vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Bài Làm
Trong tất cả những loài hoa em thích nhất là hoa của cây nụ tầm xuân. Không hiểu vì lý do gì mà em lại thích loài hoa này, hoa tầm xuân thường không thể cắm được mà chỉ có thể cắt vào ngắm hoặc cắm vào trong một chiếc lọ nhỏ.
Em còn nhớ, năm em học lớp 4, bố em mua từ chợ hoa về một cây hoa, lá nhỏ nhưng thân cây nhỏ lắm, nhìn thì giống như cây hoa hồng nhưng khi em hỏi bố tên của loài hoa này thì bố bảo em: “đây là cây nụ tầm xuân”. Em thấy rất lạ vì từ trước đến giờ em chưa bao giờ nghe thấy một tên nào như vậy, bình thường chỉ là: hoa hồng, hoa violet, hoa ly, loa kèn,… nhưng nụ tầm xuân thì đúng là lần đầu tiên. Cây hoa làm em ấn tượng hơn rất nhiều khi bố em bảo phải làm dàn hoa để hoa leo lên giàn gỗ trước cổng em. Và thế là ngày nào em cũng chăm sóc cây để cây mau lớn, cũng chính bởi sự tò mò về loài hoa này, không biết khi nở ra nó sẽ như thế nào? Nên càng tò mò, em lại càng chăm chút cho cây nhiều hơn.
Cây cứ từ từ lớn lên, những cành cây như cành hoa hồng, nhưng chỉ to bằng một phần tư của cành hồng, lá cây cũng vậy, bé bé, xinh xinh và cũng chiếc răng cưa nhỏ nhỏ như lá cây hoa hồng. Đăc biệt, trên thân khẳng khiu ấy lại có những chiếc gai nhọn và cứng, chỉ cần chẳng may chạm phải thì chắc chắn sẽ bị chảy máu. Cũng bởi thế mà bố em bảo cây hoa như một chàng vệ sỹ bảo vệ khỏi bọn trộm. Mỗi lần nghe bố em nói thế cả nhà em lại cười ồ lên, nhìn về phía cổng, những chiếc lá tầm xuân cũng đang rung rinh như để đồng cảm.
Đúng như tên gọi của cây tầm xuân, vào những tháng chuyển từ đông sang xuân, những chiếc chồi non xanh mơn mởn lại nhú lên, rồi cả cây tầm xuân như căng tràn sức sống. Cây như một nghệ sỹ leo chuyên nghiệp, những cành cây bám chặt vào những song sắt, những cành non chưa tìm được chỗ bán thì cứ xòa xuống rồi đung đưa trước gió, mỗi lần thế, bố em lại “thiết kế” những chỗ cho cây bám tốt hơn. Đến tầm tháng 2-3, những bông hoa đầu tiên nhú ra. Em hào hứng lắm, không biết sẽ như thế nào. Nụ hoa y hệt như nụ hoa hồng, nhưng bé lắm, chắc chỉ bằng đầu đũa, rồi dần dần to dần lên. Nhưng có một điều khác, hoa của cây tầm xuân không mọc riêng như hoa hồng mà là mọc theo chùm. Một chùm có ít nhất từ 3 nụ trở lên.
|
Assignment
Of all the flowers I like the most is the rosehip flower. I don't understand why I like this flower. Spring roses usually cannot be arranged but can only be cut to look at or put in a small vase.
I still remember, when I was in 4th grade, my father bought a flower plant from the flower market. The leaves were small but the stem was very small. It looked like a rose plant, but when I asked him the name of this flower, he told me. : “this is a rosehip tree”. I find it very strange because I have never heard a name like that before, normally it's just: roses, violets, lilies, lilies,... but rosehips is truly the first time. The flower tree impressed me much more when my father told me to make a flower trellis so that the flowers could climb up the wooden trellis in front of my gate. And so every day I take care of the tree to make it grow quickly, also because of my curiosity about this flower, not knowing what it will be like when it blooms? So the more curious I am, the more I care for the tree.
The tree slowly grew, the branches were like rose branches, but only a quarter the size of rose branches, the leaves were the same, small, pretty and had small serrated teeth like rose leaves. In particular, on that spindly body there are sharp and hard thorns, if you accidentally touch it, you will definitely bleed. That's why my father said the flower tree is like a bodyguard protecting against thieves. Every time I hear my dad say that, my whole family bursts out laughing, looking towards the gate, the spring leaves are also shaking as if in sympathy.
True to the name of the rose hip plant, in the months transitioning from winter to spring, young green buds sprout again, and then the whole rose hip plant seems to be full of life. The tree is like a professional climbing artist, the branches cling tightly to the iron bars, the young branches that have not yet found a place to sell just keep falling down and swaying in the wind. Each time, my father "designs" places to sell. Gives the tree better grip. Around February-March, the first flowers appear. I'm so excited, I don't know what it will be like. The flower bud is exactly like a rose bud, but very small, probably only the size of a chopstick, and then gradually gets bigger. But there is another thing, the flowers of rose hips do not grow separately like roses but grow in clusters. A bunch has at least 3 buds or more.
|
Bài Làm
Chúng ta đang sống trong trong một xã hội bình đẳng, dân chủ – nơi mà con người được hưởng tất cả những quyền tự do, hạnh phúc. Nơi không có chiến tranh, không có áp bức, không có bất công hay phân biệt đối xử. Đó chính là một cuộc sống mà con người ta hằng mong ước. Nhưng đó lại là điều xa xỉ ở trong xã hội cũ. Con người khao khát bình đẳng, khao khát quyền làm chủ, nhưng đó lại chỉ là một ước mơ xa vời, không bao giờ thực hiện được. Điều đó lại càng thể hiện rõ hơn trong bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Thay vì diễn tả bằng lối viết văn dài dòng, chỉ bằng 4 câu thơ mà tất cả những hàm ý mà tác giả muốn bày tỏ đã được thể hiện hết ở trong 4 câu thơ đó. Không quá dài để sử dụng nhiều từ ngữ cũng không quá ngắn để người đọc không thể hiểu hết được nội dung. Chỉ vỏn vẹn bốn câu, mà người đọc vừa đọc và ngẫm nghĩ sâu xa.
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
Tác giả đã sử dụng mô típ ca dao thân thuộc “thân em” để có thể ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ, “vừa trắng lại vừa tròn”. Tác giả sử dụng lối nói ẩn dụ để có thể nói lên hình tượng người phụ nữ “Thân em như …”. Hình ảnh người phụ nữ mộc mạc, giản dị nhưng lại toát lên nét kiêu xa, lộng lẫy và đầy màu sắc đến vậy. Chỉ bằng hình ảnh chiếc bánh trôi nước, đơn thuần, bình dị, màu trắng gợi lên cho người đọc sự thuần khiết, tinh khôi của người phụ nữ – những người đáng ra phải nhận được sự quan tâm, chở che và bảo vệ. Nhưng câu thơ thứ hai, tác giả lại cho ta những điều dự cảm không lành:
“Bảy nổi ba chìm với nước non”
Trong câu thơ trên, tác giả đã sử dụng câu thành ngữ “bảy nổi ba chìm” một cách khéo léo, đầy tinh tế để gợi tả về số phận “bất hạnh” của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thành ngữ bảy nổi ba chìm cũng được những người dân ta thường hay nhắc đến trong khi nấu bánh trôi, khi nào bánh 7 phần nổi lên và 3 phần chìm thì có thể vớt bánh ra. Nhưng trong câu thơ này, nó lại gợi nhớ cho người đọc về thân phận của người phụ nữ bị chà đạp, bị những định kiến của xã hội làm cho cuộc đời bấp bênh, trôi nổi, không biết đến ngày mai. Cái thân phận yếu ớt, mảnh mai ấy làm sao có thể chịu được những sóng gió, vùi dập, cứ lênh đênh không có một bến bờ để neo đậu. Không cần dùng những câu nói hay những động từ có tác động mạnh đến người đọc, nhưng những hình ảnh ẩn dụ của Hồ Xuân Hương lại có ấn tượng mạnh mẽ đến vậy. Người phụ nữ trong xã hội ấy, họ không được định đoạt số phận, không được “quyền” quyết định hạnh phúc của mình mà cứ thế phó mặc cho cuộc đời đưa đẩy. Đọc đến câu thơ này, nhiều người đọc sẽ phải thốt lên: “Làm sao có thể để cho người phụ nữ chân yếu tay mềm, yếu ớt nhưng vậy phải gánh chịu những bão bùng của cuộc đời, vậy phải chăng trên thế gian này không còn ai giống “Từ Hải” để có thể cứu giúp những thân phận người phụ nữ đầy bất hạnh như Thúy Kiều nữa?”. Thật đau đớn thay.
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
Cái thân phận yếu mềm, tủi nhục và không biết đến ngày mai ấy cứ phó mặc cho cuộc đời, phó mặc cho “kẻ nặn” cái quyền được “điều khiển” cuộc đời mình. Dù họ có vùng vẫy như thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời họ cũng không thể thoát khỏi được. Vậy vì sao lại vậy? Vì sao họ lại tiếp tục căm chịu như vậy? Phải chăng do họ sợ? Không, bởi vì họ nhận thức sâu sắc rằng, dù họ có làm gì đi chăng nữa thì cũng không thể nào có thể chống lại những định kiến của xã hội, đã được bồi đắp hàng nghìn năm. Cái chế độ khiến con người ta đi vào bế tắc và không muốn phản kháng lại nữa. Vậy biết đến bao giờ họ mới có thể có một cuộc sống tự lập riêng cho chính mình, để họ có thể được sống theo ý mình, để họ có thể được làm chính họ?
|
Assignment
We live in an equal, democratic society - where people enjoy all the rights to freedom and happiness. Where there is no war, no oppression, no injustice or discrimination. That is the life that people always wish for. But that was a luxury in the old society. People yearn for equality and mastery, but that is just a distant dream that can never be realized. That is even more clearly shown in the poem Water Floating Cake by Ho Xuan Huong.
Her body is both white and round
Seven floating sunken with water
The snake is crushed even if it is molded by your own hands
But I still keep my heart
Instead of expressing in a lengthy writing style, in just 4 verses, all the implications that the author wants to express are expressed in those 4 verses. Not too long so that it uses a lot of words nor too short so that the reader cannot fully understand the content. Only four sentences, but the reader just reads and thinks deeply.
“Your body is both white and round”
The author used the familiar folk song motif "your body" to praise the beauty of a woman, "both white and round". The author uses metaphor to convey the image of a woman, "My body is like...". The image of a woman is rustic and simple but exudes such arrogance, splendor and colorfulness. Just the image of a simple, plain, white cake floating in water evokes to the reader the purity and innocence of women - those who should receive care, shelter and protection. But in the second verse, the author gives us some bad premonitions:
"Seven floating sunken with water"
In the above verse, the author skillfully and subtly used the idiom "seven times rising, three times sinking" to describe the "unfortunate" fate of women in feudal society. The idiom: seven parts float and three sink is also often mentioned by our people while cooking banh troi. When 7 parts of the cake float and 3 parts sink, you can take the cake out. But in this verse, it reminds the reader of the condition of a woman who has been trampled on, whose life has been made unstable by social prejudices, floating without knowing tomorrow. How can that weak, fragile body withstand the storms and upheavals and keep floating without a shore to moor to? There is no need to use sayings or verbs that have a strong impact on the reader, but Ho Xuan Huong's metaphorical images have such a strong impression. Women in that society do not have the right to decide their fate, do not have the "right" to decide their happiness, but just leave it to life to lead them. Reading this verse, many readers will have to exclaim: "How can it be possible for a woman with weak limbs and weak arms to endure the storms of life? Is that right in this world?" Is there anyone else like "Tu Hai" who can save unfortunate women like Thuy Kieu?" How painful.
"Snake can be crushed even if it is molded by your own hands"
That fate of being weak, humiliated and not knowing tomorrow is left to life, surrendering to the "man who molds" the right to "control" one's life. No matter how much they struggle, they cannot escape their lives. So why is that? Why do they continue to suffer like this? Is it because they are afraid? No, because they are deeply aware that, no matter what they do, it is impossible to fight against society's prejudices, which have been built up over thousands of years. The regime makes people come to a deadlock and no longer want to protest. So when will they be able to have their own independent lives, so they can live according to their own wishes, so they can be themselves?
|
Bài Làm
Trong mỗi chúng ta ai cũng cần phải học tập, học tập để có thêm kiến thức mới, để có thể nâng cao trình độ hiểu biết và học vấn của mình. Nhưng đã bao giờ bạn cho rằng: “Mình học thế là đủ rồi, nên không cần phải học tiếp không?” Nếu bạn đã có suy nghĩ đó thì hãy loại bỏ nó đi, vì như Lenin đã nói: “Học, học nữa, học mãi”. Câu nói đó cho đến bây giờ vẫn luôn là một chân lý không thể nào có thể thay đổi được.
Học là việc mà con người ta khi sinh ra, lớn lên và thậm chí là khi về già chúng ta vẫn phải tiếp tục học. Ta có thể lấy ra một tấm gương để chúng ta học tập và noi theo, đó chính là Bác của chúng ta: Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với Bác học tập luôn được đặt lên hàng đầu, nếu không tích cực học tập, không tích cực tiếp thu kiến thức thì ta sẽ bị tụt hậu vì thế giới hay xã hội của chúng ta sẽ tiếp tục đi lên, tiếp tục phát triển, nhưng sẽ không ai chờ đợi một con người lười nhác, không cố gắng học tập để cống hiến, để phát triển.
Cũng như có một câu nói nổi tiếng của một vị bác học người nước ngoài: “Càng học lên cao, chúng ta sẽ càng cảm thấy mình thật nhỏ bé và chả là gì so với vốn kiến thức vô hạn ở bên ngoài”. Và sẽ không một ai chịu nghe theo một con người không có vốn hiểu biết, không có vốn sống, hỏi đến đâu cũng lắc đầu. Nếu như vậy bạn sẽ không có được bất cứ điều gì từ sự thất bại và sự thất vọng của mọi người.
|
Assignment
Each of us needs to study, study to gain new knowledge, to be able to improve our level of knowledge and education. But have you ever thought: "I've learned enough, so I don't need to continue studying?" If you already have that thought, get rid of it, because as Lenin said: "Study, study more, study forever." That saying until now is still an irreversible truth.
Learning is something that people must continue to learn when they are born, grow up, and even when they are old. We can set an example for us to learn and follow, which is our Uncle: President Ho Chi Minh. For Uncle Ho, learning is always the top priority. If we do not actively study and absorb knowledge, we will fall behind because our world or society will continue to move forward and develop. development, but no one will wait for a lazy person who does not try to learn, contribute, and develop.
Just like there is a famous saying of a foreign scholar: "The more we study, the more we will feel small and nothing compared to the infinite knowledge outside." And no one will listen to a person who has no understanding, no life, and shakes his head no matter what he asks. If so you won't gain anything from people's failures and disappointments.
|
Bài Làm
Uống nước nhớ nguồn là một câu tục ngữ đã trở nên quen thuộc đối với rất nhiều người Việt Nam từ xưa cho đến nay. Dưới hình thức một câu tục ngữ, câu nói đã đi sâu vào trong tâm trí của người Việt Nam bởi những triết lý sâu xa được ẩn chứa trong nội dung của câu nói về cách sống, cách làm người, cũng như đã thể hiện được truyền thông đạo lí sâu sắc của người Việt Nam: luôn luôn trân trọng và biết ơn những người đi trước, những người đã hy sinh xương máu để cho chúng ta có thể có một cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay.
Câu tục ngữ nếu được hiểu theo nghĩa đen thì “nguồn” là nơi bắt đầu của một dòng sông, là nơi đem lại cho chúng ta dòng nước mát. Vậy khi chúng ta lấy được dòng nước mát đó thì chúng ta nên “nhớ nguồn” chứ không phải coi đó là điều hiển nhiên. Đó là hiểu theo nghĩa bóng, còn đối với nghĩ đen thì mỗi con người ta khi phải biết ơn những con người, những thế hệ cha anh ta đã ngã xuống để có đem lại những thành quả cho thế hệ sau. Không phải tự nhiên mà chúng ta có được một cuộc sống hòa bình, không chiến tranh, bom đạn, không phải tự nhiên mà chúng ta được đi học, được sống trong một đất nước phát triển. Để có được tất cả những điều đó, thì đã có biết bao nhiêu người ngã xuống nơi đất khách, đã bao nhiêu gia đình phải hứng chịu nỗi mất con, mất chồng. Và chúng ta cũng phải nhớ rằng, nếu không có nguồn, có cội, có những thế hệ ông, cha ta đi trước thì sẽ chẳng bao giờ có chúng ta. Vì vậy mà câu tục ngữ đã mượn mối quan hệ khăng khít giữa “nguồn và nước” trong tự nhiên để nhắc nhở chúng ta một cách thấm thía về triết lí sống: Khi chúng ta tiếp nhận hay hưởng thụ một thành quả nào đó thì chúng ta phải nhớ đến công ơn và biết đền ơn xứng đáng những người đã đem lại thành quả cho mình được hưởng như ngày hôm nay.
Triết lí “Uống nước nhớ nguồn” là một triết lý hoàn toàn đúng đắn, để gợi nhớ và nhắc nhở con người ta không bao giờ được quên đi sự khó khăn, vất vả của những người đã cống hiến thậm chí là hy sinh để có được những thành quả như bây giờ để cho chúng ta hưởng thụ. Chính vì thế, nếu chúng ta quên đi công ơn đó, chỉ biết nhận mà không biết trả thì chúng ta quả là những con người tắc trách, vô cảm và thậm chí là chúng ta không xứng đáng để có thể hiện được những thành quả đó.
Không chỉ biết ơn những thế hệ đi trước mà chúng ta còn phải biết ơn công lao dưỡng dục của ông bà cha mẹ – những người đã sinh ra mình và cả thầy cô – những người đã dạy cho ta tri thức. Vậy nên, không một thành quả nào mà chúng ta làm đều có công lao của một ai đó tạo nên. Nếu không có ông cha ta thì chúng ta đã không có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nếu không có bố mẹ thì đã không có chúng ta và nếu không có thầy cô thì đã không có những con người thành đạt như ngày hôm nay. Vì thế, trong kho tàng tục ngữ Việt Nam luôn có những lời thấm thía nhắc nhở ta về lòng biết ơn với người nghệ sĩ và công lao của những người đi trước:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Hay:
Không thầy đố mày làm nên.
|
Assignment
When you drink water, remember its source is a proverb that has become familiar to many Vietnamese people from ancient times until now. In the form of a proverb, the saying has penetrated deeply into the minds of Vietnamese people because of the profound philosophies contained in the content of the saying about how to live, how to be human, as well as expressed. conveying the profound ethics of the Vietnamese people: always respect and be grateful to our predecessors, those who sacrificed their blood so that we can have a good life like today.
If the proverb is understood literally, "source" is the starting place of a river, the place that brings us cool water. So when we get that cool water, we should "remember the source" and not take it for granted. That is to understand it figuratively, but to think literally, each person must be grateful to the people and generations of his ancestors who have fallen to bring achievements to the next generation. It's not natural that we have a peaceful life, without war or bombs, it's not natural that we can go to school and live in a developed country. To have all that, so many people have fallen to foreign lands, so many families have had to suffer the loss of children and husbands. And we must also remember that, without sources, roots, and previous generations of our grandparents and fathers, we would never have existed. Therefore, the proverb borrows the close relationship between "source and water" in nature to poignantly remind us of the philosophy of life: When we receive or enjoy a certain result, We must remember our gratitude and know how to properly repay those who have brought us the results we enjoy today.
The philosophy "When you drink water, remember its source" is a completely correct philosophy, to remind and remind people never to forget the difficulties and hardships of those who have devoted and even sacrificed to have the results we have now for us to enjoy. Therefore, if we forget that gratitude and only know how to receive it without knowing how to repay it, we are truly irresponsible, insensitive people and we are not even worthy of being able to show our achievements. there.
Not only should we be grateful to the previous generations, but we must also be grateful for the nurturing efforts of our parents and grandparents - those who gave birth to us and our teachers - those who taught us knowledge. Therefore, none of the achievements we do have the merit of someone else creating them. Without our ancestors, we would not have a prosperous and happy life. If it weren't for our parents, there wouldn't be us and if it weren't for our teachers, there wouldn't be the successful people we are today. Therefore, in the treasury of Vietnamese proverbs, there are always poignant words that remind us of our gratitude to artists and the efforts of our predecessors:
The father as a mountain
Motherhood is like water flowing from a source.
Or:
Should not his teacher.
|
Bài Làm
Vào mùa thu năm 1950, Đảng ta và Chính phủ quyết định định mở chiến dịch Cao – Bắc – Lạng (còn gọi là chiến dịch Biên giới) nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vây căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô. Quân ta chuẩn bị lực lượng tương đối kĩ, có sự phối hợp chặt chẽ trên các chiến trường để giành thắng lợi.
Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm một đơn vị bộ đội và nghỉ lại nơi trú quân. Đêm mưa, trời lạnh, chiến sĩ ngủ quây quần bên Bác. Riêng Bác thì lại không ngủ. Bác ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm, những vết nhăn như sâu hơn trên vầng trán rộng. Đăm chiêu nhìn những thanh củi cháy rực rỡ mà lòng vẫn còn canh cánh nỗi lo, làm thế nào để đất nước sớm giành được độc lập, để nhân dân có được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc theo đúng nghĩa, để cả đất nước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đêm đã về khuya, cảnh rừng đêm bắt đầu chìm trong bóng tối, mọi vật trở nên yên tĩnh, chỉ một tiếng lá rơi cũng làm xao động cả rừng. Thỉnh thoảng văng vẳng đâu đó tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm hay tiếng mưa rơi tí tách trên mái lán. Những chiến sĩ đang ngủ say sau một ngày hành quân vất vả, mọi người chìm dần vào giấc ngủ đêm. Chỉ có Bác – người Cha già kính yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam vẫn đang còn thức. Bác khơi cho bếp lửa cháy bùng lên, hơi ấm tỏa khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác đi dém chăn cho từng chiến sĩ. Bác coi trọng giấc ngủ của bộ đội nên nhón chân rất nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra tiếng động. Bác ân cần săn sóc các chiến sĩ, không khác gì bà mẹ hiền thương yêu lo lắng cho đàn con. Bác không ngủ – đáng ra Bác mới là người cần được nghỉ ngơi nhất thì lại ngược lại, Bác đang chăm chút cho những người con của mình, mà không màng đến sức khỏe của mình.
Dõi theo từng cử chỉ của Bác mà trong lòng mỗi người đều trào lên tình cảm yêu thương và biết ơn Bác vô hạn. Ánh lửa bập bùng in bóng Bác trên bức vách. Tình thương của Bác đã sưởi ấm trái tim chiến sĩ trước giờ ra trận, và cũng chỉ cần có thế là nguồn động lực tốt nhất để tiếp sức cho các chiến sỹ. Tôi cảm thấy mình như được che chở trong tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi bồi hồi, rưng rưng một niềm xúc động. Tôi thì thầm hỏi nhỏ:
– Thưa Bác, sao Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không?
Bác không trả lời câu hỏi của tôi mà ân cần khuyên nhủ:
– Chú cứ việc ngủ ngon, để lấy sức ngày mai đánh giặc!
Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt mà lòng vẫn thấp thỏm không yên. Những chiến sĩ trẻ chúng tôi sức dài vai rộng, còn Bác vừa yếu lại vừa cao tuổi, ai lại người già chăm cho người trẻ như vậy. Nhưng nghe lời Bác, tôi lại nằm yên.
Thời gian âm thầm trôi qua, trời đang chuyển dần về sáng. Lần thứ ba thức dậy, tôi giật mình thấy Bác vẫn ngồi im như pho tượng, đôi mắt trĩu nặng suy tư đăm đăm nhìn ngọn lửa hồng. Không thể đành lòng, tôi bèn lên tiếng:
– Thưa Bác! Cháu xin Bác, Bác hãy chợp mắt một chút cho khỏe ạ!
Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi:
|
Assignment
In the fall of 1950, our Party and the Government decided to open the Cao - Bac - Lang campaign (also known as the Border campaign) to break the line surrounding the French colonialists' Viet Bac base, opening up a link between the two countries. communication between our country and sister countries such as China and the Soviet Union. Our troops prepared their forces quite carefully and had close coordination on the battlefields to win.
Before the campaign opened, Uncle Ho visited a military unit and stayed at the military base. On a cold, rainy night, the soldiers slept around Uncle Ho. As for Uncle, he did not sleep. He sat by the fire, his hands clasped on his knees, his eyes pensive, the wrinkles seemed deeper on his broad forehead. Wistfully looking at the brightly burning firewood, my heart is still filled with worries about how to help the country soon gain independence, so that the people can have a prosperous and happy life in the true sense, so that the whole land The country moves towards socialism.
It was late at night, the night forest began to sink into darkness, everything became quiet, just the sound of falling leaves shook the whole forest. Occasionally there is the sound of flapping wings of nocturnal birds or the sound of rain falling on the roof of the shack. The soldiers were sleeping soundly after a hard day's march, everyone gradually fell asleep at night. Only Uncle Ho - the beloved old Father of the Vietnamese army and people was still awake. He started the fire, spreading warmth throughout the field tent. Then Uncle went to give blankets to each soldier. He valued the soldiers' sleep, so he tiptoed very gently, trying not to make any noise. He thoughtfully took care of the soldiers, no different from a loving mother taking care of her children. Uncle does not sleep - he should be the one who needs rest the most, but on the contrary, he is taking care of his children, without caring about his own health.
Following Uncle Ho's every gesture, each person's heart overflows with infinite love and gratitude to him. The flickering firelight cast Uncle Ho's shadow on the wall. Uncle Ho's love warmed the soldiers' hearts before going into battle, and that alone was the best source of motivation to support the soldiers. I felt like I was protected by that immense, passionate love. My heart was filled with emotion and tears. I whispered softly:
– Dear Uncle, why aren't you sleeping yet? Are you very cold?
He did not answer my question but kindly advised:
– Just sleep well, so you can have strength to fight the enemy tomorrow!
Obeying Uncle Ho's words, I closed my eyes but my heart was still restless. We young soldiers are strong and broad-shouldered, while Uncle Ho is both weak and elderly, so why would an old person take care of a young person like that? But listening to Uncle Ho's words, I lay still.
Time passed silently, the sky gradually turned to dawn. The third time I woke up, I was startled to see Uncle still sitting still like a statue, his eyes heavy with thought, staring at the red fire. Unable to bear it, I spoke up:
- Dear! I beg you, please take a nap to feel better!
He spoke in a warm voice and told me:
|
Bài Làm
Trong những cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của ông cha ta, có rất nhiều những trận đánh lớn, được ghi vào sổ sách. Những trận đánh mà khiến quân giặc khiếp đảm, và là nỗi lo lớn khi bất kỳ một dân tộc nào muốn xâm chiếm Đại Việt. Trong những trận đấu đó, không chỉ có những trận đánh quyết liệt mà còn có những trận đấu bằng tinh thần. Một trong những ‘trận đánh lớn’ đó đã được vang lên vào buổi chiều hôm đó. Đó chính là bài thơ “Sông Núi nước Nam”.
Bài thơ như một lời khẳng định chắc chắn của quân và dân ta trước ý định xâm chiếm của kẻ thù. Bài thơ được tương truyền là do tướng quân Lý Thường Kiệt sáng tác. Trong một trận đánh lớn, khi cả hai bên đều đã thấm mệt, từ một ngôi miếu nhỏ của quân ta vọng lên một 4 câu thơ đầy hào hùng:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Chỉ vỏn vẹn trong bốn câu thơ, nhưng khi nghe xong thì tinh thần của quân giặc đã bị hồn bay phách lạc, không đánh mà chạy. Đó như một lời khẳng định chắc chắn chiến thắng sẽ luôn thuộc về ta, sẽ không bao giờ có thể thay đổi được.
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư”
Đất nước của nước Nam là mảnh đất đã có vua cai trị, lãnh đạo. Chứ không phải là một mảnh đất ‘vô chủ” mà những người khác có thể sang tự ý xâm chiếm. Một mảnh đất có vua nước Nam, có người dân nước Nam thì cớ gì lại để cho người khác chiếm lấy?
“Tiệt nhiên phận định tại thiên thư”
Nếu như câu thơ thứ nhất như để khẳng định chủ quyền của đất nước, của quốc gia, dân tộc thì câu thơ thứ hai như một lời nói: nước đã có chủ thì những người sống tại đất nước đó nên sống và cai trị đất nước đó thật tốt chứ không nên tranh giành hay xâm chiếm đất nước của người khác. Không ai xâm chiếm đất nước của nhau. Mọi người chỉ có thể nên giúp đỡ nhau chứ không nên tranh giành, để gây ra chiến tranh. Chiến tranh làm cho cuộc sống của con người ta trở nên khổ cực, gây nên đau khổ và chia ly.
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
|
Assignment
During our ancestors' struggles against foreign invaders, there were many great battles recorded in the books. These battles terrified the enemy, and were a great worry when any nation wanted to invade Dai Viet. In those matches, there were not only fierce battles but also spiritual battles. One of those ‘great battles’ was heard that afternoon. That is the poem "Southern Rivers and Mountains".
The poem is like a firm affirmation of our army and people against the enemy's intention to invade. The poem is said to have been composed by General Ly Thuong Kiet. During a big battle, when both sides were tired, from a small temple of our army rang out four heroic verses:
“Southern country, mountains and rivers, Southern empire
Fate is completely determined in the book of heaven
Like the breach of the hole invasion
Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft."
It's only four verses, but after hearing it, the enemy's spirit was lost, they didn't fight but ran away. It is like a firm affirmation that victory will always belong to us and will never be able to change.
“Southern country of mountains and rivers, Southern empire”
The country of Nam is a land that has a king to rule and lead. It is not a piece of 'ownerless' land that others can arbitrarily invade. If a piece of land has the king of the South and the people of the South, why would someone else take it over?
"The destiny is determined in the book of heaven"
If the first verse is to affirm the sovereignty of the country, the nation, and the people, the second verse is like a statement: if the country has an owner, then the people living in that country should live and rule the land. That country is really good and should not be fought over or invaded other people's countries. No one invades each other's country. People should only help each other, not compete to cause war. War makes people's lives miserable, causing suffering and separation.
"Like the breach of the hole invasion
|
Bài làm
Khi nhắc đến thơ Nguyễn Khuyến, người ta thường nhớ tới một giọng văn, một tư tưởng buồn, bởi thơ của ông luôn mang mác một mỗi buồn trước thực trạng xã hội lúc bấy giờ. Nhưng khi đọc bài thơ Bạn đến chơi nhà của ông, thì những suy nghĩ, những tư tưởng trước đây phải chăng đã bị tan biến bởi: cái dí dỏm, cái hồn nhiên chính là những gì mà ông đã làm sáng tỏ trong bài thơ này.
Bạn đến chơi nhà chính là điều mà tác giả muốn được bộc bạch, được chia sẻ về tình bạn keo sơn, gắn bó, bỏ qua những thứ tầm thường, bỏ qua sự nghèo đói, thiếu thốn để con người ta trở nên thân thiết và quý mến nhau nhiều hơn, để con người ta có thể thấy yêu thêm tình bạn thiêng liêng, mà gắn bó, keo sơn ấy.
Câu mở đầu của bài thơ phải chăng như một lời mời gọi, lời chào thân tình của tác giả với một người bạn lâu ngày mới gặp lại:
Đã bấy lâu nay bác tới chơi nhà
Càng về già, con người ta càng trở nên an nhàn, những người bạn của mình thì lại ít khi gặp, nên đôi khi người già thường khao khát những cuộc trò chuyện tâm tình và gạt bỏ đi sự cô đơn, lạnh lẽo. Bởi vậy, niềm vui khi có bạn đến chơi nhà của tác giả lại càng trở nên mãnh liệt hơn. Cách xưng hô của tác giả khi gọi bạn bẳng bác như thể hiện sự gắn bó, thân thiết không thể tách rời giữa chủ nhà và khách tới chơi nhà.
Cái vui của tác giả khi bạn đến chơi, nhưng hoàn cảnh mà tác giả đặt ra phải chăng lại trái ngược với những gì tác giả đang có: Bạn đến chơi nhà thì chủ nhà phải tiếp nước, mời trầu, mời rượu. Nhưng phải chăng là do hoàn cảnh xã hội, sự khó khăn về kinh tế, cũng như nơi sinh sống khiến cho chủ nhà không thể tiếp đãi bạn một cách lịch thiệp nhất. Bởi vậy mà tác giả đã bắt nhịp trò chuyện bằng câu thơ:
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Tác giả đã rất khéo léo để ám chỉ rằng, bạn đến chơi nhà là quý hóa lắm rồi, nhưng do sự thiếu thốn và không chuẩn bị kịp thời của gia chủ nên không thể tiếp bạn một bữa cơm đầy đủ được. Vậy thì nếu đã không thể tiếp bạn với một bữa cơm tươm tất thì ta hãy lấy miếng trầu, chén nước để trò chuyện. Nhưng trầu cũng hết, vậy trong ý thơ đó, người đọc dễ dàng nhận thấy sự bối rối, lúng túng của tác giả khi đặt trong tình huống trớ trêu đó. Là một vị đại quan trong triều đình, đáng ra không bao giờ bảo lo lắng, bối rối về những thứ vật chất tầm thường này, thế mà khi trở thành một ông già thôn quê, những thứ đó trở nên thật đáng lo nghĩ.
Nhưng có thật là tác giả là một ông chủ nghèo khó? Không, ông chính là một con người giàu có bậc nhất tại nơi đây. Giàu có đâu chỉ được tính bằng vật chất, ông giàu có bằng tinh thần, bởi sự lạc quan, sự vui vẻ, cũng như trong bài thơ, tác gải đã giới thiệu mình chẳng thiếu thứ gì bởi ông có: gà, có cải, có bầu,… trong cuộc sống của mình, nếu đã như vậy thì đâu có nghèo, ngược lại, ông còn rất vui vẻ hạnh phúc với một cuộc đạm bạc nhưng cũng không hề thiếu thốn thứ gì cả.
|
Assignment
When mentioning Nguyen Khuyen's poetry, people often remember a sad tone and thought, because his poetry always carries the label of sadness in the face of the social situation at that time. But when reading his poem "You Come to Visit My House", the previous thoughts and ideas have disappeared because: the wit and innocence are exactly what he has clarified in the poem. This.
Having friends come to your house is what the author wants to confide in, to share about close friendship, ignoring trivial things, ignoring poverty and deprivation so that people can become close. and love each other more, so that people can feel more love for that sacred, close-knit friendship.
The opening sentence of the poem seems like an invitation, a friendly greeting from the author to a friend he hasn't seen in a long time:
It's been a long time since you came to visit my house
The older people get, the more comfortable they become, and the friends they rarely see, so sometimes the elderly often crave confidant conversations and get rid of loneliness and coldness. Therefore, the joy of having friends come to the author's house becomes even more intense. The author's way of addressing his friend when calling him by his name seems to show the inseparable attachment and intimacy between the homeowner and the guests coming to the house.
The author's joy when you come to visit, but the situation that the author sets out is the opposite of what the author has: When you come to visit, the host has to give you water, betel, and wine. But is it possible that due to social circumstances, economic difficulties, as well as the place of residence, the host cannot entertain you in the most polite way. That's why the author started the conversation with the verse:
When children are away, the market is far away
The pond is deep and the water is full of fish,
Large garden fence sparse, hard chase chickens.
Cabbage has just sprouted, eggplant has just buds,
Newly elected cord, melon or flowers.
The author was very clever to imply that having a friend come to your house is very valuable, but due to the homeowner's lack of preparation and lack of timely preparation, he cannot receive you a full meal. So if we can't welcome you with a decent meal, let's grab a piece of betel and a cup of water to chat. But the betel also runs out, so in that poetic meaning, the reader can easily see the author's confusion and awkwardness when placed in that ironic situation. As a high-ranking mandarin in the royal court, he should never have been worried or confused about these trivial material things, but when he became an old man in the countryside, those things became truly worrying.
But is it true that the author is a poor boss? No, he is the richest man here. Wealth is not only measured by material things, he is rich by spirit, by optimism, joy, just like in the poem, the author introduced that he lacks nothing because he has: chickens, cabbage. , pregnant,... in his life, if that were the case, he wouldn't be poor. On the contrary, he would still be very happy with a frugal life but not lacking anything.
|
Bài làm
Qua đèo ngang là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Qua khi bà đang đi qua đèo Ngang – một địa danh nổi tiếng với những phong cảnh hữu tình, mà nên thơ. Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên đầy sắc màu nhưng những bộc lộ những tâm trạng man mác buồn của tác giả vì một thời hoàng kim đã tàn lụi của xã hội trước.
Bước đến đèo Ngang bóng xế tài
Cỏ cây chen đá, là chen hoa
Chỉ bằng hai câu thơ đơn giản, tác giả đã khái quát lên toàn bộ khung cảnh và thời gian khi vẽ nên cảnh sắc nơi đây: chỉ mới khi bước chân đến nơi đây, khung cảnh nơi đây đã mang mác bóng hoàng hôn “xế tà”. Hình ảnh bóng xế tà như gợi đến một nỗi buồn mang mác phải chăng tác giả đang có chút nuối tiếc về một ngày trôi qua. Tại sao có một cảnh hoàng hôn đẹp đến như vậy, một cảnh đẹp trời cho như vậy mà tại sao như lời văn của tác giả lại mang một nỗi buồn đến như vậy? Nhưng phải chăng chỉ có cảnh hoàng hôn, ngược lại một hình ảnh khiến cho người đọc cảm thấy thích hợp: Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Trước hung cảnh hoàng hôn đang dần buông, lại có những hình ảnh cỏ cây chen nhau vươn lên đầy sức sống. NHững hình ảnh cây hoa ấy trông thật nhỏ bé đối với núi rừng và cảnh vật nơi đâ, nhưng chính những sự vật ấy lại vươn lên thật mãnh liệt. Ngay trong ánh chiều tà đang dần lụi tàn ấy, lại có những hình ảnh đối lập nhau đến vậy, những hình ảnh đã khiến cho người đọc thật nhiều suy nghĩ về những sự vật đó. Nếu hai câu thơ đầu, tác giả muốn gợi lên khung cảnh thiên nhiên thì đến hai câu tiếp theo, tác giả lại nhắc đến những hình ảnh của con người:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Trong một bức tranh hiu hắt, những hình ảnh con người sẽ làm cho mọi vật trở nên sinh động hơn nhiều. Nhưng đến cả khi có sự hình dung của con người thì khung cảnh nơi đây cũng trở nên ảm đạm đến lạ lung, tác giả đã sử dụng từ “lác đác” và “tiều vài chú” để gợi lên sự cô đơn, lẻ loi. Làm sao mà hình ảnh con người nhỏ bé lại có thể so sánh với khung
cảnh núi non hùng vĩ, hiểm trở đến vậy? Tưởng chừng như khi có sự xuất hiện của con người, cảnh vật sẽ trở nên ấm áp hơn, nhưng không, vấn như vậy, không khí xung quanh nơi đèo Ngang vẫn trở nên vắng vẻ, hắt hiu như vây.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Tiếng kêu của con chim quốc hay phải chăng chính là tiếng lòng của tác giả. Tiếng kêu của con chim quốc phải chăng đã làm phá vỡ cái cảnh yên tĩnh của nơi đây, của nơi bóng xế chiều sắp lụi tàn. Đâu chỉ có tiếng kêu của con chim quốc, đây còn là tiêng kêu của con chim gia gia gợi lên một nỗi nhớ thương nhà. Nhưng phải chăng là đây chính là tiếng lòng của tác giả, đó chinh là tình yêu thương quê hương đất nước, nỗi nhớ nước thương nhà da diết của tác giả. Kép lại 2 câu thơ trong bài, tác giả có viết:
Dừng chân đứng lại trời non nước
|
Assignment
Crossing Ngang Pass is one of the famous works of Ba Huyen Thanh Qua when she was passing through Ngang Pass - a famous place with charming, yet poetic landscapes. The poem is a colorful picture of nature but reveals the author's sad feelings because of the fading golden age of the previous society.
Stepping to Ngang Pass, the driver's shadow
Grass and trees crowd rocks and flowers
With just two simple verses, the author has generalized the entire scene and time when drawing the scenery here: just when stepping foot here, the scene here already has the label of "sunset sunset". evil". The image of the sunset seems to evoke a sadness that suggests the author is feeling a bit regretful about the passing day. Why is there such a beautiful sunset, such a beautiful scene, but why does the author's text bring such sadness? But is it only the sunset, on the contrary, an image makes the reader feel appropriate: Grass and trees overlap rocks, leaves overlap flowers. In the face of the gradually falling sunset, there are images of trees and grass growing up full of vitality. Those images of flowers and trees look so small compared to the mountains and forests and landscapes here, but the things themselves grow so strongly. Even in that gradually fading sunset, there were such contrasting images, images that made the reader think a lot about those things. If in the first two verses, the author wants to evoke natural scenery, then in the next two verses, the author mentions images of people:
Crouching under the mountain to make a few trees
Few sporadic riverside home market
In a gloomy painting, human images will make everything much more vivid. But even with human imagination, the scene here becomes strangely gloomy. The author used the words "scattered" and "scattered" to evoke loneliness and isolation. . How can the small human image be compared to the frame
Such majestic and dangerous mountain scenery? It would seem that when people appear, the scene will become warmer, but no, even so, the atmosphere around Ngang Pass still becomes deserted and gloomy.
Missing the country is painful for the country's children
Trade the mouth so adhered fatigue
The cry of the national bird is perhaps the voice of the author's heart. The cry of the national bird must have broken the quiet scene of this place, of the place where the late afternoon shadow was about to fade. Not only is it the cry of the national bird, this is also the cry of the grandfather's bird, evoking a feeling of longing for home. But perhaps this is the author's heart, the author's love for his homeland, his deep nostalgia for his country. Paraphrasing the two verses in the article, the author wrote:
Stop and stop at the sky and water
|
Bài Làm
Đối với mỗi con người Việt Nam, chắc hẳn ai cũng đa quen thuộc với hình ảnh cây đa, bến nước, con đò. Và làng quê Việt Nam chắc hản sẽ không thể mang dấu ấn đặc biệt nếu thiếu đi cây tre Việt Nam.
Tre Việt Nam là một trong những hình ảnh đã tốn không ít giấy mực của không biết bao nhà thơ, họa sĩ. Tre đã gắn liền với người dân Việt Nam ngay từ đầu những ngày đầu dựng nước và giữ nước. Tre cùng người dân cùng nhau chiến đấu, tre cho người dân bóng mát, tre để xây nhà, tre làm dụng cụ để giúp nhân dân ta đánh giặc. Đối với giặc, tre là một vũ khí lợi hại của nhân dân ta, tre làm hàng rào để giặc không thể bước tiếp, tre trở thành những mũi lao, mũi chông để đánh tan quân giặc. Cũng chính bởi vậy mà cây tre đã trở thành người bạn thân thiết và lâu đời nhất đối với người nông dân Việt Nam. Bởi vậy mà trong nhiều bài thơ đã viết:
Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Cũng chính từ hai câu thơ này mà những thắc mắc trong tôi cũng từng ngày lớn lên. Không biết tự bao giờ trên dải đất hình chữ S này lại xuất hiện một hình dáng cao vút, lắc lẻo ấy, một thứ cây xanh mướt và luôn đong đưa trước gió. Ngay từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, hình tượng cây tre đã trở nên anh hùng và bất khuất, một hình tượng người quân tử luôn vươn cao trước mọi cuộc chiến đấu.
Tre dù thân gầy guộc, khẳng khiu nhưng không hề yếu mềm, ngược lại, tre biết biết thành kết lũy, để bảo vệ đất nước ta: tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Chính sự đoàn kết một lòng đó đã đan kết lại thành một sức mạnh to lớn, không gì có thể phá vỡ được. Những cây tre trưởng thành làm chỗ dựa vững chắc để các cây tre nhỏ mọc vươn dài. Rồi sau này, những cây tre ấy sẽ dần dần lớn lên để có thể làm điểm tựa cho những cây tre già, để không bị gió, bị bão làm cho vùi dập. Những ngọn măng nhỏ đang đâm những mầm nhọn hoắt, tự tin vươn lên đầy sức sống, để có thể tiếp bước cho những thế hệ đi trước. Cũng giống như những thế hệ trẻ của đất nước ta lại tiếp tục nối bước ông cha ta mà vững bước đi lên. Tre kiên gan bền bỉ vững chãi trong mọi môi trường sống dù bùn lầy, khô hạn, đất sỏi đất vôi bạc màu tre cũng xanh tươi mượt mà.Tre mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp dẻo dai, thanh cao chí khí như người. Sự hoá thân ấy đã xoá bỏ ranh giới giữa con người với sự vật.
|
Assignment
For every Vietnamese person, surely everyone is familiar with the images of banyan trees, water wharves, and boats. And Vietnamese villages certainly wouldn't have a special mark without Vietnamese bamboo.
Vietnamese bamboo is one of the images that has consumed a lot of ink and paper by countless poets and artists. Bamboo has been associated with the Vietnamese people since the early days of building and defending the country. Bamboo and the people fight together, bamboo gives people shade, bamboo to build houses, bamboo makes tools to help our people fight the enemy. For the enemy, bamboo is a powerful weapon for our people, bamboo makes fences so the enemy cannot move forward, bamboo becomes spears and spears to defeat the enemy. That is why bamboo has become the closest and oldest friend to Vietnamese farmers. That's why in many poems it was written:
Bamboo has always been green
Once upon a time, there was a green bamboo bank
It is also from these two verses that my questions grow day by day. I don't know when on this S-shaped strip of land will appear such a tall, swaying shape, a green tree that always sways in the wind. Right from the early days of building and defending the country, the image of bamboo has become heroic and indomitable, an image of a gentleman who always stands tall in every battle.
Although bamboo has a thin and spindly body, it is not weak at all. On the contrary, bamboo knows how to accumulate and accumulate to protect our country: bamboo keeps the village, keeps the water, keeps thatched roofs, keeps ripe rice fields. It is that unity of heart that has woven together into a great strength that nothing can break. Mature bamboo trees provide a solid support for small bamboo trees to grow and stretch. Then later, those bamboo trees will gradually grow up to be able to serve as a fulcrum for the old bamboo trees, so that they will not be overwhelmed by wind or storms. The small bamboo shoots are sprouting sharp shoots, confidently rising with vitality, to be able to follow in the footsteps of previous generations. Just like the younger generations of our country continue to follow in the footsteps of our ancestors and steadily move forward. Bamboo is resilient and steadfast in all living environments, whether muddy, dry, gravelly or faded lime soil. Bamboo is still green and smooth. Bamboo is rustic, humble, strong and flexible, and has a noble spirit like a person. . That incarnation erased the boundary between people and things.
|
Bài làm
Xuân Quỳnh là một trong những nữ nhà thơ nôi tiếng với những vần thơ giàu cảm xúc, tha thiết tình yêu quê hương, đất nước, yêu con người. Nhưng tình yêu đó không được phô ra một cách lộ liễu mà ngược lại, nó lại được đong đầy, yêu thương, gợi nhiều cảm xúc. Và một trong những bài thơ như vậy là bài thơ “Tiếng gà trưa”, được tác giả viết năm 1968 với hình ảnh bà cháu bình dị và thấm đậm tình cảm yêu thương, trìu mến.
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
Bài thơ được mở đầu bằng một câu thơ nhẹ nhàng mà lại bắt nhịp một cách tự nhiên nhất. Đó không phải là cảm nhận của một người trong làng mà đó chính là lời của một người lính, một người chiến sỹ cách mạng. Một con người đã hành quân xa và khi đi qua ngôi làng nhỏ, lặng nghe tiếng gà gáy thì bao nhiêu kỷ niệm tuổi thơ trong anh lại ùa về. Tuổi thơ trong anh lại như bừng tình giấc, tất cả những cảm xúc như ùa về nơi đây để nghe, nghe xao động nắng trưa, nghe bàn chân đỡ mỏi, nghe gọi về tuổi thơ,… Tưởng chừng như là một tiếng gà trưa bình thường nhưng không, nó đã được đánh thức,được khơi gợi về quá khứ, một quá khứ đẹp với những kỷ niệm rất yên bình:
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng
Nhân vật dường như đang được quay ngược thực tại để có thể trở về quá khứ, nơi có những con gà mái mơ, mái vàng, nơi có những ổ rơm hồng những trứng, nơi đó chăn chứa yêu thương, nhưng phải chăng, tuổi thơ sẽ không trở nên toàn vẹn nếu thiếu mất hình bóng của bà:
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng
Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng
Có bóng dáng thân thuộc của bà:
Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp
Trong tiếng gà trưa đó, có tiếng của bà, bao giờ nhân vật mới lại được nghe tiếng mắng thân thương ấy, khi mà giờ đã không còn được nhìn bà, nghe bà mắng mỗi ngày, đó là vì.cái gì, đã khiến cho những nỗi đau cứ lớn dần lên, đó phải chăng là do chiến tranh, do sự tàn ác của lũ thực dân. Nhưng cũng trong tiếng gà ấy, bóng dáng của bà lại hiện hữu:
Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông đến
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới”
Bà vẫn luôn như vậy, vẫn luôn chắt chiu từng đồng để cho cháu con có được cơm ăn, được có quần áo mới, còn bà thì có cần gì đâu, mọi thứ với bà đều không quan trọng, tất cả những gì bà mong muốn bây giờ là cho con cho cháu. Tác giả đã sử dụng cụm từ “cứ hàng năm hàng năm”- phải chăng nó là cụm từ để gợi lên sự hy sinh, vất vả của bà cho cháu, để rồi mỗi năm đến, cháu lại có thêm được quần áo mới:
Ôi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh trúc bâu
Đi qua nghe sột soạt
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng”
Niềm vui đơn giản mà lại vô cùng hạnh phúc, thấm đượm tình yêu của người bà dành cho cháu. Hình ảnh người bag vẫn luôn hiện hữu trong tâm hồn của người cháu, để rồi, khi quay trở lại thực tại, người cháu lại vững tay súng, để có thê tiếp bước cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc:
“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
|
Assignment
Xuan Quynh is one of the famous female poets with emotional poems, passionate love for homeland, country, and love for people. But that love is not openly displayed, on the contrary, it is filled, loved, and evokes many emotions. And one of such poems is the poem "The Noon Sound of Chickens", written by the author in 1968 with the image of a simple grandmother and grandchild imbued with love and affection.
“On a long march
Stop by the small hamlet
The sound of a chicken jumping into the nest:
“Cluck… cluck cluck cluck me”
Listen to the stirrings of the noon sun
Feeling less tired feet
Calling back to childhood"
The poem opens with a gentle verse that has a rhythm in the most natural way. Those are not the feelings of a villager, but the words of a soldier, a revolutionary soldier. A man marched far away and as he passed through a small village, listening to the sound of a rooster crowing, many childhood memories came rushing back to him. His childhood seemed to awaken again, all his emotions seemed to rush back here to listen, hear the stirring of the noon sun, hear his tired feet ease, hear the call of childhood,... It seemed like a noon cock. normal but no, it has been awakened, evoked about the past, a beautiful past with very peaceful memories:
Noon chicken sound
Pink straw nest with eggs
Hey dreamy hen
The flowers have white spots all over
Hey golden hen
The fur is as shiny as the sun
The character seems to be going back to reality to be able to return to the past, where there are dreamy hens, golden hens, where there are nests of pink straw and eggs, where the blanket is filled with love, but at a reasonable age. Poetry would not be complete without her figure:
Noon chicken sound
There was a sound of her still scolding
You look at the laying hens
Then later on, you'll be gone!
I'll go get a mirror
The foolish heart is worried
There is her familiar figure:
Noon chicken sound
Her hand cupped the eggs
Spend each fruit carefully
Let the hen incubate
In that noon chicken sound, there was her voice. When will the character hear that loving scolding again, now that he can no longer look at her or hear her scolding him every day, that's why. For the pain that keeps growing, is it due to the war, due to the cruelty of the colonialists. But in that same sound, her figure appeared again:
Every year every year
When the winter wind comes
She takes care of my chickens
I hope there is no frost
To sell chickens at the end of the year
I got new clothes"
She has always been like that, always saving every penny so that her children and grandchildren can have food, new clothes, and she doesn't need anything, everything is not important to her, all she wants is What I want now is for my children and grandchildren. The author used the phrase "every year every year" - perhaps it is a phrase to evoke the sacrifices and hardships of the grandmother for her grandchild, so that each year, the grandchild gets new clothes:
Oh those skinny pants
Long wide tube sweeps the ground
Bamboo blouse
As I passed by, I heard rustling
“The sound of chickens at noon
Bring so much happiness
That night I dreamed
"Red egg sleep"
A simple yet extremely happy joy, imbued with a grandmother's love for her grandchild. The image of the bagman is always present in the nephew's soul, so that when he returns to reality, the nephew will firmly hold his gun, so that he can continue his career of building and protecting the country:
“I fought today
For love of Fatherland
Because the village is familiar
Grandma, it's also because of you
Because of the clucking sound of chickens
|
Bài làm
Nếu bạn được sinh ra ở thành phố, thì chắc hẳn bạn sẽ còn rất lạ lẫm với hình ảnh con trâu ngoài đời thực, chứ không phải là qua sách báo, hay ti vi. Nhưng đối với mỗi đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở quê như chúng tôi, thì hình ảnh những chú trâu cần mẫn cày ruộng, hay dìm mình xuống những dòng sông mát thì lại quá đỗi gần gũi, thân thuộc. Bởi vậy mà từ trước tới nay, hình ảnh con trâu luôn là biểu tượng của người dân Việt Nam.
Ấy thế mà, kỳ Seagame lần đầu tiên tổ chức tại Việt Nam thì linh vật mà nước ta lựa chọn chính là hình ảnh con trâu vàng. Trâu luôn là biểu tượng của sự hiền lành, chăm chỉ, cần mẫn và là người bạn của những người nông dân. Đối với mỗi người nông dân, nếu nhà ai có trâu thì đó chính là tài sản quý giá nhất. Nếu bạn đã từng một lần đi về quê chơi, chắc hẳn bạn sẽ rất thích thú với hình ảnh những chú trâu kéo cày, xới từng thửa đất để cho sau khi đất hà hơi, sẽ có thể tiếp tục trồng trọt. Bởi vậy mà ông cha ta mới có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp” cũng là như vậy.
Không phải ngay từ thuở đầu, trâu đã trở thành bạn với con người, mà trâu trước kia là trâu rừng và được con người thần hóa và trở thành loài trâu như bây giờ. Trâu Việt Nam thường có một bộ lông đen óng, với một thân hình vạm vỡ, chiếc sừng sắc nhọn và hướng về phía sau. Nhưng bạn hãy thận cẩn vì nếu chiến đấu, thì chiếc sừng tưởng chừng vô hại ấy sẽ trở thành một vũ khí lợi hại nhất. Nhưng đó chỉ là những chú trâu tham gia chọi thôi nhé. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, trâu đực trung bình cày bừa từ 3~4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2 đến 3 sào, không những vậy trâu còn được coi là một tài sản quý của của nhà nông.
Trong những thế kỷ trước, trâu không chỉ dùng để kéo cày mà trâu còn dùng để kéo xe, vận chuyển hàng hóa, thậm chí trâu còn có thể khéo hàng đến gần 400 kg. Nhưng với thời nay, thì trâu chỉ có chức năng kéo cày và chở những hàng hóa ở xung quanh làng vì hiện tại thì có rất hiều các phương tiện kéo, chuyển đồ nhanh hơn trâu.
Hình ảnh những chú trâu đang thong dong gặm cỏ, những em bé ngồi vắt vẻo trên lung trâu với nhưng chiếc diều sáo trong tay đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực của những nhà văn, nhà thơ. Trâu vẫn luôn là một người bạn thân thiết của mỗi người dân Việt Nam, ấy thế mà còn những câu ca dao đi mãi với thời gian:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Trâu không chỉ được biết đến với công việc kéo cày mà đã từ lâu, mảnh đất Hải Phòng đã nổi tiếng với lễ hội chọi trâu:
|
Assignment
If you were born in the city, then you will probably still be very unfamiliar with the image of a buffalo in real life, not through books, newspapers, or television. But for every child born and raised in the countryside like us, the image of buffaloes diligently plowing fields or immersing themselves in cool rivers is very close and familiar. Therefore, from time immemorial, the image of the buffalo has always been a symbol of the Vietnamese people.
Yet, for the first Seagame held in Vietnam, the mascot that our country chose was the image of the golden buffalo. The buffalo has always been a symbol of gentleness, hard work, diligence and a friend of farmers. For every farmer, if anyone has a buffalo, it is the most valuable asset. If you have ever gone back to your hometown, you will surely enjoy the image of buffaloes pulling plows and tilling each plot of land so that after the soil has breathed, it will be possible to continue growing crops. That's why our ancestors had the saying: "The buffalo is the beginning of the inheritance".
Not from the very beginning, the buffalo became friends with humans, but the buffalo was formerly a wild buffalo and was deified by humans and became the buffalo it is today. Vietnamese buffaloes usually have shiny black fur, with a muscular body and sharp, rear-facing horns. But be careful because if you fight, that seemingly harmless horn will become the most powerful weapon. But those are just buffaloes participating in the fight. Buffalo is an animal belonging to the mammal class. Buffaloes are raised mainly to pull plows, the average male buffalo plows from 3 to 4 acres and the female buffalo can plow from 2 to 3 acres. Not only that, buffaloes are also considered a valuable asset of farmers.
In previous centuries, buffaloes were not only used to pull plows, but also used to pull carts and transport goods, and could even carry goods up to nearly 400 kg. But nowadays, buffaloes only have the function of pulling plows and carrying goods around the village because currently there are many means of pulling and moving things faster than buffaloes.
The image of buffaloes leisurely grazing and children sitting on the backs of buffaloes with fluted kites in their hands has consumed countless writers and poets. The buffalo has always been a close friend of every Vietnamese person, yet there are folk songs that have passed through time:
Buffalo, I say buffalo
The buffalo went out into the buffalo fields to plow with me
Buffaloes are not only known for pulling plows, but for a long time, Hai Phong has been famous for its buffalo fighting festival:
|
Bài làm
Nhắc đến mùa xuân, con người ta thường hay nhắc đến sự đâm chồi, này lộc, mùa của sức sống, của sắc xuân. Chính bởi vậy mà khi viết về mùa xuân, nhiều nhà văn, nhà thơ hãy dành cho mùa xuân những nét yêu kiều, tươi mới nhưng lại căng tràn nhựa xuân. Phải chăng như vậy mà khi mùa xuân đến, nàng tiên mùa xuân như đang đặt những bước chân đầu tiên xuống mặt đất khiến cho hoa cỏ như bừng tỉnh, cảnh vật đua nhau khoe sắc. Cũng chính bởi sức cuốn hút của mùa xuân mà đến nhà văn Vũ Bằng cũng phải viết nên những tâm tư, tình cảm của mình để gửi gắm đến mùa xuân.
Bài tùy bút “mùa xuân của tôi” được trích từ thiên tùy bút “Tháng Giêng mơ về trăng non rét ngọt in” trong tập Thương nhớ mười hai của tác giả Vũ Bằng. Tác phẩm được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến oai hùng của dân tộc ta, khi mà đất nước ta vẫn đang bị chia cắt, tác giả phải sống trong vùng địch kiểm soát, bởi vậy mà tác giả phải xa đất Bắc, xa nơi chon rau cắt rồn của mình. Nỗi như quê hương, nhớ gia đình và lòng mong mỏi đến một cuộc sống hòa bình, ấm no hạnh phúc, đã được tác giả gửi gắm vào những vần thơ. Và niềm hy vọng ấy của tác giả càng được nung nấu khi trong những tháng mùa xuân đầy hy vọng này.
Mở đầu tác phẩm, tác giả không nói ngay lên nỗi nhớ trong lòng mình mà tác giả dẫn người đọc vào bài một cách tự nhiên, không hề gò bó: “Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.”
Câu mở đầu của tác giả hết sức tự nhiên, tác giả đã sử dụng từ “ai” để nhấn mạnh. Như một câu hỏi tu từ, ai có thể ngăn cấm được những điều tự nhiên đến như vây: “Ai bảo được non đừng thương nước; ; ai cấm được trai thương gái;…” nhưng điều bình dị ấy thì ai có thê ngăn cấm. Giặc Mỹ sao? Không, giặc Mỹ chỉ có thể cùm trói được thể xác ta, nhưng làm sao chúng có thể trói buộc được tâm hồn ta? Và đó cũng là những nỗi tâm tình mà tác giả muốn gửi gắm. Nhà văn nhớ về đất Bắc, nhớ những cảnh sinh hoạt đời thường, nhớ những nét đặc trưng của con người Bắc: “
Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cồ gái đẹp như thơ mộng…”
Giọng văn của tác giả nhẹ nhàng mà sao lại dào dạt đến vậy? Bằng một cách vô hình nào đó, tác giả đã đưa chúng ta quay về với những hồi ức đẹp để có thể quên đi những điều thực tại. Trong bài văn, nhà thơ luôn nhấn mạnh mùa xuân của tôi, mùa xuân của tác giả, mùa xuân đang rực cháy trong lòng của một con người xa xứ Bắc. Ấy thế mà mùa xuân ấy thật lạ lung, mùa xuân như đã khắc sâu vào trong tâm hồn của tác giả một nét khác biệt, một nét văn không thể giống với bất kỳ nơi nào: “: Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người cứ căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.”
Mùa xuân như làm con người ta thêm trẻ ra, càng căng tràn sức sống hơn, tim ta cùng đập nhanh và rộn rã hơn. Mùa xuân bao phủ cả đất trời, khiến ta nhìn ai cũng thấy yêu, thấy quý.
|
Assignment
When talking about spring, people often talk about budding, buds, the season of vitality, and spring colors. That's why when writing about spring, many writers and poets give spring features that are lovely, fresh, but full of spring sap. Is that so, when spring comes, the spring fairy seems to be taking her first steps on the ground, causing the flowers and grass to awaken and the landscape to bloom. It is also because of the attraction of spring that even writer Vu Bang had to write down his thoughts and feelings to convey to spring.
The essay "My Spring" is excerpted from the essay "January dreams of the cold, sweet new moon" in the volume Thuong Meo twelfth by author Vu Bang. The work was composed during the years of our nation's heroic resistance war, when our country was still divided, and the author had to live in an enemy-controlled area, so the author had to be far from the North, far away. where to choose your own vegetables. The feeling of homeland, missing family and the longing for a peaceful, prosperous and happy life were expressed by the author in his poems. And the author's hope is even more fueled during these hopeful spring months.
At the beginning of the work, the author does not immediately express the nostalgia in his heart, but leads the reader into the article naturally, without restraint: "It's so natural: everyone loves spring. And January is the first month of spring, people are more affectionate, it's not strange at all. Who told the mountains not to love the water, the butterflies not to love the flowers, the moon not to love the wind; Who can stop a boy from loving a girl? Who can stop a mother from loving her child? Who can stop the girl who is still longing for her husband to stop being infatuated with spring?
The author's opening sentence is very natural, the author used the word "who" for emphasis. As a rhetorical question, who can prevent such natural things: “Whoever tells the mountain should not love the country; ; Who can stop a boy from loving a girl?..." But no one can stop that simple thing. American enemy? No, the American enemy can only shackle our bodies, but how can they shackle our souls? And those are also the feelings that the author wants to convey. The writer remembers the Northern land, remembers the scenes of daily life, remembers the characteristics of the Northern people: "
My spring - the spring of North Vietnam, the spring of Hanoi - is a spring with pouring rain, cold winds, the sound of swallows calling in the blue night, the sound of rowing drums echoing from far away villages, The girl's love song is as beautiful as poetry..."
The author's voice is gentle, but why is it so intense? In some invisible way, the author has brought us back to beautiful memories so we can forget the real things. In the poem, the poet always emphasizes my spring, the author's spring, the spring burning in the heart of a person far from the North. Yet that spring was so strange, the spring seemed to have engraved a unique feature in the author's soul, a writing feature that could not be duplicated anywhere else: ": That's it, the divine spring." To me, it makes people want to go crazy like that. I can't stand sitting still. The life sap in the body keeps swelling like the blood in the deer's buds, like the buds of trees, unable to stay still forever, and must emerge into tiny leaves and raise their hands to wave at the standing lovebirds. edge."
Spring seems to make us younger, more full of vitality, our hearts beat faster and more excitedly. Spring covers the whole world, making everyone we look at love and feel precious.
|
Bài làm
Hồ Chí Minh không những là vị lãnh tụ của nhân loại mà còn là một nhà thơ đầy bản lĩnh và có lòng nhân ái. Chúng ta không thể không khâm phục Người khi đã để lại một khối lượng thơ văn khá là đồ sộ và chúng có tầm ảnh hưởng lớn. Nói đến đây, ắt hẳn chúng ta sẽ nhớ tới bài “ Cảnh khuya “, bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh khi chúng ta đang bước sang một cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp tại chiến khu Việt Bắc.
Bài thơ “ Cảnh Khuya” nói lên phong thái ung dung, lạc quan của Người khi dành cho mình những phút giây thanh thản để hòa mình cùng với thiên nhiên cảnh vật, khiến cho ta cảm thấy ngưỡng mộ tâm hồn thanh cao ấy.
Giữa khung cảnh đất trời núi rừng hoang sơ nơi đây điều đầu tiên Bác cảm nhận được đó chính là.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa” Đọc câu thơ ta thấy Bác thật tài tình trong lối so sánh của mình. Tiếng suối được ví von như tiếng hát, điều đặc biệt hơn nữa đó là tiếng suối này được cảm nhận bằng thính giác và lại tiếng suối trong. Có lẽ người tuy không nhìn rõ không nếm được nhưng vẫn có thể cảm nhận rõ được độ trong trẻo của dòng suối ấy.
Chắc hẳng đây chính là món quà ý nghĩa mà thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất hoang sơ Việt Bắc. Cách so sánh tiếng suối như tiếng hát khiến ta thấy tài tình xiết bao. Đó có thể là tiếng hát từ đâu vọng lại hoặc là một tưởng tượng của Người nhằm làm tô đậm cho cái trong trẻo của suối. Cách so sánh tài tình ấy làm cho tiếng suối không còn trở nên lắng động vô hồn nữa mà bỗng nhiên trở nên sôi động trẻ trung và khiến cho cảnh rừng im ắng trở nên có âm thanh có hồn người ở trong đó. Câu thơ làm cho ta thấy được tính nhân văn thường thấy ở trong thơ Bác,cảnh vật luôn được gắn liền với con người, và chúng không thể tách rời khỏi con người. Trong đêm khuya thanh vắn đang mải với công việc thì bỗng nhiên bác cảm nhận được âm thanh trong trẻo rồi lại ngước lên nhìn vầng trăng.
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Nhắc tới từ “lồng” chúng ta lại nghĩ tới hai vật nào đó đan xen vào nhau để tạo thành một thể thống nhất. Ở đây, ánh trăng soi vào bóng cây cổ thụ ngay trước cửa phòng Bác rồi bóng cây cổ thụ đó lại tiếp tục phủ mình lên những bông hoa. Dường như đối với Bác hình ảnh này đã tạo thành một chỉnh tổng thể thống nhất tự nhiên. Cảnh vật lúc này như đang được hòa quyện vào nhau khiến cho con người ta cảm thấy xốn xang dao động. Các sự vật đan lồng vào nhau tạo nên hai gam màu sáng tối, trắng đen giống như nhiều lớp lang, tầng bậc cao thấp lung linh, huyền ảo, hòa hợp quấn quýt. Trăng – cây cổ thụ – hoa, ba vật thể cách nhau cả ngàn trung nhưng vẫn có thể đan cài nâng đỡ nhau tạo nên một vẻ đẹp nên thơ, có hồn.
Điệp từ “lồng” được nhắc đi nhắc lại hai lần tạo nên âm hưởng ngọt ngào cho câu thơ. Câu thơ của Bác thật giàu giá trị tạo hình, nó giống như một bức tranh phong cảnh đẹp có tầng lớp. Câu thơ vẽ lên một bức tranh ba tầng với những mảng đen trắng lồng vào nhau. Có lẽ bởi vì tâm hồn Bác giàu chất thơ và có tâm hồn đồng điệu mới có thể phát hiện ra được vẻ đẹp tự nhiên như thế.
Nếu như ở hai câu thơ đầu Bác chỉ miêu tả về thiên nhiên thì tới hai câu thơ cuối ta lại thấy được hình ảnh một vị lãnh tụ đang trằn trọc không ngủ được:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
|
Assignment
Ho Chi Minh is not only the leader of humanity but also a brave and compassionate poet. We cannot help but admire him for leaving behind a rather large and influential volume of poetry. Speaking of this, we will surely remember the poem "Night Scene", a poem composed in the context when we were entering a war against the French colonialists in the Viet Bac war zone.
The poem "Late Scene" speaks of his leisurely and optimistic demeanor when giving himself peaceful moments to mingle with nature and scenery, making us feel admiration for that noble soul.
In the midst of the wild landscape of mountains and forests here, the first thing Uncle felt was...
"The sound of a stream is as clear as a distant song." Reading the poem, we see that Uncle Ho is very ingenious in his comparison. The sound of a stream is likened to singing, what is even more special is that the sound of this stream is felt by hearing and the sound of the stream is clear. Perhaps even though people cannot see clearly or taste it, they can still clearly feel the clarity of that stream.
Surely this is a meaningful gift that nature has given to the pristine land of Viet Bac. The way of comparing the sound of a stream to singing makes us feel how clever it is. It could be a singing voice coming from somewhere or an imagination of the person to enhance the clarity of the stream. That ingenious comparison makes the sound of the stream no longer become quiet and lifeless, but suddenly becomes vibrant and youthful, and makes the silent forest scene have soulful sounds in it. The verse makes us see the humanity often seen in Uncle Ho's poetry, landscapes are always attached to people, and they are inseparable from people. Late in the quiet night, while busy with work, he suddenly felt a clear sound and then looked up at the moon.
“Ancient tree moon and flower cage shadow”
When mentioning the word "cage", we think of two objects intertwined to form a unified whole. Here, the moonlight shines on the shadow of an old tree right in front of Uncle Ho's door, then the shadow of that old tree continues to cover the flowers. It seems that for Uncle Ho, this image has formed a naturally unified whole. The scenery at this time seems to be blending together, making people feel flustered. The objects are intertwined to create two colors of light and dark, black and white, like many layers, high and low levels, shimmering, fanciful, and tangerine harmony. Moon - ancient tree - flower, three objects thousands of miles apart but can still intertwine and support each other, creating a poetic, soulful beauty.
The refrain "cage" is repeated twice, creating a sweet sound for the poem. Uncle Ho's poem is rich in visual value, it is like a beautiful landscape painting with layers. The poem paints a three-layered picture with interlocking black and white panels. Perhaps it is because Uncle Ho's soul is rich in poetry and has a sympathetic soul that he can discover such natural beauty.
If in the first two verses Uncle Ho only describes nature, then in the last two verses we see the image of a leader struggling to sleep:
“The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet
Not sleep, worrying that country"
|
Bài làm
Lời nói chính là ngôn ngữ phương tiện trao đổi để con người giao lưu, hiểu được tâm tư tình cảm của nhau. Trong cuộc sống của con người từ lúc sinh ra cho tới khi trưởng thành, già nua và chết đi, mỗi thời kỳ chúng ta đều phải học tập rất nhiều thứ khác nhau trong cuộc sống, bất kỳ cái gì cũng phải học
Câu tục ngữ “Học ăn, học nói, học gói, học mở” thể hiện sự cần thiết phải học tập trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống con người.
Câu nói có ý khuyên nhủ con người hãy cư xử nói năng cho thấu tình đạt lý, “lời nói chẳng mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày, con người thường xuyên phải sử dụng ngôn ngữ để thể hiện ý kiến, thái độ sống của mình. Nếu chúng ta không biết lựa chọn ngôn ngữ thích hợp với ngữ cảnh thì sẽ làm người đối diện tỏ vẻ khó chịu, mất thiện cảm với chúng ta, khiến cho chúng ta mất điểm trước mắt họ.
Thái độ giao tiếp, ngôn ngữ cử chỉ, sẽ nói lên trình độ văn hóa, phong cách sống của một con người cho chúng ta một cái nhìn tổng quan nhất về con người đó. Một người ăn nói dịu dàng, nho nhã sẽ gây được thiện cảm hơn với người thường xuyên nói tục chửi bậy, gây phản cảm với người xung quanh.
Trong cuộc sống con người học đối nhân xử thế, ứng xử trong giao tiếp cho vừa lòng nhau giữa người với người là điều vô cùng khó. Muốn đạt được mục đích đó chúng ta phải cố gắng hoàn thiện mình, cái gì hay, cái gì tốt ở người xung quanh chúng ta nên cố gắng học hỏi, cố gắng để phát huy được ưu điểm của mình, và hạn chế những nhược điểm của mình trong mắt người khác.
Việc chúng ta phải lựa lời để nói, là một việc làm liên tục lâu dài trải qua nhiều thời gian, chứ không phải có thể học trong một ngày, hai ngày là thành công. Việc học của con người là vô tận học cho tới lúc già, lúc chết cũng vẫn phải học, bởi cuộc sống của con người không ai là hoàn hảo cả, ai cũng có những khuyết điểm sai lầm của riêng mình.
