thơ tiếng Việt và thơ chữ Hán khác: ‘Tức cảnh Pắc-Bó’, ‘Cảnh khuya’, ‘Rằm tháng giêng’.
2- Vẻ đẹp tâm hồn phong phú cao cả của nhà thơ Hồ Chí Minh là:
– Tinh yêu nước.
– Tình thương người.
– Tình yêu thiên nhiên.
3- Kiểu phân tích – chứng minh văn học.
Có một tên người đẹp nhất: ‘Nước Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ’.
Có một bài ca đẹp nhất, bài ca: ‘Ái Quốc’.
Có một hồn thơ đẹp nhất, hồn thơ Hồ Chí Minh.
Người anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh còn là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 20. Trong khoảng 300 bài thơ Người để lại, thơ chữ Hán cũng như thơ tiếng Việt, ta cảm thấy vẻ đẹp tâm hồn phong phú cao cả của một cốt cách chiến sĩ – thi sĩ. Thơ của Bác Hồ là những bài ca, khúc hát đằm thắm, ngọt ngào, chứa chan tình yêu nước, tình thương người và tình yêu thiên nhiên.
1. Thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh là những bài ca yêu nước. Bác đi tìm đường cứu nước ‘Những đất tự do, những trời nô lệ’,… Lúc nào Bác cũng sống trong tâm trạng: ‘Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước’ (Chế Lan Viên). ‘Nhật kí trong tù’ có bài thơ ‘Không ngủ được’’, bài thơ là tiếng lòng nhớ nước thiết tha. Nằm 168
trong ngục tối, chân tay bị cùm, bị trói, Bác thao thức nhớ nước khônnguôi. Hồn nước thiêng liêng chập chờn trong tàm trí Bấc trong lúc trằn trọc và cả trong giấc mộng:
‘Canh bốn canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh’
BỊ đày đọa tù đày nơi xa xứ, rồi bị ốm nặng. Hai lần đau khổ đối với tù nhân. Đau khổ vì ốm nặng. Càng đau khổ hơn vì trước cảnh lầm than của dân tộc. Bài thơ ‘Ôm nặng’ thể hiện bi kịch của một chiến sĩ cách mạng giàu lòng yêu nước:
‘ ‘Ngoại cảm’ trời Hoa cơn nóng lạnh,
‘Nội thương’ đất Việt cảnh lầm than.
Ở tù mắc bệnh càng đau khổ.
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!’
Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, Bác sống và hoạt động tại chiến khu Việt Bắc. Đêm đêm người thao thức lo lắng cho vận mệnh của Tổ quốc trong khói lửa, sự nghiệp kháng chiến ‘việc quân việc nước’ đè nặng lên đôi vai:
‘Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nổi nước nhà’
(Cảnh khuya)
* ‘Lòng riêng riêng những bàn hoàn,
Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng’
(Đi thuyền trên sông Đáy)
2. Tinh yêu nước của chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng sâu sắc, mãnh liệt, phong phú và cao cả biết bao. Tinh cảm ấy đã làm phát triển tình thương người trong lòng Bác. ‘Tự do cho đất nước tôi! Tự do cho dồng bào tôi’ là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Bác. Lòng nhân ái của Bác bao la. Trong tù phải nếm trải bao cay đắng, bị cùm trói, muỗi rệp, phải sống đọa đày trong đói rét,… thế mà Bác vẫn hướng tình thương tới đồng loại. Bác gọi mọi tù nhân là ‘nạn hữu’, người bạn cùng chung hoạn nạn. Bác thương một em bé Trung Hoa cất tiếng khóc trong ngục tối:
‘Oa! Oa! Oa!
Cha trốn không đi lính nước nhà,
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha’
(Cháu bé trong ngục Tân Dương)
Bác thương một người bạn tù da bọc xương chết nằm co quắp trong ngục lạnh. Bác nghĩ tới công sức vất vả của những phu phen ‘dãi nắng dầm mưa’ đã làm nên những con đường. Bài thơ ‘Người bạn tù thổi sáo’ cảm động nhất, biểu lộ một tình thương mênh mông. Người thì nhớ nước nhớ quê. Người bạn tù thì nhớ quê nhớ vợ. Người khuê phụ ngóng đợi người chồng đi tù mãi chưa về. Tiếng sáo buồn kết đọng lại ba tâm trạng buồn thương ấy:
‘Bổng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu,
Muôn dặm quan hù khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau’
3. Tình yêu thiên nhiên là một vẻ đẹp tâm hồn phong phú của hồn thơ Hồ Chí Minh. Bác có nhiều vần thơ trăng đẹp. Trong tù, không có rượu có hoa, Bác vẫn say mè thưởng trăng. Một tư thế ngắm trăng rất ung dung, thanh cao-
‘Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ’
(Ngắm trăng)
Trong kháng chiến chống Pháp, Bác ngắm trăng ‘Rằm tháng giêng’, ngắm cảnh sông nước, bầu trời mùa xuân:
‘Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân’
Suối rừng, trăng, hoa, cổ thụ… hội tụ trong thơ Bác với bao tình yêu thương dào dạt: yêu chiến khu, yêu thiên nhiên tạo vật:
‘Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa’
|
Instruct
Note:
1- What are the works (of Uncle Ho) that you have learned and read? – 'Prison diary', ('Can't sleep', 'Watching the moon', 'Going on the road', 'Hugging heavily', 'Midway taking the boat to Ung Ninh').Vietnamese poetry and other Chinese poetry: 'The Pac-Bo scene', 'The late night scene', 'The full moon of the first month'.
2- The beauty of poet Ho Chi Minh's rich and noble soul is:
– Patriotism.
– Love for people.
– Love of nature.
3- Type of analysis - literary proof.
There is a most beautiful person's name: 'The most beautiful country in the South is named Uncle Ho'.
There is the most beautiful song, the song: 'Love for the Country'.
There is the most beautiful poetic soul, Ho Chi Minh's poetic soul.
The national liberation hero Ho Chi Minh was also a great poet of our country in the 20th century. In about 300 poems he left behind, Chinese poetry as well as Vietnamese poetry, we feel the beauty of his soul. noble endowment of a warrior-poet personality. Uncle Ho's poems are loving and sweet songs and songs, filled with love for country, love for people and love for nature.
1. President Ho Chi Minh's poems are patriotic songs. He searched for a way to save the country, 'Lands of freedom, heavens of slavery',... Uncle always lived in the mood: 'Dreaming of water at night, seeing its image by day' (Che Lan Vien). 'Prison Diary' has the poem 'Can't sleep', the poem is the sound of a person's longing for the country. Located 168
In the dungeon, his limbs were shackled and tied, Uncle lay awake longing for water endlessly. The sacred spirit of water flickered in Buck's mind while he was restless and even in his dreams:
'Fourth watch, fifth watch just fell asleep,
Five-pointed yellow star dreaming around
He was imprisoned in a far away country, then became seriously ill. Twice the suffering for the prisoner. Suffering from serious illness. Even more miserable because of the plight of the nation. The poem 'Heavy Embrace' shows the tragedy of a patriotic revolutionary soldier:
'Experiencing' the hot and cold weather of the Hoa sky,
'Internal injury' to the miserable Vietnamese land.
Being in prison is even more painful.
It's worth crying but I keep singing!'
During the years of resistance against the French, Uncle Ho lived and worked in the Viet Bac war zone. At night, people lie awake worrying about the fate of the Fatherland in the midst of fire and smoke, the resistance cause of 'military work and country work' weighs heavily on their shoulders:
'The late night scene is like drawing people who haven't slept yet. They can't sleep because they can't worry about their country'
(Late scene)
* 'My heart is separate from all my thoughts,
Wondering how to restore Tien Rong river?
(Boat on Day River)
2. President Ho Chi Minh's patriotism is extremely deep, intense, rich and noble. That feeling developed love for people in Uncle Ho's heart. ‘Freedom for my country! Freedom for my people' was Uncle Ho's lifelong goal. Uncle Ho's kindness is immense. In prison, he had to experience so much bitterness, being shackled, exposed to mosquitoes and bugs, having to live in exile in hunger and cold,... yet Uncle Ho still directed his love towards his fellow human beings. He called all prisoners 'victims', friends who share the same hardship. He felt sorry for a Chinese child who cried in a dungeon:
‘Wow! Wow! Wow!
Father escaped to join the country's army,
So my body is just half a year old,
I have to follow my mother to stay at home'
(The child in Tan Duong prison)
He felt sorry for a dead prisoner lying curled up in a cold prison. He thought of the hard work of the people who worked hard in the sun and in the rain to build the roads. The poem 'The Prisoner Who Plays the Flute' is the most touching, expressing immense love. People miss their country and their hometown. The prisoner missed his hometown and his wife. The mother-in-law waited for her husband to go to prison and still not return. The sad sound of the flute condenses those three sad moods:
'I suddenly heard the flute in prison,
The country love song turns melancholy,
Thousands of miles of unspeakable fear,
Upstairs, someone is waiting for each other'
3. Love of nature is a rich spiritual beauty of Ho Chi Minh's poetry. He has many beautiful moon poems. In prison, without flowery wine, Uncle Ho was still drunk and enjoying the moon. A very leisurely and elegant position to watch the moon -
'People look at the moon shining outside the window,
Moon peeked poet watching the door'
(Watching the moon)
During the resistance war against the French, Uncle Ho looked at the 'Full Moon of January', admiring the river and spring sky:
'The full moon of spring is full of moonlight,
Spring river, water and sky color add spring'
Forest streams, moon, flowers, ancient trees... converge in Uncle Ho's poetry with abundant love: love of war zones, love of nature and creation:
'The sound of the stream is as clear as a distant song,
Moon, ancient tree cage, shadow of flower cage'
|
Hướng dẫn
Bài thơ có ba phần: đoạn 1 (7 câu): tiếng gà trưa bên xóm nhỏ làm xúc động người lính trên đường hành quân xa; đoạn 2 (26 câu): tiếng gà trưa gọi về tuổi thơ; đoạn 3 (sáu câu): tiếng gà trưa gợi lên bao niềm vui hạnh phúc và sức mạnh chiến đấu.
Đoạn 2 của bài thơ đã để lại trong lòng em bao ấn tượng tốt đẹp và sâu sắc. Đó là hình ảnh người bà và những đàn gà của bà nuôi và chăm chút quanh năm. Ba âm thanh ‘tiếng gà trưa’ được nhắc đi nhắc lại ba lần, mỗi lần mở ra một cung bậc mới của cảm xúc. Người lính trẻ bồi hồi nhớ lại những ngày êm đềm thơ bé.
Nhớ đàn gà đông đúc, đẹp mã của bà nuôi. Tưởng như cháu đang đứng nép bên bà ngắm đàn gà, vừa giơ bàn tay nhỏ bé, vừa chỉ vừa đếm ‘này con gà… này con gà…’. Cháu quên sao được những quả trứng hồng trong ổ rơm:
‘Tiếng gà trưa 0 rơm hồng những trứng Này con gà mái mơ,
Khắp mình hoa đốm trắng Này con gà mái vàng Lông óng như màu nắng’
Em cảm thấy như được ngắm bức tranh gà làng Hồ mà em mua ngày nào. Xuân Quỳnh có tài sử dụng màu sắc lúc tả đàn gà: màu ‘hồng’ của ổ trứng, ‘hoa đốm trắng’ của con gà mái mơ, ‘long ống như màu nắng’ của con gà mái vàng. Bức tranh gà như đang cựa quậy.
Cháu quên sao được tiếng mắng của bà vì tội ‘nhìn gà đẻ’
‘Tiếng gà trưa Có tiếng bà vẩn mắng Gà đẻ mà mày nhìn Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi Lòng dại thơ lo lắng’
Cháu nhớ mãi hình ảnh bà ‘chắt chiu’ từng quả trứng ‘cho con gà mái ấp’. Bà nhẹ nhàng cẩn trọng và nâng niu ‘tay bà khum soi trứng’. Bà đôn hậu, thương con thương cháu. Nhà nghèo, bà càng tần tảo sớm khuya. Vì hạnh phúc của con cháu mà bà lo lắng trông mong đến mất ăn mất ngủ:
‘Cứ hàng năm hàng năm Khi gió mùa đông bắc Bà lo đàn gà toi Mong trời đừng sương muối Đè cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới…’
Nhà nghèo,… nhờ công sức chăm chút đàn gà, chắt chiu từng quả trứng hồng, mà bà có tiền bán gà, bà mua cho cháu bộ quần áo mới, để cháu mặc đi đến trường, để cháu mặc đi chơi tết:
‘Ôi cái quần chéo go Ông rộng dài quết đất Cái áo cánh chúc bâu Đi qua nghe sột soạt’
Tình thương của bà dồn cho cháu, đem đến bao niềm vui hạnh phúc tuổi thơ. Cháu có bao giờ quên được công ơn và tình thương bao la của người bà đôn hậu.
Hình bóng người bà trong phần hai bài thơ tượng trưng cho tình hậu phương vô cùng thiết tha sâu nặng. Tiếng gà trưa đã gợi nhớ gợi thương. Nhớ về tuổi thơ, người lính trẻ cảm thấy mình được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh khi đang trên đường hành quân ra trận.
Nét đặc sắc của thơ Xuân Quỳnh là sáng tạo nên những chi tiết cụ thể đời thường tuy bình dị mà có sức gợi thấm thía, những ‘hạnh phúc đơn sơ ước mơ nhỏ
|
Instruct
The poem has three parts: paragraph 1 (7 verses): the sound of the chickens at noon in the small village touched the soldiers on a long march; paragraph 2 (26 sentences): the sound of the chicken at noon calls back to childhood; Paragraph 3 (six sentences): The sound of the noon cock evokes joy, happiness and fighting strength.
Part 2 of the poem left many good and deep impressions in my heart. That is the image of a grandmother and the chickens she raises and takes care of all year round. The three sounds of 'noon chicken' are repeated three times, each time opening up a new level of emotion. The young soldier fondly remembered the peaceful days of his childhood.
I miss my grandmother's large, beautiful flock of chickens. It seemed like I was standing next to my grandmother watching the chickens, raising my small hand, pointing and counting 'hey chicken... hey chicken...'. How could I forget the pink eggs in the straw nest:
'The sound of the chicken at noon, 0 pink straw and eggs Hey dreamy hen,
All over her body are flowers with white spots. This golden hen's feathers are as shiny as the sun.'
I feel like I'm looking at the painting of the Ho village chicken that I bought the other day. Xuan Quynh has a talent for using colors when describing a flock of chickens: the 'pink' color of the egg nest, the 'white spotted flowers' of the apricot hen, the 'long tube like the color of sunlight' of the yellow hen. The picture of the chicken seems to be stirring.
How could I forget my grandmother's scolding for 'looking at the laying hens'?
'The sound of chickens at noon There is a grandmother scolding the chickens, but you look at them, and then they won't show up!
I'll go home and get a mirror to look at myself, my childish heart is worried.
I always remember the image of her 'carefully' taking care of each egg 'for the hen to incubate'. She gently, carefully and caressed her 'her hand cupped the egg'. She is kind, loves her children and grandchildren. Because her family is poor, she works hard early and late at night. For the happiness of her children and grandchildren, she worried and looked forward to the point of losing sleep and eating:
'Every year, every year, when the northeast monsoon blows, she takes care of my chickens, hoping there won't be frost, selling chickens at the end of the year.
I got new clothes...'
The family is poor,... thanks to her efforts in taking care of the chickens and saving each pink egg, she has money to sell the chickens, she buys her grandson new clothes, for him to wear to school, for him to wear to Tet holidays:
'Oh, those skinny pants are so wide and long that they sweep the ground. The blouse is so flattering. You can hear it rustling as you pass by.'
Her love for her grandchildren brought so much joy and happiness to her childhood. I will never forget the immense gratitude and love of my kind grandmother.
The figure of the grandmother in the second part of the poem symbolizes the extremely deep and passionate love between her husband and wife. The sound of the chicken at noon evokes fond memories. Remembering his childhood, the young soldier felt empowered with more confidence and strength while on his way to war.
The unique feature of Xuan Quynh's poetry is the creation of specific details of everyday life that are simple but deeply evocative, 'simple happiness and small dreams'.
|
Hướng dẫn
Trong truyện không thấy nói đến bố. Hay là Sơn mồ côi bố? Hay là bố Sơn đi làm ăn nơi xa? Sơn ở nhà với mẹ, với chị Lan, với vú già, với em nhỏ…
Sáng sớm ngủ dậy khi gió lạnh đầu mùa đã thổi về, trời trắng đục, gió vi vu, khóm lan trong chậu ‘rung động và hình như sắt lại vì rét’. Sơn cũng thấy lạnh, em kéo chăn lên đầu rồi cất tiếng gọi mẹ. Một chén nước nóng mẹ đưa cho em ‘ấp vào mặt, vào má cho ấm’, một chiếc áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại phủ cái áo vải thâm, em mặc vào, đứng trên giường quay đi quay lại bốn lần để mẹ ngắm… Những chi tiết ấy cho biết Sơn còn bé nhỏ, ngây thơ, em rất được mẹ yêu. Không một tiếng khóc, một lời vòi vĩnh, Sơn đã cùng chị Lan đi chơi vì em biết lũ bạn con nhà nghèo xóm láng ‘đang đợi mình ở cuối chợ để đánh khăng, đánh đáo’. Gặp các bạn, khi chúng nó đến ngắm cái áo đẹp của Sơn, em cũng hồn nhiên ngây thơ như bất cứ đứa trẻ con nào, Sơn cũng ‘ưỡn ngực’ khoe áo mới: ‘Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một chiếc áo nhiều tiền hơn nữa kia’. Đúng là tâm lí đáng yêu: ‘Già được bát canh, trẻ được manh áo mới’.
Sơn là một em bé rất giàu tình cảm.Anh em như thể chân tay… Sơn đối với em đầy tình thương. Ngủ dậy thấy lạnh, Sơn ‘kéo chăn lên đắp cho em’ đang ngủ. Khi mẹ giơ cái áo bông cánh cũ của em Duyên – đã chết năm lên bốn tuổi – ‘Sơn nhớ em, cảm động và thương em quá’. Những cử chỉ ấy, những cảm xúc ấy cho thấy Sơn có một tâm hồn rất đẹp, rất trong sáng, còn bé nhỏ đã biết quan tâm săn sóc đến mọi người xung quanh. Em rất yêu mẹ, vâng lời mẹ, lễ phép với vú già, biết tôn trọng chị. Sơn là một đứa bé được mẹ chăm sóc và dạy bảo nên em rất ngoan.
Sơn là một em bé sống với bạn bè rất có tình người.Trong lúc mấy đứa em
họ của Sơn thì ‘kiêu kì và khinh khỉnh’ với các bạn, trái lại Sơn và chị Lan rất chan hòa với chúng. Vì thế mới thấy chị em Sơn đến, chúng nó ‘lộ vẻ vui mừng’. Gặp bạn, buổi sớm trong gió lạnh đầu mùa, cái nhìn của Sơn đối với bạn jnhỏ, những thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc,… là cái nhìn yêu thương, cám thông với cảnh nghèo của bạn. Trời lạnh mà chúng nó vẫn ‘ăn mặc không khác ngày thường, vần những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ’, và ‘môi chúng nó tím lại…’, chỗ áo quần rách ‘da thịt thâm đi’. Mỗi lần làn gió lạnh thổi qua, các bạn nhỏ của Sơn ‘lại run lên’ và ‘hai hàm răng đập vào nhau’. Biết quan tâm tới đồng loại, biết san sẻ, cảm thông với bạn bè chỉ có ở những trái tim nhân ái, những tấm lòng nhân hậu. Sơn đã chơi, đã sống với bạn bằng trái tim nhân ái, bằng tấm lòng nhân hậu như thế!
Tinh thương và sự quan tâm của Sơn đối với bạn còn được thể hiện bằng những cử chỉ, hành động cụ thể. Thấy cái Hiên, đứa con gái bên hàng xom, bạn chơi với Lan và Duyên ‘co ro dứng bên cột quán’, chỉ mặc có ‘manh áo rách tả tơi hở cả lưng và tay’, chị Lan gọi,’nó cũng không đến… Nghe cái Hiên ‘bịu xịu’ nói với chị Lan là ‘hết áo rồi, chỉ còn cái áo này’, bấy giờ Sơn mới chợt nhớ ra ‘mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề mò cua bắt ốc thì lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa’. Sơn đã ‘động lòng thương’ bạn và một ‘ỷ nghĩ tốt thoảng qua’… Sơn đã nói thầm với chị Lan về lấy chiếc áo bông cũ của em Duyên đem cho cái Hiên mặc khi gió lạnh đầu mùa đã thổi về. Sơn thấy lòng mình ‘ấm áp vui vui’ khi đứng lặng yên chờ chị Lan chạy về lấy áo. Sao không ‘ấm áp vui vui’ được vì một miếng khi đói bằng một gói khi no.Đâu phải là một sự bố thí ban ơn! Đó là một nghĩa cử san sẻ tình thương đồng loại ‘lá lành đùm lá rách’.Tấm lòng của Sơn đối với bạn nhỏ rất chân thành. Tinh cảm nhường cơm sẻ áo cho bạn rất mãnh liệt! Mặc dù đó là chiếc áo bông của em Duyên, kỉ vật thiêng liêng của mẹ, mặc dù sau đó mẹ cái Hiên đã đem áo đến trả cho mẹ Sơn, nhưng nhờ thế mà mẹ em đã biết cảnh ngộ mẹ cái Hiên, cho mẹ cái Hiên vay năm hào đem về mua áo cho con.
|
Instruct
In the story, there is no mention of the father. Or is Son an orphan? Or is Son's father working far away? Son stays at home with his mother, with Lan, with the old nanny, with the baby...
Woke up early in the morning when the first cold wind of the season was blowing, the sky was white, the wind was blowing, the orchids in the pot were 'vibrating and seemed to be frozen because of the cold'. Son also felt cold, so he pulled the blanket over his head and called for his mother. A cup of hot water was given to me by my mother to 'put it on my face and cheeks to keep it warm', a red thread shirt mixed with a sanitary shirt, covered with a dark cloth shirt, I put it on, stood on the bed and turned around four times. times for my mother to look at... Those details show that Son is still young, innocent, and very loved by his mother. Without a cry or a word of entreaty, Son went out with Ms. Lan because he knew that the children from poor families in the neighborhood were 'waiting for him at the end of the market to fight and fight'. Meeting my friends, when they came to look at Son's beautiful shirt, he was as innocent and innocent as any child. Son also 'puffed his chest' to show off his new shirt: 'My mother even promised to buy me a shirt. more money there'. What a lovely mentality: 'The old get a bowl of soup, the young get a new shirt'.
Son is a very affectionate child. Brothers are like limbs... Son is full of love for him. Waking up feeling cold, Son 'pulled the blanket over me' while he was sleeping. When her mother held up Duyen's old cotton shirt - who died when she was four years old - 'Son misses you, feels so touched and loves you'. Those gestures, those emotions show that Son has a very beautiful, very pure soul, and even at a young age, he knows how to care for everyone around him. I love my mother very much, obey her, be polite to my old nurse, and respect her. Son is a child who is cared for and taught by his mother, so he is very obedient.
Son is a child who lives with friends who are very human. Meanwhile, his younger siblings
Son's family is 'haughty and contemptuous' with his friends, on the contrary, Son and Lan are very sociable with them. That's why when they saw the Son sisters coming, they 'exuded joy'. Meeting you, early in the cold wind of the season, Son's look towards his younger friends, Cuc, Xuan, Ti, Tuc,... was a look of love and sympathy for his friends' poverty. It was cold but they still 'dressed the same as usual, wearing silver-brown clothes that were torn and patched in many places', and 'their lips turned purple...', where their clothes were torn 'their skin darkened'. Every time the cold wind blew, Son's children 'shivered' and their 'teeth chatted'. Knowing how to care for fellow human beings, knowing how to share and sympathize with friends is only found in compassionate hearts and kind hearts. Son played and lived with you with such a kind heart and kind heart!
Son's love and concern for you are also expressed through specific gestures and actions. Seeing Hien, the girl at the shop, Lan and Duyen's playmate 'huddled up next to the shop's pillar', wearing only 'a tattered piece of shirt that exposed both her back and arms', Ms. Lan called out, 'she's not either. arrived... Hearing Hien 'sufferingly' tell Ms. Lan that 'I'm out of clothes, I only have this shirt', then Son suddenly remembered 'Hien's mother is very poor, she only has the job of catching crabs and snails, so where can she get it? Spend money to buy clothes for your children.' Son was 'moved with pity' for his friend and a 'good thought passed by'... Son whispered to Lan to take Duyen's old cotton shirt and give it to Hien to wear when the first cold wind of the season blew. Son felt 'warm and happy' as he stood quietly waiting for Lan to come back and get her shirt. Why can't it be 'warm and happy' because a piece when hungry is equal to a packet when full. This is not a gracious alms! It is a gesture of sharing love for fellow human beings, 'good leaves cover torn leaves'. Son's heart towards the children is very sincere. The feeling of giving food and clothing to you is very strong! Even though it was Duyen's cotton shirt, a sacred keepsake of her mother, even though Hien's mother later brought the shirt back to Son's mother, thanks to that, her mother knew about Hien's mother's plight and gave it to her. Hien borrowed five dimes to buy a shirt for her child.
|
Hướng dẫn
Truyện ngắn ‘Gió lạnh đầu mùa’ có cốt truyện đơn giản nói về chuyện cho áo, trả áo rét giữa ba đứa trẻ và hai người mẹ nơi phố huyện nghèo, cách chúng ta ngày nay trên 60 năm trời. Đúng như có ý kiến đã cho rằng: ‘Truyện… tuy có nói đến gió lạnh nhưng lại ấm áp tình đời và tình người’.
1. Truyện mở đầu bằng cảnh gió lạnh, đó là một buổi sáng mùa đông. Cái rét mướt chợt đến chỉ sau một đêm mưa rào, trời nổi gió bấc. Sơn ngủ dậy thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị… ‘đã mặc áo rét cả rồi’. Ngoài sân ‘Gió vi vu… thổi lăn những cái lá khô lạo xạo’. Rét lắm, trời ‘một màu trắng đục’. Những cây lan trong chậu ‘lá rung động và hình như sắt lại vì rét’. Lạnh lắm, Sơn ‘co ro’ đứng dậy sau khi kéo chăn lên đắp cho em nhỏ. Gió lạnh mà ấm áp tình đời. Cả nhà nhớ đến những mùa đông lạnh lẽo đã qua. Nhìn chiếc áo bông cánh xanh đã cũ nhưng còn lành, mẹ Sơn nói: ‘Đây là cái áo của cô Duyên đấy’. Vú già, người đã nuôi Duyên từ lúc mới đẻ ‘với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ’. Bé Duyên đã chết từ năm lên bốn tuổi. Nghe mẹ nói, Sơn ‘nhớ em, cảm động và thương em quá’. Nhìn thấy mẹ ‘yên lặng…’, Sơn xúc động khi thấy mẹ ‘hơi rơm rớm nước mắt’. Cái áo bông, một di vật của bé Duyên bạc mệnh để lại, gợi lên bao nỗi đau và tình thương: tình mẹ con, tình anh em, tình thương của vú già nhân hậu. Tình tiết nói về chiếc áo bé Duyên cho thấy ngòi bút Thạch Lam rất tinh tế, giàu xúc cảm, ‘tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời’ (Nguyễn Tuân).
2. Gió càng lạnh, thế giới tuổi thơ càng ấm áp tình người. Chị em Sơn là con nhà trung lưu, được mẹ săn sóc, cho ăn mặc ấm áp. Sơn được mặc cái áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Cách ăn mặc ấy đối với trẻ em ngày xưa phải nói là đẹp, con nhà nghèo chỉ mơ ước. Trong lúc đó, trẻ con xóm chợ, thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc vẫn mặc những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Môi chúng nó ‘tím lại’’, chỗ áo quần rách ‘da thịt thâm đi’. Gió lạnh thổi đến, chúng nó lại ‘run lên’, ‘hai hàm răng đập vào nhau’. Thạch Lam rất nhân hậu khi ông nói về tình bạn tuổi thơ. Lũ trẻ con xóm chợ đều lộ vẻ ‘vui mừng’ khi chị em Sơn đến chơi. Sơn và chị Lan ‘thản mật’ chơi đùa với các bạn. Thằng Xuân đến ‘mó vào’ chiếc áo của Sơn, ‘tặc lưỡi’khen, ngạc nhiên vì chưa thấy cái áo đẹp như thế bao giờ! Thằng Cúc ‘ngây ngô’ giương mắt lên hỏi Sơn về nơi mua cái áo. Sơn ngây thơ, hồn nhiên ‘ưỡn ngực’ nói với các bạn nhỏ là áo mua tận Hà Nội, ‘mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một cái áo nhiều tiền hơn nữa kia’. Có hạnh phúc nào bằng khi ‘già được bát canh, trẻ được manh áo mới’. Cái ước mơ có manh áo mới, có áo ấm trong mùa đông đối với con nhà nghèo được Thạch Lam nghĩ đến, nói đến với tất cả tình thương và lòng trắc ẩn đáng quý.
Tinh tiết, cái Hiên con nhà mò cua bắt ốc đứng ‘co ro’ bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo ‘rách tả tơi’, ‘hở cả lưng và tay’ được tác giả nhắc đến thật xúc động. Sơn ‘động lòng thương’ chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Chị Lan và Sơn đã bàn với nhau cho cái Hiên chiếc áo bông cũ. Chị Lan ‘hăm hở’ chạy về nhà lấy áo. Sơn yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy ‘ấm áp vui vui’. Chiếc áo bông cũ đối với cái Hiên lúc bấy giờ là vô giá. Em đang sống trong cảnh nghèo, đói rét. Một miếng khi đói bằng một gói khi no.
Cái áo cũ mà chị em Sơn đem cho cái Hiên chứa đựng biết bao tình người, thể hiện tình cảm san sẻ ‘lá lành đùm lá rách’. Trong gió lạnh đầu mùa mà thế giới trẻ con lại ấm áp tình người cao quý.
3. Phần cuối truyện mở ra một tình huống mới: trả áo và cho vay tiền mua áo. Mẹ cái Hiên đã đem cái áo bông đến trả cho bà mẹ của chị em Sơn và nói:
‘Tôi về thấy cháu nó mặc cái áo bông, tói hỏi ngay. Nó bảo của cậu Sơn cho nó. Tôi biết cậu ở đây đùa, nên tôi phải vội vàng đem lại đây trả mợ…’.
|
Instruct
The short story 'The First Cold Wind of the Season' has a simple plot about the story of giving and returning cold clothes between three children and two mothers in a poor district, more than 60 years ago from where we are today. Just as one opinion has said: 'The story... although it talks about the cold wind, it warms the love of life and humanity'.
1. The story opens with a cold wind scene, it is a winter morning. The cold suddenly came after just one night of showers and strong wind. Son woke up and saw everyone in the house, his mother and sister... 'already wearing cold clothes'. Outside in the yard, 'The wind blows... rustling dry leaves'. It's very cold, the sky is 'a milky white color'. The orchids in pots 'leaves tremble and seem to be frozen because of the cold'. It was very cold, Son huddled up and stood up after pulling the blanket up to cover the baby. The wind is cold but warm with love. The whole family remembers the cold winters that have passed. Looking at the old but still healthy green cotton shirt, Son's mother said: 'This is Miss Duyen's shirt'. The old nanny, who raised Duyen from birth, 'reached for the shirt and turned it over and over to look at it, her hands caressing the seams'. Baby Duyen died when she was four years old. Hearing his mother say, Son 'missed you, touched and loved you so much'. Seeing his mother 'quiet...', Son was moved to see his mother 'a little teary-eyed'. The cotton shirt, a relic left by the ill-fated Duyen, evokes so much pain and love: mother-child love, brotherly love, and the love of a kind old nurse. The episode about little Duyen's shirt shows that Thach Lam's pen is very delicate, rich in emotions, 'a sensitive soul and experience in life' (Nguyen Tuan).
2. The colder the wind, the warmer the human world of childhood. Son's sisters are from middle-class families, their mother takes care of them and gives them warm clothes. Son was wearing a red felt shirt mixed with a sanitary shirt, and on top of that, he was wearing a dark cloth shirt. That way of dressing for children in the past was considered beautiful, something poor children only dreamed about. Meanwhile, the children of the market, Cuc, Xuan, Ti, and Tuc, still wore silver-brown clothes that were torn and patched in many places. Their lips were 'purple', their clothes were torn, 'their skin was darkened'. The cold wind blew, they 'shivered', their 'teeth clashed'. Thach Lam is very kind when he talks about childhood friendship. The children in the market neighborhood all looked 'happy' when the Son sisters came to visit. Son and Lan 'relaxedly' played with their friends. Xuan came to 'pick up' Son's shirt, 'clicking his tongue' and praising it, surprised because he had never seen such a beautiful shirt before! Cuc 'innocently' raised his eyes and asked Son where he bought the shirt. Son innocently and innocently 'puffed his chest' and told the children that the shirt was bought in Hanoi, 'my mother even promised to buy me a shirt that cost more money'. Is there any happiness like when 'the old get a bowl of soup, the young get a new shirt'. The dream of having new clothes and warm clothes in the winter for poor children was thought of by Thach Lam and talked about with all the precious love and compassion.
In detail, the porch of a family catching crabs and snails standing 'huddled' next to the shop's pillar, wearing only a 'tattered' shirt in the cold wind, 'leaving both back and arms' mentioned by the author, is very touching. Son was 'moved with pity' and suddenly remembered that Hien's mother was very poor, and remembered Duyen who used to play with Hien in the garden. Ms. Lan and Son discussed giving Hien an old cotton shirt. Ms. Lan 'eagerly' ran home to get her shirt. Son waited quietly, suddenly feeling 'warm and happy' in his heart. The old cotton shirt was priceless to the Porch at that time. I am living in poverty, hunger and cold. A piece of the hungry in a package when no.
The old shirt that the Son sisters brought to Hien contained so much human love, expressing the sentiment of sharing 'good leaves cover torn leaves'. In the cold wind of the first season, the children's world is warm with noble human love.
3. The end of the story opens a new situation: returning the shirt and lending money to buy the shirt. Hien's mother brought the cotton shirt back to Son's mother and said:
'I came home and saw that he was wearing a cotton shirt, so I asked immediately. He said it was Uncle Son's for him. I knew you were joking here, so I had to rush back here to return it to you...'.
|
Hướng dẫn
-Chị Dậu đã đáp trả như thế nào?
-“Nước ” ở trong đoạn trích nhằm ám chỉ điều gì? Ám chỉ ai?
-“Bờ” trong đoạn trích ám chỉ ai?
Đặt cho đoạn trích nhan đề Tức nước vỡ bờ thật thỏa đáng, vì những lý do trên.
-Khi phân tích nên chú ý đến việc chăm sóc chồng con, đến sắc mặt, cử chỉ, lời nói, hành động của chị Dậu biến đổi theo thời gian và sự đối xử của tên cai lệ và người nhà lý trưởng. Đó là diễn biến tâm lý chân thực và hợp lý của nhân vật.
I.Ngô Tất Tô”, nhà báo nổi tiếng, là một học giả có những công trình khảo cứu về triết học phương Đông và về văn học cổ có giá trị. Ông còn là nhà văn có tài luôn gần gũi nông dân, người lao động với những bộ tiểu thuyết, trong đó có tác phẩm “‘Tắt đèn”. Với cái nhìn tinh tế, tài chọn lựa những nhân vật điển hình, nhà văn đã tái hiện hình ảnh thảm sầu của nông dân Việt Nam, cũng là bản cáo trạng về tội ác của quan lại, cường hào dưới thời thực dân – phong kiến. Tiêu biểu cho cảnh thảm sầu đó là hình ảnh gia đình chị Dậu trong mùa SƯU thuế. Dù cực khổ, tủi nhục như thế nào chị cũng là người phụ nữ thực thà, lương thiện, giàu tình thương yêu và đức hy sinh của người vợ, người mẹ. Và khi bị chế độ áp bức đẩy vào chân tường, chị đã dám chông lại bằng chính sức mạnh của mình qua đoạn văn trích “Tức nước vỡ bờ”.
Phân tích đoạn văn trích: “Tức nước vỡ bờ” để thấy rõ thêm phẩm chất cao đẹp đó, đồng thời có những suy nghĩ đúng của mình về sự thay đổi của người phụ nữ Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay.
II.Vì thiếu SƯU thuế mà anh Dậu bị bọn cường hào ác bá bắt giải ra đình hành hạ, đánh đập, bỏ nắng, phơi sương đến độ ngất xỉu. Vì bị sợ vạ lây nên bọn chúng sai người nhà lý trưởng cõng cái xác không hồn của anh về trả cho gia đình chị Dậu. Trong cảnh khốn cùng, chị đã tìm mọi cách để cứu chồng tỉnh lại. Chỉ một hành động ấy thôi cũng đủ chứng tỏ chị có lòng thương yêu đậm đà đối với anh Dậu rồi. Anh Dậu vừa tỉnh lại thì trong nhà không có lấy một hạt gạo để cầm hơi. Chị phải vất vả ngược xuôi đi vay mượn ở hàng xóm được lon gạo về nấu cháo cho chồng. Cháo vừa chín, chị ngả mâm bát múc ra la liệt và “lấy quạt, quạt cho cháo mau nguội”’ thì tiếng trống, tiếng tù và, tiếng chó sủa đã inh ỏi vang lên ở đầu làng. Hơn ai hết, chị đã một lần hiểu được sau âm thanh oan nghiệt kia chuyện gì sẽ xảy đến cho anh Dậu, cho gia đình chị. Bởi vậy chị càng băn khoăn, lo lắng. Qua lời đối thoại của chị với bà hàng xóm lúc bà hớt hải chạy qua khuyên chị nên mang anh Dậu đi trốn sưu, cũng đã làm rõ sự băn khoăn suy nghĩ đó. Chị trả lời: “thưa cụ cháu cũng nghĩ như cụ’ “Nghĩ như cụ” là chị cũng định mang anh Dậu đi trốn sưu, nhưng vì anh “nhịn suông từ sáng hôm qua đến giờ”, nên chị đã nấn ná để cho chồng húp ba miếng cháo lấy lại sức trước khi đi trốn. Cháo nguội, chị bưng một bát lớn rồi “rón rén” đặt cạnh chỗ anh Dậu nằm. Có cử chỉ nào đầy tình thương trong bước đi nhẹ nhàng của người phụ nữ chỉ vì muôn cho chồng mình được yên tĩnh trong những phút ốm đau. Chẳng những thế chị còn cố nài nỉ: “Thầy hãy cố dậy húp lấy vài húp cho đỡ xót ruột”. Lời nói ấy chỉ có ở những người phụ nữ vừa giàu lòng thương yêu, vừa kính trọng chồng. Thêm vào đó “chị còn cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không?”. Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ cho người đọc thây chị là con người hy sinh, lấy hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính bản thân mình.
Anh Dậu vừa bưng bát cháo đưa lên miệng húp thì tên cai lệ và người nhà lý trưởng sầm sập, hùng hổ tiến vào. Chúng hoạnh hoẹ, chửi bới, đe dọa, để cố đòi cho được tiền SƯU.
“Gỡ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
-Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”.
Trước cử chỉ, giọng nói sặc mùi quan liêu, hách dịch nhưng vô cùng bệ rạc đó của tên cai lệ, anh Dậu hoảng quá “vộỉ để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”. Chỉ một mình chị Dậu tay nách con tìm cách đối phó. Những giây phút đầu tiên chị Dậu đã “run run” lo sỢ, nhưng rồi chị đã bình tĩnh trở lại và cố tìm lời khôn khéo để vừa khất cho được tiền SƯU thuế, vừa trả đũa lại kẻ thù. Chị đã tự hạ mình xuống hàng “con” “cháu” và tôn xưng kẻ thù là “ông”. Dù bị xâm phạm đến danh dự của cá nhân, của gia đình mình, bị đe dọa: “giời cả nhà mày đi” và bị chửi bới: “nói cho cha mày nghe đấy à”, thì chị vẫn cố nén sự tức giận của mình, vẫn cố chứng minh sự vô lý của việc chính quyền bắt nhà chị phải đóng SƯU, vẫn cô” van xin tha thiết:
Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu cửa chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…” và khi không thuyết phục được thì chị đã hé ra một chút liều để xin khất sưu:
Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!”
Không đáp lại lời cầu xin, tên cai lệ ra lệnh cho người nhà lý trưởng “trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!”. Người nhà lý trưởng “hình như không dám hành hạ một người” ốm nặng thì chính anh ta giật phắt sợi dây thừng đi đến chỗ anh Dậu. Lúc này chị Dậu mới “xám mặt”, ấy là màu sắc biểu hiện của người đang trong tâm trạng vừa sợ, vừa lo. Chị vội vàng đặt con xuống đất, chạy lại vừa đỡ lây tay cai lệ vừa năn nỉ:
Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
-Tha này! Tha này
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu”.
Đúng là một cảnh tượng sống động đã xảy ra giữa một người đàn ông có chút quyền lực với người nữ nông dân có con mọn hiếm thấy. Hành động của hắn như lửa đổ thêm dầu. Chị Dậu đã liều mạng cự lại. Lời nói của chị ở vị trí của một kẻ ngang hàng với kẻ thù và như ra lệnh “chồng tôi đau ốm không được phép hành hạ”, và rồi chị nói như thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Xét về thái độ và ngôn ngữ, nếu cai lệ và người nhà lý trưởng ỷ thế cậy quyền, tỏ ra quan liêu, hách dịch thì chị Dậu là người biết thủ phận, nhịn nhục dù đang chịu sự bất công chèn ép. Điều ấy được biểu hiện ở những lời xưng hô ban đầu của chị. Thay đổi cách xưng hô ấy là diễn biến tâm trạng biểu hiện thành lời nói. Tự hạ mình thành hàng “con cháu”, “tôi”, và khi căm giận tới tột cùng thì chị đã xưng là “bà”, còn cai lệ từ vai “ông” biến thành “mày”. Không dừng lại ở lời nói, chị đã đáp trả bằng hành động khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch”. Lấy bạo lực trừng trị bạo lực. Chị đã biến sự căm thù thành hành động tích cực nhất. Chị đã xông về phía tên cai lệ để: “túm lẩy cổ ấn giúi ra cửa”. Người nhà lý trưởng thấy đàn anh của mình bị đánh ngã nên hắn lại xông vào. Với sức mạnh của nữ lực điền, chị nắm lấy tóc quẳng cho một cái, khiến “hắn ngã chòng quèo ra thềm”. Chị vừa biểu lộ tinh thần đấu tranh, vừa chứng tỏ tiềm năng của những người nô lệ khi đã bị đẩy đến chân tường. Điều ấy càng được chứng tỏ ở câu trả lời của chị khi nghe anh Dậu nhắc đến chuyện “phải tù phải tội” khi đánh bọn người đi đòi SƯU thế:
Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”
Chị Dậu đúng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam sau lũy tre làng.
Khi bị quyền lực bất công dồn vào chân tường, họ biết vùng dậy. Dù là đấu tranh “tự phát” đánh bọn cai lệ người nhà lý trưởng để “thà chịu ngồi tù” nhưng hành động đấu tranh của chị đã giúp ta nhận rõ thêm phân nào chân lý: “Nơi nào có áp bức nơi đó có đấu tranh”, “Tức nước” (quyên lực bất công đàn áp) thì “v<? bờ” (nhân dân vùng lên chống lại); thây rõ sức mạnh tiềm tàng của phụ nữ Việt Nam.
|
Hướng dẫn
-Chị Dậu đã đáp trả như thế nào?
-“Nước ” ở trong đoạn trích nhằm ám chỉ điều gì? Ám chỉ ai?
-“Bờ” trong đoạn trích ám chỉ ai?
Đặt cho đoạn trích nhan đề Tức nước vỡ bờ thật thỏa đáng, vì những lý do trên.
-Khi phân tích nên chú ý đến việc chăm sóc chồng con, đến sắc mặt, cử chỉ, lời nói, hành động của chị Dậu biến đổi theo thời gian và sự đối xử của tên cai lệ và người nhà lý trưởng. Đó là diễn biến tâm lý chân thực và hợp lý của nhân vật.
I.Ngô Tất Tô”, nhà báo nổi tiếng, là một học giả có những công trình khảo cứu về triết học phương Đông và về văn học cổ có giá trị. Ông còn là nhà văn có tài luôn gần gũi nông dân, người lao động với những bộ tiểu thuyết, trong đó có tác phẩm “‘Tắt đèn”. Với cái nhìn tinh tế, tài chọn lựa những nhân vật điển hình, nhà văn đã tái hiện hình ảnh thảm sầu của nông dân Việt Nam, cũng là bản cáo trạng về tội ác của quan lại, cường hào dưới thời thực dân – phong kiến. Tiêu biểu cho cảnh thảm sầu đó là hình ảnh gia đình chị Dậu trong mùa SƯU thuế. Dù cực khổ, tủi nhục như thế nào chị cũng là người phụ nữ thực thà, lương thiện, giàu tình thương yêu và đức hy sinh của người vợ, người mẹ. Và khi bị chế độ áp bức đẩy vào chân tường, chị đã dám chông lại bằng chính sức mạnh của mình qua đoạn văn trích “Tức nước vỡ bờ”.
Phân tích đoạn văn trích: “Tức nước vỡ bờ” để thấy rõ thêm phẩm chất cao đẹp đó, đồng thời có những suy nghĩ đúng của mình về sự thay đổi của người phụ nữ Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay.
II.Vì thiếu SƯU thuế mà anh Dậu bị bọn cường hào ác bá bắt giải ra đình hành hạ, đánh đập, bỏ nắng, phơi sương đến độ ngất xỉu. Vì bị sợ vạ lây nên bọn chúng sai người nhà lý trưởng cõng cái xác không hồn của anh về trả cho gia đình chị Dậu. Trong cảnh khốn cùng, chị đã tìm mọi cách để cứu chồng tỉnh lại. Chỉ một hành động ấy thôi cũng đủ chứng tỏ chị có lòng thương yêu đậm đà đối với anh Dậu rồi. Anh Dậu vừa tỉnh lại thì trong nhà không có lấy một hạt gạo để cầm hơi. Chị phải vất vả ngược xuôi đi vay mượn ở hàng xóm được lon gạo về nấu cháo cho chồng. Cháo vừa chín, chị ngả mâm bát múc ra la liệt và “lấy quạt, quạt cho cháo mau nguội”’ thì tiếng trống, tiếng tù và, tiếng chó sủa đã inh ỏi vang lên ở đầu làng. Hơn ai hết, chị đã một lần hiểu được sau âm thanh oan nghiệt kia chuyện gì sẽ xảy đến cho anh Dậu, cho gia đình chị. Bởi vậy chị càng băn khoăn, lo lắng. Qua lời đối thoại của chị với bà hàng xóm lúc bà hớt hải chạy qua khuyên chị nên mang anh Dậu đi trốn sưu, cũng đã làm rõ sự băn khoăn suy nghĩ đó. Chị trả lời: “thưa cụ cháu cũng nghĩ như cụ’ “Nghĩ như cụ” là chị cũng định mang anh Dậu đi trốn sưu, nhưng vì anh “nhịn suông từ sáng hôm qua đến giờ”, nên chị đã nấn ná để cho chồng húp ba miếng cháo lấy lại sức trước khi đi trốn. Cháo nguội, chị bưng một bát lớn rồi “rón rén” đặt cạnh chỗ anh Dậu nằm. Có cử chỉ nào đầy tình thương trong bước đi nhẹ nhàng của người phụ nữ chỉ vì muôn cho chồng mình được yên tĩnh trong những phút ốm đau. Chẳng những thế chị còn cố nài nỉ: “Thầy hãy cố dậy húp lấy vài húp cho đỡ xót ruột”. Lời nói ấy chỉ có ở những người phụ nữ vừa giàu lòng thương yêu, vừa kính trọng chồng. Thêm vào đó “chị còn cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không?”. Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ cho người đọc thây chị là con người hy sinh, lấy hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính bản thân mình.
Anh Dậu vừa bưng bát cháo đưa lên miệng húp thì tên cai lệ và người nhà lý trưởng sầm sập, hùng hổ tiến vào. Chúng hoạnh hoẹ, chửi bới, đe dọa, để cố đòi cho được tiền SƯU.
“Gỡ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
-Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!”.
Trước cử chỉ, giọng nói sặc mùi quan liêu, hách dịch nhưng vô cùng bệ rạc đó của tên cai lệ, anh Dậu hoảng quá “vộỉ để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì”. Chỉ một mình chị Dậu tay nách con tìm cách đối phó. Những giây phút đầu tiên chị Dậu đã “run run” lo sỢ, nhưng rồi chị đã bình tĩnh trở lại và cố tìm lời khôn khéo để vừa khất cho được tiền SƯU thuế, vừa trả đũa lại kẻ thù. Chị đã tự hạ mình xuống hàng “con” “cháu” và tôn xưng kẻ thù là “ông”. Dù bị xâm phạm đến danh dự của cá nhân, của gia đình mình, bị đe dọa: “giời cả nhà mày đi” và bị chửi bới: “nói cho cha mày nghe đấy à”, thì chị vẫn cố nén sự tức giận của mình, vẫn cố chứng minh sự vô lý của việc chính quyền bắt nhà chị phải đóng SƯU, vẫn cô” van xin tha thiết:
Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu cửa chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền SƯU của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…” và khi không thuyết phục được thì chị đã hé ra một chút liều để xin khất sưu:
Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!”
Không đáp lại lời cầu xin, tên cai lệ ra lệnh cho người nhà lý trưởng “trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!”. Người nhà lý trưởng “hình như không dám hành hạ một người” ốm nặng thì chính anh ta giật phắt sợi dây thừng đi đến chỗ anh Dậu. Lúc này chị Dậu mới “xám mặt”, ấy là màu sắc biểu hiện của người đang trong tâm trạng vừa sợ, vừa lo. Chị vội vàng đặt con xuống đất, chạy lại vừa đỡ lây tay cai lệ vừa năn nỉ:
Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
-Tha này! Tha này
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu”.
Đúng là một cảnh tượng sống động đã xảy ra giữa một người đàn ông có chút quyền lực với người nữ nông dân có con mọn hiếm thấy. Hành động của hắn như lửa đổ thêm dầu. Chị Dậu đã liều mạng cự lại. Lời nói của chị ở vị trí của một kẻ ngang hàng với kẻ thù và như ra lệnh “chồng tôi đau ốm không được phép hành hạ”, và rồi chị nói như thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Xét về thái độ và ngôn ngữ, nếu cai lệ và người nhà lý trưởng ỷ thế cậy quyền, tỏ ra quan liêu, hách dịch thì chị Dậu là người biết thủ phận, nhịn nhục dù đang chịu sự bất công chèn ép. Điều ấy được biểu hiện ở những lời xưng hô ban đầu của chị. Thay đổi cách xưng hô ấy là diễn biến tâm trạng biểu hiện thành lời nói. Tự hạ mình thành hàng “con cháu”, “tôi”, và khi căm giận tới tột cùng thì chị đã xưng là “bà”, còn cai lệ từ vai “ông” biến thành “mày”. Không dừng lại ở lời nói, chị đã đáp trả bằng hành động khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch”. Lấy bạo lực trừng trị bạo lực. Chị đã biến sự căm thù thành hành động tích cực nhất. Chị đã xông về phía tên cai lệ để: “túm lẩy cổ ấn giúi ra cửa”. Người nhà lý trưởng thấy đàn anh của mình bị đánh ngã nên hắn lại xông vào. Với sức mạnh của nữ lực điền, chị nắm lấy tóc quẳng cho một cái, khiến “hắn ngã chòng quèo ra thềm”. Chị vừa biểu lộ tinh thần đấu tranh, vừa chứng tỏ tiềm năng của những người nô lệ khi đã bị đẩy đến chân tường. Điều ấy càng được chứng tỏ ở câu trả lời của chị khi nghe anh Dậu nhắc đến chuyện “phải tù phải tội” khi đánh bọn người đi đòi SƯU thế:
Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”
Chị Dậu đúng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam sau lũy tre làng.
Khi bị quyền lực bất công dồn vào chân tường, họ biết vùng dậy. Dù là đấu tranh “tự phát” đánh bọn cai lệ người nhà lý trưởng để “thà chịu ngồi tù” nhưng hành động đấu tranh của chị đã giúp ta nhận rõ thêm phân nào chân lý: “Nơi nào có áp bức nơi đó có đấu tranh”, “Tức nước” (quyên lực bất công đàn áp) thì “v<? bờ” (nhân dân vùng lên chống lại); thây rõ sức mạnh tiềm tàng của phụ nữ Việt Nam.
|
Hướng dẫn
Thạch Lam (1910 – 1942) là một trong những nhà văn nổi tiếng trước cách mạng tháng Tám. Lời văn của Thạch Lam nhẹ nhàng, tinh tế. Truyện ngắn của Thạch Lam phần lớn nói về những con người bình dị trong cuộc đời: người mẹ, người chị, những đứa em, những người bạn tốt… Có truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trong sáng vẻ tình người: ‘nhà mẹ Lê’, ‘Dưới bóng hoàng lan’, ‘Cô hàng xén’, ‘Gió lạnh đầu mùa’, v.v…
Truyện ‘Gió lạnh đầu mùa’ là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam. Tác giả đã giới thiệu với chúng ta một thế giới tuổi thơ vui chơi, chan hòa yêu thương trong tình làng nghĩa xóm vô cùng thân thiết. Sơn và chị Lan là hai hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ – văn xuôi rất trong sáng về tình người, đã để „ lại ấn tượng sâu sắc trong lòng chúng ta.
Câu chuyện bắt đầu từ sự chuyển đổi thời tiết. Trời đang ấm, chỉ qua một đêm mưa rào, bông gió rét thổi về. Ải cũng tưởng như đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn ‘tung chăn tỉnh dậy’. Em nhìn ra ngoài sân, nghe ‘gió vi vu…’, ám thanh xào xạc của những chiếc lá khô. Những khóm lan ‘lá rung động và hình như sắt lại vì rét’. Rồi Sơn kéo chăn đắp cho em. Một cử chỉ nhỏ ấy cũng đủ nói lên Sơn có một tâm tình đẹp, rất yêu em nhỏ. Khi nghe mẹ và vú già nhắc đến em Duyên, đứa em gái bé bỏng, tội nghiệp đã chết từ năm lên 4 tuổi, rồi nhìn thấy cái áo bông cũ của em để lại, ‘Sơn nhớ em, cảm động và thương em quá!’. Sơn xúc động theo dõi mọi biến đổi trên gương mặt mẹ. Người mẹ hiền nhìn chiếc áo cũ – kỉ vật thiêng liêng của đứa con thơ đã sớm ‘ra đi’, người vú già nhắc lại chuyện cũ đau lòng mơ hồ, xa xôi, ‘Sơn thấy mẹ hơi rơm rớm nước mắt’… Đó là những nét vẽ tinh tế, trong sáng, cảm động về tình người mà ta cảm nhận được trong phần
đầu truyện ‘Gió lạnh đầu mùa’.
Gió lạnh thổi về sớm. Sơn được mặc áo ấm: áo dạ chi đỏ, áo vệ sinh, ngoài mặc cái áo vải thâm dài. Trong lúc đó nhiều bạn của chị em Sơn như thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc, cái Hiên,… ‘vẫn những bộ quần áo nâu bạc, đã rách vá nhiều chỗ’ co ro trước làn gió lạnh. Sơn và chị Lan không vì thế mà cách bức,khinh khỉnh với các bạn nhỏ nhà nghèo như mấy đứa em họ. Hai chị em đã sống và vui chơi chan hòa yêu thương với các bạn. Sơn cũng ngây thơ, hồn nhiên khoe áo đẹp, như các em nhỏ khác. Em ‘lật vạt áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem’,… Lũ trẻ xúm lại ngắm nghía, trầm trồ!
Trong truyện ngắn này, với tấm lòng nhân hậu, ông đã ghi lại một tình tiết rất cảm động. Khi nhìn thấy cái Hiên chỉ mặc một ‘manh áo rách tả tơi hở cả lưng và tay’, Sơn chợt nhớ ra cảnh nhà bạn nghèo quá, mẹ phải mò cua bắt ốc ‘thì lấy đâu ra tiền mà mua sắm áo cho con nữa’. Sơn và chị Lan động lòng thương. Em nói thầm với chị: ‘Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ’. Và khi chị Lan chạy về nhà lấy áo, với lòng hồn nhiên của tuổi thơ, em thấy ‘ấm áp vui vui’. Đó là một chi tiết đẹp, chan chứa tình người. Cái áo bông cũ có đáng giá là bao! Nhưng đối với hoàn cảnh bé Hiên, con nhà nghèo giữa ngày đông tháng giá thì thật vô cùng quý báu. Đằng sau chiếc áo bông cũ là cả một tấm lòng vàng của chị em Sơn. Việc cho bạn một tấm áo rét là một việc làm đầy tình nghĩa. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Tương trợ ‘lá lành đùm lá rách’, giúp đỡ bạn bè trong lúc khó khăn đói rét là một đức tính quý báu của con người. Tình yêu thương đồng loại làm cho con người trở nên cao quý.
Câu nói của mẹ Sơn: ‘Hai con tôi quý quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta không sợ mẹ mắng à?’, với cử chỉ ‘âu yếm ôm con vào lòng’ chứa đựng biết bao tình thơm thảo. Từ chuyện con đem áo rét cho bạn dẫn đến việc người mẹ cho người đàn bà mò cua bắt ốc vay tiền để mua áo ấm cho con là những nét tươi sáng, ấm áp của áng văn đậm đà tình nghĩa mà Thạch Lam để lại cho bạn đọc hơn nửa thế kỉ qua.
Đọc truyện ‘Gió lạnh đầu mùa’, hình ảnh một bà mẹ phúc hậu, hai đứa con ngoan như những đốm sáng lung linh, khơi gợi một tình đời ấm áp trong gió lạnh. Sơn là một đứa con ngoan, một người em dễ thương, một người anh đôn hậu, một người bạn tốt… hiện lên thấp thoáng trong làn gió lạnh đầu mùa. Sơn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của tuổi thơ quê ta.
|
Instruct
Thach Lam (1910 - 1942) was one of the famous writers before the August Revolution. Thach Lam's writing is gentle and delicate. Thach Lam's short stories mostly talk about simple people in life: mother, sister, younger siblings, good friends... There is a short story by Thach Lam that is like a poem of pure human love: 'home Mother Le', 'Under the shade of the orchid', 'The shopkeeper', 'The first cold wind of the season', etc.
The story 'The First Cold Wind of the Season' is one of Thach Lam's excellent short stories. The author introduced to us a world of childhood play, full of love and extremely close friendship. Son and Ms. Lan are the two most beautiful images in the poem - very pure prose about human love, leaving a deep impression in our hearts.
The story begins with a change in weather. The weather is warm, but overnight it rains and the cold wind blows. It also feels like it's in the middle of a cold winter. Son 'threw off the blanket and woke up'. I looked out into the yard and heard 'the wind whistling...', the rustling sound of dry leaves. The orchids 'leaves trembled and seemed to be frozen because of the cold'. Then Son pulled the blanket to cover her. That small gesture is enough to say that Son has a beautiful heart and loves the child very much. When I heard my mother and old nanny mention Duyen, my poor little sister who died when she was 4 years old, and then saw her old cotton shirt left behind, 'Son misses you, feels so touched and loves you so much. !'. Son emotionally watched every change on his mother's face. The gentle mother looked at the old shirt - a sacred souvenir of her child who had soon 'gone away', the old nanny recalled the vague, distant, heartbreaking story of the past, 'Son saw that my mother was a little teary-eyed'... That's it. are delicate, pure, touching drawings of human love that we feel in the part
The beginning of the story 'The first cold wind of the season'.
The cold wind blew early. Son was dressed in warm clothes: a red felt shirt, a sanitary shirt, and a long dark cloth shirt. Meanwhile, many of the Son sisters' friends like Cuc, Xuan, Ti, Tuc, Hien,... 'still wearing silver-brown clothes, torn and patched in many places', huddled in the cold wind. Son and Lan do not treat poor children like their cousins because of that. The two sisters lived and played happily with their friends. Son is also innocent, innocently showing off his beautiful clothes, like other children. I 'lifted the hem of my dark shirt, held out my sanitary shirt and night shirt for everyone to see',... The children gathered around to look and admire!
In this short story, with a kind heart, he recorded a very touching episode. When he saw Hien wearing only a 'tattered piece of shirt that exposed both his back and arms', Son suddenly remembered how poor his family was, his mother had to find crabs and snails 'so where would he get the money to buy clothes for his child? '. Son and Lan were moved with compassion. I whispered to my sister: 'How about we give him an old cotton shirt, sister'. And when Lan ran home to get her shirt, with the innocence of childhood, I felt 'warm and happy'. It is a beautiful detail, filled with human love. How much is an old cotton shirt worth? But for the situation of little Hien, a poor child in the middle of a cold winter day, it is extremely precious. Behind the old cotton shirt is a golden heart of the Son sisters. Giving you a warm coat is a grateful act. A piece of the hungry in a package when no. Supporting 'good leaves protect torn leaves', helping friends in times of hardship, hunger and cold is a precious human virtue. Love for fellow human beings makes people noble.
Son's mother's words: 'My two children are so precious, dare to freely take their clothes and give them to others without fear of being scolded by mother?', with the gesture of 'lovingly hugging the children in her arms' contained so much sweet love. From the story of the child giving a warm coat to a friend, leading to the mother lending money to a woman who collects crabs and snails to buy a warm coat for her child, are the bright and warm features of the writing imbued with gratitude that Thach Lam left behind for her. readers for more than half a century.
Reading the story 'The First Cold Wind of the Season', the image of a kind mother and two good children are like shimmering spots of light, evoking a warm love in the cold wind. Son is a good son, a cute younger brother, a kind brother, a good friend... appearing in the cold breeze of the first season. Son is a symbol of the spiritual beauty of our hometown's childhood.
|
Hướng dẫn
Ánh lửa diêm, và biến mất khi ánh diêm tắt.
Mộng tưởng nào của em, bé hán diêm cũng gắn với thực tế. Lạnh thì mộng tưởng đến lò sưởi,…, sắp chết thì mộng tưởng gặp hà. Và “Họ đã về chầu thượng đế”. Thực tế là cô bé… đã chết!
– An-đéc-xen sinh năm ỉ805 tại Ồ-đen-xơ, mất năm 1875 tại Cô-pen-ha-gơ, Đan-Mạch.
I. Xưa nay vẫn có những cảnh đời tuổi thơ bất hạnh ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Những cảnh đời mồ côi, hoặc mất cha hay mất mẹ không chỉ có trong truyện cổ mà còn được đưa vào những trang văn hiện đại. Ngay trong chương trình Ngữ văn lớp 8, chúng ta biết nỗi bất hạnh của cậu bé Hồng trong Những ngày thơ ấu(đoạn trích Trong lòng mẹ)thì nay chúng ta lại gặp một cảnh đời bất hạnh khác ở xứ sở Đan Mạch trong truyện Cô bé bán diêmcủa An-đéc-xen để cảm thông với những ước mơ đẹp, và ngậm ngùi trước cái chết vì giá rét trong đêm giao thừa của cô.
II. Truyện kể về đêm giao thừa, trời rét mướt, một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đi đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt cả ngày em không bán được bao diêm nào. Nhà văn đã miêu tả hình ảnh của era lúc đêm về càng lúc càng rét buốt, “em ngồi nép trong một góc tường… thu đôi chân vào người…”.Miêu tả ngắn thôi, chỉ 12 từ, nhưng người đọc thấy rõ trong trí tưởng tượng của mình dáng cô bé ngồi co ro, cố thu mình lại càng gọn càng tốt để ngăn bớt cơn lạnh. Cô bé đang ở ngoài đường, sát tường hai ngôi nhà đóng kin cửa, giữa cái lạnh cắt da của đêm giao thừa. Mắt cô nhìn lên “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”,mũi cô ngửi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.Hình ảnh ấm cúng ấy, mùi vị thơm tho ấy, gợi lại trong KÝ ức cô bé hoàn cảnh sống ngày trước của mình “Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, và gia đình em phải lìa ngôi nhà xinh xắn”.An-đéc-xen đặt nỗi nhớ của cô bé vào đúng lúc, đúng chỗ vừa giới thiệu được hai hoàn cảnh sống đối nghịch vừa giải thích nguyên nhân của sự đổi thay khiến em phải sống đời bất hạnh hiện tại: Thần Chết!Thần Chết đã cướp đi người bà hiền hậu. Thần Chết đã đuổi cha con cô ra khỏi ngôi nhà xinh xắn đến ở căn gác xép sát mái nhà không ngăn nổi gió sương. Và bất hạnh lớn nhất là Thần Chết đã biến đổi tính nết của người cha, thay vì thương yêu và chăm sóc con cái thì lại buộc con gái nhỏ dại đi bán diêm, “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đêm về; nhất định là cha em sẽ đánh em”.Sự việc diễn ra như thế nào thì kể lại như thế chứ không hề chen vào một lời oán trách hay kết tội người cha đúng với hoàn cảnh sống và tính cách phụ thuộc của tuổi thơ.
Một mình, bụng đói giữa đêm giao thừa gió rét, đôi bàn tay đã cứng đờ ra, muốn đốt một que diêm mà hơ ngốn tay em cũng chần chừ đôi lần ba lượt. Ánh sáng, hơi ấm từ que diêm đã giúp dòng suy nghĩ của em thoát khỏi hiện thực lạnh giá, bẽ bàng. “Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò
sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng dồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.Dòng mơ tưởng này đã chi phối hành vi của em. Em hành động theo “Em tưởng chừng như’ Bởi vậy, “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn”.Dòng mơ tưởng về lò sưởi tỏa hơi nóng dịu dàng kia đã biến mất theo ngọn lửa cháy nhanh và chóng tàn của que diêm. Hiện thực giá rét kéo em về cùng nỗi lo “bị cha mắng”, Đêm tối với cái lạnh cắt da, que diêm với ánh sáng và hơi ấm. Hai hình ảnh tương phản ấy đã được nhà văn đặt cạnh nhau như muốn khơi thêm nguồn ao ước ở trong em. Nếu quẹt que diêm lần thứ nhất, ánh sáng của nó khiến em “tưởng chừng như…”thì khi quẹt que diêm thứ hai “em nhìn thấy vào tận trong nhà” và thấy một bàn ăn sang trọng đã được dọn sẩn, có cả một con ngỗng quay. “Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé Mộng tưởng lúc này đã có tính huyền ảo. Tội nghiệp cô bé bán diêm. Có lẽ lúc này cô đói lắm rồi. Mơ ước được no khiến hiện thực “sực nức mùi ngỗng quay” ởkhu phố biến thành con ngỗng như trong mộng tưởng của cô bé bán diêm. Nhưng khi “que diêm vụt tắt” thì “ngỗng ta” cũng biến mất khi đang tiến về phía cô bé bán diêm, hiện thực khắc nghiệt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt’”và mấy người khách quần áo ấm áp nhưng lãnh đạm tình người xuất hiện trước mắt em.
Lần quẹt diêm thứ ba, em thấy hiện ra cây thông Nô-en rất lớn và lộng lẫy với hàng ngàn ngọn nến, rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ. Khi em với đôi tay về phía cây thì ánh sáng que diêm… tắt. “Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”.Mộng tưởng này gợi cho em nhớ lại lời của người bà hiền hậu thường nói với em lúc bà còn sống rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Nỗi nhớ này làm cồ bé bán diêm ao ước được thấy bà nội của cô. Cô quẹt một que diêm nữa vào tường, ánh sáng xanh tỏa ra chung quanh, và em thấy rõ bà đang mỉm cười với em. Em reo lên và xin bà cho em cùng theo bà. Điều lạ lùng và cảm động là nhà văn đã đặt cô bé vào vị trí của con người rất tình táo. Cô bé đã nói với bà: “Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này”. Cólẽ những lần quẹt diêm trước đã giúp cô bé nhận ra cảnh thật và cảnh ảo. Thêm vào đó thể xác của cô bé thì đói và lạnh, còn tâm hồn thì rất cô độc. về nhà ư? về căn gác xép sát mái, tường nứt không ngăn được luồng gió rét kia ư? về nơi thường nghe những lời mắng nhiếc và chửi rủa kia ư?
|
Instruct
The light of a match, and disappears when the light of the match goes out.
Every dream of you, little Han Yan, is tied to reality. When you're cold, you dream about the fireplace, etc. When you're about to die, you dream about seeing you. And "They have returned to worship God". In fact, the girl... died!
– Andersen was born in 1805 in Odenze, died in 1875 in Copenhagen, Denmark.
I. Since ancient times, there have been unhappy childhood scenes anywhere on earth. Scenes of orphanhood, or losing one's father or mother, are not only found in ancient stories but are also included in modern literature. Even in the 8th grade Literature program, we learned about the misfortune of the boy Hong in Childhood Days (excerpt from In Mother's Womb), but now we encounter another unfortunate life scene in Denmark in the story. Andersen's little match seller to sympathize with her beautiful dreams, and regret her death from the cold on New Year's Eve.
II. The story is about a cold New Year's Eve, a poor little match seller, motherless, bareheaded, barefoot, hungry, groping in the dark. I couldn't sell any matchboxes all day long. The writer described the image of the era as the night grew colder and colder, "you sat nestled in a corner of the wall... with your legs tucked in..." The description is short, only 12 words, but the reader can see it clearly in I imagined the figure of a little girl sitting huddled together, trying to curl up as compactly as possible to block out the cold. The girl was on the street, close to the wall of two houses with their windows closed, in the bitter cold of New Year's Eve. Her eyes looked up, "The windows of every house were brightly lit", her nose smelled "the smell of roasted goose in the street". That cozy image, that fragrant smell, recalled in her MEMORY the situation of the little girl. living my past days "I remember the old years, when my kind grandmother was still alive, I also celebrated New Year's Eve at home. But the Angel of Death came and took my grandmother away, the fortune was gone, and my family had to leave our lovely house." Andercell placed the girl's nostalgia at the right time and place, having just introduced the two The opposite life situation has just explained the cause of the change that causes me to live my present unhappy life: Death! Death has taken away my gentle grandmother. The Angel of Death chased her and her father out of the lovely house to live in an attic close to the roof, unable to block the wind and frost. And the greatest misfortune is that the God of Death changed the father's personality, instead of loving and taking care of his children, he forced his young daughter to sell matches, "if she can't sell a few matchboxes, or if there's no one to take care of her." Give a penny every night; I'm sure my father will beat me." How the incident happened is told like that, without interjecting a complaint or condemning the father in accordance with the living situation and dependent personality of childhood.
Alone, hungry in the middle of a cold, windy New Year's Eve, my hands were stiff, I wanted to light a match but my hands hesitated a few times. The light and warmth from the match helped my thoughts escape the cold, humiliating reality. “I feel like I'm sitting in front of the stove
The iron heater has shiny bronze embossed images. In the furnace, the fire burned beautifully and radiated gentle heat.” This line of fantasy controlled my behavior. I acted according to "I thought it was like" Therefore, "as soon as I stretched out my legs to warm myself, the fire went out, the fireplace disappeared. I sat there, holding a match that had completely burned out." That line of dreams about a fireplace radiating gentle heat disappeared along with the match's fast-burning and quickly extinguishing flame. The cold reality pulled me back with the worry of "being scolded by my father", The dark night with its biting cold, the matchstick with its light and warmth. These two contrasting images were placed next to each other by the writer as if to further stimulate the desire within me. If I lit the match for the first time, its light made me "seem like..." then when I lit the second match, "I saw going into the house" and saw a luxurious dining table that had been prepared, including a roast goose. “But the most miraculous thing was that the goose jumped out of the plate and carried a knife and a lightning rod on its back, moving towards the baby. The dream now had a magical quality. Poor little match seller. Maybe she's very hungry right now. The dream of being full makes the reality of the "smell of roast goose" in the neighborhood turn into a goose like in the match girl's dream. But when "the match went out", the "goose" also disappeared while walking towards the match girl, the harsh reality with "deserted, cold streets" and a few customers wearing warm clothes but Indifferent human love appears before my eyes.