Chính vì vậy để không làm gì phải lăn tăn, hối hận suy nghĩ về sau, người xưa mới nói câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở”
Ý nghĩa của câu nói này là bất kỳ việc gì con người ta cũng đều phải học, từ những việc đơn giản nhất như việc ăn cũng phải học. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng thể hiện việc ăn uống có văn hóa, biết ứng xử đúng lễ nghĩa. Trước khi ăn vào nhìn trước ngó sau xem có ai lớn tuổi hơn thì mời người đó, thể hiện việc lễ nghĩa.
|
Assignment
Speech is the medium of communication for people to communicate and understand each other's feelings and emotions. In human life, from birth to adulthood, old age and death, in each period we have to learn many different things in life, we have to learn anything.
The proverb "Learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open" demonstrates the need for learning in many different areas of human life.
The saying is intended to advise people to behave and speak in a way that is reasonable and reasonable, "words do not cost money to buy and choose words to please each other."
In daily communication, people often have to use language to express their opinions and attitudes. If we do not know how to choose appropriate language for the context, it will make the other person seem uncomfortable, lose sympathy with us, and cause us to lose points in their eyes.
Communication attitude and body language will reveal a person's cultural level and lifestyle, giving us the most general overview of that person. A person who speaks gently and elegantly will gain more sympathy from someone who often swears and curses, causing offense to those around them.
In human life, learning to treat people and behave in communication to please each other is extremely difficult. To achieve that goal, we must try to improve ourselves, what is good, what is good in the people around us, we should try to learn, try to promote our strengths, and limit our weaknesses. your point in the eyes of others.
The fact that we have to choose the words to say is a long-term continuous job that takes a long time, not something that can be learned in one day or two to succeed. Human learning is endless, until we are old and when we die, we still have to learn, because no one's life is perfect, everyone has their own shortcomings and mistakes.
That's why, in order to not have to worry or regret thinking about it later, the ancients said "Learn to eat, learn to speak, learn to package, learn to open."
The meaning of this saying is that people must learn everything, even the simplest things like eating. Eating by looking at the pot and sitting by the direction shows eating culture and knowing how to behave properly. Before eating, look around to see if there is anyone older than you, then invite that person, showing courtesy.
|
Bài làm
Nhà thơ Hạ Trị Chương là một nhà thơ lập nghiệp xa quê từ kh còn nhỏ nên trong lòng ông nỗi nhớ quê hương luôn thường trực trong tim mình.
Bài thơ “Ngẫu nhiên viết nhân buổi về quê” là một cảm xúc chân thực, đầy nghẹn ngào của tác giả khi trở về thăm quê hương khi tuổi đã già nhìn thấy quê hương thay đổi mỗi ngày, lòng càng da diết
Bài thơ là niềm cảm xúc trào dâng của một người con xa quê nhưng lúc nào cũng đầy vơi thương nhớ.. Nỗi nhớ nhà da diết luôn chất chứa trong trái tim người lữ khách. Nó chính là tiếng lòng thổn thức của tác giả khi đặt chân về lại nơi xưa nơi chôn rau cắt rốn của mình khi bóng chiều xế bóng.
Trong những câu thơ đầu tiên người đọc cảm nhận được sự mênh mông của không gian, sự dài đằng đẵng của thời gian, thể hiện quãng thời gian xa quê của tác giả Hạ Trị Chương là vô cùng lớn.
Cuộc sống vất vả, vật lộn nơi xa khiến cho con người ta luôn muốn quay trở lại nơi bình yên, thân thuộc của mình. Những năm tháng lập nghiệp nơi đất khách quê người nhưng lòng tác giả luôn hướng về quê hương của mình với những người bạn thủa còn để chỏm.
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
(Khi đi trẻ, lúc về nhà)
Một câu thơ thể hiện sự đối lập giữa ra đi và trở về, giữa già và trẻ thể hiện sự thay đổi của thời gian là vô cùng nhiều, thể hiện quãng thời gian dài xa cách của tác giả với quê hương của mình.
Trong một câu thơ những tác giả đã sử dụng những từ ngữ đối nghịch đầy xót xa, thể hiện sự nuối tiếc của con người khi dòng thời gian trôi đi không chờ đợi một ai. Thời gian là thứ mà khi đã trôi đi không bao giờ có thể lấy lại được nó là một trong ba thứ quý giá và quan trọng nhất với cuộc đời một con người.
Câu thơ chính là sự chua xót, ai oán, xót xa của tác giả trước những sự thật không thể thay đổi của đời người. Thể hiện tâm trạng nuối tiếc quá khứ, những thứ đã đi qua, tuột mất khỏi tay tác giả.
Hương âm vô cải, mấn tao tồi
(Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao)
Trong câu thơ này tác giả thể hiện sự khẳng định của mình về những thứ không thay đổi trong tim tác giả. Tiếng nói, thói quen của quê hương vẫn ăn sâu bám rễ trong lòng tác giả, không hề thay đổi.
Câu thơ thể hiện sự chua chát, xót xa tới nao lòng của tác giả khi về thăm quê, nhìn thấy quê hương thân yêu của mình, thấy những đứa trẻ ngây thơ buột miệng hỏi mình là khách nơi nào tới.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiểu vấn: Khách tòng hà hà xứ lai
(Trẻ con nhìn lạ không chào
|
Assignment
Poet Ha Tri Chuong is a poet who has been away from home since he was young, so the nostalgia for his homeland is always in his heart.
The poem "Accidentally written on the occasion of returning home" is a true, choking feeling of the author when returning to visit his homeland when he is old and seeing his homeland change every day, his heart becomes more and more painful.
The poem is the overflowing emotions of a person who is far from home but is always full of nostalgia. A deep homesickness is always contained in the heart of a traveler. It is the sobbing sound of the author's heart when he sets foot back in the old place where his birth was born as the afternoon fades.
In the first verses, the reader feels the immensity of space and the length of time, showing that the author Ha Tri Chuong's time away from home is extremely large.
Hard life and struggles in far away places make people always want to return to their peaceful, familiar place. During the years of working in a foreign land, the author's heart always turned to his homeland and his childhood friends.
The young master left the family, the old man returned
(When I'm young, when I come home)
A verse expressing the contrast between leaving and returning, between old and young, showing the immense changes of time, showing the author's long period of separation from his homeland.
In a poem, the authors used contrasting words full of sadness, expressing people's regret when time passes without waiting for anyone. Time is something that, once gone, can never be regained. It is one of the three most precious and important things in a person's life.
The poem is the author's bitterness, lamentation, and sorrow for the unchangeable truths of human life. Expresses the feeling of regret for the past, things that have passed, slipped out of the author's hands.
The sound of the sound is not good, but I feel bad
(The country voice is still the same, the hair is different)
In this verse, the author shows his affirmation about the unchangeable things in the author's heart. The voice and habits of the homeland are still deeply rooted in the author's heart, unchanged.
The poem shows the author's bitterness and heart-wrenching sadness when he returns to visit his hometown, sees his beloved homeland, and sees innocent children blurting out asking where he is as a guest.
Children have similar views, but do not understand each other
Tieu question: Guests from all over the world
(Children looked strange and did not say hello
|
Bài làm
Trong những tác phẩm chèo cổ, thì vở “Quan âm Thị Kính” có sức sống khá lớn trong lòng người xem, bởi những nhân vật trong tác phẩm có tính cách vô cùng độc đáo. Trong đó, nhân vật Thị Kính khiến cho người xem cảm thấy xót xa, ám ảnh bởi những nỗi oan quá lớn mà người phụ nữ này phải gánh chịu trong cuộc sống của mình.
Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” kể về sự oan ức của Tiểu Kính Tâm khi cô là người phụ nữ yêu chồng, hiếu thuận với gia đình chồng nhưng lại bị nghi oan là có âm mưu giết hại chồng, khiến cô đau đớn như muốn chết đi.
Thị Kính là người phúc hậu, đoan trang. Cô hết sức chăm sóc cho gia đình chồng, một lòng chung thủy trước sau như một làm tròn bổn phận của người vợ, người dâu hiền trong gia đình quán xuyến công việc.
Nhưng rồi một hôm khi chồng đang ngủ say, Thị Kinh thì ngồi thêu thùa đan áo cho chồng, nàng ngồi ngắm khuôn mặt chồng mình và giật mình có một sợi râu mọc ngược trông không mấy thẩm mỹ.
Nghĩ vậy Thị Kính liền lấy kéo để cắt giúp chồng nhưng không may đúng lúc đó chồng của Thị Kính tỉnh giấc nhìn thấy vợ cầm kéo định tiến về phía mình cho rằng vợ mình toan giết chồng.
Nên anh chồng vô cùng giận dữ. Mọi hiểu lầm bắt đầu nỗi oan ức của Thị Kính cũng xuất phát từ đây. Nghe thấy con trai kêu thất thần thì bố mẹ chồng Thị Kính cũng chạy vào, nhìn thấy nàng cầm kéo, rồi lại nghe con trai nói là Thị Kính định giết mình thì lập tức tin lời không cần đối chất.
Mẹ chồng Thị Kính là người phụ nữ đanh đá, mồm miệng khá hoạt ngôn, bà ta thấy tình hình như vậy liền hô hoán cho người dân xung quanh, hàng xóm láng giềng nghe thấy rồi vu oan cho con dâu tội giết chồng
Nỗi oan của Thị Kính chồng chất lên nhau, khiến nàng sống cảnh tủi hổ, bị hắt hủi ghẻ lạnh. Bố mẹ chồng không tin nàng thì đành chịu, bởi ông bà không hiểu chuyện, hơn nữa mẹ chồng nàng dâu thường có bất hòa trong cuộc sống, hai người phụ nữ khi cùng làm hoàng hậu một gia đình thì thường xảy ra mâu thuẫn. Mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu xưa nay vẫn thế.
Nhưng, người chồng đầu ấp má kề, người ngày ngày cùng chung chăn gối với Thị Kính mà cũng không hiểu bản chất, tâm địa nàng tốt hay xấu, thương chồng thật lòng hay không thì thật là khó hiểu.
Một người chồng sống cùng vợ mỗi ngày mà không tin tưởng vợ, không bảo vệ vợ mà lại vu oan cho vợ có âm mưu giết mình rồi hô hoán bố mẹ khiến mọi chuyện trở nên bi kịch khó giải quyết hơn rất nhiều khi chỉ có hai người mà thôi.
Xã hội phong kiến là một xã hội trọng nam khinh nữ nên quyền lên tiếng của người phụ nữ dường như chỉ là không mà thôi. Sự oan ức của Thị Kính thật sự là vô cùng bi ai, người xem cảm thấy nhân vật chồng Thị Kính (Thiện Sĩ) có chút tàn nhẫn, vô tâm.
Anh ta là người có học, ngày đêm dùi mài kinh sử nhưng lại không có trái tim nhân hậu, không có sự rộng lượng bao dung thấu hiểu tâm sự của người con gái sống bên cạnh mình, thờ ơ với nỗi oan của vợ. Thật sự đáng trách.
|
Assignment
Among ancient Cheo works, the play "Avalokiteśvara Thi Kinh" has a great vitality in the hearts of viewers, because the characters in the work have extremely unique personalities. In it, the character Thi Kinh makes viewers feel sad and haunted by the great injustices that this woman has to endure in her life.
Excerpt from "The injustice of harming her husband" tells the story of Tieu Kinh Tam's injustice when she was a woman who loved her husband and was filial to her husband's family but was wrongly suspected of plotting to kill her husband, causing her such pain. want to die.
Thi Kinh is a kind and dignified person. She took great care of her husband's family, faithfully fulfilling her duties as a wife and a gentle daughter-in-law in the family taking care of the work.
But then one day while her husband was sleeping soundly, Thi Kinh sat down to embroider and knit a shirt for him. She sat and looked at her husband's face and was startled to see an ingrown beard that didn't look very aesthetic.
Thinking so, Thi Kinh immediately took scissors to help her husband cut, but unfortunately at that moment Thi Kinh's husband woke up and saw his wife holding scissors and intending to move towards him, thinking that his wife was planning to kill her husband.
So the husband was extremely angry. All the misunderstandings that started Thi Kinh's injustice also came from here. Hearing their son's cry of dismay, Thi Kinh's parents-in-law also ran in. They saw her holding scissors, then heard her son say that Thi Kinh was planning to kill her, so they immediately believed her without any confrontation.
Thi Kinh's mother-in-law is a sharp-tongued woman, quite talkative. When she saw this situation, she immediately shouted to the surrounding people. The neighbors heard and then falsely accused her daughter-in-law of killing her husband.
Thi Kinh's injustices piled up, causing her to live in a state of shame, rejection and estrangement. If her parents-in-law don't believe her, they can't help it, because they don't understand, and moreover, mother-in-law and daughter-in-law often have disagreements in life. When two women are queens of the same family, conflicts often arise. The relationship between mother-in-law and daughter-in-law is still the same.
However, it is truly difficult to understand whether the first husband is close to each other's cheek, the one who shares the same bed with Thi Kinh every day, but still does not understand her nature, whether her mind is good or bad, whether she truly loves her husband or not.
A husband lives with his wife every day but does not trust her, does not protect her, but falsely accuses her of plotting to kill him and then shouts at his parents, making everything tragic and much more difficult to resolve when there is only one just two people.
Feudal society is a society that respects men and despises women, so a woman's right to speak up seems to be nothing. Thi Kinh's injustice is truly extremely tragic. Viewers feel that the character of Thi Kinh's husband (Thien Si) is a bit cruel and heartless.
He is an educated man, studying history day and night, but he does not have a kind heart, does not have the generosity to understand the feelings of the girl living next to him, and is indifferent to his wife's injustice. Truly deplorable.
|
Bài làm
Bác Hồ là vị lãnh tụ vô cùng vĩ đại của dân tộc ta, người đã đưa đất nước ta thoát khỏi đêm dài nô lệ, thoát khỏi cảnh lầm than đêm tối. Người là biểu tượng vĩ đại của lòng yêu nước, của đức hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nhờ con đường cứu nước đúng đắn của mình mà cả dân tộc ta mới chiến thắng hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập cho toàn thể dân tộc.
Trong một đêm rừng mùa đông tại chiến khu Việt Bắc. Tôi một anh bộ đội viên đã vô cùng xúc động trước tình cảm ấm áp của Bác dành cho anh em bộ đội chúng tôi. Những cử chỉ chăm sóc ân cần của Bác như những hành động của một người cha già danh cho con cháu của mình.
Nửa đêm, khi tất cả các đồng chí đồng đội của mình đã ngủ say sưa, tôi giật mình tỉnh giấc bởi một giấc mơ quá đỗi vui mừng tôi mơ đất nước mình hoàn toàn giải phóng sạch bóng quân thù. Chúng tôi những người chiến sĩ trở về quê hương trong cờ đỏ và hoa tung hô. Đúng lúc đó tôi giật mình tỉnh giấc bởi tiếng ho của một ai đó.
Tôi giật mình mở mắt, thì thấy hóa ra đó là tiếng ho của Bác. Tôi trở dậy, đến bên Bác nhìn vầng trăng trên cao soi sáng bốn bề rừng núi hoang sơ. Tôi thấy Bác chưa ngủ, Bác đang ân cần ngồi đọc tài liệu về cuộc kháng chiến khuôn mặt hiện rõ nét ưu tư.
Bác ngồi đó trầm ngâm bên bàn làm việc, tôi hỏi Bác “Sao Bác chưa ngủ ạ?” Bác nói bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, mà trời thì đang chuyển mưa, không biết như cô chú đó ngủ ở đâu. Bác thấy thắt lòng khi nghĩ tới họ.
Những tâm sự của Bác khiến tôi cảm thấy nghẹn ngào, người thật sự có trái tim vô cùng ấm áp. Rồi sau người quay sang hỏi tôi “sao chú vẫn chưa ngủ? Chú ngủ đi mai còn hành quân đường dài lắm”. Tôi nghe lời Bác vội vàng về lại vị trí của mình.
Nhưng tôi trằn trọc mãi không ngủ được, tôi khe khẽ mở mắt nhìn Bác thì thấy Bác đã rời bàn làm việc nhẹ nhàng đến bên từng người đắp chăn lại cho họ. Tôi nghĩ chắc Bác sợ chúng tôi lạnh vì đêm rừng vô cùng lạnh lẽo, Bác lo cho sức khỏe của chúng tôi. Tự dưng hai hàng nước mắt tôi chảy dài nơi khóe mắt.
Bác kính yêu đã thức giấc bao đêm, bao đêm trằn trọc giấc ngủ không thành vì lo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vì Bác lo cho đàn con thơ ngây, biết bao đêm Bác thao thức vì lo cho vận mệnh của người dân, của cả dân tộc mình. Tóc Bác bạc đi vì thời gian, vì những suy nghĩ trằn trọc trong tim mình.
|
Assignment
Uncle Ho is an extremely great leader of our people, who brought our country out of the long night of slavery, out of the darkness of misery. He is a great symbol of patriotism and sacrifice for the cause of national liberation.
Thanks to our correct path to national salvation, our entire nation won the two resistance wars against the French colonialists and the American imperialists to gain independence for the entire nation.
On a winter forest night in the Viet Bac war zone. I, a soldier, was deeply moved by Uncle Ho's warm feelings for our fellow soldiers. Uncle Ho's thoughtful gestures of care are like the actions of an elderly father for his children and grandchildren.
In the middle of the night, when all my comrades and comrades were sleeping soundly, I was startled awake by a very happy dream. I dreamed of my country being completely liberated from all enemies. We soldiers returned to our homeland amid red flags and flowers. At that moment, I was startled awake by the sound of someone coughing.
I opened my eyes in surprise and saw that it turned out to be Uncle Ho coughing. I got up and went to Uncle Ho's side to look at the moon high above, illuminating the wild mountains and forests. I saw that Uncle Ho was not sleeping yet. He was thoughtfully sitting and reading documents about the resistance war, his face clearly showing concern.
He sat there thoughtfully at his desk. I asked him, "Why aren't you sleeping yet?" He said that the trade union's workers were sleeping outside in the forest tonight, but it was raining, so he didn't know where they were sleeping. My heart aches when I think of them.
Uncle Ho's confidences made me feel choked up, he truly had a very warm heart. Then someone turned to me and asked, "Why aren't you sleeping yet?" Go to sleep, you have a long march tomorrow." I listened to Uncle Ho and quickly returned to my position.
But I couldn't sleep. I slowly opened my eyes to look at Uncle and saw that he had left the desk and gently went to each person to cover them with a blanket. I think Uncle Ho was probably afraid that we would be cold because the forest night was extremely cold. He was worried about our health. Suddenly two lines of tears flowed down the corners of my eyes.
Dear Uncle, he has been awake many nights, many nights of restless sleep because he is worried about the cause of national liberation. Because Uncle Ho worried about his innocent children, he stayed awake many nights worrying about the fate of his people and his entire nation. Uncle Ho's hair turned gray because of time, because of the restless thoughts in his heart.
|
Bài làm
Ca dao tục ngữ nằm trong kho tàng dân gian Việt Nam. Nó phản ánh tâm tư tình cảm của người nông dân lao động. Những câu ca dao thường gắn liền với những nỗi nhớ, tình cảm lứa đôi, những nỗi niềm của người nông dân trong lao động sản xuất, trong tình cảm gia đình, anh em cha mẹ.
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
Hồ Tây là một danh lam thuộc thành phố Hà Nội ngày nay. Nó gắn liền với nhiều bài thơ như trong bài “Độc Tiểu Thanh ký” của nhà thơ Nguyễn Du, tác giả có viết “Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang”
Hình ảnh Hồ Tây không còn lạ lẫm nhiều với những người Việt Nam. Nó là chiếc hồ nằm giữa trung tâm Hà Nội xung quanh có một số chùa khá nổi tiếng như chùa Trấn Quốc, đền Quán Thánh, ở xung quanh Hồ Tây còn có những hồ nhỏ như Trúc Bạch, nổi tiếng có nhiều quán ăn ngon.
Hình ảnh Hồ Tây với làn khói tỏa sương mù giăng lối khiến cho khung cảnh thiên nhiên trở nên mềm mại, trữ tình hơn bao giờ hết. Hình ảnh cành trúc la đà, làm cho câu ca dao có thêm nhiều chất nhạc, trữ tình sâu lắng.
Trong câu ca dao đầu tiên hình ảnh cành trúc la đà chính là hình ảnh động, là điểm nhấn của toàn bộ câu thơ. Cành trúc mỏng manh yểu điệu thục nữ gợi lên vẻ đoan trang mềm mỏng như hình ảnh của một cô gái thiếu nữ thục hiền e ấp bên khung cửa sổ, nhìn qua mặt hồ có làn khói sương tỏa mong manh, khiến cho con người bâng khuâng xao xuyến.
Trong bài ca dao này tác giả xưa đã vô cùng tinh tế, khôn khéo khi sử dụng nghệ thuật biện pháp ẩn dụ, để khắc họa lên một Hồ Tây cảnh sắc tuyệt trần. Trong không gian yên tĩnh mênh mông, không gian bao la ngút ngàn tầm mắt. Hình ảnh Hồ Tây như một chiếc gương soi phẳng lặng khổng lồ, phản chiếu những nét văn hóa lâu đời của con người, của lịch sử dân tộc.
Nó đã tái hiện lại những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình qua chiếc gương của mình. Những âm thanh của con người của lịch sử, tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Báo hiệu trời gần sáng, tiếng của hoạt động của con người rộn rã như đánh thức không gian bao la, bình yên đang chìm trong giấc ngủ say. Tiếng gà gáy là hình ảnh vô cùng quen thuộc của những miền quê yên bình.
|
Assignment
Folk songs and proverbs are in the Vietnamese folk treasure. It reflects the feelings and emotions of working farmers. Folk songs are often associated with nostalgia, love between couples, and the feelings of farmers in production labor, in the love of family and parents.
“The wind carries bamboo branches to la da,
The sound of Vu town bell, Tho Xuong chicken soup.
The fog and smoke radiate thousands of mists,
The rhythm of the Yen Thai pestle, the mirror face of Tay Ho".
West Lake is a scenic spot in Hanoi city today. It is associated with many poems such as in the poem "Doc Tieu Thanh Ky" by poet Nguyen Du, the author wrote "West Lake's beautiful landscape turns into a wild mound".
The image of West Lake is no longer strange to Vietnamese people. It is a lake located in the center of Hanoi, surrounded by some famous pagodas such as Tran Quoc Pagoda and Quan Thanh Temple. Around West Lake there are also small lakes such as Truc Bach, famous for many delicious restaurants.
The image of West Lake with smoke and mist spreading out makes the natural scene become softer and more lyrical than ever. The image of bamboo branches makes the folk song more musical and deeply lyrical.
In the first folk song, the image of a bamboo branch is the moving image, the highlight of the entire verse. The delicate and graceful bamboo branches evoke a soft and dignified look like the image of a gentle and gentle girl sitting next to the window frame, looking across the lake at a thin layer of smoke and mist, making people feel wistful. flustered.
In this folk song, the ancient author was extremely delicate and clever in using the art of metaphor to portray the wonderful scenery of West Lake. In the vast quiet space, the vast space as far as the eye can see. The image of West Lake is like a giant flat mirror, reflecting the long-standing cultural features of the people and the nation's history.
It has recreated the cultural quintessence of its nation through its mirror. The sounds of people of history, the sound of the Vu town bell, Tho Xuong chicken soup. Signaling that it was almost dawn, the sound of bustling human activities seemed to awaken the vast, peaceful space that was deep in sleep. The sound of a rooster crowing is an extremely familiar image of peaceful countryside.
|
Bài làm
Trần Nhân Tông là một nhà vua yêu nước, một vị anh hùng để lại nhiều tên tuổi của dân tộc ta. Ông có vai trò lớn, để lại nhiều chiến công trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm Nguyên Mông của nước ta.
Tác phẩm “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả. Bằng ngôn ngữ, mộc mạc giản dị tác giả đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, thông qua hình ảnh thiên nhiên đó tác giả muốn gửi gắm tình cảm của mình tới quê hương đất nước.
Với cương vị là một người đứng ở nơi cao nhất của đất nước, vua Trần Nhân Tông luôn gắn bó gần gũi với cuộc sống của những người nông dân khốn khó, vì vậy mà trong tác phẩm của mình tác giả thường thể hiện bằng lối viết vô cùng mộc mạc, giản dị gần gũi với người nông dân.
“Thôn tiền, thôn hậu đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên”
Dịch:
“Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như sương khói
Bóng chiều tà nửa không nửa có”
Thiên Trường chính là quê gốc của nhà vua Trần Nhân Tông, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay. Vì vậy, trong bài thơ này tác giả đã viết về chính quê hương của mình, nơi sinh ra lớn lên của tác giả.
Cảnh vật gợi ra là cảnh chiều tà khi hoàng hôn dần dần buông xuống, khung cảnh hoàng hôn luôn gợi lên trong lòng người những nỗi buồn phiền, sầu muộn, gợi tả cảm giác cô liêu, đơn độc. Không gian bao la mênh mông được bao phủ bởi lớp sương khói mờ ảo.
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ của tác giả hiện lên mơ màng, nhưng giản dị gần gũi, những đám sương lúc gần lúc xa, hư hư thực thực khiến tác giả như đang phiêu du vào chốn bồng lai tiên cảnh.
“Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền”
Dịch:
(Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết
Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng)
|
Assignment
Tran Nhan Tong was a patriotic king, a hero who left behind many names for our nation. He played a big role, leaving behind many victories in our country's resistance war against the Mongol invaders.
The work "Standing in the Thien Truong palace looking out in the afternoon" shows the author's patriotic spirit. Using simple, rustic language, the author has painted an extremely beautiful picture of nature. Through that natural image, the author wants to convey his feelings to his homeland.
As a person standing at the highest place in the country, King Tran Nhan Tong was always closely associated with the lives of poor farmers, so in his works the author often expressed his The writing is extremely rustic and simple, close to the farmers.
“The front village and the back village are calm and peaceful
Selling without selling, becoming a natural and positive boundary"
Pandemic:
“In front of the village, behind the village, the air is as faint as smoke
The shadow of sunset is half absent and half present.
Thien Truong is the original hometown of King Tran Nhan Tong, in present-day Nam Dinh province. Therefore, in this poem the author wrote about his hometown, the place where he was born and raised.
The scene evoked is the sunset scene when the sunset gradually falls. The sunset scene always evokes sadness and melancholy in people's hearts, depicting a feeling of loneliness and loneliness. The vast space is covered with a hazy layer of smoke.
The images of nature in the author's poems appear dreamy, but simple and close, the mists are sometimes near, sometimes far, virtual and real, making the author feel like he is traveling into a fairyland.
“The shepherd's enemy is the one who retreats to the end
White road parallels Phi Ha Dien"
Pandemic:
(The buffalo herder plays the flute to lead all the buffalo home
Rows of white storks fly down to the fields)
|
Bài làm
Ca dao dân ca hình thành ở nước ta hàng trăm năm nay. Nó nhằm nhắn nhủ truyền dạy cho con cháu thế hệ những bài học bổ ích, những kinh nghiệm sống mà cha ông xưa đã tích lũy trở thành kinh nghiệm quý giá nhắn nhủ cho con cháu hậu thế học theo
Câu tục ngữ “Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau” cũng nhằm mục đích ấy. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại thì câu nói này không có nhiều ý nghĩa đúng đắn
Ăn cỗ đi trước vì sao? Vì khi đi trước ta tới sớm cho thể chọn những vị trí thuận tiện, chọn những bàn có thức ăn nóng hổi, ngon miệng để ăn. Không lo đến trễ hết cỗ, ăn cỗ lại, cỗ thừa của những người tới trước.
Lội nước theo sau vì sao” nước nông hay sâu mắt thường không thể nhìn thấy chỉ có người đi trước trải nghiệm, ta ở sau sẽ biết nước nông hay sâu mà thử đường.
Câu tục ngữ này không sai nhưng nó thể hiện tính khôn lỏi, khôn vặt của người xưa, chúng ta không nên học theo. Bởi nếu ai cũng tranh nhau ăn cỗ đi trước, đi sớm thì ai sẽ là người tới sau.
Đặc biệt, trong xã hội hiện đại miếng ăn không còn quan trọng nữa, bởi nền kinh tế nước ta giờ khá giả, giàu có, nhà nào cũng dư thừa thức ăn, không còn đói khỏi nữa.
Con người giờ ai cũng lo những bệnh mỡ trong máu, tiểu đường nên việc ăn uống không còn quan trọng như trước.
Lội nước theo sau, nếu ai cũng khôn lỏi muốn đi sau thì ai sẽ là người tiên phong dò đường, để biết mực nước nông hay sau để đi. Chẳng lẽ cứ đứng chờ nhau đùn đẩy trách nhiệm cho nhau thì thật là buồn cười.
Những câu tục ngữ này có nghĩa về sự lợi lộc, lợi ích cá nhân nếu ai cũng chỉ nhăm nhăm lo tới lợi ích của mình thì những quyền lợi chung, tính tập thể sẽ mất đi. Con người sống trong xã hội sẽ trở nên ích kỷ, không biết chia sẻ, nhường cơm sẻ áo cho đồng bào của mình, không biết giúp đỡ người gặp khó khăn hoạn nạn.
Câu tục ngữ có tính phê phán châm biếm những kẻ cơ hội, mỉa mai, hèn nhát luôn có tư tưởng muốn hưởng lợi ngồi chờ người khác làm việc khó nhọc còn mình thì chỉ hưởng những thành quả, công sức của người khác.
Câu tục ngữ này thể hiện sự khôn lỏi, của những con người ích kỷ cơ hội, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới quyền lợi của cá nhân mình mà không quan tâm tới những người xung quanh, lợi ích chung của cả một tập thể, cộng đồng.
Câu tục ngữ này dạy con người sự ích kỷ, sống cá nhân, không đúng với những truyền thống đạo lý tốt đẹp mà cha ông ta thường khuyên nhủ, răn dạy con cháu mình noi theo như đạo lý đoàn kết:
|
Assignment
Folk songs have been formed in our country for hundreds of years. It is intended to convey useful lessons to future generations, the life experiences that our ancestors have accumulated and become valuable experiences for future generations to learn.
The proverb "Eat the meal first, wade in the water later" also serves the same purpose. However, in modern society, this saying does not have much correct meaning
Why go ahead and eat the meal? Because when we go first, we arrive early so we can choose convenient locations and choose tables with hot, delicious food to eat. Don't worry about being late to the end of the meal, eating the same meal, or having leftovers from those who came before.
wade in the water following the stars" whether the water is shallow or deep cannot be seen by the naked eye, only the person in front can experience it, we behind will know whether the water is shallow or deep and test the way.
This proverb is not wrong, but it shows the cleverness and cleverness of the ancients, we should not follow it. Because if everyone competes to eat first and leave early, who will be the last to arrive?
In particular, in modern society, food is no longer important, because our country's economy is now well-off and rich, every family has plenty of food, and is no longer hungry.
People now worry about blood fats and diabetes, so eating is no longer as important as before.
Wading in the water behind, if everyone is clever and wants to go behind, who will be the pioneer to find the way, to know whether the water level is shallow or late to go. Is it really funny to just stand around waiting for each other to push each other's responsibilities?
These proverbs mean personal gain and benefit. If everyone only cares about their own benefits, the common interests and collective nature will be lost. People living in society will become selfish, not knowing how to share, giving food and clothes to their fellow people, and not knowing how to help those in trouble.
The critical proverb satirizes opportunists, sarcasm, and cowards who always have the mindset of wanting to benefit and wait for others to do the hard work while they themselves only enjoy the achievements and efforts of others.
This proverb shows the cleverness of selfish, opportunistic people who only think about their own personal interests without caring about those around them or the common interests of the whole group or community. copper.
This proverb teaches people to be selfish and individualistic, which is not in line with the good moral traditions that our ancestors often advised and taught their children to follow, such as the morality of solidarity:
|
Bài làm
Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn con người, là chiếc nôi đầu tiên khi một đứa trẻ chào đời, hình thành nhân cách cho con người. Một gia đình luôn sum vầy hạnh phúc, cha mẹ luôn sống đúng chuẩn mực xã hội, đạo đức sẽ hình thành cho đứa trẻ những nhân cách tốt.
Chính vì vậy, khi người con gái tới tuổi phải đi lấy chồng, được gả về một nơi xa xôi khiến cho người con gái nhớ quê nhà, ngày đêm trông ngóng về quê hương, với nỗi nhớ khôn nguôi về gia đình, về những người thân yêu của mình
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều.
Hai câu ca dao thể hiện sự đau xót, nỗi niềm của cô gái khi nhìn về quê hương của mình. Nhìn về nơi có gia đình thân thương với những tình cảm thân thương, sự gắn bó vô cùng thiêng liêng, sâu sắc.
Điệp từ “chiều chiều” được lặp đi lặp lại, thể hiện một việc vô cùng quen thuộc, như một thói quen, thường trực nỗi nhớ nhung trong lòng người con gái xa quê, làm cho người đọc cảm thấy nhớ nhung ngậm ngùi cho thân phận của người con xa quê.
Chiều tà là cảnh hoàng hôn, buông xuống bóng tối bao phủ khiến cho người nỗi buồn trong lòng người càng dâng lên da diết, khiến cho con người càng cảm thấy thê lương, tâm trạng nhớ nhà, nhớ người thân càng trở nên quay quắt, da diết vô cùng.
“Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Hình ảnh trông về quê mẹ, trong không gian bao la, trước cảnh chiều tà buồn vương khiến cho con người càng trở nên bé nhỏ trước cảnh bao la, của hoàng hôn bao la. Sợi giây thương nhớ, gợi sầu khiến cho con người càng trở nên bé nhỏ.
Quê mẹ là nơi cô gái sinh ra lớn lên với những kỷ niệm ngọt ngào bên người thân. Biết bao kỷ niệm vui buồn sớm tối. Những kỷ niệm gia đình quây quần bên nhau, khiến cô gái vô cùng buồn phiền, nhớ nhung
|
Assignment
Family is the place that nurtures the human soul, is the first cradle when a child is born, and shapes a person's personality. A family that is always together and happy, where parents always live according to social and moral standards, will form good personalities for the child.
That's why, when a girl reaches the age to get married, being married to a far away place makes her miss her homeland, day and night she looks forward to her homeland, with an endless nostalgia for her family and her memories. your loved one
Lane stood next afternoon
Looking back to my mother's hometown, my stomach aches nine times.
The two folk songs express the girl's pain and sadness when looking back at her homeland. Looking at the place where there is a beloved family with loving feelings and an extremely sacred and profound attachment.
The refrain "afternoon" is repeated over and over, expressing a very familiar thing, like a habit, the constant longing in the heart of a girl far from home, making the reader feel nostalgic and sad for her. the fate of a son far away from home.
Late afternoon is the scene of sunset, falling into darkness, making the sadness in people's hearts rise even more intensely, making people feel even more desolate, the mood of homesickness, missing loved ones becomes even more miserable. , extremely poignant.
"Looking back to my mother's hometown is painful." The image of looking back at the motherland, in the vast space, in front of the sad sunset scene makes people become even smaller in front of the vast scene, of the vast sunset. The string of nostalgia and sadness makes people become even smaller.
Her mother's hometown is where the girl was born and grew up with sweet memories with her relatives. So many happy and sad memories morning and night. The memories of family gathering together made the girl extremely sad and nostalgic
|
Bài làm
Kho tàng ca dao tục ngữ của nước ta vô cùng phong phú. Nó phản ánh tâm tư tình cảm của người dân trong cuộc sống lao động hàng ngày. Đồng thời thể hiện mối quan hệ tình cảm gia đình thiêng liêng cao quý.
Công cha nghĩa mẹ là những điều khắc cốt ghi tâm của phận làm con đối với cha mẹ mình. Bởi công ơn của cha mẹ như trời biển, không gì có thể sánh được. Công ơn sinh thành dưỡng dục, cho chúng ta làm người thì phận làm con chúng ta phải báo hiếu, biết ơn cha mẹ đó mới là phải đạo.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Bài ca dao này gắn liền với con người Việt Nam qua nhiều thế hệ. Nó có sức sống vô cùng mãnh liệt mà ai sinh ra cũng đều biết đều thuộc lòng. Bởi nó hay dễ đọc, dễ nhớ và nó dạy chúng ta bài học làm người mà ai cũng phải biết:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Trong hai câu này bài ca dao sử dụng nghệ thuật so sánh. Ví von công lao to lớn của người cha cao tựa như núi Thái Sơn một ngọn núi hùng vĩ, sừng sững ở Miền Bắc nước ta. Một trong những ngọn núi hoang sơ lâu đời có truyền thống lâu năm.
Điều này thể hiện cho sự biết ơn, tôn kính của người con với cha mẹ với công lao như trời biển của cha mẹ dành cho con cái.
“Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” tình mẹ là cái gì đó ngọt ngào ấm áp vô cùng. Nó tựa như dòng suối mát trong, những dòng sữa ngọt ngào dịu dàng mẹ dành cho con từ khi sinh ra cho tới khi trưởng thành. Tình mẹ là vô bờ bến, nó chảy hoài chảy mãi như nước trong nguồn không có điểm kết thúc.
Chúng ta dù con cái có lớn khôn, hay có trưởng thành thì tình mẹ vẫn theo chúng ta cho tới khi chúng ta già tóc đã đổi màu mẹ vẫn còn lo lắng cho con. Tình mẹ không bao giờ có giới hạn. Nỗi lo lắng của người mẹ dành cho con mình thì chỉ khi đã nhắm mắt xuôi tay cũng không hết.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Trước những công ơn to lớn như trời biển của mẹ cha dành cho mình, thì đạo làm con cần phải coi trọng chữ hiếu nghĩa. Phải biết nghe lời cha mẹ, đền đáp công ơn cha mẹ của mình.
|
Assignment
Our country's treasure trove of folk songs and proverbs is extremely rich. It reflects people's feelings and emotions in their daily working life. At the same time, it shows the noble spiritual family relationship.
The merits of one's father and one's mother are the things that engrave the heart of being a child towards one's parents. Because the gratitude of parents is like heaven and sea, nothing can compare. Thanks give birth to nourishment, for us to be human beings, it is our duty as children to be filial and grateful to our parents. That is the right way.
The father as a mountain
Motherhood is like water flowing from a source
One Heart Worship Mother Glass Father
Fulfilling filial piety is the way of children
This folk song has been associated with Vietnamese people for many generations. It has an extremely strong vitality that everyone who is born knows it by heart. Because it's easy to read, easy to remember, and it teaches us human lessons that everyone must know:
The father as a mountain
Motherhood is like water flowing from a source
In these two sentences, the folk song uses the art of comparison. The father's great achievements are likened to Thai Son mountain, a majestic and towering mountain in the North of our country. One of the oldest untouched mountains with a long tradition.
This represents a child's gratitude and respect for his or her parents for their immense contributions to their children.
"Mother's love is like water flowing from a source" mother's love is something extremely sweet and warm. It is like a cool, clear stream, the sweet and gentle milk that mothers give to their children from birth until adulthood. A mother's love is boundless, it flows forever like water in a source with no end.
Whether our children grow up or become adults, a mother's love still follows us until we are old and our hair has changed color, and the mother still worries about her children. Mother's love never has limits. A mother's worries for her child do not end until they close their eyes.
One Heart Worship Mother Glass Father
Fulfilling filial piety is the way of children
In the face of the immense gratitude that our parents have given us, filial piety must be respected. You must listen to your parents and repay their kindness.
|
Bài làm
Đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa. Chính vì vậy, mỗi giây, mỗi phút đều vô cùng đáng quý, đúng như câu nói “Thời gian là vàng là bạc”
Thời gian là vàng là bạc vì sao? Trong mỗi giây chúng ta đang sống hôm nay, khi nó qua đi chúng ta không bao giờ có thể lấy lại được. Vì thời gian là thứ không bao giờ lấy lại được. Nó quý giá hơn cả vàng bạc.
Vàng bạc là một thứ khoáng sản quý hiếm nó tạo ra nhiều của cải vật chất cho con người chúng ta. Để tạo được một cục vàng, hay bạc con người phải bỏ ra rất nhiều mồ hôi công sức mới khai thác được nó. Vàng, bạc cũng là thứ khoáng sản mà tự nhiên phải tinh luyện hàng nghìn năm mới có thể thành quả.
Chính vì hai thứ này đều có giá trị quý hiếm ngang nhau nên ông bà ta ngày xưa mới nói câu so sánh như vậy “thời gian là vàng là bạc”.
Bên cạnh đó, thời gian giúp cho con người tạo ra nhiều của cải vật chất, những sản phẩm khác nhau tạo ra nhiều nguồn kinh tế, tiền tài, tạo ra nguồn lợi cho xã hội, làm cho nền kinh tế của nước ta, phát triển vững mạnh.
Thời gian là thứ vô cùng quý giá mỗi giây trôi đi vô nghĩa là một lần chúng ta đánh mất một phút giây được sống trong cuộc đời mình. Chính vì vậy, các bạn cần phải biết quý trọng thời gian, phân chia thời gian làm việc, học tập, nghỉ ngơi, vui chơi cho thật hợp lý.
Không nên dành thời gian cho những trò chơi vô bổ như game online, hay những hoạt động vô nghĩa sống ảo trên mạng xã hội. Để rồi khi thời gian trôi đi bạn sẽ hối tiếc vì những tháng ngày đã sống hoài sống phí của mình.
|
Assignment
Our country is in the stage of industrialization and modernization. Therefore, every second, every minute is extremely precious, just like the saying "Time is gold and silver"
Time is gold and silver, why? In every second we are living today, once it is gone we can never get it back. Because time is something you can never get back. It is more valuable than gold and silver.
Gold and silver are a rare mineral that creates a lot of material wealth for us people. To create a piece of gold or silver, people have to spend a lot of sweat and effort to exploit it. Gold and silver are also minerals that nature must refine for thousands of years to produce results.
Because these two things are equally valuable and rare, our grandparents in the past said such a comparison: "time is gold and silver".
Besides, time helps people create a lot of material wealth, different products create many economic resources, money, creating benefits for society, making our country's economy better. Sustainable development.
Time is an extremely precious thing. Every second that passes meaninglessly means we lose a moment of living in our lives. Therefore, you need to know how to value your time and divide your time for work, study, rest, and play properly.
Don't spend time on useless games like online games, or meaningless virtual activities on social networks. Then when time passes you will regret living your wasted days.
|
Bài làm
Ca dao, tục ngữ nằm trong kho tàng dân gian Việt Nam. Nó đúc kết những kinh nghiệm thực tế của xã hội của cuộc sống lao động sản xuất. Thể hiện những hình ảnh gần gũi, giản dị của người nông dân thời xưa
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Câu thơ này nhằm nhắn nhủ con cháu hãy trân trọng những thứ mình có không nên mượn của người khác, dù cái ta mượn có thể tốt hơn nhưng cũng chỉ là thứ mượn mà thôi.
Ao ta? thể hiện sự sở hữu của mình, chủ quyền của mình. “Trong và đục” thể hiện sự xấu tốt của vật mình sở hữu.
Trong cuộc sống thực tế cái gì của mình mình sử dụng vẫn tốt hơn là của đi mượn. Vì đi mượn thì cũng tới lúc chúng ta phải trả lại cho người ta mà thôi.
Bên cạnh đó, nếu mở rộng vấn đề thì nó còn thể hiện sự tin tưởng về hàng hóa tiêu dùng nội địa, nhằm ám chỉ cái gì của mình làm ra cũng tốt hơn, những sản phẩm bên ngoài. Chính vì vậy, nhà nước ta khuyến cáo rằng “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”
|
Assignment
Folk songs and proverbs are in the Vietnamese folk treasure. It summarizes the real social experiences of productive working life. Shows close, simple images of ancient farmers
"We return our bathing pond
Even if it's clear, it's better to have a pond at home."
This verse is intended to remind children and grandchildren to cherish the things they have and not borrow from others. Even though what we borrow may be better, it is still just something borrowed.
My pond? Express your ownership, your sovereignty. “Clear and opaque” represents the good and bad of the thing you own.
In real life, using something that is yours is better than borrowing something. Because we borrow money, there comes a time when we have to pay it back.
Besides, if we expand the issue, it also shows confidence in domestic consumer goods, implying that what we make is better than foreign products. That's why our government recommends that "Vietnamese people use Vietnamese products"
|
Bài làm
Em sinh ra đã không được hưởng nhiều tình yêu thương của mẹ. Bởi khi em được 10 tháng tuổi thì mẹ em bị bệnh ung thư vú rồi qua đời. Một mình ba em vừa làm cha vừa làm mẹ, chăm sóc nuôi nấng 3 chị em em nên người. Em may mắn được làm con út và cũng bởi vì em được hưởng tình cảm của mẹ ít nhất, nên trong nhà ai cũng thương em nhiều, đặc biệt là ba em.
Ba em không phải là kỹ sư, cũng chẳng làm bác sĩ như người ta thường tả. Ba em chỉ là một người nông dân lao động phổ thông bình thường. Ngày ngày, khi công việc đồng áng nhàn rỗi ba em thường theo người ta đi làm rất nhiều việc, khi thì phụ hồ, gánh vữa, xây những ngôi nhà cho bà con trong xóm. Những lúc nghề phụ hồ ít việc, ba em lại theo người ta đi vác gạch thuê ở những lò gạch trong làng. Rồi lâu lâu, ba em cũng theo người ta đi lên Lạng Sơn đánh hàng gia dụng về buôn bán.
Dù làm công việc nào thì ba em cũng vô cùng vất vả, những công việc như phụ hồ, vác gạch luôn tốn nhiều sức khỏe, phải làm việc giữa trời nắng chang chang, mồ hôi chảy ra như tắm, làm ướt đẫm chiếc áo bộ đội cũ kỹ của ba em.
Sau mỗi lần đi làm về nhìn ba thở mệt nhọc em thường chạy ra và rót cho ba một ly nước. Em cũng thường xuyên nhổ tóc sâu, đấm lưng cho ba. Những lúc như vậy, em thấy những nếp nhăn trên khuôn mặt ba lại giãn ra đôi chút. Ba nằm ngả lưng vào chiếc ghế tựa cũ, rồi lim dim đôi mắt.Em thích ngắm ba lúc đó, thích nhìn thấy khuôn mặt ba thật gần, làm cho ba những điều giản dị phù hợp với sức mình.
Em biết ba vất vả nhiều lắm, ba chính là trụ cột trong gia đình em, một mình phải lo toan cho ba đứa con đang tuổi ăn tuổi học chắc chẳng dễ dàng gì. Ba gánh trên đôi vai gầy guộc của mình cả một gia đình lớn, gánh luôn cả trách nhiệm của một người vợ, người mẹ đối với các con. Ba luôn phải diễn rất nhiều vai trong gia đình, nên chị em em thương ba nhiều lắm.
Em nhớ có lần chị Hai của em tới tuổi dậy thì, tự dưng chảy máu. Nhà không có người phụ nữ chị Hai lo lắng lắm. Chị tưởng mình bị bệnh ung thư giống như trong mấy bộ phim Hàn Quốc thường chiếu. Chị khóc rất nhiều, lo lắng tâm sự cùng em, nhưng em lúc đó mới học lớp 2 có hiểu gì đâu. Nên chỉ biết lau nước mắt cho chị mà thôi.
Em bảo chị đợi ba về rồi đưa đi bác sĩ, nhưng chị Hai nhất định không chịu. Chị lo lắng sợ ba buồn lòng. Chị Hai nói “Nhà mình nghèo ba phải lo lắng cái ăn cái mặc cho ba đứa cũng khổ lắm rồi, giờ chị bị bệnh ung thư như thế này thì ba biết làm sao?“. Nên chị nhất quyết không nói cho ba biết.
Tối đó, ba về nhà người đẫm mồ hôi vì mệt, khi ba thay áo vô tình nhìn thấy chiếc quần chị Hai bị vương chút màu đỏ. Ba hốt hoảng hỏi chị hai bị làm sao. Rồi chị Hai òa khóc kể cho ba nghe mọi chuyện. Nghe xong ba cũng khóc, khiến cho em vô cùng lo lắng tưởng Hai sắp chết thật.
Nhưng rồi ba xoa đầu Hai và bảo “Ba có lỗi với con ba mải mê kiếm miếng ăn mà quên không dạy con những điều tối thiểu của một người con gái“. Khi ba nói thế cả em và Hai đều tròn mắt chẳng hiểu gì, nhưng sau này khi em lớn lên và trưởng thành thành một cô gái, thì em cũng đã hiểu những gì ba nói.
Nhà không có mẹ, nên chúng em cũng tự ý thức được mình thiệt thòi nhiều lắm. Chúng em cũng thương ba nhiều hơn, vì thương ba nên mấy chị em rất ít khi đau ốm. Nhưng có lần, em bị sốt tới 40 độ người co giật. Ba vội vàng bế em tới bệnh viện quên cả mang dép. Trong khi em được các bác sĩ cấp cứu tỉnh dậy nhìn đôi chân ba bị mảnh sành đâm tới chảy máu, khiến em bật khóc.
|
Assignment
I was born without much love from my mother. Because when I was 10 months old, my mother got breast cancer and passed away. My father alone is both father and mother, taking care of and raising my three sisters to become good people. I am lucky to be the youngest child and because I enjoy my mother's affection the least, everyone in the family loves me a lot, especially my father.
My father is not an engineer, nor a doctor as people often describe. My father is just a normal unskilled farmer. Every day, when the farm work was idle, my father often followed people to do many jobs, sometimes working as a bricklayer, carrying mortar, and building houses for people in the neighborhood. When there was little work as a mason's assistant, my father followed people to carry bricks for hire at brick kilns in the village. From time to time, my father also followed people to Lang Son to buy household goods to sell.
No matter what job my father did, it was extremely hard. Jobs like being a construction worker or carrying bricks always took a lot of health, he had to work in the hot sun, sweat poured out like a shower, soaking his shirt. My father's old army.
Every time I come home from work and see my dad breathing heavily, I often run out and pour him a glass of water. I also often pull out my father's hair and punch his back. At times like that, I see the wrinkles on my dad's face relax a bit. Dad lay back in the old recliner, then closed his eyes. I liked to watch him at that moment, liked to see his face up close, doing simple things for him that suited my strength.
I know my dad works very hard. He is the breadwinner in my family. Having to take care of three school-aged children alone must not be easy. Dad carries a large family on his thin shoulders, including the responsibilities of a wife and mother to his children. Dad always has to play many roles in the family, so my sister and I love him very much.
I remember one time when my second sister reached puberty, she suddenly started bleeding. There is no woman at home, Ms. Hai is very worried. She thought she had cancer like in some Korean movies. She cried a lot and worriedly confided in me, but I was only in 2nd grade at that time and didn't understand anything. So I can only wipe your tears.
I told her to wait until dad came home and then take her to the doctor, but Hai insisted. She was worried that her father would be upset. Ms. Hai said, "Our family is poor and dad has to worry about food and clothing for the three of us. It's already hard enough. Now that I have cancer like this, what can dad do?". So she decided not to tell her father.
That night, Dad came home sweaty and tired. When he changed clothes, he accidentally saw that Hai's pants were stained with red. Dad panicked and asked his second sister what was wrong. Then Hai burst into tears and told her father everything. After hearing that, Dad also cried, making me extremely worried and thinking that Hai was really going to die.
But then Dad patted Hai's head and said, "I'm sorry for you. I was so busy trying to find food that I forgot to teach you the minimum things of a girl." When dad said that, both me and Hai widened our eyes and didn't understand anything, but later when I grew up and became a girl, I also understood what dad said.
There is no mother at home, so we are also aware that we are at a great disadvantage. We also love our dad more, because we love him, we rarely get sick. But one time, I had a fever of 40 degrees and had convulsions. My father hurriedly carried me to the hospital, forgetting to wear slippers. While I was being treated by emergency doctors, I woke up and saw my father's legs being stabbed by pieces of ceramic and bleeding, making me burst into tears.
|
Bài làm
Xã hội hiện đại khiến cho con người sống ích kỷ hơn, đòi hỏi nhiều hơn và ít quan tâm tới những người xung quanh. Theo kiểu cuộc sống “đèn nhà ai nấy rạng”
Nhiều người sống trong một khu phố, một khu chung cư nhưng không bao giờ nói chuyện, chào hỏi nhau, không quan tâm tới chuyện của nhau. Thậm chí bên nhà hàng xóm có bạo hành gia đình, hay bị trộm vào vơ vét của cải thì những nhà xung quanh cũng câm lặng, mặc kệ xem như chẳng liên quan tới mình. Họ sợ những phiền lụy có thể xảy ra nếu như họ can dự vào.
Con người sống trong xã hội là một cá nhân. Mỗi cá nhân là một mắt xích tạo nên một tập thể. Nếu một tập thể đoàn kết yêu thương nhau thì xã hội mới phát triển được, nhưng nếu những cá thể mà không đoàn kết thì sẽ tạo ra những xung đột, mối quan hệ thờ ơ, lạnh lùng, không có sự tương thân tương ái.
Đèn nhà ai nấy rạng thể hiện những con người sống hẹp hòi, ích kỷ sống chỉ biết tới bản thân mình mà không quan tâm tới những người xung quanh mình.
Đây là lối sống đáng lên án, thường có ở những thành phố lớn. Người xưa muốn lấy hình ảnh chiếc đèn trong mỗi gia đình để ám chỉ mối quan hệ giữa con người với nhau trong một cộng đồng, một tập thể. Nó là hình ảnh đầy ẩn dụ tinh tế.
Trong mỗi gia đình sẽ có những sự sáng tối, sự sắp xếp khác nhau mà người ngoài không muốn bận tâm, can thiệp miễn sao nó không ảnh hưởng tới nhà mình là được. Câu nói này thể hiện mối quan hệ mờ nhạt, không gắn bó trong quan hệ cộng đồng xóm làng, láng giềng với nhau.
|
Assignment
Modern society makes people live more selfishly, demand more and care less about those around them. In the style of life "everyone's house lights shine"
Many people live in a neighborhood, an apartment complex but never talk, greet each other, and do not care about each other's affairs. Even if there is domestic violence in a neighbor's house, or a thief breaks in to steal property, the surrounding houses remain silent, ignoring it as if it has nothing to do with them. They are afraid of the trouble that may happen if they get involved.
A person living in society is an individual. Each individual is a link that creates a collective. If a group unites and loves each other, then society can develop, but if individuals do not unite, it will create conflicts, indifferent and cold relationships, without mutual affection. .
The lights on everyone's house represent narrow-minded, selfish people who only care about themselves and don't care about the people around them.
This is a condemnable lifestyle, often found in big cities. The ancients wanted to take the image of a lamp in every family to imply the relationship between people in a community, a group. It is an image full of subtle metaphors.
In every family there will be different light and dark arrangements that outsiders do not want to worry about and interfere with as long as it does not affect the family. This saying shows the lack of connection and lack of attachment in the relationship between the village community and neighbors.
|
Bài làm
Tác phẩm “Sau phút chia ly” trích trong Chinh phụ ngâm khúc hiện nay đoạn trích này chưa rõ nguồn tác giả là ai.
Tuy nhiên đây là đoạn trích hay thể hiện nỗi lòng của người con gái trong thời phong kiến khi cho chồng đi chinh chiến phương xa.
Thông qua đoạn trích tác giả muốn tố cáo tội ác phi nghĩa, trong thời kỳ xưa khiến nhiều người dân lâm vào cảnh lầm than, cơ cực. Nhiều người phụ nữ phải xa chồng, nhiều người chồng phải chịu cảnh đầu rơi máu chảy nơi chiến trường.
Giây phút chia ly đầy đau đớn, nhiều xót xa, luyến tiếc của đôi vợ chồng trẻ. Tác giả đã diễn tả tinh tế tâm trạng kẻ ở người đi.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh
Trong bốn câu thơ này tác giả đã khắc họa sâu sắc tâm trạng của người vợ trẻ khi tiễn người chồng của mình ra trận. Một tình cảnh khắc nghiệp, thê lương tới tê tái lòng người.
Người vợ trẻ nhìn theo bóng dáng người chồng thân thương của mình trong không gian mịt mờ, mênh mông, chỉ thấy sự chia ly cách biệt dài đằng đẵng không thấy sự tương phùng hiện diện. Một tâm trạng buồn đau tới não lòng, sự vấn vương lưu luyến thể hiện trong từng câu từng chữ của đoạn trích.
Tác giả đã vô cùng nhân văn khi đồng cảm với những người phụ nữ có chồng đi chinh chiến, sự cô đơn mòn mỏi của người chinh phụ khi tuổi xuân phơi phới phải vùi chôn một mình vò võ suốt năm canh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Trong khổ thơ này nghệ thuật đối lập được tác giả sử dụng vô cùng tinh tế thể hiện sự tiêu điều, ảm đạm của cảnh biệt ly, kẻ đi người ở. Trong không gian bao la mênh mông, trong giây phút tiễn biệt đầy xúc động.
Hình ảnh sự chờ trông ngóng chờ của người con gái, hiện lên trong những câu thơ làm nhói lòng người ra đi, khiến cho người đọc cảm thấy nghẹn lòng cho tâm sự của người phụ nữ cho chồng đi viễn xứ.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Trong bốn câu thơ này tác giả đã biến đổi phong cách thơ linh hoạt, người con gái vò võ một mình trong căn phòng hoang lạnh thiếu hơi ấm, vòng tay che chở của người đàn ông. Sự cô đơn gối chiếc, người chồng nơi xa không biết khi nào trở lại.
|
Assignment
The work "After the Minute of Separation" is excerpted from Chinh Phu Ngam Khuc. Currently, the author of this excerpt is unknown.
However, this is a good excerpt that shows the feelings of a girl in feudal times when she sent her husband to war in a distant land.
Through the excerpt, the author wants to denounce the senseless crimes that in ancient times caused many people to fall into misery and destitution. Many women had to be separated from their husbands, many husbands had to endure bleeding on the battlefield.
The moment of separation was full of pain, sadness, and regret for the young couple. The author has delicately described the mood of the traveler.
He went to a far away place in the rain and wind
I went back to my old room to get blankets
Looking forward to stopping
The color of blue clouds spreads across thousands of green mountains
In these four verses, the author deeply portrays the young wife's mood when sending her husband off to war. A harsh, miserable situation that numbs the human heart.
The young wife looked at the figure of her beloved husband in the vast, dim space, only seeing the long separation and not seeing the presence of compatibility. A mood of heartbreaking sadness and lingering attachment is expressed in every sentence and every word of the excerpt.
The author was extremely humane when he sympathized with the women whose husbands went to war, the loneliness and weariness of the conquering women who had to bury themselves in martial arts alone for five hours when their youth was blooming.
At Ham Duong, he still looked back
Ben Tieu Tuong, please look forward
The smoke of Tieu Tuong is far from Ham Duong
Ham Duong tree is a few miles away from Tieu Tuong
In this stanza, the author uses the art of contrast extremely delicately to show the desolation and gloom of the scene of separation, of those who leave and those who stay. In the vastness of space, in an emotional moment of farewell.
The image of a girl's longing and anticipation appears in the heart-wrenching verses, making the reader feel choked up with the confession of the woman who sent her husband away to a foreign country.
Looking back but not seeing
Seeing thousands of strawberries green and green
Thousands of green strawberries are one color
Whose heart is sadder than the other?
In these four verses, the author has flexibly changed the poetic style, the girl fights alone in a cold room lacking warmth and the protective arms of a man. The loneliness is overwhelming, the husband is far away and doesn't know when he will return.
|
Bài làm
Con người sống trong xã hội sẽ có cộng đồng, người thân, chính tình cảm thân thương, gắn bó với nhau tạo nên sự gắn bó thân thiết, giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Khi một người nào đó có gì đó không vui thì người khác sẽ giúp đỡ sẻ chia, cùng nhau tìm cách giải quyết, tạo ra sức mạnh tập thể, sức mạnh của sự đoàn kết sẽ giúp cho con người thành công nhanh hơn và vượt qua những khó khăn trở ngại tốt hơn.
Câu tục ngữ “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái đó. Đây là truyền thống quý báu mà cha ông ta muốn khuyên nhủ con cháu đời sau cần phải giữ gìn và phát huy để tạo nên sức mạnh lớn lao.
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ là gì? nói lên một con ngựa trong đàn ngựa bị đau ốm thì những con ngựa còn lại không ăn uống, buồn bã. Thể hiện tinh thần đoàn kết, tinh thần tập thể gắn bó vô cùng quan trọng. Trong đó, mỗi cá nhân là một móc xích không thể thiếu để tạo thành một tập thể vững mạnh.
Cha ông ta thời xưa mượn hình ảnh con ngựa để nói lên mối quan hệ giữa con người với con người, thể hiện sự tương thân tương ái “lá lành đùm lá rách” mà ông bà ta thời xưa thường răn dạy con cháu mình.
Trong gia đình, hay trong một tập thể khi có một người bị đau ốm hoặc gặp tai nạn, chuyện buồn khổ nào đó thì những người còn lại cũng đau buồn theo không thiết tha ăn uống gì cả.
|
Assignment
People living in society will have communities, relatives, and feelings of love and attachment to each other that create close bonds and help each other develop.
When someone is unhappy with something, others will help share, find a solution together, create collective strength, the strength of solidarity will help people succeed faster and overcome difficulties. overcome difficulties and obstacles better.
The proverb "One horse is in pain and the whole ship is abandoned" expressing that spirit of solidarity and mutual love. This is a precious tradition that our ancestors want to advise future generations to preserve and promote to create great strength.
What is a horse that is so sore that it leaves grass? If one horse in the herd is sick, the remaining horses will not eat or drink and will be sad. Demonstrating the spirit of solidarity and team spirit is extremely important. In particular, each individual is an indispensable link to form a strong team.
Our ancestors in ancient times borrowed the image of a horse to express the relationship between people, expressing the mutual affection "good leaves cover torn leaves" that our ancestors in ancient times often taught their children and grandchildren.
In a family, or in a group, when one person is sick or has an accident or some sad event, the rest of the people also feel sad and do not want to eat or drink anything.
|
Bài làm
Trong cuộc sống có những lúc chúng ta gặp khó khăn, thử thách những lúc như thế con người ta phải kiên định, ý chí để giữ được phẩm chất đạo đức của mình làm sao để “Đói cho sạch, sách cho thơm”
Đói cho sạch là gì? Câu này theo nghĩa đen thể hiện việc dù khi chúng ta có đói bụng tới đâu cũng không được ăn bẩn, kẻo ảnh hưởng tới sức khỏe, ngộ độc thực phẩm.
Sách cho thơm làm gì? Thể hiện dù chúng ta nghèo khó, không có nhiều quần áo nhưng vẫn phải sống sạch sẽ, thơm tho. Ngoài ra câu nói này còn thể hiện sự “thơm” trong tâm hồn, phẩm chất của con người. Dù mình có nghèo cũng phải sống ngay thẳng, không được sống làm gì gian dối, nhơ nhuốc, ảnh hưởng tới phẩm chất, đạo đức xã hội.
Để giữ được tâm hồn trong sạch trong hoàn cảnh khó khăn là điều vô cùng khó khăn, bởi trong hoàn cảnh túng thiếu, người ta thường nảy sinh lòng tham, nảy sinh sự gian dối. Một cô giúp việc con đang ốm thấy nhà chủ để tiền hớ hênh không khóa sẽ nảy sinh lòng tham muốn lấy số tiền kia để chữa bệnh cho con mình. Nhưng nếu cô ta lấy thì sẽ phải trả giá rất đắt, chẳng may bị phát hiện bị đi tù, con cái không ai chăm sóc, sau này đi làm chẳng ai dám thuê vì gian dối, không trung thực.
Chính vì vậy, người xưa muốn con cháu mình phải “Đói cho sạch, rách cho thơm” là vì vậy.
Rồi khi chúng ta làm sai, gian dối mãi thành quen, người ta thường nói “ăn quen, nhịn không quen” ăn cắp, ăn trộm sống cuộc sống dễ dàng lần một thành công rồi lần hai…dần dần chúng ta càng ngày càng sa đà vào tội lỗi, nhất định sẽ có ngày chúng ta bị bắt, phải trả giá cho hành vi phạm tội của mình.
Người xưa, trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhân vật Thúy Kiều vì thương gia đình quyết định bán mình chuộc cha. Nhưng khi Thúy Kiều phải rơi vào chốn nhơ nhuốc thân đã nhúng chàm thì làm sao mà gột rửa được nữa dù có đẹp, có tài sắc đức hạnh tới cỡ nào cũng chẳng thể nào có được hạnh phúc trọn vẹn.
Cuộc sống của Thúy Kiều đã trải qua rất nhiều thăng trầm, khó khăn, thử thách, phận bèo trôi như lục bình không có hạnh phúc.
|
Assignment
In life, there are times when we encounter difficulties and challenges. At such times, people must be steadfast and willful to maintain their moral qualities in order to "Hunger to clean, books to smell good."
What is pure hunger? This sentence literally shows that no matter how hungry we are, we should not eat dirty food, otherwise it will affect our health and cause food poisoning.
What makes books smell good? Shows that even though we are poor and don't have many clothes, we still have to live clean and fragrant. In addition, this saying also shows the "fragrant" in the soul and human qualities. Even if you are poor, you must live uprightly, not live in a deceitful or dirty way that affects the quality and morality of society.
To keep a pure soul in difficult circumstances is extremely difficult, because in needy circumstances, people often develop greed and deceit. A maid whose child is sick sees that her employer's house has money left unsecured, and she becomes greedy to take that money to treat her child's illness. But if she takes it, she will have to pay a very high price. Unfortunately, she will be found out and go to jail, no one will take care of her children, and later when she gets a job, no one will dare to hire her because she is deceitful and dishonest.
That's why the ancients wanted their descendants to "Hunger until clean, torn until fragrant".
Then when we do wrong, cheating becomes a habit, people often say "you get used to it, you don't get used to it" stealing, stealing lives an easy life, succeeding the first time, then the second time... gradually we become more and more If we fall into sin, there will definitely come a day when we will be caught and have to pay the price for our crimes.
In ancient times, in the work The Tale of Kieu by Nguyen Du, the character Thuy Kieu, out of love for her family, decided to sell herself to redeem her father. But when Thuy Kieu had to fall into a dirty place, how could she be cleansed, no matter how beautiful, talented, and virtuous she was, she could not have complete happiness.
Thuy Kieu's life has gone through many ups and downs, difficulties, challenges, and her destiny is like a water hyacinth without happiness.
|
Bài làm
Trong kho tàng ca dao, tục ngữ dân gian Việt Nam có rất nhiều bài hay thể hiện tình cảm của người nông dân một nắng hai sương trên đồng. Thể hiện những tâm tư, tình cảm của người nông chân thật thà, chất phác. Mỗi bài ca dao đều gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc khác nhau.
Bài ca dao “Đi cấy” thể hiện tâm tư tình cảm của người nông dân trong cảnh nông vụ, phải lo toan nhiều chuyện, khi thời tiết không ủng hộ.
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng
Thông qua bài ca dao này nói lên nguyện vọng của người nông dân mong cho mưa thuận gió hòa để công việc nhà nông được thuận lợi, vụ mùa bội thu, người nông dân đỡ nhọc nhằn vất vả.
Trong câu đầu tiên của bài ca dao đã thể hiện sự lo lắng của người nông dân khi mùa cấy lúa đang tới gần.
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Người ta chỉ những người đi làm thuê, cấy lúa cho xong nhiệm vụ rồi lấy tiền công về không phải lo lắng gì nhiều việc cây lúa sau khi được cấy xuống ruộng có bị khô hạn, hay ngập úng nước hay không. Người nông dân trong bài ca dao là một người đi “cấy” cho chính mảnh ruộng của mình. Họ lo lắng trăm bề, sợ cây lúa sau khi trồng xuống không thể phát triển được mà chết đi thì công sức của họ sẽ bị mất trắng.
“Tôi” “trông nhiều bề” thể hiện sự lo lắng, lo toan nhiều mặt trong cuộc sống khác, thể hiện sự chu đáo, có con mắt nhìn xa trông rộng của một người hay lo toan việc nhà.
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Điệp từ “Trông” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần thể hiện sự lo lắng, mong mỏi trông chờ, mưa nắng, thời tiết có thể là cho cây lúa của người nông dân bị chết bất cứ lúc nào, thể hiện sự vất vả của nghề nông khi phải phụ thuộc số phận của mình vào thời tiết, thiên tai có thể giáng xuống bất kỳ lúc nào cướp đi công sức, sự hy vọng của người nông dân.
Khiến cho người nông dân không thể không lo lắng. Sự lo lắng cho cái ăn cái mặc của cả gia đình chỉ trông vào sự tồn tại của cây lúa nếu chẳng may cây lúa có mệnh hệ gì thì cả nhà sẽ chết đói, biết lấy gì để sống.
Trông cho chân cứng đá mềm
|
Assignment
In the treasury of Vietnamese folk songs and proverbs, there are many good songs expressing the sentiments of farmers in the fields. Expressing the thoughts and feelings of an honest and simple farmer. Each folk song evokes different emotions in the reader.
The folk song "Going to transplant" expresses the feelings and emotions of farmers in the agricultural situation, having to worry about many things when the weather is not favorable.
People get transplanted
Now that I'm transplanting, I still have to look at many things
Look at the sky, look at the earth, look at the clouds
Looks like rain, looks like sunshine, looks like day, looks like night
Look for hard and soft legs
When the sky is calm and the sea is calm, the heart is at peace
Through this folk song, it expresses the farmer's wish for good weather and wind so that farming work will be smooth, the harvest will be bountiful, and the farmer will have less hardship.
In the first verse of the folk song, the farmer's anxiety is expressed as the rice planting season is approaching.
People get transplanted
Now that I'm transplanting, I still have to look at many things
People only work as hired laborers, plant rice to complete their tasks and then get paid, and don't have to worry too much about whether the rice plants will dry out or be flooded after being transplanted into the fields. The farmer in the folk song is a person who "plants" his own field. They are worried about everything, afraid that after planting the rice plant will not be able to grow and will die, their efforts will be lost.
“I” “looks in many ways” shows worry and worries in many aspects of other lives, showing the thoughtfulness and far-sightedness of a person who takes care of housework.
Look at the sky, look at the land, look at the clouds
Looks like rain, looks like sunshine, looks like day, looks like night
The word "Look" is repeated many times, expressing worry, anticipation, rain, sun, and weather that could cause the farmer's rice plants to die at any time, expressing hardship. of farming when they have to depend their fate on the weather, natural disasters can strike at any time, robbing farmers of their efforts and hope.
Making farmers unable to help but worry. The whole family's concern for food and clothing depends only on the existence of the rice plant. If something unfortunate happens to the rice plant, the whole family will starve to death, knowing what to eat to survive.
Look for hard and soft legs
|
Bài làm
Sách vốn là khi tri thức bất tận của con người. Nó mở ra cho con người những nguồn kiến thức mới, mở ra cho chúng ta những chân trời tư duy sáng tạo mới hơn, thoát khỏi kiếp tối tăm không có người chỉ đường dẫn lối. Chính vì vậy, có thể nói sách chính là người bạn tri kỷ của con người từ xưa tới nay.
Trong thời đại bùng nổ thông tin thì sách vẫn luôn là nguồn thông tin đáng tin cậy, giúp con người tra cứu tài liệu, tìm hiểu những kiến thức mình còn chưa biết một cách hiệu quả nhất
Câu nói sách là người bạn tốt của con người nhằm khuyên nhủ con người ta phải biết trân trọng những quyển sách mình có, phát huy những tính năng ưu việt của nó nhằm bổ trợ những kiến thức còn thiếu hụt của mình. Người bạn tốt chính là người bạn giúp đỡ nhau lúc khó khăn, tương trợ cho nhau cùng phát triển, thúc đẩy nhau tiến bộ.
Từ xa xưa sách chính là nơi lưu trữ thông tin duy nhất. Trong thời kỳ đồ đồng đồ đá sách được con người viết lên tường khắc lên cây thông qua những ký hiệu còn lưu giữ lại trong những hang động cổ xưa.
Nhiều nhà khoa học trên thế giới của chúng ta đạt được những thành tựu vang dội nhờ sự đóng góp không nhỏ của những quyển sách mà thế hệ trước lưu giữ lại, tạo thành nguồn kiến thức quý báu
Do vậy, sách chính là người bạn thân thiết, tri kỷ của con người trong mọi thời đại. Bởi sách luôn chỉ phục vụ một mục đích là cung cấp kiến thức quý giá cho con người, giúp con người bổ sung những kiến thức còn thiếu hụt của mình, nhằm trau dồi thêm kinh nghiệm của bản thân mình và trở thành người thành đạt của kiến thức uyên bác.
|
Assignment
Books are the source of endless human knowledge. It opens up new sources of knowledge for humans, opens us up to newer horizons of creative thinking, and escapes from a dark life without anyone to show us the way. Therefore, it can be said that books are people's best friends from ancient times to the present.
In an era of information explosion, books are always a reliable source of information, helping people look up documents and learn the knowledge they don't know in the most effective way.
The saying that books are man's best friend is to advise people to appreciate the books they have, to promote their superior features to supplement their lacking knowledge. A good friend is a friend who helps each other in difficult times, helps each other develop, and motivates each other to progress.
Since ancient times, books have been the only place to store information. During the Bronze Age, books were written on walls and carved on trees through symbols preserved in ancient caves.
Many scientists in our world have achieved great achievements thanks in no small part to the contributions of books that previous generations kept, creating a valuable source of knowledge.