The third time I lit the match, I saw a very large and splendid Christmas tree with thousands of candles and many brightly colored paintings. When I reached out with my hands towards the tree, the match light... went out. “All the candles flew up, up and up, then turned into stars in the sky.” This dream reminds me of the words my gentle grandmother often told me when she was alive: “When there is a The reason why the throne changes is to have a soul fly up to heaven with God." This nostalgia makes the little match seller wish to see her grandmother. She struck another match against the wall, blue light radiated around, and I clearly saw her smiling at me. I shouted and asked her to let me follow her. The strange and touching thing is that the writer very cleverly put the girl in the position of a human being. The little girl told her grandmother: "I know that when the match goes out, you will disappear like the fireplace, roast goose and Christmas tree just now, but please don't leave me here." Perhaps the previous times of lighting matches helped her recognize real scenes and virtual scenes. In addition, her body was hungry and cold, and her soul was very lonely. go home? Back to the attic, the cracked walls couldn't stop the cold wind? To the place where you often hear scolding and cursing?
|
Hướng dẫn
…Trước năm 1945, tác giả đã đến sinh sống ở Sài Gòn, trở thành một cư dân 184 của ‘hòn ngọc Viễn Đông’ mà ông gọi là ‘cái đô thị ngọc ngà’. Nhan đề bài kí đã thể hiện tình yêu thiết tha sâu nặng đối với Sài Gòn – ‘Sài Gòn tôi yêu’.
Mấy dòng đầu bài kí, tác giả nói một cách hóm hỉnh qua một số so sánh: ‘Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già’. Sài Gòn 300 tuổi so với cái tuổi 5.000 năm của đất nước ta thì Sài Gòn ‘còn xuân chán’, ‘như một cây tơ đương độ nõn nà…’.
Minh Hương thổ lộ tình yêu Sài Gòn trong mọi thời tiết và mọi thời gian. Tác giả ‘yêu nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào’’,yêu ‘buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ’’,yêu thời tiết trái chứng: ‘trời đang iu iu buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh’.Tác giả yêu đêm khuya ‘thưa thớt tiếng ồn’’,yêu những giờ cao điểm, phố phường ‘náo động, dập dìu xe cộ’;yêu làn không khí ‘mát dịu, thanh sạch’vào buổi sáng tinh sương, trên một số con đường nhiều cây xanh. Tinh yêu Sài Gòn của Minh Hương được ông ví với tình cảm của ‘người đàn ông vẫn ôm ấp bóng dáng mối tình đầu chứa chan nhiều ngang trái’.
Sài Gòn rất bao dung và hào phóng ‘bao giờ cũng’dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến’. Người Bắc, người Trung, người Nam, người Hoá, người Khơ-me… đã đến ở Sài Gòn, ‘rồi thừa nhận nơi đây là quê quán của mình’. Minh Hương đã đến ở Sài Gòn hơn nửa thế kỉ sao không yêu Sài Gòn, sao không coi Sài Gòn là quê hương thứ hai của mình được?
Tác giả yêu Sài Gòn, rồi yêu hơn con người Sài Gòn với bao phẩm chất tốt đẹp, biểu hiện một ‘phong cách bản địa mang nhiều nét đặc trưng’.Người Sài Gòn ‘ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà, dễ dãi’, ‘rất chơn thành, bộc trực’, ‘ít dàn dựng, tính toán’.
Minh Hương đã nêu lên những nét đáng yêu của các cô gái ‘thị thiềng’ Sài Gòn ngày xưa. Tóc ‘buông thõng’ trên vai trên lưng. Đầu đội nón vải trắng rộng vành. Áo bà ba trắng… Quần đen rộng. Hoặc đi giầy bố trắng, hay xăng-đan da, hoặc đi guốc vông trơn trắng nõn, quai da… Rất dễ nhìn, dễ ưa: dáng đi ‘khỏe khoắn, mạnh dạn’; ‘cũng yểu điệu, thướt tha…’, ‘cũng e thẹn, ngượng nghịu..’. Nụ cười ‘thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây’. Cái đẹp của cô gái Sài Gòn ‘thật đơn sơ, đôn hậu’.
Cách giao thiệp của thiếu nữ Sài Gòn rất duyên dáng. Chào người lớn, các cô ‘cúi đẩu, chắp hai bàn tay lại và xá’. Gập bạn bè thì ‘hơi cúi đầu và mỉm cười; cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mỉm mỉm, cười he hé,…’, tùy mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt cô gái Sài Gòn ‘sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh’. Cách giao tiếp của thiếu nữ Sài Gòn có vẻ hơi ‘cổ xưa’ nhưng lại rõ ràng ‘dân chủ’, ‘không khúm núm hay màu mè’, ‘không chút mặc cảm, tự ti’. Nghĩa là họ vẫn giữ được phong cách dân tộc, nhưng không còn mang tư tưởng phong kiến, trái lại rất tân tiến.
Có thể nói đoạn văn viết về cô gái Sài Gòn là đặc sắc nhất, vừa tỉ mỉ vừa khái quát, biểu lộ tấm lòng trân trọng, quý mến của Minh Hương. Ta vô cùng thích thú như được thú vị ngắm nghía nhũng bức ảnh chân dung nghệ thuật của các cô gái Sài Gòn trong phòng triển lãm những năm đầu thế kỉ 20..
Tính cách con người Sài Gòn rất đẹp và đáng yêu. Các cô gái, các chàng trai, các giới đồng bào giàu lòng yêu nước, bất khuất, dám xả thân vì chính nghĩa, vì cách mạng và kháng chiến, vì đất nước và nhân dân. Với Minh Hương, tình yêu Sài Gòn gắn liền với tình cảm trân trọng, quý mến, cảm phục những con người Sài Gòn.
Phần cuối bài kí, tác giả viết qua một so sánh đáng yêu: ‘Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn cũng là một đô thị hiền hòa’. ‘Đất lành chim đậu’ (tục ngữ). Trước kia, Sài Gòn có nhiều chim, nhưng ngày nay rất ít chim. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống, đã ‘đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố’.
Chim chóc thì ‘hiếm hoi dần’, dân số lại gia tăng ‘leo lên hơn năm triệu’. Thoáng một chút băn khoăn?
Minh Hương đã tâm sự: ‘yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây’. Mối tình ấy ‘dai dẳng, bền chặt’. Tác giả ước mong ‘mọi người nhất là các bạn trẻ, đều yêu Sài Gòn như tôi’. Đó là một tiếng nói ‘chơn thành, bộc trực’. Sài Gòn, thành phố 300 tuổi, là Thành Đồng Tổ quốc, là thành phô’ mang tên Bác – thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng – ai mà chẳng tự hào, ai mà chẳng mến yêu.
|
Instruct
…Before 1945, the author came to live in Saigon, becoming a resident of the 'Pearl of the Far East' that he called 'the pearly city'. The title of the essay expressed his deep and passionate love for Saigon - 'Saigon I love'.
In the first few lines of the memoir, the author said humorously through some comparisons: 'Saigon is still young. I'm old'. Saigon is 300 years old compared to our country's age of 5,000 years. Saigon is 'still young', 'like a tender silk tree...'.
Minh Huong confessed her love for Saigon in all weathers and all times. The author 'loves the morning sun, a sweet kind of sunshine'', loves 'the windy afternoon of longing, under the unexpected tropical rain trees'', loves the contrary weather: 'the sky is so loving and sad, suddenly nature is as clear as glass'. The author loves late nights with 'sparse noise', loves rush hours, streets are 'chaotic, traffic jams'; loves the 'cool, clean air' 'in the foggy morning, on some roads full of trees. Minh Huong's love for Saigon is compared to the love of 'a man who still embraces the shadow of his first love filled with many contradictions'.
Saigon is very tolerant and generous and 'always opens its arms to welcome many people from all over the country'. Northerners, Chinese, Southerners, Hoa, Khmer... came to Saigon, 'then acknowledged this place as their hometown'. Minh Huong has been in Saigon for more than half a century, so why don't you love Saigon, why don't you consider Saigon your second home?
The author loves Saigon, and then loves the people of Saigon even more with its many good qualities, expressing a 'native style with many unique features'. Saigon people 'speak naturally, sometimes jokingly, easily. generous', 'very sincere, direct', 'less staged and calculated'.
Minh Huong has highlighted the lovely features of Saigon's 'thieng' girls of the past. Hair 'hangs loose' on the shoulders and back. Wear a wide-brimmed white cloth hat on your head. White Ba Ba shirt... Loose black pants. Or wear white canvas shoes, or leather sandals, or wear plain white sandals with leather straps... Very easy on the eyes and likeable: 'strong, bold' gait; 'also graceful, graceful...', 'also shy, awkward...'. The smile is ‘genuine, bright and more or less innocent’. The beauty of a Saigon girl is 'so simple and kind'.
The communication style of Saigon girls is very charming. Greeting the adults, the girls 'bowed their heads, clasped their hands and said goodbye'. When meeting friends, bow your head slightly and smile; smile with your mouth closed, smile with your mouth closed, smile with a smile, smile with a smile,...', depending on the level of familiarity. Especially the Saigon girl's eyes are 'bright, cheerful, sometimes sparkling with a bit of humor'. The communication style of Saigon girls seems a bit 'archaic' but is clearly 'democratic', 'not obsequious or showy', 'without any sense of guilt or inferiority'. That means they still retain the national style, but no longer have feudal ideas, on the contrary, they are very modern.
It can be said that the passage about the Saigon girl is the most unique, both meticulous and general, expressing Minh Huong's respect and affection. I was extremely excited to look at the artistic portraits of Saigon girls in the exhibition room in the early 20th century.
The personality of Saigon people is very beautiful and lovely. Girls, boys, and compatriots are rich in patriotism, indomitable, daring to sacrifice themselves for justice, for revolution and resistance, for the country and the people. For Minh Huong, love for Saigon is associated with feelings of respect, affection, and admiration for the people of Saigon.
At the end of the memoir, the author wrote a lovely comparison: 'If the South is a good land, then Saigon is also a gentle city'. 'Good land, birds perch on' (proverb). In the past, Saigon had many birds, but today there are very few birds. Those who are irresponsible towards the environment are 'shooting and killing the city's birds and bats'.
Birds are 'becoming scarce', the population is increasing 'climbing over five million'. Feeling a little confused?
Minh Huong confided: 'love Saigon and love the people here'. That love is 'persistent and lasting'. The author wishes that 'everyone, especially young people, will love Saigon like me'. It is a 'sincere, straightforward' voice. Saigon, a 300-year-old city, is the City of the Fatherland, the city named after Uncle Ho - the brilliant Ho Chi Minh City with its golden name - who wouldn't be proud, who wouldn't love it.
|
Hướng dẫn
-Sau khỉ đánh nhau: – Hai thầy trò bàn chuyện về tính cách của hiệp sĩ, chuyện ăn và chuyện ngủ.
Năm sự việc chủ yếu thì sự việc 1 được thê hiện ở đoạn ỉ; sự việc 2 ở đoạn 2; 3 sự việc còn lại ở đoạn 3.
+ về Xéc-van-íét, học sinh nên biết thêm họ tên đầy đủ của ông là Miguel de Cervantes, sinh năm ỉ547 tại Alcaỉá de Henares, và mất năm 16Ĩ6 tại Madrid, Tây Ban Nha.
I.Nhắc đến các nhà văn cổ điển Tây Ban Nha người đọc thường nhớ đến Xéc-van-tét, người xuất thân từ gia đình quý phái nhưng nghèo, học đại học được ít lâu rồi bắt đầu cuộc đời ba chìm bảy nổi, sau đó vào quân đội. Trong một trận thủy chiến, Xéc-van-tét bị mất cánh tay trái và bị bắt làm tù binh 5 năm ở An-giê (Alger). Năm 1580, ông ra tù, lấy vợ, sống trong lao đao nghèo khổ. Dù có hoạt động văn nghệ nhưng chưa nổi tiếng. Mãi cho đến năm 1605, khi phần I của bộ tiểu thuyết Đôn-ki-hô-tê, nhà quý tộc tài ba xứ Man – cha ra đời, Xéc-van-tét mới được độc giả Tây Ban Nha hoan nghênh vì phản ánh đúng tâm trạng của người dân đương thời – tâm trạng không còn tin tướng vào đạo lý của tầng lớp hiệp sĩ vốn đã được một số tiểu thuyết gia đương thời đề cao trong tác phẩm của họ. Sau đó, Đôn-ki-hô-tê trở thành một tác phẩm mẫu mực của trào lưu hiện thực.
II.Xéc -van-tét kể chuyện Đôn-ki-hô-tê, một lão quý tộc nghèo, người cao và gầy, rất mê đọc truyện hiệp sĩ nên muôn trở thành người tìm diệt lũ gian tà, cứu người lương thiện. Với đồ binh giáo cũ, lão mặc vào người, phong cho người phụ nữ mà lão thầm yêu là công nương Đuyn-xi-nê-a, con ngựa gầy Rô-xi-nan-tê là chiến mã. Lão cưỡi lên mình ngựa cùng với giám mã Xan-chô Pan-xa béo lùn cưỡi trên lưng lừa ra đi. Sau những thất bại ê chề, lão ốm nặng. Lão nhận ra sự mù quáng cô” chấp của mình khi tin vào những nhân vật hiệp sĩ trong tiểu thuyết. Lão viết di chúc và qua đời.
Đoạn trích kể lại sự việc Đôn-ki-hô-tê cùng với Xan-chô Pan-cha trên con đường hành hiệp “Chợt hai thầy trò phát hiện có ba bổn chục cối xay gió giữa đồng”. Nhà văn giới thiệu sự vật chính mà ít người dân Tây Ban Nha không biết đến để dẫn đến sự việc đánh nhau. Chính sự vật và việc giúp người đọc nhận ra tính cách của nhân vật. Khi phát hiện ra sự vật “chiếc cối xay gió”, Đôn-ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa đã biểu hiện tính cách tương phản một cách rõ ràng giữa hai người, trong đó có cả mặt tốt lẫn mặt hạn chế. Mặt hạn chế của Đôn-ki-hô-tê là không biết phân biệt, cứ cho những chiếc cối xay gió là “ba bổn chục tên khủng lồ ghê gớm’ “cánh tay chúng dài ngoẵng, có đứa, cánh tay dài tới hai dặm”. Khi được Xan-chô Pan-xa giải thích từng chi tiết về chiệc cối xay gió một cách rõ ràng, lão hiệp sĩ Đôn-ki-hỗ-tê vẫn không tin, chê người hầu cận mình là kẻ chẳng thành thạo gì về những chuyện phiêu lưu. Ớ xứ sở mà bất cứ ai cũng biết cối xay gió thì lẽ nào Đôn-ki-hô-tê lại không biết? Có lẽ vì Đôn-ki-hô-tê bị ám ảnh bởi chuyện hành hiệp giang hồ, bị ám ảnh bởi lý tưởng hiệp sĩ nên chẳng quan tâm tới lời can của Xan-chô. Ngay cả khi bị “gió làm cánh quạt quay tít khiến ngọn giáo gãy tan tành, kéo theo cả ngựa và người ngã văng ra xa ”, thay vì tỉnh ngộ vì đã đụng vào sự thật thì Đôn-ki-hô-tê lại biện luận và cho rằng pháp sư Phơ-rê-xtôn là kẻ đánh cắp sách vở, “bây giờ lại biến những tên khổng lồ kia thành cối xay gió để tước đi của ta niềm vinh quang đánh bại chúng, vì lão thâm thù ta lắm cơ”.
Không tỉnh táo để phân biệt thật – giả, không chịu chữa vết thương khi bị “những tên khổng lồ… cối xay gió” đánh cho “không cựa quậy” được, Đôn-ki-hô-tê còn cho người hầu biết “và ta không kêu đau là vì các hiệp sĩ giang hồ có bị thương thế nào cũng không được rên rì, dù xổ cả gan ruột ra ngoài”. Tới giờ ăn thì cho rằng lúc này chưa cần ăn; tới giờ ngủ thì Đôn- ki-hô-tê “bắt chước những hiệp sĩ lão từng đọc trong sách thức trắng nhiều đêm ròng… nhớ tới tình nương’” là “cũng đủ no rồi”. Tại sao Đôn-ki-hô-tê lại có những quyết định như thế? Chẳng lẽ lão không nhận ra việc điều trị vết thương, ăn uống, nghỉ ngơi là việc tối cần để giữ gìn sức khỏe trên đường hành hiệp? Chỉ có thể nói rằng lão tin và bắt chước các nhân vật trong tiểu thuyết hiệp sĩ đến mê muội. Ây là mặt hạn chế của Đôn-ki-hô- tê mà Xéc-van-tét đã miêu tả để vừa châm biếm các nhà viết tiểu thuyết hiệp sĩ vừa diễu cợt những ai chỉ biết bắt chước các nhân vật trong sách một cách máy móc, đần độn.
Tuy vậy, Đôn-ki-hô-tê cũng có mặt tốt. Trước hết là động cơ thúc đẩy lão hành hiệp giang hồ. Đời vẫn còn nhiều kẻ ác, xấu xa như lão pháp sư chẳng hạn nên Đôn-ki-hô-tê quyết trở thành hiệp sĩ là để “quét sạch cái giống xấu xa này khỏi mặt đất” Và khi đã quyết định, Đôn-ki-hô-tê kiên quyết làm, không sợ chết. Khi bị thương, Đôn-ki-hô-tê vẫn giữ chí khí của người hiệp sĩ là không rên ri kêu than.
|
Instruct
-After the monkey fight: – The two teachers and students talked about the knight's personality, eating and sleeping.
Of the five main events, incident 1 is shown in paragraph 1; incident 2 in paragraph 2; The remaining 3 incidents are in paragraph 3.
+ About Serbia, students should know that his full name is Miguel de Cervantes, born in 1547 in Alcaíá de Henares, and died in 1666 in Madrid, Spain.
I. When talking about classical Spanish writers, readers often remember Salvador, who came from a noble but poor family, studied at university for a short time and then began a life of ups and downs. then joined the army. In a naval battle, Zevante lost his left arm and was taken prisoner for 5 years in Algeria. In 1580, he was released from prison, got married, and lived in poverty. Although he has artistic activities, he is not famous. It was not until 1605, when part I of the novel Don-quixote, the talented nobleman of Man-father, was born, that Zevante was welcomed by Spanish readers for his reflections. exactly the mood of contemporary people - the mood of no longer believing in the morality of the knightly class, which was promoted by a number of contemporary novelists in their works. After that, Don Quixote became an exemplary work of the realism movement.
II.Servantet tells the story of Don Quixote, a poor nobleman, tall and thin, who loved reading knightly stories, so he wanted to become a hunter to destroy evil people and save honest people. With the old military uniform, he put on his body and appointed the woman he secretly loved as Princess Duyen-cinea, and the thin horse Rocinante as the steed. The old man rode on his horse, along with his pudgy horseman, Sancho Panza, who rode on the back of a donkey. After humiliating failures, he became seriously ill. He realized his blindness when believing in knight characters in novels. He wrote a will and passed away.
The excerpt recounts the incident of Don Quixote and Sancho Pancha on their journey, "Suddenly, the two teachers and students discovered there were thirty or so windmills in the middle of the field." The writer introduces the main event that few Spanish people do not know that leads to the fight. It is the things and things that help the reader recognize the character's personality. When discovering the "windmill" thing, Don Quixote and Sancho Panza showed a clear contrast in their personalities, including both good and bad sides. limit. Don Quixote's limitation is that he does not know how to distinguish, just think of the windmills as "three dozen terrible giants" "their arms are long, some have arms as long as two mile". When Sancho Panza explained every detail about the windmill clearly, the old knight Don Kihothe still did not believe it, criticizing his servant as someone who was not proficient in these things. adventure story. In a country where everyone knows about windmills, how come Don Quixote doesn't? Perhaps because Don Quixote was obsessed with chivalry, obsessed with the ideal of chivalry, he did not care about Sancho's advice. Even when "the wind made the propeller spin, causing the spear to break into pieces, dragging both horses and people to the ground", instead of waking up because he had touched the truth, Don Quixote argued. argued and said that the magician Florston was the one who stole the books, "now he turned those giants into windmills to deprive me of the glory of defeating them, because he has a deep hatred for me." muscle".
Not alert enough to distinguish between truth and falsehood, and refusing to treat his wound when "giants... windmills" beat him so that he "couldn't move", Don Quixote even told his servant "and I don't cry out in pain because no matter how injured the knights are, they are not allowed to moan, even if their guts are spilled out." When it's time to eat, you think you don't need to eat at this time; When it was time to sleep, Don Quixote "imitated the knights he had read about in books and stayed up all night long... remembering his mistress" and that was "enough to fill him up". Why did Don Quixote make such decisions? Could it be that he doesn't realize that treating wounds, eating, drinking, and resting are the most necessary things to maintain health on the journey? It can only be said that he believes in and imitates the characters in knightly novels to the point of delusion. This is the limitation of Don Quixote that Zevante described to both satirize the writers of knightly novels and mock those who only know how to imitate the characters in the book mechanically. hooky, dull.
However, Don Quixote also has a good side. First of all is the motive that motivates the old man to join the wanderers. There are still many evil people in the world, like the old magician, for example, so Don Quixote decided to become a knight to "wipe out this evil breed from the face of the earth." And when he decided, Don- Kiyot is determined to do it, not afraid of death. When injured, Don Quixote still maintained the knight's spirit of not groaning or complaining.
|
Hướng dẫn
… Ông viết tác phẩm này tại Sài Gòn trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, gửi gắm bao nỗi ‘sầu biệt li vơi sáng đẩy chiều’: nhớ vợ con gia đình, nhớ quê hương, nhớ miền Bắc, nhớ Hà Nội… Mỗi tháng ông có một nỗi nhớ, nhớ triền miên, nhớ dằng dặc suốt năm.
Tháng giêng và mùa xuân Hà Nội, mùa xuân miền Bắc đối với Vũ Bằng sao nhớ thế. Nỗi nhớ ấy, nỗi buồn đẹp ấy là của khách ‘thiên lí tương tu’.
‘Ai cũng chuộng mùa xuân’và ‘mê luyến mùa xuân’ nên càng ‘trìu mến’ tháng giêng, tháng đầu của mùa xuân. Tinh cảm ấy rất chân tình ‘không có gì lạ 186hết’.Cách so sánh đối chiếu của Vũ Bằng rất phong tình gợi cảm: ‘Ai bảo non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thi mới hết được người mê luyến mùa xuân’.Một cách viết duyên dáng, cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ: ‘ai bảo được…’, ‘ai cấm được… ai cấm được… ai cấm được…’.Chữ ‘thương’ được nhắc lại bốn lần, liên kết với chữ ‘yêu’, chữ ‘nhớ’ đầy ấn tượng và rung động.
Là một khách tài tử yêu cảnh sắc thiên nhiên ‘yêu sông xanh núi tím’, rất đa tình, yêu nhan sắc giai nhân ‘đôi mày như trăng mới in ngần’, yêu những ‘mộng ước của mình’. Nhưng Vũ Bằng đã tâm sự là mình ‘yêu nhất mùa xuân không phái vì thể. Câu văn như nhún nhảy: ‘tôi yêu… tôi yêu… và tôi cũng xây mộng… những yêu nhất..’. Thoáng gọi một câu thơ Kiều Nguyễn Du, một cách viết tài hoa.
Mùa xuân mà Vũ Bằng thương nhớ và yêu nhất là mùa xuân miền Bắc, mùa xuân Hà Nội, nơi có gia đình và vợ con ông, mà ông đã nhiều năm tháng cách biệt. Ông nhớ cái ‘mưa riêu riêu’, cái ‘gió lành lạnh’ của mùa xuân quê hương. Ông thương nhớ những âm thanh mùa xuân miền Bắc: ‘tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng…’. Tình thương nhớ mùa xuân Bắc Việt của Vũ Bằng rất thiết tha nồng nàn cháy bỏng. Ta thấy tâm hồn ông trang trải khắp cảnh sắc và con người, từ xóm thôn đến bầu trời, từ lễ hội mùa xuân đến tiếng trống chèo, đến câu tình ca thôn nữ.
Càng yêu cảnh bao nhiêu, tác giả càng yêu sự sống bấy nhiêu! ‘Cái mùa xuân thần thánh’rất diệu kì. Vũ Bằng đã sử dụng hai so sánh để nói lên cái diệu kì ấy: ‘Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cói, nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái lá nhỏ tí ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh’.
Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết:
‘Tháng giêng ngon như một cặp môi gần (…) Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!’
(‘Vội vàng’)
Cùng với cảm hứng mùa xuân ấy, Vũ Bằng cho biết, trong ‘cái rét ngọt ngào’ của mùa xuân, ‘tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn…’ và ‘thèm khát yêu thương thực sự’, yêu đồng loại, yêu gia đình. Trong không khí gia đình đoàn tụ êm đềm giữa những ngày xuân, lòng người ‘ấm lạ ấm lùng’, bao niềm vui sướng hạnh phúc tưởng ‘như cố không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan’.
San sẻ với bao thương nhớ của Vũ Bằng, ta càng thấy rõ ông yêu mùa xuân, yêu cảnh vật, yêu con người cùa quê hương xứ sở, lại càng yêu sống, yêu đời hơn bao giờ hết.
Câu văn xuôi của Vũ Bằng rất giàu biểu cảm và chất thơ trữ tình. Chất thơ lắng dịu ngọt ngào. Ta hãy khẽ đọc và cùng nhau cảm thụ:
‘Đẹp quá đi, mùa xuân ơi-
mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến’
Yêu mùa xuân quê hương, nhưng tác giả ‘yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng’. Lúc ấy có biết bao xuân tứ, xuân tình. Bao cảnh sắc vương vấn. Đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ thì ‘nức một mùi hương man mác’. Con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa trên giàn thiên lí. Sau cơn mưa xuân, bầu trời xuân rất đẹp. Buổi sáng sớm thấy ‘những vệt xanh tươi hiện ở trên trời’. Độ tám chín giờ ‘trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột’. Cà om thịt thăn điểm lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng, là hương vị đậm đà bữa cơm giản dị gia đình. Đã mấy ai trong chúng ta được hưởng thụ như Vũ Bằng? Hương vị đậm đà ấy tưởng như được ướp hương xuân.
|
Instruct
… He wrote this work in Saigon during the years when the country was divided, expressing many of his 'sorrows of farewell in the morning and evening': missing his wife, children and family, missing his homeland, missing the North, missing Hanoi. … Every month he has a nostalgia, a constant nostalgia, a lingering nostalgia throughout the year.
January and spring in Hanoi, spring in the North are so memorable for Vu Bang. That nostalgia, that beautiful sadness is the guest's 'thien ly tuong tu'.
'Everyone loves spring' and 'loves spring' so they 'love' January, the first month of spring. That feeling is very sincere, 'nothing strange at all'. Vu Bang's way of comparing and contrasting is very sensual and sentimental: 'Who says the mountains should not love the water, the butterflies should not love the flowers, the moon should not love the wind; Who can stop a boy from loving a girl? Who can stop a mother from loving her child? Who can stop the girl who still misses her husband? Only then can he stop being in love with spring'. A graceful way of writing, emotions keep flowing out through alliteration: 'Who can say…', 'Who can stop… who can stop? Yes... who can forbid it...'. The word 'love' is repeated four times, linked with the word 'love' and the word 'remember', which is impressive and moving.
He is an amateur who loves natural scenery, 'loves green rivers and purple mountains', is very affectionate, loves beautiful women's beauty, 'eyebrows like the new moon', loves 'his dreams'. But Vu Bang confided that he 'loves spring the most regardless of reason. The sentence seems to dance: 'I love... I love... and I also build dreams... the most loved...'. It's called a poem by Kieu Nguyen Du, a talented way of writing.
The spring that Vu Bang remembers and loves the most is the spring in the North, the spring in Hanoi, where his family, wife and children live, from whom he has been separated for many years. He misses the 'drizzle of rain' and the 'cold wind' of spring in his homeland. He longed for the sounds of spring in the North: 'the sound of swallows calling in the blue night, the sound of rowing drums echoing from distant villages, the love song of a beautiful, poetic girl...'. Vu Bang's love for the North Vietnamese spring is very passionate and passionate. We see his soul spread across landscapes and people, from the countryside to the sky, from the spring festival to the sound of drums and paddles, to the love songs of village women.
The more the author loves the scene, the more the author loves life! The 'divine spring' is very magical. Vu Bang used two comparisons to express that miracle: 'The sap of life in the body swells like blood in the buds of deer, like the buds of a sedge plant, lying still cannot stand it forever, it must rise. turned into tiny leaves and raised their hands to wave to the lovebirds standing next to them.
Poet Xuan Dieu once wrote:
‘January is as delicious as a pair of close lips (…) O spring, I want to bite you!’
('Hurry')
Along with that spring inspiration, Vu Bang said, in the 'sweet cold' of spring, 'people's hearts also seem to become younger, and beat stronger...' and 'crave for true love' , love fellow human beings, love family. In the peaceful atmosphere of family reunion in the middle of spring days, people's hearts are 'strangely warm', filled with joy and happiness, it seems like 'I don't know how many new flowers are blooming, butterflies are coming out to celebrate the festival'. .
Sharing with Vu Bang's many memories, we see more clearly that he loved spring, loved the scenery, loved the people of his homeland, and loved life more than ever.
Vu Bang's prose is rich in expression and lyrical poetry. The poetry is gentle and sweet. Let's read quietly and enjoy together:
'So beautiful, spring-
spring of beloved Hanoi, of beloved North Vietnam'
I love spring in my hometown, but the author 'loves spring especially after the full moon day of the first month'. At that time, there were so many springs of romance and love. Many beautiful scenes linger. The peaches are slightly faded but the pistils are still intact, and the grass 'smells a wonderful scent'. The bee diligently flies to search for stamens on the Thien Ly trellis. After the spring rain, the spring sky is very beautiful. Early in the morning, 'green streaks appeared in the sky'. At eight or nine o'clock, 'in the clear sky, there were pink rays of light vibrating like newly shed wings of a cicada'. Braised eggplant with tenderloin topped with chopped perilla leaves or a bowl of crab egg soup with a squeeze of lemon eaten cool like a fan, are the rich flavors of a simple family meal. How many of us have enjoyed it like Vu Bang? That rich flavor seems to be marinated with the scent of spring.
|
Hướng dẫn
+ Cụ Bơ-men đã vẽ chiếc lá vào nơi mà chiếc lã cuối cùng đã rụng trong đêm ấy. Cụ đã chết ở bệnh viện sam đó hơi Ngày, còn Giôn-xi thì đang bình phục.
+ về o.Henri thì ông có tên là William Sydney Porter, sinh năm 1862 ở Greensboro, bang Bắc Caroline, mất năm 1910 tại New York.
I. Dù xuất thân từ một gia đình có cha là thầy thuốc ở Têch-dát nhưng khi khôn lớn lại gặp phải cuộc sống ba chìm bảy nổi. Đang là nhân viên ngân hàng ởđây, ông phải trôn xuống miền nam nước Mỹ vì bị tô” cáo về tội thâm lạm tiền bạc. Sông lang bạt cho tới năm 1898 thì bị bắt ở Cô-lôm-bớt. Có thể xem sự nghiệp văn chương của ông bắt đầu từ những tháng năm sông cảnh cá chậu chim lồng này. Ông viết truyện ngắn, và mượn tên O.Hen-ri của người coi tù làm bút danh. Không ngờ, người dân Mỹ thời ấy lại thích lối viết của ông. Các truyện của O.Hen-ri thường nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình thương yêu người nghèo khổ, rất cảm động, tiêu biểu là truyện Chiếc lú cuối cùng.
II. Truyện kể lại rằng Xiu và Giôn-xi là hai nữ họa sĩ nghèo, còn trẻ, sông trong một căn hộ thuê ở gần công viên Oa-sinh-tơn. Cụ Bơ-men cũng là một họa sĩ nghèo thuê phòng ở tầng dưới. Bôn chục năm nay cụ mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được; cụ,thường ngồi làm mẫu vẽ cho các họa sĩ để kiếm tiền. Lúc ấy là vào mùa đông. Giôn-xi bị bệnh sưng phổi. Bệnh tật và nghèo túng khiến cô tuyệt vọng không muốn sông nữa. Cô đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện với cửa sổ, chờ khi nào chiếc lá cuối cùng rụng nốt thì cô cũng buông xuôi, lìa đời… Đoạn văn mà chúng ta phân tích dưới đây là phần cuối truyện.
Mở đầu phần này là sự xuất hiện của cụ Bơ-men tại nơi ở của hai nữ họa sĩ nghèo, lúc trời đang mưa lẫn cùng với tuyết. Cụ đang là người mẫu “ngồi đóng vai một tay thợ mỏ già trên cái ấm đun nước lật úp giả làm tảng đá”để cho nữ họa sĩ Xiu vẽ. Có lẽ cụ đã nghe Xiu cho biết là Giôn- xi bị bệnh nặng và rơi vào tình trạng bi quan nến đã ghé thăm. Trước khi bắt đầu công việc thường ngày ở phòng bên cạnh, cả hai người “sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thưởng xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì”.Nhà văn đã miêu tả nét nhìn của hai nhân vật. Khi nhìn cây thường xuân ở bên ngoài cửa sổ, nét nhìn của họ có chung tính chất là “sợ sệt”. Ở nét nhìn này, người đọc có thể tự hỏi: Họ sợ sệt điều gì? Nét nhìn thứ hai là họ nhìn nhau mà chẳng nói năng gì. Dù vậy, nhưng chắc nét nhìn của Xiu ngầm nói một mong ước, và có thể cụ Bơ-men hiểu được sự mong ước của Xiu. Nhà văn đã miêu tả một tín hiệu ẩn vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, và nếu có thì mong ước của Xiu có được đáp ứng hay không. Chi tiết này sẽ tạo sự bất ngờ ởngười đọc.
Mà đúng vậy, cả Xiu và Giôn-xi đều bất ngờ! Sáng hôm sau, cả hai: kẻ thì mang tâm trạng bi quan “thều thào ra lệnh”, người thì mang tâm trạng “chán nản” kéo tấm mành màu xanh lên. Tại sao thế? Bởi vì cả Xiu lẫn Giôn-xi đều bị ám ảnh bởi chiếc lá thường xuân cuối cùng đã rụng trong đêm, và Xiu cũng: không biết cụ Bơ-men có vẽ chiếc lá để cứu người hay không dù hai người có nhìn cây thường xuân và lo sợ. Kéo tâm mành mành lên là vén bức màn bí mật, và có thể sự thật bi quan đã ám ảnh cả hai người sẽ lộ ra. Tấm màn đã được kéo lên. “Nhưng, ô kìa! “.Ai đã thốt lên cụm từ cảm thán ấy? Có thể là cả hai đều biểu thị sự bất ngờ, ngạc nhiên ngập tràn niềm vui. Sức hấp dẫn của truyện là ở chi tiết bất ngờ ấy, một chi tiết vừa biểu hiện tình bạn chân thành của Xiu, và vừa biểu hiện sự hy sinh cao cả của cụ Bơ-men. Chiếc lá “hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm đeo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ”đã trở thành biểu tượng hồi sinh của Giôn-xi. Nhìn thấy nó, Giôn-xi đã tâm sự với Xiu rằng “’Em cứ tưởng là nhất định trong đêm vừa qua nó đã rụng. Em nghe thấy gió thổi. Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cũng lúc đó thì em sẽ chết”.Sau đó cô lại nói thêm những câu nói tự trách mình, những lời biết Ơn mà cũng là lời thú tội: “Có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội”.Rồi Giôn-xi xin được uống sữa, được cầm chiếc gương tay, được xem Xiu nấu nướng, và nuôi lại hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ.
Ai đã thắp sáng lại niềm hi vọng này? Ai đã cứu Giôn-xi? Tất nhiên trước mắt là vị bác sĩ. Bác sĩ chữa bệnh là chuyện thường tình. Nhưng nguyên nhân sâu xa quyết định tâm trạng hồi sinh của Giôn-xi nằm ẩn trong hình ảnh của chiếc lá cuối cùng còn lại trên cành thường xuân. Lá và hoa đâm chồi nẩy lộc, mọc và rung theo chu kì tự nhiên nếu không có tác động bởi con người. Chính Giôn-xi đã nói với Xiu cảm nhận của mình về chiếc lá cuối cùng kia rằng “có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đố… “.Nhà văn đã khéo léo tạo cho người đọc một cảm giác mơ hồ từ câu nói của Giôn-xi. “Cái gì đấy”đích xác, rõ ràng chính là cái gì? Người đọc có thể tự đặt câu hỏi như thế, rồi tự tìm lấy câu trả lời trong suốt quá trình đọc truyện, còn nhà văn thì chỉ mấp mé hé mở qua lời của nhân vật.
“Cái gì đấy”, trong truyện có thể là tình bạn gắn bó giữa Xiu và Giôn-xi. Dù nghèo khổ nhưng Xiu không bỏ mặc Giôn-xi với cơn bệnh nặng.
Ngược lại Xiu còn chăm sóc, lo lắng cho Giôn-xi như chăm sóc cho em gái của mình. Khuôn mặt Xiu ngày càng hốc hác. Khi biết được ý nghĩ kì quặc của Giôn-xi, Xiu đã cố năn nỉ: “Em hãy nghĩ đến chị, nếu em không còn muốn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?’Điều ấy chứng tỏ cô thương Giôn-xi vô cùng, và mong muốn Giôn-xi tống khứ ý nghĩ kì quặc kia ra khỏi đầu Giôn-xi. Có lẽ vì thế mà Xiu đã cùng cụ Bơ-men nhìn cây thường xuân, rồi hai người im lặng nhìn nhau. Một phần câu trả lời câu hỏi “cái gì đấy” ẩn trong cái nhìn ấy của Xiu, và phần còn lại ẩn trong cái nhìn của cụ Bơ-men. Người đọc có thể đoán ra cái nhìn của hai người biểu lộ ý ngầm hiểu ý nghĩ kì quặc của Giôn-xi về sự sống hay chết của cô có liên quan đến sự rụng của chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân. Nhưng làm cách nào để chiếc lá ấy vẫn tồn tại trước cơn mửa to gió lớn? Nếu không có đoạn cuối truyện thì cả nhân vật Giôn-xi lẫn bạn đọc không trả lời được câu hỏi trên, không nhận ra sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men.
Trước đó, sau khi khám bệnh cho Giôn-xi xong, gặp Xiu ở hành lang, bác sĩ đã cho biết: “Và bây giờ tôi phải xuống dưới nhà thăm một bệnh nhân khác, tên là Bơ-men. Ông cụ là một người già yếu, bệnh tình nguy kịch. Chẳng còn hỉ vọng gì…”.Khi biết được tin ấy, có lẽ Xiu đã tìm hiểu. Với những gì Xiu thấy trước mắt, và khi tin chắc rằng Giôn-xi sống thì Xiu mới cho Giôn-xi biết “Cụ Bơ-men đã chết vì sưng phổi hổm nay ở bệnh viện rồi”, với một loạt các chi tiết như giày, áo quần của cụ ướt sũng và lạnh buốt, cây đèn bão còn thắp sáng, cái thang, “và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn với nhau”.Với những chi tiết khá cụ thể như thế thì có lẽ ai cũng hình dung ra cụ Bơ-men đã làm gì trong cái đêm mưa gió lạnh buốt ấy. Và như để nhấn mạnh hơn về sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men,
O.Hen-ri đã cho nhân vật Xiu giải thích tại sao chiếc lá thường xuân cuối cùng không hề rung rinh mỗi khi gió thổi, và đi đến kết luận: “Ô, em thân yêu, đó chính là kiệt tác của cụ Bơ-men, – cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng”.
|
Hướng dẫn
+ Cụ Bơ-men đã vẽ chiếc lá vào nơi mà chiếc lã cuối cùng đã rụng trong đêm ấy. Cụ đã chết ở bệnh viện sam đó hơi Ngày, còn Giôn-xi thì đang bình phục.
+ về o.Henri thì ông có tên là William Sydney Porter, sinh năm 1862 ở Greensboro, bang Bắc Caroline, mất năm 1910 tại New York.
I. Dù xuất thân từ một gia đình có cha là thầy thuốc ở Têch-dát nhưng khi khôn lớn lại gặp phải cuộc sống ba chìm bảy nổi. Đang là nhân viên ngân hàng ởđây, ông phải trôn xuống miền nam nước Mỹ vì bị tô” cáo về tội thâm lạm tiền bạc. Sông lang bạt cho tới năm 1898 thì bị bắt ở Cô-lôm-bớt. Có thể xem sự nghiệp văn chương của ông bắt đầu từ những tháng năm sông cảnh cá chậu chim lồng này. Ông viết truyện ngắn, và mượn tên O.Hen-ri của người coi tù làm bút danh. Không ngờ, người dân Mỹ thời ấy lại thích lối viết của ông. Các truyện của O.Hen-ri thường nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình thương yêu người nghèo khổ, rất cảm động, tiêu biểu là truyện Chiếc lú cuối cùng.
II. Truyện kể lại rằng Xiu và Giôn-xi là hai nữ họa sĩ nghèo, còn trẻ, sông trong một căn hộ thuê ở gần công viên Oa-sinh-tơn. Cụ Bơ-men cũng là một họa sĩ nghèo thuê phòng ở tầng dưới. Bôn chục năm nay cụ mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được; cụ,thường ngồi làm mẫu vẽ cho các họa sĩ để kiếm tiền. Lúc ấy là vào mùa đông. Giôn-xi bị bệnh sưng phổi. Bệnh tật và nghèo túng khiến cô tuyệt vọng không muốn sông nữa. Cô đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện với cửa sổ, chờ khi nào chiếc lá cuối cùng rụng nốt thì cô cũng buông xuôi, lìa đời… Đoạn văn mà chúng ta phân tích dưới đây là phần cuối truyện.
Mở đầu phần này là sự xuất hiện của cụ Bơ-men tại nơi ở của hai nữ họa sĩ nghèo, lúc trời đang mưa lẫn cùng với tuyết. Cụ đang là người mẫu “ngồi đóng vai một tay thợ mỏ già trên cái ấm đun nước lật úp giả làm tảng đá”để cho nữ họa sĩ Xiu vẽ. Có lẽ cụ đã nghe Xiu cho biết là Giôn- xi bị bệnh nặng và rơi vào tình trạng bi quan nến đã ghé thăm. Trước khi bắt đầu công việc thường ngày ở phòng bên cạnh, cả hai người “sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thưởng xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì”.Nhà văn đã miêu tả nét nhìn của hai nhân vật. Khi nhìn cây thường xuân ở bên ngoài cửa sổ, nét nhìn của họ có chung tính chất là “sợ sệt”. Ở nét nhìn này, người đọc có thể tự hỏi: Họ sợ sệt điều gì? Nét nhìn thứ hai là họ nhìn nhau mà chẳng nói năng gì. Dù vậy, nhưng chắc nét nhìn của Xiu ngầm nói một mong ước, và có thể cụ Bơ-men hiểu được sự mong ước của Xiu. Nhà văn đã miêu tả một tín hiệu ẩn vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, và nếu có thì mong ước của Xiu có được đáp ứng hay không. Chi tiết này sẽ tạo sự bất ngờ ởngười đọc.
Mà đúng vậy, cả Xiu và Giôn-xi đều bất ngờ! Sáng hôm sau, cả hai: kẻ thì mang tâm trạng bi quan “thều thào ra lệnh”, người thì mang tâm trạng “chán nản” kéo tấm mành màu xanh lên. Tại sao thế? Bởi vì cả Xiu lẫn Giôn-xi đều bị ám ảnh bởi chiếc lá thường xuân cuối cùng đã rụng trong đêm, và Xiu cũng: không biết cụ Bơ-men có vẽ chiếc lá để cứu người hay không dù hai người có nhìn cây thường xuân và lo sợ. Kéo tâm mành mành lên là vén bức màn bí mật, và có thể sự thật bi quan đã ám ảnh cả hai người sẽ lộ ra. Tấm màn đã được kéo lên. “Nhưng, ô kìa! “.Ai đã thốt lên cụm từ cảm thán ấy? Có thể là cả hai đều biểu thị sự bất ngờ, ngạc nhiên ngập tràn niềm vui. Sức hấp dẫn của truyện là ở chi tiết bất ngờ ấy, một chi tiết vừa biểu hiện tình bạn chân thành của Xiu, và vừa biểu hiện sự hy sinh cao cả của cụ Bơ-men. Chiếc lá “hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm đeo bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ”đã trở thành biểu tượng hồi sinh của Giôn-xi. Nhìn thấy nó, Giôn-xi đã tâm sự với Xiu rằng “’Em cứ tưởng là nhất định trong đêm vừa qua nó đã rụng. Em nghe thấy gió thổi. Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cũng lúc đó thì em sẽ chết”.Sau đó cô lại nói thêm những câu nói tự trách mình, những lời biết Ơn mà cũng là lời thú tội: “Có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội”.Rồi Giôn-xi xin được uống sữa, được cầm chiếc gương tay, được xem Xiu nấu nướng, và nuôi lại hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ.
Ai đã thắp sáng lại niềm hi vọng này? Ai đã cứu Giôn-xi? Tất nhiên trước mắt là vị bác sĩ. Bác sĩ chữa bệnh là chuyện thường tình. Nhưng nguyên nhân sâu xa quyết định tâm trạng hồi sinh của Giôn-xi nằm ẩn trong hình ảnh của chiếc lá cuối cùng còn lại trên cành thường xuân. Lá và hoa đâm chồi nẩy lộc, mọc và rung theo chu kì tự nhiên nếu không có tác động bởi con người. Chính Giôn-xi đã nói với Xiu cảm nhận của mình về chiếc lá cuối cùng kia rằng “có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đố… “.Nhà văn đã khéo léo tạo cho người đọc một cảm giác mơ hồ từ câu nói của Giôn-xi. “Cái gì đấy”đích xác, rõ ràng chính là cái gì? Người đọc có thể tự đặt câu hỏi như thế, rồi tự tìm lấy câu trả lời trong suốt quá trình đọc truyện, còn nhà văn thì chỉ mấp mé hé mở qua lời của nhân vật.
“Cái gì đấy”, trong truyện có thể là tình bạn gắn bó giữa Xiu và Giôn-xi. Dù nghèo khổ nhưng Xiu không bỏ mặc Giôn-xi với cơn bệnh nặng.
Ngược lại Xiu còn chăm sóc, lo lắng cho Giôn-xi như chăm sóc cho em gái của mình. Khuôn mặt Xiu ngày càng hốc hác. Khi biết được ý nghĩ kì quặc của Giôn-xi, Xiu đã cố năn nỉ: “Em hãy nghĩ đến chị, nếu em không còn muốn nghĩ đến mình nữa. Chị sẽ làm gì đây?’Điều ấy chứng tỏ cô thương Giôn-xi vô cùng, và mong muốn Giôn-xi tống khứ ý nghĩ kì quặc kia ra khỏi đầu Giôn-xi. Có lẽ vì thế mà Xiu đã cùng cụ Bơ-men nhìn cây thường xuân, rồi hai người im lặng nhìn nhau. Một phần câu trả lời câu hỏi “cái gì đấy” ẩn trong cái nhìn ấy của Xiu, và phần còn lại ẩn trong cái nhìn của cụ Bơ-men. Người đọc có thể đoán ra cái nhìn của hai người biểu lộ ý ngầm hiểu ý nghĩ kì quặc của Giôn-xi về sự sống hay chết của cô có liên quan đến sự rụng của chiếc lá cuối cùng của cây thường xuân. Nhưng làm cách nào để chiếc lá ấy vẫn tồn tại trước cơn mửa to gió lớn? Nếu không có đoạn cuối truyện thì cả nhân vật Giôn-xi lẫn bạn đọc không trả lời được câu hỏi trên, không nhận ra sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men.
Trước đó, sau khi khám bệnh cho Giôn-xi xong, gặp Xiu ở hành lang, bác sĩ đã cho biết: “Và bây giờ tôi phải xuống dưới nhà thăm một bệnh nhân khác, tên là Bơ-men. Ông cụ là một người già yếu, bệnh tình nguy kịch. Chẳng còn hỉ vọng gì…”.Khi biết được tin ấy, có lẽ Xiu đã tìm hiểu. Với những gì Xiu thấy trước mắt, và khi tin chắc rằng Giôn-xi sống thì Xiu mới cho Giôn-xi biết “Cụ Bơ-men đã chết vì sưng phổi hổm nay ở bệnh viện rồi”, với một loạt các chi tiết như giày, áo quần của cụ ướt sũng và lạnh buốt, cây đèn bão còn thắp sáng, cái thang, “và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn với nhau”.Với những chi tiết khá cụ thể như thế thì có lẽ ai cũng hình dung ra cụ Bơ-men đã làm gì trong cái đêm mưa gió lạnh buốt ấy. Và như để nhấn mạnh hơn về sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men,
O.Hen-ri đã cho nhân vật Xiu giải thích tại sao chiếc lá thường xuân cuối cùng không hề rung rinh mỗi khi gió thổi, và đi đến kết luận: “Ô, em thân yêu, đó chính là kiệt tác của cụ Bơ-men, – cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng”.
|
Hướng dẫn
1. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
2. Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
3. Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
4. Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt.
5. Tấc đất, tấc vàng.
6. Nhất canh tri, nhị canh viên, tam canh điền.
7. Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
8. Nhất thì, nhì thục.
…Trong cuộc sống lâu dài qua hàng ngàn năn lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta đã đúc rút được bao kinh nghiệm quý báu, chắt lọc qua hàng ngàn, hàng vạn câu tục ngữ ngắn gọn, cô đúc có vế đối, có vần vè, lưu truyền trong dân gian. Kho tàng tục ngữ Việt Nam thật phong phú và vô cùng quý báu. Trong đó, những câu tục ngữ về thiên nhiên lao động sản xuất đúc kết bao kinh nghiệm có nhiều giá trị thực tiễn.
1. Trước đây, nhân dân ta chưa có những dụng cụ, máy móc khoa học để đo thời gian, nhưng chỉ bằng kinh nghiệm, bằng trực giác và vốn sống, họ đã có những nhận xét rất đúng đắn về độ dài ngày và đêm mùa hè, mùa đông:
‘Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối’
Câu tục ngữ vừa có vần lưng (năm với nằm, mười với cười, vần với nhau), vừa có đối (đêm và ngày, tháng năm và tháng mười, nằm và cười, sáng và tối, đối nhau). Cách nói hồn nhiên, hóm hỉnh: lấy giấc ngủ: ‘chưa nằm đã sáng’ để đo chiều dài đêm tháng năm, chỉ ra đêm mùa hè là ngắn, rất ngắn; lấy tiếng cười để đo chiều dài ngày tháng mười, ngày mùa đông là ngắn, rất ngắn, chưa chiều đã tối. Suy luận ra, câu tục ngữ chỉ rõ: ngày mùa hè dài, đêm mùa đông rất dài. Do ánh sáng mùa hè, do mây mù mùa đông, và do kinh nghiệm cuộc sống, mà nhân dân ta nêu lên nhận xét rất đúng đắn: đêm mùa hè ngắn, ngày mùa đông ngắn. Nắm được độ dài thời gian theo đêm và ngày, theo mùa để chủ động bố trí công việc làm ăn và nghỉ ngơi là rất cần thiết. Đây là một câu tục ngữ đặc sắc.
2. Có thi sĩ đã viết: ‘Nắng mưa là bệnh của trời…’, thì tục ngữ cũng có câu nói về hiện tượng mưa nắng: ‘Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa’. Câu tục ngữ có 2 vế, mỗi vế gồm 4 chữ đối nhau: chữ nắng vần với chữ vắng. Một cách nói vần vè dễ nhớ. ‘Mau’ có nghĩa là nhiều, dày; ‘mau sao’ là nhiều sao, dày sao và sao xuất hiện sớm, mọc sớm. vê mùa hè, trời vừa chập tối, nhiều sao sáng xuất hiện trên bầu trời xanh qua đó nhân dân ta biết ngày mai và những ngày sắp tới trời nắng, rất đẹp trời, để chủ động sắp xếp công việc làm ăn, cày bừa cấy hái,… ‘vắng’ là thưa sao, ít sao trên bầu trời. Đó là một hiện tượng cho biết trời sắp mưa. Biết trước trời mưa, nắng thì mọi công việc làm ăn, nhất là nghề nông mới chủ động tích cực, mới tránh được rủi ro thiệt hại. Câu tục ngữ ‘Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa’ là một kinh nghiệm hay về dự báo thời tiết mùa hè. Mùa đông thì trái lại: ‘Nhiều sao thì mưa, thưa sao thì nắng’.
Câu tục ngữ ‘Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa’ có nhiều người còn nói:
– ‘Nhiều sao thì nắng, vắng sao thì mưa’.
– ‘Dày sao trời nắng, vắng sao trời mưa’.
3. Nhà nông, dân chài lưới, dân đi rừng ở ta chỉ có nhìn mây, nhìn ráng, nhìn mống cụt, cầu vồng mà đoán được gió bão, lũ lụt,… Câu tục ngữ: ‘Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ’ là một kinh nghiệm quý báu về dự báo thời tiết. Ráng là gì? Cuốn ‘Từ điển Tiếng Việt’ do Văn Tân chủ biên đã giải nghĩa như sau: ‘Ráng là đám mây màu sắc hồng, hoặc vàng… do ánh mặt trời buổi sáng sớm hoặc buổi chiều tà chiếu vào’. Ráng mỡ gà là ráng vàng tươi óng ánh. Có ráng mỡ gà xuất hiện ở trên bầu trời, nhân dân ta biết trời sắp nổi gió to, sắp bão, cần phải chuẩn bị giữ gìn, chằng buộc, chống đỡ, nhất là nhà gianh vách đất. Còn có những câu tục ngữ khác cũng nói về ráng:
– ‘Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa’.
– ‘Ráng vàng thì gió, ráng mỡ chó thì mưa’.
4. Các biến đổi bất thường về cây cỏ, sâu bọ, chim chóc, loài vật… là những hiện tượng, qua đó nhân dân lao động đã đúc rút được nhiều câu tục ngữ có giá trị thực tiễn to lớn. Dự báo thời tiết của dân gian rất phong phú:
– ‘Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa’.
– Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa’.
– ‘Gió bắc hiu hiu, sếu kêu trời rét’.
– ‘Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão’.
– ‘Êch kêu uôm uôm, ao chuôm đẩy nước”
– vân vân.
Ở miền Bắc nước ta, vào tháng bảy, tháng tám hàng năm thường có nhiều mưa, mưa rất to, mưa tầm tã, mưa nhiều ngày, gây ra bão, lũ lụt. Chỉ nhìn đàn kiến bò, 10 lượt kéo đi hàng đàn, nhân dân ta biết: sắp có mưa to, lũ lụt lớn sắp xảy ra: ‘Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lũ lụt’. Hoặc:
– ‘Kiến cánh vỡ tổ bay ra, bão táp mưa sa gần tới’.
– ‘Kiến đen tha trứng lên cao
Thế nào cũng có mưa rào rất to’
Bốn câu tục ngữ tiếp theo (5, 6, 7, 8) nêu lên những nhận xét, những kinh nghiệm hay, sâu sắc, xác đáng về đất đai, về ngành nghề, về trồng trọt và kỹ thuật làm ruộng của bà con nông dân:
– Tấc đất, tấc vàng.
. – Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.
– Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
– Nhất thì, nhì thục.
5. Câu tục ngữ: ‘Tấc đất, tấc vàng’ chỉ có bôn chữ rất ngắn gọn, chia thành hai vế đối nhau nêu lên nhân xét: đất là vàng, đất quý như vàng, đất quý hơn vàng. Đất để trồng lúa, ngô, khoai, đậu, vừng, cây ăn trái, rau và các loại hoà,… Đất để làm nhà, để xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa… Đất là nguồn lợi, nguồn sống của nhân dân. Câu tục ngữ vừa nêu lên giá trị của đất, vừa khuyên mọi người phải có ý thức bảo vệ, giữ gìn đất đai, ra sức chăm bón ruộng vườn ngày thêm màu mỡ. Còn có câu ca dao tương tự:
‘Ai ơi, đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu!’
6. Nhà nông quê ta có nhiều kinh nghiệm quý báu phát triển các ngành nghề: làm ruộng, làm vườn, chăn nuôi, thả cá, xây dựng các làng nghề thủ công… làm cho kinh tế nông thôn ngày càng mở mang, giàu có. Câu tục ngữ ‘Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền’ thể hiện trí tuệ và kinh nghiệm hay trong làm ăn của nông dân nước ta.
Trì là ao; canh trì nghĩa là đào ao thả cá…
Viên là vườn; canh viên nghĩa là làm vườn, trồng cây ăn trái…
Điền là ruộng; canh điển là làm ruộng, trồng lúa, hoa màu…
‘Nhất canh trì’:nuôi cá, nuôi tôm… thu lợi lớn, chóng làm giàu nhất. Vì thế mới có câu: ‘Một ao cá một rá bạc’.
‘Nhị canh viên’:làm vườn, trồng cây ăn quả, trồng rau, trồng hoa cũng là một nghề làm giàu, được xếp vào thứ hai, sau nghề nuôi trồng thủy sản.
Nghề làm ruộng là nghề căn bản, lâu đời, được xếp vào thứ ba. Ngày nay, nền kinh tế thị trường và khoa học kĩ thuật chân nuôi, trồng trọt ở nước ta phát triển, thúc đẩy và mở mang kinh tế trang trại ở khắp mọi miền quê. Hàng triệu
nóng dân thi đua làm giàu. Các nghề nuôi trồng thủy sản, làm vườn, làm ruộng, với kĩ thuật về giống, cây, con tiến bộ vượt bậc, đã xuất hiện nhiều triệu phú ở
nông thôn. Qua đó, ta càng thấy câu tục ngữ: ‘Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền’ nêu lên một bài học hay và sâu sắc.
7. Câu tục ngữ ‘Nhất nước, nhì phản, tam cần, tứ giống’ đã tổng kết và khẳng định bôn bài học lớn, kinh nghiệm hay về làm ruộng cho năng suất cao. Phải đủ nước; phải bón phân; phải cần cù cày bừa, bắt sâu, làm cỏ, vun xới,…; phải chọn được giống tốt. Cuộc cách mạng xanh ở một số nước châu Á như An Độ, Nhật Bản, Trung Quốc,… và ở nước ta cho thấy kĩ thuật về giống là hàng đầu, được coi tm-‘g nhất, ưu tiên nhất. Giống lúa mới, sức đề kháng cao chống sâu bệnh, cho năng suất cao được các nhà khoa học và nôngdân quan tâm đặc biệt. Nước ta có nền nông nghiệp phát triển, là nước xuất khẩu gạo lớn, qua đó, ta càng thấy giá trị và ý nghĩa đặc sắc ở câu tục ngữ này. Còn có những câu tục ngữ:
– ‘Phân tro không bằng no nước’.
– ‘Không nước không phân chuyên cần vô ích’
|
Hướng dẫn
1. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
2. Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
3. Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
4. Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt.
5. Tấc đất, tấc vàng.
6. Nhất canh tri, nhị canh viên, tam canh điền.
7. Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
8. Nhất thì, nhì thục.
…Trong cuộc sống lâu dài qua hàng ngàn năn lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta đã đúc rút được bao kinh nghiệm quý báu, chắt lọc qua hàng ngàn, hàng vạn câu tục ngữ ngắn gọn, cô đúc có vế đối, có vần vè, lưu truyền trong dân gian. Kho tàng tục ngữ Việt Nam thật phong phú và vô cùng quý báu. Trong đó, những câu tục ngữ về thiên nhiên lao động sản xuất đúc kết bao kinh nghiệm có nhiều giá trị thực tiễn.
1. Trước đây, nhân dân ta chưa có những dụng cụ, máy móc khoa học để đo thời gian, nhưng chỉ bằng kinh nghiệm, bằng trực giác và vốn sống, họ đã có những nhận xét rất đúng đắn về độ dài ngày và đêm mùa hè, mùa đông:
‘Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối’
Câu tục ngữ vừa có vần lưng (năm với nằm, mười với cười, vần với nhau), vừa có đối (đêm và ngày, tháng năm và tháng mười, nằm và cười, sáng và tối, đối nhau). Cách nói hồn nhiên, hóm hỉnh: lấy giấc ngủ: ‘chưa nằm đã sáng’ để đo chiều dài đêm tháng năm, chỉ ra đêm mùa hè là ngắn, rất ngắn; lấy tiếng cười để đo chiều dài ngày tháng mười, ngày mùa đông là ngắn, rất ngắn, chưa chiều đã tối. Suy luận ra, câu tục ngữ chỉ rõ: ngày mùa hè dài, đêm mùa đông rất dài. Do ánh sáng mùa hè, do mây mù mùa đông, và do kinh nghiệm cuộc sống, mà nhân dân ta nêu lên nhận xét rất đúng đắn: đêm mùa hè ngắn, ngày mùa đông ngắn. Nắm được độ dài thời gian theo đêm và ngày, theo mùa để chủ động bố trí công việc làm ăn và nghỉ ngơi là rất cần thiết. Đây là một câu tục ngữ đặc sắc.
2. Có thi sĩ đã viết: ‘Nắng mưa là bệnh của trời…’, thì tục ngữ cũng có câu nói về hiện tượng mưa nắng: ‘Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa’. Câu tục ngữ có 2 vế, mỗi vế gồm 4 chữ đối nhau: chữ nắng vần với chữ vắng. Một cách nói vần vè dễ nhớ. ‘Mau’ có nghĩa là nhiều, dày; ‘mau sao’ là nhiều sao, dày sao và sao xuất hiện sớm, mọc sớm. vê mùa hè, trời vừa chập tối, nhiều sao sáng xuất hiện trên bầu trời xanh qua đó nhân dân ta biết ngày mai và những ngày sắp tới trời nắng, rất đẹp trời, để chủ động sắp xếp công việc làm ăn, cày bừa cấy hái,… ‘vắng’ là thưa sao, ít sao trên bầu trời. Đó là một hiện tượng cho biết trời sắp mưa. Biết trước trời mưa, nắng thì mọi công việc làm ăn, nhất là nghề nông mới chủ động tích cực, mới tránh được rủi ro thiệt hại. Câu tục ngữ ‘Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa’ là một kinh nghiệm hay về dự báo thời tiết mùa hè. Mùa đông thì trái lại: ‘Nhiều sao thì mưa, thưa sao thì nắng’.
Câu tục ngữ ‘Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa’ có nhiều người còn nói:
– ‘Nhiều sao thì nắng, vắng sao thì mưa’.
– ‘Dày sao trời nắng, vắng sao trời mưa’.
3. Nhà nông, dân chài lưới, dân đi rừng ở ta chỉ có nhìn mây, nhìn ráng, nhìn mống cụt, cầu vồng mà đoán được gió bão, lũ lụt,… Câu tục ngữ: ‘Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ’ là một kinh nghiệm quý báu về dự báo thời tiết. Ráng là gì? Cuốn ‘Từ điển Tiếng Việt’ do Văn Tân chủ biên đã giải nghĩa như sau: ‘Ráng là đám mây màu sắc hồng, hoặc vàng… do ánh mặt trời buổi sáng sớm hoặc buổi chiều tà chiếu vào’. Ráng mỡ gà là ráng vàng tươi óng ánh. Có ráng mỡ gà xuất hiện ở trên bầu trời, nhân dân ta biết trời sắp nổi gió to, sắp bão, cần phải chuẩn bị giữ gìn, chằng buộc, chống đỡ, nhất là nhà gianh vách đất. Còn có những câu tục ngữ khác cũng nói về ráng:
– ‘Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa’.
– ‘Ráng vàng thì gió, ráng mỡ chó thì mưa’.
4. Các biến đổi bất thường về cây cỏ, sâu bọ, chim chóc, loài vật… là những hiện tượng, qua đó nhân dân lao động đã đúc rút được nhiều câu tục ngữ có giá trị thực tiễn to lớn. Dự báo thời tiết của dân gian rất phong phú:
– ‘Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa’.
– Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa’.
– ‘Gió bắc hiu hiu, sếu kêu trời rét’.
– ‘Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão’.
– ‘Êch kêu uôm uôm, ao chuôm đẩy nước”
– vân vân.
Ở miền Bắc nước ta, vào tháng bảy, tháng tám hàng năm thường có nhiều mưa, mưa rất to, mưa tầm tã, mưa nhiều ngày, gây ra bão, lũ lụt. Chỉ nhìn đàn kiến bò, 10 lượt kéo đi hàng đàn, nhân dân ta biết: sắp có mưa to, lũ lụt lớn sắp xảy ra: ‘Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lũ lụt’. Hoặc:
– ‘Kiến cánh vỡ tổ bay ra, bão táp mưa sa gần tới’.
– ‘Kiến đen tha trứng lên cao
Thế nào cũng có mưa rào rất to’
Bốn câu tục ngữ tiếp theo (5, 6, 7, 8) nêu lên những nhận xét, những kinh nghiệm hay, sâu sắc, xác đáng về đất đai, về ngành nghề, về trồng trọt và kỹ thuật làm ruộng của bà con nông dân:
– Tấc đất, tấc vàng.
. – Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.
– Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
– Nhất thì, nhì thục.
5. Câu tục ngữ: ‘Tấc đất, tấc vàng’ chỉ có bôn chữ rất ngắn gọn, chia thành hai vế đối nhau nêu lên nhân xét: đất là vàng, đất quý như vàng, đất quý hơn vàng. Đất để trồng lúa, ngô, khoai, đậu, vừng, cây ăn trái, rau và các loại hoà,… Đất để làm nhà, để xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa… Đất là nguồn lợi, nguồn sống của nhân dân. Câu tục ngữ vừa nêu lên giá trị của đất, vừa khuyên mọi người phải có ý thức bảo vệ, giữ gìn đất đai, ra sức chăm bón ruộng vườn ngày thêm màu mỡ. Còn có câu ca dao tương tự:
‘Ai ơi, đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu!’
6. Nhà nông quê ta có nhiều kinh nghiệm quý báu phát triển các ngành nghề: làm ruộng, làm vườn, chăn nuôi, thả cá, xây dựng các làng nghề thủ công… làm cho kinh tế nông thôn ngày càng mở mang, giàu có. Câu tục ngữ ‘Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền’ thể hiện trí tuệ và kinh nghiệm hay trong làm ăn của nông dân nước ta.
Trì là ao; canh trì nghĩa là đào ao thả cá…
Viên là vườn; canh viên nghĩa là làm vườn, trồng cây ăn trái…
Điền là ruộng; canh điển là làm ruộng, trồng lúa, hoa màu…
‘Nhất canh trì’:nuôi cá, nuôi tôm… thu lợi lớn, chóng làm giàu nhất. Vì thế mới có câu: ‘Một ao cá một rá bạc’.
‘Nhị canh viên’:làm vườn, trồng cây ăn quả, trồng rau, trồng hoa cũng là một nghề làm giàu, được xếp vào thứ hai, sau nghề nuôi trồng thủy sản.
Nghề làm ruộng là nghề căn bản, lâu đời, được xếp vào thứ ba. Ngày nay, nền kinh tế thị trường và khoa học kĩ thuật chân nuôi, trồng trọt ở nước ta phát triển, thúc đẩy và mở mang kinh tế trang trại ở khắp mọi miền quê. Hàng triệu
nóng dân thi đua làm giàu. Các nghề nuôi trồng thủy sản, làm vườn, làm ruộng, với kĩ thuật về giống, cây, con tiến bộ vượt bậc, đã xuất hiện nhiều triệu phú ở
nông thôn. Qua đó, ta càng thấy câu tục ngữ: ‘Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền’ nêu lên một bài học hay và sâu sắc.
7. Câu tục ngữ ‘Nhất nước, nhì phản, tam cần, tứ giống’ đã tổng kết và khẳng định bôn bài học lớn, kinh nghiệm hay về làm ruộng cho năng suất cao. Phải đủ nước; phải bón phân; phải cần cù cày bừa, bắt sâu, làm cỏ, vun xới,…; phải chọn được giống tốt. Cuộc cách mạng xanh ở một số nước châu Á như An Độ, Nhật Bản, Trung Quốc,… và ở nước ta cho thấy kĩ thuật về giống là hàng đầu, được coi tm-‘g nhất, ưu tiên nhất. Giống lúa mới, sức đề kháng cao chống sâu bệnh, cho năng suất cao được các nhà khoa học và nôngdân quan tâm đặc biệt. Nước ta có nền nông nghiệp phát triển, là nước xuất khẩu gạo lớn, qua đó, ta càng thấy giá trị và ý nghĩa đặc sắc ở câu tục ngữ này. Còn có những câu tục ngữ:
– ‘Phân tro không bằng no nước’.
– ‘Không nước không phân chuyên cần vô ích’
|
Hướng dẫn
Để trả lời câu hỏi a, học sinh đọc kỹ đoạn văn “trong làng tôi không thiếu gì các loại cây,… chiếc gương thần xanh.
Trong miêu tả, người ta thường dùng năm giác quan (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác) để nhận biết sự vật. Nhưng khi miêu tả hai cây phong, người họa sĩ không chỉ thông qua tài quan sát mà còn sử dụng cả trí tưởng tượng. {Ví dụ: chúng có tiếng nói riêng, có một tâm hồn riêng,…)
+ Khi phân tích, học sinh cần chú ý:
Những đoạn văn thuộc mạch kể của nhân vật “tôi” (nay đã là họa sĩ), nhân danh bản thân mình.
Những đoạn văn thể hiện mạch kể xưng là “chúng tôi”. Những đoạn vãn này là hồi ức của nhân vật “tôi”, nhân vật “tôi” nhớ lại “vào năm học cuối cùng…” trước khi đi xa, nhân danh “bọn con trai” trong đó có nhân vật tôi.
I.– Trong sô” các nhà văn của đất nước Liên Xô cũ, có lẽ Tsin-ghi-dơ Ai-ma-tốp là người gần gũi với người đọc Việt Nam nhất. Truyện của ông, từ Ja-mỉ-ỉi-a,…, Vĩnh biệt Gưn-xa-rư, đến Ngày dài hơn thế kỷ đều có bóng dáng của quê hương Cư-rơ-gƯ-xtan, đều phản ánh phong tục tập quán, đấu tranh cho cuộc sống tiến bộ, đạo đức và tình cảm tốt đẹp của con người… Một trong những tình cảm khiến truyện của Aimatốp gần gũi với người đọc Việt Nam có lẽ là tình cảm thầy trò mà truyện ngắn Người thầy đầu tiên là truyện tiêu biểu.
Truyện ghi lại hoạt động của một đoàn viên thanh niên chấp hành sự điều động của tổ chức, dù học lực chưa được là bao, về xây dựng một ngôi trường ở nơi người dân chưa hề biết đến con chữ. Cô bé An-tư-nai mồ côi sống trong gia đình chú thím ở làng Ku-ku-rêu, chẳng được học hành, và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím. Đuy-sen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường, đã kịp thời cứu giúp, cho em đến trường học. Một hôm, Đuy-sen mang về trường hai cây phong non và bảo em: “Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sông, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt… Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này…”.
Bà thím ác nghiệt ép gả bán An-tư-nai làm vợ lẽ cho người ta. Một lần nữa, An-tư-nai được thầy Đuy-sen giải thoát, được lên tỉnh học, rồi đến học tiếp ở Mát-xcơ-va, sau trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô- va. Còn thầy Đuy-sen, bấy giờ đã già, làm nghề đưa thư…
II.Đoạn văn mà chúng ta phân tích nằm ở phần đầu của truyện ngắn. Phần truyện này được viết bằng hai mạch văn lồng ghép vào nhau. Một mạch văn mà nhân vật kể là “tôi” – nhân danh bản thân của mình giới thiệu ngôi làng, vị trí của hai cây phong và nêu cảm hiểu của mình về chúng. Mạch văn khác nhân danh “chúng tôi” – do nhân vật “tôi” nhớ và kể lại như là hồi ức về một quãng đời đã từng sống cùng hai cây phong ở trong làng.