Therefore, books are the closest friends and confidants of people of all times. Because books always serve only one purpose: to provide valuable knowledge to people, to help people supplement their missing knowledge, to enrich their own experience and become successful people. of profound knowledge.
|
Bài làm
Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng của Trung Hoa với phong cách thơ Đường nổi tiếng phóng khoáng, tự do thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương của tác giả
Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” thể hiện tâm hồn lãng mạn, yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp của đất nước của tác giả.
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây.
Ngay từ nhan đề của bài thơ đã thể hiện sự rộng lớn của không gian, khi tác giả ngắm thác núi Lư từ một nơi xa, thể hiện sự mênh mông của thiên nhiên, sự bao la rộng lớn của đất trời. Từ một nơi xa nhìn về phía trước tác giả Lí Bạch đã quan sát rất chi tiết mọi vật xung quanh mình thể hiện sự tinh tế trong cách nhìn của nhà thơ.
Những tia nắng xuyên vào dòng nước Hương Lô mù sương tạo thành những dòng mây khói màu “tía” bay lên không trung bao la ngút ngàn. Thể hiện một màu sắc tươi đẹp của cảnh sắc nơi đây. Có thể nói đây là cõi thần tiên nơi hạ giới. Chốn bồng lai tiên cảnh, khi tác giả được thả bộ tới đây nhìn thấy cảnh vật nên thơ hữu tình đã không cầm lòng được mà làm bài thơ này
“Nắng rọi Hương Lô khói tía bay” thể hiện sự “thi vị” khi ánh nắng chiếu vào những dòng nước tạo thành những màu như màu của cầu vồng sau cơn mưa. Thiên nhiên được tác giả miêu tả, tái hiện một cách vô cùng tươi đẹp.
“Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước” thể hiện sự cao lớn của thác núi Lư với độ dốc lớn, dòng nước chảy với tốc độ vô cùng lớn như lao thẳng, thể hiện sự hùng vĩ của dòng thác có thể cuốn trôi đi tất cả.
Người đọc có thể cảm nhận sự hùng vĩ, hoang sơ của dòng thác này đứng chênh vênh bên một vách núi cao, hiểm trở có thể làm cho người ta cảm thấy khiếp sợ vì độ lớn của nó nhưng cũng làm người ta thích thú vì sự hùng vĩ, mạnh mẽ
|
Assignment
Li Bach is a famous Chinese poet with a famous liberal style of Tang poetry, freely expressing the author's love of nature and homeland.
The poem "Viewing the Lu Mountain Waterfall from afar" shows the author's romantic soul, love of nature, and love of the beautiful scenery of the country.
Poetry translation:
The sun shines on Huong Lo and purple smoke flies
In the distance you can see the waterfall in front of this river
The water flew straight down three thousand meters
It seemed like the Milky Way had slipped out of the clouds.
Right from the title of the poem, it shows the vastness of space, when the author looks at Lu mountain waterfall from a far away place, expressing the immensity of nature, the vastness of heaven and earth. Looking forward from a far away place, author Li Bach observed everything around him in great detail, demonstrating the sophistication of the poet's perspective.
The rays of sunlight penetrate the misty Huong Lo water, creating streams of "purple" smoke clouds that fly into the vast sky. Shows the beautiful colors of the scenery here. It can be said that this is a fairyland on earth. In a fairyland, when the author walked here and saw the charming poetic scenery, he couldn't help but write this poem.
"Sun shines on Huong Lo with purple smoke" expressing the "poetry" when sunlight shines on the water streams, creating colors like the colors of a rainbow after the rain. Nature is described and recreated by the author in an extremely beautiful way.
"Water flies straight down three thousand meters" represents the greatness of Lu mountain waterfall with its steep slope, the water flows at an extremely high speed like rushing straight, showing the majesty of the waterfall that can wash away everything. chief.
Readers can feel the majesty and wildness of this waterfall standing precariously on the side of a high, dangerous cliff that can make people feel scared because of its magnitude but also makes people excited because majesty, strength
|
Bài làm
Trong xã hội hiện nay, nhiều trẻ em đang bị bạo hành, không có một mái ấm gia đình đúng nghĩa. Không được đảm bảo quyền lợi của mình.
Chính vì vậy, tác phẩm ” Cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh Hoài là một câu chuyện vô cùng cảm động, là tiếng chuông cảnh tỉnh người lớn, khi đối xử với trẻ nhỏ
Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật Thành và Thủy hai em rất yêu thương và che chở cho nhau từ khi còn thơ bé. Họ có nhiều kỷ niệm chung gắn bó với nhau hồi lớp năm khi áo Thành bị rách Thủy đã đem kim chỉ ra sân khâu vá cho Thành. Một biểu hiện giản dị, những thể hiện tình cảm gắn bó của hai anh em.
Đi học đi chơi hai anh em cũng đều có nhau. Nhưng rồi sóng gió gia đình xảy ra, bố mẹ ly hôn, hai em mỗi người một nơi. Sự đau khổ hằn lên khuôn mặt của hai đứa trẻ vô tội. Thủy thì chỉ biết khóc nức nở, trong khi đó anh trai Thanh thì cắn chặt môi để tiếng khóc nén lại trong lòng không bật lên thành tiếng. Những giọt nước mắt khi cha mẹ chia lìa đôi ngả, anh em ly tán, tan nát
Tác giả đã dùng những lời lẽ chân thành của mình để miêu tả cuộc chia ly ấy, khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào, xúc động vì những tình cảm chân thành, mộc mạc mà trẻ thơ dành cho nhau.
Khi bố mẹ chia tay nhau, mọi thứ trong gia đình cũng đều chia đôi. Đến cả những món đồ chơi của hai anh em cũng được mẹ bảo chia đôi, khiến cho hai anh em vô cùng buồn khổ. Thành muốn “nhường” lại hai con búp bê Vệ sĩ và Em nhỏ cho cô em gái của mình là Thủy. Nhưng Thủy lại sợ anh chia đôi hai con búp bên nên vội nói ” Sao anh ác thế? Anh định chia rẽ chúng sao?”,
Nhưng rồi cô bé lại sợ không có vệ sĩ thì không có người canh gác cho anh ngủ. Điều này thể hiện tình cảm của Thủy dành cho anh trai mình vô cùng sâu sắc, một cô em gái nhỏ giàu tình cảm luôn lo lắng cho những người thân yêu của mình.
Nghĩ thế nên Thủy quyết định để lại hết hai con búp bê lại cho Thành anh trai của mình. Hai con búp bê mãi mãi sẽ không phải rời xa nhau như Thủy và Thành. Hành động này của cô bé khiến người đọc vô cùng cảm động, cảm thấy em dường như lớn hơn tuổi thực của mình biết suy nghĩ vô cùng sâu sắc, thấu tình đạt lý, biết hy sinh chịu thiệt thòi cho người mình yêu thương.
|
Assignment
In today's society, many children are being abused and do not have a proper family home. Your rights are not guaranteed.
That's why Khanh Hoai's work "Farewell of the Dolls" is an extremely touching story, a wake-up call for adults when dealing with children.
The story revolves around two characters, Thanh and Thuy, who have loved and protected each other since they were children. They have many shared memories of being together in fifth grade when Thanh's shirt was torn. Thuy brought a needle and thread to the yard to sew and mend Thanh. A simple expression, showing the emotional bond between two brothers.
We both go to school and play together. But then family turbulence happened, my parents divorced, and the two of us went to separate places. Suffering was written on the faces of two innocent children. Thuy could only sob, while Thanh's brother bit his lips to keep the cries inside from coming out loud. Tears when parents separate, brothers separate and fall apart
The author used his sincere words to describe that separation, making the reader choked up and touched by the sincere and simple feelings that children have for each other.
When parents separate, everything in the family is also divided in half. Even the brothers' toys were told by their mother to divide them in half, making the two brothers extremely sad. Thanh wants to "give" the two dolls Bodyguard and Little Sister to his younger sister Thuy. But Thuy was afraid that he would split the two dolls in half, so she quickly said, "Why are you so evil?" Are you planning to divide them?
But then she was afraid that without a bodyguard, there would be no one to watch over him while he slept. This shows that Thuy's feelings for her brother are extremely deep, an affectionate little sister who always worries about her loved ones.
Thinking so, Thuy decided to leave all two dolls to her brother Thanh. The two dolls will never have to be apart like Thuy and Thanh. This action of the little girl makes the reader extremely touched, feeling that she seems to be older than her real age, able to think extremely deeply, understand reason, and know how to sacrifice and suffer for the people she loves.
|
Bài làm
“Rừng vàng biển bạc” là câu nói mà tổ tiên chúng ta đã để lại nhằm nhắc nhở con cháu mình về việc bảo vệ rừng vì nó là nguồn tài nguyên vô cùng thiêng liêng, vô cùng quý giá, có giá trị vô cùng to lớn với cuộc sống của con người. Chính vì vậy mới có câu nói “Bảo vệ sinh chính là bảo vệ cuộc sống của con người”
Nước ta 3/4 lãnh thổ là rừng núi, nơi có những đồi núi bao la, có nguồn thực vật phong phú. Rừng tạo ra bóng râm che chở, cuộc sống cho những con người. Rừng chống bão lũ xói mòn, sạt lở đất đá ảnh hưởng nguy hại tới cuộc sống người dân. Rừng còn cho cây ăn quả, chim thú quý hiếm tạo ra nguồn lợi cho con người phát triển kinh tế.
Hàng năm, rừng của nước ta còn cung cấp nhiều loại gỗ giúp cho con người sản xuất ra những đồ dùng nội thất, phục vụ cho cuộc sống của con người, tạo công ăn việc làm, lợi nhuận.. giúp con người mưu sinh tốt hơn.
Rừng còn giúp điều hòa không khí chống ô nhiễm môi trường ở nơi nào có nhiều cây xanh sẽ có nhiều khí O2 giúp cho con người có nhiều không khí để thở, tâm trạng cảm thấy thư thái, nhẹ nhàng hơn, sức lực tinh thần nhờ đó mà cảm thấy khỏe mạnh phấn khởi hơn.
Không khí của nước ta ngày càng bị ô nhiễm nặng nề bởi sản xuất công nghiệp làm ô nhiễm nguồn không khí, ô nhiễm nguồn nước nhưng nhờ có rừng lọc các chất thải đi và thải nhiều khí O2 nên chúng ta có thể tồn tại được.
Ngoài ra, rừng phòng hộ của nước ta khá nhiều, những cánh rừng đầu nguồn thì giúp chắn sạt lở, tránh khi mưa bão con người bị nước và đất cát cuốn trôi, những cánh rừng ngập mặn như những cánh rừng tràm, rừng đước ở vùng đồng bằng thì giúp ngăn lũ, ngăn chặn diện tích đất ngập mặn bị mở rộng, giữ lại đất canh tác nông nghiệp trồng lúa gạo, hoa màu cho người dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long.
Nếu không có những cánh rừng phòng hộ, rừng ngăn ngập mặn này thì cuộc sống của người dân sẽ vô cùng khó khăn, không thể nào thuận lợi để mưu sinh, phát triển kinh tế được
Rừng có vai trò vô cùng to lớn với cuộc sống của con người chính vì vậy chúng ta cần bảo vệ sự tàn phá rừng.
|
Assignment
"The forest is gold and the sea is silver" is a saying that our ancestors left behind to remind our children and grandchildren to protect the forest because it is an extremely sacred resource, extremely precious, and has extremely great value. big with human life. That's why there is a saying "Protecting hygiene is protecting human life"
3/4 of our country's territory is forested and mountainous, with vast hills and mountains, rich in plant resources. Forests create shade, protection, and life for people. Forests protect against storms, floods, erosion, and landslides, which have a harmful impact on people's lives. The forest also produces fruit trees and rare birds and animals, creating benefits for human economic development.
Every year, our country's forests also provide many types of wood to help people produce furniture, serve people's lives, create jobs, profits... helping people make a living. better.
Forests also help regulate air to prevent environmental pollution. Where there are many trees, there will be a lot of O2, helping people have more air to breathe, making them feel more relaxed, lighter, and have more mental strength. Thanks to that, I feel healthier and more excited.
Our country's air is increasingly polluted by industrial production, polluting the air and water sources, but thanks to forests filtering waste and emitting a lot of O2, we can survive. .
In addition, there are many protective forests in our country, upstream forests help prevent landslides, prevent people from being swept away by water and sand during storms, and mangrove forests such as cajuput forests and mangrove forests. In the delta, it helps prevent floods, prevents the area of mangrove land from expanding, and retains agricultural land for growing rice and crops for people in the Mekong Delta.
Without these protective forests and mangrove prevention forests, people's lives would be extremely difficult and it would be impossible to make a living and develop economically.
Forests play a huge role in human life, so we need to protect forest destruction.
|
Bài làm
Sách chính là sự đúc kết, những trí tuệ của con người sau một quá trình nghiên cứu tìm tòi, phát triển. Nó chính là khối kiến thức vô cùng quý giá, phong phú với rất nhiều người. Nó chính là quá trình ghi chép, tổng hợp có chọn lọc những tinh túy mà người viết đã dày công nghiên cứu để truyền lại những gì mình tích lũy lại cho người khác.
Trong bất kỳ một lĩnh vực nào chúng ta cũng cần có sách, bởi không có sách thì chúng ta sẽ không thể có tài liệu nghiên cứu. Sách chính là tinh hoa của toàn nhân loại. Sách giúp con người có thể những kiến thức hiểu biết về cuộc sống, xã hội, lịch sử, văn minh…
Chúng ta đang sống trong xã hội hiện đại, nhưng nhờ có những ghi chép mà cha ông ta để lại nên khi muốn nghiên cứu một điều gì đó trong lịch sử thì sách là công cụ tìm kiếm hữu hiệu. Nhờ có nó mà chúng ta có thể biết được cuộc sống thời xa xưa như thế nào.
Cuộc sống sẽ thay đổi ra sao nếu chúng ta không có sách? Sẽ thật sự rất khó khăn, bởi từ xa xưa tới nay con người từ thời kỳ sơ khai đã biết ghi chép sách trên đá, trên giấy hoặc trên những gốc cây để viết lại những gì mình muốn nói. Sau này khi cuộc sống, nền văn minh của con người phát triển hơn con người có giấy, mực, thì họ đã ghi chép lại những cuốn sách cổ…Rồi thời đại vi tính sách online…
Dù trong xã hội nào thì vẫn cần có sách. Sách chính là nguồn trí tuệ phong phú của con người. Chính là sự đúc kết những kinh nghiệm, hiểu biết của con người. Sách là tinh hoa được người đời trước truyền lại cho đời sau chắt lọc trong quá trình nghiên cứu, lao động, học tập, sản xuất, trong các mối quan hệ từng thời kỳ chế độ xã hội khác nhau.
Ví dụ như sách chăn nuôi giúp con người biết cách chăn nuôi lợn không bị cúm, gà đẻ nhiều trứng, rồi sách nuôi tôm hùm, cá Ba Sa…Sách trồng trọt giúp người nông dân nuôi cây bưởi, cây dâu tây, cây vải thiều…
Đối với học sinh các loại sách nghiên cứu phương pháp giải toán, bài văn hay, rồi sách lịch sử… giúp cho học sinh, sinh viên có thêm vốn hiểu biết, tích lũy nhiều kiến thức hơn cho môn học của mình.
|
Assignment
Books are the summation of human wisdom after a process of research, exploration and development. It is an extremely valuable and rich body of knowledge for many people. It is the process of recording and selectively synthesizing the essence that the writer has diligently researched to pass on what he has accumulated to others.
In any field we need books, because without books we will not be able to have research materials. Books are the essence of all humanity. Books help people gain knowledge about life, society, history, civilization...
We live in a modern society, but thanks to the records left by our ancestors, when we want to research something in history, books are an effective search tool. Thanks to it, we can know what life was like in ancient times.
How would life change if we didn't have books? It will be really difficult, because from ancient times until now, people from the earliest times have known how to record books on stones, on paper or on tree stumps to write down what they want to say. Later, when human life and civilization were more developed than people had paper and ink, they recorded ancient books... Then came the era of computers and online books...
No matter what society, books are still needed. Books are a rich source of human wisdom. It is the summation of human experiences and understanding. Books are the quintessence passed down from previous generations to future generations, refined in the process of research, labor, study, production, and in the relationships of different periods and different social regimes.
For example, animal husbandry books help people know how to raise pigs without getting flu, chickens that lay lots of eggs, and books on raising lobsters and Ba Sa fish... Horticulture books help farmers raise grapefruit trees, strawberry trees, and lychee trees. little…
For students, books that research math methods, good essays, and history books... help students gain more understanding and accumulate more knowledge for their subjects.
|
Bài làm
Cho tới bây giờ khi đã là học sinh trung học cơ sở nhưng em vẫn không thể nào quên được ngày đầu tiên đi học của mình. Cái ngày đầu tiên bước chân vào trường mầm non Sơn Ca ấy. Hình ảnh có giá Hạnh cô giáo mầm non đầu tiên luôn hiện hữu trong tâm trí em mỗi lần em nghĩ về trường mầm non yêu thương của mình.
Cô giáo của em thường ra tận ngoài cửa lớp học để đón các học trò, rồi cô bế em vào chỗ ngồi, bảo em khoanh tay chào mẹ. Khi bế em lúc nào cô cũng “thơm” vào hai cái má phúng phính của em rồi hít hà, khen em bằng những lời lẽ vô cùng dịu dàng giống hệt như mẹ em vậy. Những lúc em không chịu ăn cô đều xúc cho em rồi “nựng” em “Khôi Nguyên ngoan đi, con ăn nhiều thì mới thành siêu nhân được”. Bởi ngày nhỏ em luôn mơ ước lớn lên mình sẽ thành siêu nhân người nhện giống như trong mấy bộ phim hoạt hình mà ti vi hay chiếu.
Thế là em ngoan ngoãn không khóc nhè nữa. Những buổi trưa học ở trường em không ngủ được trằn trọc lăn qua lăn lại. Cô Hạnh thường khe khẽ lại rồi xoa lưng cho em ngủ, bàn tay cô mềm mại khiến cho em cảm thấy êm ái vô cùng rồi cô xoa xoa một lúc thì em ngủ mất lúc nào không biết.
Lớp em ngày nào cũng tầm 20-25 học sinh trong lớp thì thường có hai cô giáo cô Hạnh và cô Hoa những ngày em đi học thì cô hoa bị ốm nên trong lớp thường xuyên chỉ có một mình cô Hạnh lo chăm sóc chúng em.
Một mình cô giáo lo lắng, chăm sóc cho hơn 20 học sinh như em quả là một công việc không dễ dàng chút nào. Có khi chúng em đang chơi rất vui vẻ với nhau những lúc sau do bất đồng quan điểm, hoặc tranh giành đồ chơi lại có thể đánh nhau xô đẩy nhau ngay được, rồi có bạn sẽ khóc toáng lên khiến cô phải chạy lại giải quyết phân trần rồi dỗ dành…
Con nít thì nghịch lắm, nhưng cô luôn bày cho chúng em những trò chơi vô cùng lý thú, khiến cho chúng em chơi không bao giờ thấy chán. Những trò kéo co, nu na nu nống, rồi những trò chơi xếp hình, lâu đài công chúa, siêu nhân… khiến cho lũ con nít chúng em vô cùng thích thú.
Cô Hạnh còn dạy chúng em rất nhiều bài hát hay, nhiều bài thơ bổ ích khiến cho mỗi ngày đi học của chúng em đều là một ngày vui,
Cô giáo thực sự đã trở thành người mẹ hiền thứ hai của em. Những lời hát cô dạy, những bài thơ cô cho, những tình cảm ngọt ngào của cô khiến cho chúng em không bao giờ quên được.
Em xin lấy lời bài hát “Đi học” để thay cho những điều mình muốn gửi tặng cho cô:
“Ngày đầu như thế đó.
Cô giáo như mẹ hiền
Em bây giờ cữ ngỡ
Cô giáo là cô tiên
Em bây giờ khôn lớn
|
Assignment
Even now, even though I am a junior high school student, I still cannot forget my first day of school. The first day I stepped foot into Son Ca kindergarten. The valuable image of Hanh, the first kindergarten teacher, always appears in my mind every time I think about my beloved kindergarten.
My teacher often goes outside the classroom door to pick up students, then she carries me to my seat and tells me to cross my arms and greet my mother. When holding her, she always "smelled" her chubby cheeks, sniffed them, and complimented her with extremely gentle words, just like her mother. Whenever I refused to eat, she would scoop it up for me and then "push" me, "Be good Khoi Nguyen, if you eat a lot, you will become a superhero." Because when I was little, I always dreamed that when I grew up, I would become a superhero like Spider-Man like in the cartoons that TV often shows.
So I obediently stopped crying. During school afternoons, I couldn't sleep and tossed and turned. Ms. Hanh often gently rubbed my back to help me sleep. Her soft hands made me feel extremely comfortable. After rubbing for a while, I fell asleep without knowing it.
Every day in my class there are about 20-25 students, there are usually two teachers, Ms. Hanh and Ms. Hoa. On the days I go to school, Ms. Hoa is sick, so in the class there is usually only Ms. Hanh to take care of us. .
A teacher worrying and taking care of more than 20 students like me alone is not an easy job at all. Sometimes we're having fun playing together, but later on, due to disagreements or fighting over toys, we can fight and push each other right away, then someone will cry so hard that she has to run over to deal with it. Explain and console...
Children are very mischievous, but she always shows us extremely interesting games, making us never bored playing. The games of tug of war, nu na nu nu, then puzzle games, princess castles, superheroes... made us kids extremely excited.
Ms. Hanh also taught us many good songs and useful poems, making every day of school a happy day for us.
The teacher has truly become my second kind mother. The songs she taught, the poems she gave, and her sweet feelings made us never forget them.
I would like to use the lyrics of the song "Going to school" to replace the things I want to give you:
“The first day was like that.
The teacher is like a gentle mother
I'm confused now
The teacher is a fairy
I'm grown up now
|
Bài làm
Trong mỗi chúng ta ai cũng có ước mơ của riêng mình và hàng ngày chúng ta đều cố gắng để thực hiện ước mơ đó. Nhưng trong cuộc sống luôn chứa đựng những điều rủi ro, những khó khăn thử thách làm cản trở chúng ta tới được với ước mơ của mình. Tuy nhiên, nếu như chúng ta có ý chí, kiên cường bền gan quyết chí thì nhất định sẽ “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Có công mài sắt là gì? Thể hiện sự gian khổ, cần cù chịu khó của con người trong việc mình làm. Dù việc đó vô cùng khó khăn, vất vả khó thực hiện như việc mài giũa một thanh sắt to trở thành một cây kim nhỏ bé, nhưng nếu kiên trì, chịu khó không nản chí chúng ta có thể thành công.
Hình ảnh cây kim là chỉ thành quả lao động miệt mài mà có, là sự nỗ lực đã được đền đáp xứng đáng.
“Có công mài sắt, có ngày nên kim” ám chỉ một chuyện tưởng như hoang tưởng, không thể làm được nhưng nếu ta kiên trì, cố gắng nhất định sẽ thành công. Đúng như thế, mỗi con người chúng ta ai cũng có hướng đi của riêng mình, để thành công gặt được hoa thơm trái ngọt không hề dễ dàng, bởi vậy điều chúng ta cần là ý chí, bản lĩnh kiên trì, cần cù, nỗ lực không ngừng nghỉ thì mới có thể thành công như mong muốn.
Trong lịch sử dân tộc ta từ xưa tới này chúng ta đã trảiqua vô cùng nhiều chiến tranh đau thương, mất mát, để có những ngày tháng bình yên, nhiều người dân chúng ta đã phải hy sinh máu xương, thân thể của mình ở những chiến trường khác nhau. Nhờ sự chiến đấu, nỗ lực không nghỉ ngơi đó mà con cháu hôm nay đã được hưởng tự do thái bình
|
Assignment
Each of us has our own dream and every day we try to realize that dream. But life always contains risks and difficulties that prevent us from achieving our dreams. However, if we have the will, tenacity, and determination, we will definitely "work hard to make money."
What is the merit of sharpening iron? Shows people's hardship and diligence in what they do. Although it is extremely difficult and difficult to do, like sharpening a large iron bar into a small needle, if we persevere and work hard without getting discouraged, we can succeed.
The image of a needle represents the result of hard work, an effort that has been rewarded.
"If you work hard, you will make money one day" refers to a seemingly paranoid, impossible thing, but if we persevere and try, we will definitely succeed. That's right, each of us has our own direction, to succeed and reap sweet fruits is not easy, so what we need is will, perseverance, diligence, Only by constant effort can you achieve the desired success.
In our nation's history from past to present, we have experienced countless painful wars and losses. To have peaceful days, many of our people have had to sacrifice their blood, bones, and bodies in prison. different battlefields. Thanks to that fight and tireless effort, today's descendants enjoy freedom and peace
|
Bài làm
Trong cuộc sống con người thường có câu nói “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” để thể hiện việc đánh giá ai đó không thể thông qua vẻ bề ngoài được, mà cần phải có thời gian. Cần phải nhìn vào nội dung bên trong, xem xét tâm hồn, bản tính của con người đó mới nói lên sự thật
Nếu như chúng ta chỉ nhìn vào bề ngoài của sự vật, sự việc, con người mà vội vàng đưa ra kết luận thì chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Giống như việc chúng ta mua một chiếc tủ quần áo bằng gỗ ép công nghiệp nhìn bên ngoài chúng rất đẹp được sơn màu long lanh sáng bóng. Nhưng chỉ sau một thời gian sử dụng chúng ta sẽ thấy nó dễ bị ngấm nước, cong vênh hư hỏng, không bền lâu.
Thế nào là tốt gỗ? Tốt gỗ thể hiện nội dung bên trong, chất lượng loại gỗ tốt, thượng hạng dùng lâu dài không bị mối mọt ăn, không bị cong vênh dùng hàng chục năm, hàng trăm năm vẫn tốt như ngày ban đầu. Mở rộng hơn, tốt gỗ chính là tâm tính, bản chất con người không nhìn thấy qua vẻ bên ngoài được mà phải có thời gian tìm hiểu, chơi thân, thì mới biết.
Người tốt là người ngay thẳng, chân thành luôn giúp đỡ người khác, ham học hỏi cầu tiến…sẽ tốt hơn người có vẻ ngoại hình đẹp nhưng xấu tính đố kỵ, thường xuyên hại người khác vì lợi ích của mình
Nước sơn là gì? Chỉ cái bên ngoài màu sơn có đẹp hay xấu. Mở rộng thì chính là ngoại hình của con người xinh đẹp hay xấu xí.
Nhưng nếu chúng ta chọn một chiếc tủ gỗ Lim không được đẹp bên ngoài, nhưng dùng lại vô cùng tốt, bền theo thời gian. Vì vậy, chúng ta nên lựa chọn những sản phẩm có chất lượng gỗ tốt hơn là chọn mẫu mã vẻ ngoài đẹp.
Trong cuộc sống con người cũng vậy, phải biết chọn bạn mà chơi. Khi chúng ta chơi với một người bạn nào đó cũng vậy. Có thể người bạn đó không xinh xắn đáng yêu về ngoại hình bên ngoài nhưng bản chất lương thiện, tốt bụng học giỏi luôn giúp đỡ người khác sẽ tốt hơn rất nhiều với một người bạn.
|
Assignment
In human life, there is often a saying "Good wood is better than good paint" to express that judging someone cannot be based on appearance, but it takes time. It is necessary to look at the inner content, consider the soul and nature of that person to tell the truth
If we only look at the appearance of things, events, and people and quickly draw conclusions, we will be disadvantaged. Just like when we buy a wardrobe made of industrial plywood, it looks very beautiful on the outside and painted in shiny glitter colors. But after only a period of use, we will see that it is easily soaked in water, warped and damaged, and does not last long.
What is good wood? Good wood represents the content inside, the quality of the wood is good, premium for long-term use, not eaten by termites, not warped, used for decades or hundreds of years, still as good as the original day. More broadly, good wood is character, human nature cannot be seen through appearance but must have time to learn and play closely to know.
A good person is someone who is upright, sincere, always helps others, eager to learn and progress... will be better than someone who has a beautiful appearance but is mean and jealous, often harming others for their own benefit.
What is paint? Only the exterior of the paint color is beautiful or ugly. By extension, it is whether a person's appearance is beautiful or ugly.
But if we choose an Lim wood cabinet that is not beautiful on the outside, but is extremely good and durable over time. Therefore, we should choose products with good wood quality rather than choosing beautiful designs.
In human life, too, one must know how to choose friends to play with. It's the same when we play with a friend. Maybe that friend is not pretty and adorable in appearance, but his honest, kind nature, good at studying and always helping others will be much better for a friend.
|
Bài làm
Trong cuộc sống của chúng ta ai cũng có một ước mơ, một hướng đi riêng cho mình. Dù mục đích ước mơ của con người có khác nhau đi chăng nữa nhưng tất cả đều có chung một mục đích đó chính là sự thành công. Sự thành công là thành quả ngọt ngào mà con người gặt hái được sau những nỗ lực hết mình, sau những hy sinh vô cùng mệt mỏi và cả sau những thất bại cay đắng.
Bởi “không có con đường thành công nào được trải bằng hoa hồng”. Để đạt được sự thành công con người chúng ta ít nhất cũng một hai lần thất bại thậm chí thất bại hàng ngàn lần để được thành công chỉ một lần. Cái giá của sự thành công là vô cùng lớn. Nó khiến chúng ta phải trả giá bằng cả máu và nước mắt.
Những thất bại chính là bài học quý báu để con người nỗ lực vươn lên tìm hướng đi mới. Là bài học kinh nghiệm có tiền chưa chắc đã mau được mà chỉ có trải qua thực tế mới hiểu và thấm thía được
Chính vì vậy người xưa thường nói “Thất bại là mẹ thành công” để nói lên sự thành công được ví như con đẻ của thất bại. Sau những lần thất bại con người trưởng thành hơn, có những kinh nghiệm tích lũy quý giá, tìm ra phương hướng, lối đi phù hợp hơn để đi tới thành công.
Thất bại và thành công là hai phạm trù đối lập nhau. Chúng có mối quan hệ tiêu diệt lẫn nhau. Ở đâu có thành công thì chắc chắn không có mặt thất bại ở đó. Và ngược lại chỗ nào anh bạn thất bại ngang nhiên chiếm hữu thì thành công đang ở chỗ khác rất xa.
Tuy nhiên câu tục ngữ “Thất bại là mẹ của thành công” lại gợi mở cho con người ta một suy nghĩ mới mẻ hơn về sự thất bại. Nếu suy theo một nghĩa khách quan hơn, mở rộng vấn đề thì ta có thể thấy rằng. Thất bại chẳng có ai thích, sự thất bại khiến cho người buồn rầu, chán nản, rơi vào trạng thái đường cùng bế tắc. Nhưng nếu như một con người bản lĩnh khi gặp thất bại, họ có thể vượt qua những trạng thái trên mà bản lĩnh trở lại, tích lũy tự rút ra kinh nghiệm, tự đặt câu hỏi cho mình rằng “tại sao mình lại thất bại”.
Nguyên nhân thất bại là nằm ở chỗ nào? Khi con người tự trả lời được những câu hỏi này thì con người sẽ tìm ra được con đường đi tới thành công. Chính từ những ý nghĩa đó, người ta mới nói “Thất bại là mẹ thành công”
|
Assignment
In our lives, we all have a dream and a direction for ourselves. Even though the goals of people's dreams are different, they all have the same goal: success. Success is the sweet fruit that people reap after their best efforts, after extremely tiring sacrifices and even after bitter failures.
Because "no road to success is paved with roses". To achieve success, we humans must fail at least once or twice, or even fail thousands of times to succeed just once. The price of success is extremely high. It costs us both blood and tears.
Failures are valuable lessons for people to strive to find new directions. It's a lesson that having money doesn't necessarily mean you can get it quickly, but only through practical experience can you understand and absorb it
That's why the ancients often said "Failure is the mother of success" to say that success is likened to the offspring of failure. After failures, people become more mature, have valuable accumulated experiences, and find more suitable directions and paths to success.
Failure and success are two opposing categories. They have a mutually destructive relationship. Where there is success, there is certainly no failure. And conversely, wherever the failure is blatantly possessed, success is far away.
However, the proverb "Failure is the mother of success" suggests to people a new way of thinking about failure. If we think in a more objective sense, expanding the problem, we can see that. No one likes failure. Failure makes people sad, depressed, and in a deadlocked state. But if a brave person encounters failure, they can overcome the above states and become brave again, gain experience, and ask themselves "why did I fail?" ”.
Where is the cause of failure? When people can answer these questions themselves, they will find the path to success. It is from those meanings that people say "Failure is the mother of success"
|
Bài làm
Lý Bạch là một nhà thơ trong thời cổ đại nổi tiếng của đất nước Trung Quốc. Ông nổi tiếng với những vần thơ lãng mạn, trữ tình sâu lắng làm người đọc đắm say, như chìm vào trong chốn bồng lai tiên cảnh, nhưng cũng mộc mạc, giản dị gần gũi đời thường. Trong thơ của Lý Bạch những hình ảnh thiên nhiên như trăng, gió, mây, tuyết thường xuyên được xuất hiện được thổi hồn như một con người.
Tác phẩm “Tĩnh dạ tứ” được tác giả Lý Bạch sáng tác trong những năm ông phải rời xa quê hương, sống cuộc đời tha phương, nay đây mai đó ở những vùng quê khác nhau, bất chợt một đêm khó ngủ ông bắt gặp vầng trăng sáng trong một phút xuất thần ông đã viết bài thơ này để thể hiện tâm trạng nhớ nhà, nhớ quê hương tha thiết của mình.
Bài thơ được viết với bút pháp bay bổng lãng mạn, trữ tình nhưng cũng có những nét mộc mạc giản dị, thể hiện tình cảm nhớ quê, nỗi buồn trong lòng của tác giả.
“Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
(Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương)
Khi nhớ về Lý Bạch người ta thường nhớ tới những bài thơ vương mùi thơm của rượu, thưởng thức tửu trà dưới ánh trăng, rồi tức cảnh sinh tình. Nhưng lần này dù vẫn là một bài thơ về ánh trăng nhưng lại trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác. Một không gian khác, nó không ma mị, ngà ngà say sưa, mà là hiện thực rõ nét, phản ảnh chân thực tới từng chi tiết, thể hiện cho việc tác giả hoàn toàn tỉnh táo, không có hơi men.
Hai câu thơ đầu thể hiện một đêm trăng sáng, ánh trăng thật nhẹ nhàng, không gian buổi đêm vô cùng yên ắng tĩnh mịch, tạo nên sự huyền ảo hư hư thực thực. Trong tâm trạng của tác giả cũng có nhiều sự bâng khuâng nhớ về những gì đã qua, những kỷ niệm về một thời xa vắng.
Tác giả cảm thấy ánh trăng giống như một người bạn tri kỷ xa cách lâu ngày hôm nay mới có dịp gặp gỡ, cảm xúc vui mừng xen lẫn sự buồn vương, tủi hơn đang dâng lên trong lòng một cách vô cùng mãnh liệt.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
(Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương)
Trong câu thơ đầu tiên tác giả thể hiện sự mừng vui khi thấy ánh trăng người bạn tri kỷ thân thiết lâu năm. Một câu thơ có ý ẩn dụ sâu sắc. Sự đối lập giữa ngẩng và cúi. Khi tác giả ngẩng lên thể hiện sự hướng tới, vươn cao nhìn thấy ánh trăng tâm trạng vô cùng hoan hỉ, nhưng khi những giây phút vui vẻ đó đi qua tác giả cúi xuống đối diện với trái tim ấm nóng của mình, một cảm xúc nhớ cố hương, nhớ quê nhà khiến cho người cảm thấy rưng rưng lệ.
|
Assignment
Li Bai was a famous ancient Chinese poet. He is famous for his romantic and deeply lyrical poems that captivate readers, as if they are immersed in a fairyland, but are also rustic and simple, close to everyday life. In Ly Bach's poetry, natural images such as the moon, wind, clouds, and snow often appear and are brought to life like a human being.
The work "Tinh Da Tu" was composed by author Ly Bach during the years he had to leave his homeland, living a life in exile, here and there in different countryside, suddenly one night he had trouble sleeping. The bright moon in a moment of ecstasy, he wrote this poem to express the feeling of homesickness, of his homeland.
The poem is written with a romantic and lyrical poetic style but also has simple and rustic features, expressing the author's feelings of nostalgia and sadness in his heart.
“The moonlight shines at the head of the bed
I thought the ground was covered in frost
(Sifting the moonlight of Tien Minh
Nghi Thi (upper land dew)
When thinking about Ly Bach, people often remember poems filled with the scent of wine, enjoying tea under the moonlight, and then scenes of lovemaking. But this time, although it is still a poem about moonlight, it is in a completely different situation. Another space, it is not magical or intoxicating, but is clear reality, truly reflecting every detail, showing that the author is completely sober, without alcohol.
The first two verses represent a bright moonlit night, the moonlight is gentle, the night space is extremely quiet and peaceful, creating a magical feeling that is neither real nor real. In the author's mood, there is also a lot of wistfulness about the past, memories of a distant time.
The author feels like the moonlight is like a long-lost friend who only had the opportunity to meet him today. Feelings of joy mixed with sadness and sadness are rising in his heart in an extremely intense way.
Raise your head and look at the bright moon
Bow your head and remember your homeland
(Celebrate the dawn of the moon
To invest in the old country)
In the first verse, the author expresses his joy when seeing the moonlight of his long-time close friend. A poem with a profound metaphorical meaning. Contrast between up and down. When the author looked up to show his direction, reaching high to see the moonlight, his mood was extremely joyful, but when those happy moments passed, the author bent down to face his warm heart, a feeling of joy. Feeling nostalgic for the homeland and homeland makes people feel tearful.
|
Bài làm
Nhà thơ Đỗ Phủ là một nhà thơ lớn của nền thi ca Trung Quốc thời kỳ cổ đại. Ông đã để lại nhiều tác phẩm hay có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, chạm vào trái tim người đọc. Thơ của ông miêu tả thiên nhiên, cuộc sống con người vô cùng sinh động, tái hiện những mảnh đời người nông dân, những số phận cơ cực, có cuộc sống bình thường, giản dị nhưng có sức khơi gợi cảm xúc vô cùng mãnh liệt
Tác phẩm “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” là một tác phẩm hay được tác giả Đỗ Phủ sáng tác khi ông đã từng trải, đã nếm quá đủ mọi hỷ nộ ái ố của cuộc đời, bài ca này thể hiện sự thật tàn khốc của xã hội phong kiến và tình yêu thương của tác giả với con người đồng loại của mình.
Đỗ Phủ đã đi qua những năm tháng tuổi thơ và tuổi trưởng thành nhiều nghèo khó, đau khổ, bần hàn. Cuộc sống gia đình thiếu thốn đủ mọi thứ, cơm không đủ no áo không đủ ấm. Ông và những người thân sống trong một căn nhà tranh ở phía Tây Thành Đô.
Mùa hè khi mưa xuống thì nhà dột nát, ẩm ướt khắp nơi, tới mùa thu gió heo may thổi lùa vào khiến cho căn nhà tranh bị tốc mái, rét buốt. Có lẽ chính những cơ hàn, khốn khổ này đã thành nguồn cảm hứng giúp tác giả sáng tác ra những vần thơ vô cùng lay động lòng người.
“Tháng tám, thu cao, gió thét gào
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa”
Chỉ vài câu thơ nhưng sự tàn khốc, ác liệt của thiên nhiên được tác giả miêu tả vô cùng chân thực “Gió thét gào” thể hiện sự phẫn nộ, của cơn cuồng phong vô cùng ghê gớm. Những cơn gió cuốn bay những lớp nhà tranh được lớp sơ sài, những mảnh lá tránh bay khắp nơi văng xuống bờ sông gần đó, mỗi nơi một ít, khiến cho ngôi nhà tranh trở nên hoang sơ, đã nghèo lại còn nghèo hơn. Những cơn gió, trận mưa cứ thế thi nhau trút xuống làm ướt sũng ngôi nhà, biến những người trong nhà phải co cụm lại với nhau để tìm nơi trú ẩn.
“Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về chống gậy lòng ấm ức”
Trong hoàn cảnh thiên nhiên giận giữ, xã hội thì binh đao loạn lạc, con người dù có thét gào khô môi khản giọng cũng chẳng có ai cứu giúp được, bởi hoàn cảnh của những người dân khác trong xã hội lúc bấy giờ cũng đang khó khăn không kém gì gia đình tác giả.
“Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ”
Ở quê hương thì thiên nhiên gào thét, thiên tai đổ xuống đầu người dân lầm than đói khổ. Ở vùng biên cương thì chiến tranh liên miên, cảnh đầu rơi máu chảy, người chết chất cao như núi thể hiện sự loạn lạc trong thời binh đao. Qua hai câu thơ này tác giả Đỗ Phủ cũng muốn tố cáo xã hội, tố cáo tham vọng của nhà vua thời đó khi muốn mở rộng bờ cõi, gây ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa nhằm phục vụ lòng tham thống trị của mình. Nhà vua đã không ngần ngại đưa binh lính đi chiến đấu, chiếm đất của những nước láng giềng, gây thiệt hại về người và của.
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng vững vàng như thạch bàn
Than ôi bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được.
Trong khổ thơ này tác giả đã thể hiện giá trị nhân văn, nhân đạo vô cùng cao thượng, thể hiện nội tâm đầy yêu thương của nhà thơ Đỗ Phủ dành cho những người dân, những đồng bào của mình.
Tác giả mong muốn có một căn nhà rộng, nhưng không phải để ở một mình hưởng vinh hoa phú quý, mà để chia sẻ cùng với trăng ngàn kẻ sĩ, những con người khốn khổ khác.
|
Assignment
Poet Du Fu is a great poet of ancient Chinese poetry. He left behind many good works with profound humanistic meaning, touching the hearts of readers. His poems describe nature and human life very vividly, recreating the lives of farmers, miserable fates, leading ordinary, simple lives but with the power to evoke extremely strong emotions. paralysis
The work "Song of the Thatched House Destroyed by the Wind" is a good work composed by author Do Phu when he had experienced and tasted all the joys, anger, and sorrows of life, this song represents the truth. the cruelty of feudal society and the author's love for his fellow human beings.
Du Phu went through many years of poverty, suffering, and poverty during his childhood and adulthood. Family life lacks everything, food is not enough, clothes are not warm enough. He and his relatives lived in a thatched house in the west of Chengdu.
In the summer, when it rains, the house is dilapidated and damp everywhere. In the fall, the wind blows in, causing the thatched house to lose its roof and make it bitterly cold. Perhaps it is these hardships and miseries that have become the source of inspiration for the author to compose poems that are extremely touching to people's hearts.
“August, autumn is high, the wind is howling
I lost three layers of my house's paintings
Paintings flew to the river and scattered all over the banks
A tall piece hanging from the top of the distant forest
The low piece turned upside down into the distant ditch."
Just a few verses, but the cruelty and fierceness of nature are described by the author very realistically. "The howling wind" shows the anger and fierceness of a hurricane. The winds blew away the thin layers of thatched cottages, pieces of leaves flew everywhere and landed on the nearby riverbank, a little in each place, making the thatched cottage become wild, poor and even poorer. The winds and rain continued to pour down, drenching the house, forcing the people inside to huddle together to find shelter.
“My lips are dry, my mouth is burning and I can't scream
Returning to the cane, my heart is filled with resentment."
In a situation where nature is angry and society is in chaos, even if people scream until their lips are dry and their voices are hoarse, no one can help them, because the situation of other people in society at that time is also changing. It's no less difficult than the author's family.
“Outside the border, blood flows into a red sea
Open the realm of the king's intention and have not abandoned it"
In the homeland, nature roared, natural disasters fell on the people suffering from hunger and suffering. In the border areas, there was constant war, scenes of bloodshed and dead people piled high like mountains, showing the chaos during the war and sword era. Through these two verses, author Do Phu also wanted to denounce society, denounce the ambition of the king at that time when he wanted to expand his territory, causing unjust wars to serve his greed for domination. The king did not hesitate to send soldiers to fight, occupying land from neighboring countries, causing loss of life and property.
“I wish to have a house with thousands of rooms
All over the world, poor scholars are happy
The wind and rain do not waver, it is as steady as a stone table
Alas, when will that house stand before our eyes?
As for my tent, it's fine to die in the cold.
In this stanza, the author expressed extremely noble humane and humanitarian values, expressing the inner love of poet Do Phu for the people and his compatriots.
The author wants to have a large house, not to live alone and enjoy wealth and prosperity, but to share with thousands of scholars and other miserable people.
|
Bài làm
Bài thơ “Cảnh khuya” được tác giả Hồ Chí Minh viết năm 1947, sau khi nước ta thắng lớn tại Việt Bắc. Một số địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc như Sông Lô, Đoan Hùng bởi những chiến công hiển hách của mình trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp thoát khỏi ách nô lệ. Bài thơ thể hiện tấm lòng yêu nước vô cùng mãnh liệt, sâu sắc của tác giả.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”Trong đêm tối tĩnh mịch, yên lắng tới nao lòng tiếng suối chảy róc rách nghe thật gần, thật rõ, giống như tiếng hát của một cô thiếu nữ vừa trong veo, vừa lảnh lót. Tác giả nhìn qua ô cửa sổ cảm thấy ánh trăng đêm nay thật sáng trong soi tỏ mặt người. Hình ảnh trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa, thể hiện thuật miêu tả vô cùng độc đáo của tác giả Hồ Chí Minh.
Trong đêm khuya tĩnh mịch đó hình ảnh đêm trăng với tiếng suối, bóng đêm, hoa cỏ hiện lên rõ nét như được vẽ lên trên vải lụa. Một khung cảnh nên thơ, trữ tình tạo nỗi buồn bâng khuâng cho tác giả. Trước một cảnh đẹp tuyệt trần như vậy những chủ tịch Hồ Chí Minh lại cảm thấy trong lòng mình khó ngủ, trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành do trong lòng người vẫn nặng mang một nỗi buồn sâu sắc. Đó chính là nỗi buồn lo lắng cho vận mệnh nước nhà.
Đất nước ta vẫn còn trong bóng tối, vẫn còn trong đêm dài nô lệ, chưa thoát khỏi ách đô hộ thống trị của thực dân Pháp. Người dân của ta đang trong cảnh lầm than, khốn khổ. Nạn đói bủa vây những người dân vô tội, nạn đói năm 1945 đã cướp đi tính mạng của 2 triệu người dân trên đất nước ta, khiến cho một vị lãnh tụ như chủ tịch Hồ Chí Minh không khỏi cảm thấy xót xa, đau đớn thắt lòng. Người làm sao mà ngủ ngon giấc, khi trong lòng mình mang nặng nỗi ưu tư, phiền muộn như vậy.
Đây không phải lần đầu tiên người so sánh tiếng suối với một tiếng hát hay tiếng đàn. Trước đó trong bài “Côn Sơn Ức Trai” tác giả đã có sự cảm nhận rất tinh tế về tiếng suối như sau:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
Tiếng suối nghệ thật bình yên thơ mộng tựa như những cung đàn đang dạo những nốt trầm bổng làm say đắm lòng người. Trong những năm đầu thế kỷ XX tác giả Nguyễn Khuyến cũng từng miêu tả tiếng suối như thế này:
“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo…”
Trong mỗi câu thơ, thể hiện một khung cảnh, âm thanh, điệu nhạc khác nhau thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận cũng như trong quan sát của từng tác giả. Tuy nhiên, tựu chung lại thì các tác giả dù là Hồ Chí Minh hay Nguyễn Khuyến đều cảm thấy tiếng suối, tiếng nước chảy róc rách là một âm thanh nghe vô cùng đắm say, gợi lên nhiều xúc cảm cho con người.
Và dù trong hoàn cảnh nào thì tác giả Hồ Chí Minh vẫn luôn nặng lòng vì đất nước, trong lòng người luôn trăn trở một nỗi niềm khôn nguôi đó chính là vận mệnh của dân tộc, của nước nhà.
Trong bài thơ “Không ngủ được” Bác đã viết như sau:
“Một canh, hai canh, lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”
Đây không phải lần đầu tiên người mất ngủ vì non sông, vì đất nước có lẽ đêm nay cũng như hàng ngàn đêm khác Bác Hồ của chúng ta đều khó ngủ khi suy nghĩ tới đại cục, tới những số phận người dân Việt Nam. Mặc dù người đang được nhìn thấy một khung cảnh vô cùng thơ mộng, giống như chốn thần tiên ở nhân gian với ánh trăng thanh, sáng vằng vặc, tiếng suối trong veo như tiếng hát của một cô thôn nữ, hình ảnh cỏ cây hoa lá vô cùng nên thơ tưởng chốn bồng lai tiên cảnh. Nhưng dù được sống trong khung cảnh hữu tình tới như vậy thì Bác Hồ của chúng ta vẫn không cảm thấy tâm hồn mình thảnh thơi, để nhìn ngắm cảnh vật, hoặc ngủ một giấc say nồng. Trong hoàn cảnh nên thơ gợi tình như vậy Bác Hồ của chúng ta vẫn cảm thấy nặng lòng, muộn phiền chất chứa.
Điều này thể hiện tình yêu mãnh liệt người dành cho quê hương, cho dân tộc. Một tấm lòng nhân văn thương nước thương dân vô bờ bến. Người xứng đáng là chủ tịch kính yêu, lãnh đạo toàn dân ta, xứng đáng là người cha già của toàn dân tộc Việt Nam.
|
Assignment
The poem "Late Night Scene" was written by author Ho Chi Minh in 1947, after our country won a great victory in Viet Bac. Some places have entered the nation's history such as Song Lo and Doan Hung because of their glorious victories during the 9-year resistance war against the French colonialists to escape slavery. The poem shows the author's extremely intense and profound patriotism.
“The sound of the stream is as clear as singing in the distance
Moon cage, ancient tree, shadow of flower cage
The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet.
I haven't slept because I'm worried about my country." In the quiet, quiet night, the sound of a gurgling stream sounded so close and so clear, like the singing of a young girl, both clear and bright. The author looked through the window and felt that the moonlight tonight was so bright that it illuminated people's faces. The image of the ancient moon cage and the shadow of the flower cage represents the extremely unique description of author Ho Chi Minh.
In that quiet night, the image of a moonlit night with the sound of streams, shadows, and flowers appeared clearly as if painted on silk fabric. A poetic and lyrical scene creates sadness and wistfulness for the author. Faced with such a beautiful scene, President Ho Chi Minh found it difficult to sleep, tossing and turning, wondering if sleep could not be achieved because he still carried a deep sadness in his heart. That is the sadness and concern for the fate of the country.
Our country is still in darkness, still in the long night of slavery, and has not yet escaped the yoke of French colonial rule. Our people are in misery and misery. Famine surrounded innocent people. The 1945 famine claimed the lives of 2 million people in our country, making a leader like President Ho Chi Minh unable to help but feel sorrow and pain. heart-wrenching. How can one sleep well when one's heart is filled with such worries and sorrows?
This is not the first time people have compared the sound of a stream to a song or a guitar. Previously in the article "Con Son Uc Trai" the author had a very subtle feeling about the sound of the stream as follows:
“Con Son stream murmurs
I hear it like the sound of a harp in my ears.”
The sound of the turmeric stream is so peaceful and poetic, like the strings of an lute playing melodious notes that captivate people's hearts. In the early years of the twentieth century, author Nguyen Khuyen also described the sound of streams like this:
“There are also times when I play at a tourist destination
The sound of the stream gurgling behind the pass..."
In each verse, a different scene, sound, and music is presented, demonstrating the sophistication of each author's feelings and observations. However, in general, the authors, whether Ho Chi Minh or Nguyen Khuyen, feel that the sound of streams and gurgling water is an extremely passionate sound, evoking many emotions in people.
And no matter the circumstances, author Ho Chi Minh always has a heavy heart for the country, in his heart there is always an inconsolable feeling that is the destiny of the nation and the country.
In the poem "Can't Sleep" Uncle Ho wrote as follows:
“One watch, two watches, again three watches
Tossing and turning, wondering about unsuccessful sleep
The fourth and fifth watch just took a nap
The five-pointed yellow star is dreamy all around.”
This is not the first time people have lost sleep because of the mountains and rivers, because perhaps tonight, like thousands of other nights, our Uncle Ho will have difficulty sleeping when thinking about the big picture and the fate of the Vietnamese people. Although people are seeing an extremely poetic scene, like a fairyland on earth with clear, bright moonlight, clear stream sounds like the singing of a village girl, images of grass, trees and flowers. The leaves are extremely poetic, reminiscent of a fairyland. But even though he lived in such a charming setting, our Uncle Ho still did not feel his soul at peace, to admire the scenery, or to sleep deeply. In such a poetic and erotic situation, our Uncle Ho still feels heavy-hearted and filled with sadness.
This shows the strong love people have for their homeland and the nation. A humane heart that loves the country and its people boundlessly. He deserves to be our beloved president, leader of our entire people, worthy of being the godfather of the entire Vietnamese nation.
|
Gợi ý
Học xong văn bản “Chiếc là cuối cùng” qua ngòi bút của nhà văn người Mĩ – O. Hen – ri, hình ảnh cụ Bơ – men với “kiệt tác đời mình” cứ đọng mãi trong lòng người đọc về những giá trị nhân văn hết sức cao đẹp.
Là một họa sĩ nghèo, tuổi đã già, sống một mình ở tầng dưới chung căn hộ với hai cô họa sĩ trẻ: Xiu và Giôn – xi.
Cả một đời làm nghệ thuật, cụ khát khao hoàn thành một kiệt tác.
Nhưng cái nghèo cứ đến, thời gian thì nhanh chóng trôi qua, hoài bão của cụ vẫn chưa thực hiện được.
Vốn đầy lòng trắc ẩn, thương người nên cụ Bơ – men vô cùng lo lắng khi biết tình trạng của Giôn – xi.
Cụ lo sợ cái suy nghĩ vẩn vơ, tuyệt vọng của cô họa sĩ trẻ sẽ khiến cô phải lìa xa cõi đời này khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống.
Nhìn từng chiếc lá cứ rụng dần theo mùa đông và chỉ còn một chiếc trơ trọi trên cành, cụ lặng lẽ âm thầm thực hiện một công việc.
Tối hôm ấy, thời tiết thật khắc nghiệt, gió mưa dữ dội, bằng tình thương, bằng tài năng, cụ đã vượt qua tất cả để hoàn thành tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng”.
|
Suggest
After studying the text "The Last Car" through the pen of American writer - O. Hen - ri, the image of Mr. Bo - men with "the masterpiece of his life" remains forever in the reader's heart about human values. Extremely beautiful writing.
He is a poor artist, old, living alone on the lower floor sharing an apartment with two young artists: Xiu and Jon - xi.
All his life as an artist, he longed to complete a masterpiece.
But poverty kept coming, time passed quickly, and his ambition remained unfulfilled.
Full of compassion and love for people, Mr. Bo - men was extremely worried when he learned of Jon - xi's condition.
He was afraid that the young artist's wandering and desperate thoughts would cause her to leave this world when the last leaf fell.
Looking at each leaf gradually falling with the winter and only one left alone on the branch, he quietly performed a job.
That night, the weather was harsh, with fierce winds and rain. With love and talent, he overcame everything to complete the work "The Last Leaf".
|
Bài làm
Mùa thu, mùa của những làn gió mát, của những chiếc lá vàng rơi, của bầu trời xanh quang đãng và là mùa của những buổi tựu trường. Hằng năm, mùa thu cứ đến và mang theo những buổi tựu trường khác nhau nhưng có lẽ đối với tôi ấn tượng và đẹp đẽ nhất là những kỉ niệm vào buổi tựu trường năm lớp một- ngày đầu tiên tôi đi học.
Khi không khí vẫn còn mang hơi ấm của ánnh nắng mùa hè, tôi đã được mẹ chuẩn bị đồ dùng để vào học lớp một. Tôi còn nhớ lúc đó tôi cứ nghĩ lớp một là một thứ xa lạ, một thứ mà bố mẹ tôi, anh chị tôi và tất cả mọi người đều phải đi qua mới có thể trở thành người lớn, Mùi hương của quần áo mới trắng tinh, mùi hương của sách vở đầy màu sắc như tràn ngập không khí quanh tôi. Đêm trước khi đi học mọi thứ cần thiết đã được mẹ tôi chuẩn bị sẵn hết cả. Tôi còn nhớ mình đã không xem bộ phim yêu thích mà ngồi ngắm những thứ mẹ chuẩn bị với một tâm trạng nôn nao, bồi hồi và phấn khởi đến khó tả! Đêm đó tôi cứ trằn trọc không ngủ, thỉnh thoảng tôi còn quay sang mẹ hỏi rất nhiều thứ, cho đến khi không còn gì để hỏi tôi mớ yên tâm chìm vào giấc ngủ say.
|
Assignment
Autumn, the season of cool breezes, falling yellow leaves, clear blue skies and back-to-school days. Every year, fall keeps coming and bringing with it different back-to-school days, but perhaps the most impressive and beautiful for me are the memories of first-grade back-to-school days - my first day of school.
When the air was still warm from the summer sunlight, my mother prepared my supplies to go to first grade. I remember at that time I thought first grade was a strange thing, something that my parents, my siblings and everyone had to go through to become adults. The scent of new white clothes. The scent of colorful books seemed to fill the air around me. The night before going to school, my mother had prepared everything necessary. I still remember not watching my favorite movie but sitting and watching what my mother prepared with an indescribable feeling of excitement, excitement and anticipation! That night I couldn't sleep, sometimes I turned to my mother and asked many things, until there was nothing left to ask so I peacefully fell into a deep sleep.
|
Bài làm
Sài Gòn tháng sáu có những cơn mưa rả rích, chợt đến, chợt đi thật nhẹ nhàng nhưng luôn để lại trong lòng người những cảm xúc khó tả. Mưa luôn khiến tôi nhớ đến bà cố – một người hết mực yêu thương tôi. Và, trong một ngày mưa bà đã ra đi… Nhưng tất cả những gì về bà tôi luôn nhớ mãi…!
Dù bà đã đi thật xa nhưng tất cả những gì về bà vẫn luôn còn mãi trong tâm trí tôi. Từ khuôn mặt trái xoan phúc hậu đến mái tóc bạc trắng của bà tất cả đều toát lên vẻ hiền dịu đến lạ kì. Sau cặp kính trong veo luôn là đôi mắt hiền từ, chứa những tia nhìn yêu thương của bà dành cho mọi người dù rằng đôi mắt ấy ngày càng mờ đi vì bệnh của bà. Bà có một nụ cười mà không ai có được, một nụ cười đôn hậu lại vô cùng ấm áp, ẩn chứa biết bao tình yêu thương. Ngày còn nhỏ, không biết đã bao lần tôi thiếp đi trong giọng ru nhè nhe của bà. Giọng của bà rất nhỏ, hơi trầm, luôn rất từ tôn và khi nghe qua khiến người ta cảm thấy rung động và dễ chịu. Có lẽ tôi sẽ chẳng khi nào quên được cái dáng đi của bà! Cái dáng đi khom khom, từ từ, luôn phát ra tiếng động đều đều từ cây gậy bà hay chống. Không hiểu sao tôi thấy tiếng chống gậy của bà chạm xuống mặt đất nghe thật êm tai! Khắc sâu nhất vào tâm trí tôi là bóng lưng của bà. Cứ trưa nào tôi tới nhà thăm bà, hiện ra trước mắt toi đầu tiên luôn là cái bóng lưng gầy gầy đang ngồi khom khom làm việc gì đó bên cửa sổ đầy nắng. Mãi mãi hình ảnh của bà sẽ khắc sâu trong tâm trí tôi!
|
Assignment
Saigon in June has torrential rains that suddenly come and go gently but always leave people with indescribable emotions. Rain always reminds me of my great-grandmother - someone who loved me very much. And, on a rainy day she passed away... But I will always remember everything about her...!
Even though she has gone far away, everything about her is still forever in my mind. From her kind oval face to her white hair, everything exuded a strange gentleness. Behind her clear glasses are always her gentle eyes, containing her loving gaze for everyone even though those eyes are increasingly blurry due to her illness. She has a smile that no one else has, a kind and extremely warm smile, containing so much love. When I was a child, I don't know how many times I fell asleep to her soft lullaby voice. Her voice is very small, slightly deep, always very respectful and when heard makes people feel moved and comfortable. Perhaps I will never forget her gait! Her stooped, slow gait always made a steady sound from the cane she used to use. For some reason, I found the sound of her cane hitting the ground so soothing to my ears! The most deeply engraved in my mind is her back. Every afternoon when I go to her house to visit her, the first thing that appears before my eyes is always a thin back sitting hunched over doing something by the sunny window. Her image will forever be engraved in my mind!
|
Bài làm
Sân trường em có rất nhiều cây xanh có bóng mát cũng như tạo cảnh quan: cây bàng, cây điệp, hoàng hạ… Nhưng phải nói rằng đẹp hơn cả vẫn là cây phượng mà em yêu thích. Cây phượng vừa che bóng mát lại vừa nở những chùm hoa đỏ thắm mà chúng em vẫn thường thân mật gọi là “hoa học trò”.
Làm sao em quên được cảm xúc lần đầu tiên vào mái trường này, hình ảnh cây phượng sừng sững xòe tán lá rộng che phủ cả một góc trường tạo cho em một ấn tượng đẹp, sâu sắc. Phượng đứng cao phải đến năm sáu mét, xanh xanh những vòm lá vượt trên nóc nhà trường gợi cho người xem liên tưởng đến hình ảnh gà mẹ đang dang rộng đôi cánh ôm ấp đàn gà con…Càng đến gần, em càng được thưởng thức bầu không khí mát mẻ và màu xanh mươn mướt của lá cây. Em thích nhất là nhìn lên tán lá xòe ra như chiếc dù khổng lồ che mưa nắng. Những tán lá này được hình thành từ những phiến lá xanh xanh, be bé bằng móng tay, mọc đối xứng hai bên của một cọng dài dài. Có người nói rằng lá phượng ấy giống như đuôi của loài chim phượng nên từ đó phượng còn có tên là phượng vĩ vì vĩ là đuôi chim. Dưới vòm lá xanh mượt, chim chóc tha hồ làm tổ…Những chú chim hót líu lo, nhảy nhót chuyền hết cành này sang cành khác…Nhìn thân phượng mà thổn thức nỗi lòng trước vết cằn cỗi của thời gian khắc trên thân cây. Từ bao thế hệ học trò đến rồi đi, có mấy ai còn nhớ gốc phượng già này nhỉ?
Thật thương cho cây phượng! Vào mùa thu, tán lá chuyển dần sang màu vàng úa. Chỉ một cơn gió nhẹ là những phiến lá vàng ấy rơi lả tả như mưa bụi, bám đầy trên tóc các bạn gái. Sau những cơn mưa lá ấy, cây phượng trông thật khẳng khiu, chỉ trơ những cành cây trụi hết lá. Trông phượng mà thương biết mấy. Nhưng thật kì lạ! Như có một phép màu cho sự hồi sinh. Mùa xuân, các mầm xanh lại thi nhau mọc lên. Màu xanh nõn nà của các phiến lá báo hiệu một sức sống mới đang dâng trào. Đẹp nhất là vào mùa hè! Trông từ xa, cây phượng đỏ rực như một đám lửa. Em nhớ mãi những bông hoa đỏ thắm như những con bướm lửa. Mỗi khi có cơn gió thoảng qua, những cánh bướm lửa ấy lìa cành, chao mình trong gió, nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất như còn lưu luyến cuộc đời tươi đẹp ngắn ngủi của một kiếp hoa.
Em thầm cảm ơn cây phượng vì đã che bóng mát cho sân trường, tạo nên một bầu không khí trong lành, mát mẻ và thật dễ chịu cho chúng em học tập cũng như vui chơi. Em làm sao có thể quên những lúc cùng các bạn nhặt hoa phượng, tách từng cánh hoa ra và khéo léo dán thành hình con bướm ép vào vở. Mai sau nhìn lại sẽ nhớ ngay tới thuở học trò đầy mơ mộng…Đáng yêu biết mấy hình ảnh các bạn nam lại dùng nhụy hoa nhỏ hơn que tăm, làm trò chơi đá gà ngộ nghĩnh thú vị. Em thích nhìn những trái phượng khô, dèn dẹt, dài dài, đen như than. Đập vỏ ra lấy nhân bên trong rang lên ăn bùi bùi, thơm thơm, hấp dẫn hơn cả bắp rang. Em còn biết được rằng có một thành phố ở nước ta trồng phượng khắp các nẻo đường phố và khi hè về, trên cao nhìn xuống cả thành phố ngập tràn sắc đỏ màu hoa. Đó chính là Hải Phòng – Thành phố hoa phượng đỏ.
|
Assignment
My school yard has a lot of trees that provide shade as well as create landscapes: almond trees, scallop trees, royal trees... But I must say that the most beautiful is still the phoenix tree that I love. The phoenix tree provides shade while also blooming bunches of crimson flowers that we often affectionately call "student flowers".
How can I forget the feeling of the first time I entered this school? The image of the majestic phoenix tree spreading its wide foliage covering the entire corner of the school gave me a beautiful and profound impression. Phuong stands up to five or six meters tall, the green canopy of leaves on the roof of the school reminds viewers of the image of a mother hen spreading her wings to hug her chicks... The closer you get, the more you enjoy. The cool air and lush green of the leaves. My favorite thing is looking up at the foliage spreading out like a giant umbrella to cover the sun and rain. These foliage is formed from green leaf blades, as small as a fingernail, growing symmetrically on both sides of a long stem. Some people say that the phoenix leaf resembles the tail of a phoenix bird, so from then on, the phoenix is also called the phoenix tail because the tail is the bird's tail. Under the canopy of smooth green leaves, birds freely nest... The birds chirp and dance, jumping from branch to branch... Looking at the phoenix's trunk, my heart sobs at the barren mark of time engraved on the tree's trunk. Since many generations of students have come and gone, how many people still remember this old phoenix tree?
I feel so sorry for the phoenix tree! In the fall, the foliage gradually turns yellow. With just a light breeze, those yellow leaves fell like dust and rain, clinging to the girls' hair. After those rains of leaves, the phoenix tree looked really spindly, with only branches bare of leaves. I love the phoenix so much. But it's so strange! As if there was a miracle of revival. In spring, green shoots grow again. The tender green color of the leaves signals a rising new vitality. It's most beautiful in the summer! From a distance, the phoenix tree glows red like a fire. I always remember the red flowers like fire butterflies. Every time there is a breeze, those fire butterfly wings leave their branches, flutter in the wind, gently landing on the ground as if they are still attached to the short, beautiful life of a flower.
I silently thank the phoenix tree for shading the school yard, creating a fresh, cool and pleasant atmosphere for us to study and play. How can I forget the times when I and my friends picked up poinciana flowers, separated each petal and skillfully pasted them into a butterfly shape into a notebook. Looking back in the future, you will immediately remember your dreamy student days... How adorable are the images of boys using flower pistils smaller than toothpicks to make funny and interesting cockfighting games. I like to look at the dried, flat, long, coal-black phoenix fruits. Crack open the shell and roast the kernel inside, which is richer, fragrant, and more attractive than popcorn. I also learned that there is a city in our country that plants poinciana all over the streets and when summer comes, looking down on the whole city is filled with red flowers. That is Hai Phong - City of red poinciana flowers.
|
Gợi ý
Mâm cơm nhà ai có mùi dưa nấu cá
Có diếp rau thơm phi hành thái nhỏ
Ôi mâm cơm nóng xốt gia đình
Em vẫn thường mơ giữa những bước trường chinh
(Chử Văn Long)
Bữa cơm gia đình, nơi ấp ủ lòng khát khao, ước ao của người xa xứ. Chả thế mà khi làm việc giữa thảo nguyên bao la và hoang vu trong những ngày lao động hợp tác ở Nga, trong cái rét cắt da cắt thịt và cái Tết đầu tiên xa xứ, con người Hà Nội, khi nghĩ đến bữa cơm gia đình đã thốt lên:
Ôi cái Tết đầu tiên xa nước
Nhớ khôn nguôi vòng bánh chưng xanh
Bên mẹ cha, bên anh em bè bạn
Tối giao thừa tất cả vây quanh….
Đủ biết bữa cơm gia đình có sức lay động tâm hồn của người dân Việt đến mức nào!
Khi cuộc sống còn khó khăn thì bữa cơm gia đình là nơi tụ hội của lòng thông cảm, nhường nhau một chút, miếng ngon nhớ lâu và cả những bữa ăn đạm bạc nhưng chan chứa bao tình cảm của lòng nhân ái:
Đêm năm canh nằm nhớ cô đạnh
Má với cằm biết thủa nào nguôi
Thực ra thì họ đã thi vị hoá cuộc sống bần hàn bằng sự nhớ nhung của bữa cơm đạm bạc gia đình. Nhưng điều đó sẽ đáng yêu biết bao khi chỉ có bát canh độ (canh đậu) khi dùng phép nói lái, trở thành (cô đạnh)- hình ảnh đáng yêu của người con gái. Mắm với cà – má với cằm đi bên cạnh chữ biết thủa nào nguôi, cho ta liên tưởng tới má với cằm của người con gái và cảm giác âu yếm qua bữa ăn gia đình làm ta nhớ mãi khôn nguôi!
Bữa cơm gia đình là niềm ao ước của người xa nhà, xa xứ. Nó thúc đẩy người ta ruổi mạnh bước chân khi sắp về đến nhà, mong gặp gỡ sum họp gia đình. Là sự tưởng tượng những điều hạnh phúc nhỏ nhoi khi cuộc đời cô quạnh. Bữa cơm gia đình trong dân tộc Việt Nam là nét đẹp văn hoá cội nguồn – nơi thao thức ước ao trong mỗi con người. Dẫu có chuyện cười ra nước mắt của cô dâu ngồi đầu nồi chỉ biết đơm cơm cho mọi người….Nhưng đó chỉ là chuyện vui ban đầu cho một cuộc sống mới, bởi vì quanh mâm cơm là mọi câu chuyện tâm sự,chuyện vụ mùa, chuyện hàng xóm, là cảnh những người thân gắp mời nhau…làm cho không khí gia đình ấm cúng, làm cho người ta xích lại gần nhau, thương yêu nhau hơn. Tục ngữ có câu “Trời đánh, tránh bữa ăn”, nên quanh mâm cơm người ta ít nêu điều khúc mắc.
Bữa cơm gia đình, là nét đẹp văn hoá của người dân Việt, làm ta ấm lòng hơn khi đi xa nhớ về và vui vẻ hơn khi được quây quần. Nét đẹp đó là điều tự hào của người dân Việt, nét đẹp qua ẩm thực đó của người dân ta không trộn lẫn vào đâu được, nó lắng đọng cảm xúc trong mỗi con người. Chẳng thế mà đi theo nó có rất nhiều câu ca phụ trợ.
Trong bữa cơm gia đình, cũng như trong giao tiếp, con người phải ý tứ:
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
Lời chào cao hơn mâm cỗ
Bởi vì: Miếng ăn quá khẩu thành tàn.
Trong bữa ăn các cụ ta xưa đã biết, nhai kỹ làm chuyển hoá thức ăn có tác dụng tốt cho việc tiêu hoá, nên dặn:
Nhai kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa
Bữa cơm gia đình là sự gắn bó tình cảm, nhưng cũng thích hợp với điều kiện kinh tế của từng gia đình. Chính vì vậy phải cẩn trọng khi ăn những bữa cơm mời, bởi vì đôi khi “được một bữa cơm người, mất mười bữa cơm nhà”.
Người ta cũng thi vị hoá tình cảm vợ chồng nghèo qua các bữa cơm gia đình:
Râu tôm nấu với ruột bầu
|
Suggest
Whose dinner tray smells like melon and fish?
There is lettuce with chopped herbs and onions
Oh, the hot tray of rice with family sauce
I often dream between long marches
(Chu Van Long)
Family meals, a place to cherish the desires and wishes of expatriates. That's why, when working in the vast and desolate steppe during the days of cooperative labor in Russia, in the biting cold and the first Tet away from home, the people of Hanoi, when thinking about family meals, family exclaimed:
Oh, the first Tet away from home
I remember the round of green chung cake forever
With my parents, with my brothers and friends
New Year's Eve everyone surrounded...
Enough to know how much family meals have the power to touch the souls of Vietnamese people!
When life is still difficult, family meals are a gathering place of sympathy, giving each other a little, delicious pieces to remember for a long time, and even simple meals filled with feelings of kindness:
Every night I lie down and miss my aunt
My cheeks and chin know when to calm down
In fact, they have poeticized their poor life with the nostalgia of their family's meager meals. But how lovely would it be when only a bowl of soup (bean soup) when using colloquialisms, becomes (co danh) - the lovely image of a girl. Mam and eggplant - cheeks and chin go next to the word knowing forever, making us think of a girl's cheeks and chin and the feeling of affection through family meals makes us remember forever!
Family meals are the desire of people far away from home and country. It motivates people to step forward when they are about to return home, hoping to meet and reunite with family. It is the imagination of small happiness when life is lonely. Family meals in the Vietnamese people are the beauty of the original culture - a place of longing for each person. Although there is a story of a bride sitting at the head of the pot who only knows how to make rice for everyone... But that is just the first happy story for a new life, because around the dinner table are all the stories, confidants and affairs. Seasons, neighborhood stories, scenes of relatives inviting each other... make the family atmosphere cozy, bring people closer together, and love each other more. There is a proverb that says "When God strikes, avoid meals", so around the dinner table people rarely raise questions.