Sau khi giới thiệu vị trí và đặc tính về địa lý của ngôi làng Ku-ku-rêu, nhân vật “tôi”, giờ đã là họa sĩ, giới thiệu hai cây phong:
“Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình Ây là giới thiệu vị trí của hai cây phong, và mốc thời gian mà nhân vật “tỏi” nhận biết được hai cây phong ấy. Thật thú vị khi đọc câu văn “Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình ”. Thú vị •là ở chỗ nó vừa chính xác vừa mơ hồ, đồng thời cũng là thông báo cho người đọc biết hai cây thông ấy xuất hiện ỏ làng trước khi nhân vật “tôi” nhận biết được sự có mặt của mình. Và nhân vật “tôi” nêu cảm nhận về vị trí của hai cây phong lớn ấy. Đấy là một vị trí mà bất cứ ai đi từ hướng nào “cũng đều trông thấy hai cây phong đố trước tiên ”, rồi so sánh chúng “nhưnhững ngọn hải đăng đặt trên núi”. Nếu biết “hải đăng” là ngọn đèn biển, thường dựng ở một mũi đất hoặc một hòn đảo để hướng dẫn tàu thuyền đi Lại ngoài khơi hoặc ra vào bến cảng thì sẽ nhận ra ý nghĩa trân trọng hai cây phong của nhân vật “tôi” qua sự so sánh ấy. Nó như cây đa đầu làng đối với người Việt Nam khi sống ở nơi xa có dịp trở về làng cũ. Cảm nhận về hai cây phong càng lúc càng sâu sắc hơn là ở lời tâm sự “cứ mỗi lần về quê, khỉ xuống xe lửa đì qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Tại sao việc đưa mắt tìm hai cây phong được nhân vật “rổ/” coi là “bổn phận đầu tiên” mà không là một việc khác? Có phải là vì chúng giữ vị trí dẫn đường, vì những ấn tượng thời thơ ấu, hay vì chúng đẹp qua cái nhìn của nhân vật “tôi” nay đã là họa sĩ? Hình như ngoài những điều ấy, hai cây phong còn ẩn chứa điều bí ẩn nào đó cuốn hút tâm hồn nhân vật “tôi”, khiến nhân vật utôi” cảm nhận hai cây phong sinh đôi ấy khác hẳn với các loại cây khác, “chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.
Từ cảm nhận ấy, nhân vật tôi tập trung miêu tả tiếng lá reo của hai cây phong như hơi thở, tiếng nói cười của hai con người. Ai-ma-tốp không chỉ vận dụng thị giác để thấy cây nghiêng ngả, “lay động lá cành”,…; vận dụng thính xác để nghe được “tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau” mà còn vận dụng cả trí tưởng tượng phong phú của người họa sĩ khi miêu tả hai cày phong sinh đôi giữa đồi cao lộng gió. Nhà văn đã sử dụng tối đa nghệ thuật so sánh để mô tả tiếng phong reo theo tâm trí tưởng tượng của nhân vật, lúc thì “tưởng chừng như một làn sóng thủy triều”, lúc thì “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”, lúc thì “reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Rõ ràng với lối miêu tả hình ảnh thực xen lẫn với tâm trí tưởng tượng ấy, nhà văn đã mang đến cho người đọc hai cây phong mang tâm hồn bí ẩn. Với nhân vật “rổỉ”, dù hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong, nhưng đó chỉ là hiện tượng vật lý. Còn về tình cảm thì “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh… “. Nó đã là điều thuộc về tâm linh, sự gắn bó tự nhiên với hai cây phong từ thuở còn thơ dại mà đến tận ngày nay nhân vật “rổi” vẫn “Mong sao chóng về với làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong”.
Một mạch văn xuyên suốt, nhân vật “tôi” đã nhân danh mình để nói lên tình cảm gắn bó với ngôi làng Ku-ku-rêu, nhất là với hai cây phong sinh đôi. Ây là mạch văn miêu tả những gì thuộc về cá nhân. Nhưng khi nhắc đến “tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy” thì danh xưng và mạch văn thay đổi bằng lối văn hồi ức, miêu tả lại hoạt động của “bọn con trai chúng tôư trong đó có nhân vật “íôí”. Hình ảnh quá khứ, nhất là lần cùng với bạn chạy ào lên chỗ hai cây phong để phá tổ chim hiện về như cảnh phim quay chậm. Những đoạn văn hồi ức đã làm sống lại thời tuổi thơ trong sáng của nhân vật tôi cùng bạn bè với hai cây phong. Người và cây thật gần gũi, thật gắn bó trong những câu văn của Ai-ma-tốp. Người thì “reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi”, còn cây thì “nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. Hai cây phong như hai con người có tâm hồn hòa nhịp với tâm hồn tuổi trẻ. Và còn hơn thế là chắp cánh cho tuổi trẻ, khi ở trên những cành cao nhất *bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần cửa không gian bao la và ánh sáng”. Nhờ hai cây phong mà bọn trẻ “chúng tôi” mở rộng tầm nhìn. Từ khoảng hẹp quanh đồi, quanh làng, nay ở trên cành cao nhìn quanh thấy trời đất rộng bao la mà kể từ lúc sinh ra cho đến giây phút trước khi trèo lên cành cây phong cao ngất “chúng tôi” chưa hề thấy. “Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc cửa thảo nguyên và nhìn thấy không biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói”. Và điều quan trọng khác là những gì được nhìn thấy ở chung quanh ấy đã gợi cho “chúng tôi” suy nghĩ về giới hạn của núi sông, cây cỏ, bầu trời và những đám mây…; lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió. Mạch văn ghi lại hồi ức châm dứt.
Truyện trở lại với mạch kể của nhân vật “’tôi” nhân danh bản thân miêu tả hai cây phong và nêu cảm xúc, suy nghĩ một cách gần gũi, sâu xa về chúng, kể cả điều mà giờ đây “tôi” mới nêu ra: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, […] đã ấp ã những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này?
|
Hướng dẫn
Để trả lời câu hỏi a, học sinh đọc kỹ đoạn văn “trong làng tôi không thiếu gì các loại cây,… chiếc gương thần xanh.
Trong miêu tả, người ta thường dùng năm giác quan (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác) để nhận biết sự vật. Nhưng khi miêu tả hai cây phong, người họa sĩ không chỉ thông qua tài quan sát mà còn sử dụng cả trí tưởng tượng. {Ví dụ: chúng có tiếng nói riêng, có một tâm hồn riêng,…)
+ Khi phân tích, học sinh cần chú ý:
Những đoạn văn thuộc mạch kể của nhân vật “tôi” (nay đã là họa sĩ), nhân danh bản thân mình.
Những đoạn văn thể hiện mạch kể xưng là “chúng tôi”. Những đoạn vãn này là hồi ức của nhân vật “tôi”, nhân vật “tôi” nhớ lại “vào năm học cuối cùng…” trước khi đi xa, nhân danh “bọn con trai” trong đó có nhân vật tôi.
I.– Trong sô” các nhà văn của đất nước Liên Xô cũ, có lẽ Tsin-ghi-dơ Ai-ma-tốp là người gần gũi với người đọc Việt Nam nhất. Truyện của ông, từ Ja-mỉ-ỉi-a,…, Vĩnh biệt Gưn-xa-rư, đến Ngày dài hơn thế kỷ đều có bóng dáng của quê hương Cư-rơ-gƯ-xtan, đều phản ánh phong tục tập quán, đấu tranh cho cuộc sống tiến bộ, đạo đức và tình cảm tốt đẹp của con người… Một trong những tình cảm khiến truyện của Aimatốp gần gũi với người đọc Việt Nam có lẽ là tình cảm thầy trò mà truyện ngắn Người thầy đầu tiên là truyện tiêu biểu.
Truyện ghi lại hoạt động của một đoàn viên thanh niên chấp hành sự điều động của tổ chức, dù học lực chưa được là bao, về xây dựng một ngôi trường ở nơi người dân chưa hề biết đến con chữ. Cô bé An-tư-nai mồ côi sống trong gia đình chú thím ở làng Ku-ku-rêu, chẳng được học hành, và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím. Đuy-sen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử về làng để mở trường, đã kịp thời cứu giúp, cho em đến trường học. Một hôm, Đuy-sen mang về trường hai cây phong non và bảo em: “Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sông, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt… Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này…”.
Bà thím ác nghiệt ép gả bán An-tư-nai làm vợ lẽ cho người ta. Một lần nữa, An-tư-nai được thầy Đuy-sen giải thoát, được lên tỉnh học, rồi đến học tiếp ở Mát-xcơ-va, sau trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô- va. Còn thầy Đuy-sen, bấy giờ đã già, làm nghề đưa thư…
II.Đoạn văn mà chúng ta phân tích nằm ở phần đầu của truyện ngắn. Phần truyện này được viết bằng hai mạch văn lồng ghép vào nhau. Một mạch văn mà nhân vật kể là “tôi” – nhân danh bản thân của mình giới thiệu ngôi làng, vị trí của hai cây phong và nêu cảm hiểu của mình về chúng. Mạch văn khác nhân danh “chúng tôi” – do nhân vật “tôi” nhớ và kể lại như là hồi ức về một quãng đời đã từng sống cùng hai cây phong ở trong làng.
Sau khi giới thiệu vị trí và đặc tính về địa lý của ngôi làng Ku-ku-rêu, nhân vật “tôi”, giờ đã là họa sĩ, giới thiệu hai cây phong:
“Phía trên làng tôi, giữa một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình Ây là giới thiệu vị trí của hai cây phong, và mốc thời gian mà nhân vật “tỏi” nhận biết được hai cây phong ấy. Thật thú vị khi đọc câu văn “Tôi biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình ”. Thú vị •là ở chỗ nó vừa chính xác vừa mơ hồ, đồng thời cũng là thông báo cho người đọc biết hai cây thông ấy xuất hiện ỏ làng trước khi nhân vật “tôi” nhận biết được sự có mặt của mình. Và nhân vật “tôi” nêu cảm nhận về vị trí của hai cây phong lớn ấy. Đấy là một vị trí mà bất cứ ai đi từ hướng nào “cũng đều trông thấy hai cây phong đố trước tiên ”, rồi so sánh chúng “nhưnhững ngọn hải đăng đặt trên núi”. Nếu biết “hải đăng” là ngọn đèn biển, thường dựng ở một mũi đất hoặc một hòn đảo để hướng dẫn tàu thuyền đi Lại ngoài khơi hoặc ra vào bến cảng thì sẽ nhận ra ý nghĩa trân trọng hai cây phong của nhân vật “tôi” qua sự so sánh ấy. Nó như cây đa đầu làng đối với người Việt Nam khi sống ở nơi xa có dịp trở về làng cũ. Cảm nhận về hai cây phong càng lúc càng sâu sắc hơn là ở lời tâm sự “cứ mỗi lần về quê, khỉ xuống xe lửa đì qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Tại sao việc đưa mắt tìm hai cây phong được nhân vật “rổ/” coi là “bổn phận đầu tiên” mà không là một việc khác? Có phải là vì chúng giữ vị trí dẫn đường, vì những ấn tượng thời thơ ấu, hay vì chúng đẹp qua cái nhìn của nhân vật “tôi” nay đã là họa sĩ? Hình như ngoài những điều ấy, hai cây phong còn ẩn chứa điều bí ẩn nào đó cuốn hút tâm hồn nhân vật “tôi”, khiến nhân vật utôi” cảm nhận hai cây phong sinh đôi ấy khác hẳn với các loại cây khác, “chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”.
Từ cảm nhận ấy, nhân vật tôi tập trung miêu tả tiếng lá reo của hai cây phong như hơi thở, tiếng nói cười của hai con người. Ai-ma-tốp không chỉ vận dụng thị giác để thấy cây nghiêng ngả, “lay động lá cành”,…; vận dụng thính xác để nghe được “tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau” mà còn vận dụng cả trí tưởng tượng phong phú của người họa sĩ khi miêu tả hai cày phong sinh đôi giữa đồi cao lộng gió. Nhà văn đã sử dụng tối đa nghệ thuật so sánh để mô tả tiếng phong reo theo tâm trí tưởng tượng của nhân vật, lúc thì “tưởng chừng như một làn sóng thủy triều”, lúc thì “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”, lúc thì “reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Rõ ràng với lối miêu tả hình ảnh thực xen lẫn với tâm trí tưởng tượng ấy, nhà văn đã mang đến cho người đọc hai cây phong mang tâm hồn bí ẩn. Với nhân vật “rổỉ”, dù hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong, nhưng đó chỉ là hiện tượng vật lý. Còn về tình cảm thì “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh… “. Nó đã là điều thuộc về tâm linh, sự gắn bó tự nhiên với hai cây phong từ thuở còn thơ dại mà đến tận ngày nay nhân vật “rổi” vẫn “Mong sao chóng về với làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong”.
Một mạch văn xuyên suốt, nhân vật “tôi” đã nhân danh mình để nói lên tình cảm gắn bó với ngôi làng Ku-ku-rêu, nhất là với hai cây phong sinh đôi. Ây là mạch văn miêu tả những gì thuộc về cá nhân. Nhưng khi nhắc đến “tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy” thì danh xưng và mạch văn thay đổi bằng lối văn hồi ức, miêu tả lại hoạt động của “bọn con trai chúng tôư trong đó có nhân vật “íôí”. Hình ảnh quá khứ, nhất là lần cùng với bạn chạy ào lên chỗ hai cây phong để phá tổ chim hiện về như cảnh phim quay chậm. Những đoạn văn hồi ức đã làm sống lại thời tuổi thơ trong sáng của nhân vật tôi cùng bạn bè với hai cây phong. Người và cây thật gần gũi, thật gắn bó trong những câu văn của Ai-ma-tốp. Người thì “reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy lên đồi”, còn cây thì “nghiêng ngả đung đưa như muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. Hai cây phong như hai con người có tâm hồn hòa nhịp với tâm hồn tuổi trẻ. Và còn hơn thế là chắp cánh cho tuổi trẻ, khi ở trên những cành cao nhất *bỗng như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần cửa không gian bao la và ánh sáng”. Nhờ hai cây phong mà bọn trẻ “chúng tôi” mở rộng tầm nhìn. Từ khoảng hẹp quanh đồi, quanh làng, nay ở trên cành cao nhìn quanh thấy trời đất rộng bao la mà kể từ lúc sinh ra cho đến giây phút trước khi trèo lên cành cây phong cao ngất “chúng tôi” chưa hề thấy. “Chúng tôi cố giương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa thẳm biêng biếc cửa thảo nguyên và nhìn thấy không biết bao nhiêu, bao nhiêu là vùng đất mà trước đây chúng tôi chưa từng biết đến, thấy những con sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói”. Và điều quan trọng khác là những gì được nhìn thấy ở chung quanh ấy đã gợi cho “chúng tôi” suy nghĩ về giới hạn của núi sông, cây cỏ, bầu trời và những đám mây…; lắng nghe tiếng gió ảo huyền và tiếng lá cây đáp lại lời gió. Mạch văn ghi lại hồi ức châm dứt.
Truyện trở lại với mạch kể của nhân vật “’tôi” nhân danh bản thân miêu tả hai cây phong và nêu cảm xúc, suy nghĩ một cách gần gũi, sâu xa về chúng, kể cả điều mà giờ đây “tôi” mới nêu ra: “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, […] đã ấp ã những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên đỉnh đồi cao này?
|
Hướng dẫn
1. Một mặt người bằng mười mặt của.
2. Cái răng cái tóc là góc con người.
3. Đói cho sạch, rách cho thơm.
4. Học ăn, học nói, học gói, học mở.
5. Không thầy đố mày làm nên.
6. Học thầy không tày học bạn.
7. Thương người như thể thương thân.
8. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
9. Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
… vẻ đẹp của con người, hoặc nêu lên bài học giữ gìn phẩm giá, nhân cách, hoặc chỉ ra Jfinh nghiệm học hành. Thương người, lòng biết ơn, tình đoàn kết là ba bài học lớn về sống đẹp, về làm người – con người chân chính được dân gian nói lên một cách sâu sắc, đậm đà.
1. Câu ‘Một mặt người bằng mười mặt của’ có cách nói cụ thể, hay. Chữ ‘mặt’ dùng rất độc đáo; ‘mặt người’ chỉ tình người, giá trị con người; ‘mặt của’ chỉ tiền của, vàng bạc… Lấy ‘một mặt người’ so sánh với ‘mười mặt của’, nhân dân ta chỉ rõ: tiền của, vàng bạc… đã quý, nhưng cái đáng quý hơn là tình người, là giá trị con người. Con người là quý nhất: ‘Người ta là hoa đất’, ‘Người sống đống vàng’.
2. ‘Cái răng cái tóc là góc con người’nêu lên hai nét đẹp cùa con người. ‘Góc con người’ là cái sắc sảo, duyên dáng, mặn mà, tươi đẹp của con người, nhất là con gái con trai. Ngày xưa, răng đen hạt na, tóc đen bóng, dày là đẹp. Ngày nay, răng đều, trắng bóng thì mới xinh. Nhất là thiếu nữ. Để tóc dài, cắt tóc ngắn, uốn tóc… đều phải theo nước da và khuôn mặt, dáng vẻ mỗi người. Câu tục ngữ không những chỉ nêu lên nét đẹp con người mà còn nhắc nhở chúng ta biết giữ gìn chăm sóc cái răng cái tóc của mình. Có hàm răng đẹp, mái tóc đẹp là ‘của Trời cho’.
3. Nhan sắc đã quý. Nhưng quý hơn là phẩm giá, nhân cách. Trong cuộc sống, ta phải ý thức được:
‘Đói cho sạch, rách cho thơm’
Đói và rách là hoàn cảnh nghèo khổ, thiếu thốn, đói cơm rách áo. Sạch và thơm là cách sống không tham lam, lèm nhèm, biết giữ gìn phẩm giá, biết bảo vệ nhân cách. Hai chữ ‘cho’ rất hay, có nghĩa là ‘giữ lấy’, ‘bảo vệ lấy’. Không vì nghèo đói mà sa ngã. Phải biết giữ gìn phẩm giá nhân sách đó là kinh nghiệm sống, là bài học làm người mà câu tục ngữ đã nêu lên. Một số quan chức tham nhũng, họ chẳng đói, chẳng rách nhưng họ chẳng sạch chẳng thơm một tí gì, vì tâm hồn đã sa đọa cùng cực! Những kẻ vô liêm sỉ, đạo đức giả ấy bị nhân dân khinh bỉ.
4. Câu ‘Học ăn, học nói, học gói, học mở’ nêu lên bài học giao tiếp ứng xử. Phải sống lịch sự, văn minh. Phải cẩn trọng, khôn khéo, tế nhị trong lời ăn tiếng nói, trong mọi cử chỉ. Không được thô lỗ, cục cằn. Bài học làm người, con người văn hóa, sống đẹp được đúc kết trong bốn chữ ‘học’ của câu tục ngữ này. Đúng là tục ngữ dạy ta biết sống tốt hơn, đẹp hơn.
5. Nói về sự học, cách học, tục ngữ có câu:
‘Không thầy đố mày làm nên’ và ‘Học thầy không tày học bạn’
‘Mày’là mọi người, là chúng ta. Dùng chữ ‘mày’ không phải khinh thường mà chỉ để liền vần với chữ ‘thầy’ cho dễ nhớ. Thầy là người dạy ta về văn hóa, khoa học, nghề nghiệp… ‘Làm nên’ nghĩa là trở nên giỏi giang, có ích cho gia đình và xã hội. Học chữ, học nghề phải có thầy. Ta còn phải học trong thực tế, trên trường đời. Ta sẽ gặp nhiều người thầy dạy ta đủ điều khôn, điều hay, lẽ phải. Câu tục ngữ nhắc ta phải biết tìm thầy mà học, phải kính trọng biết ơn thầy. Có thế mới
‘làm nên’…
Lại có câu nói về học bạn:
‘Học thầy không tày học bạn’
‘Không tày’nghĩa là không bằng. Bạn cùng trang lứa tuổi, ta dễ học được
điều hay, điều tốt của bạn. Nói ‘học thầy không tày học bạn’ chỉ là một cách nói để chỉ rõ việc học bạn là quan trọng. Chứ thật ra vai trò, vị trí, tác dụng của người thầy là vô cùng to lớn, quyết định. Có biết ‘tẩm sư học đạo’ mới thành tài. Hai câu tục ngữ không hề đối lập nhau mà chỉ nhắc chúng ta phải biết học thầy, đồng thời khiêm tốn học hỏi bạn bè.
7. Câu tục ngữ ‘Thương người như thể thương thân’ dùng cách nói so sánh cụ thể. ‘Thương người’ là thương yêu đồng loại. ‘Thương thân’ là thương chính mình. Có lọng nhân ái bao la mới biết ‘thương người như thể thương thân’. Đồng cảm, thương xót những con người bất hạnh, đau khổ. An ủi động viên, nhường cơm sẻ áo cho những kẻ ốm đau, đói rét, hoạn nạn. Đó là những biểu hiện về lòng thương người. Câu tục ngữ dạy ta bài học nhân ái cao cả.
8. ‘Ăn quả nhớ kẻ trồng cây’là một câu tục ngữ hay nêu lên bài học về lòng biết ơn. ‘Ăn quả’ là được hưởng thụ chất dẻo thơm, vị ngọt do người trồng cây vất vả làm ra. ‘Nhớ’ là biểu thị lòng biết ơn. ‘Nhớ kẻ trồng cây’ là nhớ ơn nhàn dân lao động. ‘Quả’ còn có nghĩa bóng như công ơn cha mẹ, ơn thầy, ơn Bác, ơn* Đảng, ơn các anh hùng liệt sĩ, ơn nhân dân vĩ đại. Lòng biết ơn là bài học làm người. Không thể vong ân bội nghĩa. Xấu xa là kẻ ăn cháo đái bát, vô đạo. ‘Uống nước nhớ nguồn’ cũng là câu tục ngữ hay dạy ta bài học về lòng biết ơn, sống tình nghĩa thủy chung.
9. Câu tục ngữ sau đây được thể hiện bằng thơ lục bát:
‘Một cây làm chẳng nên non,
|
Instruct
1. One human face is equal to ten faces.
2. Teeth and hair are human angles.
3. Hungry until clean, torn until fragrant.
4. Learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open.
5. No teacher challenges you to do it.
6. Learning from a teacher is not good at learning from friends.
7. Love others as if you loved yourself.
8. When eating fruit, remember who planted the tree.
9. A tree cannot make a young tree,
Three trees gathered together form a high mountain.
... human beauty, or shows a lesson in preserving dignity and personality, or points out learning experiences. Love for others, gratitude, and solidarity are three great lessons about living beautifully and about being human - a true human being expressed deeply and richly by the people.
1. The sentence 'One face of a person is equal to ten faces of' has a specific and good way of saying it. The word 'face' is used very uniquely; ‘human face’ refers to human love and human values; 'face of' refers to money, gold and silver... Comparing 'one face of a person' with 'ten faces of', our people clearly point out: money, gold and silver... are precious, but what is more precious is human love, is human value. People are the most precious: 'People are flowers of the earth', 'People live in piles of gold'.
2. 'The teeth and the hair are the corners of a person' highlight two beautiful features of humans. 'Human aspect' is the sharpness, charm, charm, and beauty of people, especially girls and boys. In the past, black teeth and thick, shiny black hair were beautiful. Nowadays, teeth that are even and shiny white are beautiful. Especially young girls. Having long hair, cutting short hair, curling hair... all must be according to each person's skin tone, face, and appearance. The proverb not only highlights human beauty but also reminds us to take care of our teeth and hair. Having beautiful teeth and beautiful hair is 'given by God'.
3. Beauty is precious. But more precious is dignity and personality. In life, we must be aware of:
'Hungry for clean tear for flavor'
Hungry and torn is a situation of poverty, deprivation, hunger, food and clothing. Being clean and fragrant is a way of living without greed or gossip, knowing how to preserve dignity, and knowing how to protect personality. The two words 'give' are very good, meaning 'to keep', 'to protect'. Do not fall because of poverty. Knowing how to preserve human dignity is a life experience, a lesson in being human that the proverb raises. Some corrupt officials are not hungry or torn, but they are neither clean nor fragrant at all, because their souls have fallen to the extreme! Those shameless and hypocritical people are despised by the people.
4. The sentence 'Learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open' raises the lesson of communication and behavior. Must live politely and civilized. Must be careful, tactful, and tactful in speech and in all gestures. Don't be rude or grumpy. The lesson of being human, being a cultured person, and living beautifully is summed up in the four words 'learn' of this proverb. It is true that proverbs teach us to live better and more beautiful lives.
5. Talking about learning and how to learn, there is a proverb that says:
'If you don't have a teacher, you can do it' and 'If you don't learn from a teacher, you won't be able to learn from your friends'
‘You’ are everyone, we are. Using the word 'you' is not meant to be disrespectful, but just to rhyme with the word 'teacher' so it's easier to remember. The teacher is the one who teaches us about culture, science, profession... 'Doing' means becoming good and useful to family and society. Learning to read and learn a profession requires a teacher. We still have to learn in practice, in life. We will meet many teachers who teach us all kinds of wisdom, good things, and common sense. The proverb reminds us to know how to find a teacher to learn, to respect and be grateful to the teacher. That's the new way
‘make’…
There is another saying about learning from friends:
'Learning from a teacher is not enough to learn from a friend'
'Not good' means not equal. With friends of the same age, we can easily learn
your good, your good things. Saying 'learning from the teacher is not enough to learning from your friends' is just a way of saying that learning from your friends is important. But actually, the role, position, and effect of the teacher is extremely huge and decisive. Only by learning the way can one become talented. The two proverbs do not contradict each other, but only remind us to learn from our teachers and at the same time humbly learn from our friends.
7. The proverb 'Love others as you love yourself' uses a specific comparison. 'Loving others' means loving fellow human beings. 'Loving yourself' means loving yourself. Only with the umbrella of immense compassion can we know 'to love others as if we loved ourselves'. Sympathy and compassion for unfortunate and suffering people. Comfort and encouragement, giving food and clothing to those who are sick, hungry, and in need. Those are expressions of compassion for people. The proverb teaches us a noble lesson of kindness.
8. 'When eating fruit, remember the person who planted the tree' is a good proverb that teaches a lesson about gratitude. 'Eating fruit' means enjoying the fragrant, sweet sap produced by the hard work of growers. ‘Remember’ is an expression of gratitude. 'Remembering those who planted trees' means remembering the working people. ‘Reward’ also has a figurative meaning such as gratitude to parents, gratitude to teachers, gratitude to Uncle Ho, gratitude* to the Party, gratitude to heroic martyrs, gratitude to the great people. Gratitude is a lesson in being human. You cannot be ungrateful or ungrateful. Evil is someone who eats porridge and pisses on bowls, is immoral. 'When you drink water, remember its source' is also a good proverb that teaches us lessons about gratitude and living faithfully.
9. The following proverb is expressed in six-eight poetry:
'A tree should not make premature,
|
Hướng dẫn
I. Mở bài:
… gắn liền với cuộc sống của mỗi người, mỗi nhà. Đã có biết bao câu ca, bài hát nói về giá trị của đất đai, ruộng vườn… nhưng gắn gọn và sâu’sắc nhất là câu tục ngữ:
‘Tắc đất, tấc vàng’.
II. Thân bài:
1. Phần giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng, ý nghĩa.
‘Tấc’là đơn vị đo lường, theo cách nói, cách tính toán, đo đạc của nhân dân ta ngày xưa. Từ ‘tấc đất’ khái niệm về diện tích chuyển sang cách nói ‘tấc vàng’; 194 một diện tích hạn hẹp, so sánh với một khối lượng và giá trị ‘tấc vàng’. Nhân dân ta đã lấy ‘tấc đất’ so sánh với ‘tấc vàng’, lấy cái bình thường để so sánh với cái quý hiếm, nhăm khẳng định một chân lí: đất quý như vàng, đất đai trồng trọt có giá trị đặc biệt. Câu tục ngữ còn mang một hàm nghĩa, khuyên mọi người phải biết quý trọng và bảo vệ đất đai ruộng đồng để sản xuất.
2. Phần bình luận.
a. Bình:
Câu tục ngữ ‘tấc đất, tấc vàng’ hoàn toàn đúng; ngày xưa, đúng; ngày nay vân đúng. Đất rất quý: đất để làm nhà, ruộng đồng, nương rẫy để trồng trọt, gieo cấy cây trái, lúa, hoa màu… Từ cái ăn cái mặc đến hoa thơm quả ngọt bốn mùa đều do đất mà có. Đất để phát triển nghề nông. Đất cho ta bãi lúa nương dâu xanh biếc.
Đất tồn tại với mọi người, mọi nhà. Đất là tài sản vô giá của quốc gia. Hiểu theo nghĩa rộng: đất là giang sơn Tổ quốc. Trái đất là ngôi nhà chung của nhân loại.
Đất là nguồn sống vô tận của con người, không thể thiếu. Trong lòng đất hàm chứa nguồn nước và bao khoáng sản quý báu.
Tóm lại, đất quý như vàng, đất quý hơn vàng.
b. Luận:
Đất đai, ruộng vườn chỉ quý và vô giá khi có bàn tay, khối óc của con người tác động vào. Con người chăm bón, vun xới, dẫn thủy nhập điền… làm cho đất thêm màu mỡ. Đất trở thành ‘bờ xôi ruộng mật’ thì lúc ấy mới thật sự là ‘tấc đất, tấc vàng’.
Qua câu tục ngữ, nhân dân ta khuyên nhủ mọi người biết quan tâm bảo vệ, giữ gìn đất, không được làm cho ruộng đồng, vườn tược… bị bạc màu, khô xác, cằn cỗi. Không ai được lãng phí hoặc bỏ hoang đất. Ca dao có câu:
‘Ai ơi, chớ bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu!’
Nước ta từ một nền nông nghiệp đi lên, đất là tài sản quốc gia. Chính sách khai hoang, lấn biển giao đất giao rừng, mở mang vùng kinh tế mới của Chính phủ hiện nay đã làm cho nền nông nghiệp nước ta phát triển mạnh, cuộc sống của hàng chục triệu nông dân ngày thêm ấm no, giàu có. Cuộc ‘cách mạng xanh’ với nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chống sâu bệnh… là nhân tố quan trọng làm cho đất thực sự là ‘tấc đất, tấc vàng’. Nông nghiệp đang trở thành nền sản xuất hàng hóa trong sự phát triển kinh tế thị trường. Nước ta đã xuất kháu được hơn nhiều triệu tấn gạo đứng thứ hai các nước xuất khẩu gạo trên thế giới. Vấn đề lương thực nuôi sống hơn 80 triệu người đã được giải quyết. Cho nên, mỗi chúng ta càng thêm thấm thía đất quý hơn vàng.
Mồ hôi làm cho đất thêm màu mỡ. Máu đổ xuống mới giữ được ‘đất’, mới bảo vệ được giang sơn gấm vóc. Trong kháng chiến, Hồ Chủ tịch đã từng dạy:
‘Ruộng rẫy là chiến trường,
Cuốc cày là vũ khí,
Nhà nông là chiến sĩ’
Thời nào cũng vậy, tình yêu đất đai, vườn tược, ruộng đồng của con người Việt Nam gắn liền với tình yêu quê hương đất nước.
III. Kết luận:
Tóm lại, câu tục ngữ ‘Tấc đất, tấc vàng’ đã khẳng định giá trị của đất: đất quý như vàng, đất quý hơn vàng. Nó nhắc nhở mọi người phải biết quý trọng, giữ gìn, bảo vệ đất đai; không ai được phá hoại đất đai, lãng phí đất đai. Nhà nông phải chăm bón, vun xới cho vườn tược, ruộng rẫy được màu mỡ, tươi tốt.
|
Instruct
I. Introduction:
... associated with the life of every person and every home. There have been countless verses and songs about the value of land, fields and gardens... but the most concise and profound is the proverb:
'Clock of land, inch of gold'.
II. Body of the article:
1. The explanation of the literal, figurative, and meaning.
'Inch' is a unit of measurement, according to the way of speaking, calculating and measuring of our people in the past. From 'inch of land', the concept of area changed to saying 'inch of gold'; 194 a limited area, compared to a volume and value of an 'inch of gold'. Our people have compared an 'inch of land' with an 'inch of gold', compared the ordinary with the rare, aiming to confirm a truth: land is as precious as gold, arable land has special value. . The proverb also carries a meaning, advising people to appreciate and protect farmland for production.
2. Comments section.
a. Jar:
The proverb 'an inch of land, an inch of gold' is absolutely true; in the old days, yes; It's true today. Land is very precious: land to build houses, fields, fields to grow crops, cultivate fruit trees, rice, crops... From food to clothing to fragrant flowers and sweet fruits in all four seasons, all come from the land. Land for agricultural development. The land gives us green fields of rice and mulberry fields.
Land exists for everyone, every home. Land is a priceless national asset. Understood in a broad sense: land is the homeland. Earth is the common home of humanity.
Land is an endless source of human life, indispensable. The ground contains water and precious minerals.
In short, land is as precious as gold, land is more precious than gold.
b. Essay:
Land, fields and gardens are only precious and priceless when human hands and minds influence them. People fertilize, cultivate, bring water to the fields... making the land more fertile. The land becomes 'a sticky rice field', then it is truly 'an inch of land, an inch of gold'.
Through proverbs, our people advise everyone to take care to protect and preserve the land, not to let fields, gardens... become faded, dry, or barren. No one should waste or abandon land. The folk song has a saying:
'Hey, don't leave your fields fallow,
How many feet underground, yellow feet much!'
Our country has grown from an agricultural background, land is a national asset. The current Government's policy of reclamation, land reclamation, forest allocation, and expansion of new economic zones has made our country's agriculture develop strongly, making the lives of tens of millions of farmers more prosperous and prosperous. . The 'green revolution' with many new high-yield, pest-resistant rice varieties... is an important factor that makes land truly 'an inch of land, an inch of gold'. Agriculture is becoming a commodity production base in the development of a market economy. Our country has exported more than many million tons of rice, ranking second among rice exporting countries in the world. The problem of food to feed more than 80 million people has been solved. Therefore, each of us understands more and more that land is more precious than gold.
Sweat makes the soil more fertile. Only by pouring blood can we preserve the 'land', only can we protect the rich country. During the resistance war, President Ho Chi Minh once taught:
‘The fields are a battlefield,
The plow is a weapon,
Farmers are soldiers'
As always, the love of land, gardens, and fields of Vietnamese people is closely linked to the love of their homeland.
III. Conclude:
In short, the proverb 'An inch of land, an inch of gold' affirms the value of land: land is as precious as gold, land is more precious than gold. It reminds people to appreciate, preserve, and protect land; No one is allowed to destroy or waste land. Farmers must fertilize and cultivate their gardens and fields to be fertile and lush.
|
Hướng dẫn
– Bệnh nghiện thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng con người còn nặng hơn AIDS.
– Trích dẫn câu văn của Trần Hưng Đạo nêu nhận xét về cách đánh của giặc, trước khi phân tích tác hại của thuốc lá, tác giả ví ngầm thuốc lá với ai? Sự tác hại như thế nào mới là đáng sợ? Cái chết của những người hút thuốc lá có giống như “Giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu” đất nước, dân tộc ta? Như vậy, lối lập luận có chặt chẽ không, có làm tăng độ cảnh báo của tác giả đối với người hút thuốc không?
– Sự thật thì đã có người nói:“Tôi /lút, tôi bị bệnh, mặc tôi!”. Đúng là quyền tự do cá nhân. Nhưng tác giả đã đáp lại như thế nào? Không khí đê thở là tài sản chung hay là tài sản riêng của người nghiện thuốc gây ra mà tác giả dã nêu có đúng ỉ à tội ác không?
– Người lớn đã đẩy con em vào con đường phạm pháp bằng cách nào? Các nước ở châu Âu đã làm gì để chống thuốc lá? Đất nước ta đã thanh toán một số bệnh hiểm nghèo như châu Âu chưa? Bây giờ nhiễm bệnh thuốc lá thì sẽ như thể nào? Kiến nghị của tác giả có xác đáng không?
I. Có câu chuyện kể lại rằng một nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã quan sát thổ dân ở quần đảo Ăng-tin (Antilles) vùng biển Đại Tây Dương quấn một loại lá iu ỉu khô rồi đốt và hút. Nhà thám hiểm đó đã thử làm theo và cảm thấy có chút lâng lâng sảng khoái. Thế là hạt giống được đưa về Tây Ban Nha, châu Âu và rồi lan khắp thế giới, mà nơi trồng nhiều nhất là Trung Quốc, Ân Độ, Bra-xin, Nhật Bản,… Mỗi năm toàn thế giới sản xuất khoảng bốn triệu tấn thuốc lá khô.
ít ai ngờ loại cây dùng để hút chơi, làm thuốc chữa bệnh ngoài da, rắn rết và côn trùng cắn, và có thể chế thành thuốc trừ sâu lại là loài cây độc hại. Ớ Việt Nam, ông Nguyễn Khắc Viện đã lên tiếng báo động: “Ôn dịch, thuốc lá”.
II.Bài nghị luận của Nguyễn Khắc Viện có thể được chia làm ba phần, với nội dung cụ thể:
– Ôn dịch thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.
– Cách gây hại của thuốc lá đối với cá nhân người nghiện và đối với những người chung quanh, nhất là đối với thanh thiếu nhi.
– Thế giới chống hút thuốc lá.
ở phần đầu bài của bài văn, với vốn kiến thức khái quát về y học khá rộng, Nguyễn Khắc Viện đã đề cập đến các bệnh nguy hiểm, lây lan nhanh và rộng làm chết người hàng loạt, người đời thường gọi là ôn dịch như dịch hạch, dịch thổ tả, mà “nhờ tiến bộ y học, loài người hầu như đã diệt trừ được những dịch khủng khiếp ấy”.Tác giả còn đề cập đến việc “cả thế giới đang lo âu về AIDS” vì chưa tìm ra thuốc điều trị. Nhắc đến những bệnh dịch khủng khiếp đã điều chế được thuốc đặc trị hay chưa là để nhấn mạnh một dịch bệnh khác đã xuất hiện khá lâu, mọi người đều thấy, nhưng vì thiếu hiểu biết nên chưa nhận ra: “Ôn dịch, thuốc lá”! Ôn dịch,về từ Hán Việt có nghĩa là bệnh thời khí hay bệnh truyền nhiễm, nhưng còn có ý mắng nhiếc, chửi rủa trong khẩu ngữ hàng ngày. Trong tựa đề của bài văn, tác giả còn dùng dấu phẩy để tách rời ôn dịchvà thuốc lálà để nhấn mạnh cả hai nghĩa đối với thuốc lá.Điều đó thể hiện thái độ dứt khoát ghê tởm thuốc lá của ông. Tại sao thế? Bởi vì “thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.”
Phần hai của bài văn, tác giả tập trung giải thích, chứng minh và bình luận nhằm trả lời câu hỏi: Tại sao thuốc lá lại đe dọa đến sức khỏe và tính mạng của loài người còn nặng hơn cả AIDS?
Trước khi giải thích và chứng minh để trả lời câu hỏi trên, Nguyên Khắc Viện đã trích dẫn nhận xét của Trần Hưng Đạo về cách xâm lược của quân Nguyên rằng:
“Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu”.
Trích dẫn danh ngôn ấy, Nguyễn Khắc Viện muôn so sánh để nhân mạnh sự đáng sợ về cách hủy hoại con người của thuốc lá. Từ ý nghĩ có tính khái quát ấy, tác giả bắt đầu giải thích và chứng minh.
Vốn là một bác sĩ học và tốt nghiệp tại Pháp, Nguyễn Khắc Viện đã vận dụng kiến thức y học để giải thích tại sao chất hắc ín có trong thuốc lá là thủ phạm gây ra bệnh ung thư, mà “trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá”.
Tác giả còn cho người đọc biết trong thuốc lá còn có chất ô-xít cac-bon, “chất này thấm vào máu, bám chặt các hồng cầu không cho chúng tiếp cận ô-xi nữa”.Hồng huyết cầu không được tiếp cận ô-xi thì sẽ không tái sinh. Điều này ảnh hưởng tiêu cực nặng nề đến năng lực làm việc của mỗi người vì sức khỏe ngày một yếu dần đi theo lối “tằm ăn dâu”. Trong thuốc lá còn có chất ni-cô-tin. Đây là một chất gây nghiện cực độc. Khi đã nghiện người hút thuốc lá vẫn sống dai dẳng, sức khỏe bị hao mòn dần như kiểu “tằm ăn dâu” khiến ảnh hưởng đến sức lao động và tốn tiền mua thuốc lá. Lượng ni-cô-tin nhiều gây nên những bệnh cực kỳ nguy hiểm như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim. Để chứng minh những bệnh nguy hại ấy do thuốc lá gây ra, tác giả đã nêu những điều mà ông chứng kiến khi hành nghề ở nhiều bệnh nhân khác nhau. “Có thấy một bệnh nhân bị tắc động mạch chân lên những cơn đau như thể nào, rồi phải
cắt dần từng ngón chân.đến cả bàn chân; có thấy những người 40-50 tuổi đã chết đột xuất vì nhồi máu cơ tim; có thấy những khối ung thư ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê tởm của thuốc lá”.Những hình ảnh ấy đã chứng minh cái đáng sợ của những bệnh do thuốc lá gây ra. Đưa những hình ảnh ghê rợn này vào bài viết để nhấn mạnh thêm về sự đáng sợ ấy với hy vọng người chưa biết hút thuốc lá hãy tránh xa nó, còn người đã lỡ hút thì hãy tìm cách từ bỏ nó để cứu vòm họng, hai lá phổi, hồng cầu, các động mạch trong chính cơ thể mình. Nhờ vậy mà sức khỏe tốt dần lên, môi trường trong lành hơn.
Người hút thuốc thường bảo: “7ÌÔỈ hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!”.Đúng đó là quyền tự do cá nhân mà luật pháp chưa cấm đoán, nhưng có quyền ra quy định hạn chế do có liên quan đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Không khí để thở là tài sản chung. Hút thuốc nơi công cộng “thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc”, nghĩa là người hút thuốc đã phạm vào tài sản chung ấy. Để chứng minh cho lập luận sắc bén ấy bằng một loạt người bị nhiễm độc vì sông chung với người hút thuốc lá như vợ con, người làm cùng phòng. Tác giả còn cố đánh thức lương tri của mọi người bằng lời văn gây cảm xúc: “Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu”.
Người nghĩ đến gia đình, vợ con ắt hẳn sẽ không hút thuốc bên cạnh người vợ đang mang thai sau khi đọc câu văn vừa thắm thiết tình người vừa chỉ rõ hậu quả của sự nhiễm độc khói thuốc lá ấy.
Đoạn cuối phần hai của bài văn, tác giả tập trung nêu gương xấu của người lớn hút thuốc đối với thiếu niên. Ông nêu ra tỉ lệ thanh thiếu niên hút thuốc lá ởcác thành phố lớn Âu-Mĩ ngang bằng với nước ta, nhưng để có tiền mua một bao thuốc lá 555 cho đứng kẻ sành điệu là cả một vấn đề. Với thanh thiếu niên Âu-Mĩ thì đó chỉ là khoản tiền nhỏ, còn với thiếu niên Việt Nam, nếu muôn có thì “c/ĩỉ có một cách là trộm cắp”.Ngạn ngữ phương Tây có câu “trộm cắp một quả trứng, (có thể) trộm cắp một con bò (sau này)”.Thông thường là trộm cắp của người trong nhà, lúc đầu lấy ít thôi (quả trứng), nhưng càng về sau thì tài sản trộm cắp càng lớn (con bò). Khi không thể trộm cắp trong nhà nữa thì trộm cắp bên ngoài để thỏa mãn việc hút thuốc lá, uống một cốc bia, rồi đến với ma tuý. Và tác giả quy tội: “Người lớn hút thuốc trước mặt trẻ em, lấy điếu thuốc làm cử chỉ cho một biểu tượng quý trọng, chính là đẩy con em vào con đường phạm pháp”.
|
Hướng dẫn
– Bệnh nghiện thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng con người còn nặng hơn AIDS.
– Trích dẫn câu văn của Trần Hưng Đạo nêu nhận xét về cách đánh của giặc, trước khi phân tích tác hại của thuốc lá, tác giả ví ngầm thuốc lá với ai? Sự tác hại như thế nào mới là đáng sợ? Cái chết của những người hút thuốc lá có giống như “Giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu” đất nước, dân tộc ta? Như vậy, lối lập luận có chặt chẽ không, có làm tăng độ cảnh báo của tác giả đối với người hút thuốc không?
– Sự thật thì đã có người nói:“Tôi /lút, tôi bị bệnh, mặc tôi!”. Đúng là quyền tự do cá nhân. Nhưng tác giả đã đáp lại như thế nào? Không khí đê thở là tài sản chung hay là tài sản riêng của người nghiện thuốc gây ra mà tác giả dã nêu có đúng ỉ à tội ác không?
– Người lớn đã đẩy con em vào con đường phạm pháp bằng cách nào? Các nước ở châu Âu đã làm gì để chống thuốc lá? Đất nước ta đã thanh toán một số bệnh hiểm nghèo như châu Âu chưa? Bây giờ nhiễm bệnh thuốc lá thì sẽ như thể nào? Kiến nghị của tác giả có xác đáng không?
I. Có câu chuyện kể lại rằng một nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã quan sát thổ dân ở quần đảo Ăng-tin (Antilles) vùng biển Đại Tây Dương quấn một loại lá iu ỉu khô rồi đốt và hút. Nhà thám hiểm đó đã thử làm theo và cảm thấy có chút lâng lâng sảng khoái. Thế là hạt giống được đưa về Tây Ban Nha, châu Âu và rồi lan khắp thế giới, mà nơi trồng nhiều nhất là Trung Quốc, Ân Độ, Bra-xin, Nhật Bản,… Mỗi năm toàn thế giới sản xuất khoảng bốn triệu tấn thuốc lá khô.
ít ai ngờ loại cây dùng để hút chơi, làm thuốc chữa bệnh ngoài da, rắn rết và côn trùng cắn, và có thể chế thành thuốc trừ sâu lại là loài cây độc hại. Ớ Việt Nam, ông Nguyễn Khắc Viện đã lên tiếng báo động: “Ôn dịch, thuốc lá”.
II.Bài nghị luận của Nguyễn Khắc Viện có thể được chia làm ba phần, với nội dung cụ thể:
– Ôn dịch thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.
– Cách gây hại của thuốc lá đối với cá nhân người nghiện và đối với những người chung quanh, nhất là đối với thanh thiếu nhi.
– Thế giới chống hút thuốc lá.
ở phần đầu bài của bài văn, với vốn kiến thức khái quát về y học khá rộng, Nguyễn Khắc Viện đã đề cập đến các bệnh nguy hiểm, lây lan nhanh và rộng làm chết người hàng loạt, người đời thường gọi là ôn dịch như dịch hạch, dịch thổ tả, mà “nhờ tiến bộ y học, loài người hầu như đã diệt trừ được những dịch khủng khiếp ấy”.Tác giả còn đề cập đến việc “cả thế giới đang lo âu về AIDS” vì chưa tìm ra thuốc điều trị. Nhắc đến những bệnh dịch khủng khiếp đã điều chế được thuốc đặc trị hay chưa là để nhấn mạnh một dịch bệnh khác đã xuất hiện khá lâu, mọi người đều thấy, nhưng vì thiếu hiểu biết nên chưa nhận ra: “Ôn dịch, thuốc lá”! Ôn dịch,về từ Hán Việt có nghĩa là bệnh thời khí hay bệnh truyền nhiễm, nhưng còn có ý mắng nhiếc, chửi rủa trong khẩu ngữ hàng ngày. Trong tựa đề của bài văn, tác giả còn dùng dấu phẩy để tách rời ôn dịchvà thuốc lálà để nhấn mạnh cả hai nghĩa đối với thuốc lá.Điều đó thể hiện thái độ dứt khoát ghê tởm thuốc lá của ông. Tại sao thế? Bởi vì “thuốc lá đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người còn nặng hơn cả AIDS.”
Phần hai của bài văn, tác giả tập trung giải thích, chứng minh và bình luận nhằm trả lời câu hỏi: Tại sao thuốc lá lại đe dọa đến sức khỏe và tính mạng của loài người còn nặng hơn cả AIDS?
Trước khi giải thích và chứng minh để trả lời câu hỏi trên, Nguyên Khắc Viện đã trích dẫn nhận xét của Trần Hưng Đạo về cách xâm lược của quân Nguyên rằng:
“Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như tằm ăn dâu”.
Trích dẫn danh ngôn ấy, Nguyễn Khắc Viện muôn so sánh để nhân mạnh sự đáng sợ về cách hủy hoại con người của thuốc lá. Từ ý nghĩ có tính khái quát ấy, tác giả bắt đầu giải thích và chứng minh.
Vốn là một bác sĩ học và tốt nghiệp tại Pháp, Nguyễn Khắc Viện đã vận dụng kiến thức y học để giải thích tại sao chất hắc ín có trong thuốc lá là thủ phạm gây ra bệnh ung thư, mà “trên 80% ung thư vòm họng và ung thư phổi là do thuốc lá”.
Tác giả còn cho người đọc biết trong thuốc lá còn có chất ô-xít cac-bon, “chất này thấm vào máu, bám chặt các hồng cầu không cho chúng tiếp cận ô-xi nữa”.Hồng huyết cầu không được tiếp cận ô-xi thì sẽ không tái sinh. Điều này ảnh hưởng tiêu cực nặng nề đến năng lực làm việc của mỗi người vì sức khỏe ngày một yếu dần đi theo lối “tằm ăn dâu”. Trong thuốc lá còn có chất ni-cô-tin. Đây là một chất gây nghiện cực độc. Khi đã nghiện người hút thuốc lá vẫn sống dai dẳng, sức khỏe bị hao mòn dần như kiểu “tằm ăn dâu” khiến ảnh hưởng đến sức lao động và tốn tiền mua thuốc lá. Lượng ni-cô-tin nhiều gây nên những bệnh cực kỳ nguy hiểm như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim. Để chứng minh những bệnh nguy hại ấy do thuốc lá gây ra, tác giả đã nêu những điều mà ông chứng kiến khi hành nghề ở nhiều bệnh nhân khác nhau. “Có thấy một bệnh nhân bị tắc động mạch chân lên những cơn đau như thể nào, rồi phải
cắt dần từng ngón chân.đến cả bàn chân; có thấy những người 40-50 tuổi đã chết đột xuất vì nhồi máu cơ tim; có thấy những khối ung thư ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê tởm của thuốc lá”.Những hình ảnh ấy đã chứng minh cái đáng sợ của những bệnh do thuốc lá gây ra. Đưa những hình ảnh ghê rợn này vào bài viết để nhấn mạnh thêm về sự đáng sợ ấy với hy vọng người chưa biết hút thuốc lá hãy tránh xa nó, còn người đã lỡ hút thì hãy tìm cách từ bỏ nó để cứu vòm họng, hai lá phổi, hồng cầu, các động mạch trong chính cơ thể mình. Nhờ vậy mà sức khỏe tốt dần lên, môi trường trong lành hơn.
Người hút thuốc thường bảo: “7ÌÔỈ hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!”.Đúng đó là quyền tự do cá nhân mà luật pháp chưa cấm đoán, nhưng có quyền ra quy định hạn chế do có liên quan đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Không khí để thở là tài sản chung. Hút thuốc nơi công cộng “thì người gần anh cũng hít phải luồng khói độc”, nghĩa là người hút thuốc đã phạm vào tài sản chung ấy. Để chứng minh cho lập luận sắc bén ấy bằng một loạt người bị nhiễm độc vì sông chung với người hút thuốc lá như vợ con, người làm cùng phòng. Tác giả còn cố đánh thức lương tri của mọi người bằng lời văn gây cảm xúc: “Tội nghiệp thay những cái thai còn nằm trong bụng mẹ, chỉ vì có người hút thuốc ngồi cạnh mẹ mà thai bị nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non, con sinh ra đã suy yếu”.
Người nghĩ đến gia đình, vợ con ắt hẳn sẽ không hút thuốc bên cạnh người vợ đang mang thai sau khi đọc câu văn vừa thắm thiết tình người vừa chỉ rõ hậu quả của sự nhiễm độc khói thuốc lá ấy.
Đoạn cuối phần hai của bài văn, tác giả tập trung nêu gương xấu của người lớn hút thuốc đối với thiếu niên. Ông nêu ra tỉ lệ thanh thiếu niên hút thuốc lá ởcác thành phố lớn Âu-Mĩ ngang bằng với nước ta, nhưng để có tiền mua một bao thuốc lá 555 cho đứng kẻ sành điệu là cả một vấn đề. Với thanh thiếu niên Âu-Mĩ thì đó chỉ là khoản tiền nhỏ, còn với thiếu niên Việt Nam, nếu muôn có thì “c/ĩỉ có một cách là trộm cắp”.Ngạn ngữ phương Tây có câu “trộm cắp một quả trứng, (có thể) trộm cắp một con bò (sau này)”.Thông thường là trộm cắp của người trong nhà, lúc đầu lấy ít thôi (quả trứng), nhưng càng về sau thì tài sản trộm cắp càng lớn (con bò). Khi không thể trộm cắp trong nhà nữa thì trộm cắp bên ngoài để thỏa mãn việc hút thuốc lá, uống một cốc bia, rồi đến với ma tuý. Và tác giả quy tội: “Người lớn hút thuốc trước mặt trẻ em, lấy điếu thuốc làm cử chỉ cho một biểu tượng quý trọng, chính là đẩy con em vào con đường phạm pháp”.
|
Hướng dẫn
Chính nghề nông, nghề đi rừng, nghề đi biển đánh cá, bằng kinh nghiệm sống từ nhiều thế hệ mà trong dân gian đã đúc rút được nhiều câu tục ngữ về thời tiết cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
1. Mưa nắng là chuyện của trời, là hiện tượng thiên nhiên. Lên rừng, xuống biển, cày cấy, gặt hái,… phải chủ động, phải dự đoán, dự báo được thời tiết.
‘Nhiều sao thì nắng, vắng sao thì mưa’.Chỉ có tám chữ, với cách nói vần vè mà nêu lên một kinh nghiệm quý báu. về mùa hè, nhìn lôn bầu trời đêm, thấy sao chi chít lấp lánh sáng. Trời có trong, đêm có thanh mới có hiện tượng ‘nhiều sao’, ta có thể biết ngày mai, ngày kia sẽ nắng. Nếu trái lại, không có sao, ‘vắng sao’, chỉ lưa thưa sao thì có thể ngày mai, ngày kia sẽ mưa. Đó là kinh nghiệm nhìn sao mùa hè mà đoán mưa, nắng. Còn về mùa đông, thì trái lại, ngược lại: ‘Nhiều sao thì mưa, thưa sao thì nắng’. Mây, ráng, cày cỏ, chim muông, con người… đều có mối ‘liên hệ’ tự nhiên với hiện tượng mưa nắng:
‘Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa’
‘Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa’
‘Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa’
2. Có lúc nhân dân ta lại nhìn chim để dự đoán thời tiết. Câu tục ngữ: ‘Quạ tắm
thì ráo, sáo tắm thì mưa’.Chim thì bay, cá thì nhảy. Cũng có lúc chim tắm, quạ tắm, sáo tắm. Chim xòe cánh ra, chúc đầu xuống nước, cánh vỗ làm nước bắn tung tóe lên, lấy mỏ rỉa lông, rỉa cánh. ‘Ráo’ nghĩa là khô ráo, nắng ráo. Hễ nhìn thấy quạ tắm thì biết là trời còn nắng dài ngày; và nhìn thấy sáo tắm biết được trời sắp mưa. Đó là kinh nghiệm của bà con ở vùng trung du và đồng bằng.
3. Ở miền Duyên hải, ngư dân lại có nhiều kinh nghiệm khác về thời tiết. Ra khơi đánh cá cần có biển lặng, sóng êm, may mắn gặp luồng cá. Chuẩn bị thuyền lưới, thức ăn nước uống đi khơi đi lộng, ngư dân phải quan sát mây gió, sắc trời. Câu tục ngữ:
‘Thâm đông, hồng tây, dựng may,
Ai ơi đợi đến ba ngày hãy đi’
là một kinh nghiệm quý báu của bà con đánh cá. Nhìn về phía đông, thấy mây, thấy sắc trời đen lại, thâm đi; nhìn về phía tây có ráng đỏ, sắc trời hồng lên, đồng thời gió may thoảng lên, nổi lên, dựng lên là trời sắp có bão, không thể ra khơi được. Phải ‘đợi đến ba ngày’ rồi mới được ra khơi, mới ‘hãy đi’. Có thế mới an toàn.
4. Con chuồn chuồn là ‘cái máy’ dự báo thời tiết linh nghiệm. Tháng 7 ở miền Bắc nước ta mưa bão, lũ lụt nhiều. Nhìn thấy chuồn chuồn bay cao hay thấp, bay ít hay nhiều đều có thể cảm nhận được thời tiết. Những ngày tháng bảy âm lịch, gió heo may nổi lên, chuồn chuồn động tổ bay ra nhiều, bay rối rít loạn xạ cả lên, vậy là dự báo trời sắp có bão. Con chuồn chuồn bé nhỏ là bạn thân thiết của nhà nông. Chuồn chuồn mách bảo để lo việc đồng áng:
‘Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm’
hoặc:
‘Chuồn chuồn bay thấp mưa ngập bờ ao,
Chuồn chuồn bay cao mưa rào lại tạnh’
5. Giông tố là hiện tượng đáng sợ của thiên tai. Phải dự đoán để đề phòng chủ động, tích cực, hạn chế thiệt hại về người và của cải. Mùa hè thường có giông tố nổi lên bất chợt. Khi chân trời bỗng đùn lên những cuộn mây, núi mây đen ngòm, có khi che kín cả một góc trời, đó là điềm trời báo sắp có giông. Giông có thể đến nhanh cũng có thể đến từ từ. Nếu mây đen kéo lên ở phía đông (thường thường là vùng biển) thì cơn giông kéo đến rất nhanh. Trước hiện tượng ấy, người ta phải khẩn trương coi chừng ‘vừa trông vừa chạy’. Nhưng nếu có mây ở phía nam thì thời tiết không có gì đột biến. Mây tụ rồi mây tan. Nếu có mưa thì mưa sẽ đến từ từ, không thể có giông tố xảy ra. Ai cũng có thể ‘vừa làm vừa chơi’, có thể yên tâm, không phải lo sợ, vội vàng:
‘Cơn dằng đông, vừa trông vừa chạy,
Cơn đằng nam, vừa làm vừa ăn’”
6. Cầu vồng, mống cụt xuất hiện là một dự báo thời tiết đáng sợ. Nhân dân đã đúc kết thành kinh nghiệm quý báu lâu đời để phòng tránh, để lo liệu làm ăn:
– ‘Mông cao gió táp, mống áp mưa rào’,
– ‘Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa’,
– ‘Mống bên đông, vồng bên tây,
Chẳng mưa dây thì bão giật’
7. Lại có nhiều câu tục ngữ nói về hiện tượng trời rét. Cuối thu, gió bấc thổi về, đưa khí lạnh tràn tới. Trên bầu trời, từng đàn sếu bay đi về phương nam. Sếu đổi mùa, tránh rét. Nghe sếu kêu giữa đêm khuya, cùng với gió bấc thổi nhẹ ‘hiu hiu’ là dự báo trời rét. Nhưng vào cuối tháng ba, ‘tháng ba bà già chết rét’, hễ thấy hoa gạo rụng, người ta biết khí trời ấm dần, sắp có nắng mới. Hoá gạo nở vào tháng giêng, rụng vào cuối tháng ba. Hoá gạo là cái ‘nhiệt kê’ tinh nhạy vẻ thời tiết. Đây là hai câu tục ngữ có giá trị dự báo rét đến và trời ấm:
– ‘Gió bấc hiu hiu, sếu kêu trời rét’,
– ‘Bao giờ cho đến tháng ba,
Hoa gạo rụng xuống, bà già cất chăn’.
|
Instruct
It is the profession of farming, forestry, seafaring and fishing, through the life experience of many generations, that folk have drawn out many proverbs about the weather that are still valid today.
1. Rain and sun are a matter of heaven, a natural phenomenon. Going to the forest, going to the sea, plowing, harvesting,... must be proactive, must predict and forecast the weather.
'Many stars are sunny, if there are no stars, it is rainy'. There are only eight words, with a rhyming way of saying it, that brings out a valuable experience. In the summer, when I look at the night sky, I see bright, sparkling stars. Only when the sky is clear and the night is clear will there be the phenomenon of 'many stars'. We can know that tomorrow and the day after tomorrow will be sunny. If on the contrary, there are no stars, 'no stars', only few stars, then it may rain tomorrow or the day after tomorrow. That is the experience of looking at the stars in summer to predict rain and sunshine. As for winter, it's the opposite, the opposite: 'If there are many stars, it will rain, if there are few stars, it will be sunny'. Clouds, trees, grass plows, birds, people... all have a natural 'connection' with the phenomenon of rain and sun:
'Blue clouds are sunny, white clouds are rainy'
'Yellow rays bring sunshine, white rays bring rain'
'The summer is sunny, the grass is white and it's raining'
2. Sometimes our people look at birds to predict the weather. Proverb: ‘Crows bathe
it's dry, when a starling bathes, it's raining'. Birds fly, fish jump. There are also times when birds bathe, crows bathe, and starlings bathe. The bird spreads its wings, puts its head down into the water, flaps its wings causing water to splash, uses its beak to preen its feathers and wings. ‘Dry’ means dry, sunny. Whenever you see crows bathing, you know it will be sunny for a long time; and when you see the bathing flute, you know it's about to rain. That is the experience of people in the midland and delta regions.
3. In the coastal region, fishermen have many different experiences about the weather. When going out to fish, you need calm seas, calm waves, and luck in finding fish channels. Prepare fishing boats, food and water to go out to sea, fishermen must observe clouds, wind and sky color. Proverb:
'The east is deep, the west is red, the luck is up,
Please wait three days and go'
is a valuable experience for fishermen. Looking to the east, seeing clouds, seeing the sky darken and darken; Looking to the west, there is a red light, the sky turns pink, and at the same time the wind blows up, rises, and rises, it means there is going to be a storm, we cannot go to sea. You have to 'wait for three days' before you can go to sea, then 'let's go'. Only then will it be safe.
4. The dragonfly is a powerful weather forecasting machine. In July in the North of our country, there are many storms and floods. Seeing dragonflies flying high or low, flying more or less, you can feel the weather. During the seventh month of the lunar calendar, the wind blows, many dragonflies come out of their nests, and fly chaotically, so it is predicted that there will be a storm. The little dragonfly is a farmer's best friend. Dragonfly advice to take care of farming:
'When dragonflies fly low, it rains,
If you fly high, it's sunny, if you fly low, it's shady.
or:
'Dragonflies fly low and rain floods the pond banks,
Dragonflies fly high and the showers stop.
5. Thunderstorms are scary phenomena of natural disasters. We must predict to proactively and proactively prevent damage to people and property. Summer often has sudden storms. When the horizon suddenly erupts with clouds and mountains of dark clouds, sometimes covering an entire corner of the sky, it is a sign that a storm is about to come. Thunderstorms can come quickly or slowly. If dark clouds rise in the east (usually the sea), a storm will come very quickly. Faced with that phenomenon, people must urgently watch out for 'looking and running at the same time'. But if there are clouds in the south, there will be no change in the weather. Clouds gather and then clouds dissipate. If there is rain, it will come slowly, there cannot be a storm. Everyone can 'work and play', can rest assured, without fear or rush:
'The winter storm, looking and running,
The storm in the south, work and eat at the same time'"
6. Rainbows and iris appearing are a scary weather forecast. People have compiled valuable long-standing experience to prevent and manage business:
- 'The wind blows high, the rainbow presses showers',
- 'The long rainbow is flooded, the short rainbow is rainy',
– ‘The rainbow is on the east, the rainbow is on the west,
If it doesn't rain, there will be a storm.
7. There are many proverbs talking about the phenomenon of cold weather. At the end of autumn, the north wind blows, bringing cold air. In the sky, flocks of cranes flew south. Cranes change seasons, avoiding the cold. Listening to cranes calling in the middle of the night, along with the gentle north wind blowing 'hiu hiu', is a forecast of cold weather. But at the end of March, 'the March where the old woman dies of cold', whenever people see rice flowers falling, people know that the weather is getting warmer and there will soon be a new sunshine. The rice blooms in January and falls at the end of March. Rice is a 'temperature' that is sensitive to the weather. Here are two proverbs that are valuable for predicting the coming of cold and warm weather:
– 'The north wind is lonely, the cranes are calling in the cold weather',
– ‘How long until March,
The rice flowers fell, the old woman put away the blanket'.
|
Hướng dẫn
+ Thuyết minh từ sách vở thời cổ đại:
-Chuyện kén rể bằng bàn cờ tướng của nhà thông thái.
-Chuyện từ Kỉnh thánh.
+ Thuyết minh từ thực tế:
-Người phụ nữ có thể sinh nhiều con.
-Nêu tỉ lệ sinh con ở một số nước.
+ Suy nghĩ thêm:
-Ai cũng mong muốn có đủ cơm ăn, áo mặc, được học hành tử tế để mưu cầu hạnh phúc.
-Trái đất không thể rộng thêm, dân số tăng nhiều như một số nước ở châu Phi, châu Á thì sẽ kéo theo nghèo nàn, thất học, lạc hậu…
+ Kêu gọi giảm tốc độ gia tăng dân số.
I. Đọc bài văn thuyết minh xen lẫn tự sự của Thái An, người đọc chợt ngỡ ngàng đến thú vị. Ngỡ ngàng vì tác giả nêu sự việc có liên quan đến mình, gia đình mình,… mà mình không nghĩ tới. Thú vị là ở chỗ Thái An đã 11 luận cổ suy kim”để khơi gợi suy nghĩ và hành động của mỗi người, nhất là với những ai đã nên vợ nên chồng, về “bài toán dân số”,bởi đặc tính sinh hoạt của con người khác với muôn loài.
II. Bài văn có 5 đoạn: đoạn đầu là phần mở hài, đoạn cuối là phần kết luận. Phần mở bài được viết bằng lôi văn tự sự nêu thẳng vấn đề: “Bài toán dân sô’đã được đặt ra từ thời cổđạVThái An đã không tin điều này. Điều ấy cũng đúng thôi vì thời cổ đại là thời cách nay dăm bảy ngàn năm về trước, lúc ấy số lượng người còn quá thưa thớt thì người cổ đại đặt ra “bài toán dân sổ”để làm gì mới được chứ! Vả lại “vân đề dân số và kế hoạch hóa gia đình chỉ mới được đặt ra vài chục năm nay” nên tác giả không tin là phải. Nhưng đó chỉ là phản ứng trước mắt có tính nhất thời. Hay nói đúng hơn là nghệ thuật nhận sự thiếu sót về mình trước khi trình bày cái đúng của vấn đề, như Thái An tâm sự: “Thế mà nghe xong câu chuyện này, qua một thoáng liên tưởng, tôi bỗng “sáng mắt ra”.
Cái khéo của tác giả là dùng lối văn tự sự làm phần mở bài rồi dẫn qua lối văn thuyết minh ở phần thân bài bằng cách nêu một sự việc mấu chốt. Sự việc mâu chốt ở đây là “câu chuyện này”.Thế là “câu chuyện này” trở thành dẫn chứng để thuyết minh cho sự việc “bỗng sáng mắt ra” điều mà lúc đầu Thái An đã không tin. Và Thái An đi vào mạch văn kể. “£>ớ là câu chuyện từ một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái. Nhà thông thái đưa ra một bàn cờ tướng gồm 64 ô. Ông yêu cầu các chàng trai thực hiện theo điều kiện sau: đặt 1 hạt thóc vào ô thứ nhất; ô thứ hai đặt 2 hạt thóc; và các ô tiếp theo số thóc cứ thê’ nhân đối. Ai đủ số thóc theo yêu cầu của bài toán sẽ là chồng cô gái”.Tất nhiên không có chàng trai nào có đủ số thóc đặt vào 64 ô cờ để trở thành chàng rể của nhà thông thái, bởi vì “số thóc được tính ra theo bài toán cấp số nhân ấy, nhiều đến mức có thể phủ khắp bề mặt trái đất này”.Khi đặt ra bài toán để kén rể, nhà thông thái thời cổ đại có nghĩ đến sự gia tăng dân số hay không thì không biết, nhưng với Thái An, khi kể lại, thì câu chuyện này có ẩn dụ về bài toán dân số.
Thái An lại viện dẫn Kinh thánh, sách giáo lí của đạo Ki-tô, để thuyết minh thêm vài bài toán dân số một cách cụ thể: không là số thóc mà là sô” người, con người sinh sôi nảy nở trong một khoảng thời gian cụ thể. Thái An cho người đọc biết: “khi khai thiên lập địa, Trái Đất này chỉ có hai
người: một chàng A-đam và một nàng E-va; thì đến năm 1995 dân số toàn thế giới là 5,63 tỉ người”.Dù A-đam và E-va là nhân vật có thật hay không thì vẫn không ảnh hưởng gì đến thực tế nam nữ trở thành chồng vợ và sự gia tăng dân số: từ hai người vào thuở khai thiên lập địa tới 5,63 tỉ người vào năm 1995, mà theo bài toán của nhà thông thái cổ đại kia thì số người đã ở vào ô thứ 30, với điều kiện là mỗi cặp vợ chồng chỉ được phép có 2 con. Thế nhưng trong thực tế thì không như thế vì “một người phụ nữ có khả năng sinh được rất nhiều con”.Và tác giả đưa ra con số thông kê do hội nghị Cai-rô (Ai Cập) họp ngày 5-9-1994 công bố thì “tỉ lệ sinh con của một phụ nữ Ân Độ là 4,5; Nê-pan: 6,3; Ru-an-đa: 8,1; Tan-da-ni-a: 6, 7; Ma-đa-gát-xca: 6,6… Tính chung toàn châu Phi là 5,8. Phụ nữ Việt Nam là 3,7″.Và tác giả còn cho biết thêm “với tỉ lệ hàng năm tăng 1,43% như mười lăm năm trước và 1,57% năm ỉ 990 thì dân sổ của hành tinh chúng ta năm 2015 sẽ là hơn7 tỉ người. Theo bài toán cổ trên, số dân ấy đã mon men sang ồ thứ 31 của bàn cờ”.Với tỉ lệ 1,73% và 1,57%, tức là dưới 2% mà chỉ 20 năm sau (1995-2015) dân số thế giới tăng tới trên 1,3 tỉ thì với con số tỉ lệ phụ nữ sinh con ở trên đều gấp đôi hoặc gấp ba tỉ lệ 2% thì tới năm 2015 dân số thế giới chắc chắn sẽ trên 7 tỉ. Còn nếu tính đổ đồng về sự tăng dân số theo ô bàn cờ của nhà thông thái thì cứ 20năm dân số lại ở vào ô kế tiếp. Nếu 2015 dân số ở ô 31 thì 660 năm sau, tức là năm 2675 dân số thế giới sẽ ở ô cuối cùng, ô 64! 660 năm cứ tưởng là dài so với đời một người, còn so với sự vĩnh cửu của nhân loại thì con sô” ấy là một đe dọa, là một cảnh báo “không tồn tại” của nhân loại quá rõ ràng, bởi vì tới lúc ấy diện tích dành cho mỗi con người trên mặt Trái Đất chỉ bằng diện tích một hạt thóc!
|
Instruct
+ Explanation from ancient books:
-The story of choosing a son-in-law using the wise man's chess board.
-Story from the Bible.
+ Explanation from reality:
-A woman can give birth to many children.
-Indicate birth rates in some countries.
+ Additional thoughts:
-Everyone wants to have enough food, clothes, and a good education to pursue happiness.
-The earth cannot be larger, population increases as much as some countries in Africa and Asia will lead to poverty, illiteracy, backwardness...
+ Calling for a reduction in population growth rate.
I. Reading Thai An's expository essay mixed with narrative, the reader is suddenly pleasantly surprised. Surprised because the author mentioned an incident related to me, my family,... that I had not thought of. What's interesting is that Thai An has written 11 ancient treatises to stimulate the thoughts and actions of each person, especially those who are married, about the "population problem", because of the characteristics of daily life. of humans is different from all species.