Family meals are a cultural beauty of the Vietnamese people, making us feel warmer when we come back from a long trip and happier when we are together. That beauty is the pride of the Vietnamese people, that beauty through our people's cuisine cannot be mixed, it deposits emotions in every person. That's why it has many supporting songs.
During family meals, as well as in communication, people must be considerate:
Eating and looking at the pot, sitting and looking at the direction
Saying hello is important
Because: If you eat too much, you will die.
During meals, our ancestors knew that chewing thoroughly helps metabolize food, which has a beneficial effect on digestion, so we should advise:
Chew thoroughly and feel full for a long time, plow deeply for better rice
Family meals are about emotional attachment, but are also suitable for each family's economic conditions. That's why you have to be careful when eating invited meals, because sometimes "you get one meal from others, but you lose ten meals at home".
People also poeticize the feelings of poor husband and wife through family meals:
Shrimp cooked with potting beard
|
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông
Thân em như chẹn lúa đòng đòng.
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
Bài làm
Có câu hát nào đẹp như ca dao dân ca? Ca dao dân ca đã hoà nhập một cách hồn nhiên, kỳ diệu vào tâm hồn tuổi thơ của mỗi người. Ca dao dân ca Việt Nam giàu bản sắc, vô cùng đẹp đẽ và phong phú. Nó là tiếng hát tâm tình nơi bờ xôi ruộng mặt, nơi bến cũ đò xưa… lưu luyến trong dân gian, phản ánh cuộc sống và ước mơ của nhân dân ta từ bao đời nay. Có những khúc hát ru ngọt ngào chứa chan tình nghĩa. Có những bài hát giao duyên say đắm lòng người. Có những bài ca nói về đất nước quê hương, với nương dâu, ruộng lúa, với hình ảnh duyên say đắm lòng người. Có những bài ca nói về đất nước quê hương, với nương dâu, ruộng lúa, với hình ảnh người dân quê một nắng hai sương, cần mẫn, hiền lành, đáng yêu. Cánh cò “bay lả bay la” đầm sen “lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”. Cô thôn nữ tát nước đêm trăng “múc ánh trăng vàng đổ đi”,… tất cả đều đem đến cho lòng ta biết bao niềm thương nỗi nhớ. Ấy là ca dao. Ấy là tuổi thơ của mỗi chúng ta.
Cánh đồng làng quê và hình ảnh cô thôn nữ được nói đến trong bài ca dao sau đây là hình ảnh thân thuộc đáng yêu đối với mỗi người Việt Nam từ ngàn xưa”
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Thân em như chẹn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
Ca dao thường được viết bằng thể thơ lục bát. Nhưng ở bài ca dao này, nhà thơ dân gian đã viết bằng thơ lục bát biến thể, mở rộng câu thơ thành 12, 13 từ. Cô thôn nữ không làm chuyện văn chương thơ phú như ai, mà cô chỉ nói lên những rung động, những cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên của lòng mình khi ngắm nhìn cánh đồng lúa thân yêu của làng minh. Trước mắt là cánh tồng lúa “bát ngát mênh mông… mênh mông bát ngát”, thắng cảnh cò bay, càng trông càng “ngó”, càng thích thú tự hào. Câu ca dài mãi ra cũng với chân trời, với sóng lúa:
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
“Ngó” gần nghĩa với với nhìn, trông, ngắm nghía… Từ “ngó” rất dân dã trong văn cảnh này gợi tả một tư thế say sưa ngắm nhìn không chán mắt, một cách quan sát kỹ càng. Cô thôn nữ “đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng” rồi lại “đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng”, dù ở vị trí nào, góc độ nào, cô cũng cảm thấy sung sướng tự hào trước sự “mênh mông bát ngát… bát ngat mênh mông” của cánh đồng thân thuộc. Hai tiếng “bên ni” và “bên tê” vốn là tiếng nói của bà con Thanh, Nghệ dùng để chỉ vị trí “bên này”, “bên kia”, được đưa vào bài ca thể hiện đức tính mộc mạc, chất phác của cô thôn nữ, của một miền quê. Nghệ thuật đảo từ ngữ: “mênh mông bát ngát // bát ngát mênh mông” góp phần đặc tả cánh đồng lúa rộng bao la, tưởng như không nhìn thấy bến bờ “lúa hai mùa cuộn sóng, đến chân trời”…Có yêu quê hương tha thiết mới có cái nhìn đẹp, cách nói hay như thế!
Tục ngữ có câu: “Ngắm núi, nhìn sông, trông đồng, trông chợ”. Nghĩa là ngắm nhìn sông núi để biết xứ lạ ít hay nhiều nhân tài; trông đồng, trông chợ mà biết miền quê giàu hay nghèo. Cánh đồng lúa là cảnh sắc của làng quê ta. Cánh đồng “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” nói lên sự giàu có của quê “em”. Bằng tấm lòng yêu mến, tự hào nơi chôn nhau cắt rốn của mình, mảnh đất đã thấm biết bao máu và mồ hôi của ông bà tổ tiên, của đồng bào từ bao đời nay thì nhà thơ dân gian mới có thể viết nên những lời ca mộc mạc mà đằm thắm nghĩa tình đọc lên làm xao xuyến lòng người như vậy. Câu ca không hề nói đén mà xanh và hương thơm của lúa, sắc trắng của cánh cò “chớp trắng” trên nền trời xanh bao la, mà ta vẫn cảm thấy cái ngào ngạt của “hương lúa nếp thơm nồng”, “mùa thu hương cốm mới”, nơi bờ ruộng mật quyện lấy tâm hồn ta. Nhờ thế, ta yêu thêm đất mẹ quê cha, với hoài niệm tuổi thơ:
“Đất hiền như tuổi thơ,
Cánh cò bay trong sắc trời lá mạ” (Lê Anh Xuân)
Hai câu tiếp theo nói về cô thôn nữ ra thăm đồng. Niềm vui sướng trào dâng trong long. Nhìn lúa tốt tươi rồi cô nghĩ về mình. Cô không mặc cảm thân phận mình là “hạt mưa sa”, “là tấm lụa đào”, là “củ ấu gai”…như ai đó, thân phận vui ít buồn nhiều. Trái lại, cô đã so sánh mình với chẹn lúa đòng đòng trên cánh đồng quê hương. “Chẹn lúa” còn gọi là dảnh lúa, một bộ phận của khóm lúa. “Chẹn lúa đòng đòng” nói lên sự trưởng thành, sinh sôi nẩy nở, hứa hẹn một mùa sây hạt, trĩu bông. Hình ảnh so sánh “Thân em như chẹn lúa đòng đòng” gợi tả một vẻ đẹp duyên dáng, xinh tươi, một sức lực căng tràn hứa hẹn. Đây là một hình ảnh trẻ trung, khoẻ khoắn, hồn nhiên nói về cô gái Việt Nam trong ca dao, dân ca:
“Thân em như chẹn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
|
“Standing on the side of the field, looking at the side of the field, vast and vast,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense
My body is like blocking rice fields.
Floating under the pink morning sun.
Assignment
Is there any song as beautiful as a folk song? Folk songs have innocently and magically integrated into each person's childhood soul. Vietnamese folk songs are rich in identity, extremely beautiful and rich. It is a sentimental song on the shores of fields, at old wharves of old boats... lingering in the folk, reflecting the lives and dreams of our people for many generations. There are sweet lullabies filled with love. There are love songs that captivate people's hearts. There are songs about the homeland, with mulberry fields, rice fields, with images of captivating charm. There are songs about the homeland, with its mulberry fields, rice fields, with the image of the countryside people who are both sunny and dewy, diligent, gentle, and lovely. The stork's wings "flirt" in the lotus pond "with green leaves and white flowers interspersed with yellow stamens". The village girl splashed water on a moonlit night, "scooping up the golden moonlight and pouring it away",... all of which bring so much love and nostalgia to our hearts. That's a folk song. That is the childhood of each of us.
The village fields and the image of the village girl mentioned in the following folk song are lovely and familiar images to every Vietnamese person since ancient times."
“Standing on the side of the field, looking at the side of the field, vast and vast,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense.
My body is like a block of rice,
Floating under the pink morning sun.
Folk songs are often written in six-eight verse form. But in this folk song, the folk poet wrote in six-eight variations, expanding the verse into 12 or 13 words. The village girl did not do poetic literature like anyone else, but she only expressed the vibrations and natural, innocent emotions of her heart when looking at the village's beloved rice fields. In front of us are rice fields, "immense... immensity", the sight of storks flying, the more we look, the more we "look", the more excited and proud we become. The song goes on forever with the horizon and the rice waves:
“Standing on the side of the field, looking at the side of the field, vast and vast,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense.
"Look" is close in meaning to look, look, admire... The very simple word "look" in this context describes a posture of passionately watching without getting tired of the eyes, a way of observing carefully. The village girl "stands next to the field and looks at the field" and then "stands next to the field and looks at the field". No matter what position or angle, she feels happy and proud at the "immenseness of the field". "vast... vast expanse" of familiar fields. The two words "beside ni" and "been numb" are the language of the Thanh and Nghe people, used to refer to the location "this side" and "that side", and are included in the song to express the rustic and simple virtues. of a village girl, of a countryside. The art of reversing words: "immense and immense // immense and vast" contributes to describing the vast rice fields, seemingly unable to see the shore "two seasons of rice rolling, reaching the horizon"... There is love Only the earnest homeland has such a beautiful look and such a beautiful way of speaking!
There is a proverb that says: "Look at the mountains, look at the river, look at the fields, look at the market". It means looking at the mountains and rivers to know whether a foreign country has more or less talented people; Look at the fields and markets to know whether the countryside is rich or poor. Rice fields are the scenery of our village. The "immense... immense" fields speak of the wealth of "my" hometown. Only with love and pride for the place of one's birth, the land that has absorbed so much blood and sweat from ancestors and compatriots for many generations, can folk poets write poems. The lyrics are simple but full of love when read, making people's hearts flutter. The song does not mention the greenness and fragrance of rice, the whiteness of the stork's wings "flashing white" against the vast blue sky, but we still feel the sweetness of the "fragrant scent of sticky rice", "autumn". The scent of new green rice flakes" on the edge of the honey field mingles with our souls. Thanks to that, we love our motherland more, with childhood nostalgia:
“The land is as gentle as childhood,
Stork wings fly in the sky of leaves" (Le Anh Xuan)
The next two sentences talk about a village girl visiting the fields. Joy welled up in my heart. Looking at the lush rice, she thought about herself. She does not feel guilty about her identity as "a raindrop", "a peach silk", "a thorny tuber"... like someone else, her fate is more or less happy, more or less sad. On the contrary, she compared herself to a rice field in her hometown. “Rice block” is also called rice block, a part of the rice clump. “Suppressing rice fields” speaks of maturity and proliferation, promising a season of sowing seeds and abundant flowers. The comparative image "Your body is like a block of rice" evokes a graceful, beautiful beauty, a promising strength. This is a youthful, healthy, and innocent image of a Vietnamese girl in folk songs and folk songs:
“My body is like a block of rice,
Floating under the pink morning sun.
|
Gợi ý
Từ xưa đến nay, lòng biết ơn là một truyền thống đạo lý của dân tộc ta. Ông cha ta đã luôn nhắc nhở, dạy bảo con cháu phải sống ân nghĩa thủy chung. Truyền thống đó đã được thể hiện rõ nét qua câu tục ngữ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
Thật vậy, câu tục ngữ đã cho ta một lời giáo huấn vô cùng sâu sắc. Khi ta ăn những trái cây chín mọng với hương vị ngọt ngào, ta phải nhớ tới công lao vun xới, chăm bón của người trồng. Khi ta uống ngụm nước mát trong thì ta phải nhớ tới người đã khơi nguồn, đào giếng. Từ hình ảnh ấy, người xưa luôn nhắc ta một vấn đề đạo đức sâu xa: trân trọng, biết ơn những người đi trước tạo ra những thành quả tốt đẹp mà ta đang được hưởng thụ.
Nâng bát cơm trên tay, người ta khuyên nhau đừng quên sự vất vả, một nắng hai sương của người nông dân:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”
Tấm áo ta mặc, ngôi nhà ta ở, kể cả những vật dụng hàng ngày ta sử dụng đều là sự lao động miệt mài của những người công nhân, nông dân. Sáng sáng, ta đi trên đường phố sạch đẹp cũng là sự vất vả cực nhọc của anh chị lao công:
“Tiếng chổi tre chị quét
Những đêm hè
Khi ve ve đã ngủ…”
(Tiếng chổi tre – Tố Hữu)
Những thành tựu văn hóa, nghệ thuật, di sản của dân tộc còn để lại cho đời sau hôm nay là do công sức, bàn tay, khối óc của những nghệ nhân lao động, sáng tạo không ngừng. Chúng ta là lớp người đi sau thừa hưởng những thành quả ấy, lẽ nào chúng ta lại lãng quên, vô tâm?
Đất nước ta tươi đẹp như ngày hôm nay là do công lao dựng nước của các vua Hùng. Dù có đi từ Nam ra Bắc, con cháu không quên ngày giỗ Tổ:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
Dân tộc ta đã trải qua bao khó khăn, vất vả mới gây dựng nên non sông gấm vóc Việt Nam. Là người thụ hưởng những thành quả đó, chúng ta phải biết ơn, sống ân nghĩa thủy chung.
Trải qua hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã đổ bao xương máu mới có ngày độc lập. Biết bao những người anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho non sông. Trong xã hội, ta nhận ơn của rất nhiều người. Lòng biết ơn không phải là một lời nói suông mà phải thể hiện bằng hành động cụ thể. Nhà nước ta có phong trào đền ơn đáp nghĩa, vận động nhân dân xây dựng ngôi nhà tình nghĩa, tình thương cho gia đình thương binh, liệt sĩ và các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Việc đền ơn đáp nghĩa này đã trở thành một bài học giáo dục thiết thực về đạo lý làm người. Cho nên mỗi người phải có ý thức bảo vệ và phát huy những thành quả ấy, nghĩa là ta vừa ăn quả của hôm nay, vừa là người trồng cây của ngày mai. Cũng từ đó, ta thấm thía hiểu được rằng ông bà, cha mẹ, thầy cô chính là người trồng cây, còn ta là người ăn quả. Vì vậy, ta cần phải thực hiện tốt bổn phận làm con trong gia đình, bổn phận người học trò trong nhà trường. Làm được như vậy là ta đã thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với những người đã hy sinh, thương yêu, lo lắng cho ta. Đây là việc làm không thể thiếu được ở thế hệ trẻ hôm nay.
Ngày nay, đời sống vật chất đã hiện đại, nhưng những nét đẹp thời xưa thì luôn được giữ gìn và càng ngày càng được tô điểm thêm. Bạn thử tưởng tượng xem, tuy thời nay phát triện rất khác xưa, nhưng trong mỗi gia đình điều không thể thiếu chính là ban thờ trang trọng với bát hương gia hương gia tiên để nhớ đến ông bà tổ tiên của chúng ta.
|
Suggest
From ancient times until now, gratitude is a moral tradition of our people. Our ancestors have always reminded and taught their children to be grateful and faithful. That tradition is clearly expressed through the proverb: "When eating fruit, remember the person who planted the tree."
Indeed, the proverb gives us an extremely profound teaching. When we eat ripe fruits with sweet flavors, we must remember the efforts of the growers in cultivating and fertilizing them. When we take a sip of cool, clear water, we must remember the person who started the source and dug the well. From that image, the ancients always remind us of a profound moral issue: respect and gratitude to those who went before us to create the good results that we are enjoying.
Holding a bowl of rice in their hands, people advise each other not to forget the hard work of farmers:
“Hey, bring a bowl full of rice
A flexible aromatic bitter seeds want to share"
The clothes we wear, the houses we live in, even the daily items we use are all the hard work of workers and farmers. Every morning, when we walk on the clean and beautiful streets, it is also the hard work of the workers:
“The sound of a bamboo broom sweeping
Summer nights
When the cicadas are asleep..."
(Sound of bamboo broom – To Huu)
The cultural and artistic achievements and heritage of the nation that are left behind for future generations today are due to the efforts, hands, and minds of artisans who work and create ceaselessly. We are the next class of people inheriting those achievements, so why do we forget and be indifferent?
Our country is as beautiful as it is today thanks to the efforts of the Hung Kings to build the country. Even if they go from South to North, descendants do not forget the death anniversary of their ancestors:
“No matter who goes back and forth
Remember the death anniversary of the 10th day of the third month"
Our people have gone through many difficulties and hardships to build the great brocade country of Vietnam. As beneficiaries of those achievements, we must be grateful and live faithfully.
After more than four thousand years of building and defending the country, our ancestors shed a lot of blood to achieve independence. So many heroic martyrs have fallen for the mountains and rivers. In society, we receive gratitude from many people. Gratitude is not an empty word but must be expressed through concrete actions. Our state has a movement to repay gratitude, mobilizing people to build houses of gratitude and love for families of war invalids, martyrs and heroic Vietnamese mothers. This act of gratitude has become a practical educational lesson about human morality. Therefore, each person must be conscious of protecting and promoting those achievements, meaning that we both eat the fruits of today and grow the trees of tomorrow. From then on, we deeply understand that our grandparents, parents, and teachers are the ones who grow the trees, and we are the ones who eat the fruit. Therefore, we need to perform well our duties as children in the family and our duties as students in school. By doing so, we have shown our deep gratitude to those who have sacrificed, loved, and cared for us. This is an indispensable job for today's young generation.
Today, material life is modern, but the beauty of the past is always preserved and increasingly embellished. Just imagine, although today's development is very different from the past, in every family the indispensable thing is a solemn altar with family incense bowls to remember our ancestors.
|
Gợi ý
1. Mở bài:
Giới thiệu câu chuyện?
Cảm nghĩ của em về câu chuyện ấy?
Tham khảo: Chiều nay sau khi ăn cơm xong, cả nhà quây quần bên nhau nói cười vui vẻ. Bỗng dưng tôi chợt nhớ câu chuyện xảy ra sáng nay ở trường, một câu chuyện khá cảm động, tôi liển kể cho bố mẹ nghe.
2. Thân bài: Kể toàn bộ câu chuyện (kể kết hợp với miêu tả,biểu cảm và lời thoại giữa em và bố mẹ đan xen trong quá trình kể)
Mở đầu:
Bố mẹ biết không? Sáng nay ở trường con có một chuyện rất cảm động ạ.
Chuyện gì thế con…? Kể cho bố mẹ nghe nhé?
Dạ! Trong lớp con có một bạn tên là… (tả ngoại hình, trang phục, dụng cụ học tâp, ăn uống… giống như con nhà giàu ) học với bạn nhiều tháng mà không ai biết được hoàn cảnh thật sự của bạn nếu không có sự việc sáng nay…
Diễn biến:
Sáng nay, giờ ra chơi, trong khi mọi người chạy đùa, cười giỡn và tranh thủ xuống căn tin mua đồ ăn thì … chỉ đứng trâm ngâm, lặng lẽ vẻ mặt có phần bực bội chuyện gì đó…
Vừa lúc ấy có một người phụ nữ (tả ngoại hình, thái độ…) bước vào sân trường như tìm ai đó…
Chợt bất ngờ người ấy bước đến chỗ bạn … với ánh mắt. nét mặt… (tả, biểu cảm).
Mọi cặp mắt đều về bạn … và người phụ nữ, ai cũng đoán đó chính là mẹ của bạn hoặc có thể là người thân thiết.
Một sự ngạc nhiên vì không ai nghĩ bạn… lại có mẹ ăn mặc kham khổ trông thê lương thế…
Dường như mặc cảm trước lũ bạn nên bạn… đã…(kể hành vi, thái độ, lời nói của bạn…làm người mẹ đau lòng).
Người phụ nữ sững sờ, nghẹn ngào trước thái độ của bạn…
Thầy chủ nhiệm sau khi cho học sinh vào lớp đã mời người phụ nữ ấy vào văn phòng để hỏi thăm…
Không biết người phụ nữ ấy nói gì với thầy nhưng sau đó thầy lên lớp với khuôn mặt buồn bã, đôi mắt đỏ hoe dường như thầy vừa khóc, cả lớp ai nấy đều im lặng…(tả thêm không khí lớp).
Thầy kể cho lớp nghe về hoàn cảnh của bạn … (kể hoàn cảnh khó khăn, công việc của ba mẹ vất vả như thế nào…).
Thái độ của bạn…?
Thầy khâm phục mẹ bạn…?
Thầy trách, nhắc nhở khuyên nhủ bạn…?
Thầy nói chung với cả lớp về tình mẹ…?
Thái độ của cả lớp… (lắng nghe, vài bạn khóc…)?
Kết thúc:
Sau khi nghe thầy phân tích bạn … đã hiểu và khóc nức nở (sự hối hận, lời hứa của bạn …)
Bố mẹ biết không? Chẳng những bạn … hối hận mà trong lớp con nhiều bạn cũng đã tự xem lại mình về thái độ đối với mẹ cha…
Cảm xúc của bố mẹ sau khi nghe xong câu chuyện…?
3. Kết bài:
|
Suggest
1. Introduction:
Introducing the story?
What are your thoughts about that story?
Reference: This afternoon after eating, the whole family gathered together to talk and laugh happily. Suddenly I remembered the story that happened this morning at school, a quite touching story, I immediately told my parents.
2. Body: Tell the whole story (telling combined with descriptions, expressions and dialogue between children and parents interwoven in the telling process)
Preamble:
Do you know? This morning at school I had a very touching incident.
What's going on...? Tell your parents, okay?
Yes! In my class there is a friend named... (describe appearance, clothes, school supplies, food... like a rich child) who studied with him for many months without anyone knowing his true situation without him. this morning's incident...
Developments:
This morning, at recess, while everyone was running around, laughing and taking advantage of going down to the cafeteria to buy food,... they just stood there musing, quietly looking somewhat annoyed about something...
Just then, a woman (describe appearance, attitude...) walked into the school yard as if looking for someone...
Suddenly, that person suddenly walks towards you... with eyes. facial expressions... (description, expression).
All eyes are on you... and the woman, everyone guesses, is your mother or maybe someone close to you.
A surprise because no one thought you... would have a mother dressed so poorly and looking so miserable...
It seemed like you felt guilty in front of your friends, so you... did... (tell your behavior, attitude, words... that hurt the mother).
The woman was stunned and choked up at your attitude...
After letting the students into the classroom, the homeroom teacher invited the woman into his office to ask...
I don't know what the woman said to the teacher, but after that he went to class with a sad face, red eyes as if he had just cried, everyone in the class was silent...(describe more about the class atmosphere).
The teacher told the class about your situation... (tell about your difficult situation, how hard your parents' work is...).
Your attitude…?
I admire your mother...?
The teacher blames, reminds and advises you...?
The teacher talked to the whole class about mother's love...?
The attitude of the whole class... (listening, some people crying...)?
End:
After listening to the teacher's analysis, you... understood and cried (your regret, your promise...)
Do you know? Not only do you... regret it, but many of you in my class have also self-reflected on your attitude towards your parents...
What are your parents' feelings after hearing the story...?
3. Conclusion:
|
Gợi ý
I. Mở bài:
Cảnh gì? Cảnh ở đâu? Thấy vào dịp nào? Với ai?
Tình cảm của em đối với biển?
Tham khảo 1:Hè vừa qua, em được bố mẹ dẫn đi tham quan nhiều nơi, biết được nhiều cảnh đẹp nhưng cảnh biển Vũng Tàu để lại trong em nhiều cảm xúc và ấn tượng khó quên nhất.
Tham khảo 2: Biển Nha Trang là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng từ lâu, là niềm tự hào của con người và đất nước Việt Nam. Nhưng mãi đến hè vừa qua em mới có dịp tận mắt “chiêm ngưỡng” bức tranh thiên nhiên thơ mộng ấy. Một cảm xúc thật khó tả…!
II. Thân bài:
1) Tả bao quát: (một đoạn ngắn)
Lời ca ngợi quả thật không sai, nhìn từ xa, em không tin vào mắt mình, biển Nha Trang đẹp đến ngỡ ngàng.
Biển rộng mênh mông một màu xanh thẳm…
Bãi cát vàng trông mềm mại và uốn lượn như tấm lụa đào của cô tiên trên trời lỡ tay đánh rơi xuống trần gian…
Dọc theo bờ biển, những hàng cây đứng nghiêng mình như chào đón các vị khách đến từ phương xa…
Sâu lắng và dạt dào cảm xúc có lẽ là tiếng sóng, tiếng sóng vỗ vào bờ cát tạo âm thanh vừa sôi nổi vừa dịu dàng khiến lòng người càng thêm yêu biển.
Và gió nữa, từng cơn gió từ đại dương thổi vào tạo cho mọi người sự thoải mái, xua tan những mệt mỏi…
2) Tả chi tiết (theo trình tự thời gian): Sáng, chiều, tối. (3 đoạn)
Buổi sáng ở đây thật đẹp…
+ Mặt trời như một quả cầu lửa cầu lửa khổng lồ từ mặt biển nhô lên…
+ Xa xa, những chiếc thuyền đánh cá đang chạy vào bờ nhấp nhô trên sóng như những con hải âu chao lượn…
+ Mây trời trong xanh pha chút ửng hồng trông thật đẹp.
+ Cát dường như mịn màng hơn, nâng niu bước chân du khách…
+ Những hạt sương còn đọng trên lá cây, rơi xuống cát…
+ Biển đẹp quá!
Biển sôi động và nhộn nhịp nhất có lẽ lúc trời chiều…
+ Khi mặt trời đang dần xuống thấp, ánh nắng dịu lại…
+ Người người nô nức, hớn hở ra bờ biển để tắm mát nghịch đùa… (xây lâu đài cát, mò những con ốc sắc màu xinh xắn, chơi đuổi bắt, đá bóng, bơi lội tung tăng, ngâm mình trong làn nước mát lạnh trong xanh…)
+ Cảm giác thả mình trong làn nước mát, ngắm đại dương bao la, nhìn bầu trời cao vời vợi xanh thắm, mây trắng bồng bềnh…Thật thú vị làm sao!
+ Sau khi đùa nghịch tắm mát thỏa thích, mọi người lần lượt lên bờ vào những hàng ăn thưởng thức vị thơm ngon của các món hải sản nơi đây….giờ em vẫn còn nhớ về hương vị ấy.
Biển về đêm dường như yên tĩnh hơn…
+ Em cùng bố mẹ đi dạo dọc theo bờ biển…
+ Không khí thật dễ chịu làm sao…
+ Bầu trời hôm ấy đầy sao, những vì sao chi chít trên bầu trời như những hạt kim cương lấp lánh…
+ Vầng trăng như chiếc thuyền trôi bềnh bồng trên dòng sông ngân…(vầng trăng như quả bóng tròn lơ lững…)
+ Xa xa ngoài khơi, những ánh đèn ẩn hiện tạo nên một không gian vô cùng kì ảo…
+ Từng con sóng chạy vào bờ tung bọt trắng xóa, bố bảo em người ta gọi đó là sóng bạc đầu…
III. Kết bài:
|
Suggest
I. Introduction:
What scene? Where is the scene? On what occasion did you see it? With whom?
Your feelings for the sea?
Reference 1: Last summer, my parents took me to visit many places and saw many beautiful scenes, but the seascape of Vung Tau left me with the most unforgettable emotions and impressions.
Reference 2: Nha Trang Beach is a famous scenic spot for a long time, the pride of the people and country of Vietnam. But it wasn't until last summer that I had the opportunity to "admire" that poetic natural picture with my own eyes. An indescribable feeling...!
II. Body of the article:
1) General description: (a short paragraph)
The praise is truly not wrong, looking from afar, I couldn't believe my eyes, Nha Trang beach is surprisingly beautiful.
The sea is vast and deep blue...
The golden sand beach looks as soft and curving as the peach silk that a heavenly fairy accidentally dropped to earth...
Along the beach, rows of trees stand leaning as if welcoming guests from far away...
Deep and full of emotions is probably the sound of waves, the sound of waves hitting the sandy shore creates a sound that is both exciting and gentle, making people love the sea even more.
And the wind, every wind blowing from the ocean makes everyone comfortable, dispelling fatigue...
2) Detailed description (in chronological order): Morning, afternoon, evening. (3 paragraphs)
Mornings here are so beautiful…
+ The sun is like a giant fireball rising from the sea surface...
+ In the distance, fishing boats are running to shore bobbing on the waves like hovering seagulls...
+ The clear blue sky and clouds with a little blush look so beautiful.
+ The sand seems smoother, pampering visitors' footsteps...
+ Dew drops still on the leaves, falling to the sand...
+ The beach is so beautiful!
The sea is most vibrant and bustling perhaps in the afternoon...
+ When the sun is gradually lowering, the sunlight softens...
+ Everyone excitedly went to the beach to cool off and play... (building sand castles, finding pretty colorful snails, playing tag, playing soccer, swimming around, soaking in the cool water cold and blue...)
+ The feeling of immersing yourself in cool water, watching the vast ocean, looking at the high blue sky, floating white clouds... How exciting!
+ After enjoying a refreshing bath, everyone took turns going ashore to the restaurants to enjoy the delicious taste of the seafood dishes here... I still remember that taste now.
The sea at night seems quieter…
+ My parents and I walked along the beach...
+ The atmosphere is so pleasant…
+ The sky that day was full of stars, the stars were scattered in the sky like sparkling diamonds...
+ The moon is like a boat floating on the river... (The moon is like a round ball floating...)
+ Far away offshore, hidden lights create an extremely magical space...
+ Each wave runs to the shore, creating white foam. Dad told me people call it a white-headed wave...
III. End:
|
Gợi ý
1. Mở bài:
Giới thiệu về người định tả (Người ấy là ai? Tên gì? Quan hệ với em?…).
Tình cảm của em đối với người đó?
Tham khảo: (Mượn lời bài hát, câu thơ, ca dao tục ngữ hoặc hình ảnh, kỉ vật gợi nhớ…).
“trích lời bài hát, thơ…”
Mỗi khi nghe lời bài hát ngọt ngào quen thuộc ấy, lòng em bỗng bồi hồi xao xuyến nghĩ về người …. Một người đã…(yêu thương, quan tâm, chăm sóc, gần gũi, lo lắng, chia sẽ những buồn vui, dạy bảo…)…
2. Thân bài:viết theo từng đoạn (tả – hay (so sánh) – cảm (bộc lộ cảm xúc về những chi tiết mà em miêu tả, tuy nhiên không phải ý nào cũng so sánh và biểu cảm).
Đoạn 1: Tả ngoại hình.
Tuổi (… khoảng chừng …tuổi nhưng trông còn rất…).
Vóc dáng (có một thân hình cân đối, gọn gàng…).
Khuôn mặt (ưa nhìn, phúc hậu, xinh xắn, nghiêm nghị…)
Mái tóc (đen, dài thướt tha, mượt mà,chấm ngang vai, gọn gàng lịch sự, mỗi khi chải tóc…, khi đi gió thổi mái tóc bay…).
Vầng trán (cao cao, thể hiện sự thông minh…)
Đôi mắt (ấn tượng nhất có lẽ là đôi mắt, đôi mắt tròn, đen láy, ẩn chứa yêu thương, trìu mến, đôi ấy thể hiện điều gì khi em ngoan? (vui mừng, lấp lánh hạnh phúc,..), khi em mắc lỗi? (nghiêm nghị, buồn thăm thẳm…), đôi mắt dõi theo bước chân em tới trường, quả thật không sai khi người ta nói “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn…).
Nụ cười (tô điểm thêm nét đẹp cho khuôn mặt là nụ cười, nụ cười rất có duyên, lộ hàm răng trắng ngời và “đều như bắp” tạo tình cảm cho người đối diện, là nguồn động viên, là sự khoan dung mỗi khi em mắc lỗi, có đồng tiền…)
Giọng nói (trầm ấm, dịu dàng, khi vỗ về an ủi, lúc dạy bảo, tạo sự thân mật gần gũi với mọi người…).
Trang phục (miêu tả những trang phục khi ở nhà, lúc đi dự tiệc, đi làm, mỗi ngày đến lớp, đến trường…).
Đoạn 2: Tính tình, thái độ cư xử.
Chuyển ý: … chẳng những đẹp người mà tính tình…
Tính tình (hiền lành, vui tính, dễ mến,..)
Thái độ cử xử đối với mọi người:
+ Ông bà: hiếu thảo kính trọng…
+ Bà con làng xóm: hòa nhã, vui vẻ…
+ Đồng nghiệp: hòa đồng, sẵn sàng chia sẽ, giúp đỡ…
+ Học trò: yêu thương, lo lắng…
+ Con, cháu: yêu thương, quan tâm., chăm sóc…
(Lưu ý: tùy theo đối tượng miêu tả mà có thái độ cư xử với những người phù hợp…).
Đoạn 3: Sở thích thói quen công việc.
Sở thích gì? Và thực hiện như thế nào? (hát, làm thơ, đọc báo, vẽ, nghe nhạc, màu hồng…).
Thói quen nào? Đã bao lâu? Và thực hiện như thế nào? (thức khuya dọn dẹp, đọc sách trước khi ngủ, đi làm sớm, dậy sớm tập thể dục…). Thói quen ấy có lợi ích gi?
Công việc gì? Thực hiện như thế nào? Những thành tích đạt được? Ngoài công việc đó còn có công việc nào khác?…
Đoạn 4: Kỉ niệm ngắn giữa em và người ấy (khoảng 5,6 dòng).
Một lần em bịnh người ấy đã quan tâm lo lắng cho em khiến em cảm động…
Một lần em phạm lỗi làm người ấy buồn, mặc dù đã được tha thứ nhưng em vẫn cảm thấy hối hận ăn năn…
Em nhận được những bài học bổ ích gì từ người ấy và em thay đổi, tốt hơn…
3. Kết bài: Nêu nhận xét, cảm nghĩ, lời hứa của em về người đó.
Tham khảo:
Thật hạnh phúc biết bao khi được là… của…
|
Suggest
1. Introduction:
Introduce the person you intend to describe (Who is he? What is his name? How is he related to you?...).
My feelings towards that person?
Reference: (Borrow song lyrics, verses, folk songs, proverbs or images, memorabilia...).
"quote lyrics from songs, poems..."
Every time I hear the lyrics of that familiar sweet song, my heart suddenly flutters thinking about you... A person who has…(loved, cared for, cared for, been close to, worried about, shared joys and sorrows, taught…)…
2. Body of the essay: write in paragraphs (describe - or (compare) - feel (reveal emotions about the details you describe, but not all ideas are comparative and expressive).
Paragraph 1: Describe appearance.
Age (… about … years old but still looks very…).
Body shape (having a balanced, neat body...).
Face (good-looking, kind, pretty, serious...)
Hair (black, long, smooth, shoulder-length, neat and polite, every time you comb your hair..., when you walk the wind blows your hair...).
Forehead (high, showing intelligence...)
The eyes (the most impressive are probably the eyes, round, black eyes, containing love and affection, what do they show when the child is good? (joyful, sparkling with happiness,..), when you make a mistake? seriously, deeply sad...), your eyes follow your steps to school, it's not wrong when people say "eyes are the windows to the soul...).
Smile (addition to the beauty of the face is a smile, a very charming smile, revealing white teeth and "even like corn" creates affection for the opposite person, is a source of encouragement, is tolerance every day. when you make a mistake, there is money...)
Voice (warm, gentle, sometimes comforting, sometimes teaching, creating intimacy with people...).
Outfits (describe what you wear at home, at parties, at work, every day to class, to school...).
Paragraph 2: Personality and behavior.
Change of thought: ... not only beautiful in person but also in character...
Personality (gentle, funny, likable, etc.)
Attitude towards people:
+ Grandparents: filial piety and respect...
+ Villagers: gentle, cheerful...
+ Colleagues: sociable, ready to share, help...
+ Students: love, worry...
+ Children, grandchildren: love, care, care...
(Note: depending on the subject described, there is an appropriate attitude towards people...).
Paragraph 3: Preferences and work habits.
What interests? And how to do it? (sing, write poetry, read newspapers, draw, listen to music, color pink...).
Which habit? How long? And how to do it? (stay up late cleaning, read books before bed, go to work early, get up early to exercise...). What is the benefit of that habit?
What job? how to practice? What achievements? Besides that job, are there any other jobs?…
Paragraph 4: Short memories between you and that person (about 5 or 6 lines).
One time when I was sick, he took care of me and made me feel touched...
One time I made a mistake that made that person sad, even though I was forgiven, I still felt remorseful...
What useful lessons did I receive from that person and how did I change for the better...
3. Conclusion: State your comments, feelings, and promises about that person.
Reference:
How happy it is to be... of...
|
Gợi ý
1/ Mở bài:
Giới thiệu về dòng sông. (sông ở đâu? )
Nêu tình cảm của em đối với dòng sông.(yêu, quý, tình cảm sâu đậm, ấn tượng sâu sắc…).
Vì sao?
Mỗi khi nghe lời bài hát, lòng tôi lại bâng khuâng xao xuyến nghĩ về dòng sông quê ngoại. Nơi đã gắn bó với tôi biết bao là kỉ niệm suốt cả thời thơ ấu…
2/ Thân bài: viết thành từng đoạn nêu biểu cảm kết hợp miêu tả và lời kể.
Đoạn 1: Biểu cảm những đặc điểm tiêu biểu của dòng sông:
Nhìn từ xa, dòng sông…
Hàng cây xanh đứng nghiêng nghiêng mình soi bóng…
Những mái nhà ngói đỏ lấp ló dưới tán cây trông lặng lẽ, bình yên…
Tàu thuyền xuôi ngược chở hàng hóa như…
Gió từ sông thôi vào dìu dịu…
Có những cánh chim…
Trên sông từng chùm lục bình với sắc hoa tim tím…
Sóng ở sông không như ở biển, không ồn ào, dào dạt mà nhẹ nhàng…
Thích nhất là màu nước sông, quả thật “dòng sông mới điệu làm sao…” trong một ngày mà bao lần thay áo (tả sự thay đổi màu sắc của dòng sông theo từng thời điểm trong ngày…)
Xa xa, các bạn nhỏ đang tắm sông, tiếng nói tiếng cười vang vọng cả một vùng…
Thương sao người ngư dân…
Đoạn 2:Vai trò của dòng sông trong đời sống con người:
Sông đem đến nguồn nước tưới cho cây cối xanh tốt mượt mà…
Là đường giao thông êm ái mát mẻ, là sự kết nối giữa các tỉnh, vùng ở miền đồng bằng…
Sông cung cấp khoáng sản, nguyên liệu để người dân xây nhà, dựng cửa… (cát, đất bùn…)
Sông như người mẹ hiền tặng cho đàn con nguồn thủy sản đa dạng phong phú…(cá, tôm…)
Sông như người bạn tâm tình giúp cho người miền sông nước chia sẽ những buồn vui…(mỗi chiều thường ra bờ sông hóng gió…)
Những tình cảm của con người được nảy nở, gắn bó hơn qua những dịp gặp nhau ở bến sông…(tắm sông, đi chài, giặt đồ…)
Là nguồn vui của trẻ con sau những buổi chiều…(tắm mát nghịch đùa…)
Sông còn là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ nhà thơ sáng tác nên những tác phẩm ấn tượng sâu lắng…(ở tận sông Hồng em có biết…, khi hát về dòng đời, tôi thường nghĩ về dòng sông…)
Đoạn 3: Sự gần gũi gắn bó giữa em với dòng sông:
Tuổi thơ lớn lên bên cạnh dòng sông êm đềm con nước…
Quên sao được những trò chơi trẻ con…(chơi đánh trận, giấu cây lặn tìm…)
Nhớ làm sao mỗi lúc nước cạn cùng bà đi bắt con tôm con tép…
Nhớ nhất là một kỉ niệm trong những ngày đầu tiên tập bơi…(ngạt nước, uống nước…)
Giờ đây thì tất cả đã thành kỉ niệm và con sông là nơi lưu giữ những hình ảnh hồn nhiên tinh nghịch của tuổi thơ…
Đoạn 4: Biểu cảm trực tiếp về dòng sông.
Một ngày nào đó…
Sông hôm nay không còn trong lành mát mẻ…
– Ô nhiễm nguồn nước…
3/ Kết bài:
Dòng sông quê tôi chẳng những đẹp mà còn thơ mộng…
|
Suggest
1/ Introduction:
Introduction to the river. (where is the river?)
Describe your feelings for the river (love, respect, deep affection, deep impression...).
Why?
Every time I listen to the lyrics, my heart flutters thinking about my grandmother's hometown river. This place has been attached to me with so many memories throughout my childhood...
2/ Body of the essay: write into paragraphs giving expression, combining description and narrative.
Paragraph 1: Expresses the typical characteristics of the river:
Seen from afar, the river…
Rows of green trees stand sideways, reflecting their silhouettes...
The red tiled roofs peeking out from under the canopy of trees look quiet and peaceful...
Ships go back and forth carrying goods such as…
The wind coming from the river is gentle...
There are birds…
On the river are clusters of water hyacinths with purple flowers...
The waves in the river are not like those in the sea, they are not noisy, abundant but gentle...
My favorite is the color of the river's water, truly "how stylish the river is..." how many times does it change clothes in one day (describing the change in color of the river at each time of day...)
In the distance, children are bathing in the river, their voices and laughter echo throughout the entire area...
I feel sorry for the fisherman...
Paragraph 2: The role of rivers in human life:
The river provides a source of water for lush, green plants...
It is a smooth and cool road, a connection between provinces and regions in the delta...
The river provides minerals and raw materials for people to build houses, build doors... (sand, mud...)
The river is like a kind mother giving her children a rich variety of aquatic resources... (fish, shrimp...)
The river is like a confidant that helps people in the river region share their joys and sorrows... (every afternoon I often go to the river bank to enjoy the wind...)
Human feelings are developed and become closer through meetings at the riverbank... (bathing in the river, going fishing, washing clothes...)
It is a source of joy for children after afternoons... (bathing and playing...)
The river is also a source of inspiration for musicians and poets to create deeply impressive works... (in the Red River, did you know..., when I sing about life, I often think about the river...)
Paragraph 3: The closeness between you and the river:
Childhood growing up next to the peaceful river...
How can I forget the children's games... (playing war, hiding sticks and diving to find...)
Remember how every time the water dried up, I went with my grandmother to catch shrimp and shrimp...
What I remember most is a memory from the first days of swimming... (suffocating, drinking water...)
Now everything has become memories and the river is a place to preserve innocent and mischievous images of childhood...
Paragraph 4: Direct expression about the river.
Someday…
The river today is no longer fresh and cool...
- Water pollution…
3/ Conclusion:
The river in my hometown is not only beautiful but also poetic...
|
Gợi ý
1. Mở bài: giới thiệu
Một kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học (vui, buồn, buồn cười, thú vị…)
Cảm xúc của em mỗi khi nhớ lại…
Tham khảo: Dù gần bảy năm trôi qua, thời gian đủ dài để đưa nhiều câu chuyện chìm vào quên lãng. Nhưng lạ thay! Tôi vẫn nhớ như in về một sự việc buồn cười trong ngày đầu tiên đi học của mình. Ôi thương làm sao cái kỉ niệm hồn nhiên trong sáng ngây thơ ấy.
2. Thân bài: Viết thành 3 đoạn, kể toàn bộ câu chuyện theo bố cục ba phần: mở đầu, diễn biến, kết thúc các sự việc.
Làm sao tôi có thể quên cái ngày “quan trọng” ấy. Sáng hôm đó, trời trong xanh, mát dịu, lòng tôi nôn nao hồi hộp ngồi sau xe mẹ chở với những suy nghĩ vẩn vơ trong đầu…
Lúc đến trường, trái tim tôi dường như đập mạnh khi lần đầu tiên trông thấy mái trường rộng lớn khang trang và nổi bật với dòng chữ “Trường Tiểu học…”
Vì đã được “tôi luyện” qua ba năm “Mẫu giáo” nên tôi vốn dạn dĩ lại càng dạn dĩ hơn. Tuy nhiên khi thấy một vài bạn thút thít, tôi cũng chợt chạnh lòng…
Tụ tập trước sân trường, tôi bắt gặp nhiều gương mặt quen thuộc, những bạn đã học cùng tôi hồi mẫu giáo, và diễn biến câu chuyện cũng bắt đầu từ đây…
Như không tin vào mắt mình, đó chính là H – người bạn thân thiết nhất của tôi trong suốt hai năm học lớp mầm, lớp chồi.
Mặc dù không ở gần nhà nhau nhưng không biết vì sao tôi và H thân nhau lắm. Có gì cũng đem cho nhau ăn, cùng nằm ngủ cạnh bên nhau, khi chơi đùa cũng chỉ muốn bắt cặp với nhau thôi.
Chỉ tiếc là khi lên lớp lá, H chuyển về quê sau khi học được một tháng. Khi ấy, tôi khóc như mưa vì không còn gặp bạn, thậm chí còn chẳng muốn đi học nữa. Mẹ phải khuyên nhủ mãi tôi mới dịu lại…
Ngỡ là một giấc mơ, người bạn thân thiết của tôi đang đứng đó. Tuy có khác đôi chút, làn da ngăm đen hơn, người cũng ốm so với trước đây nhưng đôi mắt thì vẫn vậy – tròn xoe, đen láy với làn mi cong cong ấn tượng…
Không kiềm nén được cảm xúc, tôi chạy lại ôm chặt lấy H khóc nức nở, dường như nỗi nhớ bạn khiến tôi quên mất rằng có rất nhiều cặp mắt đang nhìn tôi…
H đứng im dường như không nhận ra tôi, hơi ngỡ ngàng đẩy nhẹ tôi ra và hỏi tôi một câu mà làm tim tôi đau nhói: “Bạn là ai? Bạn làm gì vậy?”
Lúc này, lấy lại bình tĩnh, tôi hỏi: “H không nhớ K à? Hai đứa mình học chung trường Mầm non … đây”.
H nhẹ nhàng đáp: “Xin lỗi bạn, mình tên T”
Tôi bắt đầu thấy ngại ngùng, xấu hổ, khi nhìn kĩ lại đúng là không phải H, mặc dù rất giống nhưng chỉ là người giống người mà thôi…
Tôi lí nhí xin lỗi rồi chạy đi chỗ khác lãng tránh, mặt mày đỏ gay…
Tôi như muốn chui xuống đất mà trốn vì sự nhầm lẫn tai hại này và thầm ước mong không để bạn thấy lại mình.
Thế rồi, “trái đất tròn” thật, khi vào lớp, thêm một lần tôi không tin vào mắt mình, T ngồi đó và cô chủ nhiệm còn xếp tôi ngồi cạnh với bạn. Thế mới “đau” chứ!
Sau đó, tôi với bạn dần dần quen nhau, giờ đây là đôi bạn thân thiết. Tôi thầm cảm ơn sự nhầm lẫn ấy để giờ đây tôi lại có một tình bạn đẹp.
Ôi cuộc đời vốn biết bao điều bất ngờ thú vị!
3. Kết bài:
Nêu nhận xét về kỉ niệm…
Cảm xúc trong em mỗi khi nhớ…
Lời ước, lời hứa của bản thân…
|
Suggest
1. Introduction: introduction
A memory of the first day of school (happy, sad, funny, interesting...)
My feelings every time I remember...
Reference: Although nearly seven years have passed, time is long enough to put many stories into oblivion. But strangely! I still vividly remember a funny incident on my first day of school. Oh how I love those innocent, pure memories.
2. Body: Write in 3 paragraphs, tell the entire story in a three-part layout: opening, development, and ending of events.
How could I forget that "important" day? That morning, the sky was clear and cool, I was anxiously sitting in the back of my mother's car with random thoughts in my head...
When I arrived at school, my heart seemed to beat strongly when I first saw the large, spacious school roof and the prominent words "Elementary School..."
Because I was "trained" through three years of "Kindergarten", my naturally bold personality became even bolder. However, when I saw a few of my friends sobbing, I suddenly felt sad...
Gathering in front of the school yard, I saw many familiar faces, friends who had studied with me in kindergarten, and the story began from here...
As if I couldn't believe my eyes, it was H - my closest friend during my two years in preschool and kindergarten.
Even though we don't live near each other's houses, I don't know why H and I are very close. They give each other everything to eat, they sleep next to each other, and when they play, they just want to pair up.
It's just a shame that when he graduated, H moved back to his hometown after a month of studying. At that time, I cried like rain because I couldn't see my friends anymore, and I didn't even want to go to school anymore. My mother had to persuade me a lot before I calmed down...
Thought it was a dream, my close friend was standing there. Although it's a little different, the skin is darker, the body is thinner than before, but the eyes are still the same - round, black with impressive curved eyelashes...
Unable to control my emotions, I ran back and hugged H tightly, sobbing. It seemed like missing him made me forget that there were many eyes looking at me...
H stood still, seemingly not recognizing me. A little surprised, he gently pushed me away and asked me a question that made my heart ache: "Who are you?" What did you do?"
At this point, regaining composure, I asked: "H don't remember K?" We both go to the same Kindergarten... here".
H gently replied: "Sorry, my name is T."
I started to feel shy and embarrassed. When I looked closely, it was not H. Even though it was very similar, it was just the same person...
I mumbled an apology then ran away, my face turning red...
I wanted to crawl under the ground and hide because of this disastrous mistake and secretly wished that I wouldn't be seen again.
Then, the "world is really round", when I entered class, once again I couldn't believe my eyes, T was sitting there and the homeroom teacher even put me next to my friends. That's what "hurts"!
After that, my friend and I gradually got to know each other and are now close friends. I silently thank that mistake so that I now have a beautiful friendship.
Oh life is full of interesting surprises!
3. Conclusion:
Comment on memories...
The feeling inside me every time I remember...
My wishes, my promises...
|
Gợi ý
1. Mở bài:
Giới thiệu nụ cười của mẹ…
Cảm nghĩ của em về nụ cười ấy…
Tham khảo: Vẫn biết thế gian có muôn vàn vẻ đẹp nhưng có lẽ đối với tôi, nụ cười của mẹ đẹp nhất trần đời. Bạn sẽ cười khi tôi nói thế, thật sự là không biết tự bao giờ tôi đã yêu nụ cười của mẹ. Mặc dù, mẹ không đẹp như bao người khác nhưng tôi lớn khôn, biết yêu thương, trưởng thành như ngày hôm nay, nụ cười ấy luôn dõi theo từng bước chân, hơi thở…
2. Thân bài: viết thành 4 đoạn (kể + tả + biểu cảm)
Biểu cảm về những đặc điểm về nụ cười của mẹ:
Nụ cười rất có duyên (tả nụ cười: tươi như hoa, lúm đồng tiền, hàm răng trắng ngời, tô điểm thêm vẻ đẹp cho khuôn mặt xinh xắn, hiền hậu của mẹ…)
Bà kể ngày xưa, mẹ không đẹp nhất nhưng nụ cười của mẹ lại làm xao xuyến bao chàng trai, trong đó có bố…
Biểu cảm về vai trò của nụ cười ấy đối với gia đình, làng xóm…
Giúp gia đình vượt qua khó khăn…nụ cười lạc quan
Gắn kết thành viên trong gia đình…nụ cười yêu thương
Tạo bầu không khí ấm áp vui tươi…nụ cười tươi vui
Bữa ăn dường như ngon hơn…nụ cười trìu mến…
Ông bà cảm thấy vui, hài lòng…nụ cười hiếu thảo
Tạo mối quan hệ tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm…nụ cười xã giao…
Sự gần gũi giữa em và nụ cười của mẹ:
Nụ cười nhìn theo em vào lớp trong những ngày đầu…nụ cười quan tâm
Khi em buồn, nụ cười của mẹ an ủi- nụ cười chia sẽ…
Là nguồn động viên để em vượt qua những khó khăn…
Cùng vui với những thành tích em đạt được.. nụ cười đồng điệu
Làm sao quên được, lần đầu tiên đứng trên bục lãnh thưởng, nhìn mẹ cười – nụ cười tự hào..
Trong suốt quãng thời gian qua, nụ cười ấy luôn song hành cùng em…
Biểu cảm trực tiếp:
Thích nhất mỗi lúc hai bố con nghịch đùa bên nhau, mẹ mỉm cười, nụ cười hạnh phúc gia đình…
Chính vì thế tôi rất sợ những lúc mẹ không cười, thiếu nụ cười ấy tôi cảm thấy…
Khi nhớ về mẹ, tôi nhớ trước hết là nụ cười…
Nếu một ngày nào đó, tôi không dám nghĩ…đó có lẽ là ngày buồn nhất trong cuộc đời mình…
3. Kết bài
Nhận xét về nụ cười ấy…
|
Suggest
1. Introduction:
Introducing Mom's Smile...
My thoughts on that smile...
Reference: I know that the world has countless beauties, but perhaps for me, my mother's smile is the most beautiful in the world. You will laugh when I say that, I honestly don't know when I fell in love with my mother's smile. Although my mother is not as beautiful as many other people, I grew up, learned to love, and became as mature as I am today, that smile always follows every step, every breath...
2. Body: write into 4 paragraphs (telling + describing + expressing)
Expressive characteristics of mother's smile:
A very charming smile (smile description: bright as a flower, dimples, white teeth, adding beauty to the mother's pretty, gentle face...)
She said that in the past, her mother was not the most beautiful, but her smile made many guys flutter, including her father...
Expressing the role of that smile to the family, the village...
Helping families overcome difficulties...optimistic smile
Connecting family members...a loving smile
Create a warm and joyful atmosphere...happy smiles
The meal seems to taste better…affectionate smile…
Grandparents feel happy, satisfied...filial smiles
Create good relationships about neighborly love...social smiles...
The closeness between you and your mother's smile:
The smile that followed me into class in the first days...a caring smile
When I'm sad, my mother's smile comforts me - a sharing smile...
A source of encouragement for me to overcome difficulties...
Let's be happy with the achievements I have achieved.. same smile
How can I forget, the first time I stood on the podium receiving an award, watching my mother smile - a proud smile...
During all this time, that smile has always accompanied me...
Direct expression:
I like it best every time father and son play together, mother smiles, the happy family smile...
That's why I'm so scared when my mother doesn't smile, without that smile I feel...
When I remember my mother, I remember first of all her smile...
If one day, I don't dare to think... that would probably be the saddest day of my life...
3. Conclusion
Commenting on that smile…
|
Gợi ý
1/ Mở bài
Giới thiệu về loài cây em yêu (Cây gì? Ai trồng? Trồng ở đâu?…)
Vì sao em yêu loài cây ấy? (gắn bó kỉ niệm, ý nghĩa của cây…)
“Những chiếc giỏ xe, chở đầy hoa phượng. em chở mùa hè của tôi đi đâu…”. Mỗi lần nghe những giai điệu du dương và quen thuộc ấy từ giọng ca ngọt ngào của mẹ, lòng tôi thấy nao nao bồi hồi nghĩ về một loài hoa mà tôi hằng yêu quý. Loài hoa tượng trưng cho tuổi học trò hồn nhiên trong sáng vô tư…
2/ Thân bài: Viết thành từng đoạn biểu cảm kết hợp miêu tả xen lẫn lời kể.
Đoạn 1: Biểu cảm về những đặc điểm tiêu biểu của cây phượng (thân, gốc rễ, lá, hoa, trái…)
– Làm sao em quên được cảm xúc lần đầu tiên vào mái trường này, hình ảnh cây phượng sừng sững xòe tán lá rộng che phủ cả một góc trường tạo cho em một ấn tượng đẹp, sâu sắc.
– Phượng đứng cao phải đến năm sáu mét, thân to khoảng vòng tay một người lớn, cành lá xanh um…
– Thích nhất là nhìn lên tán lá xòe ra như chiếc dù khổng lồ che mưa nắng…
– Những tán lá này được hình thành từ những phiến lá xanh xanh, be bé bằng móng tay, mọc đối xứng hai bên của một cọng dài dài.
– Có người nói rằng lá phượng ấy giống như đuôi của loài chim phượng nên từ đó phượng còn có tên là phượng vĩ vì vĩ là đuôi chim.
– Dưới vòm lá xanh mượt, chim chóc tha hồ làm tổ…Những chú chim hót líu lo, nhảy nhót chuyền hết cành này sang cành khác…
– Nhìn thân phượng mà thổn thức nỗi lòng trước vết cằn cỗi của thời gian khắc trên thân cây. Từ bao thế hệ học trò đến rồi đi, có mấy ai còn nhớ gốc phượng già này nhỉ?
– Đẹp nhất là vào mùa hè! Trông từ xa, cây phượng đỏ rực như một đám lửa.
– Em nhớ mãi những bông hoa đỏ thắm như những con bướm lửa. Mỗi khi có cơn gió thoảng qua, những cánh bướm lửa ấy lìa cành, chao mình trong gió, nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất như còn lưu luyến cuộc đời tươi đẹp ngắn ngủi của một kiếp hoa.
Đoạn 2: Vai trò của phượng đối với đời sống con người:
– Em thầm cảm ơn cây phượng vì đã che bóng mát cho sân trường, tạo nên một bầu không khí trong lành, mát mẻ và thật dễ chịu cho chúng em học tập cũng như vui chơi.
– Em làm sao có thể quên những lúc cùng các bạn nhặt hoa phượng, tách từng cánh hoa ra và khéo léo dán thành hình con bướm ép vào vở. Mai sau nhìn lại sẽ nhớ ngay tới thuở học trò đầy mơ mộng…
– Đáng yêu biết mấy hình ảnh các bạn nam lại dùng nhụy hoa nhỏ hơn que tăm, làm trò chơi đá gà ngộ nghĩnh thú vị.
– Em thích nhìn những trái phượng khô, dèn dẹt, dài dài, đen như than. Đập vỏ ra lấy nhân bên trong rang lên ăn bùi bùi, thơm thơm, hấp dẫn hơn cả bắp rang.
– Em còn biết được rằng có một thành phố ở nước ta trồng phượng khắp các nẻo đường phố và khi hè về, trên cao nhìn xuống cả thành phố ngập tràn sắc đỏ màu hoa. Đó chính là Hải Phòng – Thành phố hoa phượng đỏ.
– Hình ảnh của phượng gắn liền năm tháng học trò, có lẽ thế nên phượng còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhạc sĩ, nhà thơ sáng tác văn chương, bài hát như mấy ai không xao xuyến khi nghe “Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng, em chở mùa hè của tôi đi đâu…”
Đoạn 3: Sự gần gũi giữa em với phượng
– Thật thú vị làm sao! Dưới tán lá phượng, em ngồi ôn bài, học bài không biết mệt.
– Những khi nắng gắt, phượng che bóng mát cho em nô đùa ngoài sân.
– Những lúc mưa to, tán lá phượng cản bớt những giọt nước mưa như thác đang ào ào trút xuống.
– Cũng dưới gốc phượng này em có một tình bạn, chúng em cùng trao đổi bài học cũng như động viên và chia sẻ cho nhau những buồn vui trong cuộc sống, chỉ tiếc một điều giờ bạn đã đi xa…
Đoạn 4: Biểu cảm trực tiếp.
– Nếu một ngày nào đó…(những ngày hè không còn dáng phượng)
– Ước mong sao thành phố mình trồng phương khắp các nẻo đường…
|
Suggest
1/ Open the lesson
Introducing my favorite tree (What tree? Who grows it? Where does it grow?...)
Why do you love that tree? (attached to memories, meaning of trees...)
“The carts, filled with poinciana flowers. I carry my summer go…". Every time I hear those melodious and familiar melodies from my mother's sweet voice, I feel nostalgic thinking about a flower that I always love. The flower symbolizes the innocent, pure and carefree school age...
2/ Body: Write in expressive paragraphs, combining description and narration.
Paragraph 1: Expressing the typical characteristics of the phoenix tree (stem, roots, leaves, flowers, fruits...)
– How can I forget the feeling of the first time I entered this school? The image of the majestic phoenix tree spreading its wide foliage covering the entire corner of the school gave me a beautiful and profound impression.
– Phuong stands five or six meters tall, its body is about the size of an adult's arm, its branches are green...
– My favorite thing is looking up at the foliage spreading out like a giant umbrella to cover the sun and rain...
– These foliage is formed from green leaf blades, as small as a fingernail, growing symmetrically on both sides of a long stem.
- Some people say that the phoenix leaf resembles the tail of a phoenix bird, so from then on, the phoenix is also called the phoenix tail because the tail is the bird's tail.
– Under the canopy of smooth green leaves, birds freely build their nests... The birds chirp and dance, jumping from branch to branch...
- Looking at the phoenix's trunk, my heart sobbed at the barren mark of time engraved on the tree's trunk. Since many generations of students have come and gone, how many people still remember this old phoenix tree?
– It's most beautiful in the summer! From a distance, the phoenix tree glows red like a fire.
– I always remember the crimson flowers like fire butterflies. Every time there is a breeze, those fire butterfly wings leave their branches, flutter in the wind, gently landing on the ground as if they are still attached to the short, beautiful life of a flower.
Paragraph 2: The role of phoenix in human life:
– I silently thank the phoenix tree for shading the school yard, creating a fresh, cool and pleasant atmosphere for us to study and play.
– How can I forget the times when I and my friends picked up poinciana flowers, separated each petal and skillfully pasted them into a butterfly shape into a notebook. Looking back in the future, you will immediately remember your dreamy student days...
– How adorable are the images of men using flower pistils smaller than toothpicks to make fun and interesting cockfighting games.
– I like to look at the dried, flat, long, coal-black phoenix fruits. Crack open the shell and roast the kernel inside, which is richer, fragrant, and more attractive than popcorn.
– I also learned that there is a city in our country where poinciana trees are planted all over the streets and when summer comes, looking down on the whole city is filled with red flowers. That is Hai Phong - City of red poinciana flowers.
– The image of the phoenix is closely associated with the years of schooling, perhaps that is why the phoenix is also an endless source of inspiration for musicians and poets who compose literature and songs, like those who are not moved when listening to "Baskets". The car is full of poinciana flowers, where are you taking my summer..."
Paragraph 3: The closeness between you and the phoenix
– How interesting! Under the canopy of phoenix leaves, I sat and studied tirelessly.
– When the sun is hot, the phoenix provides shade for me to play in the yard.
- During heavy rains, the phoenix leaves block the raindrops that are pouring down like a waterfall.
- Also under this phoenix tree, I have a friendship, we exchange lessons as well as encourage and share each other's joys and sorrows in life, the only regret is that now you are gone...
Paragraph 4: Direct expression.
– If one day… (summer days no longer look like a phoenix)
– I wish my city would plant trees on every street…
|
Gợi ý
Mở bài:
Giới thiệu về những vui buồn tuổi thơ.
Những tâm tư tình cảm của mình mỗi khi nhớ lại…
Tham khảo: Nhiều năm đã trôi qua nhưng trong lòng tôi vẫn còn giữ mãi khoảng trời thơ ấu ngày nào. Thật vậy!Làm sao có thể quên được những vui buồn thuở ấy bên mẹ, bên cha và cuộc sống khó khăn vất vả trăm bề.
Thân bài:
Đoạn 1: biểu cảm về nỗi buồn:
Gia đình khó khăn, thiếu thốn…
Mẹ cha vất vả thức khuya dậy sớm…
Không có quần áo đẹp…
Thèm những đồ ăn ngọn nhưng…
Bị bạn bè coi thường…
Không có đồ chơi…
Đoạn 2: biểu cảm về niềm vui:
Tuy nghèo nhưng căn phòng đầy ấp tiếng cười…
Mỗi lần mẹ đi chợ về mua bánh …(những chiếc kẹo nhỏ nhưng… ăn ngon, vui mừng…)
Bố đi làm vẫn không quên ngày sinh nhật (chiếc bánh kem nhỏ không đủ một người ăn, vài ngọn nến lung linh nhưng sao mà vui thế!)
Bố mẹ luôn động viên, nhắc nhở dạy bảo… con đạt điểm 10 vui về khoe, mẹ vui, bố cười…
Mỗi đêm, mẹ thường kể chuyện con nghe, đưa con vào thế giới những câu chuyện thần tiên…
Niềm vui trẻ thơ là những đồ chơi do bố tự làm…
Đoạn 3: biểu cảm trực tiếp
Giờ đã lớn…
Cuộc sống khá hơn…
Nhưng không còn những niềm vui như thuở ấy…
Bố mẹ tất bật tiếp khách, công tác…
Quên hỏi thăm con…
Bố không còn làm lồng đèn…
Sinh nhật đôi khi bị quên…
Chính vì thế mà tôi thèm trở lại thuở trước đây….
|
Suggest
Opening:
Introduction to the joys and sorrows of childhood.
My feelings every time I remember...
Reference: Many years have passed but in my heart I still keep the memories of my childhood. Indeed! How can we forget the joys and sorrows of those times with my mother, father, and the difficult life of countless hardships?
Body of the article:
Paragraph 1: expression of sadness:
Difficult, needy families...
My mother and father worked hard, staying up late and waking up early...
No nice clothes…
Craving for delicious foods but…
Being despised by friends...
No toys…
Paragraph 2: expression of joy:
Although poor, the room was filled with laughter...
Every time my mother comes home from the market to buy cakes... (small candies but... delicious, happy...)
Dad went to work and still didn't forget his birthday (the small cake wasn't enough for one person to eat, a few flickering candles but it was so fun!)
Parents always encourage, remind and teach... the child who scores 10 is happy to show off, the mother is happy, the father smiles...
Every night, my mother often tells me stories, taking me into the world of fairy tales...
Children's joy is toys made by their father...
Paragraph 3: direct expression
Grown up now…
Life gets better…
But there is no more joy like back then...
Parents are busy receiving guests, working...
Forgot to ask about you...
Dad no longer makes lanterns...
Birthdays are sometimes forgotten...
That's why I want to go back to the old days...
|
Gợi ý
– Trong kho tàng văn học Việt Nam có biết bao bài thơ nói về tình bạn nhưng tiêu biểu và chân thành sâu sắc nhất có lẽ chính là “Bạn đến chơi nhà” của Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến.
Người ta thường nói “Yêu nhất là tình cảm của mẹ, mạnh mẽ là tình cảm của cha, thân thiết là tình cảm anh em và thiêng liêng, bền chặt, lâu dài nhất vẫn là tình bạn”.
Là một nhà thơ chân chất nghĩa tình sống giàu tình cảm, Nguyễn Khuyến thật sự đã để lại cho đời những minh chứng hùng hồn về tình bạn đẹp bất hủ.
Bài thơ kể một tình huống trớ trêu không có gì đãi bạn pha lẫn nét hóm hỉnh, tác giả bày tỏ về cảm xúc của mình với một người bạn quen nhau chốn quan trường, nay tình cờ gặp lại nơi thôn quê thanh bình – nơi chôn rau cắt rốn của ông.
Từng câu từ trong bài giản dị mà thanh cao, thể hiện tình cảm thắm thiết, gắn bó, mặn mà, đầy chất nhân văn và kết thúc bằng cụm từ “ta với ta”, nói lên sự hòa hợp giữa hai tâm hồn tri âm tri kỉ, tình bạn đẹp vượt lên trên tất cả những của cải vật chất tầm thường.
Bài thơ của cụ “Tam Nguyên” đã giúp cho ta nhìn nhận nhiều điều mà bấy lâu nay ta chưa hiểu hết.
Vẫn biết tình bạn đã giúp ta vượt qua những khó khăn, chia sẽ bao buồn vui, hạnh phúc, bạn là người đến bên ta lúc ta cần nhất.
|
Suggest
– In the treasury of Vietnamese literature, there are many poems about friendship, but the most typical and deeply sincere is probably "Friends come to visit" by Tam Nguyen Yen Do - Nguyen Khuyen.
People often say, "The most loving is the mother's love, the strongest is the father's love, the most intimate is the brotherly love, and the most sacred, strong, and lasting is still friendship."
As a sincere poet with a rich and emotional life, Nguyen Khuyen truly left behind eloquent evidence of immortal and beautiful friendship.
The poem tells about an ironic situation with nothing to offer you mixed with humor, the author expresses his feelings for a friend who met in officialdom, and now coincidentally meets him again in a peaceful countryside - a place buried his umbilical cord.
Each sentence in the song is simple yet noble, expressing a passionate, attached, salty, humane feeling and ending with the phrase "me and me", expressing the harmony between two intellectual souls. Soulmate, beautiful friendship surpasses all ordinary material possessions.
The poem by Mr. "Tam Nguyen" has helped us acknowledge many things that we have not fully understood for a long time.
We still know that friendship has helped us overcome difficulties, share joy and happiness, you are the one who comes to us when we need it the most.
|
Gợi ý
Bà Huyện Thanh Quan – một nữ sĩ tài danh hiếm có, tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó bài “Qua Đèo Ngang” nổi tiếng và rất quen thuộc với bạn đọc.
Thể thơ thất ngôn bát cú Đương luật, ngôn ngữ điêu luyện sâu sắc và trang trọng đã khắc họa nên một bức tranh Đèo Ngang trong buổi chiều tà.
Mở đầu bài thơ là thiên nhiên vào thời điểm xế chiều: nắng nhạt và sắp tắt. Đây cũng là thời điểm mà con người dễ bộc lộ cảm xúc nhất.
Những từ láy “lom khom”, “lác đác” giàu sức gợi hình, kết hợp với phép đối giữa hai câu càng làm tăng thêm sức gợi tả giúp cho người đọc cảm nhận cảnh Đèo Ngang thật hoang vắng, hiu quạnh.
Bằng lối chơi chữ trữ tình “quốc – quốc”, “gia – gia” kết hợp với nghệ thuật nhân hoá, tác giả thể hiện nỗi lòng, tâm sự của chính mình: nhớ nước, thương nhà.
Phải chăng nỗi buồn sâu sắc nhẹ nhàng ở đầu bài thơ đã trở nên mênh mông, nặng trĩu vì nhớ thương quá khứ, vì phải xa gia đình, quê quán; một thân một mình ở nơi xa lạ hoang vu.
|
Suggest
Ms. Huyen Thanh Quan - a female artist of rare talent, her works currently include six Tang luat poems, of which the poem "Qua Deo Ngang" is famous and very familiar to readers.
Duong Luat's seven-word, eight-phrase poem, with profound and solemn skillful language, portrays a picture of Deo Ngang in the late afternoon.
The poem begins with nature in the late afternoon: the sunlight is pale and about to go out. This is also the time when people most easily express their emotions.
The words "crouched" and "scattered" are rich in evocative power, combined with the parallelism between the two sentences, adding to the descriptive power, helping readers feel the desolate and lonely scene of Ngang Pass.
By playing with the lyrical words "country - country", "family - family" combined with the art of personification, the author expressed his own feelings and thoughts: missing his country, loving his home.
Is it true that the deep, gentle sadness at the beginning of the poem has become immense and heavy because of missing the past, because of having to leave family and hometown; alone in a strange, desolate place.
|
Gợi ý
1. Mở bài:
Giới thiệu về cô, thầy (tên gì, dạy năm nào, lớp mấy…)
Đó là người đã mà em hết mực kính trọng và thương yêu – một người đã làm thay đổi cuộc đời em.
Tham khảo: “Cô giáo em người xinh xinh
Cô hay cười mắt cô long lanh…”
Mỗi lần nghe lời bài hát ấy hay mỗi khi sắp đến ngày 20 tháng 11, lòng tôi lại bồi hồi xao xuyến nhớ về cô… hiền dịu yêu thương, chủ nhiệm năm lớp 4. Là một người đã làm thay đổi cuộc đời tôi, để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc khó quên.
Thân bài: viết thành từng đoạn
Đoạn 1: Biểu cảm về ngoại hình
Thật vậy, làm sao tôi có thể quên người cô với dáng người nhỏ nhắn, gọn gàng có khuôn mặt xinh xắn hiền dịu…
Tôi nhớ năm ấy, cô khoảng chừng ba mươi nhưng trông cô còn trẻ lắm. Ngày đầu tiên bước vào lớp, chúng tôi ồ lên và ai cũng ngỡ cô là giáo viên mới ra trường.
Ấn tượng đầu tiên của tôi đối với cô có lẽ là ở đôi mắt, đôi mắt cô đen tròn, có cái nhìn trìu mến làm sao. Người ta nói “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn” quả thật không sai. Những lúc lớp ngoan, “cửa sổ” ấy như chan chứa niềm vui và ngược lại đôi mắt cô trĩu buồn khi có học sinh lười biếng, ngỗ nghịch không biết vâng lời.
Như tô điểm thêm cho khuôn mặt, nụ cười trên môi cô rất đẹp. Mỗi khi bước vào lớp là “đóa hoa” tươi tắn nở chào học sinh. Nhiều lúc cô không cười, lớp học buổi hôm đó dường như ít sôi động hơn.
Nhớ lắm giọng ngọt ngào sâu lắng của cô. Khi kể chuyện, cô như đưa chúng tôi vào thế giới có những nhân vật thần tiên. “Giọng cô êm ái như lời mẹ yêu” đó là nhận xét chung của những học sinh.
Chúng tôi thích cô đến lớp với tà áo dài xinh xắn, cô như đẹp hơn, duyên dáng hơn nhiều trong trang phục thướt tha ấy. Cô luôn là niềm tự hào của lớp tôi “Giáo viên xinh đẹp nhất trường”
Đoạn 2: Biểu về tính tình, thái độ, sở thích, công việc
Cô… chẳng những đẹp người mà còn hiền hậu vui tính, cô luôn hòa nhã, đối xử tốt với tất cả mọi người chính vì thế ai cũng quý mến cô. Có nhiều phụ huynh khen “cô giáo sao mà xinh đẹp và hiền thục quá” khiến các học trò thân yêu của cô cũng “thơm lây”.
Cô thích hoa lắm, tôi vẫn nhớ là mỗi ngày đến lớp cô hay cắm những đóa hoa tươi thắm vào chiếc bình xinh xinh trên bàn giáo viên và cô thường dạy chúng tôi rằng: “Các em ạ! Con người sống trên đời ai ai cũng đẹp như những đóa hoa…”. Cô ngắt giọng: “…nhưng chỉ tiếc một điều có nhiều người không biết làm cho nó tỏa hương thơm”.
Cô là thế, cô luôn dạy bảo chúng tôi những điều hay lẽ phải, chỉ cho học trò nhỏ của mình sống như thế nào qua những câu chuyện, các câu danh ngôn, lời hay ý đẹp…
Là một người nhiệt tình, tận tụy nên mỗi buổi dạy của cô rất sâu sắc, dễ hiểu vô cùng. Những dẫn chứng của cô rất thực tế nên chúng tôi ai ai cũng hiểu và nhớ hoài các bài giảng của cô.
Thú vị làm sao khi những lúc lớp hơi “căng thẳng”, rất tâm lý, cô dừng lại để … “văn nghệ góp vui”
Dường như niềm vui của cô là mỗi ngày đến lớp, cô yêu thương học sinh hết mực không khác gì người mẹ yêu quý ở nhà.
Đoạn 3: Kỉ niệm giữa em và cô: làm thay đổi cuộc đời em- đây là phần quan trọng nhất, em có thể sáng tạo ra nhiều câu chuyện như: Học yếu, thiếu tự tin, mặc cảm sau đó được cô động viên, tạo điều kiện…; gia đình có chuyện buồn, không thiết tha học, học tập sa sút, chán nản… cô biết chuyện, động viên, kể câu chuyện về tấm gương, mua tặng đồ, thường ghé nhà thăm hỏi, khích lệ…; mới chuyển trường, xa lạ, không có bạn bè, tự ti… cô giúp đỡ vượt qua khó khăn…)
Và đặc biệt là chính cô đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Đến tận bây giờ tôi vẫn thường hay tự hỏi mình: “Nếu ngày ấy không có cô thì không biết bây giờ tôi sẽ như thế nào?”
Trước đây,hồi năm lớp hai, lớp ba, tôi biết được cưng chiều, đòi gì được nấy nên dần dần trở thành một người bướng bỉnh. Không ai có thể bắt tôi làm điều gì kể cả việc học bài, giải toán và tôi cũng chẳng hứng thú gì với việc mỗi ngày đến lớp. Ba mẹ tôi lo lắng nhưng vì công việc nhiều nên chẳng có thời gian nhiều để nhắc nhở tôi. Tôi học sa sút hẳn.
Lên lớp bốn, tôi bị mất kiến thức khiến tôi càng gặp rất nhiều khó khăn và càng “sợ” đi học. Biết được điều đó, cô bắt đầu tranh thủ thời gian giúp tôi lấy lại kiến thức. Cô kiên nhẫn vô cùng, có lẽ chính bằng lòng yêu nghề và tâm huyết lắm cô mới được lòng kiên nhẫn đó đối với một đứa học trò yếu kém như tôi.
Những ngày nghỉ, cô đến nhà kèm thêm cho tôi. Điều khiến tôi nhớ và cảm phục nhất là cô không bao giờ la mắng hay cau có những lúc tôi không hiểu, không biết hoặc chưa làm bài trong suốt quá trình cô kèm cặp tôi. Cô luôn luôn động viên, khích lệ bằng những câu chuyện về tấm gương như “Nick – Tác giả của Cuộc sống không giới hạn”, thỉnh thoảng còn có những món quà nhỏ mang ý nghĩa tinh thần như “Cây bút dành cho người có tiến bộ”; Quyển sổ cho người biết cố gắng trong học tập”. Những điều đó thật sự giúp tôi thay đổi rất nhiều về suy nghĩ của mình.
Cuối cùng, bằng sự chân tình của mình cô đã giúp tôi lấy lại kiến thức, đam mê học tập và quan trọng một điều là kể từ đó, đối với tôi thì “Mỗi ngày đến lớp là một niềm vui”.
Điều bất ngờ lớn nhất chính là cuối năm tôi đạt danh hiệu học sinh giỏi trong sự ngỡ ngàng của gia đình. Đứng trên bục giảng nhìn xuống, tôi thấy mắt cô rạng ngời hạnh phúc vì đã làm thay đổi cuộc đời của một con người.
Đoạn 4: Biểu cảm trực tiếp:
Nhiều lúc tôi nghĩ cô giống như cô tiên…
Nếu không có cô…
3. Kết bài:
Giờ đây không còn học với cô nữa nhưng những hình ảnh và lời dạy bảo của cô tôi vẫn ghi nhớ mãi trong lòng.
|
Suggest
1. Introduction:
Introducing the teacher (what's his name, what year he teaches, what grade...)
That's the person I deeply respect and love - someone who changed my life.
Reference: “My teacher is beautiful
She often smiles and her eyes sparkle..."
Every time I hear the lyrics of that song or every time November 20th approaches, my heart flutters remembering her... gentle and loving, homeroom teacher in 4th grade. She is someone who changed my life, left deep and unforgettable impressions on me.
Body: write in paragraphs
Paragraph 1: Physical expression
Indeed, how could I forget my aunt with her small, neat figure and beautiful, gentle face...
I remember that year, she was about thirty but she looked very young. The first day we walked into class, we exclaimed and everyone thought she was a new teacher.
My first impression of her was probably her eyes. Her eyes were dark and round and had such an affectionate look. People say "the eyes are the windows to the soul" and it's not wrong. When the class is good, that "window" seems to be filled with joy, and conversely, her eyes are sad when there are lazy, disobedient students who don't know how to obey.
As if adorning her face, the smile on her lips was very beautiful. Every time you enter the classroom, a fresh "flower" blooms to greet the students. Many times she didn't smile, and the class that day seemed less exciting.
I miss her deep, sweet voice. When telling stories, she seemed to take us into a world with fairy characters. “Your voice is as soft as your mother's words,” is a common comment from the students.
We like her to come to class wearing a lovely ao dai, she seems much more beautiful and graceful in that graceful outfit. She is always the pride of my class, "The most beautiful teacher in the school"
Paragraph 2: Express your personality, attitude, interests, and work
She... is not only beautiful but also kind and funny. She is always gentle and treats everyone well, that's why everyone loves her. There are many parents who compliment "how beautiful and gentle the teacher is" which makes her beloved students "infectious".
She loves flowers very much. I still remember that every day in class she would put fresh flowers in a beautiful vase on the teacher's desk and she would often teach us: "Children! Everyone living in this world is as beautiful as flowers...". She interrupted: "...but the only regret is that many people don't know how to make it fragrant."
She is like that, she always teaches us good things and shows her young students how to live through stories, quotations, beautiful words...
As an enthusiastic and dedicated person, each of her teaching sessions is very profound and extremely easy to understand. Her examples are very practical so we all understand and remember her lectures.
How interesting that when the class is a bit "stressful" and very emotional, she stops to... "entertain the entertainment"
It seems that her joy is that every day she goes to class, she loves her students as much as a beloved mother at home.
Paragraph 3: Memories between you and me: changed my life - this is the most important part, I can create many stories such as: Weak in studies, lacking confidence, feeling guilty and then being encouraged by her , facilitate…; There was a sad story in her family, she was not eager to study, her studies were failing, she was depressed... she knew about it, encouraged her, told stories about her role model, bought her gifts, often visited her house, encouraged her...; just transferred school, unfamiliar, no friends, low self-esteem... she helps overcome difficulties...)
And especially she changed my life. To this day, I often ask myself: "If it weren't for you that day, I wonder what I would be like now?"
Previously, in second and third grade, I knew that I was pampered and got whatever I wanted, so I gradually became a stubborn person. No one can force me to do anything, including studying or solving math problems, and I'm not interested in going to class every day. My parents are worried, but because they work so much, they don't have much time to remind me. I fell behind in my studies.
When I was in fourth grade, I lost knowledge, causing me even more difficulties and "afraid" of going to school. Knowing that, she began to take advantage of her time to help me regain my knowledge. She is extremely patient, perhaps it is because she loves her job and is so dedicated that she can have that patience for a weak student like me.
On holidays, she came to my house to tutor me. What I remember and admire the most is that she never scolded or scolded me when I didn't understand, didn't know, or hadn't done my homework during the process of tutoring me. She always encourages and motivates with stories about examples like "Nick - Author of Unlimited Life", and occasionally gives small gifts with spiritual meaning like "Pen for people with improvement"; The notebook tells people to try hard in their studies." Those things really helped me change a lot about my thinking.
In the end, with her sincerity, she helped me regain my knowledge and passion for learning, and most importantly, since then, for me, "Going to class every day is a joy."
The biggest surprise was that at the end of the year, I won the title of excellent student in the surprise of my family. Standing on the podium looking down, I saw her eyes shining with happiness because she had changed a person's life.
Paragraph 4: Direct expression:
Sometimes I think she's like a fairy...
Without her…
3. Conclusion:
Now I no longer study with her, but I still remember her images and teachings forever in my heart.
|
Dàn ý
Mở bài: Đã từ rất lâu, thật thà là một phẩm chất quý báu của con người trong cuộc sống. Thế nhưng, đôi khi, sự “thật thà” lại khiến cho con người gặp nhiều phiền toái, thậm chí còn bị chê bai như câu tục ngữ: “Thật thà là cha thằng dại”. Tại sao lại như vậy?
Thân bài: viết thành từng phần, đoạn
Chuyển ý: Câu tục ngữ trên là vô lí chăng? Vậy chẳng phải ông cha lại khuyên chúng ta đừng nên thật thà? Thực sự mà nói, thật thà vẫn là một đức tính tốt đẹp ngàn đời. Là bài học cha mẹ dạy cho con cái từ thuở lên ba. Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng nên “thật thà”.
Nhiều người ngay thẳng có những khi bị cô lập, thậm chí là trù dập. Ngay chính nhiều bậc cha mẹ muốn giữ thân cho con luôn khuyên rằng: “Đừng có thật thà quá mà chuốc họa vào thân”. Thực tế có những công nhân đứng lên tố cáo sai phạm của các xí nghiệp, nhà máy, họ thắng kiện rồi bị cho… nghỉ việc. Cứ như thể chúng ta đang sống chung với bệnh giả dối và nó đã là… người bạn quá thân quen.
Không phải lời nói dối nào cũng xấu (Có những lời nói dối không xấu như người con đang ở xa gia đình, gặp bất trắc hoặc có vấn đề về sức khỏe, khi cha mẹ già yếu hỏi thăm thì con lại nói đang có cuộc sống hoặc sức khỏe tốt. Một ví dụ khác ngược lại là cha mẹ già yếu nay ốm mai đau, nhưng khi con cái – vốn đang đi công tác xa – gọi điện thoại hỏi thăm thì cha mẹ nói rằng sức khỏe vẫn bình thường. Trên đây chỉ là một ví dụ nhỏ nhưng còn nhiều ví dụ khác nữa cho ý kiến không phải lời nói dối nào cũng xấu. Tất nhiên, vẫn có nhiều lời nói dối đem đến cái xấu cho xã hội.)
Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng…(điều này thật ra mình không dại mà chỉ vì người khác không đón nhận sự chân thành của mình.
Một doanh nhân trên thế giới rằng: “nói dối khi cần và nói thật khi có thể”. Tức là khi cần vẫn có thể nói dối và chỉ nói thật khi điều mình nói ra không ảnh hưởng đến người khác, không ảnh hưởng đến mình và những mối quan hệ khác.Người quá thật thà không dễ thành công?
Vì vậy, “thật thà” không đúng lúc, đúng nơi thật sự chính là “cha thằng dại”.
Tìm thêm lí lẽ, dẫn chứng…
Để tránh nói ra những điều khiến một giây sau phải hối hận, cách tốt nhất là nên im lặng suy nghĩ về cái được và cái mất của mình trước lúc nói. Không ai bắt mình phải nói ngay cả. Cha ông ta đã từng đúc kết “phải uốn lưỡi bảy lần trước lúc nói” là vì vậy. Nếu không nghĩ được cái gì để nói thì có thể im lặng và không bày tỏ quan điểm. Không nói gì còn hơn nói ra để rồi sau đó phải ân hận.
Thời gian im lặng để suy nghĩ đó cũng chính là thời gian giúp người thật thà làm chủ được cảm xúc của mình. Khi đã làm chủ được mình, họ sẽ tìm ra được cách nói thế nào sẽ mang lại hiệu quả nhất. Tuy nhiên, đó chỉ là cách điều trị để giảm bớt triệu chứng, để không nói ra những câu nói “hớ hênh”. Không dễ chữa được “bệnh” thật thà, vì nó là bẩm sinh, là tố chất của con người.
|
Outline
Introduction: For a long time, honesty has been a valuable human quality in life. However, sometimes, "honesty" causes people to encounter many troubles, and is even criticized like the proverb: "Honesty is the father of fools". Why is that?
Body of the essay: write into parts and paragraphs
Change of thought: Is the above proverb unreasonable? So don't our ancestors advise us not to be honest? Honestly speaking, honesty is still a good virtue for thousands of years. This is a lesson parents teach their children from the age of three. However, in life, we should not always be "honest".
Many upright people are sometimes isolated, even oppressed. Even many parents who want to preserve their children's lives always advise: "Don't be too honest and bring trouble to yourself." In fact, there are workers who stand up to denounce violations of factories and factories, they win the lawsuit and then are fired... from their jobs. It's as if we are living with a fake disease and it has become... a very familiar friend.
Not all lies are bad (There are lies that are not bad, like when a child is far away from family, is having trouble or has health problems, and when his elderly parents ask about him, he says he's having an affair. Live or have good health. Another example of the opposite is that elderly parents are sick now and then, but when their children - who are away on a business trip - call to check on them, the parents say that their health is still normal. The above is just a small example but there are many other examples that show that not all lies are bad. Of course, there are still many lies that bring bad things to society.)
The medicine is bitter, the truth hurts... (Actually, I'm not stupid, it's just because others don't accept my sincerity.
A businessman in the world said: "lie when necessary and tell the truth when possible". That means you can still lie when necessary and only tell the truth when what you say does not affect others, yourself or other relationships. People who are too honest do not easily succeed?
Therefore, "honesty" at the wrong time and right place is really "the father of a fool".
Find more reasons, evidence...
To avoid saying things that you will regret a second later, the best way is to silently think about your gains and losses before speaking. No one forced me to speak right away. His father once concluded that "you must curl your tongue seven times before speaking" because of this. If you can't think of anything to say, you can stay silent and not express your opinion. It's better to say nothing than to say something and regret it later.
Silent time to think is also the time to help honest people control their emotions. Once they have mastered themselves, they will find the most effective way to speak. However, that is only a treatment to reduce symptoms, so as not to say "indiscreet" statements. It is not easy to cure the "disease" of honesty, because it is innate, a human quality.
|
Hướng dẫn
Quần áo mới, giày nón mới, cặp sách mới, tập vở mới… đã sẵn sàng, con “háo hức”, con cảm nhận được sự quan trọng của ngày khai trường,… vì thế khi con đã lên giường mà “không sao nằm yên được”. Sau khi ru con ngủ, mẹ “không biết làm gì nữa”. Mọi thít đồ chơi của con bày ra, con đã giúp mẹ thu dọn từ chiều, làm rất “hăng hái” sau khi nghe mẹ nói: “Ngày mai đi học, con là cậu học sinh lớp Một rồi”.
Lên giường, mẹ vẫn “trằn trọc”. Mẹ “không lo lắng” về sự bỡ ngỡ của con. Lên ba, con đã đi học rồi. Trước ngày khai giảng, con đã làm quen với bạn mới, thầy cô giáo mới… Mẹ không ngủ được vì mẹ nhớ lại kỷ niệm tuổi thơ của mẹ khi bà ngoại đưa mẹ đi học. Mẹ “nôn nao, hồi hộp” khi đến gần trường; mẹ “hốt hoảng” khi cổng trường đóng lại, bà ngoại đứng ngoài cánh cổng…
Lý Lan đã diễn tả một cách chân thực và cảm động về nỗi thao thức của người mẹ trẻ trong đêm trước ngày khai trường đứa con thơ vào lớp Một. Mẹ thương con; tuổi thơ cắp sách đến trường của mẹ rất đẹp và sâu sắc, nên người mẹ trẻ mới có tâm trạng thao thức và nỗi xúc động như thế.
a. Rồi cảm Xúc của người mẹ trôi theo thời gian và không gian…, mẹ nghĩ về ngày khai trường ở nước Nhật “là ngày lễ của xã hội”… Lý Lan rất tinh tế khi thể hiện ước mơ mang tính nhân văn của người mẹ Việt Nam đối với những chính sách về giáo dục.
Đêm về khuya, nhưng người mẹ vẫn “không ngủ được”. Mẹ nghĩ đến ngày mai sẽ dưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay ra mà nói: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kỳ diệu sẽ mở ra”.
|
Instruct
New clothes, new shoes, new hats, new school bags, new notebooks... are ready, I'm "excited", I feel the importance of the first day of school,... so when I go to bed "it's okay". lie still." After putting the baby to sleep, the mother "didn't know what to do anymore". I helped my mother clean up all my toys since the afternoon, doing it very "enthusiastically" after hearing my mother say: "Tomorrow I go to school, I'm a first grader."
Going to bed, mother was still "restless". Mom "doesn't worry" about her child's confusion. When I was three, I went to school. Before the first day of school, I made new friends, new teachers... Mom couldn't sleep because she remembered her childhood memories when her grandmother took her to school. Mother was "nervous and nervous" when approaching the school; Mother "panicked" when the school gate closed, grandmother standing outside the gate...
Ly Lan honestly and touchingly described the restlessness of a young mother on the night before the first day of school for her child entering first grade. Mother loves her child; Her mother's childhood going to school was very beautiful and profound, which is why the young mother had such a restless and emotional mood.
a. Then the mother's emotions flowed through time and space..., she thought about the opening day of school in Japan "as a social holiday"... Ly Lan was very delicate when expressing the mother's humanistic dream. Vietnam regarding education policies.
It was late at night, but the mother still "couldn't sleep". I think about tomorrow I will take you to school, hold your hand and lead you through the gate, then let go and say: "Go, be brave, this world is yours, stepping through the school gate is a A magical world will open.”
|
Hướng dẫn
“Ngày mai con vào lớp Một”,con đã “lớn lên” nhiều lắm. Mọi thứ đồ chơi như chiếc xe thiết giáp, những chú rô-bốt nhựa, đoàn quân thú,… trước đây con thường bày ra khắp nơi trong nhà, nhưng chiều nay, con đã giúp mẹ, “hăng hái tranh với mẹ dọn dẹp đồ chơi” sau khi nghe mẹ nói: “Ngày mai đi học, con là cậu học sinh cấp Một rồi”. Cậu con trai lên 7 đã “lớn lên” về mặt tâm hồn qua tiếng nói yêu thương và lời khích lệ của mẹ hiền. Đêm nay, tuy con “háo hức” như trước đây “vào đêm trước ngày sắp di chơi xa”, con cũng ý thức được “ngày mai thức dậy cho kịp giờ”, nhưng rồi con đã nằm ngủ một cách ngon lành “dễ dàng như uống một li sữa, ăn một cái kẹo”. Mẹ hiền âu yếm nhìn con thơ nằm ngủ với bao xúc động và tràn ngập thương yêu: “Gương mặt thanh thoát của con tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo”. Có thể nói đó là những giây phút hạnh phúc nhất cùa người mẹ, hạnh phúc của tình mẫu tử.
Trong lúc con nằm ngủ ngon lành thì người mẹ lại “không ngủ được”. Suốt ngày mẹ “không tập trung được vào việc gì cả”. Tối đến, sau khi buông mùng ém góc, đắp mén cho con nằm ngủ, rồi người mẹ “bổng không biết làm gì nữa”. Đó là cảm xúc nôn nao, hồi hộp, xao xuyến. Khi đã lên giường nằm, người mẹ vẫn “trằn trọc”. Trằn trọc không phải vì mẹ lo lắng. “Mẹ tin là con sẽ không bỡ ngỡ trong ngày đầu năm học” vì ba năm về trước, hồi mới lên ba, con đã vào lớp mẫu giáo, giờ đây tuần lễ trước ngày khai giảng, “con đã làm quen với bạn bè và cô giáo mới, đã tập xếp hàng, tập đi, tập dứng để chuẩn bị cho buổi lễ khai trường long trọng này”.
“Mẹ tin đứa con của mẹ… lớn rồi”.Sự chuẩn bị cho con trước ngày khai trường, mẹ đã “chuẩn bị rất chu đáo”. Chẳng còn điều gì lo lắng nữa, nhưng mẹ “vẫn không ngủ được”. Mẹ xúc động nhớ lại bao kỷ niệm sâu sắc thời ấu thơ của mẹ. Tiếng đọc bài trầm bổng của mẹ, của các bạn nhỏ ngày xưa, đêmnay lại vang lên bên tai mẹ: “Hằng năm, cứ vào cuối thu… Mẹ tôi âu yếm nắm lẩy bàn tay tôi, dấn đi trên con đường làng dài và hẹp”… Mẹ lại muốn “khắc sâu… ghi vào lòng con” về cái ngày: “hôm nay tôi đi học”. Với mẹ, ấn tượng về ngày khai trường đầu tiên ấy “rất sâu đậm”. Mẹ nhớ mãi “sự nôn nao, hồi hộp” khi cùng bà ngoại đi tới gần ngôi trường, “nỗi chơi vơi hốt hoảng” khi cổng trường đóng lại, mà bà ngoại đứng ngoài cánh cổng…
Lý Lan đã rất “sống” với kỷ niệm tuổi thơ về ngày khai trường đầu tiên khi vào lớp Một. Nhớ bà ngoại, tình thương con, nỗi niềm về thời thơ ấu,… những cảm xúc mãnh liệt ấy, thiết tha ấy cứ “rạo rực”, cứ “bâng khuâng”, cứ “xao xuyến” mãi trong lòng. Tâm trạng đẹp ấy về tình mẫu – tử được tác giả diễn tả một cách nhẹ nhàng, tinh tế mà thấm thía.
Phần tiếp theo, Lý Lan lại chuyển qua một nét suy tư của người mẹ về ngày khai trường ở Nhật “là ngày lễ của toàn xã hội”. Người lớn nghỉ việc để đưa con đến trường, các quan chức vào buổi sáng đều chia nhau đi dự lễ khai giảng ở khắp các trường lớn nhỏ; đường phố được dọn quang đãng và trang trí tươi vui. Ở Nhật, giáo dục là quan trọng hàng đầu, các quan chức Nhà nước bằng hành động muốn cam kết rằng “không có ưu tiền nào lớn hơn ưu tiên giáo dục thế hệ trẻ cho tương lai”. Chính sách về giáo dục được Nhà nước “điều chỉnh kịp thời”, vì ai cũng cảm thấy sâu sắc rằng “mỗi sai lầm trong giáo dục sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ mai sau, và sai lầm một li có thể đưa thế hệ ấy đi chệch cả hàng dặm sau này”. Ở đây, sự suy nghĩ miên man của người mẹ về ngày khai trường ở Nhật… đã thể hiện ước mơ của người mẹ muốn đứa con yêu của mình được hưởng một nền giáo dục tiến bộ nhất, các trẻ em được chăm sóc giáo dục với tất cả tình thương của xã hội và đất nước.
Phần cuối, Lý Lan nói lên tâm trạng và ý nghĩ về ngày mai của mẹ. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con. Mẹ sẽ đưa con đến trường. Mẹ cầm tay con và dắt qua cánh cổng, rồi buông tay ra… Cử chỉ ấy vừa yêu thương, chăm sóc, vừa tin cậy, tin tưởng.
“Đi đi con, hãy can đảm lên, thếgiới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”.Đây là câu văn hay nhất trong bài “cổng trường mở ra”. Mẹ tin tưởng và khích lệ con “can đảm lẽn” đi lẽn phía trước cùng bạn bè lứa tuổi. Như con chim non ra ràng, rời tổ chuyền cành sẽ tung cánh bay vào bầu trời bao la, đứa con của mẹ cũng vậy, “bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”. Từ mái ấm gia đình, tuổi thơ được cắp sách đi học, đến’ với mái trường thân yêu. Lớp học mới, trường mới, bạn bè mới, thầy giáo mới, cô giáo mới. Tuổi thơ được học hành, được chăm sóc giáo dục sẽ từng ngày “lớn lên”, mở mang trí tuệ, trưởng thành về nhân cách, học vấn, bước dần vào đời. Trường học là thế giới kì diệu tuổi thơ. Mọi nhân tài xưa nay, hầu hết được vun trồng trong thế giới kỳ diệu đó.
Con vào lớp Một, với mẹ, đứa con khác nào một người chiến sĩ can đảm lên đường ra trận. Tình thương con gắn liền với niềm hi vọng bao la của mẹ hiền với đứa con thơ. Vì thế, chúng ta phải phấn đấu trở thành con ngoan trò giỏi…
|
Instruct
"Tomorrow I enter first grade", I have "grown up" a lot. All sorts of toys like armored vehicles, plastic robots, armies of animals, etc. used to be displayed everywhere in the house, but this afternoon, I helped my mother, "enthusiastically fighting with her to clean up." toys" after hearing his mother say: "Tomorrow you go to school, you are a first grader." The 7-year-old son has "grown up" spiritually through the loving voice and encouragement of his mother. Tonight, although I was "excited" like before "the night before the day of going away", I was also aware of "waking up on time tomorrow", but then I slept soundly and "easily". It's as easy as drinking a glass of milk and eating a piece of candy." The gentle mother looked lovingly at her sleeping child with so much emotion and love: "The child's peaceful face rested sideways on the soft pillow, his lips parted and occasionally pursed as if sucking on candy." It can be said that those are the happiest moments of a mother, the happiness of motherhood.
While the child slept soundly, the mother "couldn't sleep". All day long, my mother "couldn't concentrate on anything". At night, after taking down the mosquito net and covering the child's bed to sleep, the mother "suddenly didn't know what to do anymore". It is a feeling of nausea, nervousness, and excitement. When she went to bed, the mother was still "restless". The restlessness is not because the mother is worried. "I believe that you will not be surprised on the first day of school" because three years ago, when you were just three years old, you entered kindergarten, and now the week before the first day of school, "you have made friends." and the new teacher, practiced lining up, walking, and standing to prepare for this solemn school opening ceremony.
"I believe my child... is grown up." In preparing her child before the first day of school, she "prepared very carefully". There's nothing to worry about anymore, but mom "still can't sleep." Mother was moved to recall many profound memories of her childhood. The melodious voice of my mother and the children from the past resounded in her ears tonight: "Every year, at the end of autumn... My mother lovingly held my hand, walking down the long and lonely village road. narrow"... Mom wants to "engrave... in my child's heart" the day: "today I go to school". For her mother, the impression of that first day of school was "very profound". Mom always remembers the "nervousness and nervousness" when walking with her grandmother near the school, the "panic" when the school gate closed, and her grandmother stood outside the gate...
Ly Lan was very "alive" with her childhood memories of the first day of school when she entered first grade. Missing my grandmother, love for my children, feelings about childhood,... those intense, passionate emotions keep "burning", keep "wistful", keep "fluttering" in my heart forever. That beautiful mood of mother-child love is expressed by the author in a gentle, delicate and poignant way.
In the next part, Ly Lan turns to a mother's reflection on the opening day of school in Japan, "which is a holiday for the entire society". Adults quit their jobs to take their children to school. In the morning, officials split up to attend opening ceremonies at schools large and small; The streets are cleared and decorated cheerfully. In Japan, education is of utmost importance, State officials want to commit by their actions that "there is no greater priority than educating the young generation for the future". Education policy is "timely adjusted" by the State, because everyone deeply feels that "each mistake in education will affect the entire future generation, and a single mistake can change the world." That system deviated many miles later. Here, the mother's endless thoughts about the opening day of school in Japan... express the mother's dream of wanting her beloved child to enjoy the most progressive education, for the children to be cared for and educated. with all the love of society and country.
In the last part, Ly Lan talks about her mother's mood and thoughts about tomorrow. Tomorrow is the first day of school for my child. Mom will take you to school. Mother held her child's hand and led her through the gate, then let go... That gesture was both loving, caring, trusting, and believing.
"Go, my child, be brave, this world is yours, step through the school gate and a magical world will open". This is the best sentence in the article "The school gate opens". Mom believes in and encourages her child to "courage and be bold" and walk quietly ahead with friends of her own age. Like a baby bird leaving the nest, spreading its wings to fly into the vast sky, so will a mother's child, "step through the school gate and a magical world will open". From a warm family home, from childhood to school, to a beloved school. New classroom, new school, new friends, new teacher, new teacher. Children who are educated and cared for will "grow up" day by day, expanding their intelligence, maturing in personality and education, and gradually entering life. School is the magical world of childhood. Most of the talented people of the past were cultivated in that magical world.
I entered first grade, and to my mother, my child was like a courageous soldier going to war. Love for a child is associated with a mother's immense hope for her child. Therefore, we must strive to become good children...
|
Hướng dẫn
Gần đây, Thứ Sơn đề thơ vào bức tranh “Tiễn Tu đình dạ phỏng thu kinh đồ”:
“Tân cần câu hỏa dạ đăng minh,
Nhiễu tất thư thanh họa phỏng thanh.
Thủ chấp nữ công, thính cú độc,
Tu trì từ mầu thị tiên sinh”
Bức tranh “Đêm mẹ dệt vải, con đọc sách” một kiệt tác treo trong Tiễn Tu đình. Bài tuyệt cú có nghĩa là:
“Nghèo khổ, chăm chỉ trước ánh đèn thâu đêm,
Vây quanh gối mẹ là tiếng đọc sách và tiếng thoi dệt vải.
Tay thì cầm thoi đưa, tai thì nghe con đọc sách,
Mới hay mẹ hiền chính là người thầy dạy con vậy”
(Theo “Tùy viên thi thoại”- Viên Mai)
* Lời bình:
Tranh đã đẹp, lời thơ lại hay. “Thi trung hữu họa; họa trung hữu thi” là vậy. Cái gốc tạo nên cái đẹp của bức tranh, cái hay của bài thơ treo ở Tiễn Tu đình là gì? Đó là hình ảnh người mẹ nghèo, chong đèn thâu đêm để vừa dệt vải vừa chăm sóc việc học hành của con. Mẹ lấy gương cần cù của mình, tình thương của mình để khích lệ con biết dùi mài kinh sử, biết chăm chỉ đèn sách.
Ca dao ta có nhiều câu rất hay nói về người mẹ:
–“Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”…
|
Instruct
Recently, Thu Son wrote a poem in the painting "Farewell to Tu Dinh Da Mi Thu Thu Kinh Do":
“New fishing rod with fire and night lights,
Interference with all books and sounds.
Holding on to women's work, listening to poisonous owls,
Cultivate from the master's vision"
The painting "At night mother weaves, child reads books" is a masterpiece hanging in Tien Tu communal house. Great article means:
“Poor, working hard under the lights all night long,
Surrounding mother's pillow are the sounds of reading and weaving.
Hands holding shuttles, ears listening to children reading books,
I just realized that a good mother is the teacher who teaches her child."
(According to "The Voice Poet Attaché" - Vien Mai)
* Comments:
The painting is beautiful, the lyrics are good. “Poetry meets disaster; That's what the disaster is like." What is the origin that creates the beauty of the painting and the beauty of the poem hanging at Tien Tu communal house? That is the image of a poor mother, burning a lamp all night to weave fabric while taking care of her child's education. Mother used her industrious example and her love to encourage her children to know how to study the scriptures and study diligently.
Our folk songs have many beautiful lines about mothers:
–“Motherhood is like water flowing from a source”…
|
Hướng dẫn
Bố nhắc lại một kỉ niệm không bao giờ có thể quên là cách đày mấy năm, En-ri-cô bị ốm nặng, mẹ đã “thức suốt đêm”săn sóc con, “cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con”.Người mẹ lo âu, đau đớn “quằn quại vì nổi sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con”.
Cổ ngữ có câu: “Mẫu tử tình thâm”.Tình mẹ thương con là mênh mông bao la. Mẹ có thể hi sinh tất cả vì con. “Đứa con là hạt máu cắt đôi của mẹ”(tục ngữ). 10
Con mà lại xúc phạm đến mẹ là vô đạo, vì “Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn”.Một năm so với một giờ đã có đứa con nào tính được, nghĩ đến? Người mẹ có quản gì vất vả, chịu khổ sở đói rét “điăn xin để nuôi con”.To lớn hơn, vĩ đại hơn là người mẹ “có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con”.Công cha nghĩa mẹ thật vô cùng sâu nặng:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông” hay
“ơn cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang”
(Ca dao)
Cảm động nhất là khi bố chỉ cho con thấy nỗi bất hạnh “buồn thảm nhất” của một đời người là “ngày mà con mất mẹ”.Mồ côi mẹ là nỗi đau khổ nhất của tuổi thơ. Cho dù khi đã lớn khôn, trưởng thành, dũng cảm,… đứa con vẫn không bao giờ tìm lại được bóng dáng yêu thương của mẹ hiền. Một tiếng nói dịu hiền cùa mẹ. Một cử chỉ thân thương của mẹ “được mẹ dang tay ra đón vào lòng”.Nỗi -cô đơn của đứa con (dù lớn khôn, khỏe mạnh) không thể nào kể xiết, vì thiếu tình thương ấp ủ của mẹ hiền, “con sẽ vẫn tự thấy mình chỉ là một đứa trẻ tội nghiệp, yếu đuối và không được chở che”.Lúc ấy, “con sẽ cay đắng…”, “con sẽ không thể sống thanh thản”, “con sẽ không một phút nào yên tĩnh”,vì lương tâm cắn rứt, con nhớ lại “những lúc đã làm cho mẹ đau lòng”, “đã làm cho mẹ buồn phiền”.Lúc ấy dù có “hối hận”,dù con có “cầu xin linh hồn mẹ tha thứ”thì cũng chỉ vô ích mà thôi, vì mẹ đã mất từ lâu rồi. Một nỗi đau ghê gớm là thời gian năm tháng sẽ không bao giờ làm nguôi quên những hình ảnh, những kỉ niệm vui, buồn về người mẹ hiển yêu quý, “lương tâm con sẽ không một phút nào yên tĩnh”.Và lúc ấy, “hình ảnh dịu dàng và hiền hậu của mẹ sẽ làm tâm hồn con như bị khổ hình”.
“Mẹ hiền như chuối ba hương – Như xôi nếp mật, như đường mía lau”.Đó là ca dao của nhân dân ta. Ở đây, từ hình ảnh người mẹ hiền trong tâm hồn đứa con, người bố đã viết một câu thật hay nói về lòng hiếu thảo, về đạo làm con; lời khuyên con càng trở nên sâu xa, thấm thía: “Tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả”.Bởi lẽ, lòng hiếu thảo là cái gốc của đạo làm người; những kẻ bất hiếu “thật đáng xấu hổ và nhục nhã”vì đã “chà đạp lên tình yêu đó”.
|
Instruct
Dad recalls an unforgettable memory: a few years ago, Enrique was seriously ill, his mother "stayed up all night" taking care of him, "crouched over the cradle, watching for his panting breathing." The mother was worried and in pain, "writhing with fear, sobbing at the thought that she might lose her child".
There is an ancient saying: "A mother's love is profound". A mother's love for her child is immense. A mother can sacrifice everything for her child. "A child is a seed of blood cut in half by the mother" (proverb). ten
It is immoral for a child to insult his mother, because "A mother is willing to give up a year of happiness to avoid a single hour of pain for her child." What child can calculate or think about a year compared to an hour? What does a mother have to do to work hard, suffer hunger and cold, "beg to feed her children?" Bigger and greater is the mother who "can sacrifice her life to save her child's life". The merit of a father and mother is truly priceless. same severity:
“Father's merit is like a mountain towering over the sky,
Mother's meaning is like water in the East Sea" or
“Father, thank you very much!
The meaning of a mother is as good as heaven for nine months of carrying her."
(Folk)
The most touching thing was when my father showed me that the "saddest" misfortune of a person's life is "the day I lost my mother". Losing a mother is the most painful of childhood. Even when he has grown up, matured, become brave,... the child will never find the loving figure of his gentle mother again. A mother's gentle voice. A mother's loving gesture "makes the mother open her arms to welcome her into her heart". The loneliness of the child (even though he is grown and healthy) is indescribable, because of the lack of a gentle mother's cherished love, " You will still see yourself as just a poor, weak and unprotected child." At that time, "I will be bitter...", "I will not be able to live peacefully", "I will not for a minute Quiet", because of my guilty conscience, I remembered "the times that hurt my mother", "made my mother sad". At that time, even though I "regretted", even though I "prayed "Forgive me, my soul" is useless, because my mother has passed away a long time ago. A terrible pain is that time and years will never forget the images, happy and sad memories of my beloved mother, "my conscience will not be quiet for a moment". And at that time , "The gentle and gentle image of your mother will make your soul feel like it's being tortured."
"Mother is as gentle as banana with three flavors - Like sticky rice with honey, like sugar cane". That is the folk song of our people. Here, from the image of a gentle mother in the child's soul, the father wrote a beautiful sentence about filial piety and filial piety; The advice for children becomes even more profound and profound: "Love and respect for parents are the most sacred feelings." Because, filial piety is the root of human morality; Unfilial people are "shameful and humiliating" for "trampling on that love".
|
Hướng dẫn
Nhắc lại tên con nhiều lần, kèm theo các từ: “ạ!”, “này”, “rằng”, giọng bố trở nên tâm tình, thủ thỉ, tha thiết; lời giáo huấn cứ thấm sâu vào tâm hồn con, làm cho En-ri-cô “xúc động vô cùng”.
Tuỳ thương yêu con hết mực, nhưng bố rất nghiêm khắc, kiên quyết. bố nói cho con biết nỗi đau đớn cay đắng của mình vì “trước mặt cô giáo, con đã thiếu lễ độ với mẹ”, và “sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim bố vậy!”. Đau đớn vì con hư! Tủi nhục vì bố mẹ có đứa con thiếu giáo dục!
bố nhắc con “không bao giờ được tái phạm” về hành vi thiếu lẻ độ với mẹ. bố đã chỉ cho con thấy công ơn to lớn và tình thương bao la của mẹ đối với con, “tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả”. Đó là cái gốc của đạo làm người, vì thế kẻ nào chà đạp lên tình thương yêu đó, “thật đáng xấu hổ và nhục nhã”.
bố bắt con phải xin lỗi mẹ “không phải vì sợ bố, mà do sự thành khẩn trong lòng” nghĩa là do sự ăn năn hối hận, do lương tâm cắn rứt? bố khuyên con “hãy cầu xin mẹ hôn con”, chiếc hôn tha thứ đứa con tội lỗi, chiếc hôn để “xóa đi cái dấu vết vong ân bội nghĩa trên trán con”.
|
Instruct
Repeating the child's name many times, accompanied by the words: "hey!", "hey", "that", the father's voice became confiding, cooing, earnest; The teachings kept penetrating deep into his soul, making Enrique "deeply moved".
Although he loves his children very much, his father is very strict and determined. Dad told his child his bitter pain because "in front of the teacher, you were disrespectful to me", and "your rudeness was like a knife stabbing into my heart!". Pain because of a spoiled child! Shame on parents for having uneducated children!
Dad reminded his son to "never do it again" about his disrespectful behavior towards his mother. Dad showed me my mother's great gratitude and immense love for me, "love and respect for parents are the most sacred feelings." That is the root of human morality, so anyone who tramples on that love is "shameful and humiliating".
The father forced the child to apologize to the mother "not because he was afraid of his father, but because of the sincerity in his heart" meaning because of remorse, because of a guilty conscience? Dad advised his child to "ask your mother for a kiss", a kiss to forgive the sinful child, a kiss to "erase the mark of ingratitude and ingratitude on your forehead".
|
Hướng dẫn
Nguyễn Khuyến để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. Riêng về mảng thơ viết về gia đình đã có hàng chục bài; bài nào cũng ân tình, ân cần và tha thiết. Chùm thơ “Ngày xuân dạy các con” gồm có hai bài theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật Giọng thơ nhẹ nhàng, ấm áp bao tình thương. Bài thơ dịch của Vũ Mộng Hùng được đánh giá là bài thơ dịch hay nhất.
Nguyễn Khuyến dặn các con giữ lấy nghiệp nhà: nghiệp nho gia, thanh bạch và cần kiệm. Đó là nội dung bài thơ “Ngày xuân dạy các con”-l này.
Câu phá đề nói năm mới vừa sang, mùa xuân đã về. Xuân về nên có nhiều xuân cảm. Càu thừa đề nói rõ nguồn xuân cảm ấy:
‘Tuy nghèo ta vẫn mến nhà ta”
Nhiều tài liệu cho biết: thân sinh Nguyễn Khuyến là một ông đồ nghèo. Vợ Nguyễn Khuyến là một phụ nữ đảm đang “hay lam hay làm, thắt lưng bó qua, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu…”. Nhà nghèo, bà từng bán thêm chiếc yếm để chạy đủ tiền cho chồng đi thi; khi chồng đã đỗ ông Nghè, vinh quy, thì vợ đang cấy mướn ở một đồng xa, mới chạy tắt đồng về. Thuở thiếu thời, Nguyễn Khuyến có lúc phải vừa đánh dậm vừa đi học. Sau hơn mười năm làm quan, Nguyễn Khuyến trở về làng cũ sống cuộc đời thanh bạch trong “Năm gian nhà cỏ thấp le te”, nơi vườn Bùi thuộc vùng đồng chiêm nước trũng huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Khuyến dặn các con giữ lấy gia phong nếp nhà: “Tuy nghèo ta vẫn mến nhà ta”. Năm chữ Hán “ngô tự ái ngô lư” thể hiện một cách kín đáo, thâm trầm niềm tự hào về nghiệp nhà nho gia thanh bạch.
Hai câu 3, 4 trong phần thực, người cha nói rõ với các con về cái sự nghèo của nhà mình. Chẳng có ruộng tứ bề, vàng bạc đầy kho, mà sau khi đi làm quan xa, lui về “vườn Bùi chốn cũ” gia sản chỉ có “không đầy chín sào đất” và “một bó sách” của gia tiên để lại. Thật là thanh bạch đáng kính. Vũ Mộng Hùng đã dịch rất hay hai câu thơ đăng đối hài hòa:
“Chín sào tư thổ là nơi ở,
Một bố tàn thư ấy nghiệp nhà”
Mới đọc qua phần luận tưởng như tả cảnh. Thời tiết không thuận, trời u ám “khói dày” lại “mưa ít”. Núi để làm bạn thì núi trở thành xa tắp trong những ngày đầu xuân. Cúc là bạn cũ thì cúc cũng chỉ nở lơ thơ cạnh tường. Thoáng một chút cô đơn. Hình ảnh người cha có tâm hồn thanh cao, trong sáng, có phong thái ung dung hiện lên sau vần thơ:
“Trước cửa khói dày, non khuất bóng,
Bên tường mưa ít, cúc thưa hoa”
Phần luận mang tính hàm nghĩa nhất là hai thi liệu “sơn sắc” (sắc núi) và “cúc hoa” (hoa cúc). Nó đem đến liên tưởng về Đào Tiềm (365 – 427), một danh sĩ cao khiết ở đời Tấn; người mà nhà thơ Nguyễn Khuyến hay nhắc đến: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” (Thu vịnh), “Thơ Đào ngâm vịnh đưa câu rượu” (Vịnh mùa hè),… Sắc núi và hoa cúc trong thơ Nguyễn Khuyến gợi nhớ đến những vần thơ của Đào Tiềm:
“Thái cúc đông li hạ,
Du nhiên kiến Nam sơn”
(Hái cúc dưới giậu đông,
Thư thái ngắm núi Nam)
(“Ẩm tửu”)
Nguyễn Khuyến đã noi gương Đào Tiềm để giữ vững khí tiết và nếp sống thanh bần của một nhà nho giữa thời loạn lạc. Các con cũng nên noi gương cha để giữ lấy nghiệp nhà. Đó là tính hàm nghĩa của phần luận bài thơ “Ngày xuân dạy các con”-ỉ.
Muốn nối chí cha thì các con phải biết chuyên cần, chăm chỉ đèn sách, nghiên bút, phải biết sống cuộc đời giản dị, cần kiệm. Nhẹ nhàng mà thấm thía, cảm động:
“Các con nối chí cha nên biết:
Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà”
“Đừng quên lúa, đậu, cà” là đừng quên nghề nông, phải biết gắn bó với quê hương ruộng đồng, chan hòa với chốn quê… Trong bài số 2 “Ngày xuân dạy các con”, Nguyễn Khuyến phàn nàn giữa thời loạn lạc cha đã già yếu “thếmà các con hãy còn say sưa đàn hát mãi”:
“Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa”
|
Instruct
Nguyen Khuyen left behind many poems in Chinese and Nom. There are dozens of poems about family alone; Every song is thoughtful, considerate and earnest. The series of poems "Teaching Children on Spring Day" includes two poems in the seven-word, eight-phrase Tang Luat poem's tone. The poetic voice is gentle, warm, and full of love. Vu Mong Hung's translated poem is considered the best translated poem.
Nguyen Khuyen told his children to keep their family's karma: Confucian karma, purity and frugality. That is the content of the poem "Spring day teaches children"-l.
The sentence says that the new year has just begun and spring has come. Spring has come, so there are many spring feelings. The red flag clearly states the source of that spring feeling:
'Even though we are poor, we still love our home'
Many documents say: Nguyen Khuyen's father was a poor man. Nguyen Khuyen's wife is a hard-working woman who "works hard, wears a tight belt, rolls up her skirt with straps, wears tights and kicks her legs...". Her family was poor, so she used to sell extra bibs to make enough money for her husband to take the exam; When the husband passed Mr. Nghe and passed the exam, his wife, who was working as a farmer in a faraway field, just ran back from the field. When he was young, Nguyen Khuyen sometimes had to fight and go to school at the same time. After more than ten years as a mandarin, Nguyen Khuyen returned to his old village to live a pure life in "Five low grass houses", in Bui garden in the low-lying fields of Binh Luc district, Ha Nam province. Nguyen Khuyen told his children to keep the family's style: "Even though we are poor, we still love our family." The five Chinese characters "ngo self-love, ngo lu" discreetly and deeply express pride in the pure Confucian career.
In verses 3 and 4, in the real part, the father clearly tells his children about the poverty of his family. There were no fields on all sides, warehouses full of gold and silver, but after working as a mandarin, he returned to the "old Bui garden", his inheritance was only "less than nine acres of land" and "a bundle of books" left by his ancestors. It's so pure and respectable. Vu Mong Hung has very well translated two harmonious parallel verses:
“Nine acres of land is the place to live,
"A father who ruined his family's business"
Just reading through the essay seems like a scene description. The weather is not favorable, the sky is overcast with "thick smoke" and "little rain". Mountains to be friends, mountains become far away in the early days of spring. Chrysanthemums are old friends, but chrysanthemums only bloom carelessly next to the wall. A little lonely. The image of a father with a noble, pure soul and a leisurely demeanor appears after the poem:
“In front of the door, the smoke is thick, the mountains are hidden,
There is little rain on the wall, chrysanthemum flowers are sparse."
The most meaningful part of the essay is the two poetic materials "mountain color" and "chrysanthemum" (chrysanthemum). It brings to mind Dao Tiem (365 - 427), a noble and noble scholar in the Jin Dynasty; the person that poet Nguyen Khuyen often mentioned: "When I think about it, I feel ashamed of Mr. Dao" (Thu Vinh), "Dao's poetry recites the poem to bring wine" (Summer Bay),... The colors of mountains and chrysanthemums in Nguyen Khuyen's poetry evoke Remember Dao Tiem's poems:
“Thai chrysanthemum winter li ha,
Traveling to the South Mountain"
(Pick chrysanthemums under the winter hedge,
Relax watching Nam Mountain)
(“Damp Wine”)
Nguyen Khuyen followed Dao Tiem's example to maintain the dignity and poor lifestyle of a Confucian scholar in the midst of chaos. Children should also follow their father's example to maintain the family's karma. That is the meaning of the essay of the poem "Spring day teaches children"-il.
If you want to follow your father's will, you must know how to be diligent, diligently study books and pens, and know how to live a simple, frugal life. Gentle yet profound and touching:
“Children who follow their father's will should know:
When writing, don't forget rice, beans, and eggplant."
"Don't forget rice, beans, and eggplant" means don't forget farming, must know how to stick with the homeland and the fields, be in harmony with the countryside... In article number 2 "Teaching children on spring days", Nguyen Khuyen complains in the midst of chaos. Lost father is old and weak "yet the children are still passionate about playing and singing":
"If you're wandering around, what's the cost of losing your footing?
Why are you still drunk singing male"
|
Hướng dẫn
Mờ sáng, Thành “rón rén” đi ra vườn, đau khổ ngồi xuống gốc cây hồng xiêm, thì chỉ một lát sau, em gái cũng đi ra vườn ngồi cạnh anh trai. Em gái “lặng lể’ đặt tay lên vai anh trai, còn anh trai thì “kéo em ngồi xuống và khẽ vuốt lên mái tóc” em gái. Khi Thủy nhớ bố, mong gặp bố, chào bố trước khi theo mẹ về quê ngoại, thì Thành “xót xa nhìn em” và nghĩ: “Bao giờ nó cũng chu đáo và hiếu thảo như vậy”. Nghe Thủy nói: “Hay anh dẫn em đến trường một lát” thì Thành lấy chiếc khăn mặt ướt đưa cho em… Thành lại dẫn em gái đến trường như những ngày còn nhỏ…
Thủy là một em bé rất nhân hậu, giàu tình thương, rất quan tàm săn sóc đến anh trai. Mỗi con búp bê đều được Thủy đặt cho một cái tên riêng: con Vệ Sĩ, con Em Nhỏ, và Thủy luôn luôn đặt chúng cạnh nhau, “quàng tay lên vai nhau” thân thiết. Thủy đã mang kim chỉ ra bãi bóng vá áo cho anh trai. Trước khi giã biệt anh còn dặn dò: “Anh ơi! bao giờ áo anh có rách, anh tìm về chỗ em, em vá cho anh nhé…”. Thành nằm mê ngủ thấy ma, Thủy đã có “sáng kiến” bắt con Vệ Sĩ khoác dao dip gác cho anh trai ngủ. Trước lúc theo mẹ về quê ngoại, Thủy ôm hôn con Vệ Sĩ và ân cần dặn dò: “Vệ Sĩ thân yêu ở lại nhé! Ớ lại gác cho anh trai tao ngủ nhé..”.
|
Instruct
At dawn, Thanh "tiptoed" to the garden, sadly sat down under the sapodilla tree, then just a moment later, his sister also went to the garden to sit next to her brother. The younger sister "quietly" placed her hand on her brother's shoulder, and the older brother "pulled her to sit down and gently stroked her" sister's hair. When Thuy missed her father, wanted to meet him, and greet him before following her mother back to her mother's hometown, Thanh "looked at her brother sadly" and thought: "He has always been so thoughtful and filial." Hearing Thuy say: "How about I take you to school for a while?", Thanh took out a wet towel and gave it to her... Thanh took his sister to school again like when he was a child...
Thuy is a very kind child, rich in love, and very caring for her brother. Each doll was given a unique name by Thuy: Bodyguard, Little Em, and Thuy always placed them next to each other, "putting her arms on each other's shoulders" closely. Thuy brought a needle and thread to the soccer field to mend her brother's shirt. Before saying goodbye, he said: "Dear brother! Whenever your shirt gets torn, come back to me and I'll patch it up for you...". Thanh fell asleep and saw ghosts, Thuy had the "initiation" to force the Bodyguard to put on a knife and guard him while his brother slept. Before following her mother back to her mother's hometown, Thuy hugged and kissed Bodyguard's child and kindly advised: "Dear Bodyguard, please stay here!" Stay here and watch so my brother can sleep..".
|
Hướng dẫn
Suốt đêm, hai anh em đều khóc. Thủy “nức nở, tức tưởi”-, em khóc nhiều nên hai bờ mi đã “sưng mọng lên”, cặp mắt đen trở nên “buồn thăm thẳm”.Thành phải “cắn chặt môi để khỏi bật lên tiếng khóc to”, nước mắt “tuôn ra như suối, ướt đẫm cả gối và hai cánh tay áo”.
Buổi sáng sớm, hai anh em đi ra vườn. Thủy “lặng lẽ” đặt tay lên vai anh trai. Thành đã kéo em ngồi xuống và “khẽ vuốt lên mái tóc em”. Cuộc chia tay sắp diễn ra; cả hai anh em đều vô cùng đau khổ và cảm thấy cô đơn trước tai họa nặng nề đang “giáng xuống” đầu…
Bố đi đâu mãi không về. Đã mấy ngày rồi Thủy không được gặp bố. Chỉ còn vài tiếng nửa là em phải theo mẹ về quê ngoại. Em buồn, nước mắt ứa ra “xịu mặt xuống” nói trong đau đớn: “Sao bốmãi không về nhỉ”. Như vậy là em không được chào bố trước khi đi. Bố mẹ bỏ nhau, biết bao giờ em “được gặp lại bố?”. Tuổi thơ Thủy mất mát quá nhiều, quá lớn!
Cảnh Thủy trở lại lần cuối thăm trường lớp, chào từ biệt cô giáo và bạn học lớp 4B là một cảnh buồn tê tái. Thủy cô đơn “đứng nép vào một gốc cây trước lớp”. Thủy “cắn chặt môi im lặng, mắt lại đăm đăm nhìn khắp sân trường…”. Thủy đau khổ “bật lên khóc thút thít”. Cô giáo “sửng sốt” khi Thủy bước vào lớp. Cô “ôm chặt lấy em” và nói: “Cô thương em lắm”. Cả lớp “sững sở”, có tiếng khóc “thút thít”-, một số bạn thân bỏ chỗ ngồi chạy lên “nắm chặt lấy tay” Thủy khi nghe cô giáo thông báo cảnh ngộ thương tâm của em. Cô giáo “tái mặt”, cất tiếng than “Trời ơi ỉ”, rồi “nước mắt giàn giụa”. Cả lớp 4B “khóc mối lúc một to hơn” khi nghe Thủy nói: “… Em không được đi học nữa. Nhà bà ngoại em ở xa trường học lắm. Mẹ em bảo sẽ sắm cho em một thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán”. Cha mẹ bỏ nhau, anh em li tán, con cái, đứa thì phải xa bố, đứa thì phải xa mẹ. Đối với Thủy, em còn có nỗi đau buồn nào to lớn hơn? Em phải bỏ học giữa trang đời tuổi thơ. Thủy khóc, bạn học khóc, cô giáo khóc. Những dòng nước mắt ấy đã thể hiện một cách sâu sắc, chân thực, cảm động về nỗi đau buồn của em thơ trước cảnh gia đình tan vỡ, bố mẹ bỏ nhau.
|
Instruct
All night long, the two brothers cried. Thuy was "sobbing, upset"-, she cried so much that her eyelids were "swollen", her black eyes became "deeply sad". Thanh had to "bite her lips tightly to keep from crying out loud", Tears "poured out like streams, drenching both my knees and my sleeves."
Early in the morning, the two brothers went to the garden. Thuy "quietly" placed her hand on her brother's shoulder. Thanh pulled her down and "gently stroked her hair". The separation is imminent; Both brothers were extremely miserable and felt lonely before the heavy disaster that was "falling" on their heads...
Dad went somewhere and never came back. It has been several days since Thuy has seen her father. There are only a few hours left before I have to follow my mother back to my grandparents' hometown. I was sad, tears welled up, my face fell down and I said in pain: "Why doesn't Dad come home?" So I couldn't say hello to my dad before leaving. My parents broke up, when will I "see my dad again?" Thuy lost too much in her childhood, too big!
Canh Thuy's last visit to the school, saying goodbye to the teacher and classmates of class 4B, was a sad scene. Thuy was lonely "standing against a tree in front of the class". Thuy "bited her lips tightly and remained silent, her eyes staring blankly across the school yard...". Thuy was miserable and "burst into tears". The teacher was "shocked" when Thuy entered the classroom. She "hugged you tightly" and said: "I love you very much." The whole class was "shocked", there were "sobbing" cries - some close friends left their seats and ran to "tightly hold" Thuy's hand when they heard the teacher announce her pitiful plight. The teacher "turned pale", cried out, "Oh my god", and then "tears welled up". The whole class 4B "cried louder and louder" when they heard Thuy say: "... I can't go to school anymore. My grandmother's house is very far from school. My mother said she would buy me a basket of fruits to go to the market to sell." Parents leave each other, brothers separate, children have to leave their father, some have to leave their mother. For Thuy, what greater sadness is there? I had to drop out of school in the middle of my childhood. Thuy cried, her classmates cried, her teacher cried. Those tears deeply, honestly, and touchingly expressed the child's sadness at the scene of a broken family and parents leaving each other.
|
Hướng dẫn
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Câu thứ nhất nói về “công cha”. Công cha đã từng được so sánh với núi Thái Sơn; ờ đây công cha lại được ví với “núi ngất trời”, núi hùng vĩ, núi cao chót vót. cao đến mấy tầng mây xanh, núi chọc trời. Câu thứ hai nói về “nghĩa me”- nghĩa mẹ bao la, mênh mông, không thể nào kể xiết. Nghĩa mẹ được so sánh với “như nước ở ngoài biển Đông”. Nghệ thuật so sánh và đối xứng đã tao nên hai hình ảnh kì vĩ, vừa cụ thể hóa, hình tượng hóa, vừa ca ngợi nghĩa me công cha với tất cả tình yêu sâu nặng. Tiêng thơ dân gian khẽ nhắc mỗi chúng ta hãy ngước lèn nhìn núi cao, trời cao, hãy nhìn xa ra ngoài biển Đông, lắng tai nghe sóng reo sóng hát, thủy triều vỗ mà suy ngẫm về công cha nghía ne thấm thía và rung dong biết bao:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nướcngoài biển Đông”
Hai câu cuối, giọng thơ cất lên thiết tha ngọt ngào. Tiếng cảm thán “con ơi!” là lời nhắn nhủ ân tình về đạo làn. con phải biết “ghi lòng” tạc dạ công cha nghĩa mẹ:
“Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
|
Instruct
“Father's merit is like a mountain towering over the sky,
Motherhood is like water in the East Sea.
High mountains, vast seas,
The island has nine words in mind, my child!
The first sentence talks about "father's merit". Cong Cha was once compared to Mount Thai Son; Here, my father's work is compared to a "sky-high mountain", a majestic mountain, a towering mountain. High up to several layers of blue clouds, mountains reaching up to the sky. The second sentence talks about "mother's meaning" - mother's meaning is vast, immense, indescribable. The meaning of mother is compared to "like water in the East Sea". The art of comparison and symmetry has created two magnificent images that both concretize, visualize, and praise the love between mother and father with all the depth of love. Folk poetry gently reminds each of us to look up at the high mountains and high sky, look far out to the East Sea, listen to the singing waves, the lapping tides, and reflect on our father's profound and heart-warming achievements. how much dong:
“Father's merit is like a mountain towering over the sky,
A mother's meaning is like water in the East Sea"
In the last two lines, the poetic voice sounds passionate and sweet. The exclamation "my child!" is a message of kindness about religion. Children must know how to "remember" the kindness of their father and mother:
“The mountains are high and the sea is vast,
The island has nine words in mind, my child!
|
Hướng dẫn
Nó gắn bó với tâm hồn nhân dân ta từ bao đời nay. Trong đó, những bài ca dao nói về tình cảm gia đình sao mà hồn hậu, thắm thiết thế. Tinh cha, nghĩa mẹ, tình yêu thương anh chị em, tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng, v.v… trong nhiều câu ca dao “sống” với ta như một kỉ niệm đẹp không bao giờ quên. Bài ca dao nói về tình thương nỗi nhớ của người con gái đối với mẹ già là một ví dụ làm cho em cảm động: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Thơ lục bát vốn nhịp nhàng, êm đềm. Hai câu ca dao này, cũng vậy, nhịp hai cân đối hài hòa, với chín thanh bằng quá bán, với ba tiếng “chiều chiều… chiều” đứng ở đầu và cuối câu,… đã tạo nên nhạc điệu, giai điệu nhè nhẹ, buồn thương. Điệu tâm hồn của câu ca dao là vô cùng đặc sắc, nó quyện lấy tâm hồn người đọc người nghe. Sức hấp dần trước hết ở giọng điệu tâm tinh.
‘ 1. Câu thứ nhất vừa có tính thời gian (chiều chiều) vừa có tính khống gian (ngõ
sau, quê mẹ). Buổi chiều tà, nhất là lúc hoàng hôn, ngày tàn, màn đêm dần buông xuống, là thời điểm gợi nhớ, gợi sầu man mác cho những người tha hương. “Song 22 sa vò võ phương trời – Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng” (Truyện Kiều), “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” (Huy Cận). Bài ca dao cũng nói vể buổi chiều, không chỉ một buổi chiểu mà là nhiều buổi chiều rồi: “Chiều chiều..”. Sự việc cứ diễn ra, cứ lặp đi lặp lại “ra đứng ngõ sau”… “Ngõ sau” là nơi vắng vẻ. Câu ca dao gợi lên một chút tâm tình cô đơn. Câu ca dao không nói ai “ra đứng ngõ sau”, ai “trông về quê mẹ…”, nhân vật trữ tình không được giới thiệu cụ thể vẻ dáng hình, diện mạo… nhưng người đọc, người nghe xưa nay tinh lắm, vẫn cảm nhận được đó là cô gái xa quê hương, xa gia đình… (đi lấy chổng xa?). Nhớ lắm, nỗi nhớ vơi đầy, nên chiều nào cũng như chiều nào, nàng một mình “ra đứng ngõ sau”, lúc hoàng hôn để nhìn về quê mẹ phía chân trời xa:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau”…
2.Càng trông về quê mẹ, người con càng thấy lẻ loi nơi quê người, nỗi thương nhớ da diết khôn nguôi:
“Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều”
Quê mẹ khuất sau lũy tre xanh. Có cây đa, bến nước, sân đình. Có con đò nhỏ và dòng sông xanh uốn quanh. Có cánh đồng “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” ngào ngạt bốn mùa hương lúa. Có bà con chất phác, hiền lành và lam lũ sớm hôm. Có ngôi nhà gianh bé nhỏ thân yêu, nơi người con gái sinh ra và lớn lèn với bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ, của thời con gái. “Năm gian nhà cỏ thấp le te…” (Nguyễn Khuyến). Quê mẹ là nơi anh chị em ruột thịt quây quần xung quanh mâm cơm dẻo thơm có“canh rau muống… cà dầm tương”. Quê mẹ giờ đây có người mẹ già tóc bạc phơ đang tựa cửa thương nhớ đứa con gái đi xa…
Ca dao nói ít, tả ít mà gợi nhiều bởi đó là “cây đàn muôn điệu” của dân gian. Chỉ là hai chữ “quê mẹ” thôi mà đã đem đến cho người đọc một trường liên tưởng chứa chan tình cố hương.
Người con “trông về quê mẹ”, càng trông càng nhớ day dứt, tha thiết, nhớ khôn nguôi. Bốn tiếng “ruột đau chín chiều” diễn tả cực hay nỗi nhớ đó. Nhà thơ dân gian không sử dụng một bổ ngữ, một trạng ngữ mà lại dùng số từ “chín chiều” để biểu lộ tâm trạng, thật là độc đáo. Tục ngữ, thành ngữ có “năm nhớ mười
thương” thì ở câu ca dao này lại có “ruột đau chín chiều”. Buổi chiểu nào cũng thấy nhớ thương, đau đớn. Đứng trông về chiều hướng nào, người con tha hương cũng buồn đau tê tái, nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người thân thương dâng lên, càng thấy cô đơn vô cùng. Và chỉ một âm thanh đồng quê cũng gợi lên bao tình thương nỗi nhớ, nhớ mẹ hiền khôn nguôi:
“Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,
|
Instruct
It has been attached to the souls of our people for many generations. In it, the folk songs talk about family love, how soulful and passionate it is. Father's love, mother's love, brother and sister love, love between man and woman, love between husband and wife, etc. in many folk songs "live" with us as beautiful memories that we will never forget. The folk song about a girl's love and nostalgia for her elderly mother is an example that touches me: "In the afternoon, I stand in the back alley,
Looking back to my mother's hometown is painful."
Luc Bat poetry is inherently rhythmic and peaceful. These two folk songs, too, have a harmoniously balanced rhythm, with nine overtones, with three words "afternoon afternoon... afternoon" standing at the beginning and end of the sentence,... creating a gentle melody and melody. , sad. The soulful melody of the folk song is extremely unique, it entwines the soul of the reader and listener. The first attraction is in the emotional tone.
' 1. The first sentence is both temporal (afternoon) and spatial (alley
later, motherland). Late afternoon, especially sunset, when the day ends and night gradually falls, is a time of remembrance and sadness for those in exile. "Song of 22 clouds in the sky - Now sunset, tomorrow sunset" (Story of Kieu), "Even without smoke in the sunset, I miss home" (Huy Can). The folk song also talks about afternoons, not just one afternoon but many afternoons: "Afternoon, afternoon...". The incident kept happening, repeating "go to the back alley" over and over... "The back alley" is a deserted place. The folk song evokes a bit of loneliness. The folk song does not say who "stands in the back alley", who "looks back to the motherland...", the lyrical characters are not specifically introduced with their shape, appearance... but the readers and listeners have always been very sophisticated. I still feel that she is a girl far from home, far from family... (getting married far away?). She missed her so much, her nostalgia filled her, so every afternoon, like every afternoon, she went alone to the back alley at sunset to look at her mother's hometown on the distant horizon:
"Lane stood next afternoon"…
2. The more the child looks back to his mother's homeland, the more lonely he feels in his homeland, and his longing for him is so intense that it is inconsolable:
"Looking back to my mother's hometown, my stomach aches nine times"
My mother's homeland is hidden behind green bamboo. There is a banyan tree, a water wharf, and a communal yard. There is a small boat and a green river winding around. There is a field that is "immense... immense" filled with the scent of rice in all four seasons. There are people who are simple, gentle and work hard every morning. There is a lovely little house where a girl was born and grew up with many beautiful memories of childhood and girlhood. “Five houses with low grass…” (Nguyen Khuyen). Mother's hometown is where siblings gather around a tray of fragrant rice with "water spinach soup... pickled eggplant with soy sauce". My mother's hometown now has an old mother with gray hair leaning on the door, missing her daughter who is far away...
Folk songs say little, describe little, but evoke a lot because it is the "musical instrument" of the people. Just the two words "motherland" bring to the reader a field of associations filled with love for the homeland.
The son "looks back to his motherland", the more he looks, the more he misses it, passionately, inconsolably. The four words "nine-dimensional pain in the intestines" describe that nostalgia very well. Folk poets do not use a complement or an adverb but instead use a number of "nine-dimensional" words to express their mood, which is truly unique. Proverbs and idioms say “remember ten in five
injury" then in this folk song there is "nine-dimensional pain in the intestines". Every afternoon I feel nostalgic and painful. No matter which direction you look, the exiled child will feel pain and numbness, longing for his hometown, missing his mother, missing his loved ones will rise, making him feel even more lonely. And just a single country sound evokes so much love, nostalgia, and indelible longing for my mother:
“I can hear the birds and ducks chirping in the afternoon,
|
Hướng dẫn
Bài ca dao ba câu lục bát, dừng lại ở câu lục, một hiện tượng độc đáo, ít thấy trong thơ ca dân gian:
“Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô…”
Có nhiều người cho rằng bài ca dao này nói về cảnh đẹp xứ Huế. Chưa đầy đủ. Không gian địa lí và không gian nghệ thuật được nói trong bài ca dao rộng lớn hơn nhiều.
Câu thứ nhất nói về “đường vô xứ Huê”, đó là con đường rất dài phải qua chí ít sáu tỉnh miền Trung (từ Bắc đi vào): Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Hai chữ “quanh quanh” gợi tả sự uốn lượn, khúc khuỷu, hiểm trở, gập ghềnh xa xôi. Ngày xưa vô Huế phải vượt qua “Hoành Sơn nhất đái” (một dải Hoành Sơn), phải vượt qua bao sông suối, núi đèo; sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn… đến sông Hương núi Ngự. Phải qua núi Hồng Lĩnh, đèo Ngang, lũy Thầy, truông Nhà Hồ, phá Tam Giang…
Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,
Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu!
(Nguyễn Du)
“Yêu em anh cũng muốn vô,
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
(Ca dao)
Câu thứ hai nêu lên một ấn tượng khái quát về cảnh sắc thiên nhiên trên “đường vô xứ Huê”. “Non xanh nước biếc” vừa là thành ngữ vừa là hình ảnh rất đẹp, có màu “xanh” bất tận của non, có màu “biếc” mê hồn của nước. Đó là cảnh sông núi tráng lệ, hùng vĩ, hữu tình, nên thơ… “Non xanh nước biếc” ấy lại được so sánh “như tranh họa đồ” gợi lên trong lòng người niềm tự hào về giang sơn gấm vóc, về què hương đất nước kì thú, xinh đẹp, mến yêu.
‘ Câu cuối là lời chào mời chân tình, như một tiếng lòng vẫy gọi: “Ai vô xứ Huế thì vô“… Vô xứ Nghệ hay vô xứ Huế là đến với một miên quê rất đẹp, rất đáng yêu có “Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Bởi thế, nhà thơ Huy Cận mới viết:
… “Ai đi vô nơi đây
Xin dừng chân xứ Nghệ
Ai đi ra nơi này
Xin chân dừng xứ Nghệ.
Nghe câu hò ví giặm Càng lắng lại càng sâu Như sông La chảy chậm Đọng bao thuở vui sầu”
|
Instruct
The folk song has three six-eight verses, stopping at the six verses, a unique phenomenon, rarely seen in folk poetry:
“The road to Hue is all around
Green non specifically Graphic picturesque.
Whoever comes to Hue will go..."
Many people think that this folk song is about the beautiful scenery of Hue. Not enough. The geographical space and artistic space mentioned in the folk song are much larger.
The first sentence talks about "the road to Hue", which is a very long road that must pass through at least six central provinces (coming from the North): Thanh Hoa, Nghe An, Ha Tinh, Quang Binh, Quang Tri, Thua Thien . The two words "around" describe the winding, winding, dangerous, and rugged distance. In the past, going to Hue had to pass "Hoanh Son Nhat Tieu" (a strip of Hoanh Son), had to cross many rivers, streams, and mountain passes; Ma River, Lam River, La River, Gianh River, Thach Han River... to Huong River and Ngu Mountain. Must pass Hong Linh mountain, Ngang pass, Thay citadel, Ho Dynasty farm, Tam Giang lagoon...
Hong Son towers several stories high.
A few meters from the boat installation is enough!
(Nguyen Du)
“I love you, I want to come too,
Fear of the Ho Dynasty, fear of destroying Tam Giang"
(Folk)
The second sentence gives a general impression of the natural scenery on the "road to Hue". "Green mountains and blue water" is both an idiom and a very beautiful image, with the endless "green" color of the mountains, the enchanting "blue" color of the water. It is a magnificent, majestic, charming, poetic scene of rivers and mountains... "Green mountains and blue waters" are compared to "like a painting" evoking in people's hearts pride in the brocade country and the lameness. The scent of the country is amazing, beautiful, and beloved.
' The last sentence is a sincere invitation, like a heart beckoning: "Whoever comes to Hue, please come"... To come to Nghe An or to Hue is to come to a very beautiful, very lovely countryside with "Green mountains and water". as clear as a painting." That's why poet Huy Can wrote:
… “Who comes in here?
Please stop in Nghe An
Who comes to this place?
Please stop in Nghe An.
Listen to the Vi Giam song. The more you settle down, the deeper it becomes. Like the slow flowing La River, holding on to many happy and sad times."
|
Hướng dẫn
Ca dao dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và sâu sốc, đằm thắm và mượt mà biết bao! Nó là tiếng hát tâm tình nơi bờ xôi ruộng mật, lưu truyền trong dângian, phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta từ bao đời nay. Có những khúc hát ru chứa chan tình yêu thương, ngọt ngào, tha thiết. Có bài ca nói về đất nước quê hương, với nương dâu, ruộng lúa, với hình ảnh người dân quê hiền hậu, cần cù hay lam hay làm đáng yêu. Cánh cò “bay lả bay la”, đầm sen “lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”. Có tiếng “nghé ọ” và con trâu hiển lành gặm cỏ trên đồng xanh, có cô thôn nữ tát nước “múc ánh trăng vàng đổ đi”,… Tất cả như đem đến cho lòng người gần xa bao niềm thương nỗi nhớ…
Đọc ca dao dân ca, sao mà ta thấy thích thú lạ về câu hát nói về cánh đồng lúa quê hương và hình ảnh cô thôn nữ đứng giữa đồng quê một sớm mai hồng rạng rỡ:
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh móng bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông.
Thản em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
1. Ca dao thường được diễn đạt bằng thể thơ lục bát. Nhưng ở bài này, nhà thơ dân gian đã sử dụng thơ lục bát biến thể, mở rộng câu thơ thành 12, 13 từ rất độc đáo.
Cô thôn nữ không vịnh cảnh đề thơ, mà chỉ nói lên những ý nghĩ, cảm xúc hồn nhiên, tự nhiên của lòng mình khi vác cuốc ra thăm đồng sung sướng ngắm nhìn cánh đồng thân thuộc, thẳng cánh cò bay của làng mình:
“Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông”.