II. The essay has 5 paragraphs: the first paragraph is the introduction, the last paragraph is the conclusion. The opening part of the article is written in narrative prose, directly stating the problem: "The population problem has been posed since ancient times. Thai An did not believe this. That is also true because the ancient period was a time some seven thousand years ago, at that time the number of people was still too sparse, so why did the ancients pose the "population problem" for? Besides, "the issue of population and family planning has only been raised for a few decades" so the author does not believe it is right. But that is only a temporary reaction. Or to be more precise, it is the art of admitting one's own shortcomings before presenting the correctness of the problem, as Thai An confided: "But after listening to this story, through a moment of association, I suddenly "opened my eyes." ”.
The author's cleverness is to use narrative style as the introduction and then lead through the expository style in the body of the article by stating a key incident. The key contradiction here is "this story". So "this story" becomes evidence to explain the "suddenly enlightening" incident that Thai An did not believe at first. And Thai An enters the story line. “This is a story from an ancient math problem, about the wise man's choice of a bridegroom. The wise man presented a Chinese chess board with 64 squares. He asked the boys to comply with the following conditions: put 1 grain of rice in the first box; In the second box, place 2 grains of rice; and in the following cells, the number of rice is multiplied. Whoever has enough rice as required by the problem will be the girl's husband." Of course, no boy has enough rice to place on the 64 chess boxes to become the wise man's son-in-law, because "the number of rice is calculated." According to that exponential problem, there are so many that they can cover the entire surface of the earth." When setting up the problem of choosing a bridegroom, did the ancient wise man think about population growth or not? know, but for Thai An, when told, this story has a metaphor about the population problem.
Thai An again cited the Bible, the Christian catechism book, to explain some population problems specifically: it is not the number of rice but the number of people, people multiply in a certain period of time. specific time. Thai An tells readers: "When the world was created, there were only two on this Earth
people: a man Adam and a woman Eve; By 1995, the world's population was 5.63 billion people. Whether Adam and Eve are real people or not, it still has no effect on the reality of men and women becoming husband and wife and the family's family life. population growth: from two people at the beginning of the world to 5.63 billion people in 1995, which according to the ancient wise man's math, the number of people was in the 30th box, provided that each pair Husband and wife are only allowed to have 2 children. But in reality, it is not like that because "a woman has the ability to give birth to many children". And the author gives statistics from the Cairo conference (Egypt) held on September 5 - 1994 announced that “the birth rate of an Indian woman is 4.5; Nepal: 6.3; Rwanda: 8.1; Tanzania: 6, 7; Madagascar: 6.6... For the whole of Africa, it is 5.8. Vietnamese women are 3.7″. And the author also adds that "with an annual rate of increase of 1.43% as of fifteen years ago and 1.57% in 1990, the population of our planet in 2015 will be more than 7 billion people. According to the old math problem above, that population has moved to the 31st square of the chess board. With the rate of 1.73% and 1.57%, that is less than 2% that only 20 years later (1995-2015) The world population has increased to over 1.3 billion, so with the above number of women giving birth double or triple the 2% rate, by 2015 the world population will definitely be over 7 billion. If you calculate the population growth according to the wise man's chessboard square, then every 20 years the population will be in the next square. If in 2015 the population is in box 31, then 660 years later, that is, in 2675, the world population will be in the last box, box 64! 660 years seems like a long time compared to a person's life, but compared to the eternity of humanity, that number is a threat, a warning of humanity's "non-existence" too clearly, because to At that time, the area available for each human being on the Earth's surface was only equal to the area of a grain of rice!
|
Hướng dẫn
1. Nước ta là một nước nông nghiệp. Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Nền văn minh sông Hồng toả sáng trên bốn nghìn năm lịch sử chính là nền văn minh trồng lúa nước, trồng ngũ cốc. Màu xanh và hương thơm ngọt ngào của lúa, ngô, khoai… của hoa trái bốn mùa đã làm đẹp tâm hồn Việt Nam, trí tuệ Việt Nam.
Nghề nông ở nước ta trải qua nắng lắm mưa nhiều, hạn hán lũ lụt. Nhân dân ta có nhiều câu tục ngữ nói về nông lịch, về kinh nghiệm thời tiết. Mùa đông, ngày ngắn đêm dài; mùa hè ngày lại dài đêm ngắn. Nhân dân đã đúc kết qua một so sánh hóm hình:
‘Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối’
Lấy giấc ngủ để đo cái ngắn đêm mùa hè, lấy cái cười để chỉ ra cái ngắn của ngày mùa đông, đó là cách nói cụ thể nêu lên một kinh nghiệm cụ thể để biết sử dụng thời gian, lo ăn, lo làm, lo nghỉ ngơi hợp lí.
Chưa có máy móc khoa học để tính gió, đo mây,… nhân dân ta, bằng trực giác và kinh nghiệm để dự báo thời tiết, chủ động trong cày cấy gieo trồng, lên rừng hoặc ra sông, ra biển. Dự báo thời tiết để phòng chống thiên tai, để hạn chế thiệt hại cho mùa màng cây trồng, cho vật nuôi và cho con người. Có bao câu tục ngữ nói về thời tiết; kinh nghiệm quý báu ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị:
– ‘Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy,
Cơn đằng tây vừa cày vừa ăn’
– ‘Ráng mỡ gà có nhà thì giữ’
– ‘Trăng quầng trời hạn, trăng tán trời mưa’
Nhìn mây, nhìn ráng, nhìn trăng… mà dự báo thời tiết về mưa, bão, hạn hán. Kinh nghiệm ấy rất quý vì có cơ sở khoa học đã được chứng minh qua hàng nghìn” năm trong lao động sản xuất, trong cuộc sống.
Ngày xưa, một năm nhân dân ta chỉ làm hai vụ lúa: vụ chiêm và vụ mùa (vụ mười). Tháng ba nắng hạn, ruộng đồng khô cạn, khi lúa đang trổ đòng đòng. Mưa tháng ba đối với nhà nông là ‘cơn mưa vàng’ làm cho lúa tốt bời bời, bội thu. Trái lại, trong tháng tư, lúa sắp chín, khoai đỗ sắp thu hoạch, nếu mưa nhiều sẽ gây nhiều thiệt hại lớn cho nhà nông:
‘Mưa tháng ba, hoa đất,
Mưa tháng tư, hư đất’
Cuối tháng hai, những cơn mưa rào đầu hè sắp đến. Mưa tăng nguồn nước cho ruộng đồng, đem chất đạm tự nhiên cho lúa. Những tiếng sấm báo cơn mưa cuối xuân đầu hè làm cho nhà nông sung sướng, cây lúa phấn khởi ‘phất cờ’ vươn lên tươi tốt:
‘Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên!’
Mưa thuận gió hòa, chân cứng đá mềm là mong ước của người dân cày Việt Nam từ bao đời nay.
2. Lại có những câu tục ngữ nói về trồng trọt và chăn nuôi. Muốn khoai nhiều củ, tăng năng suất thì phải luân canh, trồng trên ‘đất lạ’. Mạ có tốt thì lúa mới nhiều bông chắc hạt, do đó phải chuyên canh, mà phải gieo trên ‘đất quen’:
‘Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen’
Lúa có được chăm bón mới tươi tốt. Áo quần bằng lụa làm cho người ta thêm sang, thêm đẹp. Cách so sánh của ông bà nông dân có vẻ ‘thô’ mà cụ thể, hóm hỉnh khi nói về kinh nghiêm canh tác:
‘Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân’.
Dân gian có thành ngữ: ‘Cuốc bẫm, cày sâu’. Có cày sâu mới có lúa tốt. Lấy chuyện ‘ăn’ để nói về chuyện ‘cày’ cũng là cách khẳng định một kinh nghiệm, một bài học về sản xuất:
‘Ăn kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa’.
Nông lịch dân gian là sự đúc kết qua thời tiết và khí hậu. Nước ta ở vùng nhiệt đới nên ai ai cũng phải nhớ: ‘Tháng hai trồng cà, tháng ba trồng đổ’. Gieo trồng trái vụ thì sẽ hỏng ăn. Cũng là chăn nuôi, nhưng nuôi lợn thì nhàn, tựa như ‘ăn cơm nằm’. Còn nuôi tằm, nhất là lúc tằm ăn rỗi, phải chầu chực suốt đêm ngày, đúng là ‘ăn cơm đứng’. Có trồng dâu nuôi tằm dệt tơ lụa mới thấm thía kinh ” nghiệm:
‘Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng’
3. Ngoài ra dân gian còn có nhiều câu tục ngữ nói về tư liệu sản xuất của nhà nông. Muốn phát triển nông nghiệp phải coi trọng chăn nuôi gia súc, gia cầm. Phải nuôi trâu bò để làm sức kéo. Con trâu là cánh tay phải, là người bạn chí thiết của nhà nông, là tài sản vô giá. Nhân dân chỉ rõ: ‘Con trâu là đầu cơ nghiệp’. Muốn làm giàu phải có ‘Ruộng sâu, trâu nái’. Ruộng sâu là ruộng màu mỡ, thuận nguồn
nước. Trâu nái là trâu cái, béo tốt, đẻ mắn con. Cùng với con trâu, nhà nông gắn cả cuộc đời mình vào ruộng đất. Ruộng đất thấm bao mồ hôi công sức. Đất để trồng trọt đem lại hoa lợi và sự no ấm. Đất quý như vàng:
‘Tâ’c đất, tấc vàng’
|
Instruct
1. Our country is an agricultural country. Our people have a long-standing profession of wet rice cultivation. The Red River civilization that shines over four thousand years of history is the civilization of wet rice and grain cultivation. The green color and sweet fragrance of rice, corn, potatoes... of four-season fruits have beautified the Vietnamese soul and Vietnamese intelligence.
Agriculture in our country experiences lots of sunshine, lots of rain, drought and floods. Our people have many proverbs about the agricultural calendar and weather experiences. Winter, short days and long nights; In summer, the days are long and the nights are short. People have concluded through a humorous comparison:
'The night of May has not yet been laid down,
Dated October was not laughed at'
Using sleep to measure the shortness of summer nights, using laughter to indicate the shortness of winter days, that is a specific way of speaking that raises a specific experience to know how to use time, worry about eating, worrying about work, Take care of proper rest.
There is no scientific machinery to calculate wind, measure clouds, etc. Our people, using intuition and experience, can predict the weather and be proactive in plowing and planting, going to the forest or to the river or sea. Weather forecasting to prevent natural disasters, to limit damage to crops, livestock and humans. There are many proverbs about the weather; That valuable experience is still valid today:
– ‘The storm in the east looks and runs,
The storm in the west plows and eats at the same time.
– 'If you have a house, keep the chicken fat'
– 'The moon halos the drought, the moon spreads the rain'
Look at the clouds, look at the clouds, look at the moon... and forecast the weather about rain, storms, and drought. That experience is very valuable because it has a scientific basis that has been proven over thousands of years in production and life.
In the past, our people only did two rice crops a year: the harvest and the harvest (the tenth crop). March is dry and the fields are dry, when the rice is in full bloom. March rain for farmers is the 'golden rain' that makes rice abundant and bountiful. On the contrary, in April, rice is about to ripen and beans are about to be harvested. If there is a lot of rain, it will cause great damage to farmers:
'March rain, earth flowers,
April rain damages the land'
At the end of February, the early summer showers are coming. Rain increases water sources for fields, bringing natural protein to rice. The sounds of thunder announcing the late spring and early summer rains make the farmers happy, the rice plants excitedly 'wave their flag' and grow lushly:
'Rice appears at the edge of the bank,
Whenever you hear the sound of thunder, raise your flag!'
Favorable rain and wind, hard feet and soft rocks are the wishes of Vietnamese plowmen for many generations.
2. There are also proverbs about farming and animal husbandry. If you want more potatoes and increased productivity, you must rotate crops and plant them on 'strange soil'. If the seeding is good, the rice will have many flowers and strong seeds, so it must be specialized in cultivation, but must be sown on 'familiar soil':
'Potato fields are strange, rice seedlings are familiar'
The newly fertilized rice is lush and fresh. Silk clothes make people more luxurious and beautiful. The farmers' comparison seems 'rough' but specific and humorous when talking about farming experience:
'People are beautiful because of silk, rice is good because of dung'.
There is a folk idiom: 'Plow hard, plow deeply'. Only with deep plowing can good rice be produced. Using the story of 'eating' to talk about 'plowing' is also a way to affirm an experience, a lesson about production:
'Eat well and feel full for a long time, plow deeply for good rice'.
The folk agricultural calendar is a summary of weather and climate. Our country is in the tropics, so everyone must remember: 'In February, plant eggplants, in March, plant vegetables'. Planting out of season will spoil the food. It's also livestock farming, but raising pigs is leisurely, like 'eating and lying down'. As for raising silkworms, especially when silkworms are free to eat, they have to wait all night and day, literally 'eating standing up'. Only by growing mulberries, raising silkworms and weaving silk can we gain profound experience:
'Raising pigs and eating rice lying down, raising silkworms and eating rice standing up'
3. In addition, folk also have many proverbs talking about farmers' means of production. If we want to develop agriculture, we must attach importance to raising livestock and poultry. Cattle and buffaloes must be raised for traction. The buffalo is the right hand man, a close friend of the farmer, and a priceless asset. People pointed out: 'The buffalo is the beginning of the business'. If you want to get rich, you must have 'deep fields and sows'. Deep fields are fertile fields with favorable sources
water. A sow is a female buffalo, fat and fertile, giving birth to offspring. Along with the buffalo, the farmer attaches his whole life to the land. The land is soaked in sweat and effort. Land for growing crops brings benefits and prosperity. Land is as precious as gold:
'An inch of land, an inch of gold'
|
Hướng dẫn
I. PHAN CHẦU TRINHtự là Tử Can, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, người làng Tây Lộc, huyện Tuyên Phước, tỉnh Quảng Nam, sinh vào tháng tám năm Nhâm Tuất (1872). Thân phụ ông là Phan Văn Bình theo nghề võ và đã chiến đấu tích cực trong hàng ngũ cần Vương, thân mẫu là Lê Thị Chung, một người đàn bà đảm đang và có nhiều đức’ hạnh.
Năm 1900, ông thi đậu cử nhân, năm 1901 ông thi đậu luôn Phó bảng và năm 1902 ông được nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ tại triều đình Huế.
Năm 1905, ông làm giấy từ quan rồi bắt đầu hoạt động chính trị cùng với các Ông Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can v.v… Ong bí mật sang Trung Hoa để nghiên cứu về quốc kế dân sinh và đã gặp Phan Bội Châu tại đây. Sau đó hai ông lại cùng sang Nhật. Ở đó chừng 10 tháng, Phan Châu Trinh trở về nước.
Năm 1908, nhân có nhiều cuộc biểu tình chống thuế tại Trung Kì, thực dân Pháp liền buộc ông đã nhúng tay vào việc đó, bắt giam ông.cùng với Trần Quý Cáp. Sau đó chúng đày ông ra đảo Côn LÔ11. Bài thơ Đập đá ở Côn Lổnra đời trong hoàn cảnh ấy.
II. Trước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, đá số các văn gia thi sĩ, mỗi khi gặp những cảnh sa cơ, lỡ vận thường có ba thái độ:
Hoặc là tin vào sự biến dịch: “bĩ cực thái lai” rồi ngồi yên thúc thủ chờ thời:
Hẳn bền lòng chớ chút oan vưu
Thời chí hỷ ngư long biến hóa.
Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả,
Cũng đừng đem hình dịch lại cầu chỉ,
Hơn nhau cũng một chữ “Thì ”!
(Cuộc phong trần,Cao Bá Quát)
Để rồi cuối cùng cố quên nỗi khổ não chứa chất trong tâm hồn bằng cách “uống rượu tiêu sầu”, hoặc nữa là lẩn tránh không dám nhìn vào thực tại và cuối cùng đắm mình trong thiên nhiên hoặc trong thế giới tưởng tượng để tìm lấy ởđó một nguồn an ủi bất tận như trường hợp của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh v. v…
Hoặc là giãi bày những lời thở than oán trách, châm biếm “thiên hạ tự”để cho vơi đi một chút u uất, và cuối cùng là tư tưởng nhớ nhung hoài cổ như trường hợp Trần Tế Xương, Bà Huyện Thanh Quan v. v…
Đêm đêm tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
(T. T. Xương)
Phan Châu Trinh thì khác hẳn. Là một nhà cách mạng lấy việc giải phóng dân tộc làm lẽ sống, nên trước những nỗi gian nan đau khổ, giữa cuộc đời tù đày cơ cực, ngày ngày phải xách búa đi đập đá – xa quê hương, xa đồng chí không một lời an ủi dịu hiền – mà ông vẫn khẳng khái, coi đó chỉ là một sự thử thách ý chí mình. Ông diễn tả lòng cương quyết phá núi:
Xách búa đánh tan năm bảy đống Ra tay đập bể mấy trăm hòn…
Nhưng thực ra công việc đập đá ở đây chỉ có một giá trị tượng trưng – nó tượng trưng cho những trở ngại ghê gớm trên bước đường lập chí của ông đó thôi. Bởi vậy, ông cương quyết phá núi thế nào thì đồng thời ông cũng cương quyết phá tan mọi trở ngại san bằng những chông gai cũng như thế. Ý chí quyết chiến và quyết thắng của ông đã làm cho ta chợt nhớ tới ý chí quyết chiến và quyết thắng của Nguyễn Công Trứqua những câu: Cũng có lúc mưa dồn, sóng vỗ Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi, lấp sông,
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.
Do đó, ta có thể nói được rằng: đôi với ông, những sự đau khổ thất bại không phải là một động lực làm cùn nhụt ý chí chiến đấu, mà là hun đúc cho tinh thần chiến đấu thêm già dặn, đanh thép để thẳng tiến tới mục đích. Thực đúng với câu nói của một nhà cách mạng châu Âu trước kia: “Cái bước lùi của những chiến sĩ không phải là bước lùi đế thúc thủ mà là sửa soạn để nhảy được xa hơn”.
Vì thế, ta không ngạc nhiên khi đọc hai câu kết luận của ông:
“Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan nào sá sự con con”.
Xem như vậy thì ta không khỏi thây: nội dung bài thơ “đập đá”trên đây đã trưng lên giá trị lành mạnh và một hướng “đi lên” rõ rệt. Nó xứng đáng là một bài thơ cách mạng của một con người cách mạng.
Bài thơ trên đây không chỉ có giá trị tiêu biểu trong phạm vi nội dung, mà còn có giá trị tiêu biểu trong phạm vi hình thức nữa. Mà thực vậy, nội dung của nó mạnh mẽ bao nhiêu thì lời văn của nó lại cũng rắn rỏi, quyết liệt bấy nhiêu.
Ngay trong câu phá đề và thừa đề, lối dùng chữ của tác giả đã đủ trác tuyệt rồi:
“Làm trai đứng giữa đất Cồn Lôn Lừng lẫy làm cho lở núi non
Mỗi chữ đặt vào đây đều bao hàm một hình ảnh sinh động và một sức sông sôi nổi. Ví dụ như tiếng “đứng”, tiếng ‘Hừng lẫy” đủ gợi cho ta trông thấy hình ảnh một trang nam nhi, đầu đội trời, chân đạp đất, đứng hiên ngang trước cảnh núi non biển rộng, coi thường sóng gào, gió thét quanh mình, nhất quyết lấp sông, phá núi để đạt tới cho bằng được mục đích cao cả của mình. Tiếng “đứng” ởđây có một giá trị gợi cảm đặc biệt, đặc biệt không kém gì tiếng “đứng”của Nguyễn Công Trứ trong câu:
“Làm trai đứng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông”.
– Nghệ thuật dùng chữ của tác giả không những chỉ có giá trị gợi hình và gợi cảm như vừa nói trên mà còn nằm ở trong cách dùng chữ đối chọi đến “nảy lửa” trong hai câu thực và hai câu luận nữa. Mà thực thế, còn có những tiếng nào đối chát với nhau bằng những tiếng.
Xách búa đối với ra tay
Đánh tan đối với đập bể
Năm bảy đống đối với mấy trăm tròn
đôi với mưa nắng
đối với chi sởn
đôi với dạ sắt son
III. Bài thơ ghi dấu một chặng đường hoạt động chứ chưa khép lại đường đời của con người đầy khí phách hiên ngang. Sau hai năm bị đày, Phan Chu Trinh được “ân xá
Vì nhận thấy tranh đâu tại nước sẽ có rất ít kết quả, nên năm 1911, ông đã theo toàn quyền Klobukowsky sang Pháp. Đi theo ông, có người con trai duy nhất là Phan Chu Dật.
Năm 1925, ông trở vế Nam Kì vào khoảng tháng 6 và có tổ chức mấy cuộc diễn thuyết quan trọng nói về Quân trị Chủ nghĩa và Dân trị Chủ Nghĩa, Đạo đức và luân lý Đông, Tây. Trong thời gian này, tuy bị đau, nhưng ông vẫn tích cực vận động và ký tên vào bản xin ân xá cho ông Phan Bội Châu.
Ngày 24-12-1925, khi khi được tin ông Phan Bội Châu đã được toàn quyền Va-ren-ne ký giấy ân xá, ông định ra Huế gặp người bạn già để hàn huyên, tâm sự thì bị đau và mất ngày 24-3-1926. Toàn quốc thụ tang ông.
Theo hướng dẫn đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác. Với những bài thơ Đường luật học sinh có thề kẻ theo khung hình dưới để tìm hiểu nghệ thuật và nội dung trước khi phân tích.
HP A
Tên
gọi
Thơ
Nghĩa thực
Nghĩa suy diễn
Nghệ thuật
Đề
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Lừng lẫy làm cho lở núi non.
– Chàng trai đứng giữa núi đầy đá.
– Chàng trai ngạo nghễ, lẫm liệt đứng giữa bao cam go, thử thách.
– Ngoa dụ được dùng ở câu 2.
Thực
Xách búa đánh tan năm bảy đông. Ra tay đập
bể mấy trăm hòn.
– Tư thế và kết quả của việc đập đá
– Đã vượt qua bao nhiêu khổ cực, gian lao nhờ vào nghị lực
– Phép đối và ngoa dụ
Luận
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi. Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Khổ cực không thể làm
mềm lòng người có kinh nghiệm sống.
Người dạn dày sương gió Với lòng trung kiên thì càng khó khăn càng vững chí.
– Phép đối và từ tượng trứng, biểu hiện.
Kết
Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan chi kể việc con con.
– Chuyện khổ cực chỉ là chuyện nhỏ đôi với người có chí lớn.
– Người mu’ll cầu việc lớn thì ở tù chỉ là chuyện nhỏ.
|
Hướng dẫn
I. PHAN CHẦU TRINHtự là Tử Can, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, người làng Tây Lộc, huyện Tuyên Phước, tỉnh Quảng Nam, sinh vào tháng tám năm Nhâm Tuất (1872). Thân phụ ông là Phan Văn Bình theo nghề võ và đã chiến đấu tích cực trong hàng ngũ cần Vương, thân mẫu là Lê Thị Chung, một người đàn bà đảm đang và có nhiều đức’ hạnh.
Năm 1900, ông thi đậu cử nhân, năm 1901 ông thi đậu luôn Phó bảng và năm 1902 ông được nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ tại triều đình Huế.
Năm 1905, ông làm giấy từ quan rồi bắt đầu hoạt động chính trị cùng với các Ông Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can v.v… Ong bí mật sang Trung Hoa để nghiên cứu về quốc kế dân sinh và đã gặp Phan Bội Châu tại đây. Sau đó hai ông lại cùng sang Nhật. Ở đó chừng 10 tháng, Phan Châu Trinh trở về nước.
Năm 1908, nhân có nhiều cuộc biểu tình chống thuế tại Trung Kì, thực dân Pháp liền buộc ông đã nhúng tay vào việc đó, bắt giam ông.cùng với Trần Quý Cáp. Sau đó chúng đày ông ra đảo Côn LÔ11. Bài thơ Đập đá ở Côn Lổnra đời trong hoàn cảnh ấy.
II. Trước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, đá số các văn gia thi sĩ, mỗi khi gặp những cảnh sa cơ, lỡ vận thường có ba thái độ:
Hoặc là tin vào sự biến dịch: “bĩ cực thái lai” rồi ngồi yên thúc thủ chờ thời:
Hẳn bền lòng chớ chút oan vưu
Thời chí hỷ ngư long biến hóa.
Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả,
Cũng đừng đem hình dịch lại cầu chỉ,
Hơn nhau cũng một chữ “Thì ”!
(Cuộc phong trần,Cao Bá Quát)
Để rồi cuối cùng cố quên nỗi khổ não chứa chất trong tâm hồn bằng cách “uống rượu tiêu sầu”, hoặc nữa là lẩn tránh không dám nhìn vào thực tại và cuối cùng đắm mình trong thiên nhiên hoặc trong thế giới tưởng tượng để tìm lấy ởđó một nguồn an ủi bất tận như trường hợp của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh v. v…
Hoặc là giãi bày những lời thở than oán trách, châm biếm “thiên hạ tự”để cho vơi đi một chút u uất, và cuối cùng là tư tưởng nhớ nhung hoài cổ như trường hợp Trần Tế Xương, Bà Huyện Thanh Quan v. v…
Đêm đêm tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
(T. T. Xương)
Phan Châu Trinh thì khác hẳn. Là một nhà cách mạng lấy việc giải phóng dân tộc làm lẽ sống, nên trước những nỗi gian nan đau khổ, giữa cuộc đời tù đày cơ cực, ngày ngày phải xách búa đi đập đá – xa quê hương, xa đồng chí không một lời an ủi dịu hiền – mà ông vẫn khẳng khái, coi đó chỉ là một sự thử thách ý chí mình. Ông diễn tả lòng cương quyết phá núi:
Xách búa đánh tan năm bảy đống Ra tay đập bể mấy trăm hòn…
Nhưng thực ra công việc đập đá ở đây chỉ có một giá trị tượng trưng – nó tượng trưng cho những trở ngại ghê gớm trên bước đường lập chí của ông đó thôi. Bởi vậy, ông cương quyết phá núi thế nào thì đồng thời ông cũng cương quyết phá tan mọi trở ngại san bằng những chông gai cũng như thế. Ý chí quyết chiến và quyết thắng của ông đã làm cho ta chợt nhớ tới ý chí quyết chiến và quyết thắng của Nguyễn Công Trứqua những câu: Cũng có lúc mưa dồn, sóng vỗ Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi, lấp sông,
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.
Do đó, ta có thể nói được rằng: đôi với ông, những sự đau khổ thất bại không phải là một động lực làm cùn nhụt ý chí chiến đấu, mà là hun đúc cho tinh thần chiến đấu thêm già dặn, đanh thép để thẳng tiến tới mục đích. Thực đúng với câu nói của một nhà cách mạng châu Âu trước kia: “Cái bước lùi của những chiến sĩ không phải là bước lùi đế thúc thủ mà là sửa soạn để nhảy được xa hơn”.
Vì thế, ta không ngạc nhiên khi đọc hai câu kết luận của ông:
“Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan nào sá sự con con”.
Xem như vậy thì ta không khỏi thây: nội dung bài thơ “đập đá”trên đây đã trưng lên giá trị lành mạnh và một hướng “đi lên” rõ rệt. Nó xứng đáng là một bài thơ cách mạng của một con người cách mạng.
Bài thơ trên đây không chỉ có giá trị tiêu biểu trong phạm vi nội dung, mà còn có giá trị tiêu biểu trong phạm vi hình thức nữa. Mà thực vậy, nội dung của nó mạnh mẽ bao nhiêu thì lời văn của nó lại cũng rắn rỏi, quyết liệt bấy nhiêu.
Ngay trong câu phá đề và thừa đề, lối dùng chữ của tác giả đã đủ trác tuyệt rồi:
“Làm trai đứng giữa đất Cồn Lôn Lừng lẫy làm cho lở núi non
Mỗi chữ đặt vào đây đều bao hàm một hình ảnh sinh động và một sức sông sôi nổi. Ví dụ như tiếng “đứng”, tiếng ‘Hừng lẫy” đủ gợi cho ta trông thấy hình ảnh một trang nam nhi, đầu đội trời, chân đạp đất, đứng hiên ngang trước cảnh núi non biển rộng, coi thường sóng gào, gió thét quanh mình, nhất quyết lấp sông, phá núi để đạt tới cho bằng được mục đích cao cả của mình. Tiếng “đứng” ởđây có một giá trị gợi cảm đặc biệt, đặc biệt không kém gì tiếng “đứng”của Nguyễn Công Trứ trong câu:
“Làm trai đứng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông”.
– Nghệ thuật dùng chữ của tác giả không những chỉ có giá trị gợi hình và gợi cảm như vừa nói trên mà còn nằm ở trong cách dùng chữ đối chọi đến “nảy lửa” trong hai câu thực và hai câu luận nữa. Mà thực thế, còn có những tiếng nào đối chát với nhau bằng những tiếng.
Xách búa đối với ra tay
Đánh tan đối với đập bể
Năm bảy đống đối với mấy trăm tròn
đôi với mưa nắng
đối với chi sởn
đôi với dạ sắt son
III. Bài thơ ghi dấu một chặng đường hoạt động chứ chưa khép lại đường đời của con người đầy khí phách hiên ngang. Sau hai năm bị đày, Phan Chu Trinh được “ân xá
Vì nhận thấy tranh đâu tại nước sẽ có rất ít kết quả, nên năm 1911, ông đã theo toàn quyền Klobukowsky sang Pháp. Đi theo ông, có người con trai duy nhất là Phan Chu Dật.
Năm 1925, ông trở vế Nam Kì vào khoảng tháng 6 và có tổ chức mấy cuộc diễn thuyết quan trọng nói về Quân trị Chủ nghĩa và Dân trị Chủ Nghĩa, Đạo đức và luân lý Đông, Tây. Trong thời gian này, tuy bị đau, nhưng ông vẫn tích cực vận động và ký tên vào bản xin ân xá cho ông Phan Bội Châu.
Ngày 24-12-1925, khi khi được tin ông Phan Bội Châu đã được toàn quyền Va-ren-ne ký giấy ân xá, ông định ra Huế gặp người bạn già để hàn huyên, tâm sự thì bị đau và mất ngày 24-3-1926. Toàn quốc thụ tang ông.
Theo hướng dẫn đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác. Với những bài thơ Đường luật học sinh có thề kẻ theo khung hình dưới để tìm hiểu nghệ thuật và nội dung trước khi phân tích.
HP A
Tên
gọi
Thơ
Nghĩa thực
Nghĩa suy diễn
Nghệ thuật
Đề
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Lừng lẫy làm cho lở núi non.
– Chàng trai đứng giữa núi đầy đá.
– Chàng trai ngạo nghễ, lẫm liệt đứng giữa bao cam go, thử thách.
– Ngoa dụ được dùng ở câu 2.
Thực
Xách búa đánh tan năm bảy đông. Ra tay đập
bể mấy trăm hòn.
– Tư thế và kết quả của việc đập đá
– Đã vượt qua bao nhiêu khổ cực, gian lao nhờ vào nghị lực
– Phép đối và ngoa dụ
Luận
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi. Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Khổ cực không thể làm
mềm lòng người có kinh nghiệm sống.
Người dạn dày sương gió Với lòng trung kiên thì càng khó khăn càng vững chí.
– Phép đối và từ tượng trứng, biểu hiện.
Kết
Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan chi kể việc con con.
– Chuyện khổ cực chỉ là chuyện nhỏ đôi với người có chí lớn.
– Người mu’ll cầu việc lớn thì ở tù chỉ là chuyện nhỏ.
|
Hướng dẫn
A. Ghi nhớ:
– Ăn vóc, học hay.
– Có học mới hay, có cày mới biết.
– Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học.
– Không cày không có thóc, không học không biết chữ.
– Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
– Học ăn, học nói, học gói, học mở.
– Không thầy đố mày làm nên.
– Học thầy không tày học bạn.
– v.v…
B. Gợi ý cảm hiểu và làm bài:
Nhân dân ta giàu tình nhân ái, cần cù sáng tạo trong lao động, đặc biệt rất hiếu học. Để giáo dục con cháu trong gia đình phát huy tinh thần hiếu học, biết chăm chỉ học hành, ông bà cha mẹ thường lấy tục ngữ làm bài học sâu sắc, thấm thía. Phương pháp học tập rất phong phú, đa dạng, mục đích học tập vừa thiết thực vừa sâu xa, nên tục ngữ nói về việc học cũng nhiều vẻ. Mỗi câu tục ngữ nói về việc học là một bài học bổ ích đối với mọi người, nhất là tuổi thơ thời cắp sách. Những câu tục ngữ thường ngắn gọn, kết cấu chặt chẽ, hoặc có vần, hoặc có đối, cách so sánh cụ thể, cách liên tưởng hợp lí và thấm thía, nên rất dễ nhớ, dễ thuộc.
1. Câu tục ngữ: ‘Ăn vóc II học hay’ chỉ có bốn chữ, chia thành hai vế đối nhau;
chữ ‘vốc’ vần với chữ ‘học’. ‘Vóc’ nghĩa là sức vóc, tầm vóc. Người cao lớn, nở nang, là người có tầm vóc. Người khỏe mạnh, cường tráng là người có sức vóc. ‘Hay’ nghĩa là hiểu biết; biết đọc, biết viết, biết điều hay lẽ phải, có văn hóa, có kĩ thuật, biết ngoại ngữ. Câu tục ngữ thật giản dị, dễ hiểu: có ăn mới khỏe, mới lớn, mới có sức vóc mà lao động, mà làm ăn; có học mới hiểu biết, mới nên người. Không ăn, không có mà ăn thì chết đói, cũng như không học thì dốt nát, ngu đần, chỉ làm đầy tớ cho thiên hạ.
2. Câu tục ngữ thứ hai có tám chữ chia thành hai vế đối nhau, chữ ‘hay’ vần với chữ ‘cày’: ‘Có học mới hay,có cày mới biết’.Vế 1 nói về học chữ, học văn hóa; vế 2 nói về học trong lao động, học cày, học làm ruộng. Nghề nông là nghề chính rất lâu đời của nhân dân ta. Câu tục ngữ này còn nêu nên bài học: học đi đôi với hành, học văn hóa kết hợp với học trong lao động sản xuất.
3. Câu tục ngữ: ‘Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học’. Cần nên nhớ, trong tiếng Việt có các từ ngữ hay đi liền nhau như: học tập, học hành, học hỏi, ăn học, v.v… Học là học bài, học trong sách, học thuộc lòng, học ở trường, học ở nhà, học trong cuộc sống. Hỏi là đặt những câu, nêu lên những vấn đề chưa hiểu, còn thắc mắc để cho người khác trả lời, giảng giải giúp ta sáng tỏ, hiểu biết. Có lúc ta tự hỏi mình, tự mình suy nghĩ và giải đáp. Học mà biết hỏi thì mới hiểu sâu, hiểu rộng. Có biết hỏi thì mới thật sự biết học. Vế 1 ‘muốn giỏi phải học’ nhấn mạnh kết quả học tập. Chữ ‘giỏi’ ở đây có nghĩa là giỏi giang, tài giỏi, có kiến thức sâu rộng, có tay nghề, có kỹ thuật cao. Trong thời đại mới, thời đại cửa tin học, của
‘ công nghê phát triển, câu tục ngữ ‘Muốn biết phải hỏi, muôn giỏi phải học’ càng nhiều ý nghĩa và thiết thực. Chữ ‘phải’ điệp lại 2 lần để nhấn mạnh nhiệm vụ, nghĩa vụ của việc học rất quan trọng.
4. Câu thứ tư, nhân dân ta dùng cách nói phủ định để khẳng định một bài học, một chân lí vừa giản dị vừa rõ ràng về làm ăn và học hành: ‘Không cày không có thóc, không học không biết chữ’. Muốn no ấm thì phải cần cù lao động (cày); lười biếng sẽ đói khổ (không có thóc), cũng như không được học, không chịu học thì sẽ ngu si dốt nát (không biết chữ). Mà dốt nát thì sẽ nghèo khổ, không có chỗ đứng trong xã hội văn minh.
5. Câu tục ngữ: ‘Đi một ngày đàng, học một sàng khôn’ là cách nói ước lệ và cụ thể của dân gian. ‘Đàng’ là đường; ‘đàng’ bắt vần với ‘sàng’ cho dễ nhớ. ‘Đi một ngày đàng’ nghĩa là đi đây đi đó, thấy được nhiều cảnh, nhiều người, gặp được, quan sát được bao điểu hay điều dở trong cuộc sống: ‘Đi một ngày đàng’ìầ cách nói ước lệ về sự thâm nhập cuộc sống, học trong thực tế xã hội. Có nhà thơ đã viết:
‘Hạt gạo phải một nắng hai sương
xay, giã, giần, sàng’
Thóc phải xay, giã rồi phải giần, sàng mới có hạt gạo. Cối xay, cối giã gạo, cái giần, sàng là những dụng cụ ở nhà quê. ‘Học một sàng khôn’ là cách nói thậm xưng, cụ thể học được nhiều điều hay, điều tốt đẹp trong cuộc sống. Câu tục ngữ khuyên mọi người, ngoài việc học trong sách, học ở trường, còn phải biết học trong thực tế ngoài xã hội. Dân gian còn có câu tục ngữ nhắn nhủ,.khích lệ:
‘Đi cho biết đó biết đây,
. Ớ nhà với mẹ biết ngày nào khôn!’
6. Phải biết sống có ý tứ. Phải sống khôn ngoan. Phải biết ứng xử một cách văn minh, lịch sự, sống có nhân cách văn hóa. Muốn thế thì phải ‘học’: ‘Học ăn, học nói, học gói, học mở’. Có nhiều điều phải ‘học’, nhưng điều trước hết là học cách ăn nói trong giao tiếp, ứng xử, phải biết ‘liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau’. ‘Học
ăn, học nói, học gói, học mở’để tránh thô lỗ, tục tằn trong ứng xử. Vì thế mới có câu ví, câu ca:
‘Đất tốt trồng cây rườm rà.
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng.
Đất xấu trồng cây khẳng khiu,
Những người thô tục nói điều phàm phu’
Chúng ta, cả người lớn và trẻ em phải ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’ để nói lời hay ý đẹp, để giữ gìn và phát triển sự trong sáng và giàu có của tiếng Việt.
7.Các câu tục ngữ trên đều nói rõ: học để làm gì? học cái gì? học như thế nào? Hai câu tục ngữ sau đây nói rõ là học ai? Đó là học thầy và học bạn:
– ‘Không thầy đô’ mày làm nên’
– ‘Học thầy không tày học bạn’
Nhờ học thầy, thầy giỏi thì trò mới làm nên, mới thành đạt, mới trở thành người công dân tốt, người lao động tốt, nhà khoa học, nhà quản lí tài ba. Hình ảnh ông thầy sống mãi trong tâm hồn tuổi trẻ của mọi thời đại, mọi chế độ xã hội. Càng học lên cao thì vai trò ông thầy càng quan trọng. Biết ‘học thầy’ lại còn cần biết ‘học bạn’. ‘Học bạn’ là một cách học thiết thực làm cho ta tiến mau, có ỷ thức vươn lên trong học hành. Biết ‘học thầy’ và biết ‘học bạn’ thì chóng giỏi. ‘Không tày’ nghĩa ‘không bằng’. Câu tục ngữ: ‘Học thầy không tày học bạn’ chỉ là một cách nói, cách so sánh để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ‘học bạn’. Chứ thật ra, việc ‘học bạn’ không thể thay thế việc ‘học thầy’. Bởi lẽ, chỉ có thầy giỏi, nhà giáo dục giỏi mới có thể dạy dỗ, đào tào được học sinh giỏi. Biển học rộng bao la, ta càng thấy vai trò to lớn của người thầy trong nền giáo dục.
Các thầy đồ ngày xưa dạy các nho sinh: ‘Bất học diện tường’ (không học như úp mặt vào tường), hoặc:
‘Nhân bất học bất tri lí,
Ẩu bất học lão hà vi?’
nghĩa là: Kẻ vô học thì chẳng biết nghĩa lí; trẻ không học thì về già làm được gì? Lại có câu cách ngôn: ‘Sự học là cái chìa khóa mở mọi kho báu trên đời’. Có nhà
|
Hướng dẫn
A. Ghi nhớ:
– Ăn vóc, học hay.
– Có học mới hay, có cày mới biết.
– Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học.
– Không cày không có thóc, không học không biết chữ.
– Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
– Học ăn, học nói, học gói, học mở.
– Không thầy đố mày làm nên.
– Học thầy không tày học bạn.
– v.v…
B. Gợi ý cảm hiểu và làm bài:
Nhân dân ta giàu tình nhân ái, cần cù sáng tạo trong lao động, đặc biệt rất hiếu học. Để giáo dục con cháu trong gia đình phát huy tinh thần hiếu học, biết chăm chỉ học hành, ông bà cha mẹ thường lấy tục ngữ làm bài học sâu sắc, thấm thía. Phương pháp học tập rất phong phú, đa dạng, mục đích học tập vừa thiết thực vừa sâu xa, nên tục ngữ nói về việc học cũng nhiều vẻ. Mỗi câu tục ngữ nói về việc học là một bài học bổ ích đối với mọi người, nhất là tuổi thơ thời cắp sách. Những câu tục ngữ thường ngắn gọn, kết cấu chặt chẽ, hoặc có vần, hoặc có đối, cách so sánh cụ thể, cách liên tưởng hợp lí và thấm thía, nên rất dễ nhớ, dễ thuộc.
1. Câu tục ngữ: ‘Ăn vóc II học hay’ chỉ có bốn chữ, chia thành hai vế đối nhau;
chữ ‘vốc’ vần với chữ ‘học’. ‘Vóc’ nghĩa là sức vóc, tầm vóc. Người cao lớn, nở nang, là người có tầm vóc. Người khỏe mạnh, cường tráng là người có sức vóc. ‘Hay’ nghĩa là hiểu biết; biết đọc, biết viết, biết điều hay lẽ phải, có văn hóa, có kĩ thuật, biết ngoại ngữ. Câu tục ngữ thật giản dị, dễ hiểu: có ăn mới khỏe, mới lớn, mới có sức vóc mà lao động, mà làm ăn; có học mới hiểu biết, mới nên người. Không ăn, không có mà ăn thì chết đói, cũng như không học thì dốt nát, ngu đần, chỉ làm đầy tớ cho thiên hạ.
2. Câu tục ngữ thứ hai có tám chữ chia thành hai vế đối nhau, chữ ‘hay’ vần với chữ ‘cày’: ‘Có học mới hay,có cày mới biết’.Vế 1 nói về học chữ, học văn hóa; vế 2 nói về học trong lao động, học cày, học làm ruộng. Nghề nông là nghề chính rất lâu đời của nhân dân ta. Câu tục ngữ này còn nêu nên bài học: học đi đôi với hành, học văn hóa kết hợp với học trong lao động sản xuất.
3. Câu tục ngữ: ‘Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học’. Cần nên nhớ, trong tiếng Việt có các từ ngữ hay đi liền nhau như: học tập, học hành, học hỏi, ăn học, v.v… Học là học bài, học trong sách, học thuộc lòng, học ở trường, học ở nhà, học trong cuộc sống. Hỏi là đặt những câu, nêu lên những vấn đề chưa hiểu, còn thắc mắc để cho người khác trả lời, giảng giải giúp ta sáng tỏ, hiểu biết. Có lúc ta tự hỏi mình, tự mình suy nghĩ và giải đáp. Học mà biết hỏi thì mới hiểu sâu, hiểu rộng. Có biết hỏi thì mới thật sự biết học. Vế 1 ‘muốn giỏi phải học’ nhấn mạnh kết quả học tập. Chữ ‘giỏi’ ở đây có nghĩa là giỏi giang, tài giỏi, có kiến thức sâu rộng, có tay nghề, có kỹ thuật cao. Trong thời đại mới, thời đại cửa tin học, của
‘ công nghê phát triển, câu tục ngữ ‘Muốn biết phải hỏi, muôn giỏi phải học’ càng nhiều ý nghĩa và thiết thực. Chữ ‘phải’ điệp lại 2 lần để nhấn mạnh nhiệm vụ, nghĩa vụ của việc học rất quan trọng.
4. Câu thứ tư, nhân dân ta dùng cách nói phủ định để khẳng định một bài học, một chân lí vừa giản dị vừa rõ ràng về làm ăn và học hành: ‘Không cày không có thóc, không học không biết chữ’. Muốn no ấm thì phải cần cù lao động (cày); lười biếng sẽ đói khổ (không có thóc), cũng như không được học, không chịu học thì sẽ ngu si dốt nát (không biết chữ). Mà dốt nát thì sẽ nghèo khổ, không có chỗ đứng trong xã hội văn minh.
5. Câu tục ngữ: ‘Đi một ngày đàng, học một sàng khôn’ là cách nói ước lệ và cụ thể của dân gian. ‘Đàng’ là đường; ‘đàng’ bắt vần với ‘sàng’ cho dễ nhớ. ‘Đi một ngày đàng’ nghĩa là đi đây đi đó, thấy được nhiều cảnh, nhiều người, gặp được, quan sát được bao điểu hay điều dở trong cuộc sống: ‘Đi một ngày đàng’ìầ cách nói ước lệ về sự thâm nhập cuộc sống, học trong thực tế xã hội. Có nhà thơ đã viết:
‘Hạt gạo phải một nắng hai sương
xay, giã, giần, sàng’
Thóc phải xay, giã rồi phải giần, sàng mới có hạt gạo. Cối xay, cối giã gạo, cái giần, sàng là những dụng cụ ở nhà quê. ‘Học một sàng khôn’ là cách nói thậm xưng, cụ thể học được nhiều điều hay, điều tốt đẹp trong cuộc sống. Câu tục ngữ khuyên mọi người, ngoài việc học trong sách, học ở trường, còn phải biết học trong thực tế ngoài xã hội. Dân gian còn có câu tục ngữ nhắn nhủ,.khích lệ:
‘Đi cho biết đó biết đây,
. Ớ nhà với mẹ biết ngày nào khôn!’
6. Phải biết sống có ý tứ. Phải sống khôn ngoan. Phải biết ứng xử một cách văn minh, lịch sự, sống có nhân cách văn hóa. Muốn thế thì phải ‘học’: ‘Học ăn, học nói, học gói, học mở’. Có nhiều điều phải ‘học’, nhưng điều trước hết là học cách ăn nói trong giao tiếp, ứng xử, phải biết ‘liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau’. ‘Học
ăn, học nói, học gói, học mở’để tránh thô lỗ, tục tằn trong ứng xử. Vì thế mới có câu ví, câu ca:
‘Đất tốt trồng cây rườm rà.
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng.
Đất xấu trồng cây khẳng khiu,
Những người thô tục nói điều phàm phu’
Chúng ta, cả người lớn và trẻ em phải ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’ để nói lời hay ý đẹp, để giữ gìn và phát triển sự trong sáng và giàu có của tiếng Việt.
7.Các câu tục ngữ trên đều nói rõ: học để làm gì? học cái gì? học như thế nào? Hai câu tục ngữ sau đây nói rõ là học ai? Đó là học thầy và học bạn:
– ‘Không thầy đô’ mày làm nên’
– ‘Học thầy không tày học bạn’
Nhờ học thầy, thầy giỏi thì trò mới làm nên, mới thành đạt, mới trở thành người công dân tốt, người lao động tốt, nhà khoa học, nhà quản lí tài ba. Hình ảnh ông thầy sống mãi trong tâm hồn tuổi trẻ của mọi thời đại, mọi chế độ xã hội. Càng học lên cao thì vai trò ông thầy càng quan trọng. Biết ‘học thầy’ lại còn cần biết ‘học bạn’. ‘Học bạn’ là một cách học thiết thực làm cho ta tiến mau, có ỷ thức vươn lên trong học hành. Biết ‘học thầy’ và biết ‘học bạn’ thì chóng giỏi. ‘Không tày’ nghĩa ‘không bằng’. Câu tục ngữ: ‘Học thầy không tày học bạn’ chỉ là một cách nói, cách so sánh để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ‘học bạn’. Chứ thật ra, việc ‘học bạn’ không thể thay thế việc ‘học thầy’. Bởi lẽ, chỉ có thầy giỏi, nhà giáo dục giỏi mới có thể dạy dỗ, đào tào được học sinh giỏi. Biển học rộng bao la, ta càng thấy vai trò to lớn của người thầy trong nền giáo dục.
Các thầy đồ ngày xưa dạy các nho sinh: ‘Bất học diện tường’ (không học như úp mặt vào tường), hoặc:
‘Nhân bất học bất tri lí,
Ẩu bất học lão hà vi?’
nghĩa là: Kẻ vô học thì chẳng biết nghĩa lí; trẻ không học thì về già làm được gì? Lại có câu cách ngôn: ‘Sự học là cái chìa khóa mở mọi kho báu trên đời’. Có nhà
|
Hướng dẫn
A. GHI NHỚ
1. Về siêng năng, cần cù:
, – Tay làm, hàm nhai, tay quai, miệng trễ.
– Hay lam hay làm, đầu quang mặt sạch,
Ăn quen làm biếng, đầu rếch mặt dơ.
– Giều đâu những kẻ ngủ trưa,
Sang đâu những ke’ say sưa tối ngày.
– Một nghề cho chín còn hơn chín nghề.
2. Về tiết kiệm:
– Làm khi lành, để dành khi đau.
– Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện.
– Được mùa chớ phụ ngô khoai,
Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng.
– Khi có thì chẳng ăn de,
Đến khi ăn hết thì dè chẳng ra.
B. GỢI Ý LÀM BÀI:
…Trong dàn gian đã từ lâu đời, nhiều câu tục ngữ ngắn gọn hoặc có đối, có vần vè, hoặc bằng thơ lục bát nói về cần, kiệm, đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của nhân dân ta. Những câu tục ngữ ấy đã trở thành lời khuyên giản dị, dễ hiểu mà rất thấm thía.
1.Câu tục ngữ: ‘Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ’ đưa ra hình ảnh đối chọi để làm nổi ý: có làm thì mới có ăn. Chữ dùng ở đây rất hóm hỉnh. Vế thứ nhất nói lên một sự thật ở đời. Có ‘tay làm’, chăm chỉ lao động, làm ra tiền của, thóc gạo… thì ‘hàm nhai’, mới có ăn, mới có tiêu dùng. Vế thứ hai khuyên đừng nên lười biếng, nếu lười biếng ‘tay quai’, nghĩa là hai tay buông xuôi, không làm, không động đậy thì nhịn ăn, ‘miệng trễ’, chẳng có thức ăn gì bỏ vào miệng. Bài học ve làm ăn, về lao động và hưởng thụ được dân gian nói đến một cách giản dị, cụ thể, có tác dụng giáo dục sâu sắc. Tay và hàm là hai hình ảnh hoán dụ, song hành, hô ứng. Tay đặt trước hàm để nêu bật mối quan hệ: lao động và ấm no, lười biếng và nghèo đói. Lao động là ấm no, hạnh phúc, một ý tưởng vĩ đại được thê hiện ngắn gọn trong một câu tục ngữ chỉ có 8 chữ.
2.Câu tục ngữ thứ hai vừa khen người siêng năng ‘hay lam hay làm’, vừa chê cười kẻ lười biếng mà lại ‘ăn quen’, ăn nhiều, thích ăn ngon. Hai hình ảnh tương phản: ‘đầu quang mặt sạch’ với ‘đầu rếch mặt dơ’. Nghĩa đen là đầu tóc, mặt mũi sáng sủa, sạch sẽ, ưa nhìn của người siêng năng lao động. Kẻ lười biếng thường ăn
ở bẩn thỉu, dáng điệu ốm yếu. Bài học về cần cù lao động được đúc rút qua cuộc đời về hai loại người ta dễ nhìn thấy ngoài xã hội:
‘Hay lam hay làm, đầu quang mặt sạch,
Án quen làm biếng, đầu rếch mặt đô’’
Vế 2 của câu tục ngữ còn có hàm nghĩa: Kẻ đã ‘làm biếng’ mà lại ‘ăn quen’, thích xài sang nên trộm cắp, làm bậy bị đồng loại chê cười, khinh bỉ, có thể bị tù tội. ‘Đầu rếch mặt dơ’ỉầ thế!
3. Có lúc dân gian sử dụng hình ảnh rất đích đáng để nêu lên bài học giáo dục sâu sắc. Đày là hai loại người, tuy không nhiều nhưng thời nào cũng có:
‘ Giầu đâu những kẻ ngủ trưa,
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày’
‘Ngủ trưa’là ngủ từ tối đến trưa, ngủ nhiều, làm ít. Nhà nông phải ‘hai sương một nắng’ mới có bát ăn bát để. Trái lại sống lười nhác, ‘ngủ trưa’ quanh năm thì làm sao có thể trở nên giàu có được! ‘Những kẻ ngủ trưa’ là kẻ lười nhác. ‘Những kẻ say sưa tối ngày’ là những kẻ rượu chè, thuốc phiện chơi bời (cả cờ bạc nữa) lu bù từ sáng đến tối, quanh năm quanh tháng, chẳng thiết gì làm ăn. ‘Kẻ say sưa’ là kẻ nghiện ngập, tài sản, cơ nghiệp tiêu tán dần, chẳng mấy lúc mà nghèo khổ. ‘Kẻ say sưa tối ngày’ không phải là kẻ lịch sự, sang trọng mà là kẻ bê tha, bệ rạc bị thiên hạ coi thường về cả nhân cách và lối sống. Cách nói cảm thán, nhẹ mà sâu: ‘Giàu đâu… sang đâu…’, nghĩa là sự giàu sang đời nào đến với những kẻ lười
biếng, nghiện ngập. Chữ ‘đâu’ nhấn lại hai lần để khẳng định và biểu cảm một sự vô vọng đang trở thành trò cười cho thiên hạ!
4. Câu tục ngữ: ‘Một nghề cho chín còn hơn chín nghề’ là cách nói so sánh, là sự đánh giá trong việc làm ăn, trong nghiệp vụ chuyên môn, kĩ thuật. ‘Một nghề
cho chín’thì ‘chín’ nghĩa là thành thạo, giỏi giang, chu đáo; vế này nêu lên lời khuyên làm nghề gì phải thành thạo nghề ấy, có bàn tay vàng. Người có tay nghề bậc cao, lành nghề thì mới lao động, làm việc có năng suất cao, hiệu quả tốt đẹp, được xã hội trọng dụng. Trái lại, biết nhiều nghề, nhưng nghề nào cũng dở dang, vụng về, kém cỏi thì làm việc gì cũng chẳng đâu vào đâu, cuộc sống sẽ khó khăn, chảng ai hỏi đến. Câu tục ngữ khuyên người đời phải đi sâu vào chuyên môn kĩ thuật, đạt đến mức kĩ xảo, làm cái gì tốt cái ấy. Trong nền sản xuất thủ công trước đây, câu tục ngữ ‘Một nghề cho chín còn hơn chín nghề’ là một lời khuyên chí lí. Trong xã hội ngày nay, nền kinh tế tri thức, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước thì câu tục ngữ ấy càng đúng. Phải học văn hóa cho giỏi, chọn nghề và học nghề, đi sâu vào kĩ thuật là con đường sáng của tuổi trẻ ngày nay.
5. Bốn câu tục ngữ sau đều nên lên bài học vẻ tiết kiệm, biết lo xa phòng xa, chi tiêu đúng mực. Cuộc sống thường có những sự cố bất ngờ xảy ra, nên phải lo đề phòng. Hôm nay ta còn khỏe mạnh (lành) có thể ngày mai bị ốm đau bệnh tật,
gặp hoạn nạn, nên phải có ý thức: ‘Làm khi lành để dành khi đau’. ‘Dành’ là dành dụm tiết kiệm. Không thể sống theo kiểu ‘Bóc ngắn, cắn dài’, ‘làm một ăn hai’ để đến khi ốm đau, thất cơ lỡ vận thì sẽ vô cùng khó khăn.
Người ‘buôn tàu bán bè’ là loại người giàu có, kinh doanh lớn. Thế nhưng, dân gian lại so sánh: ‘Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện’. Không nên 204
hoang phí, mà phải biết ăn tiêu dè sẻn, tiết kiệm, đó là bài học rất hay. ‘Ăn dè’ là ăn tiêu, chi tiêu có kế hoạch, có chừng mực, không hoang phí. Câu tục ngữ nêu lên mối quan hệ giữa làm và ăn, giữa làm và tiêu dùng; lúc nào cũng phải biết tiết kiệm.
Dân gian có lúc đúc rút kinh nghiệm bằng thơ lục bát, dùng ngôn từ hóm hỉnh để khuyên răn mọi người. Khoai, ngô không giá trị bằng lúa gạo, nhưng rất quan trọng, để ăn độn, nhất là trong kì giáp hạt, tháng ba ngày tám. Dù có được mùa cũng không nên ‘phụ’ ngô khoai, coi thường, rẻ rúng ngô khoai:
‘Được mùa chớ phụ ngô khoai,
Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng’
‘Khi thất bát’là khi mất mùa, nhà nông thu hoạch kém. ‘Lấy ai bạn cùng’ nghĩa là lấy gì để san sẻ, để chia ngọt sẻ bùi cùng mình qua cơn đói kém, thiếu thốn. Câu tục ngữ với cách nói nhẹ nhàng mà thấm thía về một lời khuyên nhà nông, cũng như mọi người phải biết quý trọng ngô khoai, không được coi thường hoặc hoang phí ngô khoai, lương thực.
Câu tục ngữ:
‘Khi có thì chẳng ăn de,.
Đến khi ăn hết thì dè chẳng ra’
‘Ăn de’là ăn tiêu dè sẻn đúng mức, ăn tiêu tiết kiệm; ‘dè’ là dành dụm, để dành. Cũng là cách nói dân dã khuyên bảo ăn tiêu dè sẻn, biết phòng xa. Trước đây, nông nghiệp nước ta chỉ có hai mùa: vụ chiêm và vụ mùa. Kĩ thuật canh tác lạc hậu, sâu bệnh bão lụt, nắng hạn nên hay mất mùa. Tháng ba ngày tám, kì giáp hạt, người nông dân thường gặp đói kém. Tiết kiệm lương thực là bài học xương máu của nhà nông, của mọi người, mọi nhà. Các câu tục ngữ trên đây đều có cách nói tương phản, đối chọi nên dễ nghe, dễ nhớ, dễ làm theo. ‘Khi lành’ với ‘khi đau’, ‘được mùa’ với ‘khi thất bát’, ‘khi có’ với ‘khi ăn hết’, cách nói đối chọi giản dị mà thấm thía biết bao!
Ngày nay nông nghiệp nước ta phát triển mạnh, Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, nhưng những ý tưởng của dân gian như ‘chớ phụ ngô khoai’, biết ‘ăn de’, có ý thức ‘Làm khi lành để dành khi đau’ vẫn là những bài học sâu sắc, thiết thực với mỗi người chúng ta.
|
Hướng dẫn
A. GHI NHỚ
1. Về siêng năng, cần cù:
, – Tay làm, hàm nhai, tay quai, miệng trễ.
– Hay lam hay làm, đầu quang mặt sạch,
Ăn quen làm biếng, đầu rếch mặt dơ.
– Giều đâu những kẻ ngủ trưa,
Sang đâu những ke’ say sưa tối ngày.
– Một nghề cho chín còn hơn chín nghề.
2. Về tiết kiệm:
– Làm khi lành, để dành khi đau.
– Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện.
– Được mùa chớ phụ ngô khoai,
Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng.
– Khi có thì chẳng ăn de,
Đến khi ăn hết thì dè chẳng ra.
B. GỢI Ý LÀM BÀI:
…Trong dàn gian đã từ lâu đời, nhiều câu tục ngữ ngắn gọn hoặc có đối, có vần vè, hoặc bằng thơ lục bát nói về cần, kiệm, đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của nhân dân ta. Những câu tục ngữ ấy đã trở thành lời khuyên giản dị, dễ hiểu mà rất thấm thía.
1.Câu tục ngữ: ‘Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ’ đưa ra hình ảnh đối chọi để làm nổi ý: có làm thì mới có ăn. Chữ dùng ở đây rất hóm hỉnh. Vế thứ nhất nói lên một sự thật ở đời. Có ‘tay làm’, chăm chỉ lao động, làm ra tiền của, thóc gạo… thì ‘hàm nhai’, mới có ăn, mới có tiêu dùng. Vế thứ hai khuyên đừng nên lười biếng, nếu lười biếng ‘tay quai’, nghĩa là hai tay buông xuôi, không làm, không động đậy thì nhịn ăn, ‘miệng trễ’, chẳng có thức ăn gì bỏ vào miệng. Bài học ve làm ăn, về lao động và hưởng thụ được dân gian nói đến một cách giản dị, cụ thể, có tác dụng giáo dục sâu sắc. Tay và hàm là hai hình ảnh hoán dụ, song hành, hô ứng. Tay đặt trước hàm để nêu bật mối quan hệ: lao động và ấm no, lười biếng và nghèo đói. Lao động là ấm no, hạnh phúc, một ý tưởng vĩ đại được thê hiện ngắn gọn trong một câu tục ngữ chỉ có 8 chữ.
2.Câu tục ngữ thứ hai vừa khen người siêng năng ‘hay lam hay làm’, vừa chê cười kẻ lười biếng mà lại ‘ăn quen’, ăn nhiều, thích ăn ngon. Hai hình ảnh tương phản: ‘đầu quang mặt sạch’ với ‘đầu rếch mặt dơ’. Nghĩa đen là đầu tóc, mặt mũi sáng sủa, sạch sẽ, ưa nhìn của người siêng năng lao động. Kẻ lười biếng thường ăn
ở bẩn thỉu, dáng điệu ốm yếu. Bài học về cần cù lao động được đúc rút qua cuộc đời về hai loại người ta dễ nhìn thấy ngoài xã hội:
‘Hay lam hay làm, đầu quang mặt sạch,
Án quen làm biếng, đầu rếch mặt đô’’
Vế 2 của câu tục ngữ còn có hàm nghĩa: Kẻ đã ‘làm biếng’ mà lại ‘ăn quen’, thích xài sang nên trộm cắp, làm bậy bị đồng loại chê cười, khinh bỉ, có thể bị tù tội. ‘Đầu rếch mặt dơ’ỉầ thế!
3. Có lúc dân gian sử dụng hình ảnh rất đích đáng để nêu lên bài học giáo dục sâu sắc. Đày là hai loại người, tuy không nhiều nhưng thời nào cũng có:
‘ Giầu đâu những kẻ ngủ trưa,
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày’
‘Ngủ trưa’là ngủ từ tối đến trưa, ngủ nhiều, làm ít. Nhà nông phải ‘hai sương một nắng’ mới có bát ăn bát để. Trái lại sống lười nhác, ‘ngủ trưa’ quanh năm thì làm sao có thể trở nên giàu có được! ‘Những kẻ ngủ trưa’ là kẻ lười nhác. ‘Những kẻ say sưa tối ngày’ là những kẻ rượu chè, thuốc phiện chơi bời (cả cờ bạc nữa) lu bù từ sáng đến tối, quanh năm quanh tháng, chẳng thiết gì làm ăn. ‘Kẻ say sưa’ là kẻ nghiện ngập, tài sản, cơ nghiệp tiêu tán dần, chẳng mấy lúc mà nghèo khổ. ‘Kẻ say sưa tối ngày’ không phải là kẻ lịch sự, sang trọng mà là kẻ bê tha, bệ rạc bị thiên hạ coi thường về cả nhân cách và lối sống. Cách nói cảm thán, nhẹ mà sâu: ‘Giàu đâu… sang đâu…’, nghĩa là sự giàu sang đời nào đến với những kẻ lười
biếng, nghiện ngập. Chữ ‘đâu’ nhấn lại hai lần để khẳng định và biểu cảm một sự vô vọng đang trở thành trò cười cho thiên hạ!
4. Câu tục ngữ: ‘Một nghề cho chín còn hơn chín nghề’ là cách nói so sánh, là sự đánh giá trong việc làm ăn, trong nghiệp vụ chuyên môn, kĩ thuật. ‘Một nghề
cho chín’thì ‘chín’ nghĩa là thành thạo, giỏi giang, chu đáo; vế này nêu lên lời khuyên làm nghề gì phải thành thạo nghề ấy, có bàn tay vàng. Người có tay nghề bậc cao, lành nghề thì mới lao động, làm việc có năng suất cao, hiệu quả tốt đẹp, được xã hội trọng dụng. Trái lại, biết nhiều nghề, nhưng nghề nào cũng dở dang, vụng về, kém cỏi thì làm việc gì cũng chẳng đâu vào đâu, cuộc sống sẽ khó khăn, chảng ai hỏi đến. Câu tục ngữ khuyên người đời phải đi sâu vào chuyên môn kĩ thuật, đạt đến mức kĩ xảo, làm cái gì tốt cái ấy. Trong nền sản xuất thủ công trước đây, câu tục ngữ ‘Một nghề cho chín còn hơn chín nghề’ là một lời khuyên chí lí. Trong xã hội ngày nay, nền kinh tế tri thức, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước thì câu tục ngữ ấy càng đúng. Phải học văn hóa cho giỏi, chọn nghề và học nghề, đi sâu vào kĩ thuật là con đường sáng của tuổi trẻ ngày nay.
5. Bốn câu tục ngữ sau đều nên lên bài học vẻ tiết kiệm, biết lo xa phòng xa, chi tiêu đúng mực. Cuộc sống thường có những sự cố bất ngờ xảy ra, nên phải lo đề phòng. Hôm nay ta còn khỏe mạnh (lành) có thể ngày mai bị ốm đau bệnh tật,
gặp hoạn nạn, nên phải có ý thức: ‘Làm khi lành để dành khi đau’. ‘Dành’ là dành dụm tiết kiệm. Không thể sống theo kiểu ‘Bóc ngắn, cắn dài’, ‘làm một ăn hai’ để đến khi ốm đau, thất cơ lỡ vận thì sẽ vô cùng khó khăn.
Người ‘buôn tàu bán bè’ là loại người giàu có, kinh doanh lớn. Thế nhưng, dân gian lại so sánh: ‘Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện’. Không nên 204
hoang phí, mà phải biết ăn tiêu dè sẻn, tiết kiệm, đó là bài học rất hay. ‘Ăn dè’ là ăn tiêu, chi tiêu có kế hoạch, có chừng mực, không hoang phí. Câu tục ngữ nêu lên mối quan hệ giữa làm và ăn, giữa làm và tiêu dùng; lúc nào cũng phải biết tiết kiệm.
Dân gian có lúc đúc rút kinh nghiệm bằng thơ lục bát, dùng ngôn từ hóm hỉnh để khuyên răn mọi người. Khoai, ngô không giá trị bằng lúa gạo, nhưng rất quan trọng, để ăn độn, nhất là trong kì giáp hạt, tháng ba ngày tám. Dù có được mùa cũng không nên ‘phụ’ ngô khoai, coi thường, rẻ rúng ngô khoai:
‘Được mùa chớ phụ ngô khoai,
Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng’
‘Khi thất bát’là khi mất mùa, nhà nông thu hoạch kém. ‘Lấy ai bạn cùng’ nghĩa là lấy gì để san sẻ, để chia ngọt sẻ bùi cùng mình qua cơn đói kém, thiếu thốn. Câu tục ngữ với cách nói nhẹ nhàng mà thấm thía về một lời khuyên nhà nông, cũng như mọi người phải biết quý trọng ngô khoai, không được coi thường hoặc hoang phí ngô khoai, lương thực.
Câu tục ngữ:
‘Khi có thì chẳng ăn de,.
Đến khi ăn hết thì dè chẳng ra’
‘Ăn de’là ăn tiêu dè sẻn đúng mức, ăn tiêu tiết kiệm; ‘dè’ là dành dụm, để dành. Cũng là cách nói dân dã khuyên bảo ăn tiêu dè sẻn, biết phòng xa. Trước đây, nông nghiệp nước ta chỉ có hai mùa: vụ chiêm và vụ mùa. Kĩ thuật canh tác lạc hậu, sâu bệnh bão lụt, nắng hạn nên hay mất mùa. Tháng ba ngày tám, kì giáp hạt, người nông dân thường gặp đói kém. Tiết kiệm lương thực là bài học xương máu của nhà nông, của mọi người, mọi nhà. Các câu tục ngữ trên đây đều có cách nói tương phản, đối chọi nên dễ nghe, dễ nhớ, dễ làm theo. ‘Khi lành’ với ‘khi đau’, ‘được mùa’ với ‘khi thất bát’, ‘khi có’ với ‘khi ăn hết’, cách nói đối chọi giản dị mà thấm thía biết bao!
Ngày nay nông nghiệp nước ta phát triển mạnh, Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, nhưng những ý tưởng của dân gian như ‘chớ phụ ngô khoai’, biết ‘ăn de’, có ý thức ‘Làm khi lành để dành khi đau’ vẫn là những bài học sâu sắc, thiết thực với mỗi người chúng ta.
|
Hướng dẫn
A. YÊU CẦU:
– Kiểu bài bình luận một câu tục ngữ.
– Vấn đề phải bình luận: hưởng thụ và biết ơn.
B. GỢI Ý LÀM BÀI:
…Câu tục ngữ ‘uống nước nhớ nguồn’có hình tượng đẹp, hàm chứa một tư tưởng, tình cảm đẹp, một lối ứng xử đẹp.
1. Chỉ có 4 chữ ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa. ‘uống nước’là điều kiện, ‘nhớ nguồn’là hệ quả. Nguồnlà nơi phát nguyên những nguồn nước. Nước đầu nguồn thì trong mát ngọt lành. Nguồn nước có bao giờ vơi cạn? Nhờ nguồn mà sông suối, ao hồ, biển cả có nước quanh năn, sự sống được nở hoa kết trái. Uống nước là được hưởng thụ; nhờ có nguồn mà ta được uống nước. Chữ nhớtrong câu tục ngữ thể hiện tấm lòng nhớ ơn, biết ơn.
Câu ‘Uống nước nhớ nguồn’nêu lên mối quan hệ lịch sử, xã hội, đó là hưởng thụvà nghĩa vụ.Câu tục ngữ nhắc nhở mỗi chúng ta bài học đạo đức: Phải nhớ ơn, biết ơn những người đã đem lại ấm no, hạnh phúc và yên vui cho mình.
2. Câu tục ngữ đã nói lên mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, giữa ‘bốn nghìn lớp người’trong xã hội ta. Nó nêu lên một quan niệm nhân sinh đầy tình người, đúc kết một nét đẹp về đạo lí, nhắc nhở mỗi người sống có tình có nghĩa, trọn vẹn thủy chung.
Lòng nhớ ơn, biết ơn là một tình cảm rất đẹp. Câu tục ngữ giáo dục chúng ta lòng biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Nó nhắc nhở chúng ta biết ơn nhân dân vĩ đại đã đem mồ hôi xương máu xây dựng và bảo vệ đất nước. Bát cơm ta ăn, mái nhà ta ở, trang sách, ngọn đèn, ngôi trường soi sáng tâm hồn ta… đã thấm sâu công ơn hàng triệu người dân cày, người thợ, thầy giáo, cô giáo… Lá quốc kì đỏ thắm, đất nước độc lập thanh bình… là do máu xương của biết bao anh hùng liệt sĩ.
Giang sơn gấm vóc hôm nay là do ‘nguồn thiêng ông cha’,như một nhà thơ đã ca ngợi:
‘Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ TỔ…’
(‘Đất nước’ -Nguyễn Khoa Điềm)
Lòng biết ơn không chỉ được khắc sâu trong tâm hồn mà còn phải được thể hiện bàng hành động cụ thể. Con cháu hiền thảovới ông bà cha mẹ. Tục cúng lễ giỗ tết với nén hương thơm tỏa khói trên bàn thờ gia tiên. Con cái chăm học chăm làm, sống tốt đẹp làm vẻ vang cho dòng họ, biết săn sóc ông bà cha mẹ khi già yếu. Ngày 27-7 và ngôi nhà tình nghĩa là sự thể hiện lòng biết ơn của toàn dân đối với thương binh liệt sĩ. Học sinh biết tôn sư trọng đạo… Đó là hành động biết ‘Uống nước nhớ nguồn’.