“Ngó”gần nghĩa với nhìn, trông, ngắm… Từ “ngó” trong vàn cảnh này gợi tả một tư thế say sưa ngắm nhìn, một cách quan sát kĩ càng, một lối nói dân dã mộc mạc, bình dị mà đậm đà. Cô thôn nữ “đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng” rồi lại “đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng”, dù quan sát ở vị trí nào, góc độ nào, cô cũng cảm thấy sung sướng tự hào trước sự “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” của cánh đồng quê hương. Hai chữ “bên ni” và “bên tê” vốn là ngôn ngữ miền Trung (tiếng địa phương Nghệ Tĩnh) dùng để trỏ vị trí bên này, bên kia, được đứa vào bài ca dao gợi lên tính chất mộc mạc, chất phác của một tình quê hồn hậu. Nghệ thuật đảo từ ngữ “mênh mông bát ngát” rồi lại “bát ngát mênh mông” thể hiện một bút pháp điêu luyện trong việc miêu tả cánh đồng làng quê rộng bao la bát ngát một màu xanh, xa trông hút tầm mắt chẳng thấy đâu là bến bờ. Có yêu quê hương tha thiết, mới có cái nhìn đẹp, cách nói say mê đậm đà thế!
Hai câu đầu bài ca dao dược cấu trúc đăng đối song hành, làm hiện lên trước mắt chúng ta một cảnh đẹp: cánh đồng bao la, trù phú của quê nhà, rất thân thuộc với mỗi con người Việt Nam chúng ta như nhà thơ Hoàng Cầm đã viết:
“Xanh xanh bãi mía hờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
(…) Quê hương ta lúa nếp thơm nồng”…
(“Bên kia sông Đuống”)
Bằng tấm lòng yêu mến tự hào nơi chôn nhau cắt rốn của mình, mảnh đất thương yêu thân thiết mà từ bao đời nay tổ tiên ông bà con cháu, từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem mồ hôi, xương máu để bồi đắp và gìn giữ, nên nhà thơ dân gian mới có thể viết được những lời ca mộc mạc mà đằm thắm nghĩa tình, làm xao xuyến lòng ta như vậy!
2. Hai câu cuối là hình ảnh cô thôn nữ ra thăm đồng. Niềm vui sướng trào dâng. Cô không ví mình với “hạt mưa sa”, với “tấm lụa đào” như có người con gái đã nói về thân phận mình. Trái lại, cô đã lấy “chẽn lúa đòng đòng” để so sánh với cuộc đời đẹp tươi, nhiều mơ ước của mình. “Chẽn lúa” còn gọi là dảnh lúa, một bộ phận của khóm lúa. Hình ảnh “chẽn lúa đòng đòng” thể hiện sự phát triển trưởng thành sinh sôi nảy nở, hứa hẹn một mùa vàng bội thu sây hạt trĩu bông. Có lúa thì con gái rồi mới có “chẽn lúa đòng đòng”. Câu ca dao “Thân em như chẽn lúa đòng đòng” gợi tả một vẻ đẹp xinh tươi duyên dáng, một sức lực căng tràn. Đây là một hình ảnh khỏe khoắn, trẻ trung và hồn nhiên yêu đời của cô thôn nữ được nói đến trong tiếng hát lời ca sau bờ dâu ruộng lúa.
Trên cái nền xanh của cánh đồng, trong hương thơm ngào ngạt của lúa đòng đòng, dưới ánh hồng bình minh rực rỡ, trong làn gió mát rượi, ta thấy hiện lên bức chân dung cô thôn nữ thật đáng yêu vô cùng:
“Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
“Phất phơ”nghĩa là nhẹ nhàng đung đưa, uốn lượn… Chẽn lúa đòng đòng “phất phơ” bay nhẹ trước làn gió trên đồng nội vào một buổi sớm mai hồng thơ mộng. Thiếu nữ hân hoan sung sướng thấy hồn mình phơi phới hướng về một ngày mai hạnh phúc như “chẽn lúa đòng đòng” đang “phất phơ” dưới ánh bình minh.
Tại sao nhà thơ đồng quê lại dùng hình ảnh “ngọn nắng”? Có thể dùng hình ảnh làn nắng, tia nắng thì ý câu cao dao vẫn đúng. Nhưng “ngọn nắng” hay hơn, sát nghĩa hơn. Vì đó là tia nắng, làn nắng đầu tiên của một ngày đẹp trời, ánh hồng ban mai đang tụ hội và rập rờn trên ngọn lúa xanh. Trong bài thơ “Mùa xuân chín” thi sĩ Hàn Mặc Tử viết:
“Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”
Và nhà thơ Đoàn Văn Cừ trong bài “Chợ tết” cũng đã viết:
“Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nhảy hoài trong ruộng lúa”
Qua đó, ta càng thấy rõ tính chính xác, tính hình tượng, tính biểu cảm là những đặc trưng cơ bản nhất tạo nên giá trị nghệ thuật của ngôn từ thơ ca.
Bài ca dao “Đứng bên ni đồng…” là một bài ca dao trữ tình đặc sắc đã ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước qua hình ảnh cánh đồng lúa bát ngát mênh mông va vẻ đẹp duyên dáng, tươi trẻ, cần mẫn và yêu đời của nàng thiếu nữ làng quê Việt Nam.
|
Instruct
Vietnamese folk songs are extremely rich and profound, how loving and smooth! It is a sentimental song on the shores of honey fields, passed down among the villagers, reflecting the material and spiritual life of our people for many generations. There are lullabies filled with love, sweetness, and earnestness. There is a song about the homeland, with its mulberry fields, rice fields, with the image of the gentle, industrious and loving country people. The stork's wings "fly away", the lotus pond "has green leaves and white flowers interspersed with yellow stamens". There was the sound of "calf gurgling" and the buffalo happily grazing in the green fields, there was a village girl splashing water "to scoop up the golden moonlight",... All seemed to bring so much love and nostalgia to the hearts of people near and far...
Reading folk songs, why do we feel strangely interested in the song about the rice fields of our homeland and the image of a village girl standing in the middle of the countryside on a bright pink morning:
“Standing next to the fields, looking at the fields, vast and immense,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense.
I care about you like a rice field,
Floating under the pink morning sun.
1. Folk songs are often expressed in six-eight verse form. But in this poem, the folk poet used six-eight variations of poetry, expanding the verse into 12 or 13 very unique words.
The village girl did not admire the scene of the poem, but only expressed the innocent and natural thoughts and feelings of her heart when she carried her hoe to visit the fields and happily looked at the familiar fields, flying straight from the stork's wings:
“Standing on the side of the field, looking at the side of the field, vast and vast,
Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense."
"Look" is close in meaning to look, look, watch... The word "look" in many of these scenes describes a posture of passionately watching, a way of observing carefully, a rustic, simple yet rich way of speaking. . The village girl "stands next to the field and looks at the field" and then "stands next to the field and looks at the field". No matter from what position or angle she observes, she feels happy and proud at the "immensity of the field". The vast expanse... the vast expanse" of the homeland's fields. The two words "side ni" and "side numb" are originally from the Central region language (Nghe Tinh dialect) used to indicate the location of this side and that side, and are included in folk songs to evoke the rustic and naive nature. of a soulful hometown love. The art of reversing the words "immense" and then "immense" shows a skillful penmanship in describing the vast countryside fields of a green color, as far as the eye can see. Where is the shore? If you love your homeland passionately, you will have such a beautiful look and such a passionate way of speaking!
The first two lines of the folk song have a parallel parallel structure, creating a beautiful scene before our eyes: the vast, rich fields of our homeland, very familiar to each of us Vietnamese people like poets. Hoang Cam wrote:
“Green and green with sugarcane fields and mulberry trees
Sweet corn and potatoes
(…) Our homeland has fragrant sticky rice”…
(“Across Duong River”)
With a heart of love and pride in the place of our birth, the land of close love that for generations, our ancestors, grandparents, children, and grandchildren, from generation to generation, have brought their sweat, blood, and blood to nourish us. built and preserved, so folk poets can write such simple yet loving lyrics that make our hearts flutter!
2. The last two sentences are the image of a village girl visiting the fields. Joy welled up. She does not compare herself to "raindrops" or "peach silk" as one girl said about her fate. On the contrary, she used "a field of rice" to compare with her beautiful life with many dreams. “Rice stalk” is also called rice stalk, a part of the rice clump. The image of "throws of rice fields" represents mature growth and proliferation, promising a rich golden harvest of sowing seeds and flowers. If you have rice, then you will have a daughter and then you will have "a field of rice". The folk song "Your body is like a rice field" describes a graceful beauty and overflowing strength. This is a healthy, youthful and innocent image of the village girl mentioned in the song behind the rice fields.
On the green background of the field, in the sweet scent of rice fields, under the bright pink light of dawn, in the cool breeze, we see a portrait of an extremely lovely village girl appear:
“My body is like a stalk of rice,
Floating under the pink morning sun.
"Float" means gently swaying, winding... The rice field "flutters" lightly in the breeze in the fields on a romantic pink morning. The young girl was delighted and happy to see her soul fluttering towards a happy tomorrow like "a field of rice" "fluttering" under the dawn light.
Why does the country poet use the image of "sunshine"? You can use the image of sunshine and rays, then the meaning of the Cao Dao sentence is still correct. But "sunshine" is better, more literal. Because that is the ray of sunlight, the first ray of sunlight of a beautiful day, the pink light of the morning is gathering and fluttering on the green rice tops. In the poem "Nine Spring" poet Han Mac Tu wrote:
“In the blushing sunlight: the apricot smoke dissipates,
Two thatched cottages with scattered yellow"
And poet Doan Van Cu in the article "Tet Market" also wrote:
“White dew falls from the tips of branches like drops of milk,
Purple rays of sunlight dance forever in the rice fields.
Thereby, we see more clearly that accuracy, imagery, and expressiveness are the most basic characteristics that create the artistic value of poetic language.
The folk song "Standing beside the fields..." is a unique lyrical folk song that praises the beauty of the homeland through the image of immense rice fields and the graceful, youthful, diligent and beautiful beauty. love the life of a Vietnamese village girl.
|
Hướng dẫn
“Con tằm”và “lũ kiến” là hai ẩn dụ nói về những thân phận “nhỏ bé” sống âm thầm dưới đáy xã hội cũ. Thật đáng “thương thay”, thương xót cho những kiếp người phải làm đầu tắt mặt tối mà chẳng được ăn, được hưởng một tí gì! Khác nào một kiếp tằm, một kiếp kiến!
“Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiểm ăn được mấy phải đi tìm mồi”
Kiếp tằm “phải nằm nhả tơ”,kiếp kiến “phải đì tìm mồi”,nhưng “kiếm ăn được mấy”.Điệp ngữ “kiếm ăn được mấy”cất lên hai lần đã tố cáo và phản kháng xã hội cũ bất công, kẻ thì “ngồi mát hưởng bát vàng”, “kẻ ăn không hết, người lấn không ra”.
Hạc, chim, con cuốc,là ba ẩn dụ nói về những thân phận, số phận nếm trải nhiều bi kịch cuộc đời. “Hạc” muốn tìm đến mọi chân trời, muốn “lánh đường mây” để thỏa chí tự do, phiêu bạt. “Chim” muốn bay cao, bay xa, tung hoành giữa bầu trời, nhưng chỉ “mỏi cánh” mà thôi. Đó là những cuộc đời phiêu bạt, những cố gắng vô vọng của người lao động trong xã hội cũ, thật “thương thay” thật đáng thương!
“Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”
Thân phận con cuốc càng đáng “thương thay”! Nó đã “kêu ra máu” giữa trời mà “cố người nào nghe”, nào có được cảm thông, được san sẻ. “Con cuốc” trong văn cảnh này biểu hiện cho nỗi oan trái, cho nỗi đau khổ của nhân dân lao động không được lẽ công bằng nào soi tỏ. Càng kêu máu càng chảy, càng đau khổ tuyệt vọng:
“Thương thay con cuốc giữa trời,
|
Instruct
“Silkworm” and “ants” are two metaphors about the “small” people living silently at the bottom of the old society. How pitiful it is, pitiful for the lives of people who have to work hard and not be able to eat or enjoy anything at all! It's like a life of silkworms and a life of ants!
“Pity the fate of the silkworm,
To earn a living, you have to lie down and spin silk.
Pity the tiny ants,
If you can't eat anything, you have to go find prey."
In the life of a silkworm "you have to lie down and spin silk", in the life of an ant "you have to search for prey", but "you can't make a living". The alliteration "you can earn a living" is repeated twice, denouncing and protesting against the old unjust society. Some "sit coolly and enjoy the golden bowl", "some can't eat it all, some can't get out".
Crane, bird, and hoe are three metaphors that talk about the fate and fate of experiencing many tragedies in life. "Hac" wants to reach every horizon, wants to "avoid the clouds" to satisfy his desire for freedom and adventure. “Birds” want to fly high, fly far, fly in the sky, but their wings are just “tired”. Those are the wandering lives, the hopeless efforts of workers in the old society, "so pitiful" so pitiful!
“Pity the cranes that flee from the clouds,
Birds get tired of flying and only know when the day will come."
The hoe's fate is even more "pitiful"! It "cried out blood" in the sky but "no one listened" or could sympathize or share. "Hoe" in this context represents the injustice, the suffering of the working people that is not illuminated by any justice. The more you scream, the more blood flows, the more suffering and despair:
“Pity the hoe in the sky,
|
Hướng dẫn
Có khá nhiều bài ca dao nói về cô gái làng quê ngày xưa. Có bài bất đầu bằng hai chữ “Em là…”: “Em là con gái Kẻ Mơ…”, “Em là con gái Phủ Từ…”, “Em là cô gái đồng trinh – Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè…”. Còn có những bài bắt đầu bằng hai tiếng rất dễ thương “thân em”. Chữ “thân” được nói đến có nghĩa là thân phận, số phận, duyên số… Có bài là lời tâm sự tỏ bày nỗi niềm. Có bài là lời tự hát với bao mơ ước chứa chan. Tất cả đều làm hiện lên hình ảnh cô thôn nữ đáng yêu và đáng nhớ.
“Hạt mưa sa”, “hạt mưa rào”, “tấm lụa đào”,…là những ẩn dụ về “thân em”. “Đài các” tượng trưng cho sự giàu sang phú quý. “Vườn rong”, “ruộng cày” chí một cánh đời chân quê, vất vả, tay lấm chân bùn. Sống trong xã hội phong kiến, việc hôn nhân của thiếu nữ là do cha mẹ định đoạt, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tình duyên hạnh phúc mai sau, chỉ biết tin vào số phận như một sự may rủi: “Thân em như hạt mưa sa,
Hạt rơi đài các, hạt ra ruộng cày”
“Thân em như hạt mưa rào,
Hạt rơi đài các, hạt vào vườn rong”
Chỉ là hạt mưa nhỏ bé, hạt mưa sa, hay hạt mưa rào cũng thế thôi. “Đài các” với “ruộng cày”, với “vườn rong” tương phản hai cảnh đời. Có yên ấm hạnh phúc hay lận đận vất vả chỉ còn biết trông chờ vào số phận, vào sự may rủi. Như một tiếng than khẽ thốt lên chứa bao nỗi niềm.
Trong xã hội cũ, việc người con gái đi lấy chồng được coi là một sự “gả bán”. Cô thôn nữ cảm thấy nhan sắc mình, vẻ đẹp duyên dáng của mình, mịn màng óng mượt “như tấm lụa đào”. Nhưng tình duyên, hạnh phúc sẽ “biết vào tayai”:
“Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Đạo tam tòng của lễ giáo phong kiến vô cùng nghiệt ngã. “Biết vào tay ai” cũng là một nỗi niềm phấp phỏng lo âu. Nhà thơ dân gian đã cảm thông, đã san sẻ với những nỗi niềm ấy của bao cô thôn nữ ngày xưa.
Vẻ đẹp của thiếu nữ thật trăm màu trăm dáng. Có vẻ đẹp rực rỡ “mặt hoa da phấn”. Có nét đẹp “cổ kiêu ba ngấn, da phấn má lúm đồng tiền”. Lại có cô duyên thầm đen dòn,… Củ ấu gai trong bùn ao khác nào “thân em”, bình dị, quê kiểng:
“Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
Anh ơi nếm thủ mà xem,
Nếm xong mới biết là em ngọt bùi”
“Vỏ ngoài thì đen”,đó là đen dòn. Bởi lẽ tâm hồn em trong trắng, trinh trắng. Phẩm chất em trung hậu, đoan chính “ngọt bùi”. Lòng dạ em chung thủy sắt son. Một chút tâm sự giãi bày, nhưng rất tự tin, tự trọng về cái duyên thầm của
“thân em”.
Trên cái nền “bát ngát mênh mông”… “mênh mông bát ngát” của cánh đồng làng, cô thôn nữ rạo rực trước tâm hồn mình, nhan sắc của mình:
“Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”
Chẽn lúa đòng đòng hứa hẹn một ngày mai hạnh phúc trĩu hạt sây bông. So sánh “như chẽn lúa đòng đòng” gợi tả một sức sống căng tràn, một cuộc đời phơi phới như đang tung bay trong màu hồng và hơi ấm của ánh bình minh. Thân em vừa trẻ trung xinh đẹp, vừa dạt dào sức sống, hứa hẹn nhiều hạnh phúc tương lai.
|
Instruct
There are many folk songs about village girls in the past. There are songs that begin with the words "I am...": "I am the daughter of Ke Mo...", "I am the daughter of Phu Tu...", "I am a virgin - I sell wine through Mr. Nghe's palace... ”. There are also songs that start with the two very cute words "my dear". The word "body" mentioned means fate, fate, destiny... Some songs are confessions expressing feelings. Some songs are self-sung lyrics filled with dreams. All of them create the image of a lovely and memorable village girl.
“Raindrops fall”, “raindrops”, “peach silk”,… are metaphors for “your body”. “Dai Cac” symbolizes wealth and prosperity. "Seaweed garden", "plowing field" represent a life of rural life, hard work, hands and feet covered in mud. Living in a feudal society, a girl's marriage is decided by her parents, "wherever the parents place the child, there will be the child". Happy love in the future, I can only believe in fate as a chance: "My body is like falling raindrops,
The seeds fall on the terraces, the seeds fall into the plowed fields."
“My body is like raindrops,
Seeds fall on the terrace, seeds fall into the seaweed garden."
Just a small raindrop, falling raindrop, or showering raindrops are all the same. "The palace" with "plowed fields" and "seaweed garden" contrast two scenes of life. Whether you have peace, happiness or hardship, you can only rely on fate and luck. Like a soft moan filled with so much sadness.
In old society, a girl getting married was considered a "marriage". The village girl feels that her beauty, her graceful beauty, is smooth and silky "like peach silk". But love and happiness will "know in tayai":
“My body is like peach silk,
Floating in the market, who knows whose hands it belongs to?
The three obediences of feudal rites are extremely cruel. "Knowing whose hands it is in" is also a feeling of anxiety. The folk poet sympathized with and shared the feelings of many village girls in the past.
The beauty of a young woman is truly hundreds of colors and hundreds of shapes. Has the radiant beauty of "flower-faced with powdery skin". She has the beauty of "a proud neck with three lines and dimpled skin." There is a secret, brittle beauty... The thorny tubercle in the pond mud is no different from "my body", simple, country ornamental:
“My body is like a thorny tubercle,
The inside is white, the outside is black.
Please try and see,
After tasting it, I realized that you are sweet."
“The outer shell is black”, it is brittle black. Because my soul is pure, pure. Her qualities of being loyal and virtuous are "sweet". My heart is faithful and faithful. A little confiding, but very confident and self-respecting about my secret destiny
“my dear”.
On the "immense" background... "immense" of the village fields, the village girl was excited by her soul and her beauty:
“My body is like a stalk of rice,
Floating under the pink morning sun"
Paddy fields promise a happy tomorrow filled with cotton seeds. The comparison "like a rice field" suggests a fullness of life, a life as if fluttering in the pink and warmth of the sunrise. Your body is both young and beautiful, full of vitality, promising many future happiness.
|
Hướng dẫn
Yêu con đường trăng trong ca dao có nàng thôn nữ tát nước múc cả ánh trăng vàng đổ đi. Yêu con đường quanh quanh dẫn hồn em đến những chân trời xa xôi có “non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Có con đường năm nhớ mười thương dẫn ta tới Đồng Đăng, Kì Lừa thăm nàng Tô Thị… Có con đường dẫn ta trở về cội nguồn mà lòng bồi hồi với khói hương trầm trong ngày giỗ Tổ:
“Dù ai đi ngược vê xuôi,
Nhớ ngày giỗ TỔ mồng mười tháng ba”
Có những con đường xuôi ngược, lắm thác nhiều ghềnh như thử thách chí can trường tuổi trẻ. Ta mở rộng tầm nhìn đất nước quê hương:
“Đường lên Mường Lễ bao xa Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh”
Lên rừng hay xuống biển, non nước quẽ ta đâu đâu cũng đẹp như tranh:
“Hải Vân bát ngát ngàn trùng
Hòn Hồng ỏ đấy là trong Vịnh Hàn”
Tình yêu cao cả dạt dào như vậy, nên trong tư duy hình tượng của mình, nhân dân ta đã muốn cùng hóa công xây đắp cho cảnh vật của đất nước ngày thêm tráng lệ:
“Ta vê ta dựng mây lên,
|
Instruct
In love with the moonlight, in a folk song, there is a village girl who scoops up water and scoops up the golden moonlight. Love the surrounding road that leads my soul to distant horizons with "green mountains and blue waters like a painting". There is a road that leads us to Dong Dang, Ky Lua to visit To Thi... There is a road that leads us back to our roots, filled with the smoke of incense on the anniversary of our ancestors' death:
“No matter who goes back and forth,
Remembering the death anniversary of the ancestors, the tenth day of the third month"
There are roads up and down, many waterfalls and rapids that test the courage of youth. We expand the vision of our homeland:
"How far is the road to Muong Le? Hundreds and seventy waterfalls, hundred and thirty rapids"
Going to the forest or going to the sea, everywhere we go is as beautiful as a picture:
“Hai Van has thousands of insects
The Hong island there is in Han Bay."
With such noble love, in our symbolic thinking, our people wanted to work together to make the country's landscape more magnificent:
“I lift up the clouds,
|
Hướng dẫn
‘Chú tôi”là một người đàn ông rất đặc biệt. Bốn chữ ‘hay” giới thiệu cái nết ‘chú tôi” là say sưa rượu chè. ‘Hay tửu hay tăm” là nghiện rượu thích uống rượu ngon. ‘Hay nước chè đặc” ‘là nghiện chè, nghiện trà ngon. Người nồng dân vốn cần cù ‘hai sương một nắng”, chân lấm tay bùn quanh năm, nhưng chú cái cò lại ‘hay nằm ngủ trưa”, nghĩa là rất lười biếng:
‘Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa”
Những điều ‘ước” của chú cái cò cũng rất lạ, ta ít thấy trong tâm lí, trong suy nghĩ của người nông dân xưa nay. ‘Ước những ngày mưa” để khỏi phải ra đồng làm lụng. ‘Ước những đêm thừa trống canh” để ngủ được đẫy giấc. Điều ‘ước” của ‘chú tôi” vừa kì quặc, vừa phi lí. Đêm chỉ có năm canh, làm sao có thể ‘đêm thừa trống canh”. Chỉ thích ăn no ngủ kĩ mà lại rất lười biếng không muốn động chân mó tay vào bất cứ công việc gì, nên mới ‘ước” như vậy:
‘Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh”
Giọng bài ca nhẹ nhàng mà bỡn cợt. Chú cái cò là hình ảnh người nông dân nghiện rượu chè, thích ăn no ngủ kĩ mà lại rất lười biếng. Đó là đối tượng châm biếm của dân gian được thể hiện một cách hóm hỉnh qua bài ca dao này.
Có bài ca dao là bức chân dung biếm họa về ‘cậu cai”. Không phải là ông cai, mà là ‘cậu cai” vì vị chức sắc này còn rất trẻ, hay là cách nói ngọt mơn trớn để châm biếm?
‘Nón dấu lông gà”là sắc phục tượng trưng cho uy quyền. ‘Ngón tay đeo nhẫn” là biểu hiện cho sự sang trọng. Nhẫn vàng mười hay vàng MĨ-KÍ (vàng giả)? Chí bằng hai chi tiết về ngoại hình, về sắc phục, trang phục, nhà thơ dân gian đã ‘điểm nhãn” về sự oai vệ và sang trọng của tên cai lệ nơi cửa quan ngày trước. Không phải là khen, là trầm trồ. Đã ‘cậu cai” rồi lại nói tiếp ‘gọi là cậu cai”, ngữ điệu, giọng điệu trở nên mơn trớn, châm biếm, giễu cợt:
‘Cậu cai nón dấu lông gà,
Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai”
Vị thế của cậu, thân phận của cậu chí là tôi tớ của quan, hầu hạ vợ con con quan phụ mẫu. Ăn chực nằm chờ mãi mới được quan sai phái. Chữ ‘ba năm” trong câu ca ‘Ba năm dược một chuyến sai” là cách nói thậm xưng.
Bề ngoài cậu cai có vẻ oai vệ, sang trọng, mỗi lần được quan sai phái đi ra ngoài cũng có áo quần Xênh xang, cỏ vẻ ta đây, nhưng thực chất là chi ‘đi mượn”, ‘đi thuê”. Câu cuối bài ca là một tiếng cười bật lên, con người thật của cậu cai đã bị lột trần, bị hạ bệ:
|
Instruct
‘My uncle” was a very special man. The four words 'good' introduce the trait 'my uncle' is drunk and drunk. "Hay wine or toothpick" is an alcoholic who likes to drink good wine. 'Or thick tea' 'is addicted to tea, addicted to good tea. The hard-working people are hard-working, "two dews, one sunshine", and have muddy hands and feet all year round, but the stork "often lies down and takes a nap", which means he is very lazy:
'My uncle often drinks alcohol,
Or strong tea, or lie down and take a nap."
The "wish" of the stork is also very strange, we rarely see it in the psychology and thinking of farmers in the past. 'Wishing for rainy days' so I don't have to go to the fields to work. "I wish for the nights to be free" so that I can get a good night's sleep. My uncle's 'wish' is both strange and absurd. There are only five watches at night, so how can there be 'an extra night without watch'? I just like to eat well and sleep well, but I'm very lazy and don't want to do any work, so I "wish" like this:
'Every day I wish for rainy days,
At night, I wish for empty nights."
The song's voice is gentle and teasing. The stork is the image of a farmer who is addicted to alcohol, likes to eat well and sleep well but is very lazy. That is the object of folk satire expressed humorously through this folk song.
There is a folk song that is a caricature portrait of the 'old boy'. It's not the foreman, but "the foreman" because this dignitary is still very young, or is it a sweet, caressing way of saying it as a sarcasm?
'Hat marked with chicken feathers' is a uniform that symbolizes authority. The 'ring finger' is a sign of luxury. Ten gold ring or MY-KI gold ring (fake gold)? With just two details about appearance, uniform, and clothing, the folk poet "eyeballed" the majesty and elegance of the ruler at the mandarin gate in the past. It's not a compliment, it's an admiration. Having said 'you cai' and then saying 'call me uncle', the intonation and tone became caressing, sarcastic, and mocking:
'You take off your hat and hide the chicken feathers,
The finger that wears the ring is called the boy."
His position, his identity is that of a servant of the mandarin, serving his wife, children, and parents. Waiting and waiting for a long time to be sent by the official. The word 'three years' in the song 'Three years, one journey' is an exaggeration.
On the outside, the captain looks majestic and luxurious. Every time he is sent out by the mandarin, he also wears green clothes. He looks like he is here, but in reality, he is just 'borrowed' or 'rented'. The last sentence of the song is a burst of laughter, the boy's true self has been stripped bare and deposed:
|
Hướng dẫn
Ca dao dân ca Việt Nam tràn ngập ánh trăng vàng. Có vầng trăng thề nguyền, ước hẹn. Có vầng trăng thương nhớ, đợi chờ. Có vầng tràng li biệt, man mác bâng khuâng:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?”
Có vầng trăng chênh chếch ngọn tre làng. Có cảnh tát nước đêm trăng. Vầng trăng và thôn nữ sao mà đẹp và đáng yêu thế:
“Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
Biết bao lần em được nghe vần ca dao bát ngát ánh trăng ấy. Vần ca dao ngọt ngào và dào dạt ánh trăng đã tắm mát và tỏa sáng tâm hồn em. Tâm hồn con người Việt Nam phong phú, tươi đẹp, đậm đà hương sắc hoa bưởi, hoa cà, hoa sen và tỏa sáng vầng trăng. Câu ca dao “Hỡi cô tát nước bên đàng…” đã làm đẹp thêm tâm hồn vốn rất yêu trăng của nhân dân ta.
Thơ cổ ghi lại những thú vị chơi trăng. Có tao nhân “đăng sơn vọng nguyệt”. Có mặc khách “lên lẩu thưởng trăng”. Có trăng Tầm Dương trong tiếng Tì bà. Có “thi tiên” uống rượu và nằm ngủ dưới trăng, v.v… Trâng, rượu, hoa là thú vui tao nhã ở đời. Trăng được nói đến trong bài ca dao này là trăng đồng quê, vầng trăng với thiếu nữ, là cảnh tát nước đêm trăng.
Đó là vẻ đẹp duyên dáng, khỏe đẹp của một thiếu nữ đang cần mẫn tát nước dưới trăng. Suối tóc, cánh tay, nét mặt và toàn thân cô gái như dát ánh trăng vàng. Đó là vẻ đẹp của con kênh xanh xanh ngời ngời ánh trăng. Gầu nước vục xuống, mặt nước xao động, muôn ánh trăng vàng tan ra lung linh huyền ảo. Cô thôn nữ tát nước một mình mà chẳng lẻ loi vì đã có vầng trăng làm bạn và còn có chàng trai làng từng thầm yêu trộm nhớ đang say mê ngắm “nàng tiên” tát nước dưới trăng. Cảnh vật và con người, lao động và tình yêu, dòng nước và con đường… đều tràn ngập ánh trăng. Câu ca dao mười bốn từ, chỉ có một từ “trăng” mà người đọc thấy.mát rượi ánh trăng. Nhà thơ dân gian đã sống nhiều với vầng trăng nơi thôn dã, đã yêu vầng trăng với một tình yêu bao la, đã phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn trai gái làng quê, nên mới nói thật hay, thật đẹp cảnh thiếu nữ tát nước đêm trăng như vậy.
Một câu hỏi bâng quơ mà tinh nghịch? “Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”’ Chàng trai làng đa tình lấp ló đâu đây? Một câu hỏi ngạc nhiên, một lời trầm trồ khen ngợi, hay một lời tỏ tình tế nhị, kín đáo của chàng trai? Tất cả đều có thể. Chân lí cuộc đời và chân lí nghệ thuật vốn đa âm và phức điệu. Trong cảm nhận của nhiều người xưa và nay là đằng sau sự miêu tả cảnh tát nước đêm trăng còn là tiếng hát giao duyên chứa chan tình thương nỗi nhớ.
Cái hay cái đẹp của câu ca dao là tả ít mà gợi nhiều. Cảnh ngụ tình đầy thơ mộng. Chàng trai say mê ngắm thiếu nữ tát nước. Cảnh đẹp, người đẹp làm tôn chất thi vị, hữu tình. Dòng nước ngập ánh trăng. Mỗi gầu nước múc lên, thiếu nữ đổ đi biết bao ánh trăng vàng. Trăng tanvào nước bạc như giọt mồ hôi thiếu nữ tắm mát đồng lúa nương dâu, dệt bao mộng đẹp. Vì yêu người nên chàng trai thêm yêu trăng. Canh tát nước đèm trăng gợi cho ta thấy lao động là niềm vui sáng tạo. Tát nước đêm trăng hay là sự hẹn hò của những cô Tấm anh Điền nơi làng quê? Một tình yêu trong sáng, lành mạnh gắn liền với lao động có sự chứng kiến của vầng trăng.
Đến với vầng, trăng ca dao, ta yêu thêm vầng trăng xứ sở, yêu thêm đồng lúa quê ta, yêu thêm người dân cày Việt Nam. Dưới vầng trăng thanh bình có biết bao mối tình trong sáng, thủy chung nảy nở:
“Đèn tà thấp thoáng bống trăng,
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này?”
|
Instruct
Vietnamese folk songs are filled with golden moonlight. There is a moon that swears and makes promises. There is a moon that misses and waits. There is a circle of separation, filled with sadness:
“Who cut the moon in half,
Who drew the road upside down, my dear?
There is a moon hovering above the bamboo tops of the village. There is a scene of water splashing on a moonlit night. The moon and the village girls are so beautiful and lovely:
“O girl splashing water on the side,
She scooped gold stars moonlight poured away?"
How many times have I heard that song filled with moonlight? Sweet folk songs and abundant moonlight have cooled and brightened my soul. The soul of Vietnamese people is rich, beautiful, rich in the scent of grapefruit flowers, lilacs, lotus flowers and the shining moon. The folk song "O lady slapping water on the side..." has beautified the soul of our people, which loves the moon very much.
Ancient poetry records the fun of playing on the moon. There is a person who "hangs on the mountain and looks forward to the moon". Some guests "go to hot pot to enjoy the moon". There is Tam Duong moon in Pi Ba language. There are "poet fairies" who drink wine and sleep under the moon, etc. Pearls, wine, and flowers are elegant pleasures in life. The moon mentioned in this folk song is the moon of the countryside, the moon with young women, the scene of splashing water on a moonlit night.
That is the graceful, healthy beauty of a young woman diligently splashing water under the moon. The girl's hair, arms, face and entire body were like golden moonlight. That is the beauty of the blue canal shining with moonlight. The water bucket splashed down, the water surface stirred, the golden moonlight melted and shimmered magically. The village girl splashes water alone but is not lonely because she has the moon as her friend and there is also the village boy who once secretly loved her and is passionately watching the "fairy" splash water under the moon. Landscapes and people, labor and love, water and roads... are all filled with moonlight. The folk song has fourteen words, with only one word "moon" that the reader sees. cool moonlight. The folk poet lived a lot with the moon in the countryside, loved the moon with an immense love, discovered the beauty of the souls of village boys and girls, so he said it was so beautiful, so beautiful, the scene of a young woman slapping Such moonlit night water.
An innocent yet mischievous question? "Why are you scooping up the golden moonlight?"' Where is the amorous village boy appearing? A surprising question, an admiring compliment, or a delicate, discreet confession of love from the guy? Everything is possible. The truth of life and the truth of art are inherently polyphonic and polyphonic. In the feeling of many people, past and present, behind the description of the scene of water splashing on a moonlit night is also a love song filled with love and nostalgia.
The beauty of a folk song is that it describes less but evokes more. The love scene is full of poetry. The young man watched with passion as the young woman splashed water. Beautiful scenery and beautiful people enhance the poetic and charming nature. The water is filled with moonlight. With each bucket of water scooped up, the young girl poured out so much golden moonlight. The moon melts into silver water like drops of a young woman's sweat bathing the rice fields, weaving many beautiful dreams. Because he loves people, the boy loves the moon more. The moonlight water splashing soup reminds us that work is creative joy. Water splashing on a moonlit night or a date between Tam and Dien girls in the countryside? A pure, healthy love associated with labor witnessed by the moon.
Coming to the moon and folk songs, we love the moon of our country more, love the rice fields of our hometown more, and love the people plowing Vietnam more. Under the peaceful moon, so many pure, faithful love relationships flourish:
“The lights flickered against the moon,
Who brought the people of the valley to this place?
|
Hướng dẫn
Trong“Trường ca mặt đường khát vọng” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho
Đất Nước những núi Vọng Phu,
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hồn Trống Mái..,”
Tinh cảm cao đẹp ấy của người đàn bà nước Nam đã được nói lên thật hay, thật cảm động trong ca dao dân ca của dân tộc. Bài ca dao:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” đã neo giữ trong tâm hổn hàng triệu con người Việt Nam xưa nay.
Có thể nói đây là một bài thơ tình dân gian kiệt tác. Thuyền và bến là 2 hình ảnh ấn dụ – nhân hóa giao kết, giao hòa bằng những tình cảm sáu nặng. Thuyền nhớ bến, bến đợi thuyền, khăng khăng mãi trong lòng, không bao giờ có thể đổi thay, phai nhạt. Thuyền và bến tượng trưng cho tình nghĩa sắt son, chung thủy của lứa đôi trong cuộc đời.
1. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ ngàn vang bồi hồi tha thiết:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng”
Chữ “ơi” và chữ “chăng” đã hoa thanh tạo nên nhạc điệu du dương, réo rắt ấy. Tiếng gọi “thuyền ơi” xao xuyến vang lên, lan xa trong không gian, thấm sâu tỏa rộng trong hồn người. Câu hỏi tiếp theo “có nhớ bến chăng” đầy ắp nỗi thương nhớ của đôi lứa ở hai phía chân trời. Sóng cứ vỗ, nước mải miết trôi, bến mồ côi phủ mờ sương khói thời gian. Thuyền đi xa từ dạo ấy, nay đang lênh đênh trên dòng sông nào, ngọn thác nào, góc bể chân trời nào xa lắc? Thuyền đi mãi đi mãi chưa về. “Thuyền ơi có nhớ bến chăng”, câu ca cất lên như một lời than tự thương mình và thương người thấm đầy lệ.
Ân dụ thuyền nhớ bến, bến nhớ thuyền mang tình người, tình vợ chồng trong cảnh ngộ biệt li đầy bi kịch. Thuyền “có nhớ bến chăng”, còn bến thì vẫn nhớ, vẫn thương thuyền đang lênh đênh nơi chốn nào, và biết bao giờ mới trờ lại? Cũng nhu thuyền và bến, vợ – chồng có gắn bó với nhau, có yêu thương nhau thiết tha sâu nặng thì mới có nỗi thương nhớ da diết ấy.
Dòng nước chảy xuôi là vô tận. Dòng chảy thời gian là vô cùng. Con thuyền lênh đênh không bến. Bến mồ côi, bến đợi, bến hẹn phủ mờ sương khói tháng năm. Thuyền xa bến, thuyền nhớ bến cũng như chồng xa vợ, vợ chồng thương nhớ nhau, đó là bi kịch biệt li trong cõi nhân gian xưa nay.
2. Hai thanh trắc “một dạ” làm cho giọng thơ trĩu xuống như một nỗi niềm cứ thấm sâu vào hồn người:
“Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Bến và thuyền nằm ở hai vị trí đầu, cuối câu ca, cấu trúc ấy mang ý nghĩa thấm mĩ đặc sắc gợi tả một không gian cách biệt xa xăm, một thời gian li biệt dằng dặc. “Khăng khăng” nghĩa là đinh ninh không đổi thay. “Một dạ khăng khăng dơi thuyền” là một lời thề nguyền đã khắc sâu vào lòng, đã “khắc cốt ghi tâm”, đinh ninh son sắt, không bao giờ phai nhạt, đổi thay! Thuyền vẫn đi xa, đi xa mãi chưa trở về, bến vẫn mong, bến vẫn đợi, bến vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Càu ca “Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi nhớ thương đợi chờ, tấm lòng son sắt thủy chung của người vợ hiền đối với người chồng thân yêu đi mãi chưa về. Câu ca còn biểu lộ niềm tin và hi vọng vào một ngày mai, thuyền sẽ trở lại bến, bến sẽ gặp lại thuyền, vợ chồng sẽ được đoàn tụ yên vui hạnh phúc.
3. Trong các thế kỉ 17, 18, 19, đất nước ta chìm đắm trong loạn lạc và nội chiến kéo dài. Hàng triệu trai tráng phải ra trận, dãi thây trên các chiến địa. Khắp nơi diễn ra cảnh li biệt buồn thương:
“Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non”
Biết bao người phụ nữ, nhan sắc, tuổi trẻ mỏi mòn trong những năm tháng chờ đợi. Họ sống trong cô đơn lạnh lẽo, nỗi thương nhớ chồng chất, lòng dạ héo hon:
“Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời,
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nổi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(“Chinh phụ ngâm”)
Bài ca dao này chỉ có thể ra đời trong bối cảnh lịch sử và xã hội ấy. Nó đã phản ánh bi kịch gia đình và thời đại, nỗi đau buồn thương nhớ, đợi chờ của lứa đôi. Nó đã ca ngợi tình nghĩa thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam.
Ca dao dân ca Việt Nam có nhiều bài lấy hình tượng “thuyền – bến” để nội về tình thương nỗi nhớ trong biệt li xa cách:
“Thuyền đi để bến đợi chờ,
Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau.
Chẳng nên tình trước nghĩa sau,
Bến này dãi bóng trăng thâu đợi thuyền”
Bài ca dao “Thuyền ơi có nhớ bến chăng” là tiếng đồng vọng của lòng người vào thời gian năm tháng. Nó giàu giá trị nhân bản phản ánh một thời li loạn và bi kịch cuộc đời. Với giai điệu ngọt ngào thiết tha, nó ca ngợi tấm lòng đôn hậu, tình nghĩa thủy chung của những người vợ, người mẹ trong xã hội. Thuyền và bến là hình tượng nghệ thuật mang vẻ đẹp nhân văn, thể hiện một cách độc đáo cảm hứng nhân đạo về tình thương nỗi nhớ, khát vọng được sống trong sum họp yên vui hạnh phúc của lứa đôi. Nó mãi mãi là bài học vô giá về tình nghĩa thủy chung và lòng biết ơn những người mẹ, người chị, người vợ quê ta.
Cái hay cái đẹp của bài ca là tính hàm súc, tính truyền cảm, và tính hình tượng. Cuốn “Ngữ văn 7 – tập 2”, văn bản bài ca dao này được ghi như sau:
“Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Hai chữ “thuyền về” đã làm cho bài ca trở nên nhạt nhẽo và vô nghĩa.
|
Instruct
In "The epic of the road of desire", poet Nguyen Khoa Diem wrote:
“Wives who miss their husbands still contribute
The Country of Vong Phu Mountains,
A loving couple contributes to the soul of the Female Cock..,”
That beautiful sentiment of Southern women has been expressed beautifully and touchingly in the nation's folk songs. Folk song:
"Boat, do you miss the dock?
"The dock is always patiently waiting for the boat" that has anchored the hearts of millions of Vietnamese people from the past.
It can be said that this is a masterpiece folk love poem. Boat and wharf are two metaphorical images - personifying connection and reconciliation with strong emotions. The boat misses the dock, the dock waits for the boat, forever stuck in my heart, never able to change or fade away. The boat and wharf symbolize the couple's eternal love and loyalty in life.
1. The exclamation combined with the rhetorical question makes the poetic voice resonate with earnestness:
"Boat, do you miss the dock?"
The words "oh" and the word "chan" are mixed together to create that melodious, melodious melody. The stirring call "boat" rang out, spreading far in space, penetrating deeply and spreading into people's souls. The next question, "Do you miss the harbor?" is filled with the longing of the couple on both sides of the horizon. The waves keep crashing, the water keeps drifting, the orphaned wharf is covered with the mist of time. The boat has traveled far since then, and is it now floating on which river, which waterfall, which distant corner of the horizon? The boat went forever and never returned. "Boat, do you miss the dock?" the song sings like a tearful lament of self-pity and love for others.
The metaphor of the boat missing the dock, the dock missing the boat conveys human love, husband and wife love in the tragic situation of separation. The boat "remembers the dock", but the dock still remembers, still loves where the boat is floating, and who knows when it will return? Just like a boat and a dock, if a husband and wife are attached to each other and love each other deeply and deeply, then there will be that deep nostalgia.
The flowing water is endless. The flow of time is infinite. The boat floats without a dock. The orphanage station, the waiting station, the appointment station are covered with mist and smoke in May. The boat is far from the port, the boat misses the port, just like the husband is far from his wife, the husband and wife miss each other, that is the tragedy of separation in the human world.
2. Two "one heart" tones make the poem's voice heavy like a feeling that penetrates deep into the soul:
"Ben is an insistence stomach waiting boat"
The wharf and boat are located at the beginning and end of the song. That structure has a unique aesthetic meaning, depicting a distant space, a time of long separation. “Insistence” means to believe that it will not change. "One heart and one heart will hold the boat together" is a vow that has been engraved deep in the heart, "engraved in the heart", firmly fixed, never fading or changing! The boat still goes far, goes far and has not returned, the dock is still waiting, the dock is still waiting, the dock is still "persistently waiting for the boat".
The song "At the dock, one patiently waits for the boat" deeply expresses the longing and waiting, the loyal heart of a kind wife towards her beloved husband who has gone away and has not returned. The song also expresses faith and hope that one day, the boat will return to the dock, the dock will meet the boat again, and the husband and wife will be reunited in peace and happiness.
3. During the 17th, 18th, and 19th centuries, our country was immersed in chaos and prolonged civil war. Millions of young men had to go to war, drooling on battlefields. Scenes of sad farewells take place everywhere:
“The stork wades along the riverbank,
Carrying rice to give to her husband, crying loudly.
So many women, their beauty, and their youth have languished in the years of waiting. They live in cold loneliness, their memories pile up, their hearts are withered:
“Missing you all the way to heaven,
The sky is so deep and unfathomable,
It hurts so much to miss you..."
(“Conquering Father's Soak”)
This folk song could only be born in that historical and social context. It reflects the tragedy of the family and the times, the sadness, remembrance, and waiting of the couple. It praised the steadfast love and loyalty of Vietnamese women.
Vietnamese folk songs have many songs that use the image of "boat - wharf" to express love and nostalgia in the midst of separation:
“The boat goes to the dock and waits,
Love means never forgetting each other.
Shouldn't love first and mean later,
This wharf is lined with moonlight waiting for a boat."
The folk song "Boat, do you miss the dock?" is the echo of people's hearts through the years. It is rich in human values reflecting a time of turmoil and life tragedy. With a sweet and passionate melody, it praises the kindness and faithful love of wives and mothers in society. Boats and wharves are artistic images of humanistic beauty, uniquely expressing the humanitarian inspiration of love, nostalgia, and the couple's desire to live in a peaceful and happy reunion. It will forever be an invaluable lesson about faithful love and gratitude to our mothers, sisters, and wives.
The beauty of the song is its conciseness, inspiration, and imagery. In the book "Literature 7 - volume 2", the text of this folk song is recorded as follows:
“Do you remember the dock when the boat returns?
Ben is an insistence stomach waiting boat"
The two words "boat returns" make the song bland and meaningless.
|
Hướng dẫn
Đất nước Việt Nam thân yêu có muôn ngàn cây lá khác nhau, hoa thơm quả ngọt bốn mùa. Một màu xanh bát ngất bao trùm sông núi. Cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời “Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Lòng người hồn hậu, giàu tình yêu thương. Những khúc dân ca, những bài ca dao cùng với sữa mẹ, lời ru của bà đã thấm sâu vào tâm hồn của mỗi chúng ta. Con trâu, con cò, con bống, hoa sen, hoa bưởi, hoa cà… cùng với lời ca tình nghĩa đem đến cho ta men say cuộc đời, làm vợi đi ít nhiều lam lũ, vất vả. Em từng nghe anh hát: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Em từng nghe chị hát:
“Hoá thơm thơm lạ thơm lùng,
Thơm cành, thơm rễ, người trồng cũng thơm”
Và còn hoa sen trong đầm đã làm em say mê từ thuở ấu thơ qua lời ru của mẹ. Năm tháng đã trôi qua, hồi tưởng lại, em cảm thấy lòng mẹ ngạt ngào hương sen:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Cảnh đầm sen đẹp quá. Và lòng người cũng đẹp như sen.
Sen là loại cây, loại hoa đẹp nhất trong đầm. Hoá súng hoa lục bình, hoa muống màu tím biếc đã đẹp, nhưng không thể so sánh với sen. Bằng cách nói so sánh “gì đẹp bằng”, tác giả tự hào khẳng định: “Trong đầm gì đẹp bằng sen”. Câu thứ hai giới thiệu cụ thể vẻ đẹp của đầm sen. Nhà thơ dân gian đang cùng chúng ta say mê ngắm đầm sen một ngày hè đẹp:
“Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng”
Trên mặt hồ trong vắt, lá sen xòe ra như những chiếc lọng xinh xinh, những bông sen trắng, sen hồng nở xòe ra, nhị hoa màu vàng tươi, tỏa hương thơm ngào ngạt. Lá, hoà, nhị, xanh, trắng, vàng, bấy nhiêu nét vẽ chấm phá trong một câu thơ tám từ mà làm nổi bật vẻ đẹp của sen với màu sắc hài hòa. Sự thần diệu của lời ca là chẳng nói đến hương sen mà người đọc vẩn cảm thấy hương sen tỏa ngát, tâm hồn lâng lâng”.
Câu thứ ba đổi vần một cách kì lạ. Hai hình ảnh “lá xanh” và “nhị vàng” được giao hoán cho nhau. Câu thứ ba hầu như khép Lại câu thứ hai (giản lược) hai chữ ‘Tại chen”. Nghệ thuật đổi vần ở đây chứng tỏ một bút pháp già dặn, điêu luyện của một nghệ sĩ cao tay, tạo nên một ấn tượng đặc biệt. Ta như cảm thấy có một bàn tay thon thả, xinh xinh của thiếu nữ đang lật đi lật lại từng lá sen xanh, nàng niu từng bông sen trắng, ngắm nghía trầm trồ nhị vàng của búp sen:
“Nhị vàng, bông trắng, lá xanh”
Vẻ đẹp của đầm sen, của hoa sen cũng là vẻ đẹp của làng quê, của thiên nhiên đất nước. Tác giả miêu tả vẻ đẹp rực rỡ của đầm sen với tình yêu cỏ cây hoa lá của tạo vật, với cả niềm tự hào dân tộc về đất mẹ quê cha.
Bài ca dao còn mang một hàm nghĩa, một ẩn ý sâu sắc, đẹp đẽ. Lời thơ được cấu trúc bằng biện pháp tương phản: “gần bùn” – “mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Bùn hôi tanh. Sen mọc từ nơi hôi tanh của bùn nhưng sen rực rỡ, thơm ngát thế! Câu ca dao đã đưa ta đến một liên tưởng thú vị. Cuộc đời của nhân dân ta ngày xưa, dưới ách thống trị của bọn vua quan, địa chủ, cường hào, sưu thuế nặng nề, phải trải qua nhiều khó nhọc, thiếu thốn. Cuộc đời vật lộn giữa bùn đen hôi tanh, nhưng tâm thế của nhân dân ta rất vững vàng “chẳng hôi tanh mùi bùn”. Có thể tác giả bài ca dao là một nhà nho nghèo, từ chiêm nghiệm cuộc đời mà nêu lên một triết lí nhân sinh cao đẹp của nhân dân ta, ca ngợi bản lĩnh dân tộc: sống thanh cao, sông trong sạch.
Ca dao dân ca có biết bao bài học đặc sắc nói về hoa lá. Có bài nói về dáng trúc mang tiết tháo người hiền “trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Có bài nói về hoa mai thanh cao. Có bài nói về hoa nhài tinh khiết, trong trắng. Dân ca Quan họ có bài nói về trăm loài chim, trăm loài hoà… Qua đó ta thấy tâm hồn nhân dân ta rất đẹp, yêu mến quý trọng hoa thơm cỏ lạ mà thiên nhiên ban tạng cho con người.
Với lòng yêu quý hoa lá, chúng ta lấy làm thú vị được thưởng thức cái hay, cái đẹp của bài ca dao “Trong đấm gì đẹp bằng sen…” này.. Ta yêu thêm vẻ đẹp đồng quê, yêu thêm tâm hồn, vẻ đẹp tâm thế của con người Việt Nam:
“Rủ nhau ra tắm hồ sen,
Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình.
Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh,
Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”…
Trong chúng ta, ai đã có lần được ngắm sen Hồ Tây, sen hồ Tĩnh Tàm (Huế), sen Đồng Tháp Mươi…? Nghĩ về đầm sen, hương sen, chúng ta tự hào biết bao về người con vĩ đại của làng Sen thân thuộc như nhà thơ Bảo Định Giang đã ngợi ca:
|
Instruct
The beloved country of Vietnam has thousands of trees with different leaves, fragrant flowers and sweet fruits in all four seasons. An overwhelming blue color covers the mountains and rivers. Wonderful natural scenery "Green mountains and blue water like a painting". People's hearts are kind and rich in love. Her folk songs, folk songs, and mother's milk and lullabies have penetrated deeply into each of our souls. The buffalo, the stork, the goby, the lotus, the grapefruit, the lilac... along with the lyrics of love bring us the intoxication of life, making us overcome more or less the hardships. I once heard you sing: "If it's not fragrant, it's still jasmine. Even if it's not elegant, it's still from Trang An." I once heard her sing:
“The fragrance is strangely fragrant,
The branches are fragrant, the roots are fragrant, the grower is also fragrant.
And the lotus flower in the lagoon has fascinated me since childhood through my mother's lullaby. Years have passed, looking back, I feel my mother's heart filled with lotus scent:
"In what beautiful dress with lotus,
Green leaves, white flowers, and yellow stamens.
Yellow stamens, white flowers, green leaves,
Nearly mud that does not stink of mud"
The lotus pond scene is so beautiful. And the human heart is as beautiful as a lotus.
Lotus is the most beautiful plant and flower in the lagoon. The water hyacinth and purple morning glory flowers are beautiful, but they cannot be compared to the lotus. By comparing "nothing is as beautiful as the lotus", the author proudly affirms: "Nothing in the lagoon is more beautiful than the lotus". The second sentence specifically introduces the beauty of the lotus pond. The folk poet is joining us in admiring the lotus pond on a beautiful summer day:
"Green leaves, white flowers with yellow stamens"
On the clear surface of the lake, lotus leaves spread out like beautiful parasols, white and pink lotus flowers bloomed, bright yellow stamens, radiating a sweet fragrance. Leaves, flowers, stamens, green, white, yellow, so many strokes in an eight-word poem that highlight the beauty of the lotus with harmonious colors. The magic of the lyrics is that without mentioning the lotus scent, the reader still feels the fragrant lotus scent and the soul is lightened.
The third sentence has a strange rhyme change. The two images "green leaf" and "yellow stamen" are interchanged. The third sentence is almost closed. In the second sentence (simplified), the two words 'At chen'. The art of changing rhymes here demonstrates the mature, skillful writing style of a skilled artist, creating a special impression. I feel like there is a slender, beautiful hand of a young woman turning over each green lotus leaf over and over again. She holds each white lotus flower, admiring the golden stamens of the lotus bud:
“Yellow stamens, white flowers, green leaves”
The beauty of the lotus pond and lotus flowers is also the beauty of the countryside and the nature of the country. The author describes the brilliant beauty of the lotus pond with the love of plants and flowers of all creatures, and the national pride in the motherland.
The folk song also carries a meaning, a profound and beautiful meaning. The poem is structured by means of contrast: "close to the mud" - "but not stinking of mud". The mud smells fishy. Lotuses grow from a smelly place of mud, but they are so bright and fragrant! The folk song has brought us to an interesting association. The life of our people in the past, under the yoke of kings, landowners, tyrants, and heavy tax collectors, had to go through many hardships and deprivations. Life is a struggle amid black, smelly mud, but our people's mentality is very stable, "not stinking of mud". Perhaps the author of the folk song was a poor Confucian scholar, from his contemplation of life, he raised a noble philosophy of life for our people, praising the national bravery: a noble life, a clean river.
Folk songs have many unique lessons about flowers and leaves. There is an article about the shape of bamboo that symbolizes the kindness of wise people: "Even if the bamboo is burned, it will still be straight when burned properly". There is an article about elegant apricot flowers. There is an article about pure, white jasmine. Quan Ho folk songs have a song about hundreds of species of birds, hundreds of species of harmony... Through this, we see that our people's souls are very beautiful, loving and appreciating the fragrant flowers and strange grasses that nature bestows on humans.
With our love for flowers and leaves, we find it interesting to enjoy the goodness and beauty of this folk song "What is as beautiful as the lotus..."? We love the beauty of the countryside more, love the soul more, The beauty of the Vietnamese people's mentality:
“Invite each other to bathe in the lotus pond,
The water is in the shade, the fragrance is next to you.
Just wish the jade garden, the Quynh pond,
The countryside still has the same charming charm as ever"...
Among us, who has ever seen the lotus of West Lake, the lotus of Tinh Tam Lake (Hue), the lotus of Dong Thap Muoi...? Thinking about the lotus pond and lotus scent, how proud we are of the great son of the familiar Sen village as poet Bao Dinh Giang praised:
|
Hướng dẫn
Trong bài thơ “Bài ca quê hương”, thi sĩ Tố Hữu thiết tha ân cần:
“Ai đi qua đó miền Trung,
Xin mời ghé lại, vui cùng Huế tôi”
(Tháng 5-1975)
Huế là cố đô vương triều Nguyễn. Huế đẹp và thơ. Núi sông diễm lệ. Câu hò Giã Gạo, giọng hò Mái Đẩy, Mái Nhì, khúc Nam Ai, Nam Bình dịu ngọt từng làm say lòng người gần xa gần 400 năm nay. Ai đã một lần ghé thăm Huế? Ai đã một lần được nghe cô gái Huế hát bài ca:
“Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm, ao cá, nương dâu,
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”.
Núi Truồi và sông Hương là vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế. Núi Truồi hùng vĩ và thiêng liêng đã để lại trong lòng người bao huyền tích, huyền thoại. Núi ở về phía tây Kinh thành. Từ cửa biển Thuận An nhìn lên, núi Truồi xanh thẫm trong ánh tà dương. Núi trầm mặc uy nghiêm tưởng như đang lắng nghe tiếng chuông diệu huyền của chùa Thiên Mụ. Sông Hương (có văn bản khác ghi là sông Dinh, tên cũ của Hương Giang) là bài thơ tình của cố đô mộng mơ. Dòng sông nhẹ trôi uốn lượn như dải thắt lưng xanh của nàng tiên bỏ quên từ ngàn năm vắt ngang Kinh thành xưa. Có một nhà thơ đã viết:
“Nếu không có điệu Nam Ai Sông Hương thức suốt đêm dài làm chi…”
(Hà Thúc Quả)
Hai câu hỏi tu từ nối tiếp xuất hiện. Hỏi núi “ai đắp mà cao?”. Hỏi sông “ai bới, ai đào mà sâu?”. Câu hỏi của du khách hay của cô gái Huế? Hỏi để bày tỏ sự ngạc nhiên, trầm trồ, niềm tự hào xúc động khi ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ:
“Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?”
Ba chữ “ai” gợi lên bao nỗi niềm man mác bâng khuâng như dẫn hồn người ngược thời gian năm tháng khi ngắm nhìn sông núi thân thương. Coi. sông Hương với Hàn Mặc Tử đã trở thành con sông trăng có bến mơ bến đợi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
(“Đây thôn Vĩ Dạ”)
Với Tố Hữu, quên sao được màu xanh của dòng sông quê mẹ? Nó đã gợi thương gợi nhớ trong lòng đứa con li hương suốt đêm ngày trong những năm dài máu lửa, đất nước bị cắt chia:
“Hương Giang ơi, dòng sông êm,
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
(“Bài ca quê hương”)
Hai câu đầu bài ca đã gieo vào lòng ta bao bồi hồi xao xuyến, bao liên tưởng đẹp về sông núi xứ Huế yêu thương. Ai đó đã có lần hát: “Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ – Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt…”. Phải chăng “tình yêu dịu ngọt” ấy trước hết hướng về núi Truồi, sông Hương và nhiều thắng cảnh khác:
“Đông Ba, Gia Hội hai cầu,
Ngó lên Diệu Đế bốn lầu hai chuông”
Và tiếng hò Mái Nhì, Mái Đẩy trên sông Hương những đêm trăng như đưa hồn du khách vào giấc mộng Thiên Thai:
“Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,
Đò từ Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sình.
Lờ đờ bóng ngả trăng thanh,
Tiếng hò xa vọng, nặng tình nước non”
Trở lại hai câu cuối bài ca dao, ta thoáng gặp hình bóng cô gái Huế:
“Nong tằm, ao cá, nương dâu,
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”
“Nong tằm, ao cá, nương dâu”là những nét đẹp của một miền quê có đất đai màu mỡ, có ngành nghề thủ công lâu đời trồng dâu, nuôi tằm dệt lụa. “Ngàn dâu xanh ngắt một màu” trải dài, trải rộng vườn tược, bờ bãi, xóm thôn. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”(“Đây thôn Vĩ Dạ”). Sau màu xanh của lúa dâu là sân nhà, ngõ xóm vàng óng tằm tơ trong nắng mới. Thấp thoáng bên những “nong tằm, ao cá, nương dâu” là hình bóng cô gái Huế dịu hiền, khéo tay, hay lam hay làm và rất đa tình từng làm si mê nhiều sĩ tử một thời:
“Học trò trong Quáng ra thi,
Thấy cô gái Huế mà đi không đành”
“Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”là câu hay nhất, đậm đà nhất, trong bài ca dao này. “Đò xưa bến cũ” là sắc màu thời gian, là hình bóng què hương yêu dấu. Là hoài niệm chất chứa trong lòng mang nặng tình người đi xa, kẻ ở lại.
“Nhớ câu hẹn hò”là nhớ lời thể nguyền giữ trọn một tình yêu son sắt thủy chung. Một chữ “nhớ” thiết tha đinh ninh lời thề. Dù xa cách, em vẫn nhớ mong đợi chờ:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Câu tâm giao, câu hẹn hò thuở ấy của đôi lứa, của kẻ ở lại, người đi xa có bao giờ phai nhạt trong lòng:
“Trăm năm dù lỗi hẹn hò,
Cây đa, bến cũ, con dò vẫn dưa”…
Bi kịch tình yêu không phải là chuyện hiếm thấy xưa nay? Với cô gái Huế vẫn đinh ninh “Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”. Cây đa, giếng nước, sân đình, cũng như “đò xưa bến cũ” không chi là “hồn xưa đất nước” mà còn là những chứng nhân cho bao mối tình đẹp thủy chung xưa nay.
Bài ca dao từ âm điệu đến ngôn từ, hình tượng đều đẹp mượt mà như một bức tranh lụa tuyệt tác. Gam màu sáng thanh tao. Có màu xanh xanh của núi. Màu xanh trong của* sông. Màu vàng óng của tơ tằm. Màu xanh non của nương dâu. Màu thời gian của “đò xưa bến cũ”. Và màu tím thủy chung của lời thề “nhớ câu hẹn hồ”.
“Núi Truồi ai đắp mà cao”là bài ca dao trữ tình đặc sắc nói lên tình yêu quê hương và vẻ ‘đẹp tâm hồn của cô gái Huế. Bài ca dao đã để lại trong tâm hồn mỗi chúng ta một ấn tượng sâu sắc về thiên nhiên và con người xứ Huế.
|
Instruct
In the poem "Homeland Song", poet To Huu earnestly and thoughtfully said:
“Whoever goes through that Central region,
Please stop by and have fun with me in Hue.”
(May 1975)
Hue is the ancient capital of the Nguyen Dynasty. Hue is beautiful and poetic. Gorgeous mountains and rivers. The song Gia Gao, the singing of Mai Push, Mai Nhi, and the sweet Nam Ai and Nam Binh songs have captivated people from near and far for nearly 400 years. Who has once visited Hue? Who has once heard the Hue girl sing the song:
“Who built Truoi Mountain to make it high?
Who digs the Perfume River, who digs deep?
Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields,
Old boats, old wharves, remember the dating phrase."
Truoi Mountain and Perfume River are the natural beauty of Hue. The majestic and sacred Mount Truoi has left many legends and legends in people's hearts. The mountain is to the west of the Citadel. Looking up from Thuan An seaport, Truoi Mountain is dark green in the setting sun. The mountain is quiet and majestic, as if listening to the magical bell of Thien Mu Pagoda. Perfume River (other documents record it as Dinh River, the old name of Huong Giang) is a love poem of the dreamy ancient capital. The river flows gently, winding like the green belt of a fairy forgotten for thousands of years across the ancient capital. There is a poet who wrote:
“If it weren't for the Nam Ai Song Huong song, why stay up all night long…”
(Ha Thuc Qua)
Two rhetorical questions appeared in succession. Ask the mountain, "Who built it to make it high?". Ask the river "Who digs, who digs deep?". Question from a tourist or a Hue girl? Ask to express surprise, admiration, and emotional pride when admiring the magnificent natural scenery:
“Who built Truoi Mountain to make it high?
Who digs the Perfume River, who digs deep?
The three words "ai" evoke so many sad feelings, as if leading the soul back in time through the years when looking at the beloved mountains and rivers. Watch. The Perfume River and Han Mac Tu have become a moonlit river with a dreamy wharf waiting for you:
“Whose boat is docked at the moon river,
Keep carrying moon tonight?"
(“This is Vi Da village”)
For To Huu, how can I forget the green color of my mother's hometown river? It evoked sadness in the hearts of the children who were displaced day and night during the long years of blood and fire, the country was divided:
“Huong Giang, the river is calm,
Through my heart, I still love myself day and night"
(“Motherland Song”)
The first two verses of the song have sowed a lot of excitement in our hearts, many beautiful thoughts about the rivers and mountains of our beloved Hue. Someone once sang: "Sometimes I've come to dreamy Hue - I embrace a sweet love...". Is that "sweet love" first directed towards Mount Truoi, Perfume River and many other landscapes:
“Dong Ba, Gia Hoi two bridges,
Look up at Dieu De, four floors, two bells."
And the singing of Mai Nhi and Mai Push on the Perfume River on moonlit nights seems to bring tourists' souls into the dream of Thien Thai:
“The ferry from Dong Ba, the ferry through Dap Dam,
The ferry from Vi Da goes straight to Sinh junction.
Dimly, the shadow of the moonlight falls,
The sound of distant singing, heavy with love for the country"
Returning to the last two lines of the folk song, we briefly see the image of a Hue girl:
“Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields,
Old boats, old docks, remember the date"
"Silkworm farms, fish ponds, mulberry fields" are the beauties of a countryside with fertile land and a long-standing craft industry of growing mulberries, raising silkworms and weaving silk. "Thousands of green strawberries in one color" stretch out across gardens, beaches, and villages. “Whose garden is so lush and green like jade” (“This is Vi Da village”). Behind the green color of mulberry rice are the yards and alleys of the hamlets, golden and silky in the new sunlight. Looming next to the "silkworm farms, fish ponds, and mulberry fields" is the image of a gentle, skillful, hard-working, and very affectionate Hue girl who once made many scholars fall in love with her:
“The students in Quang took the exam,
I can't help but see the Hue girl."
"Old boat, old dock, remember the date" is the best, most profound line in this folk song. "The old boat at the old wharf" is the color of time, the image of a beloved cripple. It is the nostalgia stored in my heart that carries the heavy love of those who go away and those who stay behind.
"Remembering the date" means remembering the promise to keep a faithful love. One word "remember" earnestly confirms the oath. Even though we are far away, I still remember to wait and wait:
“Boat, do you remember the dock?
Ben is an insistence stomach waiting boat"
The words of friendship and dating from those days of the couple, of those who stayed, and those who went away, have never faded from my heart:
“A hundred years of dating mistakes,
The banyan tree, the old wharf, the fish are still melons"...
Isn't love tragedy a rare thing in the past? For Hue girls, they still believe, "The old boat, the old dock, remembers the date." The banyan tree, the well, the communal house yard, as well as the "old boat and old wharf" are not only the "old soul of the country" but also witnesses to many beautiful and faithful love relationships in the past.
The folk song, from its melody to its words and images, is as beautiful and smooth as a masterful silk painting. Elegant bright colors. Has the green color of the mountains. The clear blue color of* the river. Golden color of silk. The green color of the mulberry field. The color of time of "old boats and old wharves". And the faithful purple color of the oath "remember the promise".
"Mountain Truoi, no one builds it high" is a unique lyrical folk song that speaks of the love for the homeland and the beauty of the soul of a Hue girl. The folk song has left a deep impression in each of our souls about the nature and people of Hue.
|
Hướng dẫn
sương một nắng”,ca ngợi đức tính cần cù, kiên nhẫn của người dân cày quê ta. Hình ảnh người trai cày sao mà đáng yêu thế:
“Cày dồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôithánhthót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đẩy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Hai cầu đầu miêu tả cảnh cày đồng. Câu ca dao gợi lên trước mắt chúng ta người nông dân đang lội bùn, tay cầm cày, theo sau con trâu, dưới ánh nắng “ban trưa” chang chang mùa hạ. Người và con trâu phải làm việc vô cùng vất vả. Mồ hôi tuôn ra như mưa. Từ tượng thanh “thánh thót” gợi tả mồ hôi rơi xuống từng giọt… từng giọt liên tiếp, gieo vào không gian âm thanh “thánh thót”. “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” là hình ảnh so sánh thậm xưng gợi tả công việc cày đồng vất vả, cực nhọc không thể nói hết. “Mưa” làm cho lúa xanh tươi, cũng như “mồ hôi” đổ xuống luống cày làm cho đất đai thêm màu mỡ. Nghệ thuật ví von “mổ hôi” với “mưa” thật là sáng tạo, làm cho người đọc, người nghe thấm thía, cảm thông với bao cực nhọc của nhà nông. Thật vậy, họ đã đổ biết bao mồ hôi, công sức vào luống cày, sá bừa, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, để làm ra bông lúa, củ khoai nuôi sống xã hội. Vần ca dao đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp về người nông dân trên cánh đồng quê hương. Đó là những con người khỏe mạnh dẻo dai, cần mẫn và chm khó:
“Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”
Hai tiếng cảm thán “ai ơi!” vang lên một cách tha thiết, đã tạo nên âm điệu êm ái, ngọt ngào. Nhà thơ dân gian nhắn gửi mọi người gần xa một tình cảm đẹp. Mỗi khi “bưng bát cơm đầy”, chúng ta cần ghi nhớ công ơn khó nhọc của người nông dân đã cuốc bẫm cày sâu, sản xuất lúa gạo cho nhân dân no ấm. Câu thơ sâu lắng, thấm thía:
“Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”
Câu cuối bài ca dao được tạo nên bằng nghệ thuật tương phản đặc sắc. Câu 8 chia thành hai vế tiểu đối cân xứng. Tính từ “dẻo thơm” đối chọi với tính từ “đắng cay”, “một hạt” đối lập với “muôn phần”, làm nổi bật sức lao động sáng tạo của nhà nông. Câu ca dao đã nâng nhận thức và cảm xúc cho mọi người về giá trị của bông lúa, hạt gạo, bát cơm dẻo thơm mà ta được hưởng thụ hàng ngày thật là đáng quý vô ngần. Cho nên, nhân dân ta mới gọi hạt gạo là “hạt vàng”, “hạt ngọc” là thế!
Cũng như phần lớn ca dao, dân ca, bài “Cày đồng đang buổi ban trưa…” được viết bằng thê’ thơ lục bát quen thuộc. Giọng thơ nhẹ nhàng thấm thía. Ngôn từ chọn lọc tinh tế, vừa giàu sức biểu hiện vừa đậm đà sắc thái biểu cảm: thánh thót, dẻo thơm, đắng cay, bát cơm đầy,… Các biện pháp tu từ: ví von so sánh, tương phản đối lập được vận dụng sáng tạo, viết nên những vần thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu.
Nước ta là một nước nông nghiệp, trên 80% dân số sống bằng nghề nông. Người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác, hiền lành, dũng cảm và giàu lòng yêu nước. Người nông dân Việt Nam tượng trưng cho sức sống bền vững của dân
tộc qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Chính họ là những con người: “Biết
trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù mà không sợ dài lâu”(Nguyễn Khoa Điềm).
Đức tính cần mẫn, dẻo dai của nhà nông đã làm nên những mùa vàng quê ta, đem đến sự ấm no cho xã hội. Mọi gia đình có bát cơm dẻo thơm, đất nước có nhiều lương thực xuất khẩu là nhờ vào công sức nhà nông. Yêu kính và biết ơn nhà nông, em nguyện khắc sâu vào tâm hồn lời nhắn gọi tha thiết:
|
Instruct
dew and sunshine", praising the diligence and patience of the people plowing our countryside. The image of a plow boy is so adorable:
“Plowing the fields at noon,
Holy sweat like rain from plowing fields.
Oh my God, hold the bowl of rice and push it,
A flexible aromatic bitter seeds want to share".
The first two bridges depict scenes of plowing fields. The folk song evokes before our eyes a farmer wading through mud, plow in hand, following the buffalo, under the bright "noon" sunlight of summer. People and buffaloes have to work extremely hard. Sweat poured out like rain. The onomatopoeia "holy thud" evokes the description of sweat falling drop by drop... drop by drop in a row, sowing into the space the sound of "holy thud". “Holy sweat like the rain of a plowed field” is an evocative comparison that describes the arduous work of plowing the fields, an indescribable hardship. “Rain” makes the rice green, just as “sweat” poured into the furrows makes the land more fertile. The art of comparing "sweat" with "rain" is truly creative, making readers and listeners deeply understand and sympathize with the hardships of farmers. Indeed, they have poured so much sweat and effort into the furrows and harrows, day after day, month after month, to produce rice and potatoes to feed society. The folk song paints a beautiful image of a farmer in his hometown fields. These are healthy, resilient, diligent and hard-working people:
“Plowing the fields at noon,
Sweat is like rain from plowing fields."