3. Kẻ vong ân bội nghĩa, con bất hiếu, trò vô đạo, loại người ‘ăn cháo đá bát’ đều bị cộng đồng cười chê, khinh bỉ, xa lánh. Để giáo dục lòng biếtơn, nhân dân ta đã sáng tạo nên những câu tục ngữ, bài ca dao đậm đà, ý đẹp lời hay từng thấm sâu vào máu thịt và hồn người:
– ‘Ăn quả nhớ kẻ trồng cây’.
– ‘Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?’.
– ‘Con người có tổ có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn’
Ở đời, người nhân hậu làm ơn không bao giờ nghĩ tới chuyện trả ơn. Họ coi việc cứu giúp mọi người là nghĩa vụ của lương tâm. Lòng biết ơn luôn luôn nhắc nhở chúng ta vừa nhớ tới cội nguồn, nhớ tới thế hệ đi trước, đổng thời phải nghĩ tới những lớp người mai sau. Biết nhớ nguồn còn phải biết khơi nguồn là vậy.
Câu tục ngữ ‘uống nước nhớ nguồn’là bài học lớn dạy ta biết làm người. Nó gợi nhớ trong lòng ta món nợ đời sâu nặng:
|
Instruct
A. REQUIREMENTS:
– Type of article commenting on a proverb.
– Issues to comment on: enjoyment and gratitude.
B. WORKING SUGGESTIONS:
...The proverb 'drinking water, remember its source' has a beautiful image, containing a beautiful thought, sentiment, and a beautiful way of behaving.
1. Only 4 short words with profound meaning. 'Drink water' is the condition, 'remember the source' is the consequence. Source is the place where water sources originate. The water at the source is clear, cool and sweet. Will the water source ever run out? Thanks to the source, rivers, streams, lakes, and seas have water all around them, and life can bloom and bear fruit. Drinking water is enjoyment; Thanks to the source, we can drink water. The word remember in the proverb shows gratitude and gratitude.
The saying 'When drinking water, remember its source' highlights the historical and social relationship, which is enjoyment and obligation. The proverb reminds each of us a moral lesson: We must remember and be grateful to those who have brought us warmth. full, happy and peaceful for yourself.
2. The proverb speaks of the good relationship between people and between 'four thousand classes of people' in our society. It raises a concept of human life full of humanity, summarizes a moral beauty, and reminds each person to live with meaning and complete fidelity.
Gratitude and gratitude are a very beautiful feeling. Proverbs teach us to be grateful to our ancestors, grandparents, and parents. It reminds us to be grateful to the great people who have devoted their blood and sweat to building and protecting the country. The bowl of rice we eat, the roof we live in, the pages of books, the lamp, the school that illuminates our souls... are deeply imbued with the gratitude of millions of farmers, workers, teachers, teachers... The national flag is red, peaceful independent country... is due to the blood and bones of so many heroic martyrs.
The country's brocade fabric today is due to 'the sacred source of our ancestors', as a poet praised:
'Carrying for the things left by our predecessors, instructing our children and grandchildren about the future, wherever we eat and do every year, we also know how to bow our heads and remember the death anniversary of our ancestors...'
(‘Country’ -Nguyen Khoa Diem)
Gratitude must not only be engraved in the soul but must also be expressed through concrete actions. Children and grandchildren are kind to their parents and grandparents. The custom of offering offerings at death anniversary ceremonies with fragrant incense sticks releasing smoke on the ancestral altar. Children study hard, work hard, live well to bring glory to the family, and know how to take care of their parents and grandparents when they are old and weak. July 27 and the House of Gratitude are an expression of the gratitude of the entire people to the wounded and martyrs. Students learn to respect their teachers and respect their religion... That is the action of knowing 'When drinking water, remember the source'.
3. Ungrateful and ungrateful people, ungrateful children, ungrateful disciples, and the type of people who "eat dirty porridge" are all laughed at, despised, and shunned by the community. To educate gratitude, our people have created proverbs and folk songs with rich, beautiful meanings and good words that have penetrated deeply into people's flesh and soul:
- 'Remember guys fruit trees'.
– ‘Hey, bring a bowl full of rice,
Do you remember the work of plowing early in the morning?’.
– ‘Human beings have ancestors,
Like a tree has roots, like a river has a source'
In life, kind-hearted people never think about repaying the favor. They consider helping people a duty of conscience. Gratitude always reminds us to remember our roots, remember the previous generation, and at the same time think about the future generations. Knowing how to remember the source also requires knowing how to evoke the source.
The proverb 'when drinking water, remember its source' is a great lesson that teaches us how to be human. It reminds us of our deep debt to life:
|
Hướng dẫn
Đoạn thơ có khá nhiều từ Hán-Việt. Học sinh nên đọc thật kỹ phần chú thích trước khi đọc lại để hiểu nghĩa của từng câu. Học sinh cũng cần đọc lại những trang sử đời nhà Hồ-Hậu Trần lệ thuộc nhà Minh (1400-1413) để có thể dựa vào đó mà hiểu ý nghĩa của từng câu thơ.
– Khung cảnh“Chốn ải Bắc-Cõi trời Nam” lúc ấy như thế nào? (4 câu đầu)
– Người cha mang tâm sự gì? Đang ở trong hoàn cảnh nào? Có thương con không? (các câu 5-6-8).
– Người có nói gì không khỉ theo bước tiễn cha (câu 7)
*Giữa bối cảnh đau thương uất nghẹn ấy,“lời cha khuyên” ắt hẳn có giá trị thức tĩnh và thúc giục con trai “lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước
– Người cha đã gợi cho con điều gì về đất nước, dân tộc?(4 câu đầu cửa đoạn 2)
– Người cha đã than với con về tội ác của quân Minh, đó là những tội ác gì? (8 câu kế tiếp)
– Hãy cho biết nỗi lo của người cha?(8 câu cuối của đoạn 2)
– Giữa sự xâm lược nước ta của quân Minh và quân Pháp có sự khác biệt về thời gian, bối cảnh lịch sử, nhưng về bản chất thì không khác nhau.
I.Trần Tuấn Khải người Nam Định. Bút hiệu Á Nam nổi tiếng từ những năm 20 của thế kỷ XX, nhất là hai bài hát mang tựa đề Anh Khóa, sau đó là những bài thơ được viết bằng thứ ngôn ngữ chân chất theo các thể thơ thuần Việt như lục bát, song thất lục bát.
Là một nhà thơ giàu tình cảm, sống gắn bó với nỗi buồn vui của con người. Ông buồn về thói đời đen bạc, buồn về những nỗi biệt ly, buồn về thế sựthăngtrầm… về tình đời thì ông lấy luân lý làm trọng, về thế sự thăng trầm thì ông tìm kiếm đề tài ở lịch sử để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước của đồng bào mà những vần thơ Hai chữ nước nhà là một ví dụ. Mượn chuyện Nguyễn Phi Khanh bị quàn Minh bắt giải về Trung Quốc dặn dò con trai (Nguyễn Trãi) hãy về lo việc trả thù cho cha, rửa hận cho nước, Trần Tuấn Khải đã gửi gắm tâm sự yêu nước của mình.
II. Đoạn trích là phần md đầu của bài thơ. Tám câu thơ song thất lục bát giới thiệu khung cảnh của việc chuyển tù và tâm trạng của người cha. Khung cảnh là “chôn ải Bắc ”, biên giới của nước Đại Việt với Trung Quốc thời bây giờ. Vào thời điểm đó, Nguyễn Phi Khanh, người bị quân Minh bắt giải đi và Nguyễn Trãi theo tiễn chân cha đang ở “cỡ/ trời Nam”, đang ở phần đất nước của Đại Việt. Nơi kia thì “mây sầu ảm đạm”, chôn này thì “gió thảm đìu hiu”. Khung cảnh hoang vắng cô liêu, tuyệt không thây bóng người mà chỉ nghe tiếng “hổ thét chim kêu” lạnh lùng. Giữa khung cảnh “như khêu bất bình ”, như gợi lên sự buồn thương và căm giận kẻ đã gây nên tội ác ấy, Nguyễn Phi Khanh, “chút thân tàn” đang chịu gông cùm vẫn canh cánh “hồn nước”ò trong tim, ông đã quay lại.
Trông con tầm tã châu rơi Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Tám câu thơ song thất lục bát có nhịp điệu, tiết tấu chậm, từng cặp câu bảy chữ đôi lời đối ý thấm đậm nỗi buồn của cha con trong giờ phút biệt ly. Cả hai cha con đềư khóc. Không khóc làm sao được khi cả hai đều biết rằng ngày đi thì có còn ngày về thì không. Nhưng người cha tin con mình đúng là trang nam nhi. Nhìn con khóc nghẹn không nói được câu gì, ông đã gợi lại và nhắc con ‘‘nhớ lấy” rằng:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay,
Giờ Nam riêng một cỗi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!
Nguyễn Phi Khanh đã gợi lại thủy tổ của dân Việt thuộc họ Hồng Bàng và Lạc Long Quân. Từ thuở
Bồ ký đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều dinh nước ta
Đại nam quốc sử diễn ca
Đến Đại cồ Việt thời nhà Đinh. Tới năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt. Như thế, non sông Việt đã có từ trước, chưa kể thời đại Hùng Vương trị vì nước Văn Lang, Âu Lạc. Mười mấy thế kỷ về trước, cốt lỗi đã được dựng lên cả về phần xác lần phần hồn, cả về vật chất lẫn phi vật chất trong bôn câu thơ khái quát nhưng rất cơ bản. Những “anh hùng hiệp nữ” như các vua Hùng, hai Bà Trứng, Bà Triệu, Đinh Bộ Lĩnh, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,… đều được truyền tụng như những tấm gương sáng ngời mang tâm hồn Việt. •
Những câu thơ kế tiếp, người cha đã nêu nguyên nhân khiến, “quân Minh thừa hội xâm lăng” và gây bao tội tày đình. Dù người cha không nêu đích danh nhưng câu “Than vận nước gặp khi biến đổi’” gợi lại giai đoạn lịch sử cuối đời Trần có liên quan tới Hồ Quý Ly. Theo sử sách ghi lại thì ông tên thật là Lê Quý Ly được vua Trần Nghệ Tông tin dùng. Quý Ly có hai người cô đều là vợ của Trần Minh Tông, và là mẹ của ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông. Nhờ có liên hệ bà con, lại giúp Trần Nghệ Tông củng cố được địa vị thống trị của họ Trần nên Quý Ly được tin dùng. Sau khi Trần Nghệ Tông mất, thì Quý Ly càng lúc càng chuyên quyền. Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, lên làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Ngu. “Vận nước gặp khi biến đổi là như thế”. Và quân nhà Minh đã lấy cớ đó để xâm lăng nước Đại Việt, gây nên đại họa:
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con.
Cảnh quân Minh xâm lược được miêu tả thật khủng khiếp dù không đi sâu vào từng chi tiết. Chúng tha hồ đốt, và giết không nương tay. Nghệ thuật láy từ, sử dụng các từ mạnh như “bừng bừng, tung, vỡ, bỏ, lìa”. Khiến người đọc cảm nhận không thứ gì còn nguyên vẹn, kể cả con người. Thành quách, nhà cửa, vợ con trong cảnh đổ nát hoang tàn, nhất là thảm họa diệt chửng ở cụm từ so sánh “xương rừng máu sông”. Cảnh tượng khủng khiếp hãi hùng do quân cuồng Minh gây ra không chỉ tạo nên mối uất hận trong mỗi người dân Đại Việt thời bây giờ mà còn “Ngậm ngùi đất khóc giời than” nữa. Mối uất hận ấy phải trả, tội tày đình ấy phải bị trừng trị. Nhưng làm sao đây?
Tám câu thơ cuối là tâm sự chân thành và tha thiết của cha với con. Sự chân thành ấy chính là:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Và sự tha thiết ấy chính là:
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Còn hơn sự tha thiết, đó là chuyển giao trọng trách thiêng liêng nhất là giữ cho được:
Bắc Nam bờ cõi phân mao Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải làm bài thơ này lúc chính phủ Pháp thời bấy giờ (1924) đang ra sức củng cố chế độ thực dân. Mượn chuyện Nguyễn Phi Khanh dặn dò con trai là Nguyễn Trãi “giang sơn gánh vác” là cụ muốn kín đáo gửi gắm tâm sự yêu nước của mình vào tầng lớp thanh niên thời bấy giờ.
|
Instruct
The poem has many Sino-Vietnamese words. Students should read the notes carefully before rereading to understand the meaning of each sentence. Students also need to re-read the history pages of the Ho-Late Tran dynasties under the Ming dynasty (1400-1413) to be able to understand the meaning of each verse.
– What was the scene like "Northern Passage - Southern Heaven" like at that time? (first 4 sentences)
– What thoughts does the father have? In what situation are you? Do you love your child? (verses 5-6-8).
– Did he say anything? He followed in the footsteps of seeing off his father (verse 7)
*In the midst of that painful and painful context, the "father's advice" must have had the value of awakening and urging his son to "take revenge for his father and wash the country's shame."
– What did the father remind his son about the country and people? (First 4 sentences of paragraph 2)
– The father complained to his son about the crimes of the Ming army, what crimes were they? (Next 8 sentences)
– Please tell us about the father's worries? (Last 8 sentences of paragraph 2)
– Between the invasion of our country by the Ming army and the French army, there is a difference in time and historical context, but in essence there is no difference.
I. Tran Tuan Khai from Nam Dinh. The pseudonym A Nam has been famous since the 20s of the 20th century, especially for two songs titled Anh Lock, followed by poems written in simple language following pure Vietnamese poetic forms such as Luc Bat, two pairs of seven six bowls.
He is an emotional poet, living closely with the joys and sorrows of people. He was sad about the bad habits of life, sad about separations, sad about the ups and downs of the world... when it came to life, he took morality as the main priority, about the ups and downs of the world, he looked for topics in history to discreetly reveal. The pain of losing one's country aims to arouse the patriotic spirit of the people, of which the poems "Two words, country" are an example. Borrowing from the story of Nguyen Phi Khanh being captured and taken back to China by the Ming government to tell his son (Nguyen Trai) to return and take care of avenging his father and avenging the country, Tran Tuan Khai expressed his patriotism.
II. The excerpt is the first part of the poem. The eight verses of the poem introduce the scene of the prison transfer and the father's mood. The scene is the "Northern Pass", the border of Dai Viet with China today. At that time, Nguyen Phi Khanh, who was captured and taken away by the Ming army, and Nguyen Trai followed to see off his father were in the "South", in the country of Dai Viet. In that place, there are "sad and gloomy clouds", in this place, there is "a sad and desolate wind". The scene was desolate and lonely, with absolutely no sign of anyone but only the cold sound of "tiger screams and birds chirping". In the midst of a scene that "seems to provoke grievances", as if evoking sadness and anger at the person who committed that crime, Nguyen Phi Khanh, "the remnants of his body" under shackles, still watches over the "soul of the country" in his heart. , he came back.
You look like a drop of pearls My child, remember my advice.
The eight verses of the poem are rhythmic, slow-paced, and each pair of seven-word sentences and two contrasting words are deeply imbued with the sadness of father and son in the moment of separation. Both father and son cried. How can we not cry when we both know that the day we leave is there and the day we return is not? But the father believes that his son is truly a man. Looking at his child crying and not being able to say anything, he recalled and reminded his child to "remember" that:
Just like the Hong Lac emperor intended,
Thousands of years of decline and change,
Now the South is alone,
The hero and heroine of the past are no different!
Nguyen Phi Khanh recalled the ancestors of the Vietnamese people of the Hong Bang and Lac Long Quan families. Since childhood
Bo Ky closed Me Linh Linh Nam as a separate royal palace in our country
Dai Nam National History plays song
Go to Dai Co Viet during the Dinh Dynasty. In 1054, Ly Thanh Tong changed the country's name to Dai Viet. Thus, the Vietnamese river existed before, not to mention the era when Hung Vuong ruled the Van Lang and Au Lac countries. Ten centuries ago, the core was built both physically and spiritually, both materially and immaterially in four general but very basic verses. "Heroes of heroic women" such as the Hung Kings, the two Egg Ladies, Ba Trieu, Dinh Bo Linh, Ngo Quyen, Ly Thuong Kiet, Tran Hung Dao,... are all revered as shining examples of Vietnamese soul. •
In the next verses, the father stated the reason why, "the Ming army took advantage of the opportunity to invade" and commit many heinous crimes. Although the father did not mention his name, the sentence "The country's fortunes encounter change" recalls the historical period at the end of the Tran dynasty related to Ho Quy Ly. According to historical records, his real name was Le Quy Ly and was trusted by King Tran Nghe Tong. Quy Ly had two aunts, both of whom were the wives of Tran Minh Tong, and the mother of three kings Tran Hien Tong, Tran Nghe Tong and Tran Due Tong. Thanks to his relatives' connections, which also helped Tran Nghe Tong consolidate the dominant position of the Tran family, Quy Ly was trusted. After Tran Nghe Tong died, Quy Ly became more and more autocratic. In early 1400, Ho Quy Ly dethroned the Tran dynasty, became king, and took the national name Dai Ngu. "The fate of the country when it changes is like that." And the Ming Dynasty army used that excuse to invade Dai Viet, causing great disaster:
The four directions were blazing with smoke and fire,
How many disasters are the bones of the forest and the blood of rivers!
Where the city is in ruins,
The world where people leave their wives and children.
The scene of the Ming invasion is described as horrifying without going into every detail. They freely burn and kill without mercy. The art of making up words, using strong words such as "burst, toss, break, quit, leave". Makes the reader feel that nothing is left intact, including people. The citadel, houses, wives and children were in ruins, especially the devastating disaster in the comparative phrase "bones of the forest and blood of the river". The horrifying and horrifying scene caused by the crazy Ming army not only created resentment in every Dai Viet citizen today but also "wound up in tears". That resentment must be paid, that heinous crime must be punished. But what to do?
The last eight lines of the poem are the father's sincere and earnest confession to his son. That sincerity is:
I feel sorry for my old age and weakness,
If you fall into trouble, you will have to give up.
And that earnestness is:
Giang Son will bear the burden and will rely on you later.
More than earnestness, it is the transfer of the most sacred responsibility of keeping:
North and South, the borders are divided. The bloody flag of independence is still here...
Mr. Asia Nam Tran Tuan Khai wrote this poem when the French government at that time (1924) was trying to consolidate the colonial regime. Borrowing from the story of Nguyen Phi Khanh telling his son Nguyen Trai to "take care of the country", he wanted to discreetly convey his patriotic feelings to the youth class at that time.
|
Hướng dẫn
‘Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ dem phần đến cho’
1. Câu tục ngữ diễn đạt dưới hình thức thơ lục bát. Câu lục mộc mạc, giản dị như một lời ăn tiếng nói hàng ngày của bà con lao động về một sự thật hiển nhiên ở đời: ‘Cố làm thì mới có ăn’.Dân gian đã sử dụng cách nói điều kiện – hệ quả để chỉ ra một chân lí. ‘Cố làm’là điểu kiện; ‘có ăn’là hệ quả. Thật là dễ hiểu, vì có làm thì mới có ăn; muốn có ăn thì phải làm, phải lao động.
Hai tiếng ‘không dưng’trong câu bát nghĩa là không bỗng chốc, không tự nhiên, tự dưng mà có. Chữ ‘phần’là miếng ăn, là của cải vật chất. ‘Có con mà gả chồng gần – Nửa đêm đốt đuốc đem phẩn biếu cha’(ca dao). Nghĩa câu bát bổ sungcho nghĩa câu lục, dân gian đã nhắc khẽ người đời nên biết, nên nhớ là không tự dưng, không bỗng chốc vô cớ mà thiên hạ đem miếng ăn, đem của cải vật chất đến cho không mình.
Tóm lại, câu tục ngữ đã chỉ rõ: muốn sống, muốn tồn tại, muốn ấm no thì phải lao động; không thể sống ỷ lại thiên hạ.
2. Câu tục ngữ đã khẳng định giá trị to lớn của lao động, ca ngợi sức lao động và con người lao động. Lao động trước hết để nuôi sống bản thân mình, nuôi sống gia đình mình. Lao động còn để phục vụ đất nước và nhân dân trên vị thế công dân. Có làm có lao động mới sản xuất ra mọi của cải vật chất và sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm cho đất nước ngày thêm giàu đẹp. Lao động là nguồn sống, nguồn ấm no hạnh phúc cho gia đình và xã hội.
Qua câu tục ngữ, nhân dân ta đã phê phán những kẻ lười biếng, ăn bám, chỉ biết ‘ăn dày làm mỏng’ỷ lại ‘há miệng chờ sung’. ‘Có làm thì mới có ăn’siêng năng, chịu khó lao động thì ấm no, có bát ăn bát để. Lười biếng thì đói rét, khổ cực, chẳng ai cho, chẳng ai thương! Muốn ấm no hạnh phúc và được mọi người tôn trọng thì phải lao động, cần cù, chịu khó. Đã từ bao đời nay, ngườinông dân Việt Nam đem mồ hôi và công sức bám lấy ruộng đồng, nương rẫy, cuốc bẫm cày sâu, một nắng hai sương, cày cấy quanh năm mới làm ra được hạt gạo để nuôi sống mình, nuôi sống gia đình mình. Nhờ thế mới có lương thực nuôi bộ đội đánh giặc, mới có nhiều gạo để xuất khẩu. Khái niệm làm và ăn rất rộng lớn. Người thợ xây nhà, làm cầu đường, trường học, bệnh viện, dệt vải, làm ra mọi vật dụng cho quốc kế, dân sinh. Thầy thuốc chữa bệnh, săn sóc sức khỏe nhân dân. Giáo viên dạy học, đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động có văn hóa, có kĩ thuật cho đất nước. Lao động chân tay và lao động trí óc đều vẻ vang. Tất cả đều là nguồn nhân lực để nuôi sống xã hội, để xây dựng đất nước ngày một thêm văn minh, giàu đẹp. ‘Có làm thì mới có ăn’,từ chân lí ấy ta mới cảm nhận được, lao động là cái đáng quý nhất, người lao động là người đáng kính nhất trong xã hội.
3. Câu tục ngữ trên chỉ rõ lao động là thước đo giá trị phẩm giá của mỗi người, mỗi thành viên trong gia đình, mỗi công dân trong xã hội. Cần cù siêng năng, kiên nhẫn, chịu khó, dũng cảm, sáng tạo, v.v… là những đức tính tốt đẹp được hình thành phát triển trong lao động, làm nên nhân cách công dân. Và cũng vì thế mà các thói xấu, tệ nạn như lười biếng, ỷ lại, ngại khó ngại khổ, tham lam, thích ăn ngon, mặc dẹp, xài sang mà chây lười, bóc lột, tham nhũng, xa hoà, lãng phí, v.v… đều bị cộng đồng chê cười, khinh bỉ, lên án. Dân gian nói thật hay về chuyện làm và ăn ở đời. Những câu tục ngữ ấy đã trở thành bài học luân lí thấm thía:
– ‘Hay ăn thì lăn vào bếp’.
– ‘Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn’.
– ‘Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ’.
– ‘Có khó mới có miếng ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho’
4. Câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn…’nêu lên một nguyên tắc, một quan niệm đúng đắn, công bằng, về làm và ăn, về cống hiến và hưởng thụ: có làm thì có hưởng, làm tốt hưởng nhiều, làm ít, làm dở thì hưởng ít, không làm không hưởng. Trong xã hội cũ, nhân dân lao động đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn đói rét, trái lại, tầng lớp trên không làm mà lại sống trong nhung lụa. Đó là nghịch lí, bất công: ‘Thằng còng làm cho thằng ngay ăn’, ‘Kẻ ăn không hết người tần không ra.
Lao động thủ công, lao động cơ bắp thật đáng quý. Một giọt mồ hôi, một hạt cơm vàng. Nhưng lao động kĩ thuật, lao động sáng tạo, tài kinh doanh quản lí mới là phẩm chất cần có, nên có đối với mọi người sống trong nền kinh tế – xã hội tri thức.
Nếu làm mà không tiết kiệm, sống xa hoa lãng phí, cần mà không kiệm, thì có thể nói là chưa hiểu đầy đủ câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn…’.Qua câu tục ngữ trên, nhân dân ta đã đề cao lao động, nêu lên bài học giáo dục tinh thần lao động, nhắc nhở mọi người yêu lao động, biết sống bằng lao động. Bước vào đời, ai cũng phải sống bằng lao động, phải biết làm giàu một cách chính đáng bằng vốn liếng của mình, bằng chất xám và tài năng của mình. Cuộc đời đâu chỉ vì ăn mà làm, mà lao động? Còn nhiều ý nghĩa cao quý hơn. Vì sự ấm no hạnh phúc của 208 cộng đồng, vì sự phú cường của đất nước mà người người lao động, nhà nhà lao động. Làm để ăn để sống; làm còn để hiến dâng và phục vụ. Ông cha ta còn nhắc nhở: ‘Miệng ăn núi lở’,vì thế cần kiệm phải là quốc sách.
|
Instruct
'If you work, you will eat,
No wonder it's easy for anyone to give you their share.
1. Proverbs expressed in the form of six-eight poems. The sentence is rustic and simple, like a daily saying of working people about an obvious truth in life: 'If you work hard, you will be able to eat'. Folk people have used the expression condition - consequence. to point out a truth. 'Try to do' is the condition; ‘have food’ is the consequence. It's easy to understand, because if you work, you will eat; If you want to eat, you have to work, you have to work.
The two words 'not suddenly' in verse eight mean not suddenly, not naturally, not suddenly. The word 'portion' is food, material wealth. 'If you have children, marry close to you - Light a torch at midnight to give some to your father' (folk song). The meaning of the eighth verse complements the meaning of the sixth verse, folk have gently reminded people that they should know, remember that it is not suddenly, not suddenly without reason, that people give food and material wealth to them for free.
In short, the proverb clearly states: if you want to live, survive, and be prosperous, you must work; Can't live depending on people.
2. The proverb affirms the great value of labor, praising labor and working people. Work first and foremost to feed yourself and your family. Labor also serves the country and people as citizens. Only with work can we produce all material wealth and create all spiritual values to make the country richer and more beautiful. Labor is the source of life, prosperity and happiness for family and society.
Through proverbs, our people have criticized those who are lazy and freeloaders, who only know how to 'eat thick and thin' and rely on 'opening their mouths to wait for more'. 'If you work, you will eat.' If you are diligent and work hard, you will be prosperous and have food to eat. If you are lazy, you will be hungry, cold, miserable, no one will give you anything, no one will love you! If you want to be prosperous, happy, and respected by everyone, you must work, be diligent, and endure hardship. For many generations, Vietnamese farmers have put their sweat and effort into the fields, upland fields, hoeing and plowing deeply, one sun or two dew, cultivating all year round to produce rice grains to feed themselves and feed themselves. live with your family. Thanks to that, there was food to feed the soldiers fighting the enemy, and there was a lot of rice to export. The concept of making and eating is very broad. Workers build houses, bridges, roads, schools, hospitals, weave fabrics, and make all kinds of things for the country and people. Doctors treat diseases and take care of people's health. Teachers teach and train the young generation to become cultured and technical workers for the country. Manual labor and mental labor are both glorious. All are human resources to feed society, to build the country more and more civilized, rich and beautiful. 'If you work, you will eat', from that truth we can feel that labor is the most precious thing, workers are the most respectable people in society.
3. The above proverb clearly shows that labor is a measure of the value and dignity of each person, each family member, and each citizen in society. Diligence, patience, hard work, courage, creativity, etc. are good qualities that are formed and developed during work, creating a citizen's personality. And that's why bad habits and vices such as laziness, dependence, fear of hardship, greed, liking good food, dressing modestly, spending money but being lazy, exploitation, corruption, distance from harmony, wastefulness , etc. are all laughed at, despised, and condemned by the community. Folks talk really well about working and living in life. These proverbs have become profound moral lessons:
– 'If you want to eat, go to the kitchen'.
– 'Praise good manners or do things, whoever praises good manners will often eat'.
– 'Hands are chewing jaws, hands are hanging behind the mouth'.
– 'It's hard to have food,
No wonder it's easy for anyone to give you their share.
4. The proverb 'If you work, you will eat...' raises a principle, a correct and fair concept, about working and eating, about dedication and enjoyment: if you work, you will enjoy, if you do well, you will enjoy If you do a lot, if you do a little, if you do poorly you get little, if you don't work you don't get any. In the old society, the working people worked hard all year round but were still hungry and cold, on the contrary, the upper class did not work but lived in luxury. That is a paradox and injustice: 'The shackled man makes the righteous man eat', 'The one who can't eat enough is the one who can't get out.
Manual labor and muscle labor are precious. One drop of sweat, one grain of golden rice. But technical labor, creative labor, and business and management talent are necessary qualities that should be possessed by everyone living in a knowledge-based economy and society.
If you work but do not save, live lavishly and wastefully, need but do not save, then it can be said that you have not fully understood the proverb 'If you work, you will eat...'. Through the above proverb, our people have learned promote labor, raise lessons to educate the spirit of labor, and remind people to love labor and know how to live by labor. Entering life, everyone must live by working, must know how to get rich in a legitimate way with their capital, intelligence and talent. Life is not just about eating, working, and working? There are more noble meanings. For the prosperity and happiness of 208 communities, for the prosperity of the country, people work and families work. Work to eat to live; work is also to dedicate and serve. Our ancestors also reminded us: 'Each mouth eats a mountain,' so being frugal must be a national policy.
|
Hướng dẫn
Tục ngữ đã dạy khôn dạy tốt cho ta bao điều. Có biết bao câu tục ngữ hóm hỉnh, sâu sắc đã trở thành hành trang của mỗi chúng ta, trong đó có câu:
‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’*
1. Câu tục ngữ chỉ có tám chữ, chia làm hai vế 4 // 4 đối nhau. Chữ ‘trước’ bắt vần với chữ ‘nước’. Câu tục ngữ ngắn gọn, vần vè, đối xứng nên rất dễ nhớ, dễ thuộc.
Về nghĩa đen, nghĩa cụ thể, câu tục ngữ nêu lên hai cách sống rất ‘khôn khéo’*của một số người nào đó trong xã hội. ‘Ăn cỗ đi trước’ là để được ăn nóng, ăn tươi, ăn ngon. Kẻ coi miếng ăn là to, là trên hết mới ‘ăn cổ đi trước’. Trong mâm cỗ xưa nay đều có định lượng khẩu phần nên ăn cỗ, dù có đi trước hay đi sau cũng chỉ có thế thôi. Dân gian muốn chỉ rõ kẻ đi trước lúc ăn cỗ phần lớn là kẻ hám ăn, thèm ăn, tham ăn. Người lịch thiệp không ứng xử như thế.
Vế thứ hai nói về chuyện ‘lội nước’ của những ai đó thực chất là chuyện đi đường: ‘lội nước đi sau’. Qua sông qua suối, băng thác vượt ghềnh, mưa to lũ lớn, đường sá ngập nước, ào ào cuốn trôi… ‘Đi trước’ rất nguy hiểm, có thể sa chân vào hố sâu, giẫm đạp phải gai góc, có thể bị ngã què, bị nước cuốn đi. Vì thế kẻ ‘khôn ngoan’ ranh ma mới hành xử theo cách riêng của mình: ‘lội nước đi sau’, để được an toàn.
Bốn chữ ‘đi trước’ và ‘đi sau’ tưởng là đối lập, nhưng thật ra nhất quán cả trong suy nghĩ, trong hành động, trong ứng xử của một số người nào đó trong xã hội. Họ biết tìm cái lợi riêng cho bản thân mình trong: ‘ăn’ (ăn cỗ), trong hưởng thụ. Và họ lại còn biết giành lấy phần hơn, phần an toàn cho cuộc đời mình trong mọi việc làm (lội nước). Câu tục ngữ ‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’ đã phản ánh lối sống, cách hành xử vị kỉ, vụ lợi của một số người hèn kém trong.xã hội xưa nay.
2. ‘Ăn cổ đi trước, lội nước đi sau’là cách sống khôn vặt, tinh quái của phường giá áo túi cơm, là tâm lí của tiểu nông, của người sản xuất nhỏ trong xã hội cũ.
Những con người ấy, sống ích kỉ, vị kỉ tham lam, ranh ma, chỉ cố sao thu vén cho riêng mình, cho gia đình mình một số lợi lộc nhất định, càng nhiều càng thích, mà không hề bị thiệt thòi dù chỉ ‘chút mảy may lông’! Họ quan niệm một góc chiếu ngồi trên, giữa chốn đình trung là vẻ vang. Họ sống theo triết lí ‘Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp’. Cái đầu gà, cái thủ lợn, cái mâm cỗ ngồi trên giữa họ, ngoài làng được những kẻ ấy lấy làm hãnh diện về sự cao sang, đắc chí rung đùi vuốt râu cười trước bàn dân thiên hạ!
‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’tuy khôn vặt, ích kỉ nhưng không phải là ích kỉ hại nhân. Họ đáng bị đồng loại coi thường, chê cười nhưng chưa đến nỗi bị xã hội khinh bỉ ghê tởm như đối với những kẻ đạo đức giả ‘miệng nam mô bụng một bồ dao găm’, thủ đoạn nham hiểm, chà đạp hãm hại đồng loại đê giành quyền lực, để vinh thân phì gia.
3. Xã hội loài người là cuộc đấu tranh sinh tồn theo xu thế đi lên không ngừng của lịch sử, từ man dã đến văn minh. Trong sản xuất và chiến đấu, thời nào và ở đâu cũng có những người tiên phong, dám xả thân vì hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập tự do của đất nước. Họ dũng cảm chống thiên tai bão tố, lũ lụt để cứu tài sản, tính mạng của nhân dân. Khoa học là con đường đầy gai góc, gian nan. Nhiều nhà khoa học đã nêu cao tấm gương sáng chói. Giáo sư Trần Đại Nghĩa đã từ bỏ mọi vinh hoa phú quý nơi Paris hoa lệ, theo Hồ Chủ tịch về nước, chế tạo vũ khí cho bộ đội đánh giặc. Giáo sư y khoa Đặng Văn Ngữ đã lặn lội khắp các chiến trường, núi rừng, lấy thân mình cho muỗi đốt, để nghiên cứu và chế tạo thành công vắc-xin chống bệnh sốt rét, phụcvụ chiến đấu. Các vị ấy đã ứng xử một cách cao cả, được nhân dân và quân đội suy tôn là anh hùng. Họ đâu có bao giờ nghĩ tới chuyện ‘Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’.
Những kẻ nhân cách tầm thường, sống nhỏ nhen ti tiện mới hành xử theo lối ‘ăn cổ đi trước, lội nước đi sau’. Họ biết đâu, chỉ vì cái lợi vật chất nhỏ bé, cách sống đun đẩy, ngại khó ngại khổ… mà đã tự hủy hoại nhân cách mình, tâm hồn minh, bị người đời chê cười, coi thường.
Thời chống Mĩ cứu nước, các phong trào ‘ba đảm đang’ của phụ nữ, ‘ba sẵn sàng’ của thanh niên đã lôi cuốn hàng chục triệu tuổi trẻ Việt Nam, quyết không lùi bước trước mọi hi sinh gian khổ, quyết tâm ‘xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước’, đã lập nên bao chiến tích thần kì. Nếu ai cũng ứng xử theo lối ích kỉ tấm thường như ‘ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau’ thì không thể nào có thành quả độc lập, thống nhất và hòa bình như ngày nay.
Xét cho cùng, câu tục ngữ ‘Ăn cổ đi trước, lội nước đi sau’ nhằm nêu lên mật trái của vấn đề ăn và làm, sống và hành động, cái thấp hèn về nhân cách, để châm biếm và phê phán. Qua đó, nhân dân ta đề cao những đức tính như cao thượng, tích cực, gương mẫu, tiên phong, sẵn sàng dám xả thân vì những lí tưởng cao cả, để phục vụ đất nước và dân tộc.
Xã hội nào, thời đại nào cũng có những kẻ sống tầm thường như ‘Ăn cổ đi trước, lội nước đi sau’, hoặc ‘Ăn thì ăn những miếng ngon – Làm thì chọn việc cỏn con mà làm’. Đó chỉ là phân số nhỏ bé trong cuộc đời rộng lớn của nhân dân. Câu tục ngữ trên là bài học phản diện về đạo đức cho mỗi chúng ta. Nó nhắc nhở mọi người không nên, không thể sống một cách thấp hèn, khôn vặt, ranh ma trước đồng loại. Nó giáo dục chúng ta biết ăn và hành động một cách có văn hóa, có dạo đức.
Trong xã hội mới, ‘công bằng, dân chủ, văn minh’ không có chỗ đứng cho những kẻ ích kỉ, vị kỉ như ‘Ăn cỗ ải trước, lội nước đi sau’. Xã hội mới, thời đại văn minh trí tuệ, vị thế của những tài năng sống vì một lí tưởng đẹp mới được tôn vinh.
Và có thể nói, đoạn thơ sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn bài học làm người qua câu tục ngữ trên:
‘Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.
|
Instruct
Proverbs have taught us many good things. There are so many witty and profound proverbs that have become the luggage of each of us, including:
'Eat the meal first, wade later'*
1. The proverb has only eight words, divided into two opposite sides 4 // 4. The word 'before' rhymes with the word 'water'. The proverb is short, rhymes, and symmetrical so it is easy to remember and memorize.
In terms of literal and specific meaning, the proverb points out two very 'smart' ways of living of certain people in society. 'Eat the meal first' means to eat hot, fresh, and delicious food. Those who consider food to be big and the most important will 'eat first'. In the ancient feast, there are always portions to be eaten, whether you go first or last, that's all. Folks want to point out that the people who go first when eating are mostly greedy, greedy, and gluttonous people. Polite people don't behave like that.
The second part talks about someone's 'wading through the water' which is essentially a matter of walking: 'wading through the water and walking behind'. Crossing rivers and streams, crossing waterfalls and rapids, heavy rains, heavy floods, flooded roads, rushing to wash away... 'Going ahead' is very dangerous, you can fall into deep holes, step on thorns, and you can be injured. fell lame, swept away by the water. That's why the 'smart' and cunning people act in their own way: 'wade the water later', to stay safe.
The four words 'going before' and 'going behind' seem to be opposites, but are actually consistent in the thoughts, actions, and behavior of certain people in society. They know how to find their own benefits in: 'eating' (eating), in enjoyment. And they also know how to take the better part, the safe part for their lives in every job (water wading). The proverb 'Eat food first, wade in water later' reflects the selfish and self-seeking lifestyle and behavior of some poor people in society in the past.
2. 'Eat the neck first, wade in the water later' is the clever and mischievous way of life of the rice-clothing-bag-price village, the psychology of small farmers and small producers in the old society.
Those people, living selfishly, selfishly, greedily, and mischievously, only try to earn for themselves and their families a certain amount of benefits, the more they like, without being disadvantaged in the slightest. 'a little hair'! They believe that sitting on a projection corner in the middle of a middle ground is glorious. They live by the philosophy 'A piece in the middle of the village is equal to a corner of the kitchen'. The chicken's head, the pig's head, and the feast tray sitting among them, outside the village, those people take pride in their nobility, triumphantly shaking their thighs and stroking their beards and laughing in front of the world!
'Eat the meal first, wade in the water later', although clever and selfish, it is not selfish to harm others. They deserve to be despised and laughed at by their fellow human beings, but not to the extent of being despised and abhorred by society like the hypocrites who "have a man's mouth and a dagger in their belly" and use sinister tricks to trample and harm their fellow men. the type to gain power, to glorify the family.
3. Human society is a struggle for survival following the continuous upward trend of history, from barbarism to civilization. In production and combat, at all times and everywhere there are pioneers who dare to sacrifice their lives for the happiness of the people and for the independence and freedom of the country. They bravely fight natural disasters, storms and floods to save people's property and lives. Science is a thorny and arduous path. Many scientists have set a shining example. Professor Tran Dai Nghia gave up all the glory and wealth of the magnificent Paris, followed President Ho Chi Minh back to the country, and made weapons for the soldiers to fight the enemy. Medical professor Dang Van Ngu traveled all over the battlefields, mountains and forests, biting his body by mosquitoes, to research and successfully create a vaccine against malaria to serve in combat. They behaved nobly and were honored as heroes by the people and the army. They never think about 'Eat first, wade later'.
People with mediocre personalities and petty and despicable lives behave in the way of 'going first, wading later'. Who knows, just because of the small material gain, the pushy way of life, the fear of hardship and suffering... they have destroyed their own personality, their soul, and are laughed at and looked down upon by people.
During the anti-American war to save the country, the "three strong" movements of women and "three ready" of young people attracted tens of millions of Vietnamese youth, determined not to back down in the face of all hardships and sacrifices. 'cutting Truong Son to save the country', has achieved many miraculous achievements. If everyone behaved in a selfish way such as 'eating first, wading later', it would be impossible to achieve independence, unity and peace like today.
After all, the proverb 'Eat first, wade in water later' aims to highlight the negative consequences of eating and working, living and acting, the lowliness of personality, to satirize and criticize. Thereby, our people promote virtues such as nobility, positivity, exemplary, pioneering, and willingness to sacrifice themselves for noble ideals, to serve the country and people.
Every society and every era has people who live mediocre lives like 'If you eat, go first, wade later', or 'If you eat, eat the delicious pieces - When you do, choose the small things to do'. That is just a small fraction in the vast life of the people. The above proverb is a moral lesson for each of us. It reminds people that they should not, cannot live in a vile, cunning, or mischievous way before their fellow human beings. It educates us to eat and act in a cultured and virtuous manner.
In the new society, 'fairness, democracy, civilization' has no place for selfish and self-centered people like 'Eating food first, wading through water later'. In a new society, an era of intellectual civilization, the position of talented people living for a new beautiful ideal is honored.
And it can be said that the following poem will help us understand more deeply the lesson of being human through the above proverb:
'If you are a bird, a leaf,
The bird must sing, the leaf must be green.
|
Hướng dẫn
I. ĐẶT VẤN ĐỂ:
Ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói biểu hiên nhân cách, cá tính của mỗi người. Nhân dân ta rất coi trọng cách ăn nói trong giao tiếp. Khuyên răn người đời cần có trách nhiệm trước lời nói của mình, ca dao có câu:
‘Nói lời phải giữ lấy lời,
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay’
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỂ
1. Giải thích nghĩa đen, tìm nghĩa bóng, rút ra ý nghĩa:
‘Nói lời phải giữ lấy lời’:không được thay đổi, không được lật lọng, trước nói thế nào thì sau phải làm đúng như thế, luôn luôn lấy chữ tín làm đầu, biết coi trọng và đề cao chữ tín.
‘Đừng như con bướm đậu rồi lại bay’là một hình ảnh diễn tả bướm đi tìm hoà, hút nhụy hoà, bay và đậu từ bông hoa này qua bông hoa khác. ‘Đừng’ nghĩa là chớ, không nên làm như thế. Mượn hình ảnh bướm tìm hoà, nhân dân ta phê phán một thái độ tuỳ tiện, vô trách nhiệm trước lời nói của mình.
Tóm lại, câu ca dao nêu lên một lời khuyên nhằm nhắc nhở mọi người ăn nói phải chín chắn, phải có ý thức, có trách nhiệm trước lời nói của mình, phải biết lấy chữ tín làm đầu, không được hứa suông hứa liều; phải làm đúng, thực hiện đúng điều đã nói và đã hứa.
2. Bình:
Tại sao ‘Nói lời phải giữ lấy lời?’. Vì sao ‘Đừng như con bướm đậu rồi lại bay?’. Lời nói, ngôn ngữ phản ánh sự hiểu biết, trình độ học vấn, đạo đức tư cách của mỗi người. Người thật thà, có lòng tự trọng và biết tôn trọng người thì ăn nói chân thật, không dám dối trá nửa lời. Nói sao làm vậy, nghĩ như thế nào thì nói như thế ấy, đó là con người có đạo đức, có tư cách. Hứa với ai điều gì, việc gì thì phải giữ đúng. Như thế mới tốt. Trái lại, nói một đàng, làm một nẻo, nói mà không làm, hứa mà không thực hiện đúng lời hứa, đó là kẻ vô đạo đức, bất tín bất nghĩa. Kẻ bất tín, nói lời lại nuốt lấy lời, sớm muộn cũng lộ chân tướng xấu xa, bị mọi người xa lánh và khinh bỉ.
Trong mối quan hệ cộng đồng, niềm tin là một trong những cái quý báu nhất. Tinh cha con mẹ con, tình anh em, bằng hữu, tình vợ chồng, tình đồng đội… niềm tin là ngọn lửa thiêng liêng soi sáng tâm hồn. Còn niềm tin là còn tình người, còn hạnh phúc. Khi đã mất niềm tin là mất tất cả, con người sẽ nghi ngờ lẫn nhau. Mối quan hệ ‘người với người là bạn’ bị tan vỡ. Bởi vậy, ‘Nói lời phải giữ lấy lời. Đừng như con bướm đậu rồi lại bay’ là bài học dạy ta cách làm người, cách sống chân thật, coi trọng tín nghĩa.
3. Luận
Phải học tập, học văn hóa, khoa học kĩ thuật, học cách làm ăn, học điều khôn lẽ phải ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Học nói lời hay ý đẹp, nhưng cốt lõi của sự học hành làm người là tu dưỡng đạo đức để biết sống chân thật, thực thà. Tục ngữ có câu: ‘Thật thà là cha mách qué’.
Niềm tin cho ta tình thương yêu, sức mạnh đoàn kết. Câu nói: ‘Một điều không tin thì vạn sự cũng chẳng tin’ là một điều răn, nhắc nhở chúng ta ‘nói lời phải giữ lấy lời…’.
Hứa mà không thực hiện là đáng chê trách. Dối trá, lừa bịp, lật lọng… là biểu hiện về sự sa đọa tâm hồn, đạo lí, dẫn đến những việc làm bất lương, tội ác. Biết giữ lời hứa là một nguyên tắc trong ứng xử, giao tiếp. Cha mẹ, con cái trong gia đình ngoài tình thương còn cần có niềm tin để phát huy gia phong. Bằng hữu lấy niềm tin để thắt chặt dây thân ái. Thầy mến trò, trò kính thầy trên niềm tin để dạy tốt học tốt.
Trong cuộc sống, lời nói có lúc được thể hiện qua các văn bản giao kèo, hợp đồng… do đó, ai cũng phải biết làm đúng, thực hiện đúng. Tính pháp lí gắn liền với tính đạo đức là như vậy.
Câu ca dao này vốn là lời cô gái nói với chàng trai đến tỏ tình, cầu hôn, vừa nhắc khẽ, vừa răn đe: trong tình yêu phải biết trọng lời hứa, giữ trọn danh dự, thủy chung sắt son, không được bạc tình bạc nghĩa ‘đừng xanh như lá bạc như vôi’ (Hồ Xuân Hương), ‘Đừng như con bướm đậu rồi lại bay’.
|
Instruct
I. INQUIRY TO:
Language and speech express each person's personality and character. Our people attach great importance to the way they speak in communication. Advising people to be responsible for their words, folk songs say:
'If you say something, keep it,
Don't be like a butterfly that lands and then flies away.
II. PROBLEM SOLVED
1. Explain the literal meaning, find the figurative meaning, and draw the meaning:
'If you say something, you must keep it': don't change it, don't turn it around, whatever you say first, do it later, always put trust first, know how to value and promote trust.
'Don't be like a butterfly that lands and then flies' is an image that describes butterflies searching for peace, sucking the pistil of peace, flying and landing from one flower to another. 'Don't' means don't, don't do that. Borrowing the image of a butterfly seeking peace, our people criticize an arbitrary and irresponsible attitude towards their words.
In short, the folk song gives advice to remind people to speak maturely, to be conscious, to be responsible for their words, to know how to put trust first, not to make empty promises. ; must do right, do exactly what was said and promised.
2. Bottle:
Why 'If you say something, you have to keep it?'. Why 'Don't be like a butterfly that lands and then flies away?'. Speech and language reflect each person's understanding, education level, and moral character. Honest people who have self-esteem and respect for others speak honestly and do not dare to lie. Say whatever you want, say whatever you think, that is a person with ethics and character. If you promise someone something, you must keep it. That's good. On the contrary, saying one thing, doing another, saying but not doing, promising but not keeping the promise, that is an immoral, untrustworthy and unjust person. Those who do not believe, speak their words and then swallow them, will sooner or later reveal their ugly truth and be shunned and despised by everyone.
In community relationships, trust is one of the most valuable things. The love between father and mother, brotherhood, friendship, love between husband and wife, love for teammates... faith is a sacred fire that illuminates the soul. As long as there is faith, there is still human love and happiness. When you lose faith, you lose everything, people will doubt each other. The relationship 'people are friends' is broken. Therefore, 'If you say something, you must keep it. Don't be like a butterfly that lands and then flies away' is a lesson that teaches us how to be human, how to live honestly, and value trust.
3. Essay
We must study, learn culture, science and technology, learn how to do business, learn common sense, 'learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open'. Learn to say good words and beautiful thoughts, but the core of learning to be a human being is to cultivate morality to know how to live honestly and honestly. There is a proverb that says: 'If you're honest, your father won't tell you anything'.
Faith gives us love and strength of solidarity. The saying: 'If you do not believe in one thing, you will not believe in all things' is a commandment, reminding us to 'keep your word when you say it...'.
Promising but not keeping is reprehensible. Lies, deception, deception... are manifestations of spiritual and moral depravity, leading to dishonest and criminal actions. Knowing how to keep promises is a principle in behavior and communication. Parents and children in the family, in addition to love, also need faith to promote family style. Friends use faith to tighten the bond of friendship. Teachers love students, students respect teachers based on their belief in teaching well and learning well.
In life, words are sometimes expressed through contracts, contracts... therefore, everyone must know how to do it right and do it right. Legality is closely linked to morality.
This folk song was originally what a girl said to a boy who came to confess her love or propose, both a gentle reminder and a warning: in love, you must respect your promises, keep your honor, be faithful, and do not be disloyal. ungrateful love 'don't be green like silver leaves like lime' (Ho Xuan Huong), 'Don't be like a butterfly that lands and then flies'.
|
Hướng dẫn
ĐẶT VẤN ĐỂ
…Bài học về tình thương và đoàn kết đã ăn sâu vào tâm hồn dàn tộc. Vì thế, nhân dân ta thường nhắc nhở nhau:
‘Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao’.
I. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỂ
1. Giải thích khái niệm (nghĩa đen, nghĩa bóng):
‘Một cây’chẳng thể nào làm nên núi ‘nên non’, nên rừng. Đó là một sự thật hiển nhiên. Nhưng ‘ba cây’, tượng trưng cho nhiều cây, rừng cây) thì có thể tạo nên non, ‘nên núi’, không phải là núi thấp, mà là ‘núi cao’. Từ ‘một cây’ đã chuyển thành ‘ba cây’, số lượng đã thay đổi thì chất lượng cũng biến đổi. Nhưng yếu tố quyết định của sự vận động từ ‘lượng’ thành ‘chất’ là sự ‘chụm lai’ của ‘ba cây’ nên mới có hiện tượng thiên nhiên sừng sững ‘hòn núi cao’ kia. ‘Chụm lại’ là hành động, là biểu hiện tâm lí thể hiện sự hợp lực, đổng lòng, là sự gắn bó đoàn kết. ‘Cây’ trong câu tục ngữ được nhân hóa, trở thành một biểu tượng rất sống động và thấm thía về nhân dân, nói lên tình thương yêu đoàn kết dân tộc. Qua câu tục ngữ nhân dàn ta nêu lên một bài học quý báu về tinh thần đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhau trong cộng đồng dân tộc.
2. Phần chứng minh:
Lịch sử và cuộc sống, thơ văn và thực tế đã có biết bao thí dụ sống động nói về tình đoàn kết dân tộc.
Từ thời xa xưa, với công cụ thô sơ, người Việt đã bạt rừng, lấn biển, đập đê đào kênh để làm nên những cánh đồng màu mỡ, xanh tươi:
Việt Nam đất nước ta ơi!
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.
(Nguyễn Đình Thi)
Con đê sông Hồng, sông Thái Bình sừng sững như bức tường thành, dài hàng trăm cây số là kết tinh từ sức mạnh đoàn kết, chung lưng đấu cật của hàng triệu triệu con người ta qua hàng ngàn năm lao động.
Nhờ công ơn của nữ tướng Lê Chân mà có ấp An Biên những năm đâu Công
nguyên. Và mồ hôi, xương máu của bao thế hệ ‘chụm lại’ mà ta có thành phô’ Cửa biển to đẹp như ngày nay.
Tiếng hô: ‘Quyết chiến! Quyết chiến!’ của các bô lão vang lên khắp điện Diên Hồng thời nhà Trần trong thế kỉ 13 không chỉ biểu thị cho tinh thần yêu nước bất khuất mà còn thể hiện sức mạnh lớn lao của nhân dàn Đại Việt quyết chiến quyết thắng quân xâm lược Mông cổ, như Trần Quốc Tuấn đã nói: ‘Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức’.
Đoàn kết là sức mạnh. Đoàn kết để chiến thắng ngoại xâm. Đoàn kết để khắc phục khó khăn, phát triển kinh tế. Từ ngày miền Nam giải phóng đến nay, sức lao động của bộ đội và nhân dân đã làm thay đổi bộ mặt Đồng Tháp Mười, vùng đồng cói mênh mông đã trở thành vựa lúa Long An.
Công trình thủy điện Hòa Bình, đường dây dẫn điện cao thế Bắc – Nam, xây dựng con đường Trường Sơn cũng như hàng nghìn công trình khác trên mọi miền đất nước hiện nay đã làm sáng tỏ một chân lí vĩ đại: “… Ba cây chụm lại nên hòn núi cao’.
Em nhớ mãi bài thơ của Bác Hồ nói về sức mạnh đoàn kết, về chí, sự hợp sức, đồng lòng cho con người niềm vui lớn:
‘Hòn đá to Hòn đá nặng Nhiều người nhắc Nhắc lên đặng!’
Nhân dân ta đã biến lời dạy của Hồ Chủ tịch thành hiện thực:
‘Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công’
Và dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ sức mạnh đoàn kết càng được nhân lên gấp bội, nhân dân ta đã đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc.
II. KẾT THÚC VẤN ĐỂ
Câu tục ngữ:
‘Một cây làm chẳng nên non,
|
Instruct
ORDER TO
…The lesson of love and solidarity is deeply ingrained in the soul of the tribe. Therefore, our people often remind each other:
'A tree should not make premature,
Three trees gathered together form a high mountain.
I. PROBLEM SOLVING
1. Explanation of concepts (literal, figurative):
'One tree' cannot make a mountain, a mountain, a forest. That is an obvious truth. But 'three trees', symbolizing many trees, forests) can create mountains, 'mountains', not low mountains, but 'high mountains'. From 'one tree' has changed to 'three trees', the quantity has changed, the quality has also changed. But the decisive factor in the movement from 'quantity' to 'quality' is the 'clustering' of the 'three trees', so there is the towering natural phenomenon of 'high mountain'. 'Gathering together' is an action, a psychological expression that shows synergy, solidarity, and solidarity. The 'tree' in the proverb is personified, becoming a very vivid and poignant symbol of the people, expressing love for national unity. Through the proverb of Nhan Dan, we raise a valuable lesson about the spirit of solidarity and close attachment to each other in the national community.
2. Proof:
History and life, poetry and reality have many vivid examples of national solidarity.
Since ancient times, with rudimentary tools, Vietnamese people have cleared forests, reclaimed seas, dammed dikes and dug canals to create fertile, green fields:
Vietnam, our country!
Where vast rice sea sky more beautiful.
(Nguyen Dinh Thi)
The dykes of the Red River and Thai Binh River, standing tall like a city wall, hundreds of kilometers long, are the crystallization of the strength of solidarity and hard work of millions of people through thousands of years of work.
Thanks to the gratitude of female general Le Chan, there was An Bien hamlet in the years before Cong
original. And the sweat and blood of many generations 'gathered together' and we have the large, beautiful estuary city we have today.
The cry: 'Determining battle! The elders' decisive battle resounded throughout Dien Hong Palace during the Tran Dynasty in the 13th century, not only demonstrating the indomitable patriotic spirit but also demonstrating the great strength of Dai Viet's people determined to defeat the army. invaded Mongolia, as Tran Quoc Tuan said: 'My king agrees, brothers are in harmony, the whole country contributes'.
Unity is strength. Unite to defeat foreign invaders. Unite to overcome difficulties and develop the economy. From the day the South was liberated until now, the labor of the soldiers and people has changed the face of Dong Thap Muoi, the vast sedge field has become Long An's rice granary.
The Hoa Binh hydroelectric project, the North-South high-voltage transmission line, the construction of the Truong Son road as well as thousands of other projects in all parts of the country today have clarified a great truth: "...Three Trees gathered together form a high mountain.
I always remember Uncle Ho's poem about the strength of solidarity, willpower, cooperation, and unanimity, giving people great joy:
'The stone is big, the stone is heavy, many people remind me, please remind me!'
Our people have turned President Ho Chi Minh's teachings into reality:
‘Unity, solidarity, great solidarity Success, success, great success’
And under the wise leadership of the Party and Uncle Ho, the strength of unity was multiplied, our people defeated the French colonialists and American imperialists, reunifying the Fatherland.
II. END OF QUESTION
Proverb:
'A tree should not make premature,
|
Hướng dẫn
…
‘Thương người như thể thương thân’
Nhân dân ta đã tạo nên một so sánh cụ thể, giản dị mà thấm thía biết bao! Trong đó, có gì quý hơn, thân thiết hơn ‘thân’ mình? Chữ ‘thân’ trong câu tục ngữ là chỉ số phận cuộc đời mình, niềm vui nỗi buồn, những ước mơ về hạnh phúc của mình. Những con người xa lạ, những kẻ bất hạnh trong cõi đời chẳng có mối quan hệ gì với ta, thế mà ta đã thương, đã quý mến, đồng cảm họ một cách vô cùng sâu sắc với tất cả tình người. Sự ‘thương’ người ấy ‘như thể thương thân’ ta vậy 1 Không vu lơi! Không ban ơn! Tất cả chỉ vì tình thương người, tình yêu thương đồngloại.
Đường đời nhiều chông gai hiểm trở. Xã hội biến động không ngừng. Cũng có thuở thái bình thịnh trị. Vì thương người ta vui với niềm vui của mọi người, mọi nhà. Cũng có thời kì loạn lạc, mất mùa, dịch bệnh, giặc giã tung hoành khắp nơi. Người người đau khổ vật lộn trong thiên tai, địch họa, trong máu và nước mắt. Trong hoàn cảnh ấy, thương thân mình đã khó, thế mà ta còn biết ‘thương người’ quý mến, trân trọng những kẻ bất hạnh gần xa.
Tình cảm ấy thật đáng quý vô ngần. Tình thương người gắn liền với đức hi sinh là thế!
Tinh thương người của nhân dân ta mênh mông và bao la, với những biểu hiện vô cùng phong phú. Đồng cảm, thương xót cho cảnh ngộ đau khổ của đồng loại.
Đau nỗi đau, lo nỗi lo của đồng loại. Đó là ‘thương người như thể thương thản’. Bênh vực, chở che, sàn sóc cứu giúp vật chất, san sẻ tình thương cho những con người hoạn nạn, cho những con người ‘nhỏ bé’ đang sống ‘dưới đáy’ xã hội. Đó cũng là ‘thương người như thể thương thân’. ‘Lá lành đùm lá rách’’, ‘Một miếng khi đói bằng một gói khi no’; ‘Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ’; ‘Máu chảy ruột mềm’, v.v… Đó là những biểu hiện, những hành động cao quý ‘thương người như thể thương thân’.
‘Hũ gạo cứu đói’năm Ất Dậu 1945, phong trào rộng lớn của toàn dân giúp đỡ đồng bào bị bão lụt, giúp nạn nhân chiến tranh, giúp học sinh nghèo,… trong những năm gần đây đã nói lên sức mạnh của tình nhân ái, đạo lí tốt đẹp ‘thương người như thể thương thân’ của dàn tộc ta.
‘Thương người…’không chỉ đồng cảm san sẻ, cứu giúp, mà còn phải biết trân trọng những phẩm giá tốt đẹp của đồng loại, thấu hiểu và nâng niu những ước mơ, nguyện vọng về dân chủ tự do, về ấm no, hạnh phúc của nhân dân, nhất là của những con người lầm than, đói khổ.
‘Thương người như thể thương thân’chính là lòng ‘chí nhăn’ đã làm nên sức mạnh Việt Nam như Nguyễn Trãi đã nói: ‘Lấy chí nhân để thay cường bạo’ (‘Bình Ngô đại cáo’). Tinh cảm cao quý ấy đã làm cho lòng người trong sáng hơn, nhàn hậu hơn. Biết lấy tình người trong ứng xử là đạo lí cao quý. Nhờ thế mà bóng tối bị xua tan. Cái ác bị đẩy lùi. Tinh người và tình đời tỏa sáng. Xã hội ngày một văn minh hơn, tốt đẹp hơn.
Bọn bất lương, lũ ‘chuột lớn bất nhân’ (thơ ‘Ghét chuột’ của Nguyễn Bỉnh Khiêm) thì làm sao chúng nó hiểu được câu tục ngữ: ‘Thương người như thể thương thân’. Những kẻ giàu nứt đố đổ vách, xài bằng ngoại tệ,… nhưng chẳng bao giờ dám bỏ ra một xu để giúp người cơ nhỡ, bố thí cho kẻ hành khất ngược xuôi thì câu tục ngữ ‘Thương người…’ ấy rất xa lạ với họ!
Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Khổng,… đều có nói đến lòng nhân ái. Từ giáo lí ấy mà chúng ta càng thèm tự hào về đạo lí ‘Thương người như thể thương thân’ của nhân dân ta. Cộng đồng người Việt, ‘bốn nghìn lớp người’ đã lấy tình thương để xây dựng và phát triển nghĩa đồng bào, tình dân tộc. Chẳng thế mà nó đã trở thành điệu ru, cau hát dân gian, thấm sâu vào hồn người như hương lúa đồng quê bao đời nay:
– ‘Thấy người hoạn nạn thì thương,
Thấy người đói rét ta nhường áo cơm’.
– ‘Nhiễu điều phụ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng’
Sống không có tình thương sẽ bị khô héo lương tri, cằn cỗi tâm hồn. Bởi vậy, có người đã nói: ‘Biết san se’ là hạnh phúc; được san se’ cũng là hạnh phúc’. Có khỉ tình thương đã gắn liền với tình cảm cách mạng và kháng chiến:
‘Thương nhau chia củ sắn lủi,
Rát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng’
(‘Việt Bắc’ – Tố Hữu)
Xưa nay, ai cũng muốn được sống trong tình thương. Câu tục ngữ: ‘Thương người như thể thương thân’ là bài học luân lí vô giá đối với mọi người. Nó thanh lọc hồn người và hướng thiện.
|
Instruct
…
'Injured person as yourself'
Our people have created such a specific, simple yet profound comparison! Among them, what is more precious and more intimate than your 'body'? The word 'body' in the proverb refers to the fate of one's life, one's joys, sorrows, and dreams of happiness. Strangers, unfortunate people in this world have no relationship with us, yet we love, cherish, and sympathize with them extremely deeply with all human love. 'Loving' that person is 'like loving' yourself 1 Don't be lazy! No grace! All because of love for people, love for fellow human beings.
Life's path is full of thorns and obstacles. Society changes constantly. There was also a time when peace and prosperity reigned. Because we love people, we are happy with the joy of everyone, every home. There were also periods of chaos, crop failures, epidemics, and enemies raging everywhere. People suffered and struggled in natural disasters, enemy attacks, blood and tears. In that situation, loving ourselves is difficult, yet we still know how to 'love others', love and cherish unfortunate people near and far.
That love is so precious. Love for others is associated with the virtue of sacrifice!
Our people's love for others is immense and immense, with extremely diverse expressions. Sympathy and compassion for the suffering of fellow human beings.
Suffer the pain, worry about the worries of fellow human beings. That is 'loving people as if they were compassionate'. Defend, protect, provide material help, and share love for people in need, for the 'little' people living 'at the bottom' of society. It is also 'loving others as if loving yourself'. 'Good leaves cover torn leaves'', 'One piece when hungry is equal to one package when full'; 'One horse hurt all ship throw grass'; 'Blood flows through soft intestines', etc. These are expressions, noble actions of 'loving others as if loving yourself'.
'Famine relief rice jar' in the year of At Dau 1945, the large movement of all people to help people affected by storms and floods, war victims, poor students, etc. in recent years has demonstrated the power of love. kindness, good ethics of 'loving others as if loving yourself' of our tribe.
'Love people...' not only sympathize, share and help, but also know how to appreciate the good dignity of fellow human beings, understand and cherish the dreams and aspirations of democracy, freedom, and prosperity. , the happiness of the people, especially the miserable and hungry people.
'Loving others as if loving yourself' is the 'willful spirit' that has created Vietnam's strength as Nguyen Trai said: 'Using kindness to replace violence' ('Binh Ngo Dai Cao'). That noble feeling has made people's hearts clearer and more leisurely. Knowing how to use human love in behavior is a noble morality. Thanks to that, the darkness is dispelled. Evil is repelled. Human spirit and love of life shine. Society is becoming more civilized and better.
Those dishonest people, the 'big, inhumane rats' (poetry 'Hating rats' by Nguyen Binh Khiem), how can they understand the proverb: 'Loving others is like loving yourself'. Those who are incredibly rich, spend money in foreign currency,... but never dare to spend a penny to help the needy, or give alms to beggars, the proverb 'Love people...' is very strange. with them!
Buddhism, Christianity, Confucianism,... all talk about compassion. From that teaching, we are even more proud of our people's morality of 'Love others as you love yourself'. The Vietnamese community, 'four thousand classes of people', has used love to build and develop compatriotism and national love. That's why it has become a folk lullaby and song, penetrating deeply into people's souls like the scent of rice in the countryside for generations:
– ‘When you see people in trouble, you pity them.
Seeing people hungry and cold, I give them clothes and food'.
– ‘The secondary noise takes the price of a mirror,
People in a country to trade together'
Living without love will wither your conscience and barren your soul. Therefore, someone has said: 'Knowing san se' is happiness; Being san se' is also happiness'. There is love that is associated with revolutionary and resistance sentiment:
'Love each other and share cassava tubers,
Share half of the rice and cover with a blanket.
(‘Viet Bac’ – To Huu)
Since ancient times, everyone wants to live in love. The proverb: 'Love others as you love yourself' is an invaluable moral lesson for everyone. It purifies the soul and leads to goodness.
|
Hướng dẫn
I. “Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà
Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…”(Tô’Hữu)
Biết mỗi hành động, đọc mỗi bài thơ của Bác, chúng ta như được thêm vốn sống, tăng thêm nghị lực, lòng kiên nhẫn để vượt qua mọi thử thách gian lao và tin tưởng vững chắc vào kết quả công việc của mình.
Vào mùa thu 1942, từ Pác Bó, Bác Hồ qua Trung Quốc để tìm viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam, và bị chính quyền tỉnh Quảng Tây bấy giờ bắt giam. Suốt một năm sông trong ngục tù, Bác đã viết Nhật kí trong tù, 133 bài thơ được Bác viết bằng Hán văn về nhiều đề tài khác nhau với mục đích là để tự động viên mình, trong đó có bài Đi đường (Tẩu lộ).
II. Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn tứ tuyệt, nhà thơ Nam Trân dịch ra Việt ngữ bằng thể thơ lục bát. Cũng cần biết thêm là Bác thường mượn những hình ảnh dễ thấy trong cuộc sống làm đề tài để biểu đạt tư tưởng và tình cảm của mình. Ngay ở tựa bài Đi đường cũng đã chứng minh cho nhận xét ấy.
Từ hình ảnh cụ thể và khái quát ấy, nhà thơ Hồ Chí Minh đã viết thành câu khai:
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,
Bản dịch của Nam Trân viết:
Đi đường mới biết gian lao,
Câu thơ nguyên tác có điệp ngữ “tẩu lộ” (đi đường) để nhấn mạnh, còn câu thơ tiếng Việt thì không. Thế nhưng từ “nan” (khó) trong nguyên tác được dịch bằng từ “gian lao” thì khá tuyệt bởi nó diễn đạt nỗi khó khăn, gian khổ đậm nét hơn. Từ hình ảnh cụ thể ây, người đọc hiểu rộng ra: mọi công việc, khi bắt tay vào hành động mới thấy những khó khăn đang chờ đợi.
Những khó khăn ở câu khai được nhà thơ diễn đạt rõ hơn ở câu thừa. Nguyên tác viết:
Trùng san chi ngoại hựu trùng san;
Bản dịch viết:
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Nguyên tác sử dụng điệp ngữ “trùng san – nhiều lớp núi chồng lên nhau” nhấn mạnh về núi non để làm rõ nghĩa cho “tẩu lộ nan – đi đường khó” ở câu khai. Bản dịch tiếng Việt cũng sử dụng điệp ngữ “núi cao”, quan hệ từ “rồi lại”, và cả tính từ láy âm “trập trùng” để cụ thể hóa “gian lao” ở câu khai. Như thế thì câu thơ dịch khá hoàn chỉnh, kể cả chất thơ. Từ sự việc có thật là lúc ở tù nhà thơ bị giải đi từ nhà lao này sang nhà lao khác ở tỉnh Quảng Tây, một tỉnh có địa hình nhiều rừng núi nhà thơ muốn nhấn mạnh đến những khó khăn không bao giờ dứt trong đời sống của mỗi người. Đường đời bình thường đi đã mệt, đường giành lại độc lập tự do đã bị thực dân tước mất thì khó khăn và nguy hiểm khôn lường. Lịch sử Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập – tự do cho dân tộc từ thời dựng nước cho tới lúc nhà thơ bị bắt và làm bài thơ này đã chứng minh cụ thể cho sự khó khăn khôn lường ấy.
Biết như thế để tự động viên mình trên đường đi. Lúc nào cũng lạc quan, lúc nào cũng cố gắng tiến bước để đạt được mục tiêu cuối cùng như hình ảnh trong hai câu chuyển và hợp trong nguyên tác:
Trùng san đăng đáo cao phong hậu,
Vạn lí dư đồ cô’miện gian.
Và bản dịch:
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Cả nguyên tác lẫn bản dịch đều dùng phép đảo ngữ để nhấn mạnh “trùng san – núi cao”. Khó khăn nào cũng cố gắng vượt qua, núi cao nào cũng leo tới đỉnh rồi lại tiếp bước. Càng vượt được nhiều núi cao, trong thực tế, càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trèo đèo, lội suối, vượt qua những vực sâu… nguy hiểm. Hiểu rộng ra trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể cả việc học hành, càng vượt qua nhiều khó khăn càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong giải quyết công việc. Lúc ấy ta sẽ vững tin khi đối diện với một khó khăn mới khác trên bước đường đời.
Trong cuộc đời hoạt động, Bác đã đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người. Mỗi nơi, mỗi người đều giúp Bác thêm kiến thức, kinh nghiệm. Khi đã vượt qua tất cả những ngọn núi thấp để đến đỉnh ngọn cao nhất: vượt qua khó khăn lớn lao nhất thì… đạt đến thành công. Hình ảnh kỳ vĩ: con người với thân hình nhỏ bé đứng trên đỉnh cao của ngọn núi vĩ đại: một bức tranh thật hào hùng; thành công ấy thật vinh quang. Vượt qua khó khăn lớn nhất sẽ thấy rõ đường đời cái gì là trắc trở, cái gì là hạnh phúc, bình yên.
Muốn thế, cần phải có tâm và trí…
Ngày trước, Nguyễn Bá Học cũng đã từng mượn hình ảnh đi đường để nhân mạnh vai trò nghị lực của con người rằng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông…”. Rồi cụ Phan Bội Châu cũng đã từng nhắc nhở:
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
Thi nay lại có thêm Hồ Chí Minh.
|
Instruct
I. “Uncle Ho is wearing a simple brown shirt
The color of the homeland is persistent and rich
We are with Him, He shines in us..."(To'Huu)
Knowing every action, reading every poem of Uncle Ho, we gain more life capital, more energy and patience to overcome all hardships and firmly believe in the results of our work.
In the fall of 1942, from Pac Bo, Uncle Ho went to China to seek international aid for the Vietnamese revolution, and was arrested by the Guangxi provincial government at that time. During a year in prison, Uncle Ho wrote a Prison Diary, 133 poems written by Uncle Ho in Chinese on many different topics with the purpose of motivating himself, including the poem "Going on the Road". ).