Two exclamations of "who!" rang out earnestly, creating a soft, sweet melody. The folk poet sends a beautiful sentiment to people near and far. Every time we "carry a bowl full of rice", we need to remember the hard work of the farmers who have plowed deeply to produce rice for the people. The poem is profound and poignant:
“Hey, bring a bowl full of rice,
A flexible aromatic bitter seeds want to share"
The last sentence of the folk song is created with a unique art of contrast. Sentence 8 is divided into two symmetrical clauses. The adjective "fragrant" contrasts with the adjective "bitter", "one grain" contrasts with "many parts", highlighting the creative labor of farmers. The folk song has raised people's awareness and emotions about the value of rice flowers, rice grains, and bowls of fragrant rice that we enjoy every day, which is truly precious. That's why our people call rice grains "golden grains" and "pearl grains"!
Like most folk songs and folk songs, the song "Plowing the fields at noon..." is written in the familiar six-eight verse. The poetic voice is gentle and poignant. The words are delicately selected, both rich in expressive power and rich in expressive nuances: sacred, fragrant, bitter, full of rice bowls,... Rhetorical devices: similes, comparisons, contrasts, contrasts, etc. Use creativity and write poems rich in images and music.
Our country is an agricultural country, over 80% of the population lives on agriculture. Vietnamese farmers are diligent, simple, gentle, brave and patriotic. Vietnamese farmers symbolize the sustainable vitality of the people
over four thousand years of building and defending the country. They are people themselves: “Know
Plant bamboo and wait for the day it becomes a stick - Take revenge without fear of a long time" (Nguyen Khoa Diem).
The diligence and resilience of farmers have created golden seasons in our country, bringing prosperity to society. Every family has a bowl of fragrant sticky rice, the country has a lot of food for export thanks to the efforts of farmers. Loving and grateful to farmers, I vow to engrave deeply into my heart this earnest message:
|
Hướng dẫn
“Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì cồn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
Đây là lời an ủi, vỗ về của người nông dân với tất cả tấm lòng yêu thương, quý mến và biết ơn sâu sắc đối với con trâu của gia đình mình.
Mở đầu bài ca dao là tiếng gọi trâu trìu mến. Hai tiếng cảm thán “Trâu ơi” vang, lên tha thiết ngọt ngào. Mối quan hệ giữa người với trâu là “bạn bè”, bình đẳng và cảm thông. Công việc đồng áng tuy vất vả, nhưng vốn cần cù nên người nông dân không ngại những công việc chân lấm tay bùn mà còn phấn khởi làm ăn. Đã yêu lao động, yêu quý nghề nông, nên đối với công cụ sản xuất, đối với con trâu, người nông dân cũng biểu lộ tất cả sự chăm sóc, trìu mến của họ. Con trâu là cánh tay đắc lực của nhà nông, đồng cam cộng khổ với nhau, tin cậy “trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”. Nếu thay chữ “với” bằng chữ “cho” (trâu cày cho ta) thì mối quan hệ thân tình sẽ bị phá vỡ, đâu còn nữa! Trâu với người cùng chung chịu gian truân, thức khuya dậy sớm một nắng hai sương. “Lao xao gà gáy rạng ngày, Vai vác cái cày tay dắt con trâu…”; “Trên đồng cạn dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Và những buổi cày đồng dưới ánh nắng chang chang mùa hạ, trâu với người “mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”. “Trâu cày với ta” động viên, vỗ về, tin cậy.
Cấy cày là công việc nhà nông, là “nghiệp nông gia”. Chữ “vốn” gợi nên sự lâu đời của một nền nông nghiệp. Dân ta vốn có nghề trồng lúa nước lâu đời.
Con trâu đa được thuần dưỡng, trở thành vật nuôi trong gia đình, đứng đầu hàng lục súc. Con trâu là tài sản quý giá. “Con trâu là đầu cơ nghiệp”.Trâu đã giúp nhà nông cấy cày làm nên những hạt gạo trắng thơm, những mùa vàng bát ngát “ta đây trâu đấy, ai mà quản cóng”.Như một câu ca đã lưu truyền:
“Cánh đổng ta năm đôi ba vụ.
Trâu với người vất vả quanh năm”
Vất vả quanh năm như thế, nhưng người với trâu chia sẻ ngọt bùi, luôn luôn bên nhau “ta đây trâu đấy”nên chẳng bao giờ “ai mà quản công”.Người chăm sóc nuôi nấng trâu. Trâu giúp người cày bừa. Tình bạn, tình thương đã được hình thành qua mấy nghìn năm dằng dặc.
Hai càu cuối, như một lời nguyên, rất chân thành cảm động, chứa chan tình nghĩa thủy chung:
. “Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
Ý thơ đăng đối: lúa còn thì cò còn, người được hạnh phúc, ấm no thì trâu cũng được no ấm. Người và trâu cùng trường tồn bên nhau. Cấu trúc vần thơ “Bao giờ còn… thì còn…”, ý thơ được nhấn mạnh, lời thề nguyền trở nên sắt đá. Chân lí cuộc sống và chân lí nghệ thuật hòa quyện trong một lời thề nguyền đẹp. Có tâm hồn chất phác, hồn hậu, có tinh nghĩa thủy chung mới có cách ứng xử đẹp như vậy.
|
Instruct
“O buffalo, I say to this buffalo,
The buffalo goes out into the fields, the buffalo plows with us.
Plowing and plowing are the capital of farmers,
I am a buffalo, who cares?
As long as the rice plant still blooms,
Then the grass in the field is eaten by the buffalo."
These are words of comfort and consolation from the farmer with all his love, affection and deep gratitude for his family's buffalo.
The folk song begins with an affectionate buffalo call. Two sounds of exclamation "Oh Buffalo" rang out, sounding sweet and earnest. The relationship between people and buffalo is "friends", equality and sympathy. Although farm work is difficult, farmers are inherently diligent, so farmers do not mind dirty work but are still excited about doing business. Having loved labor and farming, farmers also show all their care and affection towards production tools and buffaloes. The buffalo is a powerful arm of the farmer, sharing the suffering together, trusting "the buffalo goes out into the fields and plows with us". If we replace the word "with" with the word "for" (the buffalo plows for us), the intimate relationship will be broken, no more! Buffaloes and people share hardships, staying up late and waking up early, one day, two days of dew. "The rooster crows at dawn, The buffalo is on the shoulder carrying the plow..."; "In the shallow fields and in the deep fields, the husband plows and the wife plants the buffalo to harrow." And during plowing sessions under the hot summer sun, buffaloes and people "sweated like rain from plowed fields". "The buffalo plows with me" encouragement, comfort, and trust.
Plowing is a farmer's job, a "farmer's profession". The word "capital" evokes the longevity of an agricultural system. Our people have a long history of wet rice cultivation.
The buffalo was domesticated and became a family pet, ranking first among the six cattle. The buffalo is a valuable asset. "The buffalo is the source of the fortune." The buffalo has helped farmers cultivate and plow, creating fragrant white rice grains and endless golden seasons. "I am here, the buffalo, who cares for the frost?" As a song has passed down:
“Our fields have two or three crops each year.
Buffaloes and people work hard all year round"
It's so hard all year round, but people and buffaloes share the sweetness, always together "it's me, it's the buffalo" so there's never "anyone else in charge". People take care of raising the buffalo. Buffaloes help people plow. Friendship and love have been formed over thousands of years.
The last two sentences, like an original statement, are very sincere and touching, filled with faithful love:
. “As long as the rice plant has flowers,
There is still a blade of grass in the field for the buffalo to eat."
The idea of the poem is the same: as long as the rice is still there, the stork is still there, if people are happy and prosperous, then the buffalo will also be prosperous. Humans and buffaloes live together forever. The poetic structure "As long as there is... will still be...", the poetic meaning is emphasized, the vow becomes iron. The truth of life and the truth of art blend in a beautiful vow. Only people with a simple, kind, and loyal soul can have such beautiful behavior.
|
Hướng dẫn
“Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba càyvỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đẩy đồng.
Ai ơi cũng vợ cũng chổng,
Chồng cày vợ cấy, trong lòng vui thay!
Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mầu năm nong thóc đẩy.
Nám nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình”
Bài ca dao gồm có 14 câu viết theo thể thơ lục bát có xen vào một khổ thơ song thất lục bát. Hai lần tác giả chuyển đổi vần thơ (câu 6-7 và câu 12-13), nhưng người đọc vẫn cảm thấy giọng điệu liền mạch, tự nhiên và truyền cảm.
Hình ảnh người phụ nữ nông dân được nói đến trong bài ca dao rất dễ mến. Đó là một người vợ còn khá trẻ, rất đảm đang tháo vát, bàn tính công việc làm ăn với chồng, ước mơ được sống một cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Sáu câu đầu của bài ca dao liệt kê một số công việc đồng áng theo thời vụ. Từ tháng chạp năm trước đến tháng 5 năm sau, mỗi tháng là một công việc đúng mùa vụ. Ta thấy người vợ trẻ này nắm chắc nông lịch và công việc ruộng đồng, thời tiết. Chị đang bàn với chồng về việc trồng khoai, trồng đậu, trồng cà. Các chữ “tháng”, chữ “trồng” được điệp lại ba, bốn lần đã làm cho vần điệu, âm điệu của bài ca phong phú, uyển chuyển, nhịp nhàng như giọng nói dịu dàng của người phu nữ nhà quê hay lam hay làm:
“Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà”
Công việc trồng trọt cứ diễn ra tuần tự theo ngày tháng. Một nếp sống dân dã cần cù. Cuối năm, đầu năm, công việc trồng hoa màu cứ nối tiếp diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Tháng chạp khô ráo thì trồng khoai; khoai vừa bén rễ, đón xuân về mà xanh mướt đồng làng, tốt tươi nhiều củ. Mùa xuân đã bao đời nay là mùa sản xuất, là ngày hội xuống đồng của bà con dân cày Việt Nam. Giêng hai, thời tiết ấm áp, người nông dân đã đem công sức mồ hôi gieo trồng cày cấy, đem lại màu xanh biêng biếc, ngọt ngào cho đồng quê. Chứ không phải, không thể: “Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè…”
(Ca dao)
Tiếp theo người vợ trẻ nhắc nhở, bàn bạc với chồng hai công việc quan trọng trong tháng 3, tháng 4 là cày vỡ và gieo mạ trước khi “mưa sa đầy đồng”. Cày vỡ có nơi còn gọi là cày bở để xếp ải đón nắng mới đầu hè, một kinh nghiệm sản xuất quý báu láu đời của nhà nông quê ta, để làm cho đất đai tơi xốp, màu mỡ. Gieo mạ phải đúng thời vụ, phải tránh mưa rào. Gieo mạ gặp mưa rào “mưa sa đầy đồng” xem như mất trắng. Nắm chắc thời tiết, thời vụ để sản xuất, để gieo trồng, cấy hái ‘ là một kinh nghiệm quý báu được nhà nông đúc kết đã bao đời nay. Người vợ trẻ này thật giỏi giang:
“Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng”
Niềm hạnh phúc gia đình là cảnh vợ chồng cùng làm ăn bên nhau “chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” trên đổng cạn dưới đồng sâu. Đây cũng là nhịp sống lao động sản xuất tấp nập, vui vẻ, thuận hòa của xóm làng, cùa mỗi gia đình khắp chốn quê:
“Ai ai cũng vợ cũng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay!”
Cách dùng từ sóng đôi là một nét nghệ thuật đặc sắc thể hiện trong bài ca này. Các từ sóng đôi như: “cũng vợ cũng chồng”, “chồng cày vợ cấy” đã gợi tả một nhịp sống lao động hài hòa, quấn quýt của những cặp vợ chồng nhà quê đang sống trong niềm vui lao động, thuận hòa, hạnh phúc. Câu cảm thán với bốn tiếng “trong lòng vui thay!” cất lên diễn tả bao vui sướng dào dạt. Hai câu ca dao này nói lên được ba niềm vui bình dị của người dân cày Việt Nam: niềm vui trong lao động sản xuất, niêm vui làm ăn của vợ chồng, niềm vui của mỗi gia đình khắp làng quê. Tấm lòng của người nhà quê mới hồn hậu biết bao! Những con người chân lấm tay bùn làm ra hạt gạo dẻo thơm, củ khoai, hạt đậu ngọt bùi nuôi sống xã hội mới có niềm vui đẹp như vậy. Một văn bản khác ghi:
“Nhà nhà vợ vợ chồng chồng,
Đi làm ngoài đồng, sá kể sớm trưa”
Qua đó, ta dễ dàng cảm thấy sắc thái biểu cảm giữa “sá kể sớm trưa” và “trong lòng vui thay!”.
Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả. Vui sướng biết bao khi đón một vụ chiêm bội thu:
“Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy”
“Nhờ trời”hay “ơn trời” là cách nghĩ, cách cảm phác thực của người nhà quê xưa nay. “ơn trời mưa nắng phải thì” mà được mùa, xóm thôn no ấm. “Nhờ trời” mưa thuận gió hòa mà đồng điền tốt tươi:
“Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghê cày cấy, vun trổng tôt tươi”
“Một mẫu năm nong thóc đầy”cũng như “Một nong tằm là năm nong kén”, là cách tính, cách nói ước lệ của bà con nông dân ngày xưa khi được mùa lúa, mùa tằm.
Khổ thơ song thất lục bát xuất hiện làm cho giọng thơ thay đổi hẳn. Giọng thơ vui, điệu thơ hối hả đã thể hiện thật hay những lo toan về cách làm ăn, những niềm vui tỏa rộng trong lòng của một người vợ đảm đang, hiền thảo rất đáng quý trọng:
“Năm nong đầy/ em xay em giã,
Trấu ủ phân / cám bã nuôi heo.
Sang năm/ lúa tốt/ tiên nhiều,
Em dem đóng thuế ỉ đóng sưu cho chồng”
Một cách làm ăn chu đáo siêng năng: “em xay em giã”. Một nếp sống căn cơ, cần kiệm: “Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo”. Niềm tự hào của người đàn bà nhà quê ngày xưa là có cuộc sống dư dật “lúa tốt tiền nhiều” để trang trải công nợ, sưu thuế cho chồng. Như thế mới mát mặt, mới hãnh diện với chị em trong làng ngoài xã.
Câu “Em đem đóng thuế, đống sưu cho chồng” là một tín hiệu cho biết bài ca dao này ra đời trên miền Bắc nước ta trước cách mạng tháng Tám. Sưu thuế dã man “món nợ nhà nước” ấy là nỗi lo đầy ám ảnh của hàng triệu người phụ nữ nhà quê (như chị Dậu) trong thời Pháp thuộc. Vì thế “lúa tốt tiền nhiều”, được mùa là ước mơ hạnh phúc bao đời của nhà nông quê ta.
Một nét đặc sắc về nghệ thuật trong khổ thơ song thất lục bát là sử dụng thành công nhiều từ ngữ sóng đôi như: “Em xay / em giã”, “lúa tốt / tiền nhiều”, “đóng thuế/ đóng sưu”. Những từ ngữ sóng đôi ấy đã làm cho bài ca dao giàu nhạc điệu, vừa làm nổi bật đức tính tháo vát, đảm đang, đôn hậu của người vợ trẻ, người đàn bà nhà quê ngày xưa.
Hai câu cuối là linh hổn, là điểm sáng của bài ca dao này:
“Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình”
Ngôn từ đã cách điệu hóa, trang trọng hóa: thiếp – chàng, chung đỉnh, giàu sang. Câu ca dao đã nói lên thật ý vị ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ ngày xưa là được sống và làm ăn trong cảnh vợ chồng yên ấm thủy chung. Chung đỉnh là hai vật dụng thời cổ tượng trưng cho sự giàu sang phú quý. Nhà thơ dân gian đã có một cách nói tương phản, so sánh rất hay. Tương phản về hai cuộc sống vật chất: “đói no” với “chung đỉnh giàu sang”. Tương phản về hai cảnh đời tinh thần: “Có thiếp có chàng” với “một mình” (cô đơn, lẻ loi). Một cách so sánh khẳng định “còn hơn”. Hai câu kết đã thể hiện một quan niệm về hạnh phúc gia đình mộc mạc, bình dị của nhân dân lao động xưa nay.
|
Hướng dẫn
“Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba càyvỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đẩy đồng.
Ai ơi cũng vợ cũng chổng,
Chồng cày vợ cấy, trong lòng vui thay!
Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mầu năm nong thóc đẩy.
Nám nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình”
Bài ca dao gồm có 14 câu viết theo thể thơ lục bát có xen vào một khổ thơ song thất lục bát. Hai lần tác giả chuyển đổi vần thơ (câu 6-7 và câu 12-13), nhưng người đọc vẫn cảm thấy giọng điệu liền mạch, tự nhiên và truyền cảm.
Hình ảnh người phụ nữ nông dân được nói đến trong bài ca dao rất dễ mến. Đó là một người vợ còn khá trẻ, rất đảm đang tháo vát, bàn tính công việc làm ăn với chồng, ước mơ được sống một cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Sáu câu đầu của bài ca dao liệt kê một số công việc đồng áng theo thời vụ. Từ tháng chạp năm trước đến tháng 5 năm sau, mỗi tháng là một công việc đúng mùa vụ. Ta thấy người vợ trẻ này nắm chắc nông lịch và công việc ruộng đồng, thời tiết. Chị đang bàn với chồng về việc trồng khoai, trồng đậu, trồng cà. Các chữ “tháng”, chữ “trồng” được điệp lại ba, bốn lần đã làm cho vần điệu, âm điệu của bài ca phong phú, uyển chuyển, nhịp nhàng như giọng nói dịu dàng của người phu nữ nhà quê hay lam hay làm:
“Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà”
Công việc trồng trọt cứ diễn ra tuần tự theo ngày tháng. Một nếp sống dân dã cần cù. Cuối năm, đầu năm, công việc trồng hoa màu cứ nối tiếp diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Tháng chạp khô ráo thì trồng khoai; khoai vừa bén rễ, đón xuân về mà xanh mướt đồng làng, tốt tươi nhiều củ. Mùa xuân đã bao đời nay là mùa sản xuất, là ngày hội xuống đồng của bà con dân cày Việt Nam. Giêng hai, thời tiết ấm áp, người nông dân đã đem công sức mồ hôi gieo trồng cày cấy, đem lại màu xanh biêng biếc, ngọt ngào cho đồng quê. Chứ không phải, không thể: “Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè…”
(Ca dao)
Tiếp theo người vợ trẻ nhắc nhở, bàn bạc với chồng hai công việc quan trọng trong tháng 3, tháng 4 là cày vỡ và gieo mạ trước khi “mưa sa đầy đồng”. Cày vỡ có nơi còn gọi là cày bở để xếp ải đón nắng mới đầu hè, một kinh nghiệm sản xuất quý báu láu đời của nhà nông quê ta, để làm cho đất đai tơi xốp, màu mỡ. Gieo mạ phải đúng thời vụ, phải tránh mưa rào. Gieo mạ gặp mưa rào “mưa sa đầy đồng” xem như mất trắng. Nắm chắc thời tiết, thời vụ để sản xuất, để gieo trồng, cấy hái ‘ là một kinh nghiệm quý báu được nhà nông đúc kết đã bao đời nay. Người vợ trẻ này thật giỏi giang:
“Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng”
Niềm hạnh phúc gia đình là cảnh vợ chồng cùng làm ăn bên nhau “chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” trên đổng cạn dưới đồng sâu. Đây cũng là nhịp sống lao động sản xuất tấp nập, vui vẻ, thuận hòa của xóm làng, cùa mỗi gia đình khắp chốn quê:
“Ai ai cũng vợ cũng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay!”
Cách dùng từ sóng đôi là một nét nghệ thuật đặc sắc thể hiện trong bài ca này. Các từ sóng đôi như: “cũng vợ cũng chồng”, “chồng cày vợ cấy” đã gợi tả một nhịp sống lao động hài hòa, quấn quýt của những cặp vợ chồng nhà quê đang sống trong niềm vui lao động, thuận hòa, hạnh phúc. Câu cảm thán với bốn tiếng “trong lòng vui thay!” cất lên diễn tả bao vui sướng dào dạt. Hai câu ca dao này nói lên được ba niềm vui bình dị của người dân cày Việt Nam: niềm vui trong lao động sản xuất, niêm vui làm ăn của vợ chồng, niềm vui của mỗi gia đình khắp làng quê. Tấm lòng của người nhà quê mới hồn hậu biết bao! Những con người chân lấm tay bùn làm ra hạt gạo dẻo thơm, củ khoai, hạt đậu ngọt bùi nuôi sống xã hội mới có niềm vui đẹp như vậy. Một văn bản khác ghi:
“Nhà nhà vợ vợ chồng chồng,
Đi làm ngoài đồng, sá kể sớm trưa”
Qua đó, ta dễ dàng cảm thấy sắc thái biểu cảm giữa “sá kể sớm trưa” và “trong lòng vui thay!”.
Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả. Vui sướng biết bao khi đón một vụ chiêm bội thu:
“Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy”
“Nhờ trời”hay “ơn trời” là cách nghĩ, cách cảm phác thực của người nhà quê xưa nay. “ơn trời mưa nắng phải thì” mà được mùa, xóm thôn no ấm. “Nhờ trời” mưa thuận gió hòa mà đồng điền tốt tươi:
“Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghê cày cấy, vun trổng tôt tươi”
“Một mẫu năm nong thóc đầy”cũng như “Một nong tằm là năm nong kén”, là cách tính, cách nói ước lệ của bà con nông dân ngày xưa khi được mùa lúa, mùa tằm.
Khổ thơ song thất lục bát xuất hiện làm cho giọng thơ thay đổi hẳn. Giọng thơ vui, điệu thơ hối hả đã thể hiện thật hay những lo toan về cách làm ăn, những niềm vui tỏa rộng trong lòng của một người vợ đảm đang, hiền thảo rất đáng quý trọng:
“Năm nong đầy/ em xay em giã,
Trấu ủ phân / cám bã nuôi heo.
Sang năm/ lúa tốt/ tiên nhiều,
Em dem đóng thuế ỉ đóng sưu cho chồng”
Một cách làm ăn chu đáo siêng năng: “em xay em giã”. Một nếp sống căn cơ, cần kiệm: “Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo”. Niềm tự hào của người đàn bà nhà quê ngày xưa là có cuộc sống dư dật “lúa tốt tiền nhiều” để trang trải công nợ, sưu thuế cho chồng. Như thế mới mát mặt, mới hãnh diện với chị em trong làng ngoài xã.
Câu “Em đem đóng thuế, đống sưu cho chồng” là một tín hiệu cho biết bài ca dao này ra đời trên miền Bắc nước ta trước cách mạng tháng Tám. Sưu thuế dã man “món nợ nhà nước” ấy là nỗi lo đầy ám ảnh của hàng triệu người phụ nữ nhà quê (như chị Dậu) trong thời Pháp thuộc. Vì thế “lúa tốt tiền nhiều”, được mùa là ước mơ hạnh phúc bao đời của nhà nông quê ta.
Một nét đặc sắc về nghệ thuật trong khổ thơ song thất lục bát là sử dụng thành công nhiều từ ngữ sóng đôi như: “Em xay / em giã”, “lúa tốt / tiền nhiều”, “đóng thuế/ đóng sưu”. Những từ ngữ sóng đôi ấy đã làm cho bài ca dao giàu nhạc điệu, vừa làm nổi bật đức tính tháo vát, đảm đang, đôn hậu của người vợ trẻ, người đàn bà nhà quê ngày xưa.
Hai câu cuối là linh hổn, là điểm sáng của bài ca dao này:
“Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình”
Ngôn từ đã cách điệu hóa, trang trọng hóa: thiếp – chàng, chung đỉnh, giàu sang. Câu ca dao đã nói lên thật ý vị ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ ngày xưa là được sống và làm ăn trong cảnh vợ chồng yên ấm thủy chung. Chung đỉnh là hai vật dụng thời cổ tượng trưng cho sự giàu sang phú quý. Nhà thơ dân gian đã có một cách nói tương phản, so sánh rất hay. Tương phản về hai cuộc sống vật chất: “đói no” với “chung đỉnh giàu sang”. Tương phản về hai cảnh đời tinh thần: “Có thiếp có chàng” với “một mình” (cô đơn, lẻ loi). Một cách so sánh khẳng định “còn hơn”. Hai câu kết đã thể hiện một quan niệm về hạnh phúc gia đình mộc mạc, bình dị của nhân dân lao động xưa nay.
|
Hướng dẫn
‘Đồng Đăng hữu phố,
Kì Lừa quyết danh.
Thạch hữu Tô Thị,
Tự hữu Tam Thanh.
Dư giã giai hĩ,
Vô thiếm sơ sinh…’
Đối chiếu thơ chữ Hán của Tam Nguyên Yên Đổ, ta có thể xác định được diện mạo bài ca dao gồm có 14 câu lục bát. Bài ca dao là lời nhắn gửi bạn tình phương xa, cùng anh lén xứ Lạng, nói như thi sĩ Tản Đà, đó là ‘Thư đưa người tình không quen biết’ nghe mênh mang. Hai cáu cuối mang máng như một lời sấm kí truyền kì:
‘Bao giờ chùa lở xuống sông,
Đá tảng trôi mất, ngô đồng chơ vơ”
Bốn câu trong đoạn đầu là hay nhất, dễ hiểu nhất:
‘Đồng Đăng có phố Kì Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh,
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…’
Hai câu đầu với cách ngắt nhịp 2/4/4/4/ bằng ba nét vẽ, nhà thơ dân gian đã giới thiệu một cách khái quát cảnh sắc Đồng Đăng thuộc tỉnh Lạng Sơn của đất nước ta:
‘Đồng Đăng/ có phô’Kì Lừa,
Có nàng Tô Thị/ có chùa Tam Thanh’
Phố Kì Lừa có chợ Kì Lừa nổi tiếng phồn hoa đô hội. Đó là một chợ biên giới Việt – Trung, không chỉ phong phú về hàng hóa, về lâm thổ sản, mà còn nổi tiếng về chợ tình vùng cao. Giai điệu dân ca miền núi lơ lửng, chơi vơi, với sắc phục màu chàm, với những ngựa thồ sa nhân, hồi, măng khô, mộc nhĩ, những cô gái, chàng trai Nùng, Thổ, Tày… quấn quít bên nhau, đã trở thành nếp sống vật chất, tinh thần, một nét đẹp văn hóa giàu bản sắc đã bao đời nay. Mấy trăm năm về trước đã thế, ngày nay vẫn thế, tuy màu sắc có hiện đại hơn. Ai đã một lần trong đời mình đến thăm phố Kì Lừa, đi xem chợ Kì Lừa? Kì Lừa tiếng Thổ là Khâu Lừ. Đồng bào Thổ Lạng Sơn gọi chợ Kì Lừa là háng Khau Lừ (háng: chợ; khau: núi đất; lừ: lửa). Chợ Kì Lừa nằm gần bờ sông Kì Cùng ngày nay.
Đổng Đăng ‘có nàng Tô Thị’ còn gọi là núi Vọng Phu, một huyền tích đầy lệ về bi kịch vợ chồng, về tình nghĩa thủy chung của người phụ nữ Việt Nam. Ở Lạng Sơn, núi Vọng Phu còn gọi là núi Tam Thanh. Núi có động lớn gọi là động Tam Thanh; trong động có chùa thờ Phật, nhiều tượng Phật được đục vào hang đá – Tương truyền nàng Tô Thị đã ôm con thơ, đứng trên núi này ngóng trông chồng và hóa thành đá.
Hai câu ca dao đã giới thiệu và ca ngợi cảnh sắc kì thú hữu tình của Đồng Đăng, là ‘nơi phên giậu thứ ba về phía Bắc’ (‘Dư địa chí’ – Nguyễn Trãi) của Đại Việt. Nó như dẫn hồn người gần xa, những du khách chìm sâu vào huyền tích, huyền thoại, tìm thấy bao niềm vui, bao nỗi niềm man mác bàng khuâng về một địa danh trên ải Bắc, giàu truyền thống lịch sử và có nền văn hóa lâu đời.
Chữ ‘có’ được điệp lại ba lần diễn tả niềm say mê, hứng thú và tự hào của người dân xứ Lạng, của du khách khi đứng trước bao cảnh đẹp, bao di tích văn hóa. Cũng là lối tả ít mà gợi nhiều, hai câu ca đã mở ra một không gian nghệ thuật, như một cuộn phim mẩu. Cảnh vật từ từ xuất hiện: phố Kì Lừa…, nàng Tô Thị,… chùa Tam Thanh,… có biết bao liên tưởng đồng hiện về cảnh vật con người xứ Lạng.
Về mặt cấu trúc, hai câu ca dao này mang tính định hình cho những bài nói về quê hương đất nước:
– ‘Bắc Cạn/ có suối đãi vàng,
Có hồ Ba Bể I có nàng áo xanh’
– ‘Bình Định/ có núi Vọng Phu,
Có đầm Thị Nại/ có cù lao Xanh’
Hai câu tiếp theo là lời nhắn gọi, vẫy gọi:
‘Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em’
‘Ai’là đại từ phiếm chỉ, nói về tất cả mọi người. Đọc ca dao, nghe hát dân ca nhiều lúc ta cảm nhận có mình trong đó. Trong ca dao dân ca, trong văn cảnh
này, chữ ‘ai’ thường hướng về những cô gái xinh đẹp trên mọi miền đất nước. ‘Ai lên xứ Lạng cùng anh’ để có đôi, có bạn tình cùng san sẻ niềm vui nơi phồn hoa đô hội. Được ‘cùng anh’ hành hương đến văn cảnh chùa Tam Thanh, đến chiêm ngưỡng nàng Tô Thị, em sẽ ‘cùng anh’ đi chơi phố, chơi chợ Kì Lừa. Hai chữ ‘cùng anh’ – cùng sánh vai anh, thể hiện chít phong tình, hào hoa của chàng trai đang nhắn gọi, vẫy gọi trong du xuân, trẩy hội:
‘Dập dìu đôi lứa thanh tân,
Cùng đi trẩy hội chùa gần chùa xa’
Có đi lên xứ Lạng ‘cùng anh’ mới thỏa nỗi ước mong, mới ‘bõ công bác mẹ sinh thành ra em’, kẻo phí đi, kẻo hoài đi một thời xuân trẻ. ‘Bõ công’ nghĩa là đáng công, xứng công. Công ở đây là công sinh thành của cha mẹ đã sinh đẻ, bú mớm, nâng niu, nuôi dưỡng, dạy bảo em nên người. ‘Công cha nghĩa mẹ đức cù lao’. Chữ ‘bác mẹ’ nghĩa là cha mẹ, một cách gọi tôn kính người cha. Với phong cách phong tình hào hoà, với lối nói thậm xưng, tác giả đã ca ngợi cảnh đẹp Đổng Đăng là một cảnh đẹp hiếm có trên đời. Một cách tỏ tình bâng quơ thế mà đã làm xao xuyến tâm hồn bao thiếu nữ gần xa xưa nay.
Những tiếng ‘ai về’, ‘ai lên’, ‘ai qua’,… trong ca dao, dân ca rất tình tứ, ý vị. Tinh non nước, tình yêu lứa đôi được diễn tả một cách nồng nàn say mê:
– ‘Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu,
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cẩu nhuộm thâm.
Nào ai đi chợ Thanh Lăm,
Mua anh một áo vải thâm hạt dền’
– ‘Ai về Tuỳ Phước ăn nem,
Ghé qua Hưng Thịnh mà xem Tháp Chàm’
Đoạn ca dao trên đây đã phản ánh một nét đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam: Đó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm khao khát được sống trong tình duyên hạnh phúc khi lễ hộì mùa xuân đã về.
Chất dân dã với chất phong tình hào hoà, vẻ đẹp văn hóa với sinh hoạt đời thường kết hợp một cách hài hòa nên thơ. Phép liệt kê, cách nói thậm xưng đã tạo nên sức hấp dẫn hồn nhiên, tình tứ, gợi cảm.
Đọc đoạn ca dao trên, ta như được sống lại trong không khí lễ hội mua xuân, tưởng như đang được cùng ‘ai’ hành hương về Đồng Đăng xứ Lạng, cùng đến chơi phố, chơi chợ Kì Lừa, cùng say mê ngắm nàng Vọng Phu, cùng thăm hang động, chùa Tam Thanh. Để rồi cùng ‘ai’ trầm ngâm:
|
Instruct
'Dong Dang Huu Pho,
Ky Lua decides his name.
Thach Huu To Thi,
Self-existing Tam Thanh.
Goodbye to the family,
Newborn Vo Thien...'
Comparing the Chinese poetry of Tam Nguyen Yen Do, we can determine the appearance of the folk song consisting of 14 six-eight verses. The folk song is a message to a lover from afar, secretly with him in Lang, as poet Tan Da says, it is 'Letter to an unknown lover' which sounds vast. The last two sentences sound like a legendary prophecy:
'When will the pagoda fall into the river?
The rocks have drifted away, the fields are left alone."
The four sentences in the first paragraph are the best and easiest to understand:
'Dong Dang has Ky Lua street,
There is To Thi, there is Tam Thanh pagoda,
Who comes to Lang with me?
It's worth your effort to give birth to me...'
In the first two sentences, with the rhythm 2/4/4/4/ in three strokes, the folk poet has generally introduced the landscape of Dong Dang in Lang Son province of our country:
'Dong Dang/ has Pho'Ky Lua,
There is To Thi / there is Tam Thanh Pagoda'
Ky Lua street has the famous and bustling Ky Lua market. It is a Vietnam - China border market, not only rich in goods, forestry and land products, but also famous for its highland love market. The melodies of mountain folk songs float and play, with indigo colored costumes, with horses carrying sandalwood, star anise, dried bamboo shoots, wood ear mushrooms, Nung, Tho, Tay girls and boys... entwined together. has become a material and spiritual way of life, a cultural beauty rich in identity for many generations. It was like that hundreds of years ago, it's still like that today, although the colors are more modern. Who has once in their life visited Ky Lua street, gone to see Ky Lua market? Ky Lua in Turkish is Khau Lu. Lang Son Tho people call Ky Lua market Khau Lu groin (groin: market; khau: earth mountain; lu: fire). Ky Lua Market is located near the banks of Ky Cung River today.
Dong Dang 'had To Thi', also known as Vong Phu mountain, a tearful legend about the tragedy of husband and wife, about the faithful love of Vietnamese women. In Lang Son, Vong Phu mountain is also called Tam Thanh mountain. The mountain has a large cave called Tam Thanh cave; In the cave, there is a temple worshiping Buddha, many Buddha statues are carved into the cave - Legend has it that To Thi held her child, stood on this mountain waiting for her husband and turned into stone.
Two folk songs introduced and praised the wonderful and charming scenery of Dong Dang, which is 'the third fenced place to the North' ('Du Dia Chi' - Nguyen Trai) of Dai Viet. It seems to attract the souls of people from near and far, tourists immerse themselves deeply in legends and myths, finding so much joy, so much sadness about a place on the Northern border, rich in historical tradition and culture. age long.
The word 'yes' repeated three times expresses the passion, excitement and pride of the people of Lang and of tourists when standing in front of so many beautiful scenes and cultural relics. Also a way of describing little but evoking a lot, the two verses have opened up an artistic space, like a small film reel. Scenes slowly appear: Ki Lua street..., To Thi,... Tam Thanh pagoda,... there are so many similar associations about the landscape and people of Lang.
In terms of structure, these two folk songs are shaping the speeches about the homeland:
– ‘Bac Can/ has streams to pan for gold,
There is Ba Be Lake I, there is a lady in blue shirt'
– ‘Binh Dinh/ has Vong Phu mountain,
There is Thi Nai lagoon / there is Green island'
The next two sentences are a message, beckoning:
‘Whoever comes to Lang with me,
It's worth your effort to give birth to me'
‘Who’ is a personal pronoun, talking about everyone. Reading folk songs and listening to folk songs sometimes makes us feel like we are in it. In folk songs, in context
Hey, the word 'ai' often refers to beautiful girls in all parts of the country. 'Who comes to Lang with me' to have a couple and a partner to share the joy of in the bustling metropolis. If I can 'go with you' on a pilgrimage to the landscape of Tam Thanh Pagoda, to admire To Thi, I will 'with you' to go out on the streets and visit Ky Lua market. The two words 'with you' - together with you, express the love and magnanimity of the young man who is calling and beckoning during spring travel and festivals:
'Helping young couples,
Let's go to temple festivals near and far away'
Only if I go to Lang 'with you' will I be able to fulfill my wish, I will 'worth my mother's effort to give birth to you', lest I waste my time, lest I miss out on a time of youth. 'Worth the effort' means worth the effort, worthy of the effort. The merit here is the merit of the parents who gave birth, nursed, cherished, nurtured, and taught the child to be a good person. 'The merit of father and mother is the virtue of the island'. The word 'uncle mother' means father and mother, a way to honor the father. With a harmonious style and exaggeration, the author praised the beauty of Dong Dang as a rare beauty in the world. Such a carefree way of expressing love has stirred the hearts of many girls from near and far.
The words 'who comes back', 'who comes up', 'who comes over',... in folk songs and folk songs are very sentimental and meaningful. The love of the couple is described in a passionate and passionate way:
– ‘Who goes to Dong Tinh, Hue Cau,
Dong Tinh sells medicine, Hue Cau is dyed dark.
Who goes to Thanh Lam market?
Buy me a shirt of amaranth-stained fabric'
– ‘Who comes to Tuy Phuoc to eat spring rolls,
Stop by Hung Thinh to see Cham Towers'
The above folk song reflects a beauty in the soul of Vietnamese people: It is the love for the homeland, the desire to live in happy love when the spring festival has come.
Rustic nature with harmonious style, cultural beauty with daily activities combine in a poetic harmony. The enumeration and exaggeration create an innocent, affectionate, and sexy appeal.
Reading the folk song above, we feel like we are reborn in the spring festival atmosphere, as if we are going on a pilgrimage with 'someone' to Dong Dang in Lang, going to the streets, visiting the Ky Lua market, and admiring her together. Vong Phu, visit the cave and Tam Thanh pagoda. Then ponder with 'ai':
|
Hướng dẫn
Trong lúc cuộc giao tranh đang diễn ra dữ dội và ác liệt, giữa đêm khuya từ đền Trương Hống Trương Hát có tiếng thơ văng vẳng cất lên:
‘Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lổ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư’
Bài thơ vốn không có nhan đề; vẫn được gọi là bài thơ ‘Thần’. Nhan đê ‘Nam quốc sơn hà’ là do các nhà văn học, sử học sau này đặt ra. Tương truyền bài thơ này do Lí Thường Kiệt viết ra, để khích lệ và động viên ba quân, tướng sĩ quyết chiến quyết thắng quân xâm lược.
‘Nam quốc sơn hà’được viết bằng chữ Hán, theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, luật trắc (chữ thứ 2 là quốc -> trắc), có ba vần bằng: ‘cư – thư – hư’.
Cụ Lè Thước và cụ Nam Trân đã dịch thành thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật bằng (Núi sông -> sông là bằng), vần trắc: ở – sở – vỡ. Núi sông cũng có nghĩa như sông núi. Nếu viết thành: ‘Sông núi nước Nam vua Nam ở’ như sách Ngữ Văn 7 cửa NXB Giáo dục là sai luật thơ. Đây là bản dịch thơ của hai cụ:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xử sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,
Chúng mày nhất định phải tan vỡ’
(Theo ‘Thơ văn Lý – Trần’, tập I)
Chủ đề:
|
Instruct
While the fighting was fierce and fierce, in the middle of the night, from Truong Hong Truong Hat temple, a poetic voice rang out:
'Southern country of mountains and rivers, Southern imperial residence,
However the natural pasteurized at a department.
Like mischievous encroachment,
Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft'
The poem originally had no title; is still called the poem 'God'. The name 'Nam Quoc Son Ha' was coined by later writers and historians. Legend has it that this poem was written by Ly Thuong Kiet to encourage and encourage the three armies and generals to fight and defeat the invaders.
'Nam Quoc Son Ha' is written in Chinese characters, according to the seven-word quatrain poem form Tang luat, luat trac (the second word is quoc -> trac), with three equal rhymes: 'cu - thu - damage'.
Mr. Le Thuoc and Mr. Nam Tran translated it into a poem with seven words and four absolutes, the law of flat (Mountains and rivers -> river is flat), the rhyme: at - so - broken. Mountains and rivers also have the same meaning as mountains and rivers. If it is written as: 'Southern rivers and mountains, the Southern king lives in' like the book Literature 7 of the Education Publishing House, it is against the rules of poetry. This is a translation of the poem by the two men:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
Confusing with the sky's books, the sky divides the land.
Why did the evil enemy commit this crime?
You must be broken'
(According to 'Ly - Tran Poetry', volume I)
Topic:
|
Hướng dẫn
Núi sông nước Nam
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách Trời chia xử sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,
Chúng mày nhất định phải tan vố’
(Lê Thước – Nam Trân dịch)
Hai câu thơ đầu nói về núi sông nước Nam, đất nước Việt Nam là nơi ‘Num đế cư’ (vua Nam ở). Hai chữ Nam đế đối sánh với Bắc đế; Nam đế hùng cứ một phương chứ không phải chư hầu của Thiên triều. Vua Nam là đại diện cho uy quyền và quyền lợi tối cao của Đại Việt, cho nhân dân ta. Núi sông nước Nam thuộc chủ quyền của Nam đế, có kinh thành Thăng Long, có nền độc lập vững bền… Không những thế, núi sông nước Nam đã được ‘định phận’, đã được ghi rõ ở sách Trời, đã được ‘sách Trời chia xứ sở’, nghĩa là có lãnh thổ riêng, biên giới, bờ cõi riêng.
Hai chữ ‘sách Trời’ (thiên thư) trong câu thơ thứ hai gợi ra màu sắc thiêng liêng với bao niềm tin mãnh liệt trong lòng người, vần thơ vang lên như một lời
Tuyên ngôn về chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách Trời chia xứ sở’
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư)
Từ nhận thức và niềm tin ấy về sông núi nước Nam, Lí Thường Kiệt căm thù lên án hành động xâm lược đầy tội ác, tham vọng bành trướng phi nghĩa của giặc Tống. Chúng âm mưu biến sông núi nước Nam thành quận, huyện của Trung Quốc. Hành động xâm lược của chúng đã làm trái ý Trời, đã xúc phạm đến dân tộc ta. Câu hỏi kết tội lũ giặc đã vang lên đanh thép, đầy phẫn nộ:
‘Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?’
(Như hà nghịch lổ lai xâm phạm)
Vị anh hùng dân tộc đã nghiêm khắc cảnh cáo lũ giặc phương Bắc và chỉ rõ, chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi bời, chúng sẽ chuốc lấy thất bại nhục nhã: ‘Chúng mày nhất định phải tan vơ’
(Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
Hai câu 3, 4 có giọng thơ đanh thép hùng hồn thể hiện tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhàn dân ta quyết tâm giáng trả quân Tống xâm lược những đòn chí mạng để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng Sông Cầu – Như Nguyệt năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. Triệu Tiết, Quách Quỳ’ cùng hơn 20 vạn quàn Tống đã bị quân dân Đại Việt đánh bại, quét sạch khỏi bờ cõi.
|
Instruct
Southern mountains and rivers
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
Confused about the book of Heaven's division of affairs.
Why did the evil enemy commit this crime?
We will definitely be ruined'
(Translated by Le Thuoc – Nam Tran)
The first two verses talk about the mountains and rivers of the South, the country of Vietnam is where 'Num de resides' (the King of the South resides). The two words Southern Emperor compare with Northern Emperor; The Southern Emperor is a hero in one direction, not a vassal of the Heavenly Dynasty. King Nam represents the supreme authority and interests of Dai Viet and our people. The mountains and rivers of the South belong to the sovereignty of the Southern Emperor, there is the capital Thang Long, and there is a strong independence... Not only that, the mountains and rivers of the South have been 'destined', clearly recorded in the book of Heaven, and have been 'destined'. The book of Heaven divides the country', meaning to have its own territory, borders, and boundaries.
The two words 'heavenly book' (heavenly book) in the second verse evoke sacred colors with strong beliefs in people's hearts, the poem sounds like a word.
Declaration on the sacred sovereignty of Dai Viet:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
Confused about the book 'Heaven divides the land'
(The country of the mountains and rivers of the South,
However the natural pasteurized at a department)
From that awareness and belief about the rivers and mountains of the South, Ly Thuong Kiet hatefully condemned the Song invaders' criminal acts of aggression and unjust ambitions for expansion. They plot to turn the rivers and mountains of the South into districts of China. Their act of aggression went against God's will and offended our people. The question accusing the enemy rang out sharply and full of indignation:
'Why did the evil enemy commit this crime?'
(Like mischievous and trespassing)
The national hero sternly warned the Northern invaders and pointed out that they would be beaten to a pulp by our people, and they would suffer a humiliating defeat: 'You will definitely be destroyed'.
(Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft)
The two verses 3 and 4 have a strong and eloquent poetic voice, expressing the solidarity and fighting spirit of our people, determined to strike back the invading Song army with fatal blows to protect the rivers and mountains of the South. The Song Cau - Nhu Nguyet victory in 1076 is eloquent proof of the above poetic idea. Trieu Tiet, Quach Quy' and more than 200,000 Song Quan people were defeated by Dai Viet's army and people, wiped out from the land.
|
Hướng dẫn
‘Lí Công nước Việt Noi dấu tiền nhân Cầm quân tất thắng Trị nước yên dân Danh lừng trung hạ Tiếng nức gần xa…’
Lí Công la Lí Thường Kiệt, người con vĩ đại của Thăng Long nghìn năm văn vật, tác giả bài thơ ‘Nam quốc sơn hà’ bất hủ. Lí Thường Kiệt là danh tương thời nhà Lí, tên tuổi gắn liền với chiến thắng Sông Cầu – Như Nguyệt trong thế kỉ 11. Năm 1076, vua nhà Tống sai tướng Quách Quỳ mang đại binh sang xâm chiếm Đại Việt, Lí Thường Kiệt lập chiến tuyến Sông Cầu – Như Nguyệt để chống giặc. Trong những giờ phút giao tranhác liệt, ông viết bài thơ ‘Sông núi nước Nam’ để khích lê và động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Tống. Bài thơ nói lên niềm tự hào về chủ quyền của dãn tộc, nêu cao ý chí tự lực tự cường của nhân dân ta:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đáy,
Chúng mày nhất định phải tan vỡ!’
Hai câu thơ đầu, ngôn ngữ trang trọng, ý thơ mạnh mẽ đanh thép khẳng định một chân lí lịch sử bất di bất dịch: ‘Sông núi nước Nam’ – nước Đại Việt thân yêu của nhân dân ta là ‘nơi vua Nơm ở’. Theo quan niệm phù hợp với lịch sử thời bấy giờ, thì vua là tượng trưng cho quyển lực tối thượng và đại diện cho quyền lợi tối cao của cộng đồng dân tộc. Nước ta đã có vua, nghĩa là có người làm chủ. Nam đế có thua kém gì Bắc đế. Nước có vua là có chủ quyền, có nền độc lập. Không những thế, ‘Sông núi Nam Việt được ghi rõ ở sách trời’. Đó là một chân lí lịch sử khách quan không ai có thể chối cãi được. Bài thơ nói đến ‘Nam đê’ nói đến ‘thiên thu’ và’định phận’ dể khẳng định một niềm tin, một ý chí về chủ quyền quốc gia, về tinh thần tự lập, tự cường dân tộc:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vẳng vặc sách trời chia xứ sở’
Có thể nói, đó là một lời tuyên ngôn về chủ quyền và nền độc lập của Đại Việt. Mọi niềm tin đều cho ta sức mạnh. Trước họa xâm lăng của ngoại bang, niềm tin về độc lập và chủ quyền sẽ làm bùng lên ngọn lửa yêu nước và căm thù giặc trong nhân dàn ta. Hai câu tiếp theo, giọng thơ vang lên sang sảng, căm giận. Lí Thường Kiệt nghiêm khắc lên án hành động ăn cướp trắng trợn của giặc Tống. Chúng đã mang quân sang xâm chiếm nước ta. Câu hỏi tu từ làm cho lời thơ thêm đanh thép:
‘Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?’
Hành dộng xâm lược của giặc Tống là tàn ác và phi nghĩa. Giết người, đốt phá, ăn cướp, gây ra cảnh chiến tranh điêu tàn. Chúng âm mưu biến nước ta thànhquận huyện của Trung Quốc, xâm phạm tới ‘Nam quốc sơn hà’, làm trái với ‘sách Trời’. Giặc Tống nhất định sẽ bị nhân dân ta giáng cho những đòn trừng phạt đích đáng:
‘Chúng mày nhất đinh phải tan vỡ!’
Câu thơ khẳng định niềm tin chiến thắng. Chiến thắng vì ta có sức mạnh chính nghĩa đánh giặc để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng vì nhận dân ta có truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn kết bất khuất anh hùng chống ngoại xâm. Chiến thắng vì tướng sĩ của ta mưu lược, dũng cảm đánh giặc để giữ gìn quê hương đất nước.
‘Nhất định phải tan vố’là bị đánh cho tan tác, không còn một mảnh giáp. ‘Nhất định phải tan vỡ’ là bị thất bại nhục nhã. Thực tế lịch sử đã minh chứng hùng hồn cho câu thơ của Lí Thường Kiệt. Sông Cầu và bến đò Như Nguyệt là mồ chôn hàng vạn lũ giặc phương Bắc. Trước sự giáng trả sấm sét của quân ta, Quách Quỳ phải tháo’ chạy, thất bại nhục nhã. Chiến thắng Sông Cầu – Như Nguyệt là một trong những trang sử vàng chói lọi của Đại Việt.
|
Instruct
'Viet Cong Ly follows the footsteps of his predecessors, leads the army and wins, rules the country in peace and brings the people, is famous in the middle and low, is famous near and far...'
Ly Cong is Ly Thuong Kiet, a great son of Thang Long's thousand years of literature, author of the immortal poem 'Nam Quoc Son Ha'. Ly Thuong Kiet was a famous man during the Ly Dynasty, his name associated with the Song Cau - Nhu Nguyet victory in the 11th century. In 1076, the King of the Song Dynasty sent general Quach Quy to bring a large army to invade Dai Viet, and Ly Thuong Kiet established him. Song Cau - Nhu Nguyet battle line to fight against the enemy. During the hours of fierce fighting, he wrote the poem 'Southern Rivers and Mountains' to encourage the patriots and soldiers to fight decisively to defeat the Song invaders. The poem speaks of pride in the sovereignty of the ethnic group, highlighting the will of our people to be self-reliant:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
The heavenly book divides the land.
Why did the evil enemy commit such a crime to the bottom?
You must be broken!'
The first two verses, the solemn language, the strong poetic meaning affirm an immutable historical truth: 'The rivers and mountains of the South' - our people's beloved country of Dai Viet is 'where King Nom lives. '. According to the concept consistent with the history of that time, the king symbolizes the ultimate power and represents the supreme interests of the national community. Our country has a king, which means there is someone in charge. The Southern Emperor is not inferior to the Northern Emperor. A country with a king has sovereignty and independence. Not only that, 'The rivers and mountains of Nam Viet are clearly recorded in the book of heaven'. That is an objective historical truth that no one can deny. The poem refers to 'Nam dike' and speaks of 'eternity' and 'fate' to affirm a belief and a will in national sovereignty, in the spirit of national independence and self-strength:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
The heavenly book divides the land'
It can be said that it is a declaration of Dai Viet's sovereignty and independence. Every belief gives us strength. In the face of foreign invasion, the belief in independence and sovereignty will ignite the fire of patriotism and hatred of the enemy among our people. In the next two sentences, the poetic voice sounds bright and angry. Ly Thuong Kiet strictly condemned the blatant robbery of the Song invaders. They brought troops to invade our country. The rhetorical question makes the poem more powerful:
'Why did the evil enemy commit this crime?'
The invasion of the Song invaders was cruel and unjust. Murder, arson, robbery, causing devastating war scenes. They plotted to turn our country into a district of China, violating the 'Southern Kingdom' and violating the 'book of Heaven'. The Song invaders will definitely be meted with just punishment by our people:
‘You must be broken!’
The verse affirms the belief in victory. We won because we had the righteous power to fight the enemy to protect the rivers and mountains of the South. Victory is because we recognize that our people have a patriotic tradition and an indomitable heroic spirit of solidarity against foreign invaders. Victory was because our generals were strategic and courageous in fighting the enemy to preserve their homeland.
'Must be destroyed' means being beaten to pieces, without a single piece of armor remaining. 'Definitely broken' is a humiliating defeat. Historical reality has eloquently proven Ly Thuong Kiet's verse. Cau River and Nhu Nguyet wharf are the graves of tens of thousands of Northern invaders. Faced with the thunderous response of our troops, Quach Quy had to flee, suffering a humiliating defeat. The Song Cau - Nhu Nguyet victory is one of the brilliant golden pages of Dai Viet's history.
|
Hướng dẫn
Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Giọng thơ đanh thép hùng hồn. Đây là bài thơ dịch:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ!’
Bài thơ đã khẳng định chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt, căm thù lên án hành động xâm lược của giặc Tống, thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta.
Hai câu thơ đầu tuyên bố về chủ quyền của Đại Việt:
‘Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư’
Tác giả khẳng định núi sông nước Nam là đất nước ta, bờ cõi của ta, một nước có chủ quyền do Nam đế trị vì. Phương Bắc có Bắc đế thì phương Nam cũng có Nam đế. Hai chữ Nam đế biểu hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Nam đế tượng trưng cho quyền lực và quyền lợi của nhàn dân ta, một dân tộc có nền văn hiến rực rỡ lâu đời, một quốc gia có nền độc lập bền vững. Đó là sự thật lịch sử hiển nhiên. Không những thế, cương giới của Đại Việt, lãnh thổ, biên cương của Đại Việt đã được ghi rành rành trên sách trời. Hai chữ ‘thiên thư’ (sách trời) biểu thị một niềm tin thiêng liêng về núi sông nước Nam, về chủ quyền bất khả xâm phạm của Đại Việt:
‘Núi sông Nam Việt vua Nam ỏ,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở’
Câu thơ thứ ba căm thù lên án giặc Tống xâm lược:
‘Như hù nghịch lổ lai xâm phạm?’
(Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?)
Hai chữ ‘cớ ¿’ức/Xnhư hà) là tiếng để hỏi, cũng là kết tội Quách Quỳ đem quân sang xâm lược nước ta, giết người, cướp của, âm mưu biến Đại Việt thành quận huyện của Thiên triều. Hành động ăn cướp của lũ giặc dữ man rợ là phi nghĩa, là làm trái ‘sách trời’. Giọng thơ vừa căm thù vừa khinh bỉ. Một lối nói hàm súc đanh thép.
Câu cuối bài thơ sáng ngời một niềm tin. Quân giặc phi nghĩa nhất định thất bại nhục nhã. Quân và dân ta có sức mạnh chính nghĩa, có tinh thần quyết chiến bảo vệ sông núi nước Nam nhất định chiến thắng:
‘Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư’
(Chúng mày nhất định phải tan vỡ)
|
Instruct
The poem is written in Chinese characters, following the seven-word, four-literate Tang rule. The poetic voice is strong and eloquent. Here is the translated poem:
'The mountains and rivers of Nam Viet where the king of Nam lives,
The heavenly book divides the land.
Why did the evil enemy commit this crime?
You must be broken!'
The poem affirmed the sacred sovereignty of Dai Viet, hatefully condemned the invasion of the Song invaders, and expressed the determined fighting spirit of our army and people.
The first two verses declare Dai Viet's sovereignty:
'Southern country of mountains and rivers, Southern imperial residence,
However the natural pasteurized at a department'
The author affirms that the mountains and rivers of the South are our country, our territory, a sovereign country ruled by the Southern Emperor. If the North has a Northern Emperor, the South also has a Southern Emperor. The two words Nam De represent national pride and self-respect. The Southern Emperor symbolizes the power and rights of our people, a nation with a long-standing brilliant civilization, a nation with sustainable independence. That is an obvious historical truth. Not only that, Dai Viet's boundaries, territory, and borders were clearly written in the book of heaven. The two words 'thien thu' (heavenly book) represent a sacred belief in the mountains and rivers of the South, and in the inviolable sovereignty of Dai Viet:
'The mountains and rivers of Nam Viet, the king of Nam,
Confused about the heavenly book dividing the land'
The third verse hatefully condemns the Song invaders:
'Like being hostile and intruding?'
(Why did the evil enemy commit this crime?)
The two words 'excuse ¿'uc/X Nhu ha) are words to ask, and also to accuse Quach Quy of bringing troops to invade our country, killing people, robbing, and plotting to turn Dai Viet into a district of the Thien Trieu. The act of robbery by the barbarous enemies is unjust and violates the 'heaven's book'. The tone of the poem is both hateful and contemptuous. A sharp, concise way of speaking.
The last sentence of the poem shines with faith. The unjust enemy army is bound to suffer a humiliating defeat. Our army and people have the strength of righteousness and the spirit of determination to protect the rivers and mountains of the South and will surely win:
'Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft'
(You must be broken)
|
Hướng dẫn
Năm 1285, Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh; kinh thành Thăng Long thất thủ. Vị Tiết chế thống lĩnh đã tổ chức một cuộc rút lui chiến lược tài tình, để bảo toàn binh lực, chờ thời cơ phản công.
Xuân – hè năm Ất Dậu, quân ta phản công như vũ bão. Trận Hàm Tử quan do tướng Trần Nhật Duật chỉ huy, quân ta thắng lớn, tướng Mông cổ là Toa Đô bị chém cụt đầu. Đầu tháng 6, tại Chương Dương độ, Trần Quang Khải đại thắng. Hàng vạn giặc bị tiêu diệt, bị bắt sống. Quân ta thu được nhiều chiến thuyền, vũ khí, lương thảo của giặc Mông cổ. Thừa thắng, quân ta tiến lên giải phóng thành Thăng Long, rồi quét sạch quân giặc ra khỏi bờ cõi. Trần Quang Khải cùng đoàn quàn thắng trận rước xa giá Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông trở về kinh thành Thăng Long.
Trong hoàn cảnh lịch sử hào hùng ấy, Thượng tướng Trần Quang Khải đã viết bài thơ ‘Tụng giá hoàn kinh sư’ bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật; luật trắc, vần bằng, có hai vần: ‘quan – san’-, hai câu 1, 2 đối nhau:
‘Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thừ giang san’
Đây là bản dịch thơ của học giả Trần Trọng Kim:
‘Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu’
|
Instruct
In 1285, Thoat Hoan brought 500,000 troops to invade our country. The enemy is very strong; Thang Long citadel fell. The commander Tiet organized an ingenious strategic retreat to preserve his troops and wait for the opportunity to counterattack.
In the spring and summer of At Dau year, our army counterattacked like a storm. The battle of Ham Tu Quan was commanded by General Tran Nhat Duat, our army won a great victory, Mongolian general Toa Do was beheaded. In early June, at Chuong Duong Do, Tran Quang Khai won a great victory. Tens of thousands of enemies were destroyed and captured alive. Our army captured many warships, weapons, and food from the Mongol invaders. Taking advantage of the victory, our army advanced to liberate Thang Long citadel, then wiped out the enemy troops from the territory. Tran Quang Khai and the funeral procession won the battle to carry the carriages of Emperor Tran Thanh Tong and King Tran Nhan Tong back to Thang Long capital.
In that heroic historical situation, Senior Lieutenant General Tran Quang Khai wrote the poem 'Chanting Gia Hoan Kinh Su' in Chinese characters, following the five-word four-parallel Tang luat style; meter, equal rhyme, two rhymes: 'quan - san'-, two sentences 1, 2 are opposite each other:
‘Winning the flute of Chuong Duong Do,
Cam Ho Ham Tu Quan.
Peaceful cultivation of wisdom,
Van Co Thu Giang San'
This is a translation of the poem by scholar Tran Trong Kim:
'Chang Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
Peace should strive,
That country is thousands of years old'
|
Hướng dẫn
Thượng tướng Trần Quang Khải là anh hùng – thi sĩ lỗi lạc cùa đời Trần. Ong lập được nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến lẩn thứ 2 (1285) và lần thứ 3 (1288) đánh thắng giặc Nguyên Mông. Ông là tác giả tập thơ ‘Lạc đạo’ bằng chữ Hán, hiện chỉ còn lại 11 bài.
Mùa hè năm 1285, quân ta đánh thắng giòn giã trên phòng tuyến sông Hồng, Thoát Hoan đại bại, thành Thăng Long được giải phóng. Trên đường cùng đại quân rước xa giá vua trở lại Kinh thành, Trần Quang Khải viết bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ‘Tụng giá hoàn kinh sư’ này. Đây là bài thơ dịch:
‘Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu’.
1. Hai câu thơ đầu cấu trúc bình đối, nhắc lại hai chiến công liên tiếp vang dội của quân ta: trận Hàm Tử quan và trận Chương Dương độ. Hàng vạn giặc bị bắt sống và bị giết. Ô Mã Nhi thoát chết, chạy trốn ra biển. Toa Đô bị chém cụt đầu. Quân ta chiếm được nhiều chiến thuyền, khí giới và lương thảo của giặc. Hai chữ
‘đoạt sáo’và ‘cầm Hồ’ đứng đầu câu thơ gợi tả hai cú đánh sấm sét vô cùng mạnh mẽ và liên tiếp giáng xuống đầu quân xâm lược. Lần đầu tiên trong thơ ca dân tộc, Trần Quang Khải đã đưa địa danh lịch sử vào thơ để ca ngợi ‘hào khó Đông – A’,ca ngợi chí khí anh hùng của Đại Việt. Thượng tướng Trần Quang Khải, tướng quân Trần Nhật Duật đã chỉ huy hai trận đánh lớn này. Câu thơ hàm súc, cảm xúc dồn nén, khí văn hùng tráng mạnh mẽ biểu thị tinh thần ‘Sát Thát’ của tướng sĩ và niềm tự hào vô cùng to lớn của nhân dân ta thời Trần:
‘Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan’ ị Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù)
Trên đà chiến thắng, quân ta quét sạch giặc Nguyên – Mông ra khỏi Kinh thành Thăng Long. Ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu, tức là ngày 9 tháng 7 năm 1285, Thượng tướng Trần Quang Khải cùng đoàn quán thắng trận rước xa giá vua Trần trở lại Kinh thành trong cảnh hoang tàn đổ nát.
2. Từ âm điệu anh hùng ca, giọng thơ trở nên tâm tình ở hai câu cuối Trước đống tro tàn của quê hương đất nước, một nhiệm vụ mới rất nặng nề được đặt ra cho mọi người:
‘Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san’ (Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu)
|
Instruct
Lieutenant General Tran Quang Khai was an outstanding hero and poet of the Tran dynasty. Ong achieved many glorious victories in the second resistance war (1285) and the third (1288) to defeat the Mongol invaders. He is the author of the collection of poems 'Lac Dao' in Chinese, currently only 11 poems remain.
In the summer of 1285, our army won a decisive victory on the Red River defense line, Thoat Hoan was defeated, and Thang Long citadel was liberated. On the way with the army to process the king's price back to the capital, Tran Quang Khai wrote this five-word poem 'Chanting the king's price'. Here is the translated poem:
'Chang Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
Peace should strive,
That country is thousands of years old'.
1. The first two verses have a parallel structure, recalling two consecutive resounding victories of our army: the battle of Ham Tu Quan and the battle of Chuong Duong Do. Tens of thousands of enemies were captured alive and killed. O Ma Nhi escaped death and fled to the sea. Toa Do's head was amputated. Our troops captured many warships, weapons and food from the enemy. Two words
'winning the flute' and 'holding the lake' at the beginning of the verse describe two extremely powerful and consecutive lightning strikes that fell on the invaders. For the first time in national poetry, Tran Quang Khai included historical places in his poetry to praise the 'tough heroes of the East - A', praising the heroic spirit of Dai Viet. Senior Lieutenant General Tran Quang Khai and General Tran Nhat Duat commanded these two major battles. The poem's conciseness, pent-up emotions, and powerful literary style express the 'Sat That' spirit of the generals and the great pride of our people during the Tran Dynasty:
‘Winning the flute of Chuong Duong Do,
Cam Ho Ham Tu Quan' Chuong Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy)
On the verge of victory, our army wiped out the Yuan-Mongol invaders from Thang Long Citadel. On June 6, At Dau year, that is, July 9, 1285, Lieutenant General Tran Quang Khai and the winning delegation carried King Tran back to the capital in a desolate and ruined state.
2. From the epic tone, the poetic voice becomes sentimental in the last two sentences. Before the ashes of the homeland, a new and very heavy task is set for everyone:
‘Peace cultivates wisdom,
Eternal life tries the river' (Thai Binh should strive,
That country is thousands of autumns)
|
Hướng dẫn
…Sau chiến thắng Hàm Tử, rồi chiến thắng Chương Dương năm 1285, trong ngày vui đất nước được giải phóng, Trần Quang Khải vinh dự đón nhà vua về Kinh đô. Trên đường đi, ông đã hứng khởi sáng tác bài thơ ‘Tụng giá hoàn kinh sư’.Bàithơ nguyên văn bằng chữ Hán, theo thể thơ Đường ngũ ngôn tứ tuyệt, toàn bài bốn câu, mỗi câu năm tiếng tuyệt hay. Tác phẩm thuộc loại biểu ý là chính, nhưng đằng sau những ý tưởng lớn lao vẫn dạt dào biết bao cảm xúc sâu lắng. Đây là khúc khải hoàn đầu tiêncủa dân tộc trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Trước thời đại nhà Trần, dân tộc ta từng đã nhiều lần đánh tan bọn giặc ngoại xâm. Nhưng sau những chiến công ấy, chúng ta chưa được đọc, được nghe một tác phẩm văn chương nào viết về chiến thắng, hoan ca khúc khải hoàn. Do đó,, bài thơ ‘Phò giá về kinh’ của vị thượng tướng – thi sĩ không những có tính lịch sử mà còn có giá trị văn chương. Chúng ta hãy đọc nguyên tác bài thơ phiên âm chữ Hán:
‘Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san’.
Và đọc bản dịch thơ của Trần Trọng Kim:
‘Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu’.
bố cục tác phẩm gồm hai phần khá mạch lạc. Hào khí chiến thắng được thể hiện ở hai câu đầu:
‘Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù’
Tìm hiểu lịch sử, ta biết rằng trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên đời Trần, quân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhít là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng Trần Quang Khải chỉ nói tới hai chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. Tại sao? Phải chăng đây là hai chiến dịch tiêu biểu, có tính quyết định để giành thắng lợi cuối cùng? Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, xa giá nhà vua và cả triều đình sau thời gian sơ tán, tạm lánh về nông thôn, được trở về kinh đô, vui lắm, phấn khởi lắm, đáng làm thơ, đáng ca hát lắm? Trong thực tế, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước (tháng 4 năm 1285), chiến thắng Chương Dương sau (tháng 6 năm 1285). Tại sao tác giả nêu Chương Dương trước, sau đó là Hàm Tử? Đây cũng là câu hỏi thú vị.
Tìm hiểu lịch sử, ta biết rằng, ở chiến thắng trước – Hàm Tử – người chỉ huy là tướng Trần Nhật Duật, còn Trần Quang Khải chỉ tham gia hỗ trợ. Còn tại Chương Dương, thượng tướng Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp chí huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó đón nhà vua về kinh. Niềm vui chiến thắng, đi liền niềm vui được ‘phò giá’ dồn đập nối tiếp nhau lay động trí tuệ và tâm hồn.
Có lẽ vì thế trong phút ngẫu hứng, vị thượng tướng đã nhắc ngay tới Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch Chương Dương và Hàm Tử, chắc quân dân ta đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, khí thế trận mạc vô cùng sôi động, thành tích chiến đấu vô cùng phong phú… Song, tác giả chí đúc lại trong hai câu thơ ngắn gọn, mười âm tiết. Ớ mỗi chiến thắng, cũng đúc lại bằng hai từ: ‘Đoạt sáo’ (cướp giáo), ‘cẩm Hồ’ (bắt quân Hồ). Cần chú ý câu thơ nguyên tác ‘đoạt sáo’. ‘Đoạt’ nghĩa gốc là ‘lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác’w. Như vậy, dùng từ ‘đoạt sáo’, nhà thơ vừa ghi chiến công, vừa ngợi ca hành động chính nghĩa và dũng cảm của quân dân ta. Bản dịch dùng từ ‘cướp giáo’ làm giảm phần nào vẻ đẹp của chiến thắng, Ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí quàn giặc. Còn ở Hàm Tử, ta bắt được quân tướng của chúng.
Mỗi chiến dịch một thành tích khác nhau bổ sung cho nhau, thật hài hòa, toàn diện. Trong chiến trận, chắc có thương vong, quân giặc chắc bị ta tiêu diệt, giết chết, đuổi chạy khá nhiều. Nhưng lời thơ không nói tới cảnh máu chảy, đầu rơi, mà chỉ nhắc hai hành động ‘đoạt sáo’, ‘cầm Hồ’. Cách nói ấy nhẹ mà sâu, biểu hiện rõ mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là chém giết mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải quy thuận, trả lại non sông, đất nước cho ta.
Câu thơ dồn nén, biểu ý rắn khỏe. Nhưng nhịp thơ, âm điêu vẫn toát ra niềm vui, niềm tự hào phơi phới. Đọc thơ, ta có cảm giác vị thượng tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vừa đi giữa đoàn quân chiến thắng vừa sang sảng cất tiếng ngâm thơ. Tiếng ngâm lan truyền và được ba quân nối tiếp, trở thành khúc ca hào bùng vang động núi sông. Đúng là khúc khải hoàn ca.
Xuống hai câu dưới, âm điệu thơ như lắng lại. Nhà thơ suy nghĩ về tương lại đất nước:
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về ngày mai của đất nước, cũng là lời nhắn nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng, của một người đã trở thành ý nghĩ, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao trách nhiệm, cố gắng ‘tu trí lực’, tức là rèn luyện, tu dưỡng tài năng, sức lực. Đồng thời động viên quân dân ‘gắng sức, đồng lòng’ phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước thanh bình bền vững dài lâu. Câu thơ kết ‘Vạn cổ thử giang san’ vừa chỉ ra cái đích đi tới của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ biểu cảm. Lời răn dạy hài hòa niềm tin, niềm hi vọng.
Ba năm sau khi bài thơ ‘Tụng giá hoàn kinh sư’ ra đời, vào tháng 4 năm 1288, trong buổi tế thần tại Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông), đức vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng đọc hai câu thơ:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng’
Phải chăng hai câu thơ trên của nhà vua đã đồng vọng với bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của thượng tướng Trần Quang Khải? Và phải chăng đấy cũng chính là hào khí của cả dân tộc ta thời đại nhà Trần, mà sau này người đời gọi là Hàokhí Đông – A? Hào khí Đông – A nghĩa là thế nào? Đông A là chiết tụ tên họ Trần, gồm hai chữ: Chữ Đông ghép với chữ A trong Hán tự. Hào khí Đông A là lòng yêu.nước, niềm tự hào dân tộc, là khí thế, quyết tâm lớn lao của quân dân đời Trần trong sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất nước thanh bình, bền vững. Hào khí Đông A không chí là tư tưởng, tâm hồn của con người mà còn là nội dung tư tưởng, là âm hưởng bao trùm trong rất nhiều tác phẩm thơ văn Việt Nam thời nhà Trần, thế kỉ XII, XIII.
|
Instruct
...After the Ham Tu victory, then the Chuong Duong victory in 1285, on the happy day the country was liberated, Tran Quang Khai honorably welcomed the king back to the capital. On the way, he was inspired to compose the poem 'Chanting Gia Hoan Kinh Su'. The poem was originally written in Chinese characters, following the Tang poetic style of five words and four absolute words, the entire poem has four lines, each sentence has five beautiful words. The work is mainly symbolic, but behind the great ideas there are still many deep emotions. This is the nation's first triumph in the resistance war against foreign invaders.
Before the Tran Dynasty, our people defeated foreign invaders many times. But after those victories, we have not read or heard any literary works about victory and triumphant songs. Therefore, the poem 'Reporting to the capital' by the general - the poet is not only historical but also has literary value. Let's read the original poem transliterated in Chinese:
‘Winning the flute of Chuong Duong Do,
Cam Ho Ham Tu Quan.
Peaceful cultivation of wisdom,
Eternal life tries the river'.
And read the translation of Tran Trong Kim's poem:
'Chang Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy.
Peace should strive,
That country is thousands of years old'.
The composition of the work consists of two quite coherent parts. The spirit of victory is expressed in the first two sentences:
'Chang Duong stole the enemy's spear,
Ham Tu captured the enemy'
Studying history, we know that during the resistance war against the Mongol - Yuan invaders during the Tran Dynasty, our army and people won many victories in many campaigns, the most famous being the victory on the Bach Dang River. But Tran Quang Khai only mentioned two victories at Chuong Duong and Ham Tu. Why? Are these two typical, decisive campaigns for ultimate victory? Is it possible that thanks to these two victories, the king and the whole court, after being evacuated and temporarily retreating to the countryside, returned to the capital, very happy, very excited, worth writing poetry, worth singing about? In reality, the Ham Tu victory took place first (April 1285), the Chuong Duong victory came later (June 1285). Why does the author mention Chuong Duong first, then Ham Tu? This is also an interesting question.
Studying history, we know that, in the previous victory - Ham Tu - the commander was General Tran Nhat Duat, while Tran Quang Khai only participated in support. And in Chuong Duong, Lieutenant General Tran Quang Khai commanded three armies, directly commanded and won a decisive victory, and then immediately welcomed the king back to the capital. The joy of winning, accompanied by the joy of being 'promoted', pulses one after another, shaking the mind and soul.