II. The poem is written in seven-syllable verse, poet Nam Tran translated it into Vietnamese in six-eight verse. It is also important to know that Uncle Ho often borrowed visible images from life as topics to express his thoughts and feelings. Even the title of the article "On the Road" proves that comment.
From that specific and general image, poet Ho Chi Minh wrote a statement:
The secret of wealth and knowledge, the secret of trouble,
Nam Tran's translation reads:
Only when we travel on the road do we know the hardships,
The original verse has the alliteration "tac tro" (on the road) for emphasis, but the Vietnamese verse does not. However, the word "difficult" in the original work is translated with the word "hardship", which is quite wonderful because it expresses the difficulty and hardship more clearly. From this specific image, the reader can understand more broadly: in every job, when taking action, you will see the difficulties that await.
The difficulties in the opening sentence are expressed more clearly by the poet in the redundant sentence. Original writing:
The outer branches of the same tree will coincide with the same;
The translation reads:
High mountains and then rolling high mountains;
The original work uses the alliteration "coincidental san - many layers of mountains overlapping each other" to emphasize the mountains to clarify the meaning of "difficult path - difficult road" in the opening sentence. The Vietnamese translation also uses the alliteration "high mountain", the word relationship "then again", and the alliteration adjective "thap" to concretize "hard work" in the statement. Thus, the translated verse is quite complete, including the poetic quality. From the true incident that while in prison the poet was taken from one prison to another in Guangxi province, a province with many mountainous terrain, the poet wanted to emphasize the never-ending difficulties in life. each person's life. The normal path of life is tiring, the path to regaining the independence and freedom that was taken away by the colonialists is difficult and incredibly dangerous. Vietnam's history in the cause of protecting the Fatherland and maintaining independence and freedom for the nation from the time of founding the country until the time the poet was arrested and wrote this poem has specifically demonstrated that unpredictable difficulty. .
Know this to motivate yourself along the way. Always optimistic, always trying to move forward to achieve the final goal as pictured in the two sentences in the original work:
The highest and most beautiful places,
Thousands of miles of hidden treasures.
And translation:
The mountains rise to the very end,
Collect countless mountains and rivers as far as you can see.
Both the original and the translation use anagrams to emphasize "thong san - high mountain". Every difficulty we try to overcome, every high mountain we climb to the top and then move on. The more high mountains you overcome, in reality, the more experience you will accumulate in climbing passes, wading streams, overcoming deep abysses... and dangers. Broadly understand that in all areas of life, including education, the more difficulties you overcome, the more experience you will accumulate in solving tasks. At that time, we will have confidence when facing another new difficulty on our life's path.
During his active life, Uncle Ho went to many places and met many people. Every place and every person helps Uncle Ho gain more knowledge and experience. When you have overcome all the low mountains to reach the top of the highest mountain: overcoming the greatest difficulties... achieving success. Magnificent image: a human with a small body standing on the peak of a great mountain: a truly heroic picture; That success was glorious. Overcoming the biggest difficulties will clearly see what is difficult in life, what is happiness and peace.
To do that, you need to have heart and mind...
In the past, Nguyen Ba Hoc also borrowed the image of traveling on the road to emphasize the role of human willpower: "The road is difficult, not because it separates the river from the mountain, but because people are afraid of the mountain and afraid of the river..." . Then Mr. Phan Boi Chau also reminded:
If life's road is all flat,
A heroic hero is better than anyone.
Now there is Ho Chi Minh.
|
Hướng dẫn
I. MỞ BÀI
– Văn xuôi quốc ngữ buổi đầu đã có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn. Truyện ngắn ‘Sống chết mặc bay’ của ông là một trong những thành tựu đột xuất của dòng văn học hiện thực thuở sơ khai. Tác giả viết truyện ngắn này vào tháng 7/1928, được đăng tải trên báo Nam Phong số 18, tháng 12.1918.
– Truyện kể chuyện một ‘quan phụ mẫu’ ung dung ăn chơi bài bạc trong cảnh vỡ đê, nhân dân trên một vùng rộng lớn chìm đắm trong thảm họa. Tác giả đã lên án thói vô trách nhiệm, bộ mặt vô nhân đạo của bọn quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
– Tên ‘quan phụ mẫu’ được miêu tả bằng những chi tiết rất hiện thực có giá trị tố cáo sâu sắc.
II. THÂN BÀI
– Sống sang trọng xa hoa:
+ Đi hộ đê mà mang theo ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm… trông mà thích mắt.
+ Ăn của ngon vật lạ: yến hấp đường phèn.
– Sống nhàn nhã vương giả:
+ Trong lúc hàng trăm con người đội đất, vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy, trong mưa gió lướt thướt như chuột lột thì quan phụ mẫu ‘uy nghi, chễm chệ ngồi’ trong đình đèn thắp sáng choang.
+ Quan dựa gối xếp, có lính gãi chân, có lính quạt hầu, có tên chực hầu điếu đóm.
+ Trong lúc trăm họ ‘gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến’ ở trên đê, thì trong đình, quan ngồi trên, nha ngồi dưới,- nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh…
– Ăn chơi bài bạc, thản nhiên ung dung:
+ Đê sắp vỡ! ‘Mặc! Dân, chẳng dân thì chớ!’. Quan lớn ngài ăn, ngài đánh; người hầu, kẻ dạ, kẻ vâng!
+ Quan lớn ù thông, xơi yến, vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc.
– Sống chết mặc bay
+ Có người khẽ nói: ‘dễ có khi đê vỡ’, quan gắt: ‘mặc kệ!’.
+Có người nhà quê hốt hoảng chạy vào đình báo ‘đê vỡ mất rồi!’, ‘quan phụ mẫu’quát: ‘Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày!…’
+ Quan sai bọn lính đuổi người nhà quê ra khỏi đình, rồi vẫn thản nhiên đánh bài.
+ Quan vỗ tay xuống sập kêu to, tay xòe bài, miệng cười: ‘ủ! Thông tôm chi chi nẩy!… Điếu, mày!’.
– Quan sung sướng ù ván bài to khi đê đã vỡ: Cả một miền quê nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết: kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn… lênh đênh mạt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!
– Nghệ thuật tương phản đã vạch trần và lên án thói vô trách nhiệm, nhẫn tâm, vô nhân đạo của bọn quan lại, coi thường tính mạng và đời sống nhân dân, Chúng nó chỉ lo chơi bời bài bạc, ăn chơi hưởng lạc, còn nhân dân thì ‘sống chết mặc bay’.
III. KẾT BÀI
– Một lối viết ngắn, sắc sảo. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thế tương phản rất đặc sắc. Càu chuyện đầy kịch tính, thương tâm, giàu giá trị tố cáo hiện thực và tinh thần nhân đạo.
|
Instruct
I. OPEN LESSON
– Early national language prose had contributions from Pham Duy Ton. His short story 'Live and Die' is one of the outstanding achievements of early realistic literature. The author wrote this short story in July 1928, published in Nam Phong newspaper Không. 18, December 1918.
– The story tells the story of a 'mandarin's mother and father' who leisurely gambled in the scene of a dike failure, and the people of a large area were immersed in disaster. The author condemned the irresponsibility and inhumanity of mandarins in the semi-feudal colonial society.
- The name 'father and mother mandarin' is described with very realistic details that have a profound denunciation value.
II. BODY OF ARTICLE
– Live luxuriously and lavishly:
+ When you go to protect the dike, bring along a silver medicine tube, a gold watch, an ivory-handled knife, a carved lime tube... it looks interesting.
+ Eat delicious and strange things: steamed bird's nest with rock sugar.
– Living leisurely and regal:
+ While hundreds of people carry dirt, carry bamboo, make piles, piles, and crawl in the mud, in the wind and rain, gliding like mice, the mandarins' parents "sit majestically and proudly" in the lighted pavilion. choang.
+ The mandarins leaned on folding pillows, there were soldiers scratching their feet, there were soldiers fanning themselves, and there were soldiers waiting to serve a cigarette.
+ While hundreds of families are 'bathing in the wind and bathing in the rain, like a swarm of ants' on the dike, in the communal house, the mandarins sit on top, the monks sit below, - the guards are dignified, like gods and saints...
– Eating, playing and gambling, calmly and leisurely:
+ The dike is about to break! 'Wear! People, if not the people then no!'. Great officials eat and fight; servant, yes, yes!
+ The big mandarin buzzes, eats bird's nest, strokes his beard, shakes his thighs, his eyes are busy looking at the venom disc.
– Life and death are up to you
+ Some people quietly said: 'It's easy for the dike to break', the official said harshly: 'Let it go!'.
+There was a panicked countryman who ran into the pavilion to report 'the dike is broken!', 'the parents' shouted: 'The dike is broken, when I broke your neck, I imprisoned you!...'
+ The mandarin ordered the soldiers to chase the peasants out of the communal house, then calmly played cards.
+ The mandarin clapped his hands down and shouted loudly, spreading his cards and smiling: 'Ho! Thong tom chi chi boi!… Dieu, you!'.
- The mandarin happily played a big game of cards when the dike broke: The whole countryside was filled with water, swirling into deep abysses, houses were floating, rice was flooded: the living had no place to live, the dead had no place to bury... command the end of the water, the helpless shadow, the sad situation, how can you tell!
- The art of contrast has exposed and condemned the irresponsible, callous, and inhumane habits of mandarins, who disregard the lives and lives of the people. They only care about gambling and enjoying themselves. , and the people 'live and die'.
III. END
– A short, sharp writing style. The art of building characters in contrast is very unique. The story is dramatic, pitiful, rich in denunciation of reality and humanitarian spirit.
|
Hướng dẫn
Có biết bao đức tính phải học tập, rèn luyện? Không thể lơi là tự rèn luyện ba đức tính sau đây: Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.
Vậy thế nào là khiêm tốn, thật thà, dũng cảm? Tại sao, mỗi chúng ta phải học tập, rèn luyện, tu dưỡng các đức tính khiêm tốn, thật thà, dũng cảm?
1. Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự đề cao, không kiêu căng tự phụ. Khiêm tốn để học tập cái hay, cái tốt đẹp của mỗi người. Khiêm tốn vì luôn luôn cảm thấy bản thân mình chưa hoàn thiện, chưa tài giỏi, cần phải học tập mọi người để vươn lên. “Kẻ sĩ phải hiếu học và khiêm tốn” (Lê Quý Đôn). Khiêm tốn trong lời ăn, tiếng nói, trong sinh hoạt, nếp sống, trong cách cư xử hằng ngày. Có khiêm tốn mới được mọi người quý trọng. Nếu kiêu ngạo, khoe khoang là tự sát, bị mọi người xa lánh, coi khinh. Dù tài giỏi đến đâu cũng không nên kiêu căng mà phải khiêm tốn, bởi lẽ kiến thức của mỗi người chỉ là một giọt nước trên biển cả mênh mông, cổ nhân từng nhắc nhở: “Chớ khoe điều hay, chớ khoe công trạng”, bởi lẽ khoe là hay sẽ mất hay, khoe là tài, là giỏi sẽ mất giỏi. Vì thế, thời cắp sách, thời tuổi trẻ, chúng ta phải khiêm tốn học tập để sớm trở thành học sinh giỏi, sinh viên xuất sắc. Bước vào đời, ai cũng nên, cũng cần khiêm tốn để sống đẹp, sống có văn hóa. “Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng” là thiếu khiêm tốn, là kiêu căng, kiêu ngạo! “Khiêm tổn là cơ bân của mọi điều thiện. Kiêu ngạo là dứng đầu mọi điều ác” – chúng ta cần nhớ để làm người!
2. Thật thà là đức tính mà ai cũng cần phải tu dưỡng. Thật thà như không khí, nước, ánh sáng cho mỗi chúng ta. Sống đàng hoàng, không tham lam của người khác, không giả dối, không giả tạo là thật thà. Trái với thật thà là tham lam, gian tham, gian manh. Nhân dân ta thường nói: ‘Thật như đếm”, “Thật thà là cha mách qué”, “Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối”, v.v…
‘lam hồn có trong sáng mới sống thật thà. Người sống thật thà không bao giờ bịa chuvện nói xấu ai, không lừa dối ai để kiếm lợi. Học sinh nào quay cóp trong thi cử là lừa thầy dối bạn. Buôn bán dùng hàng giả để lừa bịp người tiêu dùng, để có “nhất bản vạn lãi” là đồ gian manh, bịp bợm. Bọn cán bộ biến chất hoặc chạy chức, chạy án, hoặc đục khoét của công để làm giàu là bọn gian manh, lưu manh rất đê tiện bỉ ổi, bị pháp luật trừng trị, bị nhân dân phỉ nhổ. Chúng ta phải trau dồi tính thật thà, sống trung thực để làm người có văn hóa, có đạo đức tốt. Ông bà cha mẹ, thầy cô giáo cần sống thật thà để nêu gương sáng cho con cháu, cho học sinh noi theo. Nhiều em bé, nhiều học sinh bắt được của rơi đã trả lại cho người mất của, được báo chí nêu gương, ngợi ca. Đó là hình ảnh người tốt, việc tốt, để lại tiếng thơm cho gia đình và nhà trường.
3. Đức tính thứ ba mà ta bàn tới là dũng cảm. Dũng câm là phẩm chất của ý chí. Dũng cảm là gan góc, gan dạ, có dũng khí dám đương đầu với khó khăn nguy hiểm để làm nên những việc nên làm! Lòng dũng cảm, tinh thần dũng cảm có nhiều biểu hiện. Chân thành nhận khuyết điểm, sai lầm, nghiêm túc nhận kỉ luật là dũng cảm. Dám nhìn thẳng vào sự thật đê’ tìm mọi cách sửa chữa,… là dũng cảm. Không né tránh, không lùi bước, dám cả gan đương đầu với mọi thách thức khó khăn, nguy hiểm là dũng cảm. Dám đương đầu với mọi kẻ tử thù, xông pha giữa rừng tên mũi giáo, giữa mưa bom bão đạn với tinh thần quyết chiến quyết thắng là dũng cảm, là quả cảm. Người dũng cảm không sợ khó, sợ khổ, sợ hi sinh, sẩn sàng xả thân vì đại nghĩa để cứu dân, cứu nước.
Có nhiều bài thơ, bài văn, câu thơ, câu văn thật hay, thật đẹp nói về tinh thần dũng cảm của quân và dân ta trong khói lửa chiến tranh chống quân xâm lược mà nhiều người vẫn truyền tụng.
“…Dầu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta vẫn vui lòng”.
(Hịch tướng sĩ- Trần Quốc Tuấn)
“Đem đợi nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay…”
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
“…56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn
Những dồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão…”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật hom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!…”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kinh – Phạm Tiến Duật)
v.v…
Qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần dũng cảm đã gắn kết với lòng yêu nước của nhân dân ta tạo nên sức mạnh Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng Việt Nam để chiến thắng thù trong giặc ngoài, xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam,
|
Instruct
There are so many virtues that must be learned and practiced? We cannot neglect to practice the following three virtues: Humility, honesty, and courage.
So what is humility, honesty, courage? Why must each of us study, practice, and cultivate the virtues of humility, honesty, and courage?
1. Humility is having the right awareness and attitude in evaluating yourself, not being self-promoting, not being arrogant or conceited. Be humble to learn the goodness and goodness of each person. Humble because I always feel like I am not perfect, not talented, and need to learn from others to improve. "A scholar must be studious and humble" (Le Quy Don). Be humble in what you eat, speak, in your activities, your lifestyle, and in your daily behavior. Only by being humble will people respect you. If you are arrogant or boastful, you will commit suicide and will be shunned and despised by everyone. No matter how talented you are, you should not be arrogant but be humble, because each person's knowledge is just a drop of water on the vast ocean, the ancients once reminded: "Don't brag about good things, don't brag about merits." , because boasting that you are good will lose your talent, boasting that you are talented or good will lose your talent. Therefore, when we are in school, when we are young, we must humbly study to soon become good students and excellent students. Entering life, everyone should and needs to be humble to live a beautiful and cultured life. "If you haven't passed the exam yet, Mr. Nghe threatens the general" is a lack of humility, arrogance, and arrogance! “Humility is the foundation of all good things. Pride is the head of all evil" - we need to remember to be human!
2. Honesty is a virtue that everyone needs to cultivate. Honest as air, water, light for each of us. To live properly, not to be greedy of others, not to lie, not to be fake is to be honest. The opposite of honesty is greed, greed, and deceit. Our people often say: 'It's true', 'If you're honest, your father tells you nothing', 'If you eat salty food, it's better to tell lies than if you're vegetarian', etc.
'When the blue soul is pure, it can live honestly. People who live honestly never make up stories to defame anyone, and do not deceive anyone to make a profit. Students who cheat in exams are cheating on their teachers. Trading using fake goods to deceive consumers, to get "a profit of ten thousand" is a scam and a scam. Degenerate officials who run for office, run sentences, or steal public funds to get rich are scoundrels and scoundrels who are very despicable and despicable, punished by the law, and spit on by the people. We must cultivate honesty and live honestly to become cultured and ethical people. Parents, grandparents, and teachers need to live honestly to set a good example for their children, grandchildren, and students to follow. Many children and many students caught lost property and returned it to the person who lost it, being set an example and praised by the press. That is the image of good people, good deeds, leaving a good reputation for the family and school.
3. The third virtue we discuss is courage. Dumb courage is a quality of will. Courage is being brave, daring, having the courage to dare to face difficulties and dangers to do what should be done! Courage and courageous spirit have many manifestations. Sincerely admitting shortcomings and mistakes, seriously accepting discipline is courage. Dare to look straight at the truth and find every way to fix it... is courage. Not avoiding, not backing down, daring to face all difficult and dangerous challenges is courage. Dare to confront all deadly enemies, charge forward amidst the forest of arrows and spears, amidst the rain of bombs and storms of bullets with the spirit of determination to win, that is courage and bravery. Brave people are not afraid of difficulties, suffering, or sacrifice, and are willing to sacrifice themselves for a great cause to save the people and the country.
There are many beautiful and beautiful poems, essays, verses, and sentences about the courageous spirit of our army and people in the fire of war against invaders that many people still recite.
“…Even if these hundred bodies are exposed to the grass, or these thousand bodies are wrapped in horse skin, I will still be satisfied.”
(Hich General and Soldier - Tran Quoc Tuan)
“Wait for righteousness to overcome cruelty,
Use kindness to replace violence.
The battle of Bo Dang thundered and lightning flashed,
Tra Lan region splits fly ash bamboo..."
(Binh Ngo great report – Nguyen Trai)
“…56 days and nights of digging into mountains, sleeping in underground tunnels, drenched in rain, and exhausted rice
Blood mixed with young mud
The liver does not falter, the will does not wear out
Close comrades were buried as gun racks
Head covered with pearl hole
Crossing the mountain of barbed wire, rushing through the storm..."
(Applaud soldiers of Dien Bien - To Huu)
Not having glasses doesn't mean the car doesn't have glasses
The bomb shook the glass and broke it
I sit leisurely in the cockpit
Looking at the ground, looking at the sky, look directly!…"
(Poem about the unlucky vehicle squad - Pham Tien Duat)
etc…
Through thousands of years of building and defending the country, the spirit of courage has combined with the patriotism of our people to create Vietnamese strength, Vietnamese heroism to defeat internal and external enemies, and build a national foundation. Vietnamese culture,
|
Hướng dẫn
Từ đằng xa, em đã thấy sừng sững cây dừa ở bờ ao. Thân dừa to bằng hai vòng tay em. Thân dừa khoác chiếc áo cứng sần sùi màu nâu đất. Rễ dừa thuộc loại rễ chùm, bám sâu vào lòng đất. Bởi thế thân dừa cao nhưng đứng vững vàng. Cây dừa có dáng nghiêng rất đẹp, vẻ đẹp của nó một phần nhờ vào lá. Lá tập trung ở phần ngọn, ngoại em gọi là tàu dừa. Lá dừa màu xanh đậm, gân và phiến lá song song, mọc đối xứng nhau như răng lược trên tàu dừa. Bởi thế nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết: Tàu dừa như chiếc lược chải vào mây xanh.
Tàu dừa bám chắc vào thân dừa trên ngọn. Khi lá già, tàu rụng đi để nhường chỗ cho lá non phát triển. Gặp làn gió thoảng qua, lá dừa xôn xao đung đưa thật duyên dáng.
Khi có gió mạnh, lá dừa xào xạc như tiếng gươm khua, trông dừa hiên ngang, cứng cáp dẻo dai. Vào mùa, dừa ra hoa. Từ nách của các tàu dừa, những bẹ non lộ ra. Hoa mọc thành chùm trên một cái cuống dài và có nhiều nhánh phụ. Hoa dừa màu vàng nhạt, hoa li ti rụng trắng cả góc vườn, hương thơm dịu nhẹ. Nhìn hoa rụng em thật sốt ruột bởi em đâu nghĩ đó là sự hi sinh cao cả. Hoa đang nhường chỗ cho quả non chào đời. Chùm quả như đàn lợn con bám chặt vào thân mẹ, rồi cứ thế chúng mỗi ngày một lớn. Quả non có màu xanh non của lá. Quả già, vỏ khô ráp lại, có màu nâu của thân. Nước dừa non uống thật ngon, thật mát lành. Nước dừa thức uống giải khát mà ai cũng thích.
|
Instruct
From afar, I saw the tall coconut tree at the edge of the pond. The coconut trunk is as big as two of my arms. The coconut body wears a rough, earthy brown coat. Coconut roots are cluster roots, sticking deep into the ground. Therefore, the coconut trunk is tall but stands firmly. The coconut tree has a very beautiful profile, its beauty partly thanks to its leaves. The leaves are concentrated at the top, my grandmother calls it coconut palm. Coconut leaves are dark green, veins and leaf blades are parallel, growing symmetrically like comb teeth on a coconut tree. That's why poet Tran Dang Khoa wrote: Coconut boats are like a comb combing the blue clouds.
The coconut ship clings firmly to the coconut trunk at the top. When the leaves get old, they fall off to make room for young leaves to grow. Facing the passing breeze, coconut leaves sway gracefully.
When there is a strong wind, the coconut leaves rustle like the sound of a sword, making the coconut look proud, strong and supple. During the season, coconut flowers bloom. From the armpits of coconut vessels, young sheaths are exposed. The flowers grow in clusters on a long stem and have many side branches. Coconut flowers are pale yellow, tiny white flowers fall all over the garden corner, and have a gentle fragrance. Seeing the flowers fall, I was so impatient because I didn't think it was a noble sacrifice. The flowers are giving way to the new fruit being born. The bunch of fruit is like a herd of piglets clinging tightly to the mother's body, and then they grow bigger every day. Young fruits have the green color of leaves. Old fruit has dry, rough skin and brown body color. Young coconut water is delicious and refreshing to drink. Coconut water is a refreshing drink that everyone likes.
|
Hướng dẫn
Sáng sớm, khi mặt trời chưa ló dạng, mặt biển như chìm trong một khối sương mù đặc quánh. Đâu đó vài chú chim hải âu chao liệng trên mặt biển để tìm mồi.
Dần dần mặt biển sáng hẳn lên, một vệt hổng rạng lên ở chân trời. Mặt biển lấp lánh như có những viên kim cương tỏa sáng. Rồi một khối tròn to và đỏ từ từ nhô dần lên khỏi mặt biển. Vạn vật như bừng tỉnh, mặt biển mỗi lúc một xanh hơn. Ngoài khơi những chiếc tàu đánh cá đang di động trên mặt biển mênh mông trông nó chỉ nhỏ như một thứ đổ chơi của trẻ em. Thỉnh thoảng những con sống bạc đầu cao chừng hai mét cuồn cuộn đẩy nước xô bờ tung bọt trắng xóa.
Bãi biển là một dải cát vàng chạy dài tít tắp. Vào các ngày thứ bảy, chủ nhật, khách ở thành phố đến tắm biển rất đông. Trên bãi cát phẳng lì, những chiếc dù xanh, đỏ được cắm la liệt, nhìn từ xa trông chúng giống như những chiếc nấm khổng lổ. Khách du lịch phất phơ áo vàng, xanh, đỏ như đàn bướm lượn, tiếng nói chuyện, tiếng reo hò cùng với tiếng sóng biển tạo cho không khí ở bãi biển nhộn nhịp và sống động hẳn lên.
|
Instruct
Early in the morning, when the sun had not yet risen, the sea surface seemed to be engulfed in a thick fog. Somewhere a few seagulls hovered above the sea looking for prey.
Gradually the sea surface brightened, a gap appeared on the horizon. The sea surface sparkles like shining diamonds. Then a large, red round mass slowly rose from the sea surface. Everything seemed to awaken, the sea surface became bluer and bluer. Offshore, fishing boats are moving on the vast ocean surface, looking as small as a child's toy. Occasionally, white-headed fish about two meters high roll and push the water against the shore, creating white foam.
The beach is a long stretch of golden sand. On Saturdays and Sundays, many tourists from the city come to swim at the beach. On the flat sandy beach, green and red umbrellas are placed everywhere. From a distance, they look like giant mushrooms. Tourists flutter their yellow, blue, and red shirts like a flock of butterflies. The sounds of talking, cheering along with the sound of ocean waves create a bustling and lively atmosphere at the beach.
|
Hướng dẫn
Phía trước sân nhà còn có cây mận trĩu quả, vài khóm chuối, mấy cây cam và hàng cau xanh non. Nhưng đẹp nhất, thân thương nhất với tôi vẫn là cây vối. Hồi tôi còn bé tí, ngoại vẫn thường bảo: “Cây vối này bằng tuổi mẹ cháu đấy! Mẹ cháu đã hơn 30 rồi”. Ngoại vẫn trầm ngâm, lặng lẽ. Những sợi tóc trắng nhẹ bay.
Ngày ấy, trước khi vào Nam, ông ngoại đã trồng cây vối này. Đó là kỉ vật cuối cùng ông để lại cho bà. ông đi mãi từ đó, bỏ bà, bỏ cả mẹ và cậu tôi. Ông ngoại ra đi lúc mẹ mới tròn hai tuổi, cái tuổi chưa nhìn rõ mặt con người, chưa biết nhớ tên và cảm nhận giọng nói. Mẹ mất tình cha từ đó, mẹ chẳng bao giờ được nhìn thấy, gương mặt thân yêu, giọng nói ấm áp của ông nữa. Còn bà cũng mất luôn mái ấm vợ chồng.
Ngoại một tay nuôi mẹ và cậu khôn lớn từng ngày. Lớn lên, cậu ở với ngoại, còn mẹ lấy chồng xa. Sống bên ngoại, còn lại cậu và cây vối.
Ngoại chăm sóc và yêu quý cây vối một cách đặc biệt. Không biết có phải do đó là vật kí thác thiêng liêng của ông ngoại, hay là một mảnh linh hồn của bà. Ngoại luôn tỉa cành và bón phân cho cây. Cây vối mỗi năm lại vươn cao, cành lá sum suê, che rợp một góc sân những ngày hè. Gốc cây to, vừa người ôm. Có bốn cành tỏa ra bốn phía.
Vào mùa hè, ngoại vẫn đem chiếc chõng tre đặt dưới gốc cây vối đế ngồi hóng mát và nghe chim hót. Tháng giêng hai, vối đơm nụ, trổ hoa. Nụ vối to bằng viên bi. Hoa vối nở xòe trắng, nhị hoa màu tím nhạt, các cánh hoa xếp chồng lên nhau như hoa chè. Mùa hoa nở, ong kéo đến bay vù vù suốt ngày. Nhiều nhất là ong bầu đen nhánh. Chúng bay rối rít, tranh giành nhau từng bông hoa một để hút mật hoa, nhụy hoa. Lá vối dày, to và dài, gần giống lá xoài, có nhiều gân to, mặt lá láng bóng. Nụ vối, quả vối, lá vối được ngoại hái xuống, đem ủ, sao tâm và phơi phóng rồi đem cất đế dành uống dần. Chè vối thơm đậm. Ngoại bảo nó là thứ nước uống dân dã, giải nhiệt, tiêu đờm và nhuận tràng. Chỉ ba thìa nụ vối là có thể pha được một bình tích ủ nóng, uống cả ngày. Mẹ thường bảo: “Nhờ cây vối mà nhà mình khỏi phải trồng chè”.
Ngày còn nhỏ, năm nào mẹ cũng đưa anh em tôi về thăm ngoại. Đó là những ngày vui nhất của ba anh em và của cả ngoại. Do cậu chưa lập gia đình nên ngoại chỉ có bọn tôi là cháu, thế nên ngoại càng yêu quý chúng tôi. Tôi sung sướng nhất là được mẹ sai ra vườn hái một nắm lá hương nhu, vài lá chanh đem về nấu lên làm nước gội đầu cho ngoại. Hạnh phúc hơn khi được nằm trên chiếc chõng tre kê dưới gốc vối, gối đầu vào lòng và nghe ngoại kể chuyện. Thế nhưng mỗi lần chúng tôi sắp về lại, ngoại buồn lắm, đôi mắt cứ xa xăm, buồn buồn nhìn về cây vối.
Thời gian trôi qua, tóc ngoại ngày càng thêm bạc. Thế nhưng ngoại vẫn thức khuya dậy sớm, luôn tay luôn chân chăm sóc vườn và cây vối. Bước sang tuổi sáu mươi, tóc ngoại bạc nhiều hơn. Đau ốm nhiều nhưng ngoại không bao giờ lên tiếng. Mỗi bữa ngoại chỉ ăn được lưng bát cơm nhỏ. Lúc vui, ngoại thường nhắc lại những kỉ niệm thời con gái. Ngoại kể chuyện vui, chuyện buồn, chuyện thời con gái, chuyện ông ngoại trồng cây vối… Mỗi lần như vậy, không hiểu sao bà lại ngước nhìn cây vối, có phải nơi đó in hình bóng ông ngoại? Ngày đó tôi cũng chẳng bao giờ cảm nhận hay để ý đến những cử chỉ nơi ánh mắt ngoại. Sau này lớn lên, khi ngoại không còn nữa, tôi mới hình dung được chút tâm trạng của ngoại.
Thế rồi căn bệnh quái ác đã không cho ngoại tiếp tục chăm sóc cây vối nữa, ngoại ra đi khi tuổi chưa tròn bảy chục và bọn tôi chưa tròn một giáp. Tuổi của chúng tôi chưa biết nhiều mất mát khi ngoại không còn nhưng tôi biết mẹ rất đau đớn. Đau đớn vì sớm thiếu tình cha, đau đớn vì cậu đi làm ăn xa hơn bảy năm chưa thấy về, đau đớn vì mất luôn mẹ.
|
Instruct
In front of the yard there are also plum trees laden with fruit, a few banana clusters, a few orange trees and rows of young green areca palms. But the most beautiful and dearest to me is still the galangal tree. When I was little, my grandmother often said: "This tree is the same age as your mother!" My mother is over 30 years old." Grandma was still pensive and quiet. The white hairs fluttered lightly.
That day, before going to the South, my grandfather planted this Robusta tree. That was the last souvenir he left her. He went away from there, leaving her, my mother and my uncle. My grandfather passed away when my mother was just two years old, an age when I could not see people's faces clearly, could not remember names or feel voices. Mom lost her father's love from then on, she never saw his beloved face, his warm voice again. And she also lost her marital home.
My grandmother single-handedly raised my mother and my son to grow every day. Growing up, he lived with his grandmother, and his mother got married far away. Living with his grandmother, only he and the bamboo tree are left.
Grandma takes special care and loves the bamboo tree. I don't know if it's a sacred deposit from my grandfather, or a piece of my grandmother's soul. Grandma always prunes branches and fertilizes the trees. Every year the bamboo tree grows tall, its branches and leaves are luxuriant, covering a corner of the yard on summer days. The tree stump is big enough for a person to hug. There are four branches spreading out in four directions.
In the summer, my grandmother still brought a bamboo mat and placed it under the guava tree to sit in the shade and listen to the birds sing. In January and February, Robusta buds and flowers bloom. Robusta buds are as big as marbles. The flowers bloom white, the stamens are light purple, and the petals are stacked on top of each other like tea flowers. When flowers bloom, bees flock to the area and fly around all day long. The most numerous are black hornets. They fly in confusion, fighting over each flower to suck nectar and pistil. Robusta leaves are thick, large and long, almost like mango leaves, with many large veins, and the leaf surface is smooth and shiny. Robusta buds, fruits, and leaves were picked by my grandmother, incubated, roasted, dried, and then stored for later drinking. Robusta tea is richly fragrant. Grandma said it was a popular drink, cooling, expectorant and laxative. Just three spoons of buds can make a hot brewed pot and drink all day long. My mother often said: "Thanks to the galangal tree, our family does not have to grow tea."
When I was a child, every year my mother took my brothers and I to visit our grandmother. Those were the happiest days for the three brothers and for their grandmother. Because you are not married yet, my grandmother only has us as her grandchildren, so she loves us even more. I was happiest when my mother sent me to the garden to pick a handful of basil leaves and a few lemon leaves to bring home and cook to make shampoo for my grandmother's hair. Happier when lying on a bamboo bed under a bamboo tree, resting my head on my lap and listening to my grandmother tell stories. But every time we were about to return, my grandmother was very sad, her eyes were always distant, sadly looking at the bamboo tree.
As time passed, my grandmother's hair became more and more gray. But my grandmother still stays up late and gets up early, always taking care of the garden and the plants. When I turned sixty, my grandmother's hair became more gray. I was sick a lot but my grandmother never spoke up. At each meal, my grandmother could only eat a small bowl of rice. When she's happy, she often recalls memories of her girlhood. Grandma told happy stories, sad stories, stories of her girlhood, stories of her grandfather planting a mangrove tree... Every time like that, she somehow looked up at the tree, was it the image of her grandfather there? That day, I never felt or paid attention to the gestures in my grandmother's eyes. Later when I grew up, when my grandmother was no longer there, I could only imagine a little of her mood.
Then a terrible illness prevented my grandmother from continuing to take care of the bamboo tree. She passed away when she was not yet seventy years old and we were not even a year old. At our age, we don't know much about the loss when my grandmother is gone, but I know my mother is in a lot of pain. Painful because he lacked his father's love at an early age, painful because he went to work far away for more than seven years and has not returned, painful because he lost his mother.
|
Hướng dẫn
Hôm nay, vừa làm xong bài toán khó, em ra ghế đá công viên ngồi chơi. Nhữùg làn gió mát dịu thoảng qua hôn lên má em, vuốt tóc em như một người mẹ hiền. Em thấy lòng mình thanh thản hơn. Bỗng em thấy đất dưới chân em như động đậy. Em nghe tiếng của đất muốn tâm tình với em thì phải. Em chăm chú lắng tai nghe.
Cô bé ạ! Bây giờ tôi đang buồn lắm: Tôi chảng còn biết tâm sự với ai ngoài cô cả. Tôi sợ mọi người không hiểu được lòng tôi. Cô bé ơi, nỗi buồn đó cứ dày xéo tâm hồn tôi như một hòn đá nặng khiến tôi day dứt mãi. Cô có nhìn thấy quả đồi lớn trước mặt không? Chắc cô cũng tưởng nó ở gần đây phải không? Không phải thế đâu! Nó ở cách xa hàng cây số cơ, người dân ở đó ăn mặc khác cô nhiều. Họ ưa mặc váy dài đến chân. Cả tiếng nói của họ nữa, cũng rất khác.
Cô lên đây có lẽ không hiểu họ nói gì đâu. Họ sống rất thanh bình. Hàng ngày, họ làm việc quần quật một nắng hai sương. Họ lên rẫy làm nương. Từ một quả đồi trọc, họ đã biến tôi thành những nương lúa tốt. Từ một vùng đất hoang sơ, họ đã biến tôi thành miền đất chứa đầy hạnh phúc. Chắc cô sẽ nghĩ rằng họ sẽ hạnh phúc từ đây.
Nhưng không, có một sự kiện khiến tôi day dứt mãi. Khi đó, nhà nước phát động trồng rừng “Pam”. Nhân dân ở đó cũng hồ hởi khi tham gia chương trình này, cả đến các em học sinh nữa. Họ chia nhau đi tìm cây về trồng. Tôi nhìn họ làm việc mà cũng thấy trong lòng vui biết nhường nào.
Chẳng mấy chốc, một nửa quả đồi đã đầy màu xanh. Màu xanh của những cây non, màu xanh của hòa bình tự do. Những người dân vừa làm vừa hát vui vẻ. Họ hát những bài hát về màu xanh, màu vàng. Tôi muốn cười thật to cho thỏa mãn nỗi lòng. Nhưng tôi sợ mọi người ngạc nhiên sẽ cản trở công việc, cho nên tôi chỉ cười một mình mà thôi. Cô biết lúc đó tôi vui như thế nào không? Chắc hẳn cô không thể nói ra đâu vì chính tôi, tôi cũng không biết sẽ nói như thế nào nữa, một niềm vui thật khó tả, chứ không như bây giờ đâu cô bé ạ! Hai năm sau, rừng cây đã tươi tốt. Ngày ngày, chim chóc ríu rít chơi với nhau trên cành cây, hót véo von nghe như một bản nhạc rừng vui tai. Bỗng từ phía đầu rừng, có một người đi đến, trên tay cầm một bao diêm và một lọ gì đó. Cô bé ơi, cô có biết không? Nỗi buồn day dứt của tôi cũng có lẽ bắt đầu từ đây. Nghĩ lại tôi càng thấy căm thù gã đó. Nhìn vẻ mặt của gã, tôi đã thấy một điều gì đó không lành rồi. Gã thu gom lá cây khô lại thành một đống to, rồi gã dùng cái lọ có đựng nước ban nãy dổ lên các cành cây, đổ xuống đống lá khô và đổ té tát xuống tôi. Thứ nước đó thấm vào lòng tôi. Trời ơi! Đắng quá. Đó không phải là thứ rượu vang trắng mà người dân lành cho tôi và những cây non mà nó là một thứ nước đáng sợ. Chúng tôi muốn gọi người đến cứu giúp. Nhưng mà, trời ơi! Người dân ở đây sao không đến? Có lẽ họ không hiểu được tiếng nói của chúng tôi đâu. Lúc đó, tôi cầu mong ông trời sẽ cho tôi tiếng nói của con người để tôi gọi người dân ở đây đến. Nhưng đã muộn rồi, một ngọn lửa hiện ra từ đống lá khô rồi bùng lẽn cao. Cả đám lá khô cháy rực lên. Lửa lan dần, lan dần và tỏa ra khắp khu rừng. Lưỡi lửa liếm dần từng gốc cây đến ngọn cây. Cả khu rừng kêu thất thanh. Tiếng kêu cứu lúc đầu còn to, càng về sau càng nhỏ dần, nhỏ dần. Chim chóc bay nháo nhác. Chỉ mấy phút sau, ngọn lửa giận dữ đã lan tỏa khắp khu rừng, cả khu rừng đã chìm trong biển lửa đỏ. Tôi đau đớn vô cùng. Hỡi ôi! Sao mà tàn nhẫn thế! Đất đây, cây đây, chúng tôi có tội tình gì mà con người nỡ hành hạ? Chẳng lẽ họ không hề biết rằng kết quả sẽ ra sao ư? Những trận mưa to sẽ đổ xuống, nước sẽ ào ào chảy, sẽ cuốn phăng những ngôi nhà của họ vì không có rừng cây bảo vệ. Đó, cô có nhìn thấy không, thân cây đang gục ngã đó. Còn đâu vùng đất xanh tươi đẹp giàu nữa! Tôi cầu xin cô hãy chặn bàn tay phá hoại cây rừng, đừng để chúng tôi phải đau khổ.
|
Instruct
Today, after finishing a difficult math problem, I went to the park bench to sit and play. The cool breeze blew by, kissing my cheeks and stroking my hair like a gentle mother. I feel more at peace. Suddenly I felt the ground beneath my feet move. I heard the voice of the earth wanting to confide in me. I listened attentively.
Baby girl! I'm so sad right now: I don't know how to confide in anyone but you. I'm afraid people won't understand my feelings. Little girl, that sadness keeps crushing my soul like a heavy stone, making me torment forever. Do you see the big hill ahead? You probably thought it was nearby, right? That is not where! It was miles away, and the people there dressed much differently than her. They like to wear foot-length skirts. Their voices, too, are very different.
If you come here, you probably won't understand what they're saying. They live very peacefully. Every day, they work tirelessly. They went to the fields to do farming. From a bare hill, they turned me into good rice fields. From a wild land, they turned me into a land filled with happiness. You would think that they would be happy from here.
But no, there was one event that tormented me forever. At that time, the state launched the planting of "Pam" forests. The people there were also excited to participate in this program, including the students. They split up to find trees to plant. I watched them work and felt how happy I was.
Soon, half of the hill was filled with green. The green of young trees, the green of peace and freedom. The people worked and sang happily. They sing songs about blue and yellow. I want to laugh out loud to satisfy my heart. But I was afraid that everyone's surprise would hinder my work, so I just laughed alone. Do you know how happy I was at that time? Surely you can't say it because of me, I don't know how to say it anymore, a joy that is indescribable, not like now, little girl! Two years later, the forest was lush. Every day, birds chirp and play together on tree branches, singing like a pleasant forest song. Suddenly, from the end of the forest, a person came, holding a box of matches and a bottle of something in his hand. Little girl, do you know? My tormenting sadness probably started from here. Thinking back, I hate that guy even more. Looking at his face, I saw something bad. He gathered the dry leaves into a big pile, then he used the bottle containing the water from earlier to pour it on the branches, poured it down into the pile of dry leaves and then slapped me. That water seeped into my heart. Oh my God! It's so bitter. It was not the white wine that the good people gave me and the young trees, but it was a terrifying drink. We want to call someone to help. But, oh my god! Why don't the people here come? Maybe they don't understand our language. At that time, I prayed that God would give me a human voice so I could call the people here. But it was too late, a fire appeared from a pile of dry leaves and flared high. All the dry leaves burned brightly. The fire gradually spread and spread throughout the forest. Tongues of fire gradually licked each tree root to the top of the tree. The whole forest screamed. The cry for help was loud at first, but then it got softer and quieter. Birds were flying around. Just a few minutes later, the angry fire spread throughout the forest, the whole forest was engulfed in a sea of red flames. I was in great pain. Oh my! How cruel! Here is the land, here are the trees, what crime have we committed that humans would torture us? Did they not know what the outcome would be? Heavy rains will fall, water will flow, and their houses will be swept away because there is no forest to protect them. There, do you see that tree trunk falling down? Where else is this rich, beautiful green land? I beg you to stop the hand that destroys the forest trees, don't let us suffer.
|
Hướng dẫn
Trong cuộc sống, con người phải biết chọn lựa lời nói sao cho đạt hiệu quả cao nhất trong giao tiếp và ứng xử. Chính vì vậy, mọi người thường khuyên bảo nhau:
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Lời nói là một công cụ dùng để giao tiếp và ứng xử trong mối quan hệ giữa con người với con người. Do đó, khi nói ta cần phải biết “lựa lời mà nói” sao cho hay, cho đẹp.
Trước hết, “lựa lời mà nói” có tác dụng lôi cuốn, cảm hóa được người nghe, làm cho người nghe biết rung động và kính nể người nói. Bác Hồ là người luôn đạt được những thành công lớn trong vấn đề này. Ngày 02-9-1945, lúc đang đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình, Bác có nói một câu thế hiện sự quan tâm sâu sắc: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” đã làm cho hàng triệu trái tim xúc động mãnh liệt. Rõ ràng tình cảm của Người trong lời nói ấy quá da diết; không gì có thể so sánh được. Còn khi nhắc đến miền Nam ruột thịt, Bác nói trong nỗi xúc động nghẹn ngào: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Những câu nói của người cho đến tận bây giờ, nhân dân Việt Nam không thể nào quên. Đối với thanh niên, học sinh, Bác nói nhiều câu như lời dạy của một nhà giáo dục yêu trẻ, yêu nghề:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bển.
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên.
hay: “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.”
Đối với giới tri thức nghiên cứu khoa học, nhiều người phải xa quê hương sinh sống và làm việc tại nước ngoài, bằng lời nói của mình, Bác đã cảm hóa được tâm hồn họ, khiến họ nghe theo Bác về quê hương Việt Nam thân yêu để phục vụ. Tiến sĩ Nông học Lương Định Của hay Giáo sư – Viện sĩ Trần Đại Nghĩa là những điển hình. Nói chung, dù ở bất kì thời điểm nào, lời nói của Bác Hồ cũng luôn làm “vừa lòng” người nghe.
Ngược lại, trong xã hội, có không ít con người không biết liệu lời mà nói dẫn đến nhiều tác hại cho bản thân và mọi người. Đó là những lời nói thô tục, thiếu văn hóa, thiếu thiện chí nhằm thỏa mãn ý thích cá nhân hoặc nói mà thiếu suy nghĩ.
Ngoài ra còn có những lời phát ngôn không phù hợp với đôi tượng tiếp nhận như: ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, trẻ em và những đối tượng khác. Chẳng hạn như đối với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, người nói cần phải tỏ thái độ kính trọng, nể nang, lễ phép, khiêm tốn.
Những lời nói không đẹp bao giờ cũng mang lại những hậu quả nặng nề. Chỉ vì một lời nói mà người đang giữ chức vụ quan trọng có thể cho bị thôi việc sớm. Chỉ vì một lời nói mà dẫn đến tan nhà, nát cửa, con xa cha, vợ xa chồng. Chỉ vì một lời nói mà người này trở thành kẻ thù của người kia.
|
Instruct
In life, people must know how to choose words to achieve the highest efficiency in communication and behavior. That's why people often advise each other:
Words don't cost money to buy
Choose your words carefully to please each other.
Speech is a tool used to communicate and behave in relationships between people. Therefore, when speaking we need to know how to "choose what we say" so that it is good and beautiful.
First of all, "choosing the words to say" has the effect of attracting and touching the listener, making the listener vibrate and respect the speaker. Uncle Ho is a person who always achieved great successes in this matter. On September 2, 1945, while reading the Declaration of Independence at Ba Dinh Square, Uncle Ho said a sentence that showed deep concern: "Can I hear you clearly, fellow countrymen?" has touched millions of hearts. Clearly, His feelings in those words were too deep; nothing can compare. When mentioning the South, Uncle Ho said with choking emotion: "The South is in my heart." His words, to this day, the Vietnamese people cannot forget. To young people and students, Uncle Ho said many sentences like the teachings of an educator who loves children and loves his profession:
Nothing is difficult
I'm just afraid my heart won't break.
Digging up mountains and filling in seas
Surely made a firm decision.
or: "Having talent without virtue is a useless person. Having virtue without talent makes it difficult to do anything."
For scientific research intellectuals, many people had to leave their homeland to live and work abroad. With his words, Uncle Ho touched their souls, making them follow him and return to his homeland, Vietnam. dear to serve. Doctor of Agronomy Luong Dinh Cua or Professor - Academician Tran Dai Nghia are typical examples. In general, at any given time, Uncle Ho's words always "satisfy" the listener.
On the contrary, in society, there are many people who do not know what to say, leading to many harms for themselves and others. These are vulgar, uncultured, and unkind words aimed at satisfying personal preferences or spoken without thinking.
There are also statements that are not appropriate for the receiving audience such as grandparents, parents, teachers, children and other subjects. For example, towards grandparents, parents, teachers, the speaker needs to show respect, deference, politeness, and humility.
Unkind words always bring severe consequences. Just because of one word, a person holding an important position can be dismissed early. Just because of one word can lead to a broken home, a broken door, a child separated from his father, a wife separated from her husband. Just because of a word, one person becomes another's enemy.
|
Hướng dẫn
a) Mở bài – Đặt vấn đề:
– Niềm tự hào của quân và dân ta trong trận chiến Đại Việt vào xuân – hè năm Ất Dậu 1285 được danh tướng kiệt xuất Trần Quang Khải thu nhỏ trong bài thơ “Phò giá về kinh”
– Bài thơ nêu lên tinh thần quả cảm chống giặc của dân tộc ta với những chiến thắng lẫy lừng vang khắp một bể trời
– Đó là chiến thắng của sức mạnh đoàn kết toàn dân, là sự mưu lược đầy sáng suốt của các vị tướng
b) Thân bài – Triển khai:
– Hai câu mở đầu nóng bỏng hơi thở chiến trận và đậm chất anh hùng ca:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
+ Nhắc đến những chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử là nhắc đến sự vẻ vang, niềm tự hào khi chúng ta đã quét sạch tụi cướp nước trong hai trận chiến đó
+ Chiến thắng đó là niềm tin son sắt vào sức mạnh của dân tộc Đại Việt, sức mạnh đó được kết nối với từng con dân Việt để tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng với kẻ địch mạnh và hung bạo
+ Tác giả không tả lại cảnh khói lửa binh đao, cũng không tả lại cảnh quyết chiến của quân ta, mà chỉ kể lại theo cách liệt kê sự kiện, nhưng vẫn làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng bởi tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí, và cả tiếng thét tiến công vang dội. Sức gợi cảm của cách nói giản dị mà cương quyết, rắn rỏi là ở đó.
+ Hai cụm từ: Đoạt sáo (cướp giáo) và cầm Hồ (bắt giặc) được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như những nốt nhấn trong khúc ca đại thắng. Giọng thơ sảng khoái, hào hùng, phản ánh khí thế bừng bừng của dân tộc ta thời ấy. Từ vua quan, tướng sĩ đến dân chúng ai cũng hả hê, sung sướng, tự hào.
+ Trần Quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã đưa địa danh sông núi Đại Việt thân yêu vào thơ ca. Cái tên Chương Dương và Hàm Tử đã in đậm vào lịch sử chống ngoại xâm, vào lịch sử văn chương như một dấu son chói lọi. Phải là người trong cuộc, tha thiết yêu non sông gấm vóc của đất nước mình, Trần Quang Khải mới viết được những câu thơ hào hùng đến thế!
– Nên như mạch cảm xúc của hai câu đầu hướng về chiến trận, về hào quang chiến thắng, thì ở hai câu sau, mạch cảm xúc lại mở ra một hướng khác:
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu
+ Chúng ta sống trong không khí chiến thắng đầy hào sảng những vẫn không quên nhiệm vụ trước mắt là phải gìn giữ, bảo vệ dân tộc trong từng giây từng phút
+ Lấy lại sự bình yên của một giang sơn trước lũ giặc không phải tự dưng mà có được mà phải nhờ sự nổ lực, hi sinh của dân và quân ta. Vì thế sau chiến thắng ấy chúng ta không thể không cảnh giác trước những thế lực còn lăm le đe dọa đến sự an nhiên Tổ quốc ta
+Niềm mong mỏi của nhà thơ chính là khát vọng của cả một dân tộc, của muôn triệu trái tim Đại Việt xưa và nay
+ Vì thế hai câu kết với cảm hứng hoà bình đậm chất nhân văn đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp mới, lấp lánh đến muôn đời.
c) Kết bài – Đánh giá:
– “Phò giá về kinh” thể hiện lòng yêu nước theo kiểu mộc mạc, tự nhiên nhưng mạnh mẽ, hào hùng
– Bài thơ phản ánh bản lĩnh vững vàng, khí phách hiên ngang của dân tộc ta
|
Instruct
a) Introduction – Ask the problem:
– The pride of our army and people in the Dai Viet battle in the spring and summer of At Dau year 1285 was epitomized by the outstanding general Tran Quang Khai in the poem "Praying back to the capital"
– The poem highlights the brave spirit of our nation to fight against the enemy with glorious victories resounding throughout the sky.
– That was the victory of the united strength of the entire people, the wise strategy of the generals
b) Body – Implementation:
– The two opening sentences are hot with the breath of battle and full of epic character:
Chuong Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
+ Mentioning the victories of Chuong Duong and Ham Tu means mentioning the glory and pride when we wiped out the bandits in those two battles.
+ That victory is the steadfast belief in the strength of the Dai Viet people, that strength is connected to each Vietnamese person to create great strength to win against strong and violent enemies.
+ The author does not describe the scene of fire and smoke, nor does he describe the decisive battle of our troops, but only recounts it in a way that lists events, but still revives a heroic battle atmosphere with the sound of swords. clattering, neighing horses, the sound of weapons, and even resounding screams of attack. The seductive power of the simple but resolute, solid way of speaking is there.
+ Two phrases: Take the flute (steal the spear) and hold Ho (capture the enemy) are placed at the beginning of each verse like the accent notes in the song of great victory. The poetic voice is refreshing and heroic, reflecting the fiery spirit of our nation at that time. From kings, officers, generals to the people, everyone was gloating, happy and proud.
+ Tran Quang Khai was the first poet to put the beloved Dai Viet river and mountain place into poetry. The names Chuong Duong and Ham Tu have been deeply imprinted in the history of fighting foreign invaders and in the history of literature like a brilliant mark. Only an insider who passionately loves his country's mountains and rivers can Tran Quang Khai write such heroic poems!
– So just as the emotional flow of the first two sentences is directed towards the battle, about the aura of victory, in the following two sentences, the emotional thread opens in another direction:
Peace should strive,
That country is thousands of years old
+ We live in a proud atmosphere of victory but still do not forget the immediate task of preserving and protecting the nation in every moment.
+ Regaining the peace of a country before the enemy does not happen by accident, but thanks to the efforts and sacrifices of our people and soldiers. Therefore, after that victory, we cannot help but be wary of the forces that still threaten the peace of our Fatherland.
+The poet's desire is the desire of an entire nation, of millions of hearts in Dai Viet past and present
+ Therefore, the two concluding sentences with the humanistic inspiration of peace have given the poem a new, sparkling beauty that will last forever.
c) Conclusion – Evaluation:
– “Praying back to the capital” shows patriotism in a simple, natural but strong and heroic way
– The poem reflects the steadfast bravery and courageous spirit of our nation
|
Hướng dẫn
– Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, nhà quân sự thiên tài, nhà ngoại giao xuất chúng, nhà văn hóa, nhà thơ lỗi lạc. Ông đã để lại cho các thế hệ sau được chiêm ngưỡng những vần thơ kiệt xuất lúc bấy giờ trong đó không thể không nhắc đến bài thơ “Côn Sơn Ca”.
– Côn sơn ca vừa là bài ca thiên nhiên vừa là bài ca tâm trạng. hai ý hòa quyện thống nhất trong cảm xúc của thi nhân. Đoạn trích miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên nhưng vẫn thấm nhuần ý vị trữ tình của tâm trạng
– Đoạn mở đầu bài Côn Sơn ca đem đến cho người đọc bao cảm nhận mới mẻ về tâm hồn thi sĩ của Ức Trai. Trong cảm xúc của ông, cảnh trí Côn Sơn hiện ra thật thơ mộng và lãng mạn: có tiếng suối chảy rì rầm, có đá rêu phơi êm ái, có rừng thông mọc rậm, dày, có rừng trúc xanh mát…, vừa có cái hoang dã của thiên nhiên, vừa có hơi ấm của cuộc sống đầy ắp tình người.
“Côn Sơn hữu tuyền,..
..Ngô dĩ vi đạm tịch”
+ Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:
“Trong ghềnh thông mọc như nêm,…
…Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”.
+ Việc miêu tả rõ nét thiên nhiên côn sơn cho ta thấy được một tấm lòng hiểu và yêu thiên nhiên quê hương biết nhường nào
+ Mấy chục năm trời loạn lạc, li hương, không đêm nào Ông không nằm mộng nhớ quê, nhớ luống cúc vườn cũ:
“Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao”.
+ Tình yêu thiên nhiên sâu nặng đến mức thi nhân sợ bóng hoa tan mà không dám quét nhà:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên, ngày đợi bóng hoa tan
+ Bức tranh Côn Sơn không chỉ được Nguyễn Trãi cảm nhận qua thị giác, thính giác mà còn cả bằng trái tim thiện nguyện. người đọc cảm nhận cái ‘tâm’ trong sáng và cái tài độc đáo của thi nhân qua bài thơ này
– Côn Sơn cacòn hàm chứa triết lí về cuộc đời của ức Trai. Trước hết Ông nói về giàu sang phú quí, bần tiện, vinh và nhục ở đời
Muôn chung chín vạc làm gì,..
..Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan”.
+ Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, chỉ còn biết làm bạn với mây núi, tráng ngàn
+ Gần trọn cuộc đời lo cho dân, cho nước nhưng những năm cuối đời ông phải sống trong cái cảnh ghen ghét, đố kị của đám nịn thần. Vì thế ông trở về với Côn Sơn như con chim sổ lòng trở về với quê mẹ thân thương
+ Bên trong tâm hồn Nguyễn Trãi lúc nào cũng “đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông” lo dân thương nước
|
Instruct
– Nguyen Trai is a thinker, a military genius, an outstanding diplomat, a cultural writer, and a brilliant poet. He left behind for future generations to admire the outstanding poems at that time, including the poem "Con Son Ca".
– Con Son Ca is both a nature song and a mood song. The two ideas blend together and unite in the poet's emotions. The excerpt describes natural beauty but is still imbued with the lyrical meaning of the mood
– The opening paragraph of Con Son Ca gives readers many new feelings about Uc Trai's poet's soul. In his feelings, the landscape of Con Son appeared poetic and romantic: there was the sound of a murmuring stream, there were rocks with soft moss drying, there was a thick, dense pine forest, there was a cool green bamboo forest..., and there was The wildness of nature, but also the warmth of life full of human love.
“Con Son Huu Tuyen,..
..It's so simple."
+ Poetic images are sounds and colors associated with feelings and the poet's soul with extremely passionate and loving associations:
“In the rapids, pine trees grow like wedges,…
...Under the cool green I recite leisurely poetry."
+ The clear description of Con Son's nature shows us how much a heart understands and loves the nature of the homeland
+ For decades of chaos and separation, there was not a night that he did not dream of his hometown, of his old chrysanthemum garden:
“Remembering the garden of three rows of chrysanthemums,
The soul at night still sends dreams."
+ The love for nature is so deep that the poet is afraid of the shadows of the flowers disappearing and does not dare to sweep the house:
Open the door, wait for the scent of cinnamon to enter at night,
Sweeping the porch, waiting for the flowers to fade all day
+ The Con Son painting was not only felt by Nguyen Trai through sight and hearing but also with a volunteer heart. Readers feel the poet's pure 'mind' and unique talent through this poem
– Con Son Ca also contains the philosophy of Trai's life. First of all, he talked about wealth, poverty, honor and humiliation in life
What is the use of nine cauldrons?...
..A lot of pepper, a lot of gold."
+ The poet's contemplation is imbued with immense sadness, when his hair turns gray and he can only be friends with the mountains and clouds.
+ Most of his life he cared for the people and the country, but in the last years of his life he had to live in a situation of jealousy and envy from his courtiers. So he returned to Con Son like a lost bird returning to his beloved motherland
+ Inside Nguyen Trai's soul, "night and day the East tide is rolling" he worries about the people and the country.
|
Hướng dẫn
– Lúc còn nhỏ tôi mơ ước trưởng thành thật nhanh để đủ khả năng bước ra khám phá thế giới ngoài kia. Nhưng khi trưởng thành rồi tôi lại mong mình bé lại, chỉ muốn là trẻ thơ bên gia đình nhỏ của mình
– Có những ước mong đó là vì ngoài thế giới kia không một ai yêu quý mình bằng những người thân trong gia đình. Những người thân đó cho chúng ta tất cả. Họ là điều tuyệt vời nhất mà tôi từng có.
– Gia đình là nơi có ba, mẹ. Họ là đấng sinh thành, nuôi dưỡng, dạy cho chúng ta những điều hay lẽ phải về cuộc sống. Ba tôi là một công nhân, ông là người sống rất tình cảm.Còn mẹ tôi bà có gương mặt phúc hậu, mẹ đảm đang trong mọi công việc. Ba cho ta bờ vai vững chắc, mẹ cho ta một trái tim nhân hậu.
Ba mẹ cho ta một tổ ấm gia đình đầy ắp tình thương, cho ta được sống trong một gia đình trọn vẹn. “ Người ta có thể mua tất cả, trừ cha và mẹ ”– Danh ngôn Anh. Trái tim họ luôn nghĩ đến chúng ta đầu tiên trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
– Tình thân đó còn được thể hiện qua mối quan hệ tình anh em, chị em ruột thịt. Là sự che chở của người chị dành cho đứa em nhỏ của mình hay là sự thứ tha của người anh trai cho những sai lầm nhỏ nhoi của một đứa em thơ. Mối quan hệ đó dạy chúng ta cách bảo ban nhau, thương yêu lẫn nhau.
– Đó là gia đình nhỏ, còn những người thân trong đại gia đình chúng ta ( ông, bà, dì, cậu,..) cho ta hiểu được tình máu mủ có ý nghĩa lớn lao như thế nào. Dạy chúng ta cách trân trọng các mối quan hệ đó. Họ luôn nghĩ đến nhau, vui thì cùng vui, buồn thì cùng buồn.
|
Instruct
– When I was young, I dreamed of growing up quickly so I could go out and explore the world out there. But when I grow up, I wish I was a child again, I just want to be a child with my small family
– Having those wishes is because in the world there is no one who loves you as much as your family members. Those relatives give us everything. They are the best thing I've ever had.
– Family is where there are father and mother. They are the ones who give birth, nurture, and teach us good things about life. My father is a worker, he is a very emotional person. As for my mother, she has a kind face and is diligent in all her work. Dad gives me a strong shoulder, mother gives me a kind heart.
Our parents give us a warm home full of love, allowing us to live in a complete family. “One can buy everything except father and mother” – British quote. Their hearts always think of us first in every life situation.
– That love is also expressed through the relationship between brothers and sisters. Is it the protection of a sister for her little brother or the forgiveness of a brother for the small mistakes of a young brother. That relationship teaches us how to protect each other and love each other.
– That is a small family, and the relatives in our extended family (grandfathers, grandmothers, aunts, uncles, etc.) help us understand how meaningful blood love is. Teach us how to cherish those relationships. They always think of each other, when they're happy they're happy together, when they're sad they're sad together.
|
Hướng dẫn
Tôi thường có suy nghĩ rằng nếu cô giáo chủ nhiệm thì sẽ quan tâm, lo lắng cho kết quả học tập của các học sinh trong lớp nhiều hơn là một người thầy. Nhưng suy nghĩ đó của tôi đã thay đổi khi tôi lên lớp tám. Người chủ nhiệm lớp tôi lúc đó không ai khác là thầy Trung.
Khi chúng tôi biết sẽ được thầy giáo chủ nhiệm thì toàn bộ học sinh trong lớp đều nghĩ thầy dạy toán hoặc hóa gì đó. Có những suy nghĩ đó là vì nhìn bề ngoài chúng tôi thấy thầy là một người lặng lẽ, với nét mặt lúc nào cũng ‘ nghiêm trọng vấn đề’.
Với chiếc áo sơ mi cùng quần tây và đôi giày trông ra vẻ của một người chuyên dạy những con số. Nhưng không, chúng tôi đều bất ngờ khi thầy giới thiệu thầy là thầy giáo dạy văn. Đó là ấn tượng sâu nhất của chúng tôi ngay thời điểm đó.
Là giáo viên chủ nhiệm, thầy quan tâm chúng tôi rất mực, khác với vẻ ngoài lạnh lùng thường có của thầy. Thầy đã cho tôi và cả lớp một “dấu ấn” của tiết học đầu tiên với thầy. Lời giảng của thầy dường như chứa đựng cả một kho kiến thức, truyền tải chầm chậm vào đầu tôi từ lúc nào.
Sau những giờ dạy là lời hỏi han về lớp, về trò của mình. Từ việc cá nhân đến việc gia đình. Từ việc học cho đến những tiết sinh hoạt, với những bài thuyết trình mà chủ đề thầy đưa ra gần gũi với thực tế cuộc sống của tuổi me xanh, hồn nhiên mơ mộng của chúng tôi.
Những tiết học đầy căng thẳng, mệt mỏi dường như không còn khi đến tiết thầy dạy. Cả lớp tôi từ khi thầy bước vào lớp và khi kết thúc bài học vẫn là một tâm trạng hứng khởi với những gì thầy truyền dạy.
Không chỉ làm tốt ở vai trò dạy, trách nhiệm của người thầy chủ nhiệm mà ở thầy còn có một trái tim tràn đầy yêu thương. Thầy thương sự thiếu thốn của học trò mình, thương cả lớp bị cảm bởi những tiết học nắng mưa thất thường.
|
Instruct
I often think that a homeroom teacher will care and worry about the learning outcomes of the students in the class more than a teacher. But my thinking changed when I reached eighth grade. The homeroom teacher of my class at that time was none other than Mr. Trung.
When we knew we would be homeroom teacher, all the students in the class thought he taught math or chemistry or something. We have these thoughts because on the outside we see him as a quiet person, with a 'serious' expression on his face.
With a shirt, pants and shoes, he looks like someone who specializes in teaching numbers. But no, we were all surprised when he introduced himself as a literature teacher. That was our deepest impression at that moment.
As the homeroom teacher, he cares for us very much, unlike his usual cold appearance. He gave me and the whole class a "mark" of the first class with him. The teacher's words seemed to contain a treasure trove of knowledge, slowly conveying into my head from time to time.
After the teaching hours, there are questions about the class and my students. From personal matters to family matters. From studying to activities, the topics the teacher gives are close to the real life of our innocent, dreamy age.
The stressful and tiring classes seem to disappear when the teacher teaches. My whole class, from the moment he entered the classroom and at the end of the lesson, was still in a mood of excitement with what he taught.
Not only does he do well in his teaching role and responsibilities as a homeroom teacher, but he also has a heart full of love. The teacher felt sorry for his students' neediness, and felt sorry for the whole class who was suffering from colds due to the erratic weather and sunny classes.
|
Hướng dẫn
Tôi còn nhớ như in cái ngày ấy, ngày tôi theo nội về quê. Phong cảnh miền quê thật là dễ chịu. Từng lối đi, từng bụi chuối, từng gốc tre… tất cả đều chứa chất bao kỉ niệm của tôi và Ái Liên.
Đó là một đứa trẻ miền đồng quê, rất đen, tóc vàng hoe và bù xù, vì vậy người ta vẫn quen gọi nó là Mèo Mun.
Nhà nó cạnh nhà nội tôi, thường thì những đứa trẻ thân nhau qua những trò chơi trẻ nít nên tôi và nó quen thân rất mau. Chỉ có một ngày, cây bưởi hiên nhà là thứ trung tâm của mọi thứ để tôi và nó bày ra các trò chơi: bán tiệm, ru em, đi học… Nhà của Mèo Mun nghèo lắm, lại rất đông người, mẹ ba nó phải làm lụng suốt ngày nên không có thì giờ chăm sóc nó, chính vì vậy mà nó hầu như ở suốt nhà nội tôi, có lúc nội tắm rửa và cho nó ăn cơm. Tôi bằng tuổi với nó nhưng trội hơn nó từ suy nghĩ đến hành động, nhiều lúc có vẻ giống người lớn. Có lần nó bày cho tôi chơi trò kéo xe, tôi vốn có rất nhiều đồ chơi, trong số đó có một chiếc xe ô tô bằng nhựa, còn nó thì không có dẫu một con búp bê. Tôi bảo nó lấy hoa rụng để lên xe rồi kéo. Tôi lấy làm thích trò này, mãi loay hoay kéo qua kéo lại, vô tình quên bẵng con Mèo. Một lúc sau tôi đưa mắt tìm nó. Ô! Nó đâu? Tôi hốt hoảng gọi to: “Mèo… ơi!” Không gian vắng lặng, tôi chạy quanh tìm nó. Thì ra nó ở đây, dưới bụi chuối nhưng sao nó khóc? Tay nó cầm mo cau và dùng sợi dây cô’ “xỏ” vào mo cau, nước mắt lưng tròng. Giờ đây nghĩ lại tôi cảm thấy mình vô tâm đến đáng ghét. Thì ra… thì ra… tôi chợt hiểu:
“Bạn lấy xe của mình mà dùng”. Nó ngước mắt nhìn tôi, đôi mắt đen huyền nháy nháy: “Không, tôi không lấy của bạn đâu, tôi tự làm lấy! Tôi có xe bằng quạt mo nè!”. Tôi quen sung sướng, lại không hiểu nó nhiều, nó nói sao tôi tin vậy, tôi có biết đâu nó đang tủi thân phận vì nghèo, vì không bằng tôi.
Tính nó hay nhường nhịn và vị tha, lúc nào tôi giành chơi thì nó bỏ xuống nhìn tôi mà buồn buồn, những lúc ấy tôi lấy làm sung sướng và tự mãn lắm. Thời gian thấm thoát trôi đi, tôi và nó thân thiết với nhau hơn, nhưng có lẽ nó không còn ở mãi trong tâm trí tôi nếu không có chuyện này… Thời gian thăm nội sắp hết, tôi phải về nhà để chuẩn bị đi học và tôi đã lên lớp năm. Mới sáng sớm, tôi vừa thức giấc đã nghe tiếng con Mèo vang vang: “Diễm ơi, qua đây có chuyện vui mình bày cho chơi nè!”. Vừa ngủ dậy, tôi vội lên tiếng, giọng nhừa nhựa: “ừ, bạn đợi mình chút xíu”. Năm phút sau, tôi đã ra đến đầu cầu sang nhà nó, cây cầu là thân một cây mù u cong queo bắc ngang, đôi với người lớn thì chỉ cần năm sáu bước đã qua bờ bên kia, còn đối với tôi, một con bé mười tuổi, lại không quen đi những nơi cầu lắt lẻo như thê’ này, nên cứ lẫm chẫm từng bước. Con Mèo đang mải mê bên kia cầu với một đống đất sét, nó đâu thấy tôi: “Bạn liệng cây nứa cho mình nắm, mình qua bển với”. Tôi gọi nó. Nó chỉ chỉ vào cục đất. “Thôi Diễm sang đi, mình mắc làm cái này nè”. Đang háo hức với trò chơi mới, tôi đành liều qua cầu. Một bước… hai bước… ba bước… ùm!
Tôi té! Tất cả không gian quay cuồng, xung quanh tôi chỉ còn màu trắng toát của nước. Trước khi tôi nghe văng vẳng giọng của con Mèo: “Diễm ơi! Trời ơi Diễm…!”. Dường như quá run sợ, tôi không còn nghe thấy gì nữa…
“Diễm tỉnh lại đi con!”
Tôi mở mắt lừ đừ nhìn xung quanh. Mái nhà, cái tủ, ai nằm đây? Trời ơi con Mèo nằm bất động với vẻ mặt xanh xao, mắt nhắm bặt. Tôi hiểu ra rồi, khi tôi té, con Mèo nhảy theo… Tôi chực ngồi dậy nhưng nội không cho, “Con Mèo nhảy theo con nhưng không lội được, hai đứa ngập thở rồi chìm”. Tôi nghe như tim mình đau nhói, tôi khẽ nắm lấy tay con Mèo, bàn tay lạnh ngắt, bất chợt nó cựa quậy và thét lên: “Diễm ơi đừng bỏ mình, tại mình không đưa cây… nên Diễm té… Diễm ơi! Chờ mình với Diễm…”.
Tôi nhắm mắt lại, giọt nước mắt nóng hổi rơi trên gò má, lã chã, tôi siết tay nó, mím chặt môi. Trước mắt tôi hình dung ra cảnh con Mèo lao xuống nước cố gắng kéo tôi. Nước sâu, nó yếu dần… yếu dần… chìm hẳn…
|
Instruct
I still remember that day vividly, the day I followed my grandmother back to my hometown. The countryside scenery is very pleasant. Each path, each banana bush, each bamboo tree... all contain many memories of me and Ai Lien.
He was a country child, very dark, with blond hair and unkempt, so people used to call him Ebony Cat.
His house is next to my grandfather's house, usually the children get along through children's games so he and I got to know each other very quickly. Only one day, the grapefruit tree on the porch is the center of everything for me and him to play games: selling shops, lulling babies, going to school... Meo Mun's house is very poor, and there are many people, his mother and father. I have to work all day so I don't have time to take care of it, that's why it stays at my grandmother's house most of the time, sometimes my grandmother bathes it and feeds it. I am the same age as him but superior to him in thinking and acting, sometimes seeming like an adult. One time he showed me a game of pulling a cart. I had many toys, among them a plastic car, but he didn't have even a doll. I told him to take fallen flowers to put on the cart and pull them. I enjoyed this game, kept pulling it back and forth, accidentally forgetting about the Cat. After a while I looked for it. UMBRELLA! Where is it? I called out in panic: "Cat... oh!" The space was quiet, I ran around looking for it. So it's here, under the banana bush, but why is it crying? In his hand he held the areca tree and used a string to "pierce" the areca tree, tears welling up in his eyes. Now that I think back, I feel like I was so heartless and obnoxious. It turns out... it turns out... I suddenly understand:
“You take your car and use it.” It looked up at me, its dark eyes blinking: "No, I won't take it from you, I'll do it myself!" I have a car with a motor fan!”. I'm used to being happy, but I don't understand him much. Why do I believe what he says? Little do I know he's feeling sorry for himself because he's poor, because he's not as good as me.
His personality is often tolerant and altruistic. Whenever I try to play, he looks down at me and looks sad. At those times, I feel very happy and complacent. Time passed, he and I became closer, but maybe he wouldn't have stayed in my mind forever if it weren't for this... The time to visit my grandmother was almost over, I had to go home to prepare for school. and I was in fifth grade. Just early in the morning, I just woke up and heard the Cat's voice: "Diem, come here, I have a fun story to show you!". As soon as I woke up, I quickly spoke up, my voice slurred: "Yeah, wait a minute." Five minutes later, I reached the end of the bridge to his house. The bridge was a crooked trunk of a tamanu tree spanning across it. For adults, it only took five or six steps to cross to the other side, but for me, a child A ten year old boy, he was not used to walking on loose bridges like this, so he just walked slowly step by step. The Cat was engrossed on the other side of the bridge with a pile of clay, he didn't see me: "You throw the bamboo for me to hold, I'll go over to the water with it." I call it. It just pointed at the dirt. "Come on, Diem, I'm stuck doing this." Being excited about the new game, I had to risk crossing the bridge. One step… two steps… three steps… boom!
I fell! All space was spinning, all around me was the pure white color of water. Before I heard the Cat's voice: "Diem! Oh my god Diem…!”. It seemed I was so scared, I couldn't hear anything anymore...
“Diem, wake up!”
I opened my eyes lazily and looked around. The roof, the cupboard, who lies here? Oh my God, the Cat lay motionless with a pale face and closed eyes. I understand now, when I fell, the Cat jumped after me... I tried to sit up but my grandmother wouldn't let me, "The Cat jumped after me but couldn't swim, so we were breathless and sank." I felt like my heart was aching, I gently held the Cat's hand, my hand was cold, suddenly it moved and screamed: "Diem, don't leave me, it's because I didn't give the tree... that's why Diem fell... Diem! Wait for me and Diem...".
I closed my eyes, hot tears fell down my cheeks, I squeezed his hand, pressed my lips tightly. Before my eyes I pictured the Cat rushing into the water trying to pull me. The water is deep, it gets weaker... weaker... sinks completely...
|
Hướng dẫn
Năm đầu tiên đó là lớp sáu chúng tôi được học trong một ngôi trường mới với những cái hay, cái đẹp.
Đó là một ngôi trường mang tên vùng đất của quê hương tôi. Ban đầu khi từ lớp năm lên lớp sáu, một sự thay đổi về môi trường học khiến mỗi người trong chúng tôi có sự ngỡ ngàng nhất định. Ngỡ ngàng hơn nữa vì đây là một ngôi trường tuyệt đẹp với nền vàng trên các dãy nhà là chủ yếu, cộng hưởng vào đó là ngôi trường này với rất nhiều cây xanh rợp bóng mát.
Giờ ra chơi nhìn sân trường thấy các bạn đùa vui rất đỗi hồn nhiên và sáng trong như màu áo trắng.
Bước vào lớp học là một sự khang trang:ở đây có đầy đủ các đồ dùng giúp cho việc học của chúng tôi tốt hơn. Cô thầy ở đây rất thân thiện, quan tâm tỉ mỉ đến việc học, việc hành của các em học sinh. Thầy cô đã không phânbiệt học sinh giỏi và học sinh yếu, thầy cô đãgiúp đỡ rấtnhiều về vật chất lẫn tinh thần.
Trường tôi các cô, thầy thường xuyên tổ chức các hoạt động gây quỹ để giúp đỡ các bạn có hoàn cảnh khó khăn; chắp cánh, nâng bước ước mơ cho các bạn. Thầy cô luôn dạy tận tâm, làm những gì hết khả năng của mình để cho học sinh có những điều tốt đẹp nhất có thể có.
Ở trường của tôi thường diễn ra các hoạt động vui chơi giải trí có phần vừa chơi mà vừa học rất bổ ích như thi ‘rung chuông vàng’, thi các cuộc thi ‘về luật giao thông’
Ngôi trường này có truyền thống dạy tốt – học tốt là nơi trưởng thành của nhiều anh chị đi trước. Trường tôi có rất nhiều bằng khen từ cấp tỉnh, cấp Trung ương.Chứng tỏ một điều hiển nhiên trường tôi có truyền thồng không chỉ dạy tốt, học tốt mà tham gia các hoạt động giúp ích cho xã hội cũng rất tốt. Chúng tôi được học trong ngôi trường này là niềm tự hào đối với mỗi cá nhân.
|
Instruct
The first year, sixth grade, we studied in a new school with good and beautiful things.
It is a school named after the land of my hometown. Initially, when going from fifth grade to sixth grade, a change in the learning environment made each of us somewhat surprised. Even more surprising because this is a beautiful school with mainly yellow backgrounds on the buildings, combined with the fact that this school has many shady trees.
During recess, I looked at the school yard and saw my friends playing and having fun, very innocent and bright like the color of a white shirt.
Entering the classroom is a spacious experience: there are full of supplies to help us learn better. The teachers here are very friendly and care meticulously about the students' learning and practice. Teachers did not differentiate between good students and weak students, they helped a lot both physically and mentally.
At my school, teachers and teachers regularly organize fundraising activities to help students in difficult circumstances; Give wings and advance your dreams. Teachers always teach with dedication, doing their best to give students the best things possible.
At my school, there are often entertaining activities that involve both playing and learning, which are very useful, such as 'ringing the golden bell' competition and 'traffic law' competitions.
This school has a tradition of good teaching and good learning, which is where many predecessors grew up. My school has many certificates of merit from the provincial and central levels. It proves the obvious that my school has a tradition of not only teaching well and studying well, but participating in activities that help society is also very good. It is a matter of pride for each individual that we study in this school.
|
Hướng dẫn
Nụ cười đẹp nhất trong trái tim tôi là nụ cười của mẹ tôi. Mỗi khi nhìn thấy mẹ cười niềm hạnh phúc trong tôi lại dâng trào. Vì một điều đơn giãn mẹ vui thì tôi vui gấp bội phần.
Nụ cười của mẹ chứa chan tình yêu thương đối với các con. Mẹ cười khi chúng tôi có niềm hạnh phúc của riêng mình. Mẹ vui cười từ những bước đầu chập chững của những đứa con; từ những vần à ơi bắt đầu tập nói.Như trong câu dao:
Cha là chỗ dựa, mẹ là gối êm
Nụ cười của mẹ còn là niềm hạnh phúc
Mẹ cười khi thấy con vui, mẹ nặng lòng khi thấy con buồn. Đó là nụ cười của một người phụ nữ thân thiện, bao dung làm sao. Mẹ sống với cái tâm của một người trần tục.
Mẹ không chỉ cười khi thấy gia đình mình hạnh phúc, những đứa con mình ngoan ngoãn mà mẹ cũng dành tặng nụ cười để bày tỏ niềm vui với mọi người xung quanh.
Hạnh phúc của mọi người cũng là hạnh phúc riêng của mẹ. Mẹ cười khi thấy nhiều trẻ em mồ côi được sống với đầy đủ tình thương của xã hội. Mẹ cười với tấm lòng thiện nguyện của những đấng hảo tâm giúp đỡ những người vùng quê xa xôi thiếu thốn.
Nụ cười ấy của mẹ như tiếp sức cho chúng con trên mỗi hành trình. Chỉ cần mẹ cười thì cho dù khó khăn đến bao nhiêu con vẫn không nản lòng. Có thể sau này con có vấp ngã trên đường đời đi chăng nữa, thì con hiểu một điều mẹ sẽ không cau có mà sẽ dành một nụ cười khích lệ tinh thần chúng con.
|
Instruct
The most beautiful smile in my heart is my mother's smile. Every time I see my mother smile, my happiness surges. Because of one simple thing, when my mother is happy, I am even more happy.
A mother's smile is filled with love for her children. Mom smiled when we had our own happiness. The mother laughed happily at her children's first steps; From the rhymes, start practicing speaking. As in the poem:
Father is a support, mother is a soft pillow
A mother's smile is also happiness
Mom smiles when she sees her child happy, her heart is heavy when she sees her child sad. That's the smile of a friendly, tolerant woman. Mother lives with the mind of a worldly person.
Mom not only smiles when she sees her family happy and her children obedient, but she also gives her smile to express joy to everyone around her.
Everyone's happiness is also mother's own happiness. Mother smiled when she saw many orphans living with full love from society. Mother smiled at the charity of benefactors helping poor people in remote rural areas.
That smile of yours seems to give us strength on every journey. As long as my mother smiles, no matter how difficult it is, I will not be discouraged. Maybe in the future, even if I stumble along the path of life, I understand one thing that Mom will not frown but will give a smile to encourage our spirit.
|
Hướng dẫn
chúng ta thấy rõ một điều nếu tồn tại trong cuộc sống này mà không có các mối quan hệ giữa người với người thì cuộc sống sẽ tẻ nhạt biết bao. Và tất nhiên trong các mối quan hệ cần có để hương vị cuộc sống thêm thú vị ắt hẳn không kể đến tình bạn.
Tình bạn là một thứ gì đó rất ngọt ngào pha chút hờn giận vô cớ. Bắt đầu một mối quan hệ tình bạn ta cảm thấy hào hứng biết bao nhiêu, một mặt ta có thêm người cúng nói chuyện, cùng chia sẽ những vui buồn trong cuộc sống. Mặt khác ta có người hiểu những suy nghĩ của mình nhiều hơn.
Một tình bạn đẹp tất nhiên phải có những cảm xúc giận hờn, bực nhọc. Nhưng sau mỗi cảm xúc đó ta biết được cảm xúc của ta đúng hay sai đối với bạn và cùng nhau tiếp tục nói chuyện để hiểu nhau nhiều hơn.
Cuộc sống sẽ muôn màu hơn khi ta gặp gỡ và kết bạn cùng nhiều bạn bè. Chúng ta có thể bất li bất dịch về lí thuyết: tôi chỉ cần một người bạn thân không cần ai thêm nữa. Nhưng rồi chúng ta đâu biết ngoài đứa bạn thân ra chúng ta cũng có thể gặp những người hiểu tâm tư mình mà.
Mỗi người sinh ra là một cá thể, mỗi người sẽ có một tính cách riêng và nguyên nhân chúng ta sinh ra là để khám phá thế giới này thì tại soa chúng ta không bắt đầu từ việc hiểu hết tính cách những con người kia. Như trong câu nói:
“Tình bạn là một khái niệm khó giải thích. Đó không phải lý thuyết bạn có thể học được ở trường. Thế nhưng nếu chưa hiểu được ý nghĩa của tình bạn, bạn cũng chưa hiểu được ý nghĩa của bất kỳ điều gì khác trong đời.” – Muhammad Ali
Bạn có thể một gương mặt đẹp, có một công việc thành công nhưng bạn không có một tình bạn đẹp thì coi như bạn bất lực và chả có gì ở cuộc sống này. Vẻ đẹp gương mặt ta có thể chăm chút, sự thành công ta có thể nuôi hi vọng nhưng để có hai thứ đó chúng ta không quên cần có những người bạn đồng hành.
Khi chúng ta vấp liệu bản thân có đủ sức để đứng dậy không? Điều đó là có thẻ nhưng vất vả khi đứng dây một mình biết bao, nhưng nếu có một người bạn chân tình khuyên nhủ tìm cách cùng ta khắc phục khó khăn thì tuyệt vời đến bao nhiêu.
TÌnh bạn là một thứ gì đó rất cao quý và tươi đẹp. Vì thế toi khuyên bạn ngay bây giờ đừng ngồi một mình để nhìn cuộc sống này nữa mà hãy đi tìm những người bạn cùng nhau nhìn và chiêm nghiệm về cuộc sống này đi.Bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn đấy!
BÀI VĂN 2
Người ta thường nói đẩy tình bạn ra khỏi mình chẳng khác gì đẩy mặt trời ra khỏi thế giới này câu nói này càng khẳng định rõ sức mạnh của tình bạn là cần thiết trong cuộc sống này đối với mỗi cá nhân
Bạn có thể học giỏi; mua săm được cái này cái kia nhưng bạn không có nổi một tình bạn đẹp thì cuộc sống bạn vô vị biết nhường nào. Tôi rất may mắn vì tìm được một người bạn thân đúng nghĩa.
Tôi và bạn tôi gặp gỡ nhau, chơi thân với nhau là từ lúc bắt đầu học cấp trung học cơ sở. Sự lóng ngóng của một học sinh từ cấp tiểu học lên học một cấp bậc khác là điều dễ nhận thấy trong mỗi đứa học sinh chúng tôi lúc đó.
Bước vào lớp học lúc đó tôi loay hoay tìm chỗ ngồi cho mình thì đột nhiên có một tiếng gọi “bạn áo xanh ơi, tới đây ngồi cùng tớ nè”. Chúng tôi ngồi cùng bàn nhau từ lúc đó cho tới tận bây giờ, chắc có lẽ vì quá quen với người ngồi bên cnahj mình là bạn nên lúc nào chuyển chỗ ngồi học hai chúng tôi cũng xin phép cô cho chúng tôi được ngồi cạnh nhau.
Cô bạn thân tôi tên Huyền Trang, với mái tóc dài, với làn da trắng và nụ cười vô cùng dễ thương. Tôi thì đối lập với cô bạn tôi; tóc ngắn ngang vai, da ngăm đen và đôi khi cười bị nhận xét cho là vô duyên. Chúng tôi được gọi là ‘cặp bài trùng’ của nhau vì đi đâu cũng đi với nhau, học cùng nhau; chơi cùng nhau;.. Chúng tôi thiết nghĩ nếu không có nhau chắc hẳn buồn lắm.
Huyền Trang giỏi các môn tự nhiên, còn tôi giỏi các môn xã hội vì thế hai đứa luôn giúp đỡ nhau trong học tập, cùng nhau cố gắng và nỗ lực. Tôi quý mến cô bạn thân tôi nhất là cô ấy có một tấm lòng nhân ái:
Huyền Trang làm lớp trưởng trong lớp, những ai muốn hỏi bạn công việc của lớp hay học tập gì bạn đều nhiệt tình trả lời. Bạn thường để ý tới những bạn còn học yếu và sau đó thường quan tâm, hỏi han có cần giúp gì không. Ra đường hay giúp đỡ các cụ già và em nhỏ, luôn quan tâm đến mọi người xung quanh.
Bạn là con người luôn ý thức được hành động của mình. Đi ra đường thấy một bạn ăn bánh, hay hộp sữa gì đấy vứt ra giữa đường thì bạn thường dừng lại một phút nhặt những miếng rác đó và vứt đúng chỗ.
Huyền Trang còn là một người con ngoan, trò giỏi; đôi lúc nhìn Trang mà em thấy mình còn nhiều điểm yếu quá lớn. Tôi và Trang thường chia sẽ những niềm vui, nỗi buồn cùng nhau. Niềm vui khi được điểm cao hay đó là những nỗi buồn phiền khi không làm bài tốt.
“Một trong những hạnh phúc lớn lao nhất trên đời là tình bạn, một trong những hạnh phúc của tình bạn là có người để thổ lộ tâm sự riêng tư”
|
Instruct
We see clearly that if we exist in this life without relationships between people, how boring life will be. And of course, among the relationships needed to make life more interesting, certainly not to mention friendship.
Friendship is something very sweet mixed with a little unjustified anger. Starting a friendship relationship makes us feel so excited. On the one hand, we have more people to talk to and share the joys and sorrows in life. On the other hand, we have people who understand our thoughts better.
A beautiful friendship of course must have feelings of anger and frustration. But after each emotion, we know whether our feelings are right or wrong for you and we continue to talk together to understand each other better.
Life will be more colorful when we meet and make many friends. We can be indifferent in theory: I only need one close friend, I don't need anyone else. But then we don't know that in addition to close friends, we can also meet people who understand our thoughts.
Each person is born as an individual, each person will have a unique personality and the reason we were born is to explore this world, so why don't we start from understanding all the other people's personalities. As in the saying:
“Friendship is a difficult concept to explain. That's not theory you can learn in school. But if you don't understand the meaning of friendship, you also don't understand the meaning of anything else in life." – Muhammad Ali
You may have a beautiful face and a successful job, but if you don't have beautiful friendships, you are considered powerless and have nothing in this life. We can take care of facial beauty, we can raise hope for success, but to have those two things we don't forget to have companions.
When we stumble, do we have enough strength to get up? That's true, but how difficult it is to stand alone, but if there is a sincere friend who advises and finds a way to overcome difficulties with us, how wonderful it will be.
Friendship is something very noble and beautiful. So I advise you right now to stop sitting alone and look at this life, but find friends to look at and contemplate this life together. You will feel happier!
ESSAY 2
People often say that pushing friendship away from yourself is like pushing the sun out of this world. This statement further affirms that the power of friendship is necessary in this life for each individual.
You can study well; You can buy this and that but you don't have a beautiful friendship, then your life is so tasteless. I am very lucky to have found a true best friend.
My friend and I met and became close friends since we started middle school. The clumsiness of a student going from elementary school to another level was easily noticeable in each of us students at that time.
Entering the classroom, I was struggling to find a seat for myself when suddenly a voice called out, "Hey blue shirt, come sit with me." We sat at the same table from that time until now. Maybe because we were so familiar with the person sitting next to us as a friend, we always asked her permission to sit next to each other when we changed seats to study. .
My best friend's name is Huyen Trang, with long hair, white skin and an extremely cute smile. I am the opposite of my friend; shoulder-length hair, dark skin, and sometimes her smile is considered ungainly. We are called each other's 'match pair' because we go everywhere together and study together; play together;.. We think that if we don't have each other, we must be very sad.
Huyen Trang is good at natural subjects, and I am good at social subjects, so we always help each other in studying, working together and making efforts. I like my best friend the most because she has a kind heart:
Huyen Trang is the class president in the class. Anyone who wants to ask you about class work or what you study, you enthusiastically answer. You often pay attention to students who are still weak in their studies and then often pay attention and ask if they need any help. Go out or help the elderly and children, always care about people around you.
You are a human being who is always aware of your actions. When you go out on the street and see someone eating a cake or a carton of milk thrown in the middle of the street, you often stop for a minute to pick up those pieces of trash and throw them in the right place.
Huyen Trang is also a good son and a good student; Sometimes when I look at Trang, I see that I still have many great weaknesses. Trang and I often share our joys and sorrows together. The joy of getting a high score or the sadness of not doing well.
“One of the greatest happiness in life is friendship, one of the happiness of friendship is having someone to confide in your private thoughts.”
|
Hướng dẫn
Không có một ngôn từ nào trên thế gian này nói hết được ‘công cha nghĩa mẹ’. Cha mẹ là những con người tuyệt vời đối với phận làm con như chúng ta, chúng ta tự hào vì có họ trong cuộc đời này.
Cha mẹ là người tạo ra hình hài, đưa chúng ta đến với cuộc sống muôn màu này. Chúng con thầm cảm ơn cha mẹ vì đã sinh ra chúng con. Mẹ mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, cha vất vả sớm hôm mong ngóng đứa con tựa thiên thần mình chào đời. Không có Cha Mẹ thì chúng ta không thể tồn tại trên thế gian này, không thể chạm đến cuộc sống này:
“Có phải cha mẹ hứa nhau từ kiếp trước Tạc lại hình con nguyên vẹn trái tim người”
Cha mẹ vất vả cả cuộc đời để nuối nấng những đứa con, họ không hề nghĩ chút gì cho bản thân họ. Họ như tồn tại trong cuộc đời này chỉ vì những đứa con của mình. Sinh con ra là điều mà chúng con không biết trả ơn sao cho hết đằng này người còn giành tất cả những gì tốt đẹp nhất trên thế gian này cho chúng con.
“Tảo tần sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn.Đưa tấm lưng gầy cha che chở đời con”
Cha mẹ không quản cực nhọc trong cuộc sống để kiếm ra những đồng tiền nuôi các con có cái ăn, cái học; có cái cho bằng bạn bằng bè. Cha mẹ đổ mồ hôi vì những ước muốn của các con. cha mẹ bán lưng cho trời bán mặt cho đất chỉ để mong cho con họ có được cuộc sống viên mãn nhất.
Cha Mẹ không quan tâm đến hạnh phúc của riêng bản thân; Cha Mẹ có thể nhin đói, có thể mặc một bộ áo quần với những chỉ khâu nhưng tấm lòng bao la của họ làm đủ mọi cách để con mình có một bữa cơm no, có một bộ quần áo đẹp.
Không vì những vất vả trong cuộc sống mà Cha Mẹ lời to tiếng nặng với con mình; Cha Mẹ luôn nói một cách nhẹ nhàng, một cách ấm áp để dạy các con; Cha Mẹ có tấm lòng bao dung và vị tha qua lớn đối với các con.
Từ khi tạo nên hình hài trong đầu Cha Mẹ luôn thao thức, nghĩ cách nào để dạy dỗ con mình thật ngoan, thật một người tốt. Cha Mẹ không ngừng suy nghĩ về điều đó. Cha Mẹ dạy ta cách làm người, cách đối nhân xử thế sao cho đúng; người dạy ta muôn vàn cái hay, cái đẹp nhưng người cũng không quên dạy ta cách đứng vững trên đường đời.
Đôi khi chính những đứa con mình sinh ra không hiểu hết lòng mình, lại dùng những ngôn từ hỗn láo với họ. nhưng họ không bực tức vì những câu nói đó, và rồi phận làm con chúng ta hiểu ra cái sai cần phải sửa của mình. Cha mẹ luôn mở tấm lòng bao dung, nhân ái và đọ lượng với con mình. Hành động của con mình là sai nhưng họ không một lời mằng mỏ mà luôn vỗ về, an ủi, động viên các con. (Ví dụ: hình ảnh người cha già tay đeo xách túi với những hoa quả, món ăn ngon vào thăm đứa con trai tù tội của mình cho ta thấy hai chữ’cha mẹ’ tuyệt vời như thế nào).
Cha Mẹ đã cho chúng ta tất cả những gì họ có nhưng không một lần đòi hỏi những gì ở chúng ta: ‘Cha: có nghĩa là chỗ dựa, suốt đời con trọn vẹn yêu thương Mẹ: có nghĩa là mãi mãi, là cho đi không đòi lại bao giờ ‘
|
Instruct
There is no word in this world that can fully express 'the merits of father and mother'. Parents are wonderful people for us as children, we are proud to have them in this life.
Parents are the ones who create our bodies and bring us to this colorful life. We silently thank our parents for giving birth to us. The mother carried a heavy labor for nine months and ten days, and the father worked hard day and night waiting for his angel-like child to be born. Without Parents, we cannot exist in this world, cannot touch this life:
"Did parents promise each other from a previous life to re-carve the image of their child with his heart intact?"
Parents work hard all their lives to raise their children, they don't think anything about themselves. They seem to exist in this life only for their children. Giving birth to a child is something we don't know how to thank you for. After all, you still give us all the best things in this world.
"Early in the morning, my mother raised me to grow up. With my thin back, my father protected my life."
Parents do not hesitate to work hard in life to earn money to feed and educate their children; There is something as good as a friend. Parents sweat for their children's wishes. Parents sell their backs to heaven and face to the earth just to hope for their children to have the most fulfilling life.
Parents do not care about their own happiness; Parents can starve, can wear a set of clothes with stitches, but with their big hearts they do everything possible to make sure their children have a full meal and beautiful clothes.
It is not because of the hardships in life that parents speak harshly to their children; Parents always speak gently and warmly to teach their children; Parents have great tolerance and altruism towards their children.
Since the shape was created in the mind, parents have always been restless, thinking about how to raise their child to be a good person, a good person. Mom and Dad kept thinking about it. Parents teach us how to be human, how to treat people properly; He taught us countless good and beautiful things, but he also did not forget to teach us how to stand firmly on the path of life.
Sometimes our own children don't fully understand us and use rude words towards them. but they did not get angry because of those statements, and then as children we understand our mistakes that need to be corrected. Parents always open their hearts of tolerance, kindness and generosity to their children. Their children's actions were wrong, but they did not say a word, but always comforted, comforted, and encouraged them. (For example, the image of an old father carrying a bag with fruits and delicious food to visit his imprisoned son shows us how wonderful the words 'parents' are).
Parents gave us everything they had but never once asked anything of us: 'Father: means support, I will love you all my life Mother: means forever, means giving Go away and never ask for it back.
|
Hướng dẫn
Gắn với kí ức thời áo trắng của mỗi cô cậu học sinh là dưới những tán cây bàng rộng khắp sân trường
Cây bàng là loài cây mọc khắp từ những hẻm xóm, đến cạnh các con sông rồi mọc tràn lan khắp sân trường. Cây bàng như một cái ô che nắng che mưa khắp các làng quê.
Cây Bàng vươn ra những cánh bàng rộng, mọc thành tầng lớp xếp chồng lên nhau. Đứng dưới cây bàng ta cảm thấy dễ chịu dưới một mùa hè oi ả nắng nắng, dưới những cơn mưa rào mặc dù không che mưa được hết những nó cũng cố tạo thành cái ô tạm thời mỗi dịp mưa rào chợt tới.
Cây Bàng là loài cây gắn với tuổi thơ chúng tôi. Mỗi ngày trước giờ học hay giờ ra chơi chúng tôi lại tụ tập dưới góc cây bàng kể chuyện trên trời dưới đất cho nhau nghe. Chơi những trò chơi của tuổi trẻ thơ. Ngồi dưới góc cây bàng chúng tôi cảm giác như bàn tay mẹ giang rộng che nắng cho các con thơ của mình. Cái nắng nực của thời tiết làm chúng tôi phát minh ra cây quạt tay được làm từ chính lá bàng, lá bàng như một cái quạt nan.
Nó gắn với thế hệ học trò dưới những mái trường. Học từ cấp một lên đến cấp hai cấp ba, hình ảnh cây bàng luôn có trước mắt chúng tôi. Giờ ra chơi là giờ giải trí để chúng tôi ngồi dưới những ghế đá sân trường trao đổi bài cùng nhau.
Đó cũng là điểm hẹn quen thuộc của mỗi học sinh chúng tôi vì lẽ đương nhiên không chỗ nào lại mát và che khuất ánh nắng hơn ở chỗ đó. Điểm hẹn đó gắn với những người bạn thân quen là cùng nhau nhảy dây, cùng nhau chơi đùa
|
Instruct
Associated with the memories of each student's white shirt era is under the wide canopy of almond trees throughout the school yard
The almond tree is a tree that grows everywhere in alleys, next to rivers and then grows everywhere in the school yard. The almond tree is like an umbrella that covers the sun and rain throughout the villages.
The almond tree stretches out its wide wings, growing in layers stacked on top of each other. Standing under the almond tree makes me feel comfortable under a sweltering summer, under the showers, although it cannot completely cover the rain, it still tries to form a temporary umbrella whenever a sudden shower comes.
The Bang tree is a tree associated with our childhood. Every day before school or recess we would gather under the almond tree to tell each other stories from heaven and earth. Play childhood games. Sitting under the corner of the almond tree, we felt like a mother's hand was extended to shade her children from the sun. The hot weather made us invent a hand fan made from almond leaves, which resemble a bamboo fan.
It is associated with the generation of students under the school roof. Studying from elementary school to middle school to high school, the image of the almond tree is always before our eyes. Recess is a leisure time for us to sit under the schoolyard benches and exchange cards together.
That is also a familiar meeting place for each of us students because of course there is no place cooler and more obscured from sunlight than there. That rendezvous is associated with familiar friends who jump rope together and play together
|
Hướng dẫn
Nếu Quốc hoa của đất nước Nhật Bản là hoa anh đào, Quốc hoa của Hàn Quốc là hoa mugung thì Quốc hoa của đất nước Việt nam là hoa sen.
Hoa sen được xem là quốc hoa việt nam bởi lẽ nó mọc khắp đất nuwocs việt nam, từ nam ra bắc. Nó để lại một ấn tượng khá sâu đậm đối với những con người việt nam nói riêng và khách du lịch các nước nói chung.
Hình ảnh hoa sen bên cạnh tà áo dài của các cô gái việt nam sẽ làm cho các nước bạn cảm thấy thật tuyệt đẹp. Ta sẽ không còn thắc mắc nữa là vì sao trên tà áo dài của người con gái VIệt luôn thêu lên những bông hoa sen?
Những gánh hàng rong Hà Nội ta bắt gặp ở đó những cành sen bên cạnh những món hàng mà các thương gia đang gánh giữa phố phường Thủ đô.
Hoa sen không chỉ là loài hoa để ngắm mà nó còn mang lại kinh tế đối với người dân việt nam. Cánh sen được người dân làm thành những đồ thủ công mỹ nghệ. Nhụy sen thu hoach để nấu ra các món ăn. Đài sen thì dùng để nàu nước uống.
Hoa sen là biểu trưng cho người dân VIệt Nam, dân Việt cũng giống như hoa sen vậy đó? Hoa sen sống trong bùn lầy nhưng nó luôn luôn muốn lớn lên để thoát khỏi cái bùn lầy đó, nó vươn cao thể hiện những gì tinh túy nhất của một bông hoa. Nó không chịu số phận phải sống trong những gì đen tối mà luôn muốn vươn lên bầu trời xanh: ‘gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn’
Con người Việt Nam cũng thế tuy bắt đầu xuất phát là một đất nước nhỏ bé, với những con người thân hình nhỏ bé, với những sự ràng buộc thống trị của ách đô hộ, với những gì chiến tranh đem lại bi thuwong cho họ. Nhưng họ không gục ngã mặc kệ số phận mà họ với ý chí tự cường, tự hào dân tộc họ luôn ngẩng cao đầu, vươn lên khỏi những thứ dơ duốc đó để xây dựng một đất nước có tiếng nói với bạn bè năm châu.
Hoa sen vẫn cứ nở, vẫn cứ tỏa sắc mặc kệ dưới chân nó là bùn lầy_nó không bị vấy bẩn. Nó như là những người con gái Việt Nam duyên dáng, thanh cao.
|
Instruct
If Japan's national flower is the cherry blossom, Korea's national flower is the mugung flower, then Vietnam's national flower is the lotus.
The lotus is considered Vietnam's national flower because it grows all over Vietnam, from south to north. It leaves a deep impression on Vietnamese people in particular and tourists from other countries in general.
The image of a lotus flower next to the ao dai of Vietnamese girls will make your country feel beautiful. We will no longer wonder why Vietnamese girls' ao dai is always embroidered with lotus flowers?
In Hanoi's street vendors, we see lotus branches next to the goods that merchants are carrying in the streets of the Capital.
The lotus is not only a flower to see, but it also brings economic benefits to Vietnamese people. Lotus petals are made into handicrafts by people. Lotus pistils are harvested to cook dishes. Lotus stems are used to color drinking water.
The lotus flower symbolizes the Vietnamese people. Vietnamese people are like lotus flowers, right? The lotus flower lives in mud but it always wants to grow to escape that mud, it rises high to show the most quintessential of a flower. It does not accept the fate of having to live in darkness but always wants to reach the blue sky: 'near the mud but does not smell of mud'
The Vietnamese people are the same, although they started out as a small country, with small-bodied people, with the constraints of colonial rule, with the tragic consequences that war brought to them. . But they did not give up and ignore their fate, but with the will to be strong and proud of their nation, they always held their heads high and rose from those dirty things to build a country that speaks to friends in all over the world.
The lotus flower still blooms, still shines despite the mud under its feet - it is not contaminated. It's like graceful, noble Vietnamese girls.
|
Hướng dẫn
Đi từ nam ra bắc hình ảnh mà chúng ra bắt gặp nhiều nhất trên hành trình đó là cây lúa. Lúa mọc khắp nơi trên dải đất Việt Nam hình chữ S, nó như là biểu trưng cuộc sống của dân tộc Việt.
Người dân Việt Nam quen với hình ảnh lúa nước trên những cánh đồng làng quê. Khí hậu nhiệt đới gió mùa cùng với những ruộng đất màu mỡ,phù du giúp chúng ta có diều kiện để trồng lúa nước.
Cây lúa nước là biểu trưng sức sống con người nhân dân ta. Con người Việt Nam tuy nhỏ bé như cây lúa nhưng sức sống thì vô cùng mãnh liệt. Khi mới là mầm móng nhỏ từ một hạt thóc chúng được người nông dân gieo nên những hạt mầm, những hạt mầm đó được gieo dưới những vùng đất màu mỡ và chúng vươn mình để tạo nên những bông lúa vàng nặng trĩu.
Con người VIệt Nam cũng thế, họ sống trong một đất nước không quá rộng lớn, họ không có một nền tảng ban đầu giàu có như các nước châu âu, châu mĩ nhưng họ với tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước họ nổ lực từng ngày làm việc chăm chỉ, cẩn cù.
Đối với những người nông dân, cây lúa như bạn đồng hành suôt cuộc đời họ. Người Việt Nam coi lúa gạo là lương thực chính. Họ trân trọng những hạt cơm, những hạt cơm đó thơm vị quê nhà và họ cúng ý thưc được rằng để tạo thành những hạt cơm dẻo ngon này là cả mồ hôi, công sức của những người nông dân.
Nó đem lại về mặt kinh tế. Ngoài ra nó có một giá trị văn hóa khá lớn, nếu không có lúa tạo ra những hạt gạo thì văn hóa Việt nam khó có thể phong phú và giàu bản sắc dân tộc. Nói vậy là bởi vì, những món ăn đặc sắc của người Việt chúng ta đều bắt nguồn từ những hạt lúa đó.
Cây lúa không phải là loài cây chỉ cần gieo nó xuống đất là nó có thể tự mọc lên thành quả mà đó là cả một quá trình tỉ mỉ, cần cù của những người nông dân áo nâu ấy
|
Instruct
Going from south to north, the image we see most on the journey is rice. Rice grows everywhere on the S-shaped strip of Vietnam, it is like a symbol of the life of the Vietnamese people.
Vietnamese people are familiar with the image of wet rice in village fields. The tropical monsoon climate along with fertile and ephemeral fields help us have the conditions to grow wet rice.
Wet rice is a symbol of the vitality of our people. Although Vietnamese people are as small as rice plants, their vitality is extremely strong. When they were just small sprouts from a grain of rice, they were sown by farmers. Those seeds were sown under fertile soil and they stretched out to create heavy golden rice ears.
Vietnamese people are the same, they live in a country that is not too large, they do not have a rich initial foundation like European and American countries, but they have a love of life, a love of their country. work hard and diligently every day.
For farmers, rice is like a lifelong companion. Vietnamese people consider rice as the main food. They cherish the rice grains, those rice grains have the fragrant taste of home and they are aware that creating these delicious sticky rice grains requires the sweat and effort of the farmers.
It brings economic benefits. In addition, it has quite a great cultural value. Without rice to create rice grains, Vietnamese culture would hardly be rich and rich in national identity. That's because our unique Vietnamese dishes all originate from those rice grains.
Rice is not a plant that just needs to be planted in the ground and it can grow into fruit on its own, but it is a meticulous and diligent process of those brown-shirted farmers.
|
Hướng dẫn
Nhắc đến hình ảnh các chiến sĩ dẻo dai, ngoan cường của dân tộc Việt ta sẽ nhớ đến hình ảnh cây tre. Tre không chỉ là bạn đồng hành của những tiền tuyến ngoài chiến trường ác liệt ấy mà nó còn gắn với cuộc sống chân chất của những con người hậu phương.
Tre thực sự là loài cây nhỏ nhưng sức sống và độ dẻo dai của nó rất lớn. Hình ảnh đó cũng giống như những con người mang dòng máu Việt, họ tuy có thân hình nhỏ bé hơn so với các nước bạn nhưng họ luôn ý thức với sự sống này luôn vươn lên vượt mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Cây tre biểu tượng cho đức tình cần cù, dẻo dai của những dòng máu’con Rồng, cháu Lạc’.Trong mọi việc họ luôn cẩn trọng, tỉ mỉ từng tí một nó biểu hiện rõ nhất với những người nông dân áo nâu. Dẻo dai trong đời sống hàng ngày, dẻo dai trong chiến đấu.
Cây tre nó thường mọc trên những mảnh đất khô cằn, nhưng nó bám rất chắc và rất sâu với mảnh đất ấy. Đó cũng là hình ảnh con người Việt yêu nước, yêu dân tộc mình mặc dù sống trong một đất nước chịu áp bức của bọn thực dân nhưng họ không bỏ dân tộc của mình, họ vẫn luôn chiến đấu, bám chắc với mảnh đất sinh ra mình;không những vậy còn bám sâu nhất có thể. Để bảo vệ mảnh đất ấy khỏi bọn xâm lăng.
Tre là một biểu hiện cho tinh thần đoàn kết dân tộc, đất nước của toàn thể nhân loại là ở chỗ nó thường mọc thành những rặng tre, những lũy tre chụm lại bên nhau. Sức mạnh to lớn nhất của mỗi đoàn quân là sự đoàn kết giữa quân và dân, dân tin quân và quân chiến đấu hết mình vì dân. Họ không bao giờ chỉ biết sống cho riêng mình. Luôn là vậy, họ sống kề vai sát cánh bên nhau, nương tựa nhau mỗi khi khó khăn.
‘Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà chung’ –Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng – những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược. Vì tre bám chặt vào đất nên những thiên tai lụt lội ta lại thấy tre có tác dụng giữu đất chống xói mòn.
Cây Tre hiện hữu mọi nơi từ khung cửa sổ đến những chiếc đũa bình dị hằng ngày, những chiếc bánh chưng bành giày được buộc chặt cúng bởi từ cây tre mà ra’lạt mềm buộc chặt’.
|
Instruct
When mentioning the image of the resilient and tenacious soldiers of the Vietnamese people, we will remember the image of bamboo. Bamboo is not only a companion of the front lines on that fierce battlefield, but it is also associated with the honest life of the people behind the scenes.
Bamboo is really a small tree but its vitality and durability are huge. That image is similar to people of Vietnamese blood, although they have smaller bodies than other countries, they are always aware of this life and always rise to overcome all life situations.
The bamboo tree symbolizes the diligence and tenacity of the 'Dragon and Lac' bloodlines. In everything they are always careful and meticulous, this is most clearly shown with the brown-shirted farmers. Toughness in daily life, toughness in combat.
Bamboo often grows on dry land, but it clings very firmly and deeply to that land. That is also the image of Vietnamese people who are patriotic and love their people, even though they live in a country oppressed by colonialists, they do not abandon their people, they still fight and cling firmly to the land of their birth. out yourself; not only that, but also cling as deeply as possible. To protect that land from invaders.
Bamboo is an expression of the spirit of national and national solidarity of all humanity in that it often grows in bamboo groves, clusters of bamboo clustered together. The greatest strength of each army is the solidarity between the army and the people, the people trust the army and the army fights hard for the people. They never know how to live only for themselves. That's always the case, they live side by side, relying on each other in times of difficulty.
'Bamboo protects the village, protects the country, maintains the common roof' - The image of Vietnamese villages has long been associated with village bamboo - thick thorny bamboo bushes that block wind, storms and natural disasters and shield each Vietnamese village from thieves. , bandits and invaders. Because bamboo clings tightly to the soil, during natural disasters, we see that bamboo has the effect of holding the soil against erosion.
Bamboo trees exist everywhere from window frames to ordinary everyday chopsticks, and tightly tied banh chung and shoes made from the bamboo tree, which is 'softly tied'.
|
Hướng dẫn
Đông qua là xuân tới, từng đàn chim én chao lượn trên bầu trời mang thông điệp báo hiệu mùa Xuân đang về. Không như mùa đông lạnh giá, mùa hè chói chang ánh nắng, mùa thu buồn với những chiếc lá vàng rơi, mùa xuân mang tới cho chúng ta một không khí ấm áp, dịu hiền.
b) triển khai
– Mùa xuân là mùa của vạn vật sinh sôi, nảy nở. Mùa Xuân báo hiệu một sức sống tươi trẻ, tinh khôi cho từng chồi non, tạo nên cho con người sức sống mãnh liệt như trong lời của bài hát về mùa Xuân:
“Nghe Xuân sang thấy trong lòng mình chứa chan”.
Tiếng hát vui vang đó đây ôi rộn ràng
Kìa mùa Xuân đang đến trước thềm
Gần xa điệu nhạc Xuân đến
Nghe bước chân tô đẹp thêm.
(bài hát: Đoản xuân ca)
+ Những ánh nắng vàng của mùa xuân như thay áo mới cho một màu thu lạnh lẽo, u tối. Bầu trời sắc xuân đem cho con người cảm giác bình yên đến lạ thường.
– Mùa xuân là mùa thay sắc, đổi áo. Khi những mầm non đâm chồi khoác lên mình những bộ quần áo tươi xinh sau mỗi dịp thu đông giá rét với những cành cây khô quặn
– Moa mai có lẽ là đặc trưng nhất để báo hiệu một mùa xuân sang. Những cành mai đâm chồi nở ra những cánh hoa vàng xinh đẹp, khoác lên mình bộ áo quần tươi xinh rạng rỡ.
+ Mùa xuân với những hạt sương long lanh của khí trời, nó bao trùm như lớp áo choàng trắng phủ kín cả bầu trời. Những mà sương đó sẽ vơi đi để thành những giọt sương long lanh trên những cành hoa, chiếc lá.
– Mùa xuân như la một bức tranh thiên nhiên đẹp diệu kỳ với trăm hoa chen nhau đua sắc. Con người cũng không nằm ngoài lẽ tự nhiên ấy. Với tất cả dân tộc trên Trái đất, bất kể khác biệt về văn hóa, mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa gửi gắm những yêu thương tới mọi người.
+ Mùa xuân là mùa trao những niềm thương yêu thầm kín
‘Anh cho em mùa xuân
Rộn ràng tiếng chim hót
Tháng giêng tình mật ngọt
Nồng nàn khúc ái ân’
+ Mùa xuân đem đến cho con người sự gần gũi với thiên nhiên, được cảm nhận và hòa mình vào sự thay đổi của sự giao mùa.
– Tôi càng yêu mùa xuân hơn bởi lẽ ngày xuân những khúc hát mặt trời luôn tới sớm nhất và kết thúc cũng muộn nhất. Làm cho mọi hoạt động con người được kéo dài hơn không cảm thấy một ngày quá ngắn như mùa đông vậy.
– Mùa xuân là những khởi đầu mới, những khởi đầu mang nhiều hoài bào, nhiều ước vọng đẹp đẽ. Bác Hồ từng nói:”một năm khởi đầu từ mùa xuân-một đời khởi đầu từ tuổi trẻ-tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”.
|
Instruct
Winter has passed and spring has come, flocks of swallows flying in the sky carry messages signaling that Spring is coming. Unlike the cold winter, the bright summer, the sad autumn with falling yellow leaves, spring brings us a warm, gentle atmosphere.
b) implementation
– Spring is the season when all things grow and flourish. Spring signals a youthful, pristine vitality for each bud, creating for people intense vitality as in the lyrics of the song about Spring:
"When I hear Xuan coming, my heart is filled with joy."
The joyful singing here and there is so bustling
Spring is coming to the doorstep
Near and far, the music of Spring comes
Listening to the footsteps makes it more beautiful.
(song: Short spring song)
+ The golden sunshine of spring is like changing new clothes for the cold, dark autumn. The spring sky gives people an unusual feeling of peace.
– Spring is the season of changing colors and changing clothes. When the young shoots sprout and put on beautiful fresh clothes after every cold fall and winter with dry tree branches.
– Moa mai is probably the most characteristic to signal the coming of spring. The apricot branches sprouted beautiful yellow petals, wearing bright, beautiful clothes.
+ Spring with sparkling dew drops of the air, it covers like a white cloak covering the whole sky. That dew will reduce to become glittering dew drops on the flower branches and leaves.
– Spring is like a magically beautiful natural picture with hundreds of flowers competing for each other's colors. Humans are no exception to that nature. For all peoples on Earth, regardless of cultural differences, spring is the season of love, the season of sending love to everyone.
+ Spring is the season of giving secret love
'You give me the spring
Loud sounds of birds singing
January is sweet love
Passionate song of love'
+ Spring brings people close to nature, to feel and immerse themselves in the change of seasons.
– I love spring even more because on spring days, sun songs always come the earliest and end the latest. Makes all human activities last longer without feeling like a day is too short like in winter.
– Spring is new beginnings, beginnings with many ambitions and beautiful wishes. Uncle Ho once said: "A year begins with spring - a life begins with youth - youth is the spring of society".
|
Hướng dẫn
Chúng ta cảm thấy ấm áp khi có ba mẹ luôn yêu thương chiều chuộng ta nhưng ta càng thấy ấm áp hơn khi trong gia đình nhỏ đó có sự đùm bọc của anh trai và chị gái mình.
Sự thương yêu đùm bọc của người anh trai và chị gái thân thiết làm cho chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn với cuộc sống này. Dân gian có câu “làm anh khó đấy, phải đâu chuyện đùa /với em bé gái, phải người lớn cơ/ khi em bé khóc anh phải dỗ dành, nếu em bé ngã anh nâng dịu dàng..”
Qua câu trên ta có thể thấy sự che chở của người anh trai đối với đứa em gái mình là điều vô tận. Trong cuộc sống ai mà chả có vấp ngã và chúng ta rất cần thiết những người thân ruột thịt của mình ủng hộ mình, quan tâm mình, chia sẻ, động viên mình và họ là những người luôn đứng sau lưng của chúng ta. Để khi chúng ta có vấp thì họ cũng là người biết trước tiên và họ cũng giang rộng vòng tay để nâng bước ta trước những gian lao cuộc sống.
Đối với đứa em gái như em tất nhiên là có những ưu phiền trong cuộc sống và không gì tuyệt vời hơn là khi có chị gái sẽ chia những tâm sự của mình. Chị gái như là chính mình vậy đó? Chị hiểu những suy nghĩ của mình mà bất chợt mình chưa kịp nói ra nhưng chị quan tâm đến từng li từng tí. Có lẽ không ai yêu thương em gái mình bằng chính người anh trai và chị gái trong gia đình. Bạn có thể có rất nhiều mối quan hệ xã hội nhưng bạn đừng quên họ cũng vừa là tình thân của bạn vừa là bạn của bạn.
Họ yêu thương chúng ta như vậy nhưng không nhất thiết họ chiều những gì chúng ta đòi hỏi mới là yêu thương. Anh chị yêu thương chúng ta theo cách riêng của một người anh và một người chị.
Những hành động chúng ta làm họ luôn để ý chính là xuất phát từ tấm lòng yêu đứa em mình vô kể. Họ xem thử việc làm đó có tốt cho đứa em gái của mình không. Họ khắt khe trong mỗi dự định chúng ta làm vì họ không muốn đứa em bé nhỏ của mình bị vấp ngã quá nhiều lần trong cuộc sống. Đôi khi có những lời quát mắng từ họ nhưng chúng ta hiểu rằng những lời quát mắng đó là mong chúng ta trưởng thành hơn, suy nghĩ kĩ càng trước mọi việc định làm.
Thiếu đi người anh trai hay người chị gái trong cuộc sống này như thiếu mất một cánh tay bảo vệ. Một cánh tay đắc lực, một cánh tay dìu dắt vậy.
“anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc
Dở hay đỡ đầu”
|
Instruct
We feel warm when we have parents who always love and pamper us, but we feel even warmer when in that small family there is the support of our brother and sister.
The love and care of a close brother and sister makes us feel happier with this life. There is a folk saying "It's hard for you, it's not a joke /for little girls, not for adults/ when the baby cries you have to comfort him, if the baby falls you gently lift him up..."
Through the above sentence, we can see that a brother's protection for his sister is endless. In life, everyone stumbles and we really need our close relatives to support us, care for us, share, and encourage us, and they are the people who always stand behind us. So that when we stumble, they will be the first to know and they will also open their arms to lift us up in the face of life's hardships.
For a younger sister like me, of course there are worries in life and there's nothing better than having an older sister to share your thoughts with. Is that what your sister is like? She understood my thoughts that I suddenly didn't have time to say, but she cared about every little bit. Perhaps no one loves their younger sister more than their own brother and sister in the family. You may have many social relationships, but don't forget that they are also your relatives and your friends.
They love us like that, but they don't necessarily give in to what we ask for to be love. Brothers and sisters love us in the unique way of a brother and a sister.
The actions we always make them pay attention to come from our hearts that love our younger siblings so much. They see if it's good for their younger sister. They are strict in every plan we make because they don't want their little brother to stumble too many times in life. Sometimes there are scoldings from them, but we understand that those scoldings are hoping for us to become more mature and think carefully about everything we plan to do.
Missing a brother or sister in this life is like missing a protective arm. A powerful arm, a guiding arm.
“brothers are like limbs
The wound heals and is covered
Good or bad"
|
Hướng dẫn
Cuộc sống của tôi gắn biết bao kỉ niệm đẹp đẽ bên ba mẹ, bạn bè,. Và tất nhiên không thể thiếu hai con người mà tôi thương yêu nhất đó là ông bà nội
Tôi hay gọi họ bằng cái tên thân thương ‘Nội ơi’, họ cho tôi hiểu thế nào là hạnh phúc gia đình, thế nào là ấm áp tình thương giữa các thành viên trong một ngôi nhà.
Nội thường dạy hai anh em tôi về cách cư xử giữa những người họ hàng, bà con lối xóm, Nội luôn dạy một lời chào cao hơn mâm cỗ’ hay ‘lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau’.
Ông bà cho tôi hiểu rằng hạnh phúc một gia đình không tự nhiên mà có mà là sự nổ lực của mỗi một thành viên trong căn nhà đó. Ông bà dạy cho tôi lẽ sống ở đời, dạy cho chúng tôi những bài học về đạo lí làm người. Ông bà đã dạy cho tôi sự nhân ái, tấm lòng bao dung giữa nhân loại.
Ông bà nội tôi là những chiến sĩ một thời oanh liệt đó, tay cầm súng vai gánh vác việc gia đình. Tôi tự hào về ông bà lắm. Tôi và anh trai thường được nghe Nội kể về những gian lao, khó khắn, vất vả; sự thiếu thốn trong thời chiến. Nội đã cho chúng tôi hiểu được bài học là cần trân trọng cuộc sống hòa bình này và hằng ngày phải nổ lực với nó. Nội tôi là những anh hùng vĩ đại trong mắt những đứa con, đứa cháu của mình.
Hằng tuần, vào cuối tuần ba mẹ thường chở hai anh em sang thăm ông bà. Mỗi lần đó chúng tôi hào hứng và vui lắm khi được gặp ông bà. Khi tôi đến lần nào cũng vậy, bà chuẩn bị những món ăn ngon cho anh em tôi; ông lại chặt tre làm thành những cánh diều cho anh em tôi làm trò chơi.
|
Instruct
My life is filled with many beautiful memories with my parents, friends, etc. And of course, the two people I love the most are indispensable: my grandparents
I often call them by the loving name 'Grandma', they help me understand what family happiness is, what is the warmth of love between members of a house.
Grandma often teaches my brother and I how to behave between relatives and neighbors. Grandma always teaches a greeting that is higher than the meal' or 'words are cheap to buy, choose your words to please each other. '.
My grandparents made me understand that a family's happiness does not come naturally, but rather depends on the efforts of each member in that house. My grandparents taught me the meaning of life, taught us lessons about human morality. My grandparents taught me kindness and tolerance among humanity.
My grandparents were once glorious soldiers, holding guns in their hands and taking care of the family. I am very proud of my grandparents. My brother and I often heard Grandma talk about hardships, difficulties, and hardships; deprivation during wartime. Grandma taught us the lesson that we need to cherish this peaceful life and strive for it every day. My grandfathers are great heroes in the eyes of their children and grandchildren.
Every week, on weekends, my parents often take my two brothers to visit their grandparents. Every time we were excited and happy to meet our grandparents. Every time I came, she prepared delicious food for my brothers and me; He cut bamboo to make kites for my brothers and me to play with.
|
Hướng dẫn
Bà tiên trong truyện cổ tích là người mà các em nhỏ yêu quý vì bà có một tấm lòng bao dung, nhân hậu đối với mỗi con người trên trần đời này. Còn với riêng em, bà tiên ngoài đời thực của em đó chính là bà ngoại.
Bà ngoại của em năm nay đã bày mươi tuổi, tóc đã bạc trắng, dáng vẻ khom khom của tuổi già. Khuôn mặt bà em phúc hậu lắm! Bà hay kể cho em về những gì thời chiến mà bà đã trải qua. Bà kể về các đồng đội của mình đã chiến đấu oanh liệt như thế nào, bà kể những mất mát, hi sinh trong chiến trận. Thời chiến, bà là một chiến sĩ tay cầm súng vai gánh vác việc gia đình (vì ông em mất trên chiến trường năm đó nên bà gánh vác hết mọi việc).
Em tự hào về Bà lắm, một người phụ nữ với tấm vai gầy nhưng đảm nhiệm trên mình việc nước, việc nhà. Thử hình dung xem, bà mạnh mẽ đến thế nào? Một tay bà nuôi năm đứa con khôn lớn, một tay bà dạy các con về lí lẽ sống sao thành người có ích cho đời. Mẹ thường nói với em: trong mắt mẹ, bà là người cha, người mẹ, người bạn bè thân thiết của mẹ. Cũng hiểu thôi, vì ông mất sớm mà! Nhưng em thắc mắc vì sao bà lại là người bạn thân của mẹ. Mẹ trả lời rằng: ’bất kể chuyện gì, mẹ đều tâm sự với bà và sau đó bà gải đáp những tò mò, những nỗi lòng của mẹ như một người bạn thực thụ’
Bà tiên trong mắt em tốt bụng làm sao? Bà không chỉ tốt với những đứa cháu của mình mà với các em nhỏ nhà hàng xóm xung quanh bà thường cho những cái kẹo, gói bánh. Tấm lòng của bà đức độ, rộng lớn lắm. Bà hay dạy em những bài học trong cuộc sống, những bài học về đạo làm người, những bài học về cách ứng nhân xử thế. Bà đối với em không chỉ là bà ngoại của em mà như cô giáo dạy cho em lẽ phải cuộc đời.
|
Instruct
The fairy in fairy tales is someone that children love because she has a tolerant and kind heart towards every person in this world. As for me, my real-life fairy is my grandmother.
My grandmother is thirty years old this year, her hair is white, and she looks bent over in old age. Your grandmother's face is so kind! She often tells me about the wartime things she went through. She told how her comrades fought fiercely, she told of their losses and sacrifices in battle. During the war, she was a soldier holding a gun and taking care of the family (because her brother died on the battlefield that year, she shouldered everything).
I am very proud of her, a woman with thin shoulders but responsible for the country and the housework. Just imagine how strong she is? With one hand, she raised five children, and with the other hand, she taught them about the reasons for living and how to become useful people for the world. Mom often tells me: in her eyes, she is my father, mother, and close friend. It's understandable, because he passed away early! But I wonder why she is my mother's close friend. Mom replied: 'No matter what, I confide in her and then she answers my curiosities and concerns like a true friend'
How kind is the fairy in your eyes? She is not only good to her grandchildren but also to the children of the neighbors around her. She often gives candy and packages of cakes. Her heart is virtuous and very big. She often teaches me lessons in life, lessons about morality, and lessons about how to deal with people. She is not only my grandmother to me, but also a teacher who teaches me the truth of life.
|
Hướng dẫn
Viêt nam được xem là đất nước ’rừng vàng biển bạc’ vì đất nước ta được thiên nhiên ban cho những gì trù phú nhất, bao la nhất đối với một đất nước nhỏ bé của chúng tôi.
Biển đảo quê tôi bao la là thế, rộng lớn là thế nhưng các bạn có biết rằng đã bao nhiêu xương máu đổ xuống đó mới giữ gìn được biển đảo chúng tôi ngày hôm nay. Lũ giặc đã năm lần bảy lượt nhòm ngó đến mảnh đất, biển đảo Việt Nam nhưng dân tộc Việt Nam quyết đổi lấy tính mạng của mình để giữ gìn những mảnh đất thiêng liêng đó. Ngọn hải đăng vẫn có đó, vẫn luôn sáng rõ giữa biển rộng lớn bao la. NHững chiến sĩ vẫn ở đó, vẫn đã và đang hằng ngày nhìn thẳng về phía trước kiêu hãnh, quyết tâm giữ gìn mảnh đất quê hương.
“Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía TRường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn”
Biển cho cá mặn, biển cho con người Việt nam có điều kiện ra khơi đánh bắt, biển đảo quê tôi với những thực thể trù phú. Có vẻ như thiên nhiên ưu ái những con người cần cù, chịu thương chịu khó trên mảnh đất cờ đỏ sao vàng này.
Biển như lòng mẹ bao la mang đến cho ta bao nguồn lợi thủy hải sản, nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Biển chứa chan tình yêu thương vẫn ngày đêm vỗ sóng vào bờ. Tình yêu đối với biển đảo là tình yêu to lớn nhất.
|
Instruct
Vietnam is considered a country of 'golden forests and silver seas' because our country is bestowed with the richest and most vast things by nature for our small country.
My hometown's sea and islands are so vast and vast, but do you know how much blood and blood has been shed to preserve our sea and islands today? The enemy has looked at Vietnam's land, sea and islands five times seven times, but the Vietnamese people are determined to exchange their lives to preserve those sacred lands. The lighthouse is still there, still shining brightly in the vast ocean. The soldiers are still there, still looking straight ahead every day proudly, determined to preserve their homeland.
“If the Fatherland is storming from the sea
There is a part of blood and flesh in Hoang Sa
Thousands of years ago, I followed my father to the sea
My mother went to the forest and missed Truong Sa forever
The Fatherland was in the shadow of the enemy
The children lie awake at Truong Son side
The Fatherland Sea has not had a peaceful day
The sea of labor is like a worn-out mother's shirt."
The sea gives salty fish, the sea gives Vietnamese people the opportunity to go fishing, the sea and islands of my hometown with rich entities. It seems that nature favors industrious and hard-working people in this land of red flags and yellow stars.
The ocean is like a mother's womb, bringing us many aquatic resources and many beautiful natural landscapes. The sea filled with love still waves on the shore day and night. Love for the sea and islands is the greatest love.
|
Hướng dẫn
Cảm nghĩ về cây lúa
Trong cuộc đời mỗi con người Việt Nam, chắc hẳn ai cũng ăn qua một loại thực phẩm được gọi là “ngọc mễ”, tức viên ngọc của trời. Vậy những hạt ngọc ấy từ đâu mà ra? Đó là từ những cây lúa mỏng manh cùng với những giọt mồ hôi công sức của các bác nông dân tạo nền. Nhờ đó mà có được những bát cơm trắng tinh tươm em rất yêu quí.
Làm sao có thể quên được những cây lúa tuy nhỏ bé nhưng những gì mà loài cây này đóng góp cho nhân loại lại không hề bé nhỏ chút nào. Em yêu những chẽn lúa xanh mướt phất phơ giữa nắng vàng rực rỡ. Em yêu những khoảnh khắc đứng giữa ruộng lúa xanh tươi mềm mại uốn lượn theo chiều gió. Em yêu cái khoảnh khắc hương lúa mới hoà quyện vào hơi đất xông lên gây cảm giác đê mễ khó tả. Ôi! Thật sảng khoái và dễ chịu làm sao!
Thật khó có thể diễn tả được những cảm nhận khi em đi qua đồng lúa chín. Hương lúa chín như muốn ôm lấy em, mùi hương ngầy ngậy ôm lấy tôi. Mùi hương đó còn theo em đến tận bữa cơm chiều khi bát cơm trắng tinh được dọn ra mâm. Em tin rằng bát cơm đó là ngon nhất, thơm nhất. Đến bây giờ em cũng có thể cảm nhận được hương vị ngọt ngào như dòng sữa mẹ từ bát cơm ấy đọng lại.
Hình ảnh những bông lúa lắc lư theo nhịp gió, đôi lúc làm rơi những hạt lúa xuống đồng, khó có thể phai nhạt trong tâm trí em. Niềm vui thuở bé của em là được bà ngoại dẫn đi gặt lúa. Cái cảm giác lâng lâng vui sướng khi được cầm trên tay bông lúa vàng rực bên ngoài, hạt gạo trắng tinh bèn trong theo những bước chân nhảy nhót như sáo về khoe với ba mẹ mình. Ôi mà sao thân thương đến lạ!
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Có sông Kinh Thầy…
Đó là những câu hát em được ngoại dạy từ khi còn bé. Lúc đó em còn được ngoại chỉ cách sàng, sẩy gạo. Lúc sàng gạo, em mới cảm thấy hết cái tâm, cái công mà người nông dân phải tần tảo nắng mưa để cho ra đời những hạt gạo ngon, tròn hạt. Đôi lúc người nông dân đạt được những vụ mùa bội thu, nhưng có lúc bị thất thu… Nhưng vì cái tình, cái nghĩa với cây lúa nên họ không thể dứt ra được.
Tuy trong bữa cơm, chẳng ai chú ý đến việc phải làm sao để có được những hạt gạo nấu thành cơm nhưng trong thâm tâm của mỗi người Việt Nam, cây lúa vẫn chiếm một vị trí quan trọng. Với em, cây lúa còn han thế! Đó là một mảng kí ức không bao giờ quên, một tình yêu sâu sắc đối với quê ngoại, một kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên, vô tư trên cánh đồng. Tuy không nói ra nhưng em thầm cám ơn cây lúa rất nhiều!
Cảm nghĩ về cây vú sữa
a)đặt vấn đề
Trước sân vườn nhà em có trồng một cây Vú Sữa, đây là loài cây mà em thích nhất trong vườn. Là loài cây được ví như bầu sữa mẹ thanh mát, ngọt lịm.
b)triển khai
– ban đầu cái tên gọi của nó làm cho em ấn tượng, ấn tượng sâu sắc hơn là vú sữa vừa ngon ngọt và có nhiều ý nghĩa trong loại quả này
+ lúc đó em đặt ra câu hỏi vì sao loại quả này lại có tên gọi thân thương thế
+ cũng đúng thôi loại quả này khi bổ đôi thì ứa randòng sữa trắng sóng sánh tiết ra có vị thơm ngọt như sữa mẹ.
+ em ấn tượng hơn nữa về loài cây này khi được mẹ kể về”sự tích cây vú sữa”
Em học được những bài học qua loài cây này. Thứ nhất những thứ ngon ngọt nhất mẹ luôn dành cho ta
Thứ hai tình cảm cha mẹ đối với ta bao la vô cùng bao la, vì vậy, chúng ta càng cần cố gắng để làm cha mẹ tự hào, đừng để đến khi cha mẹ không còn thì có hối hận như cậu bé trong sự tích Cây vũ sữa cũng đã quá muộn
Thứ ba, nếu không biết yêu thương những người xung quanh thì bạn sẽ không ăn dduwwocj quả ngọt mà sẽ ăn những gì chua chát nhất và ngược lại
“thương con khi thác mẹ đành, hóa lành quả mọng, ngọt lành sữa tươi”
– gốc cây to, lá sum suê và thường cây trĩu quả lắm
+ lá vú sữa có đặc biệt là một mặt thì xanh bóng, mặt còn lại lại là màu tía như trong sự tích màu tía đó như là màu mắt đỏ hoe của người mẹ đang khóc vì đứa con mình
+ cành nó tản ra như một cái ô nên chúng em hay chơi và ngồi học dưới gốc cây
– loài cây này vừa quý lại mang ý nghĩa sâu sắc về mẹ
c)đánh giá
– đây là loại quả em thích ăn nhất, thích ăn vì hương vị của nó và thích ăn ví nó mang ý nghĩa về người mẹ – người thân thương nhất và quan trọng nhất đối với em
– qua loại quả này em sẽ cố gắng ngoãn ngoãn, học giỏi, vâng lời ba mẹ để không phải hối hận như cậu bé trong sự tích kia
Cảm nghĩ về cây đa
a)đặt vấn đề
– Làng quê VIệt Nam ngàn năm vẫn vậy, vẫn là hình ảnh cây đa-bến nước-con đò. HÌnh ảnh cây đa tượng trưng cho đời sống lãng, xã của con dân Việt
– Còn đối với trẻ thơ hình ảnh cây đa quen thuộc, hiện hữu nhiều nhất trong rằm trung thu có chú cuội và chị hằng
b) triển khai
– Hình ảnh cây đa hiện lên một cách thân thương trong tâm trí mỗi con người VIệt Nam
+ Đó là loài cây gắn với những cuộc sống bình dị, chân chất
+ Cây đa gắn với những hình ảnh sinh hoạt thường nhật của con người
+ Mỗi làng quê Việt thường trồng cây đa cạnh những con sông-hai hình ảnh này thường đi song song với nhau hay đầu làng
Đó như là một tục lệ, một thói quen của mỗi làng, xã.Cây đa được trồng đầu làng có ý nghĩa như những già làng, trưởng làng chứng kiến bao thế hệ con, cháu của dân làng lớn lên, sinh sống
– Cây đa với những tán lá sum xuê, trĩu quả. Gốc cây đa to, rễ nó bám sâu vào lòng đất
+ Thân cây đa to, vừa bằng hai người ôm
+ Dưới gốc đa này,, người làng đưa tiễn nhau đi xa bịn rịn, lưu luyến. Và cũng dưới gốc đa này người làng thường dừng chân nghỉ lại sau những buổi làm đồng mệt nhọc.
+ Cây đa như một biểu tượng của què hương, là bến đậu của bao nỗi nhớ, niềm thương của những người con xa quê mỗi lần nghĩ đến quê cha, đất tổ.”
+ Chiều hè, chúng em thường túm năm tụm bảy dưới gốc đa để thi thả diều. Bờ con mương chạy ngang cánh đồng làng là nơi thả diều lí tưởng. Những cánh diều chấp chới bay cao; tiếng sáo diều vi vu ngân nga giữa không trung bát ngát.
– Ông em kể rằng cây đa đã chứng kiến bao sự kiện buồn vui của làng. Lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên phấp phới bay trên ngọn đa. Cuộc mít tinh đầu tiên của dân làng thành lập chính quyền cách mạng cũng diễn ra dưới gốc đa.
+ Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, những cuộc tiễn đưa thanh niên lên đường nhập ngũ cũng được tổ chức ở đây…
+ Rồi chuyện làm ăn hàng ngày, chuyện đổi mới không ngừng của làng của nước, bà con trao đổi với nhau dưới bóng mát cây đa. Cây đa cổ thụ quả đúng là nhân chứng lịch sử của làng.
c) đánh giá
Giờ đây, cây đa vẫn hiện diện ở đó; vẫn chứng kiến từng thế hệ lớn lên, trưởng thành, xây dựng cuộc sống. Mỗi khi nhớ quê hương, cây đa hiển diện trong tâm trí em; nó như mọt người ban thân; như một lão trưởng của xóm làng em
Cảm nghĩ về cây xoài
a) đặt vấn đề
– Cứ mỗi dạo tháng tư về, những hạt mưa đầu mùa đã bắt đầu lất phất, rồi đến những cơn mưa rào. Khoảng thời gian đó cũng chính là lúc những cây xoài trước hiên nhà em lại đơm hoa kết trái
b) Triển khai
– Đứng trước hiên nhà, ngước nhìn lên cao em chỉ thấy toàn một màu xnah
+ Đó là những chiếc lá có màu xanh đậm, nhìn càng lâu lắm mới nhận ra những chiếc mầm non có màu xanh mơn mởn, tươi tắn
+ Chúng mộc lên nhua như đang quấn quýt không muốn rời xa
+ Đó là những cành xoài vươn ra rông lớn, vững chắc, đón lấy và che chở những trái xoài bắt đầu to dần nặng dần theo thời gian
– Năm nay những cây xoài ấy lại trĩu quả và em nhớ không nhầm là lần thứ tư nó sai quả
+ Cũng như lần đầu, lần này những cây xoài đó lại mọc ra nhiều quả và ngọt lịm
+ Những cây xoài đó là một tay ba em trồng nên chúng không chỉ cho em những trái quả ngọt mà còn mang ý nghĩa về ba đối với em
+ Ba dành cả sự nhiệt tình để vun trồng ra những thứ quả đó cho chúng em được thưởng thức. Nhìn những cây xoài đó em thầm biết ơn ba rất nhiều, chắc ba đã dành hết tình cảm cho chúng em nên những quả xoài đó lần nào cũng có vị ngọt như tình thương ba dành cho em và anh trai.
– Xoài có nhiều thịt, tùy mỗi loại mà nó mang những hương vị và màu sắc khác nhau. Nếu như xoài tượng thì khi chín quả nó vẫn mang màu xanh và có vị thanh thanh, nhai giòn rau ráu ; mùi thơm và vị chỉ thơm thoang thoảng. Còn xoài xiêm thì thịt nó có màu vàng hấp dẫn người nhìn, có vị ngọt lịm…Và còn vô số các loại xoài có hương vị và đặc trưng riêng
– Em rất thích cây xoài bởi vì nó không chỉ mang lại cho em thứ quả ngon mà nó còn bổ dưỡng. Quả xoài mang lại tác dụng như bổ não, chống viêm, phòng ngừa ung thu..
lá xoài đem lại tác dụng: dùng chưa bệnh hô hấp, lợi tiểu,.. Vỏ thân cây xoài: sát trùng, chưa ho, đua sưng cổ họng…
|
Hướng dẫn
Cảm nghĩ về cây lúa
Trong cuộc đời mỗi con người Việt Nam, chắc hẳn ai cũng ăn qua một loại thực phẩm được gọi là “ngọc mễ”, tức viên ngọc của trời. Vậy những hạt ngọc ấy từ đâu mà ra? Đó là từ những cây lúa mỏng manh cùng với những giọt mồ hôi công sức của các bác nông dân tạo nền. Nhờ đó mà có được những bát cơm trắng tinh tươm em rất yêu quí.
Làm sao có thể quên được những cây lúa tuy nhỏ bé nhưng những gì mà loài cây này đóng góp cho nhân loại lại không hề bé nhỏ chút nào. Em yêu những chẽn lúa xanh mướt phất phơ giữa nắng vàng rực rỡ. Em yêu những khoảnh khắc đứng giữa ruộng lúa xanh tươi mềm mại uốn lượn theo chiều gió. Em yêu cái khoảnh khắc hương lúa mới hoà quyện vào hơi đất xông lên gây cảm giác đê mễ khó tả. Ôi! Thật sảng khoái và dễ chịu làm sao!
Thật khó có thể diễn tả được những cảm nhận khi em đi qua đồng lúa chín. Hương lúa chín như muốn ôm lấy em, mùi hương ngầy ngậy ôm lấy tôi. Mùi hương đó còn theo em đến tận bữa cơm chiều khi bát cơm trắng tinh được dọn ra mâm. Em tin rằng bát cơm đó là ngon nhất, thơm nhất. Đến bây giờ em cũng có thể cảm nhận được hương vị ngọt ngào như dòng sữa mẹ từ bát cơm ấy đọng lại.
Hình ảnh những bông lúa lắc lư theo nhịp gió, đôi lúc làm rơi những hạt lúa xuống đồng, khó có thể phai nhạt trong tâm trí em. Niềm vui thuở bé của em là được bà ngoại dẫn đi gặt lúa. Cái cảm giác lâng lâng vui sướng khi được cầm trên tay bông lúa vàng rực bên ngoài, hạt gạo trắng tinh bèn trong theo những bước chân nhảy nhót như sáo về khoe với ba mẹ mình. Ôi mà sao thân thương đến lạ!