Perhaps that's why, in a moment of improvisation, the general immediately mentioned Truong Duong, then recalled Ham Tu. In both the Chuong Duong and Ham Tu campaigns, our army and people must have fought extremely bravely, the battle atmosphere was extremely exciting, and the combat achievements were extremely rich... However, the author summarizes in two Short verse, ten syllables. Every victory is summed up in two words: 'Dooc the flute' (capture the spear), 'cam Ho' (capture the Ho army). It is important to pay attention to the original poem 'winning the flute'. 'Obtain' the original meaning is 'to take back for yourself through fighting with others'w. Thus, using the word 'winning the flute', the poet both recorded the victory and praised the righteous and courageous actions of our people and soldiers. The translation uses the word 'stealing spears' which somewhat reduces the beauty of victory. In Chuong Duong, we won swords and spears, weapons to defeat the enemy. And in Ham Tu, we captured their general.
Each campaign has a different achievement that complements each other, truly harmonious and comprehensive. In battle, there will certainly be casualties, the enemy troops will probably be destroyed, killed, and chased away quite a lot by us. But the poem does not mention the scenes of blood flowing or heads falling, but only mentions the two actions of 'taking the flute' and 'holding the lake'. That way of speaking is light but profound, clearly demonstrating that our nation's fighting purpose is not to kill but to regain independence, force the enemy to submit, and return the mountains and country to us.
The poem is compressed and strong in meaning. But the rhythm of the poem and the melody still radiate joy and pride. Reading poetry, we have the feeling that the general is holding his head high, walking in the middle of the victorious army while reciting poetry loudly. The chant spread and was followed by three troops, becoming a glorious song that echoed through the mountains and rivers. Truly a triumphant song.
In the two sentences below, the poetic tone seems to calm down. The poet thinks about the future of the country:
Peace should strive,
That country is thousands of years old.
This was the general's self-talk about the country's future, and also a message to all our people and soldiers at that time. The voice and aspirations of one person have become the thoughts and determination of the entire nation. Tran Quang Khai reminded himself to uphold his responsibility and try to 'cultivate his mind', that is, practice and cultivate his talents and strength. At the same time, encourage the army and people to 'try their best and unite' to promote the results of victory to build a long-lasting, peaceful country. The concluding line of the poem "Van Co Tri Giang San" not only points to the country's destination but also expresses the nation's strong desire and longing for an eternally bright future. The meaning of poetry is expressive, but the music of poetry is expressive. The teachings harmonize faith and hope.
Three years after the poem 'Chanting Hoan Kinh Su' was published, in April 1288, during the sacrifice ceremony at Chieu Lang (the mausoleum of King Tran Thai Tong), King Tran Nhan Tong spontaneously read two verses:
Xa Tac Bihu Lao Thach Ma,
Son Ha Thien Ancient Golden Palace.
(The commune has two times weasels and horses fight,
The mountains and rivers are forever strong and stable'
Is it true that the above two lines of the king's poem echo the poem Tung Gia Hoan Kinh Su by Lieutenant General Tran Quang Khai? And is that also the pride of our entire nation during the Tran Dynasty, which people later called the East-A Pride? What does East-A pride mean? Dong A is a combination of the Tran family name, consisting of two words: The word Dong combined with the letter A in Chinese characters. Dong A's pride is patriotism, national pride, and the great spirit and determination of the Tran Dynasty's army and people in the cause of fighting against foreign invaders and building a peaceful and sustainable country. The pride of Dong A is not only the thoughts and souls of people, but also the ideological content and the overarching sound in many Vietnamese poetic works during the Tran Dynasty, 12th and 13th centuries.
|
Hướng dẫn
Trong một số bài thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông để lại có hai bài viết về Thiên Trường, mảnh đất ‘phát nghiệp đế vương’ của nhà Trần: ‘Hạnh Thiên Trường hành cung’ và ‘Thiên Trường văn vọng’.
Thiên Trường là một trong 12 lộ thời Trần, thuộc Sơn Nam; nay thuộc ngoại thành Nam Định. Thiên Trường vốn là Thái ấp của vua chúa nhà Trần, ở đây xưa kia có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ.
‘Thiên Trường văn vọng’được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông. Cảm xúc lắng đọng, cái nhìn man mác bâng khuâng ôm trùm cảnh vật:
‘Thôn hậu, thôn tiền, đạm tư yên,
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền’
Hơn 60 năm về trước, cụ Ngô Tất Tố đã dịch rất hay bài thơ này.
1. Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Bốn chữ ‘thôn hậu thôn tiền’ và ‘bán vô bán hữu’ liên kết đôi, tạo nên sự cân xứng hài hòa về ngôn ngữ đã gợi lên cảnh xóm thôn nối tiếp gần xa, đông đúc, trù phú. Trong bóng chiều nhạt nhòa^xóm thôn ‘trước xóm sau thôn’ phủ mờ khói nhạt, càng trở nên mơ màng, mênh mang. Khói của sương chiểu. Khói lam chiều vấn vương, nhẹ bay trên những mái nhà gianh sau lũy tre làng. Chỉ bằng ba nét vẽ rất chọn lọc, lối tả ít mà gợi nhiều của thi pháp cổ, thi sĩ đã làm hiện lên một không gian nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn phủ mờ sương khói và ánh tà dương rất yên bình, êm đềm, nên thơ. Nét vẽ thanh nhẹ. Cảnh vật bao la, tĩnh lặng. Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng hiện. Tưởng như thi sĩ đang thả hồn mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương gần xa không chán. So sánh ‘đạm tự yên’ (mờ nhạt như khói) là một hình tượng đầy thi vị. Cả một hồn quê man mác gợi cảm:
‘Thôn hậu thôn tiền đạm tư yên,
Bánvớ, bán hữu tịch dương biên’
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không)
2. Hai câu cuối là cảnh sắc đồng quê rất dân dã, bình dị, thân thuộc mà đáng yêu. Trên những nẻo đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau về thôn. Có âm thanh tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh réo rắt, hồn nhiên, thanh bình của làng quê ta xưa nay. Có từng đôi, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp nhau hạ xuống đồng. Nhà thơ không nói đến màu xanh và hương lúa mà người đọc vẫn cảm nhận được. Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ đầy âm thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức
sống. Bút pháp điểm nhãn,lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách nhiều ấn tượng về bức tranh đồng quê này:
‘Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền’
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)
Tinh quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên, cảnh vật đồng quê. Điểu đó cho thấy tâm hồn thi sĩ giàu tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tính bình dị, dán dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng – thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ ‘Hạnh Thiên Trường hành cung’ (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):
‘Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, đàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua’
(Bản dịch của ‘Hoàng Việt thi tuyển’)
|
Instruct
In some of the Chinese poems left behind by Tran Nhan Tong, there are two articles about Thien Truong, the land of the Tran Dynasty's 'imperial career': 'Hanh Thien Truong Hanh Cung' and 'Thien Truong Van Vong'.
Thien Truong is one of the 12 routes of the Tran Dynasty, in Son Nam; Now belongs to the suburbs of Nam Dinh. Thien Truong was originally the manor of the Tran Dynasty kings. In the past, there were many magnificent palaces here.
‘Thien Truong Van Vong’ is written in the seven-word, four-literate Tang luat poetic form (meter meter, flat rhyme). The poem describes the countryside and countryside of Thien Truong through the eyes and feelings of Tran Nhan Tong. Emotions settle, a wistful look embraces the scene:
'The back village, the front village, the tranquility,
Selling non-existence, selling existence, passing away.
Enemies of shepherds retreat to the oxen,
White road parallels Phi Ha Dien'
More than 60 years ago, Mr. Ngo Tat To translated this poem very well.
1. The first two lines of the poem describe the village scene in the Thien Truong region in the fading afternoon light. The four words 'back village, front village' and 'semi-nothing, semi-existent' are linked in pairs, creating a harmonious symmetry in language, evoking the scene of a series of villages near and far, crowded and prosperous. In the pale twilight^ the village 'before the village after the village' is covered with pale smoke, becoming even more dreamy and vast. Smoke of the evening dew. The blue smoke of the afternoon lingers, flying lightly over the roofs of the houses behind the village's bamboo poles. With just three very selected strokes, the less descriptive but more evocative style of ancient poetics, the poet has created an artistic space of the countryside scene on a fading afternoon covered with smoke and a very peaceful sunset. peaceful, peaceful, poetic. Light drawing. The landscape is vast and quiet. The external environment and the mental situation are present at the same time. It seems like the poet is immersing himself in the scenery, silently admiring his hometown near and far without getting bored. The comparison of 'silent protein' (faint like smoke) is a poetic image. A charming, rustic soul:
'The back village of the front village is calm and quiet,
Sell your socks, sell your property and stay in the ocean'
(In front of village after village is like smoke from a cage,
Does the afternoon shadow seem so long?
2. The last two sentences are about the countryside scenery, which is very rustic, simple, familiar and lovely. On the country roads, herds of buffaloes follow one another to the village. There is the sound of a shepherd's flute playing, the melodious, innocent, peaceful sound of our ancient village. There were pairs and pairs of white storks flying and landing one after another in the fields. The poet does not mention the green color and scent of rice, but the reader can still feel it. Poetic language and poetic images are full of sounds and colors, elegant and energetic
living. The author's style of marking and using movement to describe stillness is impressive in this countryside painting:
'The enemy of the shepherd and the ox retreat to the end,
White road parallels Phi Ha Dien'
(The shepherds' flutes and buffaloes have all returned. The white storks, in pairs, are thrown into the field.)
The spirit of the countryside and the soul of the countryside are harmonious and abundant. Thien Truong at that time, the roads were crowded with horses and carriages, there were many palaces of kings and royal families of the Tran Dynasty, but Tran Nhan Tong did not talk about the purple towers, the magnificent jade thrones, but only talked about to natural scenery and countryside scenery. This shows that the poet's soul is rich in love for nature and love for his homeland. Simplicity, simplicity, and innocence are the essence and poetic soul of this heroic king - poet. That feeling becomes even clearer when we read the poem 'Hanh Thien Truong Hanh Cung' (Nguyen plays in Thien Truong palace):
‘The scene is quiet, things are also quiet,
Those dozen fairy continents are one continent.
Hundreds of sounds of birds, music and songs,
Thousands of tangerines and soldiers.
The unharmed moon shines on the unharmed people,
Water has autumn, sky has autumn.
Both the four clear pools and the silent dust,
The past is inferior to this one'
(Translation of ‘Hoang Viet exam competition’)
|
Hướng dẫn
… ‘Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình’.Hai bài thơ Thiên Trường văn vọng của vua Trần Nhân Tông, Côn Sơn ca của danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế. Qua bức tranh cảnh vật và con người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng.
“Thiên Trường văn vọng’(Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra):
‘Thôn hậu thôn tiền đạm tư yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền’
Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là:
‘Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không.
Mục đồng sáo vẳng trâu vê hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng’
Tương truyền: Sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thơ Đường, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hòa, nhẹ nhàng, thanh thoát.
Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả:
‘Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có dường không’
Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhòa, mờ tỏ, ‘bán vô bán hữu’ nửa như có, nửa như không. Khói tỏa từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là những làn sương chiều lãng đãng hòa quyện với những vầng khói thổi cơm ngay từ những mái nhà lan tỏa thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng thanh thản khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tàm hồn con người như cũng lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hòa hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động:
‘Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng’
|
Instruct
… 'To express, the writer turns objects, scenes, events, people... into images expressing his feelings'. Two poems Thien Truong Van Vong by King Tran Nhan Tong, Con Son ca by the famous Nguyen Trai's cultural essay are two such texts. Through paintings of landscapes and people, the two authors expressed their sincere feelings. Two natural paintings, two poetic souls, passionate love for homeland, country, optimism, love for life, very worthy of respect.
“Thien Truong Van Vong” (In the afternoon, standing at Thien Truong Palace, looking out):
'The back village of the front village is calm and quiet,
Selling non-living, selling pure and positive border.
Enemies of shepherds retreat to the oxen,
White road parallels Phi Ha Dien'
Writer Ngo Tat To translated:
'In front of village after village is like smoke from a cage,
The darkness of the afternoon seems so strange.
The shepherds and buffaloes are all gone,
White storks threw themselves into the fields in pairs.
Legend has it: After leading our army and people to fight against the Mongol-Nguyen invaders to victory, the country returned to peace, on the occasion of returning to visit his homeland in Thien Truong (in present-day Nam Dinh province), King Tran Nhan Tong spontaneously composed this poem. The poem is written in the Tang poetic style, with seven words and four verses, with a harmonious, gentle, and elegant tone.
This is a picture of the countryside at dusk, gradually fading into the evening. The first two sentences describe the dreamy, peaceful village scene:
'In front of the village, after the village, it's like smoke in a cage. The shadow of the afternoon is so dark, does it seem like it's not there'
The hamlet, thatched-roofed houses are interconnected, clustered together in front and behind, close together on all four sides, the smoke is faint and unclear, 'half non-existent, half existing' half as if there is, half as if not. Where is the smoke coming from? Perhaps, it is the romantic afternoon mist blending with the smoke from blowing rice right from the rooftops spreading into a mist - soft, translucent white smoke flying gently and serenely, making the viewer feel the place is clear. , blurred places, sometimes there, sometimes not. The scene is airy and light, making people's souls feel lightheaded. Or is it because people's hearts are lightheaded and dreamy that they see such quiet, peaceful villages and fog? The external environment and the mental environment harmonize very naturally. Down to the next two sentences, the scene is a bit disturbing:
'The shepherds' flutes and buffaloes have all returned. The white storks, in pairs, are thrown into the fields'
|
Hướng dẫn
‘Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu’
…Sau chiến thắng Bạch Đằng, giặc Mông cổ bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Trần Nhân Tông và triều đình đã trọng thể tổ chức lễ hiến tiệp (dâng tù binh lên tổ tiên, ăn mừng thắng trận). Trong đám tù binh Mông cổ có Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và nhiều tướng lĩnh cao cấp khác, bị trói và giải đến theo đúng nghi lễ và phong tục.
Sử sách cũ cho biết, tại lễ hiến tiệp ở Chiêu Lãng năm ấy, chợt nhìn thấy chân ngựa đá (thạch mã) có vết bùn, vua Trần Nhân Tông đã ứng khẩu hai câu thơ tức cảnh bằng chữ Hán:
‘Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu’
Hai câu thơ đối nhau. Ngôn từ trang trọng, trang nghiêm. Ý tưởng tráng lệ, sâu xa. Đúng là khẩu khí của một bậc đế vương anh hùng lưu danh sử sách. Câu thơ dịch cũng khá hay:
‘Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng’
Xã tác, sơn hà là những từ Hán Việt cùng nghĩa, gần nghĩa như giang sơn, sông núi, đất nước, Tổ quốc, cách nồi của chúng ta ngày nay. ‘Lao’có nghĩa là gian lao, vất vả. ‘Điện’có nghĩa là vững yên, vững bền. Kim âu là âu vàng có chạm khắc rồng phượng và trang trí bằng ngọc rất đẹp; Kim âu là biểu tượng, vật tượng trưng tôn quý, linh thiêng của Vương triều, của quốc gia và dân tộc. Có vị giáo sư đã dịch thành ‘chậu vàng’,nghĩa đen thì đúng, nhưng rất thô!
Chữ ‘lao’trong câu thơ chữ Hán đã nhân hóa con ngựa đá ở Chiêu Lăng. Lưỡng hồi là hai phen, hai bận; chỉ cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) của Đại Việt đánh thắng quân Mông cổ xâm lược. Để làm nên chiến thắng: ‘Chương Dương cướp giáo giặc – Hàm Tử bắt quân thù’(thơ Trần’Quang Khải), để Tây Kết, Vạn Kiếp, Bạch Đằng… mãi mãi sáng ngời sông núi, cả nước
cả dân tộc đã đứng lên với lời thề ‘quyết chiến’với ý chí ‘sát Thát’ngùn ngụt đất trời. Để làm nên chiến thắng là do sức mạnh đại đoàn kết dân tộc không kẻ thù nào lay chuyên nổi: ‘Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức’.Để chiến thắng quân xâm lược, vị thống soái quyết xả thân vì sơn hà, xã tắc, ‘dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng’(Hịch tướng sĩ). Để mãi mãi trong thời gian ‘mà nhục quân thù khôn rửa nổi’(Bạch Đằng Giang phú), có biết bao anh hùng quyết giương cao ngọn cờ ‘Phá cường địch, báo hoàng ân’,có hàng ngàn hàng vạn tướng sĩ đã ‘Múa giáo non sông trải mấy thu – Ba quản hùng khí át sao Ngưu’(Thuật hoài). Và để làm nên thắng trận, hình như ngựa đá ở Chiêu Lăng cũng xông pha gươm giáo cùng ba quân, nếm trải nhiều gian lao khó nhọc. Câu thơ ‘Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã’ là một tứ thơ sâu sắc tuyệt hay. Câu thơ còn mang hàm nghĩa: tổ tiên ông cha linh thiêng đã ngầm giúp cháu con làm nên chiến công ‘bình Nguyên’lừng lẫy, bảo toàn núi sông Đại Việt.
Câu thơ thứ hai biểu lộ niềm tự hào về sự bền vững đến muôn đời của kim âu, của sơn hà xã tắc. Đó là ý chí tự cường. Đó là niềm tin sáng chói về truyền thống anh hùng của dân tộc. Đó là khát vọng độc lập, hòa bình của nhân dân ta:
|
Instruct
'The two-return village of the stone horse,
Son Ha Thien Ancient Golden Palace'
...After the Bach Dang victory, the Mongol invaders were wiped out. Tran Nhan Tong and the court solemnly held a dedication ceremony (offering prisoners of war to their ancestors, celebrating victory). Among the Mongolian prisoners were O Ma Nhi, Phan Tiep and many other high-ranking generals, who were tied up and brought in according to rituals and customs.
Old history books say that at the donation ceremony in Chieu Lang that year, suddenly seeing mud stains on the stone horse's leg (stone horse), King Tran Nhan Tong improvised two verses of poetry in Chinese characters:
'The two-return village of the stone horse,
Son Ha Thien Ancient Golden Palace'
Two verses contrast each other. The language is formal and dignified. Magnificent, profound idea. Truly the tone of a heroic emperor who will be remembered in history books. The translated poem is also quite good:
'The two sides of the village are often beaten by horses and foxes,
The mountains and rivers are forever strong and stable'
Cooperative, mountains and rivers are Sino-Vietnamese words with the same meaning, close in meaning to rivers, mountains, country, fatherland, and our way of cooking today. ‘Lao’ means hardship and hardship. ‘Electricity’ means steady, stable. The golden bowl is a golden bowl carved with dragons and phoenixes and decorated with beautiful jade; The golden euro is a noble and sacred symbol and symbol of the Dynasty, the country and the people. A professor translated it into 'pot of gold', which is literally correct, but very crude!
The word 'lao' in the Chinese poem personifies the stone horse in Chieu Lang. Two times means two times, two times; Only Dai Viet's second (1285) and third (1288) resistance wars defeated the invading Mongols. To create victory: 'Chuong Duong stole the enemy's spear - Ham Tu captured the enemy' (poem Tran'Quang Khai), so that Tay Ket, Van Kiep, Bach Dang... forever shine on rivers and mountains, the whole country
The entire nation stood up with the oath to 'determinately fight' with the will to 'slay That' across heaven and earth. To achieve victory, it was due to the strength of great national unity that no enemy could shake: 'The king and I are of one mind, brothers are in harmony, the whole country contributes'. To defeat the invaders, the marshal decided to win. Giving up my life for the mountains and rivers and the society, 'Even if these hundred bodies are exposed to the grass, or these thousand bodies are wrapped in horse skin, I will still be happy' (Hich Tuong Si). Forever in the time 'when the humiliation of the enemy cannot be washed away' (Bach Dang Giang phu), there are countless heroes who are determined to raise the flag 'Destroy enemy strength, repay royal grace', there are thousands and thousands of generals who have 'Dancing spears across the mountains and rivers for several autumns - Three powerful forces dominate the Ox star' (Thuat Hoi). And in order to win the battle, it seems that the fighting horses in Chieu Lang also rushed to the sword and spear with the three armies, experiencing many hardships. The poem 'Sac Tac Bihu Lao Thach Ma' is a beautiful and profound poem. The poem also carries the meaning: the sacred ancestors secretly helped their children and grandchildren to achieve the famous 'Ping Nguyen' victory, preserving Dai Viet's mountains and rivers.
The second verse expresses pride in the eternal sustainability of the golden sea and the mountains and rivers. That is self-reliance. That is a shining belief in the nation's heroic tradition. That is our people's desire for independence and peace:
|
Hướng dẫn
Trần Nhân Tông (1258 – 1308)
Bán song đãng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu dinh dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
Trăng
Bóng đèn soi nửa cửa đổ, sách đầy giường,
Sương thu rơi ngoài sân, ban đêm khí trời trống không, lặng lẽ.
Thức dậy, tiếng chày đập vải đã vắng ngắt,
Bóng trăng vừa hé gọi trên chùm hoa mộc.
Bên song, đèn rạng, sách đầy giường,
Khí lạnh, đêm thu, đượm giọt sương.
Thức dậy, tiếng chày đà lặng ngắt,
Trên chùm hoa mộc, nguyệt lồng hương.
(Bản dịch ‘Hoàng Việt thi tuyển’)
‘Nguyệt’là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Trần Nhân Tông (1258 – 1308), nhà vua anh hùng – thi sĩ của Đại Việt trong thế kỉ 13. Ta dự đoán, bài thơ có thể được viết khi đất nước ta đã ‘rửa sạch mấy lần giáp hĩnh’ bước vào một kỉ nguyên mới: ‘Giặc tan muôn thuở thanh hình’ (‘Bạch Đằng Giang phú’ – Trương Hán Siêu).
Bao trùm bài thơ là một không khí, một không gian nghệ thuật êm đềm, trong sáng và thơ mộng.
Bài thơ tả cảnh một đêm thu nơi cung cấm. Nhà vua không đắm chìm trong tửu sắc, không chuếnh choáng trong nhã nhạc, mà thức khuya đọc sách. Một không gian thoáng đãng: cửa sổ rộng mở, đầy ánh sáng, ánh sáng của ngọn đèn, ánh sáng của tri thức của trí tuệ. Hình ảnh ‘mãn sàng thư’ (sách đầy giường) đã thể hiện một tâm hồn, một cốt cách cần mẫn, cao nhã và hiếu học. Sử sách cho biết Trần Nhân Tông là một con người siêng năng, giản dị và thông tuệ. Một câu thơ, một con người:
‘Bán song đăng ảnh mãn sàng thư’
(Bên song đèn rạng, sách đầy giường)
Sau này Lê Thánh Tông cũng sống đẹp như thế:
‘Trống dời canh còn đọc sách,•
Chiêng xế hóng chửa thôi chầu’
(Tự thuật)
Câu thơ thứ hai tả cảnh đêm thu. Sương rơi. Trời đêm trong sáng mênh mỏng, êm đềm lặng lẽ. Câu thơ lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm phong phú, vô cùng thư thái. Nhà vua vừa đọc sách vừa nghe tiếng sương thu nhẹ rơi ngoài sân. Câu thơ thứhai đượm màu sắc cảm giác, xúc giác; cảnh diễn tả tinh tế nhẹ nhàng: ‘Lộ trích thu đình dạ khí hư’
(Khí lạnh đêm thu đượm giọt sương)
Hai câu 3, 4 tả cảnh nhà vua từng đọc sách suốt đêm khuya nhưng dậy rất sớm. Chưa nghe tiếng gà gáy. Chưa nghe tiếng chày đập vải. Bốn bề vắng lặng, gợi lên không khí thanh bình của đất nước. Nhà thơ ngắm nhìn hoa, nhìn trăng. Hình tượng ‘trăng lồng hoa’ rất thơ mộng hữu tình:
‘Thụy khởi chàm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ’
(Thức dậy, tiếng chày đà lặng ngắt,
Trên chùm hoa mộc, nguyệt lồng hương)
|
Instruct
Tran Nhan Tong (1258 – 1308)
Selling double photos and full books,
Lo extracted autumn Dinh Da's bad gas.
Thuy starts the needle in the silent land,
The first hybrid of the moc ginseng flower on the moon.
Moon
The light bulb illuminating half the door collapsed, books filled the bed,
Autumn dew falls outside the yard, at night the air is empty and quiet.
Waking up, the sound of the pestle beating the cloth was gone.
The shadow of the moon just called out on the bunch of rustic flowers.
Next to the river, bright lights, books full of beds,
The air is cold, the night is autumn, filled with dew drops.
Waking up, the sound of the pestle is silent,
On the bunches of wildflowers and moonflowers, there are incense sticks.
(Translation of 'Hoang Viet's entrance exam')
'Nguyet' is a four-word poem by Tran Nhan Tong (1258 - 1308), the heroic king - poet of Dai Viet in the 13th century. We predict that the poem may have been written when our country was 'washing off the armor several times' enters a new era: 'The enemy is forever in peace' ('Bach Dang Giang Phu' - Truong Han Sieu).
The poem is surrounded by an atmosphere, a peaceful, pure and poetic artistic space.
The poem describes an autumn night in a forbidden palace. The king did not indulge in alcohol, did not get drunk in courtly music, but stayed up late reading books. An airy space: wide open windows, full of light, the light of a lamp, the light of knowledge and wisdom. The image of 'full bed books' (books full of beds) shows a soul, a diligent, noble and studious personality. History books say that Tran Nhan Tong was a diligent, simple and intelligent person. One poem, one person:
'Selling songs and posting photos to complete the letter'
(Besides the railings, books fill the bed)
Later, Le Thanh Tong also lived beautifully like that:
'Drum shifts and still reads books,•
The chariot gong waits for you to stop adoring'
(Narrative)
The second verse describes the autumn night scene. Dew falls. The night sky is clear, thin, peaceful and quiet. The poem uses the external environment to express a rich, extremely relaxing inner mind. The king read a book while listening to the gentle sound of autumn dew falling in the yard. The second verse is filled with sensory and tactile colors; The scene is described delicately and gently: 'The atmosphere of Lo and Thu Dinh's night'
(The cold air of the autumn night is filled with dew drops)
Verses 3 and 4 describe the scene where the king once read books late at night but woke up very early. Haven't heard the cock crow yet. Haven't heard the sound of the pestle hitting the fabric. The surrounding area is quiet, evoking the peaceful atmosphere of the country. The poet looks at the flowers and the moon. The image of 'moon caged with flowers' is very poetic and charming:
'The land of indigo and darkness arises,
The first hybrid of Moc Gong flower Thuong Nguyet
(Wake up, the sound of the pestle is silent,
On a bunch of osmanthus flowers, moon and incense sticks)
|
Hướng dẫn
Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), cùng cha làm quan dưới triều Hồ Quý Li. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt giải sang Tàu, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng 10 năm trời ở thành Đông Quan (Thăng Long).
Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở núi rừng Lam Sơn. Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân, dâng ‘Bình Ngô sách’ lên Bình Định Vương Lê Lợi. Ông trở thành cánh tay phải đắc lực của người anh hùng Lam Sơn. Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi viết thư cho bọn tướng tá giặc Minh, thực hiện chiến lược ‘tâm công’ đánh vào lòng giặc thu được nhiều chiến công hiển hách. Ông là người ‘viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời’.
Nước nhà được độc lập sau 10 năm kháng chiến, năm 1428, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết ‘Bình Ngô đại cáo’ tuyên bố công cuộc ‘Bình Ngô phục quốc’ của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, nước Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới: độc lập, thái bình bền vững. Ông được phong tước Quan phục hầu, làm Chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Ông hăm hở đem tài kinh bang tế thế mong giúp vua xây dựng đất nước cường thịnh. Cuộc sống của ông thanh bạch liêm khiết, tính ông cương trực nên ông bị bọn quyền thần ghét. Nguyễn Trãi đã lui về Côn Sơn ở ẩn.
Năm 1442 vụ án Lệ Chi Viên xẩy ra, Nguyễn Trãi bị vu oan, bị tru di tam tộc. Mãi 22 năm sau, năn 1464 vua Lê Thánh Tông mới viết chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi và khẳng định:
‘ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo’
(ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê)
2.Nguyễn Trãi sáng tác nhiều, nhưng sau vụ án Lệ Chi Viên thơ văn của ông bị thiêu hủy, bị thất tán nhiều. Hiện nay chỉ còn lại:
– Quân trung từ mệnh tập:69 bài.
– Bình Ngô đại cáo.
– Lam Sơn thực lục.
– Bia Vĩnh Lãng.
– Dư địa chí.
– Chí Linh phú.
– ức Trai thi tập:105 bài.
– Quốc âm thi tập:254 bài.
|
Instruct
In 1400, Nguyen Trai passed the Thai student exam (PhD), and worked with his father as a mandarin under the reign of Ho Quy Li. In 1407, the Ming enemy invaded our country, Nguyen Phi Khanh was captured by the enemy and taken to China, Nguyen Trai was imprisoned by the enemy for 10 years in Dong Quan citadel (Thang Long).
In 1418, Le Loi raised the flag of rebellion in Lam Son mountains and forests. Nguyen Trai joined the insurgent army and offered 'Binh Ngo book' to Binh Dinh Vuong Le Loi. He became the powerful right-hand man of the hero Lam Son. Nguyen Trai, on behalf of Le Loi, wrote a letter to the generals of the Ming enemy, implementing the strategy of 'heart attack' to attack the enemy, gaining many glorious victories. He was 'the most talented writer of manuscripts at any time'.
The country was independent after 10 years of resistance. In 1428, on behalf of Le Loi, Nguyen Trai wrote 'Binh Ngo Dai Cao' declaring our people's 'Binh Ngo national restoration' completely victorious, Dai Viet country Entering a new era: independence, sustainable peace. He was awarded the title of Quan Phuc Marquis and became the first Chief Examiner of the Doctoral Examination of the Le Dynasty. He eagerly used his economic talents to help the king build a prosperous country. His life was pure and honest, his personality was upright, so he was hated by the powerful. Nguyen Trai retired to Con Son in hiding.
In 1442, the Le Chi Vien case occurred, Nguyen Trai was falsely accused and exiled to the three clans. It was not until 22 years later, in 1464, that King Le Thanh Tong wrote a decree exonerating Nguyen Trai and affirming:
'Must Trai's heart is bright with Khue Tao'
(My heart is as bright as Khue star)
2. Nguyen Trai composed a lot, but after the Le Chi Vien case, his poetry was burned and much of it was scattered. Now only remains:
– Quan Trung Tu Du Diem: 69 lessons.
– Binh Ngo great report.
– Lam Son Thuc Luc.
– Vinh Lang beer.
– Residual land will.
– Chi Linh phu.
– Duc Trai practice exam: 105 lessons.
– National audio exam practice: 254 lessons.
|
Hướng dẫn
Xuất xứ:
Nhiều bài thơ trong ‘ức Trai thi tập’, ‘Quốc âm thi tập’, Nguyễn Trãi đều nói đến Côn Sơn ‘quê cũ’ của mình. Đọc bài thơ, ta biết ông viết ‘Côn Sơn ca’ sau khi đã thoát vòng danh lợi, về ở ẩn tại suối rừng Côn Sơn. ‘Côn Sơn ca’ nằm trong phần cuối tập thơ chữ Hán ‘ức Trai thi tập’.
Chu đề:
‘Côn Sơn ca’là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp có suối, đá, trúc, thông để nhà thơ di dưỡng tinh thần, đồng thời nói lên những suy nghĩ về danh lợi, về hiền ngu, về nhục vinh trong cuộc đời, qua đó đề cao triết lí thanh nhàn trong sạch. Có
thể nói ‘Côn Sơn ca’là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời.
Thể thơ:
‘Cồn Sơn ca’gồm có 30 câu thơ chữ Hán, trong đó thơ 4 chữ có bốn câu; thơ 5 chữ có tám câu; thơ 7 chữ có 14 câu; thơ 8 chữ có ba câu; thơ 10 chữ có một câu.
Bản dịch thơ chỉ có 26 câu thơ lục bát.
Đoạn thơ trích trong’Ngữ Văn 7’ có 12 càu thơ chữ Hán, dịch thành tám câu thơ lục bát.
Chữ Hán: ‘ngô’ nghĩa là ‘ta’. Phần đầu có 4 chữ ‘ngô’.
– ‘Ngô dĩ vi cầm huyền’
(Ta lấy làm đàn cầm)
– ‘Ngô dĩ vi đạm tịch’
(Ta lấy làm chiếu thảm)
– ‘Ngô ư thị hồ yến tức kì trung’
(Ta tha hồngơi nghỉở trong)
– ‘Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc’
(Ta tha hồ ngâm nga bên gốc)
Lúc cảm thụ, bải thơ các em nên chú ý đến chữ ‘ta’ – nhân vật trữ tình đó.
Phân tích 12 câu đầu bài ‘Côn Sơn ca’ của Nguyễn Trãi.
Phiên âm.
Côn Sơn ca
Nguyễn Trãi
Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển, tức kì trung. Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thi hồ ngâm tiếu kì trắc. (…)
Dịch nghĩa.
Bài ca Côn Sơn
Côn Sơn có suối,
Tiếng nước chảy róc rách,
Ta cho là đàn cẩm.
Côn Sơn có đá,
Mưa rửa rêu phô biếc,
Ta cho là đệm chiếu.
Trong núi có thông,.
Muôn dặm chiếc lọng xanh rủ bóng, Ta tha hồ nghỉ ngơi ở trong đố. Trong rừng có trúc,
Nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi,
Ta tha hồ ngâm nga ỏ bên cạnh.
(…)
Dịch thơ.
Bài ca Côn Sơn
Nguyễn Trãi
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(…)
(‘Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi- NXB Văn Hóa, 1962)
Gợi ý phân tích
Bài thơ ‘Côn Sơn ca’ rút trong tập thơ chữ Hán ‘ức Trai thi tập’. Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong những năm cuối đời, khi đã về Côn Sơn ở ẩn:
‘Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn’
‘Côn Sơn ca’viết theo thể điệu ‘ca khúc’ cổ điển, gồm có 36 câu thơ chữ Hán, câu ngắn nhất bôn chữ, câu dài nhất mười chữ, phần lớn là câu ngũ ngôn, thất ngôn. Dịch giả đã chuyển điệu, chuyển thể thành 26 câu thơ lục bát; một bản dịch thơ khá hay về ‘Bài ca Côn Sơn’.
Đoạn thơ sau đây là phần đầu 12 câu trong ‘Côn Sơn ca’ được dịch thành tám câu thơ lục bát nói về vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên Côn Sơn và thề hiện niềm yêu thích, say mê của ức Trai được giao hòa giao cảm với suối, đá và thông, trúc:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Côn Sơn là dãy núi ở xã Chi Ngại, thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư trong dãy núi Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống với mẹ và ông ngoại tại đây. Vì thế, nhà thơ coi Côn Sơn là ‘quê cũ’ với bao tình mến thương:
‘Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội. cá trong ao.
‘ (…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?’
(‘Mạn thuật’ -13)
‘Côn Sơn ca’ là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thê sự, triết lí về cuộc đời, về nhân sinh.
Đoạn thơ cấu trúc tứ bình, thể hiện vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên: suối, đá, tùng, trúc. Cứ ba câu thơ nồi lên một cảnh đẹp Côn Sơn. Cảnh thư nhất là suối. Tiếng nước chảy cứ róc rách mà nhà thơ thích thú ‘cho là đàn cầm’. Nhạc của suối để mua vui những tháng ngày ở ẩn. Ân dụ ‘đàn cầm’ biểu lộ niềm vui giao cảm với suối, coi suối là mảnh tâm hồn của ‘ta’:
‘Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền’
(Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai)
Cảnh đẹp thứ hai là đá. Đá được mưa xối làm cho phẳng lì, rêu phô màu xanh biếc, ‘ta cho là đệm chiếu’. Đá đã trở thành một phần cuộc đời ức Trai, để làm chiếu thảm, nghỉ ngơi ngồi ngắm cảnh suối rừng. Các từ ngữ ‘Côn Sơn có’, ‘ta cho là…’ được điệp lại hai lần, làm cho nhạc điệu bài ca trở nên du dương trầm bổng, biểu lộ niềm vui thú, say mê. Ân dụ ‘đệm chiếu’ (đạm tịch) thế hiện một tâm thế nhàn:
‘Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô hích,
Ngô dĩ vi đạm tịch’
(Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm’
Cảnh đẹp thứ ba là thông. Đã bao đời nay, thông Côn Sơn đã đi vào lịch sử và hồn người. Thông bát ngát như ‘muôn chiếc lọng xanh rủ hóng’, là nơi ‘la tha hồ nghỉ ngơi…’. Bóng thông, màu xanh của thông như chở che. Nhà thơ ngắm thông, đốn với thông với bao niềm vui thỏa thích, tin cậy:
‘Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yểm tức kì trung’
(Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi hóng mát ta lên ta nằm)
An dụ ‘muôn dặm chiếc lọng xanh rủ hóng’ là một hình tượng mĩ lệ gợi cảm. Thông tượng trưng cho đấng trượng phu coi thường sương tuyết đã trở thành tri kỉ của nhà thơ.,,
Cảnh đẹp thứ tư là trúc. Trúc Côn Sơn điệp trùng nghìn mẫu, xanh một màu xanh mát rượi. Dưới gốc trúc, bóng trúc, ‘ta tha hồ ngâm nga’. Màu xanh của trúc đã tỏa mát tâm hồn ức Trai. Trúc quân tử đã trở thành bạn tri âm, san sẻ, cảm thông niềm vui nỗi buồn của ‘ta’ trong những tháng ngày về Côn Sơn ở ẩn:
‘Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc’
(Trong rừng có hóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Nếu phần sau bài ca mang tính triết lí biểu lộ một nhân cáchcao khiết của kẻ sĩ, thì phần đầu lại dào dạt chất trữ tình. Suối, đá, thông, trúc là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân giao hòa giao cảm, để ‘ta cho là đàn cầm’, để ‘ta cho là đệm chiếu’, để ‘ta tha hồ nghỉ ngơi’ trong rừng thông, để’ta tha hổ ngâm nga’ giữa nghìn mẫu trúc. Các ẩn dụ tạo nên những hình tượng mĩ lệ: suối là đàn cầm, đá là đệm chiếu, thông là những chiếc lọng xanh rủ bóng, trúc là nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi. Hình tượng thơ là âm thanh của khúc nhạc rừng, là màu xanh bất tận của núi rừng, của thiên nhiên, của sự sống; tất cả đã gắn liền với cảm giác, với tâm hồn ức Trai bằng bao liên tưởng thiết tha đằm thắm. Một cách viết trùng điệp tài hoà. Chữ ‘ta’ xuất hiện bôn lần, kết hợp với các điệp ngũ: ‘Côn Sơn có…’, ‘trong núi có…’, ‘trong rừng có…’, ‘ta cho là…’, ‘ta tha hồ…’ đã tạo nên âm điệu, nhạc điệu trầm bổng, du dương, thiết tha của ‘Bải ca Côn Sơn”.
‘Ta’ là chủ thể trữ tình của bài ca, chính là ức Trai tiên sinh. “Thiên nhiên là ta, ta cũng là thiên nhiên; suối, đá, thông, trúc của Côn Sơn với Nguyễn Trãi chỉ •là một. Chữ ‘ta’ trong thơ Nguyễn Trãi rất hồn nhiên, dung dị và biểu cảm:
‘Ầu lộ cùng ta dường có ý,
Đến đâu thì thấy nó đi theo’
(‘Tự thán’-31)
‘Rùa nằm hạc lẩn vui bè ban,
Ú ấp cùng ta làm cái con’
(‘Ngôn chí – 20)
|
Hướng dẫn
Xuất xứ:
Nhiều bài thơ trong ‘ức Trai thi tập’, ‘Quốc âm thi tập’, Nguyễn Trãi đều nói đến Côn Sơn ‘quê cũ’ của mình. Đọc bài thơ, ta biết ông viết ‘Côn Sơn ca’ sau khi đã thoát vòng danh lợi, về ở ẩn tại suối rừng Côn Sơn. ‘Côn Sơn ca’ nằm trong phần cuối tập thơ chữ Hán ‘ức Trai thi tập’.
Chu đề:
‘Côn Sơn ca’là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp có suối, đá, trúc, thông để nhà thơ di dưỡng tinh thần, đồng thời nói lên những suy nghĩ về danh lợi, về hiền ngu, về nhục vinh trong cuộc đời, qua đó đề cao triết lí thanh nhàn trong sạch. Có
thể nói ‘Côn Sơn ca’là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời.
Thể thơ:
‘Cồn Sơn ca’gồm có 30 câu thơ chữ Hán, trong đó thơ 4 chữ có bốn câu; thơ 5 chữ có tám câu; thơ 7 chữ có 14 câu; thơ 8 chữ có ba câu; thơ 10 chữ có một câu.
Bản dịch thơ chỉ có 26 câu thơ lục bát.
Đoạn thơ trích trong’Ngữ Văn 7’ có 12 càu thơ chữ Hán, dịch thành tám câu thơ lục bát.
Chữ Hán: ‘ngô’ nghĩa là ‘ta’. Phần đầu có 4 chữ ‘ngô’.
– ‘Ngô dĩ vi cầm huyền’
(Ta lấy làm đàn cầm)
– ‘Ngô dĩ vi đạm tịch’
(Ta lấy làm chiếu thảm)
– ‘Ngô ư thị hồ yến tức kì trung’
(Ta tha hồngơi nghỉở trong)
– ‘Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc’
(Ta tha hồ ngâm nga bên gốc)
Lúc cảm thụ, bải thơ các em nên chú ý đến chữ ‘ta’ – nhân vật trữ tình đó.
Phân tích 12 câu đầu bài ‘Côn Sơn ca’ của Nguyễn Trãi.
Phiên âm.
Côn Sơn ca
Nguyễn Trãi
Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh lãnh lãnh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển, tức kì trung. Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thi hồ ngâm tiếu kì trắc. (…)
Dịch nghĩa.
Bài ca Côn Sơn
Côn Sơn có suối,
Tiếng nước chảy róc rách,
Ta cho là đàn cẩm.
Côn Sơn có đá,
Mưa rửa rêu phô biếc,
Ta cho là đệm chiếu.
Trong núi có thông,.
Muôn dặm chiếc lọng xanh rủ bóng, Ta tha hồ nghỉ ngơi ở trong đố. Trong rừng có trúc,
Nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi,
Ta tha hồ ngâm nga ỏ bên cạnh.
(…)
Dịch thơ.
Bài ca Côn Sơn
Nguyễn Trãi
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
(…)
(‘Thơ văn chữ Hán Nguyễn Trãi- NXB Văn Hóa, 1962)
Gợi ý phân tích
Bài thơ ‘Côn Sơn ca’ rút trong tập thơ chữ Hán ‘ức Trai thi tập’. Nguyễn Trãi viết bài thơ này trong những năm cuối đời, khi đã về Côn Sơn ở ẩn:
‘Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn’
‘Côn Sơn ca’viết theo thể điệu ‘ca khúc’ cổ điển, gồm có 36 câu thơ chữ Hán, câu ngắn nhất bôn chữ, câu dài nhất mười chữ, phần lớn là câu ngũ ngôn, thất ngôn. Dịch giả đã chuyển điệu, chuyển thể thành 26 câu thơ lục bát; một bản dịch thơ khá hay về ‘Bài ca Côn Sơn’.
Đoạn thơ sau đây là phần đầu 12 câu trong ‘Côn Sơn ca’ được dịch thành tám câu thơ lục bát nói về vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên Côn Sơn và thề hiện niềm yêu thích, say mê của ức Trai được giao hòa giao cảm với suối, đá và thông, trúc:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Côn Sơn là dãy núi ở xã Chi Ngại, thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tướng công Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư trong dãy núi Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống với mẹ và ông ngoại tại đây. Vì thế, nhà thơ coi Côn Sơn là ‘quê cũ’ với bao tình mến thương:
‘Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội. cá trong ao.
‘ (…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?’
(‘Mạn thuật’ -13)
‘Côn Sơn ca’ là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thê sự, triết lí về cuộc đời, về nhân sinh.
Đoạn thơ cấu trúc tứ bình, thể hiện vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên: suối, đá, tùng, trúc. Cứ ba câu thơ nồi lên một cảnh đẹp Côn Sơn. Cảnh thư nhất là suối. Tiếng nước chảy cứ róc rách mà nhà thơ thích thú ‘cho là đàn cầm’. Nhạc của suối để mua vui những tháng ngày ở ẩn. Ân dụ ‘đàn cầm’ biểu lộ niềm vui giao cảm với suối, coi suối là mảnh tâm hồn của ‘ta’:
‘Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền’
(Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai)
Cảnh đẹp thứ hai là đá. Đá được mưa xối làm cho phẳng lì, rêu phô màu xanh biếc, ‘ta cho là đệm chiếu’. Đá đã trở thành một phần cuộc đời ức Trai, để làm chiếu thảm, nghỉ ngơi ngồi ngắm cảnh suối rừng. Các từ ngữ ‘Côn Sơn có’, ‘ta cho là…’ được điệp lại hai lần, làm cho nhạc điệu bài ca trở nên du dương trầm bổng, biểu lộ niềm vui thú, say mê. Ân dụ ‘đệm chiếu’ (đạm tịch) thế hiện một tâm thế nhàn:
‘Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô hích,
Ngô dĩ vi đạm tịch’
(Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm’
Cảnh đẹp thứ ba là thông. Đã bao đời nay, thông Côn Sơn đã đi vào lịch sử và hồn người. Thông bát ngát như ‘muôn chiếc lọng xanh rủ hóng’, là nơi ‘la tha hồ nghỉ ngơi…’. Bóng thông, màu xanh của thông như chở che. Nhà thơ ngắm thông, đốn với thông với bao niềm vui thỏa thích, tin cậy:
‘Nham trung hữu tùng,
Vạn lí thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yểm tức kì trung’
(Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi hóng mát ta lên ta nằm)
An dụ ‘muôn dặm chiếc lọng xanh rủ hóng’ là một hình tượng mĩ lệ gợi cảm. Thông tượng trưng cho đấng trượng phu coi thường sương tuyết đã trở thành tri kỉ của nhà thơ.,,
Cảnh đẹp thứ tư là trúc. Trúc Côn Sơn điệp trùng nghìn mẫu, xanh một màu xanh mát rượi. Dưới gốc trúc, bóng trúc, ‘ta tha hồ ngâm nga’. Màu xanh của trúc đã tỏa mát tâm hồn ức Trai. Trúc quân tử đã trở thành bạn tri âm, san sẻ, cảm thông niềm vui nỗi buồn của ‘ta’ trong những tháng ngày về Côn Sơn ở ẩn:
‘Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kì trắc’
(Trong rừng có hóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Nếu phần sau bài ca mang tính triết lí biểu lộ một nhân cáchcao khiết của kẻ sĩ, thì phần đầu lại dào dạt chất trữ tình. Suối, đá, thông, trúc là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân giao hòa giao cảm, để ‘ta cho là đàn cầm’, để ‘ta cho là đệm chiếu’, để ‘ta tha hồ nghỉ ngơi’ trong rừng thông, để’ta tha hổ ngâm nga’ giữa nghìn mẫu trúc. Các ẩn dụ tạo nên những hình tượng mĩ lệ: suối là đàn cầm, đá là đệm chiếu, thông là những chiếc lọng xanh rủ bóng, trúc là nghìn mẫu vẻ xanh mát rượi. Hình tượng thơ là âm thanh của khúc nhạc rừng, là màu xanh bất tận của núi rừng, của thiên nhiên, của sự sống; tất cả đã gắn liền với cảm giác, với tâm hồn ức Trai bằng bao liên tưởng thiết tha đằm thắm. Một cách viết trùng điệp tài hoà. Chữ ‘ta’ xuất hiện bôn lần, kết hợp với các điệp ngũ: ‘Côn Sơn có…’, ‘trong núi có…’, ‘trong rừng có…’, ‘ta cho là…’, ‘ta tha hồ…’ đã tạo nên âm điệu, nhạc điệu trầm bổng, du dương, thiết tha của ‘Bải ca Côn Sơn”.
‘Ta’ là chủ thể trữ tình của bài ca, chính là ức Trai tiên sinh. “Thiên nhiên là ta, ta cũng là thiên nhiên; suối, đá, thông, trúc của Côn Sơn với Nguyễn Trãi chỉ •là một. Chữ ‘ta’ trong thơ Nguyễn Trãi rất hồn nhiên, dung dị và biểu cảm:
‘Ầu lộ cùng ta dường có ý,
Đến đâu thì thấy nó đi theo’
(‘Tự thán’-31)
‘Rùa nằm hạc lẩn vui bè ban,
Ú ấp cùng ta làm cái con’
(‘Ngôn chí – 20)
|
Hướng dẫn
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Về Nguyễn Trãi, chúng ta biết rằng: ông là người có công lớn trong việc phụ tá vua Lê Lợi cầm quân đánh thắng giặc Minh xâm lược thế kỉ XV. Nhưng khi hòa bình trở lại, đất nước đi vào công cuộc xây dựng và phát triển thì ông bị ghen ghét, nghi ngờ bởi những kẻ xấu xa. Đang làm quan, Nguyễn Trãi phải cáo quan về ờ ẩn. Sau đó, ông lại bị chết thảm thương trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442. Với công lao to lớn và tài năng toàn diện, Nguyễn Trãi đã được nhân dân ta tôn vinh là anh hùng dân tộc và thế giới đã tặng ông danh hiệu Danh nhân văn hóa. Bài thơ ‘Côn Sơn ca’ có thể được ra đời khi Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn. Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là vùng đất gắn bó bằng nhiều kỉ niệm từ thuở ấu thơ đến lúc tuổi già. Nơi đây có núi non hùng vĩ, cây cối tốt tươi, sơn thủy hữu tình. Đây là đất được phong của quan tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi. Cha Nguyễn Trãi từng đến dạy học nơi đây, rồi kết duyên với tiểu thư con gái quan Tư đồ. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã nhiều năm tuổi trẻ sống ờ đây. Khi cáo quan, Nguyễn Trãi về Côn Sơn như về với nơi chôn nhau, cắt rốn, về với bạn bè tri ki tri âm. Mỗi hòn đá, gốc cây, ngọn suối, đất nước và mây trời Côn Sơn gắn bó với người anh hùng, vị danh nhân văn hóa bàng tình cảm máu thịt. Vì thế, bài ‘Côn Sơn ca’ là tiếng nói cất lên từ trái tim sâu nặng, da diết của Nguyễn Trãi.
Trước hết, chúng ta cần hiểu đại từ ‘ta’ trong đoạn thơ là để chỉ ai? ‘ta’ chính là Nguyễn Trãi. Trong đoạn thơ tám dòng lục bát mà xuất hiện năm lần đại từ ‘ta’. ‘Ta’ hiện ra liền mạch, nối tiếp trong những dòng thơ tám âm tiết, riêng dòng thứ sáu ‘ta’ điệp hai lần liền: ‘ta lên ta nằm’. Nếu để ý sẽ thấy kết cấu đoạn thơ khá chặt chẽ. Câu sáu tả cảnh, câu tám xuất hiện ‘ta’ với những hành động cụ thể mang ý nghĩa tác giả tự họa chân dung mình. Điều đó gợi cảm giác giữa thiên nhiên cây rừng, núi đá, suối reo của Côn Sơn, hình ảnh Nguyễn Trãi thấp thoáng, đan cài, vấn vít, hòa quyện không phút nào rời xa. Con người và thiên nhiên như muốn nhập làm một, tạo thành sự sống của toàn cảnh Côn Sơn..
Sống giữa Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã nhìn ngắm, suy ngẫm và làm những việc gì? Đoạn thơ chia làm hai đoạn nhỏ thể hiện hai khía cạnh nội dung. Tã hãy đọc bốn dòng thơ đầu:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn cố đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm’
Nghe tiếng suối rì rầm, nhà thơ mường tượng ra tiếng đàn khi trầm, khi bổng, réo rắt bên tai. Nhìn thấy mặt đá phẳng có rêu phơi, nhà thơ ngồi trên đá mà ngỡ như đang ‘ngồi chiếu êm’. Trí tưởng tượng và nghệ thuật so sánh của Nguyễn Trãi thật lãng mạn, thật tài hoà. Tạo vật thiên nhiên bỗng hóa thành những vật dụng của con người, gần gũi, thân thương với con người. Đôi tai nhạy cảm của thi sĩ đã thổi hồn vào tiếng suối, khiến cho nó vốn đơn điệu trở thành cây đàn đa thanh, cuốn hút. Xúc giác tinh tế của nhà thơ đã hóa thân cho mặt đá vốn khô rắn thành mặt chiếu dịu êm. Những biến đổi ấy kì diệu làm sao! Nguyễn Trãi đã thưởng thức những nét đẹp ấy ở Côn Sơn một cách say mê, hào hứng.
Đến bốn dòng thơ sau, niềm say mê hào hứng ấy tiếp tục được đẩy lên cao hơn:
‘Trong ghểnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
|
Instruct
'Con Son stream murmurs,
Under the cool green, I recite leisurely poetry.
About Nguyen Trai, we know that: he was a person who had great merit in assisting King Le Loi in leading troops to defeat the Ming invaders in the 15th century. But when peace returned and the country went into construction and development, he was hated and suspected by evil people. While working as a mandarin, Nguyen Trai had to report to the mandarin and go into hiding. After that, he died tragically in the Le Chi Vien case in 1442. With his great merits and comprehensive talent, Nguyen Trai was honored by our people as a national hero and the world gave him the title title of Cultural Celebrity. The poem 'Con Son Ca' may have been born when Nguyen Trai told his mandarins to return to Con Son to rest. For Nguyen Trai, Con Son is a land associated with many memories from childhood to old age. This place has majestic mountains, lush trees, and charming landscapes. This is the land conferred by the mandarin Tran Nguyen Dan, grandfather Nguyen Trai. Father Nguyen Trai once came to teach here, then got married to the young lady of the Tu Do mandarin's daughter. Nguyen Trai himself has lived here for many years as a young man. When he resigned, Nguyen Trai returned to Con Son as if he were returning to the place where he was buried, his birthplace was cut, and he was returning to friends who knew each other and loved each other. Every rock, tree, stream, country and cloud in Con Son is attached to the hero, the cultural celebrity through flesh and blood affection. Therefore, the song 'Con Son Ca' is the voice that speaks from Nguyen Trai's deep, passionate heart.
First of all, we need to understand who the pronoun 'ta' in the poem refers to? 'I' is Nguyen Trai. In the eight-line six-eight poem, the pronoun 'ta' appears five times. 'I' appears seamlessly, consecutively in eight-syllable lines of poetry, especially the sixth line 'ta' says twice in a row: 'I go up, I lie down'. If you pay attention, you will see that the structure of the poem is quite tight. Sentence six describes the scene, sentence eight appears 'I' with specific actions meaning the author portrays himself. That evokes the feeling that amidst the nature of trees, forests, rocky mountains, and streams of Con Son, the image of Nguyen Trai flickers, intertwines, entangles, blends and never leaves. People and nature seem to want to merge into one, creating the life of the entire Con Son landscape.
Living in Con Son, what did Nguyen Trai see, ponder and do? The poem is divided into two small paragraphs expressing two aspects of the content. Please read the first four lines of the poem:
'Con Son stream murmurs,
I hear the sound of a harp in my ears.
Con Son has dried moss rocks,
I sit on the rock like sitting on a soft mat'
Listening to the murmuring sound of the stream, the poet imagines the sound of the guitar, sometimes low, sometimes high, ringing in his ears. Seeing the flat rock surface with drying moss, the poet sat on the rock and thought he was 'sitting on a soft mat'. Nguyen Trai's imagination and comparative art are so romantic and talented. Natural creatures suddenly turned into human objects, close and dear to humans. The poet's sensitive ears breathed life into the sound of the stream, turning the originally monotonous sound into a multi-voiced, attractive instrument. The poet's delicate sense of touch transformed the originally dry and hard stone surface into a soft, shining surface. How wonderful those changes are! Nguyen Trai enjoyed those beauties in Con Son passionately and excitedly.
In the following four lines of poetry, that exciting passion continues to be pushed higher:
'In the creek, pine trees grow like wedges,
Find a shady place to go up and lie down.
In the forest there is shade of bamboo,
Under the cool green, I recite leisurely poetry.
|
Hướng dẫn
Côn Sơn ca
Nguyễn Trãi
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi.
Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tùy phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.
Lại kia trên núi Thú San,
Di, Tê nhịn đói chẳng màng thóc Chu.
Hai đàng khó sánh hiền ngu,
Đều làm cho thỏa được như ý mình.
Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô khéo tuần hoàn đổi thay.
Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.
(Bản dịch trong sách ‘Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi’).
Phân tích
… Dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát, 26 câu; theo chỗ chúng tôi biết, trong các bản dịch ‘Côn Sơn ca’ thì bản dịch này là thanh thoát hơn, thể hiện được hồn thơ Nguyễn Trãi giai đoạn đã về Côn Sơn ở ẩn.
Côn Sơn là dãy núi ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư thuộc Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ông ngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là ‘quê cũ’ của mình. Trong ‘ức Trai thi tập’ và* ‘Quốc âm thi tập’, ông có nhiều bài thơ nói về Côn Sơn với bao tình thương mến, thắm thiết. Bao nhiêu lần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ: ‘Kỷ thác mộng hồn tầm cô’lí’ (Về Côn Sơn làm trong thuyền), Làng quẽ mới qua, như thấy chiêm bao đến: ‘Hương lí tài qua như mộng đáo’ (Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác).
‘Quê cũ nhà ta thiếu của nào?
Rau trong nội, cá trong ao.
(…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?’
(‘Mạn thuật’ -13)
‘Côn Sơn ca’là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời.
1.Phần đầu nói về vẻ đẹp lâm tuyền của Côn Sơnbằng bốn cảnh: Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện:
‘Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên Ngô dĩ vi cẩm huyền Côn Sơn hữu thạch Vũ tẩy đài phô bích Ngô dĩ vi đạm tịch.’
Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng. Cảnh đẹp thứ tư là trúc bao la hàng nghìn mẫu, bát ngát một màu xanh mát rượi. Cảnh không chỉ đẹp mà còn đáng yêu, gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng
đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để ‘Ta cho là đàn cẩm’, để ‘Ta cho là đệm chiếu’, để ‘Ta nghỉ ngơi’ trong rừng thông, để ‘Ta ngâm nga’ bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cẩm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm’
Thông và trúc nơi suối rừng Côn Sơn đối với Nguyễn Trãi như bạn bầu tri kỉ, cảm thông chở che tâm hồn nhà thơ đang lánh bụi trần, để được sống thảnh thơi với rừng xưa, suối cũ yêu thương đã hẹn ước:
‘Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng truc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Gắn bó, chan hòa với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chục năm trời loạn lạc, li hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê, nhớ luống cúc vườn cũ: ‘Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao’
(‘Ngày thu ngẫu nhiên làm’ – Thơ dịch)
Quê cũ với tùng, với đá, với mai… biết bao thương nhớ bồi hồi:
‘Thạch bạn tùng phong cô thắng tưởng Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm’
(Tùng reo bậc đá ai nghe đấy?
Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?)
2.Giọng thơ trầm hẳn xuống.Nguyễn Trãi đang vui thú say sưa lắng nghe tiếng suối róc rách, đang say mê ngắm nhìn rêu đá, thông rủ bóng, trúc xanh mát, rồi trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhở mình:
‘Về di sao chẳng sớm toan,
Nửa đời sớm bụi trần hoàn làm chi?’
Câu thơ chữ Hán nghĩa là: Hỡi người sao không về đi, nửa đời người giam buộc mình mãi trong cát bụi làm chi? Bốn chữ ‘Bất quy khứ lai’ lấy cảm hứng từ bài ‘Quy khứ lai từ’ của Đào Tiềm, một danh sĩ cao khiết đời Tấn bên Trung Quốc đã coi thường danh lợi, không chịu khom lưng uốn gối vì mấy đấu gạo lương bổng, đã treo ấn từ quan, trở về vườn cũ, cày ruộng, ươm cúc, thảnh thơi với tháng ngày. Nguyễn Trãi làm quan, tài năng không được thi thố, bị bọn quyền thần, nịnh thần chèn ép. Có lúc ông tự than: ‘Dưới công danh đeo khổ nhục’ (‘Ngôn chí’ – 2), hoặc: ‘Được thua phú quý dầu thiên mệnh – Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn’ (‘Mạn thuật’ – 5). Người anh hùng thuở ‘bình Ngô’ đã từng ‘viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời’ thế mà giờ đây tự trách mình ‘Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?’, điếu đó cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng đầy bi kịch? Đó là tâm trạng thời thế. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã sát hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, hai đại công thần; còn Nguyễn Trãi cũng đã bị hạ ngục. Sau đó tuy được tha nhưng chỉ là một cô thần ‘thanh chức’. Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống trong tâm trạng muốn trở về Côn Sơn làm bạn với cỏ hoa chốn lâm tuyền: ‘Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế,
At đã tròn băng nước ớ bâu
Nguyễn Trãi có lúc tự dặn mình: ‘Vườn quỳnh dù có chim hót – Cõi trần có trúc đứng ngăn’, nhưng trước ấp lực của bọn nịnh thần, ông phải lui về Côn Sơn. Mấy năn sau Lê Thái Tôn lại xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra làm quan. Trong biểu tạ ân, ông hả hê nói: ‘Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng’, ông tự cho mình là con ngựa già ‘còn kham rong ruổi’, là cây thông qua năn rét mà ‘còn dạn tuyết sương’. Chẳng bao lâu sau đó, Nguyễn Trãi đã về hẳn Côn Sơn… Cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm trạng đầy bi kịch giằng xé, đúng như ông đã viết trong ‘Côn Sơn ca’:
‘Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?’
‘Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá…’(Phạm Văn Đồng), và đó là nguồn gốc sâu xa bi kịch vô cùng đau thương của người anh hùng thuở ‘bình Ngô’.
‘Côn Sơn ca’ còn hàm chứa triết lí về cuộc đời của ức Trai.Trước hết ông nói về giàu sang phú quý, bần tiền, vinh và nhục ở đời. Đổng Trác đời Đông Hán, Nguyễn Tải đời Đường chức quyền cao, phú quý đến cực độ, cuối cùng chết trong ô nhục, để lại tiếng dơ muôn đời:
‘Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan’
Tác giả nhắc lại cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề đời An, Chu, từ dó suy ngẫm về ‘hiền, ngu’ 0đời, chung qui chỉ là ‘đều làm cho thỏa được như ý mình’.
Kiếp người khác nào ‘cây cỏ’, đời người một trăm năm, mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến, tốt tươi rồi khô héo, tuần hoàn nối tiếp nhau trong vòng một trăm năm hữu hạn. Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, chỉ còn biết làm bạn với mây núi, trăng ngàn:
‘Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh’
Ý nghĩa cuộc đời là gì? Nguyễn Trãi đã từng tâm niệm: ‘Bui có một lòng trung lần hiếu – Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen’ (‘Thuật hứng’ – 24); đã từng đinh ninh: ‘Nợ cũ chước nào báo bổ? – ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha’ (‘Tự thán’ – 24), thế mà lúc này ông chán nản phủ định:
‘Trăm năm trong cuộc nhản sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô khéo tuần hoàn đổi thay’
Nói rằng triết lí về nhân sinh của Nguyễn Trãi mang màu sắc bi quan chưa hẳn đã sai? Đời người ‘Trăm năm còn có gì đâu? – Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì’ (‘Cung oán ngâm khúc’). Với Nguyễn Trãi lúc này thì chết là hết. Sự phủ định đầy ngao ngán:
‘Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh’
Nguyễn Trãi viết ‘Côn Sơn ca’ trước bao lâu vụ án Lệ Chi Viên xảy ra? Tâm trạng thời thế, triết lí vế cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca là cả một nỗi buồn thấm sâu, tỏa rộng trong tàm hồn nhà thơ. Từ những chiêm nghiệm lịch sử phong kiến Việt Nam, nhất là ba triều đại Trần, Hồ, Lê, về cuộc đời ông ngoại (tướng công Trần Nguyên Đán), về cha mình (Nguyễn Phi Khanh), về những thăng trầm, vinh nhục, ngọt bùi cay đắng của đời mình, nên ức Trai mới có suy nghĩ ấy. về một phương diện khác, triết lí về cuộc đời của Nguyễn Trãi thể hiện sự cảm thông cho số kiếp của con người. Cái nhìn ấy, sự suy ngẫm ấy mang tính nhân bản sâu sắc. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến, cũng là bi kịch lịch sử ‘Anh hùng di hận kỉ thiên niên’ (‘Quan hải’).
3.Hai câu kết như một lời thiết tha nhắn gọi:
‘Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn’
|
Hướng dẫn
Côn Sơn ca
Nguyễn Trãi
Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong rừng thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi.
Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tùy phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.
Lại kia trên núi Thú San,
Di, Tê nhịn đói chẳng màng thóc Chu.
Hai đàng khó sánh hiền ngu,
Đều làm cho thỏa được như ý mình.
Trăm năm trong cuộc nhân sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô khéo tuần hoàn đổi thay.
Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.
Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.
(Bản dịch trong sách ‘Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi’).
Phân tích
… Dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát, 26 câu; theo chỗ chúng tôi biết, trong các bản dịch ‘Côn Sơn ca’ thì bản dịch này là thanh thoát hơn, thể hiện được hồn thơ Nguyễn Trãi giai đoạn đã về Côn Sơn ở ẩn.
Côn Sơn là dãy núi ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi đã nhiều năm ở ẩn tại động Thanh Hư thuộc Côn Sơn. Thời thơ ấu, Nguyễn Trãi từng sống với mẹ và ông ngoại tại đấy. Nguyễn Trãi đã xem Côn Sơn là ‘quê cũ’ của mình. Trong ‘ức Trai thi tập’ và* ‘Quốc âm thi tập’, ông có nhiều bài thơ nói về Côn Sơn với bao tình thương mến, thắm thiết. Bao nhiêu lần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ: ‘Kỷ thác mộng hồn tầm cô’lí’ (Về Côn Sơn làm trong thuyền), Làng quẽ mới qua, như thấy chiêm bao đến: ‘Hương lí tài qua như mộng đáo’ (Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác).
‘Quê cũ nhà ta thiếu của nào?
Rau trong nội, cá trong ao.
(…) Cảnh thanh dường ấy về chăng nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?’
(‘Mạn thuật’ -13)
‘Côn Sơn ca’là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lí về cuộc đời.
1.Phần đầu nói về vẻ đẹp lâm tuyền của Côn Sơnbằng bốn cảnh: Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện:
‘Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên Ngô dĩ vi cẩm huyền Côn Sơn hữu thạch Vũ tẩy đài phô bích Ngô dĩ vi đạm tịch.’
Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng. Cảnh đẹp thứ tư là trúc bao la hàng nghìn mẫu, bát ngát một màu xanh mát rượi. Cảnh không chỉ đẹp mà còn đáng yêu, gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng
đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để ‘Ta cho là đàn cẩm’, để ‘Ta cho là đệm chiếu’, để ‘Ta nghỉ ngơi’ trong rừng thông, để ‘Ta ngâm nga’ bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:
‘Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cẩm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm’
Thông và trúc nơi suối rừng Côn Sơn đối với Nguyễn Trãi như bạn bầu tri kỉ, cảm thông chở che tâm hồn nhà thơ đang lánh bụi trần, để được sống thảnh thơi với rừng xưa, suối cũ yêu thương đã hẹn ước:
‘Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng truc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn’
Gắn bó, chan hòa với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chục năm trời loạn lạc, li hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê, nhớ luống cúc vườn cũ: ‘Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao’
(‘Ngày thu ngẫu nhiên làm’ – Thơ dịch)
Quê cũ với tùng, với đá, với mai… biết bao thương nhớ bồi hồi:
‘Thạch bạn tùng phong cô thắng tưởng Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm’
(Tùng reo bậc đá ai nghe đấy?
Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?)
2.Giọng thơ trầm hẳn xuống.Nguyễn Trãi đang vui thú say sưa lắng nghe tiếng suối róc rách, đang say mê ngắm nhìn rêu đá, thông rủ bóng, trúc xanh mát, rồi trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhở mình:
‘Về di sao chẳng sớm toan,
Nửa đời sớm bụi trần hoàn làm chi?’
Câu thơ chữ Hán nghĩa là: Hỡi người sao không về đi, nửa đời người giam buộc mình mãi trong cát bụi làm chi? Bốn chữ ‘Bất quy khứ lai’ lấy cảm hứng từ bài ‘Quy khứ lai từ’ của Đào Tiềm, một danh sĩ cao khiết đời Tấn bên Trung Quốc đã coi thường danh lợi, không chịu khom lưng uốn gối vì mấy đấu gạo lương bổng, đã treo ấn từ quan, trở về vườn cũ, cày ruộng, ươm cúc, thảnh thơi với tháng ngày. Nguyễn Trãi làm quan, tài năng không được thi thố, bị bọn quyền thần, nịnh thần chèn ép. Có lúc ông tự than: ‘Dưới công danh đeo khổ nhục’ (‘Ngôn chí’ – 2), hoặc: ‘Được thua phú quý dầu thiên mệnh – Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn’ (‘Mạn thuật’ – 5). Người anh hùng thuở ‘bình Ngô’ đã từng ‘viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời’ thế mà giờ đây tự trách mình ‘Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?’, điếu đó cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng đầy bi kịch? Đó là tâm trạng thời thế. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã sát hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, hai đại công thần; còn Nguyễn Trãi cũng đã bị hạ ngục. Sau đó tuy được tha nhưng chỉ là một cô thần ‘thanh chức’. Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống trong tâm trạng muốn trở về Côn Sơn làm bạn với cỏ hoa chốn lâm tuyền: ‘Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế,
At đã tròn băng nước ớ bâu
Nguyễn Trãi có lúc tự dặn mình: ‘Vườn quỳnh dù có chim hót – Cõi trần có trúc đứng ngăn’, nhưng trước ấp lực của bọn nịnh thần, ông phải lui về Côn Sơn. Mấy năn sau Lê Thái Tôn lại xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra làm quan. Trong biểu tạ ân, ông hả hê nói: ‘Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng’, ông tự cho mình là con ngựa già ‘còn kham rong ruổi’, là cây thông qua năn rét mà ‘còn dạn tuyết sương’. Chẳng bao lâu sau đó, Nguyễn Trãi đã về hẳn Côn Sơn… Cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm trạng đầy bi kịch giằng xé, đúng như ông đã viết trong ‘Côn Sơn ca’:
‘Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?’
‘Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá…’(Phạm Văn Đồng), và đó là nguồn gốc sâu xa bi kịch vô cùng đau thương của người anh hùng thuở ‘bình Ngô’.
‘Côn Sơn ca’ còn hàm chứa triết lí về cuộc đời của ức Trai.Trước hết ông nói về giàu sang phú quý, bần tiền, vinh và nhục ở đời. Đổng Trác đời Đông Hán, Nguyễn Tải đời Đường chức quyền cao, phú quý đến cực độ, cuối cùng chết trong ô nhục, để lại tiếng dơ muôn đời:
‘Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan’
Tác giả nhắc lại cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề đời An, Chu, từ dó suy ngẫm về ‘hiền, ngu’ 0đời, chung qui chỉ là ‘đều làm cho thỏa được như ý mình’.
Kiếp người khác nào ‘cây cỏ’, đời người một trăm năm, mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến, tốt tươi rồi khô héo, tuần hoàn nối tiếp nhau trong vòng một trăm năm hữu hạn. Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, chỉ còn biết làm bạn với mây núi, trăng ngàn:
‘Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh’
Ý nghĩa cuộc đời là gì? Nguyễn Trãi đã từng tâm niệm: ‘Bui có một lòng trung lần hiếu – Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen’ (‘Thuật hứng’ – 24); đã từng đinh ninh: ‘Nợ cũ chước nào báo bổ? – ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha’ (‘Tự thán’ – 24), thế mà lúc này ông chán nản phủ định:
‘Trăm năm trong cuộc nhản sinh,
Người như cây cỏ thân hình nát tan.
Hết ưu lạc đến bi hoan,
Tốt tươi khô khéo tuần hoàn đổi thay’
Nói rằng triết lí về nhân sinh của Nguyễn Trãi mang màu sắc bi quan chưa hẳn đã sai? Đời người ‘Trăm năm còn có gì đâu? – Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì’ (‘Cung oán ngâm khúc’). Với Nguyễn Trãi lúc này thì chết là hết. Sự phủ định đầy ngao ngán:
‘Núi gò đài các đó đây,
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh’
Nguyễn Trãi viết ‘Côn Sơn ca’ trước bao lâu vụ án Lệ Chi Viên xảy ra? Tâm trạng thời thế, triết lí vế cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca là cả một nỗi buồn thấm sâu, tỏa rộng trong tàm hồn nhà thơ. Từ những chiêm nghiệm lịch sử phong kiến Việt Nam, nhất là ba triều đại Trần, Hồ, Lê, về cuộc đời ông ngoại (tướng công Trần Nguyên Đán), về cha mình (Nguyễn Phi Khanh), về những thăng trầm, vinh nhục, ngọt bùi cay đắng của đời mình, nên ức Trai mới có suy nghĩ ấy. về một phương diện khác, triết lí về cuộc đời của Nguyễn Trãi thể hiện sự cảm thông cho số kiếp của con người. Cái nhìn ấy, sự suy ngẫm ấy mang tính nhân bản sâu sắc. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến, cũng là bi kịch lịch sử ‘Anh hùng di hận kỉ thiên niên’ (‘Quan hải’).
3.Hai câu kết như một lời thiết tha nhắn gọi:
‘Sào, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn’
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.