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Có sông Kinh Thầy…
Đó là những câu hát em được ngoại dạy từ khi còn bé. Lúc đó em còn được ngoại chỉ cách sàng, sẩy gạo. Lúc sàng gạo, em mới cảm thấy hết cái tâm, cái công mà người nông dân phải tần tảo nắng mưa để cho ra đời những hạt gạo ngon, tròn hạt. Đôi lúc người nông dân đạt được những vụ mùa bội thu, nhưng có lúc bị thất thu… Nhưng vì cái tình, cái nghĩa với cây lúa nên họ không thể dứt ra được.
Tuy trong bữa cơm, chẳng ai chú ý đến việc phải làm sao để có được những hạt gạo nấu thành cơm nhưng trong thâm tâm của mỗi người Việt Nam, cây lúa vẫn chiếm một vị trí quan trọng. Với em, cây lúa còn han thế! Đó là một mảng kí ức không bao giờ quên, một tình yêu sâu sắc đối với quê ngoại, một kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên, vô tư trên cánh đồng. Tuy không nói ra nhưng em thầm cám ơn cây lúa rất nhiều!
Cảm nghĩ về cây vú sữa
a)đặt vấn đề
Trước sân vườn nhà em có trồng một cây Vú Sữa, đây là loài cây mà em thích nhất trong vườn. Là loài cây được ví như bầu sữa mẹ thanh mát, ngọt lịm.
b)triển khai
– ban đầu cái tên gọi của nó làm cho em ấn tượng, ấn tượng sâu sắc hơn là vú sữa vừa ngon ngọt và có nhiều ý nghĩa trong loại quả này
+ lúc đó em đặt ra câu hỏi vì sao loại quả này lại có tên gọi thân thương thế
+ cũng đúng thôi loại quả này khi bổ đôi thì ứa randòng sữa trắng sóng sánh tiết ra có vị thơm ngọt như sữa mẹ.
+ em ấn tượng hơn nữa về loài cây này khi được mẹ kể về”sự tích cây vú sữa”
Em học được những bài học qua loài cây này. Thứ nhất những thứ ngon ngọt nhất mẹ luôn dành cho ta
Thứ hai tình cảm cha mẹ đối với ta bao la vô cùng bao la, vì vậy, chúng ta càng cần cố gắng để làm cha mẹ tự hào, đừng để đến khi cha mẹ không còn thì có hối hận như cậu bé trong sự tích Cây vũ sữa cũng đã quá muộn
Thứ ba, nếu không biết yêu thương những người xung quanh thì bạn sẽ không ăn dduwwocj quả ngọt mà sẽ ăn những gì chua chát nhất và ngược lại
“thương con khi thác mẹ đành, hóa lành quả mọng, ngọt lành sữa tươi”
– gốc cây to, lá sum suê và thường cây trĩu quả lắm
+ lá vú sữa có đặc biệt là một mặt thì xanh bóng, mặt còn lại lại là màu tía như trong sự tích màu tía đó như là màu mắt đỏ hoe của người mẹ đang khóc vì đứa con mình
+ cành nó tản ra như một cái ô nên chúng em hay chơi và ngồi học dưới gốc cây
– loài cây này vừa quý lại mang ý nghĩa sâu sắc về mẹ
c)đánh giá
– đây là loại quả em thích ăn nhất, thích ăn vì hương vị của nó và thích ăn ví nó mang ý nghĩa về người mẹ – người thân thương nhất và quan trọng nhất đối với em
– qua loại quả này em sẽ cố gắng ngoãn ngoãn, học giỏi, vâng lời ba mẹ để không phải hối hận như cậu bé trong sự tích kia
Cảm nghĩ về cây đa
a)đặt vấn đề
– Làng quê VIệt Nam ngàn năm vẫn vậy, vẫn là hình ảnh cây đa-bến nước-con đò. HÌnh ảnh cây đa tượng trưng cho đời sống lãng, xã của con dân Việt
– Còn đối với trẻ thơ hình ảnh cây đa quen thuộc, hiện hữu nhiều nhất trong rằm trung thu có chú cuội và chị hằng
b) triển khai
– Hình ảnh cây đa hiện lên một cách thân thương trong tâm trí mỗi con người VIệt Nam
+ Đó là loài cây gắn với những cuộc sống bình dị, chân chất
+ Cây đa gắn với những hình ảnh sinh hoạt thường nhật của con người
+ Mỗi làng quê Việt thường trồng cây đa cạnh những con sông-hai hình ảnh này thường đi song song với nhau hay đầu làng
Đó như là một tục lệ, một thói quen của mỗi làng, xã.Cây đa được trồng đầu làng có ý nghĩa như những già làng, trưởng làng chứng kiến bao thế hệ con, cháu của dân làng lớn lên, sinh sống
– Cây đa với những tán lá sum xuê, trĩu quả. Gốc cây đa to, rễ nó bám sâu vào lòng đất
+ Thân cây đa to, vừa bằng hai người ôm
+ Dưới gốc đa này,, người làng đưa tiễn nhau đi xa bịn rịn, lưu luyến. Và cũng dưới gốc đa này người làng thường dừng chân nghỉ lại sau những buổi làm đồng mệt nhọc.
+ Cây đa như một biểu tượng của què hương, là bến đậu của bao nỗi nhớ, niềm thương của những người con xa quê mỗi lần nghĩ đến quê cha, đất tổ.”
+ Chiều hè, chúng em thường túm năm tụm bảy dưới gốc đa để thi thả diều. Bờ con mương chạy ngang cánh đồng làng là nơi thả diều lí tưởng. Những cánh diều chấp chới bay cao; tiếng sáo diều vi vu ngân nga giữa không trung bát ngát.
– Ông em kể rằng cây đa đã chứng kiến bao sự kiện buồn vui của làng. Lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên phấp phới bay trên ngọn đa. Cuộc mít tinh đầu tiên của dân làng thành lập chính quyền cách mạng cũng diễn ra dưới gốc đa.
+ Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, những cuộc tiễn đưa thanh niên lên đường nhập ngũ cũng được tổ chức ở đây…
+ Rồi chuyện làm ăn hàng ngày, chuyện đổi mới không ngừng của làng của nước, bà con trao đổi với nhau dưới bóng mát cây đa. Cây đa cổ thụ quả đúng là nhân chứng lịch sử của làng.
c) đánh giá
Giờ đây, cây đa vẫn hiện diện ở đó; vẫn chứng kiến từng thế hệ lớn lên, trưởng thành, xây dựng cuộc sống. Mỗi khi nhớ quê hương, cây đa hiển diện trong tâm trí em; nó như mọt người ban thân; như một lão trưởng của xóm làng em
Cảm nghĩ về cây xoài
a) đặt vấn đề
– Cứ mỗi dạo tháng tư về, những hạt mưa đầu mùa đã bắt đầu lất phất, rồi đến những cơn mưa rào. Khoảng thời gian đó cũng chính là lúc những cây xoài trước hiên nhà em lại đơm hoa kết trái
b) Triển khai
– Đứng trước hiên nhà, ngước nhìn lên cao em chỉ thấy toàn một màu xnah
+ Đó là những chiếc lá có màu xanh đậm, nhìn càng lâu lắm mới nhận ra những chiếc mầm non có màu xanh mơn mởn, tươi tắn
+ Chúng mộc lên nhua như đang quấn quýt không muốn rời xa
+ Đó là những cành xoài vươn ra rông lớn, vững chắc, đón lấy và che chở những trái xoài bắt đầu to dần nặng dần theo thời gian
– Năm nay những cây xoài ấy lại trĩu quả và em nhớ không nhầm là lần thứ tư nó sai quả
+ Cũng như lần đầu, lần này những cây xoài đó lại mọc ra nhiều quả và ngọt lịm
+ Những cây xoài đó là một tay ba em trồng nên chúng không chỉ cho em những trái quả ngọt mà còn mang ý nghĩa về ba đối với em
+ Ba dành cả sự nhiệt tình để vun trồng ra những thứ quả đó cho chúng em được thưởng thức. Nhìn những cây xoài đó em thầm biết ơn ba rất nhiều, chắc ba đã dành hết tình cảm cho chúng em nên những quả xoài đó lần nào cũng có vị ngọt như tình thương ba dành cho em và anh trai.
– Xoài có nhiều thịt, tùy mỗi loại mà nó mang những hương vị và màu sắc khác nhau. Nếu như xoài tượng thì khi chín quả nó vẫn mang màu xanh và có vị thanh thanh, nhai giòn rau ráu ; mùi thơm và vị chỉ thơm thoang thoảng. Còn xoài xiêm thì thịt nó có màu vàng hấp dẫn người nhìn, có vị ngọt lịm…Và còn vô số các loại xoài có hương vị và đặc trưng riêng
– Em rất thích cây xoài bởi vì nó không chỉ mang lại cho em thứ quả ngon mà nó còn bổ dưỡng. Quả xoài mang lại tác dụng như bổ não, chống viêm, phòng ngừa ung thu..
lá xoài đem lại tác dụng: dùng chưa bệnh hô hấp, lợi tiểu,.. Vỏ thân cây xoài: sát trùng, chưa ho, đua sưng cổ họng…
|
Hướng dẫn
Mùa xuân đến! Hàng ngàn bông hoa đua nhau khoe sắc, đua nhau khoe những bộ cảnh đủ màu rực rỡ: này là hoa hồng với mùu đỏ rực, này là hoa cà với màu tím nổi bật, này là hoa sữa với bộ cánh trắng tươi,…nhưng trong số đó, em vẫn thích nhất hoa mai vàng.
Tết đến! Mùa xuân đến! Hoa mai vàng là nhất. Cứ ra phố mà xem. Nhà nào nhà nấy đều trưng một chậu mai vàng tươi thắm. Tuy hoa hồng được mệnh danh là nữ hoàng của các loài hoa, nhưng Tết đến thì củng phải nhường hoa mai vàng một bước. Vì thế đây là loài hoa em yêu thích nhất. Thần cây, cành cây nho nhỏ, sâm sẫm toả ra vô vàn bông hoa vàng rực rỡ.
Cây mai trưng bày trước nhà em là do mẹ mua về. Em trang trí cho cây hoa bằng đủ mọi thứ: câu chúc tết, bao lì xì, hình Phúc-Lộc-Thọ,… Cây mai đứng đón khách ngày Tết… Gió thổi làm những cảnh hoa lung lay như những cánh tay vẫy chào khách quí.
Em thích Tết củng như rất thích loài hoa biểu tưởng cho mùa xuân! Để có được một cành hoa mai đẹp trưng bày trong ngày Tết, hằng ngày em vừa chăm sóc, tưới nước cho cây vừa lặng lẽ ngắm nhìn cây lớn lên tươi tốt như một người bạn thân. Thật vui biết bao khi thấy một búp non nở ra một bông mai vàng xen giữa những lá xanh nho nhỏ, cành cây yểu điệu, mùi thơm thoang thoảng. Hình ảnh này khắc sâu trong kí ức em!
|
Instruct
Spring comes! Thousands of flowers are blooming, competing to show off colorful scenes: this is a rose with a bright red color, this is a lilac with a striking purple color, this is a milk flower with bright white petals,... But among them, I still like yellow apricot flowers the most.
Tet is coming! Spring comes! Yellow apricot flowers are the best. Just go to the street and see. Every house displays a pot of bright yellow apricot blossoms. Although roses are known as the queen of flowers, when Tet comes, they must give way to yellow apricot blossoms. So this is my favorite flower. Tree spirit, small branches, dark ginseng radiate countless bright yellow flowers.
The apricot tree displayed in front of my house was bought by my mother. I decorate the flower tree with everything: New Year greetings, lucky money envelopes, pictures of Phuc-Loc-Tho,... The apricot tree stands to welcome guests on Tet... The wind blows, making the flower scenes waver like arms waving to guests. precious.
I like Tet and also like flowers that symbolize spring! To have a beautiful apricot flower branch to display during Tet, every day I take care of and water the tree while quietly watching it grow lushly like a close friend. How happy it is to see a young bud blooming into a yellow apricot flower amidst small green leaves, graceful branches, and a faint fragrance. This image is deeply engraved in my memory!
|
Hướng dẫn
Tôi không biết các bạn cảm nhận như thế nào về dòng song quê mình, nhưng đối với tôi nó gắn liền với kí ức tuổi thơ đẹp đẽ của tôi và những người bạn ở đó sinh ra và lớn lên bên cạnh dòng sông quê hương, tôi cảm thấy yêu nó biết bao nhiêu.
Dòng sông uốn quanh khắp mọi nẻo đường tôi đi trên quê hương. Từ nhà tôi đến trường học hôm nào cũng được ngắm nhìn con sông thơ mộng đó. Nó không chỉ để lại trong kí ức tuổi học trò tôi mà còn để lại kí ức đẹp đẽ đối với các bạn tôi.
Hằng ngày đạp xe qua những cây cầu dưới là con sông quê hương, với chiếc khăn quàng đỏ thắm hình ảnh đó mà khi trưởng thành chúng tôi luôn luôn lưu luyến mãi. Bạn thử tưởng tượng xem, đẹp lắm đúng không.
Ngôi trường cấp hai chúng tôi theo học mang tên dòng sông ấy. chúng tôi cảm thấy tự hào về điều đó. Con sông đó gắn sâu với kí ức trẻ thơ của chúng tôi.
Trưa hè nắng nóng, chúng tôi lại tụ tập bên bờ sông, bên những gốc cây bằng cạnh dòng sông và chơi những trò chơi của trẻ con như nhảy dây, ‘đi chợ về chợ’,… Chiều chiều về, chúng tôi rủ nhau nhảy xuống sông tắm sông, đùa nghịch với nhau trên dòng nước trong veo đó.Ôi! nhắc lại mà tôi cảm thấy hình ảnh đó lại về, miệng tôi lại mỉm cười với những kí ức đó.
Rồi những lần cùng mẹ và các cô hàng xóm xung quanh xuống cạnh bờ sông giặt đồ, họ nói chuyện với nhau rôm rả sau một ngày làm việc vất vả. Có thể nói, mọi hoạt động của chúng tôi và gia đình đều gắn với những kỉ niệm bên dòng sông huyền thoại đó.
Hằng năm, con sông đó lại dậy sóng bởi lễ hội đua bơi thuyền truyền thống mùng 2/9. Chúng tôi cảm thấy tự hào khi con sông đó đã có mặt trên quê hương tôi. Vào ngày đó, tất cả con dân ở quê hương tôi, kể cả những con xa xứ đều đổ về đứng cạnh bờ sông hay hàng ngàn người đứng trên những cây cầu để chứng kiến màn đua thuyền kịch liệt đó. Có lẽ ngày quốc khách mọi năm đối với quê hương tôi là một ngày tưng bừng gắn với con sông quê hương
Tôi yêu con sông quê hương tôi. Con sông đó nó mang lại cho tôi nhiều kỉ niệm và hình ảnh đẹp nhất, thực nhất để sau này tôi có cái mà nhớ, mà hoài niệm về nó.
BIỂU CẢM VỀ SÔNG SÀI GÒN
Con sông có tự bao giờ mà chứng kiến cả một nền văn hóa của đất phương Nam: con sông Sài gòn. Quận 4, nơi tôi sống, củng có niềm vinh dự được con sông Sài gòn ghé ngang qua với bao nét đẹp quyến rũ cũng như những chủng tích lịch sử vẻ vang.
Nếu ai đã một lần ngắm nhìn sông Sài Gòn từ trên cầu Khánh Hội thì chắc sẽ không bao giờ quên được cảm giác lâng lâng khó tả. Lúc ấy, tôi tưởng chừng như được dòng sông đưa về thời ấu thơ, thật êm đềm, trong sáng, thuần khiết. Dòng nước uốn lượn như mái tóc người thiếu nữ, mềm ại, óng ả, trải dài cả cây số. “Mái tóc ấy” nhuộm màu xanh ngọc bích. Đó là vào buổi chiều thôi còn nếu vào buổi sáng lại có màu xanh lơ như bầu trời lồng lộng trên cao. Tôi thích được thả hồn theo dòng nước trôi như những người bạn thầm thì với nhau, có lúc đùa giỡn, có lúc giận hờn. Còn buổi tối thì sao? Dòng sông lấp lánh, huyền ảo với những con sóng lăn tăn phản chiếu ánh đèn đường nhìn như những chú cá bơi lội tung tăng. Ôi! sao cảnh tượng chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc.
Đã nói đến sông nước thì phải nói đến tàu thuyền thông thương qua lại vì sông mà thiếu thuyền bè giống như em bé thiếu sữa mẹ vậy. Tôi rất thích ngắm nhìn những con tàu đủ hình đủ dạng. Nếu ai chưa một lần ghé Cảng Sài Gòn thì chắc chắn sẽ ngạc nhiên trước những con tàu hiện đại với hình dáng một con cá mập trắng muốt. Ớ gần nơi neo đậu những con tàu “cá mập” ấy là bến phà Thủ Thiêm. Nơi đây lúc nào cũng tấp nập người người qua sông cùng từng đoàn xe nối đuôi nhau xuống phà. Buổi sáng thì thế nhưng đến tối ai củng phải ngất ngây trước khung cảnh những con tàu lớn bé cùng nhau lên đèn hoà cùng ánh sáng chói rực của những dòng xe lưu thông lioà quyện với ánh đèn xanh đỏ nhấp nháy của những khách sạn sang trọng tạo nên một bức tranh huyền ảo như lạc vào cõi tiên.
|
Instruct
I don't know how you feel about my hometown river, but for me it is associated with my beautiful childhood memories and my friends there who were born and raised next to my hometown river, I feel so much love for it.
The river curves around every path I take in my homeland. Every day from my house to school, I can see that romantic river. It not only left in my student's memories but also left beautiful memories for my friends.
Every day we cycle across the bridges under our hometown river, with the scarlet scarf, that image is something we will always remember as adults. Just imagine, it's beautiful, isn't it?
The middle school we attended was named after that river. we feel proud of that. That river is deeply associated with our childhood memories.
On a hot summer afternoon, we gathered on the riverbank, next to the flat trees next to the river and played children's games such as jumping rope, 'going to the market', etc. In the afternoon, we invited each other jumping into the river to bathe in the river, playing with each other in that clear water. Oh! Again, I feel that image come back, my mouth smiles again with those memories.
Then, when she and her mother and the neighbors went down to the river to wash clothes, they talked loudly to each other after a hard day's work. It can be said that all of our and our family's activities are associated with memories of that legendary river.
Every year, that river stirs up waves with the traditional boat racing festival on September 2. We feel proud that that river is present in my hometown. On that day, all the people in my hometown, including those far from home, came to stand by the riverbank or thousands of people stood on the bridges to witness that fierce boat race. Perhaps every year's National Day for my homeland is a jubilant day associated with my hometown river
I love my hometown river. That river brings me many of the most beautiful and real memories and images so that in the future I will have something to remember and be nostalgic about.
EXPRESSION ABOUT SAIGON RIVER
The river has never witnessed the entire culture of the South: the Saigon River. District 4, where I live, also has the honor of having the Saigon River passing by with so many charming beauties as well as glorious historical sites.
If anyone has once looked at the Saigon River from Khanh Hoi Bridge, they will never forget the indescribable feeling of lightheadedness. At that moment, I felt like the river was taking me back to my childhood, it was so peaceful, bright, and pure. The water flows like a young woman's hair, soft, shiny, stretching for a kilometer. “That hair” is dyed jade green. It's only in the afternoon, but in the morning it's as blue as the sky above. I like to float along the flowing water like friends whispering to each other, sometimes joking, sometimes angry. What about the evening? The river is sparkling and magical with rolling waves reflecting the street lights, looking like fish swimming around. Oh! The scene is like a watercolor painting.
When talking about rivers, we must talk about boats and ships traveling back and forth because a river without boats is like a baby lacking mother's milk. I love looking at ships of all shapes and sizes. If anyone has never visited Saigon Port, they will certainly be surprised by the modern ships with the shape of a white shark. Near the anchorage of those "shark" ships is the Thu Thiem ferry terminal. This place is always crowded with people crossing the river with groups of vehicles lining up to get off the ferry. In the morning, it's like that, but at night everyone is ecstatic at the sight of large and small ships lighting up together, blending with the bright light of traffic lines mixed with the flashing red and blue lights of luxury hotels. creates a magical picture like being lost in a fairyland.
|
Hướng dẫn
Mảnh đất nơi đây cằn cỗi, thời tiết thì nóng bực hoặc lạnh thì lạnh tím da tím thịt. Nhưng không vì thế mà tôi chán ghét mảnh đất nơi đây, ngược lại tôi yêu mảnh đất này vô cùng.
Yêu mảnh đất này là vì nơi đây sinh ra tôi, nuôi tôi khôn lớn bằng những thứ dân giả thường có. Hơi thở, cuộc sống nơi đây nuôi tôi khôn lớn. Tôi có cái ăn là nhờ những cây lúa được trồng chốn này, cái cái học cũng là nhờ những cánh đồng lúa đó vì ba mẹ tôi làm nông để sinh sống và nuôi hai anh em chúng tôi.
Quê tôi dạy cho tôi cách làm người lương thiện, cách nhẫn nại của một con người. Người dân quê tôi họ có ý chí, có ‘sức chịu đựng’ trước những khó khăn thiên nhiên gây ra cho họ.
Họ chỉ biết sống và làm việc; không sân si, toan tính điều gì. Họ sống với cái tâm thánh thiện của mình. Họ không cố chạy những lợi nhuận lớn trước mắt mà bỏ mặc cái ông cha truyền dạy. Có người vẫn theo làm thợ mộc mặc dù phải kì công, tỉ mỉ từng li từng tí; có gia đình từ đời ông bà đến đời con, cháu họ vẫn theo nghề dệt nón;…
Những thảm họa của thiên nhiên không làm họ nhụt chí. Họ vẫn ở đó, vẫn làm việc, vẫn gồng mình chống lại các thiên tai, bão lụt.
Người dân quê tôi sống một cuộc sống rất mực tình cảm. Họ luôn quan tâm nhau giữa gia đình, làng xóm láng giềng với nhau. Khó khăn của một gia đình cũng như khó khăn chung của một tập thể vì thế họ luôn giúp đỡ nhau trong đời sống, công việc.
Tôi yêu những con người ở đây cần cù, siêng năng; chịu thương, chịu khó!
Tôi luôn quan niệm rằng: con người thay đổi quê hương chứ quê hương không thay đổi một con người. Vì thế những khó khăn ở quê tôi không làm chúng tôi(những người con, người cháu được sinh ra trên mảnh đất này) cảm thấy bị bất tài trước hoàn cảnh
Là một người con ở quê hương này tôi đã và đang cố gắng học thật chăm ngoan vì biết đâu chính tôi có thể góp một phần vào sự phát triển của quê hương. Như nhà thơ Đỗ Trung Quân từng nói:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi!
Tôi yêu quê hương tôi!
CẢM NGHĨ VỀ MỘT CẢNH ĐẸP QUÊ EM: CẢNH VẬT NÚI BÀ ĐEN – TÂY NINH
Người ta bảo núi Bà Đen là một thắng cảnh của miền sơn cước Tây Ninh, thật không phải là quá đáng!
Những buổi bình minh, mặt trời còn bẽn lẽn núp sau sườn núi, phong cảnh nhuộm những màu sắc đẹp lạ lùng. Hòn núi tù màu xám xịt đổi ra màu tím sẫm; từ màu tím sẫm đổi ra màu hồng; rồi từ màu hồng lần lần đổi ra màu vàng nhạt. Cho đến lúc mặt trời chễm chệ ngự trị trên chòm mây, ngọn núi mới trở lại màu xanh biếc thường ngày của nó.
Ngoài cảnh rừng sâu và núi cao, núi Bà Đen còn chứa bao nhiêu là kì quan và di tích; nào gót chân Phật trên thạch bàn; nào suối vàng, hang gió; nào điện cổ kính, uy nghi. Đâu đâu củng có thơ đề, phú vịnh của khách thập phương vãng lai.
|
Instruct
The land here is barren, the weather is hot or cold, the skin is purple and the flesh is purple. But that doesn't mean I hate this land, on the contrary, I love this land very much.
I love this land because I was born here and raised me with the things common people have. The breath and life here raised me up. I have food thanks to the rice grown here, and my education is also thanks to those rice fields because my parents worked as farmers to make a living and raise us two brothers.
My hometown teaches me how to be an honest person, how to be patient. The people of my hometown have the will and 'endurance' to face the difficulties that nature causes them.
They only know how to live and work; not angry or calculating anything. They live with their holy hearts. They do not try to make big profits in front of them but ignore what their ancestors taught them. Some people still work as carpenters even though they have to work hard and be meticulous about every detail; There are families from grandparents to children and grandchildren who still follow the profession of weaving hats;...
Natural disasters do not discourage them. They are still there, still working, still fighting against natural disasters and floods.
People in my hometown live a very emotional life. They always care for each other between their families and neighbors. A family's difficulties are the same as the general difficulties of a group, so they always help each other in life and work.
I love the industrious and diligent people here; suffered hard!
I always believe that people change their homeland, but their homeland does not change a person. Therefore, the difficulties in my hometown do not make us (the children and grandchildren born in this land) feel incompetent in the face of the situation.
As a child in this homeland, I have been trying to study hard because maybe I can contribute to the development of my homeland. As poet Do Trung Quan once said:
Each person's homeland is unique
Like there's only one mother!
I love my hometown!
THOUGHTS ABOUT A BEAUTIFUL SCENES OF MY HOMETOWN: SCENES OF BA DEN MOUNTAIN - TAY NINH
People say that Ba Den Mountain is a scenic spot of the mountainous region of Tay Ninh, which is not an exaggeration!
At dawn, the sun still shyly hides behind the mountainside, the landscape is dyed in strangely beautiful colors. The dull gray mountain changed to dark purple; from dark purple to pink; Then from pink gradually changed to light yellow. Until the sun rises above the clouds, the mountain returns to its usual blue color.
In addition to the deep forests and high mountains, Ba Den Mountain also contains many wonders and relics; Buddha's heel on the stone table; there are golden streams and wind caves; What an ancient, majestic palace. Everywhere there are poems and poems from visitors from all over.
|
Hướng dẫn
Mùa xuân về lúc nào không rõ. Tôi nghe tiếng vườn gọi. Tôi chầm chậm gỡ chiếc cổng rong bước vào.
Cây mùỗm khoe vồng hoa mới. Hoa muỗm tua tủa trổ thẳng lên trời. Hoa nhài đã trắng xoá ở bên vại nước. Hoa gọi người bằng hương, bằng sắc. Những bông hoa nhài xinh, một màu trắng tinh khôi, hương ngạt ngào sực nức.
Hoa vườn có những màu cơ bản mà cây cọ của các hoạ sĩ chưa chắc đã hoà sắc nổi. Khi hoa nhài nở thì hoa bưởi cũng đua nhau nở. Từng chùm hoa bưởi, cánh trắng cũng chẳng kém gì hoa nhài, nhưng hoa bưởi lại có những tua nhị vàng ngấn lên giữa lòng hoa, chẳng khác gì những bông thủy tiên thu nhỏ. Hoa thơm nức ngào ngạt mang vẻ đẹp nồng hậu của các cô gái quê. Hoa bưởi là hoa cây còn hoa nhài là hoa bụi. Hoa cây có sức sống mạnh mẽ. Hoa bụi có chút gì giản dị hơn. Bông nhài trăm cánh như nhau, hương toả từ những cánh hoa. Nhưng hương bưởi và hương nhài chẳng bao giờ lẫn. Mỗi thứ hoa có tiếng nói riêng của mình.
Vườn chè sau nhà tôi cũng bắt đầu ra búp. Những búp chè xuân một tôm hai lá. Tôm màu lá mạ, lá ngấn một màu xanh non… Và dọc bụi tre, những lá già theo gió đông nam thổi về, trút một lượt dưới gốc. Tiếng tre kẽo kẹt là một thứ tiếng vườn. Không bao giờ quên nổi. Lá tre già bay bay trước gió, xao xác như thể từ đó trải một nỗi buồn nhẹ nhàng thầm kín. Nhưng cái buồn ấy dễ quên ngay, khi thấy trên các nhành tre mới là những tán xoan. Cả mùa đông, xoan phai thân phơi cành khô trước gió lạnh. Mà chỉ hơi xuân chớm đến, trên những càhh cây tưởng chừng như chết ấy, bỗng vỡ òa ra những chùm lộc biếc. Lộc xoan có màu ngọc lục sang trọng, nhìn ngắm mãi vẫn chưa hết vẻ đẹp của búp trên cành!
Và trong những tầng lá, những tán cây vườn ấy, mọi sinh vật đều tụ hội…
CẢM NGHĨ VỀ CẢNH VẬT: KHU VƯỜN NHÀ BÁC
Sau khi dạo quanh đất nước, nếm các vị ngọt bùi, ta bâng khuâng trở về với cội nguồn của nó: mảnh vườn quanh nhà sàn Bác. Đây là cái gôc của mùa xuân, cái gốc của mọi niềm vui, của màu xanh và vị ngọt bùi nở ra vô tận.
|
Instruct
It's unclear when spring will come. I heard the garden calling. I slowly removed the gate and entered.
The Muom tree shows off a rainbow of new flowers. Eclipta flowers bloom straight into the sky. The jasmine flowers have turned white next to the water jar. Flowers call people by their scent and color. Beautiful jasmine flowers, pure white, with a sweet scent.
Garden flowers have basic colors that painters' brushes may not be able to blend. When jasmine blooms, grapefruit flowers also bloom. Each cluster of grapefruit flowers has white petals just like jasmine, but grapefruit flowers have yellow tassels of stamens rising up in the middle of the flower, just like miniature daffodils. The fragrant flowers carry the warm beauty of country girls. Grapefruit flowers are tree flowers and jasmine flowers are bush flowers. Flowers have strong vitality. Bush flowers are a bit simpler. A jasmine flower has hundreds of identical petals, fragrance radiates from the petals. But the scent of grapefruit and jasmine never mixes. Each flower has its own voice.
The tea garden behind my house also started to produce buds. Spring tea buds have one shrimp and two leaves. The shrimp are the color of rice-plated leaves, the leaves are a young green color... And along the bamboo bushes, old leaves are blown by the southeast wind, pouring out at the roots. The sound of creaking bamboo is a garden language. Never forget. The old bamboo leaves fluttered in the wind, stirring as if from there a secret, gentle sadness spread. But that sadness is easy to forget when you see that on the new bamboo branches are oval canopies. All winter long, the tree's trunk fades and its branches dry in the cold wind. But just the beginning of spring, on the branches of those seemingly dead trees, bursts of blue buds suddenly burst forth. The buds have a luxurious emerald color, looking at them forever still can't get enough of the beauty of the buds on the branches!
And in those layers of leaves and trees in the garden, all living things gather...
THOUGHTS ABOUT THE SCENE: THE GARDEN OF THE DOC'S HOUSE
After walking around the country, tasting the sweet flavors, we wistfully returned to its origin: the garden around Uncle Ho's stilt house. This is the root of spring, the root of all joy, of the green color and sweetness that blooms endlessly.
|
Hướng dẫn
Mỗi loài cây có một vẻ đẹp riêng của nó mà không thể lẫn vào đâu được. Cây chuối cũng vậy, nó giản dị, đơn sơ như cô gái miền quê. Nhưng nó cũng mang vẻ quý phái như cô gái thành thị.
Cái màu đặc trưng mà cây chuối tạo ra cho chúng ta là màu xanh, xanh từ thân cây đến ngọn lá cuối cùng. Cây chuối bám rễ sâu vào lòng đất, thân cây láng bóng như làn da của những đứa trẻ thơ nhưng khi chuối già thì thân cây có một lớp vỏ bọc màu nâu xám, thân thẳng như cột nhà. Lũ trẻ con chúng tôi lúc đó thích ôm lấy thân cây lắm vì nó không có gai hay gì cả nên chúng tôi ôm nó như một người bạn.
Lá chuối tản ra như những cái quạt nan to lớn. So với các loài cây khác thì chuối là loài cây không có cành. Bắp chuối có màu đỏ tím và vỏ bọc bên ngoài của nó như những cánh hoa sen to lớn nên nhìn rất đẹp.
Ở mỗi vùng miền sẽ có những cây riêng biệt mà các vùng khác không thể trồng được nhưng riêng cây chuối đi khắp dải đất việt nam này đâu đâu ta cũng thấy hình ảnh của nó.
Chuối dường như chẳng bỏ được thứ gì. Nó tạo ra nhiều hữu ích cho con người. Không chỉ bởi nó đem đến cho con người những quả chuối ăn rất ngon với hương vị ngọt lịm, màu vàng hấp dẫn. Món bánh truyền thống trong mỗi gia đình việt nam ngày tết là bánh chưng, bánh giày thì lá chuối là lớp vỏ ngoài để tạo nên hương vị đặc sắc của món bánh truyền thống đó. Thân chuối có thể cho lợn ăn. Thỉnh thoảng có người còn xin cả rễ chuối về làm thuốc.
|
Instruct
Each tree species has its own beauty that cannot be confused. The banana tree is the same, it is simple and simple like a country girl. But it also has the elegance of an urban girl.
The characteristic color that the banana tree gives us is green, green from the stem to the last leaf tip. The banana tree is deeply rooted in the ground, its trunk is as shiny as a child's skin, but when the banana tree is old, the trunk has a gray-brown bark, and the trunk is as straight as a house pillar. We children at that time liked to hug the tree trunk because it had no thorns or anything, so we hugged it like a friend.
Banana leaves spread out like large bamboo fans. Compared to other tree species, bananas are branchless trees. Banana ears are purple-red in color and their outer shell is like large lotus petals, so it looks very beautiful.
In each region, there will be unique trees that cannot be grown in other regions, but banana trees can be seen everywhere throughout this strip of Vietnam.
Bananas don't seem to get rid of anything. It creates many benefits for humans. Not only because it gives people delicious bananas with a sweet taste and attractive yellow color. Traditional cakes in every Vietnamese family on Tet are banh chung and banh day, with banana leaves as the outer layer to create the unique flavor of those traditional cakes. Banana stems can be fed to pigs. Sometimes people even ask for banana roots to use as medicine.
|
Hướng dẫn
“Hay quả!… hay quá!… hay quá!…” Hàng loạt âm thanh cổ vũ, khen ngợi chú gà trống của nhà em đang vỗ cánh, cất lên tiếng gáy lanh lảnh vang khắp xóm. Đây là chú gà mà em thích nhất trong số các con vật nuôi trong nhà.
Chú gà trống thật đẹp! Nhìn xa, chú bước đi chậm rãi, thong dong với dáng vẻ hiên ngang, hơi chút kênh kiệu làm cho cả đặn phải kiêng nể. Càng đến gần càng cảm nhận được nét oai phong lẫm liệt của một chú gà hảo hán luôn sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp. Chú có thân hình to lớn, dáng dấp vạm vỡ, cao khoảng ba gang tay. Ngoài thân mình, chú khoác một bộ áo óng ánh màu đen bóng pha lẫn màu đỏ lửa trông giống như bộ áo giáp của một hiệp sĩ.
Các bạn ơi, các bạn có biết không tuy có vẻ nóns tính và hiếu chiên nhưng chú gà trống của mình rất dễ thươns. Chú sẵn sàng nhường cho các chú gà con, cho các chị gà mái khi bới tìm được thức ăn. Và cũng rất dễ thương khi chú làm dáng với các cô gà mái bằng cách khoe ra những chiếc lông đuôi sặc sỡ, vổng cao lên thành một đường cong mềm mại trông giống như chiếc quạt nan.
Em thích nhất là cứ mỗi buổi sáng, bất kể trời mưa hay nắng, nóng hay lạnh, giống như một người công nhân cần cù siêng năng, chịu thương chịu khó, chú thực hiện công việc mà thiên nliiển giao phó: Nhảy lèn một cành cây cao thuận tiện, vỗ cánh phành phạch như để khởi động, chú cất lèn bài ca muôn thuở “ò.. ó… o… o…”. Tiêng gáy vang xa khắp không gian thúc cho ông mặt trời xuất hiện. Tiếng gáy vang xa giục người lớn mau thức dậy chuẩn bị đi làm. Tiếng gáy vang xa hối các em nhỏ tỉnh ngủ nhanh tay cắp sách đến trường. Chú gà trông quả thật là một đồng hồ báo thức tuyệt vời!…
Để đáp lại công lao mang lại lại ích cho nhiều người, em luôn chăm sóc chú gà rất cẩn thận. Hằng ngày, ngoài thức ăn chú tự tìm được do bới tìm dưới đất, em còn cung cấp thêm thóc lúa cho chú. Cứ mỗi lần em cầm nắm thóc bước ra sân với tiếng “bấp…bấp…” phát ra trên miệng thì chú gà đứng im, mắt hướng về phía em như chờ đợi, như yêu thích, như thốt lên lời: “Cám ơn cô chủ! Cô đối xử rất tốt với tôi, tôi sẽ không phụ lòng cô đâu!” Và khi nắm thóc được tung ra thì những tiếng “cốc… cốc…cốc…” không ngừng vang lên trên nền gạch.
Tiếng gà gáy bay lên không trung, vang xa khắp bầu trời chẳng những là một tiếng kèn làm mọi người thức giấc, tính dậy mà còn là một tiếng loa nhắc nhở tất cả chúng ta phải luôn quý trọng và yêu mến loài vật, yêu mến thiên nhiên giống như Bác Hồ đã từng làm gương cho con cháu:
“Con cá rô ơi chớ có buồn
Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn.”
BIÊU CẢM VỀ CON CHIM CÔNG
Mùa xuân trăm hoa đua nở, ngàn lá khoe sức sống mơn mởn. Mùa xuân cũng là mùa công múa.
Con công cái to bằng con gà mái, thân hình hơi giống con gà mái tây. Cổ công cái dài và cong như cổ ngỗng. Mỏ hơi giống mỏ chim cuốc. Công cái là một loài chim không đẹp, cũng không xấu. Nhưng khi công cái đứng cạnh công đực thì lại trở nên xấu xí, chỉ vì công đực quá đẹp.
Mùa xuân, mùa chim công cái gọi đực. Công thường đi từng đôi nhởn nha kiếm ăn giữa rừng. Chim công củng bới như gà, ăn mối, ăn kiến, ăn sâu bọ như gà nhà. Sau khi kiếm ăn được lưng lửng diều, con đực múa vờn con cái. Khi kiếm ăn hay nhởn nha dạo xung qunh những gốc cây cổ thụ hoặc đậu trên cành cao, đuôi con công đực thu lại như chiếc quạt giấy khép hờ, dài gần sải tay, bao nliièu màu sắc của đuôi công được giấu kín. Nhưng khi con công mái kêu ‘cút cút” như con gà mái gọi trống thỉ lập tức con đực củng lên tiếng “ực ực” sâu trong cổ họng đáp lại. Đồng thời con đực xoè bộ đuôi thành một chiếc ô rực rỡ, che rợp cả con mái.
Mùa xuân, từng đôi công suốt ngày kiếm ăn, suốt ngày múa vờn bên nhau. Chiếc ô màu sắc đẹp đến kì ảo xập xoè uốn lượn dưới ánh nắng xuân ấm áp. Quả không ngoa, khi người ta ví chim công là những nghệ sĩ múa tuyệt vời của rừng xanh.
BIỂU CẢM VỀ CHIM THIÊN NGA
Cánh đồng cỏ của cao nguyên Gia Lai, Đắc Lắc vào mùa mưa, có rất nhiều hồ nước nổi lên như những chiếc gương lớn. Một loại chim từ phương bắc, bay theo các triền núi cao Trường Sơn về đây tụ tập lại quanh các hồ nước kiếm ăn, tắm mát và ca hát: chim thiên nga.
Thiên nga thân trắng phau, mỏ đỏ, chân cao, cặp mắt đen huyền, viền vàng và mang trên đầu một lớp lông tơ mịn xanh nhạt như màu xanh da trời. Thiền nga đậu trắng mặt hồ, và màu trắng của nó nổi bật trên nền xanh của cỏ non, hoà với màu sáng của nước bạc long lanh dưới ánh nắng vừa chợt đến, chợt đi.
|
Instruct
"Great!... so good!... so good!..." A series of cheering sounds, praising my rooster, which was flapping its wings and making a sharp crowing sound that echoed throughout the neighborhood. This is my favorite chicken among the pets in the house.
The rooster is so beautiful! Looking from afar, he walked slowly and leisurely with a proud, slightly arrogant appearance that made everyone respect him. The closer you get, the more you feel the majesty of a heroic chicken always ready to act in good faith. He has a large body, muscular appearance, about three hands tall. Outside of his body, he wears a shiny black shirt mixed with fire red that looks like the armor of a knight.
Dear friends, do you know that even though my rooster seems hot-tempered and fond of cooking, my rooster is very cute? He is willing to give it to the chicks and hens when they find food. And it's also very cute when he poses with the hens by showing off his colorful tail feathers, raised high into a soft curve that looks like a fan.
What I like best is that every morning, regardless of whether it's raining or sunny, hot or cold, like a diligent, hard-working worker, he carries out the work assigned by heaven: Jumping one at a time. The tree branch was conveniently high, flapping its wings as if to warm up, he sang the eternal song "o.. o... o... o...". The crowing sound echoed throughout the space, urging the sun to appear. The distant crowing sound urged the adults to quickly wake up and prepare to go to work. The distant sound of crowing urged the children to wake up and quickly take their books to school. The chicken looks like a great alarm clock!…
In return for the work that has benefited many people, I always take care of the chicken very carefully. Every day, in addition to the food he finds himself by digging on the ground, I also provide him with rice. Every time I hold a handful of rice and step out into the yard with the sound "bap...bap..." coming out of my mouth, the chicken stands still, eyes looking towards me as if waiting, as if loving, as if saying: "Thank you, Miss." owner! You treat me very well, I will not disappoint you!” And when the handful of rice was released, the sounds of "knock...knock...knock..." kept ringing on the tile floor.
The sound of a rooster crowing into the air, echoing far and wide across the sky, is not only a trumpet sound that wakes everyone up, but also a loudspeaker reminding us all to always respect and love animals, Love nature like Uncle Ho once set an example for his children and grandchildren:
“Dear perch, don't be sad
Uncle still calls every afternoon."
DEMONSTRATION OF A PEACOCK
In spring, hundreds of flowers bloom, thousands of leaves show off their vibrant vitality. Spring is also the season of peacock dancing.
The female peacock is as big as a hen, and its body resembles a turkey hen. The female peacock's neck is long and curved like a goose's neck. The beak resembles a coot's beak. The female peacock is a bird that is neither beautiful nor ugly. But when a female peacock stands next to a male peacock, she becomes ugly, just because the male peacock is so beautiful.
Spring is the season when female peacocks call males. Peacocks often go in pairs to search for food in the forest. Peacocks dig like chickens, eat termites, ants, and insects like domestic chickens. After finding food on the kite's back, the male dances with the female. When foraging for food or roaming around old trees or perching on high branches, the male peacock's tail retracts like a half-closed paper fan, nearly arm's length, all the colors of the peacock's tail are hidden. But when the female peacock cried "quit" like a hen calling a rooster, the male immediately responded with a "gulp" sound deep in his throat. At the same time, the male spreads his tail into a brilliant umbrella, covering the female.
In the spring, each pair of peacocks searches for food all day and dances together all day. The magically beautiful colored umbrella sways under the warm spring sunlight. It is no exaggeration when people say that peacocks are wonderful dancers of the green forest.
EXPRESSION ABOUT THE SWAN
In the grasslands of the Gia Lai and Dak Lak plateau during the rainy season, there are many lakes emerging like large mirrors. A type of bird from the north, flying along the high slopes of Truong Son mountain, gathers here around the lakes to feed, bathe and sing: the swan.
The swan has a white body, a red beak, high legs, jet black eyes, golden rims, and a layer of fine, light blue fluff on its head. Thien Nga perches white on the surface of the lake, and its white color stands out against the green background of the young grass, blending with the light color of the silver water sparkling in the sunlight that suddenly comes and goes.
|
Hướng dẫn
– Mỗi khi nhắc đến một chữ thân thường ‘Mẹ’ thì cảm xúc của tôi bắt đầu chững lại, tôi lại có cảm giác nghẹn ở lồng ngực. Có thể giải thích cho cảm xúc của tôi ngay lúc đó là vì khi mẹ hi sinh quá lớn lao cho cuộc sống của chúng tôi mà chúng tôi chưa thể làm điều gì cho Người.
– Người phụ nữ đó đã bỏ cả thanh xuân, bỏ cả hạnh phúc riêng của mình chỉ vì chúng tôi. Mẹ là điều tuyệt vời nhất mà tôi có!
– Đó là người sinh thành, nuôi nấng nên chúng tôi: Người cho chúng tôi đến với cuộc sống này, dắt chúng tôi hào nhập với thế giới này từ khi lọt lòng không ai khác là mẹ
+ Có thể bạn có rất nhiều mối quan hệ, bạn có nhiều bạn bè, nhiều thầy cô, nhiều anh chị nhưng quan hệ mẫu tử chỉ có một, không một ai có thể thay thế cho mối quan hệ thiêng liêng,ruột thịt đó được.
+ Dùng nhiều ngôn từ mĩ miều đi chăng nữa thì không bao giờ nói hết được tấm lòng mẹ đối với đứa con của mình được, như trong câu nói:
Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá
Sao đong đầy hai tiếng mẹ ơi!
+ Mẹ là người đã nuôi dưỡng chúng tôi từ đạo lí làm người, dạy cho chúng tôi những tiền đề bước vào cuộc sống để tránh những vấp ngã.
– Người phụ nữ đó chịu thương, chịu khó, lam lũ vì chúng tôi: Để chúng tôi có cái chữ bước vào đời, để chúng tôi có một hành trang tốt cho sự nghiệp sau này mẹ đã không quản nắng mưa lao động kiếm tiền để nuôi mấy đứa con.
+ Ai chả muốn sung sướng, ai chả muốn có công việc nhẹ nhàng, đỡ khổ nhưng mẹ chấp nhận chịu đựng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để chắp cánh những ước mơ của con. Mẹ không ngần ngại cực nhọc từ sáng đến tối để kiếm ra những đồng tiền cho con cái ăn, cái học.
– Trong mắt những đứa con mẹ là người phụ nữ phúc hậu, có một trái tim nhân thiện, bao dung: Trái tim người mẹ là trái tim luôn nghĩ cho những đứa con, mẹ luôn bảo vệ chúng con dù cả xã hội có chống đối lại đi nữa.
+Mẹ nói rằng: mai sau này nếu lầm đường lạc lối thì hãy về bên mẹ. mẹ luôn giang rộng vòng tay cho con. Có những khi tôi cãi lại mẹ, lớn tiếng với mẹ nhưng bà ấy không một lời trách móc mà sau đó ngồi giải thích cho tôi cái đúng, cái sai trong những hành động của mình.
“ Trái tim của người mẹ là vực sâu muôn trượng mà ở dưới đáy, bạn sẽ luôn tìm thấy sự thứ tha” – Balzac
+Mẹ luôn sống tâm thiện vì các con, giống như trong câu ca dao:
“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây phúc để đời cho con”
– Là người phụ nữ coi trọng hạnh phúc gia đình lên tất cả: là người vun vét cho gia đình, bảo vệ tổ ấm gia đình bởi vậy chúng tôi mới được sống trong một gia đình trọn vẹn đầy ắp tình yêu thương như hôm nay.
– Mẹ là người cam chịu sự nhọc nhằn của số phận để tiếp tục chắp cánh tương lai cho những đứa con của mình
– Có thể mẹ không cho được con điều tốt nhất trên thế giới nhưng mẹ sẽ cho con điều tốt nhất mà mẹ có. Vì vậy là một người con tôi hiểu cần và nên làm gì để mẹ vui, để mẹ bớt những suy nghĩ, những gánh nặng về chúng tôi.
BÀI LÀM 2: CẢM NGHĨ VỀ ĐÔI MẮT CỦA MẸ
Dạo gần đây, truyền hình có chiếu một phim quảng cáo của một hãng sữa, trong đó có đoạn nhạc rất hay:”Cám ơn mẹ, vì Ich mẹ hát ru. Cám ơn mẹ, vòng tay mãi dịu êm. Mẹ là tia nắng ấm áp cho đời con thật ngọt ngào.” Bài hát đó thật xúc động! Dù chỉ một vài câu ngắn ngủi thôi mà đã lột tả hết được công lao cao cả của mẹ hiền.
Em nhớ mỗi lần đi học xa nhà, mẹ em chở ra hến xe buýt rồi dặn dò đủ thứ. Đôi mắt sâu thẳm màu hổ phách như truyền hơi ấm của tình mẹ bao la vào lòng em, như động viên em cô’ gắng học hành. Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Quả là đúng vỉ mẹ chỉ cần ‘nhìn vào mắt em là có thể hiểu được tâm trạng của em. Đôi lúc đôi mắt đẹp ấy trông về một nơi rất xa, nhưng chắc nơi đó cũng thật gần… Đó là những kỉ niệm trong các bức ảnh chụp cảnh đám cưới, cảnh anh em lúc còn nhỏ… Những tấm ảnh dù cũ kĩ nhưng đã khắc sâu vào lòng, không bao giờ phai. Mỗi lần mẹ xem hình thì nụ cười tươi như hoa lại hé nở trên môi.
Có lần, hồi học lớp một, em bị bệnh sốt xuất huyết. Mẹ đã vội vàng, bỏ hết công việc để chạy ngay vào bệnh viện để chăm sóc cho em. Khi đến, mẹ hồi.hộp ở ngoài phòng cấp cứu để theo dõi tình hình của em. Có lẽ mẹ đã thức trắng đèm, không chợp mắt một giây. Khi khỏi bệnh, nhìn lại mẹ, em thấy đôi mắt của mẹ sâu hoắm, mệt mỏi nhưng mẹ lại nở một nụ cười mãn nguyện. Lúc ấy sao em cảm thấy thương mẹ đến thế không biết! Em ước mình có thể lán thật nhanh để chăm sóc cho mẹ, thương yêu mẹ giống như mẹ đã hết lòng thương em.
Còn khi em thi Tốt nghiệp Tiểu học, hai ‘mẹ con đi xem kết quả. Điểm đỗ của em rất cao. Em nhớ nụ cười tươi tắn vì hạnh phúc. Đôi mắt mẹ long lanh vỉ vui sướng, vì tự hào có một đứa con ngoan, giỏi như em. Hình ảnh đó suốt đời em sẽ nhớ mãi, không bao giờ quên.
Nhà văn Edmondo de Amicis đã viết: “Con hãy nhớ rằng tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kể nào chà đạp lên tình thương yêu đó.” Em cảm thấy lời khuyên đó rất đúng và em. sẽ luôn tôn trọng tình cảm thiên liêng mà mẹ đã dành cho em.
BÀI LÀM 3: CON YÊU MẸ
“Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Nhánh dương kia ai lỡ ngắt nó đi
Hoa kia tàn rồi có hoa khác nở
Mẹ mất rồi tất cả hoá thành không.”
Ôi! Câu thơ ấy vẫn cứ vang mãi trong lòng em. Thế gian này, đời này của con chỉ có mẹ là tất cả.
Mùa xuân lại về, mẹ lại già thêm một tuổi. Mái tóc đen tuyền ngày nào giờ đã thay màu bạc trắng. Khuôn mặt xinh xắn ngày nào giờ xuất hiện nhiều nếp nhăn khổ cực. Chỉ có đôi môi của mẹ thi lúc nào củng nở nụ cười tươi như hoa.
Ôi! Khi nhìn thân xác của mẹ, tim con như đau nhói, như muốn đứt từng khúc ruột. Thân hình yêu kiều ngày xưa giờ nay còn đâuĩ Thân mẹ giờ đây ốm yếu, xanh xao. Con yêu mẹ vì những hi sinh tột cùng: mẹ đã mang nặng để đau để sinh ra con trong đời này. Mẹ đã gánh phần cơ cực để cho con có được một thân hình khoẻ mạnh. Biết bao đêm mẹ thức trắng, túc trực bèn giường bệnh khi con đau ốm.
Con yêu mẹ vì mẹ là lá chắn vĩ đại che chở cho con trước những sóng gió của cuộc sống. Khi con mắc lỗi, bị cha la rầy, bề ngoài mẹ tỏ ra không bênh vực con. Nhưng trong sâu thẳm, mẹ vẫn ngấm ngầm bảo vệ con. Dù đói khát, mẹ vẫn bảo rằng no để cho con được ăn ngon miệng. Dù có lạnh nhưng mẹ vẫn bảo rằng không để dành hơi ấm cho con trong mùa đông giá rét.
Con hạnh phúc vô cùng! Vì được tắm mình trong đôi mắt dịu hiền của mẹ. Dầu con có đi bất cứ nơi đâu trên trái đất này, ánh mắt mẹ vẫn dõi theo từng bước chân con. Những lúc con vấp ngã, mẹ là người đầu tiên nâng đỡ con lèn, tiếp cho con sức mạnh trên quãng đường đời đầy chông gai, trắc trở. Và chính nhờ bàn tay đỡ nâng của mẹ mà con tự tin tiến bước, vượt qua khó khăn mà đi đến đích thành công:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”
|
Hướng dẫn
– Mỗi khi nhắc đến một chữ thân thường ‘Mẹ’ thì cảm xúc của tôi bắt đầu chững lại, tôi lại có cảm giác nghẹn ở lồng ngực. Có thể giải thích cho cảm xúc của tôi ngay lúc đó là vì khi mẹ hi sinh quá lớn lao cho cuộc sống của chúng tôi mà chúng tôi chưa thể làm điều gì cho Người.
– Người phụ nữ đó đã bỏ cả thanh xuân, bỏ cả hạnh phúc riêng của mình chỉ vì chúng tôi. Mẹ là điều tuyệt vời nhất mà tôi có!
– Đó là người sinh thành, nuôi nấng nên chúng tôi: Người cho chúng tôi đến với cuộc sống này, dắt chúng tôi hào nhập với thế giới này từ khi lọt lòng không ai khác là mẹ
+ Có thể bạn có rất nhiều mối quan hệ, bạn có nhiều bạn bè, nhiều thầy cô, nhiều anh chị nhưng quan hệ mẫu tử chỉ có một, không một ai có thể thay thế cho mối quan hệ thiêng liêng,ruột thịt đó được.
+ Dùng nhiều ngôn từ mĩ miều đi chăng nữa thì không bao giờ nói hết được tấm lòng mẹ đối với đứa con của mình được, như trong câu nói:
Ngôn ngữ trần gian khờ dại quá
Sao đong đầy hai tiếng mẹ ơi!
+ Mẹ là người đã nuôi dưỡng chúng tôi từ đạo lí làm người, dạy cho chúng tôi những tiền đề bước vào cuộc sống để tránh những vấp ngã.
– Người phụ nữ đó chịu thương, chịu khó, lam lũ vì chúng tôi: Để chúng tôi có cái chữ bước vào đời, để chúng tôi có một hành trang tốt cho sự nghiệp sau này mẹ đã không quản nắng mưa lao động kiếm tiền để nuôi mấy đứa con.
+ Ai chả muốn sung sướng, ai chả muốn có công việc nhẹ nhàng, đỡ khổ nhưng mẹ chấp nhận chịu đựng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để chắp cánh những ước mơ của con. Mẹ không ngần ngại cực nhọc từ sáng đến tối để kiếm ra những đồng tiền cho con cái ăn, cái học.
– Trong mắt những đứa con mẹ là người phụ nữ phúc hậu, có một trái tim nhân thiện, bao dung: Trái tim người mẹ là trái tim luôn nghĩ cho những đứa con, mẹ luôn bảo vệ chúng con dù cả xã hội có chống đối lại đi nữa.
+Mẹ nói rằng: mai sau này nếu lầm đường lạc lối thì hãy về bên mẹ. mẹ luôn giang rộng vòng tay cho con. Có những khi tôi cãi lại mẹ, lớn tiếng với mẹ nhưng bà ấy không một lời trách móc mà sau đó ngồi giải thích cho tôi cái đúng, cái sai trong những hành động của mình.
“ Trái tim của người mẹ là vực sâu muôn trượng mà ở dưới đáy, bạn sẽ luôn tìm thấy sự thứ tha” – Balzac
+Mẹ luôn sống tâm thiện vì các con, giống như trong câu ca dao:
“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây phúc để đời cho con”
– Là người phụ nữ coi trọng hạnh phúc gia đình lên tất cả: là người vun vét cho gia đình, bảo vệ tổ ấm gia đình bởi vậy chúng tôi mới được sống trong một gia đình trọn vẹn đầy ắp tình yêu thương như hôm nay.
– Mẹ là người cam chịu sự nhọc nhằn của số phận để tiếp tục chắp cánh tương lai cho những đứa con của mình
– Có thể mẹ không cho được con điều tốt nhất trên thế giới nhưng mẹ sẽ cho con điều tốt nhất mà mẹ có. Vì vậy là một người con tôi hiểu cần và nên làm gì để mẹ vui, để mẹ bớt những suy nghĩ, những gánh nặng về chúng tôi.
BÀI LÀM 2: CẢM NGHĨ VỀ ĐÔI MẮT CỦA MẸ
Dạo gần đây, truyền hình có chiếu một phim quảng cáo của một hãng sữa, trong đó có đoạn nhạc rất hay:”Cám ơn mẹ, vì Ich mẹ hát ru. Cám ơn mẹ, vòng tay mãi dịu êm. Mẹ là tia nắng ấm áp cho đời con thật ngọt ngào.” Bài hát đó thật xúc động! Dù chỉ một vài câu ngắn ngủi thôi mà đã lột tả hết được công lao cao cả của mẹ hiền.
Em nhớ mỗi lần đi học xa nhà, mẹ em chở ra hến xe buýt rồi dặn dò đủ thứ. Đôi mắt sâu thẳm màu hổ phách như truyền hơi ấm của tình mẹ bao la vào lòng em, như động viên em cô’ gắng học hành. Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Quả là đúng vỉ mẹ chỉ cần ‘nhìn vào mắt em là có thể hiểu được tâm trạng của em. Đôi lúc đôi mắt đẹp ấy trông về một nơi rất xa, nhưng chắc nơi đó cũng thật gần… Đó là những kỉ niệm trong các bức ảnh chụp cảnh đám cưới, cảnh anh em lúc còn nhỏ… Những tấm ảnh dù cũ kĩ nhưng đã khắc sâu vào lòng, không bao giờ phai. Mỗi lần mẹ xem hình thì nụ cười tươi như hoa lại hé nở trên môi.
Có lần, hồi học lớp một, em bị bệnh sốt xuất huyết. Mẹ đã vội vàng, bỏ hết công việc để chạy ngay vào bệnh viện để chăm sóc cho em. Khi đến, mẹ hồi.hộp ở ngoài phòng cấp cứu để theo dõi tình hình của em. Có lẽ mẹ đã thức trắng đèm, không chợp mắt một giây. Khi khỏi bệnh, nhìn lại mẹ, em thấy đôi mắt của mẹ sâu hoắm, mệt mỏi nhưng mẹ lại nở một nụ cười mãn nguyện. Lúc ấy sao em cảm thấy thương mẹ đến thế không biết! Em ước mình có thể lán thật nhanh để chăm sóc cho mẹ, thương yêu mẹ giống như mẹ đã hết lòng thương em.
Còn khi em thi Tốt nghiệp Tiểu học, hai ‘mẹ con đi xem kết quả. Điểm đỗ của em rất cao. Em nhớ nụ cười tươi tắn vì hạnh phúc. Đôi mắt mẹ long lanh vỉ vui sướng, vì tự hào có một đứa con ngoan, giỏi như em. Hình ảnh đó suốt đời em sẽ nhớ mãi, không bao giờ quên.
Nhà văn Edmondo de Amicis đã viết: “Con hãy nhớ rằng tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kể nào chà đạp lên tình thương yêu đó.” Em cảm thấy lời khuyên đó rất đúng và em. sẽ luôn tôn trọng tình cảm thiên liêng mà mẹ đã dành cho em.
BÀI LÀM 3: CON YÊU MẸ
“Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Nhánh dương kia ai lỡ ngắt nó đi
Hoa kia tàn rồi có hoa khác nở
Mẹ mất rồi tất cả hoá thành không.”
Ôi! Câu thơ ấy vẫn cứ vang mãi trong lòng em. Thế gian này, đời này của con chỉ có mẹ là tất cả.
Mùa xuân lại về, mẹ lại già thêm một tuổi. Mái tóc đen tuyền ngày nào giờ đã thay màu bạc trắng. Khuôn mặt xinh xắn ngày nào giờ xuất hiện nhiều nếp nhăn khổ cực. Chỉ có đôi môi của mẹ thi lúc nào củng nở nụ cười tươi như hoa.
Ôi! Khi nhìn thân xác của mẹ, tim con như đau nhói, như muốn đứt từng khúc ruột. Thân hình yêu kiều ngày xưa giờ nay còn đâuĩ Thân mẹ giờ đây ốm yếu, xanh xao. Con yêu mẹ vì những hi sinh tột cùng: mẹ đã mang nặng để đau để sinh ra con trong đời này. Mẹ đã gánh phần cơ cực để cho con có được một thân hình khoẻ mạnh. Biết bao đêm mẹ thức trắng, túc trực bèn giường bệnh khi con đau ốm.
Con yêu mẹ vì mẹ là lá chắn vĩ đại che chở cho con trước những sóng gió của cuộc sống. Khi con mắc lỗi, bị cha la rầy, bề ngoài mẹ tỏ ra không bênh vực con. Nhưng trong sâu thẳm, mẹ vẫn ngấm ngầm bảo vệ con. Dù đói khát, mẹ vẫn bảo rằng no để cho con được ăn ngon miệng. Dù có lạnh nhưng mẹ vẫn bảo rằng không để dành hơi ấm cho con trong mùa đông giá rét.
Con hạnh phúc vô cùng! Vì được tắm mình trong đôi mắt dịu hiền của mẹ. Dầu con có đi bất cứ nơi đâu trên trái đất này, ánh mắt mẹ vẫn dõi theo từng bước chân con. Những lúc con vấp ngã, mẹ là người đầu tiên nâng đỡ con lèn, tiếp cho con sức mạnh trên quãng đường đời đầy chông gai, trắc trở. Và chính nhờ bàn tay đỡ nâng của mẹ mà con tự tin tiến bước, vượt qua khó khăn mà đi đến đích thành công:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”
|
Hướng dẫn
Trong chương trình Đôrèmi có một chú bé hát bài tựa đề “Cả thế giới ở trong túi bố”, nói về tình cha con của hai chú chuột túi. Chú bé đó còn tâm sự rằng ba của bạn ấy ở tận Trường Sa, không có ti vi để xem con mình biểu diễn. Thật là tội nghiệp cho chú bé! Em bỗng thấy mình thật hạnh phúc khi có ba luôn quan tâm, thương yêu, theo dõi theo mỗi bước em đi trên đường đời.
Bạn bè thường nói ba em có khuôn mặt nghiêm khắc. Cũng đúng thôi vì ba em đã bỏ ra cả cuộc đời để làm việc, kiếm tiền và giáo dục cho mấy chị em nên người. Nhìn kĩ vào gương mặt khắc khổ đầy vẻ cực nhọc vì phải tần tảo làm việc ngày đêm, em bỗng nhận ra đôi mắt sáng đầy vẻ tinh anh của ba trước kia đâu mất rồi? Mà thay vào đó là đôi mắt đầy vẻ suy tư ẩn sau đôi kính lão. Biết bao giờ ba mới có thể nghỉ ngơi, không phải lo lắng cho mấy chị em chúng tôi nữa? Khi nào ba mới có thể thảnh thơi, không phải vất vả kiếm tiền nữa?
Ba thường nói rằng trước đây ba không có được điều kiện để đi học nliiểu nên mong muốn con mình có thể học hành đến nơi đến chốn. Vì thế khi có cơ hội để chị em chúng tôi học được điều mới, ba sẽ ủng hộ ngay. Mỗi lần em học được cái mới, em muốn thực hành ngay để đền đáp lại kì vọng của ba. Thế rồi củng có dịp để cho em trổ tài. Đó là dịp kỉ niệm 20 năm ngày cưới của ba mẹ tôi. Tôi đã dựng một đoạn phim về những hình ảnh đám cưới của ba mẹ tôi ngày xưa, rồi tới hình ảnh của chị em tôi từ bé đến lớn. Kết thúc đoạn phim là những lời chúc tụng đấng sinh thành… Xem xong, tuy không nói lời nào nhưng em biết ba tự hào về các con của mình lắm! Đêm đó thật là một đêm khó quên dối với gia đình em.
|
Instruct
In the show Dorèmi, there is a little boy singing a song titled "The whole world is in my dad's pocket", about the father-son relationship of two kangaroos. That boy also confided that his father lives in Truong Sa and doesn't have a TV to watch his child perform. What a pity for the little boy! I suddenly found myself very happy to have my dad always care, love, and follow every step I take on my life path.
Friends often say my father has a strict face. It's true because my father spent his whole life working, making money and educating the sisters. Looking closely at the austere face full of hardship from having to work day and night, I suddenly realized where had my father's bright eyes full of intelligence gone? Instead, there were eyes full of thought hidden behind his glasses. When will Dad be able to rest and not have to worry about us sisters anymore? When will Dad be able to relax and not have to work hard to make money anymore?
Dad often said that before, he did not have the conditions to go to elementary school, so he wanted his child to be able to study well. So when there is an opportunity for us sisters to learn new things, dad will immediately support it. Every time I learn something new, I want to practice it right away to repay my dad's expectations. Then I have a chance to show off my talent. It was my parents' 20th wedding anniversary. I created a video of my parents' wedding pictures from the past, then pictures of my sisters from childhood to adulthood. At the end of the video, there are words of praise to the parents... After watching, even though I didn't say a word, I knew my dad was very proud of his children! That night was truly an unforgettable night for my family.
|
Hướng dẫn
Tin… tin… tin…”. Âm thanh của tiếng ken xe máy vang lên ngoài cổng trường làm cho chúng em quay nhìn về phía bóng ảo dài màu hồng ngọc. Đó chính là cô Hoa, cô giáo mà em yêu quí nhất.
Em nhớ mãi kỉ niệm ngày đầu tiên cô bước vào lớp! Cả phòng học như sáng hẳn lên nhờ nét đẹp trẻ trung của cô. Với tuổi đời xấp xỉ khoảng hai mươi, cô còn rất trẻ, trẻ như một nữ sinh trung học. Vậy mà các bạn chớ có lầm! Tuy mới bắt đầu vào nghề và trông trẻ như thế nhưng tay nghề của cô rất vững vàng. Có thể nói được rằng nét đẹp trẻ trung của cô được thể hiện rõ nhất qua vóc người nhỏ nhắn, mảnh mai như cây liễu, cây đào… qua dáng điệu đoan trang, đứng đắn, thanh lịch như các chàng trai, cô gái biểu diễn trên sân khấu… và nhất là qua tà áo dài màu xanh ngọc thướt tha, duyên dáng như những nàng tiên. Nhưng ấn tượng nhất vẫn là đôi mắt tròn xoe như hai hạt ngọc. Đôi mắt ấy cũng có lúc rơi những giọt lệ long lanh khi thấy học trò không biết nghe lời dạy bảo. Nhưng thường thì đôi mắt ấy luôn ánh lên niềm tươi vui, trìu mến với nụ cười tươi như hoa nở trên đôi môi hình trái tim, trên cái miệng bé nhỏ với chiếc răng khểnh trông “dễ ghét” vô cùng.
Em sẽ không bao giờ quên cô của em chẳng những rất đẹp mà còn có tính tình hiền dịu. Từ khi được học với cô, em chưa hao giờ thấy cô to tiếng hoặc chửi mắng các bạn học sinh. Thường thì cô dùng lời nhỏ nhẹ khuyên răn các bạn sai phạm kỷ luật hay lười biếng học tập. Em còn nhớ rất rõ từng lời dặn dò của cô: “Con đừng phạm lỗi nữa, nghe con!” Âm thanh tiếng “con” sao mà hiền từ, ngọt ngào thảm sâu vào tâm hồn của chúng em. Khi giảng bài, đến bàn ghê cũng ngồi im chăm chú nghe từng giọng nói trầm ấm, diễn cảm của cô. Chỗ nào chúng em chưa hiểu, cô sẵn sàng giảng lại thật cặn kẽ. Khi cô viết bảng, em có cảm tưởng như viên phấn cũng hãnh diện khi được bàn tay xinh xắn của cô nắn nót ghi từng nét chữ khéo léo lên tấm bảng đen. Cô thường đi lên đi xuống trong phòng học, quan sát từng em một để sửa chữa kịp thời những sai sót. Suốt đời em sẽ không bao giờ quên những lần được bàn tay mềm mại, thơm tho của cô giúp cho nét chữ của em viết ngay ngắn, đẹp đẽ….
Em còn nhớ như in buổi dạy thao giảng của cô. Hầu hết giáo viên trong trường và một số giáo viên trong quận đều đến tham dự buổi dạy này. Kể làm sao cho hết được niềm tự hào của toàn thể học sinh lớp chúng em trong ngày ấy! Đạt dược danh hiệu “Giáo viên dạy giỏi”, cô đã mang lại vinh dự cho nhà trường nói chung và cho lớp em nói riêng.
Xúc động nhất là việc cô đến thăm hầu hết các bạn học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Cô chẳng những động viên thăm hỏi mà còn mua sách vở cho các bạn ấy mặc dù tiền lương của cô chẳng đáng là bao. Cử chỉ này càng sáng lên tấm lòng nhân ái của cô mà học sinh chúng em sẽ không bao giờ quên
Mỗi lần nhớ đến cô, em càng hiểu thèm về tấm lòng tận tụy của một giảo viên, tấm lòng nhân ải của người mẹ hiền thứ hai trong đời. Càng hiểu bao nhiêu, em càng tự hứa với mình bấy nhiêu là sẽ cố gắng học tập và yêu quí thầy cô giáo nhiều hcm nữa đúng như ỷ nghĩa của câu ca dao:
|
Instruct
Believe… believe… believe…”. The sound of a motorbike resounding outside the school gate made us turn to look towards the long, ruby-colored shadow. That is Ms. Hoa, the teacher I love the most.
I will always remember the first day she entered class! The whole classroom seemed to light up thanks to her youthful beauty. With an age of approximately twenty, she is still very young, as young as a high school girl. But don't be wrong! Even though she just started her career and looks so young, her skills are very solid. It can be said that her youthful beauty is most clearly shown through her small, slender figure like a willow or peach tree... through her dignified, dignified, elegant posture like the boys and girls performing. performing on stage... and especially through the flowing, graceful emerald green ao dai like fairies. But the most impressive thing is still her round eyes like two pearls. Those eyes also sometimes shed sparkling tears when they see students not knowing how to listen to instructions. But usually those eyes always shine with joy and affection, with a smile as bright as a flower blooming on heart-shaped lips, on a small mouth with crooked teeth that look extremely "easy to hate".
I will never forget that my aunt is not only very beautiful but also has a gentle personality. Since studying with her, I have never seen her raise her voice or curse at fellow students. Often, she uses soft words to admonish her friends for breaking discipline or being lazy in their studies. I still remember clearly each of her instructions: "Don't make mistakes again, listen to me!" The sound of "son" is so gentle and sweet that it penetrates deep into our souls. When lecturing, even at the table, I sat still and attentively listened to her deep, expressive voice. Wherever we didn't understand, she was willing to explain thoroughly. When she wrote on the blackboard, I felt like the chalk was also proud to have her pretty hands neatly writing each skillful stroke on the blackboard. She often walks up and down the classroom, observing each child to promptly correct errors. For the rest of my life, I will never forget the times when your soft, fragrant hands helped me write neatly and beautifully...
I still vividly remember her teaching session. Most teachers in the school and some teachers in the district attended this teaching session. How can I describe the pride of all our students on that day! Achieving the title of "Excellent Teacher", she has brought honor to the school in general and to her class in particular.
The most touching thing was that she visited most of the students with difficult family circumstances. She not only encouraged and visited them but also bought books for them even though her salary was not much. This gesture further shines a light on her kindness that our students will never forget
Every time I remember her, I understand more and more about the devoted heart of a teacher and the kind heart of a second kind mother in my life. The more I understand, the more I promise myself that I will try to study and love my teachers more and more, just like the meaning of the folk song:
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.